saomaidata.orgsaomaidata.org/library/91... · web viewquẢn lÝ hÀnh chÁnh nhÀ nƯỚc vÀ...
TRANSCRIPT
QUẢN LÝ HÀNH CHÁNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
QUẢN LÝ HÀNH CHÁNH NHÀ NƯỚCVÀ QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
Giáo trình dành cho sinh viên các trường sư phạm
Biên soạn theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
Quyết định số 33/2002/QĐ/BGD&DT
(Tái bản lần thứ năm)
PGS.TS Phạm Viết Vượng (Chủ biên)
LỜI NÓI ĐẦU
Thông tư Liên tịch số 24/2002/TTLT–BGD&ĐT–BTCCBCP ngày
29/4/2002 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ
(nay là Bộ Nội vụ) hướng dẫn việc xét tuyển dụng công chức, giáo viên phổ
thông, mầm non đã qui định từ năm 2002 trở đi:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn các trường (khoa) sư phạm, đưa
nội dung kiến thức quản lí hành chính Nhà nước, quản lí ngành và những nội
dung liên quan đến công chức ngành giáo dục và đào tạo thành một học phần
của chương trình đào tạo giáo viên, học phần này có giá trị như các học phần
khác, là điều kiện để các trường làm căn cứ xét duyệt và cấp bằng tốt nghiệp
sư phạm.
2. Căn cứ vào chỉ tiêu biên chế của địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố quyết định việc tuyển dụng giáo viên phổ thông, mầm non
theo hai hình thức xét tuyển hoặc thi tuyển.
3. Trong trường hợp thi tuyển thì không thực hiện việc thi lại các nội
dung, kiến thức quản lí hành chính Nhà nước, quản lí ngành và những nội
dung liên quan đến công chức ngành giáo dục và đào tạo đối với những
người dự tuyển, đã hoàn thành học phần này trong các trường (khoa) sư
phạm mà chỉ tổ chức thi về khả năng giảng dạy của người dự tuyển.
Thực hiện Thông tư Liên tịch nói trên, ngày 22 tháng 7 năm 2002 Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình Quản lí hành
chính Nhà nước và quản lí ngành Giáo dục và Đào tạo theo Quyết định số
38/2002/QĐ–BGD&ĐT.
Học phần này có 2 đơn vị học trình gồm 5 chương:
– Các chương I, II, III: Quy định những nội dung áp dụng cho tất cả các
hệ đào tạo giáo viên.
– Chương IV: Quy định các trường (khoa) sư phạm căn cứ vào yêu cầu
hệ đào tạo của mình để cụ thể hoá nội dung giảng dạy cho phù hợp.
– Chương V: Quy định nội dung giảng dạy căn cứ vào tình hình thực
tiễn giáo dục ở mỗi địa phương.
Để có tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập của cán bộ và
sinh viên các trường sư phạm, Viện Nghiên cứu Sư phạm – Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội tổ chức biên soạn giáo trình: Quản lí hành chính Nhà nước
và quản lí ngành Giáo dục và Đào tạo theo chương trình nói trên.
Giáo trình được biên soạn nhằm phục vụ rộng rãi các đối tượng của tất
cả các hệ đào tạo từ mầm non, tiểu học đến phổ thông trung học, nên đã cố
gắng phản ánh tối đa nội dung và yêu cầu của các hệ đào tạo trong phạm vi
thực tế giáo dục của cả nước.
Trong quá trình biên soạn không tránh khỏi những sai sót, mong được
độc giả góp ý kiến để giáo trình ngày một hoàn chỉnh hơn.
PGS. TS Phạm Viết VượngViện trưởng Viện Nghiên cứu Sư phạm
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC, QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC
A. LÍ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC1. Nguồn gốc của nhà nước
Nguồn gốc của nhà nước là câu hỏi được đặt ra từ rất xa xưa, đã có
nhiều nhà triết học cố gắng tìm cách giải thích, nhưng do hạn chế về lịch sử
và thế giới quan, những giải thích này đều không đi vào bản chất xã hội của
quá trình hình thành nhà nước.
C Mác và F. Ănghen, với quan điểm duy vật lịch sử, là những người
đầu tiên chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc của nhà nước. Các
ông cho rằng nhà nước xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một
trình độ nhất định. Nhà nước không phải là phạm trù bất biến, mà luôn vận
động, phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn
tại của nó không còn nữa.
Trong nhiều tác phẩm của mình, các nhà sáng lập Chủ nghĩa Cộng sản
khoa học đã khẳng định: Trong xã hội nguyên thuỷ chưa từng tồn tại nhà
nước. Thích ứng với tình trạng kinh tế thấp kém, xã hội chưa có sự phân hoá
giai cấp, tồn tại các tổ chức thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các tổ chức đó là các tộc
trưởng, tù trưởng do các thành viên thị tộc, bộ lạc bầu ra. Quyền lực của
người đứng đầu cơ quan quản lí xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức uy tín và
chức năng lãnh đạo.
Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, quản lí xã hội chưa mang tính
chính trị, người đứng đầu không phải là người cai trị. Họ không có đặc quyền,
đặc lợi cá nhân. Họ thực hiện vai trò của mình theo ý chí và quyết định của
nhân dân. Thể chế xã hội trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ là thể chế tự
quản của nhân dân, mặc dù nhà nước chưa ra đời nhưng xã hội vẫn tồn tại
trong vòng trật tự.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động đã
giúp cho con người có thể sản xuất ra một lượng sản phẩm tiêu dùng nhiều
hơn so với nhu cẩu tối thiểu đối với sự tồn tại của mình. Sự dư thừa sản
phẩm tương đối chính là cơ sở khách quan làm nảy sinh ở những người có
quyền hành trong thị tộc bộ lạc, sự ham muốn chiếm đoạt làm của riêng và họ
đã sử dụng quyền lực trong tay để thực hiện khát vọng đó. Đây chính là
nguyên nhân thúc đầy sự phân hoá xã hội. Một khi các giai cấp xuất hiện thì
mối quan hệ bình đẳng trước đây đã bị đảo lộn, sự đối kháng giai cấp xuất
hiện và ngày càng phát triển tăng lên.
Chủ nô và nô lệ là hai giai cấp đối kháng, lần đầu tiên xuất hiện trong
lịch sử loài người. Cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến nguy cơ là không những
họ tiêu diệt nhau mà tiêu diệt luôn cả xã hội. Để điều đó không xảy ra, một cơ
quan đặc biệt ra đời đó là nhà nước – một thiết chế có tiền thân từ những tổ
chức phi chính trị trong xã hội thị tộc, bộ lạc, vốn có chức năng bảo vệ lợi ích
chung của cộng đồng, giờ đây đã biến thành công cụ bảo vệ lợi ích của một
giai cấp – giai cấp chủ nô.
2. Bản chất của nhà nước
Từ nguồn gốc xuất hiện của nhà nước, ta thấy nhà nước không phải là
cơ quan điều hoà mâu thuẫn các giai cấp đối kháng, mà ngược lại, sự ra đời
của nhà nước làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc hơn và không
thể điều hoà được. Trong điều kiện xã hội có giai cấp đối kháng thì cuộc đấu
tranh này ngày càng trở lên gay gắt, chế độ nhân dân tự quản không còn phù
hợp, nó phải được thay thế bằng nhà nước.
Nhà nước ra đời làm cho sự xung đột giai cấp diễn ra trong vòng “trật
tự”, duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này được quyền bóc lột giai cấp
khác. Do đó, nhà nước đương nhiên là do giai cấp thống trị, có thế lực kinh tế
lập ra. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, nhờ có nhà nước, giai cấp chủ nô trở
thành giai cấp thống trị cả về chính trị.
Như vậy, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp đang thống trị về
kinh tế, nhằm bảo vệ trật tự đang có và đàn áp sự phản kháng của giai cấp
khác. “Nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn
áp một giai cấp khác”(1). Luận điểm này của C. Mác đã làm rõ bản chất của
nhà nước.
Nhà nước có hai tính chất quan trọng là tính giai cấp và tính xã hội.
Tính giai cấp là thuộc tính cơ bản, nó thể hiện bản chất của nhà nước. Nhưng
với tư cách là bộ máy thực thi quyền lực công cộng, nhằm duy trì trật tự và ổn
định xã hội, nhà nước còn thể hiện tính xã hội. Bên cạnh việc chăm lo bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước cũng buộc phải chú ý đến lợi ích
chung của xã hội, giải quyết những vấn đề mà đời sống cộng đồng, xã hội đặt
ra để ổn định trật tự xã hội, duy trì sự thống trị của giai cấp cầm quyền.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định về bản chất của nhà nước
như sau: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị trong xã
hội có giai cấp, là công cụ chuyên chính giai cấp, với các chức năng quản lí
xã hội đặc biệt, nhà nước vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, vừa duy trì
trật tự xã hội và phục vụ những nhu cầu thiết yếu của đời sống cộng đồng.
3. Đặc trưng của nhà nước
Khi so sánh nhà nước với cơ cấu tổ chức thực hiện quyền lực và quản
lí các công việc chung của thị tộc, bộ lạc trong xã hội nguyên thuỷ, cũng như
khi so sánh với các tổ chức khác trong xã hội có giai cấp cho thấy nhà nước
có những đặc trưng sau đây:
a. Nhà nước là bộ máy quản lí dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Nếu các tổ chức thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở quan hệ
huyết thống thì nhà nước hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo địa
bàn lãnh thổ nơi mà họ cư trú và được tổ chức thành các đơn vị hành chính.
Việc phân chia này đảm bảo cho hoạt động quản lí của nhà nước tập trung
thống nhất và chặt chẽ hơn. Đây là sự khác biệt quan trọng giữa nhà nước
với các tổ chức thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ trước đó.
Quyền lực nhà nước về nguyên tắc có hiệu lực đối với mọi thành viên
sinh sống trên địa bàn dân cư. Từ đó hình thành chủ quyền quốc gia. Chủ
quyền quốc gia là thuộc tính gắn liền với nhà nước.
b. Nhà nước thiết lập một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên
nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội
Để thực hiện quyền lực của mình, nhà nước đã lập ra những cơ quan
hành chính và các lực lượng thuần tuý trấn áp như quân đội, cảnh sát vũ
trang, nhà tù… Những cơ quan cưỡng bức và cơ quan hành chính thực hiện
chức năng cai trị, buộc mọi người phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
Khác với những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản
nguyên thủy thực hiện chức năng quản lí của mình bằng sức mạnh truyền
thống, đạo đức, uy tín, những người đại diện cho nhà nước thực hiện quyền
lực của mình bằng sức mạnh cưỡng bức của pháp luật. Nhà nước ban hành
pháp luật và sử dụng các thiết chế và công cụ bạo lực để ý chí của giai cấp
thống trị được thực thi trong thực tế.
Do đó, mặc dù các cơ quan quyền lực nhà nước đều từ xã hội mà ra,
nhưng chúng ngày càng thoát ly khỏi nhân dân và đứng đối lập với nhân dân.
c. Nhà nước ban hành một hệ thống thuế khoá để tạo nguồn ngân sách
nuôi bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước bao gồm đông đảo viên chức và cả đội quân vũ trang
đông đảo – lớp người đặc biệt, tách ra khỏi lao động sản xuất để thực hiện
chức năng quản lí nhà nước. Họ không thể tồn tại nếu không dựa vào nguồn
nhân sách bằng thu thuế.
Nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách là đại biểu chính thức của
toàn xã hội để sự quản lí xã hội, do đó nhà nước cũng là tổ chức độc quyền
thu thuế.
4. Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước được thể hiện qua những hoạt động chủ yếu
của nhà nước, thể hiện trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ được đặt ra
trước nhà nước, chức năng của nhà nước phản ánh bản chất của nhà nước.
Khi nghiên cứu tiếp cận nhà nước từ góc độ khác nhau, người ta phân
chức năng của nhà nước thành các loại khác nhau.
a. Nếu tiếp cận nhà nước từ góc độ quyền lực chính trị thì nhà nước có
hai chức năng là: chức năng công cụ thống trị giai cấp và chức năng xã hội
+ Chức năng công cụ thống trị giai cấp là chức năng duy trì và bảo vệ
sự thống trị của giai cấp cầm quyền. Để bảo vệ quyền thống trị xã hội, giai
cấp cầm quyền sẵn sàng sử dụng mọi biện pháp để trấn áp những chống đối
của các giai cấp khác.
+ Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng quản lí những hoạt
động chung của xã hội, đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển trong vòng
trật tự nằm dưới sự quản lí của nhà nước của giai cấp cầm quyền, cũng
nhằm thoả mãn những nhu cầu chung trong cộng đồng dân cư.
Trong hai chức năng trên, chức năng thống trị giai cấp giữ vị trí chi phối
cả phương hướng và mức độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Mặt
khác, chức năng xã hội lại là cơ sở của sự thống trị chính trị, vì sự thống trị
chính trị chỉ có thể tồn tại khi nhà nước thực hiện được chức năng xã hội. Khi
xã hội không có giai cấp thì những nội dung thuộc chức năng xã hội do xã hội
tự đảm nhiệm, tức là xã hội do nhân dân tự quản.
b. Nếu tiếp cận từ phạm vi tác động của quyền lực, thì nhà nước có hai
chức năng: đối nội và đối ngoại
+ Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước
trong nội bộ đất nước, như bảo đảm trật tự xã hội, trấn áp những phần tử
chống đối chế độ, bảo vệ và phát triển chế độ kinh tế, văn hoá theo lợi ích của
giai cấp cầm quyền.
+ Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với
các quốc gia khác. Nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ lãnh thổ, chủ
quyền quốc gia, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích của quốc gia khi
lợi ích của quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại có quan hệ mật thiết với
nhau. Trong đó chức năng đối nội là chức năng chủ yếu vì nhà nước ra đời
và tồn tại do cơ cấu bên trong của mỗi quốc gia quy định và sự thống trị giai
cấp được thực hiện trước hết ở địa bàn quốc gia.
Chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại, chức
năng đối ngoại luôn xuất phát từ tình hình thực hiện các chức năng đối nội và
phục vụ cho chức năng đối nội. Song việc thực hiện tốt các chức năng đối nội
sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng đối ngoại.
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng
nhiều phương pháp hoạt động khác nhau. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của
mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, nhà nước sử dụng các phương
pháp hoạt động khác nhau để thực hiện các chức năng của mình. Thông
thường nhà nước sử dụng hai phương pháp chính là giáo dục thuyết phục và
cưỡng chế. Cưỡng chế là phương pháp được các nhà nước bóc lột sử dụng
như phương pháp chủ yếu. Ngược lại, trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa
giáo dục thuyết phục được coi là phương pháp quan trọng, cưỡng chế chỉ
được sử dụng kết hợp ở một mức độ nhất định để đảm bảo cho việc quản lí
xã hội có hiệu quả.
5. Các kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là khái niệm nói về bản chất và những dấu hiệu đặc
trưng của nhà nước. Cơ sở khoa học để xác định kiểu nhà nước là học thuyết
Mác – Lênin về hình thái kinh tế xã hội. Theo C. Mác trong mỗi hình thái kinh
tế xã hội, tương ứng với một chế độ kinh tế có một kiểu nhà nước nhất định,
bởi vì nhà nước bị chi phối bởi hai yếu tố: kinh tế và quan hệ giai cấp.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã từng tồn tại các hình thái kinh tế xã
hội: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa – giai
đoạn thấp của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tương ứng với
các hình thái kinh tế xã hội đó đã tồn tại của các kiểu nhà nước: chủ nô,
phong kiến, tư sản và kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Mỗi kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản có những đặc điểm
riêng, nhưng chúng có điểm chung là những kiểu nhà nước bóc lột, chúng tồn
tại trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà nước đó đều là
công cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì sự thống trị của
các giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Kiểu
nhà nước bóc lột tồn tại trong những mâu thuẫn đối kháng, do đó sự thay thế
kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước khác tiến bộ hơn là một tất yếu
khách quan, thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước kiểu
mới, nó tự tiêu vong sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử và nhường chỗ cho
hình thức tổ chức và quản lí xã hội cao hơn – xã hội tự quản lí.
6. Hình thức nhà nước và chế độ chính trị
a. Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và
những phương thức thực hiện quyền lực ấy của giai cấp thống trị.
Trong lịch sử xã hội đã tồn tại các hình thức nhà nước: hình thức chính
thể, hình thức cấu trúc.
+ Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự thành lập các cơ
quan tối cao của nhà nước và xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan đó. Hình
thức chính thể có các dạng cơ bản:
– Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà
nước tập trung toàn bộ (hay một phần) vào tay nhà vua (quốc vương, nữ
hoàng…) là người đứng đầu nhà nước và được chuyển giao theo nguyên tắc
thừa kế hay truyền ngôi. Trong thực tế tổ chức và hoạt động của chính thể
quân chủ lại được chia thành: chính the quân chủ tuyệt đối và chính thể quân
chủ hạn chế.
* Chính thể quân chủ tuyệt đối là hình thức nhà nước mà nhà vua –
người đứng đầu nhà nước một mình nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước
và có quyền lực vô hạn.
* Chính thể quân chủ hạn chế là hình thức nhà nước trong đó nhà vua
– người đứng đầu nhà nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao, bên cạnh
đó còn có một cơ quan quyền lực khác nữa như: hội đồng cố vấn, nghị viện…
– Chính thể cộng hoà là hình thức nhà nước trong đó quyền lực tối cao
của nhà nước thuộc về một cơ quan được dân cư bầu ra trong một thời gian
nhất định, đó là quốc hội, nghị viện… Chính thể cộng hoà cũng có hai hình
thức biến dạng: cộng hoà dân chủ và cộng hoà quý tộc.
– Hình thức cấu trúc của nhà nước là khái niệm chỉ cơ cấu tổ chức của
các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập những mối quan hệ qua lại giữa
các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Có hai hình thức cấu
trúc chủ yếu là hình thức nhà nước đơn nhất và hình thức nhà nước liên
bang.
* Nhà nước đơn nhất là nhà nước thống nhất có chủ quyền chung, có
cơ quan quyền lực và cơ quan quản lí thống nhất từ trung ương đến cơ sở.
* Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai thành viên trở lên hợp
thành. Nhà nước liên bang có hai cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính.
Ngoài cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính chung cao nhất cho toàn
liên bang, mỗi thành viên lại có cơ quan quyền lực và hành chính của mình,
có chủ quyền quốc gia chung của nhà nước liên bang, đồng thời mỗi thành
viên còn có chủ quyền riêng nhất định.
Hình thức nhà nước được quy định bởi bản chất giai cấp của nhà
nước, tương quan lực lượng giữa các giai cấp và truyền thống lịch sử của đất
nước.
b. Chế độ chính trị là tổng thể những phương pháp mà các cơ quan
nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Sử dụng phương pháp
và thủ đoạn nào để thực hiện quyền lực nhà nước, một mặt phụ thuộc vào
bản chất của nhà nước, mặt khác phụ thuộc vào tương quan lực lượng đấu
tranh giai cấp ở từng nước và từng giai đoạn lịch sử quy định.
Nhìn chung giai cấp thống trị thường sử dung hai phương pháp chính
là dân chủ và phản dân chủ.
Những phương pháp dân chủ có nhiều loại và thể hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau: dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp dân chủ rộng rãi hay
dân chủ hạn chế…
Những phương pháp phản dân chủ thường được các nhà nước bóc lột
sử dụng ở những mức độ khác nhau trong quá trình thực hiện quyền lực nhà
nước. Khi những phương pháp này đã phát triển đến đỉnh cao thì trở thành
những phương pháp tàn bạo, quân phiệt và phát xít.
Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc và chế độ chính ta luôn có quan
hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại, phản ánh bản chất và mục đích của
nhà nước. Ở các nhà nước bóc lột trong một số trường hợp ba yếu tố này
không phù hợp với nhau. Thí dụ: hình thức chính thể là cộng hoà dân chủ
nhưng chế độ chính trị thực chất lại là phản dân chủ – điều này thường gặp ở
các nhà nước tư sản. Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa ba yếu tố trên luôn phù
hợp với nhau, phản ánh đúng bản chất, chức năng của nhà nước kiểu mới.
7. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả cuộc đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mỗi nước mà sự ra đời
cũng như việc tổ chức nhà nước kiểu mới với những hình thức khác nhau,
song bản chất của nó như Lênin chỉ rõ: “Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại rất nhiều hình thức
khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là một
tức là: chuyên chính vô sản”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước nào cũng là nền
chuyên chính của giai cấp thống trị về chính trị. Nhưng sự thống trị chính trị
của giai cấp công nhân có bản chất và mục đích khác hẳn với sự thống trị về
chính trị của các giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống
trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp bị áp bức bóc lột nhằm bảo vệ lợi
ích của giai cấp bóc lột. Trái lại, chuyên chính vô sản là sự thống trị của giai
cấp công nhân nhằm mục đích xoá bỏ áp bức bóc lột, bảo vệ lợi ích của tất
cả nhân dân lao động, xây dựng một xã hội mới – xã hội không còn người
bóc lột người.
Sự xác lập chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
cộng sản là cần thiết vì thời kỳ này còn tồn tại các giai cấp khác nhau.
Chuyên chính vô sản vì vậy không chỉ là trấn áp bằng bạo lực đối với giai cấp
bóc lột, mà còn là một tổ chức thông qua đó Đảng của giai cấp công nhân
thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp công
nhân của mình. Vì vậy, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
nhà nước là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước không chỉ là yếu tố đảm bảo bản chất giai cấp công
nhân của nhà nước, mà còn là điều kiện để giữ vững tính nhân dân, tính chất
dân chủ rộng rãi của nhà nước đó. Bản chất giai cấp công nhân và bản chất
dân chủ là hai mặt thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà
nước đặc biệt, nhà nước quá độ, nhà nước không còn nguyên nghĩa nhà
nước “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế xã hội của sự xuất hiện
và tồn tại nhà nước mất đi thì nhà nước sẽ không còn tồn tại. Sự mất đi của
nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải bằng con đường “xoá bỏ” mà bằng
con đường “tự tiêu vong” và muốn cho nó nhanh chóng đi đến chỗ tiêu vong
phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện nó. Sự tiêu vong của nhà nước xã
hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài.
II. NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1. Nhà nước là trung tâm quyền lực trong hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay được hình thành trong quá trình
đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
việt Nam. Nhà nước ra đời sau cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945. Đó là hệ
thống chính trị có tính chất dân chủ nhân dân, sau khi thực hiện thắng lợi
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, hệ thống chính trị đó chuyển sang làm
nhiệm vụ của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước và các đoàn thể quần chúng mang tính chất chính trị.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo hệ thống chinh trị, lực
lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
là yêu cầu khách quan, là điều kiện cơ bản để đảm bảo cho hệ thống chính trị
và nhà nước giữ đúng bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm mọi quyền lực
thuộc về nhân dân và bảo đảm cho con đường phát triển của xã hội Việt Nam
theo đúng con đường xã hội chủ nghĩa.
+ Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là “cột trụ của hệ
thống chính trị”, là “công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”. Nhà nước vừa là
cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị – hành chính, vừa là tổ chức quản
lí văn hoá xã hội của nhân dân. Nhà nước thực hiện sự quản lí xã hội bằng
pháp luật và thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại.
+ Các đoàn thể quần chúng mang tính chất chính trị, các tổ chức xã hội
– chính trị, đại diện cho các tầng lớp nhân dân tham gia vào việc xây dựng
thể chế chính trị, xây dựng và quản lí nhà nước tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và
mục đích của mình. Liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân, của cộng
đồng xã hội của ta là Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nới thể hiện ý
chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân.
Như vậy, hệ thống chính trị là một thể thống nhất, việc xây dựng và
hoàn thiện nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cải cách tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước nhất thiết phải đặt trong quan hệ với các
tổ chức khác của hệ thống chính trị. Việc đổi mới một cách căn bản tổ chức
và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị phải xác định rõ và giải
quyết các mối quan hệ sau đây:
+ Mối quan hệ giữa Đảng và nhà nước: Đảng cộng sản là đội tiên
phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội. Đảng lãnh
đạo nhà nước tức là Đảng cầm quyền, nhưng Đảng không phải là tổ chức
quyền lực chính trị mang tính pháp quyền, không phải là quyền lực nhà nước.
Đảng lãnh đạo nhà nước bằng đường lối chủ trương chính sách của Đảng và
thông qua đội ngũ đảng viên của Đảng hoạt động trong các cơ quan nhà
nước. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp
và pháp luật nhà nước. Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật đối với toàn
xã hội, nhưng hoạt động của nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Trong quan hệ giữa nhà nước với các đoàn thể nhân dân và toàn thể
nhân dân: Nhà nước là tổ chức công quyền và thực thi quyền lực chính trị.
Nhưng nhà nước là công cụ để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân – nhà
nước của nhân dân, nhân dân không chỉ làm chủ bằng nhà nước (dân chủ đại
diện) mà còn bằng các tổ chức và hoạt động của các đoàn thể có tính chất tự
quản (dân chủ trực tiếp). Vì vậy, nhân dân là chủ thể của hệ thống chính trị và
những tổ chức đại diện của các tầng lớp nhân dân tuy không mang tính chất
quyền lực nhà nước nhưng có vị trí và vai trò quan trọng tạo thành “cơ sở
chính trị vững chắc của chính quyền nhân dân”.
2. Bản chất của nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước có tính
giai cấp, nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật và nêu cao
vai trò của pháp chế.
Nhà nước yêu cầu mọi tổ chức, mọi công dân phải tôn trọng và tuân
thủ luật pháp đi đôi với phát huy các giá trị đạo đức và văn hoá dân tộc. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân có bản
chất khác hẳn với bản chất nhà nước của giai cấp bóc lột. Điều này được quy
định một cách khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của chủ nghĩa
xã hội.
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công
nhân được thể hiện bằng toàn bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ
chế chính sách đến những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước.
Các hoạt động này đều thể hiện quan điểm của giai cấp công nhân nhằm
từng bước thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân
tộc là thống nhất. Sự thống nhất bắt nguồn từ bản chất của cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo. Sau khi giành được chính
quyền thì nhân dân lao động trở thành người chủ của đất nước. Giai cấp
công nhân muốn tự giải phóng mình phải đồng thời giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội. Hơn nữa, khi chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
được xác lập, nhân dân là người làm chủ những tự liệu sản xuất chủ yếu đó
thì đương nhiên mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Vì vậy nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của ta mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời
cũng gắn bó chặt chẽ với dân tộc, nhân dân. Điều này được quán triệt, được
cụ thể hoá, thể chế hoá và thực hiện trên mọi lĩnh vực mọi tổ chức và hoạt
động của nhà nước. Cũng chỉ có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
mang bản chất giai cấp công nhân, hoạt động theo đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân mới là đại biểu cho
lợi ích chung của nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Tính nhân dân của nhà nước ta thể hiện: Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của ta là của dân, quyền lực thực sự ở “nơi dân” chính quyền do
nhân dân lập nên và nhân dân tham gia quản lí nhà nước. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
cán bộ công chức nhà nước là công bộc của dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
Tính dân tộc của nhà nước thể hiện ở chỗ: Trong tổ chức và hoạt động
nhà nước ta kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống, bản sắc tốt đẹp
của dân tộc và con người Việt Nam. Nhà nước có chính sách dân tộc đúng
đắn, chăm lo lợi ích mọi mặt cho các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam và thực hiện đoàn kết dân tộc, coi đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân là
đường lối chiến lược và là động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
giữ vững quan điểm của Đảng về độc lập tự chủ trong quan hệ đối ngoại; kết
hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân.
3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
a. Nguyên tắc nhân dân tham gia vào công việc quản lí nhà nước, quản
lí xã hội
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất dân chủ của nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Ở nước ta, thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đã làm thay
đổi chủ thể quyền lực nhà nước. Nhân dân từ vị trí người nô lệ phụ thuộc bởi
chế độ thuộc địa nửa phong kiến trở thành người chủ đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện nguyên tắc này, Hiến pháp nước ta ghi nhận: “công dân có
quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội, thảo luận, kiến nghị với nhà nước
và địa phương, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý” (điều 53
Hiến pháp 1992). Đây là sự bảo đảm bằng pháp luật khả năng nhân dân tham
gia quản lí nhà nước và quản lí xã hội, Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lí
cao nhất.
Hiến pháp còn ghi nhận quyền của công dân tham gia quản lí nhà nước
và quản lí xã hội qua việc ghi nhận quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội là cơ
quan đại diện cao nhất và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan đại diện ở
địa phương (điều 54). Ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi vi
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước và của các cá nhân trong bộ máy nhà
nước (điều 74). Những người làm việc trong cơ quan bảo vệ pháp luật làm
trái pháp luật đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật (điều 74).
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tạo ra những khả năng, điều
kiện và phương tiện để nhân dân tham gia vào quản lí nhà nước và quản lí xã
hội. Trong quá trình phát triển xã hội các chức năng quản lí ngày càng đơn
giản hơn và ngược lại trình độ dân trí ngày một nâng cao hơn, do vậy mọi
người đều có thể làm được nó không còn là chức năng riêng của một lớp
người đặc biệt nữa, chức năng quản lí sẽ được mọi người thay nhau đảm
nhiệm.
b. Nguyên tắc Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chịu sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất giai cấp công nhân của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nó được thể hiện trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước. Vai trò đó đã được ghi nhận ở hai bản Hiến pháp gần nhất:
bản Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 (đều ở điều 4).
Đảng lãnh đạo nhà nước trước hết thông qua việc xây dựng và hoàn
chỉnh cương lĩnh, chiến lược, định ra các chủ trương chính sách cho hoạt
động của nhà nước và toàn xã hội để phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Đảng lãnh đạo bằng tuyên truyền, thuyết phục, bằng công tác tư tưởng
và tổ chức, bằng vai trò gương mẫu của đảng viên và tổ chức Đảng. Đảng
xây dựng đường lối phù hợp với lợi ích của nhân dân, được nhân dân ủng hộ
và thực hiện. Như vậy, thực chất sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là
sự lãnh đạo chính trị mang tính định hướng, tạo điều kiện để nhà nước tổ
chức bộ máy, bố trí cán bộ, thực hiện chức năng quản lí bằng những công cụ,
biện pháp của mình.
Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua công tác cán bộ. Là Đảng cầm
quyền nên Đảng ta lựa chọn những đảng viên ưu tú của mình tham gia vào
các cơ quan nhà nước trước hết là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
bằng con đường giới thiệu để nhân dân lựa chọn bầu ra. Vì vậy, cơ chế dân
chủ cũng là thước đo uy tín và năng lực của Đảng trước xã hội và nhân dân.
Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng không “hoá thân thành nhà nước”, do vậy
việc phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lí của nhà
nước là yêu cầu khách quan. Song, cũng cần phải đề phòng và đấu tranh
chống lại những quan điểm sai lầm muốn tách Đảng ra khỏi nhà nước, cần
phải cảnh giác trước bọn cơ hội và các thế lực thù địch âm mưu xoá bỏ sự
lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lêmn, đưa đất nước đi chệch
khỏi mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
c. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và
hoạt động của nhà nước ta. Nguyên tắc này đã được ghi ở điều 4 các bản
Hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Nguyên tắc tập trung dân chủ chi phối tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước. Một nhà nước “của dân, do dân” được
thể hiện từ mục đích đến tổ chức hoạt động.
Bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo quy định của Hiến
pháp bao gồm ba cơ quan thực hiện ba chức năng khác nhau: Quốc hội thực
hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Toà án nhân
dân thực hiện quyền tư pháp. Hoạt động của các cơ quan này theo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Nhưng ở mỗi cơ quan nguyên tắc tập trung dân chủ thể
hiện khác nhau.
Đối với Quốc hội khi phải quyết định những vấn đề hệ trọng, các đại
biểu thường cân nhắc đến:
– Lợi ích của cả nước khi biểu quyết lựa chọn một phương án trong
nhiều phương án được đề xuất.
– Lợi ích của địa phương, ngành, khi biểu quyết các đại biểu không chỉ
thể hiện ý chí của cả nước mà còn chú ý tới nguyện vọng của cử tri nơi đã
bầu ra họ.
Do những chi phối đó nên Quốc hội không có cách nào tốt hơn là biểu
quyết theo nguyên tắc đa số. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt
của Quốc hội là thiểu số phục tùng đa số trong mọi trường hợp.
Đối với Chính phủ: Chính phủ vừa là thiết chế làm việc với chế độ tập
thể quyết định theo đa số về những vấn đề quan trọng, vừa đề cao vai trò cá
nhân của Thủ tướng Chính phủ - người quyết định những vấn đề trong điều
hành công việc thường xuyên của Chính phủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ
trong hoạt động của Chính phủ vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập thể, vừa đảm
bảo sự quản lí của người đứng đầu Chính phủ.
Đối với cơ quan tư pháp: Trong các hoạt động xét xử, nguyên tắc tập
trung dân chủ đòi hỏi thực hành đúng quan hệ làm việc giữa thẩm phán, hội
thẩm và các thành viên khác trong hoạt động tố tụng, xác lập quan hệ giữa
các cấp xét xử, quan hệ giữa các cơ quan điều tra v.v…
Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ là yếu tố đảm bảo hiệu lực
quản lí của bộ máy nhà nước ta trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo
của các cơ quan trung ương cũng như ở địa phương.
d. Nguyên tắc pháp chế
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì thế tổ chức
và hoạt động của nó phải tuân theo nguyên tắc pháp chế.
Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều
chỉnh các quan hệ xã hội làm cơ sở một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân
thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của nhà nước,
của các cơ quan đơn vị, tổ chức và đối với công dân. Khi nói tới một trật tự
pháp chế đòi hỏi phải có:
– Một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
– Pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh trong cuộc sống, từ các
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân.
Như vậy, không phải cứ có nhà nước, có pháp luật là có pháp chế,
nhưng pháp luật lại đóng vai trò tiền đề, cơ sở cho một trật tự pháp chế. Bởi
vì pháp luật là thước đo, là tiêu chuẩn thẩm định trật tự xã hội và tình trạng
pháp chế cụ thể trong từng thời kỳ. Để nhận ra một xã hội có pháp chế trước
hết người ta xem xét pháp luật đã có hay chưa, có đầy đủ hay không? Pháp
luật được thực hiện hay chỉ là hình thức; tính xã hội của pháp luật ra sao?
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi:
– Thứ nhất, nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật một cách
kịp thời và có hệ thống. Nhà nước và pháp luật là hai mặt thống nhất, thống
nhất giữa chủ thể và phương tiện. Để nhà nước hoạt động đảm bảo nguyên
tắc pháp chế, các văn bản luật và các văn bản pháp quy để thi hành luật (văn
bản dưới luật) phải được ban hành kịp thời và đồng bộ.
– Thứ hai, các cơ quan nhà nước được lập ra và hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật quy định về địa vị pháp lí, quy mô và thẩm quyền.
Nguyên tắc này không chấp nhận hai khả năng thường xảy ra ở những nơi
mà tình trạng pháp chế bị vi phạm: khả năng thứ nhất là các hoạt động quản lí
vượt thẩm quyền được giao, khả năng thứ hai là buông lỏng, bỏ trống một số
lĩnh vực thuộc thẩm quyền được giao.
– Thứ ba, sự tôn trọng hiến pháp, pháp luật của cơ quan nhà nước.
Nhà nước thay mặt nhân dân ban hành luật pháp, nhưng nhà nước cũng bị
luật pháp điều chỉnh. Nghĩa là: nếu cơ quan nhà nước trong hoạt động phạm
sai lầm, vi phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm về những sai lầm đó
trước pháp luật. Nhà nước vì vậy vừa là chủ thể của luật pháp nhưng cũng
vừa là đối tượng để luật pháp điều chỉnh. Đây là đòi hỏi sự tôn trọng của
nguyên tắc pháp chế, đồng thời thể hiện tính dân chủ của nhà nước ta, cũng
là yêu cầu rất quan trọng trong quản lí hành chính, trong hoạt động của các
cơ quan tư pháp ở nước ta hiện nay.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước có mối quan hệ
biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thực hiện tốt các nguyên tắc
trên nhằm đảm bảo cho nhà nước ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, của dân, do dân và vì dân” trong tổ chức và hoạt động.
4. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Theo Hiến pháp 1992 cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta gồm có:
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ; Toà án
nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân.
a. Quốc hội
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 83, Hiến
pháp 1992); Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra bằng chế độ bầu cử phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín; Quốc hội thống nhất mọi quyền
lực (thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp). Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội là cơ quan cao nhất quyết định những chính sách về đối nội,
đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng và an ninh của đất nước,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về
quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội là cơ quan giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước.
Hoạt động cơ bản nhất, quan trọng nhất của Quốc hội là các kỳ họp Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội về nguyên tắc cũng phải hoạt động thường xuyên trong cả
nhiệm kỳ, chịu sự giám sát và có thể bị cử tri hoặc Quốc hội bãi miễn bất cứ
lúc nào nếu tỏ ra không còn xứng đáng. Quốc hội có các Hội đồng và Ủy ban.
Trong điều kiện hiện nay ở các Hội đồng và Ủy ban của Quốc hội có một bộ
phận cán bộ làm việc theo chế độ chuyên trách còn phần lớn đại biểu Quốc
hội là kiêm nhiệm, phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu.
Ở nước ta hiện nay, Quốc hội chưa hoạt động thường xuyên nên Quốc
hội lập ra Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ
quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước
Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội được giao một số quyền hạn theo quy
định của Hiến pháp như: quyền quyết định ra pháp lệnh do Quốc hội giao,
quyền trong thời gian Quốc hội không họp phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng
Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng, các thành viên của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần
nhất; quyền giám sát các hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao trái với hiến pháp và luật… Quyền quyết định trong thời gian
Quốc hội không họp tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nhà nước bị xâm
lược: quyền quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ.
b. Chủ tịch nước
Chủ tịch nước “là người đứng đầu nhà nước thay mặt nước Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại” (Điều 101 Hiến pháp
1992). Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch
nước được quy định ở điều 103 Hiến pháp 1992, theo đó người đứng đầu
quốc gia là một cá nhân. Chủ tịch nước ký công bố các văn bản luật pháp
(của Quốc hội) và pháp lệnh (của Ủy ban thường vụ Quốc hội) nhưng Chủ
tịch nước có quyền đề nghị xem xét lại pháp lệnh của Ủy ban thường vụ
Quốc hội và nếu không nhất trí thì trình ra Quốc hội quyết định. Chủ tịch nước
đề nghị Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng chính phủ, Chánh án Toà
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ tịch
nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, cũng như
xét thấy cần thiết thì có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. Với quy
chế của Hiến pháp 1992 thiết chế Chủ tịch nước cùng với thiết chế Ủy ban
thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, vừa đảm bảo tính
tập thể trong việc quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước trong khi
Quốc hội không họp, vừa đảm bảo vị trí của người đứng đầu nhà nước.
c. Chính phủ
Theo quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất và phân công ba
quyền, thì Quốc hợi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và nắm quyền
lập pháp. Dưới quyền lực tối cao và thống nhất đó của Quốc hội là những cơ
quan quyền lực nhà nước về hành pháp và tư pháp. Chính phủ là cơ quan
quyền lực hành pháp cao nhất. Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ
tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Chính phủ do Quốc hội bầu ra
trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội. Trong kỳ họp này Quốc hội bầu
Thủ tướng Chính phủ theo đề nghị của Chủ tịch nước và giao cho Thủ tướng
đề nghị danh sách các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ để
Quốc hội phê chuẩn.
Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội vừa là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội
và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch
nước và chịu sự giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ quốc hội. Đứng
đầu Chính phủ là Thủ tướng Chỉnh phủ.
Theo điều 112 Hiến pháp 1992 và chương II Luật Tổ chức Chính phủ,
thì thẩm quyền của Chính phủ bao gồm:
– Quyền kiến nghị lập pháp: Dự thảo các văn bản luật trình Quốc hội,
và dự thảo pháp lệnh trình bày Ban Thường vụ Quốc hội. Dự thảo kế hoạch
nhà nước, ngân sách, các chính sách lớn về đối nội, đối ngoại của nhà nước
trên cơ sở đường lối của Đảng để trình Quốc hội.
– Quyền lập quy: Ban hành các văn bản pháp quy có giá trị pháp lí
trong cả nước.
– Quyền quản lí và điều hành toàn bộ công việc của đất nước: Xây
dựng kinh tế, văn hoá, xã hội theo đúng đường lối của Đảng, pháp luật của
nhà nước và hệ thống pháp quy của Chính phủ.
– Quyền xây dựng và lãnh đạo toàn bộ hệ thống tổ chức cơ quan quản
lí nhà nước, thành lập các cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan giúp Thủ
tướng, lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chỉ
đạo việc tổ chức các cơ quan chuyên môn ở địa phương.
– Quyền hướng dẫn, kiểm tra hội đồng nhân dân các cấp.
Chính phủ hoạt động bằng các hình thức cơ bản sau:
Một là: Hoạt động tập thể là các phiên họp của Chính phủ.
Hai là: Sự chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng là
những người giúp Thủ tướng theo sự phân công của Thủ tướng, khi Thủ
tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt
lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Ba là: Hoạt động của Bộ trưởng với tư cách là thành viên của chính
phủ đứng đầu một Bộ hay cơ quan ngang Bộ.
d. Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân là hệ thông tổ chức
thực hiện quyền tư pháp
– Cơ cấu tổ chức toà án gồm: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án
nhân dân địa phương, Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định. Toà
án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam (điều 127 – Hiến pháp 1992). Trong hệ thống toà án thì Toà án nhân dân
tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Có chức năng và quyền giám đốc việc xét xử của Toà án nhân dân địa
phương và Toà án quân sự, giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt và các
Toà án khác, trừ trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập Toà án đó.
Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm báo
cáo công việc trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu
trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Nguyên tắc hoạt động của Toà án là “khi xét xử Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (điều 130 – Hiến pháp 1992) và “Toà
án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định. Toà án xét xử tập
thể và quyết định theo đa số” (điều 131 – Hiến pháp 1992).
– Cơ cấu tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Theo quy định của Hiến
pháp “Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan
chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân, thực hiện quyền công tố, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất” (điều 137 – Hiến pháp 1992).
Để đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm minh, thống nhất,
Viện Kiểm sát nhân dân được tổ chức thành một hệ thống. Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu Sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp trên; các Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, kiểm sát viên
nhân dân địa phương và Viện Kiểm sát quân sự do Viện trưởng Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội
không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và
Chủ tịch nước. Viện trưởng các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương chịu
trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành pháp luật
ở địa phương và trả lời chất vấn của Hội đồng nhân dân.
e. Cơ quan chính quyền địa phương: Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân
Hội đồng nhân dân địa phương là “cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương; đại diện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên” (điều 118 – Hiến pháp 1992). Hội đồng nhân dân
địa phương phải chấp hành Hiến pháp, luật, các quy định và nhiệm vụ của
cấp trên giao cho và vận dụng phù hợp với điều kiện địa phương tự quyết
định những vấn đề thuộc quyền lợi của nhân dân địa phương trong phạm vi
được phân cấp theo luật định. Vì vậy, Hội đồng nhân dân phải đặt dưới sự
giám sát, hướng dẫn của Quốc hội, sự hướng dẫn kiểm tra của Chính phủ.
Ủy ban nhân dân nhân theo quy định của Hiến pháp do Hội đồng nhân
dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật,
các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng
nhân dân (điều 123 – Hiến pháp 1992).
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước hoạt động thường
xuyên, thực hiện chức năng quản lí nhà nước ở địa phương, vừa do Hội đồng
nhân dân cùng cấp, vừa do Ủy ban nhân dân cấp trên giao cho và chịu sự
lãnh đạo thống nhất của Chính phủ.
B. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. KHÁI NIỆM QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Để nắm vững nội hàm khái niệm quản lí hành chính nhà nước chúng ta
lần lượt nghiên cứu các khái niệm quan trọng sau đây:
1. Quản lí
Quản lí là khái niệm được xem xét theo hai góc độ:
+ Theo góc độ chính trị – xã hội, quản lí được hiểu là sự kết hợp giữa
tri thức với lao động. Vận hành sự kết hợp này cần có cơ chế quản lí phù
hợp. Cơ chế đúng, hợp lí thì xã hội phát triển, ngược lại thì xã hội phát triển
chậm hoặc rối ren.
+ Theo góc độ hành động, quản lí được hiểu là chỉ huy, điều
khiển, điều hành.
Theo C. Mác, quản lí (quản lí xã hội) là chức năng được sinh ra từ tính
chất xã hội hoá loa động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển
của xã hội đều thông qua hoạt động của con người và thông qua quản lí (con
người điều khiển con người). Người viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp
hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng
đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực
hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể
sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một
người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần
phải có nhạc trưởng” (C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, T.23, trang 480).
Từ phân tích cơ sở lí luận trên, ta có thể đi đến định nghĩa như sau:
Quản lí là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lí lên đối tượng quản
lí nhằm chỉ huy điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá
nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách
quan.
Quản lí là một yếu tố không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Xã
hội phát triển càng cao thì vai trò của quản lí càng lớn, phạm vi càng rộng và
nội dung càng phong phú, phức tạp.
2. Quản lí nhà nước
Quản lí nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, là sự
quản lí của Nhà nước đối với xã hội và công dân. Quản lí nhà nước là sự chỉ
huy, điều hành xã hội để thực thi quyền lực Nhà nước; là tổng thể về thể chế,
về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước có trách nhiệm quản lí công việc
hàng ngày của nhà nước, do các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp và
tư pháp) có tư cách pháp nhân công pháp (công quyền) tiến hành bằng các
văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn mà nhà nước đã giao cho trong việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ
xã hội và hành vi của công dân.
Cần lưu ý phân biệt hai khái niệm “Quản lí nhà nước” và “Nhà nước
quản lí”:
+ “Quản lí nhà nước” là dạng quản lí xã hội thực thi quyền lực Nhà
nước; dạng quản lí này được thể hiện trong các cơ quan hành chính Nhà
nước. Điều 12, Hiến pháp 1992 đã ghi: “Nhà nước quản lí xã hội theo pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Theo định nghĩa
của Liên hiệp quốc, quản lí nhà nước tương đồng với khái niệm quản lí quốc
gia (Govermance), nghĩa là: quản lí nhà nước một cách hợp lí, có hiệu quả,
công khai, minh bạch và có sự tham gia của các chủ thể liên quan.
+ “Nhà nước quản lí” là nói đến các chủ thể quản lí; đó là hệ thống tổ
chức của các cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan hành chính Nhà
nước.
3. Hành chính nhà nước
Hành chính là một hoạt động xã hội rộng và rất phức tạp.
Trong cuộc sống, mọi hoạt động của con người đều mang tính xã hội;
các cá nhân luôn có quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Khi hoạt động có từ hai
người trở lên để thực hiện một mục tiêu chung, mà nếu chỉ có một người
không thể làm được, thì sẽ xuất hiện yếu tố tổ chức và quản lí hoạt động.
Hành chính là một dạng của sự quản lí các hoạt động đó.
Thuật ngữ “hành chính” (Tiếng Anh là Administration).
+ Theo nghĩa rộng, hành chính là sự thi hành chính sách và pháp luật
của Chính phủ tức là hoạt động quản lí hành chính Nhà nước. Quản lí hành
chính nhà nước là một hình thức quản lí, mà chủ thể quản lí là Nhà nước.
Hành chính nhà nước là một bộ phận quản lí của Nhà nước – nó là hoạt động
của cơ quan hành pháp, thực thi quyền hành pháp bằng quyền lập quy và
quyền hành chính.
+ Theo nghĩa hẹp, hành chính là công tác hành chính của các cơ quan
nhà nước ở địa phương như: quản lí hộ khẩu, trật tự, an ninh công cộng,
quản lí công văn giấy tờ không thuộc văn bản pháp luật,… và có cả nghĩa
thông thường như hỗ trợ, dịch vụ hành chính,…
Hành chính quan hệ mật thiết với quản lí, tổ chức, chính trị tạo nên các
phạm trù: hành chính và quản lí, hành chính và tổ chức, hành chính và chính
trị, hành chính và pháp luật.
Nhà nước quản lí hành chính bằng pháp luật. Còn hành chính nhà
nước là “hành pháp trong hành động”, là sự thực thi pháp luật trong quản lí,
điều hành mọi lĩnh vực đời sống của đất nước.
Từ những phân tích trên ta có thể định nghĩa: Hành chính là hoạt động
quản lí nhà nước, trong đó cơ quan quyền lực nhà nước tác động lên các đối
tượng quản lí (cơ quan, tổ chức, cá nhân) trong lĩnh vực hành pháp, nhằm
thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại quản lí hành chính nhà nước do các
cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện.
4. Nền hành chính nhà nước
Nền hành chính nhà nước (hành chính công) là tổng thể cơ chế được
cấu thành bởi ba yếu tố sau đây:
Một là, hệ thông thể chế quản lí xã hội theo Pháp luật bao gồm: Hiến
pháp, Luật, Pháp lệnh và các văn bản, Quyết định, Nghị định, Thông tư của
Chính phủ, Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, quy phạm pháp luật của các cơ quan
hành pháp và quản lí nhà nước. Xây dựng thể chế của nền hành chính nhà
nước dân chủ, thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phục vụ lợi
ích và nguyện vọng của dân, thiết lập kỷ cương Nhà nước, ý thức và trật tự
pháp luật, cải cách và hoàn thiện thủ tục hành chính… Xây dựng thể chế
quản lí kinh tế của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của Nhà nước và tạo sự thích nghi về thể chế
trong quan hệ đối ngoại, với luật pháp và tập quán quốc tế.
Hai là, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành bộ máy nhà nước từ trung
ương đến cơ sở. Quy định thẩm quyền của từng cấp, từng cơ quan, mối quan
hệ dọc, ngang, trung ương và địa phương. Vận dụng tốt nguyên tắc tập trung
dân chủ, nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ. Các
cơ quan trong hệ thống phải đủ mạnh về uy tín, năng lực và phẩm chất để
phát huy hiệu lực và hiệu quả quản lí nhà nước.
Ba là, đội ngũ cán bộ và công chức nhà nước, chế độ công vụ và quy
chế công chức, các quy định về hệ thống ngạch, bậc, tiêu chuẩn chức danh
và chế độ tiền lương, các quy chế bổ nhiệm, tuyển dụng, miễn nhiệm, bãi
nhiệm, khen thưởng, đãi ngộ… là những cơ sở để nâng cao chất lượng công
tác, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động và làm căn cứ cho đào tạo và
bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà nước.
Thực tế hoạt động của nền hành chính nhà nước xuất phát từ bản chất
nhà nước pháp quyền, sống và làm việc theo khuôn khổ pháp luật để quản lí
xã hội, đưa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, là
tạo lập môi trường cho mọi tổ chức và công dân sống và làm việc theo Hiến
pháp và Pháp luật.
5. Quản lí hành chính Nhà nước
Bộ máy Nhà nước được cấu thành bởi ba tổ chức giữ ba quyền: quyền
lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, trong đó quyền hành pháp là
quyền chấp hành luật (lập quy), tổ chức thực hiện luật (quản lí hành chính).
Hai quyền này đều tập trung vào Chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước từ trung ương đến địa phương, được thực hiện bằng các văn bản
quy phạm pháp luật hành chính.
Bộ máy hành chính Nhà nước còn được gọi là bộ máy quản lí Nhà
nước.
Hành pháp mang tính quyền lực chính trị (quyền lực nhà nước), còn
quản lí hành chính nhà nước là “Hành pháp hành động”, là quyền thực thi
quyền hành pháp. Bản thân quản lí hành chính nhà nước không chỉ là chính
trị, mà còn là hành chính.
Ví dụ: Bộ trưởng có vai trò:
– Là thành viên của Chính phủ (chính trị).
– Là người đứng đầu về quản lí hành chính nhà nước của một bộ,
ngành hay lĩnh vực (quản lí hành chính).
Chủ tịch Ủy ban nhân dân có vai trò:
– Là thành viên của Hội đồng nhân dân bầu ra để chấp hành các nghị
quyết của Hội đồng nhân dân (chính trị).
– Là người đứng đầu về quản lí hành chính nhà nước ở địa phương
(quản lí hành chính).
Từ phân tích trên, có thể định nghĩa quản lí hành chính Nhà nước như
sau:
Quản lí hành chính Nhà nước là sự tác động có tổ chức, và điều chỉnh
bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình và hành vi hoạt động của
công dân do các cơ quan có tư cách pháp nhân công pháp trong hệ thống
hành pháp và quản lí hành chính nhà nước tiến hành bằng những văn bản
quy phạm pháp luật dưới luật để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của
Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh công, bảo
vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu hàng ngày của nhân dân.
Nói một cách đơn giản hơn, quản lí hành chính nhà nước là việc tổ
chức thực thi quyền hành pháp để quản lí, điều hành các lĩnh vực đời sống xã
hội bằng pháp luật và theo pháp luật.
Như vậy, có thể thấy ba nội dung chính của khái niệm quản lí hành
chính nhà nước:
Một là, quản lí hành chính nhà nước với tư cách là quyền lực nhà nước
được gọi là quyền quản lí hành chính, tức là “quyền hành pháp trong hành
động”.
Hai là, quản lí hành chính nhà nước với tư cách là hoạt động thực tiễn
hàng ngày, tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động
của công dân bằng việc ra các quyết định hành chính mang tính quy phạm
hành chính, phục vụ cho các nhà cầm quyền, các nhà lãnh đạo và quản lí đất
nước.
Ba là, quản lí hành chính nhà nước, với tư cách là pháp nhân công
pháp, chính là hệ thống thiết chế tổ chức hành chính nhà nước. Trong hệ
thống này, đứng đầu là Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, các bộ, các cơ
quan quản lí hành chính nhà nước trung ương, các cấp quản lí hành chính
nhà nước địa phương và các tổ chức công quyền khác có chức năng tổ chức
và điều hành các quá trình kinh tế kỹ thuật, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh, nội vụ, ngoại giao… và các hoạt động của tổ chức và công dân.
II. NHỮNG TíNH CHẤT CHỦ YẾU CỦA NỀN HàNH CHíNH NHà NƯỚC CỘNG HÒA Xã HỘI CHỦ NGHĩA VIỆT NAM
Nền hành chính nhà nước có các tính chất sau đây:
1. Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị
Xét trên góc độ nhà nước, các nhà cầm quyền của một quốc gia có hai
loại nhiệm vụ: Nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ hành chính.
Nhiệm vụ chính trị là nhiệm vụ định hướng cho sự phát triển xã hội,
đưa ra đường lối, chính sách. Chính trị biểu hiện ý chí Nhà nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
Nhiệm vụ hành chính là việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Những vấn đề cơ bản về chính tri ở nước ta hiện nay là:
a) Kiên trì chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp sự
kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với tính linh hoạt, sáng tạo
trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới của thời đại.
b) Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam,
chống chệch hướng xã hội chủ nghĩa, chống diễn biến hoà bình.
Đảng Cộng sản việt Nam là trung tâm lãnh đạo, các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức chính trị xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tham
gia và giám sát quản lí nhà nước, tập thể lao động và công dân tham gia đóng
góp ý kiến.
2. Tính pháp luật
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước, hành chính nhà nước
mang tính cưỡng chế, yêu cầu mọi tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước và công
dân phải tuân thủ các mệnh lệnh hành chuẩn đảm bảo và giữ vững kỷ cương,
trật tự xã hội.
Tính pháp luật đòi hỏi các cơ quan hành chính và công chức phải đảm
bảo tính quyền uy, nghĩa là phải nắm vững quyền lực, sử dụng đúng quyền
lực, đồng thời phải tạo dựng uy tín về chính trị về phẩm chất đạo đức và năng
lực trí tuệ.
Quyền uy là thể thống nhất giữa quyền lực và uy tín; các nhà quản lí
hành chính nhà nước phải có quyền uy thì mới phát huy tính pháp luật trong
quản lí hành chính nhà nước. Cá nhân và tổ chức nào vi phạm Pháp luật sẽ
bị truy cứu trách nhiệm và xử lí theo Pháp luật.
3. Tính thường xuyên, ổn định và thích nghi
Nhiệm vụ hành chính nhà nước là phục vụ công vụ và công dân. Do
vậy, hoạt động hành chính nhà nước không được làm theo lối “phong trào”,
“chiến dịch”. Đội ngũ công chức phải ổn định và có năng lực, phẩm chất đạo
đức ngang tầm nhiệm vụ trong mọi thời kỳ phát triển của đất nước.
Nhà nước là một sản phẩm xã hội, đời sống xã hội biến chuyển không
ngừng, do đó, nền hành chính nhà nước cũng phải thích nghi với hoàn cảnh
thực tế xã hội trong từng thời kỳ, phải phù hợp với xu thế chung của thời đại.
4. Tính chuyên môn hoá nghiệp vụ cao
Đây là vấn đề quan trọng của một nhà nước và của một nền hành
chính nhà nước thể hiện trình độ khoa học, văn minh, hiện đại. Đối với các
công chức nhà nước, kiến thức chuyên môn và kỹ năng quản lí điều hành
thực tiễn là tiêu chuẩn về trình độ nghiệp vụ. Tính chuyên môn hoá nghề
nghiệp ở trình độ cao là cơ sở để đảm bảo thực hiện mục tiêu chiến lược,
hoạch định chính sách và chương trình dài hạn.
5. Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ
Hành chính nhà nước là hệ thống thông suốt từ trung ương tới các địa
phương. Mỗi cấp, mỗi cơ quan, mỗi công chức đều có thẩm quyền riêng và
quyền lợi chính đáng. Tính thứ bậc chặt chẽ đòi hỏi cấp dưới phải phục tùng
cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương, cả nước phục tùng Chính
phủ trong việc thực hiện quyết định, chỉ thị và chịu sự kiểm tra thường xuyên
của cấp trên, của thủ trưởng. Bên cạnh tính thứ bậc chặt chẽ, mọi hoạt động
quản lí hành chính nhà nước phải sát dân, sát cơ sở; phải chủ động, sáng
tạo, linh hoạt.
6. Tính không vụ lợi
Hành chính nhà nước chỉ có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công và lợi ích
công dân, không theo đuổi mục tiêu doanh lợi. Các cơ quan, công chức đều
phải thể hiện tính công tâm, trong sạch, liêm khiết, thực hiện lời Bác Hồ dạy
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
7. Tính nhân dạo
Bản chất nhà nước ta là dân chủ, do dân, của dân và vì dân. Dân chủ
xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong luật pháp, cụ thể là trong pháp luật hành
chính; những thể chế, quy tắc, thủ tục hành chính phải xuất phát từ lợi ích của
dân, từ tấm lòng thật sự thương dân, phải đơn giản, trong sáng, tôn trọng con
người và đem lại sự thuận lợi cho dân. Các cơ quan hành chính và công
chức không được quan liêu, độc đoán, cửa quyền, gây phiền hà, không đòi
hối lộ, không tham nhũng.
So với nhiều nước khác trên thế giới, quản lí nhà nước ở nước ta có ba
giá trị cốt lõi sau đây:
a) Quản lí nhà nước được tiến hành trong điều kiện hệ thống trị một
Đảng lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam.
b) Quản lí nhà nước được thực hiện trong một cơ cấu quyền lực nhà
nước thống nhất không phân chia, nhưng có sự phân công hợp lí giữa ba
quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp).
c) Quản lí nhà nước được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tập trung
dân chủ.
III. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA NỀN HÀNH CHÍNH VIỆT NAMDo bản chất của nhà nước, nền hành chính nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam có các nguyên tắc sau đây:
1. Dựa vào dân, do dân và vì dân.
2. Quản lí theo Pháp luật.
3. Tập trung dân chủ.
4. Kết hợp chế độ làm việc tập thể với chế độ một thủ trưởng.
5. Kết hợp quản lí theo ngành với quản lí theo lãnh thổ.
6. Phân biệt quản línhà nước với quản lísản xuất kinh doanh.
7. Phân biệt hành chính điều hành với hành chính tài phán.
IV. NỘI DUNG VÀ QUY TRÌNH CHỦ YẾU CỦA QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1. Nội dung hoạt động chủ yếu của quản lí hành chính nhà nước
Tất cả bốn cấp hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương đều
có mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, có cơ cấu tổ chức và đội
ngũ cán bộ – công chức tương ứng.
Các cơ quan này thực hiện chức năng hành pháp trong hành động về
các lĩnh vực và các mặt công tác sau đây:
a. Quản lí hành chính nhà nước về kinh tế, văn hoá xã hội
Các cơ quan quản lí hành chính nhà nước từ Chính phủ, các Bộ, các
cơ quan Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan, tổ
chức có tư cách pháp nhân công pháp trong hệ thống hành pháp và quản lí
hành chính nhà nước, theo thẩm quyền của từng cơ quan, thực hiện các
chương trình và lĩnh vực phát triển có mục tiêu, chỉ tiêu và giải pháp do Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra và được Quốc hội ra nghị
quyết từ 1996 đến 2000. Theo Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ VIII, các cơ quan hành chính nhà nước phải thực hiện 11
chương trình phát triển kinh tế văn hóa, xã hội. Đó là:
– Chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn;
– Chương trình phát triển công nghiệp;
– Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng;
– Chương trình phát triển khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường,
sinh thai;
– Chương trình phát triển kinh tế dịch vụ;
– Chương trình phát triển kinh tế đối ngoại;
– Chương trình phát triển giáo dục và đào tạo;
– Chương trình giải quyết các vấn đề văn hoá – xã hội;
– Chương trình phát triển các vùng lãnh thổ;
– Chương trình phát triển kinh tế – xã hội miền núi và vùng đồng bào
dân tộc;
– Chương trình về xoá đói, giảm nghèo.
b. Quản lí hành chính nhà nước về an ninh, quốc phòng
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn quân, toàn dân. Phải nắm
vững tư tưởng chỉ đạo sau đây: kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa; kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế, gắn nhiệm vụ quốc
phòng với nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên (Nghị quyết Đại hội đại biểu lần
thứ VIII – Đảng CSVN).
c. Quản lí hành chính nhà nước về ngoại giao
“Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại; hợp tác nhiều mặt, song
phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không
can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề
tồn tại và các tranh chấp bằng thương lượng (Nghị quyết Đại hội đại biểu lần
thứ VIII – Đảng CSVN).
d. Quản lí hành chính nhà nước về ngân hàng, tài chính ngân sách nhà
nước, kế toán, kiểm toán, quản lí tài sản công, thị trường chứng khoán
Bảo đảm quản lí thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân
sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát; tạo vốn đầu tư phát triển;
đổi mới chính sách thuế theo hướng đơn giản, ổn định, công bằng; thực hiện
chặt chẽ chế độ kế toán, kiểm toán và chế độ kiểm tra, thanh tra tài chính
(theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng VIII).
đ. Quản lí hành chính nhà nước về khoa học, công nghệ, tài nguyên
thiên nhiên và môi trường
Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học tự nhiên và
công nghệ tiên tiến trong tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản
lí và quốc phòng – an ninh.
Nám bắt các công nghệ cao như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ mới trong chế tạo máy… Đánh giá
chính xác tài nguyên quốc gia và khai thác sử dụng, bảo vệ tài nguyên: Chú
trọng đúng mức nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội, khoa học nhân văn và
khoa học tự nhiên; thực hiện tốt chính sách và cơ chế đồng bộ cho sự phát
triển khoa học và công nghệ… (theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng VIII).
e. Quản lí hành chính nhà nước về các nguồn nhân lực
Mở rộng các trường lớp dạy nghề, các trường cao đẳng và đại học để
đào tạo công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ kỹ thuật (kỹ sư, công trình
sư…), đội ngũ các nhà quản lí doanh nghiệp giỏi. Nhanh chóng xây dựng đội
ngũ công chức và nhân viên của hệ thông hành chính các cấp; phát triển đào
tạo sau đại học, xây dựng đội ngũ trí thức đồng bộ về các lĩnh vực khoa học
và công nghệ, văn hoá văn nghệ, quản lí kinh tế, quản lí xã hội… đáp ứng sự
nghiệp tiếp tục đổi mới đưa đất nước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hoá (theo tinh thần Nghệ quyết Đại hội Đảng VIII).
g. Quản lí hành chính nhà nước về công tác tổ chức bộ máy hành chính
Nhà nước về quy chế, chế độ, chính sách về công vụ, công chức nhà nước
h. Quản lí hành chính nhà nước về phát triển công nghệ tin học trong
hoạt động quản lí hành chính
2. Quy trình của hoạt động quản lí nhà nước
Để thực hiện các nội dung quản lí hành chính nhà nước, các cơ quan
quản lí hành chính nhà nước phải tuân thủ quy trình cơ bản. Quy trình là một
quá trình gồm nhiều giai đoạn trong mọi cấp độ tổ chức quản lí hành chính
nhà nước.
Quy trình này gồm bảy giai đoạn sau:
a. Lập kế hoạch
Giai đoạn này bao gồm từ việc điều tra cơ bản, quy hoạch (tổng thể và
chuyên ngành) và lập kế hoạch để thực hiện kế hoạch.
Không có quy hoạch thì không nên làm kế hoạch; nhất thiết phải tiến
hành điều tra cơ bản làm cơ sở xây dựng kế hoạch.
Trên cơ sở mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đã được
hoạch định trong đường lối chủ trương của Đảng và được Quốc hội nhất trí
thông qua, Chính phủ, các Bộ, các cơ quan của Chính phủ, các cấp chính
quyền địa phương, các cơ quan và tổ chức công quyền khác nhau trong hệ
thống quản lí hành chính nhà nước phải thực hiện giai đoạn đầu tiên này.
b. Tổ chức bộ máy hành chính
Xây dựng một bộ máy gọn nhẹ, có hiệu lực và hoạt động có hiệu quả,
xác định quan hệ chỉ đạo và hợp tác phối hợp liên ngành, quản lí chặt chẽ sự
hoạt động của bộ máy.
c. Bố trí nhân sự
Sắp xếp đội ngũ cán bộ – công chức từ người chỉ huy, chuyên gia đến
nhân viên. Xây dựng hệ thống đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn và theo hành
động thực tế để cất nhắc, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật.
d. Ra quyết định hành chính
Từ việc phân tích và tổng hợp thông tin đã thu thập được để để xuất
các phương án khác nhau và chọn lấy phương án tốt nhất làm nội dung quyết
định. Thẩm định lại phương án và ban hành văn bản quản lí hành chính nhà
nước.
e. Điều hoà phối hợp
Chỉ đạo điều hành, phối hợp dọc, ngang.
Phân công đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp theo một cơ chế điều hoà
phối hợp có hiệu quả.
g. Lập ngân sách
Xây dựng và ra quyết định ngân sách nhà nước từ các nguồn: ngân
sách nhà nước, vốn doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ để tái đầu tư, vốn tiết
kiệm của dân, vốn đầu tư nước ngoài.
h. Kiểm tra, tổng kết đánh giá
Kiểm tra định kỳ, đột xuất, xử lí kết quả đã kiểm tra để chỉ đạo kịp thời.
Tổng kết đánh giá thực tiễn để thấy việc đã làm được và chưa làm
được, nguyên nhân? Tổng kết kinh nghiệm khái quát thành lí luận và tiếp tục
ra quyết định mới có hiệu lực cao hơn.
V. CÔNG CỤ (PHƯƠNG TIỆN), HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Các công cụ (phương tiện) của quản lí hành chính nhà nước
Một cơ quan hành chính được thành lập, để thực hiện chức năng.
nhiệm vụ và quyền hạn của mình, phải có các công cụ (hoặc còn gọi là
phương tiện) cơ bản sau đây: công sở, công vụ, công chức, công sản và
quyết định quản lí hành chính nhà nước
a. Công sở
Là trụ sở làm việc của cơ quan hành chính nhà nước, là nơi lãnh đạo
công chức và nhân viên thực thi công vụ, giao tiếp đối nội và đối ngoại, tiếp
nhận các thông tin đầu vào và ban hành các quyết định để giải quyết, xử lí
công việc hàng ngày để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động
của công dân.
Theo quy định của Chính phủ, công sở phải có tên, địa chỉ rõ ràng và
phải treo Quốc kỳ trong những ngày làm việc.
b. Công vụ và công chức
Công vụ và công chức của một cơ quan quản lí hành chính nhà nước
được xác định từ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan.
– Công vụ là một dạng lao động xã hội của những người làm việc trong
cơ quan hành chính nhà nước (công sở).
– Công chức là người thực hiện công vụ, được bổ nhiệm hoặc tuyển
dụng, được hưởng lương và phụ cấp theo công việc được giao từ ngân sách
nhà nước.
c. Công sản là ngân sách, là vốn, là kinh phí và các điều kiện, phương
tiện vật chất để cơ quan hoạt động.
d. Quyết định quản lí hành chính nhà nước
Trong quản lí hành chính nhà nước, người ra quyết định được nhân
danh Nhà nước, có tính ý chí quyền lực nhà nước của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Các công chức lãnh đạo, những người có thẩm quyền ra quyết
định quản lí hành chính Nhà nước là sự biểu thị ý chí nhà nước, là kết quả
thực thi quyền hành pháp của bộ máy nhà nước, mang tính quyền lực và tính
cưỡng chế đối với khách thể quản lí hành chính nhà nước. Đồng thời phải tôn
trọng quy trình công nghệ hành chính của việc ra và tổ chức thực hiện quyết
định.
Quy trình ra quyết định này gồm bốn bước:
Bước 1: Phải dựa vào một cơ sở để ra quyết định có nghĩa là quyết
định này dựa vào căn cứ nào, nguồn thông tin nào?
Bước 2: Bảo đảm năm yêu cầu của quyết định:
– Yêu cầu bảo đảm tính chính trị, tính hợp pháp và tính hợp lí.
– Yêu cầu bảo đảm tính quần chúng.
– Yêu cầu bảo đảm tính khoa học.
– Yêu cầu bảo đảm tính thẩm quyền.
– Yêu cầu bảo đảm tính cụ thể, kịp thời, khả thi và đúng văn bản pháp
chế.
Bước 3: Thực hiện dân chủ hoá trước khi ban hành quyết định thông
qua sự bàn bạc nhất trí trong lãnh đạo và sự dân chủ bàn bạc với tập thể và
trên cơ sở đó, thủ trưởng tính toán, cân nhắc và quyết định.
Bước 4: Thực hiện quy trình khoa học (thủ tục hành chính) của việc ra
và tổ chức thực hiện quyết định, gồm có: sự phân tích tình hình, dự báo, lập
phương án và chọn phương án tốt nhất; soạn thảo và thông qua quyết định;
ra văn bản pháp quy; tổ chức lực lượng để thực hiện quyết định; điều tra
phản hồi, nếu có phản ứng phải điều chỉnh kịp thời; kiểm tra định kỳ và đột
xuất; tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm đúc kết thành lí luận, tiếp tục ra quyết
định mới.
2. Hình thức quản lí hành chính nhà nước
Thông thường quản lí hành chính nhà nước có ba hình thức sau:
a. Ra văn bản pháp quy quy phạm pháp luật hành chính
Các chủ thể quản lí hành chính nhà nước có thể ra quyết định bằng
chữ viết, bằng lời nói, bằng dấu hiệu, ký hiệu, trong đó bằng chữ viết là chủ
yếu, là đảm bảo tính pháp lí cao nhất.
Văn bản pháp quy quy phạm pháp luật hành chính là Quyết định hành
chính được ghi thành chữ viết, để cho các khách thể quản lí căn cứ vào đó
mà thực hiện và là chứng cứ để các chủ thể quản lí kiểm tra các khách thể
thực hiện có đầy đủ và đúng hay không và tuỳ theo đó mà truy cứu trách
nhiệm, xử lí theo pháp luật.
b. Hội nghị
Hội nghị là hình thức để tập thể lãnh đạo ra quyết định.
Hội nghị còn sử dụng để bàn bạc một công việc có liên quan đến nhiều
cơ quan hoặc nhiều bộ phận trong một cơ quan, cần có sự kết hợp, phối hợp,
giúp đỡ lẫn nhau. Hội nghị còn dùng để truyền đạt thông tin, học tập, biểu thị
thái độ, tuyên truyền, giải thích…
Hội nghị bàn công việc sẽ có nghị quyết hội nghị. Các nghị quyết hội
nghị được thể hiện bằng văn bản pháp quy mới có đầy đủ tính pháp lí.
Hội nghị là hình thức cần thiết và quan trọng. Cần phải tổ chức và chủ
trì hội nghị theo phương pháp khoa học để ít tốn thời gian mà hiệu quả cao.
c. Hoạt động thông tin điều hành bằng các phương tiện kỹ thuật hiện
đại
Theo hình thức này, máy móc có thể thay thế lao động chân tay và cả
lao động trí óc cho công chức hành chính.
Hình thức này hiện nay đang phát triển mạnh mẽ. Chẳng hạn: sử dụng
điện thoại, ghi âm, ghi hình, vô tuyến truyền hình, fax, phôtôcopy, máy vi tính,
máy điện toán, Internet… Nói chung là tin học hiện đại được sử dụng vào
công tác nghiệp vụ điều hành quản lí hành chính nhà nước.
Trong ba hình thức trên, hình thức ra văn bản pháp quy quy phạm pháp
luật hành chính là hình thức chủ yếu.
3. Phương pháp quản lí hành chính
a. Các phương pháp của khoa học khác được cơ quan hành chính nhà
nước sử dụng trong công tác quản lí của mình, gồm có một số phương pháp
chủ yếu:
– Phương pháp kế hoạch hóa
Phương pháp này được dùng để quy hoạch, dự báo xu thế phát triển,
xây dựng chiến lược, xây dựng chương trình mục tiêu, lập chỉ tiêu kế hoạch,
tính toán cân đối tổng thể liên ngành, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch…
– Phương pháp thống kê
Phương pháp này dùng để điều tra, phân tích, thu thập thông tin, xử lí
thông tin, đánh giá tốc độ phát triển qua các phương pháp: chỉ số, số bình
quân, hệ số tương quan…
– Phương pháp toán học hóa
Phương pháp này được dùng để lập chương trình kế toán hoá qua hệ
thống máy điện toán, lập ma trận, sơ đồ mạng, vận trù học… trong quản lí
điều hành của Nhà nước.
– Phương pháp tâm lí – xã hội học
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu những vấn đề xã hội
và tâm lí nhằm suy tôn những người có công lao trong quản lí nhà nước như:
khen thưởng thi đua, tặng thưởng huân, huy chương, các danh hiệu: bà mẹ
Việt Nam anh hùng, nhà giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân…
– Phương pháp sinh lí học
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu các điều kiện lao động
của con người trong cơ quan làm sao cho phù hợp với sinh lí của họ, tạo ra
sự thoải mái, dễ chịu, từ đó góp phần tăng hiệu năng công tác. Ví dụ: bố trí
cơ quan trong một ngôi nhà cho hợp lí, sắp đặt chỗ làm việc theo phương
pháp khoa học.
b. Phương pháp của quản lí hành chính
– Phương pháp giáo dục ý thức, tư tưởng, đạo đức
Đây là sư tác động về tinh thần và tư tưởng đối với con người để họ
giác ngộ lí tưởng, hình thành ý thức chính trị, pháp luật đạo đức.
Ý thức đúng thì hành động tốt. Trên cơ sở của ý thức, tư tưởng và đạo
đức, người lao động sẽ có tinh thần trách nhiệm, có kỷ luật, có lương tâm,
hăng hái lao động.
– Phương pháp tổ chức
Đây là biện pháp đưa con người vào khuôn khổ, kỷ luật, kỷ cương. Để
thực hiện tốt biện pháp này thì có nhiều việc phải làm, nhưng quan trọng nhất
là phải có quy chế, quy trình, nội quy hoạt động cho cơ quan, bộ phận, cá
nhân và phải cương quyết thực hiện. Phải kiểm tra và xử lí kết quả đã kiểm
tra một cách dân chủ, công bằng, thưởng, phạt phân minh.
Làm tốt biện pháp này thì trách nhiệm và kỷ luật sẽ được giữ vững và
tăng lên, hiệu quả công việc sẽ cao, đoàn kết nội bộ được đảm bảo. Ngược
lại thì tư tưởng sẽ không lành mạnh, đoàn kết nội bộ không yên, kỷ luật kỷ
cương lỏng lẻo, hiệu quả công việc thấp.
– Phương pháp kinh tế
Đây là biện pháp mà chủ thể quản lí hành chính nhà nước tác động
gián tiếp đến khách thể quản lí (con người) dựa trên các lợi ích và chất và các
đòn bẩy kinh tế (lương, thưởng, phụ cấp chính sách xã hội…) để làm cho các
khách thể quản lí suy nghĩ đến lợi ích của mình, tự giác thực hiện bổn phận
và trách nhiệm của mình một cách tốt nhất mà không phải đôn đốc, nhắc nhở
nhiều về mặt hành chính mệnh lệnh của chủ thể quản lí.
Tuy nhiên, phải biết kết hợp một cách hài hoà và đúng đắn giữa lợi ích
của người công dân, lợi ích của tập thể, lợi ích Nhà nước. Trong ba lợi ích đó,
lợi ích của người dân là động lực trực tiếp lợi ích của Nhà nước là tối cao.
Phương pháp này được thể hiện cả hai mặt: làm giỏi, hiệu quả lớn thì
tăng lương, tăng thưởng, tăng phụ cấp. Làm sai, hiệu quả không có thì hạ
lương hoặc cắt lương, bồi thường vật chất hoặc xử lí phạt tiền.
– Phương pháp hành chính
Đây là biện pháp tác động trực tiếp của chủ thể quản lí lên các khách
thể bằng các mệnh lệnh hành chính dứt khoát, bắt buộc. Mệnh lệnh này có
tính đơn phương thuộc chủ thể quản lí và tính chấp hành vô điều kiện của
khách thể quản lí. Nhưng dân chủ và kỷ luật phải đi đôi, cho nên quyết định
của chủ thể đưa ra sau khi đã thực hiện dân chủ hoá.
Trong bốn phương pháp của nhóm thứ hai này, theo quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay thì phương pháp giáo dục tư tưởng, đạo đức
được nổi lên hàng đầu, phải làm thường xuyên, liên tục và nghiêm túc. Biện
pháp tổ chức là hết sức quan trọng. Phương pháp kinh tế là phương pháp cơ
bản, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động quản lí nhà nước. Phương pháp
hành chính là rất cần thiết. Nhưng phải được sử dụng một cách đúng đắn.
Tất cả các phương pháp quản lí hành chính nhà nước có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Các công cụ, phương pháp nói trên trong điều kiện chuyển
đổi sang cơ chế thị trường thì cần nhấn mạnh tầm quan trọng đối với các
công cụ và các phương pháp kinh tế, nó phải thích ứng với cơ chế thị trường.
Điều đó đòi hỏi phải làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa Nhà nước - Thị
trường – Doanh nghiệp và Công dân.
VI. NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm và mối tương quan giữa hiệu lực và hiệu quả quản lí hành chính nhà nước
Hiệu lực, hiệu quả quản lí hành chính nhà nước có liên quan đến quyền
lực, năng lực, kết quả và chi phí.
Mối liên quan này được thể hiện qua sơ đồ:
Hiệu lực (Effectiveness) và hiệu quả (Efficiency) hành chính nhà nước
là chuẩn mực biểu thị quyền lực nhà nước và năng lực tổ chức thực tiễn của
bộ máy quản lí hành chính nhà nước.
Hiệu lực của nền hành chính là hoàn thành đúng chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền quy định, đạt kết quả dự kiến. Hiệu lực là thực hiện đúng việc.
* Hiệu lực phụ thuộc trực tiếp vào năng lực, chất lượng nền hành chính
(thiết kế, tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức);
* Hiệu lực phụ thuộc vào sự ủng hộ của nhân dân
* Hiệu lực còn phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức, vận hành của cả hệ
thống chính trị, đặc biệt phương thức lãnh đạo, sự phân công rành mạch giữa
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Hiệu quả của nền hành chính là mối tương quan giữa kết quả thu được
sao cho tối đa so với chi phí thực hiện kết quả đó sao cho tối thiểu. Hiệu quả
là thực hiện công việc một cách đúng đắn.
Như vậy, có thể đạt hiệu lực, nhưng chưa chắc đã đạt được hiệu quả,
vì phải trả giá quá đắt. Do đó cần chú ý:
* Đạt hiệu quả tối đa với mức độ chi phí các nguồn lực nhất định;
* Đạt hiệu quả nhất định với mức độ chi phí các nguồn lực tối thiểu;
* Đạt hiệu quả không chỉ với chi phí nguồn lực – hiệu quả kinh tế, mà
còn hiệu quả xã hội.
So sanh
CHI PHI (dau vao)
HIEU QUA
KET QUA (dau ra)
HIEU LUC
NANG LUC
QUYEN LUC
Trong những trường hợp nhất định, cần xem xét hiệu quả về mặt định
tính và định lượng. Xét về định lượng, hiệu quả chỉ có thể đạt được nếu giữ
vững các mối tương quan sau đây giữa kết quả (đầu ra) và chi phí (đầu vào):
* Kết quả tăng lên, chi phí cũng tăng nhưng chậm hơn.
* Kết quả tăng, chi phí vẫn giữ nguyên.
* Kết quả tăng, chi phí giảm.
* Kết quả giữ nguyên, chi phí giảm.
* Kết quả giảm, chi phí giảm nhanh hơn.
2. Những định hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lí hành chính nhà nước
Một là, quán triệt các quan điểm, nguyên tắc trong việc tiếp tục cải cách
bộ máy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, xây dựng chiến lược cải cách hành chính.
Hai là, thấu suốt những tư tưởng chỉ đạo tiến trình cải cách hành chính
nhà nước. Tiến trình cải cách hành chính nhà nước được xem:
– Là một bộ phận trọng yếu của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền Việt Nam gắn với đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
– Là một nền hành chính nhà nước dân chủ phục vụ đắc lực nhân dân,
giữ vững trật tự kỷ cương xã hội theo pháp luật.
– Là phục vụ đắc lực và thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc tiếp tục sự
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo cơ chế thị trường có sự quản lí của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
– Là xuất phát từ yêu cầu cuộc sống, sát với hoàn cảnh thực tế của đất
nước đồng thời phải thích ứng với xu thế của thời đại, nhằm thu được kết quả
thiết thực, tác động tích cực đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ba là, tiếp tục chấn chỉnh bộ máy hành chính nhà nước, phân định lại
thẩm quyền, phân cấp, phân công thẩm quyền, ủy quyền cụ thể rõ ràng, xây
dựng quy chế hoạt động của hệ thống quản lí hành chính nhà nước, đặc biệt
đối với các cấp chính quyền địa phương. Phân biệt và có cơ chế thích đáng
quản lí bộ máy hành chính nhà nước ở thành phố, thị xã, thị trấn, quận,
phường, đẩy mạnh công cuộc cải cách thủ tục hành chính.
Bốn là, đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ – công chức quản lí hành
chính cả về lí luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng
lực, kỹ năng điều hành thực tiễn, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt, coi
trọng đức và tài, trong đó đức là gốc.
Năm là, thực hiện Pháp lệnh cán bộ – công chức và hoàn thiện chế độ
công vụ.
Sáu là, nâng cao hiệu lực hoạt động của Toà án hành chính.
Dựa trên cơ sở các định hướng và giải pháp đã trình bày ở trên,
chuyển đổi nền hành chính nước ta sang nền hành chính phát triển, từng
bước hiện đại hoá.
C. QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1. Khái niệm
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự tác động có tổ chức và
điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục và đào
tạo, do các cơ quan quản lí giáo dục của nhà nước từ trung ương đến cơ sở
tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do nhà nước ủy quyền nhằm
phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, duy trì trật tự, kỉ cương, thoả mãn
nhu cầu giáo dục và đào tạo của nhân dân, thực hiện mục tiêu giáo dục và
đào tạo của nhà nước.
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo chính là việc nhà nước thực
hiện quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục
và đào tạo trong phạm vi toàn xã hội để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà
nước.
Trong khái niệm quản lí nhà nước về giáo dục có 3 yếu tố cơ bản là:
chủ thể, đối tượng và mục tiêu quản lí nhà nước về giáo dục.
Chủ thể quản lí nhà nước về giáo dục là các cơ quan quyền lực nhà
nước (cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp), chủ thể trực
tiếp là bộ máy quản lí giáo dục từ trung ương đến cơ sở (các cơ quan quản lí
nhà nước về giáo dục được quy định cụ thể trong điều 87 của Luật Giáo dục).
Đối tượng của quản lí nhà nước về giáo dục là hệ thống giáo dục quốc
dân, là mọi hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước.
Mục tiêu quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo, về tổng thể đó là bảo
đảm trật tự, kỷ cương trong các hoạt động giáo dục và đào tạo, để thực hiện
được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát
triển nhân cách của công dân. Mỗi cấp học, ngành học có những mục tiêu cụ
thể được quy định trong Luật Giáo dục và các điều lệ nhà trường.
Tóm lại, quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự quản lí của các
cơ quan quyền lực nhà nước, của bộ máy quản lí giáo dục từ trung ương đến
cơ sở đối với hệ thống giáo dục quốc dân và các hoạt động giáo dục của xã
hội nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước và hoàn thiện nhân cách cho công dân.
2. Tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
2.1. Tính chất của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là quản lí nhà nước về một
lĩnh vực cụ thể, cho nên nó có những tính chất chung của quản lí nhà nước
và quản lí hành chính nhà nước, cụ thể như sau:
– Tính lệ thuộc vào chính trị: quản lí nhà nước về giáo dục phục tùng và
phục vụ nhiệm vụ chính trị; tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng và Nhà
nước.
– Tính xã hội: giáo dục là sự nghiệp của nhà nước và của toàn xã hội.
Trong quản lí nhà nước về giáo dục cần phải coi trọng tính xã hội và dân chủ
hoá giáo dục. Giáo dục và đào tạo luôn phát triển trong mối quan hệ với sự
phát triển của kinh tế xã hội.
– Tính pháp quyền: quản lí nhà nước là quản lí bằng pháp luật Quản lí
nhà nước về giáo dục và đào tạo cũng phải tuân thủ hành lang pháp lí mà
nhà nước đã quy định cho một hoạt động quản lí các hoạt động giáo dục và
đào tạo, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
– Tính chuyên môn nghiệp vụ: cán bộ – công chức hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo cần được đào tạo có trình độ tương ứng với yêu cầu
về tiêu chuẩn các ngạch, chức danh đã được quy định. Việc tuyển dụng cán
bộ – công chức tuân theo các tiêu chuẩn nghiệp vụ, chức danh mà nhà nước
đã ban hành.
– Tính hiệu lực, hiệu quả, lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn
nghiệp vụ để đánh giá cán bộ – công chức ngành giáo dục và đào tạo; chất
lượng, hiệu quả và sự bảo đảm trật tự kỷ cương trong giáo dục và đào tạo là
thước đo trình độ, năng lực, uy tín của các cơ sở giáo dục và đào tạo và của
các cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo.
2.2. Đặc điểm của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Trong một số tính chất nêu trên, có những tính chất có nét đặc biệt mà
ta có thể nhấn mạnh hơn và chúng trở thành các đặc điểm cần lưu ý.
Quản lí nhà nước là việc thực thi ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư
pháp để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội và hành vi của công dân.
Quản lí hành chính nhà nước là thực thi quyền hành pháp để tổ chức,
điều chỉnh mọi quan hệ xã hội, hành vi công dân.
Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, một hoạt động mang tính xã hội
cao, quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cấp cơ sở thực chất là thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền do nhà nước phân cấp và thực tế là
thực thi quản lí hành chính nhà nước đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo.
Vì vậy ở cấp cơ sở khái niệm quản lí nhà nước và quản lí hành chính nhà
nước đối với giáo dục và đào tạo giao thoa với nhau. Bởi vì đây chính là cấp
tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hành chính giáo dục.
Trên cơ sở nhận thức đó cần nhấn mạnh 3 đặc điểm sau:
2.2.1. Đặc điểm kết hợp quản lí hành chính và quản lí chuyên môn
trong các hoạt động quản lí giáo dục
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cơ sở thực chất là triển khai
các hoạt động hành chính nhà nước trong quá trình chỉ đạo các hoạt động
giáo dục ở cơ sở. Nó vừa theo nguyên tắc quản lí hành chính nhà nước vừa
theo nguyên tắc hành chính giáo dục đối với một cơ sở giáo dục. Đặc điểm
hành chính – giáo dục là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động quản lí
nhà nước về giáo dục và chỉ đạo với nhà trường.
Hành chính giáo dục thực chất là triển khai chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn do nhà nước ủy quyền, thay mặt nhà nước triển khai sự nghiệp giáo dục
và vào tạo và điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục và đào tạo trên
địa bàn nhằm bảo đảm các quy định, quy chế về giáo dục và thực hiện được
mục tiêu giáo dục mà nhà nước quy định. Với vai trò trên, các hoạt động quản
lí như bảo đảm môi trường giáo dục, đảm bảo điều kiện giáo dục, bảo đảm
trật tự, kỉ cương nhà trường; thanh tra, kiểm tra để bảo đảm quá trình giáo
dục và đào tạo thực hiện đúng quy định của nhà nước về mục tiêu, nội dung,
quy chế… là hoạt động mang nhiều tỉnh quản lí hành chính, mặt khác các
hoạt động quản lí quá trình sư phạm… lại mang nhiều tính quản lí chuyên
môn. Rõ ràng quản lí cơ sở giáo dục (nhà trường) thực chất là quản lí các
hoạt động hành chính – sư phạm thâm nhập vào nhau, chúng là hai mặt của
một quá trình quản lí: quản lí nhà trường. Tuy nhiên, khi ta thực hiện tốt
những quy chế chuyên môn chính là ta đang bảo đảm trật tự, kỷ cương trong
các hoạt động sư phạm. Mặt khác khi ta chú ý thích đáng tới việc bảo đảm
môi trường kinh tế – xã hội, môi trường giáo dục tốt thì chúng cũng góp phần
không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục. Cần lưu ý rằng
quan tâm thích đáng đến đặc điểm này sẽ giúp cho các cán bộ quản lí giáo
dục giải quyết tốt mối quan hệ giữa quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh
thổ trong hoạt động quản lí giáo dục của mình. Chính vì vậy, một mặt cần
phải nắm chắc những quy định, quy chế để chỉ đạo việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ ở cơ sở (quản lí hành chính), mặt khác cần phải hiểu rõ nghiệp vụ
sư phạm, đặc điểm của quá trình giáo dục để chỉ đạo chuyên môn. Chỉ trên
cơ sở biết kết hợp quản lí hành chính và quản lí chuyên môn thì mới có thể
chỉ đạo tốt hoạt động giáo dục và đào tạo, tiến tới thực hiện mục tiêu giáo dục
và đào tạo của Nhà nước.
2.2.2. Đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lí
Đặc điểm thứ hai của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo cũng là
đặc điểm nổi bật của quản lí nhà nước và quản lí hành chính nhà nước nói
chung ở mọi lĩnh vực, đó là tính quyền lực nhà nước trong các hoạt động
quản lí. Đặc điểm này biểu hiện ở ba vấn đề cơ bản là: tư cách pháp nhân
trong quản lí, công cụ và phương pháp quản lí và quan hệ thứ bậc trong quản
lí.
– Điều kiện để triển khai quản lí nhà nước là phải có tư cách pháp nhân
và yêu cầu về tính hợp pháp trong quản lí là yêu cầu trước hết. Muốn có tư
cách pháp nhân để quản lí phải được bổ nhiệm và khi đã được bổ nhiệm cần
phải thực hiện đúng, đủ chức năng, thẩm quyền. Không lạm quyền cũng
không đùn đẩy trách nhiệm; thực hiện đúng chế độ thủ trưởng trong việc ra
quyết định và trong việc chịu trách nhiệm về các quyết định quản lí trước tập
thể và cấp trên. Trong quản lí nhà nước sẽ không có tư cách pháp nhân để
“ra quyền” khi chưa được bổ nhiệm. Tuy nhiên, mỗi tư cách pháp nhân đều
có trách nhiệm và quyền hạn tương ứng, việc hiểu cho đúng, làm cho đủ
thẩm quyền là thước đo khả năng sử dụng quyền lực Nhà nước của một tư
cách pháp nhân. Trong thực tế có những vấn đề phát sinh do không nhận
thức đúng tính quyền lực Nhà nước trong các hoạt động quản lí. Thoái quyền
và lạm quyền là hai thái cực của sự vi phạm thẩm quyền, mặt khác khái niệm
thẩm quyền cũng gắn với sự phân cấp và tuân thủ thứ bậc chặt chẽ trong
quản lí nhà nước.
– Phương tiện quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là các văn bản
pháp luật và pháp quy. Phương pháp chủ yếu để quản lí nhà nước là phương
pháp hành chính tổ chức. Cần nhận thức rằng pháp luật, pháp quy là sự cụ
thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ảnh lợi ích của
toàn dân, vì vậy đây chính là hành lang pháp lí cho việc triển khai các hoạt
động quản lí giáo dục, bảo đảm tính quyền lực nhà nước trong quản lí. Việc
không tuân thủ hành lang pháp lí trong các hoạt động quản lí giáo dục tức là
vi phạm trật tự kỷ cương và sẽ bị xử lí theo quy định của pháp luật.
– Trong quản lí nhà nước phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ hoạt động
quản lí theo sự phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh – phục tùng là biểu hiện rõ
nhất của tính quyền lực trong quản lí nhà nước. Tính quyền lực nhà nước ở
đây cũng chính là việc cán bộ quản lí giáo dục cấp phòng cần nhận thức đầy
đủ rằng cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung
ương trong quá trình quản lí giáo dục.
2.2.3. Kết hợp nhà nước – xã hội trong quá trình triển khai quản lí nhà
nước về giáo dục và đào tạo
Chúng ta đều biết giáo dục và đào tạo là một hoạt động mang tính xã
hội cao và Đảng ta cũng đã nhấn mạnh tư tưởng giáo dục và đào tạo là sự
nghiệp của nhà nước và của toàn xã hội.
Rõ ràng, dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng
có tính chiến lược và nó có vai trò rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói
chung và quản lí giáo dục nói riêng. Nhiều bài toán quản lí giáo dục sẽ rất khó
giải quyết nếu không có sự tham gia của đông đảo lực lượng xã hội. Đây
cũng là một đặc điểm quan trọng cần nhận thức trong quản lí giáo dục.
Tóm lại: Quản lí nhà nước về giáo dục là việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền do nhà nước quy định, phân cấp trong các hoạt động
quản lí giáo dục. Ở một cơ sở giáo dục (nhà trường), quản lí nhà nước về
giáo dục thực chất là quản lí các hoạt động hành chính – giáo dục, vì vậy nó
có hai mặt quản lí thâm nhập vào nhau, đó là quản lí hành chính sự nghiệp
giáo dục và quản lí chuyên môn trong quá trình sư phạm.
2.3. Nguyên tắc quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục cần quán triệt hai nguyên tắc
cơ bản sau:
2.3.1. Nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ
Mọi cơ sở giáo dục thực hiện chức năng, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo
theo sự chỉ đạo ngành dọc, nhưng các cơ sở giáo dục đều đóng trên một địa
bàn cụ thể nào đó, vì vậy cũng phải tuân thủ sự quản lí hành chính của địa
phương theo quy định phân cấp của nhà nước.
Mọi hoạt động quản lí không thể tách rời sự chỉ đạo theo ngành dọc và
theo lãnh thổ và chúng được coi là một nguyên tắc quan trọng trong quản lí
nhà nước nói chung và quản lí nhà nước về giáo dục nói riêng.
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này dưới góc độ vĩ mô có thể diễn
đạt như sau: sự nghiệp giáo dục, hệ thống giáo dục quốc dân là một hệ thống
nhất. Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục và đào
tạo thống nhất trong phạm vi cả nước. Chính quyền địa phương quản lí nhà
nước về giáo dục và đào tạo theo phân lãnh thổ của mình thông qua cơ quan
chuyên môn, theo nhiệm vụ, quyền hạn do nhà nước quy định phù hợp với cơ
chế phân cấp.
Để thực hiện được điều đó nhà nước đã quy định cụ thể nhiệm vụ
quyền hạn của ngành và địa phương như sau:
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Giáo dục và Đào tạo được nhà nước
quy định, như:
– Xét duyệt và cho phát hành các loại sách giáo khoa.
– Quy đình tiêu chuẩn đánh giá, thể lệ cấp phát và thu hồi văn bằng,
chứng chỉ giáo dục và đào tạo.
– Xây dựng tiêu chuẩn định mức giáo viên, tổ chức, quản lí thống nhất
việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên các cấp.
– Thực hiện chức năng thanh tra giáo dục trong cả nước
+ Nhiệm vụ, quyền hạn Hội đồng nhân dân địa phương:
– Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục của địa phương.
– Giám sát việc thi hành pháp luật và chủ trương chính sách về giáo
dục ở địa phương.
– Quyết định chủ trương huy động và sử dụng nguồn lực ở địa phương
nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở địa phương.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Nhân dân địa phương.
– Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển giáo dục, bảo đảm
các điều kiện cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục trên địa bàn.
– Quản lí các trường, các cơ sở giáo dục theo sự phân cấp.
– Chỉ đạo thực hiện xã hội hoá giáo dục, tổ chức thực hiện phổ cập,
xoá mù chữ.
Nói chung, chính quyền địa phương có trách nhiệm bảo đảm môi
trường kinh tế – xã hội lành mạnh cho các hoạt động giáo dục diễn ra đúng
mục tiêu của nhà nước.
Trong hoạt động quản lí ở một cơ sở giáo dục và đào tạo địa phương
phải tuân thủ những quy định, quy chế chuyên môn của ngành dọc (thực hiện
quy chế thi cử, văn bằng chứng chỉ, chỉ thị năm học…). Sự kết hợp có hiệu
quả sự chỉ đạo của ngành và lãnh thổ trong việc triển khai các hoạt động
quản lí giáo dục làm một nguyên tắc quan trọng trong quản lí nhà nước về
giáo dục.
2.3.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí giáo dục và đào tạo
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
chính trị xã hội ở nước ta, đồng thời cũng là một nguyên tắc quan trọng trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quản lí nhà nước về giáo dục
cũng tuân thủ nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu nhà
nước thống nhất quản lí hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương
trình, nội dung… quy chế thi cử và hệ thống văn bằng (Điều 13, Luật Giáo
dục). Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về quản lí giáo dục cho địa phương và
tạo điều kiện để cơ sở phát huy chủ động và sáng tạo.
Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng đòi hỏi trong quá trình triển khai
quản lí, chỉ đạo cần tuân thủ những quy định chung của cấp trên về chủ
trương, đường lối, phát triển giáo dục; đòi hỏi cơ sở phải tuân thủ hành lang
pháp lí đã quy định nhưng tuyệt đối không được áp đặt, cần tạo điều kiện cho
cơ sở phát huy quyền chủ động sáng tạo của họ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ có thể vận dụng được trong hoạt động
quản lí nhà nước về giáo dục ở cơ sở cần suy nghĩ trả lời cho câu hỏi: làm
thế nào giải quyết tốt mối quan hệ giữa chế độ thủ trưởng và thực hiện dân
chủ cơ sở ở một trường học?
Rõ ràng nguyên tắc tập trung dân chủ đối với quản lí nhà nước về giáo
dục có nghĩa là Nhà nước thống nhất, tập trung quản lí về chế độ, chính sách
giáo dục, về mục tiêu, nội dung giáo dục và quy chế văn bằng… Tuy nhiên,
tạo điều kiện cho cơ sở chủ động sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động
giáo dục và quản lí giáo dục cụ thể, tránh việc ôm đồm hoặc buông lỏng trên
cơ sở phân cấp, phân quyền về quản lí giáo dục rõ ràng bằng một hành lang
pháp lí hợp lí, đồng bộ. Đối với cơ sở, phát huy quyền làm chủ của tập thể sư
phạm, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân theo chế độ thủ trưởng đối với
việc quản lí nhà nước. Dân chủ hoá giáo dục, dân chủ hoá nhà trường là các
tư tưởng lớn, tuy nhiên việc dựa vào các văn bản pháp luật, pháp quy để đảm
bảo quyền và nghĩa vụ đối với mọi đối tượng tham gia hoạt động giáo dục là
điều cần nắm chắc khi triển khai nguyên tắc tập trung dân chủ ở cơ sở.
Tóm lái, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là
phát huy quyền chủ động của cơ sở dựa trên hành lang pháp lí được quy
định bởi Luật Giáo dục và những văn bản pháp quy trong hoạt động quản lí
giáo dục đồng thời nâng cao tinh thần cá nhân phụ trách, tập thể lãnh đạo và
phát huy dân chủ của tập thể theo quy chế dân chủ cơ sở do Chính phủ và
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
3. Nội dung quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Quản lí nhà nước đối với các cấp quản lí đào tạo bao gồm bốn nội
dung chủ yếu sau đây:
Một là: Hoạch định chính sách cho giáo dục và đào tạo. Lập pháp và
lập quy cho các hoạt động giáo dục và đào tạo. Thực hiện quyền hành pháp
trong quản lí giáo dục.
Hai là: Tổ chức bộ máy quản lí giáo dục.
Ba là: Huy động và quản lí các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo
dục.
Bốn là: Thanh tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật tự kỷ cương pháp luật
trong hoạt động quản lí giáo dục và phát triển sự nghiệp giáo dục.
Tuy nhiên quản lí nhà nước ở các cấp độ khác nhau được cụ thể hoá
nội dung không hoàn toàn giống nhau.
– Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan thay mặt Chính phủ thực
hiện quyền quản lí nhà nước về giáo dục, theo khuyến cáo của Hội đồng Giáo
dục Quốc gia tập trung làm tốt những nội dung sau:
+ Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển ngành.
+ Xây dựng cơ chế chính sách và quy chế quản lí nội dung và chất
lượng giáo dục và đào tạo.
+ Tổ chức thanh tra, kiểm tra và thẩm định.
– Đối với cấp địa phương (tỉnh, huyện, cơ quan chuyên môn là sở,
phòng giáo dục và đào tạo) cần tập trung làm tốt những nội dung chủ yếu
sau:
+ Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục ở địa phương và
chỉ đạo thực hiện.
+ Quản lí chuyên môn nghiệp vụ các trường theo sự phân cấp và quản
lí nhà nước về các hoạt động giáo dục ở địa phương.
+ Thực hiện kiểm tra, thanh tra giáo dục ở địa phương.
Đối với cơ sở giáo dục và đào tạo (trường) tập trung làm tốt những nội
dung chủ yếu sau:
+ Tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách giáo dục thông qua việc
thực hiện mục tiêu, nội dung giáo dục và bảo đảm các quy chế chuyên môn…
+ Quản lí đội ngũ sư phạm, cơ sở vật chất, tái chính… theo các quy
định chung, thực hiện kiểm tra nội bộ bảo đảm trật tự an ninh trong nhà
trường.
+ Điều hành các hoạt động của nhà trường theo Điều lệ nhà trường đã
được ban hành và giám sát sự tuân thủ điều lệ đó.
II. BỘ MÁY QUẢN LÍ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO1. Khái niệm về cơ cấu tổ chức quản lí
Cơ cấu tổ chức quản lí là tập hợp các bộ phận (đơn vị hay cá nhân) có
mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá, có chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn nhất định, được bố trí theo những cấp khác nhau nhằm thực
hiện chức năng quản lí và mục tiêu chung đã được xác định.
2. Các kiểu cơ cấu tổ chức quản lí
– Cơ cấu trực tuyến:
Cơ cấu trực tuyến chỉ rõ mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới được
quy định theo nguyên tắc trực tuyến (đường thẳng). Người thủ trưởng thực
hiện tất cả các chức năng quản lí và chịu trách nhiệm trực tiếp trước mọi hoạt
động của cấp dưới. Người thừa hành (bộ phận hay cá nhân) chỉ nhận nhiệm
vụ và chịu trách nhiệm với một cấp trên trực tiếp.
– Cơ cấu chức năng:
Đặc trưng cơ bản của kiểu cơ cấu này là thủ trưởng ủy quyền trực tiếp
cho các khối chức năng được ra quyết định và trực tiếp giải quyết các công
việc có liên quan đến những chức năng do mình đảm nhiệm. Như vậy các
cấp cơ sở và những người thừa hành đồng thời chịu sự chỉ đạo và quyết định
của người lãnh đạo trực tiếp và người lãnh đạo các khối chức năng.
– Cơ cấu trực tuyến – tham mưu:
Cơ cấu này dựa trên cơ sở lấy cơ cấu trực tuyến làm nền tảng, thủ
trưởng và những người lãnh đạo trực tuyến được sự giúp đỡ của một bộ
phận tham mưu tư vấn trong việc đề ra quyết định. Thủ trưởng và người lãnh
đạo trực tuyến vẫn toàn quyền quyết định trong phạm vi tổ chức của mình.
Các bộ phận tham mưu không được quyền ra lệnh trực tiếp cho người thừa
hành mà chỉ hoàn toàn với tư cách tư vấn (giúp việc) nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả các quyết định của người lãnh đạo.
– Cơ cấu trực tuyến – chức năng:
Khác với cơ cấu chức năng; ở kiểu cơ cấu này nhiệm vụ, vai trò của
các bộ phận chức năng chỉ là tham mưu, tư vấn, đề xuất cho thủ trưởng và
hướng dẫn phần chuyên môn của mình cho lãnh đạo tuyến. Mọi quyền quyết
định vẫn thuộc về thủ trưởng.
– Cơ cấu chương trình – mục tiêu:
Để điều phối việc thực hiện những chương trình – mục tiêu, đề án hay
dự án nhằm vào những mục tiêu nhất định, trong thời gian nhất định người
thủ trưởng có thể hình thành các bộ phận đặc biệt: bộ phận tham mưu (Hội
đồng, Ủy ban…), cử lãnh đạo đề án M1, M2. Khi chương trình hoàn thành,
các bộ phận điều hành, quản lí đề án, dự án… tự giải thể.
3. Nguyên tắc xây dựng cơ cấu tổ chức quản lí
- Nguyên tắc tính đẳng cấu hay nguyên tắc tính phù hợp giữa cơ cấu tổ
chức của cơ quan quản lí với tính phức tạp của chức năng, nhiệm vụ quản lí,
tính đa dạng của các mục tiêu quản lí, quy mô và độ phức tạp của đối tượng
quản lí với các điều kiện quản lí.
– Nguyên tắc bảo đảm khả năng quản lí được hay nguyên tắc đảm bảo
khối lượng có thể kiểm tra được.
– Một cán bộ lãnh đạo hay một cơ quan điều hành chỉ có thể quản lí có
hiệu quả với một số lượng tối ưu các đối tượng quản lí (số người, số khâu
đơn vị, bộ phận dưới quyền). Nếu vượt quá giới hạn thì hiệu quả quản lí sẽ bị
giảm sút.
– Nguyên tắc nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm phải được quy định rõ
ràng và tương xứng với nhau.
– Nhiệm vụ và quyền hạn giao cho từng người, từng bộ phận, từng cấp
phải rõ ràng, hợp lí, không có sự chồng chéo, quyền hạn phải đi đôi tương
xứng với trách nhiệm. Nếu chỉ giao nhiệm vụ mà không giao quyền hạn là
không đảm bảo điều kiện tối thiểu cho việc hoàn thành nhiệm vụ. Ngược lại,
giao quyền hạn mà không xác định rõ trách nhiệm hay không tương xứng với
trách nhiệm sẽ sinh ra lạm quyền.
– Nguyên tắc đảm bảo tính linh hoạt
– Cơ cấu tổ chức quản lí phải linh động và dễ thích nghi, nghĩa là dễ có
khả năng cải tiến và biến đổi tuỳ theo mục đích chung và riêng của quản lí,
tuỳ theo chất lượng của các thành tố trong quan hệ quản lí và những điều
kiện của quản lí để đáp ứng những yêu cầu mới của tình hình thực tế, đồng
thời cũng có khả năng tự hoàn thiện khi đã có nhiều kinh nghiệm tích luỹ.
4. Phương pháp xây dựng tổ chức quản lí
– Phương pháp xây dựng theo mẫu:
Dựa trên các mô hình cơ cấu tổ chức quản lí tương tự có sẵn trong
thực tế, ở đó các nhiệm vụ quản lí được thực hiện một cách trôi chảy, có chất
lượng cao (kể cả trong nước hoặc ngoài nước) từ đó đưa ra một mô hình cơ
cấu tổ chức lí tưởng trên cơ sở phân tích cơ cấu tổ chức hiện tại, các điều
kiện quản lí cụ thể của cơ quan quản lí, rồi so sánh với mô hình lí tưởng xác
định tính đồng nhất của chức năng, nhiệm vụ quản lí, của kết quả cuối cùng
(sản phẩm), tính tương tự của các đặc điểm về con người, xã hội, lãnh thổ…
từ đó điều chỉnh cải tiến cho sát gần với mô hình lí tưởng và mô hình của đơn
vị mình sao cho phù hợp và khả thi.
– Phương pháp thử nghiệm và loại suy
+ Làm thực nghiệm theo mô hình dự kiến ở một số vùng điển hình
(thành phố, đồng bằng, trung du, miền núi…).
+ Từ kết quả thực nghiệm chọn ra một số mô hình hợp lí.
+ Vận dụng các mô hình đó theo đặc điểm của từng vùng.
+ Phương pháp phân tích – tổng hợp
– Căn cứ vào các văn bản pháp quy, từ chức năng, nhiệm vụ chung
của cơ quan quản lí phân tích, liệt kê tất cả các nhiệm vụ của đối tượng quản
lí.
+ Nhóm chúng lại thành các nhóm nhiệm vụ phải quản lí.
+ Từ các nhóm nhiệm vụ mà xác định các bộ phận, thiết kế cơ cấu các
tầng bậc của cơ quan quản lí.
– Phương pháp kết cấu hoá các mục tiêu quản lí
Phương pháp này dựa vào việc thiết lập một hệ thống các mục tiêu
quản lí. Cơ cấu được xây dựng trên quan điểm hệ thống, bao quát tất cả các
hoạt động của cơ quan, đồng thời sử dụng cách mô tả cơ cấu bằng biểu đồ
cho các phương án thành lập và hoạt động của bộ máy quản lí.
III. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG QUẢN Lí NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM VÀ XU HƯỚNG ĐỔI MỚI
1. Quá trình phát triển
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà ra đời, và cùng với nó là sự ra đời của nền giáo dục dân chủ nhân dân.
Đến nay, hệ thống giáo dục quốc dân đã trải qua ba cuộc cải cách.
– Cải cách giáo dục lần thứ nhất: Sau khi nước Việt Nam tuyên bố độc
lập, tháng 10–1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 34/SL thành lập Hội
đồng cố vấn học chính, Hội đồng có trách nhiệm giúp Chính phủ nghiên cứu
một chương trình cải cách giáo dục. Do hoàn cảnh chiến tranh chống thực
dân Pháp nên đến tháng 7–1950 Hội đồng Chính phủ mới thông qua chương
trình cải cách giáo dục và quyết định thực hiện cuộc cải cách này, với hệ
thống giáo dục phổ thông 9 năm.
– Cải cách giáo dục lần thứ hai: tháng 5–1956 Chính phủ thông qua
chương trình cải cách giáo dục lần thứ hai và tháng 8–1956 Chính phủ ban
hành chính sách giáo dục phổ thông của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Hệ thống giáo dục phổ thông thời kỳ này gồm:
+ Cấp 1: 4 năm, gồm các lớp 1, 2, 3, 4 không kể lớp vỡ lòng.
+ Cấp 2: 3 năm, gồm các lớp 5, 6, 7.
+ Cấp 3: 3 năm, gồm các lớp 8, 9, 10.
– Cải cách giáo dục lần thứ ba: Sau khi nước Việt Nam thống nhất Bộ
Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ra nghị định số 14 (01/1979) về
việc tiến hành cải cách giáo dục nhằm thống nhất hệ thống giáo dục phổ
thông trong cả nước. Hệ thống giáo dục phổ thông gồm 12 năm:
+ Cấp I: 5 năm, gồm các lớp từ lớp 1 đến lớp 5.
+ Cấp II: 4 năm, gồm các lớp từ lớp 6 đến lớp 9.
Cấp I và cấp II thống nhất thành trường phổ thông cơ sở.
+ Cấp III: 3 năm, gồm các lớp từ lớp 10 đến lớp 12. Trường cấp III gọi
là trường phổ thông trung học.
Hiện nay, theo Luật Giáo dục (1998), hệ thống giáo dục có cấu trúc
hoàn chỉnh như sau:
– Giáo dục mầm non: Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi với các cơ sở nhà trẻ,
trường mẫu giáo và trường mầm non. Nhà trẻ, nhóm trẻ nhận trẻ từ 3 tháng
tuổi đến 36 tháng tuổi (3 tuổi). Trường, lớp mẫu giáo nhận trẻ từ 3 tuổi đến 6
tuổi. Trường mầm non là cơ sở giáo dục kết hợp nhà trẻ và trường mẫu giáo.
– Giáo dục phổ thông gồm
+ Giáo dục tiểu học: 5 năm, gồm các lớp từ lớp 1 đến lớp 5.
+ Giáo dục trung học cơ sở: 4 năm, gồm các lớp từ lớp 6 đến lớp 9.
+ Giáo dục trung học phổ thông: 3 năm, gồm các lớp từ lớp 10 đến 12.
– Trung học chuyên nghiệp: 3 – 4 năm đối với người có bằng tốt nghiệp
trung học cơ sở; 1 – 2 năm đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông.
– Dạy nghề: dưới 1 năm đối với các chương trình dạy nghề ngắn hạn; 1
– 3 năm đối với các chương trình dạy nghề dài hạn.
– Giáo dục đại học và sau đại học gồm:
+ Giáo dục đại học đào tạo trình độ cao đẳng và trình độ đại học:
Đào tạo trình độ cao đẳng: 3 năm
Đào tạo trình độ đại học 4 đến 6 năm tuỳ theo ngành nghề đào tạo đối
với người có bằng tốt nghiệp trung học; 1 đến 2 năm đối với người có bằng
tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành.
+ Giáo dục sau đại học đào tạo trình độ thạc sĩ và tiến sĩ.
Đào tạo thạc sĩ: 2 năm
Đào tạo tiến sĩ: 4 năm đối với người có bằng tốt nghiệp đại học; 2 – 3
năm đối với người có bằng thạc sĩ.
– Giáo dục không chính quy là phương thức giáo dục giúp mọi người
vừa làm, vừa học, học liên tục, suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng
hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất
lượng cuộc sống, tìm việc làm và thích nghi với đời sống xã hội.
Giáo dục không chính quy thể hiện ở các chương trình sau:
– Chương trình xoá nạn mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ;
– Chương trình đào tạo bổ sung, tu nghiệp định kỳ, bồi dưỡng nâng
cao trình độ, cập nhật kiến thức, kỹ năng;
– Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học;
– Chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc
dân theo hình thức vừa học vừa làm, học từ xa, tự học có hướng dẫn.
2. Hệ thống cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Hệ thống cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo được tổ
chức theo Luật Giáo dục (1998) có thiết chế như sau:
– Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về giáo dục. Chính phủ trình
Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có ảnh hưởng đến
quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước, những chủ
trương về cải cách nội dung chương trình của cả một bậc học, cấp học; hàng
năm báo cáo Quốc hội về hoạt động giáo dục và việc thực hiện ngân sách
giáo dục.
– Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
quản lí nhà nước về giáo dục. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ có trách nhiệm quản lí nhà nước về giáo dục theo quy định của
Chính phủ. Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ từng việc phối hợp với Bộ Giáo dục và
đào tạo để thực hiện việc thống nhất quản lí nhà nước về giáo dục.
– Ủy ban Nhân dân các cấp thực hiện quản lí nhà nước về giáo dục ở
địa phương theo quy định của Chính phủ.
– Cấp tỉnh có Sở Giáo dục và Đào tạo. Giám đốc Sở Giáo dục Đào tạo
chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện quản lí nhà nước về
giáo dục trong phạm vi tỉnh, bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp. Đối với trường cao đẳng, một số Sở Giáo dục và Đào
tạo được Ủy nhiệm quản lí một vài mặt của quá trình đào tạo hoặc quản lí cả
năm mặt: chuyên môn, nhân sự, bộ máy, tài chính, cơ sở vật chất sư phạm.
– Cấp huyện, quận có Phòng Giáo dục và Đào tạo. Trưởng phòng Giáo
dục Đào tạo chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân huyện thực hiện quản lí
nhà nước về giáo dục trong phạm vi huyện, quận. Phòng Giáo dục và Đào tạo
cấp huyện quản lí các trường mầm non, trường tiểu học, trường trung học cơ
sở và trung tâm giáo dục thường xuyên.
Sơ đồ hệ thống các cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục
IV. PHƯƠNG HƯƠNG ĐỔI MỚI QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo hiện còn tồn tại những yếu
kém bất cập như: việc thực hiện các mục tiêu giáo dục và quản lí giáo dục
còn hạn chế, công tác kiểm tra, thanh tra chưa phát huy hết tác dụng; chức
UBND HUYEN
UBND TINH
PHONG GD&ĐT
SO GD&ĐT
CHINH PHU
BO GD&ĐT
năng, nhiệm vụ quản lí nhà nước quy định thiếu rõ ràng, chồng chéo, quản lí
nhà nước vừa ôm đồm vừa buông lỏng…
Để khắc phục những vấn đề yếu kém bất cập nêu trên cần quán triệt
tinh thần thực hiện đổi mới trong giáo dục và đào tạo và cải cách hành chính
để đổi mới các hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục. Đối với cấp Bộ, Sở,
Phòng cần sắp xếp lại tổ chức, đổi mới công tác cán bộ, đổi mới phương thức
chỉ đạo và phong cách làm việc để thực hiện tốt hơn chức năng quản lí nhà
nước của mình. Đối với cấp cơ sở (nhà trường), cần có các văn bản hướng
dẫn và những văn bản pháp quy về giáo dục để tổ chức thực hiện. Đó là
phương tiện quan trọng để tiến hành quản lí nhà nước về giáo dục ở mọi cấp.
Phương hướng đổi mới quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo cần tập
trung vào những hoạt động chủ yếu sau:
– Đổi mới công tác lập pháp, lập quy.
– Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lí giáo dục các cấp và ở cơ sở giáo
dục.
– Xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí theo hướng
chuẩn hoá và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng.
– Đổi mới công tác huy động, quản lí và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
Cải cách nền hành chính là cải cách đồng bộ 3 yếu tố của nền hành
chính, đó là: thể chế, bộ máy và đội ngũ cán bộ công chức. Cải cách hành
chính còn được hiểu là tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lí.
Như vậy, vận dụng tinh thần cải cách hành chính để đổi mới quản lí giáo dục
là vận dụng tư tưởng đổi mới một cách đồng bộ các hoạt động quản lí từ cơ
chế quản lí giáo dục cho đến cách thức tổ chức chỉ đạo các hoạt động quản lí
nhằm làm cho hoạt động giáo dục bảo đảm trật tự kỷ cương góp phần thực
hiện tốt mục tiêu giáo dục của nhà nước một cách có hiệu lực và hiệu quả
nhất.
Đối với một cơ sở giáo dục vận dụng tinh thần cải cách hành chính để
đổi mới quản lí giáo dục là quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của
các đối tượng trong tổ chức, có cơ chế phối hợp rõ ràng… Trong hoạt động
quản lí vừa bảo đảm chế độ thủ trưởng nhưng phát huy cao độ dân chủ cơ
sở, tạo điều kiện cho tập thể sư phạm có thể hoàn thành tốt nghĩa vụ của họ,
đồng thời bảo đảm đúng quyền lợi chính đáng cho họ với mục đích cuối cùng
là tăng cường hiệu lực và hiệu quả của quản lí giáo dục.
D. CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC VÀ PHÁP LỆNH CÁN BỘ - CÔNG CHỨC
I. CÔNG VỤ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA CÔNG VỤ1. Khái niệm về công vụ
Công vụ là một yếu tố quan trọng trong nền hành chính quốc gia. Công
vụ bao gồm các hoạt động thực hiện nhiệm vụ quản lí nhà nước, thi hành luật
pháp, đưa pháp luật vào đời sống, cũng như quản lí, sử dụng có hiệu quả tài
sản và ngân sách nhà nước phục vụ cho các nhiệm vụ chính trị.
Khác với các loại hoạt động thông thường khác, công vụ là hoạt động
dựa trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước. Nó được bảo đảm bằng quyền
lực nhà nước và nhằm sử dụng quyền lực đó vào các nhiệm vụ quản lí của
Nhà nước. Hoạt động công vụ là hoạt động có tổ chức và tuân thủ những quy
chế bắt buộc, theo trật tự có tính chất thứ bậc chặt chẽ, chính quy và liên tục.
Khi nói tới công vụ thì yếu tố trước tiên là con người; nhưng con người
ở đây là người thực thi nhiệm vụ công quyền nên phải được ràng buộc trên
cơ sở những định chế pháp lí, theo một hệ thống tổ chức và hoạt động trong
khuôn khổ các công sở nhà nước. Như vậy, công vụ là một khái niệm tổng
hợp bao gồm các yếu tố cơ bản:
– Đội ngũ cán bộ - công chức;
– Thể chế của nền công vụ gồm pháp luật, chính sách, chế độ quy định
quyền, nghĩa vụ và hoạt động đối với công chức;
– Hệ thống tổ chức quản lí và hoạt động công vụ;
– Công sở, tổ chức bộ máy làm việc.
Tóm lại: Công vụ là một loại lao động mang tính quyền lực và pháp lí
được thực thi bởi đội ngũ công chức thực hiện các chức năng của Nhà nước
trong quá trình quản lí mọi mặt của đời sống xã hội.
2. Nội dung của công vụ
Nội dung công vụ là toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước
thông qua hoạt động của đội ngũ cán bộ – công chức để thực hiện ba nhiệm
vụ cơ bản:
– Quản lí nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội
nhằm đáp ứng những nhu cầu xã hội.
– Thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống, bảo đảm kỷ cương
xã hội, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân theo luật định.
– Quản lí tài sản công và ngân sách Nhà nước, xây dựng một nền tài
chính vững mạnh và hiệu quả cao.
3. Tính đặc thù của công vụ
Hoạt động công vụ có những đặc thù riêng, khác với các hoạt động
thông thường khác, điều đó được thể hiện:
– Hoạt động của công vụ được bảo đảm bằng quyền lực Nhà nước và
sử dụng quyền lực đó để thực hiện các nhiệm vụ quản lí Nhà nước;
– Hoạt động công vụ là hoạt động có tổ chức, tuân thủ những quy chế
bắt buộc, theo trật tự có tính chất thứ bậc chặt chẽ; chính quy và liên tục;
– Người công chức là người đại diện cho Nhà nước, có quyền và nghĩa
vụ được quy định theo pháp luật. Tuy nhiên, thẩm quyền của công chức, suy
cho cùng là nghĩa vụ, không phải là quyền riêng của cá nhân.
– Công dân và các tổ chức kinh tế – xã hội khác được làm tất cả những
gì mà luật pháp cho phép. Nói cách khác là có những việc tuy luật pháp
không cấm, nhưng xét trên lợi ích tổng thể toàn cục và lâu dài, Nhà nước
không cho nền công vụ làm thì không được làm.
4. Các nguyên tắc của công vụ
Nguyên tắc của công vụ là các quan điểm, những tư tưởng, những quy
định chung nhất nhằm thực hiện một cách có hiệu quả việc quản lí Nhà nước.
Công chức khi thi hành công vụ phải tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc
công vụ. Những nguyên tắc đó là:
a. Nguyên tắc phục vụ nhân dân vô điều kiện
Công vụ thể hiện ý chí và đáp ứng lợi ích của nhân dân lao động và
của Nhà nước, thể hiện ở chỗ công vụ là phương tiện thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước, nó là một thể chế định tổ chức – pháp lí trong hệ
thống quyền lực nhà nước và phải phục vụ ý chí của Nhà nước và của nhân
dân. Người công chức khi thực thi công vụ, phải chịu sự kiểm tra của nhân
dân và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không được tuỳ tiện theo ý chí
cá nhân của mình. Cán bộ – công chức phải thực sự là công bộc của nhân
dân, vì nhân dân mà phục vụ.
b. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ cơ quan quản lí nhà nước ở Trung
ương thống nhất quản lí nền công vụ bằng cách xác định và tổ chức thực
hiện danh mục các chức vụ của các cơ quan và công sở nhà nước, định ra
phương thức tuyển chọn, thăng chức, giáng chức, điều động và luân chuyển
công chức, quy định các ngạch, bậc công chức và chế độ đãi ngộ chung.
Song để đảm bảo vừa tập trung, vừa dân chủ, các cơ quan Trung ương
trong quá trình hoạch định chính sách công vụ cần tham khảo ý kiến của các
cơ quan Nhà nước ở địa phương và các tổ chức xã hội để đưa ra những
quyết định phù hợp với thực tế. Mặt khác, để quản lí công thức được sát và
phát huy sáng kiến của các cấp quản lí phải thực hiện việc phân cấp quản lí
công chức cho địa phương và cơ sở. Việc phân cấp phải bảo đảm sự quản lí
thống nhất của Trung ương, tránh sự tuỳ tiện đặt ra những quy định hay thực
hiện những điều trái với quy chế chung.
c. Nguyên tắc kế hoạch hóa
Công vụ được hình thành và phát triển theo kế hoạch Nhà nước. Các
cơ quan nhà nước phải xác định rõ số lượng, các danh mục chức vụ, các
ngạch, bậc và số lượng biên chế cần thiết. Khi xác định những yêu cầu trên,
cần tính đến phương hướng phát triển công vụ trong tương lai trên cơ sở
nhìn nhận sự thay đổi của quản lí kinh tế – xã hội, các yếu tố của hội nhập
quốc tế, sự phát triển của khoa học công nghệ,… để xây dựng một nền công
vụ thích hợp; đồng thời các cơ quan cũng phải có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ - công chức để giảm nhẹ biên chế, làm cho bộ máy gọn nhẹ,
có hiệu lực và hiệu quả.
d. Nguyên tắc pháp chế
Công vụ là tổ chức được xây dựng trên cơ sở pháp luật và bảo đảm
pháp chế, phải thực hiện đúng thẩm quyền cũng như không được từ bỏ thẩm
quyền đã được Nhà nước trao đổi thi hành công vụ. Do đó, cán bộ – công
chức khả thi hành công vụ không được lạm dụng quyền lực để gây sách
nhiễu với dân, nhận hối lộ, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật
khác.
II. HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤHoạt động công vụ là hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
công chức trong các công sở nhằm giải quyết quan hệ giữa các cơ quan Nhà
nước với nhân dân.
Đối tượng phục vụ của công vụ là mọi tổ chức, công dân và người
nước ngoài.
Hoạt động công vụ phải tuân thủ nguyên tắc thống nhất, công khai,
đúng pháp luật, đúng thẩm quyền và chịu trách nhiệm cá nhân.
Hoạt động công vụ bao gồm: Tổ chức công sở, trách nhiệm của công
chức khi thi hành công vụ; quan hệ công vụ trong công sở, giữa các công sở
và thủ tục hành chính.
1. Tổ chức công sở
Cơ quan tổ chức Nhà nước được thành lập theo luật định thực hiện
chức năng quản lí Nhà nước nhằm phục vụ công gọi là công sở.
Công sở bao gồm: Công sở hành chính là các cơ quan hành chính Nhà
nước ở Trung ương và địa phương, công sở phục vụ công như bệnh viện,
trường học, cơ quan nghiên cứu, cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình của
Nhà nước… Công sở phải được bố trí, tổ chức khoa học, hợp lí, tiện lợi cho
hoạt động công vụ và phục vụ nhân dân. Công sở phải bố trí phòng đợi. Tại
phòng đợi phải được niêm yết các mẫu hồ sơ, mẫu đơn… và thông báo rõ
quy định thời gian, thời hạn giải quyết từng loại công việc.
Trong công sở, nơi làm việc của mỗi đơn vị phải có biển chỉ dẫn. Công
chức chịu trách nhiệm giải quyết công việc phải có biết ghi rõ họ tên và chức
vụ đặt ở bàn làm việc. Các phòng, ban giải quyết công việc phải có biển ghi rõ
nhiệm vụ giải quyết để dân nhận biết.
Công sở phải có bộ phận thường trực. Thường trực chỉ giải quyết cho
những người đến liên hệ công tác vào làm việc trong công sở và có trách
nhiệm hướng dẫn đến đúng chỗ làm việc.
Những công sở thường xuyên tiếp xúc với dân phải có hộp thư góp ý
đặt ở phòng đợi.
Công sở treo quốc kỳ trong ngày làm việc và ngày lễ.
Các công sở hành chính cần được bố trí trong cùng một khu vực đảm
bảo thuận lợi cho việc thực hiện công vụ và cho sự liên hệ của nhân dân.
2. Trách nhiệm của công chức khi thi hành công vụ
Công chức thực hiện công vụ theo pháp luật. Công chức phải tận tuỵ,
trung thực, hết lòng vì công vụ được giao, là công bộc của nhân dân.
Khi thực thi công vụ, công chức không được tự ý rời bỏ công sở hoặc
ngừng thi hành công vụ khi chưa được sự đồng ý của người có thẩm quyền.
Khi thi hành công vụ, công chức phải thể hiện thái độ lịch sự khiêm tốn
nhã nhặn. Đối với nhân dân phải lắng nghe ý kiến của dân. Đối với đồng
nghiệp phải có thái độ tôn trọng, hợp tác.
Cán bộ – công chức khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ phải nắm vững
nội dung công việc, am hiểu sâu chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu luật pháp và
giải quyết công việc đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền.
Cán bộ – công chức không được tuỳ tiện giải đáp, hướng dẫn, giải
quyết công việc trái pháp luật và các quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Công chức có nhiệm vụ tiếp, giải quyết công việc của công dân và tổ chức.
Khi giải quyết công việc phải khẩn trương, không được để đương sự phải đi
lại nhiều lần, không được nhận quà biếu của các công dân và tổ chức. Cán
bộ công chức có trách nhiệm tiết kiệm công quỹ, bảo vệ tài sản Nhà nước,
không sử dụng lãng phí tài sản, tiền bạc của Nhà nước, của dân dưới mọi
hình thức.
Công chức khi thi hành công vụ phải đeo thẻ công chức theo đúng quy
định của Nhà nước.
3. Quan hệ trong công vụ công sở và giữa các công sở
a. Quan hệ trong công vụ, công sở
Công sở hoạt động theo nguyên tắc công khai, dân chủ và thực hiện
chế độ thủ trưởng những vấn đề về: Pháp luật, chủ trương, chính sách của
Nhà nước, Chính phủ, cấp trên, phải được phổ biến, quán triệt đến mỗi cán
bộ – công chức. Các chế độ thuộc phạm vi quyền lợi, phúc lợi phải được cán
bộ – công chức bàn bạc đảm bảo đoàn kết, công bằng và hợp lí. Người đứng
đầu công sở phải thực sự công tâm, không định kiến, tôn trọng khuyến khích
sự thẳng thắn, trung thực của cán bộ – công chức thuộc thẩm quyền quản lí.
Khi giải quyết công việc, người đứng đầu công sở:
– Chịu trách nhiệm quyết định những công việc thuộc thẩm quyền cá
nhân, không ỷ lại tập thể;
– Những công việc được quy định thực hiện theo chế độ tập thể thì
phải được tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành;
– Quan tâm đến nguyện vọng, lợi ích chính đáng của cán bộ – công
chức thuộc quyền, có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ – công
chức có cơ hội phát triển, tiến bộ, thực hiện công khai, công bằng trong việc
khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ – công chức theo đúng quy định.
Người đứng đầu công sở có người cấp phó giúp việc. Cấp phó của
người đứng đầu được phân công phụ trách từng lĩnh vực công tác. Cấp phó
chịu trách nhiệm giúp đỡ người đứng đầu về lĩnh vực được giao, có trách
nhiệm báo cáo, trao đổi công việc theo đúng quy chế làm việc cơ quan.
Khi người đứng đầu quyết định khẩn cấp những công việc thuộc lĩnh
vực đã phân công cho cấp phó, người đứng đầu cần thông báo cho cấp phó
biết sau khi quyết định.
Người đứng đầu công sở chỉ ủy quyền cho cấp phó giải quyết các vấn
đề thuộc thẩm quyền của công sở và phải chịu trách nhiệm về những quyết
định cấp phó được ủy quyền giải quyết.
Cán bộ – công chức lãnh đạo các đơn vị khác trong cùng công sở, khi
cần trưng dụng công chức không thuộc quyền thì phải thương lượng với cấp
lãnh đạo quản lí trực tiếp của cán bộ công chức đó, cả trong trường hợp lãnh
đạo cấp trên đồng ý.
Các đơn vị trong cùng công sở có trách nhiệm phối hợp, cộng tác thực
hiện công vụ để hoàn thành tốt nhiệm vụ của cơ quan. Nghiêm cấm sự tranh
chấp, từ chối, trốn tránh trách nhiệm thuộc thẩm quyền. Không được có tư
tưởng cục bộ làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả thực thi công vụ.
b. Quan hệ công vụ giữa các công sở
Các công sở khi thực hiện công vụ chung phải có sự phối hợp, tinh
thần hợp tác chặt chẽ. Khi có vấn đề vướng mắc phải cùng nhau xác định
trách nhiệm, không để xảy ra tình trạng không có cơ quan nào chịu trách
nhiệm giải quyết. Trường hợp không giải quyết được phải kịp thời báo cáo lên
cấp có thẩm quyền trực tiếp để phân định trách nhiệm.
Công vụ thuộc thẩm quyền của công sở nào thì công sở đó phải chịu
trách nhiệm giải quyết. Trường hợp cần tham khảo ý kiến của công sở có liên
quan, công sở có thẩm quyền giải quyết gửi công văn trao đổi. Công văn trao
đổi cần ghi rõ nội dung yêu cầu thẩm định, thời gian trả lời theo luật định.
Công sở được tham khảo ý kiến có trách nhiệm trả lời. Nếu công sở được hỏi
ý kiến không trả lời theo thời hạn thì coi như đồng ý.
Các công sở chuyên môn ở địa phương: Sở, Phòng, Ban… thực hiện
công việc theo sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân; chịu sự hướng dẫn và kiểm
tra chuyên môn của Bộ, ngành và công sở cấp trên.
Người đứng đầu công sở cấp trên chỉ quyết định công việc hoặc ra lệnh
cho công sở cấp dưới trực tiếp. Sau đó, cần thông báo cho người lãnh đạo
công sở cấp dưới trực tiếp sau khi ra quyết định hoặc mệnh lệnh.
Các công sở phải tuân thủ nghiêm ngặt chế độ báo cáo định kỳ. Nếu có
phát sinh công vụ phải báo cáo kịp thời lên công sở cấp trên bằng phương
tiện nhanh nhất.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ PHÁP LỆNH CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1. Một số vấn đề về cán bộ, công chức
1.1. Khái niệm
Khái niệm cán bộ, công chức, viên chức của nước ta bao hàm một
phạm vi rộng, đó là đặc thù, xuất phát từ chế độ chính trị và lịch sử hình thành
đội ngũ cán bộ – công chức nước ta. Trong đội ngũ cán bộ – công chức đó,
mỗi loại có đặc thù riêng, quy chế riêng.
a. Cán bộ
Thuật ngữ cán bộ được dùng để chỉ những người được bầu cử, làm
việc trong cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và
những người được tuyển dụng, bổ nhiệm trong tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị – xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Theo Điều 1 của Pháp lệnh Cán bộ – công chức thì cán bộ gồm có hai
đối tượng:
– Những người do bầu cử để đảm nhiệm các chức vụ theo nhiệm kỳ
trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
– Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội.
Việc đưa ra phạm trù cán bộ – công chức và điều chỉnh nó trong một
văn bản pháp luật chung thể hiện sự thống nhất của hệ thống chính trị nước
ta.
b. Công chức
– Do tính chất đặc thù của các quốc gia khác nhau nên khái niệm công
chức giữa các nước cũng không hoàn toàn thống nhất. Có nước chỉ giới hạn
công chức trong phạm vi quản lí nhà nước, thi hành pháp luật. Có những
nước quan niệm công chức bao gồm cả những người làm việc trong các cơ
quan thực hiện dịch vụ công.
Ở nước ta, từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã có những quy
định về công chức. Ngày 20/5/1950, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh số 76/SL ban
hành quy chế công chức. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh nên trên thực
tế quy chế này chưa được áp dụng.
Cùng với việc bắt đầu công cuộc đổi mới, ngày 25/5/1991, Hội đồng Bộ
trưởng đã ban hành Nghị định 169/HĐBT về công chức nhà nước làm cơ sở
ban đầu cho việc tuyển chọn, sử dụng có hiệu quả đội ngũ công chức làm
việc trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nước.
Sau khi Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh cán bộ – công
chức, ngày 17/11/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 95/1998/NĐ–CP
về tuyển dụng, sử dụng và quản lí công chức. Theo các văn bản trên thì công
chức là những người đã được quy định tại khoản 3 và khoản 5, Điều 1 của
Pháp lệnh Cán bộ – công chức, cụ thể bao gồm những người hội đủ các tiêu
chí sau:
– Là công dân Việt Nam, cư trú thường xuyên tại Việt Nam.
– Được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường
xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn.
– Được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan
nhà nước; mỗi ngạch có tiêu chuẩn nghiệp vụ riêng.
– Trong biên chế Nhà nước.
– Hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
1.2. Phân loại công chức
Phân loại công chức là sự phân chia ra thành các loại các ngạch khác
nhau theo những tiêu chuẩn nhất định. Do tính đa dạng trong công việc phục
vụ Nhà nước, người ta có thể có những cách phân loại công chức khác nhau.
Mục đích của phân loại công chức là nhằm phục vụ cho việc quy hoạch
đội ngũ công chức, đáp ứng yêu cầu của các loại công việc tạo ra sự cân đối
trong việc sắp xếp, quản lí đội ngũ công chức.
Xuất phát từ yêu cầu trên, Điều 3 của Nghị định 95/1998/NĐ–CP của
Chính phủ phân loại công chức nước ta được theo hai cách sau:
a. Phân loại theo trình độ đào tạo
– Công chức loại A là những công chức có trình độ đào tạo chuyên
môn từ bậc đại học trở lên;
– Công chức loại B là những công chức có trình độ đào tạo chuyên
môn ở bậc trung học chuyên nghiệp, cao đẳng;
– Công chức loại C là những công chức có trình độ đào tạo chuyên
môn ở bậc sơ cấp;
– Công chức loại D là những công chức có trình độ đào tạo chuyên
môn ở bậc dưới sơ cấp.
b. Phân loại theo vị trí công chức, gồm có
– Công chức theo lãnh đạo (chỉ huy và điều hành). Công chức lãnh đạo
là những người có quyền ra quyết định quản lí, tổ chức và điều hành những
người dưới quyền thực hiện công việc Công chức lãnh đạo được giao những
thẩm quyền nhất định, thẩm quyền đó gắn với chức vụ của lãnh đạo đảm
nhiệm. Công chức lãnh đạo còn được gọi là công chức chỉ huy.
– Công chức chuyên môn nghiệp vụ: là những công chức có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng nghiên cứu hoạch định chính sách. Họ là
những người tham mưu cho lãnh đạo và giải quyết những vấn đề đòi hỏi trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất định. Loại công chức này được đào tạo, bồi
dưỡng theo bài bản, theo yêu cầu tiêu chuẩn nghiệp vụ của từng ngạch công
chức.
2. Pháp lệnh cán bộ công chức
2.1. Một số vấn đề chung
Pháp lệnh cán bộ, công chức, đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam khoá X thông qua ngày 11-2-1998.
Để từng bước thực hiện Pháp lệnh này, ngày 17 – 11 – 1998, Chính
phủ đã ban hành các Nghị định có liên quan đến cán bộ, công chức:
– Nghị định số 95–1998/NĐ–CP ngày 17–11–1998 của Chính phủ về
tuyển dụng, sử dụng và quản lí công chức.
– Nghị định số 96–1998/NĐ–CP ngày 17–11–1998 của Chính phủ về
chế độ thôi việc đối với cán bộ, công chức.
– Nghị định số 97–1998/NĐ–CP ngày 17–11–1998 của Chính phủ về
xử lí kỉ luật và trách nhiệm vật chất với công chức.
Trong quá trình thực hiện, cho tới nay Pháp lệnh cán bộ, công chức đã
có hai lần được sửa đổi, bổ sung:
Lần thứ nhất Pháp lệnh Sửa đổi, hổ sung một số diều của Pháp lệnh
Cán bộ, công chức số 21/2000/PL–UBTVQH 11, ngày 28–4–2000. (Sửa đổi,
bổ sung Điều 17, Điều 19).
Lần thứ hai, Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Cán bộ, công chức số 200/PL–UBTVQH 11, ngày 29–4–2003. (Sửa đổi, bổ
sung nhiều Điều, nhất là Điều 1 đề cập đến Cán bộ, công chức, nêu rõ 8
nhóm đối tượng, trước đây chỉ có 5 nhóm đối tượng). Pháp lệnh Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức có hiệu lực từ ngày
1/7/2003.
Pháp lệnh cán bộ, công chức bao gồm 7 chương, 48 điều.
Chương 1. Những quy định chung.
Chương 2. Nghĩa vụ, quyền lợi của cán bộ, công chức.
Chương 3. Những việc cán bộ, công chức không được làm.
Chương 4. Bầu cử, tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức.
Chương 5. Quản lí cán bộ, công chức.
Chương 6. Khen thưởng và xử lí vi phạm.
Chương 7. Điều khoản thi hành.
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN
Chương 1. Những quy định chung
Điều 1:
1. Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam,
trong biên chế, bao gồm:
a. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kì trong
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương;
ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
b. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
c. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức
hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
d. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức
hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội;
đ. Thẩm phán Toà ân nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
e. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm
việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên nghiệp:
g. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kì trong
Thường trực Hội đồng nhân dân Ủy ban nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư Đảng
Ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây
gọi chung là cấp xã);
h. Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã.
2. Cán bộ, công chức quy định tại các điểm a, b, c, đ, e, g và h khoản 1
Điều này được hưởng lương từ ngân sách nhà nước; cán bộ, công chức quy
định tại điểm d khoản 1 Điều này được hưởng lương từ ngân sách nhà nước
và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật.
2.2. Một số nội dung chủ yếu
Pháp lệnh Cán bộ – công chức với tư cách là một văn bản pháp luật, là
văn bản khung làm cơ sở cho sự phát triển khung pháp lí đối với hệ thống
quản lí nhân sự của Đảng và Nhà nước ta: do vậy, trong Pháp lệnh đã ghi:
“Công tác cán bộ – công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tập thể, dân chủ đi đối với phát huy
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị”. Pháp lệnh cán bộ
– công chức ra đời là sự thể chế hoá đường lối, chính sách cán bộ của Đảng
ta trong tình hình mới, là cơ sở để xây dựng một đội ngũ cán bộ – công chức
có phẩm chất, tài năng, hết lòng phục vụ nhân dân, là công bộc của nhân
dân.
3. Nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ - công chức
Nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ – công chức được quy định nhằm
thực hiện mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ – công chức có tài, có đức hết
lòng phục vụ nhân dân, đất nước.
a. Về nghĩa vụ của cán bộ – công chức
Nghĩa vụ của cán bộ – công chức được quy định tại ba điều trong Pháp
lệnh, là Điều 6, Điều 7, Điều 8. Đây vừa là những yêu cầu để cán bộ – công
chức rèn luyện phấn đấu, vừa là cơ sở để kiểm tra, đánh giá của cấp có thẩm
quyền và sự giám sát của nhân dân trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ
của cán bộ – công chức. Nghĩa vụ của cán bộ – công chức luôn được xác
định hai phần chính. Nghĩa vụ trung thành và nghĩa vụ thực thi nhiệm vụ,
công vụ.
Ở nước ta, ngay từ khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh yêu cầu về nghĩa vụ của cán bộ – công
chức trong bộ máy Nhà nước. Người đã nhiều lần khẳng định: “Cán bộ và
nhân viên từ cấp trên đến cấp dưới đều là đầy tớ của nhân dân, đều phải một
lòng, một dạ phục vụ nhân dân” (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội 1996, T.10, Tr. 151). Với tư tưởng đó, Điều 6 Pháp lệnh cán bộ –
công chức xác định Cán bộ, công chức có những nghĩa vụ sau đây:
1. Trung thành với Nhà nước CHXHCN Việt Nam; bảo vệ sự an toàn,
danh dự và lợi ích quốc gia;
2. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng và chính
sách pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ công vụ theo quy định của
pháp luật;
3. Tận tuỵ phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân
4. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tham gia sinh hoạt với cộng đồng dân
cư nơi cư trú, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân;
5. Có nếp sống lành mạnh; trung thực; cần, kiệm, liêm chính, chí công
vô tư; không được quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng;
6. Có ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm trong công tác; thực hiện
nghiêm chỉnh nội quy của cơ quan, tổ chức; giữ gìn bảo vệ của công, bảo vệ
bí mật Nhà nước theo quy định của pháp luật
7. Thường xuyên học tập nâng cao trình độ; chủ động, sáng tạo phối
hợp trong công tác nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ, công vụ được giao;
8. Chấp hành sự điều động, phân công công tác của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền.
Trong những điều quy định về nghĩa vụ của cán bộ – công chức, Pháp
lệnh cũng đã xác định rõ “Cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo còn phải chịu trách
nhiệm về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của cán bộ – công chức thuộc thẩm
quyền theo quy định của pháp luật.” (Điều 7). Và “Cán bộ – công chức phải
chấp hành quyết định của cấp trên; khi có căn cứ đê cho là quyết định đó trái
pháp luật thì phải báo cáo ngay với người ra quyết định; trong trường hợp vẫn
phải chấp hành quyết định thì phải báo cáo lên cấp trên trực tiếp của người ra
quyết định và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành trách
nhiệm đó” (Điều 8). Điều này thể hiện nguyên tắc chung về nghĩa vụ tuân thủ
của cán bộ – công chức. Tuy nhiên, cán bộ – công chức khi thi hành nhiệm
vụ, công vụ phải kiểm tra tính hợp pháp của mỗi hành động và sự độc lập của
cá nhân về công việc của họ được đảm bảo trước pháp luật; đồng thời nó
cũng đòi hỏi cán bộ – công chức phải nắm vững pháp luật, những quy định cụ
thể khi giải quyết, xử lí công việc, vừa để nâng cao vai trò, trách nhiệm của
người lãnh đạo.
b. Về quyền lợi của cán bộ – công chức
Cán bộ – công chức được hưởng những quyền lợi như những người
lao động được quy định trong Bộ luật Lao động như: quyền nghỉ hàng năm,
nghỉ lễ, tết, nghỉ việc riêng, nghỉ không hưởng lương, được hưởng chế độ trợ
cấp bảo hiểm xã hội, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản,
hưu trí, chế độ tử tuất… Cán bộ – công thức là nữ còn được hưởng các
quyền lợi quy định tại khoản 2, Điều 109, các Điều 111, 113… của Bộ luật
Lao động.
Ngoài những quy định cán bộ – công chức được hưởng các quyền lợi
theo Bộ luật Lao động, Pháp lệnh còn quy định một số quyền lợi khác tại các
Điều 10, 11, 12, 13 và Điều 14 của Pháp lệnh. Trong đó, có điểm cần quan
tâm là để khích lệ, động viên cán bộ – công chức có hành động dũng cảm
trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ. Pháp lệnh đã quy định rõ: “Cán bộ –
công chức hy sinh trong khi thi hành nhiệm trụ, công vụ được xem xét để
công nhận là liệt sĩ theo quy định của pháp luật. Cán bộ – công chức bị
thương trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ thì được xem xét để áp dụng
chính sách chế độ tương tự như đối với thương binh” (Điều 14).
Như vậy, cùng với quy định về nghĩa vụ của cán bộ – công chức thì
Pháp lệnh cũng đã xác định và ghi rõ quyền lợi, bao gồm về chính trị, tinh
thần và vật chất trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ.
Việc quy định quyền lợi của cán bộ – công chức trong Pháp lệnh thể
hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ – công chức. Việc
xác định rõ các quyền lợi là cơ sở để người cán bộ – công chức yên tâm thực
hiện nhiệm vụ, công vụ được giao, tận tâm tận lực, mẫn cán với công việc,
công chức không bị chi phối nhiều bởi những lo âu, toan tính của cuộc sống
thường nhật.
Những quyền lợi về sự thăng tiến và trong quan hệ khi thực thi nhiệm
vụ, công vụ cũng tạo cho cán bộ – công chức lòng nhiệt tình làm việc, ý chí
phấn đấu vươn lên. Tất cả những điểm này đều được Đảng và Nhà nước
quan tâm, chú ý. Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan của tình hình đất
nước, trong thời gian qua các chế độ về quyền lợi cán bộ – công chức chưa
mang tính toàn diện, bao quát. Pháp lệnh cán bộ – công chức thể hiện những
nội dung mà Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 khoá VIII
chỉ rõ: “… đổi mới cơ bản chính sách bảo đảm lợi ích vật chất cho từng loại
cán bộ trước hết là chế độ tiền lương, nhà ở và phương tiện đi lại. Tiền lương
phải thật sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu nhập cán bộ, bảo đảm tái sản
xuất mở rộng sức lao động…” (Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Hội nghị
Trung ương 3 khoá VIII, trang 94).
4. Những việc cán bộ - công chức không được làm
Quy định những việc cán bộ – công chức không được làm nhằm mục
đích để cán bộ – công chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ phải thực hiện đầy
đủ trách nhiệm của mình, đảm bảo khách quan, vô tư, tuân thủ theo pháp
luật. Những quy định này cũng nhằm để ngăn ngừa những hành vi tham
nhũng, hối lộ, cửa quyền, giữ gìn sự trong sạch của đội ngũ cán bộ – công
chức góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ – công chức thực sự là công bộc
của nhân dân, do dân, vì nhân dân mà phục vụ.
Trong đó có 4 điều ghi rõ “Những điều cán bộ, công chức không được
làm: (các Điều 15,16,17,18) và hai điều cấm đối với cán bộ – công chức giữ
cương vị lãnh đạo (Điều 19 và Điều 20).
Điều 15: Cán bộ, công chức không được chây lười trong công tác, trốn
tránh trách nhiệm hoặc thoái thác nhiệm vụ, công vụ; không được gây bè
phái, mất đoàn kết, cục bộ hoặc tự ý bỏ việc.
Điều 16: Cán bộ, công chức không được cửa quyền, hách dịch, sách
nhiễu, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khi giải
quyết công việc.
Điều 17: Cán bộ, công chức không được thành lập, tham gia thành lập
hoặc tham gia quản lí, điều hành các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư,
trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư. Cán bộ, công chức không
được làm tư vấn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh, dịch vụ và các tổ
chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài về các công trình có liên
quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác, những công thuộc về thẩm quyền
giải quyết của mình và các công việc khác mà việc tư vấn có khả năng
phương hại đến lợi ích quốc gia. Chính phủ quy định cụ thể việc làm tư vấn
của cán bộ, công chức.
Điều 18: Cán bộ công chức làm ở việc ở những ngành nghề có liên
quan đến bí mật nhà nước, thì trong thời hạn ít nhất là 5 năm kể từ khi có
quyết định hưu trí, thôi việc, không được làm việc cho các tổ chức, cá nhân
trong nước, nước ngoài hoặc tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước hoặc
tổ chức liên doanh với nước ngoài trong phập vi các công việc trong nước,
nước ngoài hoặc tổ chức liên doanh với nước ngoài trong phạm vi các công
việc có liên quan đến ngành, nghề mà trước mình đã đảm nhiệm.
Chính phủ quy định cụ thể danh mục ngành, nghề, công việc, thời hạn
mà cán bộ, công chức không được làm và chính sách ưu đãi đối với những
người phải áp dụng quy định của Điều này.
Điều 19: “Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ
hoặc chồng của những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt
động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lí
nhà nước”.
Điều 20: “Người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị em ruột của
mình giữ chức vụ lãnh đạo về tổ chức nhân sự, kế toán – tài vụ; làm thủ quỹ,
thủ kho trong cơ quan, tổ chức hoặc mua bán vật tư, hàng hoá, giao dịch, ký
kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức đó”.
5. Việc tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ - công chức
a. Về công tác tuyển dụng
Có thể nói việc tuyển dụng cán bộ – công chức có vai trò rất quan trọng
trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ – công chức có đủ phẩm chất, năng lực,
đủ tiêu chuẩn vào những vị trí nhất định của bộ máy Nhà nước. Để đạt được
những yêu cầu trên, công tác tuyển dụng cán bộ – công chức phải tuân thủ
những nguyên tắc chủ yếu sau:
* Nguyên tắc bình đẳng: Tức là mọi công dân có nguyện vọng, có đủ
điều kiện đều có cơ hội được tuyển dụng vào làm cán bộ – công chức.
* Nguyên tắc công khai: Xuất phát từ các thiết chế dân chủ quy định
trong Hiến pháp và Pháp luật. Nguyên tắc này nhằm để kiểm soát hành vi của
cơ quan, cá nhân có trách nhiệm làm công tác tuyển dụng. Nội dung công
khai có thể là: Điều kiện tuyển dụng, chỉ tiêu cần tuyển, thời gian nộp hồ sơ,
thời gian hướng dẫn, nội dung, kế hoạch thi, chế độ ưu tiên…
* Nguyên tắc khách quan: Tức là xuất phát từ nhu cầu, vị trí công việc,
cơ cấu công chức, tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch cần tuyển. Nguyên tắc
này nhằm loại trừ yếu tố chủ quan, lấy những tiêu chí định trước làm căn cứ
để tuyển dụng. Do đó nguyên tắc này chính là nguyên tố đảm bảo tính vô tư,
công bằng trong tuyển dụng.
* Nguyên tắc tuyển dụng xuất phát từ nhu cầu thực tế. Tức là việc miêu
tả thực tế công việc, thiếu vị trí nào thì tuyển cán bộ – công chức vào vị trí đó
đảm bảo đúng chuyên môn ngành nghề đào tạo, đúng trình độ, nhằm khắc
phục tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu” trong bộ máy của chúng ta hiện nay.
* Nguyên tắc chất lượng: Nguyên tắc này đảm bảo chọn được người
giỏi vào làm việc trong cơ quan Nhà nước.
* Nguyên tắc ưu tiên: là việc tạo điều kiện thuận lợi hơn đối với một số
đối tượng nhất định phù hợp với pháp luật, xuất phát từ chế độ, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Những nguyên tắc trên đã thể hiện trong Điều 23 của Pháp lệnh Cán bộ
– công chức. Công tác tuyển dụng cán bộ – công chức chủ yếu được thực
hiện thông qua kỳ thi tuyển. Thi tuyển là hình thức mới được thực hiện ở
nước ta trong những năm gần đây và được triển khai rộng từ khi Pháp lệnh
Cán bộ – công chức có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/05/1998). Người trúng
tuyển là người phải có số điểm của mỗi phần thi đạt từ điểm 5 trở lên theo
thang điểm 10, được lấy từ người có tổng số điểm cao nhất cho đến hết chỉ
tiêu biên chế (tức là chỉ tiêu được phép trong kỳ thi). Người trúng tuyển phải
trải qua thời gian tập sự theo quy định tại Điều 16 của NĐ 95/1998/NĐ –CP.
Nội dung tập sự theo quy định tại điểm 2, mục 4 phần II của Thông tư
04/1999/TTTCCP ngày 20/3/1999 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ.
b. Đào tạo bồi dưỡng
Bàn về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ – công chức trước hết cần
nhận thức rõ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ – công chức là một trong những mặt
của hoạt động quản lí, phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục
nhưng cần xác định rõ mục tiêu, mục đích cụ thể trong từng giai đoạn, từng
thời kỳ để từng bước nâng cao năng lực, trình độ cán bộ - công chức đáp
ứng yêu cầu của đất nước, Điều 26 của Pháp lệnh cán bộ – công chức ghi
“Việc đào tạo, bó dưỡng cán bộ – công chức phải căn cứ vào quy hoạch, kế
hoạch, tiêu chuẩn đối với từng chức vụ, tiêu chuẩn nghiệp vụ của từng
ngạch”. Vì vậy, “Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lí cán bộ – công chức
có trách nhiệm xây dựng quy hoạch, kế hoạch và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
để tạo nguồn và nâng cao trình độ năng lực của cán bộ – công chức”.
c. Về điều động biệt phái
* Cán bộ – công chức phải chấp hành sự điều động của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền. Khi có nhu cầu công việc và xét khả năng làm việc của
cán bộ – công chức có thể điều động từ Trung ương đến địa phương và
ngược lại (Điều 28). Tuy nhiên, điều động cân bộ - công chức cần chú ý:
– Việc điều động công chức chỉ thực hiện khi cơ quan tiếp nhận cán bộ
– công chức còn chỉ tiêu biên chế.
– Công chức điều động nếu nội dung công việc thay đổi thì được
chuyển tiếp ngạch công chức và xếp lại hệ số lương tương đương với ngạch
cũ.
– Khi điều động cán bộ – công chức, cơ quan có thẩm quyền cần chú ý
xem xét tới hoàn cảnh gia đình và bản thân công chức điều động.
* Do yêu cầu nhiệm vụ, công vụ, cơ quan có thẩm quyền quản lí cán bộ
– công chức có quyền cử biệt phái cán bộ - công chức đến làm việc có thời
hạn ở cơ quan, tổ chức đơn vị khác. Thời hạn cử biệt phái không quá 3 năm.
Việc cử biệt phái cán bộ – công chức được thực hiện trong các trường
hợp:
– Do có những nhiệm vụ đột xuất, cấp bách mà chưa có khả năng điều
động công chức.
– Do có những công việc cần giải quyết trong một thời gian nhất định.
“Cán bộ – công chức được biệt phái chịu sự phân công công tác của cơ
quan, tổ chức nơi được cử đến. Cơ quan, tổ chức biệt phái cán bộ – công
chức có trách nhiệm trả lương và bảo đảm các quyền lợi khác của cán bộ –
công chức được biệt phái” (Điều 29).
d. Về hưu trí, thôi việc
Phần quy định về hưu trí và thôi việc của cán bộ – công chức trước hết
phải tuân thủ các quy định của Bộ luật lao động. Quy định này thể hiện cán bộ
- công chức là một bộ phận của lực lượng lao động xã hội. Điều 30 ghi rõ
“cán bộ - công chức có đủ điều kiện về tuổi đời và thời gian đóng bảo hiểm xã
hội quy định tại điều 145 của Bộ luật Lao động thì được hưởng chế độ hưu trí
và các chế độ khác quy định tại Điều 146 của Bộ luật Lao động”.
* Về hưu trí
Tuy nhiên, để đáp ứng đời hỏi khách quan của tình hình thực tế, Pháp
lệnh cũng quy định ở một số ngành nghề và vị trí công tác thì thời gian công
tác của cán bộ – công chức đã có đủ điều kiện được hưởng chế độ hưu trí có
thể kéo dài thêm. Thời gian kéo dài thêm không quá 5 năm; trường hợp đặc
biệt thì thời gian này kéo dài thêm (Điều 31).
Tại Nghị định số 71/2000/NĐ–CP ngày 23/11/2000 đã quy định có 3 đối
tượng kéo dài thêm thời gian công tác:
– Những người trực tiếp làm công tác nghiên cứu ở cơ quan của Đảng,
Nhà nước được bổ nhiệm và hưởng bảng lương chuyên gia cao cấp quy định
tại NĐ 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ.
– Những người có học vị tiến sĩ khoa học làm việc theo đúng chuyên
ngành đào tạo, những người có chức danh Giáo sư, Phó Giáo sư đang trực
tiếp nghiên cứu, giảng dạy theo đúng chuyên ngành ở các Viện, Học viện và
các trường Đại học.
– Những người thực sự có tài năng được cơ quan, tổ chức, đơn vị thừa
nhận đang trực tiếp làm việc theo đúng chuyên môn thuộc các lĩnh vực Y tế,
Giáo dục – Đào tạo, Khoa học Công nghệ, Văn hoá Nghệ thuật.
Điều kiện kéo dài thêm thời gian công tác của cán bộ – công chức là:
– Cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng cán bộ – công chức thực sự có
nhu cầu.
– Cán bộ – công chức tự nguyện và có đủ sức khoẻ để làm việc.
Những quy định trên nhằm đáp ứng một thực tế là có những nhà khoa
học có trình độ cao, có khả năng thực sự và chưa có người thay thế, có sức
khỏe và bản thân tự nguyện, hoặc cơ quan có nhu cầu thì có thể tiếp tục làm
thêm một thời gian nhằm sử dụng hợp lí chất xám của cán bộ – công chức.
Song để đảm bảo quyền nghỉ ngơi của cán bộ – công chức theo quy
định của pháp luật, Thông tư số 19/2000/TT – TTCBCP ngày 24/4/2001 của
Ban TCCBCP hướng dẫn thực hiện NĐ 71/2001/NĐ – CP ghi rõ: “trường hợp
cán bộ - công chức thuộc đối tượng quy định kéo dài thời gian công tác, đến
nay nam từ đủ 65 tuổi, nữ từ đủ 60 tuổi trở lên thì cơ quan làm thủ tục để cán
bộ – công chức được nghỉ hưu theo chế độ hiện hành và không thực hiện kéo
dài thêm thời gian công tác”.
* Về thôi việc
Chế độ thôi việc đối với cán bộ – công chức cũng được quy định tại
Điều 32 của Pháp lệnh, Chính phủ có Nghị định số 96/1998/NĐ –CP ngày
17/11/1998 hướng dẫn thực hiện điều này. Cán bộ – công chức được thôi
việc trong các trường hợp:
– Do sắp xếp tổ chức, giảm biên chế theo quyết định của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền. Người thôi việc được hưởng chế độ chính sách theo
Điều 3 Nghị định 96/1998/NĐ–CP.
– Có nguyện vọng thôi việc và được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
đồng ý, được hưởng chế độ, chính sách theo Điều 2 của NĐ 96/1998/NĐ-CP.
Trường hợp cán bộ – công chức tự ý bỏ việc thì bị xử lí hình thức kỷ
luật, không được hưởng chế độ thôi việc và các quyền lợi khác, phải bồi
thường chi phí đào tạo theo quy định của pháp luật.
e. Về công tác quản lí cán bộ – công chức
Trong Pháp lệnh Cán bộ – công chức, nguyên tắc quản lí đã được ghi
trong Điều 4: “Công tác cán bộ – công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất
của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tập thể, dân chủ đi đôi với
phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị”. Để thực
thi có hiệu quả công tác quản lí cán bộ – công chức, tại Điều 33 của Pháp
lệnh đã nêu ra 11 nội dung về công tác quản lí cán bộ – công chức bao gồm:
– Ban hành các văn bản pháp luật, điều lệ, quy chế về cán bộ – công
chức;
– Lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ – công chức;
– Quy định chức danh và tiêu chuẩn cán bộ – công chức;
– Quyết định biên chế cán bộ – công chức;
– Tổ chức thực hiện việc quản lí, sử dụng và phân cấp quản lí cán bộ –
công chức;
– Ban hành quy chế thi tuyển, thi nâng ngạch;
– Đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ – công chức;
– Chỉ đạo, tổ chức thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính
sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ – công chức;
– Thực hiện thống kê cán bộ – công chức;
– Thanh tra, kiểm tra việc thi hành các quy định về cán bộ – công chức;
– Chỉ đạo, tổ chức giải quyết các khiếu nại, tố cáo đối với cán bộ - công
chức.
Đây là những nội dung hết sức cơ bản, bao quát toàn bộ các công việc,
cách thức, biện pháp quản lí cán bộ – công chức. Để làm rõ các nội dung
quản lí ở trên, các Điều 34, 35, 36 của Pháp lệnh đã xác định rõ thẩm quyền
quản lí, thẩm quyền quyết định về biên chế đối với từng đối tượng cụ thể.
Trên cơ sở quy định của Pháp lệnh, Chính phủ đã có NĐ 95/1998/NĐ -
CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lí công chức, và Ban TCCBCP có Thông
tư 04/1999TT - TCCP ngày 20/03/1999 hướng dẫn cụ thể về công tác này.
g. Về công tác khen thưởng và xử lí vi phạm
Khen thưởng và kỷ luật là những công cụ, biện pháp trong quá trình
xây dựng, phát triển và sử dụng đội ngũ công chức.
Khen thưởng là hình thức ghi nhận và ban thưởng cho công chức có
thành tích những giá trị tinh thần và vật chất để động viên, khích lệ sự cống
hiến của cán bộ – công chức. Trong pháp lệnh Cán bộ – công chức có quy
định 5 hình thức khen thưởng (Điều 37).
– Giấy khen.
– Bằng khen.
– Danh hiệu vinh dự Nhà nước.
– Huy chương.
– Huân chương.
Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy định “Cán bộ – công chức lập thành tích
xuất sắc trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì được xét nâng ngạch,
nâng bậc trước thời hạn theo quy định của Chính phủ.” (Điều 38), nhằm động
viên cán bộ – công chức có thành tích lao động xứng đáng.
Nếu khen thưởng là hình thức ghi nhận, ban thưởng công lao của cán
bộ – công chức thì kỷ luật là hình thức xử lí, trừng phạt với mức độ khác nhau
tuỳ theo tính chất, mức độ hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ – công chức
nhằm góp phần ngăn ngừa những hành vi vi phạm khác. Để đảm bảo công
bằng, việc kỷ luật cán bộ – công chức nhất thiết phải được tiến hành thông
qua Hội đồng kỷ luật, các trường hợp kỷ luật không thông qua Hội đồng đều
không có hiệu lực pháp lí.
Pháp lệnh quy định nếu cán bộ – công chức vi phạm các quy định của
Pháp lệnh mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì theo tính chất,
mức độ vi phạm phải chịu một trong 6 hình thức kỉ luật sau (Điều 39).
– Khiển trách.
– Cảnh cáo.
– Hạ bậc lương.
– Hạ ngạch.
– Cách chức.
– Buộc thôi việc.
Việc quy định 6 hình thức kỷ luật nhằm bảo đảm việc xem xét áp dụng
hình thức kỷ luật được chính xác, phù hợp với mức độ vi phạm của cán bộ -
công chức.
Để xem xét xử lí kỷ luật được công minh, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 97/1998/NĐ–CP ngày 17/11/1998 để cụ thể hoá xử lí kỷ luật và trách
nhiệm vật chất đối với công chức, Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ có Thông
tư số 28/1998/TT – BTCCBCP ngày 31/07/1999 hướng dẫn Nghị định số
97/1998/NĐ–CP.
Trong các văn bản trên, chúng ta cần chú ý một số vấn đề chính có tính
nguyên tắc trong xử lí kỷ luật:
– Công chức chỉ bị xử lí kỷ luật khi vi phạm các quy định tại Điều 6,
Điều 7, Điều 8, các điều thuộc Chương III của Pháp lệnh Cán bộ – công chức
và các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật khác nhưng chưa đến
mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
– Không xử lí kỷ luật đối với công chức có hành vi vi phạm kỷ luật khi
mắc bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hành vi
của mình, phải thi hành quyết định của cấp trên quy định tại Điều 8 của Pháp
lệnh Cán bộ – công chức.
– Đối với mỗi hành vi, vi phạm kỷ luật của công chức chỉ bị xử lí một
hình thức kỷ luật. Khi cùng một lúc, công chức có nhiều hành vi vi phạm kỷ
luật thì bị kỷ luật bằng một trong các hình thức từ khiển trách đến cảnh cáo và
sẽ không được bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn trong thời gian ít nhất một năm
kể từ khi có quyết định kỷ luật.
– Kể từ ngày có quyết định kỷ luật sau 12 tháng nếu công chức không
tái phạm và không có những hành vi vi phạm đến mức phải xử lí kỷ luật thì cơ
quan, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định chấm dứt hiệu lực kỷ luật.
– Về việc tạm đình chỉ công tác được Pháp lệnh quy định một cách cụ
thể: “Trong thời gian đang bị xem xét kỷ luật, cán bộ – công chức có thể bị cơ
quan tổ chức có thẩm quyền quản lí ra quyết định tạm đình chỉ công tác nếu
xét thấy cán bộ – công chức đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn trong
việc xác minh hoặc tiếp tục có hành vi vi phạm. Thời gian tạm đình chỉ không
quá 15 ngày, trường hợp đặc biệt có thể kéo dài nhưng không được quá 3
tháng, hết thời hạn tạm đình chỉ công tác, nếu không bị xử lí thì cán bộ – côn
chức được tiếp tục làm việc”. Cán bộ – công chức trong thời gian tạm đình chỉ
công tác được hưởng 50% tiền lương tháng và phụ cấp (nếu có). Đảm bảo
tính dân chủ trong quá trình xử lí vi phạm cũng như quyền lợi chính đáng của
cán bộ – công chức, Pháp lệnh quy định quyền cán bộ – công chức được
khiếu nại “cán bộ – công chức khi bị xử lí kỷ luật có quyền khiếu nại về quyết
định đối với mình trên cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật”.
– Cán bộ – công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở
xuống bị buộc thôi việc có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại toà án theo
quy định của pháp luật.
– Pháp lệnh Cán bộ – công chức cũng quy định: “Cán bộ – công chức
bị xử lí kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự mà đã được cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền quyết định là oan, sai thì được phục hồi danh dự, quyền
lợi và được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật” (Điều 45). Điều
này để cơ quan, cá nhân thực hiện việc điều tra, xét xử phải nêu cao tinh thần
trách nhiệm, làm việc công tâm, thận trọng bảo đảm không gây oan ức cho
người bị xem xét. Cơ quan có người bị oan, sai có trách nhiệm phục hồi danh
dự và bồi thường cho cán bộ – công chức theo quy định tại NĐ 47/CP ngày
03/05/1997 của Chính phủ.
Tóm lại, Pháp lệnh Cán bộ – công chức được ban hành đã thể hiện đầy
đủ các chủ trương, chiến lược cán bộ trong thời kỳ đổi mới và là một văn bản
pháp quy quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ – công chức có
phẩm chất đạo đức, có năng lực đáp ứng yêu cầu của công việc phát triển
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
E. CÔNG CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOCông chức ngành giáo dục và đào tạo là một trong 18 ngành chuyên
môn của phân loại công chức. Theo tiêu chuẩn nghiệp vụ thì công chức
ngành giáo dục và đào tạo gồm có các ngạch như sau:
1. Giảng viên cao cấp.
2. Giảng viên chính.
3. Giảng viên.
4. Giáo viên trung học cao cấp.
5. Giáo viên trung học.
6. Giáo viên tiểu học.
7. Giáo viên mầm non (nhà trẻ và mẫu giáo).
Tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch nêu trên là căn cứ để các Bộ,
ngành, địa phương thực hiện sử dụng, tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao bậc lương và chuyển ngạch cho công chức ngành giáo dục
và đào tạo theo quy định của Nhà nước.
1. Giáo viên mầm non
Là công chức chuyên môn làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà
trường hoặc các cơ sở giáo dục khác thuộc công lập thực hiện việc nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng đến sáu năm tuổi. Mục tiêu
của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ
em vào học lớp một.
– Chịu trách nhiệm quản lí số lượng cháu trong nhóm, lớp được phân
công.
– Thực hiện nghiêm chỉnh nội quy, quy chế của nhà trẻ, trường mẫu
giáo, thực hiện đầy đủ chương trình, kế hoạch giáo dục do Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành phù hợp với từng nhà trẻ, trường mẫu giáo.
– Thực hiện các yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục mầm non,
nhiệm vụ của nhà giáo… theo quy định của Luật Giáo dục.
– Trình độ chuẩn được đào tạo: có bằng tốt nghiệp trung học sư phạm.
– Được cử đi học nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
được hưởng lương phụ cấp nghề nghiệp và các phụ cấp khác theo quy định
của Chính phủ.
2. Giáo viên tiểu học
Là công chức chuyên môn trực tiếp giảng dạy và giáo dục học sinh
trường tiểu học công lập. Thực hiện theo quy định của Luật Giáo dục và Điều
lệ nhà trường, nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
– Giảng dạy các môn học theo mục tiêu, kế hoạch đào tạo bậc học và
chương trình của lớp được phân công. Thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm
vụ và tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục.
– Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc quy chế, nội quy và các quy định khác
của ngành giáo dục và đào tạo như: soạn bài, giảng dạy, chấm bài, phụ đạo,
coi thi, chấm thi, đánh giá xếp loại học sinh…
– Thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông và những yêu cầu về nội
dung, phương pháp giáo dục phổ thông và nhiệm vụ của nhà giáo… theo quy
định của Luật Giáo dục.
– Trình độ chuẩn được đào tạo: có bằng tốt nghiệp trung học sư phạm.
Được cử đi học nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
được hưởng lương và phụ cấp nghề nghiệp và các phụ cấp khác theo quy
định của Chính phủ.
3. Giáo viên trung học
Là công chức chuyên môn chuyên trách giảng dạy và giáo dục học sinh
ở trường trung học công lập (gồm trung học cơ sở và trung học phổ thông).
– Giảng dạy các môn học theo mục tiêu, nội dung chương trình và kế
hoạch đạo tạo cấp học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
– Thực hiện đầy đủ các quy chế chuyên môn như soạn bài, giảng dạy,
chấm bài, chuẩn bị thí nghiệm, phụ đạo, coi thi, chấm thi, đánh giá xếp loại
học sinh và các chế độ, nội quy, các quy định khác của ngành…
– Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nguyên lý giáo dục… theo quy định
của Luật Giáo dục và Đào tạo, Điều lệ Trường trung học.
Chương II. ĐƯỜNG LỐI, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Giáo dục – đào tạo đóng vai trò chủ yếu trong việc gìn giữ, phát triển và
truyền bá nền văn minh nhân loại. Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ ngày nay, tiềm năng trí tuệ trở thành động lực chính của sự
tăng tốc phát triển và giáo dục – đào tạo (GD – ĐT) được coi là nhân tố quyết
định sự thành bại của mỗi quốc gia trên trường quốc tế và sự thành đạt của
mỗi người trong cuộc sống của mình. Chính vì vậy, chính phủ và nhân dân
các nước đánh giá cao vai trò của giáo dục. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (1992) đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001, tại Điều 35
quy định: phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Cùng với các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội khác, Chính phủ Việt
Nam đã công bố quyết định phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 –
2010” (Quyết định số 201/2001/QĐ–TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tướng
Chính phủ).
I. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT TRONG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HIỆN NAY
1. Tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay
a. Thành tựu
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, mặc dù đất nước còn nghèo
và có chiến tranh liên tiếp, sự nghiệp GD – ĐT nước ta đã đạt những thành
tựu quan trọng.
Thực hiện Nghị quyết các Đại hội VI, VII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ
tư Ban chấp hành Trung ương khóa VII, trong những năm gần đây, GD – ĐT
có những mặt tiến bộ:
– Mạng lưới trường học phát triển rộng khắp. Hầu hết các xã trong cả
nước, kể cả các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đã có
trường, lớp tiểu học. Phần lớn các xã ở vùng đồng bằng có trường trung học
cơ sở. Hầu hết các huyện có trường trung học phổ thông. Các tỉnh và nhiều
huyện đồng bào dân tộc đã có hệ thống trường dân tộc nội trú.
– Đã ngăn chặn được sự giảm sút quy mô và có bước tăng trưởng khá.
Giáo dục mầm non, nhất là mẫu giáo 5 tuổi, đang phát triển. Công cuộc chống
mù chữ được triển khai trong cả nước. Năm 2000 đã phổ cập tiểu học trong
cả nước. Số học sinh phổ thông và số sinh viên đại học không ngừng tăng. Tỉ
lệ học sinh lưu ban, bỏ học đã giảm nhiều. Giáo dục sau đại học đã đào tạo
được số lượng đáng kể cán bộ có trình độ cao mà trước đây chủ yếu phải
dựa vào nước ngoài. GD – ĐT đã góp phần quan trọng trong nâng cao dân
trí, đào tạo đội ngũ lao động có trình độ học vấn tiểu học, trung học và đội ngũ
cán bộ đông đảo phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và an ninh,
quốc phòng. Trong nông nghiệp, công nghiệp và một số ngành khác, đội ngũ
cán bộ và công nhân nước ta có khả năng nắm bắt và ứng dụng nhanh chóng
một số công nghệ mới.
– Chất lượng GD – ĐT có tiến bộ bước đầu trên một số mặt về các môn
khoa học tự nhiên và kỹ thuật, ở bậc phổ thông và đại học hệ tập trung. Số
học sinh khá giỏi, số học sinh đạt giải trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế
ngày càng tăng.
– Trong GD – ĐT đã xuất hiện một số nhân tố mới. Ở nhiều nơi đã hình
thành phong trào học tập sôi nổi của cán bộ và nhân dân, nhất là thanh niên.
Các loại hình trường lớp, từ phổ thông đến đại học, đa dạng hơn, tạo thêm cơ
hội học tập cho nhân dân. Đã huy động được thêm các nguồn lực ngoài ngân
sách nhà nước để phát triển GD – ĐT. Các gia đình, các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức xã hội đã chăm lo cho giáo dục nhiều hơn trước. Các phương
tiện thông tin đại chúng đã xây dựng các chuyên mục phục vụ GD – ĐT. Hợp
tác quốc tế về GD – ĐT bước đầu được mở rộng…
Nguyên nhân của các thành tựu nói trên là:
– Do đường lối GD – ĐT đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, chính
sách đổi mới, trực tiếp là chính sách đổi mới trong GD ĐT, thể hiện tập trung
ở Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII).
– Truyền thống hiếu học của dân tộc ta được phát huy, nhu cầu học tập
của nhân dân không ngừng tăng lên. Nhân dân đóng góp rất nhiều công, của
xây dựng trường lớp và chăm lo sự nghiệp giáo dục.
– Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục và số đông học sinh, sinh
viên có những cố gắng rất lớn; đại bộ phận thầy, cô giáo có tâm huyết, gắn bó
với nghề. Các giáo viên ở vùng cao, vùng câu, vùng xa nêu cao tinh thần chịu
đựng gian khổ, hy sinh…
– Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân nhận thức rõ
hơn về vai trò của giáo dục đối với tương lai của đất nước, đã khắc phục
những khó khăn, tích cực tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục.
– Những thành quả phát triển kinh tế, ổn định chính trị, nâng cao đời
sống nhân dân qua mười năm đổi mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho giáo
dục.
b. Yếu kém
GD – ĐT nước ta còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô, cơ cấu, và
nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và
ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
– Hiện nay nước ta còn khoảng 7% dân số mù chữ; chưa phổ cập
được giáo dục THCS; tỉ lệ sinh viên trên dân số còn thấp; tỉ lệ lao động qua
đào tạo mới đạt hơn 22%; nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động và
cán bộ có tay nghề và trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao.
– Cơ cấu ngành nghề, trình độ, cơ cấu xã hội và cơ cấu vùng của đội
ngũ sinh viên, học sinh các trường đại học và chuyên nghiệp chưa hợp lí.
Mấy năm gần đây ở một số ngành rất cần thiết cho sự phát triển đất nước lại
có quá ít học sinh đăng ký theo học. Giáo dục chuyên nghiệp, nhất là đào tạo
công nhân kỹ thuật có lúc suy giảm mạnh, mất cân đối lớn về cơ cấu trình độ
trong đội ngũ lao động ở nhiều ngành sản xuất. Quy mô đào tạo nghề hiện
nay vẫn quá nhỏ bé; trình độ, thiết bị đào tạo lạc hậu, không đáp ứng được
yêu cầu CNH, HĐH.
– Đáng quan tâm nhất là chất lượng và hiệu quả giáo GD - ĐT còn
thấp. Trình độ kiến thức, kỹ năng thực hành, phương pháp tư duy khoa học,
trình độ ngoại ngữ và thể lực của đa số sinh viên còn yếu. Ở nhiều học sinh
ra trường, khả năng vận dụng kiến thức vào sản xuất và đời sống còn hạn
chế. Số đông sinh viên tốt nghiệp chưa có khả năng thích ứng với những biến
đổi nhanh chóng trong ngành nghề và công nghệ. Đặc biệt đáng lo ngại là
trong một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ
nhạt về lí tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp
vì tương lai của bản thân và đất nước. Đào tạo chưa gắn với sử dụng. Một số
sinh viên tốt nghiệp không chịu đi làm việc ở những vùng khó khăn, trong khi
ở các thành phố còn nhiều sinh viên tốt nghiệp không có việc làm hoặc làm
không đúng nghề đã được đào tạo.
– Có những biểu hiện tiêu cực trong giáo dục:
Dạy thêm và học thêm tràn lan, tốn nhiều thời gian và tiền bạc của học
sinh, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển toàn diện của học sinh và quan hệ
thầy trò. Nhiều trường đã tăng quy mô tuyển sinh vượt quá khả năng đào tạo,
mở quá nhiều lớp tại chức ở các địa phương mà không thực hiện đúng quy
chế, đúng chương trình, không đảm bảo chất lượng đào tạo. Tệ nạn xã hội,
ma túy đang thâm nhập một số trường học.
– Chưa thực hiện tốt công bằng xã hội trong giáo dục. Cụ thể: Con em
gia đình nghèo gặp nhiều khó khăn khi muốn học lên cao; ở các trường đại
học, tỉ lệ sinh viên là con em nhà nghèo, con em xuất thân công nông, nhất là
nông dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn ít.
– Đội ngũ giáo viên vừa thừa, vừa thiếu. Năm học 1995 –1996 cả nước
còn thiếu gần 120.000 giáo viên phổ thông. Nhìn chung, chất lượng đội ngũ
giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu phát triển GD – ĐT trong giai đoạn mới. Ở
bậc đại học, tỉ lệ giáo viên có trình độ sau đại học còn thấp và trong những
năm trước mắt sẽ có tình trạng hẫng hụt, thiếu người thay thế cho các cán bộ
có trình độ cao sắp nghỉ hưu.
Nguyên nhân của những yếu kém nói trên là:
– Công tác quản lý GD – ĐT có những mặt yếu kém, bất cập.
Chủ trương đổi mới về giáo dục, chưa được nghiên cứu, chuẩn bị chu
đáo, tổ chức thực hiện có nhiều thiếu sót. Mở rộng quy mô và phát triển nhiều
loại hình GD – ĐT nhưng có nhiều thiếu sót trong việc quản lí chương trình,
nội dung và chất lượng. Công tác thanh tra giáo dục còn, thiếu những biện
pháp hữu hiệu để kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo, đặc biệt là đối với
các hình thức trường “mở”, bán công, dân lập, tư thục và không tập trung.
Chậm phát hiện và xử lí các biểu hiện tiêu cực.
Cơ chế quản lí của ngành GD – ĐT chưa hợp lí, chưa phát huy quyền
chủ động và trách nhiệm của địa phương và nhà trường.
Nội dung GD – ĐT vừa thừa, vừa thiếu, nhiều phần chưa gắn với cuộc
sống.
Phương pháp GD – ĐT chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ
động, sáng tạo của người học.
– GD – ĐT chưa kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất nhà trường
chưa gắn với gia đình và xã hội. Hoạt động GD – ĐT chưa gắn mật thiết với
các hoạt động sản xuất và nghiên cứu khoa học. Gia đình và các tập thể,
cộng đồng xã hội chưa phối hợp chặt chẽ với nhà trường giáo dục thế hệ trẻ.
Các chính sách chưa đủ khuyến khích nghề dạy học và giáo viên đến
dạy ở những vùng khó khăn, chưa động viên được những giáo viên dạy giỏi
và giảng viên có trình độ cao. Hệ thống các trường sư phạm tuy đã được
quan tâm đầu tư hơn trước nhưng vẫn chưa đủ sức làm tốt công tác đào tạo
và bồi dưỡng giáo viên. Phương tiện dạy và học của các trường nhìn chung
chậm được cải thiện.
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan cũng cần thấy những nguyên
nhân khách quan như tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội từ
những năm trước, tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường.
Hiện nay sự nghiệp GD – ĐT đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa yêu
cầu vừa phải phát triển nhanh quy mô GD – ĐT, vừa phải gấp rút nâng cao
chất lượng GD – ĐT, trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng yêu cầu còn
nhiều hạn chế. Đó là mâu thuẫn trong quá trình phát triển. Định hướng chiến
lược phát triển GD – ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH, đặc biệt là những chủ
trương, giải pháp từ nay đến năm 2010 phải được thực hiện với tinh thần
cách mạng sâu sắc để giải quyết có hiệu quả mâu thuẫn nói trên.
2. Bối cảnh và thời cơ, thách thức đối với giáo dục nước ta trong vài thập kỷ tới
a. Những xu thế của thế giới có liên quan đến phát triển giáo dục
– Sự bùng nổ giáo dục
Sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và sự phát triển mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất là nguyên nhân làm nảy sinh cuộc vận động cải cách
giáo dục có tính chất thế giới lần thứ hai, diễn ra vào cuối những năm 50 đến
đầu những năm 70 của thế kỷ 20. Khác với cuộc cải cách giáo dục lần thứ
nhất đầu thế kỷ 20, trọng tâm lần này là cải cách quan niệm và kỹ thuật xây
dựng chương trình, thiết kế lại hệ thống các môn học, đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học, “hướng vào học sinh”.
Trong thời kỳ này, ở các nước công nghiệp và các nước đang phát
triển, sĩ số đều tăng lên một cách chưa từng thấy, có thể xem là một sự bùng
nổ sĩ số. Năm 1950, dân số thế giới khoảng 2,5 tỷ người, số người đi học trên
thế giới đạt khoảng 300 triệu (12%), trong đó hơn một nửa thuộc các nước
công nghiệp phát triển. Nhưng đến năm 1998, dân số thế giới đạt gần 6 tỷ
người. Tổng số người đi học trên thế giới đã tăng lên khoảng 1 tỷ (17%) mà
3/4 trong đó thuộc về các nước đang phát triển. Riêng đại học, năm 1960, thế
giới có khoảng 15 triệu sinh viên, năm 1995 (35 năm sau) đã tăng lên 82 triệu
(5,5 lần), những năm tiếp theo của thập kỷ 90 còn tăng nhanh hơn nữa.
Từ sau những năm 80, với sự xuất hiện nền kinh tế tri thức, hình thành
xã hội thông tin và xu thế toàn cầu hóa đã là những nhân tố tác động mạnh
mẽ đến giáo dục, tạo nên một làn sóng đổi mới, cải cách giáo dục trên thế
giới lần thứ ba. Đặc điểm quan trọng của trào lưu cải cách, đổi mới giáo dục
lần này là: xuất phát điểm để xem xét các vấn đề chủ yếu của giáo dục ở các
nước tương đối giống nhau, trọng tâm của giáo dục đều là:
Giáo dục đại chúng dần thay thế cho giáo dục tinh hoa;
Quan tâm đến việc hình thành các phẩm chất và năng lực cho thế hệ
trẻ và người lao động về ý thức trách nhiệm, tính tích cực chủ động; năng lực
sáng tạo, thích ứng nhanh với những sự đổi mới; phát huy cá tính, bản sắc
của người học;
Thực hiện chương trình cốt lõi thống nhất trên toàn quốc, đồng thời trao
quyền tự chủ cho địa phương, trường học, nhà giáo.
Đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục, giúp người học tiếp cận với những
thành tựu hiện đại của khoa học công nghệ. Trong trào lưu cải cách, hiện nay,
ở các nước phát triển người ta đã nới đến việc đại chúng hóa đại học (theo
UNESCO, số người học đại học trong độ tuổi dân số 18 – 23 đạt đến dưới
10%).
Đối với giáo dục phổ thông, trước những năm 60 (thế kỷ 20), các nước
chủ yếu tập trung nâng cao chất lượng tiểu học. Từ những năm 80 đến nay,
xu thế chung là nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô và phổ cập giáo dục
trung học. Từ năm 1965 đến 1985, quy mô học sinh trung học trên thế giới
tăng 300% - 153 triệu năm 1982.
Tỉ lệ học sinh trung học phổ thông học lên đại học ở một số nước phát
triển và đang phát triển trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương những năm
1986 – 1988 khá cao: Ấn Độ, In–đô-nê–xia, Ma–lai–xia dưới 10%; Nhật Bản
28,2%; Niu Dilân 36,35%; Philippin 37,9%; Hàn Quốc, Thái Lan có tỉ lệ cao
hơn. Một số nước, tuy tỉ lệ học sinh lên đại học thấp nhưng tỉ lệ học sinh tiểu
học học lên hết bậc trung học lại khá cao như: Trung Quốc 43%, Iran 48%,
Việt Nam 50–60%.
Việc xóa mù chữ được đẩy mạnh ở các nước kém phát triển. Tuy vậy,
cho đến nay vẫn chưa có khả năng xóa xong nạn mù chữ trên toàn thế giới.
Đến năm 1995 mới đạt đến 8/10 đàn ông và 7/10 đàn bà biết chữ, vẫn còn
khoảng 900 triệu người không biết đọc, biết viết.
Sự bùng nổ sĩ số có thể có nguyên nhân là: do sự bùng nổ dân số thế
giới sau chiến tranh; do những biến đổi kinh tế, mức sống được nâng cao,
những người trẻ tuổi có điều kiện lưu lại lâu hơn trong hệ thống giáo dục; do
nguyện vọng dân chủ hóa được nâng cao đòi hỏi giáo dục phát triển.
Sự bùng nổ sĩ số khiến cho chi phí giáo dục chiếm phần quan trọng
trong ngân sách; nhân sự và bộ máy quản lí phình to ra làm cho giáo dục trở
thành một ngành quan trọng của quốc gia. Sự tăng nhanh quy mô trong hệ
thống giáo dục làm nảy sinh nhiều vấn đề cho xã hội và sự quản lí của nhà
nước. Những khó khăn về cơ sở vật chất trường lớp, thầy giáo cũng xuất
hiện: giáo dục đã phải dùng đến biện pháp tình thế như học 2, 3 ca; dựng các
trường lớp lắp ghép sẵn và tạm bợ; huy động cả các thầy giáo chưa được
huấn luyện tốt v.v… Điều này xảy ra ngay cả ở các nước công nghiệp phát
triển.
Tình trạng bất bình đẳng trong giáo dục, kể cả ở tầm quốc gia và quốc
tế cũng trở nên căng thẳng hơn. Năm 1990 ước tính toàn thế giới còn khoảng
100 triệu trẻ em không được đi học, khoảng 1 tỷ người lớn còn mù chữ.
Đội ngũ thầy giáo đông đảo hơn, quan hệ giữa thầy giáo và học sinh
cũng thay đổi. Thầy giáo không còn là người cung cấp thông tin duy nhất. Vai
trò chủ yếu của thầy giáo chỉ còn ở việc tổ chức, hướng dẫn, khuyến khích
học sinh tham gia tích cực vào quá trình học tập. Ở các nước phát triển có
đến 80% ở tiểu học, 58% ở trung học nhà giáo là phụ nữ, còn ở các nước
đang phát triển, con số này tương ứng là 50% và 39%.
Tăng trưởng kinh tế cùng với sự phát triển nhanh và liên tục của khoa
học công nghệ đã làm biến đổi giáo dục một cách cơ bản và thực chất, đồng
thời có yêu cầu càng cao hơn đối với giáo dục. Các ngành khoa học tự nhiên
và công nghệ trở nên nổi trội và trở thành yếu tố quyết định của sự tăng
trưởng và cạnh tranh. Nhiều quốc gia đã tăng cường các môn khoa học, công
nghệ trong các bậc học. Trong xã hội xuất hiện sự chuyển dịch lao động từ
tính vực công nghiệp chế tạo sang lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao: công
nghệ thông tin, công nghệ năng lượng, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự
động hóa, công nghệ sinh học…
Trong khi quy mô tăng đột biến, thì tổ chức hệ thống giáo dục vẫn giữ
cơ bản như cũ đã trở nên không còn thích hợp. Các mục tiêu của giáo dục
cũng cần được thẩm định lại để đáp ứng với các thách thức mới phát sinh.
Rõ ràng là, để giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi phải đổi mới tư duy về giáo
dục, phải nghĩ tới việc giáo dục suốt đời, giáo dục cho mọi người và một xã
hội học tập.
– Kinh tế tri thức
Trong khoảng từ những năm 80 của thế kỷ qua, đến nay cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại đã có bước phát triển đặc biệt, tạo ra
những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc chưa từng có trong lịch sử nhân loại, với
thành tựu của các ngành công nghệ cao trụ cột chính như: công nghệ thông
tin (siêu xa lộ thông tin, internet, multimedia, thực tế ảo…), công nghệ sinh
học (công nghệ gen, công nghệ tế bào…), công nghệ vật liệu (vật liệu
composit, vật liệu siêu dẫn, công nghệ nano…), công nghệ năng lượng,… đã
đưa sự phát triển kinh tế sang một giai đoạn mới về chất, giai đoạn kinh tế tri
thức.
Như vậy là, bên cạnh các nền kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp,
đã có thêm nền kinh tế mới – kinh tế hậu công nghiệp – hay còn gọi là nền
kinh tế tri thức (KTTT). Người ta đã nghiên cứu và chỉ ra những đặc trưng chủ
yếu của 3 nền kinh tế trên: kinh tế sức người (kinh tế nông nghiệp), kinh tế tài
nguyên (kinh tế công nghiệp) và kinh tế từ thức (trong đó tri thức và thông tin
trở thành yếu tố sản xuất quan trọng hơn cả vốn và lao động).
Chiến lược phát triển giáo dục, phát triển con người của chúng ta phải
đáp ứng yêu cầu của cả ba nền kinh tế ấy. Chúng ta rất quan tâm đến những
đặc trưng của ba nền ki tế này với ý tưởng chung là phát triển giáo dục nhằm
phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực phục vụ các mục tiêu phát
triển xã hội – kinh tế.
So với sự chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp,
sự chuyển biến từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức có ý nghĩa sâu sắc
và trọng đại hơn. Đó là sự chuyển đổi từ một nền sản xuất dựa vào tài
nguyên, lao động là chính sang một nền sản xuất dựa vào trí tuệ con người là
chính, cũng tức là lực lượng sản xuất vật chất là chủ yếu sang lực lượng sản
xuất tinh thần là chủ yếu.
Trong nền KTTT sẽ xuất hiện một số vấn để mới đối với giáo dục.
Học với lao động là một
Nền kinh tế tri thức dựa chủ yếu trên lao động trí óc và sáng tạo cho
nên có sự trùng hợp giữa học tập và lao động. Khi lao động để hoàn thành
một sản phẩm trí tuệ thì đó cũng chính là học tập. Do đó phải học tập từng
phút, từng giờ trong lao động trí óc cho có hiệu quả. Tư duy chính là lao động.
Tư duy và hợp tác sẽ làm cho lao động trí óc có hiệu quả hơn.
Học tập trở nên thách thức suốt đời
Từ trước đến nay ta thường tách riêng thời đi học và thời đi làm. Trong
nền KTTT, học và làm là một. Người ta tính rằng với khối kiến thức của một
kỹ sư thì chỉ sau thời gian 3 năm khối kiến thức đó sẽ trở nên lạc hậu, cần
được bổ sung. Do đó phải liên tục học tập. Một chuyên gia được định nghĩa là
một người luôn luôn làm cho kiến thức tăng gấp đôi trong mỗi 18 tháng.
Học tập dịch chuyển dần ra ngoài các trường chính quy
Trong nền KTTT, tiêu dùng cũng là học tập; sử dụng thành thạo điện tử
gia đình cũng là học tập; mua hàng qua mạng internet, gửi thư điện tử (E–
mail) v.v… đều phải học. Giáo dục nhà trường chỉ là một phần, một giai đoạn
ngắn trong toàn bộ cuộc sống của mỗi con người. Vai trò của giáo dục ngoài
nhà trường kể cả đối với đại học ngày càng lớn. Giáo dục cao đẳng, đại học
chuyển từ giáo dục tinh hoa sang giáo dục đại chúng, giáo dục phổ cập.
Dường như khi đó học tập đã dịch chuyển dần ra ngoài các trường đại học
chính quy.
Xuất hiện hình thức giáo dục công nhân viên ở các hãng, các công ty:
hàng loạt các trường đại học của công ty xuất hiện như Motorola Univ.,
Hewlett – Packard Univ., Sam sung Univ. v.v... Cạnh tranh của doanh nghiệp
trở nên nhân tố cạnh tranh học tập, ai học tập được nhanh hơn sẽ thắng.
Chính các doanh nghiệp phải thành lập các tổ chức học tập để cạnh tranh.
Nhà trường của không gian điện tử
Một sinh viên cần phụ đạo về một vấn đề, trước đây phải tới gặp thầy
giáo được phân công, bây giờ có thể thông qua mạng (internet trong nước –
không gian điện tử) để đặt câu hỏi cho các địa chỉ và sẽ nhận được sự phụ
đạo tận tình, thậm chí có thể đối thoại. Xuất hiện nhà trường trên mạng, đó là
nhà trường của không gian điện tử.
Nếu hệ thống giáo dục được tích hợp đầy đủ vào siêu xa lộ thông tin
(mạng máy tính quốc gia) thì khả năng thích nghi của hệ thống với nền kinh tế
tri thức chắc chắn sẽ tốt đẹp.
– Xu thế toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là một xu thế của thế kỷ 20, do sự phát triển vũ bão của
khoa học, công nghệ – nhất là công nghệ cao và sự phát triển của kinh tế thị
trường. Xây dưng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực có trình độ trí tuệ
và tay nghề nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh là cách làm thông minh chủ động
hội nhập vào xu thế này.
Trong quá trình toàn cầu hóa, lợi thế cạnh tranh ngày càng nghiêng về
những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ nhân tài.
Do có lợi thế về tri thức khoa học và công nghệ, các nước phát triển có cơ hội
bóc lột giá trị thặng dư tinh vi và cao hơn trước đây nhiều lần.
Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa là động lực và là nguồn gốc sức
mạnh của mỗi dân tộc, là nội dung xuyên suốt mọi lĩnh vực hoạt động chính
trị, kinh tế, xã hội, khoa học, nghệ thuật, ngoại giao, an ninh quốc phòng của
mỗi quốc gia. Khi hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa, nếu biết phát huy
những giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại thì sẽ có sức để kháng đối với các cuộc “xâm lược văn
hóa” diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Cuộc cách mạng thông tin hiện nay đang
tạo điều kiện thuận lợi để tiếp thu các tinh hoa văn hóa của các nước, nhưng
đồng thời cũng làm cho các nền văn hóa dễ bị pha tạp, lai căng, mất bản sắc.
Chính sách đúng đắn là kết hợp hài hòa giữa tự do thông tin vui kiểm soát có
lựa chọn. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát huy truyền thống dân tộc
phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực giáo dục và trong lĩnh vực hoạt động
chính trị, kinh tế, xã hội khoa học, nghệ thuật, ngoại giao, an ninh quốc
phòng… Chính đó là nguồn gốc sức mạnh của dân tộc.
Toàn cầu hóa là một xu thế không thể đảo ngược, đó là sự hợp tác
trong cạnh tranh quyết liệt. Điều kiện cần để thành công trong cuộc đua tranh
này là có một đội ngũ nhân lực đủ sức đương đầu với cạnh tranh và hợp tác.
Nền giáo dục nước ta có sứ mệnh đào tạo ra những người lao động có khả
năng thích ứng với những thay đổi công nghệ, những biến động của việc làm,
sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế, sự giao lưu văn hóa, sự chuyển đổi giá trị
trong phạm vi khu vực và thế giới mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
Toàn cầu hóa tạo ra cơ hội cho GD – ĐT nước ta hội nhập với nền GD – ĐT
của thế giới, bắt kịp với GD – ĐT các nước tiên tiến hơn và cơ hội sử dụng
kho tàng tri thức nhân loại.
b. Bối cảnh trong nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định rằng trên cơ sở nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong thời gian từ nay đến khoảng năm 2020
ra sức phấn đấu để nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, có cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục tiêu đặt ra đối với phát triển kinh tế là tăng trưởng thu nhập quốc
nội trung bình năm 7 – 8% và ổn định trong một khoảng thời gian dài, phấn
đấu GDP/ người đạt 700 – 800USD vào năm 2010. Để đạt mục tiêu đó, nhiệm
vụ trung tâm trong thời gian tới là tiến hành CNH, HĐH đất nước; tức là về
mặt sản xuất sẽ chuyển đổi căn bản từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng lao động có trình độ cao với công nghệ tiên tiến, công
nghệ sản xuất và các hệ điều khiển hiện đại: về mặt xã hội sẽ biểu hiện nhiều
giá trị hiện đại, văn minh chung của nhân loại ngày nay, đảm bảo các điều
kiện phát triển bền vững cả thiên nhiên và con người. Con người có cuộc
sống đảm bảo về vật chất và tinh thần, có học vấn, có năng lực sáng tạo và
thích ứng với nghề nghiệp, tiếp cận nhanh với tiến bộ của công nghệ và
những thay đổi trong sản xuất, có điều kiện tham gia nhiều và tích cực vào
mọi mặt sinh hoạt xã hội.
Nước ta tiến hành CNH, HĐH với xuất phát điểm là một nước nông
nghiệp với 76% dân cư sống ở nông thôn (điều tra dân số 1999) và 25.75%
thu nhập quốc dân từ nông nghiệp (năm 1998). Trong quá trình CNH sẽ diễn
ra sự dịch chuyển một cách cơ bản cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo
hướng giảm tỉ lệ đóng góp của nông lâm ngư nghiệp trong GDP xuống 18 –
20% vào năm 2005, 17% vào năm 2010; tương ứng với các mốc thời gian đó,
tăng tỉ lệ công nghiệp lên 36 – 38%, và 40%, dịch vụ lên 41% và 43%; giảm tỷ
trọng lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xuống 50% vào năm 2010,
lao động công nghiệp và xây dựng khoảng 23% và lao động dịch vụ khoảng
27%. Để đạt được các chỉ tiêu đó cần đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn. Những nền kinh tế tăng trưởng cao ở Châu Á đã giải
quyết thành công bài toán này và bài học của họ là dùng giáo dục làm chìa
khóa để công nghiệp hóa nông nghiệp, biến gánh nặng dân số nông thôn
thành ưu thế về nhân lực.
Nền tảng của CNH, HĐH đất nước sẽ là việc ứng dụng công nghệ hiện
đại, tạo cơ hội để chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu kinh tế, tạo khả năng hội
nhập vào quá trình toàn cầu hóa. Một mặt những công nghệ hiện đại, công
nghệ cao sẽ được sử dụng trong lĩnh vực then chốt, mặt khác tạo nhiều công
ăn việc làm. Trong điều kiện đó, GD – ĐT có cơ hội đào tạo nhân lực trình độ
cao, để sử dụng các công nghệ hiện đại trong các ngành sản xuất mới và cả
nhân lực thích hợp cho những công việc truyền thống.
Quá trình CNH, HĐH cũng sẽ đề ra yêu cầu đào tạo nhân lực để làm
gia tăng tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong lực lượng lao động xã hội cũng
như trong tổng sản phẩm nội địa. Lĩnh vực dịch vụ chủ yếu dựa vào nguồn
lực con người và không đòi hỏi đầu tư cao về cơ sở vật chất như trong các
ngành công nghiệp khác nên các nước đang phát triển như nước ta có thể
nhanh chóng vươn lên chiếm lĩnh nó, rút ngắn thời gian phát triển. Để tận
dụng được khả năng đó, cũng cần phải chuẩn bị tốt về nhân lực.
Nước ta tiến hành CNH, HĐH, xây dựng cơ sở vật chất CNXH trong
điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Khi
sản xuất hàng hóa phát triển thì sức lao động cũng trở thành hàng hóa trên thị
trường và mỗi cá nhân đều tìm cách làm tăng giá trị sức lao động, nâng cao
chất lượng cuộc sống bản thân. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, người
học phải trang trải một phần kinh phí GD – ĐT, tức là chịu một phần chi phí để
làm tăng giá trị sức lao động bản thân và sẽ được hoàn trả lại khi tham gia thị
trường lao động sau này. Điều đó tạo cơ hội cho GD – ĐT khai thác thêm
nhiều nguồn lực ngoài kinh phí nhà nước. Bởi vì thị trường chịu sự điều tiết
theo quy luật cung – cầu, nên GD – ĐT cũng phần nào chịu tác động bởi quy
luật đó. Do sự tác động này mà động lực nâng cao chất lượng và hiệu quả
của GD – Đ r tăng lên, các cơ sở GD – ĐT có thêm cơ hội phát triển. Trong
nền kinh tế thị trường, hiệu quả kinh tế được đề cao, trở thành thước đo công
việc. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến động cơ học tập, đến việc lựa chọn ngành
nghề, đến các quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội. Vì vậy hệ thống GD
– ĐT có sứ mệnh định hướng giá trị đúng đắn cho sự phát triển nhân cách
của người học.
c. Thời cơ và thách thức
Bối cảnh quốc tế và trong nước vừa tạo ra thời cơ lớn, vừa đặt ra
những thách thức không nhỏ cho giáo dục nước ta. Sự đổi mới và phát triển
giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội tốt cho giáo dục Việt Nam
nhanh chóng tiếp cận với các xu thế mới, phương thức tổ chức, nội dung
giảng dạy hiện đại và tận dụng các kinh nghiệm quốc tế.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng coi trọng vai trò của giáo
dục, đòi hỏi giáo dục phải đổi mới và phát triển đáp ứng nhu cầu ngày càng
lớn của nhân dân.
Giáo dục nước ta phải vượt qua không chỉ những thách thức. Một mặt
phải khắc phục những yếu kém bất cập, thu hẹp khoảng cách với những nền
giáo dục tiên tiến, mặt khác, phải khắc phục sự mất cân đối giữa yêu cầu phát
triển nhanh quy mô và nguồn lực còn hạn chế giữa yêu cầu phát triển nhanh
quy mô và nâng cao chất lượng.
Thực tiễn chuyển đổi cơ chế và phát triển kinh tế đòi hỏi giáo dục phải
tiếp cận và thích nghi với cơ chế mới, phải luôn phát triển và đi trước một
bước đón đầu sự phát triển của xã hội. Dân tộc ta có truyền thống yêu nước,
lao động cần cù, tinh thần hiếu học, năng lực tiếp thu, vận dụng tri thức và kỹ
năng mới. Cần phát huy những lợi thế đó để vượt qua thách thức, tranh thủ
thời cơ xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại, hướng tới một xã hội
học tập, nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao phẩm chất
toàn diện của con người Việt Nam trong thời đại mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VỀ SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật Giáo
dục (1998), Báo cáo chính trị Đại hội IX của Đảng (2001) và Chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 đã chỉ rõ những quan điểm chỉ đạo phát
triển giáo dục nước ta. Chiến lược phát triển giáo dục 2001–2010 đã xác định
các quan điểm cơ bản:
1. Giáo dục là quốc sách hàng đầu
Trong thời đại ngày nay, không một dân tộc nào có thể đứng vững ở vị
trí tiên tiến mà thiếu sự học tập tích cực. Sự phồn vinh của một quốc gia trong
thế kỷ 21 sẽ phụ thuộc vào khả năng học tập của dân chúng. Vì vậy, hiện nay,
không chỉ Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới đã đặt giáo dục vào vị trí
quốc sách hàng đầu.
Con người được giáo dục và biết tự giáo dục mới có khả năng giải
quyết một cách sáng tạo và có hiệu quả tất cả những vấn đề do sự phát triển
xã hội đặt ra. Giáo dục được coi là nhân tố quan trọng nhất, “vừa là động lực,
vừa là mục tiêu” của sự phát triển bền vững của xã hội. Giáo dục là tiền đề
quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
quốc phòng và an ninh, là bộ phận hữu cơ quan trọng nhất trong chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Mục tiêu giáo dục được coi là
mục tiêu quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế.
GD – ĐT là quốc sách hàng đầu được Đảng và Nhà nước Việt Nam coi
đó là một chiến lược giáo dục mà mục tiêu của nó là: xây dựng một hệ thống
GD – ĐT phát triển đi trước một bước so phát triển kinh tế, mà nét đặc trưng
của nó được thể hiện ở các mặt chính sau đây:
1) Tính phổ cập rộng rãi với chất lượng cao về đạo đức, phẩm chất,
trình độ văn hóa, khoa học và công nghệ.
2) Khả năng đáp ứng đầy đủ, kịp thời những nhu cầu nhân lực cần thiết
cho phát triển kinh tế.
3) Phát triển toàn diện nhân cách, với trình độ về đạo đức, phẩm chất,
về kiến thức, kỹ năng khoa học và công nghệ ngang tầm tiên tiến của các
quốc gia trong khu vực.
Ba vấn đề trên thực chất là phát triển phẩm chất và năng lực con
người, tức là phát triển nhân cách con người, gọi tắt là phát triển con người.
Vấn đề này trở thành một chính sách quan trọng trong đường lối phát triển
của nhiều quốc gia. Chính vì vậy “phát triển con người” đã được Chương
trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) khái quát lên thành chỉ số về phát
triển con người (HDI) và được công bố hàng năm. Như vậy GD – ĐT là quốc
sách hàng đầu là chiến lược giáo dục của nhiều quốc gia, chiến lược về con
người mà thực chất của nó là phát triển chỉ số HDI.
Để thực hiện được quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, Nhà
nước có trách nhiệm xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển GD – ĐT. Nhà
nước coi đầu tư cho GD – ĐT là đầu tư cho sự phát triển, ưu tiên đầu tư cho
GD – ĐT có chính sách phát huy hiệu quả đầu tư của Nhà nước, huy động sự
đóng góp của toàn xã hội và phát huy tiềm lực sẵn có của ngành GD – ĐT.
2. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, theo định hướng XHCN.
Xây dựng nền giáo dục theo định hướng XHCN, trong điều 3, khoản 1
Luật Giáo dục (1998) có ghi: Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
Mục tiêu là xây dựng một nước Việt Nam độc lấp, giàu mạnh và tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Đối với giáo dục, mục tiêu đó phải thể hiện trên cả hai
phương diện nhân cách và xã hội.
Về mặt nhân cách, giáo dục phải đóng vai trò chủ đạo trong việc hình
thành con người lao động và có khả năng lao động tạo ra nhiều của cải vật
chất cho xã hội. Đó là con người phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức,
sức khỏe và thẩm mỹ, phát hiện được năng lực cá nhân, có kỹ năng nghề
nghiệp, năng động, sáng tạo, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, có ý thức công dân, góp
phần làm cho dân giàu nước mạnh.
Về mặt xã hội, mục tiêu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải
được thể hiện trong giáo dục vĩ mô. Việc tổ chức, quản lí các chính sách GD
– ĐT phải theo hướng XHCN. Giữ vững vai trò nòng cốt của các trường công
lập trong hệ thống giáo dục quốc dân; thực hiện công bằng xã hội trong GD –
ĐT, tạo cơ hội bình đẳng để ai ai cũng được học hành, nhất là bảo đảm cho
những đối tượng là con em những gia đình có công với nước. Nhà nước và
xã hội có cơ chế, chính sách giúp đỡ con em những gia đình nghèo học giỏi
hoặc những người khuyết tật đều có cơ hội và điều kiện học tập, khuyến
khích những người học giỏi phát triển tài năng, phát triển giáo dục vùng sâu,
vùng xa, tạo cơ hội cho những dân tộc thiểu số có điều kiện tiếp nhận GD –
ĐT.
Đảng và Nhà nước là người đại diện tối cao cho quyền lợi dân tộc và là
người lãnh đạo, điều hành GD – ĐT nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Phổ
biến sâu rộng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về GD – ĐT cho
toàn xã hội, làm cho toàn xã hội thống nhất ý chí và hành động trong mặt trận
này.
Cần tiếp tục xây dựng hệ thống các văn bản pháp quy làm cơ sở cho
việc tổ chức, quản lí giáo dục bằng pháp luật, mở rộng dân chủ, tăng quyền
tự quản cho các cơ sở GD – ĐT, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, giữ
vững kỉ cương, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục.
3. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ khoa học – công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh
Tư tưởng chỉ đạo của quan điểm này là phát triển giáo dục nhằm xây
dựng một nền giáo dục phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, an
ninh quốc phòng, lấy mục tiêu đào tạo nhân lực làm trung tâm.
Trong Luật Giáo dục (1998), Điều 8 đã quy định: Phát triển giáo dục
phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ khóa học – công
nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm cân đối về cơ cấu trình độ, cơ
cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở đảm bảo
chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng.
Trong xã hội hiện đại, mối quan hệ hữu cơ giữa giáo dục và kinh tế tạo
ra sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội trong quá trình phát
triển. Do đó, trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, phát
triển GD – ĐT phải là một bộ phận cấu thành quan trọng, chuẩn bị trước về
nhân lực để đón đầu sự phát triển. Kế hoạch phát triển kinh tế, với tốc độ tăng
trưởng cao của nước ta trong vài chục năm tới, tạo ra nhu cầu về nhân lực rất
cao. GD – ĐT phải đặt trọng tâm vào việc đáp ứng nhu cầu nhân lực đó. Nhu
cầu này thể hiện trên các mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu nhân lực, bao
gồm lao động kỹ thuật, nhân lực khoa học – công nghệ, các doanh nhân và
những người quản lí. Nhân lực được đào tạo với số lượng đủ, chất lượng phù
hợp, cơ cấu hợp lí là nhân tố quan trọng để thực hiện chuyển dịch cơ cấu từ
nền kinh tế có tỷ trọng nông nghiệp khá cao sang nền kinh tế có tỉ lệ đóng góp
chủ yếu từ công nghiệp và dịch vụ. Cần quan tâm bồi dưỡng một lực lượng
lao động kỹ thuật lành nghề, những chuyên gia khoa học – công nghệ có tài
năng và những nhà quản lí giỏi.
Quan điểm này thể hiện chức năng phát triển xã hội và chức năng phục
vụ xã hội của giáo dục.
Chức năng phát triển xã hội thừa nhận giáo dục là tiền đề quan trọng
của sự phát triển tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội khác như kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học, an ninh, quốc phòng. Để thực hiện tốt chức năng này,
trong các chương trình phát triển kinh tế, quy hoạch các ngành sản xuất –
dịch vụ, các khu công nghiệp, các dự án xóa đói giảm nghèo, khuyến nông,
khuyến lâm, các chương trình khoa học – công nghệ và các chương trình
kinh tế - kỹ thuật trọng điểm cần quy hoạch phát triển nguồn nhân lực như
một bộ phận cấu thành của chương trình tổng thể với đầu tư tương xứng. GD
– ĐT cùng với các cơ sở hạ tầng khác như điện lực, giao thông v.v… cần
phải đi trước một bước trong các chương trình phát triển kinh tế – xã hội của
các ứng, các địa phương, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến miền núi và
những vùng, miền khó khăn. Các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, dịch vụ
phải dành một phần kinh phí đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân lực
của mình và tham gia phát triển GD – ĐT trên địa bàn.
Chức năng phục vụ xã hội thể hiện tính hiệu quả của giáo dục. Các
nguyên tắc “chi phí – lợi ích”, “chi phí – kết quả” được sử dụng trong huy
động và sử dụng nguồn lực. Sự gắn bó chặt chẽ giữa GD - ĐT với xã hội
được thể hiện trong mối quan hệ hài hòa giữa đào tạo - sử dụng – việc làm.
Nhà nước có chính sách đúng đắn hướng dẫn mối quan hệ này để đạt được
hiệu quả kinh tế – xã hội cao của GD – ĐT. Nhà nước có chính sách để
những người do nhà trường đào tạo ra được sử dụng phù hợp với trình độ và
được trả công xứng đáng với việc làm để tạo động lực cho sự phát triển GD –
ĐT.
Để đào tạo được những con người đáp ứng được yêu cầu công việc
trong thực tiễn cần phải đổi mới nội dung, chương trình và đặc biệt là phương
pháp để giáo dục, đào tạo ra con người làm việc có sáng tạo, thích nghi
nhanh với sự thay đổi thường xuyên của môi trường.
4. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân
Tư tưởng chỉ đạo của quan điểm này là: xây dựng một xã hội học tập,
tạo điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường
xuyên, học suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp
giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để
toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục.
Điều 11 trong Luật Giáo dục (1998) khi nói về xã hội hóa sự nghiệp
giáo dục đã khẳng định: Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách
nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi
trường giáo dục lành mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo
dục.
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển sự nghiệp giáo dục;
thực hiện đa dạng hóa các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục,
khuyến khích huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát
triển sự nghiệp giáo dục.
GD – ĐT không chỉ là công việc của nhà trường mà là công iệc chung
của toàn xã hội. Từng người dân, từng gia đình, từng tập thể, tổ chức Đảng,
chính quyền các cấp, các tổ chức kinh tế – xã hội, các tổ chức quần chúng
cùng xây dựng cộng đồng trách nhiệm đối với sự phát triển GD – ĐT và phối
hợp tạo dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Các phương tiện truyền thông
đại chúng phối hợp với ngành GD – ĐT trong việc xây dựng và chuyển tải các
chương trình giáo dục và phổ biến kiến thức đến mọi người. Cần phối hợp
giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong sự nghiệp “trồng người” thông
qua nhiều hình thức như hoạt động của Hội đồng giáo dục các cấp, Hội
khuyến học, Hội cha mẹ học sinh, các quỹ bảo trợ học đường và các hình
thức tổ chức khác.
Mọi người tham gia GD – ĐT bằng cách tự mình học tập thường xuyên
suốt đời. Nêu gương học tập phải trở thành truyền thống của mỗi gia đình,
mỗi tổ chức, mỗi địa phương và toàn dân tộc. Tạo dựng một xã hội học tập, ở
đó mọi người học tập và được tạo điều kiện để học tập, phải là mục tiêu cao
cả của sự nghiệp GD – ĐT.
Để thực sự giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của
toàn dân thì một mặt Nhà nước tăng cường đầu tư từ ngân sách cho GD –
ĐT, mặt khác, người học, người sử dụng lao động, các tổ chức kinh tế – xã
hội hăng hái đóng góp nguồn lực cho GD – ĐT, coi đó là trách nhiệm và nghĩa
vụ đối với xã hội; dần dần hình thành thói quen chi trả một phần kinh phí của
GD – ĐT, ở cấp bậc học càng cao phần chi trả đó càng lớn.
Xã hội hóa GD – ĐT không phải giải pháp tài chính tạm thời mà là
phương thức phát triển GD – ĐT lâu dài và toàn điện.
Tư tưởng chỉ đạo của chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn
hiện nay nhằm khắc phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực; tiếp tục đổi
mới một cách có hệ thống và đồng bộ; tạo cơ sở để nâng cao rõ rệt chất
lượng và hiệu quả giáo dục; phục vụ đắc lực CNH, HĐH đất nước, chấn hưng
đất nước, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, mau chóng sánh vai
được với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
III. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤCMục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2010 đã được ghi trong chiến
lược phát triển giáo dục.
1. Mục tiêu chung
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 đã nêu rõ, để đáp ứng
yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển
đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện
về giáo dục. Vì vậy, mục tiêu của Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010
là:
Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp
cận với trình độ tiên tiến của thế giới phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phục vụ
thiết thực cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, của từng
vùng, từng địa phương, hướng tới một xã hội học tập. Phấn đấu đưa nền giáo
dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với các nước
phát triển trong khu vực.
Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân
lực khoa học – công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lí, kinh doanh giỏi và
công nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế, đẩy nhanh tiến độ thực hiện phổ cập THCS.
Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục các
cấp bậc học và trình độ đào tạo; phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu
vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả và đổi mới phương
pháp dạy – học; đổi mới quản lí giáo dục tạo cơ sở pháp lí và phát huy nội lực
phát triển giáo dục.
2. Mục tiêu phát triển các cấp bậc học, trình độ và loại hình giáo dục
Đồng thời với việc tăng cường chất lượng và hiệu quả, tiếp tục mở rộng
quy mô các cấp bậc học và trình độ đào tạo, phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ
cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lực. Nâng tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo ở các trình độ vào năm 2010 đạt 40%, trong đó cao đẳng trở lên 6%,
trung học chuyên nghiệp 8%, công nhân kỹ thuật 26%. Thực hiện phổ cập
THCS trong cả nước.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày
càng tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó
khăn.
– Giáo dục mầm non: Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
trước 6 tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ; mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn
dân cư, đặc biệt ở nông thôn và những vùng khó khăn; tăng cường các hoạt
động phổ biến kiến thức và tư vấn nuôi dạy trẻ cho các gia đình.
Đến năm 2010, hầu hết trẻ em đều được chăm sóc, giáo dục bằng
những hình thức thích hợp. Tăng tỉ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm
2000 lên 15% năm 2005 và 18% năm 2010. Đối với trẻ 3 –5 tuổi tăng tỉ lệ đến
trường, lớp mẫu giáo từ 50% năm 2000 lên 58% vào năm 2005 và 67% vào
năm 2010; riêng trẻ 5 tuổi tăng tỉ lệ huy động đến mẫu giáo để chuẩn bị vào
lớp 1 từ 81% năm 2000 lên 85% vào năm 2005 và 95% vào năm 2010. Giảm
tỉ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non xuống dưới
20% vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010.
– Giáo dục phổ thông: Thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí, thể,
mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp;
tiếp cận trình độ các nước phát triển trong khu vực xây dựng thái độ học tập
đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học,
ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Tiểu học: Phát triển những đặc tính tự nhiên tốt đẹp của trẻ em, hình
thành ở học sinh lòng ham hiểu biết và những đức tính, kỹ năng cơ bản đầu
tiên để tạo hứng thú học tập và học tập tốt. Củng cố và nâng cao thành quả
phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước. Tăng tỉ lệ huy động học sinh trong
độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99% năm 2010.
Trung học cơ sở: Cung cấp cho học sinh học vấn phổ thông cơ sở và
những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân
luồng sau THCS, tạo điều kiện để học sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc
sống lao động. Đạt chuẩn phổ cập THCS ở các thành phố, đô thị, vùng kinh tế
phát triển vào năm 2005, trong cả nước vào năm 2010. Tăng tỉ lệ học sinh
THCS trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 80% vào năm 2005 và 90% vào
năm 2010.
Trung học phổ thông: Thực hiện chương trình phân ban hợp lí nhằm
đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ thông, cơ bản theo một chuẩn thống
nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp
học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau THPT, để học sinh vào đời hoặc chọn
ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp. Tăng tỉ lệ học sinh trong độ tuổi vào
THPT từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010.
– Giáo dục nghề nghiệp: Đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy
nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện
đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, với việc làm trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đáp ứng nhu cầu của các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu vực nông thôn, các ngành kinh tế mũi nhọn và xuất
khẩu lao động. Mở rộng đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có kiến
thức kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp dựa trên nền học vấn THCS.
Hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế – xã hội, trong đó chú trọng phát triển đào tạo nghề ngắn hạn và
đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có trình độ cao
dựa trên nền học vấn THPT hoặc trung học chuyên nghiệp.
Trung học chuyên nghiệp: Thu hút học sinh trong độ tuổi vào các
trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% năm 2005, 15% năm 2010.
Dạy nghề: Thu hút học sinh sau THCS vào học các trường dạy nghề từ
6% năm 2000 lên 10% năm 2005, 15% năm 2010.
Dạy nghề bậc cao: Thu hút học sinh sau THPT, trung học chuyên
nghiệp vào học các chương trình này đạt 5% năm 2005, 10% năm 2010.
– Giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học: Đáp ứng nhu cầu
nguồn nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế xã hội của thời kỳ
CNH, HĐH, nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng giáo dục
sau THPT qua việc đa dạng hóa chương trình đào tạo trên cơ sở xây dựng
một hệ thống liên thông phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu vùng miền của nhân lực và năng lực của các cơ sở đào tạo. Tăng cường
năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội, năng lực tự tạo việc làm cho
mình và cho những người khác.
Nâng tỉ lệ sinh viên từ 118 sinh viên trên 1 vạn dân năm học 2000 –
2001 lên 200 sinh viên trên 1 vạn dân vào năm 2010. Tăng quy mô đào tạo
thạc sĩ từ 11.727 học viên năm 2000 lên 38.000; nghiên cứu sinh từ 3.870
năm 2000 lên 15.000 vào năm 2010.
– Giáo dục không chính quy: Phát triển giáo dục không chính quy
như là một hình thức huy động tiềm năng của cộng đồng để xây dựng xã hội
học tập, tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi trình độ, mọi lứa tuổi, mọi nơi có thể
học tập suốt đời, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mỗi cá nhân, góp
phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực.
Củng cố và nâng cao kết quả xóa mù chữ cho người lớn, đặc biệt ở
vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện có hiệu quả các chương trình sau xóa
mù chữ, bổ túc trên tiểu học để góp phần thực hiện chủ trương phổ cập giáo
dục THCS vào năm 2010; tạo điều kiện để thực hiện phổ cập bậc trung học
trong những năm tiếp theo. Tạo cơ hội cho đông đảo người lao động được
tiếp tục học tập, được đào tạo lại, được bồi dưỡng ngắn hạn, định kỳ và
thường xuyên theo các chương trình giáo dục, các chương trình kỹ năng
nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu nâng cao năng suất lao động, tăng thu
nhập hoặc chuyển đổi nghề nghiệp. Chú trọng phát triển các chương trình
chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cán bộ lãnh đạo, quản lí, công chức nhà nước
từ Trung ương đến địa phương.
– Giáo dục trẻ khuyết tật: Tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật được học tập
ở một trong các loại hình lớp hòa nhập, bán hòa nhập hoặc chuyên biệt, đạt tỉ
lệ 50% vào năm 2005 và 70% vào năm 2010.
IV. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN GIÁO DỤCCác giải pháp chiến lược phải thể hiện đầy đủ các quan điểm phát triển,
thực hiện được các mục tiêu đề ra và định hướng tương đối toàn diện sự
phát triển GD – ĐT. Để đạt được các mục tiêu trên, cần tập trung thực hiện 7
nhóm giải pháp.
Trong đó các giải pháp trọng tâm là: đổi mới chương trình giáo dục;
phát triển đội ngũ nhà giáo, còn giải pháp đổi mới quản lí giáo dục là khâu đột
phá.
1. Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục
– Thiết kế nội dung GD – íT cho phù hợp với các yêu cầu của từng cấp
bậc học theo hướng đảm bảo tính cơ bản, hiện đại nhưng tinh giản, vừa sức;
tăng tính thực tiễn và thực hành, đáp ứng những yêu cầu phát triển của đất
nước, của từng vùng, miền, nhu cầu học tập, làm việc của người học. Ở các
cấp bậc học phổ thông thực hiện giáo dục toàn diện; về kiến thức ưu tiên tính
cơ bản nhưng không quá nặng nề về lí thuyết. Trong đào tạo nghề nghiệp chú
trọng yêu cầu thực hành. Thiết kế lại các chương trình học tập cho bậc tiểu
học và THCS bao gồm mục tiêu cụ thể, nội dung môn học, phương pháp và
việc tổ chức quá trình giáo dục và dạy học để triển khai sau năm 2005.
Nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài để thiết kế những môn học thích hợp
trong giáo dục phổ thông.
– Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục đạo đức, giáo dục chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhà trường phù hợp với
lứa tuổi và cấp bậc học. Coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân
văn, nhất là tiếng Việt, lịch sử địa lí, văn hóa Việt Nam. Xây dựng các môn
khoa học kinh tế, quản lí, luật pháp phù hợp với điều kiện nước ta và quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tăng cường giáo dục
môi trường trong nhà trường các cấp.
Lựa chọn và sắp xếp một cách thích hợp nội dung các môn học khoa
học tự nhiên và kỹ thuật; cập nhật các tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại
vào nội dung các môn học ở các cấp bậc học; tăng cường nội dung giáo dục
kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp, tăng cường phần thực hành trong giáo
dục phổ thông, kỹ năng hành nghề trong đào tạo nghề nghiệp. Lôi cuốn sự
tham gia của giới công nghiệp và người sử dụng lao động vào quá trình đào
tạo. Xây dựng các chương trình liên thông DN – THCN, DN – THCN – CĐ Và
CĐ – ĐH.
– Đưa công nghệ thông tin vào trường học bằng cách tận dụng các
nguồn đầu tư để trang bị và xây dựng các phòng máy vi tính, thiết kế các
chương trình môn học máy tính phù hợp cho các loại trường ở những vùng
khác nhau. Tăng cường sử dụng máy tính trong dạy học ở những vùng có
điều kiện, tiến tới sử dụng công nghệ thông tin để thay đổi cách dạy và cách
học.
– Tổ chức cho học sinh tham gia các hình thức giáo dục thể chất nội,
ngoại khóa, các hoạt động văn hoá: xã hội phù hợp với lứa tuổi. Tăng cường
năng lực giao tiếp, kỹ năng và thái độ hợp tác trong công việc.
Nội dung chương trình đối mới theo hướng:
– Chuẩn hóa, hiện đại hóa, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực
và thế giới;
– Thích ứng với nhu cầu nguồn nhân lực cho các lĩnh vực kinh tế – xã
hội của đất nước, của từng vùng và từng địa phương;
– Thực hiện nguyên lí học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với
giáo dục gia đình và giáo dục xã hội;
– Chú trọng giáo dục thể chất và bồi dưỡng nhân cách người học;
– Hiện đại hóa trang thiết bị giảng dạy và học tập, phòng thí nghiệm và
cơ sở thực hành;
– Nhanh chóng áp dụng công nghệ thông tin vào giáo dục để đổi mới
phương pháp giáo dục và quản lí giáo dục.
a. Giáo dục phổ thông
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thực hiện giảm tải. Có cơ cấu
chương trình hợp lí vừa đảm bảo được chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản,
vừa tạo điều kiện để phát triển năng lực của mỗi học sinh, nâng cao năng lực
tư duy, kỹ năng thực hành, tăng tính thực tiễn, coi trọng kiến thức khoa học
xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại
phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh và tiếp cận trình độ giáo dục phổ
thông ở các nước phát triển trong khu vực; quan tâm đầy đủ đến giáo dục
phẩm chất, đạo đức, ý thức công dân, giáo dục sức khỏe và thẩm mỹ cho học
sinh.
Các dân tộc ít người được tạo điều kiện để học tập và nắm vững tiếng
phổ thông, đồng thời tổ chức học chữ viết riêng của dân tộc.
Chú trọng trang bị và nâng cao kiến thức tin học, ngoại ngữ cho học
sinh. Dạy ngoại ngữ trên diện rộng từ lớp 6; học sinh được học ổn định và
liên tục ít nhất một ngoại ngữ để khi tốt nghiệp THPT có thể sử dụng được.
Phổ cập kiến thức tin học cơ sở trong nhà trường, đặc biệt chú trọng khả
năng truy cập và xử lí thông tin trên mạng.
Thực hiện chương trình và sử dụng sách giáo khoa mới ở lớp đầu tiểu
học và lớp đầu THCS từ năm học 2002 – 2003, lớp đầu THPT từ năm học
2004 – 2005. Đến năm học 2006 - 2007 hoàn thành triển khai chương trình,
sách giáo khoa mới trong giáo dục phổ thông.
b. Giáo dục nghề nghiệp
Xây dựng và ban hành danh mục ngành nghề đào tạo, đổi mới và
chuẩn hóa nội dung, chương trình đào tạo theo hướng mềm dẻo, nâng cao kỹ
năng thực hành, năng lực tự tạo việc làm, năng lực thích ứng với sự biến đổi
nhanh chóng của công nghệ và thực tế sản xuất kinh doanh, gắn kết chặt chẽ
với việc làm trong xã hội, liên thông với các trình độ đào tạo khác.
Kết hợp chặt chẽ việc đào tạo về kiến thức và kỹ năng cơ bản tại
trường với đào tạo kỹ năng nghề nghiệp tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Huy
động các chuyên gia làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh tham gia xây
dựng chương trình, nội dung, tham gia giảng dạy và đánh giá kết quả đào tạo.
Xây dựng nội dung, chương trình đào tạo nghề bậc cao theo hướng
tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới ưu tiên các lĩnh
vực công nghệ: thông tin, sinh học, vật liệu mới, chế tạo máy, tự động hóa và
một số ngành phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
c. Giáo dục đại học, cao đẳng và sau đại học
Tiến hành đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo hướng đa dạng
hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa, tạo điều kiện để mau chóng tiếp thu có chọn lọc
chương trình đào tạo của các nước phát triển về khoa học tự nhiên, kỹ thuật
và công nghệ…, phù hợp với yêu cầu của đất nước, phục vụ thiết thực cho
sự phát triển kinh tế – xã hội nói chung, của từng ngành, từng lĩnh vực, từng
vùng, từng địa phương nói riêng.
Các đại học quốc gia, các trường đại học trọng điểm, các ngành đào
tạo thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của khoa học – công nghệ phải đi đầu trong
việc đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình là phương pháp giáo dục.
Thiết kế các chương trình chuyển tiếp, các chương trình đa giai đoạn
và áp dụng các quy trình đào tạo mềm dẻo nhằm tăng cơ hội học đại học cho
mọi người, nhất là những người ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Ban hành chương trình khung cho đại học trong năm học 2001 – 2002
và cho đào tạo thạc sĩ trong năm học 2002 - 2003.
Đổi mới chế độ thi cử, chế độ tuyển sinh, xây dựng phương pháp, quy
trình và hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, chất lượng giảng viên, chất
lượng sinh viên một cách khách quan, chính xác; xem đây là một biện pháp
cơ bản khắc phục tính chất đối phó với thi cử của nền giáo dục hiện nay, thúc
đẩy việc lành mạnh hóa quá trình giáo dục không chỉ ở trình độ đại học, cao
đẳng mà ở cả các cấp bậc giáo dục phổ thông. Đặc biệt quan tâm đổi mới
phương pháp đào tạo trong các trường sư phạm, trước hết là hai trường Đại
học Sư phạm trọng điểm ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy và học ở các trường phổ thông.
Phấn đấu đảm bảo các trường đều có thư viện tốt, thường xuyên được
cập nhật có đủ giáo trình, tài liệu tham khảo cho sinh viên và cho giảng viên.
Hiện đại hóa trang thiết bị giảng dạy và học tập, phòng thí nghiệm, cơ sở thực
hành. Theo nhu cầu, các trường đại học có thể tổ chức giảng dạy trực tiếp
bằng tiếng nước ngoài cho một số môn học. Đảm bảo cho sinh viên sau khi
tốt nghiệp sử dụng tốt máy tính để thu nhập và xử lí thông tin, một ngoại ngữ
để làm việc và giao tiếp, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế.
2. Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục
a. Phát triển đội ngũ nhà giáo
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng GD – ĐT, vì vậy cần thực
hiện các biện pháp để huy động tối đa tiềm lực của đội ngũ giáo viên hiện có
và từng bước phát triển đội ngũ giáo viên với số lượng, cơ cấu phù hợp, chất
lượng đảm bảo.
Sử dụng hợp lí đội ngũ giáo viên hiện có, tạo động lực cho người dạy
– Hoàn thiện định mức lao động, chế độ làm việc của giáo viên khuyến
khích giáo viên giỏi dạy ở nhiều trường, nhiều cấp để tiết kiệm việc đào tạo
giáo viên mới, xây dựng kế hoạch sử dụng hiệu quả đội ngũ giáo viên hiện
có.
– Từng bước xây dựng chế độ trả lương theo giờ dạy và chất lượng
dạy học. Ở các vùng khó khăn, tăng phụ cấp khu vực, phụ cấp sư phạm (tổng
phụ cấp có thể gấp 2 – 3 lần lương cơ bản). Đảm bảo cho thu nhập giáo viên
trên mức trung bình ở từng địa phương.
– Có chính sách thu hút những người làm việc ngoài ngành GD – ĐT
tham gia giảng dạy tại các trường học, nhất là các trường đại học, THCN và
dạy nghề.
Bồi dưỡng chuẩn hóa đội ngũ giáo viên theo yêu cầu chức danh ở các
cấp bậc học, ngành đào tạo. Sử dụng phương pháp sư phạm tương tác trong
việc bồi dưỡng giáo viên, tăng cường năng lực tự nghiên cứu, tự đào tạo của
người học. Chú trọng bồi dưỡng giáo viên để thực hiện đổi mới nội dung,
phương pháp GD - ĐT
Củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo của hệ thống các
trường sư phạm
– Xây dựng một số trường Đại học sư phạm trọng điểm vừa đào tạo
giáo viên có chất lượng cao, vừa nghiên cứu khoa học giáo dục đạt trình độ
tiên tiến. Phát triển mô hình các trường Cao đẳng Sư phạm đa cấp, đa hệ ở
các địa phương.
– Phát triển mô hình đào tạo giáo viên đa hệ, đa cấp và nhiều môn để
tăng cường khả năng thích ứng của giáo viên theo yêu cầu công việc.
– Ổn định và từng bước tăng quy mô đào tạo của hệ thống các trường
sư phạm, phát triển mạng lưới các khoa sư phạm, trung tâm sư phạm trong
các trường đại học và chuyên nghiệp; tăng cường sự liên thông, liên kết giữa
các trường đại học, cao đẳng và chuyên nghiệp trong công tác đào tạo giáo
viên.
– Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, phát triển đội ngũ chuyên gia đầu
ngành trong các trường sư phạm. Chuẩn bị đội ngũ giáo viên để đưa tin học
vào nhà trường. Đào tạo và nâng cấp trình độ đội ngũ giáo viên ngoại ngữ để
làm cho việc dạy học ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.
– Phân cấp quản lí công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên theo hướng
tăng cường trách nhiệm, quyền hạn cho địa phương bồi dưỡng giáo viên
mầm non, phổ thông, chuyên nghiệp, tăng quyền tự chủ và trách nhiệm cho
các trường đại học đa lĩnh vực trong việc bồi dưỡng giáo viên đại học.
– Có chính sách thu hút học sinh giỏi vào trường sư phạm, thu hút sinh
viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng và nhập đội ngũ giáo viên các
trường này. Tạo điều kiện biên chế để các trường đại học có thể giữ học sinh
giỏi ở lại trường.
– Tăng 10% biên chế (hoặc 10% quỹ lương) cho các trường để giáo
viên được luân phiên bồi dưỡng nâng cao trình độ và cập nhật kiến thức, kỹ
năng dạy học – giáo dục.
– Thực hiện chương trình xây dựng đội ngũ giáo viên và các trường sư
phạm.
b. Đổi mới phương pháp giáo dục
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD – ĐT để làm tăng tính tích cực chủ
động của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy
sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy – học, đảm bảo điều kiện và thời gian
tự học. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng
khắp trong toàn dân.
– Xây dựng một số trung tâm phương pháp trong phạm vi ngành và ở
các cơ sở GD – ĐT để thiết kế việc thay đổi phương pháp dạy học - giáo dục,
biên soạn tài liệu hướng dẫn, tổ chức tập huấn lực lượng nòng cốt trong việc
thay đổi phương pháp.
– Thay đổi cách đánh giá của các cấp quản lí đối với trường, đối với
giáo viên, của giáo viên đối với người học để giải phóng sức sáng tạo của
người dạy, người học, tạo điều kiện để thay đổi phương pháp dạy học giáo
dục.
– Tăng cường vai trò và thay đổi cách giảng dạy các môn tâm lí học,
giáo dục học, phương pháp giảng dạy bộ môn ở các trường, khoa sư phạm,
làm cho các môn đó có tác dụng thiết thực đối với phương pháp dạy học và
kiểm tra đánh giá của những giáo viên tương lai.
– Nhanh chóng thiết lập hệ thống GDTX và sử dụng hệ thống GDTX để
phổ biến nhanh các chủ trương và huấn luyện kịp thời việc đổi mới phương
pháp dạy học – giáo dục.
– Thực hiện chương trình đổi mới phương pháp GD – ĐT để hỗ trợ và
thúc đẩy nhanh chóng công việc này.
– Giáo viên mầm non: Đào tạo giáo viên mầm non đáp ứng nhu cầu
giáo viên cho các cơ sở giáo dục mầm non công lập và ngoài công lập, tiến
tới chuẩn hóa đội ngũ giáo viên mầm non. Xây dựng chính sách đối với giáo
viên mầm non, đặc biệt là giáo viên ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
– Giáo viên phổ thông: Điều chỉnh cơ cấu đội ngũ giáo viên phổ thông,
tăng cường giáo viên nhạc họa, thể dục thể thao, nữ công gia chánh, giáo
viên hướng nghiệp và dạy nghề để đa dạng hóa việc học và hoạt động của
học sinh trong quá trình tiến tới học 2 buổi/ ngày. Nâng cao dần tỉ lệ giáo viên
tiểu học có trình độ cao đẳng. Phấn đấu đến năm 2005 tất cả giáo viên THCS
đều có trình độ cao đẳng trở lên, trong đó những giáo viên trưởng, phó các bộ
môn có trình độ đại học. Nâng tỉ lệ giáo viên THPT có trình độ thạc sĩ lên 10%
vào năm 2010. Đặc biệt chú trọng đầu tư cho việc xây dựng đội ngũ giáo viên
cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
Giáo viên được thường xuyên tham gia các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ.
– Giáo viên các trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp: Đào tạo
và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên các trường dạy nghề và trung học chuyên
nghiệp theo chuẩn, bổ sung giáo viên cho một số lĩnh vực ngành nghề mới,
thực hiện luân phiên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ theo chu kỳ 5 năm 1
lần. Nâng tỉ lệ giáo viên trung học chuyên nghiệp có trình độ sau đại học lên
10% vào năm 2010. Phát triển đội ngũ giáo viên thỉnh giảng, bao gồm các
công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ trình độ cao trong các doanh nghiệp,
các giảng viên của các trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu côn
nghệ.
– Giảng viên đại học, cao đẳng: Khẩn trương đào tạo, bổ sung và nâng
cao trình độ đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng để một mặt giảm tỉ lệ sinh
viên 1 giảng viên trung bình đang quá cao hiện nay (30) xuống khoảng 20,
trong đó 10 – 15 đối với các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ,
20 – 25 đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn, các ngành kinh tế
mặt khác, đón đầu sự phát triển giáo dục đại học những năm sắp tới: Tăng
chỉ tiêu đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ bổ sung nhân lực trình độ cao cho các trường
đại học, cao đẳng. Tăng tỉ lệ giảng viên đại học có trình độ thạc sĩ lên 40%, có
trình độ tiến sĩ lên 25% vào năm 2010. Chú trọng đào tạo giảng viên nữ có
trình độ cao. Giảng viên được tạo điều kiện để tiếp cận với tri thức và các
thành tựu khoa học – công nghệ mới của thế giới.
Lựa chọn các sinh viên giỏi bổ sung nguồn giáo viên cho các trường
đại học, cao đẳng và tiếp tục đào tạo trong và ngoài nước. Ưu tiên gửi giảng
viên đại học, cao đẳng đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài bằng ngân sách
nhà nước và các nguồn kinh phí khác. Mời và tạo điều kiện thuận lợi cho các
cán bộ khoa học - công nghệ có trình độ cao, có kinh nghiệm thực tiễn đang
làm việc tại các viện nghiên cứu, các cơ quan quản lí, các doanh nghiệp và
các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy ở các trường
đại học, cao đẳng.
– Hoàn thiện định mức lao động, chế độ làm việc, chế độ chính sách
đối với nhà giáo: từng bước xây dựng chế độ trả lương theo số lượng và chất
lượng dạy học. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với nhà giáo, cán bộ quản
lí giáo dục ở các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, giáo dục các đối
tượng đặc biệt. Nhà nước có chế độ, chính sách ưu đãi về lương đối với nhà
giáo. Mở rộng diện tuyển giáo viên, giảng viên theo chế độ hợp đồng dài hạn.
– Tăng cường năng lực đào tạo và đổi mới chương trình đào tạo của
các trường sư phạm và các khoa sư phạm: Thành lập mới các khoa sư
phạm, các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giáo viên trong một số trường đại
học và cao đẳng khác. Tập trung xây dựng 2 trường sư phạm trọng điểm vừa
đào tạo giáo viên có chất lượng cao, vừa nghiên cứu khoa học giáo dục đạt
trình độ tiên tiến. Ưu tiên đào tạo giáo viên người dân tộc và giáo viên biết
tiếng dân tộc cho các cơ sở giáo dục ở vùng có nhiều người thuộc các dân
tộc thiểu số.
3. Đổi mới quản lí giáo dục
Đổi mới quản lí giáo dục là nhóm các giải pháp có tính đột phá. Nhiều
yếu kém của GD – ĐT hiện nay trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến công tác
quản lí.
Đổi mới về cơ bản tư duy và phương thức quản lí giáo dục theo hướng
nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước, phân cấp mạnh mẽ nhằm phát huy tính
chủ động và tự chịu trách nhiệm của các địa phương, của các cơ sở giáo dục,
giải quyết một cách có hiệu quả các vấn đề bức xúc, ngăn chặn và đầy lùi các
hiện tượng tiêu cực hiện nay.
a) Nâng cao hiệu lực chỉ đạo tập trung của Chính phủ trong việc thực
hiện Chiến lược giáo dục. Đổi mới chức năng và phương thức hoạt động của
Hội đồng quốc gia Giáo dục do Thủ tướng làm Chủ tịch theo hướng giúp Thủ
tướng chỉ đạo thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục. Hội đồng Quốc gia
Giáo dục có bộ phận giúp việc, huy động đông đảo lực lượng các nhà khoa
học, giáo dục, hoạt động kinh tế – xã hội… có uy tín thuộc các lĩnh vực khác
nhau tham gia vào quá trình xây dựng, thẩm định các chủ trương chính sách,
kế hoạch phát triển, đánh giá chất lượng, hiệu quả các hoạt động giáo dục và
tiến độ thực hiện chiến lược.
b) Đổi mới cơ chế và phương thức quản lí giáo dục theo hướng phân
cấp một cách hợp lí nhằm giải phóng và phát huy mạnh mẽ tiềm năng, sức
sáng tạo, tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp và mỗi cơ sở giáo
dục, giải quyết một cách có hiệu quả những bất cập của toàn hệ thống trong
quá trình phát triển. Cụ thể là:
– Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội thực hiện chức năng quản lí nhà nước theo sự phân công của Chính phủ,
tập trung làm tốt ba nhiệm vụ chủ yếu: xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển giáo dục; xây dựng cơ chế chính sách và quy chế quản lí nội
dung và chất lượng đào tạo; tổ chức kiểm tra và thanh tra. Đặc biệt chú trọng
công tác thanh tra giáo dục và đảm bảo chất lượng giáo dục thông qua việc tổ
chức và chỉ đạo hệ thống kiểm định chất lượng; xây dựng cơ chế phối hợp
quản lí giữa nhà trường, gia đình và xã hội, cơ chế gắn kết giáo dục – đào tạo
với nghiên cứu khoa học – công nghệ và ứng dụng qua các hình thức tổ
chức, liên kết, các chính sách vĩ mô và vi mô.
– Tăng cường chất lượng của công tác lập kế hoạch; tiến hành dự báo
thường xuyên và tăng cường cung cấp thông tin về nhu cầu nhân lực của xã
hội cho các ngành, các cấp, các cơ sở giáo dục để điều tiết quy mô, cơ cấu
ngành nghề và trình độ đào tạo cho phù hợp với nhu cầu sử dụng.
– Thực hiện phân cấp quản lí mạnh mẽ cho các Bộ, ngành, các địa
phương, giao quyền quản lí về tổ chức, cán bộ và tài chính cho các cơ quan
quản lí giáo dục địa phương. Hoàn thiện quy chế quản lí hoạt động của các
loại hình trường. Giao quyền chủ động cao hơn cho các trường đại học, cao
đẳng để tạo điều kiện cho các trường chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện
có hiệu quả các mục tiêu giáo dục, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm lớn
hơn đối với xã hội và nhân dân.
– Thực hiện cải cách hành chính trong ngành giáo dục và đổi mới
phương thức quản lí giáo dục. Thể chế hóa vai trò, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm quản lí giáo dục các cấp; ban hành và tổ chức thực
hiện các quy phạm pháp luật về giáo dục.
c) Xây dựng và thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục.
Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục các cấp
về kiến thức, kỹ năng quản lí và rèn luyện phẩm chất đạo đức; đồng thời điều
chỉnh, sắp xếp lại cán bộ theo yêu cầu mới phù hợp với năng lực và phẩm
chất của từng người.
Sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật thích hợp để nâng cao hiệu
quả của công tác quản lí. Xây dựng hệ thống thông tin quản lí giáo dục, khai
thác nguồn thông tin quốc tế về giáo dục hỗ trợ việc đánh giá tình hình và ra
quyết định.
Tiếp tục xây dựng và phát triển lí luận về nền giáo dục Việt Nam định
hướng xã hội chủ nghĩa; nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ
trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước, đổi mới quản lí và nội
dung, phương pháp giáo dục, phổ biến tri thức khoa học giáo dục thường
thức trong xã hội. Thường xuyên đánh giá tác động của các chủ trương,
chính sách, các giải pháp đổi mới giáo dục.
d) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục. Các cấp ủy
Đảng từ Trung ương đến địa phương thường xuyên lãnh đạo và kiểm tra việc
thực hiện các chủ trương, chính sách giáo dục, đặc biệt là công tác xã hội
hóa giáo dục, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng nề nếp, kỷ
cương; coi việc phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục là một chỉ tiêu
phấn đấu xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Phát triển Đảng, tăng
cường xây dựng và củng cố tổ chức Đảng để thực sự trở thành hạt nhân lãnh
đạo trong nhà trường.
4. Tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục
Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng đa dạng
hóa, chuẩn hóa, liên thông liên kết từ giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp đến cao đẳng, đại học và sau đại học. Tổ chức phân luồng sau THCS
và THPT. Phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục theo hướng khắc
phục các bất hợp lí về cơ cấu trình độ, ngành nghề và cơ cấu vùng miền, gắn
nhà trường với xã hội, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng. Ưu
tiên phát triển các trường cao đẳng kỹ thuật, công nghệ. Ưu tiên phát triển
các cơ sở giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa.
a) Cơ cấu lại hệ thống giáo dục đáp ứng nhu cầu của đất nước trong
giai đoạn CNH, HĐH, tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm tổ chức hệ thống
giáo dục tiên tiến trên thế giới phù hợp với các điều kiện Việt Nam. Cơ cấu lại
trình độ đào tạo theo chuẩn quốc tế. Cải tiến học chế, đổi mới tuyển sinh, đa
dạng hóa phương thức đào tạo, xây dựng các quy chuẩn về liên thông,
chuyển tiếp giữa các cấp bậc học, trình độ đào tạo, giữa các cơ sở đào tạo và
thực hiện các giải pháp khác hỗ trợ việc điều chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục.
b) Mở thêm các cơ sở giáo dục mầm non, đặc biệt ở nông thôn và
những vùng khó khăn. Khuyến khích phát triển các trường mầm non ngoài
công lập, các trường mầm non ở các đơn vị sản xuất, kinh doanh.
c) Phát triển mạng lưới trường phổ thông rộng khắp trên toàn quốc.
Xây dựng trên mỗi địa bàn xã, phường hoặc ở nơi thưa dân thì cụm xã,
phường ít nhất 1 trường tiểu học và 1 trường THCS đạt chuẩn quốc gia. Mỗi
tỉnh xây dựng ít nhất trường THPT trọng điểm. Củng cố và mở thêm các
trường phổ thông dân tộc nội trú. Liên kết các trường THPT với các trung tâm
kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề ở các địa bàn để
tăng thời lượng hoạt động của học sinh tại đó trong quá trình tiến tới học và
hoạt động cả ngày tại trường.
d) Thực hiện phân ban ở cấp THPT trên cơ sở đảm bảo chuẩn kiến
thức phổ thông, cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp cho mọi học sinh, có nội
dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện
vọng của học sinh. Hoàn thiện mô hình trường THPT chuyên ở các địa
phương hoặc ở các trường đại học để bồi dưỡng học sinh có năng khiếu
trong các lĩnh vực khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục, thể thao. Nghiên
cứu thí điểm và từng bước hình thành các trường THPT kỹ thuật công nghiệp
hoặc nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ phù hợp với đặc điểm kinh tế – xã hội
của từng vùng dân cư.
e) Củng cố và mở thêm các cơ sở dạy nghề, đặc biệt là các cơ sở gắn
với địa bàn dân cư, đào tạo theo các ngành nghề phù hợp với nhu cầu lao
động ở địa phương. Đến năm 2005 mỗi tỉnh (thành phố) ít nhất có một trường
dạy nghề địa phương, mỗi huyện (quận) có một trung tâm đào tạo nghề ngắn
hạn, tư vấn đào tạo và việc làm. Phát triển đào tạo nghề tại doanh nghiệp,
kèm cặp, truyền nghề tại làng nghề, đào tạo nghề tư nhân. Củng cố các
trường đào tạo nghề dài hạn; phấn đấu xây dựng 25 trường đào tạo nghề
trọng điểm vào năm 2005, 40 trường vào năm 2010. Xây dựng quy hoạch
mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp.
g) Triển khai thực hiện quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao
đẳng. Tập trung đầu tư xây dựng và phát triển các trường trọng điểm bao
gồm: ĐHQG Hà Nội, ĐHQG Hồ Chí Minh, 2 trường ĐHSP trọng điểm và một
số trường trọng điểm khác. Theo nhu cầu phát triển sẽ nghiên cứu thành lập
mới một số trường đại học phù hợp với quy hoạch khi có đầy đủ các điều
kiện. Hoàn chỉnh mô hình trường cao đẳng cộng đồng đang thí điểm và phát
triển loại hình trường này ở các địa phương khi đủ điều kiện.
Xây dựng các trường đại học, cao đẳng thành các trung tâm vừa đào
tạo vừa nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ.
Xây dựng các viện; trung tâm, bộ môn nghiên cứu khoa học, công nghệ
mạnh ở các trường đại học. Đưa một số viện nghiên cứu khoa học, trước hết
là các viện nghiên cứu khoa học cơ bản vào các trường đại học.
Chủ động nghiên cứu tìm ra các hình thức, cơ chế kết hợp hữu cơ giữa
đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn, lấy hiệu quả ứng dụng thực tiễn
làm đích để định hướng và gắn kết đào tạo với nghiên cứu, làm cho công tác
đào tạo và nghiên cứu thích ứng với cơ chế thị trường, trực tiếp góp phần làm
tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
h) Củng cố và mở thêm các cơ sở giáo dục thường xuyên như trung
tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục cộng đồng, trường bổ túc văn
hóa đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên của mọi người, ở mọi lứa tuổi và
trình độ. Tăng cường cho 2 viện đại học mở về phương tiện, thiết bị, tài liệu
để thở rộng hình thức giáo dục từ xa.
5. Tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục
Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, huy động mọi nguồn lực trong xã
hội để phát triển giáo dục; đổi mới cơ chế quản lí tài chính. Chuẩn hóa và
hiện đại hóa trường sở, trang thiết bị giảng dạy, nghiên cứu và học tập.
a) Ngân sách nhà nước là nguồn tài chính chủ yếu của giáo dục. Nhà
nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục trong tương quan với các ngành khác.
Nâng tỉ lệ chi cho giáo dục trong ngân sách nhà nước từ 15% năm 2000 lên ít
nhất 18% năm 2005 và 20% năm 2010; tranh thủ nguồn tài chính vay với lãi
suất ưu đãi cho giáo dục từ Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB), các tổ chức quốc tế và các nước.
Ngân sách nhà nước tập trung nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ
cập, cho vùng nông thôn, miền núi, cho đào tạo trình độ cao, cho những
ngành khó thu hút đầu tư ngoài ngân sách nhà nước. Có chính sách đảm bảo
điều kiện học tập cho con em người có công và diện chính sách, cơ hội học
tập cho con em gia đình nghèo. Trong thời gian 2001–2005, hàng năm Nhà
nước dành kinh phí từ ngân sách và sử dụng các nguồn khác để đưa 400–
500 cán bộ khoa học đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước có nền khoa học và
công nghệ tiên tiến.
Huy động nhiều nguồn tài chính khác, kết hợp tốt các nguồn vốn trong
và ngoài nước và sự đóng góp của xã hội cho phát triển giáo dục.
b) Đổi mới cơ chế quản lí tài chính theo hướng song song với việc trao
quyền chủ động về tài chính, cần thực hiện chế độ tài chính công khai và chế
độ kiểm toán nhằm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính đầu tư cho
giáo dục. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng cho giáo dục.
c) Các địa phương có kế hoạch cụ thể xây dựng thêm trường sở để
đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục THCS, tăng số lượng học sinh phổ thông
và hoạt động cả ngày tại trường lên tới 70%, nâng tỉ lệ các trường được xây
dựng theo chuẩn quốc gia lên tới 50% vào năm 2010. Đặc biệt quan tâm xây
dựng trường kiên cố, bán kiên cố cho các vùng thường xảy ra thiên tai.
Thực hiện chế độ ưu đãi về sử dụng đất đai, vay vốn ưu đãi để đầu tư
xây dựng các cơ sở giáo dục.
d) Tăng cường và hiện đại hóa trang thiết bị phục vụ đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp giáo dục. Phấn đấu đến năm 2010 có 60%
trường phổ thông và 100% trường đại học, cao đẳng được nối mạng Internet.
Mở cổng kết nối Internet trực tiếp cho hệ thống đại học.
e) Xây dựng thư viện trường học. Đến năm 2010 tất cả các trường phổ
thông đều có thư viện nhà trường. Xây dựng hệ thống thư viện điện tử kết nối
giữa các trường đại học trong từng vùng tiến tới kết nối với các thư viện trong
phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế.
g) Xây dựng một số phòng thí nghiệm quốc gia trong các trường đại
học quốc gia, các trường đại học trọng điểm, đầu ngành. Xây dựng các cơ sở
thực nghiệm về công nghệ ở một số trường cao đẳng.
6. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục
Khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát
triển giáo dục. Tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được
học thường xuyên, học suốt đời; tiến tới một xã hội học tập.
a) Hoàn thiện cơ sở lí luận, thực tiễn, cơ chế chính sách và các giải
pháp xã hội hóa giáo dục, nhằm tạo sự nhất trí cao trong xã hội về nhận thức
và tổ chức thực hiện; bổ sung và hoàn thiện những văn bản quy phạm pháp
luật, các chính sách vĩ mô khuyến khích mạnh mẽ các tổ chức kinh tế – xã
hội, các cá nhân đầu tư cho phát triển giáo dục; tạo điều kiện để vừa phát
triển vừa nâng cao chất lượng đào tạo của hệ thống các trường ngoài công
lập, các hình thức giáo dục ngoài nhà trường và các trung tâm giáo dục cộng
đồng.
b) Phát triển các trường ngoài công lập. Chuyển một số trường công
lập thành trường ngoài công lập khi có đủ điều kiện thích hợp. Củng cố và
nâng cao chất lượng giáo dục của các trường ngoài công lập. Nâng tỉ lệ học
sinh học nghề (ngắn hạn và dài hạn) ngoài công lập đến năm 2010 lên
khoảng 70%, tỉ lệ sinh viên ngoài công lập đến năm 2010 lên khoảng 30%.
Các trường ngoài công lập được ưu tiên thuê đất và vay vốn tín dụng xây
trường. Nhà trường, nhà giáo và học sinh, sinh viên các trường ngoài công
lập được bình đẳng như các trường công lập. Hoàn thiện và ban hành các cơ
chế chính sách hỗ trợ các trường ngoài công lập.
c) Mở rộng quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ giáo dục, khuyến khích cá
nhân và tập thể đầu tư phát triển giáo dục; đổi mới chế độ học phí của các
trường đại học, cao đẳng công lập và ngoài công lập theo hướng đảm bảo
tương xứng với chất lượng các dịch vụ giáo dục mà nhà trường có thể cung
cấp, phù hợp với khả năng của người học, đồng thời miễn giảm cho các đối
tượng chính sách, gia đình có công và người nghèo.
d) Mở rộng và tăng cường các mối quan hệ của nhà trường với các
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – xã
hội… tạo điều kiện để xã hội có thể đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, góp ý
kiến cho quy hoạch phát triển nhà trường, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu trình độ đào tạo, hỗ trợ kinh phí cho người học và tiếp nhận người tốt
nghiệp, giám sát các hoạt động giáo dục và tạo lập môi trường giáo dục lành
mạnh.
e) Xây dựng nhà trường thực sự trở thành trung tâm văn hóa, môi
trường giáo dục lành mạnh, giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Phát huy
truyền thống “tôn sư trọng đạo”, nêu cao thẩm chất của nhà giáo, làm tốt công
tác giáo dục chính trị tư trong, phấn đấu để các thầy cô giáo thực sự là những
nhà giáo mẫu mực về mọi mặt, là tấm gương sáng cho học sinh, sinh viên noi
theo. Làm tốt công tác Đảng, Đoàn Thanh niên, Hội học sinh – Sinh viên trong
nhà trường, kiên quyết loại trừ các tệ nạn xã hội, các tiêu cực trong giảng dạy
và học tập.
g) Nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng,
sự giám sát của Hội đồng nhân dân, sự quản lí của ủy ban nhân dân các cấp;
phát huy vai trò của các tổ chức Công đoàn, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên,
Đội Thiếu niên tiền phong, Hội Học sinh – Sinh viên, Hội Cha mẹ học sinh,
Hội Khuyến học và các đoàn thể, tổ chức xã hội khác trong việc huy động
nguồn lực xã hội tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.
7. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục
Khuyến khích mở rộng và đầy mạnh các quan hệ hợp tác về đào tạo,
nghiên cứu với các trường, các cơ quan nghiên cứu khoa học có uy tín và
chất lượng cao trên thế giới nhằm trao đổi những kinh nghiệm tốt, phù hợp
với điều kiện Việt Nam và tăng thêm nguồn lực phát triển giáo dục.
a) Huy động nguồn lực từ hợp tác quốc tế để tăng cường trang thiết bị,
xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục phổ thông, đặc biệt ở các vị nó có điều
kiện kinh tế – xã hội khó khăn.
b) Tăng số dự án viện trợ, vốn vay để đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật
đáp ứng các yêu cầu về chuyển dịch cơ cấu lao động và xuất khẩu lao động.
c) Hợp tác xây dựng một số trung tâm công nghệ cao trong các cơ sở
đào tạo đại học; Nhập thiết bị thí nghiệm khoa học tiên tiến để nâng cao hiệu
quả của công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.
d) Phát triển các dự án hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nói
chung và nghiên cứu giáo dục nói riêng của cơ sở đào tạo đại học, các viện,
các trung tâm chuyên nghiên cứu về giáo dục; trao đổi thông tin, tổ chức các
hội thảo, hội nghị quốc tế, tham gia hoạt động của các cơ quan thuộc Liên
hiệp quốc, tổ chức các nước sử dụng tiếng Pháp, các tổ chức thuộc khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương, các tổ chức Á – Âu và các tổ chức khác.
e) Khuyến khích các chủ đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm, tiềm lực,
truyền thống và trình độ tiến tiến thành lập các cơ sở giáo dục 100% vốn
nước ngoài hoặc liên doanh với các đối tác Việt Nam để đào tạo đại học, dạy
nghề, giáo dục từ xa, mở các khóa bồi dưỡng ngắn hạn có trình độ khu vực
và quốc tế tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
g) Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi và
quản lí tốt việc du học tự túc.
Chương III. ĐIỀU LỆ, QUY CHẾ, QUY ĐỊNH CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỐI VỚI GIÁO DỤC MẦM NON VÀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
A. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠOCùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được Đại hội
VII xem là quốc sách hàng đầu, là một động lực thúc đẩy và một điều kiện cơ
bản đảm bảo thực hiện những mục tiêu kinh tế, xã hội, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư
phát triển tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước và phục vụ đắc lực sự
nghiệp phát triển kinh tế – xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động
viên các tầng lớp nhân dân giúp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới
sự quản lí của Nhà nước.
Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng
nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa học và có kỹ
năng nghề nghiệp, lao động tự chủ sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái,
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển
đất nước. Phải mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức.
Giáo dục phải gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước phù hợp với xu
thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện nền giáo dục thường xuyên cho mọi
người, học tập suốt đời, là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân.
Đa dạng hoá của loại hình đào tạo. Thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục. Người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua đào
tạo phải đóng góp chi phí đào tạo. Nhà nước có chính sách bảo đảm cho
người nghèo và các đối tượng chính sách đều được đi học.
II. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH VÀ CÁC BIỆN PHÁP LỚN1. Cơ cấu của hệ thống giáo dục
Tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu mới của hệ thống giáo dục quốc dân. Củng
cố các trường công, chuyển một số trường công sang bán công. Khuyến
khích mở các trường dân lập. Cho phép mở trường lớp tư thục ở giáo dục
mầm non, giáo dục chuyên nghiệp (bao gồm dạy nghề và trung học chuyên
nghiệp), giáo dục đại học. Không mở trường, lớp tư thục ở giáo dục phổ
thông. Khuyến khích mở rộng các loại hình giáo dục và đào tạo không chính
quy. Khuyến khích tự học, đảm bảo cho mọi công dân trong khuôn khổ Pháp
luật có quyền được học, được thi, được chọn trường, chọn thầy, chọn nghề,
được học tập ở trong nước và đi học ở nước ngoài.
2. Quy hoạch trường lớp
Sắp xếp lại hệ thống các trường nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, sử
dụng cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên. Đặc biệt phải sắp xếp hợp lí các
trường đại học và cao đẳng, các viện nghiên cứu khoa học, gắn viện với
trường, gắn công tác giáo dục đào tạo với công tác nghiên cứu khoa học.
Đổi mới giáo dục bổ túc và bồi dưỡng đào tạo tại chức.
3. Thanh toán nạn mù chữ và phổ cập giáo dục
Thanh toán nạn mù chữ còn có ở người lao động từ độ tuổi từ 15 đến
35, thu hẹp diện mù chữ ở độ tuổi khác.
Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, trước hết là trẻ em từ 6 đến 14
tuổi. Đầy mạnh phổ cập giáo dục trung học cơ sở, nhất là ở các đô thị.
4. Hình thành bậc trung học mới
Để nhằm chuẩn bị cho một bộ phận học sinh tiếp tục học lên, còn đa số
tốt nghiệp có thể vào đời. Giáo dục kỹ năng lao động và hướng nghiệp cho
học sinh phổ thông theo hướng liên kết giữa giáo dục phổ thông với giáo dục
chuyên nghiệp.
5. Mở rộng giáo dục nghề nghiệp
Từng bước phát triển nền giáo dục kỹ thuật trong xã hội, đào tạo lực
lượng công nhân lành nghề bậc cao. Xây dựng các Trung tâm dạy nghề,
trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp; phát triển các trường,
lớp dạy nghề dân lập, tư thục, khuyến khích dạy các nghề truyền thống, đãi
ngộ thoả đáng các nghệ nhân làm việc truyền nghề.
6. Mở rộng hợp lí quy mô đào tạo đại học
Mở rộng hợp lí quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ nét về chất
lượng và hiệu quả đào tạo. Phát triển bậc đào tạo cao đẳng, đại học, sau đại
học đáp ứng nguồn nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế – xã hội
của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa; nâng cao năng lực cạnh tranh và
hợp tác kinh tế quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng giáo dục sau
trung học với đa dạng hoá chương trình đào tạo, loại hình đào tạo... Tăng
cường năng lực thích ứng với việc làm cho mình và cho những người khác.
7. Từng bậc học, xác định lại mục tiêu, chương trình, kế hoạch, nội dung và phương pháp
Xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch, nội dung,
phương pháp giáo dục và đào tạo cho phù hợp với thời đại là rất cần thiết.
Quan tâm đến giáo dục các môn học chủ nghĩa Mác – Lênin, chú trọng
tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung nhân văn và bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp
thu những tinh hoa của văn hoá nhân loại. Đổi mới nội dung, phương pháp
dạy và học các môn khoa học công nghệ, đặc biệt là các môn khoa học kinh
tế, khoa học quản lí. Đẩy mạnh giáo dục pháp luật, đạo đức, thấm mỹ, môi
trường, dân số, rèn luyện thể chất. Mở rộng dạy và học ngoại ngữ, tin học.
Thực hiện tốt giáo dục quốc phòng.
Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. Kết hợp
tốt học với hành, học tập với lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu
khoa học, gắn Nhà trường với xã hội. Áp dụng những phương pháp giáo dục
hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải
quyết vấn đề. Chú ý bồi dưỡng học sinh có năng khiếu.
8. Nghiên cứu khoa học
Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ. Nghiên cứu
khoa học giáo dục phục vụ cho mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục.
9. Phát triển giáo dục vùng cao
Củng cố phát triển ngành giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và các
vùng khó khăn.
Thực hiện các biện pháp khả thi để ngăn chặn tình trạng sa sút về giáo
dục ở miền núi. Củng cố và xây dựng một các trường phổ thông dân tộc nội
trú.
Coi trọng việc đầu tư xây dựng hệ thống đào tạo cán bộ cho các vùng
dân tộc thiểu số từ trung ương đến địa phương.
10. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
Ở tất cả các cấp, phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng
đối với sự nghiệp giáo dục, quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo phát
triển giáo dục đào tạo. Nghị quyết này được thực hiện trong Đảng, trong các
ngành, các cấp. Xây dựng Đảng vững và bồi dưỡng lại cán bộ Đảng, cán bộ
quản lí trong ngành giáo dục.
Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách và xây
dựng kế hoạch, chương trình cụ thể để nhằm thực hiện các mục tiêu và
nhiệm vụ về giáo dục và đào tạo. Tăng dần ngân sách cho giáo dục và đào
tạo. Huy động các nguồn đầu tư trong nhân dân, nước ngoài và các tổ chức
quốc tế.
Chấn chỉnh việc thu học phí. Thực hiện miễn học phí ở bậc tiểu học.
Lập những quỹ hỗ trợ giáo dục do những tổ chức và cá nhân có khả năng ở
trong và ngoài nước đóng góp, xóa bỏ những khoản đóng góp tùy tiện, không
hợp lí.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, mọi gia
đình và mọi người cùng với ngành giáo dục – đào tạo nhằm lo xây dựng sự
nghiệp giáo dục theo phương pháp “Nhà nước và nhân dân cùng làm” xây
dựng môi trường giáo dục Nhà trường gia đình và xã hội.
11. Xây dựng đội ngũ giáo viên và quản lí giáo dục
Thực hiện chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với giáo
viên, khuyến khích người giỏi làm nghề dạy học. Có chính sách ưu đãi đặc
biệt về tiền lương và phụ cấp đối với giáo viên dạy ở những nơi khó khăn
thuộc vùng cao, vùng sâu, hải đảo. Nhà nước có chính sách thu hút những
học sinh giỏi vào học trường sư phạm, tăng mức đầu tư và tăng cường chỉ
đạo để tạo ra những chuyển biến về chất ở những trường sư phạm.
Sắp xếp lại giáo viên theo chức danh và tiêu chuẩn kết hợp đào tạo
giáo viên mới với bồi dưỡng thường xuyên những giáo viên đang làm việc.
12. Đổi mới quản lí giáo dục – đào tạo
Định rõ quyền hạn, trách nhiệm quản lí giáo dục và đào tạo của Bộ giáo
dục và đào tạo, của các Bộ, các tỉnh, thành phố, của huyện, quận… về các
khâu: quy hoạch, kế hoạch, tổ chức và cán bộ, tài chính, thanh tra và kiểm
tra.
Tăng cường công tác thanh tra giáo dục của Nhà nước.
Công tác kế hoạch phát triển giáo dục phải bao gồm cả hệ thống giáo
dục của Nhà nước và của trường bán công, dân lập, tư thục, có cơ chế gắn
liền đào tạo với sử dụng.
Đề cao trách nhiệm quản lí Nhà nước của Bộ, các Sở Giáo dục – Đào
tạo, đồng thời tăng cường quyền tự chủ của cơ sở, nhất là các trường đại
học, mở rộng dân chủ trong Nhà trường.
Khẩn trương đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản li giáo dục các
cấp, chú trọng những cán bộ làm công tác nghiên cứu chính sách, cán bộ
thanh tra giáo dục.
III. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÍ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Để thực hiện thống nhất cơ cấu khung và hệ thống giáo dục quốc dân,
hệ thống văn bằng, chứng chỉ giáo dục đào tạo, Chính phủ quy định:
1. Cơ cấu khung
Cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam bao gồm:
– Giáo dục mầm non, nhà trẻ, mẫu giáo.
– Giáo dục phổ thông: Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông.
– Giáo dục chuyên nghiệp: Trung học chuyên nghiệp, Trung học nghề,
Đào tạo nghề.
– Giáo dục đại học: Cao đẳng, Đại học, Sau đại học.
– Giáo dục thường xuyên.
2. Hệ thống trường lớp
Hệ thống trường lớp của nền giáo dục quốc dân bao gồm các loại hình
sau đây:
– Các loại hình trường lớp công lập, bán công, dân lập và tư thục.
– Những loại hình trường lớp dành cho những đối tượng phổ biến,
dành cho học sinh có tài, năng khiếu và những loại hình trường lớp dành cho
những đối tượng đặc biệt như trẻ có khuyết tật, chăm đi học hoặc bỏ học.
– Hoạt động giáo dục đào tạo được thực hiện theo nhiều phương thức
dài hạn, ngắn hạn, tập trung, không tập trung: đào tạo, bồi dưỡng, chính quy,
không chính quy, tự học từ xa…
3. Khung tuổi của các bậc giáo dục – đào tạo
Thời gian khung của các bậc giáo dục đào tạo, độ tuổi chuẩn tương
ứng để vào cấp bậc đó theo hình thức tập trung chính quy và văn bằng tốt
nghiệp được quy định theo bảng sau:
Đặc điểmBậc, cấp giáo dục
Thời gian GD-ĐT
chính quy
Tuổi chuẩn vào học các cấp
Điều kiện học lực vào học các cấp
Văn bằng tốt nghiệp
I. Bộ giáo dục mầm non
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
II. Bậc giáo dục phổ thông
- Tiểu học
- Trung học cơ sở
- Trung học PT
III. Bậc giáo dục chuyên nghiệp
- Đào tạo nghề sau tiểu học
- Đào tạo nghề sau TH cơ sở
- Trung học chuyên nghiệp
- Trung học nghề
IV. Bậc giáo dục đại học
- Cao đẳng
- Đại học
- Đào tạo Thạc sĩ
- Đào tạo Tiến sĩ
3 năm
3 năm
5 năm
4 năm
3 năm
3 năm
1-2 năm
3-4 năm
3-4 năm
3 năm
4-6 năm
2 năm
4 năm
2 năm
3-4 tháng
3 tuổi
6 tuổi
11 tuổi
15 tuổi
13-14 tuổi
15 tuổi
15 tuổi
15 tuổi
18 tuổi
18 tuổi
Có bằng tiểu học
Có bằng TH cơ sở
Có bằng TH cơ sở
Có bằng TH cơ sở
Có bằng TH cơ sở
Có bằng tú tài hoặc
TH chuyên nghiệp
Có bằng tú tài hoặc
TH chuyên nghiệp
hoặc TH nghề
Có bằng cử nhân
Có bằng cử nhân
Có bằng thạc sĩ
Bằng tiểu học
Bằng TH cơ sở
Bằng tú tài
Chứng chỉ nghề
Bằng nghề
Bằng TH chuyên nghiệp
Bằng trung học nghề
Bằng cao đẳng
Bằng cử nhân
Bằng Thạc sĩ
Bằng Tiến sĩ
Đối với những trường hợp đặc biệt, có những quy định thích hợp về độ
tuổi và thời gian giáo dục – đào tạo.
Bộ Giáo dục – Đào tạo có thể vận dụng thời gian theo khung nêu trên
để quy định linh hoạt về thời gian đào tạo trên cơ sở bảo đảm cho người học
phải hoàn thành đầy đủ chương trình của từng cấp học, bậc học.
4. Các loại hình đào tạo khác
Giáo dục thường xuyên được thực hiện bằng nhiều hình thức (như
không tập trung, không chính quy, tại chức, bổ túc, tự học, từ xa…) nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi công dân ở mọi trình độ có thể học tập thường
xuyên, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng người, đáp ứng những yêu
cầu phát triển kinh tế và xã hội, khoa học và công nghệ, văn học và nghệ
thuật.
Khi đạt đầy đủ những yêu cầu về một văn bằng hoặc chứng chỉ quy
định thì người học được cấp văn bằng hoặc chứng chỉ đó.
5. Văn bằng
Văn bằng và chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân do Nhà nước
thống nhất quản lí. Thủ trưởng của những cơ quan giáo dục được Nhà nước
cho phép tổ chức các kỳ thi tương ứng với những văn bằng chứng chỉ đã quy
định thì được quyền cấp những chứng chỉ đó.
Các văn bằng và chứng chỉ có giá trị ghi nhận trình độ đã được đào tạo
để sử dụng trong việc tiếp tục học lên, xin dự tuyển tìm việc làm, xin hành
nghề độc lập. Đối với một số ngành nghề, văn bằng chứng chỉ cần được coi
như một trong những điều tối thiểu để được phép hành nghề.
Nghị định của Thủ tướng Chính phủ được thực hiện từ 24 – 11 –1993.
Những quy định nào trái với Nghị định này đều bãi bỏ.
B. ĐIỀU LỆ NHÀ TRƯỜNGĐể đảm bảo cho Sự nghiệp giáo dục phát triển, các nhà trường hoạt
động đúng mục tiêu và nguyên lý giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lý của
Nhà nước nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài,
thực hiện mục tiêu lớn của đất nước: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Điều lệ nhà
trường.
I. ĐIỀU LỆ TRƯỜNG MẦM NON1. Những quy định chung
Trường mầm non là đơn vị cơ sở của giáo dục quốc dân. Nó có tư cách
pháp nhân và có con dấu riêng, với nhiệm vụ là tiếp nhận trẻ đến đúng độ tuổi
nuôi dưỡng và giáo dục. Quản lý cơ sở vật chất của nhà trường và kết hợp
tốt với xã hội (phụ huynh và các ngành, đoàn thể...) để thực hiện tốt giáo dục
trẻ theo khoa học.
Cũng như các cấp học khác, cũng có các loại hình công lập, bán công,
dân lập, tư thục và tên trường được cộng với một tên nàng nữa là đủ. Các
loại trường nói trên đều chịu sự quản lý của Phòng Giáo dục huyện hay Quận
về mọi mặt.
2. Tổ chức và quản lý trường mầm non
Trường mầm non là do cơ quan cấp huyện hoặc quận quản lý và chỉ
đạo mọi mặt, được mở trường theo mạng lưới trường học của địa phương
nghĩa là trường được thành lập theo đơn vị hành chính xã, phường hoặc cơ
quan hành chính.
Trường mầm non do cơ quan cấp huyện hoặc quận quản lý, tổ chức và
cá nhân muốn mở trường phải tuân thủ đúng điều lệ đủ điều kiện trình lên cấp
huyện hoặc quận xem xét và ra quyết định.
Những quy định cần nắm vững
a. Trẻ từ 3 tháng đến 36 tháng được tổ chức thành các nhóm trẻ
Từ 3 đến 6 tháng: 15 cháu
Từ 7 đến 12 tháng: 18 cháu
Từ 13 đến 18 tháng: 20 cháu
Từ 19 đến 24 tháng: 22 cháu
Từ 25 đến 36 tháng: 25 cháu
b. Trẻ em từ 37 tháng đến 6 tuổi được tổ chức thành các lớp mẫu giáo
Lớp 3 đến 4 tuổi: 25 cháu
Lớp 4 đến 5 tuổi: 30 cháu
Lớp 5 đến 6 tuổi: 35 cháu
Giáo viên được tổ chức thành chuyên môn theo khối hoặc theo lớp,
thực hiện kế hoạch hoạt động. Ngoài ra, còn phải tham gia bồi dưỡng hoặc tự
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
Hiệu trưởng do chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện hoặc quận bổ nhiệm
đối với trường công và bán công. Đối với trường dân lập hay tư thục thì Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện hoặc quận công nhận khi có đề nghị của Trưởng
Phòng Giáo dục - Đào tạo.
Phó Hiệu trưởng cũng được Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện bổ nhiệm
hay công nhận khi có sự đề nghị của Trưởng Phòng giáo dục – Đào tạo.
Hiệu trưởng phải là người có trình độ chuyên môn từ trung học sư
phạm trở lên và đã có từ 5 năm tham gia công tác giáo dục mầm non, có tín
nhiệm và có năng lực tổ chức.
Hiệu trưởng quản lý toàn diện nhà trường theo chế độ thủ trưởng và có
hiệu phó giúp việc được phân công một số mặt công tác do hiệu trưởng quyết
định. Phó hiệu trưởng cũng phải có trình độ chuyên môn từ trung học sư
phạm trở lên và kinh qua công tác mẫu giáo ít nhất là 3 năm.
Trong trường mầm non cũng có đủ các tổ chức đoàn thể và chuyên
môn:
– Tổ chức Đảng lãnh đạo trường và hoạt động đúng Hiến pháp, Pháp
luật.
– Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức
xã hội khác hoạt động theo quy định của pháp luật nhằm giúp nhà trường
thực hiện mục tiêu giáo dục.
3. Hoạt động nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em
a. Chương trình giáo dục và tài liệu tham khảo được Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành và quy định thống nhất trong toàn quốc.
– Danh mục tài liệu hướng dẫn và tài liệu tham khảo được Bộ Giáo dục
và Đào tạo quy định sử dụng trong trường.
– Các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em tiến hành
thông qua các hoạt động quy định trong chương trình.
b. Đánh giá kết quả nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em được tiến
hành thông qua kiểm tra đánh giá kết quả chăm sóc và giáo dục trẻ thông qua
kiểm tra định kỳ sức khoẻ, đánh giá phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm
mỹ của trẻ.
4. Giáo viên và trẻ em
a. Giáo viên
Giáo viên mầm non phải có trình độ trung học sư phạm mầm non. Nếu
người nào đã có trình độ trung học, cao đẳng hay đại học muốn trở thành
giáo viên mầm non phải qua khoá đào tạo giáo viên mầm non dành riêng cho
đối tượng này tại các trường hay khoa sư phạm.
Giáo viên mầm non phải có ngôn ngữ mẫu mực mới có tác dụng giáo
dục trẻ em. Nghĩa là giáo viên nhất thiết phải sử dụng đúng ngôn ngữ phổ
thông với âm thanh chuẩn có khả năng diễn cảm.
b. Trẻ em
Trẻ em đến trường đúng độ tuổi và không mắc bệnh truyền nhiễm hay
bệnh bẩm sinh nguy hiểm.
Đối với vùng cao hay vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt thì có thể nhận
vào lớp với tuổi cao hơn tuổi quy định.
Trẻ em được tôn trọng và bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng
những khoản trợ cấp theo quy định.
Trẻ em được ăn mặc sạch sẽ, gọn gàng và được phát huy hết năng
khiếu, uốn nắn ngôn ngữ và việc giao tiếp thưa gửi.
Trẻ em được chú ý khen thưởng động viên dưới nhiều hình thức.
5. Cơ sở vật chất và mối quan hệ xã hội
a. Cơ sở vật chất
Trường phải đặt tại trung tâm dân cư, đảm bảo an toàn và vệ sinh môi
trường.
Cơ cấu tổ chức và thiết bị nhà trường phải đảm bảo đúng và đủ theo
quy định. Từ phòng học cho các lớp, đến phòng âm nhạc, từ sân chơi đến
nhà ăn và khu vệ sinh (có mẫu thiết kế do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định)
b. Mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
– Trách nhiệm nhà trường: Cùng với chính quyền địa phương, phối hợp
với gia đình và xã hội xây dựng tốt môi trường giáo dục.
– Trách nhiệm gia đình: Thường xuyên liên hệ với nhà trường cùng
phối hợp nuôi dưỡng con cái. Đóng góp theo quy định và tham gia các hoạt
động xã hội với nhà trường.
QUY CHẾCÔNG NHẬN TRƯỜNG MẦM NON ĐẠT CHUẨN QUỐC GIA
GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2002 ĐẾN NĂM 2005
(Ban hành kèm theo Quyết định số 45/2002/QĐ-BGD&ĐT,
ngày 26/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Quy chế gồm 4 chương, 18 điều.
Chương 1: Những quy định chung.
Chương 2: Tiêu chuẩn trường mầm non nông thôn đạt chuẩn quốc gia.
Chương 3: Tiêu chuẩn trường mầm non thành thị đạt chuẩn quốc gia.
Chương 4: Tổ chức xét và công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc
gia.
CHƯƠNG 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Quy chế này quy định tiêu chuẩn, tổ chức xét và công nhận Trường
mầm non đạt chuẩn quốc gia giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2005 đối với
các trường mẫu giáo, trường mầm non trong cả nước theo hai loại hình:
trường mầm non nông thôn, trường mầm non thành thị.
Điều 2. Điều kiện xét và cấp thẩm quyền công nhận
1. Căn cứ vào tiêu chuẩn quy định, các trường mầm non và trường
mẫu giáo công lập, bán công, dân lập, tư thục đạt danh hiệu tiên tiến năm kề
liền với năm đề nghị công nhận trường đạt chuẩn quốc gia được quyền tự
đánh giá đề nghị cấp có thẩm quyền công nhận đạt chuẩn quốc gia.
2. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định công nhận trường
mầm non nông thôn, trường mầm non thành thị đạt chuẩn quốc gia.
Điều 3. Thời gian công nhận
Thời gian công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc gia là 4 năm kể
từ ngày kí quyết định công nhận. Trong thời hạn 4 năm, nếu trường đã đạt
chuẩn quốc gia có vi phạm về tiêu chuẩn thì tuỳ theo tính chất, mức độ sai
phạm mà được xem xét tiếp tục công nhận hoặc không công nhận trường đạt
chuẩn quốc gia.
Điều 4. Trách nhiệm của cấp quản lí giáo dục ở địa phương
Phòng Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo trong phạm vi
chức năng, nhiệm vụ được giao, có trách nhiệm lựa chọn, tập trung xây dựng
trường chuẩn quốc gia trên cơ sở những trường hiện có, và tham mưu xây
dựng những trường mới…
CHƯƠNG 2: TIÊU CHUẨN TRƯỜNG MẦM NON
NÔNG THÔN ĐẠT CHUẨN QUỐC GIA
Điều 5. Tiêu chuẩn 1 – Tổ chức quản lí nhà trường
1. Tổ chức quản lí:
a. Nhà trường thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, chấp hành nghiêm chỉnh sự quản lí của chính quyền địa phương,
đồng thời chủ động tham mưu với cấp Ủy Đảng, chính quyền về kế hoạch và
các biện pháp cụ thể của nhà trường để thực hiện mục tiêu giáo dục mầm
non.
b. Chấp hành tốt sự chỉ đạo của cơ quan quản lí giáo dục các cấp, thực
hiện đầy đủ, có nền nếp các hoạt động chuyên môn.
c. Công tác hành chính, quản trị đảm bảo các điều kiện hoạt động chăm
sóc giáo dục trẻ và chăm lo đời sống giáo viên, cán bộ nhân viên.
2. Hoạt động của các tổ chức đoàn thể:
Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa phương, hoạt động của Công đoàn,
Đoàn thanh niên có tác dụng thiết thực thúc đẩy sự phát triển của nhà trường,
liên hệ chặt chẽ với Hội Phụ huynh học sinh.
Điều 6. Tiêu chuẩn 2 – Cán bộ quản lí, giáo viên và nhân viên
1. Ban giám hiệu:
a. Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng có trình độ đào tạo đạt chuẩn
theo quy định của Điều lệ trường mầm non. Hiệu trưởng đã được đào tạo
hoặc bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lí giáo dục.
b. Được xếp loại tốt trở lên về năng lực và hiệu quả quản lí. Có khả
năng tổ chức trường mầm non…, có phẩm chất đạo đức tốt, có tín nhiệm.
c. Nếu là trường công lập, bán công, hiệu trưởng phải là công chức nhà
nước.
2. Giáo viên và nhân viên
a. Định biên: Đảm bảo có đủ giáo viên nhà trẻ, giáo viên mẫu giáo và
nhân viên quy định trong Điều lệ trường mầm non.
– Giáo viên nhà trẻ:
+ Trẻ 4 tháng đến 6 tháng tuổi: 4 cô nuôi dạy (một nhóm) 15 trẻ
+ Trẻ 7 tháng đến 12 tháng tuổi: 4 cô nuôi dạy (một nhóm) 18 trẻ
+ Trẻ 13 đến 18 tháng tuổi: 3 cô nuôi dạy (một nhóm) 20 trẻ
+ Trẻ 19 đến 24 tháng tuổi: 3 cô nuôi dạy (một nhóm) 22 trẻ
+ Trẻ 25 đến 36 tháng tuổi: 2 cô nuôi dạy (một nhóm) 25 trẻ.
– Giáo viên mẫu giáo:
+ Học hai buổi có bán trú: 1,5 đến 2 giáo viên/ 1 lớp
+ Học hai buổi không bán trú: 1 giáo viên/ 1 lớp
(Số lượng trẻ mẫu giáo quy định cho 1 lớp: Theo Điều lệ trường mầm
non).
b. Trình độ đào tạo: Có ít nhất 90% tổng số giáo viên đạt trình độ đào
tạo chuẩn (tốt nghiệp THSP mầm non) trở lên.
c. Phẩm chất đạo đức của giáo viên và cán bộ nhân viên:
Giáo viên và cán bộ nhân viên có phẩm chất đạo đức tốt, thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định của nhà nước, có 30% giáo viên, cán bộ nhân việt
đạt lao động giỏi và có giáo viên giỏi cấp tỉnh, không có người vi phạm pháp
luật, không có giáo viên yếu kém.
Điều 7. Tiêu chuẩn 3 – Quy mô trường lớp, cơ sở vật chất và thiết bị
1. Quy mô trường lớp
Trường mầm non và trường mẫu giáo nông thôn có hai loại hình phổ
biến: Loại trường tập trung tại một điểm: trường mầm non có từ 2 nhóm trẻ và
3 lớp mẫu giáo trở lên, trường mẫu giáo có từ 5 lớp mẫu giáo trở lên: loại
trường nhiều địa điểm (bao gồm một điểm chính và các điểm lẻ): trường mầm
non có ít nhất một nhóm trẻ và hai lớp mẫu giáo, trường mẫu giáo có từ 3 lớp
trở lên.
2. Địa điểm trường lớp
Trường lớp đất nơi trung tâm dân cư, đường đi lại thuận tiện, môi
trường trong sạch, cảnh quan đẹp. Diện tích mặt bằng của trường có bình
quân tối thiểu 10m2/1 trẻ (trong đó 50% diện tích là sân vườn). Các công trình
của trường xây dựng kiên cố, hoặc bán kiên cố, thông thoáng, hợp vệ sinh.
3. Các phòng chức năng, khu nhà bếp phục vụ bán trú, sân chơi, nấc
trang thiết bị tối thiểu được bảo đảm: Phòng nhóm lớp học tập và vui chơi của
trẻ; phòng Hiệu trưởng, văn phòng nhà trường, phòng hoạt động âm nhạc (tối
thiểu là 60m2, có gương, và gióng múa theo quy định), phòng Y tế (tối thiểu
15m2), khu vệ sinh, khu vực nhà bếp và sân chơi, tường bao quanh và cổng
trường; và các yêu cầu khác.
Điều 8. Tiêu chuẩn 4 – Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
1. Tỉ lệ chuyên cần của trẻ: 95% đối với trẻ 5 tuổi; 80% đối với trẻ ở các
độ tuổi khác.
2. Về chăm sóc: 80% trẻ đạt sức khoẻ kênh A. Không có trẻ kênh C.
3. Về chất lượng giáo dục: 80% trẻ phát triển đạt được yêu cầu trong
Quy định mục tiêu kế hoạch đào tạo nhà trẻ, trường mẫu giáo.
4. Bảo vệ trẻ: 100% trẻ được đảm bảo an toàn tuyệt đối.
Điều 9. Tiêu chuẩn 5 – Thực hiện xã hội hoá giáo dục có sự phối hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội trong phong trào giáo dục mầm non đảm bảo tỉ lệ huy động:
95% trẻ 5 tuổi ra lớp
30% trẻ ở các độ tuổi khác (cả nhà trẻ và mẫu giáo) ra lớp.
Có sự đóng góp của các tổ chức xã hội, các cá nhân, các gia đình để
xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ tốt chăm sóc giáo
dục trẻ.
CHƯƠNG 3: TIÊU CHUẨN TRƯỜNG MẦM NON
THÀNH THỊ ĐẠT TIÊU CHUẨN QUỐC GIA
Điều 10. Tiêu chuẩn 1 – Công tác tổ chức quản lí nhà trường
1. Tổ chức quản lí (như quy định tại Điều 4, chương 2 của Quy chế
này).
2. Hoạt động của Đoàn thể (như quy định tại Điều 4).
3. Quản lí chăm sóc giáo dục trẻ:
– Thu nhận tối đa trẻ 5 tuổi và số trẻ trong độ tuổi khác thuộc địa bàn
trường đóng vào trường theo quy định của Điều lệ trường mầm non.
– Thực hiện đúng, đủ các nội dung chương trình quy định.
– Thực hiện khám sức khoẻ định kì cho trẻ mỗi năm 2 lần.
– Có sáng kiến kinh nghiệm, làm đồ dùng dạy học, đồ chơi.
Điều 11. Tiêu chuẩn 2 – Cán bộ quản lí, giáo viên, nhân viên
1. Ban Giám hiệu
Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng có trình độ đại học trở lên; trong
đó có ít nhất 2 người được đào tạo chuyên ngành giáo dục mầm non; Hiệu
trưởng đã qua đào tạo hoặc được bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lí giáo dục.
– Được xếp loại khá trở lên về năng lực và hiệu quả quản lí, có khả
năng tổ chức trường mầm non…, có phẩm chất đạo đức tốt, có tín nhiệm.
2. Giáo viên và nhân viên
a. Định biên: Đảm bảo có đủ giáo viên nhà trẻ, mẫu giáo, nhân viên
theo quy định Điều lệ trường mầm non.
b. Trình độ đào tạo: Trường có ít nhất 50% giáo viên tốt nghiệp cao
đẳng sư phạm mầm non trở lên. Số giáo viên còn lại tốt nghiệp THSP mầm
non.
c. Phẩm chất đạo đức của giáo viên và nhân viên: Giáo viên và nhân
viên có phẩm chất đạo đức tốt, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của nhà
nước, có 50% giáo viên, cán bộ nhân viên đạt lao động giỏi, có ít nhất 10%
giáo viên đạt giáo viên giỏi cấp tỉnh. Không có người vi phạm pháp luật.
Điều 12. Tiêu chuẩn 3 – Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
Nhà trường thực hiện nghiêm chỉnh chương trình chăm sóc giáo dục
trẻ theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Kết quả hàng năm đạt:
1. Tỉ lệ chuyên cần của trẻ: 80% (bao gồm cả nhà trẻ và mẫu giáo).
2. Về chăm sóc: 98% trẻ có cân nặng kênh A. Không có trẻ kênh C.
3. Về chất lượng giáo dục: 98% trẻ phát triển đạt được yêu cầu trong
Quy định mục tiêu kế hoạch đào tạo nhà trẻ, trường mẫu giáo.
4. Bảo vệ: 100% trẻ được bảo đảm an toàn tuyệt đối.
Điều 13. Tiêu chuẩn 4 – Tổ chức trường lớp, cơ sở vật chất và thiết bị
1. Quy mô trường lớp
a. Trường tập trung tại một điểm: Trường mẫu giáo có từ 5 lớp trở lên.
Trường mầm non có từ 9 (nhóm, lớp) được quy định theo Điều lệ trường
mầm non.
b. Địa điểm trường đặt tại nơi thuận tiện
2. Cơ sở vật chất và trang thiết bị
Cơ sở vật chất của trường được xây dựng kiên cố, bảo đảm yêu cầu
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ theo khoa học.
a. Phòng nhóm nhà trẻ: Phòng đón, trả trẻ: Diện tích tối thiểu 10m2;
phòng nhóm trẻ: Có mật độ tối thiểu 2m2/trẻ; phòng ngủ của trẻ: Diện tích tối
thiểu 30m2; phòng lớp mẫu giáo: Phòng học: Diện tích tối thiểu 55m2; Phòng
ngủ của trẻ: ≤ 40m2 và các phòng chức năng theo quy định; phòng hoạt động
âm nhạc ≤ 60m2, có gương trên tường và gióng múa theo quy định; phòng
truyền thống, hội trường, phòng y tế, phòng hành chính, khu vực nhà bếp,
phòng vệ sinh, sân chơi, tường bao quanh và cổng trường; và các yêu cầu
khác như cây xanh, nguồn nước sạch đáp ứng phục vụ mọi sinh hoạt của
trường.
Điều 14. Tiêu chuẩn 5 – Thực hiện xã hội hoá giáo dục
1. Công tác tham mưu
Nhà trường là nòng cốt trong việc vận động, tham mưu với các cấp các
ngành của địa phương thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước chăm lo
sự nghiệp phát triển giáo dục mầm non.
2. Sự tham gia của cộng đồng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ
CHƯƠNG 4. TỔ CHỨC XÉT VÀ CÔNG NHẬN
TRƯỜNG MẦM NON ĐẠT CHUẨN QUỐC GIA
Điều 15. Hồ sơ xét đề nghị công nhận.
Điều 16. Cơ quan thường trực.
Điều 17. Hội đồng xét đề nghị cấp huyện, cấp tỉnh
Điều 18. Các bước thực hiện.
II. ĐIỀU LỆ TRƯỜNG TIỂU HỌC
1. Những quy định chung
Trường tiểu học là cơ sở giáo dục của bậc tiểu học, bậc học nền tảng
của hệ thống giáo dục quốc dân, có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng.
Trường có nhiệm vụ tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục
khác theo chương trình giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Huy động hết trẻ em vào lớp một và vận động học sinh bỏ học đến
trường, thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục tiểu học và tham gia xoá mù
chữ trong cộng đồng.
Cũng như các cấp học khác, nó có các loại hình trường công lập, dân
lập… hay ta gọi chung là các trường Tiểu học ngoài công lập.
2. Tổ chức và quản lý trường tiểu học
Trường tiểu học được xác định trong mạng lưới trường học và đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Trường tiểu học do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định với
đủ hồ sơ quy định thành lập trường. Ủy ban nhân dân cấp xã lập hồ sơ theo
quy định, Phòng Giáo dục và Đào tạo chấp nhận hồ sơ và cùng với Ủy ban
nhân xã khảo sát tính khả thi và trình lên Chủ tịch Ủy ban nhân cấp huyện
xem xét quyết định.
a. Đối với cơ sở giáo dục tiểu học khác muốn mở cơ sở đào tạo phải
phù hợp với yêu cầu phổ cập giáo dục tiểu học của địa phương.
b. Tổ chức hay cá nhân muốn mở cơ sở giáo dục tiểu học khác phải:
+ Đủ số lượng giáo viên theo tiêu chuẩn.
+ Đủ cơ sở vật Chất để tiến hành giáo dục đào tạo.
+ Phải có sự bảo trợ việc thực hiện mục tiêu giáo dục.
c. Tổ chức và quản lý
– Hiệu trưởng
Hiệu trưởng trường công lập do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện hoặc
Quận bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 5 năm và không quá hai nhiệm kỳ liên tục cùng
một trưởng. Hiệu trưởng phải là giáo viên tiểu học đã có thời gian dạy học ít
nhất 5 năm được sự tín nhiệm về chuyên môn và đạo đức, có năng lực quản
lý trường.
Theo chế độ thủ trưởng, Hiệu trưởng quản lý toàn bộ công việc giáo
dục đào tạo của nhà trường.
– Phó hiệu trưởng
Phó hiệu trưởng là người giúp việc cho Hiệu trưởng. Mỗi trường tiểu
học có từ một đến hai Phó hiệu trưởng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
hoặc Quận bổ nhiệm.
Phó hiệu trưởng phải là người có thời gian làm giáo viên tiểu học ít nhất
3 năm, không kể thời gian tập sự và được đào tạo từ trình độ Cao đẳng sư
phạm.
– Lớp học
Học sinh được tổ chức theo lớp, mỗi lớp không quá 35 học sinh, có lớp
trưởng và lớp phó do học sinh bầu hoặc giáo viên chủ nhiệm chỉ định, mỗi lớp
có giáo viên vừa làm chủ nhiệm vừa giảng dạy các môn học. Ở trường có
nhiều lớp học có thể chia thành khối lớp học. Trong trường, số lớp không quá
30 lớp.
– Tổ chuyên môn
Trong trường tiểu học, tổ chuyên môn được tổ chức theo khối lớp, xây
dựng kế hoạch hoạt động chung, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
Ngoài ra trong trường còn có một tổng phụ trách Đội Thiếu niên Tiền
phong Hồ Chí Minh, giáo viên phụ trách Đội có thể là chuyên trách hoặc kiêm
nhiệm tuỳ thuộc vào quy mô trường.
– Hội đồng giáo dục
Hội đồng giáo dục tư vấn cho Hiệu trưởng, thành lập vào đầu năm học
và do Hiệu trưởng làm chủ tịch. Thành phần Hội đồng Hiệu trưởng và Phó
hiệu trưởng, bí thư Đảng, bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Chủ tịch công đoàn, phụ trách Đội và các tổ trưởng.
– Tổ chức Đảng và Đoàn thể khác
Tổ chức Đảng trong trường tiểu học hoạt động theo khuôn khổ pháp
luật.
Công đoàn giáo dục, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoạt
động nhằm giúp nhà trường trong việc thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo
dục.
– Hoạt động giáo dục trong trường tiểu học
– Hoạt động giáo dục trên lớp được tiến hành thông qua việc dạy và
học các môn học bắt buộc.
– Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp do nhà trường phối hợp với các
lực lượng giáo dục khác ngoài nhà trường tổ chức như: hoạt động vui chơi,
tham quan du lịch…
3. Thầy giáo và học trò
a. Thầy giáo
Thầy giáo tiểu học có nhiệm vụ dạy học và giáo dục trong nhà trường
theo chương trình kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Tham gia công tác phổ cập giáo dục.
Rèn luyện học sinh về các mặt văn hoá, đạo đức.
Rèn luyện nghĩa vụ công dân được quy định trong hiến pháp.
Thầy giáo tiểu học phải có trình độ chuẩn trung học sư phạm; nếu có
trình độ trên chuẩn được tạo điều kiện để phát huy tác dụng.
Người có trình độ trung học chuyên nghiệp hay cao đẳng khác muốn
trở thành giáo viên tiểu học phải thông qua bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm.
Ngôn ngữ người thầy giáo phải đạt chuẩn phổ thông, có âm thanh trong
sáng và thuyết phục.
Người thầy giáo tiểu học phải giữ gìn sự trong sáng về đạo đức, tác
phong và lời nói đẹp, tránh xúc phạm đến học sinh và thô tục đến người khác.
b. Học sinh
Tuổi học sinh từ 6 đến 14 tuổi. Nếu trẻ em có sức khoẻ và trí lực tốt có
thể học trước tuổi hay vượt lớp.
Học sinh phải biết kính trọng thầy giáo và mọi người.
Chăm chỉ học hành và hoàn thành nhiệm vụ học tập. Rèn luyện thân
thể và giữ gìn vệ sinh môi trường.
Học sinh được bình đẳng trong việc hưởng thụ giáo dục toàn diện,
được tham gia các hoạt động phát triển năng khiếu. Được nhận học bổng
hoặc các trợ cấp khác theo quy định.
Ngôn ngữ sử dụng trong nhà trường phải trong sáng và cấm mọi hành
vi phi đạo đức. Nếu học tập tốt, giữ gìn vệ sinh tốt, rèn luyện đạo đức tốt thì
được nhà trường xét khen thưởng và nếu ngược lại thì bị kỷ luật tuỳ theo
mức vi phạm.
4. Cơ sở vật chất và quan hệ xã hội
a. Cơ sở vật chất
Trường phải xây dựng ở một địa điểm thích hợp; học sinh đến trường
không phải đi quá 2 km, vùng núi có thể 3 km. Môi trường xung quanh không
có tác động xấu đến nhà trường.
Khuôn viên trường đẹp và thoáng mát, bố trí lớp học, nơi làm việc hợp
lý, đảm bảo thuận lợi cho giảng dạy và học tập.
b. Mối quan hệ giữa nhà trường gia đình và xã hội
Nhà trường phải chủ động kết hợp thường xuyên và chặt chẽ với gia
đình để xây dựng môi trường giáo dục thống nhất thực hiện mục tiêu giáo
dục. Thường xuyên kết hợp với Ban đại diện học sinh và Hội đồng giáo dục
cấp xã thống nhất quan điểm nội dung phương pháp giáo dục giữa nhà
trường, gia đình và xã hội.
Quy chế công nhận trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia
1. Những quy định
Trường tiểu học là đơn vị cơ sở giáo dục tiểu học – cấp học nền tảng
của hệ thống giáo dục quốc dân.
Tiêu chuẩn trường tiểu học là căn cứ đầu tư xây dựng của chính quyền
địa phương. Dù là trường công lập hay tư thục đều có cơ sở vật chất riêng.
Việc xét công nhận trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia tiến hành một lần
trong năm học đối với mỗi trường.
2. Tiêu chuẩn trường tiểu học chuẩn Quốc gia
Dựa vào năm tiêu chuẩn sau:
a. Tổ chức và quản lý
Hiệu trưởng và các Phó hiệu trưởng phải đủ trình độ được đào tạo từ
trung học học sư phạm trở lên, làm việc đúng chức trách, quản lý mọi hoạt
động của nhà trường theo chế độ thủ trưởng đảm bảo tính dân chủ trong nhà
trường.
Các tổ chức trong nhà trường.
+ Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
+ Công đoàn giáo dục Việt Nam.
+ Các Hội đồng tư vấn trong nhà trường.
Tất cả các tổ chức này đều hoạt động hiệu quả, đóng góp cụ thể trong
việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục của nhà trường.
Thực hiện quản lý và hiệu lực quản lý đảm bảo quyền lợi của cán bộ,
giáo viên theo quy định của Nhà nước, có biện pháp cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần cho cán bộ và giáo viên.
Quán triệt sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền địa phương và Phòng
Giáo dục – Đào tạo.
b. Xây dựng đội ngũ giáo viên
Đủ số lượng và trình độ đào tạo chuẩn THSP.
Phải đạt tỉ lệ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi (20% khá giỏi cấp
huyện; 50% khá giỏi cấp trường) không có giáo viên yếu, kém.
Nhà trường phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, cá nhân cũng có kế
hoạch tự bồi dưỡng.
c. Xây dựng cơ sở vật chất
Khuôn viên, sân chơi, bãi tập đạt tiêu chuẩn (10 m2/hs, học hai buổi
ngày; sân chơi 3 m2/hs; khu nội trú 12 m2/hs cách xa lớp học).
Phòng học, thư viện…
Lớp học đủ cho 35 học sinh (1 m2/hs).
Có phòng đọc sách.
Có phòng văn thư v.v…
Phòng học phải có đủ bàn ghế và thiết bị học tập khác theo tiêu chuẩn.
Điều kiện vệ sinh:
+ Trường đặt nơi yên tĩnh.
+ Đảm bảo các yêu cầu vệ sinh khác.
d. Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục
Đại hội giáo dục cấp cơ sở định kỳ.
Hội cha mẹ học sinh hoạt động đều.
Các hoạt động của gia đình và cộng đồng nhằm xây dựng môi trường
giáo dục tốt.
e. Chất lượng giáo dục
Thực hiện chương trình, kế hoạch hoá giáo dục tốt.
Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá học sinh. (Đánh
giá học sinh nghiêm túc).
Chất lượng hiệu quả:
Tỉ lệ lên lớp, tốt nghiệp ít nhất 95 %.
Hạnh kiểm khá, tốt 95 %. Học sinh giỏi ít nhất 10 %.
Học định khá ít nhất 40 %.
Học sinh yếu không quá 5 %.
Năm tiêu chuẩn là quy định bắt buộc để đạt trường tiểu học chuẩn quốc
gia.
Kiểm tra xét duyệt và công nhận trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia.
a. Hội đồng cơ sở (cấp xã, phường) đánh giá dựa vào 5 tiêu chuẩn.
b. Hội đồng cấp huyên thành lập khi được UBND xã đề nghị, kiểm tra
đánh giá đạt tiêu chuẩn thì làm bản đề nghị lên UBND tỉnh.
c. Theo đề nghị UBND huyện, Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định thành
lập Hội đồng kiểm tra. Nếu trường được kiểm tra đạt tiêu chuẩn thì UBND tỉnh
làm văn bản đề nghị Bộ Giáo dục & Đào tạo xét công nhận.
Đoàn kiểm tra của Bộ tiến hành thẩm định kết quả kiểm tra đánh giá
của các cấp. Nếu khẳng định của đoàn kiểm tra đã đạt tiêu chuẩn, Bộ trưởng
ra quyết định cấp Bằng công nhận trường đạt tiêu chuẩn Quốc gia.
III. ĐIỀU LỆ TRƯỜNG TRUNG HỌC1. Những quy định chung
Trường trung học là cơ sở giáo dục bậc Trung học, bậc học nối tiếp bậc
tiểu học của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm hoàn chỉnh bậc học phổ thông
(bao gồm trung học cơ sở). Trường trung học có tư cách pháp nhân và có
con dấu riêng. Nó bao gồm những quyền hạn sau:
– Tổ chức hoạt động dạy, học và các hoạt động khác theo chương trình
giáo dục trung học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
– Tiếp nhận và vận động học sinh bỏ học tới trường, thực hiện phổ cập
giáo dục trung học cơ sở.
– Phối hợp với gia đình và các lực lượng xã hội khác thực hiện các
hoạt động giáo dục.
– Trường trung học được tổ chức theo các loại công lập, bán công, dân
lập và tư thục. Các loại trường không phải công lập gọi tên chung là trường
trung học ngoài công lập.
Tên trường:
Công lập: THPT (hay THCS) + tên riêng
Ngoài công lập: Trung học cơ sở (trung học phổ thông) + (bán công,
dân lập, tư thục) + tên riêng.
2. Tổ chức và quản lý trường trung học
Trường trung học cơ sở do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận
quyết định thành lập trên cơ sở thoả thuận bằng văn bản với Sở Giáo dục và
Đào tạo.
Trường trung học phổ thông do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định thành lập sau khi đã thoả thuận bằng văn bản với Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
Việc mở trường phù hợp với quy hoạch mạng lưới trường học và yêu
cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
a. Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng
Trường trung học có một Hiệu trưởng và từ 1 đến 3 Phó hiệu trưởng
theo nhiệm kỳ 5 năm và không quá hai nhiệm kỳ một trường trung học.
Hiệu trưởng là giáo viên đạt trình độ chuẩn quy định, đã dạy ít nhất 5
năm bậc trung học hoặc bậc học cao hơn, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình
độ chuyên môn vững vàng, có năng lực quản lý được bồi dưỡng lý luận quản
lý và được bạn đồng nghiệp tín nhiệm.
Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng trường THCS do Trưởng phòng Giáo dục
và Đào tạo đề nghị, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện bổ nhiệm (trường công
lập, bán công), công nhận (đối với tư thục, dân lập).
Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng trường trung học phổ thông theo đề nghị
của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo, Chủ tịch UBND tỉnh bổ nhiệm (trường
công lập, bán công), công nhận (trường dân lập, tư thục).
Hiệu trưởng thực hiện chế độ thủ trưởng thực hiện nhiệm vụ quyền
hạn:
Tổ chức bộ máy nhà trường
Xây dựng kế hoạch giáo dục
Quản lý giáo viên, nhân viên và học sinh.
Thực hiện chế độ chính sách của nhà nước.
Phó hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng về nhiệm vụ được
Hiệu trưởng phân công. Cùng với Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước cấp
trên về việc được giao. Thay mặt Hiệu trưởng khi được Ủy quyền.
b. Tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng
Tổ chức Đảng trong nhà trường trung học lãnh đạo nhà trường và hoạt
động trong khuôn khổ hiến pháp.
Công đoàn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội khác hoạt
động theo quy định của luật pháp nhằm giúp nhà trường thực hiện mục tiêu
và nguyên lý giáo dục.
c. Hội đồng giáo dục
Đây là tổ chức tư vấn cho Hiệu trưởng trong việc thực hiện nhiệm vụ và
quyền hạn của nhà trường.
Thành viên của Hội đồng giáo dục bao gồm:
Hiệu trưởng, người ra quyết định và là Chủ tịch, các Phó hiệu trưởng,
Bí thư chi bộ Đảng Cộng sản việt Nam, Chủ tịch công đoàn, Bí thư đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, các tổ chức chuyên môn. Hội đồng giáo dục họp ít nhất
mỗi học kỳ một lần.
Ngoài ra còn có các Hội đồng:
– Hội đồng thi đua khen thưởng
– Hội đồng kỷ luật
3. Hoạt động giáo dục trong trường trung học
Chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học của trường trung học thực
hiện theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Hoạt động giáo dục trên lớp được tiến hành thông qua việc dạy và học
các môn học bắt buộc do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Nhà trường còn phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường
tổ chức hoạt động ngoại khoá về khoa học, văn học, nghệ thuật nhằm phát
triển năng lực toàn diện của học sinh và bồi dưỡng học sinh năng khiếu.
– Đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Đánh giá về học lực qua điểm kiểm tra và điểm thi học kỳ.
Đánh giá về hạnh kiểm, được thực hiện sau mỗi học kỳ.
Việc đánh giá học sinh phải thực hiện theo quy định của Bộ Giáo dục
và Đào tạo: công khai, công bằng, khách quan, chính xác và toàn diện. Kết
quả xếp loại học sinh được dùng làm căn cứ để xét khen thưởng, xét lên lớp,
xếp loại tốt nghiệp.
Học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông hết chương trình có
đủ điều kiện quy định để dự thi tốt nghiệp.
4. Thầy giáo và học sinh
a. Thầy giáo
Trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên trung học:
Tốt nghiệp CĐSP đối với giáo viên trung học cơ sở.
Tốt nghiệp Đại học Sư phạm đối với giáo viên trung học phổ thông.
Những ngươi tốt nghiệp trường cao đẳng, trường đại học chưa được
đào tạo sư phạm muốn trở thành giáo viên trung học phải được bồi dưỡng về
nghiệp vụ sư phạm tại các khoa, trường CĐSP hoặc ĐHSP.
– Người giáo viên được hưởng mọi quyền lợi vật chất và tinh thần,
được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ theo các chế độ, chính sách quy định của
nhà nước.
b. Học sinh
Học sinh trung học cơ sở, tuổi đầu cấp là 11 tuổi đến 14 tuổi.
Học sinh trung học phổ thông tuổi đầu cấp là 15 tuổi đến 19 tuổi.
Học sinh phải được tăng 1 tuổi so với quy định.
Học sinh có trí tuệ phát triển sớm có thể học trước tuổi hoặc vượt lớp.
Học sinh đặc biệt có thể vào học với tuổi đầu cấp cao hơn so với học
sinh bình thường.
Học sinh phải biết kính trọng thầy, cô giáo và cán bộ trong trường.
Chấp hành nội quy, quy chế của nhà trường.
Hoàn thành nghĩa vụ học tập và rèn luyện thân thể tốt.
Học sinh được bình đẳng trong việc hưởng thụ giáo dục toàn diện,
được tôn trọng và bảo vệ, bình đẳng và dân chủ.
Trong nhà trường học sinh phải sử dụng ngôn ngữ phổ thông trong ứng
xử cũng như trong học tập. Trang phục sạch sẽ, giản dị thích hợp với lứa tuổi.
Học sinh học tập tốn giữ gìn kỷ luật tốt và tham gia các hoạt động của
nhà trường được khen thưởng, ngược lại sẽ phải nhận kỷ luật tuỳ theo mức
độ nặng nhẹ.
5. Cơ sở vật chất và quan hệ xã hội
a. Cơ sở vật chất
Trường học là một khu riêng, thuận lợi cho việc giáo dục.Tổng diện tích
tính theo đầu học sinh:
6 m2 đối với học sinh thành phố,
10 m2 đối với học nông thôn;
Phải có đủ phòng học và tiện nghi, bàn ghế… theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, với 45 học sinh trong một lớp.
Phải có một khu vệ sinh sạch sẽ.
Phải có sân chơi và nơi để xe…
b. Quan hệ xã hội
Nhà trường phải chủ động phối hợp với gia đình và xã hội để thực hiện
mục tiêu giáo dục. Nghĩa là phải thống nhất quan điểm, nội dung và phương
pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Toàn bộ quy định trên là thực hiện quyết định của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo theo quyết định số 23/2000/QĐ – BGD&ĐT ngày 11/7/2000 về
việc ban hành Điều lệ trường Trung học.
6. Khen thưởng – kỉ luật
TIÊU CHUẨN TRƯỜNG TRUNG HỌC ĐẠT CHUẨN QUỐC GIA
Tiêu chuẩn 1 – Tổ chức nhà trường.
1. Lớp học
a. Có đủ các khối lớp của cấp học
b. Có nhiều nhất là 45 lớp
c. Mỗi lớp có không quá 45 học sinh.
2. Tổ chuyên môn
a. Hàng năm tập trung giải quyết được ít nhất một nội dung chuyên
môn có tác dụng nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
b. Có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho
giáo viên và đạt các chỉ tiêu đề ra về bồi dưỡng trong năm học, bồi dưỡng
ngắn hạn, bồi dưỡng và đào tạo dài hạn.
3. Tổ Hành chính – Quản trị
a. Tổ Hành chính – Quản trị
Có đủ số người đảm nhận các công việc: Hành chính, quản trị, văn thư,
lưu trữ, kế toán, thủ quỹ, y tế học đường, bảo vệ, phục vụ, thủ kho theo các
quy định hiện hành của điều lệ trường trung học.
b. Có đủ các loại sổ, hồ sơ quản lý, sử dụng đúng theo quy định tại
Điều lệ trường trung học và những quy định trong hướng dẫn sử dụng của
từng loại sổ.
c. Hoàn thành tốt nhiệm vụ, không có nhân viên nào bị kỷ luật từ mức
cảnh cáo trở lên.
4. Các Hội đồng và ban đại diện cha mẹ học sinh
Hoạt động của các Hội đồng và đại diện cha mẹ học sinh trong nhà
trường có kế hoạch nề nếp phải đạt hiệu quả thiết thực góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục, xây dựng nề nếp kỉ cương của nhà trường.
5. Tổ chức Đảng và các đoàn thể
a. Ở những trường trung học đã có tổ Đảng hoặc chi bộ Đảng Cộng
sản Việt Nam phải đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh. Những trường
chưa có tổ chức Đảng phải có kế hoạch và đạt chỉ tiêu cụ thể về phát triển
Đảng viên trong từng năm học và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng.
b. Công đoàn giáo dục, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội
thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh của nhà trường được từ cấp huyện trở lên
công nhận vững mạnh về tổ chức tiên tiến trong hoạt động ở địa phương.
Tiêu chuẩn 2 – Cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên
1. Hiệu trưởng và các Phó hiệu trưởng đạt tiêu chuẩn quy định theo
Điều lệ trường trung học, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ trong hoạt động của
nhà trường; được cấp quản lý giáo dục trực tiếp xếp loại từ khá trở lên về
năng lực và hiệu quả quản lý.
2. Đủ giáo viên các bộ môn đạt trình độ chuẩn được đào tạo theo quy
định hiện hành, trong đó có ít nhất 20 % giáo viên đạt tiêu chuẩn dạy giỏi từ
cấp huyện trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, không có giáo viên xếp loại yếu
về chuyên môn và đạo đức.
3. Có đủ giáo viên hoặc nhân viên phụ trách thư viện, phòng thí
nghiệm, phòng thực hành bộ môn, được đào tạo hoặc bồi dưỡng về nghiệp
vụ. Giáo viên, nhân viên phụ trách từng việc này luôn hoàn thành tốt nhiệm
vụ.
Tiêu chuẩn 3 – Chất lượng giáo dục.
Năm học trước năm đề nghị công nhận và trong năm năm được công
nhận đạt chuẩn quốc gia ít nhất phải đạt các chỉ tiêu sau:
1. Tỉ lệ học sinh bỏ học hàng năm không quá 1%, học sinh lưu ban không quá 5%
2. Chất lượng giáo dục
a. Học lực:
Xếp loại giỏi đạt từ 3 % trở lên.
Xếp loại khá đạt từ 30 % trở lên.
Xếp loại yếu kém không quá 5 %.
b. Hạnh kiểm:
Xếp loại khá, tốt đạt từ 80 % trở lên.
Xếp loại yếu không quá 2 %.
3. Các hoạt động giáo dục
Thực hiện đúng quy định của Bộ về thời gian tổ chức, nội dung các
hoạt động giáo dục ở trong và ngoài giờ lên lớp.
Mỗi năm học tổ chức được ít nhất một lần hoạt động tập thể theo quy
mô toàn trường.
4. Hoàn thành nhiệm vụ được giao trong kế hoạch phổ cập giáo dục trung học cơ sở của địa phương
Tiêu chuẩn 4 – Cơ sở vật chất và thiết bị.
1. Những trường được thành lập trước khi Quy chế này có hiệu lực thi hành:
a. Khuôn viên nhà trường là một khu riêng biệt, có tường rào, cổng
trường, biển trường, tất cả các khu trong nhà trường được bố trí hợp lý, luôn
sạch, đẹp.
b. Cơ cấu các khối công trình trong trường gồm:
* Khu phòng học, phòng thực hành bộ môn
Đủ số phòng học cho các lớp học một ca: Phòng học thoáng mát, đủ
ánh sáng, bàn ghế học sinh, bàn ghế giáo viên, bảng đúng quy cách hiện
hành.
Có phòng thí nghiệm, các phòng thực hành bộ môn Vật lý, Sinh học,
Hoá học, phòng Tin học được trang thiết bị theo quy định tại Quy chế thiết bị
giáo dục trong trường mầm non, trường phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành.
Có phòng học tiếng, phòng nghe nhìn.
* Khu phục vụ học tập:
Có thư viện đúng theo tiêu chuẩn quy định hiện hành về tổ chức và
hoạt động của thư viện trường học, phòng truyền thống, khu luyện tập thể dục
thể thao, phòng làm việc của Công đoàn giáo dục, phòng làm việc của Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
* Khu Hành chính – Quản trị.
Có phòng làm việc của Hiệu trưởng, phòng làm việc của các Phó Hiệu
trưởng, Văn phòng nhà trường, phòng họp giáo viên, kho, phòng thường trực.
* Khu sân chơi sạch, đảm bảo vệ sinh và có cây bóng mát.
* Khu vệ sinh được bố trí hợp lý riêng cho giáo viên, cho học sinh nam,
học sinh nữ, không làm ô nhiễm môi trường ở trong và ngoài nhà trường.
* Có khu để xe riêng cho giáo viên, cho từng lớp trong khuôn viên nhà
trường, đảm bảo trật tự, an toàn.
* Có đủ nước sạch cho các hoạt động dạy học, các hoạt động giáo dục
và nước sử dụng cho giáo viên, học sinh, có hệ thống thoát nước hợp vệ
sinh.
2. Những trường được thành lập sau khi Quy chế này có hiệu lực thi hành:
Cơ sở vật chất theo quy định tại chương VI Điều lệ trường trung học và
các văn bản hướng dẫn kèm theo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Tiêu chuẩn 5 – Công tác xã hội hoá giáo dục.
Tích cực làm tham mưu cho cấp Ủy Đảng và chính quyền địa phương
về công tác giáo dục. Có nhiều hình thức huy động các lực lượng xã hội vào
việc xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ về giáo dục giữa nhà
trường, cha mẹ học sinh và cộng đồng theo Chương VII của Điều lệ trường
trung học. Huy động các lực lượng xã hội tham gia đóng góp xây dựng cơ sở
vật chất của nhà trường.
C. QUẢN LÍ VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở ĐỊA PHƯƠNGĐể phù hợp với yêu cầu quản lí sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở địa
phương trong tình hình hiện nay. Ban tổ chức cán bộ của Chính phủ và Bộ
Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn việc sắp xếp tổ chức biên chế của các Sở
Giáo dục và Đào tạo, các phòng Giáo dục và Đào tạo như sau:
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Do đặc điểm giáo dục và đào tạo là một ngành sự nghiệp bao gồm
nhiều ngành học, về nghiệp vụ chuyên môn có tính thống nhất cao, số đơn vị
trường học nhiều nên cần có tổ chức quản lí phù hợp.
Khi thay đổi quản lí và cán bộ chủ chất các cơ quan quản lí giáo dục –
đào tạo cấp tỉnh, Ủy ban Nhân dân tỉnh cần thoả thuận với Bộ Giáo dục và
Đào tạo trước khi quyết định. Trường hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ủy
ban nhân dân tỉnh không nhất trí thì báo cáo cả hai ý kiến lên thủ tướng chính
phủ quyết định (gửi Ban tổ chức cán bộ của Chính phủ). Đối với phòng giáo
dục huyện cần thoả thuận với Giám đốc Sở Giáo dục Đào tạo trước khi quyết
định.
II. TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÍ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO CÁC CẤP Ở ĐỊA PHƯƠNG
1. Ở cấp tỉnh, thành trực thuộc trung ương (gọi chung là tỉnh) có Sở Giáo dục – Đào tạo
a. Vị trí chức năng quyền hạn, nhiệm vụ của Sở Giáo dục – Đào tạo
Sở Giáo dục – Đào tạo là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân
tỉnh, là hệ thống tổ chức quản lí ngành Giáo dục - Đào tạo của địa phương.
Sở Giáo dục – Đào tạo chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh và
Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện chức năng quản lí Nhà nước về lĩnh vực
giáo dục đào tạo ở địa phương gồm các ngành học: Giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục bổ túc, giáo dục chuyên ngành. Với các loại hình đào
tạo: Quốc lập, dân lập, bán công…
Nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu của Sở Giáo dục – Đào tạo.
– Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo của địa
phương, chịu trách nhiệm chỉ đạo thực hiện khi được duyệt.
– Chỉ đạo các trường ở địa phương thực hiện các điều lệ, quy chế, quy
định về tổ chức và chuyên môn.
– Tổ chức nghiên cứu ứng dụng các chuyên đề khoa học giáo dục đào
tạo, đúc kết sáng kiến kinh nghiệm. Hướng dẫn các trường thực hiện các quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phù hợp với đặc điểm tình hình của địa
phương.
– Quản lí công tác cán bộ; quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố
trí sử dụng, chế độ chính sách đối với giáo viên, cán bộ quản lí, cán bộ khoa
học, công nhân kỹ thuật và nhân viên của ngành theo quy định của Ủy ban
nhân dân địa phương và Bộ Giáo dục và Đào tạo.
– Quản lí công tác tuyển sinh, công tác thi cử, xét duyệt, cấp chứng chỉ
và bằng tốt nghiệp theo quy định của Bộ và Ủy ban nhân dân địa phương.
– Quản lí kinh phí và tài sản theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh.
– Quản lí trực tiếp các trường, các cơ sở giáo dục đào tạo thuộc tỉnh.
Hướng dẫn các phong trào giáo dục đào tạo, quản lí các trường. Giúp Ủy ban
nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lí Nhà nước đối với các trường
chuyên nghiệp của Trung ương đóng trên địa bàn lãnh thổ.
– Thực hiện chức năng thanh tra giáo dục đối với các trường trong
phạm vi địa phương quản lí.
– Thực hiện chế độ báo cáo với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ủy ban
nhân dân tỉnh theo quy định.
b. Tổ chức bộ máy Sở Giáo dục và Đào tạo
Sở Giáo dục và Đào tạo có một Giám đốc và một đến hai Phó Giám
đốc giúp việc.
Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh và Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về các mặt công tác
sau:
– Giáo dục mầm non.
– Giáo dục phổ thông.
– Giáo dục bổ túc – chống mù chữ.
– Giáo dục chuyên nghiệp, đào tạo bồi dưỡng giáo viên.
– Thanh tra giáo dục.
– Kế hoạch – tài chính – tài khoản.
– Tổ chức cán bộ.
– Tổng hợp – hành chính – quản trị.
Tuỳ theo tình hình và khối lượng công việc của địa phương, Ủy ban
nhân dân tỉnh sẽ quyết định cụ thể việc lập phòng, tổ công tác hoặc chỉ bố trí
chuyên môn làm việc trực tiếp với Giám đốc Sở để đảm bảo các mặt công tác
nói trên theo hướng gọn, nhẹ bộ máy hoạt động có hiệu lực.
2. Ở cấp huyện, quận, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) có phòng Giáo dục – Đào tạo
Phòng Giáo dục – Đào tạo là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân
dân huyện, là hệ thống tổ chức quản lí hành chính Nhà nước về lĩnh vực giáo
dục và đào tạo ở địa phương.
a. Nhiệm vụ chủ yếu của Phòng Giáo dục – Đào tạo
Phòng Giáo dục – Đào tạo giúp Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức
năng quản lí hành chính Nhà nước về lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở địa
phương.
Thanh tra, kiểm tra, đôn đốc các trường và các cơ sở giáo dục khác
của địa phương thực hiện các quy định về giáo dục và đào tạo trong các
trường học.
Các nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể.
b. Cơ cấu tổ chức của Phòng Giáo dục – Đào tạo
Cơ cấu gồm có một Trưởng phòng, một Phó Trưởng phòng, các
chuyên viên và nhân viên phục vụ.
3. Biên chế của Sở Giáo dục – Đào tạo và Phòng Giáo dục – Đào tạo thuộc biên chế quản lí của Nhà nước
III. TỔ CHỨC BỘ MÁY, TIÊU CHUẨN BIÊN CHẾ CỦA CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1. Mục đích, ý nghĩa
– Kiện toàn tổ chức các trường phổ thông để nhà trường đảm đương
được nhiệm vụ đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ theo mục tiêu và phương
hướng phát triển.
– Ổn định về tiêu chuẩn biên chế lao động làm công tác quản lí, công
tác giảng dạy, công tác hành chính và phục vụ giảng dạy của mỗi một trường
học, có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ giáo viên; thực hiện việc bố trí
và sử dụng một cách hợp lí cán bộ, giáo viên trong các trường học nhằm
không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục.
2. Vấn đề tổ chức và quản lí các trường phổ thông
Theo quyết định của Chính phủ, trường phổ thông “là đơn vị cơ sở
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”, “là đơn vị sự nghiệp có ngân sách riêng,
có bộ máy quản lí hành chính và chuyên môn hoàn chỉnh”.
Với tinh thần đó, trường phổ thông là cơ quan Nhà nước có tư cách
pháp nhân trong mọi hoạt động của Nhà trường.
Các công việc hành chính và hậu cần của trường phổ thông lâu nay do
Phòng Giáo dục – Đào tạo và Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện thì nay
chuyển giao cho các trường phổ thông quản lí và trực tiếp giải quyết với các
ngành liên quan ở địa phương (như tài chính, ngân hàng, thương nghiệp…)
theo chế độ chung đã được Nhà nước quy định.
– Mỗi trường phổ thông là một đơn vị dự toán, trường được Nhà nước
cấp phát kinh phí hàng năm để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ giáo dục và
giảng dạy cùng các hoạt động khác của Nhà trường.
Căn cứ các định mức chi đã được quy định, Hiệu trưởng có trách
nhiệm lập dự toán ngân sách thực hiện việc chi tiêu quản lí tài chính của Nhà
trường theo đúng chế độ đã được quy định.
Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tài chính sẽ có Thông tư hướng dẫn cụ
thể theo chế độ quản lí tài chính của các trường phổ thông.
– Trường Tiểu học, Trung học cơ sở và lớp vỡ lòng là những lớp đầu
cấp của cấp cơ sở trong hệ thống giáo dục phổ thông. Những lớp này được
áp dụng mọi quy định tại quyết định số 243/CP của Chính phủ.
– Về tổ chức hành chính và chuyên môn trong Nhà trường đảm bảo
cho công tác giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh được áp dụng
theo quy định tại Điều lệ trường phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
44/QĐ của Bộ Giáo dục – Đào tạo.
– Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, trong trường phổ thông, công tác
quản lí được thực hiện theo chế độ thủ trưởng.
Chế độ thủ trưởng trong trường phổ thông được Chính phủ quy định
“Hiệu trưởng là người phụ trách cao nhất của trường, chịu trách nhiệm trước
Nhà nước, trước nhân dân và trước cấp trên trực tiếp về mọi hoạt động giáo
dục của trường”.
Các Phó hiệu trưởng chịu trách nhiệm về phần công tác được phân
công, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm chung về các mặt công tác của
trường.
Trên cơ sở đó, việc phân công phụ trách các mặt công tác của Hiệu
trưởng và các Phó Hiệu trưởng nên theo hướng sau đây:
– Hiệu trưởng phụ trách chung và trực tiếp phụ trách các mặt công tác:
chính trị, tư tưởng, kế hoạch, tổ chức cán bộ, thi đua…
– Các Phó Hiệu trưởng phụ trách các mặt công tác: giảng dạy và học
tập;
+ Công tác giáo vụ, lao động và chỉ đạo học sinh lao động sản xuất,
quản lí sản xuất (nếu có kết hợp sản xuất) công tác hoạt động xã hội và hoạt
động đoàn thể.
+ Công tác văn phòng, giáo dục và tổ chức nội trú (nếu là trường có
học sinh nội trú).
+ Công tác xây dựng và quản lí cơ sở vật chất, tài vụ.
+ Công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, giáo viên.
– Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên Tiền
phong Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị của toàn thể học sinh và là lực lượng
giáo dục học sinh của nhà trường.
Nhà nước thừa nhận vai trò quan trọng đó của Đoàn, Đội trong các
trường phổ thông.
Chính phủ đã quy định số lượng giáo viên (tính bằng biên chế) để phụ
trách công tác Bí thư Đoàn trường (đối với trường phổ thông trung học) và
Tổng phụ trách (đối với trường Trung học cơ sở, Tiểu học) cho từng trường
học. Biên chế này do ngành giáo dục quản lí và trả lương.
Để tăng cường đội ngũ này về năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp
vụ công tác Đoàn, Đội các cơ sở Giáo dục – Đào tạo phối hợp với Thành
Đoàn, Tỉnh Đoàn để có kế hoạch ổn định đội ngũ và từng bước tiến hành bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho anh chị em, tạo điều kiện cho họ thực hiện
công tác có hiệu quả.
3. Vấn đề bố trí và sử dụng giáo viên
– Tiêu chuẩn biên chế giáo viên cho một lớp học đã được Chính phủ
quy định để tiến hành giảng dạy các bộ môn ghi trong kế hoạch đào tạo (trừ
công tác hoạt động xã hội và hoạt động ngoại khoá) và làm chủ nhiệm lớp.
Biên chế cho công tác Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, công tác Bí thư
Đoàn (cho trường phổ thông Trung học) và Tổng phụ trách Đội (cho trường
Trung học cơ sở và Tiểu học) được tính theo đơn vị trường học, ngoài tiêu
chuẩn biên chế giáo viên dạy các lớp nói trên.
– Các công tác chuyên môn khác (như tổ trưởng chuyên môn, thư ký
Hội đồng giáo dục), thường gọi là công tác kiêm nhiệm và công tác hoạt động
xã hội, hoạt động ngoại khoá, do giáo viên bộ môn đảm nhiệm thì được trả
bằng tiền, theo chế độ dạy thêm giờ.
Cụ thể là, thời gian cần thiết để thực hiện các công tác đó được quy ra
giờ tiêu chuẩn và được cộng số giờ tiêu chuẩn này với số giờ thực dạy trên
lớp, nếu quá số giờ tiêu chuẩn hàng tuần thì được trả thù lao cho số giờ vượt
quá đó.
Về chế độ công tác của giáo viên, của Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng,
giáo viên phụ trách các công tác kiêm nhiệm, sẽ được Bộ Giáo dục - Đào tạo
quy định ở một văn bản khác.
– Với nguyên tắc trên, việc bố trí và sử dụng giáo viên bộ môn được
thực hiện như sau:
Đối với tiểu học, trong phạm vi tính theo biên chế bằng 1,15 giáo viên
cho một lớp, sẽ phân công một giáo viên dạy hết số tiết của một lớp và phụ
trách công tác chủ nhiệm lớp. Số còn lại (0,15) sử dụng để dạy số tiết của bộ
môn Hoạ, Nhạc. Chính phủ cho phép hàng năm, khi xây dựng kế hoạch biên
chế được tính theo 8% so với tổng số nữ giáo viên của địa phương để thay
thế cho nữ giáo viên nghỉ để sinh đẻ hoặc chăm nom con ốm.
Đối với trung học cơ sở, bố trí mỗi lớp tính theo biên chế bằng 1,70
giáo viên, gồm tất cả các bộ môn (hoặc 1,85 nếu có thêm môn ngoại ngữ) để
dạy các môn ghi trong kế hoạch đào tạo của một lớp và làm chủ nhiệm lớp
đó.
Mỗi lớp của trường trung học phổ thông, bố trí tính theo biên chế bằng
2,10 giáo viên (gồm tất cả các bộ môn kể cả môn ngoại ngữ) để dạy các bộ
môn của kế hoạch đào tạo và làm chủ nhiệm lớp đó.
Số biên chế này được bố trí về các trường phổ thông trung học cơ sở
từ đầu năm, trên cơ sở thực tế của từng trường.
Việc sử dụng lực lượng này thuộc biên chế của trường nào thì do
trường đó sử dụng.
Giáo viên các cấp nghỉ vì ốm đau, nữ giáo viên Trung học cơ sở, nữ
giáo viên trường trung học phổ thông nghỉ để sinh nở, chăm nom con ốm thì
giải quyết bằng cách bố trí giáo viên dạy thay và trả thù lao dạy thêm giờ.
– Tiêu chuẩn biên chế giáo viên cho một lớp học đã được quy định sẽ
thực hiện từng bước, tuỳ thuộc vào chế độ đào tạo giáo viên của Bộ Giáo dục
và Đào tạo và của các địa phương.
Do đó, đối với những địa phương đã có đủ giáo viên thì được thực hiện
các tiêu chuẩn biên chế quy định ngay từ đầu được quy định.
Những địa phương còn thiếu giáo viên thì cần cân đối kế hoạch phát
triển giáo dục và kế hoạch đào tạo giáo viên để từng bước nâng dần tỉ lệ bố
trí giáo viên mỗi lớp. Trước mắt, có đến đâu bố trí đến đó (không hạ thấp định
mức biên chế đã đạt được) Số còn thiếu thì giải quyết bằng cách huy động
giáo viên dạy thêm giờ.
– Biên chế giáo viên chuyên trách bổ túc văn hoá, biên chế giáo viên đi
bồi dưỡng tập trung hàng năm từ 5 – 10% (theo quyết định số 291/CP của
Chính phủ) cùng biên chế giáo viên giảng dạy cho các lớp bồi dưỡng tập
trung nói trên, được tính riêng và chưa có trong tiêu chuẩn biên chế đã được
quy định tại quyết định 243/CP.
Tiền lương của giáo viên đi bồi dưỡng tập trung nói trên được tính vào
kinh phí đào tạo.
– Do việc phân bố dân cư chưa đồng đều và để thực hiện chính sách
giáo dục đối với vùng dân tộc, nên hiện nay có một số trường phổ thông được
thành lập nhưng có quy mô quá nhỏ (vùng cao, hải đảo, vùng kênh rạch, vùng
đi lại khó khăn), nhằm tạo điều kiện để học sinh đi học được thuận lợi.
Trường hợp này, khi bố trí giáo viên cho các trường học, phải căn cứ
vào yêu cầu cụ thể của từng trường, chữ không thể tính bình quân theo số
lớp và số bình quân học sinh của lớp, đã được quy định để quy ra số biên chế
(có nghĩa là những trường hợp có quy mô quá nhỏ sẽ có biên chế giáo viên
cho lớp cao hơn tiêu chuẩn quy định một cách thích hợp).
Việc bố trí đó nhằm mục đích có đủ số lượng và loại hình giáo viên để
thực hiện việc giảng dạy hết các bộ môn đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo
quy định cho mỗi lớp và cho toàn trường; đồng thời mỗi giáo viên được giảng
dạy đúng bộ môn được đào tạo ở trường sư phạm.
– Trong các trường phổ thông, dù đã bố trí đủ số giáo viên hay chưa đủ
số giáo viên theo tiêu chuẩn biên chế quy định vẫn phải huy động thầy cô giáo
dạy thêm giờ, thêm buổi cho giáo viên phải nghỉ giảng dạy vì lí do sinh đẻ, ốm
đau, đi hội họp, đi bồi dưỡng nghiệp vụ, đi thanh tra chuyên môn.
Vì vậy đầu năm học các trường cần dự trữ kinh phí để trả thù lao cho
giáo viên được huy động dạy thêm giờ trong các trường hợp nói trên.
4. Vấn đề bố trí và sử dụng cán bộ nhân viên hành chính và phục vụ giảng dạy
– Công tác hành chính và phục vụ giảng dạy ở trường phổ thông được
Chính phủ quy định đủ số lượng và loại hình nhằm tạo điều kiện cho các
trường học tiến hành công tác giáo dục và giảng dạy đạt kết quả.
Vì vậy, đội ngũ này phải được đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ một cách có hệ thống theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào
tạo và của các ngành chuyên môn, đồng thời phải được xét tuyển vào biên
chế Nhà nước theo đúng thủ tục đã được quy định tại Nghị định số 24/CP.
– Việc tuyển dụng này được thực hiện từng bước, đào tạo đến đâu bố
trí đến đó, nhất thiết không tuyển dụng ồ ạt. Số cán bộ, nhân viên đã tuyển
dụng cho các công việc này cần được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
– Những giáo viên tiểu học và trung học cơ sở hiện đang giảng dạy
nhưng khả năng chuyên môn sư phạm bị hạn chế, nếu xét thấy không thể tiếp
tục bồi dưỡng để giảng dạy được thì tiến hành bồi dưỡng nghiệp vụ cần thiết
để bố trí vào công việc thích hợp.
Quyết định số 243/CP của Chính phủ được áp dụng cho tất cả các loại
trường phổ thông.
D. QUY ĐỊNH CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỐI VỚI CÁC BẬC HỌC PHỔ THÔNGI. QUY CHẾ GIẢNG DẠY, CHỦ NHIỆM LỚP – ĐÁNH GIÁ HỌC SINH
1. Quy định về giảng dạy
a. Mục đích, ý nghĩa
Trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ của trường phổ thông, quy định chế
độ công tác cho giáo viên là xác định nhiệm vụ, khối lượng công tác của
người thầy giáo, trong quá trình giáo dục học sinh và thời gian quy định cho
từng nhiệm vụ, khối lượng công tác đó, nhằm giúp cho:
– Người thầy giáo thấy được nhiệm vụ cụ thể của mình, để có kế hoạch
thực hiện nhiệm vụ công tác ấy một cách chủ động và sáng tạo, không ngừng
nâng cao chất lượng đào tạo học sinh một cách toàn diện.
– Các cơ quan quản lí giáo dục và trường học có căn cứ để bố trí và sử
dụng hợp lí lực lượng giáo viên, tăng cường công tác quản lí lao động và
thực hiện chế độ chính sách đối với thầy cô giáo.
– Các cơ quan Nhà nước, đoàn thể xã hội, cha mẹ học sinh cần biết để
phối hợp và tạo điều kiện cho giáo viên làm tròn trách nhiệm của người cán
bộ giáo dục.
b. Nhiệm vụ công tác của người thầy giáo
Người thầy giáo có những nhiệm vụ công tác cụ thể sau:
* Công tác giáo dục và giảng dạy
Giáo dục tư tưởng, đạo đức, xây dựng tập thể học sinh là nhiệm vụ
thường xuyên của người thầy giáo.
Nhiệm vụ này được thực hiện thông qua việc giảng dạy bộ môn, công
tác chủ nhiệm lớp, cộng tác chặt chẽ với cha mẹ học sinh, với Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh và Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, để giúp
đỡ học sinh và cùng học sinh tiến hành các sinh hoạt tập thể và sinh hoạt xã
hội.
– Giảng dạy, giảng lí thuyết, chữa bài tập, hướng dẫn thực hành, kiểm
tra đánh giá chất lượng học sinh.
– Giáo dục lao động cho học sinh và cùng học sinh tham gia lao động
sản xuất.
– Soạn bài, chấm bài, làm đồ dùng giảng dạy, chuẩn bị thí nghiệm, tổ
chức ngoại khoá, phụ đạo và bồi dưỡng học sinh.
– Coi thi, chấm thi: thi học kỳ, thi lên lớp, thi tuyển vào lớp đầu cấp, thi
hết cấp, thi tốt nghiệp trường phổ thông.
– Đánh giá xếp loại học sinh, làm sổ điểm, phê học bạ, đánh giá kết
quả học tập của học sinh ở cuối học kỳ và toàn năm học.
– Sinh hoạt chuyên môn: Họp hội đồng giáo dục, họp tổ chuyên môn,
dự giờ, đúc rút kinh nghiệm giáo dục và giảng dạy học sinh.
* Công tác học tập và bồi dưỡng
Để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm (học chính trị, nghiệp vụ sư phạm, ngoại ngữ, bồi dưỡng
để đạt trình độ sư phạm theo tiêu chuẩn, bồi dưỡng sau đại học và trên đại
học…) bao gồm các hình thức:
– Tham dự các lớp bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng tại chức trong hè và
trong năm học, theo chương trình và kế hoạch thống nhất của Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
– Cá nhân có kế hoạch tự học tập trung và bồi dưỡng.
* Công tác luyện tập quân sự
Thực hiện cho những người trong độ tuổi quy định của Nhà nước.
* Tham gia công tác xã hội
– Công tác xã hội, công tác đoàn thể ở trong và ngoài nhà trường.
– Tham gia các hoạt động của địa phương theo đúng chức năng của
nhà trường.
– Tham gia công tác bổ túc văn hoá.
– Tham gia xây dựng đời sống tập thể của cán bộ giáo viên trong Nhà
trường.
c. Thời gian lao động trong một năm của giáo viên
– Một năm công tác có 52 tuần lễ, trừ 4 tuần cho giáo viên nghỉ hè (giáo
viên miền xuôi lên công tác vùng cao nghỉ 6 tuần), 2 tuần nghỉ các ngày lễ
lớn, nghỉ Tết âm lịch và tiến hành các đại hội đoàn thể của giáo viên và học
sinh trong năm) còn lại 46 tuần lễ phân phối cho các nhiệm vụ công tác:
+ Công tác giáo dục giảng dạy 85 tuần lễ.
+ Công tác học tập và bồi dưỡng 9 tuần lễ. Để tiến hành bồi dưỡng tập
trung trong hè, việc cá nhân tự học tập và bồi dưỡng do giáo viên tự thu xếp
vào thời gian thích hợp.
+ Công tác luyện tập quân sự 2 tuần lễ lấy trong giờ hành chính và
thêm một số thời gian ngoài giờ chính quyền, theo quy định chung của Nhà
nước.
– Một năm học được tiến hành từ 5/9 năm này đến 31/5 năm sau, gồm
có 39 tuần lễ (trong đó có 35 tuần lễ làm công tác giáo dục và giảng dạy, 2
tuần nghỉ các ngày lễ lớn, nghỉ Tết âm lịch, tiến hành các đại hội đoàn thể
trong năm, 2 tuần luyện tập quân sự).
Thời gian còn lại từ 1/6 đến cuối tháng 8, giáo viên nghỉ hè, tham gia
học tập, bồi dưỡng tập trung và chuẩn bị cho năm học mới.
d. Những quy định về chế độ công tác của giáo viên
Định mức lao động trong một tuần lễ của giáo viên trường phổ thông
không có học sinh nội trú.
+ Giáo viên tiểu học dạy đủ số tiết quy định của kế hoạch đào tạo (trừ
số tiết của bộ môn Hoạ, Nhạc) của một lớp và làm chủ nhiệm lớp đó.
+ Giáo viên Hoạ, Nhạc của trường phổ thông tiểu học dạy trên 20 tiết/
tuần.
+ Giáo viên trung học cơ sở dạy trên 20 tiết/ tuần.
+ Giáo viên trường trung học phổ thông dạy trên 18 tiết/ tuần.
– Định mức lao động trong một tuần lễ của giáo viên trường phổ thông
nội trú, bổ túc văn hoá.
+ Giáo viên tiểu học trường bổ túc văn hoá, dạy trên lớp 20 tiết/ tuần.
+ Giáo viên trung học cơ sở dạy trên lớp 18 tiết/ tuần cho tất của giáo
viên.
+ Giáo viên trung học dạy trên lớp 16 tiết/ tuần cho tất của loại giáo
viên.
– Chế độ huy động giáo viên dạy thêm giờ ngoài tiêu chuẩn quy định.
Nhiệm vụ của mỗi giáo viên là phải dạy đủ số tiết tiêu chuẩn quy định
cho một tuần lễ và cho cả năm học.
Trường hợp thiếu giáo viên, cơ quan quản lí giáo dục (Sở giáo dục,
Hiệu trưởng) được quyền huy động giáo viên dạy từ 1/4 – 1/2 sẽ giờ tiêu
chuẩn (đối với cả trung học và trung học cơ sở) và không quá một lớp (đối với
tiểu học).
Việc huy động này được thực hiện đối với một cô giáo, thầy giáo.
Số giờ huy động dạy thêm này được trả thù lao theo chế độ dạy thêm
giờ.
– Một số quy định về quy đổi các loại giờ lao động khác ra giờ tiêu
chuẩn.
+ Mỗi giáo viên có nghĩa vụ trực tiếp hướng dẫn học sinh lao động và
cùng tham gia lao động sản xuất với học sinh (hoặc chỉ đạo học sinh tham gia
hoạt động xã hội) mỗi tuần một buổi được tính là 2 tiết tiêu chuẩn.
Nếu trong buổi lao động đó, giáo viên phải soạn giáo án để hướng dẫn
học sinh về lí thuyết lao động thì thời gian hướng dẫn lí thuyết này và thời
gian cùng học sinh tham gia lao động, được tính là 3 tiết tiêu chuẩn.
Nếu được huy động thêm các buổi khác, thì cứ một buổi trực tiếp
hướng dẫn tính là 2 tiết tiêu chuẩn (cho trung học và trung học cơ sở) và một
buổi tiêu chuẩn (cho tiểu học).
Giáo viên không tham gia hướng dẫn học sinh lao động sản xuất thì
phải dạy trên lớp đủ số tiết tiêu chuẩn quy định trong tuần.
+ Mỗi tháng giáo viên ngữ văn trường trung học phổ thông chấm số bài
kiểm tra 15 phút và kiểm tra từ 1 tiết trở lên không quá 40 bài cho mỗi loại.
Nếu chấm số bài quá quy định trên thì cứ 45 bài kiểm tra 15 phút tính là
3 tiết tiêu chuẩn, 45 bài kiểm tra 1 tiết trở lên tính là 7 tiết tiêu chuẩn.
Giáo viên dạy các bộ môn còn lại thuộc các cấp học, mỗi tuần phải
chấm số bài kiểm tra không quá 135 bài cho mỗi loại. Nếu quá số quy định
đó, cứ 45 bài loại 15 phút, tính 2 tiết tiêu chuẩn, 45 bài loại từ 1 tiết trở lên,
tính 4 tiết tiêu chuẩn. Thực hiện việc kiểm tra học sinh nói trên phải được thực
hiện kế hoạch của Nhà trường.
Công thức tính giờ tiêu chuẩn
+ Đối với giáo viên ngữ văn.
Lấy số bài chấm trừ 90 bài = số bài dư.
Loại 15 phút = (Số bài dư x 3 tiết) / (45 bài) = Số tiết được tính thêm
Loại 1 tiết = (Số bài dư x 7 tiết) / (45 bài) = Số tiết được tính thêm
+ Đối với giáo viên khác:
Loại 15 phút = (Số bài dư x 2 tiết) / (45 bài) = Số tiết được tính thêm
Loại 1 tiết = (Số bài dư x 4 tiết) / (45 bài) = Số tiết được tính thêm
Hướng dẫn học sinh thực hành các bộ môn có thực nghiệm đã được
quy định trong chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì cứ 2 tiết hướng
dẫn thực hành, tính 1 tiết tiêu chuẩn, báo cáo ngoại khoá cho học sinh (do
Nhà trường tổ chức) thì số tiết báo cáo thực tế được tính là số tiết tiêu chuẩn
tương đương.
– Giáo viên đang ở thời gian tập sự, nữ giáo viên có con nhỏ từ 12
tháng trở xuống, nữ giáo viên dạy môn thể dục có thai từ tháng thứ 6 trở lên,
mỗi tuần lễ được giảm 2 tiết (cho trung học và trung học cơ sơ) và một buổi
(cho tiểu học) trừ trường hợp y bác sĩ cho nghỉ sớm hơn.
Ở tiểu học có thể bố trí giáo viên khác dạy thay hoặc nếu thiếu giáo
viên thì giáo viên này giảng dạy bình thường, buổi được giảm, trả thù lao dạy
thêm giờ hoặc không huy động giáo viên tham gia các buổi lao động sản xuất
với học sinh trong tuần.
– Giáo viên được huy động tham gia công tác thanh tra chuyên môn
giáo dục, công tác bồi dưỡng nghiệp vụ bộ môn (do Phòng Giáo dục triệu tập,
sau khi được Sở giáo dục đồng ý, nếu là giáo viên tiểu học, trung học cơ sở
hoặc Sở triệu tập nếu là giáo viên trung học) thì thời gian thoát ly Nhà trường
để thực hiện nhiệm vụ được tính tiết tiêu chuẩn như khi giảng dạy ở trường,
nghĩa là cộng số tiết tiêu chuẩn bình quân trong thời gian được huy động với
số tiết thực dạy ở trường.
Công thức tính như sau:
Số ngày huy động x (18 tiết/ tuần / 5 ngày/ tuần) + Số giờ đã dạy = Số
tiết
Ví dụ: 10 ngày được huy động, đã dạy 45 tiết ở trường, ta có: 18
tiết/tuần
10 ngày x (18 tiết/ tuần / 6 ngày/ tuần) + 45 = 75 tiết
e. Chế độ công tác của Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng
Để tăng cường công tác quản lí chuyên môn trong Nhà trường, ngoài
phần việc được phân công về công tác quản lí, tất cả các Hiệu trưởng, Phó
Hiệu trưởng đều phải trực tiếp tham gia giảng dạy trên lớp theo quy định dưới
đây:
– Hiệu trưởng dạy 2 tiết/tuần.
– Phó Hiệu trưởng dạy 4 tiết/tuần hoặc 2 buổi/tuần.
Việc phân công giảng dạy cho Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng thực hiện
theo hướng:
– Dạy thay cho giáo viên ốm đau, sinh đẻ.
– Hoặc có thể dạy đủ số tiết quy định cho một lớp thuộc bộ môn của
mình. Nếu do sự phân công này mà vượt quá số tiết tiêu chuẩn quy định nới
trên thì trả thù lao cho số tiết vượt quá đó.
f. Chế độ công tác của Bí thư Đoàn và Tổng phụ trách Đội
Mỗi trường phổ thông được bố trí một giáo viên có năng lực về công
tác Đoàn, công tác Đội để phụ trách Bí thư Đoàn (Đội với trường Tiểu học),
các giáo viên này có chế độ giảng dạy:
Trường dưới 18 lớp, dạy 1/2 số tiết tiêu chuẩn mỗi tuần.
Trường dưới 28 lớp, dạy 1/3 số tiết tiêu chuẩn mỗi tuần.
Trường từ 28 lớp trở lên, dạy 2 tiết/tuần.
Việc thực hiện chế độ giảng dạy của Bí thư Đoàn và Tổng phụ trách
Đội theo như hướng dẫn ở trên.
g. Chế độ công tác đối với giáo viên kiêm nhiệm công tác đoàn thể,
công tác chuyên môn trong Nhà trường
– Trong trường phổ thông, các công tác sau đây (gọi tắt là công tác
kiêm nhiệm) sẽ do giáo viên đảm nhiệm. Thời gian để đảm nhiệm các công
tác đó, nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào khối lượng của từng công việc trong từng
trường và được quy ra số tiết tiêu chuẩn tương ứng.
– Cụ thể là:
Bí thư Đảng bộ Nhà trường, Phó Chủ tịch công đoàn Nhà trường (nếu
không phải là Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng kiêm nhiệm) được tính 3
tiết/tuần, nếu trường dưới 28 lớp, và 4 tiết/ tuần nếu trường hợp có từ 28 lớp
trở lên.
Mỗi lớp có một giáo viên chủ nhiệm lớp. Ở cấp trung học và trung học
cơ sở giáo viên chủ nhiệm lớp được tính 4 tiết/tuần (không kể tiết dạy môn
Đạo đức).
Tổ trưởng chuyên môn được tính 3 tiết/tuần.
Việc thành lập tổ chuyên môn thực hiện theo quy định tại Điều lệ
trường phổ thông.
Tổ trưởng nghiệp vụ bộ môn của huyện, tỉnh (do Phòng Giáo dục chỉ
định và được Sở chỉ định đối với trung học) thì được tính 3 tiết/ tuần và chỉ
được hưởng trong thời gian thực tế làm việc.
Thư ký Hội đồng giáo dục nhà trường tính 2 tiết/tuần quyết định
243/CP) thì được bố trí một giáo viên giúp Hiệu trưởng phụ trách công tác lao
động, sản xuất, được tính 3 tiết/tuần.
– Để đảm bảo chất lượng giảng dạy và chất lượng công tác, mỗi giáo
viên phụ trách không quá 2 công tác kiêm nhiệm. Nếu được phân công công
tác thứ 3 cũng chỉ được hưởng 2 chức vụ có số tiết cao nhất.
Giáo viên tiểu học phụ trách công tác kiêm nhiệm cứ 2 tiết quy định
tương đương với một buổi tiêu chuẩn.
– Cách thực hiện chế độ công tác cho giáo viên phụ trách công tác
kiêm nhiệm.
Chính phủ quy định (theo quyết 243/CP) các trường phổ thông được sử
dụng biên chế để giảng dạy hết số tiết của kế hoạch đào tạo cho một lớp và
làm chủ nhiệm lớp.
Như vậy giáo viên chủ nhiệm lớp (trung học và trung học cơ sở) được
giảm giờ dạy hàng tuần như quy định trên đây, còn công tác kiêm nhiệm khác
giải quyết bằng cách trả bằng tiền, tức là cộng số tiết được hưởng cho công
tác đó với số tiết đã dạy và trả thù lao theo chế độ dạy thêm giờ.
h. Chế độ hội họp trong trường phổ thông
– Hợp lí hoá và tăng cường chất lượng các cuộc họp, Hiệu trưởng chỉ
được tiến hành các cuộc họp sau đây vào giờ chính quyền. Họp hội đồng
giáo dục mỗi tháng 1 lần, 4 giờ/1ần.
Họp tổ chuyên môn mỗi tháng 2 lần và 4 giờ/lần.
Họp nhóm chuyên môn, mỗi tháng 2 lần, 2 giờ/lần.
Trong mỗi tuần lễ, Hiệu trưởng chỉ huy động giáo viên bộ môn họp 1
lần và các giáo viên kiêm nhiệm không quá 2 lần.
Họp đoàn thể ngoài giờ chính quyền, nên tăng cường thông báo và
giảm bớt hội họp.
i. Quản lý thời gian lao động của giáo viên
Hiệu trưởng của trường phổ thông bố in và sử dụng một cách hợp lí lực
lượng giáo viên.
* Công tác quản lí lao động của giáo viên:
– Quản lí thời gian và chất lượng dạy học trên lớp.
– Quản lí nội dung và kết quả chuẩn bị cho giảng dạy.
– Quản lí các hoạt động chuyên môn.
– Quản lí công tác bồi dưỡng giáo viên.
Khi đã hoàn thành số giờ dạy và giờ kiêm nhiệm, nếu có số giờ cao
hơn thì được trả thù lao dạy thêm giờ.
2. Quy định về công tác chủ nhiệm lớp
Mỗi lớp học có một giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên chủ nhiệm lớp do
trường chỉ định trong số giáo viên giảng dạy ở lớp đó.
a. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp
– Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp
tổ chức việc giáo dục sát với học sinh, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp.
– Cùng các giáo viên khác và cán bộ Đoàn, Đội phối hợp, thống nhất
biện pháp và kế hoạch giảng dạy và giáo dục của lớp.
– Cùng với các giáo viên khác và cán bộ Đoàn, Đội xây dựng lớp thành
một tập thể vững mạnh, giúp đỡ và tạo điều kiện cho Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh. Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh của lớp hoạt động,
phát huy ý thức tự chủ, tính tự giác và chủ động của học sinh trong các hoạt
động giáo dục.
– Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh trong nhiệm vụ giáo dục học
sinh.
– Phối hợp với các giáo viên khác, với Đoàn thành niên cộng sản Hồ
Chí Minh, Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh với gia đình học sinh tổ
chức, nhận xét đánh giá và xếp loại học sinh vào cuối học kỳ và cuối năm học
theo nội dung và tiêu chuẩn quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đề nghị
khen thưởng học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp hay phải ở lại
lớp và danh sách học sinh được giao nhiệm vụ học tập hoặc rèn luyện thêm
trong hè.
– Giáo viên chủ nhiệm phải báo cáo thường xuyên định kỳ với Hiệu
trưởng về tình hình mọi mặt của lớp. Khi có thay đổi giáo viên chủ nhiệm lớp,
khi học sinh chuyển lên lớp trên thì giáo viên chủ nhiệm cũ phải bàn giao cụ
thể tình hình mọi mặt của lớp cho giáo viên chủ nhiệm lớp mới.
b. Quyền hạn của giáo viên chủ nhiệm
– Được cung cấp tài liệu, phương tiện cần thiết để tiến hành nhiệm vụ.
– Được tham dự và biểu quyết trong hội đồng kỷ luật và hội đồng khen
thưởng khi các tổ chức này giải quyết những vấn đề liên quan trực tiếp đến
học sinh của lớp mình phụ trách.
– Được dự lớp bồi dưỡng và các hội nghị chuyên đề về công tác giáo
viên chủ nhiệm; được dự các giờ dạy ở lớp mình do giáo viên khác phụ trách
và các hoạt động giáo dục của học sinh để nắm vững tình hình mọi mặt của
lớp.
– Được quyền cho học sinh nghỉ học, được quyền đề nghị khen thưởng
và thi hành kỷ luật học sinh trong phạm vi Điều lệ quy định.
– Được giảm giờ lên lớp hàng tuần hoặc được hưởng phụ cấp khi làm
công tác chủ nhiệm lớp.
3. Quy chế về cho điểm, đánh giá xếp loại học sinh
Việc đánh giá xếp loại học sinh phải thể hiện rõ tính toàn diện, thống
nhất từ tiểu học đến phổ thông trung học.
a. Đánh giá xếp loại về hạnh kiểm
* Những chuẩn đánh giá và xếp loại về hạnh kiểm
– Loại tốt
Đó là những học sinh nhận thức đúng và thực hiện đầy đủ nhiệm vụ
học sinh (học tập, lao động, đạo đức, nếp sống và rèn luyện thân thể…).
– Loại khá
Những học sinh đạt mức trên trung bình trong việc thực hiện các nhiệm
vụ học sinh thể hiện qua các mặt, học tập, đạo đức, lao động và rèn luyện
thân thể, hoạt động xã hội.
– Loại trung bình
Đó là những học sinh có ý thức thực hiện nhiệm vụ học tập, có tiến bộ
nhất định về hạnh kiểm, nhưng còn chậm, kết quả nói trên ở mức độ trung
bình. Còn mắc một số khuyết điểm ít nghiêm trọng, chưa thành hệ thống, biết
nhận ra khuyết điểm.
– Loại yếu
Những học sinh không đạt tới mức trung bình theo tiêu chuẩn, có
những biểu hiện yếu kém.
– Loại kém
Những học sinh có biểu hiện sai trái nghiêm trọng bị kỷ luật ở mức độ
đuổi học, để xếp loại hạnh kiểm yếu cả năm.
* Cách thức đánh giá xếp loại
– Tổ chức tốt quá trình giáo dục trước khi đánh giá xếp loại.
Đầu năm giáo viên chủ nhiệm lớp cho học sinh học tập các nhiệm vụ
học sinh đã quy định trong các Nghị định 305/QĐ, 329/QĐ và 1118/QĐ.
Nắm tình hình xếp loại học sinh năm trước.
Thông qua hoạt động tổ chức tốt quá trình giáo dục.
Xây dựng quan hệ giáo dục với gia đình và Đoàn, Đội, thống nhất biện
pháp giáo dục giữa các lực lượng giáo dục.
– Thực hiện tốt việc đánh giá xếp loại.
Tiêu chuẩn đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh là tiêu chuẩn chung
cho các cấp học phổ thông.
Phải quan tâm đầy đủ và đúng đắn đến quá trình nhận thức với hành vi
cụ thể của học sinh.
Căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá, cuối mỗi học kỳ hay năm học giáo viên
chủ nhiệm lớp dự kiến đánh giá và kết hợp với các giáo viên bộ môn, cán bộ
lớp, Đoàn, Đội cho ý kiến. Phải đảm bảo sự đánh giá chính xác, công bằng và
khách quan.
b. Đánh giá xếp loại về học lực
* Chế độ cho điểm, hệ số các loại điểm kiểm tra và hệ số các môn học
– Chế độ cho điểm: Chế độ cho điểm ỏ các cấp học được quy định
chung như sau:
+ Số lần kiểm tra từng môn học:
Các môn học có từ 2 tiết/ tuần 4 lần kiểm tra.
Các môn học có từ 2,5 đến 3 tiền tuần 6 lẩn kiểm tra.
Các môn có từ 4 tiết/tuần trở lên kiểm tra 7 lần.
+ Các loại kiểm tra, số lần kiểm tra bao gồm kiểm tra miệng, kiểm tra
viết 15 phút, kiểm tra từ một tiết trở lên.
– Hệ số các loại kiểm tra.
Hệ số 1 đối với kiểm tra vấn đáp và kiểm tra viết 15 phút.
Hệ số 2 đối với kiểm tra viết 1 tiết trở lên.
Điểm kiểm tra học kỳ không tính hệ số.
– Các môn được tính hệ số.
Các môn Văn – Tiếng Việt, Toán của Trung học cơ sở và Trung học
phổ thông được tính hệ số 2 khi tham gia tính điểm trung bình học kỳ hay cả
năm.
* Cách tính điểm và tiêu chuẩn xếp loại học lực
– Cách tính điểm
+ Điểm trung bình học kỳ.
Ký hiệu
Điểm trung bình học kỳ: ĐTBHK
Điểm trung bình các bài kiểm tra: ĐTBKT
Điểm trung bình môn học kỳ: ĐTBMHK
ĐMHK = (2.ĐTBHK + ĐKTHK) / 3
+ Điểm trung bình cả năm
Ký hiệu:
Điểm trung bình cả năm: ĐTBCN
Điểm trung bình môn cả năm: ĐTBMCN
ĐMCN = (ĐTBMHK1 + 2.ĐTBMHK2) / 3
Điểm trung bình các môn cả năm, ký hiệu ĐTBCN
ĐTBCN = (ĐTBHK1 + 2.ĐTBHK2) / 3
– Tiêu chuẩn xếp loại về học sinh
Loại giỏi: ĐTB các môn đạt từ 8 trở lên.
Loại khá: ĐTB các môn từ 6,5 đến 7,9.
Loại trung bình: ĐTB các môn từ 5 đến 6,4.
Loại yếu: ĐTB các môn từ 3,5 đến 4,9.
Loại kém: ĐTB các môn dưới 3,5.
– Giáo viên bộ luôn cho điểm và tính trung bình môn học đó.
– Giáo viên chủ nhiệm tính điểm trung bình các môn học từng học kỳ,
cả năm học, xếp loại học lực. Ghi điểm vào học bạ cho từng học sinh.
– Sử dụng kết quả đánh giá để xét lên lớp hay phải thi lại hoặc ở lại lớp
theo quy chế hiện hành.
E. QUY CHẾ VỀ THANH TRA, KIỂM TRA CÁC BẬC HỌC MẦM NON, TIỂU HỌC, TRUNG HỌCI. THANH TRA MỘT NHÀ TRƯỜNG
1. Mục đích, yêu cầu
Đánh giá toàn diện tình hình nhà trường trên cơ sở đối chiếu với các
quy định về mục tiêu, chương trình, kế hoạch đào tạo của cấp học.
Kết quả được đào tạo, trình độ được giáo dục của học sinh là tiêu
chuẩn cao nhất để đánh giá hoạt động của nhà trường.
Qua thanh tra giúp cho Hiệu trưởng và tập thể sư phạm nhận rõ thực
trạng tình hình nhà trường, giúp nhà trường những giải pháp để giải quyết
những vấn đề cấp bách, thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, đào tạo.
2. Nội dung thanh tra
Thanh tra về nhân sự của nhà trường từ số lượng đến trình độ đào tạo
và trình độ thực.
Thanh tra về cơ sở vật chất của việc đào tạo, từ phòng học đến thư
viện, từ phòng thí nghiệm đến đồ dùng dạy học…
Thanh tra về môi trường và cảnh quan nhà trường, tài chính và chi
tiêu…
Thanh tra thực hiện chỉ tiêu số lượng học sinh được giao phó đào tạo
đến sự chuyên cần của học sinh.
Thanh tra của hoạt động nội khoá, ngoại khoá, hoạt động trong nhà
trường và ngoài xã hội.
Thanh tra về giảng dạy, học tập và các mặt giáo dục khác.
Thanh tra về giáo dục lao động, hướng nghiệp và dạy nghề.
Tóm lại, mọi hoạt động trong nhà trường để thực hiện mục tiêu giáo
dục được tốt đẹp, đều phải thanh tra để có được những hướng dẫn kịp thời.
3. Tiến trình thanh tra
Để thanh tra thuận lợi và có kết quả trước hết phải chuẩn bị chu đáo
như tập hợp đầy đủ thông tin cần thiết về nhà trường và sau đó lập kế hoạch
để tiến hành thanh tra. Nhân sự và phiếu trắc nghiệm, kinh phí và kế hoạch
triển khai…
Chuẩn bị được chu đáo, Hiệu trưởng nhà trường báo cáo được đầy đủ
việc thực hiện nhiệm vụ làm cơ sở tốt cho công tác thanh tra.
Người làm công tác thanh tra phải thực sự thâm nhập vào các mặt hoạt
động của nhà trường, như tham dự các hoạt động vui chơi, học tập, lao động
và ngoại khoá…
Sau một đợt thanh tra phải có sự tổng kết và biên bản kết quả thanh
tra. Trưởng đoàn thanh tra phải thông báo kết quả đầy đủ cho nhà trường và
sau khi nhất trí, công bố kết quả thanh tra với Hội đồng giáo dục và có chữ ký
của các bên, gửi văn bản lên các cấp quản lí.
4. Đánh giá và xếp loại
a. Nguyên tắc đánh giá và xếp loại
– Lấy chất lượng giáo dục – đào tạo làm trọng điểm cho việc xếp loại.
– Đánh giá xếp loại cần phải đối chiếu với yêu cầu và tính đến điều kiện
thực tế.
– Xếp loại từng mặt và xếp loại chung theo từng mức độ: tốt khá, đạt
yêu cầu và chưa đạt yêu cầu.
b. Xếp loại từng nội dung.
– Loại tốt: Thực hiện đúng, đủ các quy định và đạt kết quả cao.
– Loại khá: Thực hiện đúng, đủ các quy định và đạt kết quả tương đối
cao.
– Loại đạt yêu cầu: cơ bản thực hiện đúng quy định và kết quả được
các yêu cầu cơ bản, tối thiểu.
– Loại chưa đạt yêu cầu: Không thực hiện được yêu cầu tối thiểu.
c. Xếp loại nhà trường
– Loại tốt: chất lượng giáo dục, đào tạo đạt loại tốt, còn các nội dung
khác phải đạt từ yêu cầu trở lên.
– Loại khá: chất lượng giáo dục, đào tạo đạt loại khá, còn các nội dung
khác phải đạt yêu cầu.
– Loại đạt yêu cầu: Chất lượng giáo dục đào tạo đạt yêu cầu, còn các
nội dung cùng đạt yêu cầu.
– Loại chưa đạt yêu cầu: Chất lượng giáo dục đào tạo chưa đạt yêu
cầu
II. THANH TRA HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT GIÁO ÁN CÁC CẤP (TỪ MẦM NON TRỞ LÊN ĐẾN TRUNG HỌC)
– Với mục đích xem xét việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục, giảng dạy
của giáo viên nhằm giúp đỡ giáo viên nâng cao chất lượng giáo dục và giảng
dạy, giữ vững kỷ luật, khuyến khích sự cố gắng của bản thân để qua đó bồi
dưỡng, đãi ngộ một cách hợp lí.
– Với nội dung thanh tra.
Trình độ nghiệp vụ (tay nghề)
Thực hiện quy chế chuyên môn
Kết quả giảng dạy, giáo dục.
– Sau cùng cũng được xếp loại theo các mặt thanh tra như ba nội dung
trên.
F. QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC, TIÊU CHUẨN DANH HIỆU THI ĐUA KHEN THƯỞNG ĐỐI VỚI CÁ NHÂN, TẬP THỂ HỌC SINH, SINH VIÊN
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
1. Đối tượng
– Học sinh, sinh viên, đang học tập tại các nhà trường, cơ sở giáo dục
thuộc giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục trung học chuyên
nghiệp, giáo dục đại học theo các loại hình công lập, bán công, dân lập và tư
thục (dưới đây gọi chung là các nhà trường) đạt đủ tiêu chuẩn trong Quy định
này được xét tăng danh hiệu thi đua cho cá nhân.
– Tập thể lớp học thuộc các nhà trường, cơ sở giáo dục đạt đủ tiêu
chuẩn trong Quy định này được xét tặng danh hiệu thi đua cho tập thể.
2. Hình thức khen thưởng
Hình thức khen thưởng đối với tập thể, cá nhân học sinh, sinh viên,
gồm:
– Danh hiệu thi đua
– Giấy khen của Hiệu trưởng nhà trường; của thủ trưởng cơ quan quản
lí giáo dục cấp huyện, cấp Sở.
– Bằng khen của Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
– Phần thưởng của nhà trường và các cấp quản lí giáo dục.
II. DANH HIỆU THI ĐUA
1. Danh hiệu thi đua cá nhân
a. Danh hiệu thi đua cá nhân học sinh, sinh viên gồm:
– Danh hiệu “Bé khoẻ, ngoan”.
– Danh hiệu “Học sinh tiên tiến”; “Học sinh xuất sắc”.
– Danh hiệu “Học sinh tiên tiến”; “Học sinh giỏi”.
– Danh hiệu “Học viên tiên tiến”; “Học viên xuất sắc”.
– Danh hiệu “Sinh viên tiên tiến”; “Sinh viên giỏi”; “Sinh viên xuất sắc”.
b. Danh hiệu thi đua cá nhân học sinh, sinh viên được áp dụng như
sau:
– Danh hiệu “Bé khoẻ ngoan” khen thưởng cho trẻ em đang theo học
tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo thuộc nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường mầm
non.
– Danh hiệu “Học sinh tiên tiến; Học sinh xuất sắc” khen thưởng cho
học sinh đang theo học tại các trường tiểu học.
– Danh hiệu “Học sinh tiên tiến; Học sinh giỏi” khen thưởng cho học
sinh đang theo học tại các trường trung học cơ sở trung học phổ thông, trung
tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp, trung học chuyên nghiệp.
– Danh hiệu “Học viên tiên tiến; Học viên xuất sắc” khen thưởng cho
học viên đang theo học tại các trường bổ túc văn hoá, trung tâm giáo dục
thường xuyên, học viên theo học các chương trình giáo dục không chính quy.
– Danh hiệu “Sinh viên tiên tiến; Sinh viên giỏi; Sinh viên xuất sắc” khen
thưởng cho sinh viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng.
2. Danh hiệu thi đua tập thể
a. Danh hiệu thi đua tập thể học sinh, sinh viên gồm
– Danh hiệu “Lớp khoẻ ngoan”.
– Danh hiệu “Tập thể lớp tiên tiến”.
– Danh hiệu “Tập thể lớp xuất sắc”.
– Danh hiệu “Tập thể lớp học tập tốt, rèn luyện tốt”.
b. Danh hiệu thi đua tập thể học sinh, sinh viên được áp dụng như sau
– Danh hiệu “Lớp khoẻ ngoan” khen thưởng cho tập thể lớp nhóm trẻ,
lớp mẫu giáo thuộc các nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường mầm non.
– Danh hiệu “Tập thể lớp tiên tiến” khen thưởng cho tập thể lớp học
thuộc các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, bổ túc văn
hoá, trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp, trung tâm giáo dục thường
xuyên.
– Danh hiệu “Tập thể lớp xuất sắc” khen thưởng cho tập thể lớp học
thuộc các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, bổ túc văn
hoá, trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp, trung tâm giáo dục thường
xuyên.
– Danh hiệu “Tập thể lớp học tập tốt, rèn luyện tốt” khen thưởng cho
tập thể lớp học thuộc các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.
III. TIÊU CHUẨN DANH HIỆU THI ĐUA
1. Tiêu chuẩn danh hiệu thi đua cá nhân
a. Tiêu chuẩn danh hiệu “Bé khoẻ ngoan”
– Đi học đều, tỉ lệ chuyên cần đạt từ 80% trở lên.
– Đạt tiêu chuẩn khoẻ mạnh sạch sẽ, sức khoẻ kênh A.
– Mạnh dạn, hồn nhiên, lễ phép, tự tin.
b. Tiêu chuẩn danh hiệu “Học sinh tiên tiến”
Đối với học sinh trường tiểu học:
– Đi học đều, thực hiện tốt nội quy nền nếp học tập, được xếp loại học
lực từ khá trở lên.
– Có ý thức tổ chức kỷ luật, biết đoàn kết giúp đỡ bạn, ngoan ngoãn lễ
phép, được xếp loại hạnh kiểm từ loại khá trở lên.
– Tích cực tham gia các phong trào thi đua của Chi đội, Liên đội, Nhà
trường. Có sức khoẻ tốt.
Đối với học sinh các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung
tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp.
– Đi học đều, thực hiện tốt nội quy học tập, có phương pháp học tập
tốt, được xếp loại học lực từ loại khá trở lên.
– Ý thức tổ chức kỷ luật tốt, đoàn kết giúp đỡ bạn: lễ phép, đúng mực
trong cư xử; khiêm tốn trung thực trong học tập, rèn luyện, được xếp loại
hạnh kiểm từ loại khá trở lên.
– Tích cực tham gia các phong trào thi đua của Chi đội, Chi đoàn, Nhà
trường. Hăng hái rèn luyện thân thể, luyện tập quân sự. Có sức khoẻ tốt.
Đối với học sinh trường trung học chuyên nghiệp:
– Nghỉ học có lí do chính đáng không quá 10 buổi trong một năm học.
Thực hiện tốt nội quy học tập, có phương pháp học tập khoa học, được xếp
loại học lực từ loại khá trở lên.
– Ý thức tổ chức kỷ luật tốt; đúng mực trong cư xử, khiêm tốn trung
thực trong học tập; nghiêm phình chấp hành chủ trương đường lối chính sách
Pháp luật của Đảng, Nhà nước; được xếp loại hạnh kiểm từ loại khá trở lên.
– Tích cực tham gia các phong trào thi đua của nhà trường, lớp và chi
đoàn. Hăng hái rèn luyện thân thể, luyện tập quân sự. Có sức khoẻ tốt.
c. Tiêu chuẩn danh hiệu “Học sinh xuất sắc, Học sinh giỏi”
– Đạt được các tiêu chuẩn của danh hiệu học sinh tiến tiến.
– Kết quả học lực đạt loại giỏi.
– Kết quả hạnh kiểm đạt loại tốt.
– Tự giác, trung thực, sáng tạo trong học tập, tu dưỡng. Phát huy được
tác dụng tốt đối với tập thể lớp, Chi đội, Chi đoàn, Nhà trường.
d. Tiêu chuẩn danh hiệu “Học viên tiên tiến”
– Thực hiện tốt nội quy học tập, nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương
đường lối chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước. Trung thực, khiêm tốn.
Quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội đúng mực.
– Nghỉ học có lí do chính đáng không quá 10 buổi trong một năm học.
– Đạt hạnh kiểm từ loại khá trở lên (với những học viên có xếp loại
hạnh kiểm).
đ. Tiêu chuẩn danh hiệu “Học viên xuất sắc”
– Đạt được các tiêu chuẩn của danh hiệu “Học viên tiên tiến”.
– Kết quả học tập đạt loại giỏi.
– Kết quả hạnh kiểm đạt loại tốt (với những học viên có xếp loại hạnh
kiểm).
– Tự giác, trung thực, sáng tạo trong học tập, tu dưỡng. Phát huy được
tác dụng tốt đối với tập thể lớp, trung tâm, nhà trường.
e. Tiêu chuẩn danh hiệu “Sinh viên tiên tiến”
– Thực hiện tốt nội quy học tập, thực tập. Chủ động, sáng tạo, có ý
thức và có phương pháp tự học, tự nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả rõ rệt;
có kết quả học tập và rèn luyện đạt điểm trung bình chung mở rộng từ 7 đến
cận 8, trong đó có điểm trung bình chung học tập đạt 6,5 trở lên và không có
điểm thi hoặc kiểm tra lần 1 dưới 5 (trừ trường hợp ngoại lệ).
– Có ý thức tổ chức kỷ luật, nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương đường
lối chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước. Trung thực, khiêm tốn. Quan
hệ trong nhà trường và ngoài xã hội đúng mực.
– Tham gia đầy đủ các phong trào thi đua của Nhà trường, đoàn thể.
– Không bị kỷ luật từ hình thức khiển trách trở lên.
f. Tiêu chuẩn danh hiệu “Sinh viên giỏi”
– Phải đạt được các tiêu chuẩn của danh hiệu “Sinh viên tiên tiến”.
– Phải đạt điểm trung bình chung mở rộng từ 8 đến cận 9 trở lên, trong
đó có điểm trung bình chung học tập phải đạt 8,0 trở lên và không có điểm thi
hoặc kiểm tra lần 1 dưới 6 (trừ trường hợp ngoại lệ).
g. Tiêu chuẩn danh hiệu “Sinh viên xuất sắc”
– Đạt được các tiêu chuẩn của danh hiệu “Sinh viên giỏi”.
– Có tham gia nghiên cứu khoa học (có đăng ký đề tài NCKH với
trường, được nghiệm thu và đánh giá tốt).
– Đạt điểm trung bình chung mở rộng từ 9, trong đó có điểm trung bình
chung học tập phải đạt 8,5 trở lên và không có điểm thi hoặc kiểm tra lần 1
dưới 6 (trừ trường hợp ngoại lệ).
2. Tiêu chuẩn danh hiệu thi đua tập thể
a. Tiêu chuẩn danh hiệu “Lớp khoẻ – ngoan”
– Số trẻ chuyên cần trong lớp đạt tỉ lệ trên 80%.
– Có trên 80 % số trẻ trong lớp đạt sức khoẻ kênh A, đạt tiêu chuẩn
khoẻ mạnh, sạch sẽ.
– Có trên 80 % số trẻ trong lớp mạnh đạn, hồn nhiên, lễ phép, tự tin.
b. Tiêu chuẩn danh hiệu “Tập thể lớp tiên tiến”
Đối với lớp học thuộc trường Tiểu học:
– Thường xuyên có trên 95% số học sinh tới lớp.
– Tập thể lớp đoàn kết, thân ái, giúp nhau học tập và rèn luyện.
– Có tỉ lệ học sinh đạt danh hiệu học sinh tiên tiến từ 45% trở lên. Chi
đội được công nhận hoạt động tốt.
– Không có học sinh bị kỷ luật từ khiển trách trở lên.
Đối với học sinh thuộc các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông,
trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp:
– Thường xuyên có trên 95% số học sinh đến lớp.
– Tập thể lớp đoàn kết, giúp đỡ nhau có hiệu quả trong học tập và rèn
luyện.
– Có tỉ lệ học sinh đạt danh hiệu “học sinh tiên tiến” từ 45% trở lên. Số
còn lại đạt yêu cầu trung bình về mọi mặt. Chi đội chi đoàn được công nhận
hoạt động tốt.
– Không có học sinh bị kỷ luật từ khiển trách trở lên.
Đối với lớp học thuộc trường bổ túc văn hoá, trung tâm giáo dục thường
xuyên:
– Thường xuyên có từ 90% trở lên số học viên đến lớp.
– Xây dựng được tập thể lớp đoàn kết, tương trợ, gắn bó, có tinh thần
đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong học tập, trong sinh hoạt và
góp phần chống các hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
– Thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và nội quy,
quy chế của lớp, nhà trường, trung tâm.
– Có ít nhất 45% số học viên đạt danh hiệu “Học sinh tiên tiến”. Số còn
lại đạt yêu cầu trung bình về mọi mặt. Không có học viên bị kỷ luật cao hơn
mức khiển trách.
c. Tiêu chuẩn danh hiệu “Tập thể lớp xuất sắc”
Đối với lớp học thuộc trường Tiểu học:
– Đạt được đầy đủ các tiêu chuẩn chung của danh hiệu “Tập thể lớp
tiên tiến” trường Tiểu học.
– Có ít nhất 65% số học sinh đạt danh hiệu “Học sinh tiên tiến”.
– Đi đầu trong các phong trào thi đua, thực sự có tác dụng ảnh hưởng
tới tập thể nhà trường, Đội thiếu niên Tiền Phong.
Đối với học sinh thuộc các trường Trung học cơ sở, trung học phí
thông, trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp.
– Đạt được đầy đủ các tiêu chuẩn chung của danh hiệu “Tập thể lớp
tiên tiến” trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung tâm kỹ thuật tổng
hợp – hướng nghiệp.
– Có ít nhất 60% số học sinh đạt danh hiệu “Học sinh tiên tiến”.
– Đi đầu trong các phong trào thi đua, thực sự có tác dụng ảnh hưởng
tốt tới tập thể nhà trường, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội thiếu
niên Tiền Phong.
Đối với lớp học thuộc trường bổ túc văn hoá, trung tâm giáo dục thường
xuyên
– Đạt được đầy đủ các tiêu chuẩn chung của danh hiệu “tập thể lớp tiên
tiến” trường bổ túc văn hóa, trung tâm giáo dục thường xuyên.
– Có ít nhất 60% số học viên đạt danh hiệu “Học viên tiên tiến”.
– Đi đầu trong các phong trào thi đua, thực sự có tác dụng ảnh hưởng
tốt tới tập thể nhà trường, Trung tâm, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh.
d. Tiêu chuẩn danh hiệu “Tập thể lớp học tập tốt, rèn luyện tốt”
– Tập thể lớp đoàn kết, tương trợ, gắn bó, có tinh thần đấu tranh chống
những biểu hiện tiêu cực trong học tập, sinh hoạt và góp phần chống các tệ
nạn xã hội.
– Có ít nhất 25% số học sinh, sinh viên đạt danh hiệu học sinh, sinh
viên tiên tiến, trong đó có 10% đạt danh hiệu xuất sắc. Không có học sinh,
sinh viên học yếu (điểm trung bình mở rộng dưới 5).
– Thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, phong
trào tự học, tự bồi dưỡng, tự quản tốt. Có tham gia nghiên cứu khoa học hoặc
có sinh viên đạt giải thi Olympic hoặc thi đồ án tốt nghiệp loại xuất sắc.
– Không có học sinh, sinh viên bị kỷ luật cao hơn mức khiển trách.
– Tham gia đầy đủ, tích cực có đóng góp thiết thực vào các phong trào
cơ sở.
IV. THẨM QUYỀN VÀ QUY TRÌNH XÉT KHEN THƯỞNG DANH HIỆU THI ĐUA
1. Thẩm quyền và quy trình xét khen thưởng danh hiệu thi đua cá nhân
Danh hiệu thi đua cá nhân học sinh, sinh viên xét theo tiêu chuẩn quy
định và được công nhận vào cuối học kỳ I và tổng kết năm học theo quy trình
sau:
a. Danh hiệu “Bé khoẻ ngoan”: Giáo viên phụ trách nhóm, lớp lập danh
sách đề nghị Hội đồng thi đua khen thưởng nhà trường xét, Hiệu trưởng ra
quyết định công nhận.
b. Danh hiệu “Học sinh tiên tiến”, “Học sinh xuất sắc”, “Học sinh giỏi”:
Giáo viên chủ nhiệm lớp lập danh sách đề nghị, Hội đồng thi đua khen
thưởng nhà trường xét, Hiệu trưởng ra quyết định công nhận.
c. Danh hiệu “Học viên tiên tiến”, “Học viên xuất sắc”: giáo viên chủ
nhiệm phối hợp với Ban cán sự lớp, Chi đoàn lập danh sách đề nghị Hội đồng
thi đua khen thưởng nhà trường xét, Hiệu trưởng ra quyết định công nhận.
d. Danh hiệu “Sinh viên tiên tiến”, “Sinh viên giỏi”, “Sinh viên xuất sắc”:
Ban đại diện lớp phối hợp với chi đoàn, Hội sinh viên (nếu có) xin ý kiến giáo
viên phụ trách, giáo viên chủ nhiệm (nếu có) lập danh sách đề nghị, Hội đồng
thi đua khen thưởng khoa xét. Trên cơ sở danh sách đề nghị của Hội đồng thi
đua khen thưởng khoa, Hội đồng thi đua khen thưởng nhà trường xét, Hiệu
trưởng ra quyết định công nhận.
2. Thẩm quyền và quy trình xét khen thưởng danh hiệu thi đua tập thể
Danh hiệu thi đua tập thể lớp xét theo tiêu chuẩn quy định và được
công nhận vào cuối học kỳ I và tổng kết năm học theo quy trình sau.
a. Với tập thể lớp học thuộc nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường mầm
non: giáo viên phụ trách lớp đề nghị Hội đồng thi đua khen thưởng nhà
trường xét. Hiệu trưởng ra quyết định công nhận.
b. Với tập thể lớp học thuộc các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông, trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, trung tâm giáo
dục thường xuyên, bổ túc văn hoá, trường trung học chuyên nghiệp: giáo viên
chủ nhiệm lớp đề nghị Hội đồng thi đua khen thưởng nhà trường xét, Hiệu
trưởng ra quyết định công nhận.
c. Với tập thể lớp học thuộc các trường cao đẳng, đại học: Ban đại diện
lớp, phối hợp với chi Đoàn, Hội sinh viên (nếu có) xin ý kiến giáo viên phụ
trách, giáo viên chủ nhiệm (nếu có) đề nghị Hội đồng thi đua khen thưởng
khoa xét. Trên cơ sở danh sách đề nghị của Hội đồng thi đua khen thưởng
khoa, Hội đồng thi đua khen thưởng nhà trường xét, Hiệu trưởng ra quyết
định công nhận.
V. KHEN THƯỞNG, GIẤY KHEN, BẰNG KHEN
1. Hình thức và thẩm quyền khen thưởng giấy khen, bằng khen đối với tập thể, cá nhân học sinh – sinh viên được áp dụng như sau
a. Giấy khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường… Bằng khen
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực
hiện theo Nghị định 56/1998/NĐ–CP ngày 30–7–1998 của Chính phủ.
b. Giấy khen của Hiệu trưởng nhà trường do Hiệu trưởng, giấy khen
của Giám đốc đại học do Giám đốc đại học, giấy khen của thủ trưởng cơ
quan quản lí giáo dục cấp huyện, cấp sở do Trưởng phòng giáo dục huyện,
Giám đốc Sở giáo dục – Đào tạo quyết định.
c. Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo do Bộ trưởng
quyết định.
2. Tiêu chuẩn bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với mọi tập thể, cá nhân học sinh, sinh viên
a. Đoạt giải trong các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực các môn học.
b. Đạt giải nhất trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia.
c. Đạt giải cao trong các kỳ thi Olympic quốc gia các môn học.
d. Đạt giải cao giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học”.
e. Có thành tích đột xuất, là tấm gương tiêu biểu người tốt việc tốt có
tác dụng ảnh hưởng trong phạm vi toàn quốc.
f. Có thành tích đặc biệt xuất sắc.
g. Đạt giải cao trong các cuộc thi chung khảo chuyên đề, văn nghệ, thể
dục thể thao… và các khen thưởng khác thực hiện theo quy định của Bộ.
3. Quy trình khen thưởng bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
a. Với tập thể, cá nhân học sinh, sinh viên đạt giải trong các kỳ thi
Olympic quốc tế và khu vực, Olympic quốc gia, học sinh giỏi quốc gia, giải
thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học”, cuộc thi chung khảo chuyên đề, hội
thi… do Vụ chức năng và ban tổ chức cuộc thi xét và đề nghị Bộ Giáo dục và
Đào tạo tặng Bằng khen.
b. Với học sinh, sinh viên các trường, trung tâm, đơn vị thuộc các tỉnh
do Hội đồng thi đua – khen thưởng ngành giáo dục tỉnh xét, Giám đốc Sở
Giáo dục và Đào tạo đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng đáng khen.
c. Với học sinh, sinh viên các trường, đơn vị thuộc Bộ Giáo dục và Đào
tạo do Hội đồng thi đua – khen thưởng trường, đơn vị xét hiệu trưởng nhà
trường, thủ trưởng đơn vị đề nghị Bộ giáo dục và Đào tạo tặng bằng khen.
d. Với học sinh, sinh viên các trường, đơn vị thuộc các Bộ, ngành do
hiệu trưởng nhà trường, thủ trưởng đơn vị đề nghị (sau khi Hội đồng thi đua –
khen thưởng đơn vị xét) Bộ, ngành chủ quản xét và đề nghị Bộ giáo dục và
Đào tạo tặng bằng khen.
Chương IV. LUẬT GIÁO DỤC, LUẬT PHỔ CẬP GIÁO DỤC TIỂU HỌC VÀ LUẬT BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM
I. LUẬT GIÁO DỤC1. Luật Giáo dục là gì?
Luật Giáo dục là một văn bản của nhà nước để thể chế hoá đường lối
giáo dục, làm cơ sở pháp lí cho các hoạt động giáo dục trong một quốc gia.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ban hành Luật Giáo dục và Luật Giáo
dục thường được ban hành hay sửa đổi mỗi khi có cải cách giáo dục.
Luật Giáo dục bao gồm những quy định chủ yếu sau:
– Mục đích, nhiệm vụ, tính chất và nguyên tắc cơ bản của nền giáo
dục.
– Tổ chức hệ thống giáo dục quốc dân gồm có: mầm non, giáo dục phổ
thông, hệ thống dạy nghề và các trường kỹ thuật, cao đẳng và đại học.
– Nhà giáo, cán bộ giáo dục
– Trách nhiệm của xã hội đối với nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ.
– Cơ sở vật chất thiết bị
– Quản lí hệ thống giáo dục quốc dân.
Quá trình thể chế hoá quản lí giáo dục ở nước ta
Để quản lí các hoạt động giáo dục, ngay từ khi mới ra đời, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
giáo dục. Có thể nêu một số văn bản căn bản như sau:
– Sắc lệnh đầu tiên về giáo dục (Sắc lệnh SL 20 ngày 8/9/1945) về
thành lập Nha Bình dân học vụ và cưỡng bách học quốc ngữ.
– Sắc lệnh 146(20/6/46) và SL 147 (10/8/46) về các nguyên tắc cơ bản
cho một nền giáo dục mới và tổ chức bậc học cơ bản.
– Thông tư 56 ngày 31/7/1950 của Bộ Giáo dục chỉ đạo cải cách giáo
dục lần 1.
– Nghị định số 1027 ngày 27/8/1956 của Chính phủ chỉ đạo cải cách
giáo dục lần 2.
– Nghị quyết 14 ngày 12/1978 và các quyết định số 243/CP ngày
28/6/1979; 126/CP ngày 19/03/1991 của Chính phủ chỉ đạo cải cách giáo dục
lần 3.
– Nghi định 90/CP của Chính phủ về cơ cấu hệ thống GD quốc dân.
– Luật Phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991.
Những văn bản quy phạm pháp luật nói trên đã kịp thời xác định khung
pháp lí cho các vấn đề quản lí Nhà nước về giáo dục phù hợp với từng giai
đoạn. Tuy nhiên, nhiều văn bản thiếu cụ thể, hệ thống văn bản thiếu đồng bộ,
phạm vi điều chỉnh chưa rộng, hiệu lực pháp lí chưa tạo cơ sở pháp lí cho
toàn bộ hệ thống GD quốc dân.
Để phát triển sự nghiệp giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lí Nhà
nước về giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân
tài phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, ngày 21/2/1998, Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Giáo dục quy định về tổ chức và hoạt
động giáo dục. Luật Giáo dục có hiệu lực từ ngày 1/6/1999.
Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng tham gia ký kết và phê chuẩn một số
văn kiện quốc tế liên quan đến giáo dục như: Công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em (1990), Tuyên ngôn thế giới về giáo dục cho mọi người (1990).
Văn bản dưới Luật
Để hướng dẫn thi hành văn bản Luật, Chính phủ đã ban hành các văn
bản hướng dẫn, đó là các nghi định quy định về chương trình giáo dục, sách
giáo khoa và giáo trình, thi và cấp văn bằng, mạng lưới tổ chức, hoạt động,
cơ sở vật chất của nhà trường và các cơ sở giáo dục khác, tuyển dụng, bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm, thỉnh giảng và khen thưởng đối với nhà giáo, về
chính sách đối với người học; về các điều kiện tài chính của hệ thống giáo
dục quốc dân…
2. Nội dung cơ bản của Luật giáo dục
Luật Giáo dục bao gồm: Lời nói đầu, 9 chương và 110 điều.
Chương 1. Những quy định chung
Luật Giáo dục quy định về phạm vi điều chỉnh toàn bộ hệ thống giáo
dục quốc dân; nhà trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc
dân, của cá nhân và các tổ chức tham gia hoạt động giáo dục.
Luật Giáo dục thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng về giáp dục. Đặc
biệt là trong việc xác đính tính chất, nhiệm vụ, vai trò, vị trí và mục tiêu của
giáo dục. Những vấn đề này được thể hiện cụ thể trong từng điều quy định về
mục tiêu, nội dung, phương pháp cũng như tổ chức quản lí các hoạt động của
mọi bậc học, cấp học của hệ thống GD quốc dân.
Về vị trí, vai trò của giáo dục, Luật Giáo dục đã quán triệt quan điểm coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, giáo dục là con đường chủ yếu đào tạo nhân
lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Mục tiêu chung của giáo dục được quy định ở Điều 2 (Chương 1) thể
hiện rõ sự quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về giáo dục,
cụ thể hoá Hiến pháp và phù hợp với các đạo luật hiện hành. Thể hiện rõ tính
định hướng XHCN đối với phát triển giáo dục: “Đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện… trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội..”. Tiếp đó, các mục tiêu cụ thể của từng bậc học, cấp học từ mầm non
(Điều 19), phổ thông (Điều 23), giáo dục nghề nghiệp (Điều 29) tới giáo dục
đại học và sau đại học (Điều 34).
Luật Giáo dục cũng đã khẳng định tính chất, nguyên lí giáo dục, cụ thể
hoá bằng các yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục nói chung (Điều 3,
Điều 4) và từng bậc học, cấp học (Điều 20,24,30,36).
Quy định về ngôn ngữ sử dụng trong nhà trường thể hiện rõ quan điểm
đại đoàn kết dân tộc, thống nhất dùng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức trong
nhà trường đồng thời tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng
nói, chữ viết của dân tộc mình. (Điều 5).
Trong những nội dung quy định chung, Luật GD cũng đã khẳng định
trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội đối với giáo dục, trong đó
thể hiện rõ vai trò quyết định của Nhà nước trong xây dựng chính sách phát
triển hệ thống GD quốc dân, hệ thống văn bằng chứng chỉ, quy định về quyền
và nghĩa vụ học tập của công dân, phổ cập giáo dục, xã hội hoá sự nghiệp
giáo dục, đầu tư cho giáo dục, quản lí Nhà nước về giáo dục, các hoạt động
bị cấm trong các cơ sở giáo dục… (từ điều 6 đến điều 17).
Chương 2. Hệ thống giáo dục quốc dân
a. Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục quốc dân được thể hiện trong chương II với những
quy định cụ thể đối với từng cấp học, bậc học từ Mầm non đến Đại học, Sau
đại học… Cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm 4 bậc học,
ngành học như sau:
1. Giáo dục mầm non gồm có nhà trẻ và mẫu giáo.
2. Giáo dục phổ thông có hai bậc học là tiểu học và trung học; bậc trung
học có hai cấp học là THCS và THPT.
3. Giáo dục nghề nghiệp có trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
4. Giáo dục đại học và sau đại học gồm:
– Giáo dục đại học đào tạo trình độ cao đẳng và đại học
– Giáo dục sau đại học đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ.
Phương thức giáo dục gồm GD chính quy và GD không chính quy.
b. Đặc trưng của hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống GD quốc dân phải đảm bảo tính thống nhất, liên tục cân đối
và phát triển với những đặc trưng:
a) Có tính phổ cập rộng rãi, thực hiện một nền GD toàn dân, GD cho
mọi người, thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí.
b) Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, thích ứng với nhu cầu
lao động trong xã hội trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
c) Bồi dưỡng nhân tài, trí tuệ nhằm tạo một lực lượng tiếp cận khoa học
– công nghệ tiên tiến
d) Mở rộng hợp tác, giao lưu quốc tế, đưa giáo dục Việt Nam ngang
tầm thời đại và giữ gìn bản sắc dân tộc.
Sự vận hành của hệ thống giáo dục quốc dân phải được thực hiện theo
các định hướng: Chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá:
– Từng bước chuẩn hoá nội dung chương trình, phương pháp giảng
dạy, hệ thống cơ sở trường lớp, CSVC thiết bị… Đội ngũ nhà giáo phải được
chuẩn hoá, đặc biệt là trình độ học sinh phải đạt chuẩn của từng cấp học, bậc
học.
– Hiện đại hoá các yếu tố của quá trình GD và quản lí GD theo kịp trình
độ tiên tiến quốc tế, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
– Sự nghiệp giáo dục là của toàn xã hội. Mọi tổ chức, cá nhân đều có
quyền hưởng thụ giáo dục và có trách nhiệm đối với GD. Thực hiện chủ
trường GD cho mọi người đi liền với thực hiện công bằng XH trong GD.
Chương 3. Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác trong hệ thống giáo dục quốc dân
a. Một số vấn đề quy định chung về nhà trường
Luật Giáo dục được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ tư thông qua ngày
21/2/1998 đã quy định:
Điều 44: “Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được thành lập
theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục
và được tổ chức theo các loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục.
Nhà trường thuộc các loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục
đều chịu sự quản lí nhà nước của các cơ quan quản lí giáo dục theo sự phân
công, phân cấp của Chính phủ.
Nhà nước tạo điều kiện để trường công lập giữ vai trò nòng cốt ứng hệ
thống giáo dục quốc dân; có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân mở
trường dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội.
Nhà trường được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định
thành lập khi đảm bảo đủ các điều kiện về cán bộ quản lí, nhà giáo, trường
sở, thiết bị và tài chính theo quy định của Chính phủ
Về thẩm quyền thành lập, đình chỉ hoạt động, sát nhập, chia, tách, giải
thể nhà trường; cấp nào có thẩm quyền quyết định thành lập thì cấp đó có
thẩm quyền quyết định đình chỉ hoạt động, sát nhập, chia, tách, giải thể nhà
trường.
Nhà trường được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Giáo
dục và Điều lệ nhà trường.
Đối với các loại trường chuyên biệt, trường ngoài công lập và các cơ
sở giáo dục khác tuân theo các quy định tương ứng của Điều lệ nhà trường
và Quy chế tổ chức và hoạt động của các trường chuyên biệt, trường ngoài
công lập và các cơ sở giáo dục khác.
b. Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác
Nghị định số 43/2000/NĐ – CP của Chính phủ “Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục” ban hành ngày
30/8/2000, các Điều lệ nhà trường và Quy chế tổ chức và hoạt động của các
trường chuyên biệt, trường ngoài công lập và các cơ sở giáo dục khác đã quy
định cụ thể hơn về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của nhà trường, về tổ chức và
quản lí nhà trường, các loại hình nhà trường và cơ sở giáo dục, mạng lưới,
cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường và các cơ sở giáo dục khác thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân.
Nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân gồm các trường:
– Trường mẫu giáo, trường mầm non
– Trường tiểu học.
* Hệ thống trường trung học và các loại hình trường trung học
– Trường trung học cơ sở và trường trung học phổ thông (gọi chung là
trường trung học) được tổ chức theo các loại hình công lập, bán công, dân
lập, tư thục.
– Trường trung học bán công, dân lập, tư thục được gọi chung là
trường trung học ngoài công lập.
– Các trường trung học chuyên biệt gồm:
+ Trường phổ thông dân tộc nội trú
+ Trường trung học phổ thông chuyên
+ Trường trung học năng khiếu nghệ thuật
+ Trường trung học năng khiếu thể dục thể thao
+ Trường trung học dành cho trẻ em tàn tật
* Hệ thống trường trung học chuyên nghiệp và các loại hình trường
trung học chuyên nghiệp.
– Trường trung học chuyên nghiệp trung ương
– Trường trung học chuyên nghiệp địa phương
– Trường trung học chuyên nghiệp trung ương được tổ chức theo các
loại hình công lập, bán công. Trường trung học chuyên nghiệp địa phương
được tổ chức theo các loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục.
– Trường trung học chuyên nghiệp bán công, dân lập, tư thục được gọi
chung là trường trung học chuyên nghiệp ngoài công lập.
* Hệ thống cơ sở dạy nghề và các loại hình cơ sở dạy nghề.
– Trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề, lớp dạy nghề (gọi chung là cơ
Sở dạy nghề) được tổ chức độc lập hoặc gắn với cơ sở sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, cơ sở giáo dục khác.
– Cơ sở dạy nghề gồm:
+ Cơ sở dạy nghề công lập, bán công, dân lập, tư thục
+ Cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp, hợp tác xã
+ Cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài
– Cơ sở dạy nghề bán công, dân lập, tư thục được gọi chung là cơ sở
dạy nghề ngoài công lập.
* Hệ thống trường đại học, cao đẳng và các loại hình trường đại học,
cao đẳng.
– Hệ thống trường đại học, cao đẳng bao gồm: các đại học quốc gia,
các đại học khu vực, các trường đại học trọng điểm, các học viện, các trường
đại học, các trường cao đẳng, các trường đại học mở và các trường cao đẳng
cộng đồng.
– Trường đại học cao đẳng được tổ chức theo các loại hình công lập,
bán công, dân lập, tư thục.
– Trường đại học, cao đẳng bán công, dân lập, tư thục được gọi chung
là trường đại học, cao đẳng ngoài công lập.
* Các loại hình trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp.
– Trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp được tổ chức theo các
loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục.
– Các trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp bán công, dân lập,
tư thục gọi chung là trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp ngoài công
lập.
* Hệ thống trung tâm giáo dục thường xuyên.
– Trung tâm giáo dục thường xuyên thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (gọi chung là trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh).
– Trung tâm giáo dục thường xuyên thuộc quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (gọi chung là Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện).
– Trung tâm giáo dục thường xuyên thuộc tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị – xã hội, tổ chức kinh tế, lực lượng vũ trang nhân dân (gọi chung là
trung tâm giáo dục thường xuyên thuộc các tổ chức).
– Trung tâm ngoại ngữ, tin học thuộc trường đại học hoặc thuộc địa
phương.
Mạng lưới trường học và cơ sở giáo dục khác
Việc quy hoạch mạng lưới trường học và cơ sở giáo dục khác phải dựa
trên những nguyên tắc nhất định:
* Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề của địa phương phải căn cứ vào điều kiện tự
nhiên, kinh tế – xã hội, nhu cầu học tập và trình độ phát triển giáo dục của địa
phương.
– Mỗi xã, phường, thị trấn (gọi chung là xã) có ít nhất một trường tiểu
học, tuỳ điều kiện cụ thể một xã có trường mầm non, trường mẫu giáo;
– Mỗi xã hoặc cụm xã có một trường trung học cơ sở, tùy điều kiện cụ
thể, một xã có thể có một trường trung học cơ sở;
– Mỗi huyện, quận, thi xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) có
ít nhất một trường trung học phổ thông; có thể có trường dạy nghề, trung tâm
dạy nghề, trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp, trung tâm giáo dục
thường xuyên thuộc huyện;
– Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh) có ít
nhất một trường trung học chuyên nghiệp, hoặc một trường dạy nghề, hoặc
một trường trung học chuyên nghiệp kết hợp dạy nghề, trung tâm giáo dục
thường xuyên thuộc tỉnh.
* Sự phát triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng phải:
– Phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, của
từng vùng và địa phương; đảm bảo cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ và cơ
cấu vùng miền hợp lí;
Chương 4. Nhà giáo
a. Quy định về nhà giáo
Phần này thuộc các chương I và chương IV của Luật Giáo dục. Trong
phần này có 3 điều là: Điều 14, Điều 61 và Điều 62. Nội dung cụ thể của phần
này bao gồm:
Nhà giáo
Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường
hoặc các cơ sở giáo dục khác.
Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:
– Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
– Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ;
– Đủ sức khoẻ thẹo yêu cầu nghề nghiệp;
– Lí lịch bản thân rõ ràng.
Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mẩm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp gọi là giáo viên, ở cơ sở giáo dục đại học và sau đại học gọi là
giảng viên.
Giáo sư, phó giáo sư là các chức danh của nhà giáo đang giảng dạy,
đào tạo đại học và sau đại học.
Chính phủ quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm và miễn nhiệm các
chức danh giáo sư và phó giáo sư.
b. Tiêu chuẩn của nhà giáo và các danh hiệu về nhà giáo
Phần này thuộc các chương IV mục 2 và chương VIII. Trong phần này
có 3 Điều: Điều 67, Điều 104 và Điều 107.
Nội dung cụ thể của phần này là:
Trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo
Trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo được quy định như sau:
– Có bằng tốt nghiệp trung học sư phạm đối với giáo viên mầm non,
giáo viên tiểu học;
– Có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm đối với giáo viên trung học cơ
sở;
– Có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm đối với giáo viên trung học phổ
thông;
– Có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm hoặc bằng tốt nghiệp cao đẳng
khác đối với giáo viên dạy các môn văn hoá, kỹ thuật, nghề nghiệp; có bằng
tốt nghiệp trường dạy nghề, nghệ nhân, kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật có
tay nghề cao đối với giáo viên hướng dẫn thực hành ở trường dạy nghề;
– Có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm hoặc bằng tốt nghiệp đại học
khác đối với giáo viên trung học chuyên nghiệp;
– Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên đối với nhà giáo giảng dạy cao
đẳng hoặc đại học; có bằng thạc sĩ trở lên đối với nhà giáo giảng dạy, đào tạo
thạc sĩ; có bằng tiến sĩ đối với nhà giáo đào tạo tiến sĩ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về việc tuyển chọn, bồi dưỡng, sử
dụng nhà giáo chưa đạt trình độ chuẩn.
Phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo ưu tú
Nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục, cán bộ nghiên cứu giáo dục có đủ
tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật thì được Nhà nước phong tặng danh
hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo ưu tú.
Phong tặng danh hiệu Tiến sĩ danh dự
Nhà hoạt động chính trị, xã hội có uy tín quốc tế, nhà giáo nhà khoa học
là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài có đồng góp
nhiều cho sự nghiệp giáo dục và khoa học của Việt Nam được trường đại học
tặng danh hiệu Tiến sĩ danh dự theo quy định của Chính phủ.
c. Nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm của giáo viên
Phần này thuộc chương IV. Trong phần này có 4 Điều là: Điều 63, Điều
64, Điều 65 và Điều 66.
Nội dung cụ thể của phần này là:
Nhiệm vụ của nhà giáo
Nhà giáo có những nhiệm vụ sau đây:
1. Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lí, chương trình giáo dục;
2. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp
luật và Điều lệ nhà trường;
3. Giữ gìn phẩm chất, uy tín danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách
của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích
chính đáng của người học;
4. Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nêu gương tốt cho người học.
5. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Quyền của nhà giáo
Nhà giáo có những quyền sau đây:
1. Được giảng dạy theo chuyên ngành đào tạo;
2. Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ;
3. Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường,
cơ sở giáo dục và nghiên cứu khác với điều kiện bảo đảm thực hiện đầy đủ
chương trình, kế hoạch do nhà trường giao cho;
4. Được nghỉ hè, nghỉ Tết âm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo;
5. Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Thỉnh giảng
1. Nhà trường và cơ sở giáo dục khác được mời người có đủ tiêu
chuẩn quy định đến giảng dạy.
2. Người được mời thỉnh giảng phải thực hiện các nhiệm vụ quy định.
3. Người được mời thỉnh giảng nếu là cán bộ – công chức thì phải bảo
đảm hoàn thành nhiệm vụ ở nơi mình công tác.
4. Các nhà giáo, các cán bộ khoa học, kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật,
thể dục, thể thao đang làm việc tại các tổ chức ngoài ngành giáo dục hoặc đã
nghỉ hưu nếu đủ tiêu chuẩn theo quy định tại khoản 2 Điều 61 của Luật giáo
dục được mời thỉnh giảng.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế về thỉnh giảng trên cơ sở
những quy định của Luật giáo dục.
Ngày Nhà giáo Việt Nam
Ngày 20 tháng 11 hàng năm là Ngày Nhà giáo Việt Nam.
d. Chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục
Phần này thuộc chương IV mục 3. Trong phần này có 3 Điều là Điều
70, Điều 71 và Điều 72.
Nội dung cụ thể của phần này là:
Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
– Nhà nước có chính sách bồi dưỡng nhà giáo về chuyên môn, nghiệp
vụ để nâng cao trình độ và chuẩn hoá nhà giáo.
– Nhà giáo được cử đi học nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ được hưởng lương và phụ cấp theo quy định của Chính phủ.
Tiền lương
– Thang bậc lương của nhà giáo là một trong những thang, bậc lương
cao nhất trong hệ thống thang, bậc lương hành chính sự nghiệp của Nhà
nước.
– Nhà giáo được hưởng phụ cấp nghề nghiệp và các phụ cấp khác
theo quy định của Chính phủ.
Chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục công tác ở trường chuyên biệt ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn
– Nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục công tác tại trường chuyên, trương
năng khiếu, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán
trú, trường dự bị đại học, trường dành cho người tàn tật, trường giáo dưỡng
hoặc các trường chuyên biệt khác được hưởng chế độ phụ cấp và các chính
sách ưu đãi khác theo quy định của Chính phủ.
– Nhà giáo cán bộ quản lí giáo dục công tác ở vùng có điều kiện kinh tế
– xã hội đặc biệt khó khăn được Ủy ban nhân dân các cấp tạo điều kiện về
chỗ ở, được hưởng chế độ phụ cấp và các chính sách ưu đãi khác theo quy
định của Chính phủ.
– Nhà nước có chính sách luân chuyển nhà giáo công tác ở vùng có
điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; khuyến khích và ưu đãi nhà giáo
ở vùng thuận lợi đến công tác tại các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc
biệt khó khăn; tạo điều kiện để nhà giáo ở vùng này an tâm công tác.
Chương 5. Người học
a. Người học. Các tên gọi của người học trong hệ thống giáo dục quốc
dân
Phần này thuộc chương V của Luật Giáo dục trong đó có điều liên quan
là: Điều 73.
Nội dung cụ thể của phần này là:
Người học
Người học là người đang học tập tại nhà trường hoặc cơ sở giáo dục
khác của hệ thống giáo dục quốc dân.
Các tên gọi của người học trong hệ thông giáo dục quốc dân
– Trẻ em của cơ sở giáo dục mầm non;
– Học sinh của cơ sở giáo dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp,
dạy nghề;
– Sinh viên của cơ sở giáo dục cao đẳng, đại học;
– Học viên của cơ sở đào tạo thạc sĩ;
– Nghiên cứu sinh của cơ sở đào tạo tiến sĩ;
– Học viên theo học các chương trình giáo dục không chính quy.
– Căn cứ vào quy định của Luật Giáo dục, Chính phủ quy định quyền
và chính sách đối với trẻ em của cơ sở giáo dục mầm non
b. Nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm của người học
Phần này thuộc chương V của Luật Giáo dục. Trong đó có 3 Điều liên
quan là Điều 74, Điều 75 và Điều 76.
Nội dung cụ thể của phấn này là:
Nhiệm vụ của người học
Người học có những nhiệm vụ sau đây:
– Thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình kế hoạch
giáo dục của nhà trường, cơ sở giáo dục khác;
– Kính trọng nhà giáo, cán bộ quản lí, công nhân, nhân viên của nhà
trường, cơ sở giáo dục khác; tuân thủ pháp luật của Nhà nước; thực hiện nội
quy, Điều lệ nhà trường;
– Tham gia lao động và hoạt động xã hội phù hợp với lứa tuổi, sức
khoẻ và năng lực;
– Giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường, cơ sở giáo dục khác;
– Góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy truyền thống của nhà
trường, cơ sở giáo dục khác.
Quyền của người học
Người học có những quyền sau đây:
– Được nhà trường, cơ sở giáo dục khác tôn trọng và đối xử bình đẳng,
được cung cấp đầy đủ thông tin về việc học tập của mình;
– Học trước tuổi, học vượt lớp, học rút ngắn thời gian thực hiện
chương trình, học lưu ban theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo
– Tham gia hoạt động các đoàn thể, tổ chức xã hội trong nhà trường,
cơ sở giáo dục khác theo định của pháp luật;
– Sử dụng trang thiết bị, phương tiện phục vụ các hoạt động học tập,
văn hoá, thể dục, thể thao của nhà trường, cơ sở giáo dục khác;
– Trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị với
nhà trường, cơ sở giáo dục khác các giải pháp góp phần xây dựng nhà
trường, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người học;
– Được hưởng chính sách ưu tiên của Nhà nước trong tuyển dụng vào
các cơ quan nhà nước nếu tốt nghiệp loại giỏi và có đạo đức tốt.
Nghĩa vụ của người học tại trường cao đẳng, trường đại học công lập
1. Người tốt nghiệp cao đẳng, tốt nghiệp đại học tại các trường công
lập; người đi học chương trình đại học, sau đại học ở nước ngoài nếu hưởng
học bổng do Nhà nước cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo hiệp định ký kết
với Nhà nước thì phải chấp hành sự điều động làm việc có thời hạn của Nhà
nước; nếu không chấp hành thì phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo.
2. Chính phủ quy định cụ thể thời gian làm việc theo sự điều động của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thời gian chờ phân công công tác và mức
bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo theo quy định.
c. Chính sách đối với người học
Phần này thuộc chương V mục 2 và chương VIII của Luật Giáo dục.
Trong đó có liên quan đến 4 Điều là: Điều 77, Điều 78, Điều 79 và Điều 80.
Nội đung cụ thể của phần này là:
Học bổng, trợ cấp xã hội
– Nhà nước có chính sách cấp học bổng khuyến khích học tập cho
người học có kết quả học tập, rèn luyện từ loại khá trở lên ở các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, sau đại học: cấp học bổng chính sách cho
sinh viên hệ cử tuyển, học sinh trường dự bị đại học, trường phổ thông dân
tộc nội trú, trường dạy nghề dành cho thương binh, người tàn tật.
– Nhà nước có chính sách trợ cấp và miễn, giảm học phí cho người
học là đối tượng được hưởng chính sách xã hội, người dân tộc thiểu số ở
vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, người mồ côi không nơi
nương tựa, người tàn tật có khó khăn về kinh tế, người có hoàn cảnh kinh tế
đặc biệt khó khăn vượt khó học tập.
– Học sinh, sinh viên ngành sư phạm, người theo học các khoá đào tạo
nghiệp vụ sư phạm không phải đóng học phí, được ưu tiên trong việc xét cấp
học bổng trợ cấp xã hội quy định.
– Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân cấp học bổng hoặc trợ cắp
cho người học theo quy định của pháp luật.
Chế độ cử tuyển
– Nhà nước thực hiện tuyển sinh vào đại học và trung học chuyên
nghiệp theo chế độ cử tuyển đối với con em các dân tộc ở vùng có điều kiện
kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn để đào tạo cán bộ – công chức cho vùng
này.
– Người học theo chế độ cử tuyển sau khi tốt nghiệp phải chấp hành sự
điều động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cử đi học. Thời gian công
tác tối thiểu ở địa phương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi cử đi học quy
định. Nếu không chấp hành sự điều động và bố trí công tác, người học phải
bồi hoàn học bổng và chi phí đào tạo theo quy định của Chính phủ.
– Cơ quan cử người được đi học và cơ quan tiếp nhận người học theo
chế độ tuyển phải cử người đi học và tiếp nhận người học theo đúng tiêu
chuẩn quy định. Cơ quan cử người đi học có trách nhiệm tiếp nhận và bố trí
công tác cho người đi học sau khi tốt nghiệp.
Tín dụng giáo dục (Điều 79)
Người học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau
đại học có khó khăn về kinh tế được Quỹ tín dụng giáo dục của Ngân hàng
cho vay để học tập.
Miễn giảm phí dịch vụ công cộng cho học sinh, sinh viên (Điều 80)
– Học sinh, sinh viên được hưởng chế độ miễn giảm phí khi sử dụng
các dịch vụ công cộng về y tế, giao thông, giải trí, khi tham quan viện bảo
tàng, di tích lịch sử, công trình văn hóa theo quy định của Chính phủ.
Chương 6. Quản lí Nhà nước về Giáo dục – Đào tạo
a. Nội dung cơ bản của QLNN về GD – ĐT
Những nội dung cơ bản của QLNN về GD – ĐT được thể hiện trong
khoản 1,2,3, Điều 86, chương VII của Luật Giáo dục. Có thể khái quát thành 4
nội dung chính như sau:
– Hoạch định chính sách cho GD & ĐT, lập pháp lập quy cho GD – ĐT.
– Thực hiện quyền hành pháp trong QLGD.
– Tổ chức bộ máy QLGD, huy động và quản lí các nguồn lực để phát
triển sự nghiệp GD & ĐT.
– Thanh tra, kiểm tra nhằm thiết lập trật tự kỷ cương pháp luật trong
hoạt động quản lí giáo dục và phát triển sự nghiệp GD & ĐT.
Mặc dù nội dung quản lí nhà nước về giáo dục đã được thể chế hoá
thành Điều 86 Luật Giáo dục, nhưng trong thực tiễn cần nhấn mạnh các nội
dung theo cấp độ quản lí. Nếu ở cấp trung ương chú trọng đến nội dung xây
dựng cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển cho ngành ở phạm
vi nội dung trên ở địa bàn được phân cấp. Cấp cơ sở (nhà trường) nơi mà
quản lí nhà nước được hiểu rất cụ thể là thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền do nhà nước Ủy quyền triển khai các hoạt động quản lí nhà
trường thì lại coi trọng việc tổ chức thực hiện những quy định của nhà nước
(mà cụ thể là Điều lệ nhà trường) ở những hoạt động giáo dục và quản lí giáo
dục cụ thể. Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng quản lí nhà nước cần làm tốt
công tác thể hoá chế và tăng cường giám sát việc thực hiện tốt chức năng
quản lí nhà nước cần làm tốt công tác thể chế hoá và tăn cường giám sát việc
thực hiện. Tuy cấp độ thể chế hoá ở mỗi cấp không hoàn toàn giống nhau
nhưng vai trò giám sát thanh tra thì phải coi trọng ở mỗi cáp độ theo sự phân
cấp rõ ràng.
b. Tổ chức bộ máy quản lí giáo dục Việt Nam
Tổ chức bộ máy GD Việt nam gồm 3 cấp quản lí với các chức năng
Nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan QLNN về GD – ĐT cũng được quy
định cụ thể.
Hệ thống cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo đã được
hoàn thiện, hiện nay theo điều 87 Luật Giáo dục (1998) hệ thống này có thiết
chế như sau:
a) Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về giáo dục.
Chính phủ trình Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có
ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả
nước, những chủ trương về cải cách nội dung chương trình của cả một bậc
học, cấp học; hàng năm báo cáo Quốc hội về hoạt động giáo dục và việc thực
hiện ngân sách giáo dục.
b) Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
quản lí nhà nước về giáo dục. Các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ có trách nhiệm quản lí nhà nước về giáo dục theo quy định của
Chính phủ. Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Giáo dục và
đào tạo để thực hiện việc thông nhất quản lí nhà nước về giáo dục.
c) Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lí nhà nước về giáo dục ở
địa phương theo quy định của Chính phủ.
Cấp tỉnh có Sở Giáo dục và đào tạo. Giám đốc Sở Giáo dục Đào tạo
chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện quản lí nhà nước và
giáo dục trong phạm vi tỉnh, bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp. Đối với trường cao đẳng, một số Sở Giáo dục đào tạo
được ủy nhiệm quản lí một vài mặt của quá trình đào tạo hoặc quản lí cả năm
mặt: chuyên môn, nhân sự, bộ máy, tài chính, cơ sở vật chất sư phạm.
+ Quản lí công tác cán bộ: quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố
trí sử dụng, chế độ chính sách đối với giáo viên, cán bộ quản lí, cán bộ khoa
học, công nhân kỹ thuật và nhân viên của ngành theo quy định của Ủy ban
nhân dân tỉnh và Bộ Giáo dục và Đào tạo.
+ Quản lí công tác tuyển sinh, thi cử, xét duyệt, cấp chứng chỉ và bằng
tốt nghiệp theo quy định của Bộ và Ủy ban nhân dân địa phương.
+ Quản lí kinh phí và tài sản theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh.
+ Quản lí trực tiếp các trường, các cơ sở giáo dục – đào tạo trực thuộc
tỉnh. Hướng dẫn các Phòng Giáo dục và Đào tạo quản lí các trường thuộc
huyện. Giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối
với các trường chuyên nghiệp của Trung ương đóng trên địa bàn lãnh thổ.
+ Thực hiện chức năng thanh tra giáo dục đối với các trường học trong
phạm vi địa phương quản lí.
– Tổ chức bộ máy của Sở Giáo dục và Đào tạo:
Tuỳ theo tình hình và khối lượng công việc của địa phương, Ủy ban
nhân dân tỉnh sẽ quyết định cụ thể việc lập phòng, tổ công tác hoặc bố trí
chuyên viên làm việc trực tiếp với Giám đốc Sở để đảm bảo các mặt công tác
theo hướng gọn, nhẹ, bộ máy hoạt động có hiệu lực.
Chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Phòng Giáo dục và Đào tạo.
Thông tư 41/TT – LB ngày 14/8/1991 đã quy định:
* Chức năng, nhiệm vụ của Phòng Giáo dục và Đào tạo:
– Phòng Giáo dục và Đào tạo là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân
dân huyện, là hệ thống tổ chức quản lí hành chính Nhà nước của ngành Giáo
dục và Đào tạo.
– Nhiệm vụ chủ yếu của Phòng Giáo dục và Đào tạo:
+ Giúp Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lí hành chính
nhà nước về lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo ở địa phương.
+ Thanh tra, kiểm tra đôn đốc các trường và các cơ sở Giáo dục - Đào
tạo khác của địa phương thực hiện các quy định về giáo dục và đào tạo trong
các trường học.
+ Các nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể.
* Cơ cấu tổ chức của Phòng Giáo dục và Đào tạo gồm có: một trưởng
phòng, một phó trưởng phòng, các chuyên viên và nhân viên nghiệp vụ.
d. Định hướng đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí giáo dục và đào
tạo.
Trong tình hình hiện nay việc đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí
giáo dục và đào tạo được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách. Phương hướng
chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc đổi mới tổ chức bộ máy, từ
bộ máy Nhà nước đến bộ máy các cấp, các ngành trong đó có bộ máy quản lí
giáo dục và đào tạo được thể hiện rõ trong các văn kiện, Nghị quyết của Ban
chấp hành Trung ương Đảng từ khoá VI đến nay. Đặc biệt trong các Nghị
quyết về giáo dục (Nghị quyết Trung ương 4 – khoá VII, 1/1993; Nghị quyết
Trung ương 2 – Khoá VIII, 12/1996) đều nhấn mạnh đến những việc cần làm
để đổi mới bộ máy quản lí giáo dục – đào tạo là:
– Định rõ quyền hạn, trách nhiệm quản lí giáo dục và đào tạo của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, của các bộ và các tỉnh, thành phố, các huyện, quận và
có sở về các khâu: quy hoạch, kế hoạch, tổ chức và cán bộ, tài chính, thanh
tra và kiểm tra.
– Đề cao trách nhiệm quản lí nhà nước của Bộ, các Sở Giáo dục và
Đào tạo, đồng thời tăng cường quyền tự chủ của cơ sở, nhất là các trường
đại học, mở rộng dân chủ trong nhà trường.
– Đổi mới cơ chế quản lí, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp, chấn chỉnh và
nâng cao năng lực của bộ máy quản lí giáo dục – đào tạo.
– Hoàn thiện hệ thống thanh tra giáo dục, tăng cường cán bộ thanh tra,
tập trung vào thanh tra chuyên môn.
Trên cơ sở những chủ trương đó, xuất phát từ thực trạng bộ máy quản
lí giáo dục đào tạo hiện nay, dựa vào chức năng, nhiệm vụ quản lí ở mỗi cấp
cần củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan quản lí giáo dục các cấp cho
phù hợp với thực tiễn hiện nay theo hướng:
– Tăng cường quản lí nhà nước theo hướng tập trung “một đầu mối”.
– Việc phân cấp theo hướng việc nào do cấp nào giải quyết sát với
thực tế hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó.
– Cấp nào quản lí chuyên môn thì cấp đó có trách nhiệm quản lí các
điều kiện như quản lí ngân sách, đội ngũ, biên chế, tổ chức, cơ sở vật chất để
đáp ứng việc điều hành chức năng, nhiệm vụ được giao.
– Quan hệ phân cấp phải gắn liền với việc tăng cường sự phối hợp
quản lí theo ngành và theo lãnh thổ được quy định thành thể chế.
– Đổi mới tổ chức thanh tra phù hợp với chức năng quản lí nhà nước
trong điều kiện mới.
II. LUẬT PHỔ CẬP GIÁO DỤC TIỂU HỌC1. Luật phổ cập giáo dục tiểu học
Giáo dục tiểu học là điều kiện cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở ban
đầu hết sức quan trọng cho việc đào tạo trẻ em trở thành công dân tốt cho đất
nước.
Căn cứ vào các điều 40, 41, 60 và 83 của Hiến pháp nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luật này quy định chế độ phổ cập giáo dục tiểu học
2. Nội dung cụ thể bao gồm
Chương 1. Những quy định chung
Phần này thuộc chương I của Luật Phổ cập giáo dục Tiểu học.
Trong phần này có liên quan tới 7 điều. Từ Điều 1 đến Điều 7.
Nội dung cụ thể của phần này là:
– Nhà nước thực hiện chính sách phổ cập giáo dục tiểu học bắt buộc từ
lớp 1 đến lớp 5 đối với tất cả trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi.
– Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc
dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức trí tuệ, thẩm mỹ
và thể chất của trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn
diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
– Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh nắm vững các kỹ năng
nói, đọc, viết, tính toán, có những hiểu biết cần thiết về thiên nhiên, xã hội và
con người; có lòng nhân ái, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu quý anh chị
em, kính trọng thầy giáo, cô giáo; lễ phép với người lớn tuổi; giúp đỡ bạn bè,
các em nhỏ; yêu lao động, có kỷ luật; có nếp sống văn hoá; có thói quen rèn
luyện thân thể và giữ gìn vệ sinh; yêu quê hương đất nước, yêu hoà bình.
– Giáo dục tiểu học được thực hiện bằng tiếng Việt.
Các dân tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói chữ viết của dân tộc
mình cùng với tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học.
– Nhà nước dành ngân sách thích đáng để thực hiện phổ cập giáo dục
tiểu học.
– Nhà nước có chính sách động viên các nguồn tài chính khác trong xã
hội, lập quỹ giáo dục quốc gia, nhằm hỗ trợ kinh phí cho sự nghiệp phổ cập
giáo dục tiểu học.
– Nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết để thực hiện phổ cập giáo
dục tiểu học vùng ở dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh, vùng
hải đảo và vùng có khó khăn; bảo đảm từ ban đầu đến các điều kiện cần thiết
để thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học khi xây dựng khu dân cư mới.
– Cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế; gia đình, công
dân có trách nhiệm tham gia vào việc thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học.
– Nhà nước coi trọng và hoan nghênh mọi sự đóng góp, giúp đỡ, hợp
tác của các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ,
người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào sự nghiệp phổ
cập giáo dục tiểu học của Việt Nam.
Chương 2. Học sinh, nhà trường, gia đình và xã hội trong phổ cập giáo dục tiểu học
Phần này thuộc chương II của Luật Phổ cập giáo dục Tiểu học. Trong
đó có liên quan tới 13 Điều. Cụ thể là từ Điều 8 đến Điều 20.
Nội dung cụ thể của phần này là:
* Trẻ em 6 tuổi phải được học lớp 1 ngay từ đầu năm học.
– Trẻ em vì lí do sức khoẻ, vì hoàn cảnh gia đình có khó khăn đặc biệt
hoặc ở những vùng quy định tại Điều 6 của Luật này, có thể bắt đầu học lớp 1
sau 6 tuổi.
– Trẻ em có khả năng phát triển đặc biệt thì được học lớp 1 trước 6 tuổi
hoặc học vượt lớp khi cơ quan quản lí giáo dục có thẩm quyền cho phép.
– Trẻ em có thể lực tốt và phát triển sớm về từ tuệ được vào học lớp 1
trước 6 tuổi nếu Hội đồng sư phạm nhà trường đề nghị và phòng giáo dục
quận, huyện, thị xã chấp nhận.
– Học sinh tiểu học được vượt lớp sau khi đã được Hội đồng sư phạm
nhà trường kiểm tra, cho phép và được phòng giáo dục quận, huyện, thị xã
chấp nhận.
* Học sinh phải được học tập và rèn luyện theo chương trình, nội dung
giáo dục tiểu học do Nhà nước quy định; được tham gia các hoạt động của
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
Học sinh có thành tích trong học tập được khen thưởng.
– Học sinh phải đạt trình độ giáo dục tiểu học trước 15 tuổi, trừ những
trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 8 của Luật này.
Học sinh đạt trình độ giáo dục tiểu học được cấp bằng tốt nghiệp.
Trong trường hợp trẻ em không hoàn thành giáo dục tiểu học trước tuổi
15 thì chính quyền cơ sở trách nhiệm xem xét nguyên nhân và đề xuất áp
dụng các biện pháp cần thiết để bắt buộc cha mẹ, người đỡ đầu của trẻ em
tạo điều kiện cho các em hoàn thành giáo dục tiểu học.
– Trẻ em là con liệt sĩ, thương binh nặng, trẻ em tàn tật, trẻ em mồ côi
không nơi nương tựa, trẻ em có khó khăn đặc biệt, được Nhà nước và xã hội
quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cần thiết để đạt trình độ giáo dục tiểu học.
– Trẻ em là công dân Việt Nam trong thời gian sinh sống ở nước ngoài
phải được cha mẹ, người đỡ đầu tạo điều kiện cần thiết và được Nhà nước
giúp đỡ để thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học theo luật này.
Trẻ em là người nước ngoài ở Việt Nam có nguyện vọng theo học tiểu
học ở nhà trường Việt Nam được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam giúp đỡ.
– Giáo dục tiểu học được thực hiện trong các trường tiểu học công lập,
các loại hình trường bán công và dân lập.
Học sinh học tại trường tiểu học công lập không phải trả học phí.
Việc thành lập, giải thể các trường, lớp tiểu học phải tuân theo quy định
của Pháp luật.
– Trường, lớp tiểu học phải có đủ giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục,
nhân viên, cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập theo quy
định của Nhà nước:
– Cán bộ quản lí giáo dục, giáo viên tiểu học phải được tuyển chọn,
đào tạo theo tiêu chuẩn đạo đức, tác phong, chuyên môn, nghiệp vụ do Nhà
nước quy định.
– Cán bộ quản lí giáo dục, giáo viên phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm
giảng dạy, giáo dục và quản lí trường, lớp, gương mẫu trong hoạt động ở nhà
trường, trong đời sống xã hội. Nghiêm cấm những hành vi xâm phạm thân thể
và danh dự của học sinh.
* Lao động giảng dạy, giáo dục của giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục
tiểu học được Nhà nước và xã hội tôn trọng.
Nghiêm cấm những hành vi xâm phạm thân thể và danh dự của giáo
viên, cán bộ quản lí giáo dục.
* Nhà nước thực hiện các chính sách nhằm:
– Xây dựng, củng cố các trường sư phạm, trường cán bộ quản lí, nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục tiểu
học;
– Bảo đảm những điều kiện vật chất, tinh thần cho giáo viên, cán bộ
quản lí giáo dục tiểu học làm tròn chức trách của mình; khuyến khích giáo
viên, cán bộ quản lí giáo dục công tác lâu dài cho sự nghiệp giáo dục tiểu
học;
– Ưu đãi giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục tiểu học công tác ở vùng
dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh, vùng hải đảo và vùng có khó
khăn.
* Cha mẹ, người đỡ đầu của trẻ em có trách nhiệm:
– Ghi tên cho con hoặc trẻ em được đỡ đầu đi học tại trường, lớp tiểu
học trên địa bàn cư trú hoặc nơi thuận tiện nhất, theo quy định tại Điều 8 của
Luật này;
– Tạo điều kiện để con hoặc trẻ em được đỡ đầu hoàn thành giáo dục
tiểu học;
– Kết hợp với nhà trường, tổ chức xã hội trong việc giáo dục con hoặc
trẻ em được đỡ đầu; tôn trọng giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục tiểu học;
gương mẫu trong đời sống gia đình và xã hội, thực hiện giáo dục gia đình
theo những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
* Cha mẹ, người đỡ đầu của học sinh có quyền:
– Yêu cầu nhà trường, cơ quan quản lí giáo dục giải quyết những vãn
đề có liên quan đến việc giáo dục tiểu học của con hoặc trẻ em đỡ đầu;
– Tham gia tổ chức của học sinh nhằm kết hợp với nhà trường thực
hiện phổ cập giáo dục tiểu học.
* Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và
các tổ chức kinh tế xã hội có trách nhiệm:
– Vận động cha mẹ, người đỡ đầu bảo đảm cho trẻ em hoàn thành
giáo dục tiểu học;
– Phối hợp với các cơ quan giáo dục, chính quyền địa phương và gia
đình trong việc giáo dục trẻ em;
– Vận động giúp đỡ về tài chính, cơ sở vật chất và nhân lực theo khả
năng của mình nhằm thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học.
Chương 3. Quản lí Nhà nước về phổ cập giáo dục tiểu học
Phần này thuộc chương III trong đó có liên quan tới 4 Điều. Cụ thể từ
Điều 21 đến Điều 24.
Nội dung cụ thể của phần này là:
* Chính phủ có trách nhiệm
– Ban hành các chính sách nhằm bảo đảm thực hiện phổ cập giáo dục
tiểu học trong phạm vi cả nước, quyết định các chương trình mục tiêu, thời
hạn phổ cập giáo dục tiểu học cho các vùng, các địa phương;
– Phân bổ ngân sách cần thiết dành cho giáo dục tiểu học;
– Chỉ đạo các ngành, các cấp trong việc thực hiện phổ cập giáo dục
tiểu học;
– Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức quốc tế, các quốc gia trong sự
nghiệp phổ cập giáo dục tiểu học.
* Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm
– Quyết định các đề án, chương trình, kế hoạch triển khai việc phổ cập
giáo dục tiểu học, ban hành các văn bản pháp quy thuộc thẩm quyền.
– Quy định mục tiêu và kế hoạch đào tạo của trường tiểu học, nội dung
giáo dục tiểu học, quản lí việc biên soạn, phát hành sách giáo khoa, sách
tham khảo, sách hướng dẫn và tài liệu cần thiết khác về giáo dục tiểu học cho
giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh và xã hội.
– Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lí
giáo dục tiểu học,
– Hướng dẫn các cấp chính quyền, chỉ đạo các cơ quan quản lí giáo
dục về chuyên môn, nghiệp vụ trong việc thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học;
– Phối hợp với các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội trong việc thực
hiện phổ cập giáo dục tiểu học;
– Thực hiện thanh tra giáo dục tiểu học.
Chính quyền địa phương các cấp có trách nhiệm
– Thực hiên chương trình mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học do Hội
đồng Bộ trưởng quy định đối với địa phương;
– Thực hiện quy hoạch, kế hoạch và ngân sách giáo dục tiểu học trong
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương;
Thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng hợp lí giáo viên, cán bộ
quản lí giáo dục tiểu học, các chính sách, chế độ, các biện pháp nhằm bảo
đảm đời sống vật chất tinh thần cho giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục tiểu
học.
– Động viên sự đóng góp về tài chính, cơ sở vật chất, nhân lực của địa
phương nhằm tạo thêm điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học.
– Tổ chức việc mở trường lớp tiểu học; bảo đảm trường, lớp, thiết bị đồ
dùng dạy học, sách, vở, học cụ đủ và đúng thời điểm cần thiết;
Chính quyền xã, phường, thị trấn chỉ đạo việc tổ chức đăng ký và huy
động trẻ em vào lớp 1, tổ chức và quản lí để trẻ em hoàn thành giáo dục tiểu
học;
– Cơ quan quản lí giáo dục các cấp có trách nhiệm giúp chính quyền
địa phương thực hiện các quy định tại điều này.
Nội dung thanh tra giáo dục tiểu học bao gồm
– Thanh tra việc thực hiện chương trình mực tiêu, kế hoạch phổ cập
giáo dục tiểu học của các địa phương, trường, lớp tiểu học;
– Thanh tra việc giảng dạy, giáo dục của giáo viên, việc học tập của
học sinh tiểu học;
– Quyết định hoặc kiến nghị các biện pháp xử lí kịp thời để thực hiện
phổ cập giáo dục tiểu học.
Tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục tiểu học do Hội đồng Bộ
trưởng quy định.
III. LUẬT BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM 1. Luật bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là lớp người
kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để nâng cao trách nhiệm của
gia đình, cơ quan nhà nước, nhà trường, tổ chức xã hội và công dân trong
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhằm bồi dưỡng cho các em trở
thành công dân tốt của đất nước theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Căn cứ vào các điều 41, 64, 65 và 83 của Hiến pháp nước Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;
Luật này quy định các quyền cơ bản, bổn phận của trẻ em và việc bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em gồm có 5 chương và 26 điều.
2. Nội dung cụ thể của Luật bao gồm
Chương 1. Những quy định chung
Phần này thuộc chương I của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em. Trong đó có liên quan đến 4 điều. Cụ thể từ Điều 1 đến Điều 4.
Nội dung cụ thể của phần này là:
* Trẻ em được quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới
mười sáu tuổi.
* Trẻ em, không phân biệt gái, trai, con trong giá thú, con ngoài giá thú,
con đẻ, con nuôi, con riêng, con chung; không phân biệt dân tộc, tôn giáo,
thành phần, địa vị xã hội, chính kiến của cha mẹ hoặc của người nuôi dưỡng,
đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền theo quy
định của pháp luật.
* Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ ém là trách nhiệm của gia đình,
nhà trường, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân ở
trong nước và ngoài nước góp phần vào sự nghiệp bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em.
* Các quyền của trẻ em phải được tôn trọng và thực hiện.
Mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển
bình thường của trẻ em, đều bị nghiêm trị.
Chương 2. Các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em
Phần này thuộc chương II của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em. Trong đó có liên quan đến 11 điều, từ Điều 5 đến Điều 15.
Nội dung cụ thể của phần này là:
* Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch.
Trẻ em không rõ cha, mẹ, khi có yêu cầu, được cơ quan có thẩm quyền
giúp đỡ xác định cha, mẹ cho mình.
* Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dạy để phát triển thể chất, trí
tuệ và đạo đức.
Trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em ở vùng cao, hải đảo vùng xa xôi hẻo
lánh, được Nhà nước tạo điều kiện trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.
Trẻ em tàn tật, trẻ em có khuyết tật, được Nhà nước và xã hội giúp đỡ
trong việc điều trị, phục hồi chức năng để hoà nhập vào cuộc sống xã hội;
được thu nhận vào các trường, lớp đặc biệt
Trẻ em không nơi nương tựa, được Nhà nước và xã hội tổ chức chăm
sóc, nuôi dạy.
* Trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc trẻ
em phải cách ly cha mẹ, trừ trường hợp vì lợi ích của đứa trẻ.
Việc giao, nhận trẻ em làm con nuôi phải theo quy định của pháp luật,
bảo đảm cho đứa trẻ được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt.
Mọi trường hợp đưa trẻ em ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài vào,
phải theo quy định của pháp luật.
* Trẻ em được Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân
thể, nhân phẩm và danh dự, được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình về
những vấn đề có liên quan.
Nghiêm cấm việc ngược đãi, làm nhục, hành hạ, ruồng bỏ trẻ em, bắt
trộm, bắt cóc, mua bán đánh tráo trẻ em, kích động, lôi kéo, ép buộc trẻ em
thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật hoặc làm những việc có hại đến
sự phát triển lành mạnh của trẻ em.
* Trẻ em được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ. Trẻ em dưới sáu tuổi được
chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền
tại các cơ sở y tế của Nhà nước theo quy định của Hội đồng Bộ trưởng.
Cơ quan y tế nhà nước có trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn, tổ chức
thực hiện việc phòng bệnh và khám sức khoẻ định kỳ cho trẻ em.
Nghiêm cấm việc sử dụng lao động trẻ em trái quy định của pháp luật,
có hại cho sự phát triển bình thường của trẻ em.
– Trẻ em có quyền được học tập và có bổn phận học hết chương trình
giáo dục phổ cập. Trẻ em học bậc tiểu học trong các trường, lớp quốc lập,
không phải trả học phí.
Cha mẹ, người đỡ đầu có trách nhiệm tạo điều kiện tốt cho con em học
tập.
Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền học tập của trẻ em, khuyến
khích trẻ em học tập tốt và tạo điều kiện để trẻ em phát triển năng khiếu.
– Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn
hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi.
Nhà nước khuyến khích và bảo trợ việc xây dựng, bảo vệ, sử dụng tốt
những cơ sở vật chất kỹ thuật và phương tiện phục vụ trẻ em học tập, sinh
hoạt và vui chơi.
Nghiêm cấm việc sử dụng những cơ sở vật chất, phương tiện công
cộng dành cho việc học tập, vui chơi, giải trí của trẻ em vào mục đích khác.
– Trẻ em có quyền có tài sản, quyền thừa kế, quyền hưởng các chế độ
bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Cha mẹ, người đỡ đầu hoặc cơ quan,
tổ chức hữu quan phải giữ gìn, quản lí tài sản của trẻ em và giao lại cho trẻ
em khi đến tuổi trưởng thành.
* Trẻ em có bổn phận:
– Yêu quý, kính trọng hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ, lễ phép với
người lớn, thương yêu em nhỏ, đoàn kết với bạn bè, giúp đỡ người già yếu,
tàn tật, giúp đỡ gia đình làm những việc vừa sức mình;
– Chăm chỉ học tập, rèn luyện thân thể, tuân theo nội quy của nhà
trường;
– Tôn trọng pháp luật; thực hiện nếp sống văn minh, trật tự công cộng
và an toàn giao thông; giữ gìn của công, tôn trọng tài sản của người khác.
– Yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, có ý thức xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
* Trẻ em không được đánh bạc, uống rượu, hút thuốc và dùng các chất
kích thích khác có hại cho sức khoẻ.
Nghiêm cấm việc lôi kéo trẻ em đánh bạc, cho trẻ em uống rượu, hút
thuốc, dùng chất kích thích có hại cho sức khoẻ.
Nghiêm cấm việc dụ dỗ, dẫn dắt trẻ em mại dâm, bán hoặc cho trẻ em
sử dụng những văn hoá phẩm đồi trụy, đồ chơi hoặc chơi trò chơi có hại cho
sự phát triển lành mạnh của trẻ em.
* Việc truy cứu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách
nhiệm hình sự đối với trẻ em vi phạm pháp luật, phải theo quy định của pháp
luật đối với người chưa thành niên.
Chương 3. Trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội
* Cha mẹ hoặc người đỡ đầu là người trước tiên chịu trách nhiệm về
việc bảo vệ, chăm sóc và nuôi dạy trẻ em, dành điều kiện tốt nhất cho sự phát
triển của trẻ em.
Cha mẹ, các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình, người đỡ đầu phải
làm gương tốt về mọi mặt cho trẻ em noi theo; khi gặp khó khăn tự mình
không giải quyết được, có thể yêu cầu cơ quan hoặc tổ chức hữu quan giúp
đỡ để thực hiện tốt nghĩa vụ của mình.
Trong trường hợp ly hôn hoặc các trường hợp khác, người cha hoặc
người mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên có nghĩa vụ đóng góp để
nuôi dưỡng, giáo dục con; có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con
theo quy định của pháp luật.
Nghiêm cấm hành vi xúi giục trẻ em thù ghét cha mẹ, gia đình hoặc
người đỡ đầu.
– Cha mẹ, người đỡ đầu phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm
dân sự về những thiệt hại do hành vi của đứa trẻ mình nuôi dạy gây ra.
– Nhà trẻ, trường, lớp mẫu giáo, trường phổ thông phải có những điều
kiện cần thiết để bảo đảm chất lượng nuôi dạy trẻ em, thực hiện tốt mục tiêu
giáo dục của Nhà nước.
Cô nuôi dạy trẻ, giáo viên, tổng phụ trách Đội phải được đào tạo bồi
dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, phải có sức khoẻ, phẩm chất, đạo đức tốt,
yêu nghề, yêu trẻ, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ.
– Nhà nước dành một tỉ lệ ngân sách thích đáng trong kế hoạch hàng
năm cho việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Các Bộ, Ủy ban nhà nước, các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ
trưởng, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, theo chức năng,
quyền hạn của mình, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện chương trình công
tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, bảo đảm thực hiện các quyền của
trẻ em.
Các cơ quan bảo vệ pháp luật, theo chức năng của mình, có trách
nhiệm thực hiện hoặc phối hợp thực hiện việc bảo vệ các quyền và lợi ích của
trẻ em, phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật của trẻ em, giáo dục trẻ em hư
và cải tạo trẻ em vi phạm pháp luật.
– Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em có nhiệm vụ giúp Hội đồng Bộ
trưởng, Ủy ban nhân dân cùng cấp hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc và giám sát
việc thực hiện kế hoạch bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; tổ chức sự phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế có liên quan
để thực hiện việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
– Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận,
các cơ quan thông tin, đại chúng có trách nhiệm:
+ Tuyên truyền, giáo dục đoàn viên, hội viên và nhân dân chấp hành tốt
pháp luật về trẻ em;
+ Vận động các gia đình thực hiện tốt việc chăm sóc, giáo dục trẻ em;
+ Chăm lo, bảo vệ quyền lợi của trẻ em, giám sát việc chấp hành pháp
luật về trẻ em, đưa ra những kiến nghị cần thiết đối với các cơ quan nhà
nước hữu quan thực hiện những nhiệm vụ đó; ngăn ngừa những hành vi và
kháng nghị đối với những quyết định xâm phạm quyền, lợi ích của trẻ em.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, ngoài trách nhiệm quy định tại khoản 1.
Điều này, có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan, tổ thức hữu quan để tổ chức
hướng dẫn việc nuôi con khoẻ, dạy con ngoan.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí lviinh, ngoài trách nhiệm quy định
tại khoản 1, có nhiệm vụ phụ trách Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh tổ
chức, hướng dẫn hoạt động của thiếu nhi.
– Nhà nước bảo trợ các công trình khoa học và công nghệ, các tác
phẩm văn học, nghệ thuật, mọi sáng kiến, việc làm có lợi cho sự nghiệp bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; khuyến khích các tổ chức kinh tế thuộc các
thành phần dành một phần quỹ phúc lợi hoặc lợi nhuận vào việc bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em
Quỹ bảo vệ trẻ em được thành lập bằng sự đóng góp của các cơ quan
nhà nước, đoàn thể nhân dân, tổ chức kinh tế, văn hoá, tổ chức từ thiện, tổ
chức nhân đạo và các tổ chức xã hội khác, của các cá nhân ở trong nước,
ngoài nước, viện trợ quốc tế cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em.
Nghiêm cấm việc sử dụng Quỹ bảo trợ trẻ em và các nguồn tài chính
khác dành cho việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vào mục đích khác.
Chương 4. Khen thưởng và xử lí vi phạm
Phần này thuộc chương IV của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em. Trong đó có liên quan tới 2 Điều, từ Điều 23 đến Điều 24.
Nội dung cụ thể của phần này là:
– Cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, được khen thưởng theo chế độ chung
của Nhà nước.
– Người xâm phạm quyền của trẻ em, ngược đãi, làm nhục, hành hạ,
ruồng bỏ trẻ em; kích động, lôi kéo, ép buộc trẻ em thực hiện những hành vi
vi phạm pháp luật, thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em làm hại đến sự phát triển bình thường của
trẻ em hoặc vi phạm các quy định khác của Luật này, thì tuỳ theo mức độ mà
bị xử lí kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chương V. THỰC TIỄN GIÁO DỤC VIỆT NAM
I. THÀNH TỰU GIÁO DỤC VÀ YÊU CẦU PHÁT TRIỂN CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
1. Những thành tựu dạt được trong của 10 năm đổi mới
Có thể khái quát những thành tựu chủ yếu của GD – ĐT Việt Nam là:
– Mạng lưới trường học phát triển rộng khắp.
– Quy mô giáo dục – đào tạo ngày càng phát triển.
– Chất lượng GD – ĐT bước đầu có nhiều tiến bộ về các môn khoa học
tự nhiên, kỹ thuật ở bậc phổ thông và đại học hệ tập trung.
– Hình thành phong trào học tập rộng khắp của cán bộ, nhân dân, nhất
là thanh niên. Đa dạng hoá các loại hình trường lớp, thực hiện tốt chủ trương
xã hội hoá GD – ĐT của Đảng và Nhà nước.
Hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất đã được
xây dựng trong cả nước với đầy đủ các cấp học từ mầm non đến sau đại học,
các hình thức chính quy và không chính quy; các loại hình trường lớp công
lập và ngoài công lập. Mạng lưới trường phủ được hầu hết các địa bàn dân
cư, tạo thuận lợi cho người học. Giáo dục dân tộc thiểu số có những chuyển
biến tích cực, đã thành lập trên 300 trường dân tộc nội trú (gồm trường của
trung ương, tỉnh, huyện và các trung tâm cụm xã). Hệ thống cơ sở đào tạo
nghề nghiệp từ hướng nghiệp dạy nghề trở lên đến sau đại học đã hình thành
rộng khắp bao gồm:
– Hệ thống giáo dục Mầm non trong toàn quốc
– Hệ thống giáo dục phổ thông gồm 23.959 trường (trong đó 22.199
trường tiểu học THCS và 1.760 trường PTTH) với 299.978 phòng học cho
17.806.600 học sinh phổ thông các cấp.
– Hệ thống 247 trường trung học chuyên nghiệp.
– Hệ thống 157 trường dạy nghề chính quy trong đó có 2 trường dạy
nghề quốc tế, và trên 1000 cơ sở dạy nghề bán công, dân lập, tư thục (trong
đó có một số cơ sở dạy nghề của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài; Khoảng 500 trung tâm dạy nghề Quận/huyện; Khoảng 190 trung tâm
kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp, dạy nghề.
– Hệ thống trường đại học (ĐH), cao đẳng (CĐ) tăng mạnh và phân bố
ở các trung tâm của cả nước, vùng có tính chất trung tâm và địa phương từ
102 trường (1989 – 1990) lên 139 trường (1998 – 1999), trong đó có 2 ĐH
quốc gia, 3 ĐH vùng, 44 ĐH công lập, 15 ĐH dân lập và 74 trường CĐ (trong
đó có 1 CĐ dân lập).
– Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng của các cơ quan hành chính nhà nước
bao gồm hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức (CBCC)
thống nhất từ trung ương đến địa phương bao gồm 4 Học viện (Học viện
CTQGHCM, Học viện HCQG, Học viện Quốc phòng, Học viện An ninh), 61
trường chính trị cấp tỉnh, gần 32 cơ sở đào tạo, bồi dưỡng các bộ, ngành và
gần 500 Trung tâm chính trị cấp huyện.
– Riêng về hệ thống đào tạo do quân đội quản lí gồm 41 trường (9 học
viện, 9 trường sĩ quan – ĐH, 3 trường cao đẳng, 11 trường CĐ – THCN và 14
trường QS – thiếu sinh quân) và 60 trường quân sự cấp tỉnh, thành phố, 3
trường đào tạo nghề khu vực cho quân nhân xuất ngữ, 3 trung tâm dạy nghề,
17 trung tâm dịch vụ việc làm và 4 cơ sở đào tạo sau đại học với đội ngũ giáo
viên có 6567 người trong đó Tiến sĩ có 342 người và thạc sĩ là 748 người, 73
75% có trình độ đại học… đã đào tạo không những đáp ứng nhu cầu của
quân đội mà còn có thể cung cấp cho các ngành kinh tế và góp phần giải
quyết việc làm.
– Quy mô giáo dục – đào tạo tăng nhanh ở tất cả các cấp, học, bậc
học. Trong phạm vi toàn quốc, số trẻ nhà trẻ năm 2001 là 510.529 cháu, đạt tỉ
lệ 13,67%, trẻ mầm non đạt 2.327.820, đạt tỉ lệ 51,63%
– Đến năm 2000, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đạt chuẩn
quốc gia phổ cập GD tiểu học và xoá mù chữ. Một số tỉnh, thành phố thuận lợi
đã và đang tiến tới đạt chuẩn phổ cập THCS. Số lượng đào tạo nghề nghiệp
tăng nhanh đặc biệt là cao đẳng, đại học. Tỉ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi
đi học đã đạt khá cao, đặc biệt là các cấp giáo dục tiểu học và THCS nhưng
có sự khác biệt rất lớn giữa thành thị –nông thôn, giữa các vùng, các cấp hệ
cao, tỉ lệ thanh niên tham gia vào đào tạo nghề còn rất thấp.
Ở nước ta, trong thập niên vừa qua (1989 – 1999), với mức GDP/người
tăng khoảng 1,7 lần thì quy mô khối đào tạo tăng khoảng 3,1 lần từ 363,8
ngàn sinh viên/học sinh (1989 – 1990) lên hơn 1.198 ngàn sinh viên/ học sinh
(1999 –2000); Trong đó: CĐ&ĐH tăng nhanh nhất: 6,3 lần; THCN tăng 1,3 lần
và CNKT – chính quy tăng 1,5 lần.
– Tổng số sinh viên CĐ, ĐH tăng từ 106,9 ngàn người (1990) lên 297,9
ngàn người (1995) và 893,8 ngàn (1999 –2000) trong đó hệ dài hạn tập trung
tương ứng là 93 ngàn (chiếm 87%), 173 ngàn (chiếm 57,9%) và 401,7 ngàn
người (chiếm 50,7%). Tốc độ tăng bình quân/năm thời kỳ 1991 – 1995 là
22,75% (dài hạn là 3,2%) và 1996 –2000 là 31,5%/năm. Số sinh viên trên một
vạn dân đạt 117.
Tổng số sinh viên tốt nghiệp thời kỳ 1995 –1998 là 314,5 ngàn người
trong đó dài hạn là 285 ngàn người riêng năm 1998 là 103,4 ngàn người
trong đó dài hạn là 61.994 người (chiếm 61%).
– Số lượng học sinh THCN tương đối ổn định, mặc dù có tăng nhẹ, từ
105,9 ngàn (1990) lên 111,6 ngàn (1995) và 129,1 ngàn (1999 – 2000). Tốc
độ tăng trung bình hàng năm thời kỳ 1991 – 2000 là 2%/năm trong đó thời kỳ
1996 – 1998 là 4,2%/năm; Số lượng học sinh tốt nghiệp hàng năm từ 34.416
người (1990) lên 39.722 người (1995) và 41.453 người (1998). Tổng số học
sinh tốt nghiệp trong thời kỳ 1991 – 1998 là 346.139 người.
– Học sinh thuộc hệ thống trường dạy nghề chính quy dài hạn là 95.4
14 người (1990) giảm xuống còn 58.689 người (1995) và tăng trở lại 114.266
người (1998), tốc độ tăng học sinh của các trường dạy nghề dài hạn chính
quy thời kỳ 1991 – 1998 là 2,3%/năm trong đó 1996 – 1998 là 24.9%/năm.
Ngoài ra còn có số học sinh học nghề ngắn hạn phát triển rộng khắp và tăng
rất nhanh từ 150 ngàn học sinh (1991) lên 693 ngàn (2000), tức tăng
18,5%/năm.
Kết quả phát triển của hệ thống đào tạo nghề nghiệp đã góp phần đáng
kể làm sáng tỉ lệ đi học trong tổng số người ở độ tuổi lao động từ 5% (1989)
lên gần 10% (1999), cũng như tăng đội ngũ lao động đã qua đào tạo và có
chuyên môn kỹ thuật của nước ta. Do đó, số lượng lao động đã qua đào tạo
(theo số liệu báo cáo tình hình đào tạo của Bộ GD – ĐT và TCDN hàng năm)
cũng tăng lên 2,06 lần từ 3,676 triệu (1989) lên khoảng 7,5 triệu chiếm
khoảng 21% lao động đang làm việc cả trong nước.
* Công tác xã hội hoá giáo dục (XHHGD) đã đem lại kết quả bước đầu.
Phong trào học tập phát triển rộng rãi. Các lực lượng xã hội tham gia ngày
càng tích cực vào việc huy động trẻ đến trường, xây dựng cơ sở vật chất
trường học, đóng góp kinh phí cho GD – ĐT dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tỉ lệ học sinh, sinh viên (HS, SV) ngoài công lập trong tổng số HS, SV ngày
càng tăng, năm học 1999 – 2000 chiếm 85,8% học sinh học nghề.
2. Những hạn chế của GD – ĐT so với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
GD – ĐT nước ta vẫn còn nhiều bất cập cả về quy mô, cơ cấu và nhất
là chất lượng, hiệu quả đào tạo, chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn về nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực của công cuộc đổi mới KT –XH. Có thể nêu
một số yếu kém cơ bản như sau:
– Vẫn còn một tỉ lệ dân số mù chữ, chưa phổ cập được THCS. Tỉ lệ
sinh viên/ dân số còn thấp
– Cơ cấu ngành nghề, trình độ cơ cấu vùng còn nhiều bất hợp lí,
khoảng cách về trình độ học vấn còn rất lớn giữa các ứng thành thị và nông
thôn, vùng khó khăn.
– Chất lượng và hiệu quả GD – ĐT còn thấp.
– Những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong GD đang có chiều
hướng gia tăng.
– Chưa thực hiện được công bằng xã hội trong GD.
– Đội ngũ giáo viên mất cân đối về cơ cấu bộ môn và chưa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp học tập.
Hiện nay, tỉ lệ người mù chữ trong tổng số người 10 tuổi trở lên đã
giảm từ 8,4% (thành thị 3,7%, nông thôn 10,2%) năm 1989 xuống 3,8% (nữ
4,78%, thành thị 1,7%, nông thôn 5,9%) năm 1998; Số năm học cao nhất bình
quân đạt 7,3 năm (nữ 7 năm); thành thị 8,8 năm (nữ 8,6 năm); nông thôn 6,9
năm (nữ 8,6 năm); vùng đạt cao nhất là ĐB sông Hồng: 8,6 năm và vùng đạt
thấp nhất là ĐB sông Cửu Long: 5,9 năm). Đặc biệt là số người thuộc nhóm
tuổi 18 – 34 có số năm đi học bình quân là 9,5 năm là tiền đề thuận lợi để đào
tạo và nâng cao trình độ nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển KT –XH
trong thời kỳ đến năm 2010; Đã có tới trên 18 triệu người đã tốt nghiệp PTCS
trở lên, tỉ lệ trong tổng số lực lượng lao động (LLLĐ) tăng tương ứng từ
45,4% lên 48,3 %…nhưng còn khác biệt lớn theo vùng (cao nhất là ĐB sông
Hồng đạt 75,4% và thấp nhất là ĐB sông Cửu long: 21,8%) trong đó trên 5
triệu người đã tốt nghiệp PTTH trở lên. Ngoài ra còn số học sinh đang học ở
các trường sẽ là lực lượng đáng kể bổ sung vào chất lượng LLLĐ. Tuy nhiên,
đó mới chỉ là trình độ văn hoá phổ thông, để có thể tham gia vào thị trường
sức lao động trong nền kinh thị trường định hướng XHCN thì cần phải được
đào tạo nghề và kỹ năng lao động phù hợp. Dù sao đó cũng là nguồn vốn
quý, nếu tổ chức quản lí, đào tạo và sử dụng tốt thì đây là một lợi thế rất đáng
kể cho đất nước bước vào thế kỷ 21.
Đội ngũ lao động đã qua đào tạo tăng đáng kể nhưng vẫn chậm và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KT–XH
Theo tổng điều tra dân số 1/4/1999 cả nước đã có trên 4,1 triệu người
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT), trong đó có 2,5 ngàn Tiến
sĩ khoa học, 8,8 ngàn Tiến sĩ chuyên ngành, 17,2 ngàn Thạc sĩ; 936 ngàn
người có trình độ đại học: 379,2 ngàn người có trình độ cao đẳng; 1.526,2
ngàn người có trình độ THCN; 1.239,8 ngàn người có trình độ CNKT, NVKT
có bằng, chứng chỉ. Riêng số người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên đã
gấp 1,8 lần so với năm 1989.
Mặc dù số người đã qua đào tạo khá lớn nhưng số người đã qua đào
tạo thực sự đang làm việc trong nền kinh tế (từ sơ cấp, học nghề trở lên) chỉ
chiếm 15,52% LLLĐ và 16,55% so với tổng số lao động đang làm việc, trong
đó số đã qua đào tạo CNKT có bằng trở lên chiếm 11,74% (ĐTLĐ-VL
1/7/2000).
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực (NNL) thấp và tiến
bộ không đáng kể, tỉ lệ người có chuyên môn kỹ thuật trong tổng dân số từ 15
tuổi trở lên chỉ tăng từ 7,3 % (1989) lên 8,1% (2000) là rất thấp. Nếu so sánh
cơ cấu chất lượng của LLLĐ nước ta với cơ cấu chất lượng LLLĐ ứng với
giai đoạn 3 của trình độ tiến bộ kỹ thuật, từ thủ công lên cơ khí hoá (như
nước ta hiện nay) thì đội ngũ lao động đã qua đào tạo từ bán lành nghề trở
lên và số có chuyên môn kỹ thuật ở nước ta là quá thấp (15,52% so với 85%
và 11,74% so với 25%), nhưng trong đó chúng ta lại có đội ngũ cán bộ đại
học và trên đại học cao hơn rất nhiều (2,7% so với 1%).
Theo các chuyên gia quốc tế thì “trong một chu kỳ dài, tốc độ tăng việc
làm cần lao động đã qua đào tạo thường tăng gấp 2-3 lần tốc độ tăng của
GDP”. Ở nước ta, lực lượng lao động đã qua đào tạo từ bán lành nghề trở lên
đã tăng lên với tốc độ luôn luôn thấp hơn tốc độ tăng của GDP (4.05%/ năm
thời kỳ 1980 – 1989 và 7,3%/năm thời kỳ 1990 – 2000) nên không đáp ứng
nhu cầu lao động có kỹ thuật cho phát triển kinh tế– xã hội.
Cơ cấu đội ngũ lao động đã qua đào tạo theo cấp trình độ còn bất hợp
lí, rất thiếu công nhân và nhân viên kỹ thuật. Trong hầu hết các ngành đều ở
tình trạng thiếu CNKT và kỹ thuật viên trung sơ cấp. Ví dụ, trong ngành y tế,
định mức hợp lí là 1 bác sĩ/4 kỹ thuật viên và người phục vụ nhưng hiện nay tỉ
lệ này ở ta là 1/1,3…
Trình độ chuyên môn nghề nghiệp của LLLĐ trên các vùng đều thấp và
chênh lệch đáng kể
Theo kết quả điều tra Lao động việc làm năm 1996, trong tổng số lao
động đang làm việc trong ngành công nghiệp và xây dựng, tỷ trọng lao động
đã qua đào tạo là 27,7%, cao nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng, Đông
Nam bộ, trung du miền núi Bắc bộ (30 – 37%), thấp nhất là ở Duyên hải miền
Trung, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên (18 - 20%); Trong khối ngành
dịch vụ là 21,8% còn trong nông lâm nghiệp chỉ có 3,85%, cao nhất là ở đồng
bằng sông Hồng, Đông Nam bộ (trên 5%) thấp nhất là ở đồng bằng sông Cửu
Long (0,88%).
II. THỰC TIỄN GIÁO DỤC VÙNG DÂN TỘC, MIỀN NÚI1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển
giáo dục vùng dân tộc, miền núi
a. Các quan điểm lớn của Đảng và Nhà nước
Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự phát
triển kinh tế – văn hoá – xã hội vùng dân tộc, miền núi, trong đó mối quan tâm
hàng đầu là phát triển giáo dục – đào tạo. Dưới đây là các quan điểm chỉ đạo
đối với phát triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi:
Thứ nhất, quan điểm bình đẳng, rút ngắn khoảng cách chênh lệch
trong phát triển.
Thứ hai, quan điểm phát triển giáo dục phải phù hợp với đặc điểm kinh
tế – văn hoá - xã hội từng vùng, từng dân tộc. Tập trung ưu tiên cho các vùng,
các dân tộc gặp nhiều khó khăn trong phát triển giáo dục.
Thứ ba, quan điểm về tiếng nói và chữ viết: Kết hợp dạy tiếng Việt và
tiếng dân tộc trong trường phổ thông ở các vùng dân tộc.
b. Các chương trình mục tiêu và hoạt động của ngành GD–ĐT về phát
triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi
Trong suốt những năm 1990 và hiện nay, các vấn đề GD–ĐT luôn là
một trong những chủ đề trong chương trình nghị sự của các kỳ họp Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam. Quốc hội đã dành nhiều nỗ lực để thảo luận và
quyết nghị về những vấn đề liên quan đến GD – ĐT, nhất là chuẩn chi Ngân
sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo do Chính phủ đệ trình. Trên cơ sở
đó, Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình quốc gia để thực hiện phát
triển giáo dục – đào tạo. Một trong các chương trình có rất nhiều tác động đến
phát triển GD – ĐT vùng dân tộc, miền núi là Chương trình “Củng cố và phát
triển giáo dục miền núi, vùng ít người, vùng sâu, hải đảo và những vùng có
nhiều khó khăn” (Chương trình VII) và Chương trình “Xoá mù chữ và phổ cập
tiểu học” (Chương trình VI) (1990 – 2000). Đồng thời, Chính phủ đã giao cho
Bộ GD & ĐT thực hiện các chương trình trọng điểm về giáo dục ở các vùng
dân tộc thiểu số thông qua mạng lưới rộng khắp các trường PTDTNT từ tỉnh
đến huyện và các trường bán trú ở các cụm xã. Chương trình này đã tạo điều
kiện mở rộng khả năng nhập học của con em các dân tộc thiểu số, góp phần
vào việc thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ em vùng dân
tộc, miền núi.
Chính phủ đã kiên trì thực hiện chương trình: “Chống xuống cấp cho
các trường học”; liên tục triển khai đào tạo – bồi dưỡng – chuẩn hoá đội ngũ
giáo viên, trong đó giáo viên tiểu học vùng dân tộc, miền núi được quan tâm
nhiều nhất. Dự án Giáo dục Tiểu học do Chính phủ ký kết với Ngân hàng Thế
giới Hiệp định tín dụng phát triển tạo điều kiện mạnh để khai thác nguồn tài
chính, nâng cao chất lượng GD ở vùng dân tộc, miền núi.
Nhằm thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
phát triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi, ngành giáo dục đã có nhiều chủ
trương, biện pháp và hoạt động cụ thể nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ cho vùng
dân tộc, miền núi.
– Triển khai thực hiện Chương trình “Củng cố và phát triển giáo dục
miền núi, vùng ít người, vùng sâu, hải đảo và những vùng có nhiều khó khăn”
(Chương trình VII).
Từ năm 1954, để phục vụ nhu cầu cấp bách về đào tạo cán bộ cho
vùng dân tộc và miền núi, ở miền Bắc gọi là trường thiếu nhi vùng cao, ở
miền Nam gọi là trường phổ thông nội trú.
Ngày 26/9/1985, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Thị Bình đã ký quyết
định số 661/QĐ về việc chuyển loại trường thiếu nhi vùng cao ở miền Bắc và
trường phổ thông nội trú ở miền Nam thành Trường phổ thông dân tộc nội trú
(PTDTNT), ban hành các quy định về tổ chức và hoạt động của trường.
Năm 1991, Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chương trình “Củng cố
và phát triển giáo dục miền núi, vùng ít người, vùng sâu hải đảo và những
vùng có nhiều khó khăn” (Chương trình VII) Chính phủ đã phê duyệt và cấp
kinh phí hàng năm.
Mục tiêu của Chương trình VII:
a. Tạo nguồn đào tạo cán bộ: Tiến hành củng cố hệ thống trường
PTDTNT từ Trung ương đến xã một cách hợp lí để tạo nguồn đào tạo cán bộ
có trình độ cao cũng như cán bộ trực tiếp cho địa phương.
b. Từng bước nâng cao dân trí (Mục tiêu có liên quan đến chương trình
VI về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học). Phấn đấu phổ cập đến lớp 3 cho học
sinh trong độ tuổi; trước mắt xoá mù chữ cho cán bộ và thanh thiếu niên 15 –
25 tuổi có triển vọng.
c. Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên: Quy hoạch, củng cố hệ thống
trường sư phạm ở các địa phương miền núi, vùng sâu, (mục tiêu có liên quan
đến chương trình IV về đào tạo giáo viên), xây dựng cơ sở vật chất hoàn
chỉnh, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên từ mầm non đến THCS, đáp ứng
yêu cầu phát triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi.
d. Xây dựng hệ thông lớp ghép tại các bản làng xa xôi hẻo lánh, tạo
điều kiện cho các cháu học sinh có thể đến trường thuận lợi nhằm đáp ứng
yêu cầu xoá mù chữ và phổ cập tiểu học theo độ tuổi quy định.
e. Tăng cường trang thiết bị cho các trường PTDTNT, nhất là các trang
thiết bị phục vụ việc giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông. Chú ý
đến các hoạt động nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh như các hoạt động
thể thao, văn nghệ…
g. Hỗ trợ sách giáo khoa, sách đọc thêm để giúp đỡ các gia đình khó
khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các em đến trường.
Triển khai của ngành GD – ĐT nhằm thực hiện mục tiêu chương trình
VII
a. Đầu tư xây dựng hệ thống trường PTDTNT.
b. Triển khai dự án “Trang bị sách và hỗ trợ thư viện của các trường
PTDTNT”.
c. Triển khai dự án “Tăng cường đầu tư và trang thiết bị dạy học cho
trường PTDTNT”.
d. Triển khai dự án về giáo viên và cán bộ quản lí.
e. Triển khai dự án lớp ghép.
g. Đề nghị với các Bộ liên quan và Nhà nước về chế độ chính sách cho
giáo viên và học sinh trường PTDTNT.
– Tăng cường chỉ đạo các vùng khó khăn thực hiện mục tiêu đạt chuẩn
quốc gia chông mù chữ – phổ cập giáo dục tiểu học
Hầu hết các dân tộc ít người tập trung tại các tỉnh miền núi có nhiều
khó khăn. Đó là các tỉnh vùng núi phía Bắc, các tỉnh Tây Nguyên và đồng
bằng sông Cửu Long. Đối với các vùng này, Bộ GD & ĐT, Ủy ban Quốc gia
chống nạn mù chữ phối hợp với Ban Khoa giáo Trung ương đã đề ra nhiều
biện pháp chỉ đạo một cách đồng bộ để thực hiện mục tiêu hoàn thành chông
mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000. Điều này được thể hiện
không chỉ dừng ở các văn bản mà còn qua nhiều hoạt động triển khai ứng
dụng nghiên cứu giáo dục vùng dân tộc, miền núi vào thực tiễn.
– Các hoạt động của ngành GD & ĐT thực hiện chủ trương về dạy học
tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số
Căn cứ Vào Quyết định số 53/CP ngày 22/2/1980 của Hội đồng Chính
phủ về chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số và luật phổ cập
giáo dục tiểu học 1991, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Thông tư số 01/GDDT
ngày 3/2/1997 của Bộ GD & ĐT về hướng dẫn việc dạy học tiếng nói và chữ
viết dân tộc thiểu số.
Thực hiện chủ trương trên, ngành GD – ĐT đã triển khai một số việc
làm cụ thể như sau:
a. Xây dựng chương trình bộ môn tiếng dân tộc, biên soạn sách giáo
khoa và tài liệu dạy học cần thiết.
b. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng dân tộc.
c. Xác định mức độ dạy tiếng dân tộc trong từng bậc học (mầm non,
giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên)
Việc tổ chức thực hiện được tổ chức chặt chẽ, phối hợp đồng bộ giữa
các cơ quan nghiên cứu với cơ quan quản lí nhà nước trong ngành giáo dục
các cấp.
2. Tình hình phát triển giáo dục – đào tạo ở vùng dân tộc miền núi
a. Thuận lợi
– Đảng và Nhà nước luôn giành sự quan tâm đặc biệt cho phát triển
GD – ĐT vùng dân tộc, miền núi.
– Các dân tộc thiểu số đều có nền văn hóa riêng, một số dân tộc đã có
chữ viết riêng. Các dân tộc đều tự hào và có ý thức giữ gìn bản sắc Văn hoá
của dân tộc mình.
– Có truyền thống đoàn kết, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống
nhất.
Khó khăn
– Đời sống kinh tế khó khăn, thu nhập bình quân/ người của người dân
thấp.
– Trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ địa phương, nhất là đội ngũ cán
bộ xã, bản còn thấp. Vẫn còn nhiều già làng, trưởng bản chưa biết chữ.
Theo số liệu điều tra của Viện Khoa học giáo dục về trình độ học vấn
của cán bộ một số vùng dân tộc, miền núi như sau:
Cán bộ người H'mông ở Lào Cai: điều tra 126 cán bộ của bản thì tỉ lệ
chưa biết chữ là 20,69% (26 người); có trình độ lớp 1, 2 chiếm 75,31% (95
người). Trong 150 cán bộ xã thì 1,3% chưa biết chữ (2 người); 87,3% có trình
độ cấp I (tiểu học) – 131 người.
Ở tỉnh Gia Lai: Trong 854 cán bộ người J'rai của buôn làng thì có
22,8% chưa biết chữ (81 người); 66,6% có trình độ cấp I (236 người). Trong
tổng số 375 cán bộ xã thì 2,13 % chưa biết chữ, 60,9% có trình độ cấp 1 (227
người).
– Đội ngũ cán bộ KHKT là người các dân tộc còn chiếm tỉ lệ thấp
– Hệ thống chính sách cho nhà giáo, học sinh vùng DT, MN còn chưa
đồng bộ và lạc hậu so với yêu cầu đổi mới nội dung phương pháp dạy học.
Cho đến nay, những chế độ, chính sách đối với nhà giáo, học sinh ở
các trường chuyên biệt (trong đó có trường PTDTNT), các vùng dân tộc, vùng
có điều kiện KT – XH đặc biệt khó khăn như đã đề ra ở điều 72 Luật Giáo dục
vẫn chưa được triển khai thực hiện do chưa có văn bản hướng dẫn thi hành.
Quy định về mức học bổng, chính sách áp dụng đối với học sinh trường
PTDTNT đã quá lạc hậu do mức tiền lương tối thiểu khu vực hành chính – sự
nghiệp đã nâng cao nhiều lần (120.000đ –180.000đ – 180.000đ và 210.000đ)
và chuẩn bị tiếp tục được điều chỉnh; giá điện, nước đã rất nhiều lần tăng do
vậy, mức học bổng thực chất bị hạ thấp tương đối. Thực tế cho thấy các mức
chi hành chính sự nghiệp quy định cho các trường PTDTNT (Bộ Tài chính
hướng dẫn tại công văn số 562 – TC/HCSN ngày 3/3/1998) từ 2–3 triệu
đồng/hs/năm rất khó khăn cho các trường PTDTNT đảm bảo các điều kiện
sinh hoạt cơ bản cho học sinh.
Định mức lao động và chế độ làm việc của giáo viên nói chung, vùng
dân tộc, miền núi nói riêng chưa được đổi mới theo Luật lao động (tuần làm
việc 40 giờ)
Các định mức về các điều kiện đảm bảo cho GD – ĐT nói chung và các
trường PTDTNT, giáo dục vùng dân tộc, miền núi đã quá lạc hậu so với yêu
cầu đổi mới nội dung, phương pháp dạy học.
Điểm mạnh
* Công tác xã hội hoá được triển khai có kế hoạch, rộng khắp tại các
vùng dân tộc miền núi.
* Mạng lưới các trường phổ thông được xây dựng rộng khắp ở các tỉnh
có vùng dân tộc, miền núi.
* Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ
* Công tác đào tạo cán bộ vùng dân tộc, miền núi.
* Công bằng trong giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực
Điểm yếu
* Công tác tuyển sinh vào các trường PTDTNT
* Quy mô, đối tượng đào tạo chưa hợp lí
* Chất lượng đào tạo còn thấp so với yêu cầu. Hiệu quả đào tạo chưa
tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước.
* Chậm đổi mới cách tổ chức và PPDH phù hợp với đặc điểm học sinh
dân tộc, miền núi.
* Thiết bị dạy học, SGK chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
đào tạo.
* Chưa có kế hoạch phân luồng học sinh phù hợp.
3. Giải pháp phát triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi
Trên cơ sở các thuận lợi, khó khăn, điểm mạnh, yếu (hạn chế) của giáo
dục vùng dân tộc, miền núi và các nguyên nhân của những hạn chế, có thể
đưa ra một số gợi ý cho các giải pháp để phát triển giáo dục vùng dân tộc,
miền núi sau:
3.1. Xây dựng và hoàn thiện các chế độ, chính sách đối với GD – ĐT
vùng dân tộc, miền núi
– Cần gắn chính sách phát triển hệ thống trường PTDTNT từ Trung
ương đến địa phương, chính sách tài chính tương xứng với quy định nhiệm
vụ, chức năng, chế độ của loại hình trường này.
– Khắc phục sự chồng chéo về chế độ tiền thưởng khuyến khích học
tập cho học sinh vùng dân tộc, miền núi đã quy định ở mực 3, phần II, Thông
tư số 126/1998/TTLT/BTC–BGD&ĐT với quy định ở điểm 2, mục II, phần I,
Thông tư số 53/1998/TT-LT/BGD&ĐT – BTC-BLĐTB&XH ngày 25/8/1998 của
Liên tịch Bộ GD & ĐT, Bộ Tài chính và Bộ lao động, thương binh & xã hội.
– Sớm ban hành các văn bản dưới luật quy định chi tiết và hướng dẫn
thực hiện các chế độ, chính sách đối với nhà giáo công tác ở vùng có điều
kiện KT–XH đặc biệt khó khăn trong đó có trường PTDTNT như đã đề ra ở
điều 72 Luật Giáo dục.
– Xây dựng và đổi mới định mức lao động sư phạm của nhà giáo ở các
vùng dân tộc, miền núi, trường PTDTNT, chế độ trả lương làm thêm giờ, dạy
thêm giờ, lương cơ bản, bảo đảm sự phù hợp với việc thực hiện quyết định
số 188/1999/QĐ – TTg ngày 17/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ về “chế độ
tuần làm việc 40 giờ”.
– Tổ chức nghiên cứu và triển khai hệ thống định mức về các điều kiện
bảo đảm cho hoạt động giáo dục vùng DTMN, phù hợp với đổi mới Chương
trình, SGK, thực hiện phổ cập
Nghiên cứu điều chỉnh hệ thống định mức chi ngân sách Nhà nước cho
hệ thống các trường PTDTNT ở các tuyến (TW – Tỉnh – huyện – cụm xã) phù
hợp với chính sách ưu đãi hiện hành, đảm bảo ngân sách thoả đáng, đủ kinh
phí để chi cho các nhu cầu chi thường xuyên cho đội ngũ nhà giáo, học sinh
thuộc đối tượng này. Nghiên cứu điều chỉnh định mức học bổng – tiền ăn –
sinh hoạt phí cho học sinh các trường PTDTNT phù hợp với mặt bằng giá cả
hiện nay.
– Có chế độ quản lí tài chính hợp lí, phôi kết hợp chặt chẽ giữa Bộ GD
& ĐT với Bộ tài chính.
3.2. Xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên
– Cần xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên ở các vùng DT,
MN, các trường PTDTNT phù hợp với yêu cầu phát triển GD-ĐT vùng dân
tộc, miền núi giai đoạn mới. Các trường CĐSP, THSP phải là nòng cốt đảm
bảo lực lượng giáo viên cho các vùng dân tộc, miền núi.
– Bố trí đủ số lượng giáo viên cho các vùng dân tộc, miền núi, đảm bảo
cân đối cơ cấu giáo viên các bộ môn thể dục, lao động hưởng nghiệp, hát
nhạc, dạy tiếng dân tộc, giáo dục công dân.
– Tạo điều kiện về kinh phí, thời gian để cử giáo viên được bồi dưỡng
đạt chuẩn đào tạo và tham gia các hoạt động, bồi dưỡng, tham quan học tập
về chuyên môn nghiệp vụ và học tiếng/ chữ dân tộc.
– Nghiên cứu để sớm có chương trình đào tạo bồi dưỡng giáo viên dạy
chữ và tiếng dân tộc.
– Tăng tỉ lệ giáo viên là người dân tộc, xây dựng đội ngũ giáo viên cốt
cán trong trường PTDTNT.
3.3. Xây dựng, phát triển mạng lưới trường lớp
– Tiếp tục đầu tư để hoàn thiện hệ thống trường PTDTNT và trường dự
bị đại học dân tộc. Tiếp tục hoàn thiện mạng lưới trường PTDTNT từ cụm xã
đến Trung ương. Mở rộng việc xây dựng hệ thống lớp ghép tại các bản, buôn
làng.
Hiện nay cả nước mới có 3 trường dự bị đại học dân tộc TW (Việt Trì,
Nha Trang và TP. Hồ Chí Minh) và chưa đáp ứng nhu cầu tạo nguồn đào tạo
cán bộ cho học tập của con em vùng dân tộc, miền núi. Do khu vực Bắc miền
Trung và vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng cần được xây dựng trường
DBĐHDT nên có thể chuyển một số trường PTDTNT TW thành loại hình
trường này (tại Thanh Hoá và Cần Thơ).
Đối với hệ thống trường PTDTNT, hiện nay cả nước có 3800 xã miền
núi, vùng sâu, vùng xa; trong đó có hơn 2200 xã đặc biệt khó khăn. Nếu quy
hoạch mỗi cụm có 3 – 4 xã thì cần phải có khoảng 1000 trường cụm xã.
Về hệ thống lớp ghép, nếu mỗi xã có 6 – 7 bản thì phải có 30.000 lớp
ghép tại các bản, buôn. Việc đưa nguyên vật liệu xây dựng trường lớp ở các
vùng này rất khó khăn, cần phải có các vật liệu nhẹ, lắp ghép nhanh để làm
lớp học cho con em đồng bào dân tộc, miền núi khó khăn.
3.4. Cung cấp sách giáo khoa và sách tham khảo. Tăng cường cơ sở
vật chất và đồ dùng, thiết bị dạy học.
– Ưu tiên đầu tư thích đáng kinh phí thường xuyên để mua sắm trang
thiết bị giáo dục và sách thư viện
– Thực hiện tốt Quy chế thiết bị giáo dục ban hành theo Quyết định số
41/2000/QĐ – BGD & ĐT ngày 7/9/2000 của Bộ trưởng Bộ GD & ĐT.
– Đảm bảo cho thư viện nhà trường có đủ sách giáo khoa trong danh
mục ban hành, đủ sách tham khảo bổ trợ SGK, sách bằng tiếng dân tộc.
3.5. Nâng cao năng lực quản lí giáo dục cho cán bộ quản lí giáo dục
vùng dân tộc, miền núi.
– Tăng cường năng lực quản lí giáo dục cho CBQLGD bằng việc tổ
chức bồi dưỡng, phát triển kỹ năng quản lí giáo dục đặc thù cho đối tượng
này với các nội dung phù hợp với các vùng dân tộc.
– Đào tạo cán bộ quản lí GD – ĐT với nguồn đội ngũ giáo viên trẻ,
người dân tộc địa phương, có trình độ năng lực đáp ứng với yêu cầu phát
triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi trong giai đoạn mới.
– Dạy tiếng dân tộc cho CBQLGD hệ thống trường học vùng dân tộc,
miền núi.
PHỤ LỤC 1Tỉ lệ huy động học sinh các cấp năm học 1999 – 2000
Đơn vị: h/s: 1000 người
Tổng số Nam Nữ Th.thị N.thôn
I. Số người trong độ tuổi 6-10
Số h/s tiểu học
Tỉ lệ huy động trong độ tuổi
9155.3
10602.6
115.8
4740.7
5597.6
118.1
4414.6
5005.0
113.4
1746.7
1899.0
108.7
7408.6
8703.6
117.5
II. Số người trong độ tuổi 11-14
Số h/s THCS
Tỉ lệ huy động trong độ tuổi
8186.9
5630.9
68.8
3842.6
3047.7
79.3
4054.7
2583.2
63.7
1412.0
1290.2
91.4
7366.8
4340.6
58.9
II. Số người trong độ tuổi 15-17
Số h/s THPT
Tỉ lệ huy động trong độ tuổi
5278.3
2198.4
41.6
2965.6
1192.7
44.2
2582.7
1005.7
38.9
1155.5
827.1
71.6
4122.8
1371.3
33.3
II. Số người trong độ tuổi 18-23
Số h/s ĐH-CĐ, THCH, CNKT
Tỉ lệ huy động trong độ tuổi
8352.0
1197.9
14.3
4054.4
…
4297.5
…
2123.6
…
6236.3
…
Nguồn: Tổng Điều tra Dân số và nhà ở 1/4/1999
Số học sinh tiểu học giai đoạn 1986 –2000 và dự báo 2010
Năm học Tổng sốTrong đó
Nữ Tuyển mới
1986 – 1987
1987 – 1988
1988 – 1989
1989 – 1990
1990 – 1991
1991 – 1992
1992 – 1993
1993 – 1994
1994 – 1995
1995 – 1996
1996 – 1997
1997 – 1998
1998 – 1999
2000
Dự kiến 2005
Dự kiến 2010
Nguồn: Trung tâm Thông tin quản lí giáo dục Bộ Giáo dục và Đào tạo
(1996), Vụ Tiểu học, Bộ Giáo dục và Đào tạo (tháng 4/ 1999).
Số học sinh trung học cơ sở giai đoạn 1986-2000 và dự báo 2010
Năm học Tổng sốTrong đó
Nữ Tuyển mới
1986 – 1987
1987 – 1988
1988 – 1989
1989 – 1990
1990 – 1991
1991 – 1992
1992 – 1993
1993 – 1994
1994 – 1995
1995 – 1996
1996 – 1997
1997 – 1998
1998 – 1999
2000
Dự kiến 2005
Dự kiến 2010
* Ghi chú: Số học sinh tăng dần phản ánh công cuộc phổ cập giáo dục
phổ thông cơ sở và đến năm 2010 dự kiến sẽ hoàn thành phổ cập phổ thông
cơ sở, số học sinh sẽ giảm đi, học sinh đi học phổ thông cơ sở đúng độ tuổi
(11 – 15 tuổi)
Nguồn: Theo Trung tâm Thông tin quản lí giáo dục Bộ Giáo dục và Đào
tạo (1996) và Vụ Trung học (tháng 4/1999).
Số học sinh trung học phổ thông giai đoạn 1986 –2000 và dự báo 2010
Năm học Tổng sốTrong đó
Nữ Tuyển mới
1986 – 1987
1987 – 1988
1988 – 1989
1989 – 1990
1990 – 1991
1991 – 1992
1992 – 1993
1993 – 1994
1994 – 1995
1995 – 1996
1996 – 1997
1997 – 1998
1998 – 1999
2000
Dự kiến 2005
Dự kiến 2010
Nguồn: Trung tâm Thông tin quản lí giáo dục Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường trung học chuyên nghiệp (phân theo khối đào tạo)
Năm học Tổng số Phân theo khối đào tạo
Công nghiệp
Nông lâm ngư
Kinh tế dịch vụ
Sư phạm
Y tế thể thao
Văn hóa nghệ
mẫu giáo
thuật
1986 – 1987
1987 – 1988
1988 – 1989
1989 – 1990
1990 – 1991
1991 – 1992
1992 – 1993
1993 – 1994
1994 – 1995
1995 – 1996
Trường dạy nghề (phân theo khối đào tạo)
Năm học Tổng số
Phân theo khối đào tạo
Công nghiệp
Nông lâm ngư
Xây dựng
Cơ giới Lái xe
Thương nghiệp dịch vụ
Các loại khác
1986 – 1987
1987 – 1988
1988 – 1989
1989 – 1990
1990 – 1991
1991 – 1992
1992 – 1993
1993 – 1994
1994 – 1995
1995 – 1996
Số học sinh trong các trường trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề
Năm học
Trường trung học chuyên nghiệp
Trường dạy nghề
Tổng số HS Tuyển mới Tổng số HS Tuyển mới
1986 – 1987
1987 – 1988
1988 – 1989
1989 – 1990
1990 – 1991
1991 – 1992
1992 – 1993
1993 – 1994
1994 – 1995
1995 – 1996
Dự kiến 2000
2005
2010
Số lượng sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng
Năm học Tổng số Tuyển mới
1986 – 1987
1987 – 1988
1988 – 1989
1989 – 1990
1990 – 1991
1991 – 1992
1992 – 1993
1993 – 1994
1994 – 1995
1995 – 1996
1998 – 1999
2000
Dự kiến 2005
Dự kiến 2010
Nguồn: Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo (tháng 8/2001)
Số sinh viên/ 100.000 dân ở một số nước
NướcSố sinh viên /
100.000 dânNước
Số sinh viên /
100.000 dân
Mỹ
Canada
Hàn Quốc
Niu Dilân
Pháp
Đức
Ôtrâylia
Italia
Cơ cấu (theo loại hình trường) sinh viên năm học 1999 - 2000
Trường đại họcSố sinh viên mới
%
1. Các trường sư phạm (đại học và cao đẳng)
2. Các trường đại học kỹ thuật
3. Các trường đại học kinh tế
4. Các trường đại học khoa cơ bản (khoa học tự nhiên
và khoa học xã hội)
5. Các trường đại học nông nghiệp (cả lâm nghiệp,
thủy sản)
6. Các trường đại học y, dược
7. Các trường đại học luật
8. Các trường đại học quốc phòng, công an
9. Các trường đại học thể dục, thể thao
10. Các trường đại học nghệ thuật
11. Các trường đại học báo chí, tuyên truyền khác
12. Các trường cao đẳng khác
13. Các trường đại học dân lập
Tổng cộng
Nguồn: Vụ Đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Báo cáo ngày 15/11/1999.
Phân bố dân số từ 15 tuổi trở lên theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Đơn vị: %
1989 1999
T.số Nam Nữ T.số Nam NữThành
thị
Nông
thôn
1. Không có chuyên môn kỹ thuật
2. Có chuyên môn kỹ thuật
- CN&NV kỹ thuật
- THCN
- CĐ&ĐH trở lên
Tổng số
Nguồn: Số liệu năm 1989, 1999 “Kết quả điều tra mẫu” BCĐ TĐTDS,
Hà Nội, năm 1990 và 2000.
Quan hệ cơ cấu chất lượng lao động & trình độ tiến bộ kỹ thuật (%)
Loại lao độngCác giai đoạn tiến bộ kỹ thuật
3 4 5 6 7 8 9 10 11
Lao động giản đơn
CNKT chưa lành nghề
CNKT lành nghề
Kỹ thuật viên
Kỹ sư
Trên đại học
Nguồn: Lao động kỹ thuật, Đề tài cấp Nhà nước 88.76.054, Bộ LĐ – TB
– XH
Cơ cấu Dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật năm 1999
Đơn vị: 1000 người
Trình độ Tổng số Nam NữThành
thịNông thôn
Tổng số
Tỉ lệ %
Chia ra:
I. Không có CMKT
% so với tổng số
II. Có chuyên môn kỹ thuật
% so với tổng số:
1. CNKT (có bằng, chứng chỉ)
% so với tổng số:
2. THCN
% so với tổng số:
3. Đại học – cao đẳng
% so với tổng số:
4. Trên đại học
% so với tổng số:
5. Không xác định
% so với tổng số:
Nguồn: “Kết quả điều tra mẫu” TĐTDS 1999
Bằng cấp cao nhất của những người 15 tuổi trở lên theo vùng
ChungChung
Chia theo vùng
1 2 3 4 5 6 7
100 16,90 20,44 12,95 10,87 3,08 13,67 22,09
Chưa bao giờ đến
trường
Chưa TN cấp I
Cấp I
Cấp II
Cấp III
CNKT sơ cấp
THC.Nghiệp
ĐHCĐ 2 năm
ĐH, CĐ
Thạc sĩ
Tiến sĩ, Phó tiến sĩ
Nguồn: Điều tra MSDC Việt Nam 1997-1998, NXB Thống kê 2000
PHỤ LỤC 2
Liên tịch
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Ban tổ chức– cán bộ chính phủ
--------------------
Số: 24/2002TTLT-BGD&ĐT –
BTCCBCP
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------------------------
Hà Nội, ngày 29 tháng 4 năm 2002
THÔNG TƯ LIÊN TỊCHHƯỚNG DẪN VIỆC XÉT TUYỂN DỤNG
CÔNG CHỨC GIÁO VIÊN PHỔ THÔNG, MẦM NON
Thực hiện Nghị định số 43/2000/NĐ – CP ngày 30 tháng 8 năm 2000
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Giáo dục; đồng thời triển khai Chỉ thị sẽ 18/2001/CT - TTg ngày 27 tháng 8
năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp cấp bách xây dựng
đội ngũ nhà giáo của hệ thống giáo dục quốc dân; Liên tịch Bộ Giáo dục và
Đào tạo - Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ hướng dẫn thực hiện việc xét
tuyển dụng công chức giáo viên phổ thông, mầm non như sau:
I. NGUYÊN TẮC, PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG
1. Nguyên tắc
Căn cứ vào điều kiện thực tế của từng vùng, từng miền trong địa
phương mình, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (sau đây gọi chung là tỉnh) quyết định việc tuyển dụng công chức giáo
viên phổ thông, mầm non theo hình thức xét tuyển và tổ chức triển khai theo
các nguyên tắc sau:
a. Việc tổ chức xét tuyển phải bảo đảm dân chủ, công khai, công bằng
xã hội, thực hiện chính sách ưu tiên theo quy định của Đảng và Nhà nước,
mọi công dân có đủ điều kiện quy định đều có cơ hội được xét tuyển vào
công chức giáo viên phổ thông, mầm non. Những người được tuyển dụng
phải đúng tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch và được bố trí đúng việc, đủ việc
theo quy định.
b. Tổ chức xét tuyển phải thông qua Hội đồng xét tuyển của tỉnh.
2. Phạm vi việc xét tuyển giáo viên phổ thông, mầm non được thực
hiện để tuyển dụng giáo viên giảng dạy tại các cơ sở giáo dục công lập bậc
phổ thông, mầm non.
3. Đối tượng
Là công dân Việt Nam; có nguyện vọng giảng dạy trong các cơ sở công
lập bậc phổ thông, mầm non; đã tốt nghiệp các khoa sư phạm, các trường sư
phạm trong nước và nước ngoài.
II. QUY TRÌNH XÉT TUYỂN DỤNG
1. Công tác chuẩn bị
a. Căn cứ vào nhu cầu phát triển giáo dục ở địa phương và chỉ tiêu
biên chế giáo viên, nguồn giáo viên trong từng năm học, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh quyết định về chủ trương, số lượng và thời gian tổ chức xét
tuyển công chức giáo viên phổ thông, mầm non.
b. Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì cùng ban Tổ chức Chính quyền tỉnh
xây dựng đề án xét tuyển trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định.
c. Thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chủng, nêu
rõ số lượng, tiêu chuẩn, điều kiện, thời gian xét tuyển để những người có đủ
điều kiện đăng ký.
2. Hội đồng xét tuyển
a. Thành phần Hội đồng xét tuyển
Hội đồng xét tuyển giáo viên phổ thông, mầm non do Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh ra quyết định thành lập. Hội đồng gồm 07 thành viên:
– Chủ tịch Hội đồng là lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh.
– Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng là Giám đốc Sở Giáo dục và Đào
tạo tỉnh.
– Phó Chủ tịch Hội đồng là Trưởng ban Tổ chức Chính quyền tỉnh.
– Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh phụ trách từng bậc học là
Ủy viên (Hội đồng xét tuyển giáo viên bậc học nào thì Phó Giám đốc Sở Giáo
dục và Đào tạo phụ trách bậc học đó là Ủy viên).
– Trưởng phòng Tổ chức Cán bộ của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh là
Ủy viên kiêm Thư ký.
– Trưởng phòng Công chức của Ban Tổ chức Chính quyền tỉnh là Ủy
viên.
–Trưởng phòng chuyên môn từng bậc học của Sở Giáo dục và Đào tạo
là Ủy viên (Hội đồng xét tuyển giáo viên bậc học nào thì Trưởng phòng
chuyên môn bậc học đó là Ủy viên).
b. Nhiệm vụ của Hội đồng xét tuyển
Hội đồng xét tuyển có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh
thực hiện công tác xét tuyển công chức giáo viên phổ thông, mầm non. Hội
đồng xét tuyển có nhiệm vụ:
– Thông báo cụ thể chỉ tiêu, tiêu chuẩn, điều kiện, đối tượng tuyển dụng
giáo viên cho người tốt nghiệp sư phạm (dưới đây gọi là người dự tuyển) biết.
– Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc tiếp nhận hồ sơ của những người
dự tuyển vào công chức giáo viên phổ thông, mầm non.
– Giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét tuyển dụng công chức
giáo viên phổ thông, mầm non bảo đảm đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục,
chế độ chính sách.
– Đề xuất và kiến nghị với Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh việc xem xét
tuyển dụng công chức giáo viên phổ thông, mầm non phù hợp với điều kiện
thực tế của tỉnh và những quy định chung của Nhà nước.
– Tổng hợp kết quả danh sách những người dự tuyển được Hội đồng
đề nghị xét tuyển để báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định tuyển
dụng theo quy định hiện hành của Nhà nước.
– Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định việc tuyển
dụng giáo viên phổ thông, mầm non theo hình thức thi tuyển thì Hội đồng xét
tuyển có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc tổ chức
thi về khả năng giảng dạy của người dự tuyển.
c. Nguyên tắc làm việc của Hội đồng xét tuyển
– Hội đồng xét tuyển giáo viên phổ thông, mầm non làm việc theo
nguyên tắc tập thể, quyết định theo đa số.
– Mọi quyết định của Hội đồng qua các kỳ họp do Chủ tịch Hội đồng
điều khiển.
– Hội đồng tự giải thử sau khi hoàn thành công tác xét tuyển giáo viên
phổ thông, mẩm non.
d. Giúp việc cho Hội đồng xét tuyển có Tổ thư ký do Ủy viên kiêm Thư
ký Hội đồng làm Tổ trưởng. Tổ thư ký có từ 03 đến 05 chuyên viên giúp việc
(trong đó có thành viên là chuyên viên của Ban Tổ chức Chính quyền tỉnh) do
Chủ tịch Hội đồng xét tuyển quyết định. Tổ thư ký có nhiệm vụ:
– Tiếp nhận hồ sơ của những người dự tuyển theo đúng điều kiện quy
định.
– Tổng hợp danh sách những người được xét tuyển không qua thi
tuyển công chức theo quy định tại điểm 2 Chỉ thị số 18/2001/CT - TTg ngày
27 tháng 8 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ.
– Tổng hợp danh sách những người dự tuyển công chức giáo viên phổ
thông, mầm non và sắp xếp thứ tự từ người có kết quả học tập trung bình cả
khoá từ cao xuống thấp, các đối tượng chính sách ưu tiên theo quy định của
Nhà nước.
– Báo cáo đầy đủ kết quả thẩm định, xem xét hồ sơ của những người
dự tuyển và những khó khăn, vướng mắc cụ thể khi thẩm định để Hội đồng
xét tuyển xem xét, giải quyết.
3. Quy trình xét tuyển
a. Thông báo công khai
Thông báo cụ thể về chỉ tiêu, tiêu chuẩn, điều kiện, đối tượng tuyển
dụng, thời gian, địa điểm… trên các phương tiện thông tin đại chúng và được
niêm yết tại Sở Giáo dục và Đào tạo, Ban Tổ chức Chính quyền tỉnh, các
khoa sư phạm, các trường sư phạm trước khi xét tuyển ít nhất một tháng.
b. Tiếp nhận hồ sơ
Tổ thư ký tiếp nhận hồ sơ dự tuyển trong vòng 15 ngày kể từ khi thông
báo công khai việc tuyển dụng công chức giáo viên phổ thông, mầm non trên
các phương tiện thông tin đại chúng; nơi tiếp nhận hồ sơ của người dự tuyển
phải thuận tiện. Hướng dẫn người dự tuyển hoàn tốt hồ sơ của mình sau đó
thông báo về tình trạng hồ sơ cho người dự tuyển biết.
c. Quy định về thủ tục hồ sơ
Hồ sơ của người dự tuyển công chức giáo viên phổ thông, mầm non
gồm có:
– Đơn xin xét tuyển dụng.
– Bản khai sơ yếu lí lịch.
– Học bạ, bằng tốt nghiệp theo yêu cầu phù hợp với tiêu chuẩn của
ngạch giáo viên từng cấp học, bậc học.
– Giấy khám sức khoẻ của cơ sở y tế có thẩm quyền cấp.
– 02 ảnh cỡ 4 x 6.
Hồ sơ được dựng trong phong bì cỡ 24 cm x 34 cm.
d. Quá trình xét tuyển
– Tổ thư ký tổng hợp, phân loại hồ sơ để báo cáo Hội đồng, nêu rõ yêu
cầu, đặc điểm nghề nghiệp, nguyện vọng, kết quả học tập và đối tượng ưu
tiên theo quy định của gà nước đối với từng người dự tuyển; danh sách
những người dự tuyển có nguyện vọng công tác ở địa bàn được xét tuyển
không qua thi tuyển công chức theo quy định tại điểm 2 Chỉ thị số 18/2001/CT
– TTg.
– Căn cứ vào chỉ tiêu tuyển chọn, người dự tuyển được lấy kết quả học
tập, rèn luyện trong trường sư phạm (bảng điểm) và chính sách ưu tiên theo
quy định của Nhà nước để dự tuyển.
– Người được xét tuyển là những người đủ tiêu chuẩn được xét tuyển
không phải qua thi tuyển công chức theo quy định tại điểm 2 Chỉ thị số
18/2001/CT – TTg ngày 27 tháng 8 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ,
người có kết quả học tập trung bình cả khoá theo thứ tự từ cao xuống thấp
của điểm xét tuyển (điểm xét tuyển bao gồm: điểm trung bình kết quả học tập
toàn khoá được tính theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo cộng với
chính sách ưu tiên theo quy đình của Nhà nước do Ủy ban nhân dân tỉnh quy
định) và theo chỉ tiêu biên chế được xét tuyển.
– Những người không trúng tuyển sẽ được thông báo công khai.
– Tổ thư ký tổng hợp các trường hợp được xét tuyển để Hội đồng báo
cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định.
đ. Tuyển dụng
Căn cứ vào quyết định xét tuyển của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
việc ra quyết định tuyển dụng, nhận việc, tập sự, bổ nhiệm được thực hiện
theo quy định hiện hành của Nhà nước.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Từ năm 2002 trở đi, Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn các khoa sư
phạm, trường sư phạm đưa nội dung, kiến thức quản lí hành chính Nhà
nước, quản lí ngành và những nội dung liên quan đến công chức ngành giáo
dục và đào tạo theo quy định tại điểm 1 Phần I Thông tư Liên tịch số
18/1999/TT – LT –BGD&ĐT – BTCCBCP ngày 05 tháng 5 năm 1999 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ thành một học phần
của chương trình đào tạo giáo viên. Học phần này có giá trị như các học phần
khác, là điều kiện để được các trường có khoa sư phạm, trường sư phạm làm
căn cứ xét tuyển và cấp bằng tốt nghiệp sư phạm.
2. Từ năm học 2002 – 2003 trở đi, căn cứ vào chỉ tiêu biên chế được
cơ quan có thẩm quyền thông báo, điều kiện cụ thể của từng năm học, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định việc tuyển dụng giáo viên phổ thông,
mầm non theo hình thức thi tuyển hoặc xét tuyển như sau:
a. Trước hết, thực hiện hình thức xét tuyển cho đối tượng và địa bàn
sau:
– Các trường phổ thông công lập còn thiếu biên chế được xét tuyển
không phải qua thi tuyển công chức đối với những người dự tuyển có bằng tốt
nghiệp đạt loại giỏi, xuất sắc của ngành đào tạo phù hợp với vị trí giảng dạy.
– Trường công lập ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó
khăn, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa còn thiếu giáo viên nhưng nguồn
tuyển không đủ được xét tuyển vào biên chế không thi tuyển công chức đối
với những người đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 61, Điều 67 của Luật Giáo
dục.
b. Sau khi thực hiện xét tuyển các đối tượng và địa bàn trên, nếu còn
chỉ bêu biên chế và có nguồn dự tuyển, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết
định việc tuyển dụng giáo viên phổ thông, mầm non theo hình thức thi tuyển
hoặc xét tuyển cho phù hợp.
Trong trường hợp tuyển dụng giáo viên phổ thông, mầm non theo hình
thức thi tuyển thì không thực hiện việc thi tại các nội dung, kiến thức quản lí
hành chính Nhà nước, quản lí ngành và những nội dung liên quan đến công
chức ngành giáo dục và đào tạo như quy định tại điểm 1 Phần III của Thông
tư này đối với những người dự tuyển đã hoàn thành học phần này trong các
khoa sư phạm, trường sư phạm, chỉ tổ chức thi về khả năng giảng dạy của
người dự tuyển và do Hội đồng xét tuyển quy định tại điểm 2 Phần II của
Thông tư này tổ chức việc coi thi, chấm thi.
3. Việc xét tuyển công chức giáo viên phổ thông, mầm non không đúng
quy định, không đảm bảo nguyên tắc chung sẽ bị huỷ bỏ quyết định tuyển
dụng. Những người cố ý vi phạm quy định trong quy trình xét tuyển dụng
hoặc có hành vi tiêu cực trong tiếp nhận hồ sơ, sửa chữa hồ sơ trong quá
trình xét tuyển dụng thì tuỳ theo mức độ vi phạm bị xử lí kỷ luật hành chính
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
4. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày ký. Những quy định trước đây
trái với Thông tư này đều bị bãi bỏ.
Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện nếu có vướng mắc, đề nghị
phản ảnh về Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ để
nghiên cứu, giải quyết.
K/T. Bộ trưởng,Trưởng ban
Ban Tổ chức– Cán bộ Chính phủ
Phó trưởng ban
đã ký
Nguyễn Trọng Điều
K/T. Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Thứ trưởng
đã ký
Nguyễn Văn Vọng
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TƯ Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa VIII: Văn kiện Đại hội Đảng IX (phần nói về giáo dục và đào
tạo)
2. Luật Giáo dục (Sự 11/1998/QH10 ngày 21/2/1998).
3. Nghị định số 43/2000/NĐ – CP ngày 30/8/2000 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục.
4. Nghị quyết số 40/2000/QH – 10 của Quốc hội khoá 10 và Chi thị số
14/2001/CT – TTg ngày 11/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới
chường trình giáo dục phổ thông. Nghị quyết số 41/2000/QH – 10 của Quốc
hội khoá 10 về phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Nghị định số 88/2001/NĐ –
CP ngày 21/11/2001 của Chỉnh phủ về phổ cập giáo dục THCS.
5. Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 (Ban hành theo Quyết
định số 201/2001/QĐ – TTg ngày 25/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ).
6. Pháp lệnh Cán bộ – Công chức (Số 01/1998/PL – UBTVQH 10 ngày
26/2/1998).
7. Nghị định số 95/1998.NĐ – CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về
tuyển dụng, sử dụng và quản lí công chức. Thông tư số 04/1999/TT –TCCP
ngày 20/3/1999 của Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ hướng dẫn thực hiện
Nghị định số95/1998/NĐ – CP.
8. Quyết định số 20/TTCP – VC ngày 8/6/1994 của Bộ trưởng. Trưởng
Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ về việc ban hành tiêu chuẩn chung các
ngạch công chức chuyên ngành giáo dục và đào tạo.
9. Quyết định số 243/CP ngày 28/6/1979 của Hội đồng Chính phủ về tổ
chức bộ máy, biên chế của các trường phổ thông. Thông tư số 48 – TT,
Thông tư 49 – TT ngày 29/–11/1979 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn
thi hành QĐ 243/CP.
10. Quyết định số 304/CP ngày 29/8/1979 của Hội đồng Chính phủ về
tổ chức bộ máy biên chế nhà trẻ thuộc khu vực Nhà nước và Thông tư số 03
– CB/UB ngày 7/3/1980 của Ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em TƯ hướng dẫn
thực hiện Quyết định số 304/CP.
11. Nghị định số 17/HĐBT ngày 30/1/1984 của Hội đồng Bộ trưởng về
tổ chức bộ máy, biên chế trường mẫu giáo.
12. Các Điều lệ trường học:
– Điều lệ Trường mầm non (Quyết định số 27/2000/QĐ – BGD&ĐT
ngày 20/7/2000 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Điều lệ Trường tiểu
học (Quyết định số 22/2000/QĐ – BGD&ĐT ngày 11/7/2000 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo).
– Điều lệ Trường trung học (Quyết định số 23/2000/QĐ - BGD&ĐT
ngày 11/7/2000 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
13. Các quy định về đánh giá, xếp loại học sinh mầm non, phổ thông:
– Thông tư số 29/GD – TT ngày 6/10/1990 hướng dẫn đánh giá xếp
loại học sinh THCS, THPT.
– Thông tư số 23/GD – TT ngày 7/3/1991 về việc bổ sung và điều chỉnh
một số quy định về đánh giá, xếp loại học sinh
– Thông tư số 15/GD – ĐT ngày 02/8/1994 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
hướng dẫn việc đánh giá, xếp loại học sinh tiểu học.
14. Các quy chế công nhận trường đạt chuẩn quốc gia:
– Quy chế công nhận trường trung học đạt chuẩn quốc gia giai đoạn
2001 đến 2010 (Ban hành theo Quyết định Bố 27/2001/QĐ – BGD&ĐT ngày
5/7/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
– Quy chế công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc gia giai đoạn
2002 – 2005 (Ban hành theo Quyết định số 45/2001/QĐ – BGD&ĐT ngày
26/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
– Quy chế công nhận trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia.
MỤC LỤCLời nói đầu
Chương IMỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC, QUẢN LÍ
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC
A. LÍ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. Lí luận chung về nhà nước
1. Nguồn gốc của nhà nước
2. Bản chất của nhà nước
3. Đặc trưng của nhà nước
4. Chức năng của nhà nước
5. Các kiểu nhà nước
6. Hình thức nhà nước và chế độ chính trị
7. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
II. Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
1. Nhà nước là trung tâm quyền lực trong hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa
2. Bản chất của nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam
4. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hoà Xã hội - Chủ nghĩa Việt
Nam
B. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. Khái niệm Quản lí hành chính nhà nước
1. Quản lí
2. Quản lí nhà nước
3. Hành chính nhà nước
4. Nền hành chính nhà nước
5. Quản lí hành chính Nhà nước
II. Những tính chất chủ yếu của nền hành chính nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị
2. Tính pháp luật
3. Tính thường xuyên, ổn định và thích nghi
4. Tính chuyên môn hoá nghiệp vụ cao
5. Tinh hệ thống thứ bậc chặt chẽ
6. Tính không vụ lợi
7. Tính nhân đạo
III. Nguyên tắc hoạt động của nền hành chính Việt Nam
IV. Nội dung và quy trình chủ yếu của quản lí hành chính nhà nước Việt Nam
1. Nội dung hoạt động chủ yếu của quản lí hành chính nhà nước
2. Qui trình của hoạt động quản lí nhà nước
V. Công cụ (phương tiện), hình thức và phương pháp - quản lí hành chính nhà nước
1. Các công cụ (phương tiện) của quản lí hành chính nhà nước
2. Hình thức quản lí hành chính nhà nước
3. Phương pháp quản lí hành chính nhà nước
VI. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí hành chính nhà nước
1. Khái niệm và một tương quan giữa hiệu lực và hiệu quả quản lí hành
chính nhà nước
2. Những định hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lí hành chính nhà nước
C. QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
I. Những vấn đề cơ bản của Quản lí nhà nước về Giáo dục và Đào tạo
1. Khái niệm
2. Tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí nhà nước về giáo dục và
đào tạo
3. Nội dung quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
II. Bộ máy quản lí Giáo dục và đào tạo
1. Khái niệm về cơ cấu tổ chức quản lí
2. Các hiểu cơ cấu tổ chức quản lí
3. Nguyên tắc xài dưng cơ cấu tổ chức quản lí
4. Phương pháp xây dựng tổ chức quản lí
III. Quá trình phát triển Hệ thống quản lí Nhà nước về Giáo dục và Đào tạo ở Việt Nam và xu hướng đổi mới
1. Quá trình phát triển
2. Hệ thông cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
IV. Phương hướng đổi mới quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
D. CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC VÀ PHÁP LỆNH CÁN BỘ CÔNG CHỨC
I. Công vụ và những nguyên tắc của công vụ
1. Khái niệm về công vụ
2. Nội dung của công vụ
3. Tính đặc thù của công vụ
4. Các nguyên tắc của công vụ
II. Hoạt động công vụ
1. Tổ chức công sở
2. Trách nhiệm của công. chức khi thi hành công vụ
3. Quan hệ trong công vụ công sở và giữa các công sở
III. Một số vấn đề về cán bộ, công chức và pháp lệnh cán bộ, công chức
1. Một số vấn đề về cán bộ, công chức
2. Pháp lệnh cán bộ công chức
3. Nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ, công chức
4. Những việc cán bộ, công chức không được làm
5. Việc tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ, công chức
E. CÔNG CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1. Giáo viên mầm non
2. Giáo viên tiểu học
3. Giáo viên trung học
Chương IIĐƯỜNG LỐI, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀNHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
I. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong giáo dục và đào tạo hiện nay
1. Tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay
2. Bối cảnh và thời cơ, thách thức đối với giáo dục nước ta trong vài
thập kỷ tới
II. Những quan điểm chỉ đạo về sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo
1. Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu
2. Xây dưng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc khoa học, hiện đại,
theo định hướng XHCN
3. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội,
tiến bộ khoa học công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh
4. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân
III. Mục tiêu phát triển giáo dục
IV. Các giải pháp phát triển giáo dục
1. Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục
2. Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục
3. Đổi mới quản lí giáo dục
4. Tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển
mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục
5. Tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục
6. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục
7. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục
Chương IIIĐIỀU LỆ, QUY CHẾ, QUY ĐỊNH
CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỐI VỚIGIÁO DỤC MẦM NON VÀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
A. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
I. Những quan điểm chỉ đạo
II. Những chủ trương chính sách và các biện pháp lớn
1. Cơ cấu của hệ thống giáo dục
2. Quy hoạch trường lớp
3. Thanh toán nạn mù chữ và phổ cập giáo dục
4. Hình thành bậc trung học mới
5. Mở rộng giáo dục nghề nghiệp
6. Mở rộng hợp lí quy mô đào tạo đại học
7. Từng bậc học, xác định lại mục tiêu, chương trình, kế hoạch, nội
dung và phương pháp
8. Nghiên cứu khoa học
9. Phát triển giáo dục vùng cao
10. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
11. Xây dựng đội ngũ giáo viên và quản lí giáo dục
12. Đổi mới quản lí giáo dục – đào tạo
III. Những quy định của chính phủ về tổ chức, quản lí giáo dục và đào tạo
1. Cơ cấu khung
2. Hệ thống trường lớp
3. Khung tuổi của các bậc giáo dục đào tạo
4. Các loại hình đũa t(w khác
5. Văn bằng
B. ĐIỀU LỆ NHÀ TRƯỜNG
I. Điều lệ trường mầm non
1. Những quy định chung
2. Tổ chức và quản lý trường mầm non
3. Hoạt động nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em
4. Giáo viên và trẻ em
5. Cơ sở vật chất và mối quan hệ xã hội
Quy chế công nhận trường mầm non đọt chuẩn quốc gia giai đoạn từ
năm 2002 đến năm 2005
II. Điều lệ trường tiểu học
1. Những quy định chung
2. Tổ chức và quản lý trường tiểu học
3. Thầy giáo và học trò
4. Cơ sở vật chất và quan hệ xã hội
Quy chế công nhận trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia
III. Điều lệ trường trung học
1. Nhũng quy định chung
2. Tổ chức và quản lý trường trung học
3. Hoạt động giáo dục trong trường trung học
4. Thầy giáo và học sinh
5. Cơ sở vật chất và quan hệ xã hội
6. Khen thưởng và kỉ luật
Tiêu chuẩn trường trung học đạt chuẩn quốc gia
C. QUẢN LÍ VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở ĐỊA PHƯƠNG
I. Những quy định chung
II. Tổ chức bộ mây quản lí giáo dục – đào tạo các cấp ở địa phương
1. Ở cấp tỉnh, thành trực thuộc trung ương (gọi chung là tỉnh) có Sở
Giáo dục – Đào tạo
2. Ở cấp huyện, quận, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là
huyện) có phòng Giáo dục – Đào tạo
3. Biên chế của Sở Giáo dục Đào tạo và Phòng Giáo dục Đào tạo thuộc
biên chế quản lí của Nhà nước
III. Tổ chức bộ máy, tiêu chuẩn biên chế của các trường phổ thông
1. Mục đích, ý nghĩa
2. Vấn đề tổ chức trà quản lí các trường phổ thông
3. Vấn đề bố trí và sử dụng giáo viên
4. Vấn đề bố trí và sử dụng cán bộ nhân viên hành chính và phục vụ
giảng dạy
D. QUY ĐỊNH CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VỚI CÁC BẬC HỌC PHỔ THÔNG
I. Quy chế giảng dạy, chủ nhiệm lớp - đánh giá học sinh
1. Quy định về giảng dạy
2. Quy định về công tác chủ nhiệm lớp
3. Quy chế về cho điểm, đánh giá xếp loại học sinh
E. QUY CHẾ VỀ THANH TRA, KIỂM TRA CÁC BẬC HỌC MẦM NON, TIỂU HỌC, TRUNG HỌC
I. Thanh tra một nhà trường
1. Mục đích, yêu cầu
2. Nội dụng thanh tra
3. Tiến trình hanh tra
4. Đánh giá và xếp loại
II. Thanh tra hoạt động của một giáo viên các cấp (từ mầm non trở lên đến
trung học)
F. QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC, TIÊU CHUẨN DANH HIỆU THI ĐUA KHEN THƯỞNG ĐỐI VỚI CÁ NHÂN/ TẬP THỂ HỌC SINH, SINH VIÊN
I. Những quy định chung
1. Đối tượng
2. Hình thức khen thưởng
II. Danh hiệu thi đua
1. Danh hiệu thi đua cá nhân
2. Danh hiệu thi đua tập thể
III. Mục tiêu danh hiệu thi đua
1. Tiêu chuẩn danh hiệu thi đua cá nhân
2. Tiêu chuẩn danh hiệu thi đua tập thể
III. Thẩm quyền và quy trình xét khen thưởng danh hiệu thi đua
1. Thẩm quyền và quy trình xét khen thưởng danh hiệu thi đua cá nhân
2. Thẩm quyền và quy trình xét khen thưởng danh hiệu thi đua tập thể
IV. Khen thưởng, giấy khen, bằng khen
1. Hình thức và thẩm quyền khen thưởng giấy khen, bằng khen đối với
tập thể, cá nhân học sinh – sinh viên được áp dụng như sau
2. Tiêu chuẩn bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với
mọi tập thể, cá nhân học sinh, sinh viên
3. Quy trình khen thưởng bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo
Chương IVLUẬT GIÁO DỤC VÀ LUẬT BẢO VỆCHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM
I. Luật giáo dục
1. Luật Giáo dục là gì
2. Nội dung cơ bản của Luật giáo dục
II. Luật phổ cập giáo dục tiểu học và luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em
1. Luật phổ cập giáo dục tiểu học
2. Nội dung cụ thể bao gồm
III. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
1. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
2. Nội dung cụ thể của Luật bao gồm
Chương VTHỰC TIỄN GIÁO DỤC VIỆT NAM
I. Thành tựu phát triển giáo dục chung và yêu cầu phát triển chất lượng nguồn
nhân lực
1. Những thành tựu đại được trong đầu tư phát triển giáo dục của 10
năm đổi mới
2. Những hạn chế của giáo dục – đào tạo so với nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
II. Thực tiễn giáo dục vùng dân tộc, miền núi
1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo
dục hùng dân tộc, miền núi
2. Tình hình phát triển giáo dục – đào tạo ở vùng dân tộc miền núi
3. Giải pháp phát triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2.
Thông tư liên tịch hướng dẫn việc xét tuyển dụng
công chức giáo viên phổ thông, mầm non
I. Nguyên tắc, phạm vi, đối tượng
II. Quy trình xét tuyển dụng
1. Công tác chuẩn bị
2. Hội đồng xét tuyển
3. Quy trình xét tuyển
III. Tổ chức thực hiện
TÀI LIỆU THAM KHẢO
---//---
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
VIỆN NGHIÊN CỨU SƯ PHẠM
PGS.TS. Phạm Viết Vượng (Chủ biên)
TS. Ngô Thành Can – Trần Quang Cấn – TS. Đỗ Ngọc Đạt – TS. Đặng Thị
Thanh Huyền – TS. Nguyễn Văn Long – TS. Nguyễn Đức Thìn
QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÍ NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Giáo trình dành cho sinh viên các trường sư phạm
Biên soạn theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
Quyết định số 33/202/QĐ/BGD&DT
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM