· người máy, được cấy sinh tử phù, chinh là những tên thái thú ... mình và...
TRANSCRIPT
http:// www.vanbutnamhoaky.com
Nhân dịp Đầu Xuân mới Tạp Chí Tin Văn Kính Chúc Quý Văn Thi Hữu cộng tác viên,
Quý ân nhân yểm trợ, Quý thân chủ Quảng cáo và Quý độc giả
AN BÌNH HẠNH LỢI THĂNG TIẾN
TRÊN MỌI LÃNH VỰC.
2 Tin Vaên
Thông tin*nghị luận*sáng tác*văn học*nghệ thuật
VBVNHN/Vùng Nam Hoa Kỳ chủ trương
8011 Findlay st. Houston, TX 77017
Email:[email protected]
Phụ trách tổng quát: Túy Hà
Thư Ký Tòa Soạn: Phạm Tương Như
Quản Lý tài chánh: Mây Ngàn
Sáng tác thường trực :
Nguyễn Đức Nhơn - Phạm Ngũ Yên - Huỳnh Quang Thế - Lê
Thị Hoài Niệm - Vĩnh Tuấn - Yên Sơn - Huỳnh Công Ánh - Lan
Cao - Lưu Thái Dzo - Lê Hữu Minh Toán - Nguyễn Thế Giác -
Phan Đình Minh - Thu Nga - Trương Sĩ Lương - Vô Tình - Diễm
Nghi - Cù Hòa Phong - Lưu Nguyễn Từ Thức - Nguyễn Tuấn
Chương - Dương Phước Luyến - Dương Thượng Trúc - Song An
Châu - Võ Thạnh Văn - Như Phong - Nguyễn Mạnh An Dân –Mai
Thanh Truyết – Hoàng Thị Thanh Nga – Linh Vang – Hoàng Lan .
Thu hương seattle –Thiên Lý Mộc Châu- Nhật Hồng Nguyễn
Thanh Vân
Cộng tác viên:
Tô Thùy Yên - Trần Hồng Văn-Vũ Tiến Lập - Nguyên Nhung
- Quan Dương - Trọng Đạt - Phạm Thu Liễu - Đoàn Thy Vân - Cái
Trọng Ty - Nguyễn Minh Triết- Trần Bang Thạch - S.E.Trần -
Tiểu Thu. Nguyễn Lập Đông - Nguyễn Thị Thanh Dương - Thy
Lan Thảo - SongThy - Dạ Dung Vũ - Ngô Thu Hồng - Kim Oanh
- Ngọc Anh - Trần Việt Cường - Nguyễn Phạm Thái - Chu Thụy
Nguyên - Trần Yên Thụy - Như Ly - Văn Nguyên Dưỡng - Châm
Hồ - Vương Hồng Ngọc - Thy Lan Thảo - Minh Xuân 538 -
Phạm Tín An Ninh – Phạm Trần Anh –Trần Vấn Lệ -Vương Thảo
Yên- Trầm Vân- Thái Bạch Vân- Phạm Quang.
Phụ trách trang Web: BBT Tin Văn
Trình bày bản văn: Bảo Bình
Hình bìa số này: Tranh Đinh Cường
Tin Vaên 3
Tâm tình
Xuân Đinh Dậu
thay lời ngỏ
Ở một thời khắc nào đó trong
ngày ta bỗng nhớ tới Xuân, nhớ tới
Tết. Nhớ tới vì một ai đó nhắc nhở
Xuân sắp về; nhớ tới vì nó đã nằm sẵn trong vô thức của
chúng ta, hễ ai nhắc nhở là Xuân, Tết hiện ra ngay; và cuối
cùng cũng có thể làm cho chúng ta nhớ tới vì thời tiết, đất
trời đổi thay, giao mùa đông lạnh rõ rệt.
Hơn 41 năm rồi, cho dù theo bản năng sinh tồn, cơ thể
con người buộc phải làm quen với khí hậu khắt khe ở bên
này phần đất của địa cầu đi chăng nữa, thì ta vẫn cảm thấy
Xuân sắp về, Tết sắp đến ở bên kia phần đất quê hương với
những nhớ thương theo lẽ tự nhiên của con người Việt Nam.
Hơn 41 năm trước chắc chắn không ai trong mỗi chúng ta
nghĩ rằng, một ngày nào đó phải lià bỏ quê hương, lìa bỏ
những người thân thương, bà con, bạn bè với nhiều kỷ niệm
khó quên… để ra đi và không hẹn ngày về. Chắc chắn cũng
không ai nghĩ đến một ngày nào đó... họ sẽ tán gia bại sản,
lênh đênh trên biển trời mênh mông vô tận, sống chết trong
đường tơ kẽ tóc, chỉ vì muốn được sống tự do, được quyền
làm người như những dân tộc văn minh khác trên thế giới,
đành phải đánh đổi tánh mạng cho cá mập, hoặc nát thân vì
những tên hải tặc mặt người dạ thú.
Hơn 41 năm trước chắc không ai nghĩ rằng tập thể người
Việt tỵ nạn sẽ san bằng mọi khó khăn và sẽ thành công rực
rỡ trên đất người... Thế nhưng 41 năm sau, sự thành công
trên đa diện của người Việt, nhờ những đức tính hiếu học,
cần cù và thông minh đã làm cho người dân bản xứ phải nể
trọng.
4 Tin Vaên
Hơn 41 năm dài cứ thế mà trôi qua một cách lặng lẽ,
không hề dừng lại ở một điểm hẹn nào để níu kéo tuổi xuân,
chống lại sự lão hóa của vạn vật, trong đó con người cũng
“chạy trời không khỏi nắng”, nghĩa là đến và đi theo định
luật của trời đất -- sanh lão bệnh tử. Thế nhưng, nếu còn hiện
hữu thì có mùa xuân nào mà chúng ta không mơ ước được
đoàn tụ với gia đình, với bà con thân thuộc, với xóm làng ở
quê nhà, nơi đó có những gắn bó thiêng liêng mà lòng ta
luôn luôn mơ ước một lần quay về.
Nhiều người đã về để thỏa mãn những nhớ thương vì
năm tháng chồng chất trong tận cùng đáy lòng họ. Nhưng khi
từ giã quê hương để ra đi thì lại vương vấn, suy tư nhiều hơn,
buồn hơn về thảm trạng đổ nát, đau khổ của dân tộc vì xã
hội băng hoại đến tột cùng, giặc Tàu đang tràn lan khắp
nước, hiện tượng dân tộc bị Hán hóa ngày càng rõ ràng
không thể chối cãi.
Thế mà những người cộng sản vô tri vô giác, cai trị đất
nước, chỉ vì lợi lộc cá nhân, đã quên bổn phận con dân nước
Việt là phải gìn giữ non sông bờ cõi. Và cần nhất là người
dân cần được chăm sóc sức khỏe để tránh họa diệt chủng mà
đám Hán gian đang giăng mắc hóa chất, đầu độc lan tràn
cùng khắp trong đời sống hàng ngày của dân chúng từ Bắc
chí Nam. Ôi! Bị diệt hết rồi, còn ai để vùng dậy chống xâm
lăng như tổ tiên chúng đã đổ máu xương cho đất mẹ sinh tồn
đến ngày hôm nay?
Ngày nay, những chiếc mặt của tập đoàn tay sai Hán
cộng đã rơi xuống và lộ rõ nguyên hình họ là những con
người máy, được cấy sinh tử phù, chinh là những tên thái thú
nói rành tiếng Việt. Như thế làm gì họ còn tim óc để yêu
thương giống nòi Việt tộc! Công an và quân đội là hai lực
lượng có thể đứng dậy xóa bỏ chế độ cộng sản bệnh hoạn,
mục rữa, thì họ đã bị vòng “kim cô” đè nặng lên đầu, không
thể vùng vẫy được.
Xã hội Việt Nam ngày nay đã hết thuốc chữa, chỉ còn ngồi
chờ tử thần lấy mạng… Nhân nghĩa trí dũng của con người
Tin Vaên 5
đã biến mất từ bao giờ mà chẳng biết. Ai cũng thấy căn nhà
Việt Nam hiện nay đang mục nát, xiêu vẹo…chỉ cần vài bàn
tay lực lưỡng là có thể xô sập, nhưng chẳng ai có đủ nghị
lực, bản lãnh để đứng dậy vung tay hành động!
Hãy nghe một cựu đảng viên (CSVN) Lê Minh Đức
nhận định về con người cộng sản là ai. Xin trích một đoạn
trong bài viết ngắn: Đảng viên đảng csvn - Ta Là Ai? để
chúng ta suy ngẫm:
“Ta là ai? Ta là đảng cộng sản VN. Ta là thứ cặn bã của
dân tộc này. Ta là thứ mọi rợ đạo đức giả. Ta là loài khỉ đột
đã xua đuổi được mọi nền văn minh để tiếp tục tự sướng với
nhau trong bóng tối của thời trung cổ. Và còn nữa? Hãy chờ
xem ta sẽ nghiến nát kẻ thù (nhân dân) như đàn anh “Trung
Quốc” của chúng ta dùng xe tăng xay thịt nhân dân chúng
nó thành thức ăn cho súc vật trên quảng trường Thiên An
Môn.
“Ta là quái thai thời đại. Ta không xứng đáng đứng ngang
hàng với loài người văn minh trên trái đất này. Thảm họa
diệt chủng đã hiện ra trước mắt, không ai có thể cứu được
dân tộc Việt Nam khỏi thảm họa này, ngoài 90 triệu người
Việt. Mỗi người cần nhìn thấy cái chết đang đến với chính
mình và con cháu mình, hãy chuyển tải tin này tới tất cả mọi
người, tới mọi tờ báo, mọi phương tiện truyền thông để mọi
người cùng biết, cùng nhau đứng lên chống thảm họa diệt
chủng đã đến trước mắt, để cả thế giới cùng biết và lên tiếng
bảo vệ chúng ta.
“Đúng! Anh có thể lừa dối vài người trong mọi lúc. Anh có
thể lừa dối mọi người trong vài lúc. Nhưng Anh không thể
lừa mọi người trong mọi lúc. (Abraham Lincoln) (hết trích)
Biết cộng sản tàn bạo, xảo trá, láo lường, đểu cáng, thất nhân
tâm, đủ thứ xấu xa như vậy… nhưng vẫn còn nhiều kẻ tiếp
tay giúp bọn này trong âm mưu phá tận gốc giống dòng lạc
Việt, còn lưu lạc nơi xứ người sau biến nạn 1975, cho gọn.
Thế đó, họ hồ hỡi tung ra từng đợt tấn công vào tập thể
người Việt chống cộng qua chiêu bài “giao lưu văn hóa”, sử
6 Tin Vaên
dụng văn nghệ, mạo danh vai trò truyền thông, văn hóa, sử
dụng toàn chữ nghĩa của thời “xã nghĩa”, ngụy trang dưới
mục tiêu thương mại, nhưng khi đủ lông đủ cánh thì họ
“xung phong ra trận” và sẵn sàng tròng “dây xích” bằng
nhiều cách vào thành phần đấu tranh chống chế độ Việt cộng
tay sai của Tàu Cộng. Có thể những người xông xáo ngoài
cộng đồng đã biết thâm chiêu của CSVN, nhưng vì tư lợi, vì
tự ái vặt, hoặc vì mục tiêu chính trị bất chánh nên sẵn sàng
“giao lưu”, quay mặt với chính họ trong tư thế của một con
dân Việt Tộc bình thường.
Đúng là “Thời thế, thế thời nên họ phải thế”. Chắc chắn
chúng ta đã nhận diện được rồi. Những chiếc mặt nạ ngụy
trang ấy đã rơi xuống. Nhân chứng cho những trò đời phản
bội vẫn còn đó. Những cuộn băng, những trang giấy trắng
mà mực đen vẫn còn đậm nét sờ sờ ra đó… chắc chắn sẽ khó
phai mờ khi đất nước hồi sinh trong ánh sáng tự do. Có cần
để bàn cãi nữa không? Không! Đã quá đủ để chúng ta thấu
hiểu tâm đen của họ. Vậy chúng ta cần phải cẩn thận, tích
cực hơn nữa, cảnh giác hơn nữa để tránh những hiểu lầm
đáng tiếc xảy ra do họ gài bẫy để tạo chia rẽ. Thời nào cũng
có kẻ chánh người tà; những tên tà tay sai của CSVN đâm
vào lưng chiến hữu, bạn bè... sẽ phải trả giá theo luật nhân
quả.
Thế nhưng trời bất dung gian, chiến dịch tuyên vận
bằng tuyên vận trá hình trong nhiều năm qua đã bị tập thể
người Việt hải ngoại bẻ gãy. Bằng chứng là cán bộ tuyên vận
của họ đi tới đâu cũng bị người Việt chống đối. Họ có thể đạt
được tí mục tiêu là gây chi rẽ trong khối người Việt hải
ngoại, tạo thêm nhọc nhằn cho anh chị em tiên phương trước
công cuộc đấu tranh chống Cộng; nhưng mặt khác, họ đã
hoàn toàn thất bại về mặt tuyên truyền “giao lưu văn hóa”
bịp bợm, xảo trá.
Quê hương vẫn còn đó! Nhiều người Việt di xứ vẫn
chưa về thăm quê mẹ sau hơn 41 năm xa cách vì thái độ
chính trị, ý thức chính trị, hoặc vì tự lòng mình chưa cho
Tin Vaên 7
phép trở về v.v... Nhưng chắc chắn những nhớ thương quặn
thắt, xen lẫn vạn nỗi lo lắng về một quê hương chìm trong
khổ đau, nghiệt ngã, vẫn ray rứt mãi trong tận cùng đáy lòng
của họ.
Có mùa xuân nào mà chúng ta không ngóng trông một
cơn bão chánh trị đột biến để có thể đổi thay tình trạng đất
nước từ ngục tối bước ra ánh sáng bình minh? Có mùa xuân
nào mà chúng ta không ước mơ một quê hương tự do, giàu
mạnh, văn minh để chúng ta ngẩng mặt hãnh diện với những
người bạn khác giống trên địa cầu này? Ôi! Càng nói càng
đau lòng!
LỜI KẾT
Xuân Đinh Dậu là cơ hội cuối cùng để những người Cộng
Sản phải tỉnh thức, hồi tâm, lìa xa bùa mê thuốc lú của chủ
nghĩa vô thần cộng sản, dứt khoát vứt bỏ vòng “kim-cô” của
Tàu cộng, quay về với bản chất hiếu hòa, đạo nghĩa, lương
thiện, nhân bản của giống nòi Việt tộc. Quay về để cơn đau
của đất mẹ được xoa dịu, những hận thù được xóa tan, cùng
góp tay nhau xây dựng lại quê hương rách nát, dựng lại con
người đã bị tha hóa, vong thân trong gần một thế kỷ qua vì
thực dân, phong kiến và đại họa cộng sản.
Năm Bính Thân đã đi qua với nhiều thiên tai, nhân tai, giáng
họa lên nhân loại, lên đất nước Việt Nam nhỏ bé, nhiều bất
hạnh của chúng ta. Đinh Dậu, năm con gà, “Thân Dậu niên
lai kiến thái bình”. Những con gà bệnh hoạn sẽ phải chết tiệt
vì bệnh toi. Những con còn lại, với tinh thần và ý chí dũng
mãnh, bất khuất, đạo hạnh, một lòng với Tổ tiên, nòi giống,
sẽ sống sót và cất cao tiếng gáy, đón chào một bình minh
rạng rỡ trên quê hương Việt Nam. Tự Do Dân Chủ tất sẽ
bùng nổ lớn mạnh trong năm 2017, bắt nhịp cầu cho một
cuộc cách mạng dân tộc hồi sinh, mà 90 triệu người dân đã
chờ đợi để nhập cuộc trong gần một thế kỷ qua. Xuân Đinh
Dậu! Dậy mà đi! Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi!
Trương Sĩ Lương
8 Tin Vaên
Song An Châu
Cờ Vàng ta tung bay Khắp bầu trời Bắc Mỹ
Trong rạo rực
tôi choàng thức dậy,
bước vội ra ngoài
trong ánh bình minh buổi ban mai
để nhìn lá cờ vàng ta tung bay
trên khắp bầu trời Bắc Mỹ.
Ôi lá cờ vàng, màu da dân tộc
ba dãy sơn hà là màu máu dân tôi
đã mấy ngàn năm đổ xuống đắp bồi
cho dân Việt ngàn đời sống mãi.
Đất nước tôi nằm bên bờ Đông Hải
tắm mình trong giòng nước Cửu Long
máu quân thù đã nhuộm đỏ sông Hồng
cũng là nơi xác giặc vùi thây
đã bao lần - tràn qua từ phương Bắc.
Tin Vaên 9
Đất nước tôi và dân tôi
có biết bao anh hùng xả thân giết giặc
để bảo vệ cõi bờ, bảo vệ lá cờ
Hôm nay và ngày mai đây
nhất quyết không chấp nhận lá cờ hồng
lá cờ máu của kẻ gian, kẻ tham tàn
và của tập đoàn bán nước
đã đổi màu cờ bằng chủ nghĩa ngoại lai.
Đất nước tôi, sông núi trãi dài
từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau
thơm mùi đất phù sa sông Hồng, sông Cữu
Dân một lòng – từ ngoài chí trong
quyết hạ lá cờ hồng
để phất lên cờ vàng ba sọc đỏ.
Nơi hải ngoại
chúng tôi sẵn sàng rồi đó!
Hãy đứng lên!
Hãy đứng lên!
Hởi chiến sĩ đồng bào!
Muôn ngàn bàn tay chúng tôi
sẳn có đàng sau
quyết cùng nhau đập tan lá cờ máu.
Nơi hải ngoại
Lá cờ vàng đã phất phới bay
trên bầu trời Bắc Mỹ
Từ Virginia, Chicago, Cali
Louisiana,Oklohama đến Georgia.
Rồi mai đây,
cờ vàng ta sẽ tung bay
trên bầu trời đất Việt
và khắp năm châu bốn bể một màu.cờ.
10 Tin Vaên
Hại dân hại nước là phường ác tâm
Bây giờ khắp cả xóm làng
Dân tình khổ ải tan hoang ruộng vườn
Hàng ngày bao cảnh đau thương
Đất đai chúng cướp là phường mị dân
Bán cho ngoại quốc làm sân
Vui chơi đánh golf người dân đau lòng
Đất dai mất trắng tay không
Không nơi cày cấy, ruộng đồng giờ đây
Nông dân không đất để cày
Mọi người không kế sinh nhai hằng ngày
Dân oan phân giải tỏ bày
Tiền ta bỏ túi tụi mày đừng kêu
Nếu bây phản động làm liều
Biểu tình, tranh đấu thì tiêu cuộc đời
Vào tù đừng có kêu trời
Công an nó đánh rã rời thịt xương
Dân oan mất đất xuống đường
Kêu la than khóc, nhưng phường ác tâm
Có đâu nghĩ đến người dân
Chỉ là một lũ ngu đần biết chi
Từ trên xuống dưới ngu si
Hại dân bán nước lo gì quê hương.
Song An Châu
Tin Vaên 11
@Nguyên Thạch
Nổi Lửa Lên Em
Hãy khơi lên ngọn lửa thù đốt giặc
Đốt lửa lên em, thiêu tặc Bắc tham tàn
Tuổi trẻ ơi hãy hãy đứng dậy hiên ngang
Toàn dân hỡi, gọi đàn đi cứu quốc.
Đã đủ lắm rồi!
80 năm vờ vật...
80 năm?
Giờ sự thật tỏ tường
80 năm, đảng về đây với mưu thâm bán đứng Quê Hương
Dựng thành băng nhóm, một phường khốn nạn.
Họ là chư hầu!
Là tay sai cho đại Hán!
Bọn cướp trá hình...buôn bán non sông
Mụ mị rêu rao "Thế Giới Đại Đồng"
Dựng nên bởi lũ cuồng ngông mộng ảo.
Mạo danh chiến đấu cho lý tưởng Độc lập, Tự do, Hòa bình
cơm áo...
Để che giấu mưu thâm gian xảo đê hèn
Cướp bóc dân lành, biến xã hội thành trâu ngựa dần quen
Bần hàn khốn khó hầu dễ chèn dễ trị.
Đốt đuốc lên em
Soi đường chân lý
Nổi lửa lên em
Thiêu ác quỉ gian tà
Dậy cả núi sông, cứu lấy quê cha
Lửa hun đúc cho sơn hà rực sáng
Lửa thiêu phản quốc, lửa đốt sạch quân cuồng ngông
tặc Hán.
Ngọn lửa thiêng của dân tộc sẽ thiêu rụi bọn dã tâm
12 Tin Vaên
vong bản
Sẽ biến thành tro mộng cuồng Hán xâm lăng
Lửa sẽ dâng cao, sẽ đốt sạch, sẽ san bằng
Sẽ hủy diệt tất cả nhưng thế lực cản ngăn bước tiến.
Lửa sẽ lan khắp từ nội thành, từ thôn quê ra sông biển
Lửa từ lòng dân dựng cuộc chiến diệt thù
Lửa sẽ đốt tan mụ mị "Đại thắng mùa Xuân" hay "Cách
mạng mùa Thu"
Lửa sẽ hừng hực căm thù quân bán nước.
Lửa Trí thức, từ dân oan, từ học sinh, sinh viên, từ khối
mảnh đời xuôi ngược
Từ công, nông dân khốn khó kiếm miếng ăn,
được bữa không!
Lửa của 4.000 năm Văn Hiến Lạc Hồng
Lửa sẽ thiêu sạch nhà tù, trại giam, cùm gông, roi đạn...
Giống dòng Rồng Tiên quyết thề sẽ không là Tân Cương,
Nội Mông và Tây Tạng.
Nguyên Thạch
Triệu lá cờ đáp lời sông núi
Ngọn nến bừng đuổi giặc ngoại xâm
Sáng niềm tin rực nỗi hờn căm
Hờn vong quốc năm xưa hằn vết
Đồng bào ơi đồng thanh liên kết
Xoắn tay cùng khắn khít đấu tranh
Đuổi ngoại bang phương bắc
lộng hành
Giữ bờ cõi vẹn hình chữ “S”
Giang sơn của người dân Lạc Việt
Biển của ta, Hoàng với Trường Sa
Đất của ta, xã tắc sơn hà
Trường sơn vững tây nguyên sừng sững.
Tin Vaên 13
Thu Nga Năm Dậu
chuyện Gà
Có lẽ trong 12
con vật dùng làm biểu
tượng cho chu kỳ 12
năm trong lịch Việt
Nam, con gà đóng một vai trò lớn nhất nhì trong tiến trình
phát triển nông nghiệp. Trong cuốn Origin of species,
Darwin cho rằng tất cả các giống gà nuôi trên thế giới đều có
nguồn gốc từ gà rừng Đông Nam Á.
Gà loại nào cũng có giống đực, giống cái, hình thù 2
giống rất dễ phân biệt. Gà trống, giống đực cao, to hơn con
gà mái. Gà trống có cái mồng rất to, hình thù như một cục
thịt dư màu đỏ chói. Đuôi gà trống cũng dài hơn, long của nó
màu sắc sặc sỡ. Gà mái thấp hơn, cũng có mồng nhưng rất
nhỏ, long gà mái ít màu sắc hơn. Thị gà mái được nhiều
người thích hơn thịt gà trống. Muốn có thịt gà hơn các bà nội
trợ hay tìm mua gà mái dầy. Nhìn mấy bà lựa gà thì thấy tội
nghiệp con gà mái bị mấy bà bóp, nắn lại còn nhìn vào chỗ
kín con gà xem nó đã đẻ bao nhiêu trứng rồi, để nhiều quá
thịt sẽ dai không ngon lắm. Trong khi người ta cúng kiếng
ông bà trong mâm cỗ Tết thì người ta chọn con gà trống, khi
luộc phải để nguyên đầu nguyên mồng cho đẹp.Thịt gà rất
ngon, nấu món gì cũng thích hợp như gà nấu xúp với đậu
hoặc với nấm, gà đút lò, gà quay, gà rán, cơm gà, cháo gà,
gỏi gà v…v… Cháo gà và gỏi gà cần đi chung với rau răm,
hoặc lá chanh thì hết xẩy. Hãy nghe câu ca dao “con gà cục
tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, con chó khóc
đứng khóc ngồi, mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”. Tức là gà
cần lá chanh, lợn phải có củ hành mới ngon, còn riềng nghe
14 Tin Vaên
tên là biết cho món thịt chó rồi. Ái tình vụng trộm được gọi
là “mèo mã gà đồng”.
Trong “Lục súc tranh công” tức là 6 con gia súc: trâu, chó,
ngựa dê, gà, lợn tranh nhau kể công. Nào là trâu ganh tị với
chó, chó cãi lại, đến lượt chó tị hiềm với ngựa, rồi ngựa với
dê, dê với gà, gà với lợn; Con nào cũng cho mình là nhất,
không con nào chịu con nào. Dê nỏ miệng chê gà:
Ba cái rác nằm không yên chỗ,
Mấy bụi rau nào đã bén dây
Cả ngày thôi những khuấy cùng rầy,
Nuôi giống ấy làm chi vô lối
Gà vội vàng kể công:
Đã cứu nạn Mạnh thường đặng thoát,
Lại khuyên người Tống sĩ năm canh,
Hễ ai toan cãi dữ, làm lành,
Gà cũng biết tỉnh mê giấc điệp.
Nhân đến chuyện Chu gia bá nghiệp,
Coi giò gà xét biết thịnh suy.
Dóng canh khuya vui dạ kẻ tiêu y,
Cất tiếng gáy toại lòng người đãi đán.
Rồi gà quay sang chê lợn:
Heo ăn rồi ngủ ngáy sì sì,
Giả ngây dại biết gì việc chủ,
Ngắm diện mạo dị hình, dị thú,
Xem dung nhan khác thế lạ đời.
Như nuôi chơi chẳng phải giống chơi.
Chạy rau cám như tiền nội án.
Cũng vì gà hay bới rác nên người viết chữ xấu thì bị chê
viết chữ như gà bới. Không biết gà “make love” như thế nào,
nhưng những đấng mày râu mà bị chê “nhanh như gà” là
khổ sở lắm. Còn nếu bị chê “như gà mắc giây thun” lại còn
mệt hơn. Việc gà mắc giây thun nghĩa đen đúng với câu ví
von đó vì con gà nhìn cọng giây thun dưới đất nó tưởng con
trùn nên đớp liền, khi giây thun vào dạ dày rồi thì sẽ làm cho
Tin Vaên 15
gà bị bệnh và sẽ bị tắt thở. Còn nghĩa bóng có ý chê ai đó bộ
điệu nhút nhát hơi khù khờ, cù lần.
Vì gà cồ nóng tánh nên khi người ta chơi trò đá gà. Đá gà là
một môn giải trí không lành mạnh chút nào nhưng lại có
nhiều người ghiền. Đây là một trò chơi được lưu truyền trong
nhân gian cho những buổi hội hè. Gà dung để chọi phải là gà
nòi. Những con gà dung để thi chọi được chủ cho mài cựa
thật bén như dao. Những con gà được huấn luyện đá song
phi, hay chém liên tục làm cho đối phương (cũng gà) bị gục
trong nháy mắt. Chọi gà cũng như chọi trâu đã bị nhiều
người trên thế giới lên án.
Nói về gà cũng phải nhắc đến việc “chửi mất gà”. Môn
này thì các bà chanh chua miền quê bắc Việt xưa mới rành.
Bài chửi gà có dây có nhợ, chỉ cần nghe một câu chắc cũng
đủ rung mình "...Bố cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết
xỉa. Mày day tay mặt, mày đặt tay trái, nỡ ăn cắp của bà đây
con gà, này bà bảo cho chúng mày biết: Con gà nó ở nhà bà,
nó bị bắt trộm về nhà mày thì nó thành con cú, con cáo, con
"thành đanh mỏ đỏ", nó mổ mắt xé xác ông, bà, cha, mẹ, vợ,
chồng, con cái nhà mày đấy. Ấy...ấy....
Trời! nghe bà này chửi mất gà kiểu này thì kẻ ăn trộm gà dầu
miếng thịt có thơm, có ngọt tới cách nào chắc cũng không
nuốt trôi được. Thịt gà ngon, lại được cho là khá sang trọng
khi có khách đến:
“Khách đến nhà không gà cũng vịt”
Nhưng nghèo quá làm gì có gà đãi khắch, nhưng không lẽ
khai gia cảnh của mình ra, nên chủ nhà phải có một vài lời
phân bua như cụ Nguyễn Khuyến
“Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thì đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu, sóng cả, khôn chài cá;
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ;
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
16 Tin Vaên
Bác đến chơi đây, ta với ta.”
Tuy gà là món ăn ngon và trước kia người thích ăn của ngon
mà lạ thì có món gà nuôi ống tre. Con gà nhỏ được bỏ vào
ống tre mỏng và dài, khoét lỗ hai đầu, đầu được ló ra khỏi
ống, để mổ thứ ăn nhưng không thể nào rút đầu vào được.
Cuối ống là đuôi gà được ló ra. Chân, cánh không phát triển
được, lông cũng không mọc được. Nuôi vài tháng cho nó
mập xong, chúng được giải thoát khỏi ống tre, chân đi lạng
quạng không vững, nhưng không cần phải tập đi lại vì sau đó
không lâu, con gà tội nghiệp bị bỏ vào nồi rồi cho lên bàn
tiệc. Những nhà bảo vệ thú vật hay những người yêu động
vật chắc chắn sẽ lên án việc nuôi và ăn một cách ác độc như
thế này.
Lại có loại gà tre nữa. Có nhiều người thích nuôi gà tre
vì hình thù nó nhỏ hơn và có bộ long rất đẹp nên có người
nuôi nó làm cảnh. Gà tre cũng rất hiếu chiến thích hợp cho
môn đá gà.
Môn đá gà cũng bị các nhà bảo vệ thú vật cho là ác độc. Ở
Mỹ này có những nơi chơi trò đá gà đã bị nhà chức trách bố
ráp rất kỹ. Môn đá gà đã được lưu truyền trong dân gian, là
một trò chơi không thể thiếu trong mỗi dịp hội hè.
Khi nói đến Việt Nam người ta biết đến rát nhiều các
giống gà chọi nổi tiếng. Miền Bắc nổi tiếng với gà đá cựa
sắt. Trong số các giống gà chọi của Việt Nam là gà đá cựa
sắt Cao Lãnh. Giống gà này được tiếng ra đòn độc, cựa bén
chém liên tu. Gà lại có tài đá song phi, hai cựa phóng tới như
cặp phi đao. Những giống gà khác được nhắc nhiều trong ba
ngày Tết là gà quý phi. Gà nầy được nuôi khá phổ thông ở
Hưng Yên. Có một loại gà người ta cho rằng rất bổ dưỡng là
gà còn có tên là gà đen, gà chân chì, gà ngũ trảo... là một
giống gà quý thuộc họ trĩ với những đặc điểm là toàn thân và
chân đều màu đen và có thịt bổ dưỡng, gà thường hầm với
thuốc bắc để tẩm bổ sức khỏe. Gà còn dung để tiên đoán thời
tiết “chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa”. Dùng tiếng gà
gáy như đồng hồ báo thức của người dân quê. Thế nhưng
Tin Vaên 17
nếu con gà mái mà gáy thì người ta biết nó mới vừa đẻ xong
trứng” và có lẽ đẻ trứng cũng đau như người đẻ con chăng:
“Gà đẻ gà cục tác/ Bác đẻ bác la làng”
Người nào có làn da tai tái, hơi giống giống lại cái, người ta
gọi là mặt gà mái. Ganh tị nói xấu nhau thì được ví “ghét
nhau vì tiếng gáy”. Muốn giữ thói nghiêm trang với kẻ dưới,
đừng để họ dễ ngươi vì rằng “chơi chó, chó giỡn mặt, chơi
gà, gà mỗ mắt”. Bầy gà con hay hay chạy theo gà mẹ tìm
mồi đi từng bầy với nhau rất đoàn kết thương yêu, thế nhưng
đôi khi cũng xảy ra sự lộn xộn cắn nhau chí chóe vì miếng
ăn. Để khuyên dạy những người không tôn trọng thương yêu
người cùng huyết thống với mình thì có câu “gà cùng một
mẹ chớ hoài đá nhau”. Những kẻ cậy thế cậy thần, bắt nạt kẻ
lạ như “chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”. Ngồi lê,
mách lẻo thì được ví “lép bép như gà mổ tép”. Mắt mũi tèm
hèm thì bị chê “quáng gà”. Trẻ không may mất mẹ sớm, ở
với dì ghẻ chằng khác gì “mẹ gà con vịt”. Thiếu ngủ, đụng
đâu ngủ đó, những giấc ngủ rất ngắn được cho là “ngủ gà,
ngủ gật”. Chê nguời không nhìn rõ sự thật, lẫn lộn phải trái
đã tuyên bố sai lạc vì rằng “trông gà hóa cuốc” Đàn bà hung
dữ, tấn công cả đàn ông được người đời phê “nữ yêu tác
quái, gà mái đá gà cồ”. Gà cũng được đi vào những bức
tranh mộc mạc và đằm thắm của nhân gian. Trong bộ tranh
nổi tiếng làng Đông Hồ thì tranh gà và heo chiếm đa số. Đây
là những bức tranh được ưa chuộng nhất để treo trong ba
ngày Tết vì nó biểu tượng cho sự sung túc. Nhà thơ Hoàng
Cầm đã tả những bức tranh gà lợn bằng hai câu thơ:
“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Nhìn một đàn gà gồm trống, mái và con thấy rất dễ thương,
chúng biết đùm bọc và bảo vệ cho nhau. Con gà trống đi tìm
được mồi sẽ gáy vang cho gà mái và đàn con lại ăn. Gà mẹ
thì luôn luôn theo sát đàn con, khi thấy có hiểm nguy như sự
xuất hiện của chim ó, gà mẹ sẽ gom gà con lại dưới đôi cánh
để che chở. Cảnh gà mẹ ấp trứng cũng cho thấy tình mẫu tử
18 Tin Vaên
thắm thiết. Trong thời gian ấp trứng, gà mẹ cũng có thể trở
thành hung dữ, nó sẽ mổ nếu thấy bị hiểm nguy hoặc phải rời
ổ. Giai đoạn ấp trứng khoảng 21 ngày thì trứng gà sẽ nở. Gà
mẹ sẽ cục tách để thúc giục gà con chui ra khỏi vỏ. Gà con
mổ một lỗ hổng để thở và tiếp tục mổ cho tới khi chui ra
khỏi vỏ. Gà trống gà mái dẫn các con đi tìm thức ăn.
Tiếng gà gáy tạo cho người ta một cảm giác thân thuộc
với xóm làng, dầu gáy buổi sáng chào bình minh hay tiếng
gáy cất lên trong một buổi trưa oi bức như Lưu Trọng Lư
“Xao xác gà trưa gáy não nùng”. Tiếng gà gáy nghe thân
quen làm sao, nó tạo nên một khung cảnh thanh bình, no ấm
của làng xóm miền quê. Chế Lan Viên cũng nhắc đến tiếng
gà gáy qua những câu thơ rất trừu tượng làm cho bao nhiêu
kẻ nhớ quê nhà da diết “… Chế Lan Viên có bài ‘Nhớ tuổi
thơ’:
“Nhớ biển miền Trung tiếng sóng đùa
Nhớ nhà cha mẹ, cảnh trường xưa…
Nhớ chao ôi nhớ! Trời xanh thế!
Tiếng gà gáy là một nét đẹp và lãn mạn trong văn
chương, thế mà tiếng gà gáy Thọ Xương của câu ca dao lại
bị hiểu lầm một cách tai hại như hai câu chuyện sau đây.
Câu ca dao quen thuộc tả tiếng gà gáy êm đềm ở xứ thần
kinh mơ mộng:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”
Và cũng có câu ca dao tương tự nhưng lại chỉ cảnh đẹp của
kinh thành Thăng Long và cũng là tiếng gà gáy Thọ Xương
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.”
“tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương” quả thật là câu
thơ rất hay khi tả tiếng chuông ngân lên hoà với tiếng gà tàn
canh Thọ Xương vọng tới là âm thanh rất tượng hình, rất thơ
mộng. Thế nhưng có nhiều câu chuyện có vẻ tiếu lâm nhưng
Tin Vaên 19
có thật về câu ca dao này, nhất là nửa đoạn của câu cuối
“canh gà Thọ Xương”- Thế mà một anh hướng dẫn viên du
lịch giới thiệu với ông khách người Mỹ câu ca dao trên, dịch
“canh gà” tức là… súp gà (chicken soup), Thọ Xương là mắc
xương, Thiên Mụ là mụ trời! Ông Mỹ về viết lại một quyển
hồi ký dịch nguyên câu này ra tiếng Anh. Một dịch giả Việt
Nam khác đọc được cuốn sách Mỹ, bèn dịch” là:
“Mụ Trời đánh mấy hồi chuông,
Cháo gà húp vội, mắc xương mấy lần”.
Lại có câu chuyện khác được báo chí trong nước đăng,
đó là chuyện một cô giáo tên Hà Thị Thu Thủy của trường
trung học phổ thông, tên trường được phiên âm kiểu Việt
Cộng là Lômônôxôp ở Hà Nội, ra đề tài với câu ca dao: ”Gió
đưa cành trúc la đà. Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ
Xương. Mịt mờ khói toả ngàn sương. Nhịp chày Yên Thái,
mặt gương Tây Hồ” để học sinh bình luận. Cô giáo đọc bài
gật gù khen học sinh giỏi cho tới 8 điểm! mới đầu ai cũng
tưởng em học sinh giỏi giang thông hiểu văn chương thật,
thế nhưng sau đó phụ huynh mất hồn đến “nổi da gà” khi
biết ra con mình bình luận “canh gà Thọ Xương” là món
“canh gà” của Hà Nội. Thế là phụ huynh làm ầm lên, báo chí
phụ họa chế riễu, mặc dù cô giáo giải thích này nọ, nhưng cô
đã để cái dốt lộ ra rồi, thế là cô phải làm đơn xin nghĩ việc.
Một câu chuyện cười dân gian liên quan đến con gà rất
thi vị. Số là có anh thầy đồ dốt mà hay nói chữ. Anh được
một người rước về dạy cho con trẻ tại nhà. Một hôm anh đồ
dạy sách Tam thiên tự , sau chữ “tước” là chim sẽ, đến chữ
“kê” là gà, thầy đồ thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết
chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống quá giảng bừa “Du dỉ
là con dù dì”. Tuy nhiên sợ người nhà nghe được, thầy bảo
học trò đọc khe khẽ. Mắt thầy đồ láo liên, thấy trong nhà có
bàn thờ thổ công, thầy mới đến khấn thầm xin ba đài âm
dương để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì” không. Thổ
công cho ba đài được cả ba. Thấy vậy, thầy lấy làm đắc chí
lắm nghĩ mình thông minh số một trên đời. Hôm sau bệ vệ
20 Tin Vaên
ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to. Trò vâng lời thầy, gân
cổ lên gào: “Dủ dỉ là con dù dì… Dủ dỉ là con dù dì…”.
Người cha đang cuốc đất ngoài vườn, nghe tiếng đọc lạ lùng,
chạy vào, giở sách ra xem, hỏi thầy: “Chữ “kê” là gà, sao
thầy lại dạy ra “dủ dỉ” là con “dù dì” ? Thầy giật mình nghĩ
thổ công sao cũng dốt như thầy!? Tuy nhiên bản chất thầy đồ
này trí trá nên thầy vội gỡ “Ai mà chẳng biết đó là chữ “kê”,
mà “kê” nghĩa là “gà”, nhưng tội dạy thế là dạy cháu biết đến
tận tam đại con gà kia đấy." Chủ nhà ngớ ra “tam đại con gà
là nghĩa làm sao?” - Thế này nhé! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì
là chị con công, con công là ông con gà!
Gian xảo trí trá như thế này mà vẫn còn thua tên lãnh đạo
Cộng Sản, như thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đọc Made in
Việt Nam thành “ma-de in Việt Nam”, lon ton nói nhỏ vào
tai “sao thủ tướng đọc bậy vậy? phải đọc là made in
Vietnam”. Thủ tướng thì thầm lại, nhưng vì có bệnh lãng tai,
nên tuy nói nhỏ mà cả nước đều nghe “đồ ngu! ai mà không
biết, nhưng đỉnh cao trí tuệ như tao phải đọc ma de in Diệt
Nam” thì thiên hạ mới nể”. Sợ chưa được nể đúng mức, sau
đó đỉnh cao trí tuệ mới đọc một bài diễn văn như gà mái bị
mất trứng hay gà trống mắc giây thun “Cờ Lờ Mờ Vờ”, “Cờ
Lờ Vờ”!
Năm nay lại thấy đúng vào năm sấm Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm “Mã đề dương cước anh hung tận. Thân
Dậu niên lai kiến thái bình”. Chữ “anh hùng” được nhiều
người giảng nghĩa khác nhau, có người giải thích: “anh
hùng” đây là Việt Cộng vì chúng tự xưng là “anh hùng” nào
là bà mẹ anh hung, quân đội anh hùng, anh hùng lao động.
Những tên anh hung này dưới sự lãnh đạo của anh hùng Cờ
Lờ Mờ Vờ và tên bí thư, càng nói nhiều càng lú. Dậu năm
nay chắc chắn là phải kiến thái bình rồi. Hy vọng thay!
Thu Nga
Tin Vaên 21
Cánh cửa Tết Nguyễn Văn Thông
Vị-trí địa-lí trên địa-cầu không đồng-nhất nên mùa-màng và
thời- tiết khác nhau. Bắc Bán Cầu đang co-ro trong mùa đông
tuyết phủ thì Nam Bán Cầu lại tung-tăng trong nắng gió mùa hè.
Người mình đón Tết cùng với mùa xuân nở rộ trên quê-hương
trong khi Úc Châu đang ở trong những tháng hè nóng như nung,
và Âu Châu cùng Bắc Mỹ lại trắng xóa tuyết phủ!
40 năm trước, có mấy người mình nghĩ về một cái Tết ở ngoài
quê-hương? Bây giờ thì người Việt ở khắp năm châu mừng Tết bất
kể khí-hậu. Có người nói, mừng Tết là mừng cái Tết trong kỉ-
niệm. Có người lại nghĩ, cái Tết bắt nguồn từ mùa-màng và thời-
tiết nhưng phát-triển để trở thành cái Tết được văn-hóa, nghĩa là
với tác-động của con người. Có lẽ nhiều người trong chúng ta đều
có lần nhận rằng mình đã có một cái Tết năm ấy năm nọ tuyệt-vời.
Tuyệt-vời không phải vì khí-hậu hay thời-tiết, không phải vì thời-
gian hay không-gian cho bằng vì lòng mình và long người. Thế
cho nên, Tết đến, tôi không thấy có nhiều giới-hạn cho dù quanh
tôi là tuyết trắng mà vẫn chuẩn-bị và trông - đợi một cái Tết tuyệt-
vời nở trong lòng như hoa mai, hoa đào nở rộ ngày Tết.
Dĩ nhiên, tôi chuẩn-bị bằng những phong-tục ngày Tết: dọn
cửa, dọn nhà, trang-hòang bàn thờ trong khi vợ tôi dự-tính những
món ăn ngày Tết. Chúng tôi chuẩn-bị để cùng với con cháu có
những ngày sum-họp đầm- ấm, cầu-nguyện cho Ông Bà, Tổ-Tiên,
và không quên tiền-mừng tuổi cho con cháu. Rồi ngày nào ăn Tết
với người thân, đi thăm bà-con và bạn-bè; ngày
nào tham-dự Tết cộng-đồng, và nhạc-hội mừng Tết...
Tôi không thể quên những chậu hoa ngày Tết. Chẳng có cách
nào có được hoa mai ở vùng tuyết phủ này nhưng người ta có thể
tìm được cánh hoa vàng của những cành forsythia ngâm trong
nước ấm để trong nhà từ nhiều tuần trước. Những cành quince gai
22 Tin Vaên
có hoa như hoa đào đỏ đậm vào mùa Xuân Bắc Mỹ nhưng ngâm
nước ấm vào mùa đông thì nở thành hồng nhạt, thiếu nắng thì ra
toàn màu trắng. Ngòai hai loại hoa cành đó còn có những hoa chậu
như Thủy-Tiên, Quỳnh Nhật, Phong-Lan và nhiều thứ khác
nhưng tất-cả đều phải chăm-sóc cẩn-thận trong nhà có sưởi đủ ấm.
Chậu hoa Giấy nhà tôi là châu tôi yêu thương nhất thì chỉ nở
vào mùa Hè. Mùa Tết nó trơ -trụi lá, tôi phải cắt ngắn các cành và
đặt vào góc tối để cây ngủ dưỡng sức. Cuối thu, hoa Giấy còn nở
rộ mà tôi đã phải khệ- nệ bưng vào nhà. Sau hơn tuần lễ, hoa đỏ
khô biến thành tím tía rơi lả-tả xung-quanh chậu trên nền nhà.
Chúng tôi không nỡ thu - dọn mà để vậy. Người bạn tới chơi nhìn
thấy bảo rằng chắc tôi có chuyện tình dàn hoa Giấy gì đây. Đúng
là cái đẹp thường mang theo những kỉ-niệm. Chuyện tình dàn hoa
Giấy của tôi là làng cũ và những đám cưới đưa dâu dưới những
cành hoa Giấy ở hàng giậu đầu nhà thờ.
Rõ là Tết đẹp nhiều ở kỉ-niệm, nhưng kỉ-niệm của tôi thường
đơn- giản và êm- đềm. Nhớ về ngày Tết, tôi nhớ nhiều về cái sân
sau nhà của Bố Mẹ tôi và trước nhà bếp, có cái giếng quay nước
và cây Mít ở giữa sân. Ngày Tết, các cô chú dì của tôi cười nói
rôm-rả từng nhóm trên sân, chỗ lặt rau, rửa chén bát, chỗ nhổ lông
Gà, Vịt. Nhà bếp lửa cháy lách-tách, hơi nước và mùi xào nấu bốc
lên nghi-ngút thơm lừng. Tôi rất muốn ngồi chung giúp một tay
nhưng không có công-việc nào dành cho cậu con trai đi học
về nhà nghỉ Tết nên tôi phải xí lấy việc quay nước từ giếng lên, lúc
nào cũng giữ cho cái thùng phuy và vài cái chum đầy nước. Thế
cũng may vì tôi không quen ngồi xổm, dễ bị mỏi lưng và chóng
mặt mỗi lần đứng dậy.
Tôi đi tu Dòng nên mỗi năm chỉ được về thăm nhà rất ít ngày.
Sau này bề-trên cho nghỉ nhiều hơn, chứ những năm đầu, hè chỉ
được về một tuần, Tết chỉ trọn có ba ngày. Vì vắng nhà lâu nên tôi
được hưởng nhiều tình-cảm của gia-đình. Cái cảm-nhận sung-
sướng nhất của tôi vào ngày Tết có lẽ là sự đổi mới. Tôi thấy mình
như đứa con vừa được sinh lại trong gia- đình mà ai cũng để ý, ai
cũng quí-mến, các em bé của tôi cũng chẳng được yêu-thương
bằng. Về phần tôi, nhìn ai tôi cũng thấy khác ngày xưa. Người
lớn thì ai cũng dễ-dãi, tươi-cười. Anh chị em và bạn-bè của tôi thì
ai cũng tốt cả, chẳng có ai nhớ đến những dở hơi và lỗi-lầm của tôi
hồi trước. Quanh tôi toàn là tình yêu-thương và an-bình. Tôi tưởng
mình như nụ hoa vừa nở, nõn-nà, tươi-xinh trong nắng lụa ngày
Tin Vaên 23
Tết. Rõ-ràng là ngày Tết và mùa xuân tràn vào lòng tôi không
bằng tiết Xuân cho bằng tình gia-đình và xóm làng. Những nụ tình
ấy nở ra từ mảnh tâm-hồn tươi mới, mảnh hồn đã mất đi những
vướng bận của quá-khứ, như mảnh vườn đã qua một mùa khô, đã
chết trong mùa đông, mưa xuân tới nở tung mầm nụ trong nắng
Xuân. Đó là những cái Tết đẹp của tôi trong kỉ- niệm.
Thế không lẽ Tết của tôi chỉ đẹp trong quá-khứ? Không biết
các bạn có cách nào tạo cho mình những cái Tết đẹp không, riêng
tôi nghĩ rằng mình đã tìm được cái chìa khóa từ quá-khứ để mở
những cánh cửa hiện-tại và tương-lai, những cánh cửa ngày Tết để
mùa xuân tràn vào. Cái chìa khóa ấy cũng đơn-giản và bình-dị như
những cái Tết giản-dị nhưng dễ thương của tôi. Khá nhiều con
cháu của chúng ta đang bị cuộn tròn trong dòng cuồng-lưu của xã-
hội hiện nay. Rất may nếu các cháu đang ở trong những cuồng-lưu
trí-thức, văn-hóa, nghệ-thuật, kỹ-thuật, kinh-tế hay xã-hội. Tuy-
nhiên, chúng nó đang sống bằng tốc-độ dù là tốc-độ trên những
đường xa- lộ tân-tiến nhất trên thế-giới này. Tài-năng và trí-thức
của các cháu giống như những chiếc xe siêu hạng phóng êm ru và
cả an-tòan nữa trên những dặm đường đời. Các cháu không bao
giờ cần giảm tốc-độ và nhất là không nghĩ tới chuyện phải “take
an exit” (vào lối ra) mà chỉ cần sang “lane” (làn xe). Lối sống ấy
cần được nhìn lại, tuy nhiên cái lợi thế của các cháu là tuổi
trẻ tràn-trề nhựa sống. Trong khi ấy, chúng ta là bậc Cha Mẹ, Ông
Bà, không còn là những mầm non mà là những gốc già cỗi và sần-
sùi. May cho cụ nào có được vóc- dáng của một cây Bonsai, già
cỗi đấy nhưng vẫn mọc lên những chồi non và hoa tươi. Mà nếu
thế thì tại sao tất cả các cụ không trở thành những gốc Bonsai thay
vì là những gốc già chết mục. Chậu hoa Giấy nhà tôi chưa già
lắm nhưng đã có năm hoa nở thưa- thớt. Sợ năm sau nó tàn, tôi
vội-vàng tỉa cành, thay chậu, cắt rễ, rã đất, châm đất mới. Năm sau
nó cho chúng tôi một góc không-gian rực-rỡ cho dù cái gốc của nó
có già hơn và sần-sùi hơn.
Thì ra cây cũng cần đổi mới để sống lại. Nó cần được xén-tỉa,
cắt đi những lớp rễ mục, bón đất phân có đủ dinh-dưỡng để kết nụ
đơm bông. Tôi nghĩ mình cũng có những nhu-cầu tâm-linh như thế
để hồn mình được nở hoa. Tết, người ta chờ một cái Tết đẹp đến
với mình mà không nghĩ rằng mình phải tạo nên cái Tết đẹp bằng
sự đổi mới tâm-linh, bằng sự cắt-xén, chăm-bón để sống lại đời
sống mới.
24 Tin Vaên
Xin kể một truyện rất bình-thường của nhà văn Khái Hưng,
truyện Hạnh. Thầy giáo Hạnh ra trường Sư-Phạm và được bổ-
nhiệm dạy ở một vùng quê. Hạnh là một thanh-niên hiền-lành.
Quá-khứ của anh là một quá-khứ khiêm- tốn và hầu như bị quên-
lãng trong gia-đình. Anh nghĩ rằng số- phận của mình sẽ mãi hẩm-
hiu. Một lần đi dạy học, Hạnh bị té xe đạp và bị thương. Anh được
một gia-đình chủ nông-trại cam mang vào nhà chăm-sóc tận-tình.
Nhìn bà chủ nhà và con gái chăm-sóc mình, Hạnh rất cảm-động
nhưng cứ tự hỏi có phải vì họ thương-hại mình không. Sau vài
ngày tá-túc và lành vết thương, Hạnh bịn-rịn từ-giã. Trên đường
đạp xe đi dạy học qua nông-trại, Hạnh luôn nghĩ phải có lần ghé
vào tạ ơn ân-nhân nhưng cứ ngần-ngại với đủ thứ lí-do mà hầu
hết bắt nguồn từ mặc-cảm thời thơ-ấu của mình. Vào dịp Tết,
Hạnh bỗng nhìn thấy bà chủ trại ân-nhân của mình ở ngoài chợ,
Hạnh mừng quá chạy tới chào hỏi. Quá-đột-ngột, bà chủ trại
không nhận ra Hạnh nên mất hẳn sự niềm-nở trước đây. Điều ấy
khiến Hạnh thất-vọng và lại để mình rơi sâu vào cái hố mặc-cảm
dày đặc.
Nhà văn Khái Hưng có biệt-tài trình-bày những chuyện bình-
thường để nói lên những điều khác thường. Ở đây chúng ta thấy
rằng, Hạnh còn trẻ đang trở thành già cỗi khi dìm mình trong
những ràng-buộc của quá- khứ. Trong đầu, anh luôn nghĩ rằng
mình bị người khác bỏ quên, mình không ra gì, có được để ý là vì
bị thương-hại. Anh không cắt đi những cái khối u mặc-cảm ấy nơi
mình, tệ hơn cả là thỏa-mãn với sự tự đày-họa mình. Hạnh thật
đáng thương, nhất là Hạnh rõ-ràng hiền-lành. Biết đâu chúng ta –
những người hiền-lành – cũng đáng thương bởi vì đang phí đi
những ngày tháng bằng thở-than, bằng dìm mình trong bóng
tối mặc-cảm, trong các thành-kiến thay vì can-đảm tìm cho ra
những dở hơi của mình, cắt bỏ chúng đi, và bắt đầu một cuộc sống
mới. mới, người ta thi nhau làm những quyết-định mới. Thiếu gì
quyết-định hay nhưng hay nhất phải là đi tìm cái mình cần nhất
bằng hồi-tâm, xét mình, bằng kế-hoạch và quyết-tâm. Hãy dùng
nó như chìa khóa mở cánh cửa ngày Tết cho mùa Xuân tràn vào.
Nguyễn Văn Thông/Jan 10, 2017
Tin Vaên 25
Như Phong Xuân về thèm tiếng Mẹ ru
Bỗng dưng thèm tiếng Mẹ ru
Ầu ơi! Tiếng Mẹ thiên thu vọng về
Cha còn biệt chốn sơn khê
Mười năm tù ngục chưa về với con
Ầu ơi! Gánh cực lên non
Sớm sương chiều nắng nuôi con đợi chồng
Ru con cho điệp giấc nồng
Mai sau khôn lớn gánh gồng giang sơn
Ru con bằng bốn tao nối
Tao nối đất trời, tao nối tình thương
Mẹ ru con vượt trùng dương
Ru cho vơi nỗi đoạn trường của Cha
Lời ru khóc nước thương nhà
Ru lên núi vọng ru ra sông buồn
Ru ngàn năm dựng quê hương
Ru con khắp các nẻo đường gian truân.
Ầu ơ! Mắt Mẹ quần thâm
Còn con lưu lạc phong trần lãng du
Xuân sang viễn địa sa mù
Bỗng dưng thèm tiếng Mẹ ru thuở nào.
26 Tin Vaên
Mai Thanh Truyết Góc nhìn thời sự
Thêm một Formosa phía Nam
Vũng Áng : HÀI CẢNG CỬA VIỆT
Cảng Cửa Việt là một khu cảng sâu ở tỉnh Quảng Trị,
một tỉnh phía Bắc Thành phố Huế, nằm ở thị trấn Cửa Việt,
Huyện Gio Linh. Từ năm 1965 đến 1972, đoạn sông từ Cửa
Việt đến hải cảng quân sự Đông Hà đã trở thành một vùng
hải lưu huyết mạch của Quân đội Hoa Kỳ trong thời gian
chiến tranh với quân CS Bắc Việt.
Tin Vaên 27
41 năm sau khi chiếm được toàn cõi Việt Nam, CS Bắc Việt
lần lần “chuyển giao” các hải cảng dọc theo Vịnh Bắc Việt,
từ cảng Hải Phòng dành cho kho bãi và bến của tàu bè TC
cho đến cảng sâu Cửa Lò, Nghệ An, cảng sâu Sơn Dương,
Vũng Áng, và từ đầu năm 2014, cảng Cửa Việt trở thành một
vị trí chiến lược của TC. Tất cả các cảng trên phối hợp thành
một tam giác biển qua ba trục: - Sơn Dương – Cửa Việt –
Du Nam, thành phố cực Nam của Đảo Hải Nam, nơi trú ngụ
của “hàng không mẫu hạm” Liêu Ninh của TC. Tam giác
nầy, đứng trên bình diện quân sự, nhằm kiểm soát toàn thể
Vịnh Bắc Việt. Chúng ta còn nhớ trong cuộc bạo loạn tại
Bình Dương năm 2014, tàu TC đã ngang nhiên xâm nhập
Vịnh Bắc Việt, hải phận của Việt Nam để đến Sơn Dương
chở hơn 3000 công nhân của Formosa Vũng Áng…về …Tàu.
Có thể nói, hiện tại, một vùng chiến lược đã được xây dựng
ngay tại Cửa Việt… gồm kho bãi, đèn hải đăng (lighthouse)
báo hiệu cho tàu bè, và một khu “quân sự” hoàn toàn bị cô
lập, người dân Quãng Trị không được bén mảng đến, ngay
cả cán bộ CS Bắc Việt cũng bị cấm.
Cửa Việt nằm ở ngay cửa biển của hành lang kinh tế Đông -
Tây, và ở cuối Quốc lộ 9, cách cửa khẩu Lao Bảo 90 km về
phía Đông, chạy xuyên qua Lào, đến tận hải cảng phía tây
Thái Lan, tiếp giáp với Ấn Độ Dương. Hải cảng Cửa Việt
được đánh giá là một công trình quan trọng để thúc đẩy kinh
tế khu vực Vân Nam-Lào-Thái Lan-và Việt Nam phát triển.
Nhưng người thủ lợi nhiều nhứt chính là Vân Nam của
Trung Cộng.
Tỉnh Vân Nam cần 1triệu thùng dầu thô hàng ngày cho nhu
cầu phát triển công kỹ nghệ hóa chất. Trước kia, Chi phí
chuyển vận lượng dầu thô nầy qua ngã duyên hải Trung Hoa
quá tốn kém. Kể từ năm 2008, sau khi hoàn tất việc nạo vét
lòng sông Mekong, vào tháng 12, hai chiếc tàu dầu có trọng
tải 5.000 tấn đầu tiên đã đến biên giới Vân Nam qua ngã Ấn
Độ Dương từ hải cảng phía tây của Thái Lan. Thêm nữa vào
28 Tin Vaên
năm 2010, Việt Nam đã xuất cảng trên 8 triệu tấn dầu từ
Dung Quất qua quốc lộ 9 kể trên.
Hải cảng Cửa Việt chỉ cách vùng Đông Bắc Thái Lan
300 km đi theo đường xuyên Á Đông Tây, khoảng cách này
ngắn hơn nhiều nếu so với trên 1000 km nếu đi ngược về
hướng Vịnh Thái Lan hoặc biển Mianma. Đây có thể được
xem là một lợi thế giúp cho cảng Cửa Việt có cơ hội phát
triển thành cảng sâu lớn, giúp cho lưu thông hàng hóa đường
biển thuận lợi hơn giữa Việt Nam, Lào và Thái Lan.
Chính vì những thuận lợi trên mà TC càng đầy mạnh tiến
trình xây dựng cảng kinh tế-chính tri-quân sự và chiến lược
nầy.
Hải cảng Cửa Việt từ năm 2014 đã được chuyển giao
về cho Tập đoàn TC lập căn cứ “quân sự” tại Cửa Việt
thông qua một “dự án kinh tế” của Công ty Cổ phần Chăn
nuôi C.P. Việt Nam – một công ty sản xuất thức ăn gia súc,
thuỷ sản và chăn nuôi hàng đầu Việt Nam, vốn thuộc tập
Tin Vaên 29
đoàn C.P. Group của Thái Lan, nhưng đã bị Trung Cộng
thâu tóm sau đó.
Cũng cần nên biết, vào năm 2009, Cửa Việt được trao
cho tập đoàn công nghiệp Tàu thủy Việt Nam Vinashin, và
tập đoàn này đã có dự án 3000 tỷ đồng để xây dựng Cửa Việt
thành một cảng biển sâu trong khu vực miền Trung. Trong
đó, 600 tỷ đồng đầu tư đến năm 2010 cho cầu cảng Cửa Việt
để đón tàu 10 nghìn tấn, 1.600 tỷ đồng để xây dựng nhà máy
đóng tàu 70 nghìn DWT (công suất 10 tàu/năm), số tiền còn
lại sẽ đầu tư vào khu du lịch Cửa Việt. Nhưng sau 6 năm xây
dựng, các dự án trên hoàn toàn đi vào …lịch sử, và tất cả
vốn đầu tư đã âm thầm vào các túi áo cũa những “nhóm lợi
ích” thời bấy giờ.
Trong một bài bình luận mới đây trên website của Đài Phát
thanh Quốc tế Trung Cộng, một học giả Trung Hoa đã nói
huỵch toẹt âm mưu của Bắc Kinh một khi chiến tranh Trung
– Việt nổ ra là sẽ tìm cách chia cắt Việt Nam từ phía biển.
Xin trích một đoạn trong bài “Học giả Trung Hoa bày mưu
chia cắt Việt Nam từ phía biển” trên trang Giaoduc.net ngày
19/4/2016:“…Một khi lực lượng hải quân ngoại bang khai
triển từ biển thì về mặt địa hình, Việt Nam như dưa hấu gặp
dao sắc , có thể bị tấn công đổ bộ từ bất kỳ địa điểm nào dọc
theo đường bờ biển đất liền… Nói cách khác, nếu Việt Nam
để mất quyền kiểm soát Biển Đông thì bố trí quân sự của
Việt Nam ở miền Bắc mất hẳn chỗ dựa, đầu đuôi khó ứng
cứu cho nhau…”
Mặc dù Trung Cộng có thể tấn công đổ bộ từ bất kỳ địa điểm
nào dọc theo bờ biển Việt Nam, nhưng tất nhiên họ sẽ nhắm
đến những vị trí xung yếu nhất về an ninh quốc phòng như
các cảng sâu kể trên.
Đó là những vị trí đáp ứng được ít nhứt một trong những
tiêu chuẩn sau:
Thuận tiện cho việc đổ bộ – vùng biển nơi đổ bộ phải đủ sâu
cho tàu trọng tải lớn cập bờ, cho phép cả binh lính lẫn các
loại vũ khí hạng nặng đổ bộ;
30 Tin Vaên
Nếu đổ bộ thành công, Trung Cộng sẽ khống chế được một
khu vực rộng lớn có tầm quan trọng chiến lược;
Chỉ cần một lực lượng quân sự vừa phải là đủ sức chia cắt
Việt Nam tại đó; Tại vị trí đối diện bên kia biên giới Lào –
Việt hoặc Campuchia – Việt Nam, Trung Cộng cũng thiết lập
được căn cứ phối hợp, nhằm khi chiến tranh nổ ra, nó sẽ hợp
đồng tác chiến với lực lượng đổ bộ từ biển vào (hoặc với cả
lực lượng nằm vùng tại vị trí đổ bộ) để hình thành nên một
gọng kìm nguy hiểm.
Hiện nay, Trung Cộng đã chiếm hầu hết các vị trí chiến
lược nằm dọc theo bờ biển Việt Nam như Cửa Lò, Nghệ An,
Sơn Dương, Vũng Áng (Hà Tĩnh), Cửa Việt, Quãng Trị,
Lăng Cô (Thừa Thiên – Huế), Hải Vân (Thừa Thiên – Huế),
Silver Shores (Đà Nẵng), Vĩnh Tân (Bình Thuận), Duyên Hải
(Trà Vinh), hay Châu Thành (Hậu Giang), v.v. (trích trên
internet) Vì đã kiểm soát hoàn toàn khu vực biển, việc mang
tàu chở phế thải độc hại từ những nhà máy hóa chất bên Tàu
sang …xả thải vào bên trong khu Cửa Việt, để rồi từ đó theo
đường ống, nước thải an nhiên và thênh thang đi vào lòng
biển…đầu độc nguồn protein cá của người dân sống trong
vùng, giống như tình trạng ở Vũng Áng hiện tại.
Việc đầu độc thâm sâu nầy của Trung Cộng cần được cáo
giác trước dư luận thế giới. San hô ở đảo Lý Sơn đã có chỉ
dấu nhiễm hydroxid sắt xả thải từ các ống nước thải ở Vũng
Áng mà một số Tiến sĩ, Khoa học gia của CS Bắc Việt kết
luận là tảo đỏ(?) khi câu chuyện Vũng Áng bắt đầu ngõ hầu
xoa dịu áp lực của ngư dân đã được chứng minh qua việc
khám phá qua việc phân tích mẩu san hô ở nơi đây tại Hoa
Kỳ vào cuối tháng 7 vừa qua.
Thêm một formosa Cửa Việt cần phải được đề cao cảnh
giác.
Một lần nữa, Nước dơ cần phải rửa bằng Máu, theo lời của
tiền nhân, Vua Duy Tân.
Mai Thanh Truyết
Tin Vaên 31
Trần Vấn Lệ
Đi đón mùa Xuân
Có vẻ như mùa Xuân đang tới
Em nhìn kìa, hoa cỏ đã tươi xanh
Em nhìn kia, em hãy tưởng tượng em và anh
Mình đi dạo trên đường Xuân buổi sáng:
Anh nói với em chúng ta đều lãng mạn
Dễ thương biết bao em cái hồ nhỏ nước trong
Như đôi mắt của em trăng sáng một vầng
Anh làm sóng lăn tăn những sợi lông măng của em
gờn gợn…
Hai tay em hai tay anh chúng ta bắt cái bóng
Bóng thời gian và ôm vào lòng
Mình đã ôm nhau rồi đó, thấy không
Bóng thời gian và muôn năm tình nghĩa…
Mùa Xuân đang tới, mùa Xuân có vẻ
Thuở thanh bình êm ả chân son
Em của anh ơi nước chảy đá mòn
Mình hãy nói yêu thương nhau đến ngày nào
mùa Xuân sang Hạ…
Cô gái để trên đầu một vòng hoa lá
Lá màu xanh và hoa tím dịu dàng
Năm bốn mùa trời đất thênh thang
Mình đi hết bốn mùa rồi trở lại…
Người xưa nói: Mùa Xuân bất tái…
Xưa lắm rồi. Thời đó chiến tranh!
Nước sông Hương đang xanh
Chúng mình tắm mùa Xuân, em nhé!
32 Tin Vaên
Trần Vấn Lệ / Đối Thoại
Đọc CUỐI CÙNG Tác phẩm cuối cùng
của nhà văn Võ Phiến
Nhà văn Võ Phiến, năm 2010,
85 tuổi. Ông viết xong cuốn
Cuối Cùng năm 2007, đầu năm
2010, tại phòng Hội của Nhật
Báo Viet Herald ở Nam
California, ông có mặt trong buổi
ra mắt sách. Vậy là…ông
còn. Vẫn còn sống, còn tại
thế. Không ai tin điều đó với một
ông già sau hai lần mỗ tim, sau
gần trăm năm lam lũ (ở quê nhà
Bình Định, ở sách vở văn
chương, ở cơ quan Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa, ở
những hãng xưởng Mỹ, ở tuổi già bệnh hoạn…). Gần ba
trăm người đón chào ông Võ Phiến trong tình cảm người với
người, trong sự mong được nhìn thấy một người khỏe
mạnh. Ông Võ Phiến xuất hiện trước đám đông với nụ cười,
với dáng dấp dễ thương của một người già nua còn…tráng
kiện.
Tôi không “mô tả” nhiều thêm về buổi xuất hiện của nhà
văn Võ Phiến ngày Ra Mắt Cuốn Sách Cuối Cùng của ông.
Tôi muốn nói về cuốn sách đó – một cuốn sách Đẹp,
Cuốn sách được nhà xuất bản Thế Kỷ 21 in và xuất bản, năm
ghi trên bìa: 2009. Cuốn sách in thật đẹp, trình bày thật bắt
mắt, trên giấy màu vàng nhạt, trang nhã, tính cả bìa trong,
bìa bọc ngoài, cuốn sách dày 192 trang. Sách không ghi giá
bán, mua tại tiệm sách chỉ mất mười lăm đô. Nếu bình
thường thì mắc đấy, nhưng cầm cuốn sách trên tay, ai cũng
bằng lòng và cho là còn rẻ lắm. Tác giả chắc hưởng tác
quyền không bao nhiêu. Nhà in hưởng nhiều hơn hết cái
Tin Vaên 33
công lao của nó. Nhà xuất bản nhất định là hồi hộp, không
biết thu có huề vốn không…Tôi không theo dõi “diễn biến
thị trường” của cuốn sách, nhưng tôi tin…ai cũng vui trong
tình huống kinh tế suy sụp hiện nay. Với tên tuổi vang lừng
của tác giả, với sự trang nhã của một ấn phẩm mang tầm Thế
Kỷ và với sự chăm sóc tận tình của nhà xuất bản Thế Kỷ Hai
Mươi Mốt, nhất định cuốn Cuối Cùng sẽ tái bản nay mai
thôi…
*Ông Võ Phiến được nhiều lớp độc giả đồng ý: Ông là
nhà văn kỳ cựu. Cùng “lứa” với ông, hiện chỉ còn Hà
Thượng Nhân, Phạm Cao Củng, Hoàng Văn Đức, Trần Ngọc
Ninh…Chưa ai là “người muôn năm cũ” cả vì…còn sống!
Những người còn sống, nói đúng là “còn sót”, theo tôi biết
không ai còn “nhuệ khí”. Nếu “còn bình thường” thì con
cháu cũng không cho các Cụ đụng đến sách vở nữa. Ông Võ
Phiến cũng bị “hạn chế” rất nhiều: ăn uống phải kiêng khem,
đọc sách báo phải…ít thôi, con cháu ở xa thay phiên về thăm
cha mẹ già phải chia phiên nhau về hoài hoài để cho ông
quên lãng là mình đang hiu quạnh. Việc ông Võ Phiến có
cuốn Cuối Cùng là ngoài ý muốn của ông, chính vợ và các
con ông xếp đặt cho ông còn “hiện diện” qua sự gợi ý…chào
hàng của nhà xuất bản Thế Kỷ 21. Những bài trong Cuối
Cùng là những bài đã xong từ “hồi nảo hồi nao”. Thôi thì,
đem in nghĩ cũng như mua vui cùng độc giả dẫu vài trống
canh. Bạn nhìn ảnh ông Võ Phiến in kèm theo sách, không
thương thiệt uổng. Ôi một ông già, sự hồng hào còn thấy
được chẳng qua là màu mè chụp được bởi cái máy chụp
hình. Thực tế thì ông đã xanh xao và đi đứng yếu xìu! Trẻ
sao già vậy, trách ai? Người ta cầu Trời cầu Phật cho mình
mạnh khỏe, không ai cầu xin cái gì mình không muốn! Con
Tạo xoay vần tới đâu thì cứ xoay, chúng ta còn ông Võ
Phiến, còn đọc cuốn sách Cuối Cùng của ông là chúng ta còn
Vui!
Ông Võ Phiến không viết hồi ký, không viết nhật ký. Cuốn
Cuối Cùng của ông được coi như một tập Tạp Bút, viết đủ
34 Tin Vaên
thể loại: Thơ, truyện ngắn, tùy bút, biên khảo…Ông, hay
“người nhà” ông gom góp lại để cho cuốn sách cái bề dày
thích hợp. Những bài (đủ thể loại đó), ông viết bình thường,
không nghĩ là mình còn sống có ngày sẽ chết, viết để mà
“lưu chiếu hãn thanh”. Ông viết hồn nhiên, dễ thương, chỗ
nào chẻ tóc làm tư được ông cứ ngồi tỉ mỉ, tủn mủn mà
chẻ…cho chữ thêm dòng, giấy thêm trang. Ông Võ Phiến có
cái văn phong đẹp: không ồn ào, náo nhiệt, không hợm hĩnh,
se sua. Ông sinh ra ở quê, ông vẫn quê một cục, có điều cái
cục quê của ông thơm nhờ ông đi học nhiều nơi, qua nhiều
trường, từng ở nhà Ông Đào Duy Anh, từng viết báo tại Hà
Nội (thời tiền chiến), ông “lai” mà không “lai căng”, do đó,
ông dễ thương, lẩm cẩm mà dễ thương. Ai đọc sách của Võ
Phiến đều không chê, không nói “không cần”, đã đọc sách
Võ Phiến là thấy mình…gần với thiên nhiên, với con người,
với những cái tầm thường minh không ngờ nó chẳng tầm
thường tí nào!
Tôi chịu Ông Võ Phiến về cái trầm tĩnh của ông trước
mọi biến động của xã hội. Ông (dẫn cả nhà) trôi theo dòng
đời, ông không buông xuôi, ông vẫn vững tay chèo đưa
người thân của mình tới bến bờ yên ổn – ông làm việc nuôi
vợ con, ông viết văn kiếm thêm chút đỉnh, ông không “sinh
sự”, ông có quan tâm tới “sự sinh” và ông chép miệng thôi.
Với bộ biên khảo Văn Học Miền Nam, ông khổ - khổ tâm
nhọc sức đã đành còn khổ vì nhiều người không thấy được
ông nhắc tới đâm ra oán thù mắng chửi ông trên báo chí. Ông
Võ Phiến không khoát tay nói: kệ dư luận. Ông chớp mắt,
nói nhẹ nhàng; có cái tôi quên, có cái tôi muốn nhắc mà lỡ
cuộc. Nhà ông, tôi thấy thờ cúng Tổ Tiên nhưng tôi ngó ngực
ông tôi mường tượng những dấu đấm của chính ông dành
cho ông: “Tôi có tội”. Ai cũng có tội cả, tôi hiểu rất đơn sơ
từ khi nhìn thấy tay của đứa hài nhi đánh vào mặt người sinh
thành ra nó. Từ sơ sinh con người đã ‘đắc tội”. Cha Mẹ đã
không “trừng trị” nó hồi trứng nước, “nhớn” lên nó có thêm
tội…cũng đành thôi! Xin Chúa ở mãi bên con người và tha
Tin Vaên 35
cho họ hết, rồi…gia ân bội phần cho họ vui! Đấy, sự đời,
người ta nói: “Xây chi chín đợt phù đồ, hãy lo làm phúc
cứu cho một người”. Có ai chịu cứu một mạng người
đâu? Người ta xây chùa, xây giáo đường để cứu hàng vạn
người đau khổ…hay hơn. Người ta thích làm điều gì đó thật
vẻ vang, chỉ người làm văn chương là “ẩu”, làm cái “nghề”
thấp kém mà Phan Bội Châu từng than thở: “Lập Thân Tối
Hạ Thị Văn Chương”. Ông Võ Phiến, hiền, rất hiền, ai cũng
công nhận, đa số công nhận, nhưng thiểu số chưa hài lòng
nên “sự sinh” là chuyện thường tình vậy! Trong cuốn Cuối
Cùng, ông Võ Phiến tuyệt đối không “di lụy” tới ai, mong
ông sống còn và còn sống thật thoải mái, ngày nào ông đi
được ra khỏi thế gian này…ông cứ đi, để cho tôi khóc!
Đọc cuốn Cuối Cùng của ông Võ Phiến, bài nào tôi cũng
thích, từ thơ tới văn xuôi. Nhưng bài tôi “chịu:” nhất là bài
cuối cùng trước khi tôi xếp lại cuốn Cuối Cùng.
Vì bài đó không dài mấy, chép lại không mỏi tay, xin chép
lại dưới đây:
CÁI SỐNG HỮNG HỜ
Trên một trang báo Newsweek vào khoảng giữa năm ngoái
ông Kirk Douglas – một vị lão thành (ngoại cửu tuần) – kể
rằng ngày ông còn nhỏ, khi thân mẫu lâm bệnh nặng hấp hối
lìa trần ông hoảng hốt chụp ôm tay mẹ. Cụ bà mở mắt nhìn
con, nói câu cuối cùng: “Đừng sợ hãi, bất cứ ai rồi cũng đến
chỗ này thôi, con ạ (…it happens to everyone)”. Người con
lớn lên, sống vững tâm, nhớ lời mẹ dạy; ông lại nhớ ra là:
“bất cứ ai khác cũng đến chỗ này thôi ( it happens to
everyone else)”. Cái chết của chính mình, cái ấy khó nghĩ
đến một cách nghiêm chỉnh. Khó lắm. Cứu cánh cuộc đời, ý
nghĩa hiện hữu của vũ trụ, của muôn loài v.v..., về những cái
này cứ tha hồ suy tưởng. Nhưng về chỗ sự chết ngỏm của
con người (và đặc biệt là của chính mình) thì đố biết. Càng
nghĩ càng rối thôi. Ngại rối ren bèn trốn tránh hết mình.
Nhưng trốn mà thoát được à? Vào những lúc bất ngờ nhất,
tưởng mình đang an toàn thảnh thơi, có thể ta vừa ngẩng đầu
36 Tin Vaên
lên bỗng thấy nó chình ình ngay trước mặt. Cực kỳ sỗ sàng.
Bản thân tôi trước đây có lần phải vào bệnh viện chịu mổ
xẻ, tôi ngậm ngùi viết những lá thư gửi lại bạn bè, nhờ một
văn hữu thân tình trao giúp cho, sau khi mình…ra đi. Hóa ra
rồi sau cuộc giải phẩu tôi tiếp tục sống nhăn. Sống và
ngượng ngùng vu vơ. Năm tháng trôi qua. Quá bát tuần, tôi
lén lút hướng một chút tưởng tượng về cái kết thúc cuộc đời
của mình. Chắc là gần thôi. Liếc mắt phớt qua tí ti, sợ
gì? Liếc qua xong rồi liếc lại, tôi ngạc nhiên không nhận
thấy một xúc đọng bất thường nào xảy ra cả. Cuộc sống
đang tiếp diễn vẫn tiếp diễn đều đều. Nửa năm sau, rồi một
năm sau nữa, cả tôi lẫn cái quanh tôi cùng hòa đồng êm ả
theo dòng thời gianBèn cố gắng dò đoán ý định của Tạo Hóa.
Và dần dần có cảm tưởng mơ hồ về một chăm sóc độ lượng,
khoan hòa. Cảm tưởng rằng lúc con người trẻ trung thì được
Trời cho tha hồ vung vẩy, bấy giờ nếu nghe loáng thoáng về
sự vấp váp suy tàn – đặc biệt là về cái chết – thì ôi thôi…Bất
khả! Tôi bất khả!
Tạo Hóa có lòng lành, nhón tay khe khẻ điều chỉnh
lòng người. Tuổi người càng cao, lòng người càng bớt sôi
nổi, bớt tha thiết. Rốt cuộc còn lại sự hững hờ: Chết - Ai mà
khỏi? Việc gì phải sợ?. Bà cụ hấp hối nói câu cuối cùng với
người con hoảng hốt trong tờ báo Mỹ nọ, chính là đã nói câu
ấy. Tạo Hóa mớm ý mớm lời cho cụ. Cũng như mọi cụ, cả
ông lẫn bà. Nhân một lời trên báo Newsweek nhớ lại một lời
trên báo khác (Thế Kỷ 21, số đôi: 225 & 226). Mừng Xuân
mới, chủ bút Ngô Nhân Dụng nhắc lời Khổng Tử: “Thiên
địa chi đại đức, viết sinh” (Tính chất nổi bật trong trời đất là
sự sống). Tiếp lời cụ Khổng, bạn Ngô tưng bừng: “Không
cần một nghị quyết nào của Thiên Nhiên ra lệnh cho các
cánh đồng cỏ cùng mọc lên đúng ngày đúng tháng. Sự sống
tự nó biết cách sống, không cần phân tích, lý luận để quyết
định vạn vật có nên sống hay không”. Người nay, người xưa
cùng một tưng bừng rạng rỡ. Rụp rụp, sự sống, biết cách
sống. Nhưng sau sự sống, con người – mọi người - đều sẽ có
Tin Vaên 37
dịp gặp một sự nữa là sự chết. Sự chết thì sao? Liệu tự nó
có biết chết một cách tử tế cho thiên hạ nhờ tí hay không?
Tôi âm thầm nghĩ ngợi và ngờ rằng đây là lúc xuất lộ cái từ
tâm của Hóa Công. Chúng ta không nên mè nheo đòi hỏi
cho được vừa huýt sáo mồm vừa chết. Chỉ mong những
bước chân đến ngôi mộ của chính mình sẽ là những bước
thong thả, hững hờ. Đại khái thế thôi. Và Tạo Hóa đã xếp
đặt như thế. Trước cái chết, bà cụ nọ trấn an con, chớ không
phải là người con an ủi mẹ. (Santa Ana 2009).
*Những dòng cuối cùng của cuốn sách Cuối Cùng, ông
Võ Phiến viết như thế đó. Ông dùng chữ hững hờ, tôi nghĩ
rằng ông muốn tỏ ra mình không quan tâm đến cái chết. Tôi
hơi buồn, sao ông thích sống mà không thích chết? Chết
cũng vui lắm chứ? Chịu chết càng vui hơn vì…mình hoàn
thành nhiệm vụ. Nhưng ai cấm tôi…hiểu xa hơn: khi khép
lại một cuốn sách không phải là khép lại một ước mơ. Tôi
biết ông Võ Phiến đang còn sống, sự sống đối với ông, chẳng
những đối với riêng ông, mà cả nhà ông, bạn bè ông, bà con
ông, đều là sự cần thiết…để vui thêm ngày nào mừng ngày
đó. Với cái tuổi tám mươi lăm, với cái câu Trẻ Sao Già Vậy,
ông đi đứng, ăn uống đang cần có người chăm sóc, ông còn
sáng suốt ông để cho con cháu thấy cảm nghĩ của ông, lỡ ông
có xuôi tay nhắm mắt, cái gì còn đó, thì còn đó! Cuốn sách
Cuối Cùng! Tấm lòng Võ Phiền chưa hay không gói hết
trong tác phẩm Cuối Cùng, có lẽ vì ông không khỏe. Đọc
cuốn Cuối Cùng, người đọc chưa thỏa lòng thỏa dạ…vì thấy
như chưa phải là tác phẩm Cuối Cùng của Võ Phiến! Hi
vọng rằng năm nay mưa thuận gió hòa, Ông Võ Phiến khỏe
mạnh trở lại, lắc đầu cho rơi đi cái “tiêu cực” nếu có, nếu tồn
đọng, trong ông…để ít ra còn cho độc giả ái mộ ông có vài
bài thơ, vài truyện ngắn, vài bài tùy bút trong cảnh lão giả an
chi…/.
Trần Vấn Lệ
38 Tin Vaên
“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực
tế, nhưng mộng trên những tình tự thực. Không
chấp nhận loại thơ tình tự hoang. Có khoa học giả
tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới
huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự
thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ
không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực
thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực
muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở
chỗ đấy.
“Tôi xin nhắc ; sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi
ca; vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng
một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao
quát không gian, thời gian, chân lý cuộc sống.”
Vũ Hoàng Chương
Tin Vaên 39
Ly đời
Phương Triều Không chắc gì gặp em nay mai
Thuyền đêm khoang lạnh mấy sông dài
Ai chở niềm đau trên nước bạc
Mà mong biền biệt một trăng phai!
Hoa có phù dung kịp mãn khai
Hay trong hàm tiếu ngậm u hoài?
Xưa yêu vì có vì nhan sắc
Hay lạc lòng nhau giữa lạc loài?
Em như đời đã già trăm tuổi
Mà một lòng riêng không thể hai!
Hay như trăm nhánh sông về biển
Mà nhánh đời riêng bỗng mọc dài?
Đâ u chắc nhìn nhau không mặt lạ
Nhìn nhau mà tưởng cố nhân ai!...
Đâu dễ nguyên lòng như đã hẹn
Ly đời hồ dễ hết men cay!...
40 Tin Vaên
mũ thiên thâu
Nguyễn Hữu Nhật
giơ tay bắt hụt làn hương
mở ra chỉ thấy toàn đường nét đau
đời anh chất sầu mai sau
mũ đan bằng sợi thiên thâu mãi buồn
gửi em dầu có tủi hờn
ngẩng đầu vẫn phải cao hơn ngày nào
bẻ bút với lòng tự hào
lưỡi không chịu uốn đời nào ngòi cong
dẫu đời trôi dạt nhánh rong
vẫn xanh từng ngọn chờ mong bến người
thơ anh đôi lúc lỡ lời
nói yêu em lại mỉm cười lặng thinh
thơ làm sống lại thần linh
chưa thiêng đã bỏ mặc tình nhân gian
để đời như chiếc mũ nan
sợi dọc dài thiếu, sợi ngang ngắn thừa
loay hoay đan mãi chẳng vừa
đốt đi lấy sợi khói thưa nối vào.
Tin Vaên 41
như những hoàng hôn bỏ mặt trời!
Nguyễn Tất Nhiên
1.
tôi bắt đầu yêu hay bắt đầu dự tính?
(dự tính nào cũng thật ngây thơ!)
tôi bắt đầu ngây thơ hay bắt đầu già?
(khi mặc cả tình yêu cùng thù hận!)
2.
xin đánh đổi cuộc đời này (lận đận!)
bằng phút giây cầm được tay người!
3.
em còn đứng bên dòng sông ngát lạnh
cho đầy hồn mơ ước viển vông
tôi còn đứng bên dòng sông giá lạnh
cho một mưu toan tự tử âm thầm
ngày sắp hết, năm sắp hết
thời gian nào cho bốn mắt ta xanh?
thời gian nào đưa ta về địa ngục?
(những kẻ yêu nhau chẳng có thiên đàng!)
4.
thế nào rồi em cũng bỏ tôi
như những hoàng hôn bỏ mặt trời!
42 Tin Vaên
Kỷ niệm ngày mất của nhà thơ Quang Dũng thu 1988
Văn Nguyên Dưỡng Tàn cuộc thu này lá vẫn bay
Tôi về xứ Lạng gió mưa dày...
Hình như biên giới mơ hồ lắm,
Quan ải bây giờ đất cũng thay!
Ai đến đây rồi ai sẽ đi
Ai lên sông Đáy xuống Ba Vì,
Ai qua Bương Cấn, Sài Sơn ấy
Nhớ mắt ai mà lệ ướt mi.
Đi mãi, ơ kìa đã đến chưa...
Đông thay, Xuân đổi, biết bao mùa,
Con đường Tây Tiến bao giờ tới!
Phế hưng là mấy cuộc đẩy đưa.
Tiếng vọng nghe chừng vẫn độc hành
Trường Sơn mây dựng, cốt xây thành...
Sương mờ phủ lấp nhiều hương khói,
Đất cũng thưa, rừng cũng bớt xanh.
Anh cũng một lần đã đến chơi
Đêm ra bến mộng ngủ quên đời,
Kê vàng một giấc mờ nhân ảnh...
Khói thuốc nhòa trong đáy cốc vơi.
Tiếng thơ anh như tiếng kinh cầu
Mang theo tiếng vọng nhiều u ẩn
Trên đất nghìn năm đã bạc màu...
Cho đến một lần đã đổi thay
Tôi qua bên ấy nhớ bên này,
Nhớ anh, anh đã thành thiên cổ
Nắng đỏ lên từng mỗi lá cây!
Tôi đến đây rồi anh ở đâu
Mưa rơi từng lớp lớp mưa đầu,
Từng cơn sóng cuộn sông Hồng đổ
Đất đã trôi từng mảng mảng đau.
Tin Vaên 43
Nguyễn Minh Triết
VĂN MIẾU TRẤN BIÊN
VÀ VĂN MIẾU VĨNH LONG
BIỂU TRƯNG VĂN HÓA
VÀ HÀO KHÍ PHƯƠNG NAM
Sau một thời gian tiến về phương Nam để khai khẩn vùng
đất hoang vắng của Chân Lạp và khi dân Đại Việt đã có cuộc
sống khá ổn định về chánh trị cũng như kinh tế và xã hội
Chúa Nguyễn Phúc Chu liền phái Lễ Thành hầu Nguyễn
Hữu Cảnh vào Nam để tổ chức và xác lập nền hành chánh
của vùng đất mới. Một trong các công tác về phương diện
vănhóa mà Lể Thành Hầu thực hiện tại vùng đất mới là thể
hiện truyền thống trọng học vtrọng người tài của văn hóa dân
tộc trải qua nhiều thế kỷ được biểu trưng bằng Văn Miếu
Quốc Tử Giám ở Thăng Long.
44 Tin Vaên
Theo “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều
Nguyễn, ngoài Văn miếu Quốc tử giám ở Thăng Long được
xây năm 1070, văn miếu cũng được xây dựng ở nhiều nơi
trong cả nước, nhưng văn miếu Trấn Biên là văn miếu được
xây dựng sớm nhất ở phía Nam, trước văn miếu Vĩnh Long,
văn miếu Gia Định và cả văn miếu ở kinh đô Huế. Sau
đó do thời gian và các biến cố lịch sử nên chỉ có văn miếu
Huế và văn miếu Vĩnh Long là còn tồn tại, hai văn miếu Gia
định xây dựng năm 1824 ngày nay không còn dấu tích, và
văn miếu Trấn Biên cũng bị thực dân Pháp cho san bằng vào
năm 1861 khi đánh chiếm được Biên Hòa. Tuy nhiên vào
năm 1998 văn miếu Trấn Biên đã được phục dựng lại trên
nền đất cũ. Cho nên có thể nói hai văn miếu Trấn Biên và
văn miếu Vĩnh Long là hai biểu trưng cho văn hóa và hào
khí của người Việt phương Nam
VĂN MIẾU TRẤN BIÊN
Văn miếu Trấn Biên được xây dựng vào năm 1715 tức 17
năm sau khi Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh
Chúa Nguyễn Phúc Chu vào xác lập chủ quyền và nền hành
chánh của vùng đất mới. Mục đích của việc xây dựng văn
miếu là để nêu cao truyền thống hiếu học, hào khí và văn hóa
Tin Vaên 45
của những con người đi khai phá vùng đất phương Nam vì
Văn miếu Trấn Biên không những chỉ thờ Khổng Tử mà còn
thờ phượng các bậc vĩ nhân, danh nhân tiêu biểu của đất
nước, đặc biệt là vùng phương Nam. Ngoài vai trò thờ
phụng, Ngoài ra, Văn miếu Trấn Biên còn đóng vai trò như
một trung tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh Biên Hòa xưa. ‘
Theo “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức biên
soạn vào đầu thế kỷ 19, Văn miếu Trấn Biên được Trấn thủ
Nguyễn Phan Long và Ký Lục Phạm Khánh Đức chọn xây
dựng tại thôn Tân Lại, huyện Phước Chánh (nay thuộc
phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa)
vào đời vua Hiển Tông năm thứ 25 (tức năm 1715), là một
vùng đất có địa thế núi sông thanh tú, cỏ cây rợp bóng tươi
tốt.
Sau đó để mở rộng quy mô Văn miếu Trấn Biên đã trải qua
hai lần trùng tu lớn. Lần đầu vào năm Giáp Dần (1794). Khi
ấy, chúa Nguyễn Phúc Ánh sai Lễ bộ Nguyễn Hồng Đô lo
việc trùng tu, "giữa làm Đại Thành điện và Đại Thành
môn, phía Đông làm Thần miếu, phía Tây làm Dục Thánh từ,
trước xây tường ngang, phía tả có cửa Kim Thanh, phía hữu
có cửa Ngọc Chấn, chính giữa sân trước dựng Khuê Văn các
có lầu treo trống chuông, phía tả có Sùng Văn đường, phía
hữu có Duy Lễ đường. Chu vi bốn mặt ngoài xây thành
vuông, mặt tiền làm cửa Văn miếu, phía tả phía hữu có cửa
Nghi môn, rường cột chạm trổ, quy chế tinh xảo, đồ thờ có
46 Tin Vaên
những thần bái, khám vàng, ve chén và đồ phủ quỹ biên đậu
đều chỉnh nhã tinh khiết (theo Trịnh Hoài Đức - Gia Định
thành thông chí).
Lần trùng tu thứ hai vào năm Tự Đức thứ 5 (1852). Sau
khi hoàn thành văn miếu có qui mô lớn hơn trước:
"Văn miếu chính đường và tiền đường đều 5 gian, lại
dựng thêm 2 dãy tả vu và hữu vu, mỗi dãy 5 gian, đền Khải
Thánh, chính đường và tiền đường đều 3gian, một tòa cửa
giữa 3 gian, một tòa cửa trước 1 gian, một tòa kho đồ thờ 3
gian, một tòa Khuê Văn các 2 tầng, ba gian hai chái; phía
trước, biển Đại Thành điện đổi làmVăn miếu điện và Khải
Thánh điện; đổi làm Khải Thánh từ; Hàng năm, vào mùa
xuân và mùa thu, đích thân chúa Nguyễn Phúc Ánh đến Văn
miếu Trấn Biên để hành lễ. Sau năm 1802, sau khi dời đô về
Huế và lên ngôi,vua Gia Long đã ủy nhiệm cho quan Tổng
trấn Gia Định thành, Tổng trấn Biên Hòa và quan Đốc học
hàng năm đến đây hành lễ thay nhà vua.
Văn miếu Trấn Biên đã được xây dựng trong bối cảnh
vùng đất Biên Hòa đã khá ổn định về chính trị, xã hội cũng
như kinh tế đã phát triển như một sự xác lập vị thế địa văn
hóa -chánh trị của vùng đất mới; đồng thời là sự tiếp nối văn
miếu Thăng Long và truyền thống trọng học, trọng trí thức
nhân tài của tổ tiên trải qua nhiều thế kỷ xây dựng quốc gia
tộc lập tự chủ. Gắn liền với văn miếu Trấn Biên là một nền
giáo dục phát triển khá sớm ở Biên Hòa lúc bấy giờ. Và trên
nền giáo dục ấy cũng đã sản sinh ra những tên tuổi làm rạng
rỡ vùng đất phương Nam, đồng thời tô điểm thêm truyên
thống văn hóa ngàn năm của dân tộc ta như: VõTrường
Toản, Trịnh Hòai Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định,
Nguyễn Đình Chiểu...
Tất cả những công trình đó đã bị phá hũy hoàn toàn vào
năm 1861 khi quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa. Quân Pháp
đã đốt phá và san bằng văn miếu Trấn Biên không còn để lại
dấu vết nhằm dập tắt tinh thần yêu nước của người dân Nam
Kỳ. Như vậy, Văn Miếu Trấn Biên đã bị hủy hoại sau 146
Tin Vaên 47
năm tồn tại. Gần đây vào năm 1998, nhân kỷ niệm 300 thành
lập và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, Văn miếu
Trấn Biên đã được bắt đầu xây dựng lại bằng nhiều đợt trên
nền đất cũ và hoàn thành vào năm 2002 với diện tích rộng 20
ngàn mét vuông tại phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai. Hiện nay Văn miếu Trấn Biên nổi bật giữa
vùng không gian thoáng đãng nhiều cây xanh với những vòm
mái cong lợp ngói lưu ly mầu xanh ngọc bằng gốm tráng
men và những lầu bia uy nghi tráng lệ. Từ Văn miếu môn
vào lần lượt là nhà bia truyền thống, Khuê Văn Các có hình
tròn tượng trưng cho trời, tiếp theo là hồ Tịnh Quang hình
vuông tượng trưng cho đất, cổng tam quan, nhà bia thờ
Khổng Tử và sau cùng là nhà thờ chánh rộng lớn. Ở đây có
tấm bia lớn có khắc dòng chữ to: Hiền tài là nguyên khí của
quốc gia.
Nhà thờ chính xây dựng kiểu nhà ba gian hai chái theo
kiến trúc cổ, nền lát gạch tàu, ở gian giữa, trên tường có biểu
tượng trống đồng tượng trưng cho nền văn hóa Việt Nam và
Quốc Tổ Hùng Vương và trên các cột nhà treo đôi liễn đối,
như:
Nguyễn Hữu Cảnh định nghiệp Trấn Biên,
Lớp lớp anh tài giang lục tỉnh.
Võ Trường Toản mở trường Gia Định,
Đời đời sĩ khí nối tam gia.
Trong Văn Miếu có các bàn thờ đức Khổng Tử, bàn thờ
Quốc tổ. Gian bên trái thờ các nhà văn hóa, giáo dục của dân
tộc như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Lê Quý Ðôn. Gian bên
phải thờ các nhà văn hóa, giáo dục phương Nam như: Võ
Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu và ba vị được tôn xưng là
Gia Ðịnh tam gia:
Trịnh Hoài Ðức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Ðịnh.
Phía trước hai bên nhà thờ chính còn có hai ngôi miếu, miếu
bên trái thờ Tiên sư, miếu bên phải thờ Tiền hiền-Hậu
hiền. Ngoài ra cón có 2 nhà lưu trữ là: Văn Vật Khố (nơi
48 Tin Vaên
trưng bày 4 làng nghề truyền thống của Biên Hòa – Đồng
Nai: nghề đồng, nghề mộc, nghề đá, nghề gốm. Đăng đối hài
hòa với Văn Vật khố là Thư khố - nơi trưng bày các thư tịch
cổ, các tài liệu, sách báo... viết về lịch sử, văn hóa, con người
vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai xưa và nay.
Với các công trình được xây dựng theo kiến trúc Văn Miếu -
Quốc Tử Giám ở Hà Nội và với chức năng là nơi bảo tồn,
gìn giữ và tôn vinh các giá trị văn hóa - giáo dục cùa vùng
đất Biên Hòa – Đồng Nai, Văn Miếu Trấn Biên được xem
như là Văn Miếu - Quốc Tử Giám của Miền Nam.
VĂN THÁNH MIẾU VĨNH LONG
Cũng trong mục đích giữ gìn và tôn vinh văn hóa của
vùng đất phương Nam,Văn Thánh miếu Vĩnh Long đã được
Khâm sai đại thần Phan Thanh Giản và Đốc học Nguyễn
Thông chủ trương xây dựng. Công trình được khởi công xây
dựng từ tháng 10 năm 1864
dưới đời vua Tự Đức và hoàn thành cuối năm 1866. Văn
Thánh miếu Vĩnh Long là một công trình có giá trị văn hoá
lớn, mang một dấu ấn đậm nét trong lịch sử. Nguyên vào
năm 1862 dưới đời vua Tự Đức ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ
lần lượt lọt vào tay thực dân xâm lược Pháp. Lúc bấy giờ
tỉnh Vĩnh Long cũng đã lọt vào tay quân viễn chinh Pháp
nhưng theo hòa ước Nhâm Tuất (1862) thì Pháp phải trả tỉnh
Vĩnh Long lại cho triều đình Huế. Do đó, sĩ phu ở các tỉnh
Biên Hòa, Gia Định và Định Tường đã rầm rộ “tỵ địa” về
Vĩnh Long. Quan đốc học Vĩnh Long là Nguyễn Thông với
sự hỗ trợ của Kinh Lược sứ Phan Thanh Giản đã chọn một
vùng đất rộng rãi tại làng Long Hồ, tổng Long An, huyện
Vĩnh Bình, nay thuộc phường tư thị xã Vĩnh Long.để xây
dựng nơi ôn tập cho các sĩ phu chờ ngày thi cử. Tuy danh
nghĩa là lập Văn Thánh miếu để đề cao Nho giáo nhưng thực
chất là xây dựng một tụ điểm hoạt động văn hóa đề cao các
bậc tiền hiền và giáo dục lòng yêu nước.
Sau khi hoàn thành, giới quan lại sĩ phu đã thành lập
hội Văn Thánh Miếu để trông nom việc cúng tế. Nhưng chỉ
Tin Vaên 49
có mấy tháng sau thì quân viễn chinh Pháp lại đem chiến
thuyền uy hiếp và đánh chiếm thành Vĩnh Long lần thứ hai.
Đại thần Phan Thanh Giản tuẩn tiết và đốc học Nguyễn
Thông phải “tỵ địa” ra Bình Thuận.
Sau khi chiếm Vĩnh Long, bọn thực dân Pháp lấy cớ
thiếu gỗ xâydựng dinh tham biện (dinh tỉnh trưởng) định phá
Văn ThánhMiếu nhưng ông Bá hộ Trương Ngọc Lang được
đồng bào đề cử đứng ra tranh đấu ngăn cản với quân viễn
chinh Pháp nên đã giữ lại công trình văn hóa này. Từ đó đến
nay, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long đã được trùng tu, tôn tạo
các công trình phụ vào các năm 1872, 1903, 1914, 1933,
1963, 1994 nhưng vẫn còn giữ nguyên được nét kiến trúc cổ
kính xưa.
Muốn bước vào Văn Thánh miếu, trước hết phải đi qua cửa
Tam quan, gồm ba tầng mái, được làm theo lối cổ lâu, ngay
giữa cổng chánh có ba chữ Hán đại tự VĂN THÁNH MIẾU.
Cổng có màu vàng nhạt có hai câu đối hai bên cổng lớn,
cũng bằng chữ Hán đấp nổi:
Khổng môn truyền đạo thiên ban thưởng
Thánh miếu sùng văn vạn đại tôn
Tạm dịch : Cửa Khổng truyền đạo ngàn lớp quý chuộng
Miếu Thánh trọng văn, muôn đời tôn sùng.
Tuy đơn giản nhưng cổng có nét đặc biệt rất riêng, mang
tính nghệ thuật cao. Không khí chốn này luôn dịu mát khác
50 Tin Vaên
hẳn cái ồn ào, náo nhiệt nơi phố huyện nhờ được ngọn gió từ
bờ sông Long Hồ thổi đến.
Nối tiếp cổng Tam quan là một đường thần đạo thẳng tắp rợp
bóng cây xanh. Trên con đường này có 3 bia đá, được bố trí
từ trong ra ngoài như sau:
a/- Bia số một dựng năm 1867, mặt trước khắc trước tác
bằng chữ Hán của Phan Thanh Giản, bàn về việc xây Văn
Miếu; mặt sau là những minh, bang, tổng xã có công kiến
tạoVăn Miếu.
b/-Bia số hai dựng để kỷ niệm Tống Hữu Định và giới
trí thức trong cuộc trùng tu ngôi miếu lần 2 (1903); mặt
trước ghi sơ lược công lao trùng tu Văn Miếu của ông Tống
Hữu Định; mặt sau là danh sách các vị làng Long Hồ có
công phụng thờ tu bổ di tích.
3/- Bia số ba nằm gần cổng Văn Miếu, dựng vào năm 1931,
với bài văn và lời di chúc của bà Trương Thị Loan (con gái
của Trương Ngọc Lang) là người đã cúng hiến ruộng vườn
cho Văn Miếu sử dụng từ năm 1915.
Kiến trúc chánh của Văn Thánh miếu là điện Đại Thành,
nằm cuối đường thần đạo, là một toà nhà cổ kính 2 mái,
trang trí họa tiết đơn sơ.Bên trong, nơi chánh điện thờ Khổng
Tử, hai bên thờ Tứ phối, Thập triết. Bên ngoài điện Đại
Thành có hai miếu nhỏ thờ Thất thập nhị hiền. Trong khuôn
viên di tích còn có một công trình văn hóa đặc sắc làm nên
diện mạo riêng của Văn Thánh miếu Vĩnh Long đó là Văn
Xương Các hay Tụy Văn Lâu được làm theo kiểu trùng điệp
ốc khá tinh tế. Bước vào nơi đây cũng như quay lại thời xa
xưa, được chứng kiến cảnh hội họp văn nho, bàn luận thi phú
của các sĩ tử. Tất cả công trình kiến trúc đó được bao bọc bởi
một bức tường hoa và khách chỉ có thể ra vào bằng cửa Kinh
Thanh và cửa Ngọc Chấn. Ngay từ khi xây dựng Văn Miếu,
Phan Thanh Giản đã có ý định xây dựng công trình này. Tuy
nhiên, khi Văn Thánh Miếu vừa khánh thành không lâu,
quân Pháp đánh chiếm thành Vĩnh Long, Phan Thanh Giản
tuẫn tiết nên công trình không xây dựng được. Năm 1869, bá
Tin Vaên 51
hộ Trương Ngọc Lang đứng ra quyên tiền xây dựng một cái
lầu phía trái Văn Thánh Miếu để thờ Phan Thanh Giản. Năm
1872 công trình này hoàn thành, Trương Ngọc Lang dựng
bia đặt tên là Tụy Văn Lâu (lầu nhóm họp giới văn nhân tài
tử). Tụy Văn Lâu được trùng tu năm 1914 và khoảng năm
1920 - 1923 được đổi tên là Văn Xương Các (gác văn thơ).
Văn Xương Các xây dựng bằng danh mộc, gồm hai tầng.
Tầng trên thờ Văn Xương Đế Quân là các vị tinh quân chủ
quản việc thi cử học hành. Nhưng tầng dưới Văn Xương Các
mới là nơi quan trọng nhứt. Gian giữa là nơi văn thi nhân
ngồi đàm đạo. Phía sau là khánh thờ Gia Định Sử Sĩ Sùng
Đức Tiên sinh Võ Trường Toản và Khâm sai Kinh lược sứ
Phan Thanh Giản. Khánh thờ này chạm trỗ tinh vi, trong đặt
hai bài vị, có câu đối ca tụng hai kẻ sĩ đứng đầu đất Gia
Định:
Hoàng phong “Sử sĩ” thanh cao lão.
Tự hiệu “ thư sinh” tiết liệt thần
(Vua phong “Sử sĩ” thanh cao lão
Tự hiệu “ thư sinh” tiết liệt thần)
Các quan đại thần có công khởi xướng xây dựng Văn
Thánh Miếu và những người có công lớn trong việc bảo vệ,
trùng tu Văn Thánh miếu sau này như: ông Trương Ngọc
Lang, ông Tống Hữu Định cũng được phụng thờ tại đây.
Đến khoảng năm 1933, Phan Thanh Giản được nhà
Nguyễn phong thần. Từ đó tại khánh thờ có thêm một hòm
sắc và một bức chân dung Phan Thanh Giản rất sống động,
do hoạ sĩ Philippe Trần vẽ.
Ngoài ra, trong Văn Miếu còn có rất nhiều hoành phi, câu
đối do các nhà hảo tâm ở khắpnơi hiến cúng ca tụng Phan
Thanh Giản là người thà chết để giữ khí tiết. Trong đó có câu
đối của Thượng thư Cao Xuân Dục cúng năm 1913 khi ông
đến thăm Vĩnh Long:
Xuân thu hà đẳng càn khôn, đạo tại ngũ kinh song nhật
nguyệt;
Thù tứ biệt thành vũ trụ, đồ qua lục tỉnh nhất cung tường.
52 Tin Vaên
Tạm dịch
Đời Xuân thu trời đất bậc nào, đạo ở năm kinh đôi nhật
nguyệt.
Sông Thù Tứ cõi bờ riêng đó, đường qua sáu tỉnh một
cung tường.
Hằng năm tại Văn Thánh Miếu Vĩnh Long đều có hai lễ
cúng lớn gọi là Xuân Thu nhị tế để tế Khổng Tử và các vị
Thánh Hiền. Ngoài ra, tại Văn Xương Các cũng có các ngày
lễ giỗ Phan Thanh Giản vào tháng bảy và các đại thần thờ tại
Văn miếu. vào tháng mười.
Nếu so sánh lễ hội với các đình miếu khác ở Vĩnh Long
thì lễ hội tại Văn Thánh Miếu thu hút khách hành hương
chưa đông nhưng những vị khách đến đây đều có tấm lòng
nhiệt thành với văn hóa và yêu kính các bậc tiền nhân.
Văn Thánh Miếu là một niềm tự hào của người dân Vĩnh
Long vì nơi đây ghi dấu và lưu giữ văn hoá đậm đà bản sắc
dân tộc. Với truyền thống tôn sư trọng đạo người dân Vĩnh
Long đã có ý thức bảo vệ và trùng tu để Văn Thành Miếu
mãi mãi là nơi cho mọi người
có dịp tìm hiểu lịch sử và văn hóa của vùng đất nước phương
Nam cũng như chiêm ngưỡng kiến trúc cổ xưa của tiền nhân.
Nguyễn Minh Triết
Văn học có thể giống như ánh sáng, chỉ cần mọi người
sử dụng một cách thích hợp, nó có thể xuyên thấu mọi
thứ.
Huxley (Anh)
Tin Vaên 53
Hoàng Xuân Sơn Vọng tưởng một mùa Xuân thơ
Tháng chạp về rồi, mùa ngâu chín
trước ngõ rêu phong mộng hóa vàng
run run ánh lửa chiều đông tái
gọi khẽ trong lòng xuân nữa sang
Trời đất dường như gầy hơn trước
mà thoáng hương đi vẫn dịu trầm
qua vườn chợt thấy mắt ai đẹp
giọt nắng xuân cười trên lá răm
Về hỏi sương mù rưng rưng đọng
đắm nhẹ hồn phiêu lạc bước gần
ngắm tuổi xuân hồng mắt gương sáng
mùa lượt là thơm ngợi áo khăn
Làm sao thở được mùa cây trái
dìu dặt thương thương những phố nhà
tiếng cười vỡ biếc trưa yên tịnh
ngọc nước xanh ngời lên cỏ hoa
Níu áo người về hương thơ cũ
mơ dạng xuân tươi hết lòng đời
đằm đằm ngan ngát không gian hẹp
thức dậy, chan hoà một sớm mơi.
54 Tin Vaên
Huỳnh Công Ánh Bài thơ không nghĩa
Như gió như mây như mưa
Như vẳng lời ru trong nắng trưa
Như thoảng một lời kinh vong động
Như hồn trầm lắng, ngược ngàn xưa
Như người, như em, như ta
Như nhân gian ngụp lặn cõi ta bà
Như bàn tay nhỏ che trời rộng
Như đã tìm nhau ngàn kiếp qua.
Như tình, như tiền, như mơ
Như viết tặng ai một bài thơ
Như nghĩa là không thơ không chữ
Như chẳng vui buồn, như tỉnh bơ.
Như khóc, như cười, như ca
Như đưa tay hái một cành hoa
Như suồi về sông, sông về biển
Như ta rồi cũng lại gặp ta.
Như em trong lời ca dao
Như nhặt, như khoan ửng má đào
Như áo ba tà ôm eo nhỏ
Như guốc mộc che nón quai thao.
Như ta trọn một kiếp loay hoay
Như phù du, như trăng khuyết đầy
Như sóng mơ ngày về lại đáy
Như cuối cùng tay xuôi bàn tay
Như lời đùa vui cõi khôn g
Như ai đem muối xát trong lòng
Như tâm tư chưa một lần xao xuyến
Như yêu là muôn thuở chờ trông.
Tin Vaên 55
Những Đoạn Rời Về Huỳnh Công Ánh
Và Hồi Ký Vượt Tù - Vượt Biển
Nguyễn Mạnh An Dân
Nhớ lại những ngày rất xa, thời mà khu Downtown còn là
cái nôi sinh hoạt thân thiết và sinh động của cộng đồng
người Việt ly hương đang sinh sống tại thành phố Houston,
hồi đó, nếu ai có dịp qua lại trên đường Milam, Fannin chắc
sẽ thấy lòng rộn vui, thoáng chút hãnh diên trước một nhà
hàng cao tầng, sang cả mang tên Việt Nam là Phú Kim (Fu
kim). Đối với những người bàng quang xa lạ, Phú Kim cũng
chỉ là một tên gọi như muôn ngàn tên gọi khác, và ngoài
niềm vui chung trước sự thành công của một đồng hương,
nó không tạo ra được bất cứ một chút xuyên xao đặc biệt
nào, tuy nhiên với những thân hữu thân thiết, biết chủ nhân
nhà hàng này là ai, và biết quê quán của ông ở đâu, chắc
không ai không xuyến xao, cảm động trước sự thể hiện tấm
lòng của một con người về nguồn cội của mình, vì Phú Kim
chính là cái làng rất nhỏ, rất nghèo, ở bên kia nửa vòng trái
đất xa xôi, quê hương nhỏ của người chủ nhân nhà hàng
thành đạt này.
Sự hài lòng và cảm động không dừng lại ở đó, nó sẽ biến
lòng chúng ta thành cảm kính, pha chút quí trọng khi bước
chân vào Phú Kim, đi qua những phòng hội mang tên Hà
Hồi, Ngọc Hồi, Khương Thượng để tới Đại Sảnh Đường Tây
Sơn, những tên gọi gợi ra cả một trời quá khứ đầy tự hào và
đáng hãnh diện của dân tộc, khiến lòng chúng ta chùng lại
và nghe đâu đây như có tiếng voi gầm, ngựa hý, quân reo
56 Tin Vaên
của chiến thắng lịch sử dầu Xuân năm nào. Câu nói “khi ra
đi, chúng ta mang theo cả quê hương, mang theo cả niềm tự
hào dân tộc”, với chủ nhân nhà hàng Phú Kim chắc không
chỉ là câu nói đầu môi mà nó đã được ông thực hiện với tất
cả sự trân trọng và lòng luyến nhớ. Người nặng lòng với quê
hương, người luôn tự hào về dân tộc mình này là Huỳnh
Công Ánh, một con dân của làng Phú Kim, quận Phù Cát,
thuộc tỉnh khổ, dân nghèo Bình Định, còn được gọi là đất
Tây Sơn.
Huỳnh Công Ánh là một người năng động, tham dự vào
nhiều sinh hoạt đa dạng, ông được nhìn nhận như một nhạc
sĩ, một nhà thơ, nhà văn, một chiến sĩ đấu tranh, một thương
gia thành đạt nhưng trên tất cả những danh xưng đẹp đẽ này,
gọi ông là một người có lòng, có lẽ sẽ chính xác và mang
nhiều ý nghĩa nhất, tôi nghĩ như vậy…
@
Vào cuối thập niên 1980, Huỳnh Công Ánh được biết
như một nhạc sĩ đấu tranh kiên trì, năng động, và có sức
thuyết phục, ông đã cùng những người bạn, được hiểu như
những chiến hữu, Hà Thúc Sinh, Nguyễn Hữu Nghĩa,
Nguyệt Ánh, Việt Dũng, Châu Đình An và nhiều người nhiệt
tâm khác thành lập Phong Trào Hưng Ca Việt Nam. Hưng
Ca có mặt khắp nơi bên cạnh các tổ chức, các phong trào đấu
tranh của người Việt hải ngoại. Hưng Ca đem những lời ca bi
uất và hào hùng đi khắp nơi, đến với mọi người, như một
ngọn lửa, như một ánh thép khơi lại niềm tin, nối chặt vòng
tay, truyền cho nhau quyết tâm và hy vọng.
Cùng thời gian này, “tôi không bao giờ quên máu xương bạn
bè đã đổ xuống cho quê hương, tôi không bao giờ quên
những hy sinh âm thầm của anh em trong ngục tối” (Nhạc
Vương Quang Tuệ), Huỳnh Công Ánh đã cùng một số anh
em khác, cũng được hiểu như những chiến hữu, như Đào
Văn Bình, Nguyễn Hậu thành lập Tổng Hội Cựu Tù Nhân
Chính Trị và trở thành người đầu tiên điều hành tổ chức này.
Không những vậy, Huỳnh Công Ánh còn “lăn xả” vào nhiều
Tin Vaên 57
hội đoàn, tổ chức đấu tranh khác với tất cả tấm lòng, muốn
cống hiến, muốn phục vụ, không mệt mỏi, không ngừng
nghỉ. Điều ít ai ngờ là con người nhiệt tâm, “lắm chuyện”
này là một người vừa trải qua những tháng ngày địa ngục
trần gian, và cận kề bên cõi tử sinh như ông thể hiện trong
hồi ký Vượt Tù, Vượt Biển mà quí vị đang cầm trên tay.
@
Hồi ký Vượt Tù, Vuợt Biển ghi lại việc trốn khỏi nhà tù
nhỏ và vượt thoát khỏi nhà tù lớn của Huỳnh Công Ánh. Nội
dung tác phẩm lôi cuốn, hấp dẫn này là câu chuyện có thật,
rất riêng của tác gỉa nhưng cũng thật chung, thật gần gũi với
tất cả chúng ta vì đề tài của tác phẩm có liên quan đến hai bi
kịch, hai thảm họa lớn nhất của cả một dân tộc, ảnh hưởng
đến cả một thế hệ sau ngày đất nuớc đã ngưng tiếng súng
trong một nền hòa bình rơi nước mắt năm 1975.
Đã có nhiều tác phẩm viết về cảnh tù đày cộng sản,
được trá ngụy gọi là “học tập cải tạo”; cũng có nhiều tác
phẩm đề cập đến phong trào “bỏ phiếu bằng sinh mạng” thể
hiện khát vọng tự do mang tính thế kỷ của nhiều tác giả. Vậy
“Vượt Tù, Vượt Biển” của Huỳng Công Ánh có gì mới mẻ,
khác lạ không? Câu trả lời là “không mà có”. Kết luận của
tôi thoạt nghe có vẻ như kỳ cục, mâu thuẫn nhưng tôi có lý
do. Tôi đã đắn đo rất nhiều khi đưa ra kết luận này.
Tù “cải tạo”! Rất nhiều người trong chúng ta đã trải qua, rất
nhiều người khác trong chúng ta đã đọc qua. Vẫn những trò
trá mị lừa đảo để gom thật nhiều người sa cơ vào “rọ”. Vẫn
những tàu chở súc vật hôi thối chất đầy người không còn
không khí để thở chuyển người từ Nam ra Bắc. Vẫn những
người chết ngộp trên xe từ các bến cảng đến vùng thượng du
rừng thiêng nước độc. Vẫn những trại giam hà khắc với
những cai tù ngu ngơ mà hách dịch, hung tàn. Vẫn những
ngày đói ăn, những đêm cóng lạnh, những bệnh tật không
thuốc men, những chỉ tiêu lao dịch vắt cạn sức người. Vẫn
những xác người lấp vội, những bài học nhồi sọ rẻ tiền,
58 Tin Vaên
những miệt thị đọa đày, những bi hài kịch cười ra nước mắt.
Vẫn những ngày địa ngục trần gian không biết ngày về …
Điều mới lạ, đáng quí của hồi ký “Vượt Tù, Vượt Biển” là
tính dung dị, chân tình dàn trải trong suốt tác phẩm. Không
có những vẽ vời, thêm thắt để bi thảm hóa vấn đề, để hận
thù lên án hay để tự đề cao. Điều đặc biết nhất của Vượt Tù,
Vượt Biển là thái độ sống và cách nhìn, cách đáng giá mọi
việc đầy bao dung, đầy tính nhân bản và tình người của
người tù Huỳnh Công Ánh. Ông không căm ghét, miệt thị
những con người xấu, những hành động xấu, kể cả kẻ thù
hung hiểm và đồng cảnh biến chất, phản bội, ông chỉ bình
thản kể lại với chút ngậm ngùi, đôi khi pha thêm lòng thương
hại. Tác giả chỉ đặc biệt nhấn mạnh, bày tỏ lòng tự hào và sự
ái mộ trước những chiến hữu sa cơ của mình, trong đọa đầy,
trong nguy khốn vẫn ngẩn cao đầu làm người với tất cả khí
tiết, lòng tự trọng và sự hy sinh, nhường nhịn, giúp đỡ dành
cho nhau. …Về phần mình, tác giả đã bình thản đối diện với
nghịch cảnh, không than van oán trách, không tuyệt vọng
buôn xuôi, biết luồn lách tránh né để sống còn nhưng không
đánh mất nhân cách và dũng lược. Một điều đặc biệt cần chú
ý và đáng lạc quan là tác phẩm có đề cập đến sự chuyển biến
về cách nhìn, cách đánh giá sự việc của những con người
miền Bắc, đã bao năm bị nhồi nhét, lừa mị về chế độ và con
người miền Nam. Thực tế đã mở mắt cho nhiều người thể
hiện qua tình yêu của cô gái tên Hoa, qua những củ khoai
tình nghĩa của người nông dân chủ vườn sắn ở gần trại giam,
đáng kể hơn cả là sự chấp nhận hiểm nguy, sự giúp đỡ vô
cầu của người lính miền Bắc phục viên đối với người tù
miền Nam trốn trại tên Chiến….
@
Vượt biển, cũng không lạ. Vẫn những con tàu mong
manh chất đầy người lặng lẽ ra khơi, Vẫn những trận cuồng
phong, những con ác triều sẵn sàng chờ chực. Vẫn những
ngày lênh đênh không cơm, thiếu nước. Vẫn những hải tặc
hung ác không có tính người. Vẫn những nổi trôi vô vọng
Tin Vaên 59
không thấy bến bờ. Vẫn những xác người xấu số được bạn
bè đồng cảnh đứt ruột thả xuống biển sâu. Vẫn nỗi kinh
hoàng với viễn cảnh tội tù khi phải khi quay về nơi chốn
cũ…
Điều đặc biệt trong chuyến hải trình gian nguy của Huỳnh
Công Ánh là ý chí sinh tồn, là lòng dũng cảm và tinh thần
trách nhiệm của một người lính thuộc Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa, đã biến người khách vượt biên bình thường,
không tên, không có bất cứ trách nhiệm gì trong việc tổ chức
và điều hành chuyến đi, bất đắc dĩ phải đóng vai trò của một
“Đại đội trưởng trinh sát” chỉ huy những người đồng cảnh
chiến đấu và vượt thoát kẻ thù trên biển. Cũng chính khối óc
và tinh thần “trinh sát” này đã giúp người vượt biển quay về,
người “quay về” nhiều lần hiểm nguy hơn người khác vì
trong lý lịch còn nguyên bản án “trốn tù”, tiếp tục vượt thoái
như chuyện thần thoại.
Hình như đã có người gọi chuyện vượt tù, vượt biển của
Huỳnh Công Ánh là anh hùng nhưng bằng lòng chân tình và
tính khiêm tốn tác giả hồi ký đã không nghĩ mình như vậy.
Ông chỉ đơn giản cho biết “phải chiến đấu để sống còn”, vậy
thôi.
Những đoạn rời về tác giả và tác phẩm Vượt Tù, Vượt
Biển đã có thể dừng lại ở đậy. Tuy nhiên dường như sẽ thiếu
sót lắm nếu như không nhắc về những cơ may - như một
phép lạ- đã xui khiến Huỳnh Công Ánh gặp gỡ người chiến
binh cộng sản phục viên tên Chiến và người hạ sĩ quan Nhảy
Dù đầy tình huynh đệ chi binh tên Cho. Không có sự hy sinh
vô bờ, sự giúp đỡ quên thân mình vượt quá trí tưởng tượng
của hai người bạn “trời ban cho” này, số phận của tác giả
Vượt Tù, Vượt Biển không biết sẽ ra sao.
sủng được nhận và phải chăng những hy sinh, đóng góp
của ông cho xã hội, ngoài tấm lòng đối với đất nước còn
như một cách để tạ ơn người, tạ ơn đời. Chắc vậy!
Nguyễn Mạnh An Dân
60 Tin Vaên
Nguyễn Mạnh An Dân
Người khác thú?
Không mảnh vải che đậy
Chỉ là người khỏa thân
Không còn chút suy nghĩ
Mới là người phi nhân.
Con người khác loái thú
Không chỉ ở áo quần
Mà nhờ vào lễ nghĩa
Đạo đức của Thánh nhân.
Loài thú khác con người
Không có tính độc lập
Tự làm chủ lấy đời.
Sống bấy đoán rong chơi.
Con người thua loài thú
Nếu không cần tự do
Thứ quà tặng trời cho
Sinh vật nào cũng muốn.
Tin Vaên 61
Phạm Tương Như Mưa…Lá…
tạp ký Đầu tháng mười hai nơi vùng Bắc Mỹ, mùa đông bao
trùm cả không gian. Thời gian tưởng chừng đóng băng trên
những tầng mây xám và hàng cây chịu tang đang phai màu
lá. Nỗi nhớ đong đầy tâm trí. Kỷ vãng xanh rêu bám vào
những hình tượng thân thương sừng sững chắn ngang miền
hồi ức. Mùa thu đi qua thành phố Houston bằng những trang
điểm đậm màu trong dáng nhìn phụ nữ. Những áo choàng,
khăn quàn cổ tăng thêm nét duyên dáng, quyến rủ. Thu hút
ánh mắt thôi miên du dạo thời trang và sắc màu. Những quả
bí chạm trổ dáng ma trơi và nhiều hình tượng quái dị của
mùa Halloween càng làm cảnh sắc thêm vẽ u trầm hoang dã.
Hàng cây ash hai bên đường, bờ cây không quen tên chung
quanh hồ, hàng pecan trên triền dốc quanh khu ngân hàng
đều trổ vàng mặt lá. Cảnh trí quanh đây như đeo sầu từ vạn
cổ, mây vừa đủ mây thả rong nỗi buồn, lá cây vừa đủ vàng
để rụng và tim người vừa đủ lãng mạn để si tình…Mấy cây
phong rải rác trong bãi đậu xe đã tô màu son đỏ đậm lên từng
phiến lá. Cuống lá mảnh mai đong đưa như chực hờ rơi rụng
Hồn tôi như lá thu vàng
đợi cơn gió thoảng là quàn vai em
Em thương thì giữ làm tin
Em phủi thì lá như tình thả bay
Mặt trời buổi sáng và trăng đêm hình như mờ bớt ánh
vàng. Hàng cây, mặt hồ sớm tắm gội sương chiều và mù màu
62 Tin Vaên
mây giăng mỗi bình minh. Thảm cỏ xanh của thuở nào đang
xám khô một trạng huống cam chịu số phận. Nhóm bạn nối
khố thời học trò, từng theo dõi và đồng hành cùng thơ tôi
nhắc rằng “hồi còn trẻ yêu hoa, xồn xồn yêu cỏ, già già yêu
lá…” Tôi giật mình nhận ra tâm lý lạ lùng. Hồn thơ là nội
tâm. Nội tâm chi phối bởi ngoại cảnh và quan niệm sống.
Hoa mang vẽ đẹp thiên nhiên, thánh thiện. Tượng trưng nhan
sắc phụ nữ, hương vị tình yêu(!). Hoa len lén hay lồ lộ sắc
màu đều dễ dàng chen vào lòng mọi người. Ai cũng yêu hoa.
Nhà nào cũng trồng hoa, chăm sóc, ngắm nghía từ búp non
đến hồi nở nụ. Có khi còn ngẩn ngở tiếc rẻ khi hoa héo úa,
đài rụng rơi! Từ tạo thiên lập địa có lẻ hoa luôn làm đầy ánh
mắt nhân gian! Bướm hoa vốn sẵn nòi tình ! Thế còn cỏ?
Chắc không ai phủ nhận cái mướt xanh, bạt ngàn và tìềm
năng sống của cỏ! Lợi ích của cỏ cũng đáng kể như hoa. Vì
nhu cầu công việc sở nên các năm 2007, 08, 09… tôi thường
về Sài Gòn. Những cuối tuần về Vĩnh Long thăm Má, tôi
nhận ra rằng bao nhiêu ruộng lúa đã trở thành vườn cây ăn
trái. Ruộng lúa chỉ dài 5 tháng, 7 tháng còn lại sẽ là đồng cỏ
“cò bay thẳng cánh”. Tôi bổng nhớ cỏ lạ thường! Và tôi viết
chừng ba bốn chục bài thơ “cỏ”, in trong thi tập “ Thơ hát ru
đời”, phát hành năm 2010. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận
được e -mail của thi- nhạc- sĩ Hàn Sĩ Nguyên”… ý niệm về
cỏ trong thơ PTN đã giúp tôi khai triễn thành hơn 20 ca
khúc…” kèm theo bài nhạc “ Cỏ yêu ơi!”. Hàn Sĩ Nguyên
cũng là người thực hiện CD thơ “ Tình sương ướt cỏ” cho tôi
.
Có một chiều thứ sáu, vị Giám Đốc xưởng hỏi chuyện
một cô gái vừa tốt nghiệp “hành chánh tài chánh” vì nhu cầu
cần người trông coi sổ sách. Tôi được giới thiệu là kỹ
sư…làm thơ. Cô gái nói cô là cháu nội Tô Hoài. Ba cô vào
Đồng Xoài làm rẩy, trồng điều xuất khẩu. Cô muốn tôi viết
một bài thơ tặng riêng cô. Cô mê văn thơ nhưng chưa được
ai tặng thơ bao giờ. Tôi nói “trong nam trồng cây lấy trái gọi
là làm vườn. Chiều chúa nhật tôi trao cô bài thơ tặng và mời
Tin Vaên 63
cô ăn tối, nghe nhạc ở Quán nhạc Không Tên vì thứ hai tôi
phải rời Sài Gòn”. Ngay sau đó tôi và anh Giám Đốc lấy xe
hơi cùng về Mõ Cày (Bến Tre) để anh thăm gia đình Ba Má
vợ của anh. Trong khi nằm đong đưa trên võng, đợi người
nhà bên vợ anh Giám Đốc làm đủ các món nhậu để đãi
chàng rể quý. Tôi nhận ra cánh vườn quanh nhà hơi lạ. Cây
ăn trái rất lưa thưa và cỏ thiệt nhiều. Cỏ thiếu điều leo cả lên
cây! Chủ nhà thương cỏ hay thương bụi chuối, cây ổi, gốc
xoài…?
Những con bướm vàng rất nhỏ và chuồn chuồn kim bay
lượn ngang những mươn ao cũng đầy hoa cỏ dại. Tôi lấy
cảm hứng viết bài thơ “ Cọng Cỏ” theo thể loại điệp khúc để
“hát thơ” như thời còn ngồi trên ghế lái phi cơ C 123K. Thuở
đó tôi hay viết và ngâm những bài thơ “ tình yêu, chiến tranh
và bay bổng”cho phi hành đoàn nghe. Một sáng phi hành
đoàn đang chờ load hàng tiếp tế cho chiến trường An Lộc,
sau khi phi hành đoàn của Trung Uý Phạm văn Công bị bắn
rơi vài hôm trước. Bỗng nhiên Thượng sĩ Dương Bình Nam
đến vỗ vai tôi và nói “ Bữa nay ông đừng ngâm thơ nữa
nghen, buồn chết được!”. Từ đó tôi chỉ hát thơ cho phi hành
đoàn nghe. Đỡ chán phèo!
Viết xong bài thơ, tôi gọi điện thoại và hát cho cô sinh
viên mới ra trường nghe. Mùa Thu năm 2010, Giáo sư Nhạc
Sĩ Linh Phương giúp đánh đàn cho buổi ra mắt sách của tôi
tại nhà hàng Kim Sơn Fountain Lakes, thành phố Houston.
Tôi chết lặng khi nghe ca sĩ hát bài “Cọng Cỏ” viết theo thể
điệu dân ca Mõ Cày do Linh Phương phổ từ thơ PTN. Cho
đến nay tôi chưa bao giờ cho Linh Phương biết là bài thơ viết
tại Mõ Cày để tặng cô sinh viên từng làm rẫy. Quá khứ của
cô gắn liền với cây cỏ miền quê. Tôi cũng chưa từng biết có
thể loại dân ca Mõ Cày. Nhưng tôi tin chuyện thần giao cách
cảm giữa những tâm hồn lắng đọng, chân thực giống như lời
cầu nguyện trong mọi tôn giáo. Tôi luôn có cảm tình với cỏ,
những cọng cỏ… son “ cắn trên môi cọng cỏ mềm, nghe
thương với nhớ êm đềm ru ai …” Nhìn những lá khô trên
64 Tin Vaên
thềm cỏ úa cho tha nhân cảm giác ngậm ngùi, một triết lý
sống, niềm yêu thiên nhiên vô bờ bến:
Tôi đi góp nhặt nghìn lá đổ
Như nhặt tàn phai nắng cuối ngày
Hồn đau xác lá trên thềm cỏ
Tâm tình này biết ngỏ cùng ai?
Chiều nay là Christmas Eve. Tôi ngồi trước văn phòng
sở, nhìn xa qua bên kia mặt hồ để chờ trận gió lớn, cơn mưa
băng giá đưa cái lạnh thấu xương đến đây như dự báo thời
tiết. Mọi nhân viên sở đã ra về. Bãi đậu xe trống vắng, từng
phiến cô đơn lót đầy khoảng sân rộng thừa thải lá khô. Chút
nắng ấm còn lưu luyến trên chùm hoa loa kèn vàng. Mấy con
ong ruồi cố tạo sự sống, bám sát vào những cuống hoa. Vài
cơn gió nhẹ thổi lá khô bay chồng chéo nhau như một vẫy
chào ly biệt. Thiên nhiên rất đỗi vô tình. Có ánh trăng nào
nằm chết trên phiến lá khô đâu! Vạt nắng yếu ớt này rồi cũng
bỏ đi trong vài khoảnh khắc! Tình yêu cũng thế! Nghịch
cảnh làm nên giông bão. Lòng người tạo bão giông. Cơn
mưa nào cũng đến từ tầng mây tan họp…
Cụm mây đen từ bắc phương về ngự đỉnh trời. Cơn gió
lốc mang đầy hơi nước băng giá ùa tới như những lưỡi dao
cứa lạnh da người. Mặt hồ gợn sóng, những cây xồi
evergreen quanh hồ trĩu cành , vặn mình rung chuyển. Mưa
nước chưa kịp đến, nhưng trận mưa… lá đã bắt đầu. Hằng
ngàn phiến lá chín vàng hay đỏ ối cố nắm níu, đeo cành từ
mấy hôm nay bỗng bị bới tung, nổi loạn bay cao trước khi
đáp xuống bãi đậu xe và thảm cỏ khô quanh cơ xưởng. Chỉ
trong phút chốc, lá làm ngập lụt hết lối đi, bãi đậu xe. Lá ứ
đọng quanh những bờ tường. Cơn lốc xoáy làm lá và cát bụi
xoán tròn, tung bay. Những thân bướm lá thành đàn đáp bừa
trên mặt xi măng. Mưa lá không làm bông bóng để vỡ trên
mặt nước, nhưng cũng đủ khiến khách đa tình vỡ tim với bao
giòng tâm sự:
Tin Vaên 65
Tôi ngồi khóc lá, lá đông ơi! Em xa xôi quá, quá đau đời
Có phải khi yêu, yêu đến nỗi. Nhìn trời chỉ thấy, thấy đơn côi
Tôi nằm nghe gió, gió đông ơi! Bên kia buốt giá, bên kia đời
Chỉ còn nỗi nhớ thành tâm bệnh. Tôi khóc ai và ai khóc tôi?
Tình buồn như cảnh, cảnh đông tàn. Hàng cây khóc lá, lá
bay ngang
Em ở mù mây, tôi sũng ướt. Bụi mưa nào đông đá tim gan
Nét đẹp tình yêu, yêu dỡ dang. Như cây trút lá, lệ hàng hang
Lòng tôi còn lại rừng nhân ảnh. Tôi bỏ tôi và thơ thở than!
Cơn mưa lá vàng kéo dài năm bảy phút thì trận mưa mây
cũng trút nước rào rào. Bãi đậu xe đầy nước, cuốn lá thành
giòng trôi vào cống rãnh. Tôi không thấy gì trên mặt hồ mù
mưa, chẳng biết sóng hồ có đủ sức nhận chìm những đời lá
đã qua mùa in bóng nước? Khúc nhạc Thánh Ca hòa cùng
tiếng mưa rơi làm lòng tôi rối nhầu, sướt mướt giai điệu hoan
ca của thuở nào!
Tôi còn lại cái lạnh cắt da, áo khoác không đủ ấm lòng.
Cõi lòng một người xa xứ ! Ngày mai Giáng Sinh chưa biết
làm gì?! Nhớ thời học trò ở Vĩnh Long, dù là người ngoại
đạo, nhưng đêm Giáng Sinh nào cũng cùng bạn bè hay người
yêu thả trôi về hướng nhà thờ Chánh Tòa để xem Rước Lễ.
Những lần Noel ở Tân Sơn Nhất cũng chật niềm vui, tha hồ
đàn ca hát xướng từ các câu lạc bộ Mùa Hoa Phượng (
Không Đoàn 53 chiến thuật), Mây Bốn Phương ( Sư Đoàn 5
KQ), Huỳnh Hữu Bạc ( BTL/KQ). Đêm Noel Sài Gòn “
ngựa xe như nước, áo quần như nêm*”rất khó chen chân đến
khu vực Nhà Thờ Đức Bà...
Phạm Tương Như 24/12/2016
* Kiều
66 Tin Vaên
Em và Tôi
Em và tôi trên giòng sông chia ly
Cầu ngăn đôi và thuyền xưa phân kỳ
Bài tình ca tôi nghe buồn, em khóc
Bờ song song đâu dấu hài người đi?
Em và tôi tìm vầng trăng đêm mưa
Soi đôi tim còn niềm tin yêu vừa
Khêu hương tình trong chăn hờ, gối tạm
Sầu lên ngôi nhìn đèn tàn canh khuya
Em và tôi nghe thời gian đi qua
Tình hôn mê khi thề xưa chưa nhòa
Chiều tha phương tâm tình đôi tri kỷ
Đời không em thơ buồn như tha ma
Nói Với Thu Vàng
Đời em riêng cõi Thu vàng
Dáng em ẩn hiện giữa ngàn lá bay
Tình yêu ru mộng tĩnh say
Mây giăng tím áo quan hoài đợi ta?
Cám ơn lá trổ màu hoa
Bay theo hướng gió dẫu xa bạt ngàn
Ta còn ước mộng chào Xuân
Ngắm em tắm nắng, nhú mầm lá xanh
Phạm Tương Như
25/12/2016
Tin Vaên 67
Vũ Tiến Lập
Thư gởi bạn
Thức giấc
nghe chim hát chào buổi sớm mai
vuốt mặt trần gian ngộp ánh sáng rực ngời
bình minh không là cơn mê
những con thiên nga đã mang đi ngày thần thoại
nơi chốn nào tôi thấm mệt niềm tin
mùa xuân chín nũn từ đêm qua
mưa đã về xầm xập
cây sồi sừng sững cũng đổi màu theo nắng
uống từng ngụm mật ngọt
tưởng như giòng nước
cuộn gieo vào lòng biển cả
vẫn còn một ngày phế thải
hạnh phúc là những cảm nhận vô tình
đôi lúc cũng là điều còn sót lại sau nỗi khó
có khúc hoan ca.
68 Tin Vaên
Quang Phạm xuân
cứ như thế đi gió đông ơi
gió đông tàn khốc bao lâu rồi
giá buốt không gian tận đâu đâu
giữa mùa tê tái hoa không bướm không
thế gian, hỏi han ngờ vực gì nữa đây
nhưng lại hỏi bao giờ em cóbuồn không
những đêm dịu dàng lơ đãng như đêm nay
hương trầm anh đốt ngoài kia kìa, lại anh hỏi
bao giờ gái xuân thổn thức đêm xuân đây
hoa không bao giờ yêu bướm đâu, lạ nhỉ
hoa chỉ yêu mỗi hồn thi nhân
trần gian hoa nở chơi thế thôi
cho nhân quần yêu đương
cho đông tàn xuân sang
cho mỗi năm lại đẹp hơn năm ngoái
cho thời gian không gian,
có như thế nào đi chăng nữa anh ạ!
Tin Vaên 69
HoàngT.
Thanh Nga Én mang Xuân về
Nhiên lui cui mồi
bếp. Mồi gần hết tép củi
thông dầu vẫn chưa bén
lửa. Củi ướt, khói ngun ngút cay sè chảy nước mắt. Đang
chổng mông kê miệng vào ống thổi, thổi phù phù vô bếp đặt
trước hiên nhà chuẩn bị cho nồi hủ tíu bán buổi sáng, bỗng
từ đâu một luồng nước tạt thẳng vào lò, lửa vừa chớm bén
củi gặp nước kêu xèo một tiếng rồi tắt lịm. Hoảng hốt ngẩng
lên, Nhiên thấy gã chồng tay cầm cái ca vừa tạt nước, mặt
hầm hầm quát:
- Dẹp mẹ nó đi. Bán buôn gì mà nợ hắc lẫm? Còn tiền lấy
hàng đâu, đưa hết đây cho tao.
Đây không phải lần đầu gã hành động bất nhân vậy! Lúc
thì ăn cắp miếng thịt dành để bán đem đi nhậu. Lúc thì ăn
cắp tiền… Lần này lại tạt nước không cho nhóm lò. Đến nỗi
này thì không còn chịu đựng được nữa, hết cả sợ hãi những
trận đòn, Nhiên lồng lên:
- Anh có biết vì sao mà nợ? Thời buổi này người ta làm lụng
vất vả cả vợ lẫn chồng chưa thấy gì. Nhà này có mình tui làm
còn anh phá, sức trâu kéo cũng không lại. Nợ gối đầu cao
quẹo cổ, làm gì có tiền trả tiền hàng mà đưa cho anh?
Gã không nói không rằng túm tóc vợ lôi sềnh sệch vào
nhà, đánh túi bụi. Nhiên vớ được con dao thái thịt trên bàn,
huơ lên khứa một đường dài, sâu, vào tay gã. Gã buông cô ra
ôm cánh tay đang tuôn máu, mồm chửi rống, a con này giỏi,
tao giết chết mày. Nhiên cắm đầu chạy bán sống bán chết ra
Ủy Ban Nhân Dân Xã.
70 Tin Vaên
Giờ này xã chưa làm việc. Chắc còn phải đợi vài tiếng
nữa. Nhiên bần thần ngồi bệt xuống thềm trước cửa Ủy Ban.
Lại mất một buổi bán, không có tiền đong gạo cho ngày nay.
Ba mẹ con không gạo nấu cơm, nhịn đói là “chuyện thường
ngày ở huyện”. Hôm nay cô quyết phải gặp được bà hội
trưởng hội phụ nữ để kêu nài giải quyết đơn xin ly hôn. Đơn
nộp đã lâu, nhưng họ hết lần này đến lần khác hòa giải!,,,
Sống với gã chồng cục súc được hai con gái, Nhiên tất tả
đầu hôm sớm mai làm lụng cả ngày. Sáng bán mì hủ tíu
trước hiên nhà. Xóm nhỏ dân nghèo bán giá bình dân, bán
hết nồi tiền lời đong vài lít gạo, hôm nào ế mẹ con ăn trừ
cơm, ăn “sang” hụt vốn thì vay bạc hai mươi đắp vào, lãi mẹ
đẻ lãi con không bao giờ dứt. Dọn xong hàng hủ tíu liền
quẩy gánh ve chai tới tối mịt. Gót chân chai nứt, gánh đời
nặng trĩu. Đầu tắt mặt tối vậy cũng không đủ sống, còn phải
vay tiền để nộp cho gã chồng đi độ nhậu, độ bi da, độ bóng
đá. Không “độ” nào gã tha. Thua, về tra khảo vợ ra tiền! Bi
đát nhất là vào những tháng mưa dầm. Trời chưa sáng đã
mưa. Bán hàng ăn ế. Mua ve chai cũng ế. Người ta ở trong
nhà ấm áp, ngại mở cửa hứng mưa bán vài món đồ rác được
có mấy đồng bạc lẻ ăn vặt… Mà tháng mưa là tháng khai
trường, cần tiền nhiều hơn để mua sách vở quần áo cùng
đóng đủ thứ tiền trường cho con. Mỗi lần thấy trời chuyển
mây đen vần vũ chưa kịp rớt nước, lòng Nhiên đã ngập úng
nỗi sầu.
Không biết Nhiên sinh ra dưới vì sao xấu nào mà cuộc
đời bi thảm đến vậy!? Ngày trước, cô nữ sinh Nguyễn Bá
Tòng tuy không phải hoa khôi trường, cũng mượt mà đằm
thắm để bao chàng trai ngẩn ngơ mơ ước, nhưng chưa ai lọt
mắt xanh. Cuộc sống vui vẻ với những cuối tuần rong chơi
cùng bè bạn. Năm nhỏ Quỳnh, Vy, Nhàn, Trúc, Nhiên được
bạn trong lớp đặt cho biệt danh Ngũ Hạc …Tinh Tinh, bởi
đứa nào đứa nấy vóc dáng mỏng như con nhạn mắc mưa mà
nghịch phá rắn mắt thành tinh, đến nỗi thầy cô ngán
ngẩm!… Một lần năm đứa hẹn ra ngoại ô ngao du. Giao ước
Tin Vaên 71
cùng mặc trang phục giống nhau, jupe xanh dương áo xanh
nước biển. Lòng tràn đầy niềm vui, cả bọn vừa đi vừa hát,
chân đạp nhanh những vòng xe, tóc tung bay trong gió, nhìn
như một đám mây xanh trôi trên bầu trời trong vắt, hòa vui
cùng tuổi thần tiên!... Trời êm gió lặng. Không gian hiền
hòa. Bỗng đâu một trận cuồng phong ập tới. Lúa đang ngậm
sữa dưới ruộng nằm bẹp sát đất gãy ngọn tả tơi. Trên đầu
tiếng động cơ máy bay xoành xoạch gầm rú như chuẩn bị thả
bom. Chưa định thần việc gì xảy ra, bỗng một chiếc trực
thăng đậu xà trước mặt. Thắng xe đạp gấp cộng với sức gió
từ cánh quạt máy bay hất tung năm đứa té bò càng xuống
đường ruộng, tóc tai cùng áo váy tốc lên điên đảo. Ôi trời!
Tai họa gì giáng xuống thế này? Mấy đứa trẻ chăn trâu thấy
cảnh tượng đó được phen cười no! Một khuôn mặt thò ra ô
cửa trực thăng, hốt hoảng. Năm đứa lồm cồm ngồi dậy, chưa
kịp nhào đến mắng cho gã phi công một trận tóe lửa, con
chim sắt đã nhấc mình bay vút lên trời, như vội vã chạy trốn
trận cuồng phong do chính nó gây nên. “Ngũ tinh” đứng
nghệt mặt dậm chân tức tối. Tiếng là “tinh” mà giờ phải chịu
thua con ma sắt này!
Bao nhiêu giận dữ vì trò đùa quái ác của gã phi công trực
thăng, Nhiên trút hết vào anh Ân, bởi anh cũng mặc binh
phục Không Quân. Anh đang kỳ phép ở nhà, tai bay vạ gió
hứng cơn tức giận của con em trút xuống. Nhiên xí một cái
dài thậm thượt, giọng chua ê răng:
- Xời, nghe nói Pilot mấy anh hào hoa lịch lãm lắm mà, hóa
ra Không Quân toàn lính…ba gai!
Anh ngạc nhiên:
- Ai chọc giận em vậy? Sao lại vơ nguyên binh chủng của
anh mà “dũa”?
Cơn giận chưa nguôi khi nhớ lại “thảm cảnh” xảy ra lúc
đó, Đứa nào đứa nấy mặt mũi thất thần ngơ ngáo, tóc tai rũ
rượi, áo váy tung bay, vừa xấu hổ vừa giận muốn vỡ tung
lồng ngực! Nhiên đay nghiến:
72 Tin Vaên
- Cha phi công thấy ghét, tự nhiên đang bay trên trời thì xà
xuống ngáng đường tụi em, làm mấy đứa té lăn cù chỏng
gọng chẳng còn thể thống gì, khốn kiếp thật!
Anh trai cười ha hả:
- Có thế mà cũng giận, người ta có duyên gặp gỡ Ngũ Hạc cô
nương, mừng quá đáp xuống diện kiến thôi mà, ngờ đâu mấy
đứa mỏng quá nên …bay, cái đó trách ai được…haha…
Nhiên gào lên:
- Anh còn ở đó chọc nữa. Anh làm ơn chuyển lời, nói anh
Khang từ nay đừng đến đây làm thân làm thiết với em, em
không thèm đâu.
Anh càng cười dữ hơn, tưởng sắp đứt hơi:
- Trời! Giận cá chém thớt, thằng Khang nó tội tình gì mà em
lôi nó vào đây? Coi chừng, ghét của nào trời trao của đó, tới
lúc lại van nài người ta, đi đâu cho thiếp theo cùng, đói no
thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam, thì kêu trời không thấu nghe
cưng!
Con nhỏ em cũng xía vô:
- Đúng rồi, mắc mớ gì tới anh Khang mà chị giận ảnh? Tại
mấy chị học múa Ba Lê chưa giỏi mà đã ham biểu diễn
nên…lăn cù phải rồi…hí hí…
Nhiên tức trào nước mắt. Nhào tới túm lấy Hạnh ký mấy
cái muốn lủng đầu. Con em này mũm mĩm tròn vo, chậm
chạp không kịp đào tẩu lãnh mấy viên đạn lạc khóc mếu
máo. Mẹ thấy tình hình căng thẳng quá bèn can:
- Thôi đừng trêu ghẹo nhau nữa! Anh em chúng mày thiệt
hết nói...
Mẹ sợ Nhiên giận quá tuyệt giao anh Khang thật. Cả nhà
ai cũng quí mến anh, phần vì anh là bạn rất thân của anh Ân
cùng binh chủng, cùng phi đoàn chiến đấu. Phần cũng vì anh
hiền lành dễ mến lại mồ côi, nên ba mẹ coi anh như con
trong nhà. Biết anh có ý thương Nhiên mọi người không
phản đối còn vun vào. Mẹ nghĩ sau này nếu hai đứa có
duyên, Nhiên không phải làm dâu ai, chứ mỏng manh yếu ớt
thế kia gặp nhà khó khăn không khéo ba bữa bị trả về! Mẹ
Tin Vaên 73
khéo nghĩ xa tận đâu đâu, Nhiên chỉ coi anh Khang như anh
Ân thôi, tâm hồn trong trẻo chưa vướng chuyện đời. Nói như
thơ Hà Huyền Chi, trái tim bọc vải cuốn trăm vòng…
Cuộc sống đang êm ả hoa mộng bỗng đất trời đảo điên.
Ngày quân “giải phóng” vào, anh Ân không kịp đưa cả gia
đình cùng đi nên anh tuột xuống khỏi máy bay, về. Thế là
cùng chung số phận với ba, đi tù. Anh Khang lái chiếc trực
thăng bay thẳng ra biền…
Căn nhà chính phủ cấp cho ba trong bộ Tổng Tham Mưu
bị “cách mạng” đuổi ra. Mẹ đưa chị em Nhiên về nương náu
nhà ngoại ở thôn vườn trầu Bà Điểm. “Học tập” vài năm, ba
chết trong tù vì khổ sai kiệt sức. Anh Ân chết vì vác đá trượt
chân lăn xuống núi. Mẹ cũng chết vì kiệt quệ tinh thần sau
những biến cố bi thảm xảy ra!...
Ngoại già, chỉ nhờ mảnh vườn ít dây trầu đắp đỗi qua
ngày, nay cưu mang hai đứa cháu mồ côi càng thêm túng
quẩn. Cậu dì ai cũng nghèo lại con đông. Thời “giải phóng”
về cả miền Nam trù phú ấm no ngày trước nay bỗng đói rã
ruột hệt dân Phi Châu… “Kách mạng” có phép thuật “đổi
đời”! Trong tình cảnh khốn khó, Nhiên nhắm mắt lấy chồng.
Anh chồng nhìn cũng thư sinh nho nhã, ngày xưa trốn lính
nên giờ ung dung, lại con điền chủ. Nhiên tưởng rằng từ nay
có chỗ nương dựa vững vàng trong cuộc đời đầy rẫy tai
ương. Vài năm đầu sống đời vợ chồng bình lặng, không vui
không buồn. Từ khi Nhiên sinh con bé Ba chồng bỗng sinh
tật, không chịu làm, chỉ chịu chơi. Bao nhiêu thói hư tật xấu
anh ta “ôm” hết. Nhất là thói vũ phu. Đi nhậu về, say, lôi vợ
đánh. Thua độ cá cược, kiếm chuyện đánh. Nã tiền không có,
đánh. Từ một cô gái liễu yếu đào tơ, mình hạc xương mai,
Nhiên giờ thành lau sậy bên sông, xương khô mình vạc. Cha
mẹ chồng xót thương con dâu cũng chịu trận không thể
khuyên can, họ còn thầm xúi cô ly dị. Bởi lúc tỉnh táo nghe
lời khuyên gã ậm ừ, nhưng lúc say xỉn hoặc không nã được
tiền gã lại mất nhân tính! …
74 Tin Vaên
Dòng hồi tưởng bị cắt ngang khi người cán bộ xã đầu tiên
đến mở cửa. Hắn hất hàm hỏi Nhiên:
- Chị đi chứng cái gì mà đến sớm thế?
- Dạ…dạ, tui muốn gặp chị Ba hội trưởng phụ nữ.
Mặt gã cán bộ khinh khỉnh như đang ban ơn:
- Chị may đấy! Hôm nay họp “đột xuất” chị Ba mới đến.
Mỗi tuần chị ấy chỉ đến xã một ngày thứ hai. Nhưng phải
chờ họp xong mới được gặp.
Chờ thì chờ. Chờ đến chết cũng phải chờ! Cái chức nhỏ
nhoi, hội trưởng phụ nữ, đội hòa giải hôn nhân gia đình thôi.
Mà quyền uy nghiêng lệch cả một đời người. Nên cứ phải
chờ. Bởi rất khó gặp được bà này, ngoài lúc đến xã để “giải
quyết” công việc trong phạm vi chức năng, bà cũng cắm đầu
ngoài ruộng tới lặn mặt trời. Đối với những người bảo thủ cố
cựu, họ không bao giờ xử ly hôn dễ dàng. Họ luôn nhân danh
tình nghĩa, vị tha, trách nhiệm, để cột trói những mảnh đời
vụn vỡ…Họ cố làm tốt vai trò hàn gắn gia đình người khác
cách máy móc, Mà không hiểu những suy xét một phía của
họ tựa sợi giây xiết cổ người trong cuộc đến chết.
Chị Ba hội trưởng khó chịu khi thấy Nhiên. Chị đã quá
quen mặt cô bởi những lần hòa giải. Đối với quan niệm của
bà cán bộ này, những phụ nữ nằng nặc đòi ly hôn là rất đáng
chê trách, bởi không chịu “nhường nhịn” chồng. Chị Ba lạnh
nhạt:
- Vụ việc của chị đến tháng sau mới giải quyết, bữa nay đến
chi?
Nhiên nài van:
- Cán bộ làm ơn cứu xét cho em sớm hơn chút, em chịu hết
nổi rồi…
- Làm việc phải theo lịch sắp xếp, sớm thế nào? Với lại
chồng chị không chịu ký đơn ly hôn thì chúng tôi làm sao
được? Chỉ có thể hòa giải thôi.
Máu trong người Nhiên cuồn cuộn bốc lên, như núi lửa
sắp phun trào dòng nham thạch tích chứa bấy lâu. Nhiên giật
phăng nút áo, phơi bày thân thể khô đét, những chiếc xương
Tin Vaên 75
nhọn cơ hồ muốn đâm thủng làn da mỏng thòi ra ngoài. Trên
từng phân vuông da thịt dầy những vết tím bầm mới cũ
chồng chất. Không còn kiêng sợ “chính quyền”, Nhiên uất
ức gào lên:
- Mấy người có trong hoàn cảnh tui đâu mà biết, nên cứ đủng
đỉnh hòa giải với chẳng hòa hợp! Hòa máu vào tô làm tiết
canh thì có. Nó không chịu ly hôn giữ tôi lại làm cái bao cát
đánh cho sướng tay, pháp luật ở đâu mà chịu thua loại bất
nhân này? Hôm nay tui đâm nó đổ máu rồi. Còn ở chung tui
không giết nó thì nó cũng giết tui, phải có án mạng mới vừa
lòng mấy người!
Chị cán bộ sửng sốt trước phản ứng dữ dội của Nhiên,
phần thấy thân thể cô nhiều thương tích cũng động lòng trắc
ẩn, đấu dịu. Và hỏi thêm một câu cho đúng bài bản xử ly
hôn:
- Ừ, cho là không hòa giải nữa thì cũng phải có thời gian
phân chia tài sản …
Nhiên ngắt lời chị ta:
- Tài sản? Còn đống nợ đó hỏi nó chịu chia với tui không?
Cả hai đứa con gái nữa, tui không nuôi để nó xách đầu đem
bán hả?
Chị Ba lắc đầu cám cảnh, thôi được, tuần sau tui gởi giấy
kêu đến giải quyết.
Cầm tờ giấy ly hôn trên tay Nhiên thở ra nhẹ nhõm. Từ
nay đường ai nấy đi, Nhiên thoát địa ngục trần gian, bớt phần
nuôi gã chồng nhẹ được hơn nửa gánh, lại khỏi đau đớn thể
xác dành sức nuôi con, ba mẹ con về tá túc nhà ngoại cùng dì
Hạnh, căn nhà mướn trả chủ là xong…
Nhưng chuyện đời đâu dễ dàng vậy. Gã chồng khốn nạn
để xổng mất “con mồi”, hậm hực cay cú, mấy bận đón
đường Nhiên hục hặc gây sự may có chòm xóm can ngăn.
Vậy mà cũng có lần gã rình xô đổ cả gióng gánh Nhiên ngoài
đường, chửi nhoi trời, mày không yên với tao đâu, tao phá
cho bỏ xứ đi luôn, chết đâu thì chết đừng cho tao thấy mặt.
76 Tin Vaên
Nhiên bỏ xứ đi thật. Ở đây không ai binh vực, bà ngoại
già yếu, gia đình cậu vào Saigon kiếm sống khi mấy thửa
ruộng bị xung hợp tác xã. Dì dượng gởi con bên nội, cầm cố
nhà đi “hợp tác lao động”. Mấy lần bị gã chồng cũ quấy
nhiễu Nhiên lên xã kêu cầu giúp đỡ chẳng có kết quả gì. Luật
pháp thua luật rừng! Nhiên để con lại nhà cho em trông coi.
Hạnh năm nay đã quá lứa nhưng nhất định không lập gia
đình khi thấy cảnh đời chị, nó nói, ở nhà lo cho ngoại,
thương cháu, thương học trò vậy đủ rồi, chồng con chi cho
khổ!
Người quen trong xóm mách nước Nhiên đi Bù Đăng bán
hàng cho dân làm gỗ, làm ăn ở đó sẽ khá hơn lại tránh xa
được gã chồng cù nhầy…
Gần một năm Nhiên lên rừng buôn bán, dành dụm được
chút ít gởi về nuôi con và trả bớt nợ. Xa nhà, nhớ hai đứa
con lắm nhưng chưa dám nghỉ ngày nào về thăm, cô phải trả
hết nợ lòng mới yên. Tin vào những điều huyền bí tâm linh,
cô nghĩ kiếp trước nợ ân tình cùng tiền bạc của gã chồng cũ
quá nhiều nên giờ mới trả quả nặng nề làm vậy! Kiếp này
không dám để nợ nữa…
Hôm nay đã rằm tháng chạp. Dù gì tết cũng phải về với
gia đình. Cố bán vài ngày nữa bòn mót thêm chút tiền, để mẹ
con bà cháu cũng gọi là có ăn tết. Nhiên đã dặn em mua sắm
từ từ cho rẻ, để cận ngày mọi thứ đều leo thang tới nóc. Dặn
em đổi ít đồng tiền mới biếu ngoại, để ngoại có mà lì xì cho
đám cháu về chúc tuổi. Hạnh cũng có tiền thưởng giáo viên
sắm cho bé Hai bé Ba mỗi đứa một bộ đồ mới…Coi như
năm nay nhà cô có tết…nghèo.
Vừa dọn dẹp nồi tô vừa suy nghĩ miên man, Nhiên chợt
nghe tiếng nói sau lưng:
- Cô ơi, bán hết rồi sao. Còn chút nào không cho tôi một tô?
Quay lại. Một người đàn ông trung niên, chững chạc điềm
đạm, mái tóc pha chút muối sương, ăn mặc lịch sự khác hẳn
dân làm rừng ở đây, chắc người thành phố mới lên. Có điều,
sao khuôn mặt nhìn thân quen quá. Nhiên nín thở, sững sờ!
Tin Vaên 77
Cái tô đang cầm trên tay rơi xuống, Nhiên lao đến ôm người
đàn ông, òa khóc nức nở. Anh Khang. Phải, đúng là anh
Khang rồi. Gần hai mươi năm anh vẫn thế, khuôn mặt chữ
điền cương nghị mà hiền hòa. Làm sao Nhiên quên được?
Bởi Nhiên đã coi anh như anh của mình. Nước mắt tuôn như
mưa, Nhiên trút hết bao ấm ức số mệnh cuộc đời vào lòng
anh.
Anh dìu Nhiên ngồi xuống ghế, vuốt tóc vỗ về. Khóc
chút thôi em, tội em quá! Anh đã tìm được em rồi, từ nay em
không còn khổ nữa đâu. Nín đi em…
Qua cơn xúc động Nhiên lau nước mắt ngẩng lên, thấy
mắt anh cũng đỏ hoe ngấn nước. Hai mươi năm dâu bể tang
thương, gia đình tan nát. Anh Khang như người thân tưởng
đã lạc đâu mất nay bỗng trở lại. Tâm trạng Nhiên lúc này pha
trộn thảng thốt bồi hồi lẫn mừng vui hạnh phúc, không thể
diễn tả! Anh thở dài:
- Phải chi hồi đó thằng Ân nghe lời anh ra đi thì đâu có chết
trong tù, mà còn giúp được gia đình qua cơn thống khổ. Ba
sẽ không chết vì đói khát kiệt sức, mẹ không chết vì đau
buồn, em không phải sống cảnh đời khốn khổ như vậy!
Nhiên cũng thở dài:
- Thôi anh ạ. Định mệnh sắp sẵn cả rồi, mỗi người một số
phận! Mà sao anh biết em ở đây?
Anh nhìn vào mắt Nhiên. Trong mắt anh ẩn chứa một trời
thương nhớ:
- Em có biết đây là lần thứ tư anh về Việt Nam tìm em? Ba
lần trước anh tìm vô vọng, anh chỉ biết đến tìm nơi ngôi nhà
cũ, nay dân Bắc ở. Lần này lang thang chợ Bến Thành may
gặp Vy bán sạp hàng trong chợ, hỏi thăm mới biết em về ở
nhà ngoại và chỉ đường. Tiếc quá! Sao ngay từ đầu không đi
chợ Bến Thành để gặp Vy? Mà cũng tại ngày xưa anh vô
tình! Phải chi hồi đó quan tâm thăm viếng ngoại thì đã tìm
được em ngay rồi. Về gặp Hạnh, nó chỉ biết em ở Bù Đăng,
may cái thị xã này nhỏ anh mới lật tung lên tìm được em…
Nhiên xót xa:
78 Tin Vaên
- Anh đừng áy náy băn khoăn nữa. Mấy lần trước anh có đi
chợ Bến Thành cũng không gặp Vy đâu, nó vừa được trợ cấp
bên chồng ở nước ngoài gởi về mới có tiền sang sạp hàng.
Cho nên chuyện gì cũng do ý trời.
Anh trầm giọng thiết tha:
- Em có biết anh yêu em từ ngày xưa đến tận bây giờ vẫn
nguyên như vậy. Nửa đời qua rồi, mình cho nhau cơ hội đi,
em đừng giận đừng ghét anh nữa nhé.
Nhiên kinh ngạc:
- Em có giận có ghét anh bao giờ đâu?
Khang giật mình, xuýt chút nữa nói hớ ra bí mật năm
xưa! Chuyện chiếc trực thăng đáp xuống ruộng làm “đám
mây xanh” té nhào tung bay áo váy. Hôm ấy sau một phi vụ
tiếp tế trở về, ông hoa tiêu phó ngồi bên cạnh rảnh rỗi mắt
láo liên dòm xuống đất, bỗng hú lên như ăn mày vớ được
vàng, tay đập bành bạch vào đùi Khang, xuống xuống
Khang, dưới đất có mấy cô bé xinh quá, mình đáp xuống làm
quen đi… Khang nhìn theo hướng Vinh chỉ, quả thật, năm cô
gái như bầy thiên nga xanh, hồn nhiên phơi phới đạp xe trên
đường làng, tiếng hát của họ hình như vọng lên tận đây? Bất
giác Khang cũng nổi máu nghịch ngợm, vội vã đáp nhanh
xuống đất…
Con tàu như khối sắt nặng nề rơi xuống, với sức gió từ hai
cánh quạt có thể thổi bay…ngọn núi, huống chi là mấy nàng
vóc dáng mỏng manh như cánh hạc thế kia! Khang ghé đầu
nhìn qua khung cửa, khi “đám mây xanh” té lăn lóc trên
đường ruộng anh cũng cảm thấy hối hận. Bỗng hoảng hốt
nhận ra Nhiên cùng đám bạn trong nhóm “ngũ hạc” của
nàng, Khang vội vã kéo cần collective và cần cyclic đồng
thời đạp pedals cho máy bay vọt lên không, tay run lẩy bẩy.
Thằng Vinh hậm hực lầu bầu, làm gì mà ông run như thằn
lằn đứt đuôi vậy? Ông tuổi con …gián à? Dịp may hiếm có,
cơ hội đỡ mấy nàng dậy rồi làm quen, vậy mà để lỡ!...
Khang nổi quạu, chưa kịp đỡ có khi đã ăn guốc vào mặt, ở
đó mà làm quen, tụi mình chơi cũng kỳ thiệt!
Tin Vaên 79
Khi nghe Ân kể Nhiên “hận mấy ông phi công ba gai”,
Khang dấu nhẹm chuyện mình là thủ phạm đáp trực thăng
hôm đó. Nghĩ lại giận thằng Vinh vô cùng! Nhưng trách
người không bằng trách mình, chính Khang đã đồng tình với
trò chơi tinh quái đó mới đáp xuống. Khang dặn lòng sống
để dạ chết mang theo, không bao giờ lộ chuyện này với anh
em Ân. Vậy mà hôm nay suýt chút hớ hênh phun ra bí mật.
May quá dừng kịp! Khang vội nói trớ đi:
- Tại hồi đó em nói ghét phi công, anh tưởng em ghét luôn
anh...
- Nhắc mới nhớ, là em ghét ông phi công trực thăng ba gai
nhào xuống đất hôm đó làm tụi em té bò càng, nghĩ tới vẫn
còn giận thấu xương, chớ đâu có ghét anh. Hồi đó giận cá
chém thớt nói vậy thôi. À, vợ con anh đâu mà về tìm em?
- Anh qua Mỹ đợt tỵ nạn đầu tiên, hiếm con gái Việt nên lấy
vợ Mỹ. Ở với nhau mười năm thì ly dị. Anh chỉ có một thằng
con, cháu đã lớn và tự lập, anh không còn vướng bận gì nữa.
Nếu em chấp nhận anh, muốn đi Mỹ thì anh đưa mẹ con em
đi, muốn ở lại với ngoại thì để anh xây lại nhà cho thêm rộng
và khang trang, anh sẽ khi đi khi về bởi còn công việc bên
đó. Em không phải bôn ba vất vả nữa, ở nhà coi sóc con,
chúng nó lớn rồi phải để mắt trông chừng đâu thể giao phó
hết cho dì Hạnh…
Nhiên bàng hoàng cảm kích. Gục đầu vào lòng anh, tận
hưởng ngút ngất nồng ấm tình yêu. Mối tình không hẹn mà
sắt son vĩnh cửu! Ngoài kia đất trời đang chào xuân, núi rừng
xanh tươi bát ngát. Lòng Nhiên cũng mở hội rộn ràng. Anh
là cánh én... Chỉ một cánh én đơn độc, anh đã đem lại cho
Nhiên mùa xuân bất tận sau bao đông dài buốt giá. Cám ơn
chim én mang xuân về!
Đến tận bây giờ Nhiên mới nhận ra, những người hùng
trong binh chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa là
lính…hào hoa! Không phải “danh hiệu” …“lính ba gai” như
trước đây Nhiên xéo xắt định kiến.
Hoàng T. Thanh Nga./Aug 2016
80 Tin Vaên
Túy hà Thu nhật
Bài thơ viết giữa mùa Thu
Từng con chữ lạnh nhẹ từ lặng trôi
Ý tình phấn thổ khó bồi
Rã rời hồn nước nỗi trôi việt thường
Đời lưu vong vái tứ phương
Chỉ xin hai chữ yêu thương cõi người
Vàng thu ước vọng rã rời
Tình phơi xác lá cuộc chơi lụi tàn
Chỉ còn chút nghĩa tro than
Khắc lên bia mộ nhớ thân phận người
Nụ cười nước mắt một thời
Cũng là cát bụi giữa đời điêu ngoa..
Bao lần! vận nước can qua
Người thua thành thắng lệ pha máu trào
Bốn mươi năm lẻ tiêu hao
Một lần ngã ngựa lao đao một đời
Chiến y rách người đứt hơi
Ngày sau ai nhớ thế thời oan khiên
Làm ơn khắc chữ đảo điên
Trên quan tài lạnh gởi thuyền nguyệt thu.
Tin Vaên 81
Lê Hữu Minh Toán Phiên khúc
Phiên khúc mùa Xuân Vạt nắng giao mùa hong khô tóc rối
Từng cánh Mai vàng rót nhẹ lời đêm
Mùa Xuân đi qua sầu thương vời vợi
Tiếng khóc chim Uyên mỏi cánh bay tìm
Tuổi nhớ
Khói thuốc giăng mây nhuộm vàng trí nhớ
Trên đỉnh sa mù vất vưỡng vay say
Giọt lụy nửa đời đong đưa phiến khổ
Tuổi nhớ chất cao chén đắng vơi đầy…
Gió tương tư
Ngắt một nụ buồn căng trèon giấc ngủ
Đếm gió tương tư trên phiến lụa mềm
Một rang cầu vồng mời em qua đó
Cánh Vạc bay rồi em ở đâu em.
Vọng tưởng
Khoảng trống bềnh bồng màu đen dịu vợi
Năm ngón tay thon tuyết trắng vô ngần
Cánh cổng dần cao theo hồi chuông đổ
Con dốc duỗi dài mặc niệm sầu riêng...
82 Tin Vaên
Đào Lê Cũng rồi…
Thu về chạm cõi lòng ta
Hà phương gợi nhớ Nguyệt ca bên trời
Ngỡ đâu thề hẹn cũng rồi...
Lá bay mấy nỗi, thuyền đời mấy sông?
Cũng rồi... số phận long đong
Kiếp người ai bước ngược giòng nhân gian
Phôi phai vạt nắng chiều tàn
Lá thoi thóp thở, trổ vàng ngọn cây
Cũng rồi... điệu nhớ gửi mây
Trời tây ửng nắng, gió tây lạnh lùng
Hồn ta là gió ngại ngùng
Sợ làm lá đổ tình chung lỡ làng
Cũng rồi... mây gió họp tan
Vá hoài thương tích, võ vàng niềm đau
Làm sao lá khỏi thay màu
Làm sao ta khỏi lệ trào cảm Thu
Ẩn màu minh Nguyệt, sương mù
Thấy ai thấp thoáng mộng du yêu người
Áo mây, tóc liễu ... giăng đời
Thấy mình như lá ... Cũng rồi... thả bay...
13/09/2016
Tin Vaên 83
Điệp Mỹ Linh
Đưa Anh về
Sau khi Hương
Giang yêu cầu, tài xế cho
xe chậm lại, rồi dừng
trước tiệm bán sách báo,
băng nhạc. Nàng quay ra
sau, dặn em: -Đức! Chị cần mua mấy chai nước, Đức chờ
chút, nha. Đức "dạ", mắt vẫn khép, rồi lại trầm ngâm, cố xua đuổi hình
ảnh ngôi nhà xưa của Ba Mạ gần gốc phượng già bên bờ
sông Hương. Lúc trưa Đức bảo tài xế chạy ngang xem có thể
vào thăm hay không; nhưng khi xe chạy gần đến, thấy ngôi
nhà đã được thay bằng căn nhà nhiều tầng và sơn phết rất lòe
loẹt, Đức bảo chú tài chạy thẳng.
Ngôi nhà xưa không còn nhưng hình ảnh bi thương của
Ba bị Việt Cộng đập vỡ sọ và hai đứa em bị trói, vất xuống
sông Hương, năm Mậu Thân, cứ chờn vờn trong tâm trí của
Đức. Vì cái chết oan ức của chồng con và cũng vì hành động
tàn ác, dã man của Việt Cộng - khi Việt Cộng vi phạm hiệp
ước ngưng chiến do chính Việt Cộng ký kết - Mạ quyết định
giữ nguyên tình trạng ba xác chết để làng xóm và các con
của Mạ, khi về thọ tang, có thể thấy được! Khi gia đình
Hương Giang, Đức và Đăng - em của Đức - về, thấy Mạ
hoàn toàn kiệt sức, vì phải trải qua nhiều ngày đơn độc trong
nỗi khổ đau chập chùng! Lúc này chị em của Đức mới biết lý
do Mạ và o Thơm - người giúp việc nhà cho Mạ - thoát chết
là nhờ Mạ về Đà Nẵng lo tu bổ mồ mả bên Ngoại; o Thơm
xin về quê vài ngày.
Chiều đến, O Thơm lo xong bữa ăn nhưng người lớn
không ai ăn được; chỉ có các cháu nội ngoại của Ba vừa ăn
84 Tin Vaên
vừa quẹt nước mắt. Bất ngờ tiếng hát từ chiếc ghe trên sông
Hương vọng vào - mà người hát lại sửa vài chữ - rất hợp với
tâm trạng của mọi người:"… Quê hương em nghèo lắm ai ơi,
mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn. Trời rằng, Trời 'lùa Việt
Cộng' về đây á à ơi! Khiến đau thương thấm tràn…" (1)
Tiếng hát vừa đến đây, Mạ gục xuống. Hương Giang đau
đớn gọi chồng: "Anh Nam ơi! Làm ơn đóng cửa lại! Mạ chịu
không thấu mô!"
Chôn cất Ba và hai em xong, Mạ lê bước không nổi để rời
nghĩa trang! Đăng khom người: "Mạ! Mạ ôm cổ con, con
cõng Mạ đi."
Hình ảnh Đăng cõng Mạ rời nghĩa trang vừa thoáng hiện
trong tâm thức của chàng thì Đức chợt cảm thấy nhói đau
trong lòng vì tiếng hát từ tiệm sách vọng ra: "Khi đất nước
tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm, tôi sẽ đi thăm nhiều nghĩa địa
buồn đi xem mộ bia nhiều như nấm…" (2) Đức vội chồm ra
cửa xe, muốn tìm Hương Giang, bảo tài xế lái xe rời chỗ này
ngay để chàng khỏi phải nghe bài hát của một thằng bạn
cùng quê nhưng khác ý tưởng trách nhiệm; nhưng không
thấy. Tiếng hát tiếp: "Khi đất nước tôi không còn chiến
tranh, Mẹ già lên núi tìm xương con mình…" Đức gục đầu,
thầm ước, phải chi chàng có thể khóc được, như Mạ đã khóc
vùi khi thấy chữ Đăng được bạn tù viết lên khúc gỗ, cắm nơi
phần mộ còn mới của Đăng, bên bờ lau sậy của trại tù ngoài
Bắc!
Cái chết tức tưởi của Đăng khởi nguồi từ buổi chiều, sau khi
cùng vài bạn tù đi chôn người bạn tù chết vì ruột thừa bị làm
độc mà ban quản giáo không cho chuyển đi bệnh viện!
Chôn bạn xong, trở về, lòng buồn cho tình cảnh của bạn
và tủi cho chính mình, Đăng hát nho nhỏ những câu ca chợt
đến trong hồn: "Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm,
tôi sẽ đi thăm, cầu gẫy vì mìn, đi thăm hầm chông và mã
tấu… Khi đất nước tôi không còn chiến tranh, bạn bè mấy
đứa vừa xanh nấm mồ…"(3) Vừa hát đến đây, Đăng bị tên
vệ binh đi cạnh "phan" liên tiếp mấy bá súng vào đầu. Đăng
Tin Vaên 85
ngồi thụp xuống, dùng hai tay che đầu trong khi bạn tù cùng
la lên: "Đang không sao đánh người ta?" Mấy tên vệ binh
khác bu đến, hỏi: "Có 'sự cố' gì thế?" Tên vệ binh đã đánh
Đăng đáp: "Nó hát những 'nời' phản động thì để nó sống
'nàm' đ. gì!" Tên quản giáo lôi Đăng đứng lên, hất hàm:
"Anh hát cái gì, 'nập nại' xem." Đăng lập lại. Tên quản giáo
quát: "Đất nước đã được 'giải phóng', được thống nhất thì
nhân dân phải 'hồ hởi', phấn khởi sống trong tự do, hạnh
phúc chứ sao 'nại' đi thăm mấy chỗ quái quỷ ấy? Rồi 'nại'
bạn bè xanh mồ 'nà' sao, hả?" Đăng đáp: "Bản nhạc này là
của Trịnh Công Sơn, một cảm tình viên hạng nặng của các
anh đó". Cả nhóm nhìn nhau, lúng túng, chả biết Trịnh Công
Sơn là ai. Tên quản giáo hỏi: "'Chịnh' Công Sơn 'nà' thằng
chết tiệt nào, hả? Nó đặt 'nời' ca phản động thế đấy mà anh
dám bảo nó 'nà' cảm tình viên của 'cách mạng' à? Cảm tình
thì 'nàm' sao cân được mà 'nại' nặng với nhẹ? Dốt vừa thôi
chứ! Cách mạng đã khoang hồng, tha tội chết cho các anh,
giữ các anh trong này để nhân dân không nổi máu căm thù
mà giết chết các anh. Anh có hiểu như thế không, hả?" Đăng
cười khẩy: "Hiểu chứ sao không!" Tên quản giáo hất mặt:
"Anh hiểu 'nà' hiểu như thế nào?" Đăng cười nửa miệng:
"Miếng bánh cốm mà tôi mời cán bộ hôm trước là do lòng
căm thù của nhân dân dành cho Ngụy quân mà tôi có đấy."
Tên quản giáo đỏ mặt: "Này! Đang 'chanh nuận' về thằng
phải gió 'Chịnh' Công Sơn mà anh nói quàng nói xiêng hả?"
Đặng vẫn tỉnh bơ: "Tôi không nói quàng nói xiêng. Cán bộ
muốn biết Trịnh Công Sơn là thằng phải gió nào thì tôi cho
cán bộ biết. Trịnh Công Sơn là tác giả bài Đàn Bò Về Thành
Phố đó." (4) Tên quản giáo ngạc nhiên: "Bò gì mà 'nại' về
thành phố cả đàn?" Đăng cười: "Tháng Tư 75 tụi nó về thiếu
gì!" Tên quản giáo lắc đầu: "Thằng này điên dzồi. Nó nói gì
đ. ai hiểu. Đem nó về cho ban quản giáo “xử ný' nó.”
Ban quảng giáo "xử lý" Đăng bằng cách biệt giam.
Tối đó,vì bị tên vệ binh đánh nhiều bá súng vào đầu lúc
chiều, Đăng bị chảy máu trong não mà không ai biết!
86 Tin Vaên
Hôm sau, ban quảng giáo bảo Đăng bị trúng gió, chết!
Lúc được phép dời mộ của Đăng, Mạ phải bán chiếc nhẫn
cưới, thuê người cải táng cho Đăng. Khi mở manh chiếu rách
bọc thây của Đăng, Mạ thấy mảnh giấy ghim vào chiếc áo tả
tơi của Đăng: "Giặc 'nái' phản 'nực'"!
Sau khi được bảo lãnh sang Mỹ, Mạ bị bệnh trầm cảm
nặng, ngủ không được. Một hôm, đi làm về, Đức thấy những
chai thuốc bệnh, thuốc bổ trống trơn nằm cạnh thân người
của Mạ! Lúc đưa Mạ vào xe hồng thập tự xong, nhân viên
mới gỡ từ tay Mạ tờ giấy ghi "Giặc 'nái' phản 'nực'" trao cho
Đức!...
...Trong khi Đức miên man trong dòng ký ức buồn thảm thì
Hương Giang, sau khi lấy mấy chai nước, thấy CD nhạc
ngoại quốc được bày bán, vội đến xem. Một ông Việt Nam
đến:
-Thưa bà, bà cho phép tôi hỏi bà một câu, được không ạ?
- Vâng, anh cứ hỏi.
- Thưa bà, dường như tôi đã gặp bà đâu đó…
- Tại sao anh lại nghĩ như vậy?
- Thưa, vì bà trông quen lắm. Có phải ông nhà, trước 1975,
là Hải Quân V.N.C.H. không ạ?
Thấy rõ sự lúng túng như sợ sệt của Hương Giang, ông Việt
Nam trấn an bằng cách vừa nói vừa mở khuy áo, hé lộ vùng
ngực bên trái để Hương Giang thấy hai chữ "Sát Cộng" còn
hằn trên vùng ngực của ông:
-Tôi là lính Hải Thuyền; về sau được sát nhập vào Hải Quân
V.N.C.H.
- Trời! Sao anh còn dám để hai chữ đó?
- Hải Thuyền mà, bà! Hồi trước hành quân bằng ghe Di Cư,
phải chèo tay, mà tụi tôi còn bắt được ghe Trung Cộng ngụy
trang đó!
Nghe nhắc đến ghe Trung Cộng ngụy trang, Hương Giang
hỏi dò:
- Vậy anh có phục vụ tại Duyên Đoàn 26 hay không?
Tin Vaên 87
- Đúng rồi! Em nhận ra chị rồi. Em là Lực đây, chị Hai!
Duyên Đoàn 26 bắt 2 ghe Trung Cộng chứ ai!
Ngày trước, Nam không cho thuộc cấp gọi Hương Giang
bằng "bà" mà chỉ nên gọi là "chị" hoặc "cô". Những quân
nhân này nghe em của nàng gọi nàng bằng "chị Hai" cho nên
họ cũng gọi nàng bằng "chị Hai". Hương Giang hỏi:
- Hồi đó, sau khi rời Duyên Đoàn 26, anh thuyên chuyển đến
đơn vị nào?
- Dạ, Duyên Đoàn 13.
- Ông nhà tôi cũng có thời gian phục vụ tại Duyên Đoàn 13.
- Có lẽ lúc Chỉ Huy Trưởng về thì em đổi đi rồi
- Ông nhà tôi không còn nữa!
- Trời! Sao vậy, chị Hai?
- Lần cuối cùng tôi thăm nuôi ông ấy, ông ấy cứ bảo Mẹ con
tôi nên tìm cách về Mỹ Tho mà sống, vì người dân ở đó hiền
hòa; còn ở kinh tế mới Long Tân sẽ khổ sở cả đời. Hiểu ý
ông ấy tôi về bán tất cả những gì có thể bán rồi đem các cháu
vượt biển. Sau đó tôi được gia đình cho hay ông ấy vượt
ngục và bị Việt Cộng bắn chết! Gần đây, em tôi liên lạc được
với một tổ chức tư nhân, chuyên giúp người miền Nam tìm
lại mộ phần hoặc vết tích của người thân ở tù ngoài Bắc. Bây
giờ chị em tôi ra Bắc để nhờ họ giúp tìm mộ ông ấy.
-Em biết ổng mà! Đời nào ổng chịu bó tay để tụi Việt Cộng
cầm tù!
Giọng bùi ngùi, Lực tiếp:
- Chị cho em đi với, chị Hai.
Hương Giang để mấy chai nước và mấy CD lên quày tính
tiền, đáp: - Đường sá xa xôi, khó khăn lắm, anh Lực à!
-Khó thì khó. Tình thầy trò mà, chị. Cho em đi tìm ổng với,
chị Hai! Hương Giang lắc đầu. Lực tiếp:
- Chị nhớ hồi ở Duyên Đoàn 26, em đi hành quân với ổng
suốt mấy ngày, tại hậu cứ Bình Ba, vợ em chuyển dạ, không
có phương tiện đưa qua Ba Ngòi, thằng Tài y tá hoảng quá,
chạy lên nhờ chị. Chị - dù không phải là y tá hay là nữ hộ
88 Tin Vaên
sinh - cũng mau mắn đến giúp thằng Tài, đón con trai đầu
lòng của em vào đời. Chị nhớ không, chị Hai?
Không ngờ Lực nhắc lại một kỷ niệm mà nàng đã quên từ
lâu, Hương Giang xúc động:
- Xin lỗi, tôi nhớ đã dựa vào những hiểu biết sơ đẳng để giúp
vợ một anh Hải Thuyền sinh "con so", tại Bình Ba; nhưng tôi
không nhớ cháu bé đó là con của ai. Lâu quá rồi, anh Lực!
- Chị quên, nhưng vợ chồng em không thể quên. Em không
dám nói là để đền ơn chị, nhưng em muốn giúp chị và em
cũng muốn làm một chút gì cho ổng.
- Vâng. Xin cảm tạ tấm lòng của anh đối với ông nhà tôi và
tôi.
Lực nói với cô thâu ngân:
- Con chào bà đi, con. Khi Mẹ về, con nói với Mẹ là Ba gặp
lại người đã giúp y tá Tài lo cho Mẹ sinh anh Lưỡng; và Ba
đưa bà đi tìm phần mộ của ông.
Quay sang Hương Giang, Lực tiếp:
-Thôi, chị Hai, không tiền nong gì hết. Xin lỗi chị, em vô lấy
vài thứ cần dùng để đem theo rồi em ra xe ngay.
* * *
Nhìn chiếc cầu cheo leo bắt ngang dòng suối chảy xiết
để qua bên kia khu rừng thưa - nơi Cộng Sản Việt Nam đã
giam cầm và đày đọa không biết bao nhiêu quân, cán chính
V.N.C.H. - Lực đề nghị:
-Chị Hai, anh Đức và anh Thạch ở lại đây. Em và Niên sẽ
qua bên đó.
Hương Giang ngăn:
-Không được, anh Lực! Tôi không thể để anh đi một mình.
Nguy hiểm lắm.
- Chị Hai! Chị nhớ, hôm gặp lại chị em đã cho chị xem hai
chữ gì không?
-Tôi biết. Nhưng trách nhiệm đối với bà xã và các con của
anh nặng lắm, tôi …
- Ổng đã từng sống chết với em, chị cho em lo cho ổng lần
cuối nhen, chị Hai.
Tin Vaên 89
Đức góp ý:
-Em đi với anh Lực, chị khỏi lo.
Lực quay sang Đức:
-Xin lỗi anh. Anh đã có tuổi, lại thêm gần mười năm tù Cộng
Sản, phản ứng và sự nhanh nhẹn của anh không thể nào bằng
em được.
Nhìn Niên xách các dụng cụ dùng để dời mộ và Lực xách
chiếc rương nhỏ để đựng xương cốt của Nam, Hương Giang
thở dài. Khi thấy Lực tay vịn vào sợi dây rừng của chiếc cầu
treo để lần dò từng bước theo Niên, nàng lặng lẻ khóc. Vừa
lấy kleenex thấm nước mắt nàng vừa thầm khấn: "Anh sống
khôn thác thiên, xin phù hộ cho Người Lính Hải Thuyền tốt
bụng để anh ấy đem hài cốt của anh về." Sau giây phút xúc
động, nàng lại lo cho Lực:
- Anh Thạch! Từ đây qua bên đó nguy hiểm không?
- Không. Dân tình ở đây hiền lắm. Họ ôm trong lòng "nỗi
đau Việt Nam" cho nên ngày trước, hễ thấy vắng vệ binh
hoặc cán bộ là họ biếu tù cải tạo những gì họ mang theo để
ăn trưa khi làm rẫy.
- Sao anh biết?
- Ngày trước tôi là quản giáo trại tù này mà.
Đức và Hương Giang thoáng giật mình, nhưng trấn tỉnh
ngay. Đức góp chuyện:
-Vậy mà tôi cứ tưởng người Bắc căm thù chúng tôi như lời
cán bộ thường tuyên truyền.
- Căm thù gì! Ngay như tụi Mỹ mà chúng tôi cũng chả căm
thù nói gì người miền Nam.
-Thế tại sao các anh đánh cho "Mỹ cút"?
-Trên bảo đánh thì mình phải đánh, không đánh thì mình
chết; mà không phải một mình mình chết! Ngoài này không
như trong Nam. Trong Nam, trốn lính thì chỉ cá nhân đó chịu
tội, Cha Mẹ, vợ con không liên đới trách nhiệm; còn ngoài
này, hễ trốn lính là nó cắt khẩu phần, tem phiếu thực phẩm
của gia đình. Vợ con chỉ có chết đói thôi! A, anh nhớ vụ
John McCain không? Cậu bé 16 tuổi vớt ông ấy chứ ai! Nếu
90 Tin Vaên
dân căm thù Mỹ thì lúc ấy làm thế nào John McCain sống
nổi. Nhưng phải công nhận, John McCain tốt số. Nếu hôm ấy
mà John McCain gặp bộ đội hoặc công an thì làm gì còn có
thượng nghị sĩ John McCain!
- Tại sao bộ đội và công an lại nuôi căm thù dữ vậy?
- Căm thù trong bài Quốc ca chứ đâu. Trẻ con vừa lớn là
phải thuộc lòng bài Tiến Quân Ca, phải gào to "Thề phanh
thây uống máu quân thù". Bây giờ "nhà nước" sửa lại là "Đài
vinh quang xây xác quân thù". Thế thì bộ đội và công an giết
người để xây đắp vinh quang cho đảng, cho "nhà nước" và
cho cá nhân chứ có phải chiến đấu vì đất nước, vì quê hương
con mẹ gì đâu! Còn bài Quốc ca miền Nam thì hiền bỏ xừ!
"Thù nước" chỉ biết "lấy máu" của mình để báo thù thôi. Bởi
thế nhân dân và lính miền Nam mới hiền. Hương Giang
hướng câu chuyện trở lại sự lo âu của nàng về Lực: - Công
việc dời mộ lâu không, anh Thạch?
- Mộ gì, chị! Hồi ấy Trên chỉ thị là chỉ lấp vội lấp vàng hay
là lấy đá chất chung quanh như kiểu "vùi nông một nấm" chứ
đâu phải đào sâu xuống đất.
- Trời! Nếu vậy, thú rừng đào lên ăn thịt, làm sao?
- Thời buổi ấy mạn người miền Nam còn thua con kiến mà,
chị!
Hương Giang cúi mặt, buồn! Thạch tiếp:
- Nói thât với anh chị, sống và làm việc gần với sĩ quan
Ngụy tôi thấy họ khác với chúng tôi nhiều lắm.
Đức hỏi: - Khác như thế nào?
- Đa số sĩ quan Ngụy đều có học vấn cao, người lại cao, to,
đẹp "giai" mà lại còn "văn nghệ văn gừng" nữa.
- Anh biết hoặc thích văn nghệ không?
- Hồi đó văn nghệ ngoài này chỉ là "xôn đố mì" và bài Quốc
Tế Ca như thời Bố tôi chứ biết gì đâu mà thích! Đến thời tôi
và cháu tôi - thằng Niên đấy - thì mới có Trường Sơn Đông,
Trường Sơn Tây. Sau "giải phóng" cũng chưa có gì khác.
Mãi đến khi "nhà nước" không còn cấm nhạc vàng nữa thì
tôi mới thích nhạc vàng.
Tin Vaên 91
- Tại sao lại gọi là "nhạc vàng"? Chúng tôi chỉ gọi là âm
nhạc thôi.
- Cái gì quý thì mình gọi là quý như vàng ấy mà.
- Anh vào Nam chưa?
- Chưa. Vợ chồng, con cái tôi nghèo lắm. Từ khi có nhiều
người Nam ra Bắc lo vấn đề tìm mộ hoặc vết tích của những
sĩ quan Ngụy đã chết trong các trại tù, những gia đình nghèo
như chúng tôi mới bắt đầu có miếng ăn kha khá.
- Ủa, tôi tưởng, sau 1975, đời sống mọi người khá rồi chứ.
- Khá gì! Những gì anh chị thấy không thể nói lên sự thật
đâu.
- Tôi thấy thi hoa hậu và lễ lượt linh đình hoài. Nhà ai cũng
xe cộ; tệ lắm thì xe hai bánh. Cứ sáng ra là người đông nghẹt
ngoài đường. Thanh niên thì suốt ngày ngồi đầy các hàng
quán dọc vĩa hè. Các nơi giải trí như cà-phê mùng, bia ôm,
xi-nê giường lúc nào cũng đông nghẹt.
- Thi hoa hậu và lễ lượt linh đình để bọn con gái mang giày
cao cả tất - mà chúng nó gọi là "em chân dài", phô trương đồ
giả, toàn là bơm với độn! Nói thật, con gái Á đông chinh
phục được cảm tình của mọi người trên thế giới là nhờ đặc
điểm dịu dàng, thùy mị, khả ái và kín đáo chứ con gái Á
đông làm sao "xết-xy" cho bằng con gái Âu Mỹ; mà cái gì
của con gái Âu Mỹ cũng đa số là đồ thật, ít bơm, ít độn!
Nhưng mục đích chính của "nhà nước" tổ chức thi hoa hậu
và lễ lượt liên miên là để ru ngủ thanh niên. Thanh niên ham
chơi, chả thèm lưu tâm đến những điều khuất tất do "nhà
nước" chủ xướng. Nhiều nhà có xe hai bánh vì cái xe là
"chân" đi kiếm cơm. Còn thanh niên bảnh mắt ra ngồi đầy
quán vĩa hè vì thằng nào con nào cũng có bằng tiến sĩ thạc sĩ
mà tìm việc không ra; vì hai lý do. Thứ nhất, không ai có thể
xác nhận được bằng thật hay bằng "mua". Thứ hai, việc làm
chỉ dành cho bọn ông cháu cha thôi. Các nơi giải trí đồi trụy
"mọc" lên như nấm là vì đạo đức suy đồi tận gốc sau 70 năm
được đảng và "nhà nước" chỉ đạo.
92 Tin Vaên
- Rắc rồi gì! Thiên hạ chửi om sòm ngoài đường, trên "phây
búc" nữa. "Con giun đánh lắm cũng quằn" chứ!
- Tôi khuyên anh nên cẩn thận.
- Chả nhẻ anh chị đi báo công an bắt tôi? Mà bắt thì bắt, tù
vài năm có thể được Mỹ can thiệp và biết đâu lại được sang
Mỹ!
- Nếu được sang Mỹ, anh có đi hay không?
- Ôi, Giời! Trước 75, ta dốc toàn lực đánh cho Mỹ cút Ngụy
nhào. Sau 75, ta đốc toàn lực "chôm chỉa" để đưa con sang
Mỹ rồi từ từ con ta bảo lãnh ta sau.
-Nếu vậy thì mấy triệu thanh niên miền Bắc chết cho cuộc
chiến chống Mỹ để làm gì?
-Nhờ "in-tơ-nết" mà ai cũng thấy đảng và nhà nước đi từ sai
lầm này đến sai lầm khác.
-Sai lầm như thế nào?
-Này nhá, bao nhiêu nước ngày xưa bị Pháp đô hộ mà ngày
nay họ vẫn độc lập, không tốn một viên đạn, một giọt máu.
Thắng Pháp rồi ta lại đánh ta còn tàn nhẫn hơn là ta đánh
Pháp.
-Ủa, các anh đánh các anh tại sao không ai thấy có cuộc cách
mạng nào cả?
-Không phải cách mạng. Tôi muốn nói "cải cách ruộng đất"
đấy!
Đức và Hương Giang đưa mắt nhìn nhau. Thạch tiếp:
-"Cải cách ruộng đất" nó tệ hơn một cuộc chiến, vì cuộc
chiến thì ta đánh với địch; còn "cải cách ruộng đất" thì con tố
Cha, vợ tố chồng, đầy tớ tố chủ nhà, gây ra biết bao thảm
-Hãnh diện gì! Pháp đô hộ Việt Nam mà mình có Quốc ngữ
riêng, không phải học chữ như giun bò của Trung Cộng. Bảo
rằng Pháp và Mỹ đô hộ mà Pháp và Mỹ có lấy của nhân dân
cái nhà nào, mảnh đất nào không? Ngược lại, sau khi "giải
phóng" miền Nam, Cộng Sản Việt Nam đã tịch thu tất cả nhà
cửa, tài sản rồi đuổi không biết bao gia đình người miền
Nam đi kinh tế mới? Thế thì ai mới là kẻ đô hộ? Ngày trước,
căn cứ quân sự của Mỹ chỉ có câu "không phận sư, cấm
Tin Vaên 93
vào". Còn Trung Cộng ở trên đất nước mình, khai thác tài
nguyên của mình, lấy vợ Việt Nam, sinh con, lập khu tự trị
mà nó lại để bảng "Nghiêm cấm người Việt lai vảng".
Hương Giang nghĩ, có thể đây là nghiệp báo. Năm 1954,
trước khi tập kết ra Bắc, người Cộng Sản Việt Nam đã "cấy"
những "hạc giống đỏ" để lại miền Nam. Khi những đứa bé
này lớn lên, người Mẹ kể về người cha tập kết; thế là đảng và
"nhà nước" có những tên du kích và nằm vùng mà đảng và
"nhà nước" không tốn công nuôi! Nhưng nàng lại nói khác:
-Nghe bảo tụi Tàu thuê đất của mình mà.
-Đúng là tụi Trung Quốc có hợp đồng thuê đất; nhưng tiền
Trung Quốc trả để thuê đất "chạy" vào túi của " nhà nước"
và đảng hết bảy tám mươi phần trăm rồi! Sau giải phóng
chúng tôi mới "ngã ngửa" ra là mấy ông Tướng và quan chức
cao cấp V.N.C.H. đều ở trong những ngôi nhà do Pháp để lại
chứ họ không có nhà riêng; còn bây giờ, nhà của mỗi ông
Tướng hoặc quan chức của đảng Cộng Sản Việt Nam là một
lâu đài - cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Máu xương của người Việt Nam đổ ra trong hai cuộc chiến
chống Pháp chống Mỹ đâu phải để cho cấp lãnh đạo Cộng
Sản Việt Nam xây lâu đài, gửi con sang Mỹ du học, đem
theo tiền mua bất động sản; trong khi con của nhân dân thì
nghèo đói, con trai phải đi lao động nước ngoài, con gái phải
phơi thây cho Đại Hàn và Trung quốc chọn lựa, mua về làm
vợ cho những kẻ tật nguyền hoặc có khi làm vợ cho cả cha
và anh em trai cùng gia đình! Nếu thế thì hô hào "đánh cho
Mỹ cút Ngụy nhào" để làm con mẹ gì! Cái thằng đáng đánh
là thằng láng giềng khốn nạn Trung Quốc mà đảng và "nhà
nước" Việt Nam lại cứ cúi đầu chịu nhục!
Bây giờ, vụ cá chết lênh láng ở Vũng Áng và dọc theo miền
Trung là do hãng Tàu khựa thải chất độc làm ô nhiễm môi
trường rộng lớn của một đất nước bé nhỏ mà đảng và "nhà
nước" cũng im thin thít. Khi nghe hãng Tàu khựa Formosa
chịu bồi thường thì đảng và "nhà nước" đã vội "xén" bớt số
tiền bồi thường!
94 Tin Vaên
Nói thật với anh chị nhá! Năm 1974, khi Trung Quốc xâm
lăng Hoàng Sa mà Cộng Sản Việt Nam ra lệnh ngưng tấn
công miền Nam rồi cho lệnh chúng tôi dốc toàn lực cùng
miền Nam chống lại sự xâm lăng của Trung Quốc tại Hoàng
Sa thì - dù thua - nhân dân cả hai miền Nam Bắc cũng đều
tôn thờ đảng Cộng Sản Việt Nam rồi!
Nhận thấy những nhận xét của Thạch rất chân thật và chính
xác, nhưng Đức và Hương Giang cũng vẫn ngại ngùng,
không dám góp ý. Đức tìm lý do để không phải kéo dài câu
chuyện:
-Mấy hôm nay đi đường xa, em mệt, em muốn nghỉ một tý.
Chị Hai cũng cần nghỉ ngơi để còn ngồi xe trở về nữa.
***
Trên chuyến xe trở về, Hương Giang để rương đựng hài
cốt của Nam cạnh chỗ nàng ngồi; thỉnh thoảng nàng đưa tay
vuốt nhẹ như âu yếm, như mơn trớn người chồng can cường.
Xe chạy ngang cầu Tư Hiền, nhìn về hướng hậu cứ Duyên
Đoàn 13 cũ, Hương Giang cảm nhận được niềm thương nhớ
dâng lên ngập lòng!Nhìn vùng biển xa xa, Hương Giang
tưởng như thấy được chiếc ghe Chủ Lực đang lướt sóng.
Gần mũi ghe, Nam đứng thẳng, tay trái cầm ống liên hợp áp
vào tai, tay phải chống vào mạn sườn. Hình ảnh Nam rõ dần,
rõ dần cũng là lúc tiếng hát nức nở của Whitney Houston
vang lên trong lòng Hương Giang "…It's not very easy,
living all alone. My friends try and tell me, find a man... But
each time I try, I just break down and cry. Cause I'd rather be
home feeling blue. So I'm saving all my love for you…" (5)
Điệp Mỹ Linh
http://www.diepmylinh.com/ (1) Tiếng Sông Hương của Phạm Đình Chương
(2) (3) Tôi Sẽ Đi Thăm của Trịnh Công Sơn
(4) Du Mục của Trịnh Công Sơn
(5) Saving All My Love For You của Whitney Houston
Tin Vaên 95
tình trong
ý ngoài
@ nguyễn an bình
trần việt cường
dạ dung vũ
songthy
vương hồng ngọc
minh xuân 538
96 Tin Vaên
@NguyễnAnBình
Nếu mai không có loài người
Có một ngày thế giới biến mất loài người Đâu còn tắc kè hoa biến hình trong màu xanh của lá
Đôi tình nhân ung dung bước qua sỏi đá
Từng cứa nát bàn chân
Nhện giăng những sợi tơ mềm tựa như trăng
Biết giữ chân ai bây giờ
Khi trí nhớ mù lòa
Cây thập tự treo đầy trái ác?
Ẩn trong đá loài khủng long hóa thạch
Chờ cuộc tái sinh trong thế giới hồng hoang nào khác
Giọt mưa ngàn năm trôi qua kẻ đá
Lóng lánh hàng thạch nhủ suốt đời trầm tư
Mang bí ẩn loài người
Tìm chi quá trình tiến hóa
Khi ta là tác nhân hủy diệt
Trái đất không một màu xanh.
Con thuyền bay lên hành tinh xa xôi diệu vợi
Cách trái đất hàng triệu triệu năm ánh sáng
Khám phá điều gì trong thiên hà bí ẩn
Lỗ đen hun hút sâu thẳm
Hay lại đưa chiến tranh lên những chòm sao
Đang yên bình thơ mộng
Khi hành tinh nầy không còn nơi thử nghiệm
Bao vũ khí quái thai dị kỳ?
Những tâm hồn lạc lõng
Ngã ba, ngã tư hay ngã năm
Cầu vượt nối tiếp nhau như mắc cửi
Khu phố không đèn xanh, đèn vàng, đèn đỏ
Bảng chỉ dẫn lạc loài đường đi không tới
Trên miền đất khổ
Nước mắt em có hóa thành ngọc bích
Tưới mát địa đàng anh sa mạc?
Tin Vaên 97
@Trần Việt Cường
Đêm và em bên ấy bây giờ mưa không anh
phương em từng giọt nhớ mong manh
sương đọng thềm rêu anh có lạnh?
Hay say chất ngất gục bên mành
đêm dài lặng lẽ sầu vỡ bóng
khắc khoải chờ nhau nửa vầng trăng
mắt đời ai dõi từng cơn mộng
gió hú trong ngoài theo mưa giăng
hai đầu cách biệt đêm sâu lắng
giấc ngủ bơ vơ dỗ chẳng yên
thời gian như thể là dao nhọn
cắt rát trái tim chứa lụy phiền
khuya sâu hun hút nặng trĩu hồn
gió đã về đâu mây về đâu
có chở dùm em đời cùng cạn
gửi về bên ấy máu hoàng hôn
mưa mãi mưa hoài mưa không dứt
mưa ngoài gió táp rát mặt da
mưa trong nhưng nhức lòng quặn thắt
dông gió trong ngoài em trầm kha.
98 Tin Vaên
@Dạ Dung Vũ
Hương thu
Hồn Thu treo phiến lá đời
Tình ru trên lá sương phơi giọt buồn
Gió thu quyện lấy hồn thương
Điệu ru nước mắt lại vương vấn đời
Tranh thơ buôn g thả thay lời
Hương xưa quấn quít bên người trăm năm
Gió Thu vọng tiếng thăng trầm
Nắng thu rụng hạt dư âm cuối ngày
Giọt buồn heo lá vàng bay
Len vào…
cõi nhớ…
mà say…
nguyệt cầm…
*
Cũng rồi mây gió hợp tan
Vá hoài thương tích, võ vàng niềm đau
Làm sao lá khỏi thay màu
Làm sao ta khỏi lệ trào cảm thu
Ẩn màu thu nguyệt sương mù
Thấy ai thấp thoáng mộng du yêu người
Áo mây, tóc liễu…giăng đời
Thấy mình…
như lá…
cũng rồi…
thả bay…
Tin Vaên 99
@ Songthy
Đóm lửa cho nhau
Tay em lạnh anh truyền cho hơi ấm
Lạnh ngoài trời nhưng không lạnh vào tim
Đời thăng hoa nên ta mãi kiếm tìm
Chân hạnh phúc cuối trời xa thăm thẳm
Chân đã mỏi bên anh lòng em ấm
Phấn bụi đường không làm lấm chân son
Cho dù đi đến góc biển đầu non
Tìm đến chốn an bình nơi trần thế
Em run rẩy giọt buồn dâng ướt lệ
Ta say sưa cùng nhân thế cuồng si
Bão bùng ơi, sương gió có sá gì!
Vòng tay xiết với ngụm thơm hơi thở
Lòng ray rứt cung điệu sầu nhung nhớ
Nhẹ nhàng bay theo cơn gió heo may
Cuộc đời còn bao nhiêu nỗi đắng cay
Em hờ hững mất đi thơ ngây đó
Dù hôm nay chuyện tình buồn dang dở
Nhưng trong tim còn thắm đậm yêu thương
Để riêng mình ôm giá lạnh sầu vương
Và chờ đợi được vòng tay nồng ấm
Đắp hồn em bởi chăn đời giá lạnh
Hát em nghe lời tình tự thương yêu
Gió hiu hiu đêm sao sáng mỹ miều
Ru em ngủ cho quên sầu nhân thế
Ngát hương yêu dù đời nhiều dâu bể
Anh ngọt ngào mang đến cả trời xuân
Bờ mi em và ánh mắt Thiên Thần
Tình yêu đến, đưa ta vào huyền thoại...
100 Tin Vaên
@ Vương Hồng Ngọc
Làm sao
Em cám ơn mùa xuân
Mưa chưa qua đã tới
Nắng hồng lên phơi phới
Trăm hoa thắm sắc đời
Em cám ơn gió vội
Bay qua ngọn đỉnh trời
Mang theo ngàn xác lá
Từ mùa Thu tả tơi
Em cám ơn bóng người
Vừa thoáng qua khung cửa
Cho em ngỡ anh về
Từ ngàn trùng xưa cũ
Em cám ơn hơi thở
Mang nguồn sống cho đời
Lời cám ơn sẽ muộn
Nếu đã vào cuộc chơi
Em cám ơn chính em
Thường mơ trong giấc ngủ
Dẫu biết mộng sẽ tan
Theo sóng dồn thác lũ.
Anh ơi làm sao mới
Lời cám ơn cũ này.
Tin Vaên 101
@ Minh Xuân 538
Đợi chờ
Ngày ngày trông tin nhạn
Theo thời gian tàn phai
Trần ai hun hút đợi
Buồn thương trĩu nặng vai
Người đi đã mù xa
Tình sương khói chiều tà
Chim nào bay về núi
Ôi…tháng ngày phôi pha
Hai phương xa vời vợi
Ngăn cách ngàn trùng khơi
Người chân mây góc biển
Tình triều dâng chơi vơi
Lòng nhủ lòng gắng đợi
Tháng Bảy mưa Ngâu đời
Trời cao cầu Ô Thước
Nối nhịp đời chung đôi
Bao mùa qua tháng Bảy
Tình mõi mòn tàn hơi
Giọt mưa Ngâu khô vỡ
Chim bay…mộng rã rời…
102 Tin Vaên
Lê Thị hoài Niệm
“BÀN LOẠN” CHUYỆN KINH KHA
Thời buổi bây giờ chung quanh ta sao có lắm chuyện
nguy hiểm, chiến tranh giặc giã liên miên, khủng bố, giết
chóc tràn lan, gần thì ở bên Cali mới đây, còn xa thì ở tận thủ
đô nước Pháp, Somali, Pakistance, Brussels (Belgium) v..v
và vv. Với kỹ thuật thông tin tiến bộ ngày nay, chỉ cần ngồi
một chỗ là có thể nhìn thấy hết, biết khắp bốn bể năm châu,
chỗ nào đạn lạc bom rơi, nhà cháy người chết chỏng gọng,
người bị thương rên la kêu khóc. Rồi bão tố, sóng thần,
tornado, lụt lội khắp nơi, những “thằng chỏng” cứ nổi lềnh
bềnh, người không có chỗ ở, thiếu cả cái ăn. Bom thả xuống,
người nào chết thì chết, kẻ còn sống dắt nhau chạy loạn
hàng đoàn người đông như kiến, không biết rồi tương lai
sẽ đi về đâu? Rồi hạn hán khô rốc khô ráy để cành khô cây
héo cháy rừng liên miên, nhiều "cơ ngơi" đẹp như mơ trong
phút chốc biến thành bình địa.
Ăn cướp ăn trộm ở đây cứ nhè mấy cái máy ATM có
nhiều tiền đút "đít xe" vào khiêng trước, rồi vô nhà ăn cướp
ăn trộm sau, dù có máy quay phim chiếu sờ sờ ra đó nhưng
cảnh sát chẳng chộp được tên nào vì mặt mày cứ bịt kín như
Ninja trong phim ảnh hành động, hay mấy người “Hồi giáo”
dã man giết người không chịu để lại cái đầu cho người
ta…ăn cúng giỗ. Rồi cảnh nam thanh nữ tú vô ngồi trong rạp
chiếu phim, ăn bắp rang, uống nước ngọt tìm chút thanh thản
cho tấm thân cực khổ làm việc trong suốt tuần, đang lúc nhìn
lên màn ảnh thấy Romio và Juliet đang…hôn nhau mùi mẫn,
đang diễn tả tình thương mến thương cao độ bỗng nghe tiếng
nổ bùm, cổ lạnh ngắt rồi từ từ đi thẳng mà không biết ông cố
Tin Vaên 103
nội nào kêu đi (dĩ nhiên Chúa không có gọi bất tử và vô
duyên như vậy).
Xem TV mãi rồi cũng mệt óc, nên những giờ rỗi rảnh
phải đi tìm nhạc mà nghe để cho tâm hồn thanh thản. Nhạc
Mỹ, nhạc Tây nghe hoài cũng…chán, thôi thì trở về mở nhạc
Việt để nghe tiếp. Nhưng loại nhạc mới bây giờ, những
người cao tuổi như tôi chẳng thể nào nghe nổi hết một bài, vì
đa số có lời ca thì…vô duyên, trơ trẽn, trần trụi, ca sĩ thì chỉ
có..hét và uốn éo thân người, nhiều lúc “dở quá nên phải
hở”…, còn một loại nữa thì…rên rỉ, than vãn nghe sao mà ớn
lạnh. Cuối cùng đi tìm nhạc cũ mà nghe, nhạc tiền chiến,
nhạc tình, nhạc thời trang, nhạc lính, nhạc nào cũng nghe
được hết, không có lựa chọn “sến-sang”, vì có nhiều ca sĩ trẻ
bây giờ cũng hát lại nhiều bài ca thuộc loại “mùi” thời trước
75, và nhiều người “nổi tiếng” cũng nhờ những bài nhạc tình
hồi năm nẳm đó.
Cũng bởi tôi nghe ca sĩ hát bài “Thương về Quán trọ”
của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo viết vào những năm trước 75, lời
ca trong bài hát diễn tả tình cảm hai người bạn thân nhau
thắm thiết bèn viết thư gửi cho nhau khi người kia lên đường
“tòng quân nhập ngũ”. Nhưng bài hát đang...tỉ tê tâm sự mùi
mẫn, tình thương mến thương dào dạt, bỗng ông nhạc sĩ đâm
ngang:.... “Lúc này nơi quán trọ buồn vui có gì không? Biên
thư kể chuyện nhé, đời Lính oai hùng đó nhưng cũng nhiều
gian lao, anh biết rồi tại sao(?). Đừng hẹn tôi ngày về, Vì
đường xa thiên lý, đời trai như chiến sĩ Kinh Kha một lần
đi, Bạn anh vì nước vì anh rỉ máu thắm da vàng người Việt
Nam!” mà lấy làm thắc mắc, vì từ trước đến nay thỉnh
thoảng tôi vẫn nghe người ta nhắc tên ông Tàu này, nên phải
đi tìm hiểu…
Không phải tôi là người “chống Tàu cộng” nên bất cứ
chuyện gì cũng chống ráo. Nhưng tôi không hiểu tại sao
chuyện ông Kinh Kha bên Tàu lại…thâm nhập kỹ vào từng
câu chữ trong sách vở, lối suy nghĩ, so sánh ngay cả hành
động của không ít người VN có chữ nghĩa một thời vậy nhỉ?.
104 Tin Vaên
Trong bài hát viết cho người Lính VNCH anh hùng, những
“hậu duệ” nối gót tiền nhân chống quân Tàu ngót cả ngàn
năm trước mãi đến sau này, như vua Quang trung đại phá
quân Thanh, ngay cả trong những năm TT Ngô Đình Diệm
chấp chánh cũng còn “không muốn thấy” những hình ảnh,
tên tuổi người Tàu “thống trị” trên quê hương ta nhiều quá,
nên những trường Tàu bắt phải đổi tên Việt (?), người Tàu
phải vào công dân Việt, có quốc tịch Việt Nam, vậy thì lý do
gì ông Tàu Kinh Kha lại chen vào bài hát cho Lính nhỉ?, và
ông Kinh Kha là ai vậy?
Cố gắng tìm câu trả
lời thì được biết Kinh
Kha chỉ là MỘT
NHÂN VẬT THỜI
CHIẾN QUỐC bên
Tàu, và tôi đã đi tìm
xem phim “Kinh
Kha” do tài tử Tàu
Hồng kông đóng (Tàu
thật chứ không phải
Tàu Hồng Kông bên
hông Chợ Lớn), nhưng hoàn toàn được chuyển âm ra tiếng
Việt nam, ở đó chỉ thấy một ông tài tử Tàu suốt ngày mặc
quần áo dơ bẩn, uống rượu như hũ chìm, nhiều khi phải đi
“ăn xin”. Buồn vì gia cảnh đã bị “nhà tan, cửa nát”, có cô
bạn gái cũng không giữ được dưới tay bọn thổ phỉ, sơn tặc.
Một con người “hèn yếu, nhu nhược”, suýt chút nữa rút kiếm
tự tử nếu không nhờ người bạn tên Kỳ ngăn cản. Và chuyện
đời lan man về sau đưa đẩy bị “dụ khị” đi làm “thích khách”.
Trong phim chỉ có ông tướng Phàm gì đó là có dũng khí
nhất. Và tôi cũng tìm tòi đọc các sách báo viết về Kinh kha,
đa số người Việt viết chuyện đều khen Kinh Kha có can đảm
vượt qua sông Dịch vào nước Tần để ám sát vua Tần là Tần
Thủy Hoàng, cho dầu…thất bại bị..chết chém. Họ khen Kinh
Kha là một “dũng sĩ” một đi không trở lại.
Tin Vaên 105
(Nên về sau này hễ người nào làm việc gì
hơi…không bình thường, bất chấp có đạt được thành quả tốt
hay không? mà nhiều khi bị những người tử tế cho là…làm
việc khùng điên, tự nhiên đem thân đút đầu vào chỗ chết mà
thiếu đầu óc suy nghĩ, chỉ vì cái “danh dỏm”, có khi
còn…làm phiền người khác, thì họ bèn so sánh người đó mí
ông Kinh Kha, coi mòi “Rất Đúng!”)
Nhưng tôi “tâm đắc” nhất là bài viết của nhà văn VŨ
BẰNG, tiếc rằng bài viết quá dài nên xin phép trích ngang
một vài đoạn chính trong đó.
VŨ BẰNG (Trung Bắc chủ nhật, Hà nội, s.178 -
10/10/1943.Lai nguyên Ân, ST)
Kinh Kha không phải là người nước Yên. Kha là dòng
dõi quan đại phu nước Tề tên là Khánh Phong. Khánh
Phong chạy sang nước Ngô, ở đất Chu Phương. Sở đánh giết
Khánh Phong. Họ hàng lại chạy sang Vệ, đem kiếm thuật
bảo vệ Nguyên quân. Nguyên quân không dùng, Kha bỏ sang
Yên, đổi họ Kinh.
Trước sau, sách không hề chép rằng Kinh Kha có ý
muốn trả thù cho tổ phụ. Chỉ hay nói rằng tính Kha ham
rượu; yêu mến một người Yên là Cao Tiệm Ly. Rượu say,
Tiệm Ly khéo đánh cái trúc, Kinh Kha theo dịp hát theo, hát
xong chảy nước mắt khóc rồi lại than thở, cho là thiên hạ
không ai biết mình. Thế thôi. Cái lòng yêu nước và chí phục
thù nước cũ của Kha chưa chắc đã bằng Ngũ Viên vậy. Nếu
không có Điền Quang giới thiệu với thái tử Đan, người ta tự
hỏi Kinh Kha sẽ làm những gì hay là cứ uống rượu và khóc
vì không ai biết mình. Kinh Kha không biết tạo thời thế và có
một quan niệm rất sai lầm về đời.
Người ta chưa thấy Kinh Kha là dũng sĩ ở một cử chỉ
hay giọng nói nào cả. Chỉ mãi đến khi thái tử Đan bày tỏ
công việc nhờ Kha, Kha mới nói được câu hay: “Tôi hèn
kém, e không làm nổi việc ấy”. Đó không phải một câu nói
nhún. Chính là sự thực. Người dũng sĩ đáng lẽ “biết mình
106 Tin Vaên
hèn kém, không làm nổi việc ấy”, nên thôi là phải. Đằng này
không. Thái tử Đan dập đầu cố xin rằng: “Vì trọng tấm lòng
có nghĩa của ngài, Đan này xin uỷ sinh mệnh vào ngài đó,
xin chớ chối từ”. Kinh Kha lại hai ba lần từ chối rồi mới
nhận lời. Như vậy Kha có một cái hơn người là tự ti, nhưng
ta không thể không trách Kha là một người mềm yếu quá, đi
làm việc lớn, biết là mình không làm được việc lớn mà cứ
làm, chỉ vì nể một người anh em. Người dũng sĩ không bao
giờ xử việc đời như thế. Muốn làm việc gì cũng tất phải nghĩ
cho vạn toàn mới được. Cái chết sau này của Kha không có
một ý nghĩa cao bằng cái chết của Nhiếp Chính và Yêu Ly có
lẽ vì thế chăng? Ngày nay ta có thể ví cái chết đó với cái
chết của của người không biết bơi, thấy bạn sắp chết đuối
kêu cứu, cứ nhảy bừa xuống nước. Bảo rằng biết đâu sự may
rủi không xui cho người không biết bơi cứu được bạn là nói
lếu. Sự tất nhiên phải thấy là hai người sẽ ôm nhau mà chết.
Nể bạn như thế là rồ dại, cứu bạn như thế là điên cuồng. Kẻ
trí không bao giờ làm như thế. Cái chết đó là cái chết buồn
cười mà vô ích. Kẻ cứu bạn đó lại còn đáng bị khiển trách
nữa, vì không biết tự ti, lại đi hủy thân mình đi cho đắc tội
với cha mẹ đã sinh ra mình! Cái dũng đã không được, cái trí
đã không có, lại mất cả cái hiếu nữa, lại mất cả cái nhân
nữa (vì Kinh Kha mà Điền Quang, Ô Kỳ chết, Tần Vũ Dương
mất xác nước người), thế thì còn gọi là dũng sĩ sao được
nữa? Nguyên từ khi được Kha, Đan đãi Kha như Điền
Quang vậy. Ngày đêm thờ phụng, kính cẩn tôn lên làm
thượng khanh. Xây một cái quán để Kinh Kha ở. Thái tử Đan
ngày đêm đến thăm, cung phụng ăn uống rất hậu, lại hiến xe
ngựa và gái đẹp tuỳ ý Kinh Kha sở thích. Kha một hôm cùng
thái tử đi chơi ở đông cung, thấy ở dưới ao có con rùa lớn
nổi lên. Kha toan nhặt viên ngói để ném rùa. Thái tử liền
đưa thoi vàng để thay hòn ngói. Lại một hôm, cùng thì cưỡi
ngựa, thái tử có con ngựa quý ngày đi nghìn dặm, Kha bỗng
nói gan ngựa ăn ngon lắm. Sau, thấy nhà bếp đem món ăn
đến, tức là gan con ngựa quý mà thái tử đã sai giết cho Kha
Tin Vaên 107
ăn. Đan lại làm tiệc đãi Kha ở Hoa Dương đài, đem một mỹ
nhân yêu quý của mình ra mời rượu, lại sai mỹ nhân gảy đàn
làm vui. Kinh Kha thấy hai tay mỹ nhân trắng muốt như
ngọc, khen rằng: “Hai tay đẹp quá!” Tiệc tan, Đan sai nội
thị đem cái ngọc bàn đựng đồ vật biếu Kinh Kha. Kha mở
xem thì là cái tay của mỹ nhân mà thái tử đã chặt ra để tỏ
cho Kha biết là mình không còn tiếc gì!
Kha ra đi hành thích vua Tần, không đợi Cáp Nhiếp;
đi hành thích vua Tần mà biết trước là có đi không về; đi
hành thích vua Tần chỉ mang theo có một con dao nhọn vào
cái nước Tần nguy hiểm, chung quy chỉ vì nể thái tử Đan, vì
cảm cái nghĩa khí và tấm lòng đãi khách của thái tử vậy.
“Thái tử đãi Kha này hậu đến thế kia ư?” Xét ra thái tử Đan
thờ phụng kính cẩn Kinh Kha chưa chắc vì đã được thấy cái
vũ dũng và trí lược của Kha, nhưng chính là vì thấy Kha có
thể làm việc cho mình….
Ta trọng Kinh Kha về chỗ đó. Biết là nguy hiểm mà cứ
đi, đi mà biết sẽ không về, cái nghĩa ở với bạn như thế thật là
quý báu. Chỉ tiếc rằng cái chết đó hơi phí quá, và không hẳn
đã phải là cái chết của dũng sĩ.
VŨ BẰNG (Trung Bắc chủ nhật, Hà nội, s.178 -10/10/1943.
Lai nguyên Ân, ST)
(ngưng trích)
Sau khi đọc xong bài viết của nhà văn nổi tiếng Vũ
Bằng từ hơn nửa thế kỷ trước, nhận định của ông đã soi rõ
được cái nhìn rất “chính xác” của tôi về ông Tàu tên Kinh
Kha. Ông Kinh Kha ra đi hành thích Tần Thủy Hoàng chẳng
qua vì “cám cái ơn cung phụng” của Thái tử Đan nước Yên,
chứ đâu có anh hùng gì (?). Vậy thì làm sao “so sánh” được
với những người Chiến sĩ VNCH anh hùng nhỉ ? sự so sánh
có quá ư là…khập khiễng không?. Không biết ông Nhạc sĩ
có đi lính ra trận ngày nào không? Hay “Lính thành phố em
ơi đừng chê!” mà viết nhạc bằng …lời? đến nỗi Người Lính
chưa ra trận hoặc mới vừa ...tòng quân nhập ngũ chưa biết đi
108 Tin Vaên
về đâu mà đã bị ông Nhạc sĩ “trù ẻo” một đi không trở lại(?)
như ông Kinh Kha.
Nhớ ngày trước mỗi lần gia đình nào phải “tiễn người
đi”, ai ai cũng mong có ngày đón về, như lời đoạn cuối trong
bài hát "Đêm tái ngộ" của Nhạc sĩ Y Vân: “Anh bước xuống
tàu ngơ ngác vài giây, khi thấy em cười bên ánh đèn soi,
Nhìn nhau mà nói không nên lời, nơi cũ lúc xưa tay rời, thì
nay lại tay cầm tay.”
Đầu tiên người được “tiễn” phải vào quân trường thụ
huấn đàng hoàng, ít nhất là phải 3 tháng hay chín tháng
(không có thêm mười ngày), nếu không thì hai hay 4
năm từ quân trường Võ bị chứ có ít ỏi gì (quân trường đổ mồ
hôi, chiến trường bớt đổ máu mà!). Nhưng ngay giờ tiễn biệt,
người ở lại luôn “chúc lành” cho người đi, theo kiểu phim
Tàu (lại cũng…tàu) là phải “bảo trọng” hoặc thượng lộ bình
an, nhớ…viết thư về và nghỉ phép nhớ về thăm nhà nhen!
bởi vậy mới có 24 giờ phép của Nhạc sĩ Trúc Phương, mà
người tuổi trẻ nào thời đó đã “đi Lính” (cũng như người yêu
của Lính) cũng đều thích thú, nhất là câu hát tả cảnh hai
người yêu nhau gặp lại mừng vui đến nỗi chỉ “vụng về ngôn
ngữ tình làm bằng dấu đôi tay”.
Đó, người ta đi Lính ai ai cũng mong ngày về, khi về
nhìn thấy nhau vui đến nỗi …nói không ra lời, mà chỉ dùng
động từ “tu quơ” để diễn tả tình cảm thôi! Người Lính
VNCH không vì thù hận gia đình mà đi …úynh giặc, người
Lính ra trận vì phải “tự vệ”, “đi quân dịch là thương nòi
giống” (Bức Tâm Thư- Lam Phương). Y như trường hợp
người chủ nhà, đang ở trong nhà của mình yên ấm, bỗng có
đám cướp đến muốn...cướp trọn căn nhà của mình với nhiều
vũ khí trên tay, dĩ nhiên mình phải “tự vệ” chống lại chúng
để “giữ nhà” chứ! người Lính VNCH đâu có khác chi, ngoài
chiến trường nếu mình không “bắn” đối phương thì mình
chết chắc (?).
Người Lính đâu có làm việc cho riêng ai, cũng chẳng có
ai “cung phụng” thật đầy đủ về mọi thứ. Người Lính mỗi
Tin Vaên 109
tháng lãnh lương một lần mà đâu có nhiều nhõi gì, có khi
phải nuôi cả một…đại gia đình vợ con nheo nhóc (thế mới
có câu hát: “Tiền Lính là tính liền, nhiều khi nghèo như
điên…”. Người Lính đâu có người chủ nào “dã man” như
ông Thái tử nước Yên, mới nghe ông Kinh Kha “khen” thịt
ngựa ngon, là đi giết ngay con ngựa quí thân thương của
mình để “mần thịt” cho ông Kinh Kha ăn, mới nghe Kinh
Kha khen cô người hầu có bàn tay đẹp, thế là đi chặt phứt hai
bàn tay của người ta để tặng cho ông Kinh Kha vui, mặc cho
người hầu đau đớn rên la, có khi bị…nhiễm trùng mà chết
cũng không chừng, nếu không cũng phải ca bài “người về
nay đã cụt tay”... Người Lính đâu có “ông chủ” nào tàn ác
như vậy nhỉ? Mà người Lính cũng đâu có dễ “mua chuộc”
như vậy? (hay là ông thấy ở đâu đó có trường hợp người mặc
áo Lính được...cung phụng như vậy? để dễ dàng cho người
có “thẩm quyền sai đâu chạy đó”?
nhưng chắc đó chỉ là trường hợp…cá biệt?)
Khi người Lính ra trận luôn có “bộ chỉ huy hành
quân”, có kế hoạch hành quân, có phương án hành động, có
chiến thuật, chiến lược, có quân phong quân kỷ… vv..vv..,
chứ đâu có…khật khưỡng, tàng tàng, tay cặp nách…chai
rượu và con dao với...cái đầu lâu rồi đi...khơi khơi vào nước
người ta để hành thích ông Vua của họ. Người Lính ra trận là
mong chiến thắng, chiến thắng mới giữ được sự yên bình cho
người dân, mới giữ được Tổ Quốc, (như các trận chiến thắng
năm Mậu Thân, hay Mùa hè Đỏ Lửa và rất nhiều những trận
chiến oai hùng khác chẳng hạn...) chứ người Lính nào cũng
“một đi không trở lại” như cái ông Kinh Kha kia, thì nước
VNCH đã ..tiêu tùng vào tay giặc từ hồi năm nẳm rồi chứ
đâu sống được đến ..21 năm. (Hồi đó chắc mấy anh Sinh Bắc
tử Nam mới …một đi không trở lại?).
Thế mới biết là người Việt Nam mình ngày trước
(ngay cả bây giờ cũng còn) đã bị tiêm nhiễm lịch sử, nhân
vật nước Tàu nhiều quá, nhất là ông Kinh Kha! Một con
người chỉ biết có “ăn chơi” rượu chè be bét, suốt ngày lo ca
110 Tin Vaên
hát đờn địch, nên không nghe nói tới chuyện ông có vợ con
gì nữa, sau khi "chia tay” người bạn gái trên hang cốc, mà
nếu có, chắc là người đàn bà xui tận mạng nhất…thế giới.
Mà người vợ cũng chẳng “hãnh diện” gì khi có ông chồng đi
làm …toi mọi cho người ta để được “ăn nhậu, gái ghiếc”, để
người ta “lợi dụng” sai đi làm những việc nguy hiểm cho
việc trả thù nhà người ta, mà chính đương sự không thể làm
được, một “con cờ thí” như vậy thì làm sao mà gọi là “anh
hùng” nhỉ?
Người viết xin lỗi tác giả bản nhạc, nếu ông còn..tại
thế (?), chắc ông cũng …cười vui khi có người “lên tiếng
phản đối” về sự “so sánh” của ông, có nghĩa là người ta đã
nghe rõ từng lời ca trong bài hát của ông, rằng thì là ông
đã…“nâng” nhân cách người Lính VNCH vượt không gian
từ ta qua tàu chẳng...hợp tình hợp cảnh tí nào cả. Tui “nhân
danh” người vợ Lính, không “bằng lòng” với lối so sánh của
ông: “đừng hẹn tôi ngày về, vì đường xa thiên lý, đời trai
như chiến sĩ Kinh Kha một lần đi..” (kiểu này chắc có quá
nhiều…góa phụ ngây thơ hồi đó?), nên lên tiếng “bàn loạn”
cho vui, chứ không có “ý đồ” gì khác. Vì dù sao, bài hát
cũng đã viết hơn bốn muơi năm rồi và đã “thẩm thấu” vào
không biết bao nhiêu lỗ nhĩ của người nghe. Và người hát thì
cứ...nỉ non trên…từng cây số! Rất may, hầu hết người Lính
đã không như ông Kinh Kha sang sông Dịch, mới...rút dao ra
đã bị quân sĩ vua Tần...chém bay đầu, vì không có “đường
gươm bách chiến bách thắng”, vì không có thế võ nào tuyệt
luân ngoài tài...ăn nhậu. Nhưng người Lính VNCH, ngoài
một số đã hy sinh ngoài trận mạc, đa số đã trở về với gia
đình dù rằng... “bạn anh vì nước vì anh rỉ máu thắm da vàng
người VN!” như lời bài hát ở câu sau cùng, cũng nhờ tài thao
lược qua nhiều năm tháng, dẫu rằng cuối cùng vẫn không giữ
được nước, chẳng qua vì “vận nước”! thế thôi....Tiếc thật!
Lê thị Hoài Niệm. 2016
Tin Vaên 111
Việt Linh 222 Chỉ một nén hương
Riêng tặng những chiến binh già
Mây bay mây vẫn cứ bay
Núi sông còn đó sao thay đổi màu
Cờ sao nhuộm máu thương đau
Tháng ngày nước chảy qua cầu phương xa
Còn đây một chút lòng già
Nén hương thắp vội thay quà tạ dâng
Quê hương xa đất người gần
Ngửa nghiêng, dâu bể mộ phần đành quên
Nhớ thương nỗi nhớ không tên
Đời buồn hệ lụy ưu phiền thế nhân
Bước đi từng bước phong trần
Chôn vùng kỷ niệm vạn lần thương đau
Đêm đêm quỳ gối nguyện cầu
Hướng về quê Mẹ còn đâu nụ cười
Tay rời gối mỏi buông xuôi
Ngậm ngùi tưởng tiếc nửa đời tha hương!
Chinh nhân không ngọa sa trường
Hỡi ơi! Cát bụi lại vương vấn đời.
112 Tin Vaên
Hoàng Lan Những Chim Trời Quê Hương
Thời tuổi trẻ anh đã từng mơ ước
Là cánh chim bay lượn giữa trời cao
Lúc đêm buồn làm bạn với trăng sao
Gom vũ trụ quê hương vào một cõi
Cõi mộng mơ anh đã thành hiện thực
Người phi công góp sức với non sông
Không gian buồn bên khói lửa mênh mông
Anh cất cánh qua chiến hào lửa đạn
Có nhiều đêm mẹ chong đèn đến sáng
Và nguyện cầu cho con được bình an
Cánh chim trời của mẹ rất hiên ngang
Quàng trên cổ muôn vòng hoa chiến thắng
Chiều hôm nay tuy mây trời phẳng lặng
Hẳn anh còn nhớ đến những ngày qua
Quê hương mình giờ tuy thật là xa
Nhưng hình ảnh vẫn còn trong ký ức
Nào giòng sông, nào cánh đồng mơ mộng
Nào phố phường đèn sáng giữa màn đêm
Người anh hùng sau những chuyến bay đêm
Giờ gặp lại hẳn anh còn muốn nói:
Những lời cũ không bao giờ thay đổi
Là cánh chim trời chưa mỏi cánh đâu em...
Tin Vaên 113
Lưu Thái Dzo Tình Trăng Xưa
Nhìn ánh trăng lên ở xứ người
Chạnh lòng nhớ Đất Mẹ xa xôi
Đêm nào trăng dậy, ta ôm ấp
Từng ánh trăng xưa đẹp tuyệt vời .
Trăng như công chúa ngủ rừng tiên
Hoàng tử phương Nam rảo kiếm tìm
Môi ướt tình si hôn ngọc thể
Nghe từng mạch lạ chảy trong tim.
Thương nhớ đêm về phố sáng trăng
Muôn màu áo nhuộm ánh trăng vàng
Có bàn chân ngọc đo đường phố
Có cánh cửa hồn mở đón trăng .
Trăng sáng đêm rằm ta có nhau
Rèm thưa gác trọ ánh trăng vào
Ta đùa với ánh trăng mùa hẹn
Chia sẻ cùng trăng giấc mộng đầu .
Nhìn ánh trăng lên ở xứ người
Nhớ bàn tay máu lũ đười ươi
Xâm biên ngọc thể trăng mùa cưới
Khi Cuội Chúa về cướp đoạt ngôi .
Trăng xưa công chúa ngủ rừng tiên
Đêm loạn đời hoa bổng nát nghiền
Tục tử Bắc phương mang mặt nạ
Che hình thú đói kiếm mồi đêm .
Tù đó trăng Nam buồn nhỏ lệ
Đêm đêm phơi mãi ánh trăng gầy
Và nén cơn đau dài thế kỷ
Trăng ơi, ta vẫn nhớ thương đầy .
114 Tin Vaên
Linh Vang
Ngọn lửa Buổi tối, Diễm ở thư viện về, bóng Diễm lầm lũi trên lối
nhỏ xi măng giữa những đám cỏ. Sương mù dày trắng đục
tỏa xuống, Diễm chỉ còn là một cái bóng di động ngả
nghiêng. Những ngọn đèn tròn trong campus nhạt nhòa, vàng
vọt. Hai dãy cao ốc nội trú yên tĩnh. Mấy cây táo đỏ trồng ở
lối đi vào Sparks Hall giờ chỉ còn lại những thân cành trơ
trụi khẳng khiu, người làm vườn của trường đã quét dọn
những chiếc lá cuối cùng rơi rụng xuống đất tuần trước.
Thỉnh thoảng đây đó cũng có một hai bóng lầm lũi đi trong
sương mù như Diễm. Trời đêm đã lạnh ngắt. Diễm muốn bỏ
tay vào túi áo cho ấm mà kẹt vì cả hai tay phải ôm chồng
sách. Có tiếng người kêu sau lưng...Diễm...Diễm. Tiếng
nghe lạ hoắc nên Diễm không quay lại, cứ thẳng bước mau
Tin Vaên 115
về hall. Sửa soạn đẩy cửa thì cánh cửa kính đã mở toang, bất
ngờ Diễm chúi người về phía trước. Đúng lúc đúng chỗ có
một người lãnh nguyên đống sách của Diễm vào mặt. Anh ta
la lên: – Diễm! Em chơi ác quá! Anh đây mà.– Lại là anh,
em tưởng ai! Diễm kêu lên mừng rỡ, rồi khoảng cách giữa
chàng và Diễm rất gần tiện cho Diễm ngã ngay vào lòng
chàng. Người chàng thật ấm áp, Diễm đang ở ngoài lạnh vào
nên thấy dễ chịu. Sau đó, chàng không xuýt xoa kêu đau nữa,
chàng hôn tới tấp lên mắt lên môi Diễm một cách tham lam.
Diễm kêu nho nhỏ: – Anh ơi, đống sách của em.
Vừa kêu Diễm vừa gỡ tay chàng ra, rồi cúi xuống lượm mấy
cuốn sách, chàng cũng cúi xuống phụ Diễm. Chàng dành ôm
hết: – Em học ở thư viện về à? Giọng chàng thật ấm.
Diễm gật đầu. Chàng có vẻ bằng lòng.
– Em siêng thật! Mới bắt đầu niên học mà tối thứ sáu cũng
đi học. Hồi nãy kêu cửa không có em, anh tưởng em đã về
Olympia rồi. Bài vở đã nhiều rồi sao?
Diễm cười giải thích:
– Chưa nhiều, nhưng đang muốn học thì học, bù lại những
lúc lười. Mẹ gọi kêu về, em nói em bận không về được nên
mai mẹ sẽ lên. Còn anh - Diễm trách nhẹ - Sao về không cho
em hay?
– Sở gởi đi học ở Keyport, bất ngờ quá, định cho em hay
nhưng rồi chỉ 2 ngày hôm sau là về nên làm em ngạc nhiên
chơi. Nếu mà biết sớm hơn anh không giấu được đâu, vì bồn
chồn quá.
– Ngạc nhiên quá đi! Em chưa đứng tim là may.
– Về đây mới hay thời tiết đang đổi mùa. Nam Cali vẫn nóng
chang chang. Còn ở đây không có gì thay đổi.
– Sao anh bảo không có gì thay đổi. Mấy tuần trước, lá trở
vàng đẹp quá đi, nhìn mấy cây phong đẹp quá. Ngồi học mà
em cứ nhìn ra ngoài cửa sổ. Ai bảo em khô khan? Bây giờ
anh có biết là anh lầm chưa, anh từng nói con gái học khoa
học khô khan lắm. Anh còn nói " ghê" lắm mà cho đến bây
giờ em vẫn không hiểu "ghê" là như thế nào.
116 Tin Vaên
Chàng thú nhận: – Anh cứ lầm hoài Diễm ơi. Em ngoan
hiền mà cũng bướng bỉnh nữa. Ở em, mỗi ngày là mỗi khám
phá. Người như em, anh không bao giờ thấy chán.
– Thật không? Không chán mà bỏ em ở đây một mình!
Chàng tảng lờ câu trách móc nhẹ của người yêu, hỏi sang
chuyện khác: – Em ăn gì chưa?
Chàng hỏi rồi không chờ Diễm trả lời nói ngay:
– Anh đưa em đi ăn. Nào, em muốn cơm Mỹ, cơm Tàu hay
cơm Việt? Cho em chọn lựa đó. Để anh đưa em đi. Em thích
cái nhà hàng Tây mình hay đi.
Diễm nhõng nhẽo:
– Trời lạnh quá, em chẳng muốn ra đường! Nhất là trong này
đang ấm.
Chàng vừa la, vừa ra lệnh:
– Đi ăn mà cũng kêu. Lên phòng mặc thêm áo vào. Rồi ra xe.
Ngồi trong xe chứ lội bộ sao mà lạnh. Cứ ít ăn, em chưa học
thi mà đã gầy quá rồi!
Diễm nũng nịu:
– Anh...anh chê em hở?
– Ừ, cứ để gầy ốm là không ai thương.
Giọng điệu của chàng giống như mẹ. Chàng như bà mẹ thứ
hai. Diễm phụng phịu:
– Anh nói như mẹ.
– Chứ không phải sao. Cứ sợ lạnh nhưng không chịu mặc áo
quần đàng hoàng. Rồi làm biếng ăn nữa. Phải ăn nhiều thịt
vào...mới có đủ nhiệt ấm người được. Em lại cứ ăn ngọt, rồi
đến giờ cơm lại bỏ cơm.
Diễm thở dài. Chàng săn sóc em làm chi để những ngày
chàng ở xa, em ăn ngủ không được vì nhớ chàng. Thích săn
sóc như thế sao không ở gần để mà săn sóc. Anh đi rồi, em
cứ ngồi buồn trong giảng đường rộng lớn chẳng nghe thầy
giảng chẳng ghi bài.
Ngoài đường trời lạnh buốt. Nhà hàng Pháp ở cuối đường
Tyler. Diễm thích lối trang hoàng của nhà hàng này, sang
trọng, ấm cúng, khăn trải bàn màu trắng có thêu. Trên bàn
Tin Vaên 117
chưng hoa hồng đỏ, chỉ một cánh hồng thân dài. Đèn mờ thơ
mộng. Nhạc êm dịu. Bồi bàn mặc tuxedo. Chàng cũng thích
nhà hàng này, nhưng dạo đi học thì chàng làm gì có tiền để
đưa em vào đây thường xuyên, chỉ những hôm vừa lãnh
được tiền mượn ở trường thì mới làm sang - và rồi vừa ăn
Diễm vừa lẩm cẩm lo ngại cho cái túi tiền của chàng. Chàng
hay nói bao giờ anh ra trường đi làm thì dẫn em đi ăn cơm
Tây mỗi cuối tuần. Tuy nói là thích đi ăn nhà hàng nhưng
vào đây Diễm lại thích ngồi ngắm chàng hơn là ăn, dịp duy
nhất ngắm chàng kỹ càng. Ngắm mãi mà lần nào cũng nhất
quyết cho là chàng đẹp trai nhất trong thiên hạ. Diễm ngắm
khi chàng cười. Diễm ngắm khi chàng ăn, Diễm ngắm khi
chàng nói. Chàng không bao giờ ngờ lúc con nhỏ như chăm
chú nghe chàng nói là lúc con nhỏ say mê ngắm chàng.
Tối nay, Diễm thích ngồi cạnh chàng. Chàng đã xa Diễm
một mùa học. Bồi lịch sự đưa hai người vào trong chỉ chỗ
ngồi. Thay vì ngồi ghế đối diện, Diễm nói nhỏ với chàng xin
chọn cái ghế hình chữ U để Diễm với chàng vẫn là ngồi
chung một ghế. Diễm thì thầm...Em muốn dựa vào người
anh - và định nói...cho ấm, nhưng rồi lại lười biếng cắt câu
nói ở đó. Chàng cười nhẹ không nói gì. Rồi sau đó bỗng nhìn
Diễm thật lâu, chàng nói:
– Diễm, em còn trẻ!
– Dĩ nhiên rồi! Em mới 20.
Chàng ăn nói khác thường quá đi. Diễm cười cười hồn nhiên
nói:
– Em lúc nào cũng sẽ trẻ hơn anh. Vì em đẻ sau anh mà. Và
cũng tại anh hay lo nữa.
Suốt buổi ăn chàng không nói gì nhiều, Diễm có hỏi gì thì
chàng cũng chỉ trả lời cụt ngủn. Gặp chàng, Diễm vui quá
nên cứ huyên thuyên kể chuyện trường, chuyện lớp học,
chuyện campus. Học thì vui, mà thi cử làm bài ngán quá, giá
gì mướn ai thi cho mình hả anh? Chàng nhăn mặt không
bằng lòng câu đùa giỡn của Diễm. Chàng la chuyện học hành
không giỡn được. Diễm nhún vai dỗi hờn, em nói giỡn mà.
118 Tin Vaên
Mấy lần chàng kêu tên Diễm nho nhỏ, ngập ngừng muốn nói
điều gì nhưng nghĩ sao rồi lại thôi. Chàng ngồi đó mà tâm
hồn chàng để ở đâu, thỉnh thoảng Diễm nghịch ngợm sờ mũi
chàng để kéo chàng về với hiện tại mà chàng không cười. Cử
chỉ đút vào miệng Diễm những muỗng kem dâu ngọt ngào
như thể là chàng làm lấy lệ.
Sau buổi ăn thấy còn sớm, Diễm đòi chàng đưa đi coi movie
xuất khuya.
-Không, em phải về nghỉ sớm. Anh lắc đầu.
-Em chưa có test mà anh - rồi Diễm nũng nịu - biết bao giờ
anh mới về nữa...
Chàng không nói gì. Trời đêm lạnh ngắt, sương mù trắng
đục quanh những ngọn đèn đêm. Đường loang loáng ướt,
không phải mưa mà là sương đêm. Từ nhà hàng bước ra chỗ
đậu xe, hai tay Diễm ôm chặt lấy cánh tay chàng, Diễm nói
ra hơi thở:
– Lạnh quá anh nhỉ? Em nghe đài khí tượng nói năm nay sẽ
lạnh phá kỷ lục luôn.
Chàng cũng không nói gì. Bước đi vài bước, bỗng chàng
xoay người ôm lấy Diễm, hỏi nhỏ vào mắt Diễm:
– Anh hôn em được không?
Từ trước đến giờ có bao giờ chàng xin phép để được hôn
Diễm đâu. Rõ lẩn thẩn! Diễm nghĩ bụng, rồi nghịch ngợm
quay về hướng khác để tránh nụ hôn, nũng nịu trả lời:
– Không!
Chàng vờ không nghe cứ xoay mặt Diễm, kéo lại thật gần,
và hôn tới tấp. Hơi thở chàng nồng nàn, phảng phất mùi
rượu...phà vào mặt Diễm. Chàng không hay uống rượu,
nhưng đêm nay chàng đã kêu rượu, Diễm nghĩ có lẽ chàng
vui mừng vì gặp lại người yêu sau bao ngày xa cách. Lúc đó,
Diễm cũng nhâm nhi một chút. Bây giờ, chàng hôn tưởng
như chàng sẽ mất Diễm. Tưởng như chàng sẽ không bao giờ
được hôn Diễm nữa. Tuy có ngạc nhiên vì cử chỉ của chàng
nhưng Diễm lại thích những lần đam mê bất ngờ như thế này
nên cũng đã vui sướng ngất ngây ghì chàng hôn đắm đuối.
Tin Vaên 119
Hai người cứ thế mà hôn nhau ngay ở bãi đậu xe. Chàng có
vẻ không quan tâm tới việc người khác nhìn thấy hai người
hôn nhau, cũng may là giờ này vắng khách lui tới ăn uống.
Với lại nhà hàng Pháp, chỉ toàn là khách dị chủng nên không
sợ người Việt thấy. Chàng cứ ghì chặt lấy Diễm không chịu
buông tha. Hồi lâu Diễm đẩy nhẹ chàng ra.
– Anh...Diễm kêu nho nhỏ.
– Anh thương em...Diễm, em phải biết là anh thương em.
Diễm bấm nhẹ vào tay chàng âu yếm:
– Em biết!
Trên đường về lúc gần tới đại học xá của Diễm, chàng tự
nhiên nhảy mũi lia lịa. Trời không phải tháng tư để bông hoa
tiết phấn độc làm chàng nhảy mũi, nhớ lại Diễm mới là
người có bệnh cúm dị ứng mà. Diễm vô tình cười trêu:
– Ai đang nhắc anh, không phải em, em đang ngồi cạnh bên
anh mà.
Chỉ là một câu nói đùa mà chàng lúng túng thấy rõ, chàng
lắp bắp trách:
– Sao...sao em lại nói vậy?
– Thì...khi mình nhảy mũi lại không cảm cúm gì hết
thì...chắc là có ai nhắc rồi! Không phải sao?
– Em chỉ nói...bậy! Chàng cười miễn cưỡng, nét mặt đăm
chiêu.
Chia tay ở trước phòng dorm, chàng lại hôn Diễm thật dài,
thật lâu...
*
Sáng hôm sau, lúc Diễm còn đang ngủ nướng thì có người
gõ cửa phòng. Trời ơi! Một sáng nhàn cư của người ta! Diễm
không có lớp học sớm. Diễm càu nhàu nhưng rồi cũng ra mở
cửa. Tưởng ai, thì ra là người giao hoa đem đến một chục
đóa hồng nhung. Ôi! Đó là loại hoa biểu lộ cho tình yêu.
Người ta có yêu mình người ta mới tặng hoa hồng. Nhìn vào
cái thiệp nhỏ biết là của chàng gửi cho Diễm. Love you
forever… Chàng viết.
120 Tin Vaên
Chàng biết Diễm mê hồng nhung. Từng nói bao giờ anh đi
làm thì em sẽ nhận hoa hồng đều đều.
Nắng lên cao rọi vào phòng ấm áp. Ngoài kia trời mùa thu đã
bắt đầu lạnh. Diễm đặt bình hoa lên bàn học. Bình hoa lớn
quá nên không cân xứng trên cái bàn nhỏ nơi Diễm thường
chỉ có một bình nhỏ cắm một nhánh hoa thôi.
Còn đang nằm ngắm hoa thì phôn reng. Chàng gọi:
– Diễm hả?
– Em đây - Em nghĩ là chàng gọi rủ em đi ăn sáng. Nhưng
không, bên kia đầu dây bỗng dưng có một sự im lặng lạ lùng.
Em chờ đợi rồi tưởng như chàng không còn bên đó nữa. A
lô! Anh còn đó không? A lô! Mấy phút sau chàng mới trả
lời. Chàng không rủ em đi ăn phở. Chàng không rủ em đi ăn
Denny's. Chàng nói chàng sắp lấy vợ, chàng không thể lấy
em. Chàng thở dài...
– Em còn trẻ...Đời em còn dài...Em sẽ gặp một người xứng
đáng hơn anh.
Hai năm trời, giờ chỉ còn là một câu nói ngắn ngủi. Đơn
giản vậy sao? Lúc đó, Diễm vẫn tưởng chàng nói giỡn dù
biết chàng chưa bao giờ đùa giỡn về chuyện hôn nhân. Hai
người chưa một lần nghiêm trang hứa hẹn điều gì nhưng
trong mấy năm quen nhau đã ngấm ngầm nghĩ là của nhau,
sẽ lấy nhau. Việc đơn giản có thế thôi. Chàng, con trai út có
bốn bà chị đã lập gia đình. Mẹ chàng già hơn mẹ Diễm
nhiều. Bà đã 60 tuổi, và mẹ Diễm chưa tới 40. Dù vậy, hai bà
ngồi lại với nhau vẫn có chuyện để nói. Lần nào Diễm ghé
chơi, mẹ chàng cũng bắt Diễm ở lại ăn cơm, hình như bà sợ
Diễm đói. Có lần chàng nhận xét: Má anh cưng em còn hơn
cưng anh, bà lo cho con dâu tương lai của bà dữ quá. Ai đời
mẹ chồng lại săn sóc nàng dâu! Diễm cười cười dâu Mỹ mà
anh, má anh tân thời lắm, em thật là may mắn đó. Em có tới
hai bà mẹ lận, anh đừng bày đặt ăn hiếp em.
Diễm cứ cười khúc khích trong phôn và mắng yêu chàng
nói bậy. Diễm chưa thấy đau, như nhổ cái răng khôn mà có
thuốc tê nên chưa thấy đau, mãi sau đó khi thuốc tê không
Tin Vaên 121
còn hiệu nghiệm nữa thì mới biết đau. Quả là sau này, Diễm
đã đau thật khi chàng mịt mù bóng chim tăm cá. Không thư
từ, không điện thoại. Chuyện quan trọng, chàng không bao
giờ nói giỡn, chàng đã nói thật. Diễm ốm liền mấy tháng.
Diễm phải bỏ một khóa học. Người mòn mỏi đợi chờ. Trong
giấc ngủ mộng mị chập chờn, Diễm cứ nghe tiếng chàng thủ
thỉ. Thật gần...Anh thương em, Diễm ơi. Sau đó, bao lần
Diễm muốn tìm kiếm chàng, muốn nghe chàng giải thích
phân bua. Vì sao? Diễm muốn biết. Chỉ thế thôi, rồi không
kéo giữ, không nhỏ lệ, đường chàng, chàng cứ đi. Nhưng
Diễm không biết đằng nào mà tìm. Bà mẹ già chắc cũng về
sống chung với một trong mấy bà con gái ở tiểu bang khác?
Mà nghĩ cho cùng, tìm kiếm để làm gì chứ? Sợ Diễm còn có
đủ nghị lực để thấy lại mặt chàng? Và mẹ Diễm, bà thấy đau
lòng thắt ruột mà không làm được gì giúp con. Rồi đó cũng
là lúc Diễm nghe chàng lấy vợ từ miệng một người thứ ba.
Mộng của Diễm đã tan vỡ, mà con đường chàng đi cũng
chẳng thơ mộng gì. Mùa thu năm đó cảnh vùng Tây Bắc
chưa bao giờ buồn thảm đến như vậy!
*
Mỗi lần nhớ lại những cử chỉ của anh, em cứ se thắt cõi
lòng. Thắc mắc sao anh không nói huỵch toẹt những điều
anh muốn nói, mà lại luẩn quẩn vòng vo cho em khổ nhiều.
Anh thương em lắm mà. Anh từng nói anh chỉ muốn săn sóc
một người… suốt đời! Người đó là em. Anh cười khi nói
điều đó. Thương em, anh sẽ không bao giờ làm khổ em.
Diễm đau xót. Nhưng, anh đã làm khổ em. Anh không giữ
lời hứa, anh đi lấy người khác, người ta cấm anh săn sóc em.
Trời ơi! Anh đã phụ bạc. Anh đúng là người đểu cáng, nuốt
lời - mà sao em vẫn không nghĩ anh là mẫu người đó được.
Với tâm trạng hụt hẫng mất mát, em mất thăng bằng. Bạn bè
nói em khờ dại quá, mình có thân thì mình phải lo cho mình
chứ. Đừng khùng điên khổ sở vì một người đối xử không tốt
với mình! Tụi nó thương em nên mới nói như vậy. Huyền
Lan lo cho em nhiều nhất. Bỗng dưng từ vụ đau khổ này mà
122 Tin Vaên
em tìm được một con nhỏ bạn thân. Trời lạnh, nó đội mưa ra
cái quán mở suốt ngày suốt đêm mua cho em bát cháo gà nấu
với legume. Đưa cho em viên Tylenol giữa giờ Triết học.
Trấn an mẹ nói là có cháu ở gần, dì đừng lo. Nghe xong mẹ
càng lo. Bà thấu hiểu nỗi đớn đau này. Bà đã khổ một lần.
Người đàn ông họ Sở đó là...bố em! Ra đời lớn lên em chưa
bao giờ nhìn thấy bố, cũng chưa bao giờ gọi ai là bố, mẹ ở
vậy nuôi con, mặc dầu sắc đẹp của mẹ trên trung bình có
nhiều người đàn ông ngắm nghé săn đón. Ngày xưa, mẹ đã
từ hôn một người khoa bảng giàu sang để yêu bố làm ông
ngoại buồn xấu hổ với bà con láng giềng. Nhưng chuyện tình
của em với anh thì khác. Mẹ quí mến anh. Mẹ nói nó hiền.
Mỗi lần đến chơi nhà, anh giúp mẹ những việc nặng nhọc
như giựt máy cắt cỏ, cắt nguyên đám cỏ trước, đám cỏ sau.
Mẹ cảm động coi anh như con trai của mẹ. Tin anh lấy vợ
làm mẹ ngạc nhiên. Đoạn kết thay đổi không ngờ. Mẹ giận
anh vì thương con, mong chuyện không phải là vậy. Mẹ
không ngủ được, nửa đêm cầm phôn gọi con hỏi con có bình
an không, báo hại Huyền Lan cũng bị đánh thức dậy rồi mất
ngủ luôn.
Lúc đó, Huyền Lan đã dọn vào ở chung với em. Nó săn sóc
em từng li từng tí. Nó nói:
– Tao thương mày như em gái - Sao lại là em trong khi nó đẻ
sau em vài tháng?
– Tao sẽ nhớ ơn mày.
– Bày đặt hoài. Chỗ bạn bè. Mọi việc rồi sẽ qua. Sau cơn
mưa rồi trời sẽ sáng. Rồi sẽ không có gì. Chỉ là một trận gió
tình yêu thổi qua làm mình chóng mặt một chút vậy mà.
Mình là con gái đẹp, để cho mấy ông con trai chạy theo quỳ
lụy khổ sở chớ tội gì mình khổ sở. Con gái Việt xứ này quí
như vàng như ngọc. Dại thì thôi!
Nó canh em như canh bò. Nó sợ em làm bậy. Uống thuốc
ngủ hay nhảy lầu chăng? Cả hai phương pháp đó đều có
người ở đại học xá này thực hiện rồi. Nhỏ Thủy gốc gác ở
Vancouver buồn chán chuyện gì mà uống thuốc ngủ năm
Tin Vaên 123
ngoái? Một thằng Hawaii nhảy lầu chỉ cách đây vài tuần.
Con nhỏ uống thuốc ngủ bị bơm ruột được cứu sống. Thằng
nhỏ chết tươi vỡ đầu sọ óc bắn tung tóe, báo chí đăng chán
đời vì gãy lớp không biết nói năng với ông bà già làm sao.
Cái chết của thằng này cũng dễ sợ như cái chết của văn hào
Ernest Hemingway của Mỹ...Ông có 4 vợ: bà thứ nhất hơn
ông 8 tuổi, bà thứ nhì hơn ông 4 tuổi, bà thứ ba thua 9 tuổi,
bà thứ tư nhỏ hơn nữa, năm ông gần 50 còn mê một cô 19
tuổi. Chuyện tình cảm lung tung quá. Mới ngoài 60 tuổi, ông
tự tử chết bằng súng. Hồi trước Diễm nghe nói ông tự tử vì
không có tiền trả thuế má ông nợ, mới đây đọc tiểu sử của
ông mới hay ông chết đi để lại tới 1.6 triệu cho vợ, đâu phải
đã nghèo, so với đầu thập niên 60. Cằm, miệng, và phần dưới
má còn dính với thân, phần trên của cái đầu bắn văng tung
tóe. Máu, xương, răng, tóc và thịt dính tùm lum trên vách,
trên trần, trên thảm. Bà vợ phải bước qua những phần đầu
tung tóe khi bước xuống cầu thang để tìm xác ông. Bà đã
khóa tủ súng mà lại để quên chìa khóa ở nhà bếp. Những
năm sau già cả lụm khụm lú lẫn, bà vẫn còn bứt rứt vì nỗi
một lần sơ ý, chỉ một lần! Ông sống ích kỷ, làm khổ mấy bà
vợ, mấy cô nhân tình, chết rồi vẫn còn ích kỷ làm khổ những
người ở lại!
Nhưng anh ạ, em không có can đảm làm những việc đó.
Em cứ tiếp tục sống và khóc lóc thất tình vì anh. Cứ tiếp tục
nghe văng vẳng cú điện thoại của bác Khanh gọi méc:
– Cháu biết không...thằng bạn của cháu, cái thằng tên gì nhỉ?
Lấy cái con mẹ có 5 đứa con riêng, già khú đế, nó là trai tân,
làm đám cưới lớn nữa...mời tới 500 người. Con mẹ này có
tiền. Nghe nói ông chồng chết...cũng có thể là đã ly dị - thời
buổi này mà cháu, bác không rành chuyện người ta – cái mặt
đó không hiền đâu, bác nhìn là bác biết chớ. Cái thằng hiền
lành, đứng đắn... vậy mà gặp vợ gì đâu! Duyên số hết cháu
ơi, người ở gần không đi lấy lại đi lấy người ở xa.
Nghe bà nói, lòng em se thắt lại, trái tim đau nhói.
124 Tin Vaên
Cho đến bây giờ Diễm cũng không hiểu tại sao chàng
làm như vậy, chỉ biết một điều, và dù có ai nghĩ khác đi,
Diễm vẫn tin là Diễm đã yêu chàng tha thiết và chàng cũng
đã yêu Diễm tha thiết như vậy.
Sau này mỗi khi thấy một người đàn ông nào chiều
chuộng, săn sóc một người đàn bà, Diễm lại hay nghi ngờ
nghĩ...ông ta sắp tuyên bố gì đây. Xin thân ái ly dị? Xin
thông cảm chia tay?
Ôi xứ này! Với bao là chuyện bất ngờ, với bao là điều
ngạc nhiên. Hèn gì Diễm cứ đau đầu hoài. Đâu phải tại hồi
còn nhỏ chị người làm lau cái sàn nhà láng coóng làm Diễm
ngã đầu đập xuống đất, chắc làm đứt một hai sợi dây thần
kinh nào đó nên Diễm cứ đau đầu, như lời mẹ giải thích. Và
chuyện tình yêu? Phải chăng chỉ toàn là sầu mộng và nước
mắt!
Diễm cứ khóc hoài. Chàng đã xa Diễm sáu tháng. Vậy
mà lúc nào Diễm cũng nghĩ tới chàng. Khi mình mất người
yêu là mình mất đi một cái gì quen thuộc, một điểm tựa, một
người bạn để kể lể những khó khăn của đời sống. Nghĩ tới
chàng để có cảm tưởng chưa mất chàng. Bám víu kỷ niệm cũ
để trốn tránh tương lai. Không dám quen ai để khỏi bị đau
khổ lần nữa. Huyền Lan muốn Diễm quên, quên
chàng...quên quá khứ, cứ rủ Diễm đi chơi, nhưng Diễm đều
chối từ tất cả những buổi dạ vũ. Có vui gì khi Diễm lủi thủi
một mình, bạn bè nhìn ái ngại. Ngày nào Diễm với chàng
quấn quít như đôi sam. Hội sinh viên VN trong W bầu hai
người là đôi tình nhân dễ thương nhất. Người cao ráo thon
thon, khuôn mặt trái xoan, mũi cao, Diễm còn được bầu là
người có đôi mắt đẹp nhất của W. Chả ai giúp được gì mình,
chường cái mặt thiểu não ra chỉ thêm xấu hổ. Diễm nói với
Huyền Lan như vậy. Nhưng cô bạn thì nghĩ khác, cô nói:
– Không, mi phải tận mắt nhìn thấy hắn đi với người khác –
làm sao mà em thấy được, anh đâu còn ở đây nữa. Mi phải
thấy bộ mặt sở khanh của hắn, rồi mi sẽ đau khổ, mi sẽ khóc
thảm thương, nhưng có như vậy thì mi mới quên hắn được,
Tin Vaên 125
để chấp nhận là chuyện không còn gì để nuối tiếc nữa. Phải
chịu khó uống thuốc thì mới lành bệnh được. Diễm ơi! Mi
còn cả một tương lai trước mặt.
Một tối trời lạnh, ngoài trời sương mù phủ xuống trắng
xóa, Diễm đem xấp thư cũ của chàng ra đọc lại. Diễm vẫn
thường khen nét chữ của chàng, nét chữ cứng cáp rất đàn
ông. Bây giờ nhìn lại nét chữ quen thuộc, trái tim Diễm
không khỏi bối rối. Cũng gần 100 lá thư! Đọc xong, Diễm
thực hiện đúng như lời Huyền Lan đã khuyên nhủ: Đốt hết
đi! Diễm từ từ quăng những lá thư vào trong lò sưởi, từng lá
một, nhìn lửa liếm từng lá thư. Đốt hết những câu yêu
thương, những dòng hẹn ước. Không còn gì nữa cả. Ngọn
lửa phất cao rồi tắt lịm, lòng Diễm tái tê. Diễm lặng nhìn.
Chỉ còn là đống tro tàn. Đốt thư xong Diễm chợt nhớ nàng
còn giữ một hộp băng nhạc chàng đã thâu cho Diễm, mới
đầu Diễm định gởi trả, nhưng biết chàng ở đâu mà gởi, với
lại tội gì tốn tiền cước phí, cứ liệng quách cho khỏe, thế là
Diễm đem thẩy hết vào thùng rác lớn, sáng sớm mai sẽ có
người đến mang đi đổ ngay, không còn gì để luyến lưu...Trời
ơi, anh có bao giờ yêu em không hả Vĩnh? Không yêu
thương mà đi tới đi lui nhà em đến mòn đường nát cỏ!
*
Dòng đời trôi chảy. Mười năm thấm thoát qua đi…
Diễm bây giờ đã là một bác sĩ, chồng của Diễm cũng là một
bác sĩ trẻ, người bản xứ. Với người chồng dị chủng, Diễm có
một hạnh phúc của riêng nàng mà Diễm tưởng chừng sẽ
không bao giờ có được, sợ là sẽ không thông cảm nhau, vậy
mà họ đã thông cảm nhau. Bố mẹ John giàu có, làm chủ
nhiều đất đai ở vùng này, ông bố thuở trước là kiến trúc sư
nổi tiếng, bây giờ đã về hưu. Ông bà đi du lịch liên miên, để
lại ngôi biệt thự nguy nga rộng lớn trên đảo cho hai vợ chồng
John với đứa con nhỏ và những người giúp việc: một chị vú
em, một người tài xế, hai anh làm vườn, một chị đầu bếp.
Đảo Kettron chỉ cách thị trấn Fort Steilacoom 3 dặm, không
có cầu nối với đất liền, mỗi ngày có hai chuyến phà một sáng
126 Tin Vaên
một chiều ghé qua. Hòn đảo chiều dài 3 dặm, chiều rộng 2
dặm. Có những con nai thong dong đi lại, hồi mới mua đảo
chỉ thả có 2, 3 con mà bây giờ sinh sản cả bầy. Mùa hè hoa
Poppy dại nở tưng bừng ở cánh đồng. Hoa màu vàng cam,
cánh mỏng, cánh lá giống như hoa cẩm chướng. Tòa biệt thự
có 32 phòng. Mùa hè thi nhau nở nhiều loại hồng, đủ màu
sắc, có cả loại hồng nhung mà Diễm hằng ưa thích, có khu
rộng trồng đầy lê, táo. Có hồ nuôi cá đủ loại màu, buổi chiều
đi làm về John có thú cho cá ăn, hoa súng trắng hay hồng
nhô lên trên mặt nước nở phơi phới xòe ra những cánh. Có
suối giả chảy róc rách. Nhiều phòng có cửa sổ kính nhìn ra
vịnh. Phòng của John và Diễm cũng nhìn thấy biển nước và
bầu trời. Những lúc rảnh Diễm hay mang giá vẽ ra bãi cát vẽ
khung cảnh biển vịnh sông nước, những dãy núi thuộc hai
đảo đối diện, du thuyền đi qua. John nịnh vợ khen Diễm vẽ
cũng được lắm. John là con trai độc nhất. Vì vậy, mẹ anh
muốn hai vợ chồng nàng cố giữ hòn đảo này khi ông bà qua
đời, vì đó là quà cưới của ông tặng bà mấy chục năm về
trước. Vợ chồng Diễm làm ở bệnh viện bên thành phố. Mẹ
của Diễm ở Cali với một người dì của Diễm, dì Ba, bà góa
bụa, con cái cũng đã lấy chồng lấy vợ hết rồi, sống quanh
quẩn gần đấy. Thỉnh thoảng, mẹ Diễm lên ở với Diễm vài
tuần hay một tháng, thường là vào mùa hè khi vùng này nhiệt
độ ở khoảng 70, 80, cây cỏ xanh tươi mát mắt. Còn những
tháng khác khí hậu ấm áp của Cali thích hợp với mẹ nàng
hơn.
Cô bạn Huyền Lan năm xưa giờ cũng đã lập gia đình và
có hai con. Hai vợ chồng cô đều là kỹ sư làm cho Boeing.
Diễm và Huyền Lan vẫn liên lạc thường xuyên, nếu không
muốn nói là tình giao hảo của họ trên cả mức thường xuyên,
đó là tình bạn tri kỷ. Không viết thư thì gọi phôn. Mùa hè cứ
vài tuần là vợ chồng cô từ Seattle lái xe chạy xuống Fort
Steilacoom rồi lấy phà qua đảo chơi, có khi lấy hai tuần phép
thường niên ở chơi với vợ chồng Diễm. Thường thì hai anh
cũng bày đặt câu cá. Rồi nhóm lửa để có bữa ăn ngoài trời.
Tin Vaên 127
Rồi có khi vợ chồng Diễm thèm ăn cơm Việt Nam là lên rủ
Tuấn - Huyền Lan đi ăn tiệm quán VN. John còn ăn được
mắm nêm, ăn bò nhúng giấm cuốn bánh tráng rau sống chấm
mắm nêm rành lắm. Đôi khi họ cũng đi chơi xa với nhau.
Năm tới dự định sẽ đi Âu Châu một chuyến. Ôi chao! Sao
Diễm vẫn mơ được nhìn thấy những cánh đồng hoa ở Hòa
Lan, vẫn mong được uống ly cà phê, lội bộ ngắm tranh trên
vỉa hè nước Pháp. Phải chờ cho John rảnh rang sắp xếp được
việc ở bệnh viện thì mới đi được.
Một hôm người đưa thư giao cho John một bưu kiện gửi
cho Diễm, đóng dấu vùng North Carolina. Diễm có bà con
bạn bè gì ở bên đó sao lâu nay không nghe nói, John có thắc
mắc chút đỉnh rồi không bận tâm lắm. Anh đem bưu kiện về
cho vợ. Thư từ cho hai người đều dùng địa chỉ nhà thương,
hay hộp thư ở bên phố.
Diễm đốt lò sưởi xong, đứng nhìn xa xa chuyến phà cuối
ngày thả John xuống, trời đã trở lạnh. Chiều chạng vạng tối,
những con hải âu kêu eng éc đang bay lượn ngoài vịnh.
Nước thủy triều đang dâng lên. Bãi cát bị nước liếm dần dần
rồi trong chốc lát biến mất. Con chim làm tổ ở mái hiên nhà
cũng đang vội vã bay về chỗ ngủ. John đưa cái hộp bưu kiện
cho vợ rồi đi tắm cho kịp bữa cơm tối, anh đã thấy đói bụng
lắm rồi. Anh vừa đi vừa huýt sáo. Diễm mỉm cười khi anh
đổi qua một bản nhạc vui tươi. Nhiều khi bản nhạc lời buồn
mà anh vẫn hát với giọng vui tươi, xem ra với anh chẳng có
chuyện gì buồn cả. Anh đang có hạnh phúc. Anh nhìn đời
với lăng kính màu hồng. Anh vẫn nghĩ là anh có hạnh phúc
từ ngày gặp và yêu Diễm rồi hai người lấy nhau. Anh rất
bằng lòng với cuộc sống này.
Bưu kiện của một người đàn bà. Gửi cho Nguyễn Ngọc
Diễm, chứ không phải Diễm Bushell. Diễm mở ra thấy có
một cuốn nhật ký và một lá thư. Lá thư ngắn gọn:
Thưa bà, chắc bà rất ngạc nhiên khi nhận lá thư này.
Chuyện đã mười mấy năm rồi. Tôi chính là người đàn bà đã
làm bà khổ, đã cướp lấy người yêu của bà. Chúng tôi sống
128 Tin Vaên
những năm không có hạnh phúc, Vĩnh chỉ yêu có một mình
bà. Bây giờ Vĩnh đã mất rồi, tôi nghĩ cuốn nhật ký của Vĩnh
phải giao đến tận tay bà mới phải, để bà hiểu rõ được lòng
của Vĩnh. Xin bà tha lỗi việc tôi đã làm xáo trộn đời sống
của bà, một lần nữa.
Diễm đọc xong lá thư, dù lá thư đánh máy không có chữ
ký của người viết nhưng cũng đủ cho Diễm hiểu chuyện, một
giọt nước mắt âm thầm lăn xuống má nàng. Phải, đã mười
năm rồi, chuyện đã xưa thật xưa, hiện tại Diễm đang có một
đời sống hạnh phúc. Diễm cũng đâu cần cái đáp số cho bài
toán ngày nào, Diễm đã làm không ra, Diễm đã bỏ cuộc, đã
đầu hàng, đã chịu thua, ngày đó có thắc mắc thật, muốn tìm
hiểu nguyên nhân việc Vĩnh đột ngột lấy vợ mà không hiểu
nổi. Bây giờ Diễm biết để mà làm gì...
Tiếng củi kêu tí tách trong lò đốt. Ngọn lửa lập lòe trước
mắt Diễm. Như là ngọn lửa quen thuộc ngày nào đã thiêu rụi
những lá thư tình Vĩnh gửi. Diễm nhìn ngọn lửa. Tiện tay
Diễm ném quyển nhật ký và lá thư vào. Không nghĩ ngợi,
không bâng khuâng. Từ dòng sông nhỏ, nước tiếp tục chảy,
rồi ra biển lớn chứ bao giờ chảy ngược về nguồn. Chuyện gì
đã qua, cứ cho nó qua luôn, còn bới lại trong đống tro tàn để
tìm lại cái gì nữa chứ. Diễm đứng dậy chùi nước mắt rồi đi
xuống phòng ăn vì biết đã tới giờ cơm. Như chẳng có chuyện
gì vừa mới xảy ra, như đời sống của nàng chưa hề bị lay
động.
Linh Vang
Sự suy tàn của văn học cho thấy rõ sự suy tàn của
một dân tộc. Hai cái này khi xuống dốc thì cùng tiến
bước.
Goethe (Đức)
Tin Vaên 129
Lê Kính
Ngày về
Ngồi buồn nghe gió đi hoang,
Hôn trên phiến lá chuyển sang xứ người.
Quê hương giờ quá xa vời
Não hồn du mục lệ rơi từng ngày.
Vì đâu kiếp sống lưu đày,
Nổi trôi đất khách đáng cay phận hời.
Lặng nhìn chiếc lá vàng rơi,
Biển hờn sóng vỗ chơi vơi chợ đời.
Vẫn nghe giọng hát ầu ơi,
Chạnh lòng nhớ chốn nằm nôi thuở nào.
Ơi! Quê hương nhớ biết bao,
Nghe tim uất nghẹn lệ trào từng cơn.
Tay Thần góp gió mười phương,
Thổi lên đưa trọn tình thương trở về
Từ thành thị đến làng quê,
Xóa tan tủi nhục não nề đau thương.
Cuốn phăng tàn tích nhiễu nhương,
Bình minh ló dạng trăm đường nở hoa.
Ngày về nắng đẹp quê ta,
Hôn lên đất Mẹ chan hòa niềm vui.
130 Tin Vaên
Vô Tình Mắt mờ
1
Niềm vui duy nhất chỉ còn Thơ.
Nay bởi cao niên mắt bị mờ
Nhãn khoa bàc sĩ cho đi mổ
Bệnh tình con mắt – vẫn như đơ..!
Momg sao thi phú - còn xem được
Câu khẩn thẩn linh - chửa hộ cơ?
Số phận con người trời sắp đặt
Than ôi đành chịu - kề như mơ.
2
Mắt mờ đi tiểu – chỉ thường xuyên.
Quờ quạng đụng tường lẽ tất nhiên
Bạn chở đi nghe ca sĩ hát
Tớ nghe – đâu thấy họ cười duyên.
TV không ngó - dù ham mộ.!?
Màn ảnh thôi xem - dẫu rất ghiền
Chầp nhận sồ phần – chưa nổi tệ
Cũng mừng an ủi - tớ chưa điên.!
Houston / Xuân
Chia sẻ cùng Văn Thi hữu thân quen
Tin Vaên 131
@Hoàng Thanh
Xin cám ơn cuộc đời Chỉ với một nụ cười
Thế là một mùa Lễ Tạ Ơn nữa lại đến. Tôi vẫn còn nhớ, lần
đầu tiên khi nghe nói về Lễ Tạ Ơn, tôi thầm nghĩ, “Dân
ngoại quốc sao mà… “quởn” quá, cứ bày đặt lễ này lễ nọ,
màu mè, chắc cũng chỉ để có dịp bán thiệp, bán hàng để
nguời ta mua tặng nhau thôi, cũng là một cách làm business
đó mà…”
Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không
có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó
đuợc nghỉ làm, và có một buổi tối quây quần ăn uống với gia
đình. Mãi ba năm sau thì tôi mới thật sự hiểu đuợc ý nghĩa
của ngày Lễ Tạ Ơn.
Thời gian này tôi đang thực tập ở một Pharmacy để lấy bằng
Duợc Sĩ. Tiệm thuốc này rất đông khách, cả ngày mọi nguời
làm không nghỉ tay, điện thoại lúc nào cũng reng liên tục,
nên ai nấy cũng đều căng thẳng, mệt mỏi, dễ đâm ra quạu
quọ, và hầu như không ai có nổi một nụ cuời trên môi.
Tiệm thuốc có một bà khách quen, tên bà là Josephine
Smiley. Tôi còn nhớ rất rõ nét mặt rất phúc hậu của bà. Năm
đó bà đã gần 80 tuổi, bà bị tật ở tay và chân nên phải ngồi xe
lăn, lại bị bệnh thấp khớp nên các ngón tay bà co quắp, và bà
lại đang điều trị ung thư ở giai doạn cuối.
Cứ mỗi lần bà đến lấy thuốc (bà uống hơn muời mấy món
mỗi tháng, cho đủ loại bệnh), tôi đều nhìn bà ái ngại. Vì thấy
rất tội nghiệp cho bà, nên tôi thuờng ráng cuời vui với bà,
thăm hỏi bà vài ba câu, hay phụ đẩy chiếc xe lăn cho bà.
Nghe đâu chồng bà và đứa con duy nhất bị chết trong một tai
nạn xe hơi, còn bà tuy thoát chết nhung lại bị tật nguyền, rồi
132 Tin Vaên
từ dó bà bị bệnh trầm cảm (depressed), không đi làm được
nữa, và từ 5 năm nay thì lại phát hiện ung thư. Mấy nguời
làm chung trong tiệm cho biết là bà hiện sống một mình ở
nhà duỡng lão.
Tôi vẫn còn nhớ rất rõ vào chiều hôm truớc ngày lễ
Thanksgiving năm 1993, khi bà đến lấy thuốc. Bỗng dưng bà
cuời với tôi và đưa tặng tôi một tấm thiệp cùng một ổ bánh
ngọt bà mua cho tôi. Tôi cám ơn thì bà bảo tôi hãy mở tấm
thiệp ra đọc liền đi.
Tôi mở tấm thiệp và xúc động nhìn những nét chữ run rẩy,
xiêu vẹo:
Dear Thanh, My name is Josephine Smiley, but life does not “smile” to
me at all. Many times I wanted to kill myself, until the day I
met you in this pharmacy. You are the ONLY person who
always smiles to me, after the death of my husband and my
son. You made me feel happy and help me keep on living. I
profit this Thanksgiving holiday to say “Thank you”, Thanh.
Thank you, very much, for your smile…
(Thanh thân mến,
Tên tôi là Josephine Smiley, nhưng cuộc sống không có “nụ
cười” nào với tôi cả. Nhiều lần tôi muốn tự tử, cho đến ngày
tôi vào tiệm thuốc tây này.
Cô là người luôn luôn mỉm cười với tôi, sau cái chết của
chồng tôi và con trai tôi.
Cô làm tôi cảm thấy hạnh phúc và giúp tôi tiếp tục sống.
Nhân dịp ngày Lễ Tạ Ơn để nói lời “Cảm ơn”, Thanh.
Cảm ơn cô, rất nhiều, vì nụ cười của cô …)
Rồi bà ôm tôi và bà chảy nuớc mắt. Tôi cũng vậy, tôi đứng
mà nghe mắt mình uớt, nghe cổ họng mình nghẹn… Tôi thật
hoàn toàn không ngờ được rằng, chỉ với một nụ cuời, mà tôi
đã có thể giúp cho một con nguời có thêm nghị lực để sống
còn.
Ðó là lần đầu tiên, tôi cảm nhận được cái ý nghĩa cao
quý của ngày lễ Thanksgiving. Ngày Lễ Tạ ơn năm sau, tôi
Tin Vaên 133
cũng có ý ngóng trông bà đến lấy thuốc truớc khi đóng cửa
tiệm. Thì bỗng dưng một cô gái trẻ dến tìm gặp tôi. Cô đưa
cho tôi một tấm thiệp và báo tin là bà Josephine Smiley vừa
mới qua đời 3 hôm truớc. Cô nói là lúc hấp hối, bà đã đưa cô
y tá này tấm thiệp và nhờ cô đến đưa tận tay tôi vào đúng
ngày Thanksgiving. Và cô ta đã có hứa là sẽ làm tròn uớc
nguyện sau cùng của bà. Tôi bật khóc, và nuớc mắt ràn rụa
của tôi đã làm nhòe hẳn đi những dòng chữ xiêu vẹo, ngoằn
nghèo trên trang giấy:
My dear Thanh,
I am thinking of you until the last minute of my life.
I miss you, and I miss your smile…
I love you, my “daughter”.. .
(Thanh thân yêu,
Tôi đang nghĩ đến cô Cho đến phút cuối cùng của cuộc đời
tôi.Tôi nhớ đến cô, và tôi nhớ nụ cười của cô…
Tôi yêu cô,“con gái” của tôi…)
Tôi còn nhớ tôi đã khóc sưng cả mắt ngày hôm đó, không
sao tiếp tục làm việc nổi, và khóc suốt trong buổi tang lễ của
bà, nguời “Mẹ American” đã gọi tôi bằng tiếng “my
daughter”…
Truớc mùa Lễ Tạ Ơn năm sau đó, tôi xin chuyển qua
làm ở một pharmacy khác, bởi vì tôi biết, trái tim tôi quá yếu
đuối, tôi sẽ không chịu nổi niềm nhớ thương quá lớn, dành
cho bà, vào mỗi ngày lễ đặc biệt này, nếu tôi vẫn tiếp tục làm
ở pharmacy đó.
Mãi cho dến giờ, tôi vẫn còn giữ hai tấm thiệp ngày
nào của nguời bệnh nhân này. Và cũng từ đó, không hiểu
sao, tôi yêu lắm ngày Lễ Thanksgiving, có lẽ bởi vì tôi đã
“cảm” được ý nghĩa thật sự của ngày lễ đặc biệt này.
Thông thuờng thì ở Mỹ, Lễ Tạ Ơn là một dịp để gia đình họp
mặt. Mọi nguời đều mua một tấm thiệp, hay một món quà
nào đó, đem tặng cho nguời mình thích, mình thương, hay
mình từng chịu ơn. Theo phong tục bao đời nay, thì trong
134 Tin Vaên
buổi họp mặt gia đình vào dịp lễ này, món ăn chính luôn là
món gà tây (tuckey).
Từ mấy tuần truớc ngày Lễ TẠ ƠN, hầu như chợ nào cũng
bày bán đầy những con gà tây, gà ta, còn sống có, thịt làm
sẵn cũng có… Cứ mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, có cả trăm triệu con
gà bị giết chết, làm thịt cho mọi nguời ăn nhậu.
Nguời Việt mình thì hay chê thịt gà tây ăn lạt lẽo, nên
thuờng làm món gà ta, “gà đi bộ.” Ngày xưa tôi cũng hay ăn
gà vào dịp lễ này với gia đình, nhưng từ ngày biết Ðạo, tôi
không còn ăn thịt gà nữa. Từ vài tuần truớc ngày lễ, hễ tôi
làm được việc gì tốt, dù rất nhỏ, là tôi lại hồi huớng công đức
cho tất cả những con gà, tây hay ta, cùng tất cả những con
vật nào đã, đang và sẽ bị giết trong dịp lễ này, cầu mong cho
chúng thoát khỏi kiếp súc sanh và được đầu thai vào một
kiếp sống mới, tốt đẹp và an lành hơn.
Từ hơn 10 năm nay, cứ mỗi năm dến Lễ Tạ Ơn, tôi đều ráng
sắp xếp công việc để có thể tham gia vào những buổi “Free
meals” tổ chức bởi các Hội Từ Thiện, nhằm giúp bữa ăn cho
những nguời không nhà. Có đến với những bữa cơm như thế
này, tôi mới thấy thương cho những nguời dân Mỹ nghèo
đói, Mỹ trắng có, Mỹ đen có, nguời da vàng cũng có, và có
cả nguời Việt Nam mình nữa. Họ đứng xếp hàng cả tiếng
đồng hồ, rất trật tự, trong gió lạnh mùa thu, nhiều nguời
không có cả một chiếc áo ấm, răng đánh bò cạp…để chờ đến
phiên mình được lãnh một phần cơm và một chiếc mền, một
cái túi ngủ qua đêm.
Ở nơi đâu trên trái dất này, cũng luôn vẫn còn rất rất nhiều
nguời đang cần những tấm lòng nhân ái của chúng ta…
Nếu nói về hai chữ “TẠ ƠN” với những nguời mà ta từng
chịu ơn, thì có lẽ cái list của chúng ta sẽ dài lắm, bởi vì
không một ai tồn tại trên cõi đời này mà không từng mang
ơn một hay nhiều nguời khác. Chúng ta được sinh ra làm
nguời, đã là một ơn sủng của Thuợng Ðế. Như tôi đây, có
đuợc ngày hôm nay, ngồi viết những dòng này, cũng lại là ơn
Cha, ơn Mẹ, ơn Thầy…
Tin Vaên 135
Cám ơn quê hương tôi -Việt Nam, với hai mùa mưa nắng,
với những nguời dân bần cùng chịu khó. Quê hương tôi- nơi
đã đón nhận tôi từ lúc sinh ra, để lại trong tim tôi biết bao
nhiêu là kỷ niệm cả một thời thơ ấu. Quê hương tôi, là nỗi
nhớ, niềm thương của tôi, ngày lại ngày qua ở xứ lạ quê
nguời…
Cám ơn Mẹ, đã sinh ra con và nuôi duỡng con cho đến ngày
truởng thành. Cám ơn Mẹ, về những tháng ngày nhọc nhằn
đã làm lưng Mẹ còng xuống, vai Mẹ oằn đi, về những nỗi
buồn lo mà Mẹ đã từng âm thầm chịu đựng suốt gần nửa thế
kỷ qua…
Cám ơn Ba, đã nuôi nấng, dạy dỗ con nên nguời. Cám ơn
Ba, về những năm tháng cực nhọc, những chuỗi ngày dài
đằng đẵng chạy lo cho con từng miếng cơm manh áo, về
những giọt mồ hôi nhễ nhại trên lưng áo Ba, để kiếm từng
đồng tiền nuôi con ăn học….
Cám ơn các Thầy Cô, đã dạy dỗ con nên nguời, đã truyền
cho con biết bao kiến thức để con trở thành một nguời hữu
dụng cho đất nuớc, xã hội…
Cám ơn các chị, các em tôi, đã xẻ chia với tôi những tháng
ngày cơ cực nhất, những buổi đầu đặt chân trên xứ lạ quê
nguời, đã chia vui, động viên những lúc tôi thành công, đã
nâng đỡ, vực tôi dậy những khi tôi vấp ngã hay thất bại…
Cám ơn tất cả bạn bè tôi, đã tặng cho tôi biết bao nhiêu kỷ
niệm – buồn vui- những món quà vô giá mà không sao tôi có
thể mua được. Nếu không có các bạn, thì có lẽ cả một thời áo
trắng của tôi không có chút gì dể mà lưu luyến cả…
Cám ơn nhỏ bạn thân ngày xưa, đã “nuôi” tôi cả mấy năm
trời Ðại học, bằng những lon “gigo” cơm, bữa rau, bữa
trứng, bằng những chén chè nho nhỏ, hay những ly trà đá ở
căn tin ngày nào.
Cám ơn các bệnh nhân của tôi, đã ban tặng cho tôi những
niềm vui trong công việc. Cả những bệnh nhân khó tính nhất,
đã giúp tôi hiểu thế nào là cái khổ, cái đau của bệnh tật…
136 Tin Vaên
Cám ơn các ông chủ, bà chủ của tôi, đã cho tôi biết giá trị
của đồng tiền, để tôi hiểu mình không nên phung phí, vì
đồng tiền lương thiện bao giờ cũng phải đánh đổi bằng công
lao khó nhọc…
Cám ơn những nguời tình, cả những nguời từng bỏ ra đi, đã
giúp tôi biết đuợc cảm nhận đuợc thế nào là Tình yêu, là
Hạnh phúc, và cả thế nào là đau khổ, chia ly.
Cám ơn những dòng thơ, dòng nhạc, đã giúp tôi tìm vui
trong những phút giây thơ thẩn nhất, để quên đi chút sầu
muộn âu lo, để thấy cuộc đời này vẫn còn có chút gì đó để
nhớ, để thương…
Cám ơn những thăng trầm của cuộc sống, đã cho tôi nếm đủ
mọi mùi vị ngọt bùi, cay đắng của cuộc dời, để nhận ra cuộc
sống này là vô thuờng… để từ đó bớt dần “cái tôi”- cái ngã
mạn của ngày nào…
Xin cám ơn tất cả… những ai đã đến trong cuộc đời tôi, và
cả những ai tôi chưa từng quen biết. Bởi vì:
“Trăm năm trước thì ta chưa gặp,
Trăm năm sau biết gặp lại không?
Cuộc đời sắc sắc không không
Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau…”
Và cứ thế mỗi năm, khi mùa Lễ Tạ Ơn đến, tôi lại đi mua những
tấm thiệp, hay một chút quà để tặng Mẹ, tặng Chị, tặng những
người thân thương, và những nguời đã từng giúp đỡ tôi.
Cuộc sống này, đôi lúc chúng ta cũng cần nên biểu lộ tình thương
yêu của mình, bằng một hành động gì đó cụ thể, dù chỉ là một lời
nói “Con thương Mẹ”, hay một tấm thiệp, một cành hồng. Tình
thương, là phải đuợc cho đi, và phải đuợc đón nhận, bởi lỡ mai
này, những nguời thương của chúng ta không còn nữa, thì ngày Lễ
Tạ Ơn sẽ có còn ý nghĩa gì không?
Xin cám ơn cuộc đời…
Hoàng Thanh
Tin Vaên 137
Nguyễn Đức Nhơn Nỗi buồn thiên thu
em ngồi, tôi đứng nhìn nhau
buồn vui lẫn lộn lần tao ngộ này
em ngồi, tôi đứng nhìn mây
tóc em xõa, tóc tôi bay ngược trời
gió mùa khói lộng mù khơi
nhấp nhô bờ mộng chiều rơi giọt buồn
bên bờ liễu phủ mờ sương
bóng em khuất, bóng tà dương nhạt màu
ngồi nhìn con nước trôi mau
trái tim rỉ máu còn đau trong mình
mấy mùa sương khói qua nhanh
cuộc từ ly ắt sẽ thành thiên thu !
tóc mây đen, trắng hai màu
tôi ôm mộng thuở ban đầu mà vui
chiều nay tháng Chín mùa vơi
se se ngọn bấc à ơi giọng hò…
dòng sông, bến nước, con đò
tiếng ai còn vọng bên bờ liễu buông
ráng trời nhuộm đỏ chiều hôm
trắng hoa bờ giậu cánh chuồn chuồn bay
mịt mùng bóng nhạn chân mây
nghìn thu ắt nỗi buồn này khôn nguôi
138 Tin Vaên
@Nguyễn Mạnh Trinh Đọc Thơ Trần Văn Sơn:
Thấp thoáng vài nụ hoa.
Đọc những trang thơ Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa, do nxb Little
Saigon ấn hành, tôi thấy bàng bạc trong từng cảm nghĩ. Thấp
thoáng ở đâu đó , những sợi mưa quê nhà, mưa Sài Gòn , mưa cao
nguyên thủ thỉ. Thấp thoáng ở đâu đó , những khuôn mặt bằng hữu
thân quen , nhắc lại một thời đã viết và đã sống. Và , thấp thoáng ở
đâu đó , những tình cảm của người lính năm xưa, người tù thuở
nào và người lưu lạc bây giờ. Thấp thoáng ở đâu đó , những mơ
ước ngày xưa và những chán chường nhọc nhằn trước mặt. Thấp
thoáng và thấp thoáng , những cảm giác chia sẻ với thơ, tận tuyệt
với thơ.. Ở những trang thơ, tôi bỗng thành người trân trọng quá
khứ . Và ở Trần Văn Sơn , một thi sĩ mà tôi chưa từng gặp, tôi như
đã hàn huyên với từ thuở nào , qua những vần lục bát , những câu
bảy chữ , tám chữ …
Tôi đọc những dòng cảm khái đầu tiên của bài thơ mà nhan đề
chung cho cả tập thơ:
Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa.
Dẫu không cửa không nhà
Vẫn an nhiên mà sống
Dẫu không rượu không trà
Vẫn hằng đêm nuôi mộng
Một ngày. Một ngày qua
Khốn khó vây quanh ta
Cháo rau ngày hai bữa
Chưa đủ ấm thịt da
Ngày thẫn thờ với bóng
Bóng quanh quẩn bên ta
Đêm thẫn thờ đối bóng
Bóng nhìn ta nghẹn ngào
Tin Vaên 139
Mông có khi là thực
Nhưng thực phải thế nào
Ngày. Ngày qua- còn đó
Tia nắng chưa rọi vào
Sáng nay trời thật đẹp
Hoa ngào ngạt quanh nhà.
Vườn ai vừa mở cửa
Thấp thoáng vài nụ hoa.
Vâng, dù đời cô đơn u tịch, dù ngày tháng qua trtong đói nghèo,
vẫn thấp thoáng vài nụ hoa, trời vẫn đẹp . Thơ buồn nhưng lạc
quan vui. Dù là nỗi vui thấp thoáng.
Tôi yêu những cơn mưa nhiệt đới Việt Nam nên cũng thích
những câu thơ của mưa Sài Gòn và mưa cao nguyên của thi sĩ họ
Trần . Những câu lục bát của âm hưởng thanh xuân ngày nào, của
những tình tự ngày xưa. Mưa ở nơi chốn này ở Cali hiếm hoi lại
càng làm nhớ thêm những cơn mưa giữa trưa bất chợt của Sài Gòn
hay những đêm mưa dầm của phố núi Pleiku. Tự nhiên , dù đang
ngồi trong phòng ấm cúng nhưng hình như có giọt mưa nào rơi rớt
đâu đây, và thấy lạnh lạnh trong lòng. Những cơn mưa nào trong
trí nhớ để dong tay dắt tôi về một nơi chốn ngày nào.
Rơi hoài phố vắng người thưa
Rơi trong chăn chiếu giọt mưa đầu mùa
Rơi tôi hạnh phúc ngày xưa
Phất phơ sợi tóc buổi trưa mưa dầm
Bay mưa sầu khắp trăm năm
Đèn lu bấc lạnh mưa đầm đìa rơi
Tôi ôm mưa ngủ ngoài trời
mưa tôi che kín bóng đời buồn tênh.
Ở Sài Gòn, là những tình cảm mang theo, là giọt mưa và giọt
hồn cùng rơi, là tâm tình cứ mãi vấn vương như trời thủ đô chợt
mưa chợt nắng :
.. Mịt mù ngày cũng như đêm
thèm hôn chút nắng êm đềm buổi trưa
giận trời sao cứ mưa mưa
bóng ai thấp thoáng cuối mùa mưa rơi
Sài Gòn thương quá người ơi
Giọt mưa và giọt hồn tôi rơi đều…
140 Tin Vaên
Hay là những cơn mưa phố núi. Những cơn mưa dội vang
trong tiềm thức, những mịt mù mưa bay.Mưa như nước mắt của
thiên thu vọng về , của giọt lệ người tình trôi đi. Thơ của tròi đất
cùng chung một nỗi buồn mà người thơ gửi gấm:
Xe lăn qua đó sấm rền
Ngồi đây ngó phố gọi tên một lòng
Mưa hoài ngỡ đã sang đông
Áo dài xanh ngỡ màu hồng thiên thu
Ra sông ngó núi mịt mù
Mưa rơi hay giọt phù du vô cùng
Xưa trôi mấy nẻo thủy chung
Nay trông mưa uống rượu mừng mưa rơi.
Bài thơ viết lúc chiến tranh, khi nghe tin người bạn thân Tô
Đình Sự qua đời. Thơ trong một cơn say , nghĩ về cuộc đời, và
trong nỗi xít xa của người vừa chợt nhận ra một phần gốc rễ của
mình, một kẻ lữ hành xa lạ mộng du trong những ảo tượng thời
thế.Thơ viết cho Tô Đình Sự nhưng như để tâm sự với thế hệ
chúng ta, những người đang lầm lũi trong chiến tranh. Bài thơ Ôm
Một Mặt Trời Say:
“..Rượu hãy uống ly này mời Tô Đình Sự
Mày về đây cùng cạn một chung đầy
Có gì đâu ba vạn sáu nghìn ngày
Chuyện nhân thế như trò chơi trẻ nhỏ
Mày nằm xuống thảnh thơi cùng cây cỏ
Tao về đây như đã chết lâu rồi
Sống ở dương gian giọt lệ đầy vơi
Chết về âm phủ cười vui hể hả
Bao nhiêu chuyện bao nhiêu người vồn vã
Bao nhiêu thằng hề bao nhiêu kẻ ngô nghê
Bao nhiêu người như lá của mùa thu
Điên rôi tỉnh, tỉnh rồi điên cũng thế
Đời chán vạn thằng nửa người nửa ngợm
Bán bạn bè mua chuộc miếng đỉnh chung
Riêng mình ta mới thật sự anh hùng
Ai nào biết ta điên hay ta tỉnh
Dù ta tỉnh cũng giả đò điên tỉnh
Dù ta điên cũng bày vẽ tỉnh điên…”
Tin Vaên 141
Ngày ra tù, từ địa ngục trở về, thi sĩ đã nói với con những điều
tâm đắc nhất . và cũng là chính tự nhủ với mình” làm sao để thật
sự là người:
”…thời trai trẻ ba mơ làm khanh tướng
Mê văn chương và mê cả kiếm cung
Khi thất bại quay về ba chợt tỉnh
Rằng mẹ con là tia sáng cuối cùng
Đó là lúc các con ngôi đọc sách
Hay ôn bài hoặc kể chuyện Quang Trung
Ba nhìn thấy tuổi thơ ba trong đó
Kỷ niệm nào cũng đẹp phải không con
Ba không trách các con mê văn nghệ
Cũng không khuyên nên học cách ở đời
Ba chỉ dặn một điều duy nhất
Là làm sao phải thật sự là người!”
Bây giờ, làm thơ trên bàn máy may, bằng lòng với sự hy sinh
của mình cho vợ cho con.Thơ của mắc míu áo cơm , của sinh kế
đẩy đưa , để suy tư theo từng mũi kim sợi chỉ. Đó là lúc nhìn lại
mình, để thấy rằng cuộc đời ấy không chỉ là nặng nợ áo cơm mà
còn có niềm vui của một đời tìm trong công việc khiêm nhường
một ý nghĩa nhân sinh
“Qua Mỹ chín năm
May vá nuôi con ăn học
Bạn đôi lần đến thăm
Tinh thần chén trà chung rượu
Thơ văn vất vào sọt rác
Chán đời ngâm bài cổ thi
Nhịp chân nghe chừng khúc nhạc
Tìm đâu tiếng sáo Trương Chi
Chín năm còng lưng đạp máy
Mắt mờ gối mỏi chân run
Mày mò đường kim mũi chỉ
Giật mình lá rụng đầy sân
Thương vợ ngày càng còm cỏi
Thân tàn nặng nợ áo cơm
Chín năm hít toàn bụi vải
Nhìn quanh bốn bức tường trơn
Nhà vắng đâu cần điện thoại
142 Tin Vaên
Tri âm còn một tấm lòng
Chỉ lo tuổi già sức yếu
Quên dần cái khó cái không
Vui buồn bên ta có vợ
Có hoa có đất có trời
Trăn năm một ngày rất vội
Chung đầu ngắm bóng trăng trôi.”
Đọc thơ Trần Văn Sơn, như nhìn ngắm lại một chân dung của một
người bình thường trong thế hệ chúng ta. Đi lính , đi tù , đi Mỹ,
những cái đi ấy hình như hầu hết chúng ta đều có chung . Những
cái đi khởi từ một cuộc chiến tranh tàn khốc. Trải qua những nhọc
nhằn bi thương , có lúc cũng hào sảng luận anh hùng , cũng có lúc
giở tỉnh giở điên trong cơn say ngậm ngùi nhìn thế sự, thơ như
những phác họa của một thực tế mà bất cứ ai cũng có lúc trải qua.
Thành ra, thơ lại là những chia sẻ của những người hiện giờ đang
sống đời lưu lạc , đang hụt hơi với chuyện cơm áo xứ người. Có
mấy ai bằng lòng với hiện tại , với những gì mình đã có trong tay.
Nhưng rồi cũng phải nhận ra một điều. Cuộc đời dù ở đâu và bất
cứ ở nơi chốn nào, cũng cần một tấm lòng. Trong thơ Thấp
Thoáng Vài Nụ Hoa, quả tôi đã thấp thoáng thấy mình của đám
đông trong thế hệ ấy. Làm thơ, có phải là để trung thực và sòng
phẳng với đời, để có lúc còn một chút nắng vui tươi , của một vài
sợi mây mơ mộng. Qua bao nhiêu ngã đường đã vượt, trải bấy
nhiêu cay đắng ở đời , thì có lúc , thơ đã làm gậy chống để giúp đỡ
đôi chân trèo lên dốc đứng nhân sinh muôn đời chập chùng trước
mặt…
Nguyễn Mạnh Trinh
Sách tôi viết như nước, sách của những thiên tài vĩ đại viết
như rượu. Nhưng uống nước là nhu cầu của mỗi người.
Mark Twain (Mỹ)
Tin Vaên 143
Chén rượu chiều mưa Cái Trọng Ty
chàng một thuở rong chơi ngoài biên trấn
người lính bại vong theo gió về trời
thân tráng sĩ đếch cần chi danh phận
tiếc thương ư
người đã chết rồi
còn chăng những ngôn từ hư huyễn
tên tuổi còn đây tổ quốc xướng danh
thế là đủ
linh hồn chàng ấm áp
nơi tinh cầu chốn mộ huyệt khắc bia
tôi thuở đó theo người ra chiến trận
đạn tên bay còn sống đến bao giờ
tôi làm gì cây bút vẫn còn đây
xin khấn tạ những anh hùng thuở ấy
mồ mã của người
giặc cày xác đốt
nhưng tên người bia miệng đời truyền mãi
lịch sử. đồng dao. hun hút nghìn thu
Ngụy văn Thà máu hòa đông hải
trung tá Long tuẫn tiết thành sài gòn
đời trôi theo. nước lớn thuỷ triều lên
những giọt cường toan
cháy mòn năm tháng
sao bỗng chua cay nặng biển trời
long lanh giọt lệ đau tai kiếp
ném xuống đời tôi tảng đá buồn
lớp lớp vùi chôn thời loạn lạc
hạnh phúc héo mòn những đớn đau
chiều úa rũ rừng nguyên sinh tê tái
cái chết từng giờ
kiếm lạnh huyệt sâu
mưa gào xế bãi hoàng hôn xám
lịch sử ơi rừng rú đỏ chu sa
144 Tin Vaên
@Trần Quốc Bảo
Dịch thơ
THU HIỂU
*
秋 曉
曉 聞 鳥 樹 鳴
路 上 人 車 行
看 花 獨 老 野
一 盞 茶 味 清
藍 源
Thu Hiểu
Hiểu văn điểu thụ minh
Lộ thượng nhân xa hành.
Khán hoa độc lão dã,
Nhất trản trà vị thanh.
Lam Nguyên
(Bài dịch: Trần Quốc Bảo)
Tảng Sáng Mùa Thu
Sáng nghe chim hót trên cành
Ngoài đường xe cộ, bộ hành ngược xuôi
Ngắm hoa, mình lão lặng ngồi
Chén trà thơm ngát vị đời thanh tao
**
道 禪
ĐẠO THIỀN
心 開
心 開 花 有 道
寒 水 莫 問 禪
藍 源
Tâm khai
Tâm khai hoa hữu đạo,
Hàn thủy mạc vấn Thiền.
Lam Nguyên
(Bài dịch: Trần Quốc Bảo)
Khai Tâm
Lòng nở hoa chánh Đạo
Nước lạnh há chẳng Thiền
Tin Vaên 145
Lan Cao Thuyền Văn
Hải ngoại thuyền văn chở bút văn
Phong ba, nắng ấm một tinh thần
Năm Châu tô thắm màu Âu Lạc
Bốn biển dâng hờn máu Tổ Tiên
Bỏ đất ra đi không bỏ nước
Giữ hồn xa xứ chẳng rời dân
Nay mừng hai mốt năm Văn Bút
Tạp chí Tin Văn mạnh lớn dần
Thơ không là
Thơ không là gươm giáo
Để giận hờn rải máu lên hoa
Đêm ngà ngọc đưa trăng vào sát khí
Gieo đau buồn trăn trở xót xa.
Thơ không là cơm áo
Đỉnh chung ngoài mơ ước thi nhân
Lãng mạng thiên đàng coi thường địa ngục
Kiếp văn chương yêu trọn nẻo dương trần.
Thơ không là mua bán
Bút linh hồn vô giá lụa liêu trai
Cây tính nắng, chín thơm đầy quả ngọt
Say vu vơ, môi gió gọi bồng lai.
Thơ không là vị kỷ
Viết cho mình xây tháp kiêu sa
Cũng không phải con tắm hóa kiếp
Vấn vương hoài hai chữ thiết tha.
146 Tin Vaên
Cù MinhKhánh
Đốt cây bông
Làng quê thường
những ngày tết từ đêm
30 đã nghe tiếng pháo
nổ dòn hoặc đì đùng
cho đến hết mùng ba,
trong sân nhà hoặc ngoài đường lộ đầy xác pháo, đủ các loại,
từ pháo chuột chút bẻo mà các chú lỏi tụ tập đốt bằng những
cây nhan, chúng đốt rồi bịt cả 2 tai chạy ra xa thì nghe tiếng
“tách”, xong chúng lại tụ tập lại và cứ thế nghe “tách..tách..,
chúng cười te toét, còn người lớn thì đốt hàng thước pháo, đủ
các loại, như pháo tống, pháo đại, cứ một hồi nổ dòn lại một
tiếng “đùng” thật lớn, hoặc pháo thăng thiên nghe tiếng
“phụp” bay vút lên không gian lại nghe một tràng nổ và bắn
ra hàng trăm ngôi sao sáng chói cả một góc trời, còn các bạn
thanh niên thì không đốt pháo mà dùng đá carbure màu trắng
bỏ vào ống tre, chế nước vào , rồi dùng ngọn lửa chích vào
miệng ống tre, ngọn lửa phựt lên kèm theo một tiếng nổ xé
trời. Nhưng điều đặc biệt là là dinh cụ Tuần Phủ ở Hòa Tiên,
tối mùng một tết đốt bằng cây pháo bông mười tầng, kết
pháo thành hình tròn đường kính dưới đất hơn 2 mét và
đường kính tầng thứ mười còn hơn nửa mét tây, tầng nọ cách
tầng kia hơn nửa mét, cây bông nhiều tầng hay ít tầng là tùy
túi tiền cụ Tuần, có năm chỉ có 8 tầng, nhưng nhiều năm có
tới 12 tầng, cây pháo bông kết hòan toàn bằng pháo thăng
thiên, đủ các loại, các cỡ. Sân gò bên kia đường dinh cụ
Tuần là địa điểm đặt và đốt cây pháo bông, theo anh Bảy là
bạn thân của người viết là cháu nội của cụ kể: “Cây pháo
bông phải đặt từ Hồng Kông hơn ba tháng, khó khăn nhất là
vấn đề chuyên chở từ Hông Kông về đến miền quê, tiền vận
chuyển đắt gần một nửa cây pháo, mổi tầng người ta bỏ vào
từng họp giấy riêng, trước khi đốt thì ráp lại từ lớn tới nhỏ
chồng lên nhau, ở giữa có một cây trụ gỗ chôn xuống đất, có
Tin Vaên 147
dây tim kết từng viên pháo với nhau, hết tầng nầy thì dây tim
kết lên tầng khác, nên khi đốt là pháo nổ liên tục”.
Sân gò mả vôi từ lúc 5 giờ chiều mùng một mà dân chúng
các vùng, các thôn xã lân cận đã kéo tới đông nghẹt, đủ các
tầng lớp, từ người lớn đến trẻ con, quần áo cũng đủ màu sắc
“tết mà” như đi xem ngày hội, họ kháo nhau râm rang: “nào
là năm nay ông Cụ mùa màng thu hoạch trúng mùa, nào là
tuổi ông cụ ngày càng lớn, chắc là cây bông năm nay nhiều
tầng, đúng vậy năm nay cây pháo bông lến đến 12 tầng, cao
ngất lên đến 7, 8 mét, ô kìa lại có một dây tim mồi lớn mà rất
dài, chắc để khi đốt khỏi phải gặp trở ngại vân..vân và
vân,,vân...”
Cây pháo bông được gia nhân khiên đặt giữa sân gò, mỗi
tầng là một vòng tròn, đủ các loại pháo mà cũng đủ các loại
màu và trên cao cùng là một họp trong đựng một lá phướng
màu đỏ tươi, giàn pháo bông nổ từ tầng dưới nổ lên đến tầng
chót là lá phướng bung ra với hàng chữ Hán “PHƯỚC LỘC
AN KHANG, TRƯỜNG THỌ”.
Như thường năm chờ trời tối hẳn, dưới ánh đèn
Manson, cụ tuần đứng trên bục cao vái cáo trời đất, ông bà
xong, ông nói: Tôi người gốc Nhơn Thuận, Tổng Mỹ Đức,
nhưng đến tuổi nghỉ hưu, nhờ ơn đức nhà Vua ban cho trăm
mẫu ruộng thuộc làng nầy, nên tôi về đây vui hưởng tuổi già,
cùng bà con làng xóm, làng ta mưa thuận gió hòa. quanh
năm ruộng lúa xanh tốt, chung quanh là sông nước, chính
giữa là ruộng lúa nên mùa nồm, nam đều mát mẻ, lại bà con
thương tôi không phânbiệt sang hèn, làng quê ít có dịp vui,
hát hò thì mỗi năm chỉ vài ba bận, không so hơn với công
việc đồng áng mệt nhọc, tôi củng cố gắng tao cho bà con
chúng ta có một niềm vui nho nhỏ trong những ngày đầu
năm, thưởng thức những tràng pháo hoa đủ màu rực rỡ,
bung khắp tạo những tia hoa, những tiếng pháo lớn nhỏ tạo
một âm thanh hỗn tạp; Thưa bà con năm nay tôi cũng đã
ngoài bác tuần rồi mà còn sống, ơn trời, còn sống được ngày
nào để cùng vui với bà con, con cháu, được ngày nào tôi cố
148 Tin Vaên
gắng hết sức để tạo niềm vui cho bà con, năm nay pháo cũng
rẻ, tôi đặt bên Hồng Kông làm 12 tầng, theo giá tiền thì hơn
nhau chút ít, mong bà con chúng ta có vài giây phút vui
nhộn. Xin ơn trên cho làng chúng ta năm mới mưa thuận, gió
hoà, như tên làng ta đã gọi”. Rồi ông quay ra sau nói: Anh
em hãy chuyển lửa cho tôi để chuẩn bị châm ngoài pháo, và
xin bà con hãy đứng cách xa cây pháo, để tránh pháo bung
đụng nguy hiểm, cảm ơn, cảm ơn.
Thế rồi những tràng pháo hoa nổ rền, bung trên nền trời
đủ màu, sặc sỡ, nào vòng tròn, ngôi sao, tiếng rền, tiếng nổ
hòa lẫn với tiếng vui mừng, la ó của đủ mọi thành phần từ trẻ
nít đến quí cụ ông, cụ bà, liên anh, liền...
Riêng bọn lỏi chúng tôi, vì thấp đứng ngoài “ngó” không đã,
cố len lỏi vào vòng trong, để nhìn tận mắt những cây pháo
chiếc từ dưới bay vút lên không, nghe cả tiếng đùng rồi vỡ
tung tạo thành những ngôi sao sáng chói trên bầu trời đen
nghịt của tối Mùng Một, hơn nữa đứng trong để nhặc những
cái pháo băng ra ngoài không nổ, sau khi lá phướng đỏ bung
ra là những tiếng pháo lẻ nổ là do chúng tôi châm ngòi.
Sau khi cụ Tuần quá vãng, cây pháo hoa cũng ngưng trong
thời Việt Minh, cho đến khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
chấp chánh và nền Đệ Nhất Cộng Hòa ra đời (1955) thì
Trưởng nam của cụ Tuần là ông Nghè Ấm lại tiếp tục, tối
Mùng Một Tết cây pháo bông lại được thắp sáng, rực rỡ cả
một góc trời, và người thưởng ngoạn cũng đông đảo không
kém như những năm về trước; Rồi cho đến năm 1965 thôn
ấp giặc Cộng lan tràn, nên cây pháo bông truyền thống mùng
một tết của con trưởng cụ Tuần cũng im lặng, chắc không
bao giờ có cơ hội làm sáng lại nơi sân gò, trong tối mùng
một tết Âm Lịch.
Giờ ngồi nghĩ lại mà nuốt hận, tại sao lại có kẻ đem đau
thương, tang tóc gieo rắc ngay trên quê hương mình, dân tộc
mình, mà “vô cảm”, tại sao dập tắt những ánh sáng, những
thương yêu, những anh hùng đã vì nước quên mình đem lại
sự tự do, độc lập hơn 4 ngàn năm lịch sử. CMK
Tin Vaên 149
@Trần Tuấn Kiệt Lời Thi Sĩ gởi cho nàng Thơ
Người đi mất hay vẫn còn đứng ngóng
màu chiều bay cánh mỏng dặm băng đồi
Người đứng lại giữa cây tàn bóng xế
trần gian nào thả mặc địa cầu trôi
Trên bóng trăng cao hay lòng đất mát
Giữa đại dương ôm ấp mãi tình người
Bàn tay bỏ hay bàn tay buông bắt
Dặm tình xưa thần thoại đã lên ngôi
Hỡi thi sĩ của trần gian khô héo
Cỏ hoa kia sao chẳng thấy nô cười
Ngày biền biệt lơ thơ làn tóc nhỏ
Tự thuở nào em đã đứng bên tôi
Tôi hát khúc trân gian đầy ân ái
Em dạo cung hồ cầm đó ngày xưa
Cơn gió xuân xa, lưng trời thổi lại
Mông bình yên thôi đã mất bao giờ
150 Tin Vaên
Bước mải miết trên cỏ đồi có mỏi
Làn hơi xanh môi má đã mơn hồng
Em ngồi đó bàn tay đầy hoa lá
Chắn buổi chiều dùm em nhé bão giông
Người thi sĩ đã một ngày gặp gỡ
Thì ngàn năm bóng sáng vẫn chưa tan
Hỡi đôi mắt của nàng tôn nữ đó
Chớp nhanh chi hay ngại ánh xuân tàn
Em cứ bỏ về non xanh dặm biển
Ta cứ xa vời xa thẳm hoài mong
Rồi phút chốc bút sầu ta hiển hiện
Cánh tay em thành một áng cầu vồng
Em hãy khóc để lá vàng rơi rụng
Chuỗi sầu mơ kết lại trái hoa đời
Mai trần thế phai mờ như chiếc bóng
Ta và em dựng lại chút tình người.
Trần Tuấn Kiệt
Tin Vaên 151
@Hồ Thụy Mỹ Hạnh Tình yêu là thế
Tiếng u u phát ra từ bóng đèn néon trên trần nhà và tiếng tích
tắc của chiếc đồng hồ treo tường cứ xoáy vào đầu My, như
nó từ đó phát ra. Cô lắng tai nghe một cách vô thức với thời
gian không đứng lặng cũng không trôi đi. Đêm như khoét
sâu một khoảng trống buồn hiu trong lòng. Ngồi yên như thế
rất lâu, đối diện với chiếc ghế trống Khải ngồi khi nãy. Căn
phòng có những góc khuất thiếu ánh sáng không có dấu vết
của những ngày tết vừa mới đây, ngoài kia nhịp sống hối hả
tiếp tục như chưa hề dừng lại trong mấy ngày lễ tết.
My uể oải đứng lên đến bên cửa sổ nhìn lên bầu trời có mảnh
trăng lưỡi liềm chỉ một vệt sáng mỏng manh, không gian
dường như lạnh hơn. Đêm chỉ có tiếng lá xào xạc vì một cơn
gió vô tình thổi qua, đêm lặng lẽ, đêm làm ngổn ngang tâm
hồn ai dù chỉ một nỗi buồn vô cớ nào. My quay vào, mắt lại
dừng nơi Khải đã rời đi. Anh đến mở ra cánh cửa đã khép
kín trong lòng cô, ở đó quá khứ chỉ giấu kín chứ không hề
phai nhạt, ở đó là những gì rất thật, không phải là ánh mắt lơ
đãng như không quan tâm đến người đối diện, không phải là
môi cười vô tư để tự dối lòng mình. My đã làm như thế trước
Khải sau mấy năm chia cách. My không nghĩ là anh còn đến
thăm cô sau những gì đã xảy ra giữa hai người. Ngoài kia
buổi chiều muộn màng và Khải sừng sững hiện ra nơi
ngưỡng cửa, mắt My mở tròn ngạc nhiên một chút để rồi ý
thức rằng giữa anh và cô có còn gì nữa đâu…
*
Ngày ấy!
Luôn luôn là những đợi chờ, tâm trạng của My cứ bồn chồn
trong những lúc ngóng trông Khải. Anh làm gì? Anh đang
trò chuyện với ai? Anh đang ở đâu? Những câu hỏi như thế
thôi thúc đã khiến My tìm giải đáp bằng cách gọi điện thoại
152 Tin Vaên
cho anh bất kể giờ giấc nào, để rồi lắm lúc Khải không nghe
máy là mối nghi ngờ xuất hiện ngay trong suy nghĩ. Cô hình
dung đến những nữ đồng nghiệp của anh, những người có
điều kiện tiếp xúc với anh hàng ngày.Còn My, có gì để ràng
buộc Khải đâu, chỉ là một tình yêu với những hẹn ước có đủ
để giữ anh khỏi những lôi cuốn không thể nào biết trước!
Cô không thể làm tốt công việc của mình vì tư tưởng phân
tán, cô âu sầu héo hắt, cô tự dày vò mình vì những điều
tưởng tượng vô cớ và tất cả những gì chất chứa trong lòng
khi Khải đến là cô trút hết cho anh. Cô bày tỏ tình yêu của
mình quyết liệt như thế mà không biết cảm giác của Khải,
cho đến khi anh cảm thấy mối quan hệ giữa hai người chỉ
làm anh mệt mỏi, dù anh có quan tâm và yêu thương My thật
lòng cũng không ngăn được anh nói lên suy nghĩ bực bội của
mình về những gì My đã làm:
-Anh không thể chịu được nữa những hồi chuông điện thoại
gọi liên hồi của em, nó làm rối rắm thêm những công việc
bận rộn mà anh còn chưa giải quyết xong…
Giọng nói của Khải gắt gỏng hơn bao giờ. My không muốn
thấy anh như vậy nhưng lòng cô còn ngổn ngang những mối
nghi ngờ khi chưa nghe anh giải thích:
-Nhưng nếu anh nghe em một lần thì em không phải gọi lại
nhiều như vậy, có phải anh đang có ai…đặc biệt bên cạnh
nên anh ngại nói chuyện với em?
-Anh không nghe vì anh biết quá rõ em sẽ hỏi gì. Em cho
anh là một kẻ không đáng tin nên mới kiểm soát anh bằng
cách như vậy. Tuy nhiên em cũng phải biết rằng nếu muốn
anh có thể nói cho vừa lòng em, vì em đâu có mặt để biết anh
nói đúng hay sai. Chỉ còn cách là em đích thân đi mà theo
dõi…
Nước mắt của My ràn rụa trên mi mắt, giọng cô nghèn
nghẹn:
-Anh biết em không thể đến những nơi anh đang có mặt nên
mới thách đố em như vậy. Sao anh không chịu hiểu sao em
lại bận tâm về anh. Em thật là khổ tâm…
Tin Vaên 153
Khải dịu giọng:
-Nhưng anh đã làm gì khiến em khổ tâm? Anh biết vì em yêu
anh, nhưng tình yêu phải đặt trên nền tảng của sự tin
tưởng.Một khi lòng tin mất đi thì dù chúng ta có thuộc về
nhau, cùng chung sống một nhà thì cũng chỉ để chịu đựng
nhau thôi, đó không phải là điều anh mong muốn, nên ngay
bây giờ em hãy tự tin về chính bản thân mình để tránh cho
anh những phiền phức do em nghi kỵ mà ra…
My như lạc vào một cánh rừng không có lối ra. Cô cố để tâm
vào công việc, tạo cho mình những bận rộn để tâm trạng bớt
đi bất ổn khi trong lòng chợt nghĩ đến Khải. Cái cảm giác
anh không thuộc về cô khi anh đang ở một nơi nào đó không
có cô bên cạnh vẫn làm cô bức rức. Dù Khải đã tỏ thái độ
không bằng lòng nhiều lần như thế nhưng My không dễ dàng
thay đổi tính khí của mình. Cô yêu là muốn người yêu của
mình không được tiếp xúc với cô gái nào nữa, My luôn lo sợ
mất Khải, lo sợ có một kẻ nào đó chen vào khi cô lơ là
quên…cảnh giác! Tình yêu trong cô như một tảng đá đè
nặng trên ngực làm cô khó thở, cô không tìm thấy an bình
trong tâm hồn. Cô mong muốn lúc nào Khải cũng tỏ ra yêu
chìu cô như ngày mới quen, nên mỗi khi cảm thấy một chút
hờ hững ở Khải là My ngỡ như mình bị phản bội, là My lại
quên rằng mình phải tự tin để vượt qua những vụn vặt, đó
mới là cách giữ được tình yêu.Tâm trạng của My bất thường
khi thì như một con mèo nhỏ muốn dựa vào sự vững chải của
Khải, khi thì lại tỏ ra bất cần vì trong lòng chợt nảy sinh nghi
ngờ rằng Khải có điều gì giấu cô.
Rồi sự âm ỷ của tro than chợt bùng lên. My như bị trúng
thương khi gặp Khải đang dùng bữa với một cô gái trong
tiệm ăn gần công ty của anh. My lập tức bấm điện thoại gọi
cho Khải, đứng từ xa quan sát, cô thấy Khải lấy máy ra nhìn
nhưng không nghe rồi cất vào cặp. My sững im một lúc rồi
bấm máy gọi tiếp, tín hiệu nhạc chờ kéo dài. Một lúc sau anh
và cô gái rời chỗ song song đi về công ty. My như một thân
cây bị đốn ngã, cô ngồi phịch xuống bờ thềm của một cửa
154 Tin Vaên
hiệu, mặt nóng bừng, cơn bốc hỏa lan nhanh lên đỉnh đầu, ấn
ngón tay vào thái dương xoa nhẹ một lúc để trấn tỉnh My
mới nổ máy xe chạy chậm rải về nhà.
Buổi chiều Khải đến khi sự ngóng đợi của cô cao đến tột độ.
Anh vừa vào là cô hỏi ngay:
-Trưa nay anh ăn cơm ở tiệm với một cô gái! Ai vậy?
Câu hỏi không rào đón của My cho
Khải hiểu rằng cô đã nghe ai mách hoặc là
chính cô trông thấy. Cảm giác bị theo dõi làm
Khải khó chịu. Anh khinh khỉnh hỏi lại:
-Anh có cần nói qua với em rằng anh đi với ai không?
-Thì em đang yêu cầu anh nói đấy.
-Trong công việc anh phải có những mối quan hệ và anh thấy
không nên điều gì cũng nói tường tận với em.
My cố giữ không cho nước mắt trào ra:
-Đã vậy thì chúng ta đừng tiếp tục đế
với nhau nữa. Mình nên dừng lại ở đây đi…
Khải gật nhẹ:
-Có lẽ cũng nên có thời gian để xem lại chuyện của mình.
Nếu chúng ta chỉ đem đến cho nhau những phiền phức thì tốt
nhất nên làm theo lời em nói.
My tròn mắt nhìn Khải. Cô tưởng khi nghe cô nói, anh sẽ vỗ
về và hứa sẽ không làm buồn lòng cô nữa, nhưng Khải đã
nói những lời cô không muốn và môi cô cũng lỡ buông ra
điều không nên nói rồi. Tự ái bùng lên khiến My chợt cứng
rắn hẳn lên:
-Em không ngờ anh chỉ chờ có thế. Có phải đó là điều anh
mong đợi không?
Khải thở mạnh:
-Tùy em hiểu. Giờ thì anh chỉ còn muốn có một khoảng
không gian cho riêng mình, tạm thời gát lại tất cả những gì
làm anh bận trí.
Thế là hết! Chia tay bất ngờ như thế để nhiều ngày tháng trôi
qua, sự dằn vặt không thôi làm My hối tiếc, giá như trước đó
cô yêu anh bằng sự rộng mở, tin tưởng. Đừng giữ chặt anh
Tin Vaên 155
bằng sự ghen hờn vô lý thì có lẽ Khải đã không rời xa cô.
Vốc cát sẽ trôi tuột đi khi bàn tay bóp chặt. Hiểu được điều
đó thì con đường quay lại đã mất dấu. My đành lánh xa nơi
chốn ghi nhiều kỷ niệm của mình, để trở về nơi không thể
tìm ra dấu vết nào khi lòng quay quắt nhớ.Những thứ thanh
toán được bằng tiền cô đã dần có đủ, chỉ có một khoảng
trống trải trong lòng thì không thể bù lấp dễ dàng, vì tận sâu
trong trái tim, mối tình dang dở vẫn làm My tê tái.
*
…Giờ gặp lại anh!Người một thời My đã yêu và hành xử
một cách nông nổi. Thời gian qua làm sự cuồng nhiệt lắng
xuống, giờ đây lòng cô như bãi hoang…
My vẫn nhớ người con gái ngồi cùng bàn ăn với Khải năm
nào, nhưng ngày ấy My là người rút lui khỏi đời Khải. Cuộc
viếng thăm không phải để My nhắc lại chuyện cũ vì có lẽ
Khải đã an vui với gia đình của mình rồi. Khải ra về khi
hàng đèn đường đã sáng, để lại trong căn phòng trống một
mình My lặng lẽ, với hồi tưởng rối bời làm My không thể
yên. Cô chợt muốn rảo bước ra ngoài, đêm vắng và Khải lại
xa rồi. Con đường như còn tiếng giày quen thuộc vọng lại,
Cô dừng lại lắng nghe dường như không phải là dư âm, mà ở
rất gần phía sau cô. My thảng thốt quay lại, bất ngờ thấy
Khải đã bước đến kề sát bên cô:
-Anh còn quên một câu trả lời nên quay lại. Câu hỏi trước
kia của em, người phụ nữ ngồi cùng bàn với anh là ai? Đó là
một người phụ nữ đã lập gia đình làm cùng công ty với anh.
Chị ấy và anh tình cờ gặp nhau trong quán ăn…
Ánh đèn rọi xuống khuôn mặt Khải, My thấy nụ cười của
anh dịu dàng. Cô đứng yên, im lặng. Anh ôm choàng lấy vai
cô thì thầm:
-…Đừng khóc! Có anh ở đây rồi…
Hồ Thụy Mỹ Hạnh
156 Tin Vaên
Cung Bảo Bình
biển sóng gió lên đêm động nguyệt
Đêm vẫn đen theo lời rên của gió
gió vật mình quằn quại sóng chồm lên
những dấu chân in trên rìa cát ẩm
cũng tan theo bọt nước lấn bờ
con nước thờ ơ
như người vô cảm
cơn mê hoang dã thú khó lặng yên
đêm tái ngắt nhờ nhờ bóng tối
nửa em mặt lạ nửa nào quen
vòng tay cuốn
dồn đầy hơi thở gấp
sợ điều gì như kích ngất mắt trắng tròng
những ngón chân quơ quào chăn chiếu lệch
suối nguồn khe lạch
cũng lật nghiêng
âm ẩm hạ thân
nhớt nhờn da thịt
ran rát máu loang từ vết cấu cào
bừng bừng như lửa dậy
tận cùng hoang lạnh tiếng sói rên
im ỉm tromg đêm ngất ngư tê dại.
cực sung, cực mãn, cực tận cùng.
Tin Vaên 157
có phải là em
nửa quen nửa lạ
vô hay mẫn cảm khác gì nhau
cũng phận bọt bèo ngất ngư nhồi sóng
đêm đen gió hú cũng tìm nhau.
gió lên mùa hẹn gió lại lên
cái đêm hôm ấy đã quên hay còn
sói hoang, trăng vỡ
bờ sóng bạc
vô tướng tìm nhau một lối mòn
làm sao đếm được bao nhiêu cát
trong dấu chân người vừa bước qua
quẩn quanh con tính còn xao động
gần một sat- na, một đời xa.
Hỡi ơi! Đêm ấy là mãn nguyệt
hay là trăng gió động tình ta
một phút ru đời trên cánh lã
thiên thu gió chướng nhớ nguyệt tà.
158 Tin Vaên
@Nguyê n Thi Thanh Dương Một thời tương tư Tôi có một thời tương tư anh,
Cả thành phố bỗng là sa mạc,
Với những buổi chiều tôi ngơ ngác,
Biết về đâu ? Tôi đã lạc tôi rồi.
Bóng dáng anh che khuất cả bầu trời,
Tôi không thấy ngày mưa hay nắng,
Chỉ thấy đôi mắt anh thầm lặng
Vô tình nhìn tôi . Giông bão đến không ngờ.
Với những buổi chiều tôi ngẩn ngơ,
Trên đường phố không tên, không bảng hiệu,
Điều kỳ lạ chỉ một mình tôi hiểu,
Tất cả con đường đều mang một tên anh.
Tôi đã một thời như trái còn xanh,
Trong vườn đời mênh mông nhiều trái ngọt,
Ngày ấy tôi yêu anh mỏi mệt,
(Trái tình xanh, chua chát tuổi dại khờ)
Thời gian trôi và cho đến bây giờ,
Tôi chín ngọt tuổi đời nhiều nắng gió,
Đã từ lâu tôi không yêu anh nữa,
Một thuở tương tư đã mất đâu rồi ?
Đôi lúc nghĩ về anh , tôi chợt mỉm cười,
Điều tầm thường cũng trở thành khát vọng,
Tội nghiệp tôi đã một thời mơ mộng !
Tưởng thế gian chỉ có một người.
***
Bây giờ nhìn lứa tuổi đôi mươi,
Người ta yêu, dù vui hay đau khổ,
Có ai đã tương tư như tôi ngày đó ?
Trái tình còn xanh, xin chớ rụng xuống đời.
Tin Vaên 159
Nguyễn Thị Thanh Dương Bà Mẹ Vợ
Người Mỹ thích sự riêng tư, nhất là trong đời sống vợ chồng.
Bà mẹ vợ luôn là nhân vật hắc ám...
Steve đi làm về, vừa thay quần áo xong là Linh kéo tay anh
ngồi xuống giường:
- Em muốn nói với anh một chuyện nghiêm chỉnh nè..
Steve vòng tay qua ôm và hôn vợ, làm Linh dãy nảy lên:
- Trời ơi, em đã nói là chuyện nghiêm chỉnh mà.
Steve cãi :
- Anh hôn em, hôn vợ đâu phải là chuyện đùa.
- Thôi được, nghe em hỏi đây: Anh có muốn con mình bị
cảm lạnh không? Không chứ gì! Anh có muốn con mình bị
sưng phổi không? Không chứ gì! Anh có muốn con mình bị
mất ăn, mất ngủ không? Cũng không chứ gì? Steve kêu lên
kinh ngạc:
- Em hôm nay làm sao thế? Em hỏi anh một tràng những câu
hỏi khủng khiếp rồi em tự ý trả lời, không chừa cho anh có
cơ hội nói một chữ nào.
- Em biết chắc anh sẽ trả lời: Không? nên em trả lời giùm
anh luôn cho nhanh... Nghe em hỏi tiếp đây, anh có biết là
chị Hai em mới bảo lãnh mẹ em qua Mỹ được vài tháng nay
không? Biết chứ gì! Anh có biết là mẹ đang ở với gia đình
chị Hai ở California không? Biết chứ gì!...
Steve lại kêu trời :
- Em nói những chuyện lung tung, chẳng liên quan gì đến
nhau cả!
- Có liên quan đây. Em định bàn với anh là mời mẹ về ở
chung với chúng mình, để mẹ trông thằng Eugene, khỏi phải
mỗi buổi sáng bồng bế nó đi Day Care. Tội nghiệp!
Steve tròn mắt lên :
160 Tin Vaên
- Có nghĩa là mẹ em sẽ ở đây dài lâu?
Linh hạ giọng, dịu dàng để Steve cảm động:
- Mẹ sẽ giúp mình được nhiều việc. Anh thấy rồi đó, con
mình mới có 9 tháng tuổi mà nay bị cảm, mai bị ho Mỗi sáng
sớm xách con ra xe đem đi gởi mà em đau lòng quá. Có mẹ ở
đây, Eugene sẽ yên ấm ở nhà, sẽ ăn no ngủ kỹ, ngoài ra, mẹ
còn trông nom nhà cửa, nấu nướng phụ em được nữa.
Steve ngạc nhiên:
- Có một bà mẹ già làm được những điều ấy sao?
- Em chẳng biết những bà mẹ Mỹ của anh giỏi cỡ nào !
Nhưng mẹ em hay các bà mẹ Việt Nam khác đều là thế cả.
Steve chép miệng:
- Ðiều này rất tốt, nhưng mất sự riêng tư của chúng mình!
Linh năn nỉ:
- Nhà mình rộng thênh thang, mẹ thương em, em thương mẹ
và em tin rằng anh cũng sẽ thương mẹ em luôn.
Thấy Steve chần chừ, Linh tấn công thêm, vì cô biết chồng
rất thương con :
- Nhưng vì con mình là trên hết. Mẹ sẽ là người chăm sóc nó
tuyệt vời.
Steve trả giá:
- Anh tạm đồng ý. Nếu mẹ ở một thời gian, không thích hợp
thì thôi nhé?
Linh vui thích ôm lấy cổ chồng:
- Cám ơn anh, bây giờ anh cứ hôn em đi. Unlimited!
Linh thừa hiểu, người Mỹ thích sự riêng tư, nhất là trong đời
sống vợ chồng. Bà mẹ vợ luôn là nhân vật hắc ám, chẳng
thằng con rể nào muốn mời tới nhà, nói gì ở chung lâu dài !
Hơn nữa, một bà mẹ vợ không đồng chủng, mới từ Việt Nam
qua, chưa gặp gỡ, trò chuyện, thì làm sao mà Steve, một
người Mỹ Anglo không e ngại?
Mẹ và chị Hai đều chấp nhận đề nghị của Linh, con Linh
còn nhỏ nên cần sự giúp đỡ của mẹ hơn.Và vì Linh lận đận
tình duyên, kén chọn mãi, hơn 30 tuổi
Tin Vaên 161
Linh mua vé máy bay, hôm sau mẹ Linh đã từ California bay
đến xứ núi Utah, ngay những ngày đầu mùa Ðông giá lạnh.
Hôm bà đến, tuyết rơi trắng xoá, những mái nhà phủ đầy
tuyết, và xa xa những dãy núi cũng phủ đầy tuyết trắng làm
bà rợn người, chợt tưởng như vừa bị ném vào một cõi hoang
vu, xa lạ . May mà có cô con gái ngồi bên cạnh, là điểm tựa
duy nhất để bà tin là mình không đi lạc, không bị bỏ rơi. Chứ
thằng con rể người Mỹ, và thằng cháu ngoại trông giống bố,
mắt xanh, tóc vàng kia coi nhử chẳng liên quan gì đến bà.Về
đến nhà, Linh dẫn mẹ đi khắp nhà để chỉ dẫn những điều cần
biết về nơi ăn, chốn ở, và những sinh hoạt hàng ngày.
Bắt đầu từ ngày mai, thằng Eugene sẽ ở nhà với bà ngoại.
Sáng sớm hôm sau, hai vợ chồng Linh mở cửa ra đi
làm, giữa trời lạnh, tuyết bay ngoài đường, Linh thấy yên
lòng vì con mình vẫn đang nằm ngủ êm ấm trong nhà, hơn
thế nữa, trong vòng tay chăm sóc, thương yêu của bà ngoại.
Suốt đêm qua, phần vì lạ nhà, phần vì thấp thỏm cho một
công việc mới, nên bà không ngủ ngon cho lắm, chỉ còn hai
bà cháu ở nhà, bà nằm ngủ tiếp, cho đến khi Eugene tỉnh
giấc và khóc, bà tỉnh dậy, thấy đồng hồ chỉ 9 giờ sáng.
Bà thay tã cho nó và đi pha sữa. Nuôi trẻ con ở Mỹ sao mà
lắm thứ, lỉnh kỉnh thế ! Sữa này, nước trái cây này, đồ ăn sẵn
trong hũ này. Xứ văn minh, giàu có quá chỉ bày đặt ! Hồi
xưa, bà nuôi mấy đứa con, có cần những thứ này đâu, mà
đứa nào cũng khoẻ mạnh và lớn lên như thổi.
Thằng bé vừa bú bình sữa vừa nhìn bà lạ lẫm, bà cũng có dịp
nhìn nó kỹ hơn, nó giống bố, chẳng giống mẹ tí nào, nếu
không do chính con gái bà đẻ ra thì bà không tin nó có một
nửa dòng máu Việt Nam trong người. Mới hôm qua, bà còn
cảm thấy xa lạ nó, mà bây giờ, ôm nó trong tay, nhìn nét mặt
bé bỏng, ngây thơ, đang cần bàn tay bà chăm sóc, bà thấy
tình máu mủ, ruột thịt, gắn bó với nó biết bao.
Thằng bé đã biết bò, vừa đặt ngồi xuống là nó đã bò thoăn
thoắt, nên bà cứ phải để mắt đến cháu luôn, không dám đặt
trên giường, sợ nó bò lăn xuống đất.
162 Tin Vaên
Ðể chắc ăn, buổi trưa, bà trải một tấm mền ngay giữa phòng
khách cho nó nằm ngủ, bà vừa trông nó, vừa nấu cơm. Bà
lấy đồ trong tủ lạnh ra, lấy nồi, lấy chảo, lấy dao, lấy thớt?
Mọi động tác đều làm nhẹ nhàng, khe khẽ, thế mà thằng bé
tỉnh ngủ quá, bà quay lại đã thấy nó thức và ngồi nhỏm dậy
từ lúc nào. Bà vội vàng ra đặt nó nằm xuống, vỗ về cho nó
ngủ tiếp, rồi khi bà phi hành tỏi, làm món rau xào, vừa đổ
rau vào chảo, kêu xèỏ một tiếng cũng đủ làm Eugene mở
mắt, lại ngồi nhỏm dậy, hai mắt mở to trô trố nhìn bà, cứ vài
lần nó tỉnh giấc, và bà vỗ về như thế, mới nấu xong một bữa
cơm. Thật căng thẳng và hồi hộp, lo bảo vệ giấc ngủ cho
thằng cháu mà bà cứ thấp thỏm, rón rén như đang đi ăn trộm!
Nấu cơm xong, tưởng được thoải mái, thì đến lượt cái
điện thoại làm phiền giấc ngủ của cháu bà. Tiếng phone ring
inh ỏi, nghe thấy tiếng Mỹ là bà cúp luôn, không để phí
phạm thêm một phút giây nào cả. Vì mấy tháng sống ở
California với cô con gái lớn, bà đã học được kinh nghiệm là
có những cú phone, nói tiếng Mỹ chỉ là quảng cáo, không
cần nghe làm chi cho mệt, mà dù có nghe, bà cũng chẳng
hiểu.
Bà nhìn cái điện thoại như nhìn một đứa cà chớn, đáng ghét,
thế mà nó không chừa, lại ring lên lần nữa, làm tim bà giật
thót lên. Lại bốc phone, lại nghe tiếng Mỹ, chắc là thằng cha
quảng cáo lúc nãy, bà bực mình, quát vào phone một tràng
tiếng Việt Nam :
- Này! Tôi nói cho ông biết nhé, đừng có gọi quảng cáo đến
nhà này làm cháu tôi mất ngủ. Ông mà gọi đến lần nữa là tôỉ
cúp máy luôn đấy.
Rồi bà đặt phone cái kịch mà vẫn chưa hết bực mình.
Giá như có cái võng đu đưa, thì cháu bà sẽ ngủ say hơn, ngủ
lâu hơn, không sợ những tiếng động xung quanh nữa, bà
nhìn khắp nhà, không thấy chỗ nào có thể mắc võng được, ở
Mỹ coi vậy mà thiếu tiện nghi. Ở Việt Nam, chỗ nào cũng có
thể mắc võng dễ dàng: chân cầu thang, kèo cột, vách tường,
hay gốc ổi, gốc mít ngoài sân v..v
Tin Vaên 163
Cuối cùng cháu bà cũng có một giấc ngủ trưa đầy đủ. Thà nó
tỉnh dậy, ngồi chơi, bà còn làm được nhiều việc hơn, bà
không phải e dè nữa, làm mạnh tay, nhanh chân, vèo một tí
là xong, nhà cửa tươm tất, công việc đâu ra đấy.
Buổi chiều Linh về nhà trước, thấy Eugene được ăn ngủ đầy
đủ, tắm táp sạch sẽ, Linh vui lắm, xong cô hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, lúc trưa nay, mẹ có chuyện gì mà bực mình thế? Mẹ
gắt ầm trong phone.
Bà ngạc nhiên: - Sao con biết? Mẹ gắt mấy thằng quảng cáo
đấy, cú gọi đầu làm thằng bé thức giấc, mẹ đã cúp vội máy
rồi, nó lì lợm gọi thêm lần nữa, mẹ phải quát nó mới thôi.
Linh ôm bụng cười:
- Chồng con đấy, Steve định gọi cho mẹ để nói Hello với mẹ
thôi.
Bà cũng cười, bẻn lẻn:
- Gớm, thôi bảo nó đừng bày đặt nói hello làm gì, cứ nghe
điện thoại reo lại nói tiếng Mỹ làm mẹ hết cả hồn.
Ngày đầu chưa quen việc, bà thấy mệt mỏi, vất vả quá,
vài ngày sau mọi thứ trở nên dễ dàng hơn, bà đã nấu những
bữa cơm ngon lành, con rể bà bắt đầu nếm những món nọ
món kia, mà có cao sang gì đâu, thịt kho tàu, cá kho tộ, tôm
rim, thịt bò áp chảo canh rau đủ món, thay đổi, làm Steve
khám phá ra những cái ngon của đồ ăn Việt Nam, mà Linh
chưa hề nấu, phong phú, và đa dạng như mẹ. Ðến nỗi Steve
đã hỏi Linh : Mẹ em trước kia ở Việt nam là chủ nhà hàng hả
?Anh đâu biết, bà chỉ là một người nội trợ bình thường như
bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác.
Cháu bà tên Eugene, cái tên gì mà khó đọc, khó nhớ, bà
đổi quách thành cu Tí cho tiện việc, cái tên Việt Nam nghe
êm ái và quen thuộc với bà hơn.
Thằng Cu Tí rặt Mỹ, mắt xanh, tóc vàng như rơm, đã quen
và thân bà, vì cả ngày ở bên bà, tối lại ngủ với bà. Trước kia,
vợ chồng Linh vẫn để nó ngủ một mình trong phòng, bà thấy
tội nghiệp cháu quá. Ai đời, vợ chồng ngủ với nhau, để thằng
bé bơ vơ?
164 Tin Vaên
Thường thường cu Tí rất ngoan, bú xong bình sữa là ngủ
ngay, nhưng có khi nó cũng dở chứng như thời tiết, hai mắt
cứ mở thao láo không chịu ngủ dù đêm đã khuya. Bà đã phải
trổ hết tay nghề của một người đàn bà từng nuôi con mọn, bà
bế trên tay, đong đưa, bà ấp trong lòng, vỗ nhẹ vào mông nó.
Bà đã trổ hết tài văn nghệ, ru à ơi với ca dao, tục ngữ, rồi
chuyển sang hát tân nhạc, rồi xuống giọng ngâm thơ nỉ non.
Bà đã xàỉ hết vốn liếng văn chương của mình mà cu Tí vẫn
chưa chịu ngủ, bà nghĩ có lẽ cu Tí chưa cảm thông được
tiếng Việt Nam, hay nó tưởng bà kể chuyện, nên mải nghe
mà quên ngủ ? Bà không nản chí, bà tin rằng dần dần nó sẽ
hiểu tiếng Việt Nam, những bài ru của bà sẽ đưa nó vào giấc
ngủ dễ dàng, như ngày xưa bà đã từng ru mẹ nó, và khi nó
lớn hơn một tí bà sẽ tập cu Tí ăn cơm với đồ ăn có chất mắm
muối Việt Nam. Dù bố cu Tí là Mỹ, nhưng mẹ nó là dân Việt
Nam cơ mà, ngay cả bố nó, Steve cũng đang quen dần với
các món ăn Việt Nam, ăn bánh cuốn cũng hăng hái chan đầy
nước mắm, cái món không thể thiếu trong bữa cơm hàng
ngày của người Việt Nam, nhưng đối với hầu hết người Mỹ
vẫn là thứ mùi vị khó chịu không dễ dàng gì chấp nhận được.
Thỉnh thoảng bà vẫn nói chuyện tay đôi với con rể mà không
cần con gái thông dịch, bà nói tiếng Việt Nam, Steve nói
tiếng Anh, lời nóỉ theo gió bay, vì chẳng ai hiểu ai, nhưng vì
nhu cầu bà vẫn cứ nói, còn Steve có hiểu hay không thì mặc
kệ nó.
Mùa Ðông đã đi qua, phố núi vẫn tràn trề tuyết trắng
trên những đỉnh núi xa xa, và lấp lánh màu trắng bạc khi mặt
trời có nắng. Trong không gian vẫn còn hơi lạnh dù mùa
Xuân đã về, lá bên đường xanh lại, người ta đã quên mùa
Ðông để rộn ràng dạo phố, các cửa hàng của Open Air Mall
tại Salt Lake City tưng bừng đón khách lại qua, kéo dài tới
mùa Hè ngắn ngủi, rồi tới mùa Thu, không gian dìu dịu lạ
lung
Lần đầu tiên trong đời, bà thấy một mùa Thu đúng nghĩa
như trong sách vở, thơ văn. Khắp nơi trong thành phố, lá bắt
Tin Vaên 165
đầu đổi màu, ửng đỏ, ửng vàng từng phần, rồi trở thành đỏ
và vàng hàng loạt. Màu lá vàng tươi rói, mơ màng, mà bà tin
rằng không một hoạ sĩ nào có thể vẽ nổi cái màu sắc của
thiên nhiên thật tuyệt vời ấy. Gió hiu hiu, lá cũng hiu hiu rơi
từng chiếc, thế mà dưới những gốc cây chạy dài trên hè phố
hay trước sân nhà là cả một thảm lá vàng, đẹp và hoang sơ,
tưởng như chưa hề có bước chân người dẫm lên, nên không
ai nỡ mang đi, không nỡ quét dọn những chiếc lá thu vàng
đó, dù luật của thành phố, đã phát cho cư dân những bao
bịch lớn để hốt lá vàng, để mang dấu tích của mùa Thu đi đổ
rác !
Rồi màu đỏ, màu vàng của lá đậm hơn, gió vẫn hiu hiu
nhưng làm lá rụng nhiều .Có một hôm, gió thổi mạnh, quần
quật trên mái nhà, bên vách nhà, những bước chân của gió
như đang nổi cơn thịnh nộ. Khi bà vén cửa sổ nhìn ra ngoài,
cả một rừng lá đỏ, lá vàng bay tả tơi theo chiều gió, rồi trời
đổ mưa, giông gió thế, mà mưa chỉ lâm râm, hay mưa sợ làm
đau thêm những chiếc lá vàng vừa mới lìa cành ? những
chiếc lá bay đi và theo mưa nằm bẹp trên đường ướt át. Cành
cây trước nhà hôm qua còn nhiều lá vàng, giờ trở nên trơ
trụi, lạnh lẽo chìm trong mưa mù, làm bà mủi lòng, thấy
cuộc đời phù du. Hình như mùa Xuân mới vừa hôm qua, lá
xanh non, mà hôm nay Ðông về đã tàn phai!
Thế là mùa Ðông lại về, bà đã ở với vợ chồng Linh được
1 năm, cu Tí đã biết đi, đã biết ăn phở, ăn bún, bà cắt nhỏ
từng sợi phở, sợi bún, nâng niu đút cho cháu từng thìa, Bà
muốn nó biết ăn và yêu thích những món ăn Việt Nam trước
khi biết đến Hamburger, khoai tây chiên hay hot dog.
Khi cu Tí bập bẹ học nói, tiếng đầu tiên nó thốt ra là Bà,
bằng tiếng Việt Nam, bà sẽ dạy nó uốn lưỡi để nói thêm chữ
ngoạỉ thành bà ngoạỉ đàng hoàng. Cu Tí cả ngày quấn quýt
bên bà, thằng bé khoẻ mạnh, phổng phao hẳn lên, nó không
còn bị ốm vặt như thời đi Day care nữa. Bà thích ngắm cháu,
lúc nó vui cười hay cả lúc nó hờn dỗi vì gắt ngủ, đói sữa,
166 Tin Vaên
khóc dãy lên đành đạch, nước mắt, nước mũi nhoèn ra hai
bên má, dễ thương như mặt mèo.
Một hôm, bà phải trở về California để dự đám cưới đứa
cháu, cũng là dịp thăm lại gia đình cô con gái lớn, con nào bà
cũng thương, trước sau gì bà cũng phải về thăm chúng.
Thế là vợ chồng Linh lại phải đem cu Tí đi Day care gởi 1
tháng, coi như bà ngoại đi vacation . Bà đi rồi, nhà cửa trống
vắng hẳn ra, công việc bỗng ùn lên làm hai vợ chồng Linh
bối rối. Ði làm về Steve lo đón con, Linh lo nấu nướng, rồi
tắm rửa cho con, dọn dẹp nhà cửa và bao nhiêu thứ việc lặt
vặt khác. Những buổi tối đầu tiên xa bà ngoại, cu Tí khó ngủ,
có lẽ nó đang đợi nghe những bài ca dao, tục ngữ, những lời
ru à ơi, vời vợi, êm ả của bà, dù cái thằng cu Tí kia đã hiểu gì
tiếng Việt Nam.
Steve buồn ra mặt, anh nhớ bà mẹ vợ, người đã thương con,
chiều cháu bằng cả một tấm lòng , anh đã hiểu một bà mẹ
Việt Nam cần cù, chịu khó và hy sinh vì con cháu thế nào !
Chẳng cần ai nói, Steve cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Anh
đã có một người vợ tuyệt vời, yêu chồng, thương con, lại có
thêm một bà mẹ vợ cũng tuyệt vời. Mới 2 tuần trôi qua, chưa
đến hẹn bà mẹ vợ trở về, Steve bồn chồn hơn cả Linh, anh đã
sốt ruột gọi phone cho bà, anh ngọng nghiụ mãi mới nói
được một câu tiếng Việt :
- Mẹ? sẽ.. .trở..về với chúng con không?
Bên kia đầu dây, bà cũng vất vả không kém, lắp ba lắp bắp
để nói được vài chữ tiếng Anh: - OK ? will co... me ba... ok ?
Vẫn cảm thấy chưa nói được hết ý, bà bổ sung thêm một
tràng tiếng Việt:
- Con yên trí, mẹ thương hai con và thằng cu Tí lắm, mẹ sẽ
trở về để sống với các con chứ, mẹ không ở đây một tháng
đâu. Mùa Ðông đang bắt đầu, mẹ sợ cu Tí mang ra ngoài bị
cảm lạnh. Tuần sau mẹ sẽ về, con nhé.
Nguyễn Thị Thanh Dương
Tin Vaên 167
Mây Ngàn Bến cũ
Sông xưa bến cũ chuyến đò ngang
Giặt áo hong tơ dải lụa vàng
Buồn tênh mặt nước vô tình chảy
Đò đưa bao chuyến xuân lỡ làng
Bao năm trở lại bến đò xưa
Đáy nước thâm sâu gợn bóng dừa
Tóc dài uốn lượn lung linh sóng
Âm ba vang vọng gió lùa đưa
Ai vế bên ấy nhắn giùm ta
Đường xưa ngập lá bóng trăng tà
Có người con gái bên song cửa
Ngắm bóng hoàng hôn dạ xót xa
168 Tin Vaên
Võ Thạnh Văn Từ buổi trăng về
1-
Tình vẫn ngủ nhưng lòng thao thức đợi
Rong vẫn trôi theo đợt sóng ghẹo bờ
Bóng mây qua cuối trời xanh vời vợi
Từ thiên thu, cửa động khép ơ hờ
2-
Nghe trăn trối đáy vực ngầm vách rang
Dội sườn non ngân tiếng thác giao mùa
Đã bao đêm khép chừng vuông đá tảng
Chờ người qua vẫy nước lệnmh truyền thừa
3-
Ta cứ ngỡ bước người về động vắng
Lòng nôn nao đêm thức đợi bình minh
Khuya tịch mịch nghe chừng hang sâu lắng
Trăng vàng xanh vữa rục rã tâm tình
4-
Trăng vàng lạnh suốt một đời trơ trọi
Ta vàng hanh khánh mõ tụng kinh chiều
Em vàng võ buổi ra đi bão gọi
Và trở về tóc rối quạnh hiu
5-
Từ thuở ấy ta quên bài nhật tụng
Em nhởn nhơ khép mắt lối đi về
Nghiêng tai đón trăm vạn lời chúc tụng
Tận đáy hồn chân lý héo cơn mê
6-
Bao thế kỷ nay vẫn còn bỡ ngỡ
Dường tương tư bóng dáng thoảng hương trầm
Nơi bến cũ trắng mấy lần dang dở
Mé hồn ta sóng nước vỗ phăng đầm.
Tin Vaên 169
@Nguyên Nhung
Người Đưa Thư
Thời gian mới định cư ở Hoa Kỳ, khi đến cư ngụ khu
chung cư nhiều người Việt tôi đã thấy ông ta. Đó là người
đưa thư, có bộ râu hung hung xồm xoàm viền quanh miệng,
khiến thoạt nhìn người ta thấy ông có nét một ông già Santa
Claus mỗi mùa Giáng sinh. Nụ cười hiền, đôi mắt xanh
mông mênh màu biển, ông là người đều đặn mang niềm vui
cho đám cư dân sống ở chung cư, đa số mới từ
Việt Nam sang, thường ngóng những cánh thư ở quê nhà.
Ông ta trạc độ ngoài năm mươi, dáng dấp khỏe mạnh,
khó đoán tuổi cho chính xác vì bộ râu xồm xoàm đó. Mỗi
buổi chiều, khi chiếc xe của Bưu Điện chạy vào con dốc đầy
ổ gà, nơi đặt mấy thùng thư đã thấy có người đứng đợi. Đa
số là người già, không biết làm gì cho hết ngày, đi lấy thư
cũng là một cái thú. Ông ta bỏ thư vào từng hộp thư của mỗi
nhà trong xóm, xong lái xe đi, không quên giơ tay vẫy mấy
đứa trẻ đang chơi đùa trên khoảng sân trống.
Mãi cho đến một hôm, trời mùa đông lại mưa tầm tã, tôi
thấy người đưa thư ngừng xe trước cửa căn chung cư, rồi
chạy ào vào hiên gõ cửa, đưa cho tôi một lá thư. Lá thư của
người bạn học từ Việt Nam gửi sang, đề trúng tên người gửi
và địa chỉ "zip-code", nhưng thiếu số nhà của căn chung cư,
không hiểu sao ông ta lại biết là của tôi. Chính vì thế mà tôi
biết ông đọc được tiếng Việt, lại còn quen cả tên của người
nhận thư, rồi vì sợ thư không đến tay người nhận, thay vì trả
lại cho Bưu Điện, ông mang thư đến thẳng nhà tôi.
Hôm ấy trời bão rớt, mưa suốt từ sáng đến chiều chưa
ngớt, bầu trời xám xịt khiến mùa Đông càng có vẻ rét mướt.
Tôi cảm động nhận lá thư từ tay ông, nhìn ông ướt át trong
chiếc áo mưa màu vàng, những bụi mưa còn đọng trên mái
170 Tin Vaên
tóc đã ngả bạc với bộ râu hung hung viền quanh miệng. Ông
hỏi, bằng tiếng Việt:
" Xin lỗi, có phải tên cô không?"
Tôi ngạc nhiên, vì lần đầu nghe ông ta nói tiếng Việt,
chực nhớ lại bà con trong khu chung cư, gặp nhau ngoài
thùng thư vẫn hay nói chuyện này nọ về xứ Mỹ và người
Mỹ, có lẽ ông đã nghe được cả. Tôi nhận đúng là tên mình,
rất cảm kích vì tấm lòng của người đưa thư. Ái ngại khi thấy
mưa vẫn như trút nước, rặng cây ven đường như mờ mịt đi
dưới màn mưa trắng xóa. Tôi hỏi ông, bằng tiếng Anh:
" Ông có vội lắm không? Mời ông vào nhà chơi, mưa lớn
quá." Ông nheo đôi mắt xanh nhìn trời, cười hiền hậu, nói
một câu thành ngữ tiếng Anh: " It's raining. . . cats and
dogs..." Đoạn ông ta nói bằng tiếng Việt:
" Mưa lớn quá, giống như mưa ở Việt Nam."
Tôi mở to mắt nhìn ông thán phục:
" Ông nói tiếng Việt giỏi quá, ông học ở đâu vậy?"
Người đưa thư giơ tay vuốt những giọt mưa trên tóc, trên
mặt, giọng thoáng một niềm vui, thật xa vời:
" Từ Việt Nam. Tôi đã từng ở Việt Nam, cách đây ba mươi
năm. Việt Nam luôn ở trong trái tim tôi."
Tôi mỉm cười, một câu xã giao mà người Mỹ nào cũng
học qua, nhưng sao ở người đàn ông này, tôi không thấy sự
giả dối. Một lần nữa, tôi mời ông vào nhà , không khách sáo,
trước khi bước vào căn phòng ấm, ông tháo đôi giày để
ngoài cửa, giọng dí dỏm:
" Người Việt thường cởi giày trước khi vào nhà, có phải vậy
không?"
Ngạc nhiên vì câu hỏi của ông, một người Mỹ hiểu cả thói
quen của người Việt, thật là hiếm, như vậy ông ta chắc phải
tha thiết với xứ sở của tôi nhiều lắm, tự nhiên tôi thấy có
cảm tình với ông. Như hai người đồng hương đã lâu không
gặp nhau, ông thổ lộ:
Tin Vaên 171
" Tôi nhớ Việt Nam nhiều lắm, nhớ "người"Việt Nam lắm..."
“ Người Việt Nam” ở đây thì nhiều lắm, sao ông lại nói câu
ấy với nhiều cảm xúc trong ánh mắt mà tôi có thể nhìn được.
Rồi đưa mắt nhìn khắp căn phòng được bài trí theo kiểu Á
Đông, ông dừng lại một bức tranh trên tường vẽ cảnh mùa
Xuân, con ngõ nhỏ với hai hàng mai nở vàng thật đẹp. Ông
thảng thốt reo lên, giọng lơ lớ:
" Đấy có phải là hoa mai?"
Tôi gật đầu, cảm phục một người Mỹ biết nhiều về xứ sở của
mình:
" Ồ! Ông cũng biết hoa mai? Nó là loại hoa biểu tượng cho
mùa Xuân ở quê hương tôi, và chỉ nở vào mùa Xuân."
Ông gật đầu, đôi mắt xanh thoáng một nét bâng
khuâng, nhìn theo những sợi mưa nghiêng nghiêng đan nhau
trong khung trời mờ tối:
" Tôi biết, vì cô ấy tên Mai, Mai là tên người yêu của tôi, cô
học trò bé nhỏ…"
Hình như ông xúc động, yên lặng để dấu đi nỗi buồn. Tôi
cũng ngạc nhiên không ít, khi khám phá ra mối tình của
người đưa thư, một mối tình có lẽ rất đẹp mấy chục năm
trước vẫn ấp ủ trong trái tim ông, từ những ngày trẻ tuổi.
Buổi chiều mưa hôm đó, một chiều mưa trên xứ người,
nghe câu chuyện tình của người đưa thư, tự nhiên tôi cảm
thấy dâng lên trong lòng một nỗi buồn rất Việt Nam, cả cái
không khí lãng đãng một chút ngậm ngùi theo từng giọt mưa
rớt xuống hàng hiên ẩm ướt. Trong khi chờ mưa ngớt hạt,
người đưa thư bồi hồi kể tôi nghe chuyện tình của ông ba
mươi năm trước.. ..
* * *
David sinh trưởng ở Sacramento, thủ phủ của tiểu
bang California. Vùng đất phì nhiêu màu mỡ có rất nhiều
cánh đồng trồng rau và trái cây, đủ cung cấp cho hầu hết các
tiểu bang của Hoa Kỳ. Sinh ra trong một gia đình đông anh
172 Tin Vaên
em, cả nhà sống trong một trang trại trồng hoa quả vùng
ngoại ô, David có bản chất một người đồng quê rất hiền lành
và thật thà, yêu thiên nhiên.
Học hết Trung Học, David rời gia đình đến Nam Cali để tiếp
tục việc học. Sau bốn năm Đại Học, vốn bản tính hiền lành,
thích làm việc thiện, David tình nguyện sang Việt Nam làm
công tác giáo dục và thiện nguyện. Do đấy, chàng có một
thời gian dài đến gần bốn năm phục vụ trong các trung tâm
Việt Mỹ, dạy tiếng Anh cho những người Việt trẻ tuổi.
Lúc ấy David còn trẻ lắm, mới hai mươi hai tuổi. Trước khi
sang Việt Nam, chàng được học tiếng Việt sáu tháng, cho
nên lúc đến Việt Nam chàng đã bập bẹ nói được những câu
xã giao thông thường với người bản xứ. Năm David tới
Việt Nam, chiến tranh đang thời kỳ leo thang, nhưng ở thành
phố tương đối người dân vẫn sống trong yên bình, chưa nhìn
thấy bao nhiêu sự đe dọa của chiến tranh. David chỉ ở Sài
Gòn một thời gian ngắn, sau đó được đưa về Cần Thơ. Chính
nơi này, thành phố thơ mộng ven bờ sông Hậu, đã khiến
David lúc quay về Mỹ, mang theo một vết thương lòng.
David đã có dịp đi lại mấy lần trên nẻo đường mang nhiều
sắc thái miền Tây Nam Phần, đó là quốc lộ 4. Những cánh
đồng lúa bát ngát, những vườn cây xanh, những mái tranh
nghèo khuất sau hàng dừa rủ bóng trên giòng sông đục ngầu
phù sa, lắc lẻo nhịp cầu tre bắc ngang sông rạch. Chàng thích
nhất những chuyến phà qua sông Hậu Giang, nhất là khi
chiều về, vài cọng hoa lục bình màu tím lênh đênh trên sóng
nước. Phong cảnh Việt Nam thật lạ lẫm, mới mẻ nhưng gần
gụi biết bao, không hiểu sao khi nhìn thấy miền đồng bằng
sông Cửu Long lần đầu tiên, David đã cảm thấy yêu mến
vùng đồng bằng, êm ả như vùng quê nơi chàng sinh trưởng,
dù mỗi nơi đều có nét khác biệt nhau.
Vì là nhân viên dân sự, David may mắn chỉ ở thành
phố, không đối diện với chiến tranh như những người lính
Tin Vaên 173
Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam, và cũng không hề giao tiếp
với giai cấp phụ nữ bám theo đoàn quân viễn chinh. Cho
nên, những ngày dạy học tại Trung Tâm Việt Mỹ, David thật
thơ ngây khi lần đầu tiên trong đời, chàng đã trao trái tim
mình cho cô bé Việt Nam, Mai là một cô học trò rất chăm
chỉ, ngoan hiền trong lớp học căn bản của Trung Tâm này.
Mai đẹp lắm, ít là dưới mắt của David, một vẻ đẹp Á
Đông rất ưa nhìn. Mái tóc đen mượt, đôi mắt đen láy như hai
hạt nhãn, nét ngây thơ dịu dàng của cô con gái Á Đông khiến
con tim chàng trai Mỹ mới biết yêu lần đầu, đã thổn thức vì
nhớ thương. Như câu ca dao Việt Nam,"Yêu ai yêu cả đường
đi lối về", David cũng yêu cái mênh mông của dòng sông
Cửu Long, yêu hàng dừa lơi lả nơi bến sông, nhìn những đợt
sóng nhấp nhô vào những buổi hoàng hôn, David tưởng như
nó chuyên chở bao nhiêu tình tự dân tộc, hiền hòa, vui tươi
và đầy thiện cảm. Mỗi buổi sáng, David say sưa ngắm nhìn
những tà áo trắng bay bay như những cánh bướm, trên chiếc
xe đạp thong thả của đám nữ sinh mỗi buổi đến trường. Cả
thành phố dậy lên sức sống, người ta đi lại đông đảo, đàn bà
xách giỏ đi chợ, vài chiếc xe chất đầy rau quả, những đứa trẻ
con ngoan ngoãn đi học với nhau, chiến tranh hình như chưa
hiện diện nơi đây. David có được những tháng ngày thật
tuyệt vời với công việc của mình, một biệt thự xinh đẹp tọa
lạc trên con đường trung tâm thành phố.
Năm ấy Mai độ mười bảy tuổi, tư chất thông minh
cộng thêm nét ngây thơ của cô bé mới lớn, đã chinh phục trái
tim ông thầy trẻ tuổi. Cách biểu lộ tình cảm của mỗi dân tộc
có khác nhau, David không hề dấu diếm tình yêu của mình
với cô gái trẻ, trong khi Mai cố tình né tránh, dù nàng rất có
cảm tình với ông thầy vừa đẹp trai, lại rất hiền hậu nữa. Sau
nhiều lớp ở Trung tâm Việt Mỹ, Mai là một học sinh xuất
sắc được chọn là người phụ giáo cho những lớp học vỡ lòng,
174 Tin Vaên
trong thời gian này hai người cùng làm việc chung, David
càng thấy gần gũi nàng hơn.
Với bản tính thẳng thắn của người Mỹ, David tỏ tình và
đề cập với Mai về chuyện hôn nhân, chàng nghĩ nó rất đơn
giản như bao cuộc hôn nhân trên xứ sở chàng. Nhưng điều
làm cho David đớn đau hơn cả, không ngờ Mai đã từ chối
kết hôn với chàng, nguyên nhân chỉ giản dị là không cùng
chủng tộc, cha mẹ nàng coi đấy là điều không thể chấp nhận,
dù David là một chàng trai học thức. David không hiểu tại
sao Mai không quyết định được chuyện hôn nhân của mình,
dù rằng Mai cũng cảm thấy mình yêu thương chàng trai Mỹ
tóc vàng, mắt xanh hiền lành ấy. David thắc mắc thì Mai chỉ
im lặng thở dài, rồi cho chàng biết những gia đình Việt Nam
bảo thủ, không bao giờ chấp nhận chuyện con cái kết hôn với
người ngoại quốc.
Sống ở Việt Nam khá lâu, ăn những món ăn Việt Nam, học
được cách cư xử của người Việt, David hoàn toàn chấp nhận
tất cả những đòi hỏi theo phong tục, tập quán người Việt
nhưng vẫn bị từ chối. Thật sự chàng không thể nào hiểu nổi
dân tộc này, trong cái thân thiện bên ngoài hình như họ vẫn
dấu kín những thành kiến bí ẩn, có lẽ đã ăn sâu vào gốc rễ
trong tâm hồn họ. Không lấy được Mai, nhiều lúc thất vọng
đến chán chường, David còn muốn tìm cái chết để quên đi
hình bóng diễm kiều của cô gái Việt. Cuối cùng, bị khủng
hoảng tinh thần, David không thể tiếp tục làm việc, với ý
nghĩ một ngày nào đó Mai thuộc về người khác. David được
hồi hương trước thời gian ấn định, lúc chia tay, lần cuối cùng
gặp nhau, Mai đã khóc và nói với chàng:
" Nếu không được kết hôn với anh, em sẽ không bao giờ lấy
ai nữa."
* * *
Câu chuyện tình của người đưa thư tưởng đến đấy là hết, bất
ngờ David hỏi tôi:
Tin Vaên 175
" Tại sao dân tộc cô lại có cái nhìn khe khắt như thế? Một
tình yêu khác chủng tộc có phải là điều tội lỗi?"
Tôi bối rối nhìn ông, không làm sao cắt nghĩa cho ông
hiểu. Đúng, tình yêu tự nó đâu có gì tội lỗi, nhưng dưới con
mắt lệch lạc của những người có nhiều thành kiến, họ vẫn
không chấp nhận. David lại nói tiếp:
" Ba mươi năm nay tôi vẫn không quên điều đó, vẫn tìm tòi
văn hóa Việt, và tôi hiểu tại sao dân tộc Việt Nam không tiến
lên được. Trong một vấn đề giản dị đó, họ đã không có cái
nhìn rộng rãi, thì những vấn đề lớn hơn, họ cũng khó mà
thay đổi." Tôi thở dài nói với David:
" Tôi nghĩ không chỉ người Việt Nam chúng tôi mới có quan
niệm thiển cận như thế, ngay những người Mỹ, cũng đâu có
thích con cái họ lấy một người không cùng sắc tộc với mình.
Hơn nữa người Việt Nam lấy chữ hiếu làm đầu, cho nên ít
khi chống đối lại Cha Mẹ, và họ chấp nhận điều ấy như là
một thứ định mệnh đã đặt để, ông thông cảm cho. Nhưng
thưa ông, đấy chỉ là những suy nghĩ của thời gian đó, bây giờ
mọi điều đã thay đổi. . ."
Giọng David đều đều như tiếng mưa rơi ngoài hiên, ông nói:
" Cô có biết tôi đã đau khổ biết bao nhiêu khi không lấy
được Mai, tôi đâm ác cảm với tất cả người Việt vì lối suy
nghĩ của họ. Khi về nước, lâu lắm tôi vẫn không quên được
người con gái ấy, rồi lại nhớ đến câu nói cuối cùng của Mai
nói với tôi, tôi không nghĩ rằng Mai đã thực hiện được. Khi
đất nước cô bị rơi vào tay Cộng Sản, tôi vẫn hy vọng là sẽ
gặp Mai trong đám người Việt di tản sang Hoa Kỳ, nếu cô ấy
chưa lấy ai thì trên xứ sở này không ai cấm cản Mai kết hôn
với tôi cả".
Tôi ngắt lời David:
" Ông có gặp lại cô ta không?"David gật đầu, đôi mắt xanh
chợt buồn, để rồi lại toát ra một tia nhìn ấm áp:
176 Tin Vaên
"Có, tôi đã gặp lại Mai, nhưng bấy giờ tôi là người dừng lại,
vì Mai đã là một nữ tu đang săn sóc cho đám trẻ mồ côi đem
từ Việt Nam sang. Lần này tôi thực sự cảm thấy mình không
có quyền theo đuổi con người cao quý đó. Mai đã hy sinh
tình yêu, tuổi xuân để phục vụ cho một nghĩa vụ cao cả hơn,
đấy là tình nhân loại. Tôi vẫn yêu Mai, nhưng không có
quyền giữ lấy nàng làm của riêng, khi nhìn thấy bản chất cao
đẹp trong tâm hồn nàng." Giọng ông ta chợt bùi ngùi:
" Đồng thời tôi cũng hiểu được ý nghĩa lời nói của Mai, khi
đã khóc và nói với tôi câu nói cuối cùng trước khi chia tay
nhau. Nàng là người con gái Việt Nam thuần túy có những
suy nghĩ theo tính cách của dân tộc nàng, nhưng trong tình
yêu, tôi hiểu nàng cũng yêu tôi, thích hợp với đời sống và
việc làm của tôi, nhưng vẫn không dám chống đối lại Cha
Mẹ. Để rồi cuối cùng cô đã chọn con đường ấy, con đường
phục vụ cho tha nhân."
Đôi mắt xanh buồn buồn của người đưa thư lại hướng về bức
tranh có những bông Mai vàng óng ả treo trên tường, thật dịu
dàng ông nói tiếp: " Từ đấy, tôi muốn mình cũng như Mai,
làm một điều gì đem lại niềm vui cho mọi người, dù rất nhỏ
nhoi. Nếu không hỏi cô, có lẽ lá thư này sẽ bị trả lại cho
người gửi, bạn cô mất đi một niềm hy vọng, và ngay cả cô
cũng mất niềm vui được đọc một lá thư. Bao nhiêu năm rồi
tôi có nhiều cơ hội để tìm một việc làm tốt hơn, nhưng tôi
vẫn vui thích với nghề nghiệp hiện tại, khi nghĩ mình đã đem
đến cho mọi người những gì họ chờ đợi, nhất là trong những
muà Lễ, Tết. Tôi cũng hiểu rằng từ miền đất xa xăm nghèo
khổ kia, họ đã phải tiết kiệm như thế nào mới có đủ tiền để
gửi một lá thư cho người phương xa."
Tôi cảm động nghe ông ta nói, tự thấy xấu hổ với mình
khi chính tôi có lúc đã rất hững hờ với những lá thư từ bên
nhà gửi sang, cũng chỉ vì sợ phải giúp đỡ. Ngược giòng thời
gian, tôi như nhìn thấy mình trong quá khứ, trong lúc cùng
Tin Vaên 177
cực vẫn trông chờ một niềm hy vọng, vậy tại sao tôi lại
không có được tấm lòng như người đưa thư này. Lúc ấy,
nhìn đôi mắt xanh của ông ta, chòm râu hung hung viền
quanh mặt, trông ông hiền hậu và dễ thương như ông già
Noel đem niềm vui cho trẻ con mỗi mùa Giáng Sinh. Tôi nói
với ông rất thành thật:
" Tôi cám ơn ông, một người Mỹ rất có tình với quê hương
tôi, dân tộc tôi, dù trước kia ông đã bị đau khổ vì sự suy nghĩ
của họ."
Mưa đã ngớt, chưa tới sáu giờ mà trời mùa Đông đã tối xầm
lại. David đứng dậy, ông còn phải trở về Bưu điện, đem theo
những lá thư người trong chung cư nhờ ông gửi giùm. Ông
chào tôi rồi mang đôi giày vào chân, mỉm cười nhìn những
bóng đèn màu chớp tắt trên cây Giáng Sinh ở góc phòng. Tôi
nhìn theo người đưa thư bước ra đường, lòng dâng lên một
niềm ấm áp cho dù đang là mùa Đông ở xứ người. Câu
chuyện của David đã làm tôi suy nghĩ. Tình yêu muôn thuở
vẫn chỉ là Tình yêu, nhưng vượt lên trên đó, nó có một sứ
mệnh thật cao cả khi người ta nhìn ra cái đẹp của nó, và sống
với cái đẹp của tình yêu.
Giờ này, ở một nơi nào đó trên đất Mỹ, Mai, cô gái
Việt Nam năm xưa, có lẽ nay đã đứng tuổi, vẫn hăng say
phục vụ tha nhân trong lãnh vực của cô. Không biết cô có
hiểu rằng, chính tình yêu của cô đã làm cho David, người
đưa thư quen thuộc của khu chung cư, cũng đang đi con
đường của người ông yêu tha thiết năm xưa, cũng với mục
đích đem niềm vui đến cho mọi người. Giá tất cả thế nhân
đều nghĩ đến nhau với một tấm lòng như thế, thì có lẽ chiến
tranh đã chấm dứt từ lâu trên trái đất.
Nguyên Nhung/Mùa Giáng Sinh
178 Tin Vaên
Gửi em vài chiếc lá thu
Đủ màu sắc thắm vẽ từ
yêu thương
Trời mưa nhẹ, hạt như sương
Đọng trên lá ướt,
ẩm hương cỏ tàn
Chạnh lòng nỗi nhớ miên man
Đêm nao dưới ánh trăng vàng
đề thơ
Lời tình tôi ủ vào mơ
Chép lên mấy chiếc
lá xơ xác gầy
Mưa giăng mờ hết cả ngày
Nhớ em, ngồi cạn chén say một mình
Thấy trong khoảnh khắc lung linh
Dáng em ẩn hiện bóng hình xa xôi
Giận nhau đã mấy thu rồi
Chuyện xưa nhắc lại rã rời tim đau
Bao nhiêu mùa lá thay màu
Bấy nhiêu hiu quạnh cầy sâu nỗi buồn?
Mưa làm u ám hoàng hôn
Không gian lạnh thấm mảnh hồn tái tê
Lá rơi ngập kín lối về
Hơi men chếnh choáng, lê thê bước chiều
Tình thu một thuở cô liêu
Cung thương lạc phím, thơ yêu lỗi vần
Còn chi nữa để phân vân
Trả em vào mộng phút gần ...rồi xa
Tình phai, lá úa nhạt nhoà...
Tin Vaên 179
Dương Thượng Trúc Có một mùa Xuân Ngọt
Nhớ về Phố núi Pleiku,
Mưa rơi rả rích, sương mù giăng giăng.
1
-Reng …Reng …Reng.
Tiếng chuông điện thoại reo vang, khiến Vũ choàng tỉnh ra
khỏi giấc mơ thật đẹp.
Một giấc mơ mà anh không bao giờ muốn chấm dứt.
Chẳng biết tại sao hình ảnh của cô Hoa độ này hay xuất hiện
trong giấc ngủ của anh.
Dẫu không có dịp gặp gỡ nhau thường, kể từ cái lần cô đã
cấp cứu anh bằng phương pháp hô hấp nhân tạo.
Nét mặt thơ ngây, cái má bàu phinh phính và đôi mắt, đôi
mắt đen lay láy cứ chập chờn trong những cơn mộng không
tròn như sáng nay khiến anh tự hỏi:
-“Hay mình phải lòng cô ấy rồi? Đúng là vớ vẩn.”
Nhưng hình như có một tình cảm êm đềm đang lớn dần giữa
hai người.
Reng …Reng…Reng…
Tiếng chuông điện thoại như thúc hối, giục giã!
Vũ tung cái mền nhà binh sang một bên, lồm cồm ngồi dậy.
Ánh nắng luồn qua khe cửa nhỏ làm thành nhiều vệt sáng
lung linh dưới thềm xi măng khiến anh biết cũng đã khá
muộn rồi. Với tay cầm cái điện thoại dã chiến đặt cạnh
giường, anh lên tiếng:
-A lô! Vũ nghe đây.
-Chào buổi sáng Trung úy! Tiếng Nam, người Hạ sĩ quan
quân số đại đội reo vui trong máy.
-Chào! Gọi chi sớm vậy Nam? Hôm nay đâu có chào cờ phải
không?
-Dạ không có chào cờ bữa nay. Nhưng Trung úy cần qua gấp
có khách đang chờ.
180 Tin Vaên
-Khách quen hay lạ?
-Ngoại trừ thời gian gần đây, có cô Hoa thỉnh thoảng vào hỏi
thăm ông, còn lại là mấy cha đệ tử lưu linh thôi! Chứ ông có
bạn bè chi nữa đâu mà quen với lạ.
-Khách đàn ông hay đàn bà?
-Không phải đàn ông, cũng chẳng phải đàn bà.
-Mày giỡn mặt tao hả Nam? Không đàn ông, cũng chẳng đàn
bà, vậy “lại cái” à?
-Em đâu dám giỡn mặt ông thày. Cũng không phải “lại cái”
nữa.
-Nói mẹ nó ra đi! Ỡm ờ mãi. Không ông, không bà, không
lại cái, vậy chứ là giống gì?
-Dạ giống cái, con gái! Tiếng Nam cười khúc khích trong
máy.
-Thiệt không vậy mày?
-Em nói thiệt mà! Cổ đến đây chờ ông thày từ lúc 8 giờ rưỡi
lận.
Vũ nhìn đồng hồ đeo tay, đã hơn mười giờ rồi.
-Tại sao giờ này mày mới gọi tao?
-Cổ hổng cho kêu ông thày.
-Cô ấy tên là gì vậy?
-Không cho biết tên.
-Tuổi tác chừng bao nhiêu?
-Chắc đang tuổi cặp kê.
-Thằng này nhiều chuyện. Được rồi, tao sang ngay. À!
Thằng Phúi có để xe bên này không?
-Nó mới lau chùi và lái qua bển rồi. Chắc đang đậu trước cửa
chờ ông đó!
Vũ vừa làm vệ sinh cá nhân vừa mỉm cười khi nghĩ về người
Hạ sĩ quan quân số.
Nam sinh trưởng ở miền tây, thuộc tuýp người thông minh
lanh lợi. Trạng tuổi Vũ, chỉ nhỏ hơn vài tháng, có học, nhưng
vì: Rớt Tú Tài, anh đi Trung Sĩ...
Tuy thế, Nam vẫn không nãn lòng, tiếp tục học hàm thụ, cho
đến xong Trung học và hiện nay đã bắt đầu học năm thứ ba
Tin Vaên 181
Luật khoa. Cũng chính anh ta đã khuyến khích Vũ ghi danh
học lại ở Văn khoa. Nam làm việc ở văn phòng nên có nhiều
thời gian hơn. Vũ thì phải hành quân liên miên, nên vẫn cứ
lẹt đẹt mãi ở năm thứ nhất. Trong chỗ thân tình hai người coi
nhau như anh em.
Cơn gió Mùa Xuân mang hơi lạnh của vùng cao nguyên
đất đỏ ùa đến khiến anh rùng mình.
Phúi, chú tài xế người Tàu lai lái xe đại đội, mà Vũ rất
thương mến coi như đứa em, bước vội xuống xe đứng
nghiêm chào anh và nói :
-Chào Trung úy! Ông khỏe hông?
-Chào A Phúi, cám ơn tôi khỏe. Thế nào, đêm qua thắng hay
bại?
-Em có chơi gì đâu ông thày.
-Xì! Mày mà không chơi thì mấy sòng xóc dĩa ở ngoài khu
gia binh dẹp tiệm hết rồi.
-Dạ! Ông Tiểu Đoàn Trưởng ra lịnh năm nay hổng cho cờ
bạc trong trại gia binh…
-Điều này thì tao biết, như vậy chắc mày đi đá gà, phải
không? Phúi nín khe, vì bị bắt ngay tẩy.
Đoạn đường từ Khu cư xá sang đến Bộ chỉ huy Tiểu đoàn
chỉ khoảng gần hai trăm thước.
Hai bên đường trồng đầy những cụm mai rừng, đã già.
Đang độ vào Xuân, nên hoa nở vàng rực khắp nơí, phơi mình
trong nắng Xuân ấm áp. Khiến cho Vũ có cái cảm giác thật
an bình, thanh thản.
Người lính gác đứng nghiêm chào, sau khi mở cổng cho xe
qua.
Tiểu đoàn tọa lạc trên một ngọn đồi thấp nhìn ra cánh đồng
trà mênh mông bát ngát.
Những ngày làm việc, đứng trong sân nhìn qua lớp hàng rào
phòng thủ có thể thấy rõ ràng các cô gái hái trà, với cái gùi
nhỏ trên vai, thoăn thoắt bước chân theo những luống nhỏ.
Nón lá trắng nhấp nhô như những cánh bướm chập chờn
giữa màu xanh thăm thẳm.
182 Tin Vaên
Trông đẹp như một bức tranh vẽ. Không khí thật êm ả, thanh
bình. Có ba lối vào Tiểu đoàn Cổng chính ở hướng Đông -
Cổng phụ hướng Nam đi qua Khu cư xá - Cổng phía Tây đi
ra bãi đáp trực thăng và khu gia binh.
Toàn khu doanh trại sắp xếp theo hình chữ U - Bốn đại đội
nằm theo hai cạnh còn bộ chỉ huy nằm cạnh đáy, nhìn ra
cổng chính. Phía sau văn phòng làm việc của các đại đội là
phòng ngủ binh sĩ.Xe vào đến sân Tiểu Đòan.
Vắng lặng. Chỉ có vài nhân viên hành chánh làm việc, và
một trung đội trực gác cổng, còn tất cả đều được cho về khu
gia binh ăn tết với gia đình.
Hôm nay là Ba mươi tết mà.
Thấm thoát thế mà anh đã đón mấy cái tết ở vùng cao
nguyên Pleiku đất đỏ, sương mù này rồi.
Nhưng đây là lần đầu tiên anh được đón Xuân ở hậu cứ.
Có những cái tết phải nằm giữa rừng sâu, núi thẳm.
Có những cái tết ở tận vùng biên giới xa xôi…
Anh nhớ lại những đêm ba mươi, giữa rừng già cô quạnh,
cùng anh em binh sĩ đón Xuân, chuyền tay nhau mẩu thuốc,
chờ giao thừa, mà đôi khi cũng chờ tiếng pháo của địch tấn
công:
… Có những mùa xuân giữa chiến trường,
Mai vàng hé nhụy, đón hơi sương.
Chia nhau mẩu thuốc, chuyền hơi ấm.
Nhắc những chuyện tình, chốn hậu phương
(Thơ Tác giả)
Đối với anh, tết ở đâu cũng giống nhau mà thôi…
Khi quê hương còn mịt mờ lửa đạn, thì trách nhiệm còn đè
nặng trên đôi vai người lính. Các anh vẫn phải đi.
Và mùa Xuân cũng vẫn là những mùa Xuân xa nhà, những
mùa xuân không trọn vẹn…
Qua khỏi sân tiểu đoàn, anh đã nhìn thấy bóng một cô gái
mảnh khảnh, đang đứng tựa lưng vào gốc cây thông bên
hông văn phòng đại đội, nhìn xa xăm về hướng đồn điền trà,
trải ngút ngàn đến tận chân trời.
Tin Vaên 183
Tiết trời mùa Xuân lành lạnh dường như làm cho ngọn đồi
trà xanh thêm.
Cái áo dài màu trắng của cô nổi bật giữa những cụm mai
vàng trồng chung quanh hàng rào phòng thủ.
Với chiếc áo len xanh khoác hờ hững trên vai, trông cô mong
manh và ẻo lả như sương khói.
Xe vừa dùng lại trước cửa văn phòng đại đội, Vũ nhảy x
-Thưa cô!
Thật bất ngờ, cô gái quay người lại, ôm chầm lấy anh nước
mắt lưng tròng.
Vũ vô cùng bối rối vì chưa nhận ra cô là ai.
Cũng may Tiểu Đoàn hôm nay vắng vẻ, nếu không anh thật
chẳng biết giải thích ra sao về chuyện này.
-Xin lỗi cô, hình như tôi chưa được hân hạnh biết cô!
-Anh đã quên em thật rồi à! Anh Vũ - Cô gái nói trong tiếng
nấc nghẹn ngào - Em là Lan đây thôi. Em đắn đo lắm mới
dám đến đây tìm anh. Vì em nghĩ có thể anh chẳng còn nhớ
đến em đâu…
Nghe giọng nói, anh chợt nhớ đến một người:
-Lan ở Bồng Sơn phải không? Anh nhớ ra rồi. Xin lỗi, em
thay đổi nhiều quá, nên anh ngờ ngợ. Cuộc sống của em độ
này thế nào rồi? Mà thôi vào trong văn phòng chúng ta nói
chuyện, ngoài này gió hơi lạnh đó.
Cô gái ngoan ngoãn bước theo anh.
Trong văn phòng, ngoài bàn làm việc, còn có một bộ sa lông
đóng bằng gỗ thùng đạn pháo binh, kê nơi góc dùng để tiếp
khách.
Nam lăng xăng lo đi rót nước, sau đó anh ta nháy mắt với
Vũ, nói:
-Em đi qua bên Liên Đoàn có chút việc, cần gì Trung úy cứ
gọi nhe!
Vũ trừng mắt ngó Nam và nói:
-Nam hãy ở lại đây để tôi giới thiệu cho hai người biết nhau.
184 Tin Vaên
Anh giữ Nam lại để tránh tiếng thị phi sau này, hơn nữa anh
lại mới nảy ra một ý tưởng rất ngộ nghĩnh.
Nam bước đến bên ghế ngồi ghé xuống, Vũ nói:
-Đây là cô Lan tôi có dịp gặp năm ngoái, khi đơn vị mình
hành quân ở Bồng Sơn - còn đây là anh Nam Trưởng ban
quân số Đại đội - Một người đàn giỏi, hát hay và chăm học
nữa - Lại độc thân vui tính.
-Trung úy nói quá rồi!
Hai người gật đầu chào nhau!
Cô gái có vẻ bớt nỗi xúc động.
-Nào nói cho anh nghe đi! Chuyện gi đã xảy ra với em? Và
nguyên nhân nào khiến em đến đây tìm anh?
Vũ nhỏ nhẹ hỏi, sau khi đã kín đáo quan sát Lan. Cô thay đổi
quá nhiều, mới hơn một năm, mà Lan chừng như là một con
người khác hẳn. Già dặn và khắc khổ hơn nhiều.
-Chắc anh còn nhớ mình gặp nhau trong trường hợp nào phải
không?
-Nhớ chứ làm sao quên được, lần ấy em làm anh lo muốn
chết.
-Anh lo chuyện gì?
-Em thừa biết đó là khu vực quân sự, anh lại tự tiện đưa em
vào, bảo sao chẳng lo!
Cô gái trầm ngâm, mắt thoáng nét xa vắng, tay xoay xoay ly
trà nóng, có lẽ để tâm trí trở lại với chút kỷ niệm ngọt ngào -
có thể chỉ là riêng với cô - của những ngày tháng cũ.
Vũ cũng ngồi im lặng, mặc cho giòng chảy của thời gian
ngược về quá khứ.
3 Sau hơn hai tháng trời miệt mài hành quân từ Bồng Sơn lên
đến tận Tam Quan cũ.
Với biết bao chiến công và tổn thất, bao chiến lợi phẩm và
mất mát.
Đơn vị lui về đóng tại khu vực Tam Quan mới.
Nơi đây có một quận đường, với những dãy nhà xây cất kiên
cố, dọc theo hai bên trục lộ, chứng tỏ một thời hưng thịnh.
Tin Vaên 185
Nhưng, nay chỉ còn là những đống gạch vụn đổ nát, hoang
tàn. Có những nhà còn trơ lại giàn khung xi măng cốt sắt,
trông giống bộ xương người trong bài học cách trí mà anh
được học lúc còn cắp sách đến trường.
Đại đội anh đóng cuối dẫy phố, bộ chỉ huy đặt tại một căn
nhà hai tầng, cũng chỉ còn trơ lại những bức tường vôi cháy
xám đen, dấu tích của đạn bom.
Đây là thời gian cho đơn vị nghỉ ngơi, dưỡng sức.
Sáng phái hai trung đội đi lục soát mở đường an ninh trục lộ.
Chiều kéo về, nằm khểnh trên cái võng căng dưới những tàn
dừa cháy xém.
Tối lại cho mấy Tiểu Đội đi phục kích đêm, chờ đón những
con chuột mò về ăn mãnh.
Năm gần căn cứ pháo binh, nên không thiếu thốn món gì, từ
nước đá, bia rượu, đến thuốc lá, đều được các xe chở đạn
pháo binh đem lên tiếp tế, với điều kiện: Tiền trao, cháo
múc…
Đơn vị được tưởng thưởng một số huy chương, qua những
tháng ngày gian lao nguy hiểm.
Anh là Trưởng đoàn, hướng dẫn gần hai mươi anh em thuộc
cả ba Tiểu Đoàn 11, 22 và 23 Biệt Động Quân về nhận lãnh
tại Trường Tiểu Học Bồng Sơn.
Phái đoàn đi trên 4 chiếc xe jeep.
Suốt buổi sáng tập dượt nghi lễ, để đón tiếp Tư Lệnh Quân
Đoàn Khiến anh em mệt bở hơi tai dưới cái nắng gay gắt của
mùa hạ.
Những người lính trận chỉ quen với đánh đấm súng đạn,
quen say sưa chửi thề, nay phải vào khuôn phép, đi đứng
theo nhịp đếm một hai ba bốn…nên thật vất vả cho vị sĩ
quan nghi lễ.
Nhưng đã là lính thì chuyện gì chẳng làm được, nên rồi buổi
lễ cũng hoàn tất tốt đẹp.
Mọi người thở phào nhẹ nhõm sau khi tiễn vị Tư lịnh lên
trực thăng trở về Pleiku.
Một số anh em đề nghị:
186 Tin Vaên
-Bên kia cầu có một tiệm ăn, mình qua đó kiếm cái gì lót
bụng rồi hãy về, Trung úy!
Nhìn đồng hồ thấy mới hơn hai giờ chiều, Vũ bằng lòng theo
anh em đến tiệm ăn bên kia cầu.
Đó là một căn nhà lầu hai tầng, cũng phần nào ảnh hưởng
của chiến tranh, nhưng vẫn còn xử dụng được. Với tất cả
trang bị đơn sơ vá víu, nhưng thực phẩm thì không đến nỗi
nào…
Mấy tháng trời nay, mới được ăn một tô hủ tiếu nóng hổi, ai
cũng xuýt xoa, dù anh Ba tàu lai này nấu không xuất sắc lắm.
Tiệm ăn này dường như chỉ dành cho những người lính lỡ
đường, chứ chẳng thấy bóng dáng người dân nào.
Mọi người vừa xì xụp húp, vừa trao đổi ồn ào đủ thứ chuyện
trên đời. Lính mà.
Bổng dưng…Cả cái quán ăn chật hẹp đang râm ran tiếng
cười nói chợt im bặt, Vũ ngồi ở cái bàn cuối cùng, lại quay
mặt vào trong nên không biết chuyện gì xảy ra.
Có nhiều tiếng xì xào nổi lên, anh nghe một người nói:
-Ông Trưởng đoàn ngồi trong góc kìa, muốn gì cô lại nói với
ổng!
Anh chưa kịp quay lại thì nghe có tiếng thỏ thẻ của một
người con gái, giọng nói miền Bắc pha Bình Định:
-Thưa ông!
Vũ ngẩng vội lên hỏi:
-Cô cần gì?
-Tôi muốn được quá giang về lại nhà cũ.
Lúc bấy giờ Vũ mới có cơ hội quan sát người đối diện-
Đó là một người con gái trẻ, đẹp, có vẻ lanh lợi - khoảng
chừng mười tám, đôi mươi, mái tóc để dài, buông xỏa xuống
bờ vai thon, như một cô nữ sinh trung học - Nhưng gương
mặt buồn, buồn thê thảm- nhất là đôi mắt, lúc nào cũng như
long lanh ngấn lệ khiến người đối diện phải não lòng, không
dám nhìn thẳng vào đó, và có điểm đặc biệt hơn nữa, trang
phục của cô là màu đen tuyền, một màu đen tang tóc - dù cái
cái áo bà ba may rất khéo, ôm sát thân hình thanh tú của cô.
Tin Vaên 187
Một miếng vải màu trắng to bằng ba ngón tay được gài ngay
giữa ngực áo cho biết cô đang có tang chế.
Cô gái nói nhỏ nhẹ như tiếng thì thầm:
-Thưa ông! Hôm nay là một trăm ngày của gia đình tôi, xin
ông cho phép tôi theo xe các ông về Tam Quan để thắp cho
họ một nén hương được không ạ?
Vũ để ý thấy cô ta xách theo môt cái túi nhỏ, lòi lên mấy bó
nhang.
Cô năn nỉ tiếp khi thấy Vũ im lặng, và có lẽ sau khi đã thẩm
định tuổi tác của Vũ, cô đột ngột thay đổi cách xưng hô:
-Làm ơn đi mà …anh…Em chờ ở đây từ sáng đến giờ.
Không ai cho đi nhờ hết.
Giọng cô buồn ảo não.
-Trên đó là khu vực quân sự, dân chúng chưa được vào đâu
cô ạ! Vũ nhã nhặn trả lời.
-Em thấy mấy xe lớn có chở phụ nữ trên đó mờ!
-Nhưng đó là vợ con binh sĩ.
-Thì anh cứ nhận em là vợ anh đi.
Cả cái quán chợt ồn ào lên như vỡ chợ, nhìều tiếng cười nói,
la ó vang lên.Tiếng đập tay xuống bàn, tiếng huýt gió inh ỏi.
Một tay nào đó la lớn:
-Nhận đại đi ông thày! Cô em đẹp quá trời mà!
-Trung úy tui còn độc thân đó cô ơi!
Vũ vô cùng lính quýnh trước sự táo bạo của cô gái.
Anh gượng gạo chống đỡ:
-Không đi được là không đi được mà.
-Có cấm đâu, mà không đi được…
-Thì không cấm, nhưng trên đó còn nguy hiểm lắm, nên chưa
cho dân chúng hồi cư…
-Em đâu có hồi cư, em chỉ lên đó thắp cho gia đình em vài
nén hương rồi em về thôi mà!
-Sao lại gia đình?
Cô sửa lại thế đứng, một tay vịn vào cạnh bàn, dường như cô
sợ rằng khi nhắc lại những chuyện thương tâm thì cô sẽ ngã
quỵ xuống. Giọng cô xa vắng:
188 Tin Vaên
-Em ở cách văn phòng quận không xa, nên ngay đêm đầu
tiên, khi họ pháo kích vào, nhà em bị một trái đại bác. Gia
đình em có sáu người, nay chỉ còn có mình em. Ba em, chị
em, và hai đứa em của em chết ngay tại chỗ, mẹ em bị vết
thương trên đầu hiện nay còn mê man ở bịnh viện Quy
Nhơn.
Cô gái nói trong nước mắt.
Mọi người chợt như hóa đá.
Tất cả đều im lặng.
Im lặng đến rợn người.
Dường như người ta nghe được cả tiếng vo ve của các chú
ruồi đói đang bay vần vũ trên những tô hủ tiếu dở dang, mà
không ai còn muốn đụng đũa nữa.
Một nghịch cảnh khủng khiếp như thế. Ngay đến những
người cứng cõi nhất cũng có thể sụm xuống, huống chi là
một cô gái chân yếu tay mềm
Nỗi xúc động làm mọi người thốt không nên lời.
Không gian như chết lặng.
Thời gian cũng ngừng trôi.
Sự im lặng kéo dài không biết bao lâu.
Vũ trấn tỉnh trước.
Anh lướt thoáng qua khuôn mặt đầm đìa nước mắt của cô
gái, và chăm chú nhìn vào cái giỏ sách của cô.
-Không có gì trong đây đâu anh.
Cô gái thật thông minh, đã hiểu được ý anh, cô trút tất cả vật
dụng xuống nền đất. Chỉ có hai bó nhang, nải chuối cau nhăn
nhúm, nắm giấy tiền vàng mã, và một tấm bìa cứng trên đó
thây ghi tên bốn người, giống như tấm bài vị.
Cô lôi ra tấm thẻ căn cước trao cho anh, Vũ đọc lướt qua:
Trần Thị Ngọc Lan sinh năm 1954.
Sinh Quán Phủ Lý - Nam Định.
Trú quán Tam Quan - Bình Định.
-Cô người miền Bắc à? Anh hỏi
-Vâng! Em mới sinh thì cha mẹ bồng em lên tàu há mồm, di
cư vào Nam.
Tin Vaên 189
Anh chuyển tia nhìn lướt qua người cô rất nhanh, rồi quay đi
chỗ khác. Cô giũ tung vạt áo lên và nói:
-Nếu không tin, anh có thể khám xét em mà.
Mọi người cười ồ lên, phá tan cái không khí nặng nề đến
ngột ngạt.
Một lần nữa Vũ ngồi như trời trồng. Mặt đỏ rần lên tựa vừa
uống xong một cốc rượu mạnh.
Để tránh tình trạng bối rối, anh đưa tay lên xem đồng hồ, rồi
nói to:
-Anh em chuẩn bị về nghe, gần bốn giờ rồi. Trễ quá họ rút
đường hết là mệt lắm đó.
Mọi người lục đục ra xe.
Cô gái lẽo đẽo theo sau lưng Vũ.
Anh bảo tài xế ra ngồi phía sau, nhường tay lái cho anh.
-Lên đó, tôi bỏ cô xuống gần nhà, rồi cô tự tìm xe về dưới
này nhé!
-Dạ! Cám ơn anh.
Cô trả lời nhẹ như hơi thở.
4 Đoạn đường từ cầu Bồng Sơn về đến vị trí đóng quân của
đơn vị cũng khá xa.
Hai bên đường các anh em thuộc Sư Đoàn 22 bộ binh nằm
giữ an ninh, vẫn còn đó.
Xe vùn vụt lao đi, qua những ngôi làng những thôn xóm xác
xơ, chỉ còn trơ đống gạch vụn hay cột kèo cháy xém.
Những vườn dừa mênh mông với thân cây chỉ còn những
khúc ngắn ngủn, khiến mọi người thấy xót xa cho người dân
hiền lành vô tội, chỉ qua một đêm, bao nhiêu mất mát đau
thương đã đến với họ. Của cải tài sải ky cóp tích lũy bao đời,
chỉ thoáng chốc trở thành tro bụi. Ngay cả con người cũng
khó bảo toàn sinh mệnh.
Ôi! Chiến tranh, ai gây ra thảm cảnh này?
Về gần đến vùng trách nhiệm của Tiểu đoàn, mà vẫn chưa
đến nhà cô gái, anh tỏ vẻ âu lo:
-Nhà cô ở tận đâu vậy?
190 Tin Vaên
-Dạ ngay gần Quận ấy mà!
Đã vào đến vùng đóng quân của Liên Đoàn.
Các xe khác lần lượt tách về đơn vị họ, anh liên lạc với bộ
chỉ huy cho biết đã hoàn tất nhiệm vụ và trở về đến nơi.
Còn cách căn nhà mà đại đội anh đóng không xa, cô gái nói
to:n-Nhà em đó! Vũ rẽ xe vào sân. Anh tự hỏi sao lại có sự
trùng hợp kỳ lạ như thế này. Định mệnh nào run rủi, anh lại
đóng quân ngay tại căn nhà hai tầng lầu bỏ hoang của cô gái
khốn khổ này. Cô bước vội xuống xe, một số anh em xúm
lại. Họ đến thăm hỏi anh thì ít. Mà xem mặt cô gái thì nhiều.
Lan nhìn anh vẻ dò hỏi:
-Cô muốn vào nhà thì cứ tự nhiên, nhưng đừng đi ra ngoài
quá xa.
Ngọc Lan bước vào nhà, nước mắt chảy dài.
Gọi là nhà, chứ thật ra mọi thứ đã bị hủy diệt hết rồi.
Chỉ còn lại cái khung với những bức tường xi măng mang
đầy dấu đạn.
Cô dẫn anh đi chỉ từng chỗ:
-Nơi này ba em đã chết, và mẹ em bị thương. Trên lầu thì
một người chị và hai đứa em đã ra đi.
Cô vừa nói vừa khóc. Tiếng khóc nghẹn ngào khiến lòng Vũ
cảm thấy hết sức bất nhẫn, thương cảm cho cô và cho thân
phận những người dân hiền lành vô tội.
Sau khi đi hết các nơi trong nhà, cô xuống tầng dưới, dẫn
anh ra khu phía vườn sau, đến bên một ụ đất thấp, nói:
-Ba em, chị em và hai đứa em của em nằm đây, nhờ mấy anh
lính Sư Đoàn chôn vội họ, trước khi di tản em xuống Bồng
Sơn cùng với mẹ em.
Lan vừa khóc sụt sùi vừa lôi mọi thứ từ trong cái túi nhỏ ra,
bày biện trên một tờ báo cũ: nào chuối, nào giấy tiền vàng
mã và tấm bài vị, xong cô đánh diêm đốt nhang và quỳ sụp
xuống. Tiếng khóc của cô vỡ òa giữa cảnh điêu tàn đổ nát,
trong bóng chiều hoang lạnh khiến mọi người không ngăn
được xúc động.
Tin Vaên 191
Cô rên rỉ: Bố ơi! Chị Mai ơi! Tuấn, Tú ơi! Sao các người nỡ
bỏ con mà đi như thế?
Và rồi nằm phục bên nấm mồ, như một thân cây bị chặt
ngang. Dường như tất cả đã vượt quá sức chịu đựng của cô
rồi. Vũ thấy lòng xót xa vô ngần.
Anh nghe mằn mặn nơi đầu môi. Nhưng vẫn để cho cô tiếp
tục khóc, mong có thể vơi bớt nỗi thương đau.
Khi bóng chiều đã ngã sang màu tím thẫm, tiếng khóc của
Lan cũng nhỏ dần.
Anh bước đến dìu cô đứng dậy, nói:
-Thôi đi vào nhà đi Lan, ở đây sương xuống sẽ nhuốm bệnh
đó. Cô như một kẻ không hồn, mặc cho Vũ dìu đến bên chỗ
nằm của anh. Đó là một khoảng trống ngay dưới chân cầu
thang, kê bằng mấy cái thùng đạn pháo binh và trải lên bởi
một tấm Pon cho.
Thái, âm thoại viên đại đội bước đến bên anh, nói khẽ:
-Tiểu đoàn trưởng muốn gặp Trung úy.
Vũ biết có chuyện không ổn rồi. Anh bước đến cầm ống
nghe: - Victor tôi nghe đây Đại Bàng!
-Mày chở gái vào vị trí đóng quân hả Victor? - Tiếng ông
Tiểu Đoàn Trưởng già vang lên trong máy.
-Đâu có Đại Bàng - Anh hạ thấp giọng - Hoàn cảnh của cô
ấy đáng thương lắm Đại Bàng ơi!
-Coi chừng bị lợi dụng thì chết cả nút - Ban hai Liên Đoàn
muốn mày đưa cô ấy lên cho họ gặp đó.
-Tôi coi chừng cô ấy được mà.
-Mày biết là chỉ có thân nhân mới được vào vị trí đóng
quân…
-Thì cứ coi như cô ấy là vợ tôi đi.
-Mày bảo đảm không?
-Chắc ăn như bắp - Đại Bàng yên tâm đi - Tôi chịu trách
nhiệm cho.
-Tao tin mày.
-Cám ơn Đại Bàng! Chúc Ông ngon giấc.
192 Tin Vaên
Vũ thở phào nhẹ nhõm, nhưng anh biết rằng đêm nay sẽ là
một đêm không ngủ.
5 -Anh Vũ nè! Hình như hôm đó anh thức trắng đêm thì phải?
Tiếng Lan vang lên, lôi anh về thực tại.
-Đúng thế!
-Tại sao vậy?
-Để canh chừng em chứ tại sao.
-Canh chừng cái gì? Anh sợ em là đặc công Việt Cộng à?
-Không hẳn như vậy, nhưng anh không muốn có một bất trắc
gì xảy ra trong đêm hôm ấy.
-Anh đã nhận em là vợ anh rồi mà!
-Sao em biết điều đó?
-Lúc anh nói chuyện em nghe được cả - dù rằng anh đã cố
nói nhỏ giọng xuống.
-Xin lỗi em! Anh nói thế để em không bị đưa lên ban hai
Liên Đoàn - Ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng cũng thừa biết
là anh nói dối, anh có vợ hay không ổng biết rất rõ - nhưng
vì tin anh nên ổng cũng bỏ qua - Anh không muốn làm mất
lòng tin nơi thượng cấp. Đúng là một đêm thức trắng. Thật
ra, thấy hoàn cảnh của em như thế, anh rất cảm thông và coi
em như một như người em gái mà thôi.
Bây giờ em hãy cho anh biết tình hình sức khỏe mẹ em ra
sao?
-Cám ơn anh! Mẹ em mất rồi - Lan chùng giọng xuống,
dường như cô không còn nước mắt để khóc nữa - Sau khi lo
hậu sự cho mẹ xong, em đến đây tìm anh ngay - Vì trên đời
này, em không còn bất cứ một người thân thuộc nào cả. Như
em đã nói với anh trong cái đêm ở căn nhà cũ, năm ấy - em
đang học lớp đệ nhị ở Quy Nhơn- về thăm nhà và gặp thảm
cảnh tang thương như thế đó. Em biết anh là một người tốt,
nên đánh liều lên đây tìm anh, mong anh có thể giúp đỡ em
vượt qua giai đoạn vô cùng nghiệt ngã này…
Vũ ngồi im lặng, trầm ngâm suy nghĩ…
Có tiếng xe Hon Da dừng lại trưóc văn phòng.
Tin Vaên 193
Hoa bước vào, rực rỡ và tươi mát, cô mặc một cái áo dài màu
Hoàng Yến, khoác bên ngoài chiếc áo len màu tím sẫm làm
nổi bật nước da trắng ngần.
Cô chợt chựng lại khi nhìn thấy Lan và Nam, nhưng không
thấy Vũ, vì anh ngồi khuất trong góc. Cô lên tiếng:
-Xin lỗi anh Nam nhé! Tôi không biết anh đang có khách.
Nói xong cô toan lui bưóc, Nam vội nói:
-Hổng phải khách của tui đâu chị Hoa.
Lúc ấy Vũ mới lên tiếng:
-Em vào đây ngồi chơi đã Hoa! Anh giới thiệu cho hai người
quen biết nhau.
Hoa bước hẳn vào trong phòng, ngồi xuống chỗ trống bên
cạnh Lan, hai người gật đầu chào nhau.
Vũ vắn tắt kể cho Hoa nghe về cuộc đời của Lan - Từ lúc
tình cờ anh gặp cô cho đến nay.
Nét mặt Hoa thay đổi theo từng chi tiết của câu chuyện.
Đến khi nghe mẹ Lan cũng vừa mất thì Hoa đã không còn
ngăn đuợc nước mắt. Cô xoay sang cầm tay Lan, vỗ nhè nhẹ
như an ủi.
Lan cảm nhận được tấm chân tình Hoa dành cho mình.
-Thế bây giờ Lan tính sao? Hoa thân mật hỏi.
-Em cũng chưa biết nữa chị ạ!
-Nhà tôi ở trong trại gia binh khá rộng rãi, còn một phòng
trống của ông anh tôi, đã tử trận cách đây hai năm. Nếu Lan
không e ngại, tôi về thưa chuyện với ba má tôi dành cái
phòng đó cho Lan.
-Em cám ơn chị nhiều lắm!
-Bệnh xá chỗ tôi đang làm việc cũng đang cần một nhân viên
hành chánh. Để sau tết tôi hỏi chỗ ấy cho Lan.
-Trời ơi! Nếu được như thế thì may cho em quá!
Ba má tôi đang chuẩn bị cúng đón ông bà, mời mọi người ra
dùng cơm luôn!
Vũ thở phào nhẹ nhõm, Hoa đã giúp anh giải quyết một vấn
đề hết sức nan giải và tế nhị. Anh còn độc thân, đâu có lý do
194 Tin Vaên
nào dể cho Lan ở trong cư xá Sĩ Quan. Mà thuê nhà cho cô ở
bên ngoài thì tránh sao khỏi những lời dị nghị đàm tiếu.
Cũng không thể bỏ cô bơ vơ trong hoàn cảnh như thế này.
Anh nhìn Hoa bằng ánh mắt trìu mến và cảm kích, khiến cô
phải đánh trống lãng:
-Mau mau lên để Ba má chờ lâu, bị la đó!
Mọi người vui vẻ đứng lên. Nam nói:
-Chị Hoa đưa Honda đây tui chạy, để Trung úy chở mọi
người cho tiện.
Hoa đưa chìa khóa cho Nam dắt tay Lan ra xe, hai cô tự
động leo lên băng sau.
Vũ quay xe ra phía cổng sau của Tiểu Đoàn, hướng về khu
trại gia binh.
Qua khỏi bãi đáp Trực thăng không xa, là đã đến những dãy
nhà đầu tiên của Trại gia binh. Nhà nào cũng quét dọn sạch
sẽ, ngăn nắp để chuẩn bị đón mừng Xuân mới.
Nhà Thượng sĩ Ba, là thân phụ của Hoa, cũng được sơn phết
lại cẩn thận.
Giàn hoa giấy trước nhà đang trổ bông đỏ ối, bên cạnh
những cụm mai vàng rực rỡ làm khung cảnh thêm ấm áp,
yên bình.
Xe ngừng lại trước nhà, Thượng sĩ Ba mau mắn bước ra, nói:
-Vô nhà mau đi Trung úy! Tất cả sẵn sàng hết rồi. Ủa! Còn
ai đây?
Ông hướng mắt nhìn Lan và hỏi. Cô khẽ cúi đầu chào ông.
-Để vào nhà con nói chuyện cho ba nghe! Hoa trả lời.
Trong nhà trang hoàng theo đúng phong tục cổ truyền để đón
mừng Xuân:
Cũng bánh chưng xanh. Cũng câu đối đỏ.
Bàn thờ khói hương nghi ngút.
Thức ăn được sắp xếp trịnh trọng trên cái bàn dài kê giữa
nhà. Bà Ba đang đứng khấn vái trước bàn thờ Tổ Tiên.
Đợi bà quay ra, Hoa nói:
-Thưa ba má! Đây là cô Lan người ở Tam Quan, cả gia đình
bị pháo kích chết hết năm 1972. Nay tứ cố vô thân, con đem
Tin Vaên 195
về đây xin ba má cho cô ấy ở tạm trong căn phòng của anh
Hai, ba má nghĩ sao?
Bà Ba bước đến cầm tay Lan, kéo sát vào lòng, nói đầy vẻ
thương cảm:
-Trời ơi! Tội nghiệp con gái chưa! Xinh xắn thế này mà bạc
phước. Thôi cứ ở đây với hai bác đi, có rau ăn rau có mắm
ăn mắm, mình cùng là nạn nhân của chiến tranh cả mà.
Có lẽ cháu nhỏ tuổi hơn con Hoa nhà này đấy nhỉ?
-Dạ cháu vừa tròn hai mươi tuổi ạ!
-Thế thì làm em con Hoa được rồi. Hoa đã hai mươi hai cơ
đấy. Cháu chịu làm con nuôi hai bác không? Nhà bác cũng
đơn chiếc lắm.
-Con xin đội ơn hai bác và chị Hoa đã cho con tìm lại được
tình thân gia đình. Lan sụt sùi cảm động.
-Giờ này mà còn gọi bằng Bác nữa sao? Nam lên tiếng ghẹo
Lan.
-Dạ! Dạ! Ba má … Lan lắp bắp.
Ông Ba lên tiếng:
-Thôi mọi người ngồi vào bàn đi, thức ăn nguội hết rồi. Bà
vào lấy thêm chén đũa cho con nó. Để tôi bưng hũ rượu nếp
than ra đây ăn mừng nhà mình có thêm thành viên mới.
Đợi ông bà đi khuất, Nam lên tiếng:
-Đáng lẽ là em chồng, bây giờ lại trở thành em nuôi!
-Anh nói thế nghĩa là sao?
-Hồi sáng Trung úy nhận cô Lan là em gái. Như vậy đối với
chị không là em chồng thì là gì nữa?
Hoa đỏ mặt sung sướng, nhưng cũng nguýt Nam một cái dài
sọc, nói:
-Ai bằng lòng lấy ông Vũ nhà anh hồi nào đâu mà em chồng
em vợ.
-Thôi không em chồng nữa! Bây giờ thành em nuôi rồi mà!
Cô Lan bây giờ không biết là em …gì của anh Vũ há? Nam
vẫn chưa tha
Cái anh Nam này thiệt cắc cớ!
-Ê! Nam, mày “chèo” với tao không. Vũ chen vào, đùa cợt.
196 Tin Vaên
-“Trèo” cái gì Trung Úy?
-Thì… “chèo”… đó mà!
-Em không hiểu ông muốn nói gì!
- Cái thằng này! Mày lo học quá đâm đờ đẫn cả người ra!
Sắp ra Luật sư rồi, chẳng lẽ tao nói vậy mày không hiểu hay
giả vờ không hiểu.
-Em không hiểu thật mà. Hỏi thử chị Hoa và cô Lan xem hai
người có biết Trung úy muốn nói gì không?
-Thày trò nhà anh nói chuyện úp mở như thế, ai mà biết Hoa
vừa cười vừa nói.
Ông Ba bước ra, lên tiếng giải thích:
-Ý Trung úy nói là ổng “chèo lái “ còn mày “chèo mũi “đó
Nam. Vì con Hoa và con Lan nay là hai chị em mà! Bà Ba
cũng vừa sắp thêm chén đũa, vừa phụ họa:
-Được vậy thì vui biết mất phải không các con?
Nam và hai cô gái cùng đỏ mặt vì mắc cỡ.
Riêng Vũ, thấy lòng vô cùng ấm áp với những tình cảm thân
thương ông bà đã dành cho anh.
Họ đã khiến anh như đang được sống trong mái ấm gia đình
vào những ngày đầu Xuân.
Lan bước đến ôm chầm lấy bà Ba, nói trong tiếng nấc:
-Con ngàn lần cám ơn Ba Má! Ba Má đã cho con có được
tình yêu thương và mái ấm gia đinh. Ba Má và chị Hoa, cùng
các anh đây đã mang cho con mùa Xuân mà mấy năm nay
con không hề có. Một mùa Xuân hết sức ngọt ngào, đầm
ấm…
Ngoài kia, tiếng pháo nổ dòn như reo vui, chuẩn bị đón
chào một mùa Xuân mới…
Dương thượng Trúc / 12/2006
Tin Vaên 197
@Nguyễn Phan Ngọc An Cánh thư Xuân
Nếu mỏi cánh hải âu đừng bay nữa
Vòm trời xa lác đác hạt mưa rơi
Mây vần vũ gió chiều lên bão lớn
Và đêm nay là đêm tối giao thừa
Em có nhớ những gì em đã hứa
Mang thư xuân về rải khắp trần gian
Mang niềm vui mang hạnh phúc chứa chan
Hầu vá lại mảnh hồn hoang vỡ vụn
Xuân rực rỡ cho tiết đông tàn lụn
Hoa mai vàng thay những giọt sương pha
Nàng xuân ơi, nàng hãy đến bên ta
Ôi tuyệt mỹ, trời cho ta bỗng lộc
Đến đây em hỡi tấm thân ngà ngọc
Ru hồn ta vào giấc mộng liêu trai
Dáng em đi, ôi liễu yếu trang đài
Ta ngây ngất hỡi nàng xuân trong mộng
Em vẫn đến dù bão chiều gió lộng
Thân ly hương trên mảnh đất phù sa
Cách trở địa cầu, em vẫn bước qua
Em là cả thiên đường ta mong đợi
Rồi một sớm ta nghe buồn vời vợi
Nắng hạ hồng che khuất dáng xuân tươi
Đêm trở giấc tim ta buồn rười rượi
Ngày lang thang như kẻ mất tình nhân …
www.trangthongocan.blogspot.com
198 Tin Vaên
Yên Sơn Bút Ký Chuyến Đi Sydney
(trích đoạn)
Suốt hơn tuần lễ ở Melbourne đầy rẫy những sự kiện;
tình cảm thân thương của bạn bè và người thân để lại trong
lòng tôi bao niềm vui chan chứa. Thế nên:
Tôi vẫn hát dưới bao vầng nhật nguyệt
Nghe dư âm lồng lộng buổi thu vàng
Vẫn nô giỡn với bạn bè thân thiết
Có ngại gì mưa gió chở mùa sang
Vâng, đâu có ai ngại gì khi chung quanh ta toàn là những
gương mặt thân thương của bè bạn; nhất là Úc châu đang
trong mùa xuân. Cái se lạnh đầu xuân rất dễ thương làm
thăng hoa cho những chiếc áo khoác hững hờ trên bờ vai con
gái…
* * *
Tiếc thay phải Giã từ Sydney Sáng thức dậy uống café và ăn tiểm tâm nhẹ, thu xếp lần
cuối, làm xong thủ tục trả nhà, chúng tôi lên ga Trung Tâm
để lấy vé xe điện đi phi trường thật là tiện lợi và có lẽ là
phương tiện dễ dàng nhất và rẻ nhất (chỉ tốn có $15/người).
Sau khi mua vé xong, thấy còn dư thì giờ, chúng tôi nhảy lên
xe điện đi Haymarket rồi Fish Market. Đã mấy lần trong
những ngày qua đều muốn đi những chỗ này mà không có
dịp.
Tin Vaên 199
Tới Fish Market mới biết tại sao nó nổi tiếng. Cả một
khu chợ rộng lớn bên cạnh bờ biển, người đông như trẫy hội,
chen lấn nhau đi, người mua kẻ bán, ăn uống cười nói trong
một không gian đầy âm thanh hổn tạp, cộng hưởng với mùi
tôm cá thơm phức trộn lẫn tanh nồng. Phần đông chủ quán
đều là người Á đông. Tiếng Tàu, tiếng Việt nghe thoải mái…
Đi chưa hết một vòng thì đã đến giờ phải lên phi trường,
chúng tôi đành chia tay mà không có dịp thưởng thức những
món đồ biển hấp dẫn, bày bán la liệt.
Nhảy lên xe điện về lại ga Trung Tâm, chuyển qua xe
lửa lên tới phi trường. Anh Lợi đứng chờ trước cổng vào,
chúng tôi vui vẻ thăm hỏi sinh hoạt của nhau trong những
ngày qua rồi làm làm thủ tục lên máy bay trở lại Melbourne
sau khi liên lạc với Hùng để đón chúng tôi ở phi trường.
Đáng lẽ cô chú Quỳnh Hương và Thảo đón chúng tôi về ở
với nhau thêm một hôm nữa rồi sáng hôm sau đưa ra phi
trường về Mỹ, nhưng thấy “làm phiền hai người hơi nhiều
rồi”; lại nữa, cùng đi với anh Lợi qua đây mà không có nhiều
thời gian với nhau, và cũng chưa có cơ hội hàn huyên với
cặp Hùng Trà kể từ ngày gặp lại nhau ở Nha Trang hai chục
năm về trước…
Tuy nhiên, về tới nhà rì rào chia sẻ với anh Lợi và Hùng
về những sinh hoạt mấy ngày qua, xong nghỉ ngơi một lúc
đến 6g chiều, Lê Phú tới đón chúng tôi về nhà cũng là Arts’s
Studio của chàng để gặp anh chị em lần nữa trước khi chúng
tôi ly biệt đất nước này. Anh Lợi và Hùng chỉ muốn nghỉ ở
nhà nên vợ chồng tôi đi một mình.
Gặp lại nhóm bạn văn nghệ sĩ Melbourne lần cuối. Nhà Lê Phú chỉ cách nhà của Hùng khoảng 15 phút lái xe.
Hôm nay là ngày Thứ Năm, số đông anh chị em còn phải đi
làm nên khi chúng tôi tới nơi chỉ có thưa thớt một vài người
và Mai Linh đang lo thức ăn trong bếp. 5, 10 phút sau anh
chị em bắt đầu lai rai tới cho đến khoảng 7g thì đầy nhà, 8g
thì đi đâu cũng đụng đầu nhau.
200 Tin Vaên
Nhà Lê Phú còn được gọi là Le Phu Arts Studio. Mọi góc,
mọi vách, mọi nơi đều có tranh vẽ, hình tượng điêu khắc rất
độc đáo. Có lẽ tôi không biết gì về điêu khắc nên nhìn một
lượt các bức tượng điêu khắc không thấy được cái giá trị
đích thực và ý nghĩa đặc trưng của nó cho tới khi được Lê
Phú giảng giải mới vỡ lẽ mà ngưỡng phục đầu óc tưởng
tượng siêu đẳng của Lê Phú.
Buổi họp mặt hôm nay vì là ngày trong tuần nên một số anh
chị em không thể tới được; tuy vậy, ngoài chủ nhà Lê Phú và
Mai Linh, còn có sự hiện diện của Tina, Dáng Thơ, chị
Thanh Mai của nhóm vũ Âu Cơ, anh chị Thuỵ, Ngọc Nương,
Anh Minh, anh Khang, Minh Hiếu, Kiều Tiến Dũng, anh
Quế, anh Sơn; đặc biệt có anh bạn trẻ, nhạc sĩ Vũ Lâm rất
chuyên nghiệp với keyboard và saxophone.
Sau bữa ăn thịnh soạn, là phần văn nghệ góp vui. Giống như
Thứ Sáu tuần trước ở nhà hàng Nhị Nương, mọi nguời tích
cực đóng góp vào các tiết mục văn nghệ thật đa dạng làm
niềm vui lan toả đến mọi tâm hồn như chưa từng vui hơn. Sự
hiện diện của những tâm hồn văn nghệ làm cho buổi sinh
hoạt rất sôi nổi và hào hứng. Cám ơn Vũ Lâm, sự góp mặt và
tiếng đàn, giọng hát của bạn, của anh chị em tối hôm đó đã
theo tôi suốt hành trình trở lại Mỹ. Và bây giờ ngồi viết
xuống những dòng chữ đầy kỷ niệm này, tôi hình dung từng
gương mặt và nụ cười của từng
người cũng như nét đam mê của
Vũ Lâm khi trình tấu những dòng
nhạc nổi tiếng với âm thanh của
tiếng kèn Saxophone lồng lộng.
Khi Vũ Lâm ngỏ ý ra về, thế là
buổi họp mặt có lý do tốt để đi dần
đến kết thúc. Lê Phú ưu ái tặng vợ
chồng chúng tôi một bức điêu
khắc có tên là “Empathy” (Đồng
Cảm). Theo Lê Phú, bức tranh này
Tin Vaên 201
đã được triển lãm ở Hội Chợ Điêu Khắc Quốc Tế và rất được
giới hâm mộ yêu thích. Tôi cảm động tiếp nhận món quà
tặng vô giá này của người bạn đa sĩ dễ thương với lòng biết
ơn sâu xa. “Vô giá” vì tấm chân tình của tác giả khi đem một
tác phẩm đắc ý của mình tặng cho bạn. Cách hành xử này
quả thật không thể tính bằng vật chất. Còn về ý nghĩa đích
thực của bức tượng, xin quý vị đọc phần ghi chú ở cuối bài
để thấy sự siêu đẳng của trí tưởng tượng mà điêu khắc gia
đặt vào nó.
“Ra về nắm áo kéo xoay, trả bao nhân nghĩa lại đây rồi về”.
Không nói thì ai cũng biết, có cuộc chia ly nào không buồn,
không bịn rịn, không lưu luyến. Nhưng… “đến và đi cũng
chỉ là một chữ duyên”. Kể như duyện hội ngộ của tôi với anh
chị em xứ Kangaroo đã đến lúc hạ màn; Lê Phú đưa vợ
chồng tôi về lại nhà Hùng trên đường khuya yên vắng sau
khi mọi người cố gắng tan hàng.
Về đến nhà mọi người còn thức, tôi và Hùng lai rai thêm vài
chai ân tình và anh Lợi của chúng tôi vẫn với nụ cười cố hữu
mỗi khi cụng ly trà nóng. Chúng tôi tiếp tục tâm tình cho đến
khuya trong khi nhà tôi sắp xếp lại hai cái vali vì Hùng Trà
mới tặng thêm một ít vật kỷ niệm của xứ down under. Hùng
nói đã lấy hai ngày nghỉ ở nhà để loanh quanh với mấy anh
em và sang mai sẽ đưa chúng tôi đi dạo Melbourne lần cuối
cùng.
Ngày cuối của chuyến đi Úc châu Sáng thức dậy, Trà đã đi làm, anh em uống xong cử cà
phê, lên xe Hùng đưa đi ăn sáng ngoài phố VN. Hùng nói sẽ
đưa tới một tiệm Phở quen thân với chủ nhân, tiệm không
những nổi tiếng ở Melbourne mà đã từng được giới thiệu bởi
MC Việt Thảo trong chương trình DVD ca nhạc nào đó tôi
quên mất tên, nơi mà những ca nghệ sĩ phương xa đến vùng
này trình diễn thường tới. Đó là tiệm Chú Thể, kế bên khu
chợ VN ở Footscray.
Đường tới tiệm phải đi ngang qua chợ sau khi đậu xe trên lầu
chợ. Tình cờ gặp Bác sĩ Vương Trung lại là một võ sư đang
202 Tin Vaên
hợp tác dạy Vovinam ở Chùa Quang Minh cùng với Võ sư
Diệp Thu. Mấy hôm ở đây tôi cũng nghe vài người nhắc đến
chàng BS trẻ tuổi tài cao này khi thảo luận về võ thuật VN ở
Melbourne, hôm nay được gặp. Như vậy kể như tôi gặp được
hầu hết các võ sư VN đã và đang hoạt động võ thuật trong
vùng này. Vương Trung đang giúp mở cửa hàng trong chợ
thay cho vợ sắp tới. Trò chuyện một lúc, chúng tôi qua tiệm
trước và Vương Trung gia nhập một lúc sau. Vương Trung là
một người trẻ có lòng, tính tình hiền hoà, đôn hậu, dễ thân
tình, cở mở, là một người trẻ đa năng, đa tài. Rất vui gặp
bạn.
Sau khi dùng bữa, ai cũng công nhận phở ngon. Và
chúng tôi lại lên xe chạy dọc theo bờ biển, chạy qua những
khu nhà giàu, những dinh thự với giá tiền cao ngất ngưởng…
chạy rất lâu, rất xa mà bờ biển hãy còn dài mịt mùng. Hôm
nay nắng ấm, biển xanh, cát trắng phau và trời cao vút…
Anh Lợi là người yêu nghệ thuật, thích cảnh đẹp nên tôi đề
nghị đưa anh đến thăm Chùa Quang Minh dù anh chính hiệu
đạo dòng Thiên Chúa giáo.
Khi đang trầm trồ xem quang cảnh và cấu trúc, tình cờ Hùng
gặp lại một người bạn năm xưa, ông ta vốn là lính chiến nay
biến thành nhà sư. Hai người nói chuyện với nhau có vẻ tâm
đắc lắm. Nhà sư rất vui tính, chơn chất, dễ thân thiện. Nhà sư
cho biết là sẽ ở lại đây tu học vả làm Phật sự một thời gian
dài. Nhà sư dẫn dắt chúng tôi thăm viếng các nơi trong chùa
từ trong ra ngoài. Chúng tôi thăm phòng dạy võ của môn
phái Vovinam, nơi mà võ sư Diệp Thu (tôi đã gặp ở
Houston, nhân dịp võ sư tham dự ngày giổ Tổ của môn phái
này) và Vương Quang dạy mỗi tuần. Phòng tập nằm bên
cạnh một đại sảnh bề thế, có thể chứa nhiều ngàn người,
nguyên là sân khấu cho những buổi trình diễn ca nhạc chính
thức trong những dịp lễ lớn của chùa hoặc làm văn nghệ gây
quỹ. Sau đó nhà sư cùng lội bộ với chúng tôi xuống triền núi,
dọc theo dòng sông, qua công viên thay cho buổi thiền hành
của sư ngài.
Tin Vaên 203
Dạo quanh gần hai tiếng đồng hồ, chúng tôi ra về nghỉ ngơi,
chuẩn bị cho bữa tiệc chia tay với gia đình Hùng ở St.
Albans chiều nay.
Hùng Trà có hai con, một trai một gái. Hai cháu đều xinh
đẹp, lễ phép, học giỏi, hiếu thảo. Mấy hôm nay chúng tôi
cũng có gặp trong giây lát nhưng hôm nay, Ba Mẹ chúng nó
sắp xếp để có bữa cơm chia tay với các bác khi các cháu
xong việc ở trường về.
6g chiều chúng tôi tới quán, một lúc sau vợ chồng VS Võ
Hồng Sinh tới. Tự nhiên trở thành tiệc chia tay của những
người Thần Phong một thời Tân Sơn Nhất mới gặp lại nhau
nơi đất khách quê người.
Một nhà hàng Tàu nằm trong khu Việt Nam. Ngó đâu cũng
thấy bảng hiệu VN, người mua kẻ bán hầu hết là người Việt.
Một nhà hàng rộng lớn, đông nghẹt khách; cách trần thiết rất
lạ mắt. Và đặc biệt thức ăn ở đây món nào cũng ngon; tôi
cảm thấy có lẽ đây là nhà hàng ngon nhất từ lúc qua Úc tới
giờ. Tôi lại chợt nghĩ về Chợ Lớn một thuở Saigon. Hai cháu
nói tiếng Việt rất giỏi, lịch sự và lễ phép. Đồ ăn thức uống ê
hề, câu chuyện dòn dã, chuyện quá khứ, hiện tại, tương lai
lẫn lộn nhưng chuyện tái ngộ không ai biết đâu mà hẹn với
hò.
Rồi cũng đến lúc phân ly. Giã từ vợ chồng VS Sinh,
chúng tôi quay về nhà để chuẩn bị lên phi trường kết thúc
chuyến đi vào khuya nay. Chợt động tâm ngân nga bài hát
“Khuya Nay Anh Đi Rồi” của Châu Kỳ... “Gió lạnh lạnh
buồn ơi, Khuya nay anh đi rồi, Bao nhớ nhung xa vời, Ôi nói
không nên lời, Để cạn niềm yêu mến anh. Phút gần gũi này
thôi, Khuya nay anh đi rồi, Tay nắm tay không rời, Mắt
ngắm xa chân trời, Mà lòng nghe nhớ thương hoàị…” mà
lòng buồn vời vợi.
Có bịn rịn, có quyến luyến cho lắm thì cái gì tới đã tới, tới
nhanh hơn mình muốn là đàng khác. Vợ chồng Hùng Trà
đưa chúng tôi lên phi trường trở về chốn cũ. Cám ơn ân tình
của các em đã dành cho các anh chị trong những ngày qua.
204 Tin Vaên
Tạm biệt các em. Tạm biệt xứ Kangaroos và những bạn bè
thân mến. Chuyến đi hăng hái bao nhiêu chuyến về mệt mỏi
bấy nhiêu. Nhưng nếu có thể quay lại một lần nữa, tôi chắc
cũng sẽ hăng hái như thường.
Viết xong cuối tháng 11/2016
Ghi chú: Xin chia sẻ với bằng hữu Ý nghĩa của bức điêu
khắc của Lê Phú tặng Yên Sơn.
http://lephumelbourne.blogspot.com.au/search?updated-
max=2013-12-17T14:27:00-08:00&max-results=15″>
Lê Phú
Âm Dương cuộc đời
Cuộc đời của ta đều có những buồn/vui
Có những thắng/trầm, có hy vọng và buồn tủi
Hạnh phúc trong âm vang reo rắt
Như những nhạc khúc êm đềm rộn rã…
Có những bất hạnh trong đau thương oan trái,
Như những nhạc khúc buồn lê thê não nề.
Nhưng vẫn có những giấy phút thăng trầm
Trong yên lặng thổn thức
Như những nhạc khúc không lời
Để chiêm nghiệm cuộc đời.
Tin Vaên 205
Quang Dương Mua quà tặng em
Chủ nhật theo vợ đi shopping
Đường thênh thang như lạc vào mê động
Thân nhỏ con giữa shopping to rộng
Tay chân dư thừa thiệt chẳng giống ai
Đi dạo một vòng - chợt nhớ - cũng còn may
Anh đang có nhân quyền . Anh đang ở Mỹ
Anh đã đến một nơi từ quá khứ
Để đi tìm mua ít món tương lai
Nước Mỹ bày hàng như thể trong tầm tay
Súng lục - dao găm -tự do - dân chủ
Hàng đặc biệt onsale : nhân nghĩa
Dành bán riêng cho những người thừa thải từ tâm
Món hàng dùng khi trở lại Việt Nam
Để làm kẻ xem hoa cỡi nguyệt
Giữa nước Mỹ lắm trò y như thiệt
Anh không biết mua gì để tặng cho em
41 năm vẫn không đủ từ tâm
Để mua món cam lòng khi quê nhà đang khóc
Khi đất và biển đã và đang mất
Tuổi cũng giờ đang chạm ngõ hoàng hôn
Lực bất tùng tâm nên lời thơ toàn buồn
Vẫn hy vọng trời cao là có thật
Dù tóc đã không còn đen như trước
để món quà gói đủ trọn trăm năm
Đành mua tặng em món đau thắt lặng thầm
206 Tin Vaên
Ngô Sĩ Hân Sợi nắng mong manh
“Người yêu ơi! Muốn gửi Anh sợi nắng
“Cho một đời của kiếp sống phi công…” (Bạch Mai, Gửi Anh Sợi Nắng)
Lúc này đang vào tháng đầu mùa xuân. Đã qua rồi những
ngày rét mướt và cũng đã qua rồi những ngày anh ta bận bịu công
việc. Thời tiết đã ấm lại và đã thấy mặt trời. Ánh nắng ban mai
nhuộm vàng không gian bên ngoài khung cửa kính. Trong nhà,
Lộc đang sửa soạn bữa cơm trưa. Điện thoại reo, tiếng bên kia đầu
dây, “Lộc hả? Mạnh khỏe hôn?” Cô chưa kịp trả lời thì anh ta nói
luôn, “Nhân có công chuyện chạy ngang, nếu em rảnh anh ghé
chơi một chút.” Lộc bối rối vì thằng con đã đi học nhưng cô buột
miệng: “Dạ em không có bận chuyện gì. Anh ghé chơi đi.” Giáp với Thành phố Utica về hướng Đông, khu thương
mại ở con đường 59 gần cầu xa lộ 53 khoảng mười năm trước còn
lơ thơ, nay trở nên sầm uất từ khi những công ty lớn Home Depot,
Office Max, Art Van, Osaka Japanese Steak House, và chỗ bán xe
Lexus… về đóng đô và đồng thời cây xăng cũng như tiệm neo
mọc rộ lên hai bên đường chạy dài hai ba dặm để đáp ứng nhu cầu
cần thiết cho khách hàng. Con đường Schoenherr từ đoạn này lên
hướng Bắc thời gian gần đây mở thành hai chiều để thỏa mãn lưu
lượng xe cộ ngày càng nhiều dẫn tới con đường Lakeside nơi có
dải chung cư ba tầng.
Từ hồi khu thương mại nở rộ thì người có đầu óc nhạy bén
mới đầu tư vào ngành xây cất nhà cửa nhất là khi thị trường địa ốc
sau thời kỳ khủng hoảng tưởng phá sản bắt đầu lên trở lại. Theo
lịch sử, thị trấn này hình thành trước khi Tiểu bang Michigan gia
nhập Liên bang đầu năm 1837. Còn người dân thì nói thị trấn này
xuất hiện từ hồi cuối thế kỷ 18 còn dấu tích của một đất nước có
nền văn minh khá sớm từ trời Âu lúc nhà độc tài Hitler chưa ra
đời. Cho nên, theo cách thiết kế dàn đèn theo luống giữa đại lộ nó
cũng còn mang dáng dấp một thành phố cổ. Nhưng khu mới này
hoàn toàn thực tế mà tầng trệt dưới cùng thường dùng làm văn
phòng hoặc cơ sở làm ăn.
Đã trôi qua 5 phút… 10 phút… rồi 15 phút.
Tin Vaên 207
“Anh đâu rồi?” Lộc nôn nóng gọi lại.
“Gần tới.” Cương mới lái xe tới trước nhà tìm chỗ. Anh đã
đậu xe tuốt đầu kia khu cư xá làm vài việc riêng. Anh muốn trắc
nghiệm xem cô có thực sự chờ mình hay không. Trong khi đó qua
lớp kính từ trong nhà bếp ở tầng hai nhìn xuống, cô đã nhận ra anh
chàng đang đậu xe nhưng chưa vô gõ cửa vội. Cô hồi hộp để xem
anh ta làm gì. Lúc đó anh Cương trong quần kaki xanh mới bước
xuống xe. Ảnh mặc áo cũng kaki nhưng màu vàng không biết của
nhà binh hay hướng đạo, nhìn vào cửa. Chắc chắn anh chẳng thấy
gì mà chỉ đợi xem màn cửa lay động ở khoảng kính thường phía
dưới. Cô biết ảnh nói cho qua chuyện chứ đối với nghề nghiệp của
anh ta thì công việc gì trên vùng này cách gần một tiếng đồng hồ!
Lộc mở cửa cười:
“Có chuyện gì trên này vậy anh?”
“Nói xạo chơi chớ có chuyện gì đâu, chỉ chuyện ghé đây
thôi!” Anh cười thành thật khai báo.
“Chỉ chuyện ở nhà em?”
“Còn phải hỏi?!”
“Anh thấy khu này sao?”
“Thật tiện lợi: vừa ở vừa làm ăn khỏi phải đi xa,” anh nói.
“Bao nhiêu dân?”
“Chưa tới bảy mươi lăm ngàn, nhưng sống rải rác chớ
không tập trung.”
“Dĩ nhiên rồi, em. Làng xã chớ đâu phải thành phố mà tập
trung.”
“Cho nên chuyện làm ăn không phải dễ.”
“Đem giấy tờ trình ký,” anh nhá xấp hồ sơ.
“Giấy tờ gì trình ký, đưa coi.” Lộc cầm lấy.
Hai người vô nhà đi xuyên qua cái tiệm neo nhỏ nhắn chỉ
có hai bàn và không có ghế làm chân nhưng trang trí lịch sự.
“Sau khi đi cắm trại tháng Tám năm ngoái về em mới
mở,” Lộc nói. “Anh thấy đó, chỉ lèo tèo. Mà em chỉ làm khách hẹn
chớ không nhận walk-ins như những tiệm lớn.”
“Sao em không chơi lớn luôn?” Cương góp ý. “Lớn nhỏ gì
cũng cái tiệm, chi phí overhead đâu khác nhau mấy.”
“Nhiều tiệm lắm. Hướng Đông hướng Tây gì họ cũng mở
chận đầu,” Lộc chán nản nói. “Họ tranh nhau xuống giá riết…”
“Xem ra nghề này gần hết thời phải không?” Cương thông
cảm chia sẻ.
208 Tin Vaên
Hai người lên cầu thang. Theo đúng bài bản quản lý khách
sạn - mà anh đâu có học ngành này, Cương đi sau, Lộc bước từng
nấc, tưởng có bàn tay ôm hông mình.
“Em còn khỏe. Hàng ngày lên xuống như tập thể dục,”
Lộc khoe. “Em sợ mập lắm!”
“Hơi lớn tuổi lỡ tròn một chút đâu có sao,” anh đỡ lời.
“Nhiều khi còn ra vẻ mệnh phụ phu nhân là đàng khác.”
Lộc cười, “Thôi anh đừng an ủi em!”
“Anh nói thiệt mà!” Cương nhìn thân thể Lộc: ba vòng
không chênh lệch nhau mấy.
Tới tầng thứ nhì gồm nhà bếp và phòng ăn, nhưng không
có vách ngăn hay cái gì chia đôi để phân biệt. Trừ những lâu đài
hay nhà cao cửa rộng của những bậc đại gia có phòng ốc rõ ràng,
người ta mặc định như thế như hầu hết những căn nhà trung bình.
Không có bàn tay choàng qua như mong đợi, nên cô quẹo phải vô
bếp mà lòng phân vân. Anh đi thẳng lại bàn nhưng không ngồi mà
đến đứng ngay bệ cửa sổ vén màn nhìn xuống. Ngay góc phía bên
kia đường là văn phòng tiếp khách của Công ty Xây dựng Thành
Minh đang thầu khu chung cư này.
“Có thấy gì hôn?” Lộc hỏi.
“Thấy. Thấy ông đi qua bà đi lại. Hồi nãy ở trên này em
quan sát thấy địch một trăm phần trăm ha?”
“Vậy mới là thám sát chớ!”
“Em khéo chọn chỗ này lý tưởng thiệt. Vừa tiện lợi lại
vừa…” anh bỏ lửng câu nói.
“Vừa… gì, anh?”
“Kín đáo! Thôi không nói tiếp. Em hỏi nữa sợ anh nói
sàm!”
Anh Cương nhắc Lộc xấp giấy tờ hồi nãy, “Em điền hai
mẫu khai sức khỏe ấy: một cho em và cái kia cho cháu. Của Thọ
thì em ký thay.”
“Sao cắm trại năm ngoái mình không cần điền form, hả
anh?” Lộc thắc mắc.
“Kỳ này là trại Hướng Đạo. Thủ tục buộc như vậy. Điền
xong nhờ bác sĩ gia đình ký. Hôm nào xong anh ghé lấy, hoặc em
gửi thẳng xuống trại mà địa chỉ anh có ghi trên tờ giấy kèm theo
đấy. Trại phí anh đóng cho ban tổ chức rồi.”
Ít nhất cũng nửa năm hay sáu bảy tháng họ không gặp
nhau từ ngày đi cắm trại ở Holland, chắc cũng không xa chỗ Lễ
Tin Vaên 209
hội Hoa Tulip tổ chức hàng năm, một thành phố có thể nói là miền
cực Tây Tiểu bang Michigan. Nhưng thực ra cắm ở công viên trực
thuộc tiểu bang gần sát bờ phía Đông Hồ Michigan chớ chẳng phải
trong trung tâm thành phố.
Buổi chiều gió hiu hiu và những sợi nắng mong manh còn
đọng lại trên cành lá xuyên xuống đất trại, lung linh trên bàn dã
chiến. “Em ơi!” “Gì anh?” “Anh gọi, em phải dạ. Em thấy gì trên
bàn không?” “Không. Em có thấy gì đâu?” “Em coi kỹ lại đi.”
“Phải những vệt nắng chiều?” “Đúng rồi. Em lấy giùm anh sợi
nắng, Cột hai đứa mình vào ngày tháng phiêu du.” Những buổi
chiều thơ mộng như thế này chỉ muốn ngồi nhắp chút café và nhả
khói vòng tròn. Nếu có hai người cũng phải bình tỉnh - không
được vội vã - ngồi yên tận hưởng cái không gian lắng đọng.
Sau khi dựng lều và bày hàng xong đâu đó rồi có chương
trình di hành. Cắm trại tại công viên này phải leo lên tới đỉnh -
hình như cao hơn hai ngàn bộ - ít nhất một lần, nhưng chị Ngân
than mệt ở nhà thủ trại. Đường lên toàn bằng cầu ván bề ngang
chừng một sãi người lớn, hai bên có lan can giữ an toàn. Vậy mà
khi gió mạnh người ta có cảm giác không an toàn cho lắm. Nhưng
sở dĩ trại thiết kế như thế là tại vì đôi khi chỗ giáp hai ngọn đồi
quá sâu và quá dốc nên người ta không thể xuống đồi này rồi leo
lên ngọn đồi kia được.
Lúc bắt đầu đi là bốn người tới chừng khoảng nửa đường
anh Ngân rủ Thọ đi nhanh về phía trước, “Hai người này đi chậm
quá. Bác cháu mình đi nhanh trước đi.” trong khi Cương câu giờ
thụt lại phía sau đúng như ý Lộc, “Em đi nhanh không nỗi. Mình
chậm chậm lại đi anh!” Chỗ nối giữa hai đoạn cầu thang là một
khoảng rộng vuông vức mỗi cạnh chừng ba bốn thước mà hai bên
có băng để tuổi trẻ dưỡng sức và người già ngồi thở dốc. Xung
quanh cây là cây, chỉ một khoảng trống nhỏ nhìn xuống con suối
người ta thấy được nhờ vệt nước trắng xóa. Phía Tây nhìn ra Hồ
Michigan chỉ toàn mây nước. “Em sợ quá!” Lộc nói, nghĩ tới chỗ
nào đó chỉ có hai người.
“Làm bộ hả? Muốn ôm anh phải hôn?” Cương nhớ tới lời
ông thầy lớp Tâm lý. Lời tỏ tình dễ chấp nhận nhất là khi người nữ
trong tình huống hoang mang hoảng sợ nhất không còn chỗ bám
víu. Thí dụ, lúc chỉ hai người tránh pháo kích ở dưới trảng xê, hay
khi đi vượt biên sắp chìm tàu, hay lúc hai đứa hóng mát giữa cầu
210 Tin Vaên
cao gặp cơn gió giật mạnh, hoặc lúc máy bay trục trặc, hay trong
cơn bão tố…. “Anh này!” cô mắc cở đánh vào lưng anh một cái.
“Em ngồi xuống đây nghỉ một chút đi. Đừng nhìn con suối
nữa mà nhìn anh này!” Cương dìu cô lại chỗ ngồi nhìn cô và xoay
lưng lại phía những người từ dưới đang lên. Dù là muôn ngàn
người đủ sắc dân đi chơi lễ hội nhưng anh e ngại gặp người quen.
Đó là những người trong giao dịch làm ăn do nghề nghiệp chứ
không hẳn là các bà mẹ độc thân trong cộng đồng mà Cương chỉ
chấm một! Anh rất tỉnh lấy khăn giấy chậm những giọt mồ hôi hai
bên thái dương Lộc rồi lấy bình nước dã chiến mở nắp ra, “Em
uống đi, uống ba hớp thôi nha!” Cô nhìn anh, phân vân sao người
đàn ông quá lạnh lùng, “có mạnh khỏe bình thường không?”
Đường đi gồm những bậc như cầu thang lên lầu thành ra
mệt thì ngồi nghỉ xong lại tiếp tục, mà có người quả quyết đếm
được tới khoảng hai trăm hay hai trăm hăm lăm bậc. Lúc xuống
mới thật nhiêu khê. Sau một khoảng ván lót ngắn ngủi là tới
đường mòn có nhiều chỗ quanh qua quẹo lại mà lần đầu không
kinh nghiệm đi rừng rất dễ bị lạc. Nhiều đoạn thật dốc, có nơi tới
45 độ. “Em ngồi xuống đây, anh kiếm cho em một cây gậy.”
Cương tìm bẻ cây khô vừa tầm tay. “Anh đi trước, em một tay
chống gậy một tay vịn vai anh.” Lộc lại nhắc, “Anh Ngân với
thằng Thọ đi mất tiêu rồi ha!”
Tối hôm ấy khi chỉ có hai người phụ nữ, “Có gì hôn?” chị
Ngân hỏi. “Đâu có gì đâu!” cô Lộc trả lời mà trong lòng hơi tưng
tức. Đã có nhiều dịp cô tưởng anh ta sẽ ôm mình và cô chờ đợi.
“Thiệt hôn?” chị Ngân lườm cô. “Cả buổi trời lửa gần rơm mà
không bén gì hết?” “Thiệt mà!” Lộc quả quyết. Chẳng phải vô tình
mà anh chị Ngân rủ hai người đi chơi chung. Thông cảm hoàn
cảnh mẹ góa con côi, anh chị giới thiệu khi thì chàng độc thân lúc
thì người ly dị cho cô tìm hiểu, mà đa số cũng có chút danh phận
trong xã hội, nhưng chỉ qua một lần gặp mặt cô đều cáo lỗi, “Hầu
hết sống bề ngoài không có chiều sâu!” “Anh này có chiều sâu
hôn?” Lộc trả lời có. “Để coi sâu cỡ nào!”
Sau khi hai vợ chồng anh chị Ngân và thằng Thọ đi ngủ
rồi, hai người vẫn còn ngồi quanh đống lửa trại nói chuyện trời
trăng mây nước như con nít mới lớn. Ảnh nói ảnh con nhà nghèo
phải phấn đấu lắm mới ngoi lên được. Lên Trung học Đệ Nhất cấp
mới mặc được cái quần tây đầu tiên trong đời! Mà cũng hên nữa,
chứ nếu cha mẹ bắt ở nhà lo phụ gia đình rồi mười lăm mười bảy
Tin Vaên 211
tuổi cưới vợ sinh con đẻ cái như đa số những thằng trang lứa cùng
xóm “thì bây giờ sao gặp em được.” Ảnh nói như thật, như bây giờ
hai người thương nhau nhưng tuyệt nhiên không biểu lộ một hành
động yêu đương nào.
Từ cửa sổ treo cái màn màu xanh nhạt, anh đi vòng lại
đứng sau lưng Lộc, “Em đang làm gì đây?”
“Em đang làm bếp mà,” giọng nghe hơi nũng nịu một
chút, Lộc tưởng có vòng tay ôm hông mình!
“Anh mới đi thăm anh Ngân ở nursing home.”
“Bây giờ ảnh ra sao?”
“Vũ như cẫn vẫn như cũ. Không có tiến bộ chút nào. Vẫn
mơ mơ màng màng không biết gì hết.” Cương thở dài, “Ngân bị
tới nay hình như ba bốn tháng rồi. Trời kêu ai nấy dạ.”
Cô Lộc nghĩ hình như ai cũng có số mạng riêng, mỗi
người một kiểu, không ai giống ai hết. Có người bị thương năm
lần bảy lượt mà vẫn sống nhăn ra.
“Còn như anh Phước em, ra trường chưa được một
năm….” Lộc ngậm ngùi bỏ lửng câu nói.
“Hình như ảnh là trinh sát Sư đoàn 5 phải hôn?”
“Trinh sát Trung đoàn 8.”
“Nếu Trung đoàn 8 thì là Đại đội 8 Trinh Sát. Anh cũng
có một thằng em phục vụ tại Đại đội 8 Trinh Sát này,” anh ngừng
một chút để nhớ về Lai Khê trong những ngày tháng dầu sôi lửa
bỏng ấy. Thời gian này áp cực địch quân khá nặng nên Trung đoàn
15 của Sư đoàn 7 hay Sư đoàn 21 từ Vùng 4 Chiến thuật cũng tăng
phái cho mặt trận An Lộc. “Nó từ Địa Phương Quân qua.”
“Có khi hai ảnh cũng biết nhau,” Lộc thắc mắc.
“Nếu cùng thời gian sao lại không biết? Một đại đội nhiều
lắm cũng chưa tới một chục sĩ quan.”
Đó là lần cuối cùng hai anh em gặp nhau. Người anh từ
Biên Hòa biệt phái lên tình cờ gặp người em tập trung tại vườn cao
su sân bay đợi trực thăng bốc để nhảy vào An Lộc. Cũng lại tình
cờ biết đại đội trưởng của nó là bạn cùng khóa cùng trung đội với
Cương hồi sinh viên sĩ quan Thủ Đức. Anh Cương hỏi, “Hồi đó
mày muốn đi Nhảy Dù mà?” “Nhảy Dù hết chỗ. Tao mới chọn
Trinh Sát.” Đi trinh sát gần mười năm mà còn thọ thì số mày cũng
lớn!” Cũng như anh Cương hên mới hết giai đoạn một thì được
tuyển qua đi bay bà già và bị bắn hai lần vẫn Anh Không Chết
Đâu Em.
212 Tin Vaên
“Thằng em tao đang làm trung đội trưởng cho mày đó.”
Cương nói. “Coi lý lịch nó tao đã nghi rồi. Cùng họ với mày mà
Cương với Nhu. Còn ai vô đó nữa?” anh bạn kia cười. Quay sang
người lính tùy tùng, “Gọi Thiếu úy Nhu trình diện tao!” Quay sang
Cương, “Muốn rút nó về chỗ sướng hôn?” “Mẹ! Đại đội Trinh Sát
chỗ nào sướng chỗ nào cực mày nói tao nghe đi.” “Lên bàn thờ
sướng!” “Được lên bàn thờ sớm cũng mừng,” anh Cương cười ha
hả. “Sợ ‘anh về trên đôi nạng gỗ…’ Sợ ‘anh về làm khổ đời em’
mới phiền!” Anh lại nói, “Đi trinh sát thì chơi tới bến luôn! Bịnh
gì cữ?”
Có lệnh cất cánh hộ tống đoàn xe tiếp tế lên Xã Cam.
“Chào Đại úy, em đi bay!” anh Cương chào theo kiểu nhà binh
thật tình, cười. “Tao biết hậu cứ mày rồi. Mai mốt tiện tao ghé!”
Anh Đại Đội Trưởng nói, “ĐM tối nay ghé đi kẻo mai mốt không
còn kịp nữa!” xong mở nắp bi đông ra hớp một ngụm rồi đưa cho
thằng bạn, “Này! Tao tiễn người chiến sĩ lên đường. ‘Túy ngọa sa
trường quân mạc tiếu.’ Cái gì… Cổ… Có phải cổ lai không? ‘Cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi! Xưa nay chinh chiến mấy ai về?’”
Lên tàu, Cương nghĩ chừng đáp an toàn mới chắc sống.
Xưa nay chinh chiến mấy ai về! Lai Khê nhỏ dần bỏ lại sau lưng.
Cương mang theo hình ảnh của ít nhất hai người thân. Một thằng
nằm giường trên đứa giường dưới mà gần mười năm may mắn
sống sót mới gặp lại. Một thằng máu mũ ruột rà mà hồn ai nấy giữ,
có khi cả mấy tháng không biết tin tức gì nhau. Mặt nó vẫn buồn
buồn như mọi khi, anh không nghĩ nó sẽ không về nữa. Tính thảm
khốc của chiến tranh trong thời gian lăn lộn trong đất đỏ đương
đầu với giặc đỏ dù không đúng chính xác nhưng cũng không sai
với hai câu thơ An Lộc Địa của cô giáo Pha, “An Lộc địa sử ghi
chiến tích, Biệt Kích Dù vị quốc vong thân.”
“Nhưng đánh đấm dữ dội ở An Lộc vậy mà nó không sao,
lại chết do pháo kích!” Anh Cương hơi tức tối nói. Kỳ đó pháo thủ
của họ canh đúng vô nhà dân ngụy, trường học ngụy, và chỗ đóng
quân của ngụy gây thương vong trên dưới mười tên ngụy trong đó
chỉ một tên lính ngụy, ngoài ra có cả con nít ngụy và học trò ngụy
nữa. “Cũng như Phước, bây giờ thì nó lên bàn thờ ngồi cho gia
đình làm đám giỗ. Vậy là về chỗ sướng rồi!”
“Mẹ em muốn chạy cho ảnh về làm việc văn phòng nhưng
ông già không chịu. ‘Không phải tôi tiếc tiền nhưng nếu ai cũng
nghĩ như bà thì lấy ai chiến đấu?’ Đến khi ảnh tử trận thì mẹ em
Tin Vaên 213
trách không còn con trai nối dõi. Ba buồn nhưng không ân hận.
‘Thì mình còn con Lộc. Trai gái gì không được? Mình đâu có làm
vương làm tướng gì mà cần nối dòng nối dõi!?’Rồi ba em cũng đi
cải tạo rồi chết trong tù.”
Lộc muốn khóc, Cương mân mê bàn tay học trò của Lộc,
“Em dùng chữ đúng ý anh: đi cải tạo rồi chết trong tù!”
“Lúc trước em cũng đi thăm nuôi ba.”
“Nhỏ xíu sao đi được?”
“Tháp tùng với người lớn. Đi xe thồ, xe bò, xe trâu… đủ
thứ. Ngủ đêm dọc đường dọc sá.”
“Nhắc chuyện xưa càng thêm tủi nhục cho thân phận
nhược tiểu. Bàn cờ thế giới do các cường quốc chơi. Nước nhỏ chỉ
là con cờ!” Tự anh đổi đề tài. “Sau này anh biết tại sao em tên con
trai.”
“Ông già định đặt tên con theo thứ tự Phước Lộc Thọ
nhưng chỉ có hai đứa rồi ngưng. Trên thế gian này khó kiếm một
người con gái thứ hai trùng tên em.”
“Đẹp như em thì khó chớ trùng tên thì có mà.”
“Anh chỉ xạo. Ai?”
“Cô em xi nổi tiếng biết ngâm thơ và làm thơ.”
“Ai vậy?”
“Cô B.T. đó. Tên cúng cơm của cổ giống của em.”
“Thiệt hả? Vậy mà em đâu biết,” hơi nghi ngờ, Lộc tiếp,
“Tới giờ cơm rồi, anh dùng cơm luôn nha.”
“Để anh phụ em dọn cơm,” không ngờ anh chàng nhận lời
một cách tự nhiên.
“Nhưng em dở bếp núc lắm. Nấu bậy bạ một hai món
thôi.”
“Đâu cần nhiều em. Ăn nhiều bệnh nhiều, ăn ít bệnh ít,”
anh quả quyết. “Nhất là thực phẩm có xuất xứ từ nước mình và
trung cộng.”
“Nhiều khi cũng khó phân biệt.”
“Không khó lắm đâu. Cứ cái gì Made in Vietnam và
China hay PRC thì đừng mua. Em biết lên mạng thì search FDA
hoặc Bộ Nông Nghiệp Michigan tìm những món đồ bị recalled.”
“FDA là cái gì?” cô thắc mắc.
“Chữ viết tắt của Food và Drug Administration là Cơ quan
Kiểm soát Thực phẩm và Thuốc men của Mỹ. Lát nữa anh sẽ ghi
ra cho.”
214 Tin Vaên
Rồi anh ta phụ dọn cơm. Trên cái bàn cẩm thạch nhỏ,
mâm cơm biểu lộ tính đơn giản - mà cũng có thể là do làm không
ra tiền như lời tiết lộ lúc nãy của chủ nhân - gồm tàu hủ kho sả ớt
và một tô canh cà giống như kho ngót nhưng không phải.
“Em đang diet,” Lộc ngại ngùng phân bua. “Cả tháng nay
lên cân vù vù!”
Cô lại tiếp, “Không biết hồi qua đây có đi làm bồi bàn hôn
mà xem cách dọn bàn ăn thấy anh có vẻ chuyên nghiệp quá vậy?”
“Không. Anh làm sở mà.”
“Sao rành rẽ vậy?”
“Nhà binh dạy.”
“Sĩ quan mà cũng dạy làm bếp nữa sao?”
“Không dạy nấu ăn nhưng dạy ứng xử.”
“Hèn gì thấy anh lanh thấy mồ!”
“Em đừng nói vậy oan cho anh lắm!”
“Thiệt tình thì em cũng muốn anh ăn cơm với em một
bữa,” cô tự thú, “tại nhà riêng của em.”
“Anh biết mà.”
“Sao anh biết?”
“Nhìn thì biết chớ có gì lạ. Cho nên anh không khách
sáo.”
“Lợi hại thiệt nha!”
“Từ từ em sẽ khám phá con người anh còn lợi hại hơn
nữa! Nhưng có gì bậy bạ hôn?”
“Cho tới giờ vẫn chưa có gì bậy bạ!” Lộc nheo mắt.
“Nhưng mà anh bậy bạ lắm chớ không đàng hoàng đâu
nha!”
Hồi nãy lúc hai người đứng chỗ lan can nhìn qua khu rừng
chồi mùa xuân lá mới nhú, Lộc chỉ muốn và chờ Cương làm bậy
mà anh lại tỏ ra đứng đắn.
“Nghĩ cái lúc Thúy Kiều leo rào qua gặp Kim Trọng em
thấy kỳ kỳ nhưng phải phục cô nàng táo bạo thiệt,” Lộc gợi ý. Cô
đang rạo rực trong lòng và thèm một vòng tay ôm.
“Nội chỗ này gây nhiều tranh cãi. Phe binh bên chống.
Kim Trọng mò qua thì được coi là hợp lý hay thuận ý. Bởi thế
gian dành quyền chủ động cho đàn ông!” Cương đang tỉnh táo bàn
luận văn chương!
Tin Vaên 215
Trong bữa ăn, Lộc chỉ cái chậu bọc giấy màu trang trí hình
hai con chim trong góc gần chân cầu thang, cạnh cây đàn dương
cầm.
“Bụi trúc anh bứng cho em hồi trước mùa Đông năm
ngoái đó!”
“Vẫn còn sống?” Anh Cương nhìn theo bàn tay búp măng
có ngón sơn bóng. “Cây ở nhà chết rồi. Tại mùa Đông anh quên ủ
nó.”
“Qua tay em thì mọi vật có èo uột đến đâu cũng thành
sống động.”
Cương vô tình, “Loại này anh xin của một người bạn ở
Washington DC đó.”
“Nhỏ xíu à. Không giống trúc bên mình.”
“Đúng. Trúc bên mình làm cần câu cá được. Đây là loại
trúc kiểng mà. Nó cao chưa tới đầu người. Em phải trồng trong
chậu chớ nếu em trồng ở ngoài vườn, nó nhảy bà cố luôn!
“Anh có nhiều thành ngữ ngộ thiệt!” cô run người cười ha
hả không kềm chế được đến đỗi làm rung rinh cái bàn. “Anh đừng
cười em!”
Thì điện thoại reo. Có khách hàng gọi hẹn nhưng cô từ
chối.
“Em nói em đang tiếp khách. Hẹn bữa khác. Anh cũng là
khách của em mà!”
“Chỉ khách hẹn chớ không nhận walk-in phải hôn?”
“Anh cũng walk-in nhưng khách đặc biệt mà!” Cả hai
cùng cười.
Thôi thúc bởi thất nghiệp và tiền bạc cạn dần, Lộc nảy ra
một ý là trở lại nghề cũ. Cô gom hết tất cả vốn liếng và mượn bạn
bè mở cái tiệm chỉ có hai cái bàn, không có ghế làm chân. Cái
bảng hiệu cũng chỉ làm bằng tấm giấy cứng đề “L.N. Nails,
coming soon.” “L.N. là Lộc Nguyễn chớ chẳng có gì bí mật cả,”
cô nói. Chữ coming soon cô viết rời trên miếng giấy khác đặng
mai mốt khi bắt đầu hoạt động rồi thì bỏ đi không ảnh hưởng gì
đến bảng hiệu.
“Thời gian này nghề neo xuống rồi chớ không còn khá
như trước nữa.”
“Tại kinh tế xuống nó kéo theo mọi ngành nghề chớ đâu
riêng gì nghề neo.”
“Cho nên em chỉ làm vừa đủ chớ không bon chen!”
216 Tin Vaên
“Biết sao đủ?”
“Biết đủ là đủ!”
“Anh đồng ý với em,” anh giơ tay lên và hai người hai
phai. Cương nắm tay Lộc. Hai người nhìn nhau.
Sau bữa ăn, Lộc mại hơi:
“Có chuyện này không biết có nên nói hay không!”
“Em nói đại đi.”
“Sao cái máy xay trong sink không chạy mà kêu e e?”
“Chuyện nhỏ! Lỡ ăn cơm rồi không lẽ không làm!” anh
Cương sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa! “Sợ mang tiếng ăn cháo đái
bát!”
“Em đàn bà con gái không biết mới nhờ. Anh nói vậy ngại
quá!”
“Đừng ngại. Tự nhiên như người Sài gòn đi em!”
Cương bật công tắc máy xay thì quả thật máy bị kẹt.
“Em có tuột nơ vit hay cây sắt gì dài dài cứng cứng cũng
được.”
“Em đang kẹt cái này,” Lộc đang lau cái bàn. “Anh lấy
giùm. Nó ở trong hộc tủ trên cùng bên phải đó.”
Đề thi dễ quá mà lại trúng tủ nữa. Cương lấy găng nhựa
làm neo của Lộc đeo vô và cẩn thận tắt điện. Anh thò tay vô móc
vật cặn bả ra xong mở nước và mở công tắc thử lại lần nữa, thì quả
là có mảnh xương nhỏ kẹt giữa dĩa quay và cái thành máy xay.
Khi nghe tiếng máy chạy kêu rẹt rẹt thì Lộc hết hồn.
“Em tưởng anh xay bàn tay của anh!”
“Nếu quả thật như vậy thì không biết phải làm sao!”
“Lợi hại thiệt nha! Vậy mà em loay hoay nửa tháng không
biết làm sao!”
Cương cười, “Em cần một bàn tay đàn ông!”
Tối hôm đó, cô vẫn ngủ một mình như từ hồi chia tay với
ông chồng cũ, nhưng cảm giác cô đơn da diết lần đầu xuất hiện,
mà trước nay chỉ mơ hồ. Cô cảm thấy mất mát và hụt hẩng như
chơi vơi giữa lưng trời hay trống vắng trong hoang đảo. Còn thiếu
một cái gì. Cái gì đó Lộc chắc chắn biết. Quanh đi quẩn lại vò vỏ
một mình không ai tâm sự. Thằng con có chuyện riêng của nó chớ
đâu chơi với mẹ, nhất là khi nó khá lớn rồi. Đi học về nó ở miết
trong phòng chỉ khi ăn cơm hay tắm rửa nó mới thò mặt ra.
Trong bộ đồ ngủ mong manh, Lộc mở cửa phòng tắm nhìn
vào gương. “Mình te tưa dữ vậy sao?” Cô hốt hoảng tự nghĩ. Câu
Tin Vaên 217
nói trùng tên em thì có chớ đẹp như em thì khó hồi chiều của
Cương chỉ là câu nói chơi đẩy đưa khen nịnh của đàn ông chớ thật
tình cô đã sống hơn nửa thế kỷ rồi. Lộc đưa tay cột lọn tóc lại, vén
nhìn phía mép tai có nhiều sợi bạc mà thật sự đã lai rai từ khi qua
tuổi bốn mươi. Đôi mắt một mí trông không lôi cuốn. Và ở đuôi
mày đã xuất hiện dấu chân chim. Lộc quyết định sẽ đi thẩm mỹ
viện cắt mắt.
Nhìn xuống chút xíu, ngực còn căng đầy chưa giảm nhựa
sống. “Thằng Thọ đã mười mấy tuổi rôi còn gì!” Nhìn xuống chút
xíu nữa, cô mắc cở phân vân tự nghĩ, “Có thật mình cần một người
đàn ông?” Chắc chắn cô không cần một thợ neo mà một người
bạn. Hình ảnh hồi trưa anh hát có diễn tả trông thật nghệ sĩ. Vài
đụng chạm nhẹ nhàng tế nhị nghe còn phê tới giờ. Không phải vô
tình mà hai người cùng hát bài “Những Chiều Không Có Em” của
Trường Hải. “Ngỏ hồn sao hoang vắng. Ôi! Dừng chân đây…”
Anh xuất thần khi lên cao “Ôi! Chiều nay chiều nay sao nhớ
quá…” anh ngân thật dài chỗ lib cỡ khoảng mười giây rồi xuống
chủ âm La thứ không bị đâm hơi mà thật điêu luyện, “Giấc mơ
tình yêu chưa tròn.”
“Không thấy anh hát lần nào sao anh hát đạt vậy?”
“Hát tài tử chơi thôi,” anh khiêm nhường. “Hơn nữa mình
đâu có khuôn mặt trình diễn.”
“Là sao?”
“Là không ăn khách,” anh không nói mình đã quá đát. “Ít
nhất có hai loại hình: sáng tác và trình diễn,” anh phân biệt. “Trên
sân khấu và hậu trường. Có người nổi tiếng mà cả đời chưa bước
lên sân khấu,” anh ngừng một chút, “như anh đây!” Cương cười,
diễu dở.
“Lợi hại nha!” cô tán thán.
“Còn em? Đệ nhất danh cầm mà!”
“Lạy Chúa! Em chơi tạm được thôi.”
“Bữa nay đẹp trời nên anh muốn nghe em đờn một bài.”
“Khi nào hứng đờn mới hay,” Lộc mại hơi.
“Vậy bây giờ hứng chưa?”
“Hứng rồi.” Lộc không thể cưỡng lại được, và bước tới
ngồi vào cây đàn dương cầm. “Hồi nhỏ nhà bán tạp hóa, ba không
cho làm gì hết chỉ có học và học thôi. Hết học thêu thùa bơi lội thì
cắm hoa; còn học piano là do ba thích hình ảnh người phụ nữ ngồi
đờn cho nên chơi triền miên thành thói quen đến đỗi ghiền. Ngày
218 Tin Vaên
nào không ngồi vào cây đờn coi như không bình thường! Dọn nhà
bao nhiêu đợt, đồ đạt em bỏ hết; chỉ còn nó theo em tới cùng.”
“Hồi học art anh có dự mấy lớp dương cầm.”
“Anh học ở đâu?
“Trường đại học cộng đồng,” anh trả lời. “Anh khoái nhứt
bài… bài gì… tắng tăng tắng tăng tằng tắng tăng tằng mà vô intro
ghi ta như vầy tằng tăng tăng, tằng tăng tăng… tắng tăng…”
“Phải bài Apache của Jerry Lordan không?”
“Đúng rồi, Apache. Nhưng anh không biết tên tác giả.
Anh muốn nghe lại bản này.”
Cương nhắc ghế lại ngồi gần Lộc nhưng ở phía sau chút
xíu. Cô cột tóc đuôi gà như con nít chưa biết sửa soạn để lộ cái cổ
nõn nà mời gọi. “Trời ơi không mặc áo lót!” Cương sắp bị nhồi
máu cơ tim!
Thời gian lắng đọng trong khi Lộc chơi. Anh ôm nhẹ
ngang lưng cô và luồng tay vào trong áo. Bản nhạc chơi chưa
xong, đột nhiên Lộc quay lại ôm cổ anh cười hơi run run, “Em đờn
nghe được hôn?” Cương chưa kịp nói câu “Thực sự thì anh có
nghe bản này do ai đó chơi piano và Heidrun Dolde chơi
keyboard. Rồi bây giờ nghe em chơi piano anh cũng không phân
biệt ai chơi hay hơn!” anh ôm hôn cô và hai người quyện nhau.
“Lên phòng em đi,” Lộc hổn hển nói.
Rồi không thấy anh tới lấy mẫu khám sức khỏe đi trại.
Lộc trông đứng trông ngồi. Lại nữa, tháng này không thấy dấu
hiệu gì! “Yêu anh, em chấp nhận tất cả…”
Mãi mấy tháng sau đột nhiên anh chở vợ tới.
“Nghe nói cô mới mở tiệm, tôi biểu ảnh chở tới coi cho
biết vừa nhờ cô làm móng tay,” vợ anh Cương bình tỉnh nói.
“Em chỉ làm khách hẹn chớ không nhận walk-ins,” Lộc trả
lời. “Nhưng với chị thì em không từ chối được.”
Anh Cương vuốt đuôi, “Kệ cô làm cho chỉ đi vì cô cũng
không bận khách!”
“Vừa rồi cô có đi cắm trại ở Texas hôn?” vợ Cương hỏi.
“Không,” Lộc hoang mang.
“Vậy chớ đi đâu?”
“Em đi với anh chị Ngân mà đi Florida” Lộc kiên nhẫn trả
lời.
“Xem trong email thấy ảnh rủ cô đi cắm trại dưới Texas
mà lời lẽ dịu dàng lắm.” Lộc không nói gì, vợ Cương tiếp, “Đi
Tin Vaên 219
ngao du sơn thủy. Nếu má không la thì….” Lộc bần thần, “Em đâu
nhận email nào như vậy đâu!”
Lộc tin vợ chồng anh Cương đã đình chiến hơn mười năm
rồi như ảnh nói. Ảnh làm gì đi đâu cũng một mình. “Em chỉ thích
ở nhà. Anh muốn đi đâu thì đi, mất mát gì mà sợ!” Chị Cương
luôn luôn nói thế. Anh thì còn bay nhảy mà một mình lái xe đi
đường trường xuyên bang nhiều khi cũng cảm thấy cô đơn, muốn
có bạn cho vui. “Đàn bà là sinh vật khó hiểu nhất trên thế gian
này!” anh hay nói. Nhưng thế gian thường tình, “Đồ mình không
dùng nhưng cho thì tiếc.”
Khi hai vợ chồng anh Cương về rồi, Lộc một mình nhìn ra
không gian mênh mông, “Người yêu ơi! Muốn gửi Anh sợi nắng.”
Nhưng sợi nắng mong manh! Nàng rưng rưng nước mắt.
Ngô Sĩ Hân – 161122
Có lẽ đau khổ lại tốt cho con người. Nhà nghệ sĩ có thể
làm gì nếu anh ta hạnh phúc? Anh ta liệu có muốn làm
bất cứ điều gì không? Nghệ thuật, rốt cuộc chính là
chống lại sự khắc nghiệt của cuộc đời.
Perhaps it's good for one to suffer. Can an artist do
anything if he's happy? Would he ever want to do
anything? What is art, after all, but a protest against
the horrible inclemency of life?
Aldous Huxley
220 Tin Vaên
Ngôn ngữ là công cụ rất quan trọng với chúng ta, quan
trọng giống như tuấn mã đối với kị sĩ vậy, tuấn mã giỏi thích
hợp với kị sĩ, ngôn ngữ tốt đẹp nhất thích hợp với tư tưởng
tốt đẹp nhất.
Dante (Itali)
NHẬN ĐỊNH
NHƠN ĐỌC BÀI VIẾT
CỦA ÔNG HÀ SĨ PHU
« Hán Văn Là Một Bộ Phận Cấu Thành của
Tiếng Việt » (Hà Sĩ Phu)
Phan Văn Song
Tuần qua, chúng tôi nhận được một bài viết từ một người
bạn chuyển đến, nói rằng rất xúc động và bất mãn khi thấy
một người từng được xem là một « nhà đấu tranh dân chủ »
Tin Vaên 221
đã từng viết những bài nghiên cứu hay nhận định có giá trị
thuyết phục rằng lý thuyết Cộng sản hoàn toàn sai trái, thế
mà ngày nay trong cái không khí nhà cầm quyền cộng sản
Hà nội ra tay bán nước rõ ràng bằng buộc các con em Việt
Nam phải học và nói tiếng Tàu thành thạo, lại viết một bài
tiếp tay với đảng cộng sản cầm quyền. Phải ! Tiếng Tàu từ
nay được dạy ngay từ cấp Tiểu Học, nghĩa là từ nay tiếng
Tàu không còn xem như một ngoại ngữ nữa (dixit Hà sĩ Phu)
mà là một tiếng gốc của tiềng Việt Nam. Dưới đây xin mời
quý bà con đoạn vài đoạn chánh do chúng tôi trích dẫn :
Hán văn là một bộ phận cấu thành của tiếng Việt :
Hà Sĩ Phu
« … Để góp thêm, mở đầu, tôi xin lấy vài ví dụ vui để thấy
chữ Hán đã dính chặt vào dân tộc Việt Nam như thế nào,
người mù chữ Nho tuyệt đối cũng đang dùng chữ Nho một
cách tự nhiên, vô thức. Không phải là chuyện vay mượn vài
chữ như vay mượn tiếng Anh, tiếng Pháp, mà người Việt
dùng chữ Nho tự nhiên, tuôn chảy như viết,như nói tiếng mẹ
đẻ của mình…
- Có thể đâu đó đã xuất hiện những tấm biển quảng cáo thế
này :
“Kinh doanh quần áo các loại - hoa quả thời vụ - tạp hóa
tổng hợp”.
“Phục vụ học sinh : sách giáo khoa, bút mực, dụng cụ thủ
công, truyện cổ tích thế giới”.
Chẳng mấy ai bảo các tấm biển kia đã dùng chữ Hán. Nhưng
xin thưa đó là ngôn ngữ Hán học hay Nho học trăm phần
trăm, thuần Nho, không lẫn một chữ thuần Việt nào hết. Bạn
có thể nghĩ “quần áo” hay “hoa quả” là tiếng thuần Việt chứ
gì, không đâu, quần áo là hai chữ Nho 裙襖, đúng cả về phát
âm và ngữ nghĩa. Quần 裙 là cái quần, áo 襖 là cái áo, cứ tra
từ điển Hán Việt Đào Duy Anh thì biết. Hoa quả 花果 cũng
vậy, vốn là chữ Nho. Cũng hai ký tự ấy nhưng người Tàu
Bắc Kinh phát âm hơi khác, người Tàu Quảng Đông phát âm
222 Tin Vaên
hơi khác mà thôi (nên mặc dù là tử ngữ nhưng bằng chữ Hán
người Việt và người Tàu có thể bút đàm) …
- Không phải chỉ những câu ngắn mà có thể cả một buổi
thuyết trình một ông cán bộ Việt mù chữ Nho có thể dùng
toàn ngôn ngữ Hán, vốn chỉ là “tử ngữ” (mà không lẫn một
chữ thuần Việt nào mới khiếp!), chẳng hạn ông ấy nói thao
thao bất tuyệt như sau: “Các đồng chí cán bộ chính trị, cán
bộ quân đội, sĩ quan công an cần đề cao tinh thần phục vụ
nhân dân, kính trọng nhân dân, đề cao tinh thần trách
nhiệm, phục tùng ý kiến đa số, bảo lưu ý kiến thiểu số, vận
động các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, công đoàn tích cực
đấu tranh, bài trừ nạn tham ô, hối lộ, trấn áp quần chúng…
Chẳng hạn câu đầu tiên “Các đồng chí cán bộ chính trị, cán
bộ quân đội, sĩ quan công an cần đề cao tinh thần phục vụ
nhân dân…”sẽ ghi ra giấy
thành各同志幹部政治, 幹部軍隊,士官公安勤提高精神服
務人民, 敬重人民…, đọc lên cũng y như đọc bản quốc ngữ
vậy, bảo rằng thuyết trình viên đã nói tiếng Việt hay đọc
“Hán văn” đều đúng… »
- Trong những cuộc thảo luận của giới trí thức hiện nay, cả
người thân Tàu hay ghét Tàu cũng có thể nói toàn chữ Hán:
Ví dụ ông Cộng sản thân Trung Quốc thì giữ lập
trường “Độc quyền lãnh đạo, kiên trì định hướng Xã hội chủ
nghĩa” 獨權領導,堅持定向社會主義. Toàn chữ Nho !
Ông Dân chủ tiên tiến không biết mặt một chữ Nho nào
cũng “Quyết tâm thực hiện Dân chủ đa nguyên Pháp
trị” 决心實現民主多元法治. Cũng toàn chữ Nho !
(Ngưng trích)
Đọc xong, tôi rất bực bội. Xin được trả lời.
Bài nầy tôi viết trong bực bội. Có lời gì khiếm nhã, xin quý
bà con thông cảm.
Thưa quý bà con,
Thưa ông Hà Sĩ Phu,
Tiếng Việt Ta Vẫn Trong, Sáng, Giàu Có, Do Âm Điệu Dân
Tộc Việt Đầy Nhạc Lý !
Tin Vaên 223
Dĩ nhiên sau trên 1000 năm hoàn toàn bị đô hộ, và dù
tuy được 1000 năm độc lập, nhưng vì các Vua Việt Nam ta
lo mở mang bờ cỏi, cũng cố giòng họ, sợ chiến tranh, muốn
dỉ hòa vi quý với người láng giềng phương bắc to bự, nguy
hiểm, nên khôn ngoan, nhịn nhục tiếp tục đi sứ cầu hòa. Vì
quen bị ăn hiếp trong suốt 1000 năn đô hộ, vì tiếp tục vẫn bị
ảnh hưởng văn hóa Tàu, vì vẫn tưởng rằng văn hóa và văn
minh là một và vẫn tiếp tục lẫn lộn gốc gác, nên vẫn dùng
suy nghĩ chia cách Bắc Nam. 7 lần bị xâm lược, 4 lần bị xâm
chiếm đô hộ, vẫn không tưởng xem Tàu với Ta chỉ là tình
Bắc Nam một nhà. Vốn liếng 1000 năm văn hóa Tàu quá
nặng, nên vẫn cứ xem Tàu « chỉ » là người anh em phương
Bắc. Văn hóa Tàu, truyện Tàu tuy có nước Yên, nước Sở,
nước Việt, … với các nhà Tần, nhà Hán, nhà Ngô…nên các
Vua Việt ta cũng xem Nhà Vua của ta chỉ là một vương tước
trong các Vương tước Tàu đó thôi ! Không, ngàn lần
không, không (dám) rõ ràng nghĩ người Tàu hoàn toàn khác
chúng ta, là Hán Tộc, một dân tộc khác, là khác hẳn với
chúng ta là Việt tộc. Chỉ có Vua Quang Trung (thế kỷ thứ
18), người lãnh đạo duy nhứt, là rõ ràng. Vua Quang Trung
tổ chức đưa chữ Nôm vào Văn Kiện Hành Chánh và
có chương trình đòi lại Lưởng Quảng là hai tỉnh thuộc đất
Đại Việt xưa của ta ! Nhưng, chuyện chưa thành Ngài đã
mất. Nhà Nguyễn, nếu Vua Gia Long, có tài ngoại giao, biết
nhờ ngoại bang thống nhứt lại đất nước. Trái lại, các hậu duệ
lại quá nhu nhược, bắt đầu từ Vua Minh Mạng đều là những
vị vua bị nhồi sọ bởi văn hóa Tàu, bị các quan chức Tống
Nho giáo dục nên biến thành những tay phục tùng đắc lực
nhứt của nền văn hóa Hán Tộc, tuy được che dấu dưới bảng
hiệu Nho Giáo. Điển hình là Vua Tự Đức, dám hãnh diện là
tay làm thơ làm phú Tàu, Tự Đức với tội phạm to lớn nhứt là
đã làm mất nước Việt Nam ! Tự Đức là tay độc tài nhứt, với
tội giết anh để giựt ngai, với tội giết, hành dân để xây lăng
cho mình. Khác chi Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường
Thành !
224 Tin Vaên
Cái tội lớn nhứt là các quan lại hủ nho, suốt đời nầy đến đời
khác, suốt bao thế hệ, bao thế kỷ, là không đủ tình Yêu Nước
để dứt bỏ văn hóa Tàu, bỏ hẳn chữ Nho. Dám bỏ văn
hóa Nho Giáo, đi tìm một văn hóa, văn minh, truyền thống
hoàn toàn việt nam, đi tìm một lối chữ viết hoàn toàn việt
nam (như các trí thức quan lại Hàn quốc đã tìm ra chữ viết
hàn hangul). Thật vậy ! Các quan lại Việt Nam hủ nho
không đủ lòng Yêu Nước để đi tìm một sự độc lập về văn
hóa, một độc lập về suy nghĩ, một độc lập về tư tưởng mà cứ
bám riết vào cái văn hóa Khổng tử, Mạnh tử, gọi là Thánh
hiền của Tàu. Tại sao chỉ có Tàu mới có Thánh Hiền ? Ông
bà Việt Nam ta không phải là Thánh Hiền sao ? Văn hóa
đình làng với ông Bụt, Ông Thần cây Đa, ông Chìa Vôi …
những tục những lệ làng không được xem là văn hóa thật việt
nam ta là văn hóa đúng mức sao ! Đảng Cộng Sản Việt Nam
ngày nay, cũng vậy, không đủ lòng yêu nước để đi tìm một
hướng đi độc lập với Đảng Cộng Sản Tàu vậy !
Không phải người Việt chúng ta không có chữ riêng, ngôn
ngữ riêng. Chúng ta có tiếng nói riêng, có cái phát biểu
riêng. Ta nói Con Ngựa Trắng, Tàu nói Bạch Mã. Tàu nói
ngược với ta ; Ta để tỉnh từ sau danh từ, Tàu để trước. Như
tiếng Pháp với tiếng Anh Pháp Cheval Blanc, Anh White
Horse.
Bằng chứng, năm 771, khi Phùng Hưng, trong thời gian Việt
Nam ta bị Nhà Đường của Tàu đô hộ, đã lãnh đạo dân Việt ta
nổi dậy giành Độc lập, trong vòng 7 năm, có một vùng đất
hoàn toànViệt : đất Phong Châu – vùng Ninh Bình ngày
nay ? Ngài lên ngôi, tự xưng mình là « Bố Cái Đại Vương »
- Bố và Cái đều hai từ ngữ hoàn toàn Việt Nam. Đại Vương
mới là chữ Hán Việt.
Ông Hà Sĩ Phu đã lầm tiếng nói (ngôn ngữ) và chữ viết
(chuyển âm thành văn bút, phương tiện truyền thông ghi
âm). Dĩ nhiên vì Hán thuộc, dĩ nhiên vì bị đô hộ phương tiện
truyền thông ghi âm người Việt ta lúc bấy giờ phải mượn
cách viết của nhà cầm quyền Hán Tàu, dùng chữ Tàu, làm
Tin Vaên 225
phương tiện truyền thông để ghi âm. Nhưng các quan dân
người việt lúc ấy đều phát « âm việt » cả, vì vậy, chữ viết ấy,
với âm việt ấy được gọi là Hán Việt. Hán Việt là viết, ghi âm
bằng chữ Hán những âm Việt. Và phát âm cũng là Việt.
Đó cũng là cái may mắn cho dân Việt vì vậy không bị mất
giống, không bị diệt chủng. Khi ta đọc tiếng Pháp, tiếng
Anh, tiếng Đức ta đều phát âm tiếng Pháp, tiếng Anh tiếng
Đức chớ có phát âm Việt đâu ? Nhưng ngày nay đảng cộng
sản Hà nội đương quyền đang độc tài Bán Nước
đang buộc con dân Việt Nam Ta học Tiếng Trung Ngay Từ
Tiểu Học. Khi nói Học Tiếng Trung là Nói Tiếng Trung Hoa
Bắc Kinh, tiếng nói âm thoại của bọn cầm quyền Trung Hoa
ngày nay.
Nhà cầm quyền công sản Bắc Việt Hà Nội ngày nay hơn cả
thời Tàu đô hộ ta ngàn năm. Lúc ấy người Việt ta còn nói âm
Việt, tiếng Việt. Tương lai tiếng Việt sẽ mất, chỉ còn tiếng
Bắc Kinh thôi!
Từ ngày lập nước, người Việt chúng ta đã có tiếng nói
riêng của người Việt chúng ta. Cả những lúc bị đô hộ, chúng
ta tiếp thu và hội nhập thêm được tiếng Hán Việt, nhờ vậy
tiếng Việt giàu hơn tiếng Tàu. Chúng ta có hai âm để chỉ một
vật, ta có thể đếm một hai ba … (hoàn toàn chữ việt âm việt
toàn việt), và ta cũng có thể đếm nhứt, hay nhất, nhì tam …
(chữ hán, nhưng âm hán việt) …Và cả hai đều là chữ và
âmViệt thuần túy. Tiền nhơn ta, những người yêu nước, yêu
tiếng việt, ngôn ngữ việt, âm việt thuần túy đã phát minh ra
cách viết chữ Nôm, để phát biểu tư tưởng viết chữ việt ngữ
hoàn toàn, đọc âm việt ngữ. Dĩ nhiên, vì bị ảnh hưởng Tàu,
khó bỏ, nên các tiền nhơn yêu nước chúng ta phải dùng một
thủ thuật là phải cộng hai chữ hán, một chữ về nghĩa một chữ
về thanh, để phát biểu, ghi âm ngôn ngữ việt nam thuần
túy… Thí dụ muốn nói Năm (năm tháng) phải ráp chữ niên
(hán là năm) + với chữ hán ngũ (là số năm).
-Nhờ thế mà đại văn hào Nguyễn Du viết ra bản Kim Vân
Kiều bất hủ toàn bằng chữ Nôm. Thử đọc to để cảm hứng cái
226 Tin Vaên
linh hồn Việt. Thơ là một bài hát, với vần với âm, với nhịp,
với cắt khoảng, với hơi thở. Vậy thì ta phải đọc to. Thơ
không phải một bức tranh mà ta nhìn vào nét vẽ, kiểu chữ !
« …Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng, bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh… ”
Tả cảnh chia ly giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều, tuyệt vời !
Hồn thơ, hơi thơ hoàn toàn Việt. Có gì là chất Tàu đâu ?
-Nhờ thế mà bà Đoàn Thị Điểm đã dịch được Chinh Phụ
Ngâm của Đặng Trần Côn từ Hán tự Đường Thi sang chữ
Nôm với âm điệu hoàn toàn việt nam. Hãy đọc to, để nghe
Bà tả tất cả những tâm sự ai oán của một người vợ thời chinh
chiến. Bài của Đặng Trần Côn mấy người biết và thưởng
thức ?
« …Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm giường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết giường bằng chẳng biết ?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương! ... »
Hoàn toàn chất Việt, hồn Việt ! Không thấy Hán Tàu
đâu ? Còn hỏi thử bao nhiêu chữ gốc tàu bao nhiêu chữ gốc
việt ? Người đọc tui không cần biết ! Đối với tôi tất cả là
việt ! Như trong một câu thơ tiếng Pháp, tiếng Anh, bao
nhiêu từ gốc la tinh, bao nhiêu gốc từ hy lạp.
-Nhờ thế mà nữ sĩ Hồ Xuân Hương viết những bài thơ âm
việt nhiều ẩn ý, rất việt tánh, đề đời :
« …Hai Xe Hà Chàng Gát Hai Bên,
Thiếp Sợ Bí Thiếp Bèn Ngẩng Sĩ… ». (Đánh Cờ). Bàn chất
Tàu ở đâu ?
Tin Vaên 227
-Nhờ thế mà đại văn hào Nguyễn Đình Chiểu cũng với chữ
Nôm viết Truyện Dài bằng Thơ Nôm, Lục Vân Tiên, với tất
cả âm điệu miền nam việt nam, với âm giai, điệu thơ, đọc
như « kể chiện », như kiểu nói bình dân của dân Nam kỳ Lục
tinh.
« … Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa … »
Hay
« …Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô…
- Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang… »
Tàu đâu ? Hán đâu ? Hay là đúng dân Nam kỳ của chúng tôi!
Nhưng các quan lại hủ nho việt ta, cứ khư khư bám vào
cái chữ Tàu, bám vào cái văn hóa Khổng tử, sợ rằng sang
chữ Nôm, các lão sẽ mất ghế, mất danh tiếng, mất hiểu biết.
Đảng Cộng sản ngày nay, ôm một lô « chữ nghĩa khẩu hiệu,
lý thuyết cũng vì sợ mất ghế… mất Đảng, mất ăn nhậu… »
Lại còn bày đặt ra những bằng cấp, ngành học, nào lý luận
Mác Xít, nàoTư Tưởng Hồ Mao, nào chủ nghĩa Mác Lê…
với các trường Đại Học chuyên ngành Cộng Sản, Trường
Đảng, với những bằng cấp « to đùng » cường điệu : Tiến sĩ,
phó Tiến sĩ, Giáo sư, phó giáo sư… Mẹ ! Giáo sư là thấy dạy
học. Nghề Thầy giáo, một ngày đi dạy cũng là Thầy giáo.
Phó Thầy Giáo là cái gì ? Dạy học nửa ngày hay sao ?
Ngôn ngữ theo nghĩa Hán Việt là tiếng nói (ngôn) Như
vậy tiếng việt nam là tiếng nói, là nói tiếng Việt Nam. Ông
Hàn Sĩ Phu bảo người việt ta đọc một câu giống như người
tàu đọc. Thử dùng một câu ngắn thôi ! Anh đi đâu ? Nị hui
pín tù ? (Quảng Đông). Nói tiếng Quảng Đông, Cỏn Qwang
Tung Hỏa Hay Shua Qwang Túng dù (Bắc Kinh).
Như vậy, về mặt ngôn ngữ, các âm điệu hoàn toàn không
giống nhau. Còn nói về viết thì nếu viết toàn bằng chữ Tàu,
thì giống nhau thôi. Những thí dụ ông Hà Sĩ Phu kề trong bài
viết của ổng chỉ là cái văn hóa Tàu Hóa ngày nay ở Hà nội
228 Tin Vaên
Cộng sản đó thôi. Tôi nghĩ rằng người Việt Nam bình
thường sẽ nói khác, sẽ đượm chất Việt Nam ta hơn.
Chúng ta có cái may mắn gặp các vị cố đạo giòng tên đã
dùng ký âm a b c để tạo chữ quốc ngữ cho chúng ta ngày
nay. Chúng ta cũng có cái may mắn là đã có những tiền nhơn
đầy lòng yêu nước, dám quảng bá và thông dụng hóa, truyền
bá chữ viết với ký âm la tinh abc. Nhờ chữ quốc ngữ với ký
âm a b c chúng ta đã dễ dàng truyền bá quốc ngữ và dẹp
được nạn mù chữ và mở mang trí tuệ cho người dân việt
nam. Đấy là một tiện lợi ! Còn về văn hóa! Vì ngoại hình
chúng ta giống Tàu, vì bị ảnh hưởng văn hóa Tàu, chúng ta
phải cảnh giác và chống tàu nhiều hơn các dân tộc khác! Vì
càng giống nhau, càng láng giềng nhau, chúng ta càng dễ bị
Tàu xâm chiếm. Dân Do Thái Hébreu và dân A rập đều
là cùng một chủng tộc sémite, cùng văn hóa sémite. Cả hai
đều chào mở đầu câu chuyện bằng Salem (Do Thái), Salam
(A rập). Hai tay nầy thù nhau đến giết nhau. Tàu với Ta, bên
Nị Hảo, bên Mạnh Giỏi thì thù nhau là cái chắc! Người Tàu
chỉ tử tế với Ta khi người Tàu bị thất thế, tỵ nạn ở Việt Nam.
Người anh em phương Bắc tỵ nạn miền Nam sẽ là những
người phương Nam tốt Phan Thanh Giản, Mạc Cửu là những
thí dụ.
Ít hàng nói hết, mong chia sẻ cùng quý bà con. Mất lòng ai
thì đành chịu vậy! Đừng để mất lòng tin, mất định hướng.
Tiếng Việt thuần túy của ta, phải được bảo vệ, còn có bao
nhiêu gốc Hán, gốc Tàu, hãy để cho mấy ông trí thức bán
nuớc ca tụng phân tách! Quý bà con nào động lòng trắc ẩn vì
có bà con người Hoa tui đây đôi lời xin lỗi.
Hồi Nhơn Sơn, những ngày đầu Thu
Phan Văn Song
Tin Vaên 229
@ Nguyện Hữu Nghĩa
NgườiViệt và tính kỳ thị
Không nói vội qua chuyện người, hãy nói chuyện ta:
Người Việt có kỳ thị không?
Tôi tin là người Việt kỳ thị đệ nhất hạng, chẳng
những kỳ thị phái tính, kỳ thị chủng tộc mà còn kỳ thị nghề
nghiệp, kỳ thị địa phương.
Người Việt vốn theo mẫu hệ, trong nhà thì các mợ là
số 1, sau đó mới tới các cậu. Bà Trưng, bà Triệu phất cờ khởi
nghĩa cầm quân, còn các ông lúc thúc chạy theo cầm … giáo.
Sau này khi bị Tàu xâm lăng, đô hộ, phá hủy văn hóa, xóa bỏ
văn tự, áp đặt chế độ phụ hệ thì dần dà các ông mới nhỏ nhẻ
có tiếng nói và bắt đầu kỳ thị ngược lại đàn bà, coi đàn bà là
vật phụ thuộc, “xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, lấy chồng
thì theo chồng, chồng chết rồi các bà vẫn chưa giành lại được
độc lập tự do, mà “tòng” con trai! May mà chưa thấy “tử
viết” bảo con chết thì tòng luôn cháu nội!
Lời ca bài “Trấn thủ lưu đồn” là minh chứng: “Dù
choa (tôi) có vụng dù choa có dại, choa vẫn là đàn ông! Đó
vợ đây chồng, đó bế con gái để choa bồng con trai!”
Đau thật! Các bà chỉ được bế cái hĩm, còn thằng cu
thuộc giai cấp khác, cao hơn, dành cho các ông!
Cho tới thế kỷ 21, tôi vẫn còn nghe thấy một bà Việt
Nam xua tay rối rít khi được đề cử vào nhiệm vụ lãnh đạo
một đoàn thể xã hội: “Thôi em hổng làm được đâu! Đờn bà
đái không qua ngọn cỏ mà làm cái gì!”
Tôi phải bật nói: “Em ơi, ở đây đang bàn xem ai có
khả năng lãnh đạo chứ không phải một cuộc thi… tiểu tiện
mà so ra xem ai phóng nước ra cao hơn! Bộ óc không có
phái tính…” Tôi kịp nuốt “ực” nửa câu sau: “…nó không
suy nghĩ bằng… cái vòi!”
230 Tin Vaên
Bà này mếu máo phân bua: “Mà óc em… nhỏ xíu hà!
Suy luận thì cạn cợt, em không làm được đâu! Mấy anh đàn
ông làm giùm đi!”
Quả thật, các cụ ông ngày xưa đã bịa ra câu ca dao để
dạy dỗ các… cụ bà: “Đàn ông nông nổi giếng khơi, Đàn bà
sâu sắc như cơi đựng trầu!”
Hết thuốc!
Đó là kỳ thị phái tính. Rồi thì kỳ thị nghề nghiệp, kỳ
thị giai cấp.
Tôi nhớ hồi học tiểu học, trong bài luận văn, tôi gọi
người ăn xin là “ông ăn xin, bà ăn mày” thì bị chê là dùng
chữ không thích hợp, dù “ổng bả” đã ngoài 70! “Ông xe lôi,
xe kéo” cũng không được, mà phải gọi là “phu xe”.
Người Việt còn kỳ thị địa phương.
Ở ngoài Bắc, người làng này sang làng khác ở thì là
“dân ngụ cư” không phải người làng, dù sống bao nhiêu đời
ở đó vẫn cứ là “dân ngụ cư”, không được trọng vọng.
Người Bắc vào Nam sinh sống cũng bị trêu chọc: “Ớ
con nhỏ, nó đau làm sao, dưới đít có cọng rau! Làm sao làm
sao mới làm sao, người Nam Việt đâu có kỳ như vậy! Bắc
kỳ, Bắc kỳ là Bắc kỳ!” (lời ca điệu Sơn Đông Hướng Mã).
Người từ Thanh Nghệ Tĩnh trở ra Bắc gọi là “cá rô
cây”; người Bình Trị Thiên” là “dân trọ trẹ.” Quảng Nam vô
tới Bình Thuận là "nẫu", chỉ có dân Nam kỳ lục tỉnh mới là
"người Việt mình!"
Rồi kỳ thị chủng tộc còn cay nghiệt hơn.
Người Việt tự coi mình cao hơn mên (Cao Miên),
mọi (người Thượng), chàm (Champa) đã đành, mà khinh
luôn “Chà Và Ma Ní tí te, cái bụng thè lè con mắt ốc bưu”,
tức người Java và người Phi từ Manila, và cả người Bombay,
Ấn Độ. Người Phi châu thì là Tây đen mặt gạch.
Ngoài Bắc thì khinh người Tàu, gọi là “thằng ngô”;
phụ nữ Việt lấy Tàu thì gọi là “con đĩ”, lấy tây thì dè bỉu là
“me tây”, “me Mỹ”. Qua tới xứ người rồi mà gả con cho Mỹ
Tin Vaên 231
trắng thì dùng dằng một chút rồi ưng, nhưng Mỹ đen hay
Nam Mỹ thì nhất định duỗi ra, nhất định không chịu.
Hoá ra người Việt vốn kỳ thị, nhưng lại nể nang
người da trắng, coi như cao hơn mình một bậc, cho nên nếu
có bị người da trắng coi nhẹ thì đó là thường sự, chấp nhận
việc kỳ thị như là đặc quyền của người trắng, ai phàn nàn
hay chống lại nạn kỳ thị thì bị coi như bắng nhắng, thiếu hiểu
biết.
Mới đây, phong trào kỳ thị chủng tộc ở Mỹ bắt đầu
tái hiện và lên cao. Nhiều người Việt “bảo hoàng hơn vua”,
kỳ thị hơn Mỹ trắng, cho rằng người Mỹ “có chính nghĩa” để
kỳ thị, làm như Mỹ khinh ai thì khinh, không dám khinh
…người Việt!
Người Việt xí một chỗ, tự xếp hạng ngang hàng hay
thấp hơn Mỹ trắng chút xíu, vì là người tị nạn, người di
tản…. khác với di dân. Người Việt coi nhẹ các giống dân
khác. Việc kỳ thị coi như không có, hoặc do báo chí “thổi
phồng”, chuyện chẳng có gì mà ầm ĩ.
Có người ngấm ngầm ủng hộ việc tập trung, cô lập và
trục xuất di dân ngoại nhập bất hợp pháp, rồi tiến tới việc
tước quốc tịch, tống cổ di dân hợp pháp nhưng không cùng
tôn giáo với Mỹ, là những việc nên làm, cần làm và phải
làm.
Có ai còn nhớ, hồi đệ nhị Thế chiến, Mỹ đã nhốt hết
người Mỹ gốc Nhật vào trại tập trung, kể cả những gia đình
đã nhập tịch từ nhiều thế hệ. Khi đệ tam Thế chiến diễn ra,
Mỹ và Tàu/Việt đối nghịch, số phận đám Mỹ vàng sẽ ra sao?
Tôi không tìm ra câu kết luận cho vấn đề! Tôi chỉ
thấy ý niệm “bác ái” càng lúc càng mơ hồ và thừa thãi. Hình
ảnh cái cầu mà Đức Giáo Hoàng gợi ý, không rõ nét bằng ý
tưởng dựng rào của một anh trọc phú./.
(nhn)
232 Tin Vaên
TẢN MẠN
VỀ SỰ THẬT TRONG VĂN HỌC
Trần Minh Hiền
@ ĐỌC LẠI TO KILL A MOCKINGBIRD
To Kill A Mockingbird là tiểu thuyết của Harper Lee (sinh
28 tháng 4 năm 1926 mất 19 tháng 2 năm 2016) xuất bản
năm 1960, đoạt giải Pulitzer năm 1961. Câu chuyện nói lên
sự xung đột chủng tộc, sự phi lý của pháp luật thời 1930 ở
Hoa Kỳ (ngày nay vẫn còn âm ỉ) khi người thanh niên da đen
vô tội Tom Robinson bị kết tội oan và bị kết tội hiếp dâm cô
gái da trắng Mayella Ewell. Mặc dù Tom Robinson bị oan
nhưng anh vẫn bị kết án bởi bồi thẩm đoàn và khi vào tù anh
lại cố trốn thoát nên bị bắn chết. Câu chuyện viết tài tình qua
giọng kể của cô bé 10 tuổi Jean Louise Finch (Scout). Cha
của cô bé là luật sư Atticus biện hộ cho Robinson, mặc dù
Atticus tin Robinson vô tội và làm hết sức nhưng vẫn không
cứu được Robinson. Câu chuyện phơi bày và phản ánh sự bất
công, sự tàn nhẫn và vô tâm của con người, sự nghèo đói của
những người da trắng như gia đình Ewell và số phận thê
thảm của người da đen. Cám ơn người bạn là nhà văn
Truman Capote (1924-1984) và biên tập viên Tay Hohoff
(1898-1974) đã giúp Harper Lee chuyển quyển sách từ 1
dạng tự truyện tầm thường thành 1 đại tác phẩm, kinh điển
kiệt tác của văn chương Hoa Kỳ và thế giới. Tôi (TMH) đã
đọc nhiều lần trước đây bằng tiếng Anh và tiếng Việt nhưng
lần này đọc lại vẫn xúc động mãnh liệt và hiểu thêm nhiều
điều và cảm thấy tâm lý, bản chất con người vẫn không thay
đổi: thế kỷ 21 với tất cả sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và
nhiều thứ khác nhưng sự độc ác, tàn nhẫn, bất công, sự vô
tâm, sự hận thù, nhỏ nhen, thấp hèn, ganh tỵ, đố kỵ, sự kém
hiểu biết... vẫn còn ý nguyên đó và dường như còn tệ hại
hơn.
@ đọc từ các nguồn Inter.
Tin Vaên 233
Trần Minh Hiền
@ BÀN VỀ SỰ THẬT
Chúng ta nói về sự thật, bàn về sự thật và đòi hỏi mọi người
tôn trọng sự thật và đem sự thật để áp đặt lên tất cả. Và nhân
danh sự thật người ta có thể đủ thứ chuyện dối trá. Và ít ai
biết rằng có sự thật tuyệt đối và sự thật tương đối. Sự thật
tuyệt đối thì chỉ có một những những tương tự như sự thật
tuyệt đối thì nhiều vô số kể và chúng ta thường bị lầm lạc,
gạt gẫm lừa mỵ bởi những sự thật giả dối này. Ví dụ vàng
giả đôi khi còn đẹp hơn, lấp lánh hơn vàng thật. Và ít ai để ý
đến sự thật tương đối: những điều chúng ta tin là chân lý, là
sự thật bất di bất dịch thì sau đó là chỉ sai lầm. Ví dụ suốt
đêm trường trung cổ mọi người tin rằng chân lý sự thật là
Mặt trời quay xung quanh Trái Đất và Trái Đất là trung tâm
của vũ trụ nhưng ngày nay chúng ta biết Trái đất quay xung
quanh mặt trời và nguyên hệ mặt trời của chúng ta lại quay
xung quanh TRung Tâm Hệ Ngân Hà Milky Way và cả
galaxy Milky Way của chúng ta cũng quay xung quanh một
hệ vũ trụ và chúng ta chỉ là bộ phận bé nhỏ của đại vũ trụ.
Và còn rất nhiều ví dụ lý thú khác nữa. Sự hiểu biết của loài
người càng ngày càng đi xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu sắc
hơn và rất nhiều điều hôm qua hay hôm nay là chân lý là sự
thật là điều chúng ta tin tưởng thì ngày mai lại được chứng
minh là sai lầm. Và có nhiều điều, nhiều việc mọi người
cùng chứng kiến nhưng mỗi người cảm nhận và diễn dịch
theo ý riêng của mình, tuỳ theo trình độ, khả năng, định kiến,
thành kiến, sự hiểu biết, tâm lượng. Ví dụ 100 triệu người
cùng xem tivi cuộc tranh luận giữa ông Trump và bà Hillary
nhưng mỗi người có nhận xét riêng: thậm chí đối nghịch
nhau, người thích ông Trump thì cho rằng ông ta thắng, nói
hay, nói đúng còn người thích bà Hillary thì nói bà thắng, nói
hay, nói tài. Có những sự thật rành rành rõ ràng ra trước mắt
nhưng khi chúng ta yêu thương người nào đó thì chúng ta bỏ
qua các điều xấu và ra sức biện hộ, lấp liếm, còn khi ta ghét
234 Tin Vaên
thì cho dù người ta có đúng, có hay, có giỏi có tài thì chúng
ta cũng "dìm hàng", bôi bác và triệt hạ. Cho nên sự thật là
khái niệm tưởng rằng rõ ràng minh bạch, duy lý nhưng thật
ra hết sức cảm tính, thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh
cũng như sự cảm nhận của mỗi người. Ông bà ta nói rất hay:
"Thương thì củ ấu cũng tròn mà ghét thì bồ hòn cũng méo là
vậy."
Tỷ tinh cầu dạo chơi
Bên dòng sông muộn phiền
Anh nghe hồn tan rã
Cánh đồng xa ẩn hiện
Trong mắt huyền thiết tha
Bên biển xanh thật thà
Anh nghe hồn trống vắng
Hạt cát như từ tạ
Tiếng mơ hồ hoa đăng
Bên vực sâu vĩnh hằng
Anh nghe hồn giác ngộ
Mùa thu ươm hồng nắng
Đốt tim mình ngây ngô
Bên giấc mơ cơ đồ
Anh nghe hồn chới với
Dòng suối sâu hoá độ
Tỷ tinh cầu dạo chơi
Trần Minh Hiền
Tin Vaên 235
David Cox / BBC Future
1-Xăm mình: Nghệ thuật "nổi loạn"có
nguồn gốc quý tộc
Đó là một vụ vừa là bê bối vừa là là sự hấp dẫn đầy mê hoặc
của thời đại!
Vào năm 1881, cháu trai của Nữ hoàng và là vị vua
George V trong tương lai, khi đó mới 16 tuổi, nhận được
nghi thức bước qua tuổi vị thành niên của rất nhiều bạn trẻ
thời đó: xăm hình chú rồng màu đỏ và xanh lên cánh tay,
hình xăm do một hoạ sĩ từ Yokohama thực hiện.
Trên báo chí tại quê nhà, lời đồn thổi đầy rẫy hàng tuần lễ,
cho rằng hoàng tử trẻ sẽ sớm có hình xăm như thú vui thời
thượng đó. Một số bài báo viết rằng hoàng tử đã có một hình
xăm mũi tên lớn phía dưới mũi. Tin vào các bài báo về hình
xăm như vậy khiến thân mẫu chàng là Hoàng hậu Alexandra
của Đan Mạch, viết cho hoàng nhi một lá thư đầy phẫn nộ.
Hoàng tử không có hình xăm nào trên mặt cả. Nhưng cánh
tay có xăm hình của chàng lần đầu tiên đã xuất hiện trước
công chúng khi chàng gặp mặt Hoàng đế Minh Trị, như một
dấu hiệu chấp nhận từ hoàng gia khiến trào lưu này ngày
càng nổi tiếng.
236 Tin Vaên
Sự hồi phục của Nhật Bản năm 1868 lần đầu tiên mở cánh
cửa giúp quốc gia này giao thương với phương Tây sau
nhiều thế kỷ. Gần như ngay lập tức, nhu cầu với những sản
phẩm đến từ Nhật Bản và cả văn hoá Nhật tăng vọt.
Giới quý tộc giàu có Châu Âu bắt đầu trở về quê nhà với
những hình xăm nghệ thuật trên cơ thể.
Giờ đây, tin tức về hình xăm của hoàng tử đã thiết lập cả
ngành công nghiệp xăm mình thời thượng ở Anh Quốc, Pháp
và thậm chí Hoa Kỳ: nó trở thành sự thể hiện đẳng cấp xã
hội - và thể hiện khả năng chi trả cho thú chơi đó.
"Việc vị vua tương lai xăm mình là một khoảnh khắc nổi
tiếng đến nỗi có cả một bức tranh làm quà tặng nhân dịp đám
cưới của Vua George hồi năm 1893, mô tả lại cảnh quan lúc
xăm mình ra sao," Matt Lodder, giảng viên ngành nghệ thuật
đương đại ở Đại học Essex nói. "Nếu để ai ai cũng biết quý
vị là người giàu có, đã tới Nhật Bản, thì việc cần làm là quý
vị cần phải quay về với một hình xăm."
Tuy Vua George được coi như người dẫn đầu trào lưu thời
đó, nhưng ông chỉ là người tiếp tục một mô hình đã tồn tại
trong nhiều thế kỷ. Từ thời Julius Caesar, Anh Quốc đã
nhiều lần khiến nghệ thuật xăm mình trở nên nổi tiếng khắp
thế giới.
2-Các chiến binh xăm mình
Hình xăm được cho
là đầu tiên trong
lịch sử có từ 5.000
năm từ thời có dấu
tích của Người
băng Otzi, một xác
ướp được tìm thấy
trong dãy Alps trải
dài từ Áo đến Ý.
Nhưng ở Châu Âu,
người Anh thuở ban mới là những người làm nghệ thuật này
nổi tiếng: khi Đế quốc La Mã xâm chiếm Anh năm 55 trước
Tin Vaên 237
Công nguyên, họ tìm thấy những người bản địa rực rỡ trong
nghệ thuật vẽ cơ thể.
Caesar viết về Chiến tranh xứ Gallia như sau, "tất cả
người Anh đều vẽ trên cơ thể bằng màu cây tùng lam, tạo ra
màu xanh, và khiến sự xuất hiện của họ trên chiến trường
trông càng thêm kinh khủng."
Những hiệu ứng khi xuất hiện của các chiến binh Anh khiến
họ nổi tiếng khắp Châu u với tên gọi Pretani, một từ gốc
Celtic có nghĩa là những kẻ "vẽ mình" hoặc "xăm mình". Từ
đó, cái tên "Britain" (tức Anh Quốc) ra đời. Một số người nói
rằng người Anh thời đó chỉ vẽ thôi, chứ không xăm mình.
Các học giả La Mã sau đó cũng bị thuyết phục tin rằng
những người Caesar thấy chỉ là hình vẽ với mực.
"Một phần vùng đó bị chiếm giữ bởi những kẻ mọi rợ mà từ
thời tuổi thơ đã vẽ những hình khác nhau về động vật lên cơ
thể, vì thế khi người đàn ông lớn lên, dấu vết vẫn còn trên cơ
thể anh ta," Gaius Julius Solinus viết vào Thế kỷ thứ ba.
"Điều đó chẳng có ý nghĩa gì ngoài việc họ coi đó như bài
kiểm tra sự kiên nhẫn xem ai có thể vẽ được nhiều nhất
lượng màu xăm lên chân tay thông qua những vết sẹo vĩnh
viễn." Khi người Norman đến vào năm 1066, họ cũng khám
phá ra là người Anh yêu thích nghệ thuật xăm mình.
Vào Thế kỷ 12, nhà biên niên sử William của xứ
Malmesbury mô tả hình xăm là một trong những cách thức
mà người Norman học
được từ dân bản địa.
3-Theo chân nhà
thám hiểm
Nhưng lịch sử hiện đại
của nghệ thuật xăm mình
của người Anh bắt đầu
với việc xâm chiếm thuộc
địa ở ChâuMỹ. Nhà thám
hiểm và chủ tàu Martin Frobisher đã thực hiện nhiều chuyến
hải hành đến Tân Thế giới từ năm 1576 đến 1578. Ông phát
238 Tin Vaên
hiện ra việc xăm mình là chuyện phổ biến trong các tộc
người thổ dân Châu Mỹ bản địa, từ vùng Canada ngày nay
trải dài xuống phía tây nam.
Vào năm 1577, nhà thám hiểm Frobisher bắt giữ ba
người thuộc tộc Inuit và mang họ về, dắt đi trưng bày khắp
Anh Quốc từ Bristol đến London - thậm chí còn dẫn họ đến
cung điện cho Nữ hoàng Elizabeth xem mặt. Công chúng bị
sốc vì những hình ảnh được xăm vẽ trên cơ thể họ. Để khiến
họ bớt sợ hãi, hoạ sĩ John White được thuê vẽ chân dung của
những tù nhân người Inuit và so sánh với những hình vẽ cơ
thể của người Anh cổ đại, dựa trên những dữ liệu từ các học
giả La Mã. "Đó là những hình ảnh đáng kinh ngạc mà ông
chuyển hoá từ những mô tả cổ xưa của người Anh cổ đại,
miêu tả lại chúng dưới dạng những hình xăm đặc biệt và hơi
ngớ ngẩn," Lodder nói. "Những con sư tử khổng lồ trên
bụng, hay hình xăm mặt trời và hoa dành cho phụ nữ. Họ đã
làm để cho những người đã bị đưa đến đây thấy họ không
khác gì với chúng ta cả."
Những người Inuit của Frobisher đã khơi gợi sự thích thú với
nghệ thuật xăm mình cả ở Anh và Châu Âu trong thế kỷ 16.
4-Dấu ấn từ cuộc hành hương
Trào lưu này lan rộng cùng với sự thương mại hoá các
chuyến hành hương đến Vùng Đất Thánh. "Nó trở thành thứ
phải làm khi tham gia một chuyến hành hướng từ phương
Tin Vaên 239
Tây đến Jerusalem và trở về nhà với một hình xăm - một dấu
hiệu chứng minh cuộc hành hương của bạn," Lodder nói.
"Không có nhiều hình vẽ từ thời đó còn sót lại, nhưng chúng
thường là những bức tranh khá lớn. Về cơ bản chúng khá
giống hình xăm trên vai của các cầu thủ bóng đá."
Nghệ thuật xăm mình trở nên
phổ biến trong suốt Thế kỷ 16, 17 và
18 ở Anh, đến nỗi hình xăm đã xuất
hiện cả trong những phiên toà.
Vào tháng Một 1739, tờ Bưu điện
Buổi tối London (London Evening
Post) tường thuật việc ra phán quyết
đối với một tên trộm 15 tuổi, bị cáo
buộc có một hình xăm cực kỳ bạo
lực trên ngực.
"Trên ngực hắn ta, đóng dấu bằng
mực Ấn Độ là hình ảnh một người đàn ông với thanh kiếm
trong tay và một khẩu súng nhả đạn ở tay kia, với một biểu
tượng trên miệng người đàn ông, "Chúa nguyền rủ các
ngươi!" Câu chuyện được mô tả ngạt thở." Đây là sự vô lại lẽ
ra phải bị che giấu, nhưng đã có người phát hiện ra, hắn được
yêu cầu phơi ngực trần trước toà, và tại đó mọi người đều bị
sốc vì hình ảnh khác thường trên người tên vô lại đó."
Truyền thống hình xăm hành hương tiếp tục đến thế kỷ 19 và
đó là bối cảnh Hoàng tử xứ Wales, sau này là Vua Edward
VII, đã bí mật xăm mình với hình chữ thập ở Jerusalem vào
năm 1862. Nhưng bản thân từ "hình xăm" (tattoo) tự nó lại
có xuất xứ khá mới mẻ trong từ điển tiếng Anh, một di sản từ
các cuộc hành trình trên biển của thuyền trưởng James Cook
đến các hòn đảo ở Thái Bình Dương vào cuối Thế kỷ 18.
Trong khi từ này đã tồn tại trong tiếng Anh từ cuối thập niên
1600, ban đầu là "beating a tattoo" có nghĩa trong từ điển là
"đánh trống". Mãi cho đến hành trình của Thuyền trưởng
Cook đến Tahiti năm 1769, hình thức xăm vẽ trên da vẫn còn
được gọi là chích, đánh dấu hoặc nhuộm.
240 Tin Vaên
Tuy nhiên, những người Tahiti sử dụng từ "tatau" để miêu tả
việc
5-Hình xăm và án thừa kế
Khi đặt tên mới cho nghệ thuật xăm mình, người Anh lần
đầu tiên đã thương mại hoá nghệ thuật này trong thế giới
phương Tây, kích thích sự bùng nổ trào lưu khách du lịch
xăm mình ở Nhật Bản - và bằng một vụ án đặc thù khiến cả
thế giới chú ý.
Vào năm 1854, nhà quý tộc Roger Tichborne mất tích trên
biển, được cho là đã chết trong một vụ đắm tàu.
Mười hai năm sau, điều kỳ diệu xảy ra khi ông xuất hiện tại
Úc và giong buồm trở lại London. Cuộc trở về của
Tichborne không được những người anh em ở quê nhà chấp
nhận. Khi người mẹ của họ mất, vì ông là đứa con được
hưởng thừa kế tài sản của gia đình, các anh em ông đã khởi
kiện, cho rằng ông chỉ là một kẻ giả mạo.
Vụ án Tichborne hồi đầu thập niên 1870 là một vụ gây xôn
xao, được báo chí khắp thế giới tường thuật. Vụ án cuối cùng
đã có kết luận trong một phiên toà được mô tả trong loạt
phim truyền hình dựng dựa theo các tác phẩm của nhà văn
Dicken. Hoá ra khi còn trẻ, tại trường nội trú, Tichborne đã
được bạn bè xăm mình; khi quan toà yêu cầu ông tiết lộ hình
xăm, ông không thể trưng hình xăm đó ra.Tichborne giả hiệu
lật tẩy thực ra là con trai một chủ hàng thịt, tên thật là Arthur
Orton và sau đó người này bị tống giam 14 năm tù.
6-Xăm mình tại phòng tắm hơi
Cuộc săn lùng tin tức của giới truyền thông đã giới thiệu
nghệ thuật xăm mình đến với đông đảo độc giả khi một số tờ
báo viết bài cho rằng tất cả trẻ em nên được xăm hình gì đó,
phòng khi chúng mất tích trên biển. Một doanh nhân tên
Sutherland Macdonald quyết định sẽ kiếm tiền từ việc này.
Macdonald là một hoạ sĩ tài hoa và cựu sĩ quan trong quân
đội trong cuộc chiến Anh-Zulu. Ông học xăm mình bằng
cách xăm các hình cho đồng đội. Khi trở về và làm chủ một
nhà tắm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ ở khu vực West End thời thượng
Tin Vaên 241
của London, Macdonald bắt đầu giới thiệu dịch vụ xăm mình
như một hoạt động thương mại, cũng là cửa hàng xăm đầu
tiên được ghi nhận trong lịch sử. Công việc kinh doanh này
cực kỳ thành công. "Sự hứng thú của người Anh với phương
Đông đóng góp một phần lớn vào việc này," Lodder nói, và
phòng tắm hơi của Macdonald là một chút biến tấu khá hay.
"Không chỉ có các dịch vụ của người Nhật là đắt khách nhất
Châu Âu, mà bạn còn có cả một bối cảnh "phong cách Á
đông" với những khách hàng là người giàu có đi lại, trần
truồng như nhộng."
Vào thập niên 1880, công việc kinh doanh của Macdonald
phát triển khi ông tận dụng sự chú ý của công chúng với hình
xăm trên người Hoàng tử George.
Macdonald tự giới thiệu mình là hoạ sĩ, và đã xăm mình cho
những người giàu và nổi tiếng khắp thế giới từ Hoàng đế
Đan Mạch đến Quân vương Patiala. Tên tuổi ông và cửa hiệu
xăm xuất hiện trên báo chí từ Ba Lan đến Pháp, Đức và thậm
chí cả New Zealand. Những khách hàng thậm chí đòi hỏi
những hình xăm chi tiết hơn, từ mô phỏng lại những bức
tranh nghệ thuật Châu u trong phòng khách đến những cảnh
săn bắn, ông đã sáng chế ra máy xăm tự động đầu tiên vào
năm 1890, một năm trước khi máy xăm được đăng ký sở hữu
trí tuệ ở Hoa Kỳ. Xu hướng xăm mình của giới quý tộc Anh
sau đó đã lan rộng khắp các vùng Đại Tây Dương: tờ báo
New York Herald tuyên bố vào năm 1897 rằng "thú vui xăm
mình từ London đã lan ra tới New York". Tầng lớp trung lưu
người Mỹ bắt chước những tầng lớp thượng lưu ở Anh, và
các nghệ sĩ xăm mình bắt đầu xuất hiện khắp New York.
Từ lúc nghệ thuật xăm mình được coi như trào lưu "mới" ở
cả hai bờ Đại Tây Dương, gần như mỗi thập niên trôi qua,
các khảo sát đều cho thấy cứ ba người lớn ở Anh lại có một
người xăm mình. Nghệ thuật này không mới như chúng ta
tưởng, mà hẳn mọi người đều đồng ý rằng nó xuất hiện ở
người Anh từ thời Caesar.
(Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future)
242 Tin Vaên
'Unchained Melody': Kiệt tác bị lãng quên
và giai điệu bất chấp thời gian
Nguyên Minh Năm 1955 bộ phim Unchained ra mắt và tạo được tiếng vang
phần nhiều từ bài hát chủ đề của bộ phim: Unchained Melody.
Sau gần 20 năm nằm trong bóng tối, một kiệc tác của âm nhạc
mới được ra ánh sáng.
Bài hát bị bỏ quên
Unchained Melody lúc đầu không có tên. Nó là một
sáng tác của nhạc sĩ Alex North viết vào năm 1936, khi ấy
chỉ mới có giai điệu chứ chưa đặt lời. Chủ ý của North là viết
cho ca sĩ ngôi sao lúc bấy giờ, Bing Crosby, hát và nếu
Crosby thích phần lời như thế nào thì North sẽ lắp vào sau
đó. Nhưng Bing Crosby đã từ chối và bài hát không tựa kia
được để trong ngăn tủ suốt gần 20 năm cho đến 1954, nhà
sản xuất bộ phim Unchained (Cởi trói) đặt hàng North sáng
tác một bài hát chủ đề cho phim và North nhớ tới ngay sáng
tác từng bị Crosby hắt hủi.
Thời ấy, được đặt hàng viết nhạc cho một bộ phim là cả
một vinh dự và thậm chí đổi đời, nhất là với những tác giả
Tin Vaên 243
còn ít người biết đến như Alex North. Biết thế nên North rất
cẩn thận, ông muốn nhờ người viết lời ca khúc theo chủ ý bộ
phim bởi ông sợ mình không đủ khả năng.
Rất nhanh, North tìm tới ông bạn thân Hy Zaret, chuyên gia
ca từ, một tay cừ khôi nhưng hơi khó tính. Mà đúng là khó
tính thật, khi vừa nhờ Zaret viết lời cho bài hát thì North đã
nhận ngay lời từ chối thẳng thừng. Lý do rất đơn giản, Zaret
đang bận… sơn tường nhà.
Biết tính Zaret, North chờ cho đến khi tường nhà khô hẳn
mới đến đặt lại vấn đề. 2 ngày sau, North nhận được đầy đủ,
không sót một chữ. Bài hát được Zaret đặt tên là Unchained
Melody (Giai điệu được cởi trói) rất đúng tâm trạng của bộ
phim. Bộ phim kể về một người đàn ông trong lao tù ngày
nhớ đêm mong đến tình nhân bên ngoài song sắt, mơ được tự
do, toan tính vượt ngục…Nhưng cả bài hát chẳng tìm đâu
thêm được chữ “unchained” (cởi trói) ngoài phần ghi ở tựa
đề. Nhà sản xuất thắc mắc và muốn Zaret thêm vào nhưng
ông từ chối. Với Zaret, toàn bộ phần ca từ chính là một sự
cởi trói. Những câu trong bài như “Anh vẫn luôn khao khát
cái vuốt ve của người khi suốt một thời gian dài cô đơn. Thời
gian trôi qua thật chậm, thời gian có thể làm thay đổi rất
nhiều và em vẫn còn là của anh chứ? Anh cần tình yêu của
em”… chính là những giai điệu gột nên ước mơ được giải
thoát, được tự do.
Cuối cùng nhà sản xuất đồng ý và bài hát được “xuất
xưởng” dưới giọng hát của Todd Duncan. Năm 1955, bài hát
được đề cử cho giải Oscar - Ca khúc hay nhất nhưng rủi thay
cuối cùng giải này lại thuộc về bài Love Is A Many-
Splendored Thing trong bộ phim cùng tên. Nhưng điều này
cũng chẳng quan trọng lắm bởi sau đó Unchained Melody đã
được rất nhiều ngôi sao hát lại và nó là một trong số ít những
bài hát 4 lần lên Top với những giọng ca khác nhau.
Nhưng trong suốt các phiên bản được chơi lại, từ The Baxter,
Al Hibbler, Roy Hamilton cho đến Harry Belafonte chưa có
một phiên bản nào thành công rực rỡ bằng bản cover của
244 Tin Vaên
nhóm đôi The Righteous Brothers. Đó là vào năm 1965,
đúng 10 năm Unchained Melody ra ánh sáng và đó, một lần
nữa tái sinh Unchained Melody. Và đấy không phải là lần tái
sinh duy nhất.
Thành huyền thoại nhờ… đồng xu The Righteous Brothers là một nhóm nhạc gồm 2
người: Bobby Hatfield và Bill Medley. Bobby giọng cao
mượt, Bill trầm khàn. Cả hai bổ sung cho nhau và trở thành
cặp song ca rất nổi tiếng, trước cả khi họ quyết định
cover Unchained Melody.
Đến một ngày vào năm 1965, nhóm này quyết định ra
album thứ 4 và có thêm sự khác biệt, sẽ có một bài mang dấu
ấn của một người. Cả hai chàng ca sĩ đã quyết định như thế,
mỗi album sẽ có một bài cá nhân. Và ở album thứ 4 họ quyết
định chọn Unchained Melody làm bài mở hàng. Nhưng vấn
đề là ai sẽ hát? Suy nghĩ mãi, cuối cùng cả hai quyết định
tung đồng xu và cuối cùng, như định mệnh, Bobby Hatfield
là người chiến thắng. Chiến thắng của Bobby Hatfield rõ
ràng đem đến sự tươi mới cho Unchained Melody bởi với
giọng nam cao của mình, Bobby đã phô hết vẻ đẹp của bài
hát này. Đặc biệt là ở đoạn gần cuối, khi ông ngân câu “I
Need Your Love” ở quãng cao nhất thì thời gian gần như
đứng sững lại. Trước đó, chưa ai xử lý bài này theo cách ấy.
Cũng kiểu hát này, mấy thập niên sau thấy lại ở Celine Dion
qua bài All By Myself. Đáng nói hơn, chính lối ngân giọng
cao chót vót ấy, sau này trở thành điển hình của các cuộc thi
âm nhạc truyền hình danh tiếng. Thống kê cho thấy,
riêng Unchained Melody đã được các thí sinh hát lại hơn 500
lần. Nhưng cũng cần phải nhắc lại, thành công
của Unchained Melody của The Righteous Brothers thật ra là
một… tai nạn của nhà sản xuất. Đúng ra bài này vốn chỉ để
trong album nhưng khi cần một bài để ghép với ca khúc chủ
lực sẽ phát hành thành single thì nhà sản xuất âm nhạc nổi
tiếng, Phil Spector đã chọn bài này cho mặt B. Còn mặt A,
như dự định, Hãng đĩa Philles, sẽ giới thiệu ca khúc Hung
Tin Vaên 245
On You, một sáng tác của bộ đôi sáng tác đang rất ăn khách
thời ấy, Gerry Goffin & Carole King.
Phil Spector được xem là phủ thủy âm thanh thời đó,
một nhà sản xuất đại tài nhưng lúc ấy ông đang… quá tải.
Tất cả công sức ông dồn cho mặt A, còn mặt B ông để 2 ca sĩ
tự làm. Và bài hát này, nên cơm gạo, chính là nhờ công biên
tập của chàng ca sĩ thua trong cuộc ném xu, Bill Medley.
Lúc đầu, người hát chính Bobby Hatfield đã hát thành 2 lần
và cảm thấy ổn nhưng Bill thấy rằng bài hát cần phải có cao
trào và cuối cùng Bobby đã hát thêm đoạn cao trào huyền
thoại với những nốt cao chót vót. Single phát hành ngày
17/7/1965 với mặt A ghi rõ nhà sản xuất là Phil Spector còn
mặt B thì… để trống. Và cuối cùng, bài hát lên một loạt các
bảng xếp hạng là bài mặt… B, Unchained Melody. Gần như
tất cả các đài phát thanh khi ấy đã mở mặt B như thể là
single chính thức của album mới. Điều này làm Phil Spector
tức điên. Chuyện kể rằng ông đã gọi từng đài yêu cầu không
phát mặt B nữa nhưng chẳng ai nghe và cuối cùng
Unchained Melody thắng gần như tuyệt đối.
Unchained Melody trở thành thương hiệu gần như độc quyền
của nhóm The Righteous Brothers bất chấp trước đó bài hát
này đã rất nổi tiếng, hay sau này cũng được hát lại với nhiều
giọng ca sừng sỏ.
Năm 1990, khi nhà sản xuất bộ phim Ghost (Hồn ma)
muốn tìm một bài hát thể hiện tâm trạng đầy đủ nhất của bối
cảnh một bộ phim tình cảm, họ đã chọn Unchained Melody.
Năm ấy, Unchained Melody lại tiếp tục leo lên các bảng xếp
hạng và trở thành ca khúc được yêu thích nhất trong năm.
Đến giờ này, sau 60 năm tồn tại, Unchained Melody vẫn
được xem là bản tình ca bất hủ. Cho dù những người làm nên
hồn vía bài hát này gần như không còn ai nhưng giai điệu
của nó vẫn chảy bất chấp thời gian-
Nguyên Minh
246 Tin Vaên
Unchained Melody
Oh, tình yêu của tôi, yêu tôi
Tôi đã khao khát liên lạc của bạn
Một dài, thời gian cô đơn
Thời gian trôi đi thật chậm
Và thời gian có thể làm rất nhiều
Bạn vẫn còn tôi?
Tôi cần tình yêu của bạn
Tôi cần tình yêu của bạn
Thiên Chúa tốc độ tình yêu của bạn cho tôi
sông cô đơn chảy
Về phía biển, biển
Để những vòng tay rộng mở của biển
sông cô đơn thở dài
"Hãy đợi anh, đợi tôi"
Tôi sẽ trở về nhà, đợi tôi
Oh, tình yêu của tôi, yêu tôi
Tôi đã khao khát, cho cảm của bạn
Một dài, thời gian cô đơn
Thời gian trôi đi thật chậm
Và thời gian có thể làm rất nhiều
Bạn vẫn còn tôi?
Tôi cần tình yêu của bạn
Tôi cần tình yêu của bạn
Thiên Chúa tốc độ tình yêu của bạn cho tôi
núi cô đơn nhìn
Tại sao, tại sao
Tất cả một mình tôi nhìn
Tại sao, tại sao
Mơ về tình yêu của tôi xa
Nhạc sĩ ALEX NORTH, HY ZARET
Tin Vaên 247
Bộ Sách : “Hỏi đáp nhanh trí”
Dạy con trẻ thói lưu manh! Huy Phương
Nếu bạn đặt một câu hỏi với đứa cháu của
bạn: “Mùa này theo cháu, ở đâu lạnh nhất ?” Bạn nghĩ sao,
thay vì câu trả lời là ở Oymyakon, nước Nga, hay Nam Cực,
thì thằng bé trả lời bạn, đó là ở trong tủ lạnh ! ?. Một câu trả
lời khá hỗn láo, không phải là câu giải đáp của một đứa trẻ
hiền lành, tử tế !.
Một câu hỏi vớ vẩn khác, “Vì sao một người rơi xuống
sông mà không ướt tóc?” Trong khi bạn đang phân vân,
chưa biết trả lời sao, thì thằng bé đã trả lời thay bạn “Vì
người đó trọc đầu !.” Các bạn có thể bật cười cho rằng đứa
trẻ nhanh trí, thông minh, nhưng rõ ràng đây là thứ lém lĩnh
ngoài đường phố, mà không bao giờ chúng ta muốn cho con
em có thứ thông minh, nhanh trí kiểu láu cánhư vậy!
Bạn sẽ gặp phải một câu hỏi khác khá dơ bẩn, nhưng lại
được in trong một cuốn sách để giáo dục trẻ em. Câu hỏi là:
“Cứt gì có thể lấy tay móc ?” và sau đây là câu trả lời, “Cứt
mũi, cứt mắt, cứt tai !”. Hoặc: “Trong con mắt của người
đang yêu, bạn gái của họ đều là Tây Thi, vậy trong con mắt
của Tây Thi thì có gì?. Đáp: “Dử mắt (ghèn) !”.
Trước bàn viết chúng tôi là một bộ sách loại bỏ túi, khổ
nhỏ, gồm có bốn tập, mang nhan đề “Hỏi Đáp Nhanh Trí” do
Tác giả Đức Trí sưu tầm biên soạn, Nhà xuất bản Văn Hóa -
Thông Tin, số 43 Lò Đúc, Hà Nội, ấn hành, mỗi cuốn bán
14,000 đồng Việt Nam CS. Nội dung tập sách là một thứ văn
hóa, giáo dục lưu manh thô lỗ, được trình bày dưới
dạng “hỏi-đáp” tràn đầy trong gần 800 trang sách.
Chúng tôi xin dẫn chứng thêm những điều tệ hại trong
bộ sách này, để các bạn có thể hiểu thêm loại văn hóa tồn tại,
và đang phát triển mạnh mẽ trong xã hội bây giờ. Câu trả lời,
trong nước bây giờ gọi là “đáp án.”
248 Tin Vaên
Hỏi: Kiểm tra cuối kỳ, Tuấn bị điểm 0 liền 6 môn, điều
này chứng minh cái gì?
Đáp án: Chứng minh cậu ta không hề quay cóp!.
Hỏi: Cái gì còn nhỏ hơn cả vi khuẩn?
Đáp án: Con của vi khuẩn!.
Hỏi: Tại sao cổ của hươu cao cổ lại dài như vậy?
Đáp án: Tại vì nó thích chơi trội !.
Hỏi: Người nào thích bóng tối nhất?
Đáp án: Những người yêu nhau!
Hỏi: Tại sao Cường ngủ gật trên lớp mà không bị thầy giáo
phê bình?
Đáp án: Vì thầy giáo không nhìn thấy!.
Hỏi: Loài vật nào không bị muỗi đốt?
Đáp án: Là con muỗi!
Hỏi: Khi thả chim bồ câu thì ai vui nhất?
Đáp án: Chim bồ câu!
Hỏi: Đa số vĩ nhân đều sinh ra ở đâu?
Đáp án: Trong nhà hộ sinh!.
Hỏi: Nên làm gì khi cây kim rơi xuống biển?
Đáp án: Đi mua cây kim khác!
Hỏi: Vì sao về mùa Đông, chim én lại bay về phương Nam.
Đáp án: Vì nó đi rất chậm!
Hỏi: Đánh cái gì vừa không tốn sức lại rất thoải mái.
Đáp án: Đánh một giấc!
Và văn hóa “búa liềm” này luôn ẩn náu một tâm tính ác độc:
Hỏi: Ông A bị chặt đầu lúc 40 tuổi, vậy con cái ông A bị
làm sao?
Đáp án: Bị mồ côi!
Hỏi: Một người sau khi bị chặt đầu sẽ thế nào?
Đáp án: Biến đổi chiều cao!
Hỏi: Làm thế nào khi gặp người sống?
Đáp án: Phải luộc chín!
*Đây là một vài ví dụ:
Tin Vaên 249
Tại sao mũi bị tẹt?
Một hôm, một bé trai 4 tuổi hỏi ông nội:
– Ông ơi! Vì sao mũi của ông không giống của cháu, tại sao
mũi của ông lại bẹt?
– Bởi vì khi còn nhỏ, ông không cẩn thận đã giẫm lên mũi
của mình, nên mũi của ông bây giờ bị bẹt!
Hỏi: Làm cách nào để mọi người không uống nước?
Đáp án: Đổi tên của nước (?)
Khi ta có một hình tứ giác, vậy có 4 góc, ta cắt bỏ một hình
tam giác ở giữa, tương đương ba góc, ta sẽ có một hình ngũ
giác, có 5 góc. Vậy ta có: 4-3= 5!
Sách soạn ra nói là để dạy cho trẻ “hỏi đáp nhanh trí”
Nhưng Chính là để dạy con trẻ lưu manh, tập dối trá,
như câu chuyện dưới đây: Vẫn còn đang tắm:
Cô gái đang rửa bát đĩa ở trong bếp thì có tiếng chuông điện
thoại vang lên, người mẹ muốn tìm mẹ của cô gái. Cô gái trả
lời:“Mẹ cháu có lẽ đang tắm, bác đợi một lát để cháu đang
tìm !.” Cô gái vặn vòi nước thật to, tạo âm thanh ồn ào, và
trả lời điện thoại nói: “Mẹ cháu vẫn đang tắm !.”
Xếp hàng: Một quý bà chạy vội vàng đến trước quầy thịt và
lớn tiếng: thịt bò cho chó “Ông chủ, bán cho tôi 10 ngàn
đồng cho chó!.” Sau đó bà quay sang một quý bà khác đang
đứng chờ và giải thích: “Cô thông cảm, tôi đã xếp hàng ở
đây trước rồi!”
Thêm ba cuốn tự điển tiếng Việt “kiểu Vũ Chất” vừa
được xuất bản tại Hà Nội với kiểu giải nghĩa “ba phải”
như: “Chú bác: nói chung chú và bác!” “Cào cấu: Cào và
cấu.” “Tao đàn: Chỗ nằm của tao nhân thi sĩ”
Điều này chứng minh rằng những người soạn sách
(thường không thấy ghi tiểu sử – hoặc có bằng Đại học
mua ở chợ trời): không trí tuệ mà cũng chẳng đạo đức, là
những người dốt nát, thất học, thiếu tự trọng, vô lại, sao
chép.
250 Tin Vaên
Nhà xuất bản thì do những người ngu dốt cầm đầu,
thiếu lương tâm, vùi đầu vào lợi nhuận.
Về phía chính quyền, nhất là trong ngành văn hóa,
Thì những viên chức, cán bộ trong ngành xuất bản, thường là
dốt nát, cũng là loại phi văn hóa, vô giáo dục.
Họ chỉ biết ngậm miệng ăn tiền và biết báo cáo về số lượng
xuất bản mỗi năm để nêu thành tích, dù với cái đống sách vở
vĩ đại, đưa cả một thế hệ vào chỗ ngu dốt, lưu manh. Tập
giấy lộn mang tên “Hỏi Đáp Nhanh Trí” xấu hổ phải mang
trên là “một cuốn sách,” nó dạy cho trẻ em kiểu nhanh trí,
lanh mưu, không cần trí tuệ, học hỏi để hiểu biết, mà đối đáp
cho xong, đào tạo cho chúng trong tương lai, trở thành
những người giảo hoạt, lưu manh theo nhu cầu trồng cây
ngắn ngày của “boác” và nhu cầu của “đoảng” đào tạo những
mầm non ngây ngô của dân tộc trở thành những công dân
xảo trá mai hậu.
Về chuyện “sao chép,” nếu xem kỹ thì đây là một cuốn
sách được “luộc” lại từ một loại rác rưởi của Trung Cộng,
với hình minh họa nguyên gốc của Tàu, còn rõ những chữ
Tàu trên hình bìa. Chỉ thị của Lê Duẩn sau 30 Tháng Tư,
1975, kỳ họp Quốc Hội Khóa 5: “Sau ngày gioải phoóng,
nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu
vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được
tiếp tục một cách kiên trì, tích cực, và triệt để!”
CS Miền Bắc đã tịch thâu, thiêu hủy, bán ra vỉa hè hay
ve chai là khoảng 180 triệu cuốn sách giá trị của miền Nam
Cộng Hòa, để bây giờ, 40 năm sau, nhà nước Cộng Sản cho
in ra những loại sách rác rưởi như cuốn sách trên. Phải chăng
đó là “cách mạng văn hóa” của những người Cộng Sản ?.
Chúng ta tự hỏi, con em mình nếu phải lớn lên trong
nước, sẽ học được gì trong những cuốn sách như loại này ?.
Huy Phương
Tin Vaên 251
@Thích Tánh Tuệ Những mảnh giấy cuộc đời
Một tờ Giấy khai sinh,
Đời bắt đầu từ đó.
Khổ, vui... rình lấp ló,
Theo gót ta vào đời.
Rồi suốt bao năm trời,
Miệt mài cùng sách vở.
Phấn đấu cả một thời,
Được mảnh bằng, ná thở!
Kế, nên chồng nên vợ,
Một tờ giấy kết hôn.
Từ đó xác lẫn hồn,
Trói trăn vào ngục thất.
Xuôi dòng đời tất bật,
Tranh đấu cùng bon chen,
Nhọc nhằn biết bao phen,
Một tờ tiền ''xỏ mũi'' .
Phải ra lòn, vào cúi,
Mới được tờ ''thăng quan''.
Muốn ngó dọc, nhìn ngang,
Phải bao lần khúm núm.
Bằng khen, ôi hí hửng,
Danh dự được là bao!
Chút hư vinh sóng trào,
Ai vỗ tay hoài mãi.
252 Tin Vaên
Tuổi chiều đời bải hoải,
Đến phòng mạch mới hay.
Cầm giấy bịnh trên tay,
Thở dài, từ nay khổ...
Một ngày buồn, nghỉ thở,
Xuất hiện tờ điếu văn.
Mấy mươi năm cõi trần,
Giấy vàng... bay đầy phố.
Mấy ai bừng tỉnh ngộ,
Buông những tờ giấy trên.
Giá trị đời đặt lên,
Khiến ta thành nô lệ.
Mắc gì mà phải thế!
Gót chân mòn ngược xuôi.
Thôi đuổi bóng tìm mồi,
Liền thảnh thơi cười nụ.
Hãy sống đời lạc trú,
Với hiện tại đang là.
Từng ngày từng ngày qua,
Hồn thăng hoa, tỉnh thức.
Mảnh giấy nào là thực,
Khi hơi thở... chê rồi?
Tất cả là trò chơi,
Bởi loài người sáng tạo.
Tương đối và hư ảo,
Trên kiếp đời mong manh.
Ai buông giấy không đành,
Còn chạy quanh mù mịt...
Tin Vaên 253
254 Tin Vaên
TIN SINH HOẠT VĂN HÓA GẦN XA
@ Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam lần
đầu tiên mở ra, sau 42 năm Người Việt Tị Nạn.
* Hai Cơ Sở Sinh Hoạt Văn Học Nghệ Thuật kỳ cựu
ở Hoa Kỳ phối hợp tổ chức ngày hội lớn này.
SAN JOSE (TMN News).- Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt
Nam sẽ được tổ chức 3 ngày 14, 15 & 16 tháng tư 2017, tại
Thung Lũng Hoa Vàng San Jose, Bắc
California, Hoa Kỳ.
Nguồn tin thông thạo cho biết như trên, và thêm rằng:
Ngay đầu năm mới, hơn 40 nam nữ văn nghệ sĩ & nhà truyền
thông từ khắp các châu lục đã nhận lời tham dự Quốc Tế Đại
Hội. Trong số này, người ta thấy một số tên tuổi nổi bật sau
đây: Nhạc sĩ/Kỹ sư Quách Vĩnh Thiện (Viện sĩ của Hàn Lâm
Viện Nghệ Thuật Âu Châu, người viết nhạc đầu tiên đã phổ
nhạc thành công 3254 cầu thơ Truyện Kiều của đại thi hào
Nguyễn Du, và 512 câu thơ song thất lục bát của kiệt tác
"Chinh Phụ Ngâm"), nhà ngôn ngữ Diệu Tấn, nhà văn Thanh
Thương Hoàng (nguyên Chủ Tịch Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt
Nam trước 1975), nhà biên khảo Phạm Trần Anh (Đồng Chủ
Tịch kiêm Tổng Thư Ký Hội Đồng Liên Kết Quốc Nội Hải
Ngoại VN), nữ tác giả Thu Nga (Tổng Giám Đốc Radio
Saigon Dallas 24/7), 2 nữ ký giả với hơn nửa thế kỷ hành
nghề truyền thông là Kiều Mỹ Duyên (cựu phóng viên chiến
trường, tác giả tập bút ký "Chinh Chiến Điêu Linh) & Như
Hảo (Chủ Nhân Mẹ Việt Nam FM Radio ở Nam Cali) v.v...
Thư mời tổng quát của Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ VN
(viết tắt QTĐHVNSVN) cho biết: Ban Tổ Chức Đại
Hội gồm Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt thành lập từ năm 1992,
liên tục hoạt động văn học nghệ thuật hơn 24 năm, đã duy trì
Tin Vaên 255
giải thưởng văn thơ nhiều năm qua; cùng Cơ Sở Văn Hóa
Đông-Phương thành lập từ năm 1976, liên tục sinh hoạt văn
học nghệ thuật & cộng đồng hơn 40 năm, từng tổ chức Giải
Quốc Tế Tượng Vàng Ca Sĩ VN 19 năm + Đại Hội Văn
Chương Phụ Nữ VN Toàn Cầu hơn 11 năm.
Ban Điều Hành Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt & 6 nam nữ cây
viết đoạt 3 giải Văn & 3 giải Thơ năm 2016, xuất hiện trước
cử tọa đông đảo trong Lễ Phát Giải Văn Thơ Lạc Việt năm
2016.
Nay, nhân dịp trọng đại “Quốc Hận năm thứ 42”, Nhóm
Sáng Lập QTĐH hân hạnh kính mời quý Nam & Nữ Văn
Nghệ Sĩ Việt Nam toàn cầu (nhà thơ, nhà văn, bình luận gia,
kịch tác gia, chủ báo, chủ đài, chủ websites, nhà truyền
thông, nhạc sĩ, họa sĩ, điêu khắc gia, nhiếp ảnh gia, đạo diễn
điện ảnh, soạn giả, tác giả, ca sĩ v.v...) tham dự QTĐH nêu
trên.
Điều kiện tham dự: Tất cả quý tác giả (Nam & Nữ) có tác phẩm đã xuất bản;
chủ báo/đài hoặc đại diện thẩm quyền; nam/nữ nghệ sĩ (nhạc
sĩ, ca sĩ, cổ nhạc...) đã có tối thiểu 1 CD/DVD hoặc 1 quyển
sách trên thị trường; nam/nữ nghệ sĩ (hội họa, nhiếp ảnh,
phim ảnh...); chủ websites đã hoạt động từ 4 năm trở lên;
Trưởng một Tổ Chức Văn Hóa trên 5 năm; quý Nam/Nữ
hành nghề truyền thông báo chí hoặc nghệ thuật chuyên
nghiệp 5 năm trở lên.
Đại Hội kéo dài trong 3 ngày. Ngày sinh hoạt nhộn nhịp
nhất là Thứ Bảy 15 tháng tư 2017. Buổi sáng là 3 nhóm hội
thảo về Văn Hóa và Cộng Đồng. Buổi chiều là Hội Chợ Văn
Học Nghệ Thuật, Đại Nhạc Hội và Lễ vinh danh các văn
nghệ sĩ đóng góp nhiều cho nền văn hóa dân tộc VN.
Chương trình chiều Thứ Bảy sẽ diễn ra tại một trong những
hội trường sang trọng hàng đầu tại miền Bắc Cali. Đó là
Santa Clara Convention Center. Bế mạc QTĐHVSVN sẽ là
Dạ Hội ca vũ nhạc "tạm biệt" tưng bừng.
.
256 Tin Vaên
Chia xẻ phí tổn 3 ngày ĐH là 125 Mỹ-kim. Hạn chót ghi
danh là ngày 15 tháng 2/2017. Muốn biết thêm chi tiết, xin
liên lạc với:
Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt email:
[email protected]. Tel: (669)251-5366
hoặc Cơ Sở Văn Hóa Đông Phương Email:
[email protected] Tel:(206)772-0231
Được biết Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt hiện điều hành bởi văn
thi sĩ Chinh Nguyên, văn phòng ở San Jose; và Cơ Sở Văn
Hóa Đông-Phương hiện điều hành bởi thi văn sĩ Quốc Nam,
văn phòng ở Seattle. Cả hai ông Chinh Nguyên và Quốc
Nam đều đã xuất bản nhiều sáng tác phẩm. Địa chỉ liên lạc
QTĐHVNSVN là: 640 Rettus Ct, San Jose, CA 95111.
------------------------------------------------------------------------- Hình Lưu Niệm họp BCH /NHK mở rộng tại Houston TX.
(Xem từ trái)
Hàng đứng: Lan Cao, Huỳnh Quang Thế, Túy Hà, Lê Thị Hoài
Niệm, Nguyễn Thế Giác, Vô Tình, Nguyễn Tuấn Chương, Lưu
Nguyễn Từ Thức, Dương Phước Luyến. Hàng ngồi: Lê Hữu Minh Toán, Phạm Tương Như, Vĩnh
Tuấn, Mây Ngàn.
Tin Vaên 257
VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI
Vùng Nam Hoa Kỳ
Nhiệm kỳ 2014 – 2017
Cố vấn: Doãn Quốc Sỹ
BAN ĐẠI DIỆN
Chủ Tịch: Túy Hà
Phó CT Nội Vụ: Lưu Nguyễn Từ Thức
Phó CT Ngoại Vụ: Lê Thị Hoài Niệm
Tổng Thư Ký: Phạm Tương Như
Thủ Quỹ: Mây Ngàn
UV. Văn Nghệ Sĩ Bị Cầm Tù: Trương Sĩ Lương
UV. Giao Tế - Thông Tin :Thu Nga
UV. Tổ Chức: Cù Hòa Phong
HỘI VIÊN HOẠT ĐỘNG
*Dương Phước Luyến *Huỳng Quang Thế *Huỳnh Công Ánh
*Lan Cao *Lê Hữu Minh Toán *Lê Thị Hoài Niệm *Nguyễn Thế
Giác *Nguyễn Tuấn Chương * Phan Đình Minh *Thu Nga *Mây
Ngàn *Cù Hòa Phong *Lưu Nguyễn Từ Thức *Vĩnh Tuấn *Vô
Tình *Yên Sơn * Diễm Nghi * Lưu Thái Dzo *Dương Thượng
Trúc *Song An Châu *Võ Thạnh Văn *Nguyễn Đức Nhơn *Phạm
Ngũ Yên* Nguyễn Mạnh An Dân* Trương Sĩ Lương *Phạm
Tương Như *Túy Hà *Hoàng T. Thanh Nga *Như Phong *Linh
Vang *Hoàng Lan * Thiên Lý *Thu Hương seattle*Nhật Hồng
HỘI VIÊN ÂN NHÂN
Lê Thị Thu Cúc
HỘI VIÊN TÌNH NGHĨA
Đặng Minh Hùng - Bích Huyền - Quỳnh Nguyễn - Hoàng Tường -
Kha Lăng Đa - Kim Hà - Nguyễn Thanh Ngọc – Tam Thanh -
Tiffany Nguyễn - Thái Tẩu - Tuấn Trường – Bích Phương
Nhật Hạnh –Lê Kính - Ngô Thu Hồng - Song Thy - Trần Yên
Thụy- Linh Phương - Văn Ngọc Thy - Xuân Diệp – Bạch Hạc
Hội viên quá cố: Vũ Linh - Huyền vũ Lê Văn Huyên
258 Tin Vaên
THÔNG BÁO CẦN LƯU Ý @ Bài vở sáng tác đã gởi cho Tin Văn xin đừng gởi ở Báo
khác. Tòa soạn toàn quyền không đăng hoặc cắt bớt nếu nội
dung bài không phù hợp với chủ trương của Tin Văn (không
viết thêm) và có thể hiệu đính nếu thấy cần thiết. Quý Tác
giả nào không đồng ý vui lòng ghi chú trên đầu bài viết. Bài
gởi đăng theo khổ giấy viết thư 8.5x11.5 không cần lay out
trước, gởi qua attachment vui lòng dùng dạng chữ Unicode-
Time new roman, cở chữ 12 Nếu có hình ảnh minh họa cần
scane dạng JPG. Bản thảo không hoàn lại. Sáng tác về văn
không dài quá 08 trang về Thơ không quá 03 trang.
@ Tin Văn hân hoàn chào mời Quý đọc giả và Quý thân
hữu cổ động mua ủng hộ dài hạn Tin Văn một năm 4 số là 35
US. Kể cả cước phí. Ngoài USA xin thêm 10 US.
@ Chi phiếu ấn phí, ủng hộ, và quảng cáo, xin gởi về Thủ
Quỹ MâyNgàn. Ghi chi phiếu theo tên và địa chỉ:
Mr.Thomas Dang :P.O. BOX 681822 Houston,TX 77268
@ Bài vở sáng tác xin gởi về email:
[email protected] or [email protected]
Ngay sau ngày Tin Văn phát hành. Tòa soạn bắt đầu
nhận bài mới (Trong thời gian 75 ngày).
Tin Vaên 259
BAN BIÊN TẬP CHÂN THÀNH CẢM TẠ CÁC TÁC GIẢ
GÓP MẶT TRONG SỒ NÀY:
Trương Sĩ Lương / Tâm tình / 3
Song An Châu / Cờ vàng tung bay / 8
Nguyễn Thạch / Nổi lửa / 11
Thu Nga / Năm Dậu Chuyện Gà / 13
Nguyễn Văn Thông / Cánh cửa Tết / 21
Như Phong / Xuân về / 25
Mai Thanh Truyết / Góc nhìn thời sự / 26
Trần Vấn Lệ / Đi đón mùa Xuân / 31
THƠ NGÁT HƯƠNG ĐỜI / 38
(Phương Triều, Nguyễn Hữu Nhật, Nguyễn Tất Nhiên)
Văn Nguyên Dưỡng / Kỷ niệm / 42
Nguyễn Minh Triết / Văn Miếu Trấn Biên / 43
Hoàng Xuân Sơn / Vọng tưởng / 53
Huỳnh Côn g Ánh / Bài thơ không nghĩa / 54
Nguyễn Mạnh An Dân / Những đoạn rời / 55
Phạm Tương Như / Mưa…lá / 61
Vũ Tiến Lập / Thư gởi bạn / 67
Quang Phạm / Xuân / 68
Hoàng T. Thanh Nga / Én mang Xuân về / 69
Túy Hà / Thu Nhật / 80
Lê Hữu Minh Toán / Phiên khúc mùa Xuân / 81
Đào Lê / Cũng rồi / 82
Điệm Mỹ Linh / Đưa Anh về / 83
TÌNH TRONG Ý NGOÀI / 84
(Nguyễn An Bình, Trần Việt Cường, Dạ Dung Vũ,
Songthy, Vương Hồng Ngọc, Minh Xuân 538)
260 Tin Vaên
Lê Thị Hoài Niệm / Bàn loạn / 102
Việt Linh 222 / Chỉ một nén hương / 111
Hoàng Lan / Những chim trời quê hương / 112
Lưu Thái Dzo / Tình trăng xưa / 113
Linh Vang / Ngọn lửa / 114
Lê Kính / Ngày về / 129
Vô Tình / Mắt mờ / 130
Hoàng Thanh / Xin cám ơn cuộc đời / 131
Nguyễn Đức Nhơn / Nỗi buồn thiên thu / 137
Nguyễn Mạnh Trinh / Đọc thơ / 138
Cái Trọng Ty / Chén rượu chiều mưa / 143
Trần Quốc Bảo / Dịch thơ / 144
Lan Cao / Thuyền văn / 145
Cù Minh Khánh / Đốt cây bông / 146
Trần Tuấn Kiệt / Lời thi sĩ / 149
Hồ Thụy Mỹ Hạnh / Tính yêu là thế / 151
Cung Bảo Bình / Biển sóng / 156
Nguyễn Thị Thanh Dương / Một thời tương tư / 158
Mây Ngàn / Bến cũ / 167
Võ Thạnh Văn / Từ buổi trăng về / 168
Nguyên Nhung / Người Đưa Thư / 169
Thiên Lý / Lá úa tính phai / 178
Dương Thượng Trúc / Có một mùa xuân / 179
Nguyễn Phan Ngọc An / Cánh thư Xuân / 197
Yên Sơn / But ký /198
Quang Dương / Mua quà tặng em / 205
Ngô Sĩ Hân/ Sợi nắng / 206
Huỳnh Quang Thế Viễn Kính Văn Học / 220
(Phan Văn Song, Nguyễn Hữu Nghĩa, Trần Minh Hiền,
David Cox, Nguyên Minh, Huy Phương)
Thích Tánh Tuệ / Những mảnh giấy / 251
Nguyễn Tuấn Chương / Bài thơ/ 253
Tin Sinh Hoạt Văn Hóa, Thông Báo /254
Tin Vaên 261
Danh Sách Thành Viên VBNHK ủng hộ
Tạp Chí Tin Văn trong năm 2016
Lê Thị Hoài Niệm $75.00
Mai Thanh Truyết $75.00
Dương Phước Luyến $75.00
Lưu Nguyễn Từ Thức $75.00
Phạm Tương Như $75.00
Phạm Ngũ Yên $75.00
Linh Vang $150.00
Mây Ngàn $300.00
Nguyễn Thế Giác $50.00
Lan Cao $75.00
Cù Hòa Phong $75.00
Dương Thương Trúc $75.00
Thu Hương Seattle $75.00
Thiên Lý $75.00
Hoàng Thị Thanh Nga $75.00
Song An Châu $75.00
Huỳnh Công Ánh $75.00
Nguyễn Mạnh An Dân $75.00
Như Phong $75.00
Trương Sĩ Lương $75.00
Ngô Sỹ Hân $75.00
Nguyễn Thanh Vân $75.00
Huỳnh Quang Thế $25.00
Võ Thạnh Văn $25.00
Thu Nga $75.00
*Thành viên có xin được quảng cáo miễn đóng ấn phí
Ân Nhân yễm trợ:
Nguyễn Văn Hương $100.00
Hồ Khắc Thiệu $50.00
Minh Xuân $50.00
Đ. M.L. $50.00
262 Tin Vaên
Tin Vaên 263
264 Tin Vaên
Tin Vaên 265
266 Tin Vaên