Đã loại bỏ được virus hiv trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được...

32
Khối u có tuổi một thế kỷ cung cấp manh mối hiếm thấy về ung thư Cơ bắp của bạn có thể “cảm nhận” được đường Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên chuột SỐ 28 - THÁNG 06/2017

Upload: others

Post on 31-Aug-2019

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

SỐ 14 - THÁNG 03/2016

Maket mới

Khối u có tuổi một thế kỷ cung cấp manh mối hiếm thấy về ung thư

Cơ bắp của bạn có thể “cảm nhận” được đường

Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên chuột

SỐ 28 - THÁNG 06/2017

Page 2: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

Trong tay Bạn là Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 28. Để phục vụ Hội viên và Bạn đọc được tốt hơn, Bản tin rất mong muốn Hội viên và Bạn đọc cho ý kiến và gửi tin, bài về hoạt động thử nghiệm.Mọi ý tưởng, ý kiến đóng góp và sự hỗ trợ của Tổ chức, Doanh nghiệp và Cá nhân đều được trân trọng ghi nhận và nghiên cứu áp dụng để nội dung, hình thức của Bản tin được liên tục cải tiến.Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự quan tâm, tin tưởng của quý vị. Rất mong Bản tin này sẽ trở thành người bạn thân thiết, có ý nghĩa đối với Hội viên và Bạn đọc.

Bản tin Thử nghiệm ngày nay

3(3) Nâng cao hiệu quả của hoạt động thử nghiệm(5) Không sử dụng kháng sinh trong thức ăn thủy sản(7) Lấy mẫu giám sát chất lượng thực phẩm: Nhiều khó khăn, bất cập(10) Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên chuột

11(11) Cơ bắp của bạn có thể “cảm nhận” được đường(12) Yếu tố thúc đẩy sự khác biệt trong thực tiễn thử nghiệm an toàn thực phẩm(15) Khối u có tuổi một thế kỷ cung cấp manh mối hiếm thấy về ung thư(18) Lên kế hoạch cho kho dữ liệu sinh học thế hệ kế tiếp

21(21) Công ty Thí nghiệm Điện miền Nam:Phát huy thế mạnh trong chế tạo, thí nghiệm và hiệu chỉnh thiết bị điện

23(23) Tiến sĩ David Hage thảo luận về xu hướng cột HPLC(26) Quản lý tiếng ồn trong phòng thử nghiệm

(Trang 29+30+Bìa 3): Chương trình Thử nghiệm thành thạo - VinaLAB PT - Tổng hợp (Tháng 6)

Page 3: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

3

Nâng cao hiệu quả của hoạt động thử nghiệm

Khi các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam ký kết có hiệu lực, việc kiểm soát hàng hóa thông qua hàng rào kỹ thuật cần được chú trọng hơn nữa. Một trong những công cụ để vận hành hàng rào kỹ thuật hiệu quả là hoạt động thử nghiệm.

Nhu cầu thử nghiệm, kiểm định chất lượng hàng hóa ngày càng lớn được đánh

giá là điều kiện thuận lợi để hoạt động thử nghiệm Việt Nam phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, để "cởi trói" cho thị trường hoạt động thử nghiệm vốn còn non trẻ, cần thêm những giải pháp huy động nguồn vốn từ xã hội hóa.

Phòng thử nghiệm nhiều nhưng chưa đủ mạnh

Theo ông Nguyễn Xuân Dương, Ủy viên Ban chấp hành Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam (VinaLAB) thuộc Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, số lượng phòng thử nghiệm trong nước hiện nay rất nhiều nhưng lại phân tán nên nhiều nơi vẫn hoạt động cầm chừng. Ngoài ra, sự liên kết giữa các phòng thử nghiệm trong nước với nhau cũng như với quốc tế chưa chặt chẽ. Điều này dẫn đến thiết bị có thể trùng nhau, không khai thác hết công suất, tính năng của các thiết bị đã đầu tư, ảnh hưởng đến việc thừa nhận

kết quả trong hoạt động kiểm tra hàng hóa xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước.

Với vấn đề nhân lực, tại Việt Nam chưa có nhiều thử nghiệm viên chuyên nghiệp. Theo như các chuyên gia trong ngành, kết quả một phép thử phụ thuộc nhiều vào tay nghề của thử nghiệm viên. Thực hiện một phép thử phải bảo đảm nghiêm ngặt đúng quy trình đã đề ra, tuy nhiên, nếu một thử nghiệm viên tay nghề kém, không được đào tạo thường xuyên sẽ dễ mắc lỗi trong quá trình thực hiện. Hơn nữa, để đào tạo ra một thử nghiệm viên chuyên nghiệp sẽ mất một khoảng thời gian từ 2 đến 3 năm, tuy nhiên, do mức lương không cao nên rất khó để giữ chân họ gắn bó lâu dài với công việc.

Trong thời gian qua, ngoài các cơ sở thí nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc các thành phần kinh tế khác cũng được hình thành như phòng thử nghiệm tư nhân, phòng thử nghiệm có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Thư ký

Page 4: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

4

Hội VinaLAB, mặt hạn chế của phòng thử nghiệm tư nhân không hẳn nằm ở trang thiết bị máy móc mà là chưa được cạnh tranh công bằng với các phòng thử nghiệm công lập. Ông Dũng đưa ra dẫn chứng, Luật An toàn thực phẩm có quy định, phòng thử nghiệm kiểm chứng là phòng thử nghiệm Nhà nước chứ không phải là phòng thử nghiệm tư nhân.

Xã hội hóa hoạt động thử nghiệmCác phòng thử nghiệm công lập được Nhà

nước đầu tư trang thiết bị hiện đại, nhưng thường sau 3 đến 5 năm sẽ cần mua sắm thêm máy móc mới do sự phát triển của công nghệ. Nếu không được đầu tư thêm, sẽ không bắt kịp nhu cầu của xã hội, trong khi chi phí thiết bị của các phòng thử nghiệm lại rất tốn kém. Bên cạnh đó, hoạt động thử nghiệm trong xu thế hội nhập phải đáp ứng được yêu cầu khắt khe của quy định tại mỗi quốc gia, để duy trì các tiêu chuẩn này cũng đòi hỏi một khoản phí không hề nhỏ. Để giải quyết bài toán tìm nguồn vốn cho các cơ sở thử nghiệm, việc đẩy mạnh xã hội hóa là cần thiết. Thạc sĩ Nguyễn Thị Hoa, Phó phòng Thí nghiệm công nghệ sinh học thú y (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) cho rằng, xã hội hóa thử nghiệm sẽ đem lại lợi ích nhiều hơn cho chính các phòng thử nghiệm; bởi vừa thêm nguồn thu lại tăng tính cạnh tranh cho hoạt động thử nghiệm nói chung.

Theo ý kiến của ông Nguyễn Xuân Dương, muốn xã hội hóa thành công, về phía các cơ quan quản lý Nhà nước phải bảo đảm sân chơi công bằng cho các phòng thử nghiệm. Việc lựa chọn các phòng thử nghiệm phục vụ hoạt động quản lý Nhà nước phải dựa trên cơ sở năng lực thực tế chứ không dựa trên hình thức sở hữu. Cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần quy hoạch số lượng phòng thử nghiệm tham gia vào mỗi lĩnh vực quản lý phù hợp nhằm tạo động lực cạnh tranh, môi trường cho phát triển. Hơn nữa, cần quan tâm hơn đến chế độ đãi ngộ cho thử nghiệm viên, nếu không có chế độ đãi ngộ tốt sẽ rất khó để có những thử nghiệm viên

chuyên nghiệp, có tâm, gắn bó lâu dài với nghề.Trong khi đó, điều quan trọng cần thay đổi

đối với các phòng thử nghiệm là phải chuyển từ tư duy phục vụ sang dịch vụ. Thay vì để Nhà nước bao cấp hết, các phòng thử nghiệm phải lấy khách hàng là trọng tâm, đem lại sự hài lòng cho khách hàng, qua đó có nguồn thu để trang trải. Sự liên kết, trao đổi thông tin chặt chẽ giữa các phòng thử nghiệm đáp ứng nhu cầu hội nhập là không thể thiếu; bởi như vậy, các phòng thử nghiệm có thể tối ưu hóa nguồn lực và giảm đầu tư gây lãng phí. Các phòng thử nghiệm cũng cần hoàn thiện quy trình giám sát, cải tiến liên tục các hệ thống quản lý chất lượng đúng với chuẩn mực quốc tế.

Theo Báo điện tử Quân đội Nhân dân

Page 5: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY5

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Không sử dụng kháng sinh trong thức ăn thủy sản

Là một trong những nội dung quy định tại Nghị định số 39/2017/NĐ-CP về quản lý thức ăn chăn nuôi (TACN), thủy sản thương mại vừa được Chính phủ ban hành.

Nội dung quản lý Nhà nước về TACN, thủy sản gồm

định hướng phát triển sản xuất và sử dụng TACN, thủy sản; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, quy trình sản xuất, tiêu chuẩn, quy chuẩn, cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển TACN, thủy

sản; quản lý khảo nghiệm và công nhận TACN, thủy sản mới; thu thập và quản lý các thông tin, tư liệu về TACN, thủy sản; tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào các hoạt động trong lĩnh vực TACN, thủy sản; đầu tư, phát triển hệ thống khảo nghiệm, kiểm nghiệm đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý Nhà nước về chất lượng TACN, thủy sản…

Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế, xã hội đầu tư nghiên cứu, đào tạo, khuyến công, khuyến nông và chuyển giao tiến bộ khoa

học kỹ thuật về dinh dưỡng, chế biến TACN, thủy sản.

Ưu tiên đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển, sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên liệu TACN, thủy sản trong nước và các chính sách khác, trong đó có việc dành thêm quỹ đất và tín dụng ưu đãi cho việc trồng, thu hoạch, bảo quản, sản xuất, gia công, chế biến nguồn nguyên liệu TACN, thủy sản trong nước.

Không sử dụng kháng sinh trong thức ăn thủy sản; kháng sinh sử dụng trong

Page 6: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

6

TACN nhằm mục đích kích thích sinh trưởng cho gia súc, gia cầm phải có trong danh mục kháng sinh được phép sử dụng trong TACN; kháng sinh sử dụng trong TACN nhằm mục đích trị bệnh cho gia súc, gia cầm và phòng bệnh cho gia súc, gia cầm non phải là thuốc thú y được phép lưu hành tại Việt Nam và theo đơn của bác sỹ thú y có chứng chỉ hành nghề phòng, trị bệnh cho động vật theo quy định của pháp luật về thú y.

Sản xuất và sử dụng TACN chứa kháng sinh phải phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, mục đích sử dụng, thời gian sử dụng đảm bảo không gây tồn dư kháng sinh vượt mức giới hạn cho phép trong sản phẩm chăn nuôi và không gây ảnh hưởng đến kháng sinh trong điều trị bệnh của con người và vật nuôi. Chỉ được phép sử dụng tối đa 2 loại kháng sinh trong một sản phẩm TACN…

Nghị định cũng quy định về điều kiện và nội dung khảo nghiệm TACN, thủy sản; trình tự, thủ tục đăng ký khảo nghiệm và công nhận TACN, thủy sản mới; nhập khẩu TACN, thủy sản chưa được phép lưu hành tại Việt Nam và xuất khẩu TACN, thủy sản.

Về kiểm tra chất lượng TACN, thủy sản, Nghị định quy định kiểm tra việc thực hiện các quy định về điều kiện đối với cơ sở sản xuất, gia công, mua bán TACN, thủy sản; lấy mẫu TACN, thủy sản

để kiểm tra sự phù hợp của sản phẩm với tiêu chuẩn công bố áp dụng và quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Trong đó tập trung đánh giá các chỉ tiêu an toàn và những chỉ tiêu chất lượng chính của sản phẩm.

Việc kiểm tra thường xuyên của các cơ quan Nhà nước phải được thông báo trước bằng văn bản, mỗi năm chỉ được tiến hành kiểm tra chất lượng không quá 1 lần, trừ việc kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm. Việc kiểm tra đột xuất chất lượng TACN, thủy sản tại cơ sở sản xuất, gia công, cơ sở mua bán, cơ sở sử dụng TACN, thủy sản chỉ được tiến hành khi có quyết định của thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền, không cần thông báo trước.Việc đăng ký kiểm tra, xác nhận chất lượng TACN, thủy sản nhập khẩu, bị triệu hồi hoặc trả về là yêu cầu bắt buộc. Riêng đối với TACN, thủy sản xuất khẩu thực hiện theo yêu cầu của nước nhập khẩu.

Về lấy mẫu và thử nghiệm TACN, thủy sản, được thực hiện theo quy định tại các tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) hoặc các quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT). Người lấy mẫu TACN, thủy sản phải được Bộ NN&PTNT đào tạo và cấp chứng chỉ lấy mẫu TACN, thủy sản.

Việc thử nghiệm chất lượng TACN, thủy sản phục vụ công tác quản lý Nhà nước về

TACN, thủy sản chỉ được thừa nhận theo các phương pháp thử tại các phòng thử nghiệm do Bộ NN&PTNT chỉ định. Trường hợp các phương pháp thử chưa được chỉ định hoặc chưa được thống nhất, Bộ NN&PTNT quyết định phương pháp thử được áp dụng.

Bộ NN&PTNT ban hành quy trình chỉ định phòng thử nghiệm lĩnh vực TACN, thủy sản; hướng dẫn công khai bằng văn bản và đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ NN&PTNT.

Khi có quyết định của cơ quan thẩm quyền về việc buộc thu hồi sản phẩm TACN, thủy sản, người kinh doanh sản phẩm TACN, thủy sản bị buộc thu hồi phải tiến hành thông báo ngay cho các đối tượng khách hàng dừng việc kinh doanh, sử dụng sản phẩm TACN, thủy sản buộc thu hồi và tiến hành thu hồi toàn bộ về nơi xử lý theo yêu cầu của cơ quan quản lý. Số lượng TACN, thủy sản không thể thu hồi được phải có lí do, được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền đồng ý và người kinh doanh phải có trách nhiệm khắc phục hậu quả.

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 20/5/2017.

Báo Thanh tra

Page 7: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

7

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Lấy mẫu giám sát chất lượng thực phẩm:

Nhiều khó khăn, bất cập

Page 8: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

8

Không nên áp dụng đại tràĐể xác định chất cấm trong các cơ

sở giết mổ vật nuôi, trang trại chăn nuôi, thời gian qua, Sở NN&PTNT Hà Nội đã sử dụng hàng trăm bộ thử kit test nhanh chất Clenbuterol và Salbutamol (chất tăng trọng trong chăn nuôi). Sau các đợt kiểm tra nhanh tại cơ sở giết mổ vật nuôi ở Thanh Trì, Thanh Oai, Đông Anh, Chương Mỹ…, các đơn vị của Sở đã phát hiện hàng chục mẫu dương tính với chất cấm, nhưng khi đưa số mẫu này đi xét nghiệm chuyên sâu tại phòng thí nghiệm lại cho kết quả âm tính.

Lý giải về tình trạng này, Trưởng phòng Kiểm dịch (Chi cục Thú y Hà Nội) Nguyễn Hữu Thảo cho biết: Thực tế test nhanh

Để xác định chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm nông, lâm, thủy sản thì việc lấy mẫu có vai trò quan trọng. Thời gian qua, Bộ NN&PTNT đã hỗ trợ các tỉnh, thành phố bộ thử (test) nhanh để bước đầu xác định chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, quá trình sử dụng test còn nhiều bất cập, kết quả thử nhanh đôi khi cho dương tính “ảo”, gây khó khăn cho việc xử lý vi phạm.

Việc sử dụng bộ test nhanh còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho xử lý vi phạm

Page 9: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

9

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

phát hiện chất cấm ở lò mổ cho thấy một số mẫu cho kết quả dương tính “ảo”. Tuy nhiên, đoàn kiểm tra vẫn sử dụng để làm hồ sơ ban đầu vì nếu lấy mẫu gửi phòng thí nghiệm phải mất từ 1 đến 2 tuần mới có kết quả, gây khó khăn cho công tác xử phạt.

“Hiện bộ thử kit test nhanh đang sử dụng có giá 400-500 nghìn đồng/mẫu. Trong khi để xét nghiệm chất cấm trong chăn nuôi hoặc thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép ở phòng thí nghiệm phải mất 1,5-2 triệu đồng/mẫu. Vì vậy, sử dụng test nhanh sẽ hỗ trợ các đoàn kiểm tra khi lấy mẫu giám sát chất lượng các mặt hàng nông, lâm, thủy sản ban đầu để có cơ sở xử phạt, nhưng cũng không nên áp dụng đại trà vì tỷ lệ kết quả "ảo" còn quá cao” - ông Nguyễn Hữu Thảo nhìn nhận.

Bên cạnh đó, các quận, huyện, thị xã cũng gặp khó khăn cả về thiết bị lẫn trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ trong kiểm tra chất lượng thực phẩm. Ông Nguyễn Văn Đức, Phó Chủ tịch UBND thị trấn Chúc Sơn (Chương Mỹ) cho biết, Đoàn kiểm tra liên ngành của thị trấn cũng áp dụng biện pháp lấy mẫu giám sát chất lượng ATTP, nhưng hiệu quả còn hạn chế bởi cán bộ chuyên môn yếu, lúng túng khi thao tác bộ thử...

Đồng quan điểm, bà Bùi Thanh Hương, Giám đốc Trung tâm Phân tích và Chứng nhận chất lượng sản phẩm nông nghiệp Hà Nội cho biết, đây là một khó khăn đối với cơ sở khi thực hiện giám sát chất lượng ATTP. Thêm một vấn đề bất cập là các bộ kit test nhanh mới chỉ kiểm tra được một số chất thông dụng, còn đối với chất vàng ô Auramine (một loại thuốc nhuộm thực phẩm có độc tính cao bị cấm) trong chăn nuôi vẫn phải xét nghiệm chuyên sâu tại phòng thí nghiệm. Xây dựng bộ tiêu chí chuẩn chất lượng an toàn thực phẩm

Bộ NN&PTNT khuyến cáo, để giám sát chất lượng ATTP nông, lâm, thủy sản đạt kết quả cao, khi kiểm tra bằng phương pháp test nhanh, nếu phát hiện dương tính cần gửi ngay

mẫu tới phòng thí nghiệm xét nghiệm chuyên sâu và tạm giữ sản phẩm chờ kết quả chính xác để có hướng xử phạt theo quy định của pháp luật. Về vấn đề này, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng nông, lâm, thủy sản (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Như Tiệp cho biết, việc lấy mẫu giám sát các chỉ tiêu ATTP được coi là giải pháp quan trọng để đánh giá chất lượng các mặt hàng nông, lâm, thủy sản trên thị trường.

Tuy nhiên, nếu sản phẩm dương tính, đoàn kiểm tra liên ngành ở các tỉnh, thành phố không nên vội vàng thông báo kết quả, vì điều này sẽ ảnh hưởng tới người sản xuất và tiêu dùng. Mặt khác, các phòng xét nghiệm chuyên sâu cần rút ngắn thời gian trả kết quả, tạo thuận lợi cho các đoàn kiểm tra trong quá trình xử lý vi phạm; các ngành chức năng hỗ trợ về kinh phí, thường xuyên mở các lớp tập huấn cho cán bộ cơ sở để nâng cao trình độ chuyên môn về lấy mẫu, phân tích chỉ tiêu ATTP.

Bộ NN&PTNT đang chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng, ban hành bộ tiêu chí chuẩn chất lượng ATTP để các tổ chức, cá nhân căn cứ tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn được công bố và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật nhằm bảo đảm tính chủ động, giảm thiểu chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước.

Thực tế cho thấy, các biện pháp kiểm tra là rất cần thiết để kiểm soát chất lượng thực phẩm, tuy nhiên giải pháp này mới giải quyết được "phần ngọn". Về lâu dài, các ngành chức năng cần kiểm soát từ "phần gốc" tại đồng ruộng, trang trại chăn nuôi, cơ sở chế biến... để vừa hình thành ý thức trách nhiệm trong từng khâu sản xuất, tạo uy tín với người tiêu dùng, vừa giảm chi phí cho những yếu tố phụ trợ trong quá trình lưu thông.

Theo www.hanoimoi.com.vn

Page 10: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

10

Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên chuột

Theo đài Russia Today (Nga), đây là nghiên cứu đầu tiên đạt được thành công trong

vấn đề này khi tiến hành trên mẫu chuột nhiễm virus HIV.

Thành tựu đột phá của nghiên cứu mới này do các nhà khoa học của đại học Temple và Đại học Pittsburgh thực hiện, trên cơ sở phát triển một nghiên cứu trước đó cũng của chính nhóm chuyên gia này năm 2016.

Trong nghiên cứu năm 2016, các nhà khoa học đã có thể loại bỏ virus HIV khỏi các tế bào ở điều kiện thí nghiệm bằng cách sử dụng công cụ chỉnh sửa gene có tên Clustered Regularly Interspaced Short Palindromic Repeats (CRISPR - có nghĩa “trình tự sắp xếp kiểu lặp đi lặp lại xen khoảng trống”).

Phó Giáo sư Wenhui Hu thuộc Đại học Temple, chủ trì nghiên cứu cho biết: "Nghiên cứu mới của chúng tôi toàn diện hơn. Chúng tôi khẳng định kết quả từ công trình nghiên cứu trước và đã nâng cao tính hiệu quả của phương pháp chỉnh sửa gene.

"Chúng tôi cũng chứng minh được rằng phương pháp này đã có hiệu quả ở hai mẫu chuột khác, một con đại diện cho trường hợp

nhiễm virus HIV rất nghiêm trọng ở tế bào của chuột và con kia đại diện cho các trường hợp nhiễm virus kinh niên, ngấm ngầm trong tế bào người".

Công cụ chỉnh sửa gene CRISPR được mô phỏng như “những chiếc kéo phân tử”, giúp loại bỏ các loại virus HIV. Sau khi phát hiện thấy virus HIV, một loại enzyme đặc biệt sẽ giúp loại bỏ virus này khỏi các tế bào.

Nghiên cứu tiến hành thử nghiệm với ba mẫu chuột, trong đó có một thử nghiệm thành công với mẫu chuột chứa tế bào miễn dịch bị nhiễm virus HIV của người, nơi virus thường xuyên ẩn náu và rất khó phát hiện.

Các kết quả nghiên cứu đột phá này vừa được công bố trên tạp chí Molecular Therapy. Phó Giáo sư Hu cho biết: "Giai đoạn tới sẽ là lặp lại nghiên cứu này ở các loài động vật linh trưởng, một mẫu vật nghiên cứu thích hợp hơn. Bước cuối cùng của chúng tôi là tiến hành một thử nghiệm lâm sàng trên những người nhiễm HIV".

Theo Russia Today

Các nhà khoa học Mỹ đã đạt được thành tựu nghiên cứu đột phá khi loại bỏ được virus HIV trong các tế bào miễn dịch của người được cấy lên chuột thí nghiệm.

Page 11: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY11

Cơ bắp của bạn có thể “cảm nhận” được đường

Rõ ràng là chồi vị giác trên lưỡi có thể phát hiện ra đường. Và sau bữa ăn, các tế bào beta trong tuyến tụy cảm nhận được lượng đường tăng lên trong máu và giải phóng insulin, giúp đường đi vào tế bào, để cơ thể có thể sử dụng làm năng lượng.

Hiện các nhà nghiên cứu tại Học viện Khoa học Đời sống (LSI), Đại học Michigan đã

khám phá ra một cơ chế cảm biến glucose bất thường trong cơ xương, góp phần điều hòa lượng đường trong máu.

Tác giả nghiên cứu Jiandie Lin, một giảng viên của LSI, nơi đặt phòng thử nghiệm của ông, cho biết: "Chúng tôi phát hiện ra rằng các tế bào xương có cơ chế trực tiếp nhận biết glucose –theo một nghĩa nào đó, tức là các cơ bắp cũng có thể cảm nhận được đường”.

Khả năng này của cơ bắp để nhận biết đường huyết là một quá trình riêng biệt và song song tăng cường đáp ứng điều hướng insulin. Cùng với nhau, chúng hoạt động như một hệ thống điện để duy trì nồng độ glucose ổn định trong cơ thể, đặc biệt là sau bữa ăn, theo kết quả nghiên cứu được công bố vào ngày 4 tháng 5 trong tạp chí Molecular Cell.

Zhuoxian Meng, tác giả chính của nghiên cứu và là một nhà nghiên cứu tại PTN của Lin, cho biết, việc tiếp tục phát triển sự hiểu biết sâu sắc về cách cơ thể tự điều tiết lượng đường trong máu ở mức độ phân tử có thể làm sáng tỏ về bệnh béo phì và đái tháo đường, cũng như chỉ ra các mục tiêu điều trị mới.

Các nhà nghiên cứu đã có thể kiểm tra những đóng góp của con đường nhận biết glucose trong cơ xương bằng cách làm êm một gene chính - BAF60C - trong nuôi cấy tế bào và trong chuột thí nghiệm.

Lin cho biết: “Khi chúng tôi làm điều đó,

những con chuột thiếu BAF60C trông hoàn toàn bình thường, nhưng sau khi chúng tôi cho chúng ăn chế độ ăn nhiều chất béo, chúng đã gặp khó khăn khi tiêu thụ lượng glucose bổ sung sau bữa ăn. Cơ chế insulin phổ biến không đủ để tự chuyển hóa lượng đường”.

Đường trong máu tăng sau bữa ăn là một triệu chứng chính của bệnh đái tháo đường tuýp 2. Đường huyết cao, hay còn gọi là tăng đường huyết, có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng về sức khoẻ.

Lin, cũng là một giáo sư về tế bào và sinh học phát triển tại Trường Y khoa UM nói: "Chúng tôi phát hiện ra rằng con đường phân tử hoạt động bởi glucose trong tế bào cơ, ít nhất là ở các bước ban đầu, rất giống với những gì xảy ra trong các tế bào beta ở tuyến tụy. Điều này rất thú vị vì có một loại thuốc tiểu đường rất quan trọng gọi là sulfonylureas hoạt động bằng cách đóng một kênh kali và làm cho các tế bào beta tiết ra nhiều insulin hơn”.

“Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy con đường cảm ứng glucose trong các tế bào cơ cũng có thể đóng vai trò trong việc giảm toàn bộ glucose trong máu của loại thuốc này, và mức độ đóng góp của đường đi sẽ cần được nghiên cứu sâu hơn”.

Ngoài ra, Lin cho biết, có hai bước trong con đường cảm ứng glucose có thể phục vụ làm mục tiêu tiềm năng để điều chế với các hợp chất điều trị.

"Thật ngạc nhiên là những thay đổi tinh tế trong glucose có thể được phát hiện trên khắp cơ thể", Lin nói. "Các tế bào beta phản ứng với chúng, các tế bào thần kinh phản ứng với chúng, và bây giờ chúng ta biết rằng các tế bào cơ cũng phản ứng trực tiếp".

Theo Science Daily

Page 12: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

12

Yếu tố thúc đẩy sự khác biệt trong thực tiễn thử nghiệm

an toàn thực phẩmThị trường không đồng nhất trên toàn thế giới, và có những sự khác biệt rất lớn trong thực hành thử nghiệm an toàn thực phẩm ở các khu vực khác nhau. Yếu tố thúc đẩy những sự khác biệt này bao gồm công nghệ, chi phí và sự sẵn có về nhân công, cấu trúc ngành kinh doanh chế biến thực phẩm ở từng khu vực, và trong một số trường hợp, là sự không tự nguyện thay đổi.

Trên toàn thế giới, khu vực nào thử nghiệm nhiều nhất?

Tổng số thử nghiệm thực phẩm với tỉ lệ theo vùng như sau:

• Bắc Mỹ: 30%• Châu Âu: 31%• Châu Á-Thái Bình Dương: 29%• Phần còn lại của thế giới: 10%Khoảng 3/4 số thử nghiệm thực phẩm

(Hình 1) là thử nghiệm định kỳ, còn lại là thử nghiệm mầm bệnh. Tỉ lệ phân bổ này có thể đồng đều ở các khu vực, nhưng mỗi vùng có sự khác nhau về quy mô và dân số. Ngoài ra, khi số lượng thử nghiệm của khu vực được tính tỉ lệ theo dân số, dữ liệu cho thấy một hình ảnh rất khác. Tỉ lệ thử nghiệm vi sinh vật thực phẩm trên đầu người đạt cao nhất ở Bắc Mỹ (0,9/người), thứ hai ở châu Âu (0,6/người) và thấp nhất ở châu Á (0,07/người).

Số lượng thử nghiệm thường dao động theo tỉ lệ tương đối so với khối lượng thức ăn và các loại thực phẩm được sản xuất. Trong một thế giới được phát triển đồng đều, con số này cũng sẽ tương quan với quy mô dân số. Như chúng ta đã biết, sự phát triển kinh tế không đồng đều, và có những nước đang phát triển ở châu Á và những nơi khác có mức độ công

nghiệp hoá thấp trong sản xuất thực phẩm, cũng như có các khu vực gặp vấn đề đáng kể về mất an ninh lương thực. Thực phẩm do nông dân địa phương sản xuất và bán ở các chợ địa phương có lẽ sẽ không hề được kiểm tra, và nếu không có đủ thức ăn, sự an toàn của thực phẩm sẽ ít quan trọng hơn việc đơn giản là có được một thứ gì đó để ăn. Mặc dù không hẳn là miễn dịch hoàn toàn, nhưng khu

Page 13: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY13

vực Bắc Mỹ và châu Âu ít bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hụt lương thực, và chế độ ăn của phương Tây chủ yếu là thịt, thực phẩm chế biến và thực phẩm ăn liền, tất cả đều có nhu cầu cao hơn trong việc thử nghiệm phân tích thực phẩm.Các yếu tố ảnh hưởng đến số lượng thử nghiệmAn ninh lương thực

Tuy nhiên, theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc, trung bình khoảng trên 75% lượng lương thực sẵn có ở châu Á và trên thế giới hiện nay (được tính bằng lượng calo hàng ngày) chủ yếu tập trung ở các nước đã phát triển. Việc tiêu thụ các loại rau và ngũ cốc chưa qua chế biến đang được dần thay thế bằng việc tiêu thụ ngũ cốc chế biến, đường, dầu thực vật, thịt và sản phẩm sữa. Khi xu hướng này tiếp diễn, các nhà chế biến thực phẩm sẽ cung cấp nhiều thực phẩm hơn nữa, làm tăng nhu cầu thử nghiệm. Sự dịch chuyển này chỉ ra tiềm năng to lớn cho sự tăng trưởng của thị trường chế biến thực phẩm ở châu Á, và tiếp theo đó chính là tiềm năng của thị trường thử nghiệm thực phẩm châu Á. Nếu thử dự đoán tỷ lệ số lượng thử nghiệm trên dân số cho châu Âu và châu Á, số lượng thử nghiệm ở châu Á sẽ vượt quá tổng số lượng thử nghiệm trên thế giới hiện nay.Sự phân bổ của phương pháp thử nghiệm

Sự phân bổ của phương pháp thử nghiệm được sử dụng cũng không nhất quán trên khắp thế giới, với sự khác biệt khá lớn về cách thực hiện đối với cả thử nghiệm mẫu định kỳ (Hình 2) và mầm bệnh (Hình 3). Những khác biệt này tác động tới cấu trúc của thị trường khu vực và có ảnh hưởng rất lớn tới giá trị thị trường của mỗi khu vực.Loại hình thử nghiệm

Tại Bắc Mỹ, thử nghiệm định kỳ thường sử dụng các phương pháp thuận tiện và có giá trị cao hơn, dao động trong khoảng từ 1$ đến 3$. Trong khi đó tại châu Âu, các thử nghiệm định kỳ thường được thực hiện bằng môi trường nuôi cấy truyền thống, đựng trong đĩa, với

giá thấp hơn 1$. Thử nghiệm mầm bệnh tại Bắc Mỹ cũng phần nhiều thiên về các phương pháp test nhanh, sử dụng thiết bị và chi phí cao hơn, với 94% các thử nghiệm sử dụng phương pháp phân tử hoặc xét nghiệm miễn dịch. Trong khi đó tại châu Âu, chỉ 43% các thử nghiệm mầm bệnh sử dụng những công nghệ này. Thử nghiệm tại châu Á khác biệt hơn hẳn, với hơn 90% cả thử nghiệm định kỳ và thử nghiệm mầm bệnh vẫn đang sử dụng các phương pháp nuôi cấy truyền thống.

Sự chênh lệch về loại hình thử nghiệm này có ảnh hưởng quan trọng đến giá trị thị trường khu vực, mặc dù số lượng thử nghiệm của khu vực tương tự nhau.

Các phương pháp phát hiện mầm bệnh và sử dụng thiết bị có giá bán trong khoảng 8$-16$ một thử nghiệm, trong khi các thử nghiệm nuôi cấy, sử dụng môi trường nuôi cấy truyền thống đối với hầu hết các mẫu ở châu Á có thể có giá bán 1$ hoặc thấp hơn cho một thử nghiệm.

Page 14: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

14

Sự chênh lệch này thể hiện rõ trong giá trị thị trường của mỗi vùng, với thị trường Bắc Mỹ chiếm 40% tổng giá trị thị trường toàn cầu, và thị trường châu Á chỉ chiếm 21% tổng giá trị thị trường. châu Âu, với độ phân bổ các loại hình thử nghiệm đồng đều hơn, đã chiếm thị phần lớn hơn trong thị trường toàn cầu ở mức 33%.Các khu vực trên Thế giới

Như đã đề cập ở trên, những sự khác biệt này là do sự khác nhau của mỗi khu vực. Các công ty ở Bắc Mỹ và châu Âu quan tâm đến việc đầu tư vào chi phí vốn cao, công nghệ, nhưng tiết kiệm nhân công và thời gian. Tuy nhiên, các công ty châu Á tập trung nhiều hơn vào việc sử dụng thử nghiệm chẩn đoán với chi phí trực tiếp thấp nhất, và không gặp áp lực về chi phí nhân công như các đối tác tại khu vực khác. Các công ty châu Á báo cáo rằng, so với các công ty tại Mỹ, Canada và

châu Âu, họ gặp ít rắc rối hơn trong việc thuê và giữ chân các thử nghiệm viên có kĩ năng. Các công ty châu Á cũng báo cáo rằng họ có một số lượng lớn hơn các nhà khoa học và thử nghiệm viên có kĩ năng cao để lựa chọn, và việc có một nhà vi sinh vật học phân tích mẫu tại khoang làm việc hoặc giám sát những nhân viên thực hiện công việc đó là chuyện rất bình thường. Cảnh tượng tương tự như thế không dễ bắt gặp ở một PTN của Mỹ hay châu Âu. Có sẵn những nhân lực với trình độ kĩ năng như vậy để thực hiện và phân tích các phương pháp nuôi cấy truyền thống đã loại bỏ một số lợi thế của các phương pháp sử dụng thiết bị.Kết luận

Việc hiểu rõ những khác biệt này là rất quan trọng. Nếu điều kiện về nhân lực thay đổi ở châu Á, xuyên suốt tại khu vực này hoặc ở một số quốc gia, hoặc thậm chí ở một số vùng của quốc gia (ví dụ như Trung Quốc, nơi mà mỗi vùng có thể có điều kiện nhân lực khác nhau), chúng ta sẽ thấy nhu cầu về nhân viên thử nghiệm thay đổi. Hơn nữa, với sự sẵn có của các công nghệ về thiết bị phân tích nhanh, việc tiếp nhận các phương pháp mới có thể diễn ra rất nhanh chóng. Sự hòa hợp về các yêu cầu về thử nghiệm an toàn thực phẩm đang tiếp tục được thúc đẩy thông qua sự toàn cầu hóa về chứng nhận, yêu cầu của người mua và sự hợp nhất chuỗi cung ứng, và những sự áp lực này có thể cũng yêu cầu nhà sản xuất phải nhanh chóng thích ứng và thay đổi quy trình của mình. Khi quá trình này tiếp diễn, các phương pháp thử nghiệm tại châu Á và các khu vực còn lại của thế giới sẽ phải ngang hàng với những phương pháp sử dụng tại Bắc Mỹ và châu Âu, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng cao hơn trong tương lai. Những công ty thử nghiệm chẩn đoán mà bỏ lỡ những tín hiệu thị trường này có thể dễ dàng đánh mất cơ hội thị trường.

Theo Food Safety Magazine

Page 15: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY15

Khối u có tuổi một thế kỷ cung cấp manh mối

hiếm thấy về ung thư

Rhabdomysarcoma - một loại ung thư cơ (màu xanh trong hình), bị tấn công bởi một tế bào miễn dịch. Nguồn: Eye of Science/Science Photo Library

Kết quả giải trình tự DNA từ mẫu khối u 100 tuổi có thể hỗ trợ nghiên cứu ung thư ở trẻ em.

Page 16: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

16

Sâu trong phòng lưu trữ tầng hầm của Bệnh viện Nhi Great Ormond Street ở Luân Đôn

là những hồ sơ bệnh án mà nhà nghiên cứu ung thư Sam Behjati hy vọng sẽ hỗ trợ được cho tương lai. Vào ngày 2 tháng 5, ông và các cộng sự đã công bố kết quả: trình tự DNA từ bộ gene của ba mẫu khối u của trẻ em thu thập được tại cơ sở cách đây gần một thế kỷ.

Những tế bào lịch sử này giúp giải quyết một vấn đề hiện đại: một số lượng nhỏ các mẫu khối u từ các loại ung thư hiếm gặp để các nhà nghiên cứu giải trình tự. Behjati biết rõ vấn đề này. Tại Viện Wellcome Trust Sanger ở Hinxton, Vương quốc Anh, ông đã theo dõi các lỗi gene có thể gây ra các bệnh ung thư hiếm gặp ở trẻ em. Và với tư cách một người điều trị cho bệnh nhân, ông đã rất thất vọng với sự thiếu

bằng chứng để hỗ trợ cho công việc của mình."Các phác đồ điều trị cho trẻ em bị ung thư

hiếm gặp thường được chế ra", Behjati nói. "Nếu chỉ có ba hoặc bốn bệnh nhân trên toàn quốc, làm thế nào để bạn có thể thực hiện một thử nghiệm lâm sàng hợp lý?"

Để mở rộng phạm vi các mẫu có thể giải trình tự gene, năm 2014, ông quyết định khai thác những tiến bộ trong việc giải trình tự gene. Những tiến bộ này đã giúp thực hiện hóa việc giải trình tự DNA từ các mẫu bệnh phẩm từ vài thập kỷ trước. Hồ sơ bệnh án và mẫu bệnh phẩm lưu trữ 165 năm của bệnh viện đã cung cấp cơ hội để xem liệu ông có thể quay lại được quá khứ xa đến đâu.Nguồn dữ liệu dồi dào

Bà Danielle Carrick - Giám đốc chương trình của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ tại Rockville, Maryland cho rằng công trình nghiên cứu này làm nổi bật sự giàu có của các vật liệu sẵn có trong những kho lưu trữ như thế. Bà nhấn mạnh rằng việc khai thác các kho lưu trữ này có thể mở rộng các lựa chọn để nghiên cứu bệnh lý hiếm gặp và các dân tộc thiểu số chưa được nghiên cứu giúp hiện thực hóa các nghiên cứu với quy mô dân số lớn.

Các nhà nghiên cứu đã phân tích DNA từ các mẫu vật cũ hơn: các mảnh vỡ của chuỗi gene đã được sử dụng để nghiên cứu quần thể con người cổ xưa từ hàng trăm ngàn năm trước. Tuy nhiên, DNA có xu hướng suy thoái theo thời gian, và các nhà nghiên cứu ung thư cần trình tự gene chất lượng cao để xác định được những đột biến cá thể có thể góp phần làm khối u tăng trưởng.

Bệnh viện Great Ormond Street được thành lập vào năm 1852 nhờ vào sự đóng góp từ thiện của nhà văn Charles Dickens. Behjati và nhà nghiên cứu bệnh học Neil Sebire của Viện Nhi Great Ormond Street thuộc trường Đại học College London đã hướng dẫn nhóm nghiên cứu của họ bắt đầu tìm kiếm kho lưu trữ cho các mẫu từ những năm 1920, tuy nhiên, khi đó thuật ngữ dùng để phân loại các khối u dễ

Page 17: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY17

dàng so sánh hơn với các chẩn đoán hiện đại.Nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm sổ đăng

ký bệnh nhân, một cuốn sổ ghi chép dài gồm tên bệnh nhân, mã số và chẩn đoán được viết tay với những hàng chữ nhỏ gọn chính xác. Các mẫu được đưa vào một hộp các tông nhỏ chứa đầy hàng chục khối sáp paraffin gần bằng kích thước của móng tay, với mã số bệnh nhân được viết tay ở hai bên của mỗi khối. Trong mỗi miếng sáp là một mẫu đã được ngâm trong dung dịch chứa formaldehyde để bảo quản mô và làm cho nó cứng lại.

Sebire và các cộng sự đã khai thác các khối cần thiết, lấy một miếng mỏng của mỗi mẫu và nhuộm các mô bằng màu đỏ và hồng. Toàn bộ kỹ thuật - ngâm formaldehyde, đưa mẫu vào khối sáp, nhuộm màu - đã hơn một trăm năm tuổi, Sebire nhấn mạnh.

Tuy nhiên, điều đã thay đổi đáng kể đó là việc điều trị ung thư. Những đứa trẻ mắc ung thư đến viện Great Ormond Street vào những năm 1920 không có lựa chọn nào khác ngoài phẫu thuật. Phương pháp hóa trị chỉ xuất hiện sau đó vài thập kỷ. Và nếu không có phương pháp chẩn đoán hình ảnh hiện đại, trẻ em được chẩn đoán thường đã ở giai đoạn cuối, khối u của chúng đủ lớn để bác sĩ có thể cảm nhận được.Đào sâu trong kho lưu trữ

Behjati hy vọng rằng những khối u này sẽ giúp ông và những bác sĩ khác phát triển các phương pháp tốt hơn cho các bệnh nhân trong tương lai. Nhóm nghiên cứu đã chọn ra ba mẫu: một khối u cơ được gọi là rhabdomyosarcoma, một khối u mạch máu được mao mạch tế bào huyết quản và một khối u lymphoma. Sau khi xác nhận các chẩn đoán ban đầu bằng cách sử dụng các miếng nhuộm màu, nhóm của ông đã chiết xuất DNA từ phần lớn mẫu còn lại và lập chuỗi 366 gene trong mỗi loại. Họ phát hiện ra các đột biến liên quan đến ung thư ở cả 3 mẫu.

Ông có kế hoạch tiếp tục tìm kiếm trong bộ mẫu của Bệnh viện Great Ormond Street,

và sau đó có thể thu thập các tài liệu lưu trữ của các bệnh viện khác cho các vật liệu lịch sử về bệnh ung thư ở trẻ em. Khi bộ sưu tập lớn dần, ông sẽ tìm kiếm những điểm tương đồng và các mục tiêu cho loại thuốc tiềm năng.

Ung thư ở trẻ em đặc biệt phù hợp với cách tiếp cận này, Sebire nói. Bộ gene của người trưởng thành bị ung thư thường bị xây xước do hàng trăm đột biến. Tuy nhiên, bộ gene của ung thư ở trẻ em có xu hướng có ít thay đổi hơn. Điều này giúp các nhà nghiên cứu dễ dàng hơn trong việc khoanh vùng những đột biến quan trọng nhất và lọc qua những thông tin nhiễu do DNA bị phân hủy.

Tuy có thể dùng những mẫu cũ có tuổi một thế kỷ này bằng phương pháp hiện đại, các kỹ thuật bệnh lý đã được sử dụng để tạo ra chúng đang suy yếu, ông nói thêm. Sebire dự đoán, trong tương lai gần, các phòng thí nghiệm bệnh lý sẽ bỏ kính hiển vi và thay thế hoàn toàn bằng các công cụ giải nhanh trình tự DNA và protein, và xác định các chất chuyển hóa.

"Quá trình này đã không thực sự thay đổi trong hơn 100 năm qua", ông nói. "Nhưng tới thời điểm tôi nghỉ hưu, tôi hoàn toàn kỳ vọng rằng bạn sẽ không cần phải làm những gì tôi đang làm hiện giờ".

Theo Nature

Page 18: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

18

Lên kế hoạch cho kho dữ liệu sinh học thế hệ

kế tiếp5 yếu tố quan trọng trong việc lập kế hoạch các kho sinh học thế hệ kế tiếp, hệ quả của chúng đối với các điều kiện lưu trữ trong giao thức bảo quản và lợi ích của chúng đối với một tổ chức?

Ngày nay, có hơn 300 triệu mẫu sinh vật trên thế giới được lưu giữ ở nhiệt độ dưới

-80oC. Rất ít trong số các mẫu này có chiến lược lưu trữ gắn liền với chúng. Một nhóm thảo luận gần đây của Viện Sức khoẻ Quốc gia Hoa Kỳ (NIH) ước tính có tới 70% tất cả các vật liệu mẫu đã lưu trữ ở -80oC và thấp hơn không sử dụng được do thiếu nguồn gốc. Nói cách khác, những mẫu này không có lịch sử, chúng không thể truy xuất được, nguồn gốc của chúng chưa được biết rõ và hồ sơ lưu giữ môi trường không tồn tại.

Việc lên kế hoạch hiệu quả sẽ tạo ra hai lợi ích quan trọng cho thư viện mẫu của bạn. Đầu tiên là giá trị và khả năng tồn tại. Nếu một tổ chức không phát triển kế hoạch lưu trữ dài hạn thì 90% thời gian sử dụng tiềm năng đối với các vật liệu sẽ bị tổn hại.

Lợi ích thứ hai là giảm chi phí. Có thể sẽ tốn kém rất nhiều tiền của, trừ phii có suy tính trước về lý do lưu trữ mẫu. Việc lập kế hoạch có chiến lược tạo ra một không gian

làm lạnh phù hợp với mục đích, và sau đó kiểm soát việc sử dụng nó theo cách đem lại hiệu quả tối đa và chi phí hoạt động tối thiểu.

Bài viết này sẽ khám phá 5 yếu tố quan trọng trong việc lập kế hoạch các kho sinh học thế hệ kế tiếp, hệ quả của chúng đối với các điều kiện lưu trữ trong giao thức bảo quản và lợi ích của chúng đối với một tổ chức.Năm yếu tố quan trọng

Có hai dạng lưu trữ làm lạnh. Dạng đầu tiên là lưu trữ giao dịch tạm thời. Dạng này bao gồm các vật liệu thường sẽ được sử dụng trong 3 đến 12 tháng. Dạng này có thể bao gồm một bộ sưu tập mà một nhà nghiên cứu có thể muốn tái sử dụng dữ liệu, chẳng hạn như thông tin di truyền. Nếu một cá nhân đang quản lý một dự án phát hiện ma túy, họ có thể có hệ thống bảo quản lạnh để lưu trữ các vật liệu được sử dụng nhiều lần. Đây được gọi là lưu trữ giao dịch tạm thời – do cần quản lý các mẫu trong một khoảng thời gian nhất định.

Đối với lưu trữ lâu dài cho khoảng thời gian

Page 19: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

19BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY

lâu hơn, các quyết định sẽ khác hoàn toàn. Có năm yếu tố chính cần phải được giải quyết khi lập kế hoạch không gian lưu trữ lạnh lâu dài.1. Mục tiêu lưu trữ

Tại sao các mẫu được lưu trữ? Thoạt nhìn, có vẻ như đó là một câu hỏi ngớ ngẩn. Lý do của việc lưu trữ mẫu là rất quan trọng, tuy nhiên là bởi vì người ta không bao giờ thực sự biết được giá trị tiềm năng của vật liệu. Ban đầu, nỗ lực để lưu trữ các mẫu theo cách được quy định, theo dõi (với thông tin chính xác), và tạo nguồn gốc xuất xứ chỉ đại diện cho một sự cố gắng bổ sung rất nhỏ so với một bộ mẫu lưu trữ. Nhưng nỗ lực nhỏ nhoi đó chính là những gì làm sáng tỏ tất cả các giá trị trong tài liệu nghiên cứu của một tổ chức.

Ngoài ra, một tổ chức cần biết họ muốn lưu trữ bao nhiêu mẫu. Cần phải báo trước rằng: sẽ không có ai dám ném bất cứ thứ gì đi. Hãy lấy số mẫu dự tính lưu trữ và gấp ba lần con số đó lên.2. Khả năng sống sót và phát triển

Có thể có rất nhiều lý do khác nhau cho việc lưu trữ vật liệu sinh học và những lí do đó sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển một chiến lược quản lý mẫu tốt. Khả năng sử dụng của vật liệu liên quan đến nhiệt độ nó được lưu giữ có hệ quả rất quan trọng.

Do đó, một phần của quá trình lập kế hoạch phải là việc thấu hiểu ý nghĩa của chiến lược lưu trữ đối với khả năng sống sót của tế bào. Mẫu sẽ được lưu trữ trong bao lâu? Trong hầu hết các trường hợp, câu hỏi này không bao giờ được sử dụng. Nếu mẫu phải sinh trưởng mạnh khi được lấy ra từ môi trường lạnh, nhiệt độ lưu trữ sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến thời gian lưu trữ vật liệu: -135oC được coi là điểm chuyển tiếp bình thường cho phương tiện lưu trữ lạnh. Tất cả các nghiên cứu đều chứng minh rằng nếu mẫu đã được chuẩn bị đúng cách, và lưu trữ dưới -135oC, thì có thể giữ vật liệu vô hạn và vẫn có chức năng sinh học khi lấy ra.

Tuy nhiên, một khi nhiệt độ lưu trữ tăng lên trên -135oC, trường hợp này không còn tồn tại.

Câu hỏi tại thời điểm đó sẽ là vật liệu có thể được lưu trữ trong bao lâu trước khi nó xuống cấp. Vì vậy, điều quan trọng là phải biết được nhiệt độ nào phù hợp với thời gian sống của mẫu. Sự lựa chọn phương thức đó phải được thúc đẩy bởi việc mẫu được lưu giữ cho mục đích giao dịch tạm thời hay lưu trữ dài hạn.

Một tổ chức cũng phải quyết định xem sẽ lưu trữ những gì và sử dụng phương tiện nào. Không quan trọng loại hình lưu trữ lạnh sinh học nào đang được cân nhắc - một tủ lạnh dưới khoang làm việc, một tủ chứa sinh học chứa hai triệu mẫu, hoặc một bình chân không Dewar với nitơ lỏng. Rất có thể một tổ chức sẽ không tạo được môi trường thích hợp cho các vật liệu nói trên, trừ khi trả lời được những câu hỏi này.3. Hiệu suất nhiệt

Khi một tổ chức bắt đầu phát triển những chiến lược này, việc tạo ra và quản lý các hệ thống lưu trữ là một trong những vấn đề chính. Một điều cần ghi nhớ khi tạo ra không gian làm lạnh đó là đầu tư thực sự vào việc cách nhiệt. Phương pháp loại bỏ nhiệt năng gần như không liên quan. Ví dụ, lý do để một bình chân không dewar với nitơ lỏng hiệu quả hơn rất nhiều so với một máy làm lạnh cơ học -80oC không liên quan gì đến thực tế rằng một bên sử dụng nitơ lỏng và một bên thì dùng máy nén cơ học. Thay vào đó, đó là vì một thiết bị có lớp cách điện tốt hơn 100 lần so với thiết bị còn lại.

Ví dụ, nếu so sánh một hệ thống lưu trữ Nitơ lỏng Vario với một hộp chứa làm mát bằng máy, sự khác biệt về hiệu suất nhiệt sẽ không liên quan gì đến công nghệ làm lạnh của hệ thống. Sự khác biệt giữa hai thiết bị đó là: một loại thì có 3 inch xốp polyurethane và một loại thì có hệ thống chân không sub-5 micron siêu cách nhiệt. Lượng nhiệt năng đi vào không gian của Vario sẽ ít hơn năng lượng xâm nhập vào hộp cơ khí. Dù được cung cấp năng lượng hay làm mát hay ở kích cỡ nào, thì bất cứ không gian làm lạnh nào cũng sẽ làm tăng hiệu suất nhiệt của nó một cách hiệu quả nhất bằng cách

Page 20: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

20

cải thiện sự cách nhiệt.4. Tác động đến môi trường

Một kho chứa sinh học lớn có thể có tác động đáng kể đến môi trường do yêu cầu làm mát và tiêu thụ điện năng. Ví dụ, 3 tủ cấp đông -80oC gây ra tác động tới môi trường tương đương một chiếc ô-tô gia đình. 5 tủ cấp đông có ảnh hưởng tương tự mức tiêu thụ năng lượng hàng năm của một ngôi nhà. Việc cách điện có thể tạo ra sự khác biệt đáng kể về tác động môi trường. Nếu phần dung lượng đang làm mát được tắt đi trong một không gian làm lạnh có hiệu quả cao, mức nhiệt độ sẽ được duy trì trong khoảng một tuần. Trong hộp làm lạnh bằng máy, nhiệt độ sẽ bắt đầu tăng trong khoảng một giờ sau khi máy làm lạnh dừng lại. Các tổ chức coi trọng tính bền vững của môi trường phải xem xét hiệu năng và các loại cách điện khi lập kế hoạch hệ thống lưu trữ và quản lý mẫu.5. Chi phí

Chi phí luôn là một vấn đề được quan tâm. Tuy nhiên, khi đánh giá chi phí, điều quan trọng là phải xem xét chi phí toàn diện, hoặc tổng chi phí sở hữu. Thông thường, khi một phòng thử nghiệm (PTN) chạy một kho làm lạnh -80oC, PTN đó sẽ mua một tủ lạnh khác với giá 10.000 USD. PTN có thể không xem xét chi phí điện vì nó được thanh toán từ ngân sách khác. Tổ chức cũng phải trả tiền cho điều hòa không khí để loại bỏ nhiệt dư thừa sinh ra từ tủ cấp đông. Ngoài ra còn có các chi phí liên quan đến bảo trì và sửa chữa. Tất cả những chi phí này cần được xem xét khi lập kế hoạch chiến lược lưu trữ mẫu.

Phần lớn các chiến lược lưu trữ, đặc biệt là trong các nghiên cứu được tài trợ, được phát triển trên cơ sở cá nhân. Nếu xem xét một trường đại học có 300 nhà nghiên cứu, chiến lược lưu trữ liên quan đến viện nghiên cứu đó là tổng tất cả những cá nhân đó. Hàng năm trường đại học phải chi tiêu một khoản lớn cho việc thu thập vật liệu di truyền để phân chia và lưu giữ. Điều này có thể liên quan đến việc thu thập 50 triệu mẫu

cho 300 nghiên cứu. Tuy nhiên, nhiều vật liệu trong số được thu thập lại giống nhau. Viện nghiên cứu đó có thể thu thập 20 triệu ống nghiệm, có sẵn cho tất cả các nghiên cứu và tiết kiệm đáng kể chi phí, nhân lực và thời gian.

Tại một tổ chức nghiên cứu lớn, tổng chi phí sở hữu có thể là một khoản tiền lớn. Một cơ sở như vậy có 7.700 đơn vị làm lạnh cơ khí tại chỗ. Hóa đơn vận hành hàng năm cho các đơn vị này là khoảng 25 triệu USD khi tổng chi phí điện với các khoản liên quan đến điều hòa không khí, giám sát môi trường, cộng với bảo trì và sửa chữa đều được tính. Việc phân cấp lưu trữ mẫu chủ yếu là do quá trình cấp vốn. Khi chi trả cho thiết bị, họ không phải trả chi phí liên quan đến việc cắm điện vận hành. Quá trình cấp vốn đã dẫn đến chiến lược làm lạnh có độ phân cấp cao. Kết quả là, tổ chức phải chịu chi phí gia tăng cho các tủ cấp đông cơ học, mà mỗi thiết bị tiêu tốn khoảng 2.500 USD mỗi năm để vận hành và duy trì.

Mặt khác, chi phí vận hành đối với một hệ thống lưu trữ tập trung và hiệu suất cực cao, có thể ở mức 100 USD/năm đối với công suất tương đương. Việc chuyển chiến lược sang lưu trữ lớn, tập trung giúp cho tính kinh tế theo quy mô cao hơn, để lại tác động tốt hơn đối với mỗi mẫu, và kiểm soát đơn vị và lưu trữ hồ sơ lớn hơn. Trong trường hợp này, một viện nghiên cứu có khả năng giảm chi phí hoạt động hàng năm từ 25 triệu đến 1 triệu USD.

Khi lập kế hoạch cho chiến lược kho lưu trữ dữ liệu sinh học thế hệ kế tiếp, năm yếu tố chính là mục tiêu lưu trữ, khả năng sống sót và phát triển, hiệu suất nhiệt, tác động đến môi trường và chi phí phải được cân nhắc. Cho dù là một chiến lược cấp cao bao gồm tất cả các khía cạnh về lưu trữ của tổ chức, hoặc một chiến lược về công cụ để đánh giá thiết bị, việc giải quyết 5 yếu tố cơ bản này sẽ cải thiện giá trị mẫu, giảm chi phí và tăng cường kiểm soát vật liệu.

Theo www.laboratoryequipment.com

Page 21: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY21

Lịch sử phát triển của công ty gắn liền với các công trình

trọng điểm của ngành Điện Việt Nam như: Nhà máy thủy điện Trị An, Thác Mơ, Buôn Kuốp, Phú Mỹ, Vĩnh Tân,… các trạm biến áp 500 kV Phú Lâm, Nhà Bè, Tân Định, Di Linh… và rất nhiều trạm biến áp 220, 110 kV khác.

Qua tham gia các công trình lớn, năng lực và kinh nghiệm thí nghiệm hiệu chỉnh của công ty đã phát triển mạnh mẽ, đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, độ tin cậy. Chính vì vậy nên những năm sau này, công ty đã được các chủ đầu tư, nhà thầu, đối tác lựa chọn thực hiện thí nghiệm hiệu chỉnh nhiều công trình điện qui mô lớn, hiện đại như: Trung tâm Nhiệt điện Phú Mỹ, Nhiệt điện Bà Rịa, Thủy điện Srok Phu Miêng,

Đồng Nai 3, các trạm 500kV; phối hợp cùng các đơn vị xử lý sự cố trên hệ thống năng lượng, nâng cao độ tin cậy trong việc cung cấp điện cho các tỉnh khu vực phía Nam.

Các công trình do công ty thực hiện thí nghiệm và hiệu chỉnh đều được nhà thầu, chủ đầu tư đánh giá cao, góp phần đưa công trình vào vận hành an toàn, hiệu quả, đúng tiến độ kế hoạch.

Trong lĩnh vực chế tạo, sửa chữa thiết bị điện, đến cuối năm 2015, công ty đã đưa vào hoạt động Nhà máy sản xuất thiết bị điện tại Khu công nghiệp Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, Tp. Hồ Chí Minh. Nhà máy được đầu tư các thiết bị công nghệ hiện đại như: Dây chuyền đúc nhựa chân không để sản xuất TU, TI trung thế, lò sấy tẩm tụ phục vụ công

tác chế tạo tụ điện trung thế nhằm phát triển việc chế tạo lắp ráp tủ bảng điện các loại: Tủ bảo vệ, tủ điều khiển, tủ MK, tủ tự dùng AC, DC… cho các trạm biến áp 110kV, 220kV; sản suất thiết bị tụ bù trung thế để đáp ứng yêu cầu phát triển lưới điện của Tổng công ty Điện lực miền Nam nói riêng và của khu vực miền Nam nói chung…

Với năng lực đã được khẳng định, nhà máy đã sản xuất, đưa vào vận hành hàng chục ngàn máy biến điện áp (PT), máy biến dòng điện (CT), tụ bù trung thế, tủ bảng điện điều khiển của nhiều trạm biến áp từ 110 kV trở lên.

Qua hơn một năm hoạt động ổn định, nhà máy đã không ngừng cải tiến chất lượng và nâng cao năng lực sản xuất TU, TI lên đến 24.000

Thành lập năm 1981, Công ty Thí nghiệm Điện miền Nam (thuộc Tổng Công ty Điện lực miền Nam) là đơn vị đầu tiên tại khu vực phía Nam được thành lập nhằm thực hiện các chức năng: Thí nghiệm, hiệu chỉnh thiết bị điện; sửa chữa thiết bị điện chuyên ngành, thiết kế sản xuất, lắp ráp thiết bị điện... Sau hơn 35 năm hoạt động, đến nay, công ty đã trở thành một trong những đơn vị thí nghiệm, hiệu chỉnh và chế tạo thiết bị điện lớn của cả nước.

Page 22: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

22

sản phẩm/năm, đáp ứng kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh giai đoạn 2016 – 2020 của công ty, nâng cao năng lực cạnh tranh và từng bước mở rộng thị trường.

Thực hiện theo quy định của Luật Đo lường Việt Nam, đầu năm 2016, Công ty đã thực hiện tiếp nhận sự sáp nhập của 20 đơn vị kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo thuộc các công ty điện lực khu vực phía Nam và chuyển đổi 20 đơn vị này thành các Trung tâm Thí nghiệm điện trực thuộc.

Việc Nhà máy chế tạo thiết bị điện và 20 Trung tâm Thí nghiệm điện thuộc quản lý của công ty tại các tỉnh hoạt động ổn định từ năm 2016 đến nay đã đánh dấu một mốc son mới về sự phát triển lớn mạnh trên các lĩnh vực chế tạo và thí nghiệm, kiểm định thiết bị điện của công ty. Đây cũng là lời cam kết của công ty trong việc không ngừng xây dựng và thực hiện kế hoạch cải tiến chất lượng dịch vụ thí nghiệm, hiệu chỉnh và chế tạo các thiết bị điện, góp phần vào vận hành ổn định và phát triển hệ thống điện phía Nam.

Để có bước phát triển toàn diện, công ty đã không ngừng đầu tư công nghệ hiện đại phục vụ công tác thí nghiệm hiệu chỉnh, nghiên cứu, xây dựng phòng thí nghiệm cao áp xoay chiều 500kV; mua sắm các thiết bị hiện đại như máy đo sai số biến điện áp,

biến dòng điện; bộ chuẩn đo lường đa năng Fluke; máy đo phóng điện cục bộ, máy chẩn đoán sự cố máy biến thế…

Bên cạnh hoạt động thí nghiệm hiệu chỉnh, công ty còn đầu tư thiết bị, công nghệ sản xuất thiết bị điện nhằm thay thế thiết bị cùng loại phải nhập khẩu từ nước ngoài, như: máy phát xung điện áp đến 800kV, máy thử cao thế, xe thí nghiệm lưu động... góp phần tiết kiệm ngoại tệ cho ngành điện, kịp thời cung ứng cho các công trình điện của Tổng công ty Điện lực miền Nam và các đơn vị bạn.

Ông Nguyễn Đình Đàn - Giám đốc công ty cho biết, để có bước phát triển toàn diện như hiện nay, công ty đã không ngừng đầu tư công nghệ hiện đại phục vụ công tác thí nghiệm hiệu chỉnh, nghiên cứu; chế tạo phòng thí nghiệm cao áp xoay chiều 500kV, các xí nghiệp chế tạo thiết bị điện; xây dựng nhà máy sản xuất tụ điện trung thế đầu tiên ở Việt Nam; xây dựng các phòng thí nghiệm hiện đại với các thiết bị đo sai số biến điện áp PT, bộ chuẩn đo lường đa năng Fluke, mấy phân tích chất lượng CT-Omicron… Đồng thời, áp dụng và duy trì hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000; xây dựng phòng thí nghiệm của công ty đạt tiêu chuẩn ISO/IEC 17025:2005.

Cũng theo ông Đàn, cùng

sự phát triển nhanh mạnh của nền kinh tế, ngành điện cũng có thêm nhiều công trình, dự án qui mô lớn, sử dụng công nghệ thiết bị điện hiện đại: Các nhà máy tại trung tâm nhiệt điện thế hệ mới, đường cáp ngầm xuyên biển cấp điện cho huyện đảo Phú Quốc...

Để đảm bảo yêu cầu về tính chính xác trong thí nghiệm hiệu chỉnh các thiết bị điện hiện đại này, công ty đã thường xuyên có những hoạt động nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ, kỹ sư: Tích cực tham gia các chương trình thử nghiệm thành thạo về điện do VinaLAB tổ chức; đầu tư cho đội ngũ cán bộ kỹ sư đến thăm quan, học tập kinh nghiệm tại các trường chuyên ngành kỹ thuật điện cả ở trong nước và nước ngoài nhằm không ngừng nâng cao khả năng tiếp cận công nghệ, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành điện nước nhà…

Với những nỗ lực không mệt mỏi, năm 2016, công ty đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật được giao, trong đó, chỉ tiêu doanh thu đạt 447 tỷ đồng/330 tỷ kế hoạch do Tổng Công ty Điện lực miền Nam (EVN SPC) giao, tăng 60,79% so với cùng kỳ, lợi nhuận đạt 13,95 tỷ/11 tỷ kế hoạch EVN SPC giao.

VinaLAB

Page 23: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

23

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

Câu hỏi: Phòng thử nghiệm của ông thực hiện chức năng gì?Đáp: Phòng thử nghiệm (PTN) của tôi nghiên cứu lĩnh vực phát triển các loại phương pháp và chất mang mới cho sắc ký, đặc biệt là cho mục đích phân tích sinh học. Chúng tôi chuyên về chia tách ái lực hiệu năng cao, sử dụng các phân tử có liên quan về mặt sinh học để nắm bắt và kết nối một hợp chất cụ thể, hoặc để nghiên cứu sự tương tác trong các hệ thống sinh học bằng cách quan sát cách một chất cố định gắn kết với một chất khác trong dung dịch, ví dụ như kiểm tra protein tương tác với thuốc hoặc tương tác protein-protein. Chúng tôi làm rất nhiều công việc, không chỉ trong việc phát triển các loại kỹ thuật mà còn trong việc khám phá các ứng dụng mới, các chế độ phát hiện mới, và xem xét lý thuyết nguyên lý cho một số trong những phương pháp đó.Câu hỏi: PTN của ông có bao nhiêu nhân viên?Đáp: PTN của tôi thường có 8-10 cử nhân ngành hóa, và một hoặc hai nghiên cứu sinh sau tiến sĩ, và có hai hoặc ba sinh viên đang học đại học ngành hóa.Câu hỏi: PTN của ông sử dụng HPLC trong những công việc gì?Đáp: Hầu hết công việc của chúng tôi liên quan đến việc sử dụng HPLC trong việc phân tích hoặc phát triển cách phân tích mới cho các chất như ma túy, hormones, proteins, và biomarkers (dấu ấn sinh học) trong dịch sinh học hoặc mẫu môi trường. Chúng tôi cũng sử dụng HPLC theo

Tiến sĩ David S.Hage là Giáo sư danh dự, ngành Hóa học, tại Đại học Nebraska-Lincoln. Nghiên cứu của Tiến sĩ Hage nhìn chung liên quan đến thiết kế và sử dụng sự chia tách dựa trên ái lực trong sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC), điện di mao mạch và các hệ thống khác để phân tích lâm sàng, dược phẩm và môi trường. Ông cũng quan tâm đến việc sử dụng sự chia tách dựa trên ái lực riêng và kết

hợp với quang phổ khối, làm công cụ cho y học cá nhân, proteomics chức năng và chuyển hóa. Tiến sĩ Hage nhận bằng tiến sĩ về hóa học phân tích tại Đại học bang Iowa và bằng cử nhân hóa học và sinh học tại Đại học Wisconsin-La Crosse.

Tiến sĩ David Hage thảo luận về xu hướng cột HPLC

Page 24: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

24

cách độc đáo một chút để nghiên cứu sự tương tác trong các hệ thống sinh học bằng cách cơ bản là tạo ra một hệ thống sắc ký là mô hình cho một hệ thống sinh học. Ví dụ, bạn có thể tạo một mô hình của một hệ thống máu bằng cách cố định một protein từ máu vào một cột HPLC và xem xét cách protein này tương tác với những thứ có thể được vận chuyển bởi các protein trong máu.Câu hỏi: Loại cột HPLC nào được sử dụng phổ biến nhất trong nghiên cứu của ông?Đáp: Trong số cột đang dùng, chúng tôi tự tạo rất nhiều, do đối với lĩnh vực sắc ký ái lực chỉ có một số loại cột có sẵn trên thị trường, còn nhiều loại cột khác chúng tôi cần nó phải dựa trên nền protein chuyên dụng hoặc protein được cô lập từ mẫu cụ thể. Vì vậy, một công việc chúng tôi thường xuyên làm đó là lấy chất cố định và chuẩn bị chúng để sử dụng với nhiều loại cột sắc ký và chất mang khác nhau mà chúng tôi nghiên cứu. Sau đó, chúng tôi có thể sử dụng những thành phần này để xem xét sự tương tác hoặc để phát triển phương pháp phân tích mới. Chúng tôi làm mọi thứ từ việc phát triển các kỹ thuật cố định mới và mô tả các tác nhân sinh học cố định để học cách chuẩn bị các loại cột khác nhau với các định dạng đặc biệt, ví dụ như loại cột nhỏ. Cùng với đó, chúng tôi cũng sử dụng các cột HPLC truyền thống, dựa trên sự trao đổi ion, loại trừ kích thước hoặc sắc ký đảo ngược. Những cột này thường dễ dàng mua được trên thị trường.Câu hỏi: Gần đây PTN của ông gặp những thay đổi lớn nào về cột HPLC?Đáp: Chúng tôi đã làm việc khá chăm chỉ trong nhiều năm để phát triển các cột có chứa các tác nhân sinh học cố định có hoạt động cao và mô phỏng tốt các chất tương tự trong các hệ thống sinh học - ví dụ như các protein vận chuyển huyết thanh. Chúng tôi đã học cách chế tạo các tác nhân cố định và đặt chúng vào cột ở dạng cố định hóa học hoặc ở dạng bẫy, ở đó chúng vẫn nằm trong cột nhưng không thể di chuyển ra ngoài cột. Sau đó chúng tôi sử dụng các cột này như là một cách để nghiên cứu hệ thống sinh học. Một số công việc khác mà chúng tôi đã làm trong 10 hoặc 15 năm qua đó là tìm hiểu cách tạo các cột ái lực thu nhỏ. Cột ái lực thường nhỏ hơn nhiều so với những gì bạn thấy ở các loại cột HPLC khác. Thông thường, một cột lớn của chúng tôi có thể chỉ dài 2.5 cm, mặc dù hiện nay chúng tôi đã làm việc rất nhiều với các cột có chiều dài 1cm hoặc ngắn hơn, và thường chỉ dày từ 1 đến 2mm. Những cột này được sử dụng để cho phép chúng tôi tiếp cận một số vùng đặc biệt của hành vi sắc ký mà bình thường bạn không thể có được với các cột HPLC truyền thống. Vì vậy, học cách tạo các cột nhỏ và cách sử dụng hành vi độc đáo của chúng là một số thách thức mà chúng tôi luôn phải đối mặt.Câu hỏi: Thử thách lớn với cột HPLC mà ông phải đối mặt là gì?Đáp: Chúng tôi luôn tìm kiếm các chất mang hiệu quả hơn, đặc biệt là những sản phẩm có thể sử dụng với tốc độ dòng chảy cao, vì vậy một lĩnh vực khác mà chúng tôi đã nghiên cứu nhiều hơn trong thập kỷ qua đó là làm việc với các cột nguyên khối, cả loại hữu cơ và silic. Đối với chúng tôi, các tính năng hữu ích của cột nguyên khối đó là chúng tôi có thể làm chúng với kích cỡ và hình dạng khác nhau. Những vật liệu này cũng có chỉ số nghịch áp rất thấp so với chất mang dạng hạt, vì vậy chúng tôi có thể thực hiện chia tách rất nhanh. Điều này rất hữu ích đối với một số ứng dụng của chúng tôi, khi chúng tôi thực hiện công việc mà mẫu chỉ nằm trong một cột trong một phần giây. Chúng tôi làm việc với những chất này và các vật liệu khác trong việc phát triển kỹ thuật để có thể chiết xuất một phân tử, giống như một loại ma túy hoặc một hormone, và làm trong khoảng thời gian có thể là một trăm phần nghìn giây.Câu hỏi: Khi tạo các cột HPLC cho PTN của mình, ông dựa trên các tiêu chí nào?Đáp: Bên cạnh việc xem xét những tiêu chí như hiệu quả và nghịch áp, một điểm đặc biệt chúng tôi phải cân nhắc khi sử dụng các tác nhân sinh học cố định là kích thước lỗ rỗng giữa các hạt.

Page 25: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY25

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

Trong hầu hết các cột HPLC truyền thống, như các cột được sử dụng trong sắc ký đảo pha, kích thước lỗ rỗng có thể chỉ từ 50 đến 60 Å hoặc 100 Å. Đối với chúng tôi, chúng tôi thường phải đối phó với tác nhân sinh học có thể có kích thước từ 50 đến 100 Å hoặc lớn hơn, do đó kích thước lỗ rỗng trên các loại cột này sẽ quá nhỏ để cho phép chúng tôi đưa protein lên chất mang và sử dụng một lượng diện tích bề mặt hợp lý. Đối với chúng tôi, kích thước lỗ rỗng từ 300 đến 500 Å rất quan trọng, và đôi khi chúng tôi thậm chí sử dụng lỗ rỗng cỡ 4000 Å, tùy thuộc vào độ lớn của tác nhân mà chúng tôi đang cố gắng để cố định. Ví dụ, chúng tôi đã làm việc với lipoprotein, nó khá lớn và yêu cầu kích thước lỗ rỗng từ 1000 đến 4000 Å. Khi tăng kích thước lỗ rỗng, diện tích bề mặt sẽ giảm, do đó, luôn có sự đánh đổi giữa hai tham số này trong việc bạn có thể đặt bao nhiêu chất vào cột.Câu hỏi: Ông thấy nguồn lực nào hữu ích nhất khi tạo ra các cột HPLC hoặc khi xử lý sự cố với các cột?Đáp: Chúng tôi mô tả kỹ càng đặc tính của cột và chất mang - vì vậy những nghiên cứu về nghịch áp và tính hiệu quả rất quan trọng đối với loại công việc đó. Những nghiên cứu này cực kỳ quan trọng để giúp chúng tôi tìm ra cách các cột đang hoạt động hoặc có thể hoạt động. Và chúng tôi cũng có các công cụ toán học khác nhau để giúp mô tả đặc trưng của các cột. Có những phương trình mà chúng tôi điều chỉnh phù hợp với dữ liệu để mô tả những gì đang xảy ra và sau đó dự đoán cách các cột có thể hoạt động dưới các điều kiện khác nhau – ví dụ như nồng độ mẫu khác hoặc lưu lượng khác. Ban đầu chúng tôi thực hiện công việc đó rất nhiều với các cột thử nghiệm, và sau đó, khi hoạt động đã được thiết lập tốt hơn, chúng tôi có thể tạo ra nhiều loại cột giống nhau hoặc cải tiến thiết kế để tiến tới giai đoạn tiếp theo của công việc. Tất nhiên, một khi một phương pháp đã được xác nhận bằng cách so sánh kỹ thuật của chúng tôi với các phương pháp khác, chúng tôi có thể tiếp tục và khám phá một số ứng dụng độc đáo cho nó.Câu hỏi: Ông có muốn bổ sung điều gì nữa không?Đáp: Bên cạnh việc nghiên cứu, PTN của tôi là nơi đào tạo cho những sinh viên sẽ tiếp tục nghiên cứu trong môi trường công nghiệp, cơ quan chính phủ hoặc PTN nghiên cứu. Hầu hết, phần lớn những gì sinh viên học được ở đây là HPLC cơ bản - học cách bảo quản hệ thống, cách đánh giá các cột, và cách đánh giá các phương pháp. Chúng tôi sử dụng những công cụ cơ bản trong một môi trường khác hoặc trong các ứng dụng khác so với môi trường hầu hết mọi người thường làm, nhưng quá trình suy nghĩ thì giống nhau. Một điều chúng tôi nhấn mạnh đó là học các Thực hành PTN tốt trong nhóm. Nó cho phép sinh viên có cơ hội thực hành và học hỏi cách làm việc để họ có thể áp dụng chúng vào các ứng dụng khác khi tốt nghiệp.Câu hỏi: Ông tâm đắc điều gì nhất ở công việc của mình?Đáp: Cá nhân tôi thích làm việc với sinh viên, đào tạo họ và khám phá những khả năng tương lai cho công việc của họ. Khi học những kỹ thuật mới này, các sinh viên thường tìm ra rất nhiều hướng đi có thể, và chúng tôi luôn luôn tìm ra những ý tưởng mới và cố gắng theo đuổi những ý tưởng đó. Thật thú vị khi cố gắng tìm hiểu xem chính xác những gì chúng tôi có thể làm với HPLC mà mọi người chưa từng làm trước đây. Tôi nghĩ có rất nhiều tiềm năng trong việc mô tả các hệ thống sinh học vốn chưa thực sự được thực hiện nhiều trong quá khứ. Cũng có rất nhiều tiềm năng để phát triển các phương pháp chọn lọc hơn bằng cách kết hợp các phương pháp sắc ký khác nhau. Cách tiếp cận này đã được sử dụng trước đây, nhưng tôi nghĩ vẫn còn khả năng để phát triển hơn nữa.

Theo www.labmanager.com

Page 26: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

26

Quản lý tiếng ồn trong

phòng thử nghiệm

Nhiều khu vực trong phòng thử nghiệm và đặc biệt là các cơ sở nghiên cứu vốn đã ồn ào. Tiếp xúc với tiếng ồn lớn trong thời gian dài có thể dẫn đến việc mất thính giác vĩnh viễn.

Page 27: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY27

Những thách thức đặc thù đối với an toàn lao động hiện diện trong các cơ sở nghiên

cứu, đặc biệt là các phòng thử nghiệm (PTN). Chúng ta nói về loại mối nguy tiếng ồn nào? Điều quan trọng nhất là cần đề cập đến những điều kiện và tình huống có thể dẫn đến mất thính giác do tiếng ồn (NIHL). Chúng thường liên quan đến tiếng ồn của thiết bị có thể cản trở giao tiếp, ngăn cản việc tập trung, hoặc làm giảm hiệu quả công việc. Do đó, chúng tôi hy vọng bạn bắt đầu suy nghĩ về những mối nguy không rõ ràng như những khu vực có tiếng ồn lớn.Bài kiểm tra trò chuyện

Nhiều khu vực trong PTN và đặc biệt là các cơ sở nghiên cứu vốn đã ồn ào. Tiếng ồn quá mức có thể xuất phát từ các thiết bị đang sử dụng, như máy ly tâm, máy trộn, thiết bị làm sạch và cung cấp không khí áp suất cao, máy bơm chân không và hệ thống hút bụi. Tiếp xúc với tiếng ồn lớn trong thời gian dài có thể dẫn đến việc mất thính giác vĩnh viễn (NIHL). Chứng NIHL là mãi mãi và không thể chữa

khỏi. Tuy nhiên, cách phòng ngừa thường rất dễ dàng. Vậy tiếng ồn như thế nào là quá lớn? Cách nhanh chóng và hữu ích để kiểm tra các khu vực có tiếng ồn quá mức là "bài kiểm tra trò chuyện". Đứng cách nhau khoảng 100cm, thử nói chuyện bình thường với người khác trong một khu vực ồn ào. Nếu rất khó hoặc không thể trò chuyện, thì tiếng ồn ở đó có thể to quá mức. Hãy mời một người có trình độ thông thạo về tiếng ồn nơi làm việc, kỹ thuật đo lường, phân tích dữ liệu và các lựa chọn kiểm soát để đánh giá tất cả các khu vực.Các yêu cầu về pháp lý?

Tiếng ồn được đo bằng mức áp suất âm thanh theo đơn vị decibel (dB). Ở nơi làm việc tiêu chuẩn, OSHA giới hạn mức tiếng ồn mà nhân viên tiếp xúc là 90dB trung bình trong một ca làm việc tám tiếng (đo theo thang A với phản ứng chậm bằng một máy đo âm thanh tiêu chuẩn/SLM). Đây được gọi là Giới hạn tiếp xúc cho phép (PEL). Theo các quy định của OSHA, không được để nhân viên tiếp xúc với tiếng ồn lớn mà không được bảo vệ.

Page 28: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

28

Các quy định của OSHA phải được tuân thủ và có trong tài liệu OSHA 29 CFR 1910.95.

Hội nghị các Nhà vệ sinh công nghiệp của Chính phủ Hoa Kỳ đã đề xuất một ngưỡng bảo vệ thấp hơn, 85dB, gọi là Ngưỡng giới hạn (TLV), mặc dù đó chỉ là hướng dẫn về mặt kỹ thuật. Giá trị này cũng tương đương với mức độ hành động của OSHA và kích hoạt sự cần thiết để thực hiện một Chương trình bảo vệ thính giác (HCP). Nếu mức tiếng ồn vượt quá 85dB thì người sử dụng lao động phải phát triển HCP cho nhân viên bị tiếp xúc.Đánh giá độ tiếp xúc tiếng ồn

Chúng tôi đã đề cập đến việc đo mức độ tiếng ồn với máy SLM. Đây thường là bước đầu tiên và được gọi là khảo sát tiếng ồn. Sử dụng một máy SLM tốt, bạn chỉ cần thu thập số liệu tất cả các khu vực làm việc và ghi lại mức độ tiếng ồn của chúng. Bất kỳ khu vực nào cao hơn 85dB phải được lưu ý để đánh giá bổ sung và giám sát tiếng ồn cá nhân cho phù hợp. Cả PEL và TLV được tính trung bình cho thời gian tám tiếng. Do đó, nếu khảo sát tiếng ồn cho thấy các khu vực bị vượt quá PEL hoặc TLV, bạn nên lập kế hoạch thực hiện giám sát tiếp xúc tiếng ồn toàn bộ ca làm việc cho một số cá nhân đại diện cho những người lao động bị tiếp xúc với tiếng ồn. Loại hình kiểm tra này được gọi là đo lượng tiếng ồn cá nhân. Trong suốt ca làm việc, người lao động mang dụng cụ để đo lường tiếng ồn trung bình và tính tỷ lệ phần trăm lượng tiếng ồn cho phép hoặc bị tiếp xúc. Tỷ lệ phần trăm sau đó được so sánh với bảng OSHA tương ứng và tất cả nhân viên có tỉ lệ bị vượt trên 100% sẽ cần phải sử dụng thiết bị bảo vệ thính giác và được nêu trong HCP của bạn.HCP (Chương trình bảo vệ thính giác)

HCP liệt kê chi tiết tất cả các bước cần có để bảo vệ những nhân viên bị tiếp xúc với tiếng ồn. Tất cả các nhân viên được bảo vệ bởi HCP phải được kiểm tra thính giác căn bản và sau đó được kiểm tra lại hàng năm. Họ phải được cung cấp các thiết bị bảo vệ thính giác phù hợp và được đào tạo để sử dụng chúng đúng cách.

Những phương pháp và hồ sơ lưu trữ liên quan này đều được yêu cầu theo tiêu chuẩn OSHA.

Kiểm tra thính giác được sử dụng để kiểm soát chứng mất thính giác vĩnh viễn (NIHL) cho người lao động và số liệu được giám sát theo thời gian. Thông thường, chứng NIHL được ghi nhận khi giảm khả năng phản ứng đối với tần số cao hơn 2,000 hertz (Hz) trong khi kiểm tra thính giác. Do giọng nói của con người thông thường nằm trong khoảng 2,000-4,000 Hz, chứng NIHL suy nhược dần trong khi làm việc và trong cuộc sống thường ngày, và có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường. Tất cả những trường hợp xác nhận bị NIHL phải được ghi lại và báo cáo cho OSHA. Các hành động khắc phục phải được phát triển và áp dụng bởi chuyên gia sức khỏe nghề nghiệp đang thực hiện chương trình bảo vệ thính giác.Kiểm soát tiếng ồn

Tiếng ồn cũng tuân theo quy luật vật lý. Việc kiểm soát tiếng ồn gồm 3 nhóm: kiểm soát kĩ thuật, kiểm soát hành chính, và thiết bị bảo vệ cá nhân. Theo tiêu chuẩn OSHA, kiểm soát kĩ thuật được sử dụng đầu tiên để chống lại ô nhiễm tiếng ồn. Biện pháp này có thể bao gồm mua thiết bị mới hơn, ít ồn hơn, che chắn hoặc lắp đặt vành đai hấp thụ giảm tiếng ồn, và/hoặc xử lý tường và trần nhà. Biện pháp kiểm soát hành chính sẽ giới hạn thời gian nhân viên ở trong khu vực bị ô nhiễm tiếng ồn, hoặc phân công nhiều hơn 1 nhân viên để chia nhỏ khoảng thời gian hoàn thành công việc. Hàng rào phòng chống cuối cùng để ngăn chặn tiếp xúc tiếng ồn quá mức là sử dụng thiết bị bảo vệ cá nhân như nút tai, bịt tai.Kết luận

Trong bài viết này chúng ta đã nhắc tới bề nổi của việc đối phó với ô nhiễm tiếng ồn. Hi vọng rằng bạn sẽ xem xét các trường hợp ô nhiễm tiếng ồn tiềm tàng có thể ảnh hưởng tới an toàn lao động của cơ sở.

Theo www.labmanager.com

Page 29: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

CHƯƠNG TRÌNH THỬ NGHIỆM THÀNH THẠO - VinaLAB PT 2017 - Tổng hợp

STT Mã PT Tên chương trình Chỉ tiêu Phí tham dự (VND)

EDC

01 VPT.1.5.17.61 Phân tích kim loại trong nước và nước thải

Cu, Fe, Zn, Mn, Cr, Ni, Na, K 2.500.000

02 VPT.1.5.17.62 Phân tích KL nặng trong nước và nước thải Cd, Pb, Hg, As 2.500.000

03 VPT.1.5.17.63 Phân tích các chỉ tiêu trong nước thải

N tổng số, N_NH4+, N_

NO3-, P tổng số, P_PO4

3- , Tổng dầu mỡ

2.500.000

04 VPT.1.5.17.64 Phân tích các chỉ tiêu trong nước và nước thải

Phenol, Chất hoạt động bề mặt, Tổng dầu mỡ,

dầu khoáng2.500.000

05 VPT.1.5.17.65Phân tích các chỉ tiêu

đánh giá chất lượng thức ăn chăn nuôi

Ẩm, Protein thô, N_NH4+,

béo, tro tổng số, Xơ, P 2.500.000

06 VPT.1.5.17.66 Phân tích KL trong thức ăn chăn nuôi

Ca, Fe, Zn, Cu, Cd, Pb, Hg, As 2.500.000

07 VPT.1.5.17.67Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng

phân bón

Ẩm, N tổng số, P2O5 tổng số, P2O5 hữu hiệu, K2O

tổng số, K2O hữu hiệu, S tổng số

2.500.000

29BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY

Page 30: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

30

08 VPT.1.5.17.68Phân tích Malachite

Green, Leuco Malachite Green trong thủy sản

Malachite green,

Leuco Malachite Green 2.500.000

09 VPT.1.5.17.69 Phân tích Trifluraline trong thủy sản Trifluraline 2.000.000

10 VPT.1.5.17.70Phân tích kháng sinh họ Fluoroquinolone trong

thủy sản

Enrofloxacin, Ciprofloxacin 2.000.000

11 VPT.1.5.17.71Phân tích

Chloramphenicol trong thủy sản

Chloramphenicol 2.000.000

12 VPT.1.5.17.72Phân tích Vitamin C,

Vitamin B2 trong nước giải khát

Vitamin C, Vitamin B2 2.500.000

13 VPT.1.5.17.73Phân tích các chỉ tiêu

đánh giá chất lượng sữa bột

Ẩm, béo, đạm, đường, Ca, P, Tạp chất 2.500.000

14 VPT.1.5.17.74 Phân tích Ochratoxin trong cà phê rang Ochratoxin 2.500.000

15 VPT.1.5.7.75 Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng đất

Độ ẩm, K tổng số, K dễ tiêu, P tổng số, P dễ tiêu, N tổng số, N dễ tiêu, tổng

Carbon hữu cơ

2.500.000

16 VPT.1.6.17.78Phân tích Vi sinh trong nước giếng, nước máy,

nước sản xuất

Tổng số VKHK, Fecal Coliform, Coliforms,

E.coli3.000.000

17 VPT.1.6.17.79 Phân tích vi sinh trong nước và nước thải

Coliforms, E.coli, Fecal Coliforms 3.000.000

18 VPT.1.6.17.173 Phân tích vi sinh trong thủy sản

Salmonella,

Listeria monocytogene3.000.000

Page 31: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

AoV - PTLĩnh vực Hóa học

19 VPT.2.5.17.04 Chỉ tiêu chất lượng trong sữa đặc có đường

Hàm lượng chất khô, Hàm lượng chất béo, Độ axit,

Protein, Đường sacaroza, Canxi

3.000.000

20 VPT.2.5.17.08 Kim loại trong sữa Asen, Cadimi, Chì, Thủy ngân, Thiếc 4.000.000

21 VPT.2.5.17.09 Chỉ tiêu chất lượng trong nước chấm

Hàm lượng Nito toàn phần, Hàm lượng Nitơ

axit amin, Hàm lượng Nitơ amoniac, Độ axit, Hàm

lượng muối NaCl

3.000.000

22 VPT.2.5.17.10 Chỉ tiêu chất lượng dầu thực vật

Chỉ số peroxide, Chỉ số acid 2.000.000

23 VPT.2.5.17.24*Chỉ tiêu chất lượng trong thức ăn chăn

nuôi

Protein, Nito amoniac, Tro tổng số, Tro không tan trong HCl, Béo, Độ ẩm,

Xơ, Phospho, Canxi, NaCl

4.000.000

24 VPT.2.5.17.53* Kháng sinh trong thủy sản

Nitrofurans (AOZ),Nitrofurans (AMOZ) 3.000.000

25 VPT.2.5.17.57 Kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi

Tetracycline, Chlortetracy-cline,

Oxytetracycline, 3.000.000

26 VPT.2.5.17.93 Kháng sinh trong sữaTetracycline,

Chlortetracycline, Oxytetra-cycline

3.000.000

Lĩnh vực Sinh học

27 VPT.2.6.17.09 Vi sinh trong sản phẩm động vật L.monocytogen 3.000.000

28 VPT.2.6.17.20 Vi sinh vật trong thủy sản Enterobacteriaceae 3.000.000

29 VPT.2.6.17.21* Vi sinh trong sữa bột E.coli 3.000.000

30 VPT.2.6.17.49 Vi sinh trong thủy hải sản Aeromonas.hydrophila 3.000.000

Page 32: Đã loại bỏ được virus HIV trong tế bào người cấy trên ... · nghiệm được đầu tư từ ngân sách Nhà nước, một số phòng thử nghiệm thuộc

SỐ 14 - THÁNG 03/2016

Maket mới

SỐ 28 - THÁNG 06/2017