2.ngoduclap-noi dung.pdf

222
ML.1 MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cám ơn Danh mục các chữ viết tắt Mục lục MỞ ÐẦU .............................................................................................................................. 1 Chương 1. CƠ QUAN GIÁM SÁT CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885 .................................................................................................................................... 16 1.1. TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ YÊU CẦU THỰC TIỄN TRONG VIỆC GIÁM SÁT BỘ MÁY HÀNH CHÍNH, HỆ THỐNG QUAN LẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 1885 ......................................................................................................................... 16 1.1.1. Tiền đề từ lịch sử ........................................................................................... 16 1.1.1.1. Tổ chức giám sát dưới các triều đại quân chủ Việt Nam trước triều Nguyễn ................................................................................................................................. 16 1.1.1.2. quan giám sát của triều Thanh, Trung Quốc ...................................... 24 1.1.2. Yêu cầu thực tiễn đặt ra cho triều Nguyễn thành lập cơ quan giám sát .. 26 1.1.2.1. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của chính quyền trung ương ...... 26 1.1.2.2. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của chính quyền địa phương ..... 36 1.1.2.3. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của hệ thống quan lại từ trung ương đến địa phương .......................................................................................................... 42 1.2. CƠ QUAN GIÁM SÁT CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885 ............ 44 1.2.1. Quá trình ra đời và kiện toàn cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 ............................................................................................................... 44 1.2.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ ...................................................... 50 1.2.3. Chế độ thăng bổ và thuyên chuyển của triều Nguyễn đối với cơ quan giám sát .............................................................................................................................. 58 1.2.4. Chế độ đãi ngộ, khen thưởng và kỷ luật ...................................................... 60 1.2.4.1. Chế độ đãi ngộ ......................................................................................... 60 1.2.4.2. Chế độ khen thưởng và kỷ luật ................................................................ 63 Chương 2. CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN GIÁM SÁT TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885 ............................................................................... 68

Upload: phungphuc

Post on 29-Jan-2017

230 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

ML.1

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cám ơn

Danh mục các chữ viết tắt

Mục lục

MỞ ÐẦU .............................................................................................................................. 1

Chương 1. CƠ QUAN GIÁM SÁT CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 –

1885 .................................................................................................................................... 16

1.1. TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ YÊU CẦU THỰC TIỄN TRONG VIỆC GIÁM SÁT BỘ

MÁY HÀNH CHÍNH, HỆ THỐNG QUAN LẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN

1802 – 1885 ......................................................................................................................... 16

1.1.1. Tiền đề từ lịch sử ........................................................................................... 16

1.1.1.1. Tổ chức giám sát dưới các triều đại quân chủ Việt Nam trước triều

Nguyễn ................................................................................................................................. 16

1.1.1.2. Cơ quan giám sát của triều Thanh, Trung Quốc ...................................... 24

1.1.2. Yêu cầu thực tiễn đặt ra cho triều Nguyễn thành lập cơ quan giám sát .. 26

1.1.2.1. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của chính quyền trung ương ...... 26

1.1.2.2. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của chính quyền địa phương ..... 36

1.1.2.3. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của hệ thống quan lại từ trung

ương đến địa phương .......................................................................................................... 42

1.2. CƠ QUAN GIÁM SÁT CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885 ............ 44

1.2.1. Quá trình ra đời và kiện toàn cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai

đoạn 1802 – 1885 ............................................................................................................... 44

1.2.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ ...................................................... 50

1.2.3. Chế độ thăng bổ và thuyên chuyển của triều Nguyễn đối với cơ quan

giám sát .............................................................................................................................. 58

1.2.4. Chế độ đãi ngộ, khen thưởng và kỷ luật ...................................................... 60

1.2.4.1. Chế độ đãi ngộ ......................................................................................... 60

1.2.4.2. Chế độ khen thưởng và kỷ luật ................................................................ 63

Chương 2. CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN GIÁM SÁT TRIỀU

NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885 ............................................................................... 68

Page 2: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

ML.2

2.1. CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG ĐỘC LẬP ............................................................................ 68

2.1.1. Độc lập trong việc can gián vua và hoàng thân quốc thích ....................... 68

2.1.2. Độc lập trong các hoạt động hội triều và nghe chính sự ............................ 73

2.1.2.1. Trách nhiệm của Đô sát viện ................................................................... 73

2.1.2.2. Trách nhiệm của các Cấp sự trung và Giám sát ngự sử .......................... 75

2.1.3. Độc lập trong giám sát hoạt động của các bộ, nha ..................................... 78

2.1.3.1. Đối với hoạt động của các bộ .................................................................. 78

2.1.3.2. Giám sát hoạt động của các nha ............................................................... 81

2.1.4. Độc lập trong giám sát hoạt động của hệ thống quan lại và các đạo ........ 83

2.1.4.1. Đối với hoạt động của hệ thống quan lại ................................................. 83

2.1.4.2. Đối với hoạt động của các đạo ................................................................ 86

2.1.5. Độc lập trong một số hoạt động khác .......................................................... 90

2.2. CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG PHỐI HỢP ........................................................................... 92

2.2.1. Phối hợp trong nội bộ cơ quan giám sát ...................................................... 92

2.2.1.1. Phối hợp giữa Cấp sự trung các khoa ...................................................... 93

2.2.1.2. Phối hợp giữa Cấp sự trung với Giám sát ngự sử ................................... 94

2.2.1.3. Phối hợp giữa các Giám sát ngự sử ......................................................... 95

2.2.2. Tam Pháp ty: Thiết chế phối hợp giữa Đô sát viện, bộ Hình và Đại lý tự .... 97

2.2.2.1. Triều Nguyễn với việc thành lập và vận hành Tam Pháp ty ................... 97

2.2.2.2. Vai trò của Đô sát viện trong Tam Pháp ty ........................................... 101

2.2.2.3. Đóng góp của Tam Pháp ty ................................................................... 103

2.2.3. Phối hợp trong hoạt động kinh lược sứ ..................................................... 107

2.2.3.1. Quy định của triều Nguyễn và vai trò của cơ quan giám sát trong hoạt

động kinh lược .................................................................................................................. 107

2.2.3.2. Những đóng góp của hoạt động kinh lược ............................................ 109

2.2.4. Phối hợp thực hiện một số nhiệm vụ khác ................................................ 112

2.2.4.1. Hội đồng trong hoạt động thanh tra ....................................................... 112

2.2.4.2. Hội đồng giám sát, kiểm xét việc thu, chi ở các kho ............................. 116

2.2.4.3. Hội đồng giám sát, kiểm xét trường thi .................................................. 117

2.2.4.4. Hội đồng kiểm tra, giám sát hoạt động ở các lăng tẩm .......................... 119

2.2.4.5. Hội đồng trong một số hoạt động khác .................................................. 119

Page 3: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

ML.3

Chương 3. NHỮNG ĐÓNG GÓP, HẠN CHẾ TRONG CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ

THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN GIÁM SÁT TRIỀU NGUYỄN

GIAI ĐOẠN 1802 – 1885 ................................................................................................ 123

3.1. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ TRONG CƠ CẤU TỔ CHỨC .................... 123

3.1.1. Đóng góp ....................................................................................................... 123

3.1.2. Hạn chế ......................................................................................................... 126

3.2. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ QUA THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG ............. 127

3.2.1. Đóng góp ....................................................................................................... 127

3.2.1.1. Góp phần xây dựng và bảo vệ nền quân chủ chuyên chế ...................... 128

3.2.1.2. Trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh ...................................................... 133

3.2.1.3. Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội .............................................................. 135

3.2.1.4. Trên lĩnh vực kinh tế, thuế khóa và trị thủy .......................................... 141

3.2.2. Hạn chế ......................................................................................................... 143

KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 147

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................. 154

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 155

PHỤ LỤC .......................................................................................................... PL.1 – PL.54

Page 4: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

MỞ ÐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Sau nhiều biến cố thăng trầm, đến năm 1802 Nguyễn Ánh giành được chiến

thắng trước nhà Tây Sơn lập ra vương triều Nguyễn, mở đầu giai đoạn trị vì kéo dài

143 năm của triều đại quân chủ cuối cùng ở Việt Nam. Trong thời gian trị vì, 4 vị

vua đầu của triều Nguyễn, từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức đã dày

công xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền vững mạnh. Kết quả, so với

các triều đại quân chủ Việt Nam trước đó, dưới 4 vị vua đầu triều Nguyễn đã xây

dựng được bộ máy nhà nước khá hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương. Bộ máy

nhà nước của triều Nguyễn được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các bộ

máy nhà nước quân chủ Việt Nam trước đó và nhà Thanh (Trung Quốc) đương thời.

Trải qua quá trình hoạt động, bộ máy nhà nước của triều Nguyễn giai đoạn 1802 –

1885 đã có những đóng góp nhất định. Một trong những nguyên nhân góp phần cho

triều Nguyễn có được những đóng góp trên đó là triều đại này đã xây dựng, vận

hành một hệ thống giám sát khá hoàn chỉnh và hiệu quả.

1.1. Trong quá trình ra đời, tồn tại và phát triển, cơ quan giám sát của triều

Nguyễn như: Đô sát viện, lục khoa và Giám sát ngự sử của 16 đạo đã có những

đóng góp lớn, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa

phương cũng như ổn định xã hội và phần nào đảm bảo quyền, lợi ích của dân

chúng.

1.2. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhất là trong những thập niên gần

đây, nghiên cứu về các chúa Nguyễn và triều Nguyễn luôn là đề tài được nhiều học

giả quan tâm. Tuy nhiên, đến nay cơ quan giám sát của triều Nguyễn vẫn là vấn đề

chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều, các kết quả nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại

ở mức độ khảo tả, tư liệu rời rạc chưa hệ thống, chưa đánh giá được những đóng

Page 5: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

góp và hạn chế về tổ chức và thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn

giai đoạn 1802 – 1885.

1.3. Nghiên cứu về cơ quan giám sát sẽ cho chúng ta những kinh nghiệm trong

việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống tư pháp, thanh tra, giám sát nói riêng và bộ máy

nhà nước của Việt Nam nói chung trong giai đoạn hiện nay. Đây là một trong những

khoảng trống trong nghiên cứu về triều Nguyễn cũng như nghiên cứu về cơ quan

giám sát dưới chế độ quân chủ ở Việt Nam cần phải sớm được khắc phục, nhất là

khi Việt Nam đang hướng đến xây dựng và hoàn thiện hệ thống tư pháp, thực thi

nền thanh tra, giám sát mạnh và minh bạch.

1.4. Trong những năm qua, việc bảo tồn, trùng tu, phục dựng và phát huy giá

trị các công trình kiến trúc của triều Nguyễn được quan tâm đầu tư rất lớn và đã thu

được những đóng góp đáng kể. Tuy nhiên, có một số công trình kiến trúc, trong đó

có các công trình, cơ sở làm việc của cơ quan tư pháp, giám sát đã xuống cấp trầm

trọng, thậm chí di tích không còn nữa nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu, trùng

tu, phục dựng. Do vậy, nghiên cứu này chính là một trong những kênh thông tin để

chính quyền địa phương, cơ quan hữu quan và các nhà chức trách thấy được việc

trùng tu, tôn tạo các di tích như Đô sát viện, Tam Pháp ty, trống Đăng văn… là cần

thiết trong giai đoạn hiện nay.

Chính vì những lý do trên đây, chúng tôi đã quyết định chọn vấn đề “Cơ cấu

tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 –

1885” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, mã số:

62.22.03.13.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Đến nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về triều Nguyễn nói

chung và bộ máy nhà nước triều Nguyễn nói riêng. Trong đó, có nhiều công trình đã

tìm hiểu, nghiên cứu về cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885.

Có thể điểm lại một số kết quả nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài như sau:

Page 6: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

2.1. Trước năm 1975: Do một số yếu tố khách quan và chủ quan, tình hình

nghiên cứu về triều Nguyễn trước năm 1975 ở trong nước không nhiều. Nhất là, cơ

quan giám sát hầu như chưa được quan tâm nghiên cứu.

Qua khảo sát bước đầu, Luận án Tiến sỹ Luật khoa của Nguyễn Sĩ Hải (1962,

Sài Gòn), với đề tài Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ: 1802 - 1847

là một trong những công trình đầu tiên có nghiên cứu về cơ quan giám sát dưới triều

Nguyễn. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu và có nhiều đóng góp trong

việc khảo cứu về cơ quan giám sát triều Nguyễn. Đối với cơ quan giám sát, tác giả

đã dành 2 phần để trình bày, đó là phần cơ cấu tổ chức và phần giám sát đoàn.

Trong đó, tác giả Luận án đã khái quát về cơ quan giám sát dưới các triều đại quân

chủ ở Việt Nam, đồng thời trình bày khá chi tiết về cơ cấu tổ chức và chức năng,

nhiệm vụ của Đô sát viện, lục khoa và Giám sát ngự sử các đạo của triều Nguyễn.

Phải khẳng định rằng, đây là công trình mà Luận án của chúng tôi đã kế thừa được

kết quả nghiên cứu về quá trình ra đời và kiện toàn của cơ quan giám sát dưới thời 3

vị vua đầu của triều Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị). Tuy nhiên, đây

là công trình nghiên cứu tổng thể về tổ chức bộ máy chính quyền (của triều Nguyễn

giai đoạn 1802 – 1847), do đó kết quả nghiên cứu cũng mới chỉ dừng lại việc liệt

kê, khảo tả về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan giám sát dưới 3

triều vua đầu. Tác giả chủ yếu nghiên cứu về cơ quan giám sát dưới triều Minh

Mạng còn một số thay đổi dưới triều vua Tự Đức, tác giả không nghiên cứu. Hơn

nữa, đây là công trình nghiên cứu về tổ chức chính quyền trung ương nên tác giả

cũng chưa đi sâu nghiên cứu và đánh giá cụ thể về cơ cấu cơ quan giám sát cũng

như thực tiễn hoạt động của nó.

2.2. Từ sau năm 1975 đến nay: Cũng như tình hình nghiên cứu trước năm

1975, cho đến những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình nghiên cứu về

triều Nguyễn nói chung và cơ quan giám sát của triều đại này nói riêng hầu như bị

“bỏ ngỏ”. Một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên đó là năm 1983, Vũ Thị

Phụng đã cho xuất bản (Nxb Khoa học Xã hội) cuốn Giáo trình “Lịch sử nhà nước

và pháp luật Việt Nam”. Công trình này tác giả đã đề cập sơ lược về cơ quan Đô sát

Page 7: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

viện với vai trò là một cơ quan giám sát trong tổ chức bộ máy nhà nước triều

Nguyễn. Năm 1996, Nguyễn Minh Tường đã cho ra đời cuốn “Cải cách hành chính

dưới triều Minh Mạng”. Công trình này là một bước đột phá sâu hơn trong vấn đề

nghiên cứu cơ cấu tổ chức, hoạt động của cơ quan giám sát dưới triều Minh Mạng.

Trong đó, tác giả đã trình bày khá chi tiết về quá trình cải cách, kiện toàn cơ quan

giám sát dưới triều Minh Mạng và kết luận cải cách hành chính dưới triều Minh

Mạng mang lại hiệu quả là củng cố và tăng cường chế độ giám sát toàn bộ tổ chức

bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trong thời gian này, Đỗ Bang đã

chủ biên công trình “Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn (1802 – 1884)” (thuộc

đề tài độc lập cấp Nhà nước về triều Nguyễn). Năm 1997, công trình này được Nhà

xuất bản Thuận Hóa xuất bản. Tập sách này tác giả đã dành riêng một phần để

nghiên cứu về cơ quan giám sát của triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884, trên

tất cả các lĩnh vực tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan giám sát: Đô sát viện,

lục khoa, Giám Sát ngự sử của 16 đạo.

Một tác giả có khá nhiều nghiên cứu về bộ máy hành chính triều Nguyễn đó là

Trần Thị Thanh Thanh. Trong thời gian gần đây, tác giả này đã có các bài báo khoa

học công bố như: “Về pháp luật dành cho quan lại thời Nguyễn (1802-1883)”, báo

cáo tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ I, Trung tâm KHXH&NV quốc gia

(1998), “Hội đồng trong triều chính nhà Nguyễn thời kỳ 1802-1883”, tạp chí Xưa và

Nay (1999), ““Phiếu nghĩ”- Một thể thức tham mưu và giám sát trong triều chính

nhà Nguyễn”, tạp chí Xưa và Nay (2000)… Nhìn chung, các nghiên cứu của Trần

Thị Thanh Thanh chủ yếu tập trung vào hệ thống pháp luật của triều Nguyễn.

Năm 2006, tại Hội thảo 700 năm Thuận Hóa – Phú Xuân – Thừa Thiên Huế

(đến năm 2010 Kỷ yếu này được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản với tên

Thuận Hóa – Phú Xuân – Thừa Thiên Huế: 700 năm hình thành và phát triển) hai

tác giả là Đỗ Bang và Phan Tiến Dũng đã có 2 báo cáo có liên quan đến cơ quan

giám sát của triều Nguyễn. Trong đó, bài “Các biện pháp chế tài để điều tiết cực

quyền của bộ máy nhà nước tập quyền triều Nguyễn”, tác giả Đỗ Bang tiếp tục khái

quát một cách khá đầy đủ về quá trình ra đời, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ

Page 8: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

của cơ quan giám sát dưới triều Nguyễn. Bài viết đã cho biết triều Nguyễn đã thành

lập một hệ thống cơ chế giám sát cơ quan công quyền cùng quan lại chặt chẽ và có

hiệu quả [9:140-145]. Tác giả Phan Tiến Dũng với báo cáo “Các biện pháp phòng

chống tham nhũng của triều Nguyễn trong việc xây dựng Kinh đô Huế, tác dụng và

bài học kinh nghiệm” đã cho biết vai trò của cơ quan giám sát (Đô sát viện) trong

việc phòng chống tham nhũng của triều Nguyễn khi xây dựng Kinh đô Huế. Tác giả

nhận xét việc giám sát về quy trình và thủ tục xây dựng là chặt chẽ; triều đình đã tạo

điều kiện cho cơ quan giám sát hoạt động, tôn trọng cơ chế động viên và bảo vệ

người tố cáo những vấn đề liên quan đến tham nhũng trong quá trình xây dựng

[17:23]. Đồng thời, thuộc viên của cơ quan giám sát đã đề nghị thực thi các biện

pháp xử phạt nghiêm minh, kịp thời đối với các hành vi tham nhũng. Việc thực hiện

tốt công tác giám sát và thi hành xử phạt tham nhũng đã có tác dụng tích cực trong

xã hội...

Cũng trong năm 2006, tác giả Bùi Huy Khiên với bài viết “Tuyển chọn, kiểm

tra, giám sát đội ngũ quan lại dưới triều Minh Mạng”, đăng tải trên tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, đã khái quát về Đô sát viện dưới triều Minh Mạng cũng như

nhiệm vụ của cơ quan này. Đồng thời, tác giả cũng cho biết tổ chức này có những

quyền như: quyền đàn hặc, quyền can gián vua, quyền nghe chính sự, khoa, đạo có

quyền tâu thẳng lên nhà vua, quyền kiểm tra hoạt động của cơ quan khác, quyền

phúc duyệt các bản án dân sự... Tác giả cũng đã nghiên cứu về vai trò của cơ quan

giám sát trong hoạt động Kinh lược đại sứ... [33:19-23]. Gần đây nhất là công trình

“Nghiên cứu pháp luật hành chính và quân sự triều Nguyễn (1820 – 1884)” (đề tài

Khoa học và Công nghệ cấp Bộ, thực hiện tại Đại học Sư phạm, Đại học Huế, năm

2011), của Huỳnh Công Bá. Trong công trình này tác giả đã dành một phần để khai

quát về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Đô sát viện và Tam Pháp ty. Đặc biệt, tác

giả cũng đã đi sâu nghiên cứu việc triều Nguyễn vận hành Đô sát viện và Tam Pháp

ty là một trong những biện pháp chế ước trong bộ máy công quyền.

Page 9: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Trên website của viện Khoa học Thanh tra1, Phạm Thị Huệ công bố bài

“Phòng, chống tham nhũng xưa và nay”. Với bài viết này, tác giả đã cho biết “Năm

1804, dưới triều Nguyễn, ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đặt các chức Đô ngự

sử và Phó Đô ngự sử. Năm 1827, vua Minh Mạng đặt thêm các chức Cấp sự trung

và Giám sát ngự sử. Đến năm 1832, ông chính thức đặt Đô sát viện với một quy chế

đầy đủ bao gồm lục khoa và Giám sát ngự sử các đạo” [136]. Tác giả cũng đã khải

quát về nhiệm vụ của Đô sát viện dưới triều Nguyễn là: “giám sát hành vi của các

quan lại trong triều kể cả hoàng thân quốc thích để phát hiện ra những hành vi

khuất tất, không công bằng, không giữ phép, dối trá, bưng bít, chuyên quyền đều

phải tham hặc” và “Giám sát cả việc thi cử tuyển chọn nhân tài cho đất nước nhằm

đảm bảo sự công bằng trong thi tuyển, lựa chọn được người hiền tài giúp nước,

giúp vua” [136]. Đồng thời, để thi hành công vụ, Đô sát viện “có một hệ thống giám

sát đoàn, Giám sát ngự sử 16 đạo” “có nhiệm vụ giám sát dưới địa phương để phát

hiện quan lại có tệ tham ô, tham hặc, những việc không công bằng, không giữ

phép” [136]. Ngoài ra, còn có một số công trình khác như: “Thanh tra, giám sát và

khảo xét quan lại thời phong kiến ở nước ta” của Thái Hoàng, Bùi Quí Lộ, đăng

trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử (1995); Lược khảo và tra cứu về học chế, quan chế ở

Việt Nam từ 1995 trở về trước (1997) của Lê Trọng Ngoạn và một số người khác;

Một số vấn đề quan chế triều Nguyễn (1998) của Phan Đại Doãn; Việc đào tạo và

sử dụng quan lại của triều Nguyễn (1802 - 1885) (1998) của Lê Thị Thanh Hòa...

Trong thời gian qua, sinh viên khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học (Đại

học Huế) cũng đã thực hiện một số khóa luận tốt nghiệp như: Tìm hiểu hoạt động

của cơ quan tư pháp triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1883 của sinh viên Võ Thị Lý

(2002); Tổ chức và hoạt động cơ quan giám sát của triều Nguyễn (1802 - 1885) của

Trịnh Thị Quyên (2005), Tìm hiểu chế độ trung ương tập quyền triều Nguyễn (1802

– 1885) của Nguyễn Thị Thủy (2005)… Trong các nghiên cứu này, khoá luận của

Trịnh Thị Quyên (2005) là một đề tài có một số đóng góp nhất định cho việc nghiên

cứu về cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885. Trong khuôn khổ của

1 http://www.giri.ac.vn.

Page 10: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

một khóa luận cử nhân, tác giả đã khái quát về quá trình ra đời, kiện toàn cũng như

cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát dưới

triều Nguyễn qua các triều vua từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức.

Nhìn chung, công trình này chưa hệ thống đầy đủ về mặt tư liệu, mới chỉ dừng lại ở

mức độ khảo tả, việc đi sâu phân tích thực tiễn hoạt động cũng như đưa ra các đánh

giá, nhận định về đóng góp, hạn chế của của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai

đoạn 1802 – 1885... Dẫu vậy, đây chính những kết quả nghiên cứu đã giúp cho

chúng tôi biết được phần nào về tình hình nghiên cứu cơ quan giám sát của triều

Nguyễn cũng như đóng góp và hạn chế của các nhà nghiên cứu đi trước.

Cũng như tình hình ở trong nước, nghiên cứu về triều Nguyễn là một trong

những vấn đề được học giả là người nước ngoài quan tâm nhiều nhất trong tất cả

các nghiên cứu về chế độ quân chủ Việt Nam. Theo chúng tôi được biết, đến nay có

hai công trình nghiên cứu sớm nhất về cơ quan giám sát triều Nguyễn đó là “Kinh

thành Huế bản đồ học2” của H. Cosserat và “Kinh thành Huế địa danh học

3” của

L.Cadière trong Những người bạn Cố đô Huế4, tập XX (tiếng Pháp, xuất bản năm

1933; đến năm 1996, Hà Xuân Liêm dịch và Nxb Thuận Hóa xuất bản). Mặc dù cả

hai nghiên cứu của H. Cosserat và L.Cadière đều xuất bản sau năm 1885 nhưng các

tác giả này đã có một cái nhìn tổng thể về địa danh và vị trí cũng như quá trình thay

đổi của các di tích trong Kinh thành Huế, đặc biệt là vị trí và quá trình thay đổi của

các di tích như: Đô sát viện, Tam Pháp ty, trống Đăng văn... [13:5-110], [10:111-

188]. Tuy nhiên, cả hai nghiên cứu này mới chỉ dừng lại việc xác định vị trí và quá

trình thay đổi của Đô sát viện, Tam Pháp ty, trống Đăng văn, còn các vấn đề về cơ

cấu tổ chức và cơ chế, thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát chưa được các tác

giả này nghiên cứu.

Tiếp đến, năm 1971, tác giả Alexander Barton Woodside đã cho xuất bản cuốn

Vietnam and the Chinese model: A comparative study of Nguyễn and Ch’ing civil

2 Tiếng Pháp: “Le Citadelle de Hue: Cartographie”.

3 Tiếng Pháp: “Le Citadelle de Hué: Onomastique”. Năm 1996, Nxb Đà Nẵng đã dịch và xuất bản nghiên cứu

này, với tên Kinh thành Huế: Địa danh bằng cả tiếng Pháp và tiếng Việt. 4 Tiếng Pháp: Bulletin des Amis du Vieux Hué.

Page 11: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

government in the first half of the nineteenth century5, do nhà xuất bản Đại học

Harvard (Mỹ) ấn hành. Với sản phẩm này, Alexander Woodside đã đi sâu nghiên

cứu và đối sánh về tổ chức bộ máy, hệ thống quan lại và các chế độ tuyển bổ, thi

cử… của triều Nguyễn. Về cơ quan giám sát, tác giả đã dành hơn 2 trang (từ trang

71 đến trang 73) để mô tả sơ lược về cơ quan giám sát của triều Nguyễn và cho biết

triều Nguyễn đã kế thừa kinh nghiệm của nhà Thanh (Trung Quốc) để xây dựng cơ

quan giám sát. Đó là, cơ quan giám sát của triều Nguyễn và triều Thanh đều có Đô

sát viện (với các chức Tả đô ngự sử và Hữu đô ngự sử), lục khoa và Giám sát ngự

sử các đạo (triều Thanh có 12 Giám sát ngự sử, triều Nguyễn có 16 Giám sát ngự

sử). Tuy nhiên, tác giả cũng cho biết sự tiếp thu, kế thừa của các vị vua đầu triều

Nguyễn là không máy móc và có sự thay đổi nhất định để phù hợp với điều kiện của

Việt Nam lúc bấy giờ. Thứ nhất, cơ quan giám sát (Đô sát viện và lục khoa) của

triều Thanh có số lượng quan và lại nhiều gấp hai lần so với cơ quan giám sát của

triều Nguyễn. Thứ hai, lục khoa của triều Nguyễn có vai trò và quyền lực nhỏ hơn,

hạn chế hơn so với lục khoa của triều Thanh. Đặc biệt, các thuộc viên cơ quan giám

sát của triều Nguyễn được triều đình tránh không cho thực hiện nhiệm vụ khi có

quan hệ họ hàng, thân thuộc, trong khi triều Thanh không quy định… [127:71-73].

Nhìn chung, so với tất cả các học giả nghiên cứu về cơ quan giám sát của triều

Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885, cuốn Vietnam and the Chinese model của

Alexander Barton Woodside đã có cái nhìn khá tổng quan về cơ quan giám sát của

triều Nguyễn cũng như đánh giá được sự kế thừa, tiếp thu có sáng tạo của triều

Nguyễn khi xây dựng cơ quan giám sát cho triều đại mình. Đây cũng là công trình

mà chúng tôi đã kế thừa được một số tư liệu để thực hiện đề tài này.

Ngoài ra, còn có một số sản phẩm khác như L'Empire vietnamien face à la

Chine et à la France (1847-1885)6, Luận án Tiến sĩ của Yoshiharu Tsuboi

(Trường Cao đẳng thực hành về khoa học xã hội, Paris) năm 1982. Đến năm

1987, Nhà xuất bản L’Harmanttan (Pháp) đã xuất bản nghiên cứu này cũng với

5 Tạm dịch: Việt Nam và mô hình Trung Hoa: Một nghiên cứu so sánh của chính phủ dân sự Nguyễn và nhà

Thanh trong nửa đầu thế kỷ XIX. 6 Tạm dịch: “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (1847 – 1885)”.

Page 12: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

tên trên và năm 1993, cuốn sách này đã được Nhà xuất bản Tri thức xuất bản

bằng tiếng Việt (do các dịch giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trần Phượng và Tăng

Văn Hỷ dịch). Về nội dung, các công trình trên đều tập trung nghiên cứu các vấn

đề như nước Việt Nam trước năm 1847, người Pháp và người Hoa đối với Việt

Nam, thái độ và chính sách đối ngoại của triều Tự Đức đối với Pháp... Còn các

lĩnh vực như tổ chức bộ máy, cơ quan giám sát của triều Nguyễn hầu như không

được nghiên cứu. Từ một Luận án Tiến sĩ, năm 1993, Li Tana đã công bố công

trình “Vùng đất Nam Bộ dưới triều Nguyễn7”, do Institute of Southeast Asian

Studies Heng Mui Keng Terrece Pasir Panjang (Singapore) xuất bản. Một nghiên

cứu nữa đó là Luận án Tiến sĩ của Choi Byung Wook với đề tài “Vùng đất Nam

Bộ dưới triều Minh Mạng8 (1820 – 1841)”, bảo vệ tại Đại học Quốc gia

Australia năm 2004. Sau đó, Luận án này được Cornell Southeast Asia Program

xuất bản. Cả hai nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến chúa Nguyễn ở Đàng Trong

và các vấn đề như quyền lực của Gia Định thành, nhất là Lê Văn Duyệt, chính

sách của vua Minh Mạng đối với vùng đất Nam Bộ... còn cơ quan giám sát chưa

được các tác giả nghiên cứu.

Tóm lại, từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, nghiên cứu về cơ

quan giám sát triều Nguyễn là đề tài đã và đang được quan tâm nghiên cứu. Tuy

nhiên, tất cả các nghiên cứu chủ yếu là các bài viết chuyên biệt về một lĩnh vực

nhất định trong hệ thống cơ quan giám sát; gần như chưa có các đề tài, công

trình nghiên cứu chuyên sâu hay các hội thảo, diễn đàn học thuật tổng thể, quy

mô bàn về cơ quan giám sát của triều Nguyễn. Mặc dầu vậy, kết quả nghiên cứu

của các học giả đi trước chính là những nguồn tư liệu, kinh nghiệm quý báu giúp

chúng tôi thực hiện Luận án này.

3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu về “Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát

triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885” có những mục tiêu chính sau đây:

7 Tiếng Anh: Southern Vietnam under the Nguyen.

8 Tiếng Anh: Southern Vietnam under the Reign of Minh Mang.

Page 13: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

3.1. Hệ thống hóa một cách đầy đủ về quá trình ra đời, kiện toàn và khái quát

về chức năng, nhiệm vụ cơ quan giám sát của triều Nguyễn.

3.2. Nghiên cứu về cơ chế độc lập và cơ chế phối hợp trong thực tiễn hoạt

động giữa cơ quan giám sát với nhau và giữa cơ quan giám sát với cơ quan khác.

3.3. Nghiên cứu, đánh giá về những đóng góp và hạn chế của cơ quan giám sát

trong quá trình hoạt động. Đồng thời, tìm hiểu về một số vị quan giám sát tiêu biểu

triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 18859.

3.4. Luận án sẽ đưa ra những bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng, hoàn

thiện và vận hành hệ thống thanh tra, giám sát hiện nay của Việt Nam. Luận án

cũng sẽ có những kiến nghị để các nhà chức trách, chính quyền địa phương quan

tâm đầu tư nghiên cứu về cơ quan giám sát cũng như việc bảo tồn, trùng tu, phục

dựng các công trình liên quan đến cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai đoạn

1802 – 1885.

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ

và thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát (Đô sát viện, lục khoa và Giám sát ngự

sử của 16 đạo dưới triều Nguyễn)... Tuy nhiên, kể từ sau cuộc cải cách hành chính

của vua Minh Mạng, bộ máy hành chính nói chung và cơ quan giám sát nói riêng là

đầy đủ và khá hoàn chỉnh. Thành quả này được 2 vị vua sau là Thiệu Trị, Tự Đức

tiếp tục kế thừa và không thay đổi nhiều. Chính vì vậy, trong quá trình nghiên cứu

về cơ quan giám sát cũng như tổ chức bộ máy nhà nước, Luận án chủ yếu tập trung

nghiên cứu dưới thời vua Minh Mạng.

Bên cạnh đó, để có cơ sở nhìn nhận một cách khách quan cũng như đối sánh,

đánh giá về cơ quan giám sát của triều Nguyễn, Luận án còn khái quát về cơ cấu tổ

chức, chức năng, nhiệm vụ của các chức quan, cơ quan giám sát của các triều đại

Việt Nam trước triều Nguyễn cũng như cơ quan giám sát của nhà Thanh (Trung

Quốc) đương thời.

9 Tuy nhiên, để đảm bảo sự phù hợp về bố cục của luận án, phần này được kết cấu trong phần Phụ lục.

Page 14: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Trong quá trình hoạt động, cơ quan giám sát của triều Nguyễn còn được triều

đình giao cho phối hợp với một số tổ chức, cơ quan khác để thực thi chức năng,

nhiệm vụ chung. Do vậy, Luận án còn nghiên cứu thêm một số cơ quan khác của

triều Nguyễn như: Tam Pháp ty, Đại lý tự, bộ Hình...

Một đối tượng quan trọng cũng được Luận án quan tâm nghiên cứu nữa đó là

những vị quan tiêu biểu đã từng đảm đương chức vụ cơ quan giám sát hoặc liên

quan đến hoạt động của cơ quan giám sát.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Không gian nghiên cứu của đề tài là ở Việt Nam, trong đó tập trung nghiên

cứu về cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 ở Huế.

Về mặt thời gian, Luận án nghiên cứu vấn đề trong khoảng thời gian từ năm

1802 khi Nguyễn Ánh thành lập triều Nguyễn đến năm 1885. Như chúng ta đã biết,

với sự kiện thất thủ Kinh đô của triều đình Huế trước âm mưu xâm lược của thực

dân Pháp vào đêm mùng 04/7/1885 rạng sáng ngày 05/7/1885, thực dân Pháp chính

thức xác lập quyền đô hộ và biến triều đình Huế thành tay sai. Từ đây, thực dân

Pháp bắt đầu cải tổ bộ máy nhà nước của triều Nguyễn theo ý đồ xâm lược của

chúng, “chế độ phong kiến Việt Nam với ý nghĩa là một vương triều độc lập đã sụp

đổ” [46:222], cơ quan giám sát của triều Nguyễn bắt đầu được thực dân Pháp thay

đổi về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và hoạt động theo mục đích của chúng.

5. NGUỒN TƯ LIỆU

5.1. Nguồn tư liệu quan trọng nhất được tác giả đặc biệt chú ý là nguồn tư liệu

của Nội các và Quốc Sử quán triều Nguyễn như bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự

lệ (15 tập) do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 1993, bộ Đại Nam thực lục (10

tập) do nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2007, Châu bản triều Nguyễn hiện

được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 (Hà Nội) và bộ Mục lục châu bản

triều Nguyễn 122 tập của triều Nguyễn (dưới triều vua Gia Long, Minh Mạng,

Thiệu Trị và Tự Đức) do Viện Đại học Huế và Ủy ban phiên dịch sử liệu học Việt

Nam của Huế dịch từ năm 1962, hiện bản thảo còn được lưu trữ tại Thư viện trường

Đại học Khoa học (Đại học Huế)…

Page 15: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

5.2. Về tài liệu là sản phẩm khoa học có một số luận án, cuốn sách điển hình

như: Luận án Tiến sỹ Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ:1802 – 1847

của Nguyễn Sĩ Hải; cuốn Vietnam and the Chinese model: A comparative study of

Nguyễn and Ch’ing civil government in the first half of the nineteenth century của

Alexander Barton Woodside (Harvard University Press, 1971); Cải cách hành chính

dưới triều Minh Mạng của Nguyễn Minh Tường (Nxb KHXH, 1996); Tổ chức bộ

máy Nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1884 và cuốn Khảo cứu kinh tế và tổ

chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn: những vấn đề đặt ra hiện nay của tác giả Đỗ

Bang (Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997 và 1998); cuốn Một số vấn đề quan chế triều

Nguyễn của nhà nghiên cứu Phan Đại Doãn (Nxb Thuận Hóa, Huế, 1998), Báo cáo

đề tài khoa học Nghiên cứu pháp luật hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802 –

1884), của tác giả Huỳnh Công Bá… Bên cạnh đó là các bài viết được công bố trên

các tạp chí chuyên ngành có uy tín hay trên các kỷ yếu hội thảo khoa học lớn của

một số tác giả như: Đỗ Bang, Phan Tiến Dũng, Bùi Huy Khiên, Vũ Thị Phụng, Trần

Thị Thanh Thanh... Ngoài ra, tác giả Luận án còn tham khảo một số khoá luận tốt

nghiệp có liên quan trực tiếp đến đề tài của sinh viên khoa Lịch sử, trường Đại học

Khoa học Huế như đã trình bày.

5.3. Luận án còn sử dụng nguồn tư liệu từ internet. Đối với nguồn tư liệu này,

tác giả chủ yếu sử dụng các sản phẩm là bài báo, báo cáo khoa học, hình ảnh... của

các học giả, nhà nghiên cứu đã được công bố trên các website.

5.4. Ngoài ra, tác giả cũng đã trực tiếp khảo sát thực địa, chụp ảnh các di tích

liên quan đến Luận án như: Đô sát viện, lục khoa, Tam Pháp ty... tại thành phố Huế.

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Là một đề tài thuộc chuyên ngành lịch sử nên phương pháp nghiên cứu chính

là phương pháp lịch sử và phương pháp logic trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã sử dụng các phương

pháp chuyên ngành của khoa học lịch sử như phương pháp đồng đại, phương pháp

lịch đại, phương pháp điền dã… nhằm tái hiện cơ quan giám sát dưới chế độ quân

chủ ở Việt Nam, chế độ quân chủ ở Trung Quốc nói chung và cơ quan giám sát

triều Nguyễn nói riêng. Đặc biệt, Luận án đã dựng lại một cách khá đầy đủ bức

Page 16: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

tranh về thực tiễn hoạt động của cơ quan/chức quan giám sát dưới triều Nguyễn.

Chẳng hạn, khi sử dụng phương pháp lịch đại, Luận án đã có được cái nhìn khá đầy

đủ về quá trình ra đời, phát triển và hoàn thiện của cơ quan giám sát dưới chế độ

quân chủ ở Việt Nam, nhất là quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ quan giám sát

dưới triều Nguyễn từ triều Gia Long, Minh Mạng đến triều Thiệu Trị và Tự Đức.

Về phương pháp điền dã, tác giả Luận án đã tiến hành điền dã, quan sát, chụp ảnh...

các di tích liên quan đến cơ quan giám sát của triều Nguyễn. Ngoài ra, Luận án còn

sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương pháp so

sánh - đối chiếu...

Trong quá trình thực hiện Luận án, các phương pháp nghiên cứu trên đây

không chỉ được sử dụng đơn lẻ, độc lập mà đối với một số vấn đề, Luận án đã có sự

lồng ghép các phương pháp với nhau để có được kết quả nghiên cứu đầy đủ và

chính xác. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về cơ cấu cơ quan giám sát của triều Nguyễn,

Luận án đã kết hợp giữa phương pháp đồng đại, phương pháp lịch đại, phương pháp

đối chiếu, so sánh và phương pháp thống kê... để phác họa lại cơ cấu cơ quan giám

sát của triều Nguyễn nói riêng cũng như quá trình phát triển của cơ quan giám sát

dưới các triều đại quân chủ ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc...

7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

Nghiên cứu đề tài “Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát

triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885” nếu thành công sẽ có những đóng góp khoa

học và thực tiễn sau:

7.1. Trên cơ sở hệ thống hóa, khái quát hóa các công trình, bài viết của các

học giả đi trước, với cách nhìn độc lập, Luận án sẽ góp phần hệ thống hóa một cách

toàn diện và đầy đủ về quá trình ra đời, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và cơ

chế hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn trong mối tương quan với triều

đình và bộ máy nhà nước triều Nguyễn và trong mối liên hệ, so sánh với cơ quan

giám sát của các triều đại quân chủ ở Việt Nam trước triều Nguyễn và triều Thanh ở

Trung Quốc.

Page 17: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

7.2. Nghiên cứu về cơ quan giám sát của triều Nguyễn còn giúp cho người đọc

thấy được tính kế thừa có chọn lọc và sáng tạo của triều Nguyễn trong quá trình xây

dựng bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan giám sát nói riêng. Đồng thời, khẳng

định vai trò của cơ quan giám sát cũng như ảnh hưởng của vua, triều đình và hệ

thống bộ máy nhà nước đối với tổ chức này.

7.3. Từ nghiên cứu về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, Luận án sẽ đi sâu

phân tích về thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn, từ đó sẽ có

những nhận định, đánh giá về đóng góp và hạn chế trong quá trình triều Nguyễn xây

dựng và vận hành tổ chức này.

8. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN

Luận án được trình bày trong 3 chương và được kết cấu với các nội dung

nghiên cứu như sau:

- Mở đầu (15 trang, từ trang 1 – trang 15).

- Chương 1. Cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 (52

trang, từ trang 16 – trang 67).

Chương này có hai nội dung nghiên cứu chính đó là: kinh nghiệm lịch sử và

yêu cầu trong việc giám sát bộ máy hành chính, đội ngũ quan lại đặt ra cho triều

Nguyễn thành lập cơ quan giám sát; quá trình ra đời, cơ cấu tổ chức, chức năng,

nhiệm vụ của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885.

- Chương 2. Cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn

1802 – 1885 (54 trang, từ trang 68 – trang 121).

Trong chương này, Luận án sẽ đi sâu nghiên cứu hai nội dung chính là cơ chế

độc lập và cơ chế phối hợp trong thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát. Trong

đó, cơ chế độc lập được nghiên cứu thông qua các hoạt động như: can gián vua và

hoàng thân, giám sát hoạt động của các nha, bộ và giám sát hoạt động của hệ thống

quan lại... giữa các cấp, các chức quan giám sát với nhau và giữa cơ quan giám sát

với cơ quan khác trong tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn. Cơ chế phối hợp đó

là sự phối hợp trong nội bộ cơ quan giám sát và giữa cơ quan giám sát với cơ quan

Page 18: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

khác của triều Nguyễn... Đặc biệt, cơ chế này còn được nghiên cứu bằng các hoạt

động cụ thể như: hoạt động của Tam Pháp ty, hoạt động Kinh lược...

- Chương 3. Những đóng góp, hạn chế trong cơ cấu tổ chức và thực tiễn hoạt

động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 (25 trang, từ trang

122 – trang 146).

Nội dung chính của chương này là đánh giá những đóng góp và hạn chế về cơ

cấu tổ chức và thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn

1802 – 1885.

- Kết luận (07 trang, từ trang 147 – trang 153).

- Các công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến nội dung

Luận án (1 trang, trang 154).

Tài liệu tham khảo (09 trang, từ trang 155 – trang 163).

Phụ lục (53 trang, từ trang PL.1 – trang PL.53).

Page 19: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Chương 1

CƠ QUAN GIÁM SÁT CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885

1.1. TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ YÊU CẦU THỰC TIỄN TRONG VIỆC GIÁM SÁT

BỘ MÁY HÀNH CHÍNH, HỆ THỐNG QUAN LẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI

ĐOẠN 1802 – 1885

1.1.1. Tiền đề từ lịch sử

Dưới chế độ quân chủ Việt Nam trước triều Nguyễn, tùy thuộc vào điều kiện

lịch sử cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính, các triều đại đều quan tâm đến

việc thành lập các chức quan và cơ quan giám sát. Mặc dù, ban đầu cơ cấu tổ chức

còn khá đơn giản và lỏng lẻo nhưng hoạt động giám sát của cơ quan này đã trực tiếp

góp phần phong hóa kỷ cương, phép nước, pháp luật triều đình và thanh lọc bộ máy

quan lại.

1.1.1.1. Tổ chức giám sát dưới các triều đại quân chủ Việt Nam trước triều

Nguyễn

* Những chức quan giám sát đầu tiên dưới thời Lý: Sau khi lên ngôi

(1010), cùng với việc xây dựng bộ máy nhà nước, vua Lý Thái Tổ đã “theo kiểu

mẫu của nhà Tống” [76:272] cho đặt các chức quan như Tả/Hữu Gián nghị đại phu

[24:218]. Nhiệm vụ của các chức quan này là can gián10

nhà vua và xem xét hoạt

động của các quan đại thần. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức, số lượng quan lại còn ít, đơn

giản và chủ yếu kiêm nhiệm, ví dụ các chức như Ngự sử trung tán, Ngự sử đại phu

thường do quan Hành khiển kiêm nhiệm. Đây “là cơ quan làm nhiệm vụ giám sát

các quan lại của triều đình, có chức Ngự sử trung tán (hay Ngự sử trung thừa), Ngự

sử đại phu giữ, song nhiều khi do Hành khiển tể tướng kiêm nhiệm” [19:47]. Với tổ

10

Can gián (干諫) tạm dịch là chỉ một hành động của kẻ dưới đối với kẻ trên mình như bề tôi với vua, để

ngăn chặn một hành động không đúng của người trên mình.

Page 20: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

chức bộ máy nhà nước còn khá đơn giản và chức quan giám sát cũng mới chỉ đặt ở

cấp trung ương, chúng ta chưa thể gọi tổ chức bộ máy giám sát dưới thời Lý là cơ

quan được mà đó là các chức quan giám sát.

* Nhà Trần với việc thành lập Ngự sử đài: So với triều Lý, triều Trần đã

tiến thêm một bước, đó là thành lập Ngự sử đài. Năm 1250, vua Trần Thái Tông đã

định hàm các quan bậc đại thần, trong đó quan giám sát hàng quan văn ở kinh có

các chức như: Thị ngự sử, Giám sát ngự sử, Chủ thư thị ngự sử, Ngự sử trung tán,

Ngự sử trung tướng, Ngự sử đại phu [76:456]. Sáu chức quan này còn được gọi là

lục Ngự sử. Bên cạnh Ngự sử đài, nhà Trần còn cho lập Đăng Văn kiểm sát viện và

các quan Gián nghị đại phu, Tả/Hữu nạp ngôn… Nhất là sau chiến tranh chống

Nguyên Mông, nhà Trần còn tăng cường thêm bộ phận thanh tra kiểm soát ở các địa

phương [87:180].

Nếu như quan Gián nghị đại phu thời Lý chỉ có nhiệm vụ can gián vua, giám

sát hoạt động của các quan đại thần triều đình, Ngự sử đài thời Trần còn chịu trách

nhiệm giám sát hoạt động của tất cả quan lại trong cả nước và trực tiếp theo dõi,

kiến nghị những khiếu nại, tố cáo của người dân [34:38].

Mặc dù đã có những tiến bộ hơn so với thời Lý nhưng về cơ bản cơ cấu tổ

chức, số lượng quan giám sát dưới thời Trần còn ít và chủ yếu kiêm nhiệm, ví dụ

các chức như Ngự sử trung tán, Ngự sử đại phu thường do quan Hành khiển kiêm

nhiệm [19:47].

Đến thời Hồ, tổ chức bộ máy nói chung, các chức quan giám sát nói riêng, cơ

bản giống nhà Trần. Tuy nhiên, có một sự thay đổi đó là Hồ Quý Ly đã đặt thêm

chức Liêm phóng sứ11

ở các lộ, “Quý Ly sai Liêm phóng sứ đến các lộ, bí mật dò

hỏi kẻ hay người dở về quan lại, việc lợi hại ở dân gian, để thi hành việc giáng

truất hay cân nhắc bọn quan lại” [76:707-708]. Dưới thời Hồ, có một số quan giám

sát khá nổi tiếng như: Nguyễn Trãi được Hồ Hán Thương bổ chức Chính chưởng ở

Ngự sử đài tháng 2/1401 [99:87-89] hay Ngụy Thức là quan giám sát nổi tiếng

11

Như chức thanh tra ngày nay. Dẫn theo [76:707].

Page 21: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

cương trực, ngay thẳng nên Hồ Hán Thương ví ông như Ngụy Trưng nhà Đường

(Trung Quốc) nên ban cho họ là họ Ngụy...

* Cơ quan giám sát được thành lập từ trung ương đến địa phương dưới

triều Lê sơ: Tiếp nối di sản tổ chức bộ máy của nhà Trần, tháng 2/1429, Lê Thái

Tổ đã cho đặt Ngự sử đài, với các chức: Thị ngự sử, Trung thừa, Phó trung thừa,

Giám sát ngự sử, Chủ bạ [12:449]. Trong đó, chức Trung thừa và phó Trung thừa

thì dùng An phủ sứ ở các lộ sung vào, chức Điện trung Thị ngự sử dùng Chuyển

vận ở huyện và Giáo thú ở các lộ sung vào, còn chức Giám sát ngự sử dùng thuộc

quan ở tòa Trung thư sung vào. Đặc biệt, vua Lê Thái Tổ còn cho đặt 13 Giám sát

ngự sử để giám sát hoạt động của 13 đạo.

Đến năm 1460, cùng với việc cho đặt lại lục bộ (bộ Lại, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ

Binh, bộ Hình và bộ Công), Lê Nghi Dân đã cho thành lập lục khoa nhằm giám sát

quan lại của lục bộ tương ứng. Đó là: Trung thư khoa giám sát bộ Lại, Hải khoa

giám sát bộ Hộ, Đông khoa giám sát bộ Lễ, Tây khoa giám sát bộ Binh, Nam khoa

giám sát bộ Hình và Bắc khoa giám sát bộ Công. Với việc cho đặt các khoa, triều

Lê sơ đã tiến đến chuyên môn hóa hoạt động giám sát của các bộ [24:218],

[124:150].

Năm 1465, cùng với việc đặt sáu viện, Lê Thánh Tông cho đổi đặt 6 khoa dưới

thời Lê Nghi Dân cho trùng tên của lục bộ [12:450]: Trung thư khoa thành Lại

khoa, Hải khoa thành Hộ khoa, Đông khoa thành Lễ khoa, Tây khoa thành Hình

khoa, Nam khoa thành Binh khoa và Bắc khoa được gọi là Công khoa. Đứng đầu

mỗi khoa có Đô cấp sự trung và thứ đến là Cấp sự trung [76:1011], [24:218]. Tuy

phẩm hàm không cao nhưng các viên quan của các khoa có vai trò, tiếng nói rất

quan trọng. Đối với các hoạt động triều chính, Ngự sử đài và lục khoa được ưu tiên.

Nhiệm vụ của mỗi khoa cũng được phân định rõ ràng [41:155], [34:40].

So với các triều đại quân chủ ở Việt Nam trước đó, triều Lê sơ là triều đại đầu

tiên cho đặt các chức quan giám sát cấp địa phương và cũng là triều đại đầu tiên đặt

ra hệ thống lục khoa để kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

lục bộ [114:32].

Page 22: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Về cơ cấu tổ chức, cùng với việc tiến hành cuộc cải cách bộ máy hành chính,

vua Lê Thánh Tông đã phân cơ quan giám sát của cả nước thành hai cấp là trung

ương và địa phương [32:11], [136].

- Đứng đầu cơ quan giám sát trung ương là Đô ngự sử mang hàm Chánh tam

phẩm tương đương với Thị Ngự sử thời Trần, giúp việc cho Đô ngự sử có phó Đô

ngự sử hàm Chánh tứ phẩm và Thiêm Đô ngự sử hàm Chánh ngũ phẩm. Ngoài ra,

còn có quan Đề hình giám sát ngự sử hàm Chánh thất phẩm, chuyên coi việc hình

án do Ngự sử đài phán đoán, buộc tội. Ngự sử đài ở trung ương có bốn cơ quan trực

thuộc, gồm:

+ Kinh lịch ty, có nhiệm vụ coi việc đăng lục các ấn, do quan Kinh lịch đứng

đầu mang hàm Tòng bát phẩm.

+ Tư vụ sảnh, có nhiệm vụ trông coi tổng quát các việc lặt vặt hàng ngày của

Ngự sử đài và do quan Tư vụ mang hàm Tòng bát phẩm đứng đầu.

+ Chiếu ma sơ, có nhiệm vụ ghi chép sổ sách văn thư, do quan Chiếu ma

mang hàm Tòng bát phẩm đứng đầu,

+ Án ngục ty, cơ quan này chuyên trông coi hình ngục và do quan Ngục thừa

mang hàm Chánh cửu phẩm nắm giữ.

- Cơ quan giám sát địa phương là quan giám sát của các đạo. Đứng đầu cơ

quan giám sát địa phương là chức Giám sát ngự sử. Dưới thời Lê Thánh Tông có tất

cả 13 Giám sát ngự sử của 13 đạo.

Theo Lê triều Quan chế, số lượng quan lại của cơ quan giám sát thời Lê sơ,

dưới thời Cảnh Hưng, trong 339 quan văn, cơ quan giám sát có tổng cộng 32 người,

cụ thể: 1 Đô ngự sử, 1 Phó đô ngự sử, 1 Thiêm đô ngự sử, 1 viên Chiếu ma, 2 Đề

hình giám sát Ngự sử và 26 Giám sát ngự sử của mười ba đạo (mỗi đạo 2 viên)

[47:425]. Về phẩm hàm, năm 1471, khi xét định quan chế, vua Lê Thánh Tông đã

định rõ: Đô đài ngự sử hàm Chánh tam phẩm; Phó đô ngự sử hàm Chánh tứ phẩm;

Thiêm đô ngự sử hàm Chánh ngũ phẩm; Đề hình giám sát Ngự sử hàm Chánh thất

Page 23: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

phẩm; Viên chiếu ma ở Ngự sử đài hàm Tòng bát phẩm; Ngục thừa ở sở án ngục

trong Ngự sử đài hàm Chánh cửu phẩm [12:451-452], [47:339], [76:1113-1114].

Triều Lê sơ còn có quy định về điều kiện để bổ dụng các chức quan giám sát.

Đó là quan giám sát phải là những người đã trải qua 4 lần khảo khóa (làm quan

được 12 năm) [28:27]. Về niên hạn đảm nhiệm của các ngôn quan12

dưới thời Lê là

9 năm, sau đó mới được xét thăng thưởng hay thuyên giảm, bãi nhiệm [114:112].

Còn niên hạn của đội ngũ thư lại ở Ngự sử đài và bốn bộ (Lại, Hộ, Binh, Hình)

cùng Đông các học sĩ, ba khoa (Hộ, Binh, Hình) đều phải 10 năm [76:1133-1137].

Dưới thời Lê sơ, nhất là thời vua Lê Thánh Tông, ngôn quan rất được coi

trọng. Theo tước phẩm, Đô Cấp sự trung – người đứng đầu các khoa chỉ mang hàm

Chánh thất phẩm nhưng được quyền kiểm soát, đàn hặc13

công việc của Thượng thư

– người đứng đầu các Bộ mang hàm Tòng nhị phẩm. Theo tờ chiếu năm 1487, trong

các buổi chầu, bàn định công việc của triều đình, theo thứ tự trước hết “lục khoa và

Ngự sử đài là một thứ” sau đó mới đến các Bộ để cho “tùy từng hạng mà bàn luận,

cốt phải tường tận, rõ ràng, không được mập mờ, hùa theo hay im lặng, lẫn tránh”

[42:502]. Hay một trong những trách nhiệm của Lại khoa là “thấy Lại bộ bổ dụng

người vô tài, thì bác bỏ mà trả lại” [12:482]. Năm 1471, Lê Thánh Tông ra lệnh:

“Bộ Lại tuyển dụng không đúng nhân tài, thì Lại khoa được quyền bác đổi”

[12:483]. Bộ Lại thay mặt triều đình chuyên trách thăng bổ, bãi nhiệm quan lại

nhưng nếu làm sai quy định sẽ bị Lại khoa tố giác, đàn hặc.

Một tiến bộ nữa đối với các chức quan giám sát dưới triều Lê sơ, đó là nhà Lê

đã đưa ra quy định quan giám sát phải là những người đỗ đạt. Năm 1497, vua Lê

Thánh Tông đã có Hạ chiếu tuyển tiến sĩ có thành tích về chính trị để bổ giữ chức ở

Ngự sử đài: “Từ nay, cấp sự trung trong lục khoa và giám sát ngự sử, nếu có khuyết

ngạch, thì bộ Lại chọn các quan trong kinh sư, ngoài các đạo người nào do tiến sĩ

xuất thân mà là người liêm khiết, cần mẫn, cứng rắn, ngay thẳng, có thành tích về

chính trị, thì cất nhắc lựa bổ” [28:27]. Với chính sách này, nhiều ngôn quan dưới

12

Quan giữ chức can gián vua và hặc tâu những người có lỗi và cũng để chỉ quan giám sát nói chung. 13

Đàn hặc (彈 劾): tạm dịch là hạch tội, phê bình, phê phán, vạch tội, tố cáo, lên án quan lại có tội với vua và

triều đình.

Page 24: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

triều Lê là nhà khoa bảng lớn, có đóng góp cho triều đình, cho đất nước14

. Tuy

nhiên, cũng có một số người không phải Tiến sỹ nhưng được bổ dụng làm Ngự sử

và đã trở thành những ngôn quan nổi tiếng cương trực, thanh liêm như: Phan Thiên

Tước, Đinh Cảnh An [28:27], Bùi Cầm Hổ…

Cùng với việc đặt ra cơ quan giám sát, các vị vua triều Lê sơ cũng đã ban cho

tổ chức này chức trách, nhiệm vụ bằng các quy định cụ thể. Năm 1429, Lê Thái Tổ

đã định rõ nhiệm vụ của Ngự sử đài là: “Hễ thấy trẫm có chính sự hà khắc làm hại

dân, thưởng phạt không đúng phép và quan lại không giữ phép công thì kíp dâng

giấy tờ lên đàn hặc. Nếu ai tư vị nể nâng, buông thả dung túng hoặc chỉ chăm chấm

những việc nhỏ nhặt hay bắt bóng nói càn thì đều phải tội” [76:852]. Đến năm

1456, vua Lê Nhân Tông hạ chiếu chỉ dụ: “Viên quan trong Ngự sử đài thì tâu hặc15

điều lầm lỗi, trừ bỏ việc xấu, biểu dương việc ngay, không nên lấy tình riêng bàn

việc công hoặc sợ hãi im miệng mà không nói” [28:27]. Năm 1471, vua Lê Thánh

Tông ban sắc dụ chỉ rõ: “Ngự sử, Hiến sát để đàn hặc sự gian tà của quan, xét rõ sự

u ẩn của dân” [28:27].

Vua Lê Thánh Tông cũng rất đề cao vai trò của các ngôn quan trong khi bàn

luận công việc trọng đại của triều đình. Năm 1487, khi hạ chiếu định vị thứ cho các

quan bàn luận việc công ở triều đường, Lê Thánh Tông đã quy định: khi nhà vua có

sắc chỉ truyền, trước hết là “các quan ở lục khoa và Ngự sử đài”, thứ đến là “các

quan trong Lục bộ, Lục tự, lại thứ nữa đến các quan được phong tước công, tước

hầu, tước bá và đô đốc trong ngũ phủ” theo thứ tự mà bàn luận, với mục đích để

“cốt làm thế nào cho lời bàn luận được rõ ràng, không ai được phụ họa theo đuôi ý

nghĩa câu nói của người khác, hoặc ngậm miệng không bàn luận gì” [76:1172] và

giao cho Giám sát Ngự sử theo dõi nếu người nào dám trái lệnh thì tâu hặc để trị tội

[84:31].

14

Như: Ngô Sĩ Liên (đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1442), Nguyễn Thiện (đỗ Tiến sĩ khóa Mậu Thìn 1448

đời Lê Nhân Tông, là quan Ngự sử dưới thời Lê Thánh Tông); Nguyễn Bật (tiến sỹ khoa Giáp Thìn 1484, là

Đô ngự sử đời Hiển Tông); Nguyễn Dự (Tiến sĩ khoa Mậu Thìn 1508, là Thiêm đô Ngự sử đời Lê Chiêu

Thống)... Trong đó, Sử thần Ngô Sĩ Liên là một trong những người nổi tiếng nhất. Ông đã từng giữ chức Đô

ngự sử dưới ba triều vua là Lê Nhân Tông, Lê Nghi Dân và Lê Thánh Tông [138]. 15

Tâu hặc (tạm dịch, 劾): Tâu với người trên tội lỗi người khác.

Page 25: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Nếu như trước đó Ngự sử đài và tất cả các quan lại của triều đình đều được

dâng sớ đàn hặc bất cứ một vị quan, lại hoặc một cơ quan nào đó của triều đình, đến

thời Hồng Đức, Lê Thánh Tông đã bãi bỏ lệnh này và thay vào đó là giao hẳn trách

nhiệm này cho lục khoa [114:32].

Nhìn chung, chế độ thanh tra, giám sát của Ngự sử đài, lục khoa và Hiến sát sứ

ty dưới thời Lê sơ là độc lập. Tức là cơ quan giám sát này hoạt động không chịu sự

ràng buộc, can thiệp của bất cứ một cơ quan nào. Tuy nhiên, tùy theo tình hình thực

tế, có những hoạt động của của cơ quan giám sát có thể có sự can thiệp của nhà vua.

Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của cơ quan giám sát triều Lê còn được quyền

vượt cấp. Đó là, các thuộc viên của Hiến sát sứ có thể tâu hặc việc làm sai trái của

một quan tri phủ lên Ngự sử đài hoặc bộ Hình, thậm chí được tâu lên cả vua mà

không cần thông qua các thuộc viên của lục khoa hoặc các thuộc viên của Ngự sử

đài [114:117].

Nếu Đô ngự sử đài xét nghiệm không công bằng, cho phép lục khoa được đàn

hặc để trị tội [76:1189]. Như vậy, thời Lê sơ đã có cơ chế giám sát lẫn nhau trong

nội bộ gián quan16

, nhất là cho phép gián quan cấp dưới đàn hặc gián quan cấp trên.

Cùng với Ngự sự đài trung ương và Ngự sử đài địa phương (Giám sát ngự sử

của 13 đạo thừa tuyên), sự ra đời của lục khoa để giám sát lục bộ tương ứng

[113:21] dưới thời Lê sơ đã góp phần rất lớn trong việc làm trong sạch bộ máy từ

trung ương đến địa phương. Nhiệm vụ chính của Ngự sử đài là khuyến cáo, chỉ rõ

những lỗi lầm của vua; đàn hặc, buộc tội quan lại; bàn bạc chính sự và giữ chức

năng về tư pháp, cùng với bộ Hình và Đại lý tự phúc duyệt các bản án. Trong quá

trình hoạt động, các quan giám sát dưới triều Lê còn có những đóng góp nhất định

trên lĩnh vực hành pháp.

Bộ máy hành chính và cơ quan giám sát dưới thời Lê sơ được “vay mượn từ hệ

thống nhà Minh” [126:43]. Chẳng hạn, lúc đầu các chức quan của Ngự sử đài là Thị

ngự sử, Trung thừa, Phó trung thừa nhưng sau đó được đổi thành Đô ngự sử, Phó đô

16

Gián quan (tạm dịch, 諫 官): Vị quan có quyền can gián lời nói, việc làm của vua trái với lẽ thường ảnh

hưởng đến quốc gia hay quyền lợi của dân chúng.

Page 26: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

ngự sử, Thiêm đô ngự sử… giống tên các chức quan của nhà Minh [126:43],

[28:26]. Tuy nhiên, những thành quả của thời Lê sơ trên lĩnh vực xây dựng, vận

hành bộ máy hành chính và cơ quan giám sát chính là cơ sở nền tảng, kinh nghiệm

quý báu cho các triều đại quân chủ Việt Nam sau này tiếp tục kế thừa, phát triển và

hoàn thiện, nhất là triều Nguyễn.

* Triều Mạc và Lê Trung Hưng tiếp tục duy trì mô hình cơ quan giám sát

của triều Lê Sơ: Dưới triều Mạc và Lê Trung Hưng, hệ thống quan chế nói chung

và cơ quan giám sát nói riêng chủ yếu thừa kế di sản của vua Lê Thánh Tông và

không thay đổi nhiều [12:467]. Có chăng những thay đổi đó chỉ là những thay đổi

về nhiệm vụ của các ngôn quan còn cơ cấu tổ chức vẫn được giữ nguyên.

Dưới thời Lê Dụ Tông (niên hiệu Bảo Thái, 1706 – 1729), sau khi cho đặt Đại

tư đồ, Đại tư mã, Đại tư không và Tam thái, Tam thiếu, ông cũng đã đặt phó Đô ngự

sử đứng dưới Tả Thị lang; Thiêm đô ngự sử đứng dưới Hữu Thị lang. Đến năm Bảo

Thái 1720, triều đình đã cho khôi phục quan chế đời Hồng Đức, Đô ngự sử hàm

Chánh tam phẩm; Phó đô ngự sử hàm Chánh tứ; Thiêm đô ngự sử hàm Chánh ngũ

[12:456].

Dưới thời Lê Trung Hưng, có một số gián quan nổi tiếng, điển hình như Lê

Quý Đôn. Năm 1771, khi ông còn giữ chức Phó Đô ngự sử, ông đã dùng số bạc hối

lộ của tội phạm khi xét kiện dâng chúa Trịnh nên đã được chúa Trịnh khen ngợi và

cho thăng làm Tả Thị lang bộ Công, quyền giữ chức Đô ngự sử. Sau đó, “nhân khi

khám xét hạt Thanh Hoa trở về, lại dâng hơn một ngàn lạng bạc đã ăn của đút”

[12:391] thu được từ quan lại địa phương, ông được bổ làm Hữu Thị lang bộ Hộ.

Ông đã từng tâu bày bốn việc17

. Chúa Trịnh Sâm cho là phải lẽ cả, lập tức hạ lệnh

cho thi hành. Về chức vụ trong hàng gián quan, năm 1770, ông được bổ làm Hữu

17

Đó là: “1. Cống sĩ thi hội trúng được kỳ đệ tam phần nhiều xin lạm sắc nội hoàng gia ơn, nhảy qua tư cách

trao chức vượt bậc. Xin xét thực, bắt trở về bậc cũ; 2. Hiến sát phó sứ và tham nghị là người có chuyên trách

ở một địa phương, thế mà ít lâu nay những bọn cầu may để làm quan phần nhiều không do các quan trong

triều đường bảo cử, chỉ lén lút cầu cạnh để được dự vào sự bổ dụng. Xin thu hồi lệnh trước, mà cho các quan

trong triều đường bảo cử theo như lệ cũ; 3. Đất bãi ở các lộ xin phái các quan chia nhau đi khám lại; 4.

Những dân xã ở các lộ, trước đây phụng mệnh được miễn trừ, gần đây vì chép lại sổ sách, rồi sinh ra sự thay

đổi thêm bớt gian trá. Xin sai tín thần xét thực để chỉnh đốn lại cho được đúng” [49: 697].

Page 27: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Thị lang bộ Hộ kiêm Thiêm đô ngự sử; năm 1771, ông được bổ làm Phó đô ngự sử;

năm 1776, ông được thăng làm Thị lang bộ Hộ kiêm Đô ngự sử.

Tùy thuộc vào mỗi thời kỳ lịch sử cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước,

các triều đại quân chủ Việt Nam đã quan tâm đến việc đặt ra các chức quan, cơ quan

giám sát tương ứng [86:19]. Trong đó, dưới triều Lê Sơ, nhất là kể từ sau cuộc cải

cách của Lê Thánh Tông, cơ quan giám sát đã được kiện toàn khá hoàn chỉnh với

hai cấp là trung ương và địa phương. Không chỉ được đặt ra trên danh nghĩa, mà các

triều đại này cũng đã ban hành cho các chức quan, cơ quan giám sát cơ chế hoạt

động cụ thể. Trải qua quá trình hoạt động, các chức quan, cơ quan giám sát dưới các

triều đại này đã có những đóng góp nhất định [31:25].

1.1.1.2. Cơ quan giám sát của triều Thanh, Trung Quốc

1. Dưới thời Xuân Thu (722 – 481 trước Công nguyên), Chiến Quốc (TK V –

221 trước Công nguyên), chế độ Giám sát ngự sử đã xuất hiện với trách nhiệm

chính là quản lý văn thư. Thời Tần Thủy Hoàng bắt đầu đặt chức Ngự sử đại phu

[24:218], [90:20-21]. Đến đời Tây Hán, Ngự sử đại phu, Thừa tướng và Thái úy gọi

là Tam công, khi khuyết chức Thừa tướng lấy Ngự sử đại phu để bổ sung vào. Thời

Tây Hán đã bắt đầu đặt Ngự sử phủ, đứng đầu là Ngự sử đại phu. Đến đời Đông

Hán đổi thành Ngự sử đài còn gọi là Lan đài tự, đứng đầu là chức Ngự sử trung

thừa [90:22], [24:218]. Thời Ngô (220 – 280) lập Tả/Hữu ngự sử đại phu. Sang thời

Đường, chủ quan của Ngự sử đài được đặt là Ngự sử đại phu và phó là chức Ngự sử

trung thừa. Ngự sử đài đã trở thành một cơ quan trung ương (Đài viện, Điện viện,

Sát viện là các thuộc quan Giám sát ngự sử) có tính độc lập tương đối, có vị trí khá

cao trong hệ thống bộ máy hành chính nhà nước [48:446-447]. Từ thời nhà Tống,

nhà Nguyên đến nhà Minh (960 – 1644), chế độ giám sát tuy có được thay đổi nhiều

nhưng quyền lực và hiệu quả hoạt động ngày càng hạn chế. Đến năm 1382, vua

Minh Thái Tổ (1368 – 1398), cơ quan giám sát gọi là Đô sát viện [48:448]. Năm

Hồng Vũ thứ 6 (1383), vua Minh Thái Tổ cho đặt thêm Cấp sự trung của sáu Khoa

(Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Đến năm Tuyên Đức thứ 10 (1435), vua Minh

Tuyên phân 13 đạo và cho đặt chức Giám sát ngự sử ở mỗi đạo [90:83].

Page 28: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

2. Sự hoàn chỉnh của hệ thống cơ quan giám sát dưới chế độ quân chủ ở Trung

Quốc thể hiện rõ đời nhà Thanh (1644 – 1911). Dưới thời trị vì của mình, các vị vua

nhà Thanh đã thiết lập hệ thống cơ quan giám sát chặt chẽ từ trung ương đến địa

phương, bao gồm: lục khoa, Đô sát viện và Giám sát ngự sử các đạo [24:218].

Trong đó, Đô sát viện và Giám sát ngự sử là cơ quan giám sát cấp địa phương. Đô

sát viện chịu trách nhiệm giám sát hoạt động chung của các địa phương [9:141], các

Giám sát ngự sử giám sát hoạt động của các đạo cụ thể theo phân định. Còn lục

khoa là cơ quan giám sát cấp trung ương, chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của

các khoa, các nha cũng như bộ máy chính quyền trung ương.

Về cơ cấu tổ chức và phẩm hàm của các chức quan thuộc cơ quan giám sát,

triều Thanh quy định như sau:

- Tả/Hữu Đô ngự sử cùng với Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Thái tử Thái

sư, Thái tử Thái phó, Thái tử Thái bảo, Thượng thư các bộ hàm Tòng nhất phẩm.

- Tả/Hữu phó Đô ngự sử cùng với Thông chính ti Thông chính sứ, Đại lí tự

khanh, Chiêm sự phủ Chiêm sự, Thái thường tự khanh, Thuận Thiên phủ Phủ doãn,

Phụng Thiên phủ Phủ doãn, Án sát sứ các tỉnh hàm Chánh tam phẩm.

- Cấp sự trung lục khoa cùng với Quang lộc tự thiếu khanh, Khâm thiên giám

Giám chính, Lang trung các bộ viện, Đồng tri các phủ và Tri châu tỉnh Trực lệ hàm

Chánh ngũ phẩm.

- Giám sát ngự sử các đạo và Hồng lô tự Thiếu khanh, Hàn lâm viện Thị độc

Thị giảng, Viên ngoại lang các bộ viện, Tri châu các tỉnh hàm Tòng ngũ phẩm

[16:30], [139].

Mặc dù còn có những hạn chế nhất định nhưng cơ cấu cơ quan giám sát của

các triều đại quân chủ Việt Nam trước triều Nguyễn và triều Thanh (Trung Quốc)

trên đây chính là kinh nghiệm quý báu cho các vị vua đầu triều Nguyễn, nhất là vua

Minh Mạng kế thừa và tiếp thu một cách chọn lọc để xây dựng cho triều đại mình

một hệ thống cơ quan giám sát phù hợp với điều kiện Việt Nam trong giai đoạn

1802 – 1885.

Page 29: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

1.1.2. Yêu cầu thực tiễn đặt ra cho triều Nguyễn thành lập cơ quan giám sát

Bộ máy hành chính và đội ngũ quan lại/cán bộ là một trong những yếu tố hàng

đầu quyết định đến sự hưng thịnh hay tồn vong của mỗi chế độ chính trị, triều đại,

quốc gia. Trước yêu cầu khách quan và mong muốn chủ quan, bộ máy hành chính

của mỗi thời kỳ, đất nước có quy mô và khác biệt nhất định. Triều Nguyễn cũng

không phải là một ngoại lệ.

Sau khi thiết lập vương triều, vua Gia Long đã từng bước xây dựng tổ chức bộ

máy hành chính. Tuy nhiên, vì những yếu tố khách quan và chủ quan, tổ chức bộ

máy hành chính dưới triều vua Gia Long còn khá đơn giản. Đến triều Minh Mạng,

trước nhiều yêu cầu bức thiết, nhất là để củng cố, xây dựng một triều đại ngày càng

vững mạnh, đồng thời khẳng định vị thế là một đế quyền vững mạnh, vua Minh

Mạng đã tiến hành cuộc cải cách hành chính mạnh mẽ. Kết quả, sau cuộc cải cách

đó, vua Minh Mạng đã xây dựng được một bộ máy hành chính khá đầy đủ và hoàn

chỉnh. Thành công này đã được các vị vua tiếp nối sau đó như Thiệu Trị và Tự Đức

tiếp tục kế thừa và không thay đổi nhiều.

Về cơ bản, tổ chức bộ máy dưới 4 vị vua đầu triều Nguyễn được phân thành

02 cấp là chính quyền trung ương và chính quyền địa phương.

1.1.2.1. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của chính quyền trung ương

* Hội đồng đình thần: Đây là “một hình thức tập trung dân chủ trong khuôn

khổ của chế độ quân chủ truyền thống ở nước ta và một số nước phương Đông”

[5:42], [6:111]. Đối với triều Nguyễn, năm 1803, vua Gia Long ra chiếu quy định

lập công đồng để hội triều vào các ngày 03, 15 và 23 hàng tháng tại nhà Tả Vu

(điện Cần Chánh). Đến năm 1805, ông lại cho đổi thành các ngày 02, 09, 16 và 24

tại Vũ Công thự (trước điện Thái Hòa). Thành phần tham gia Hội đồng, quan văn từ

Tòng nhị phẩm, quan võ từ Chánh nhị phẩm trở lên đang nhậm chức tại Kinh đô.

Hội đồng đình thần có nhiệm vụ quyết nghị những vấn đề như:

- Giải quyết những vụ việc nằm ngoài quyền hạn và trách nhiệm của các bộ,

nha và cơ quan chuyên trách.

Page 30: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

- Những bản án đặc biệt xin triều đình phúc thẩm.

- Các đơn khiếu nại, tố cáo về tệ tham nhũng hay nạn ức hiếp nhân dân của

quan lại... [5:43].

Đến dưới triều Minh Mạng, cùng với việc thành lập cơ quan hành pháp và tư

pháp như Đại lý tự, Đô sát viện và Tam Pháp ty, trách nhiệm của Hội đồng đình

thần chỉ đơn thuần là tổ chức tư vấn cho vua hay phản ánh tiếng nói của nhân dân.

Bên cạnh đó, vua Minh Mạng cũng có những thay đổi nhất định.

- Về thành phần tham gia, không phân biệt quan đang nhậm chức tại Kinh đô

hay địa phương mà ngạch văn từ Chánh tam phẩm trở lên, ngạch võ từ Tòng nhị

phẩm trở lên đều được tham dự.

- Hội đồng đình thần được công cử để bổ nhiệm một số ngạch quan thuộc các

lĩnh vực như: các quan Tế tửu ở Quốc Tử giám, Đốc học các tỉnh; ngạch quan

ngành giám sát, thanh tra như Cấp sự trung các khoa và quan đứng đầu các phủ

huyện...

- Hội đồng đình thần có trách nhiệm xét xử các vụ trọng án như vụ án Lê Chất

(nguyên Tổng trấn Bắc thành) năm 1836, xét lại các án tử hình trước khi trình

Hoàng đế... [5:44-46].

* Cơ quan trực thuộc Hoàng đế

- Tam Nội viện: Đây là ba cơ quan, gồm: Thị Thư viện, Thị Hàn viện và Nội

Hàn viện. Trong đó, Thị Thư viện có nhiệm vụ giúp nhà vua thảo các chiếu, chỉ,

sắc, dụ gửi cho các quan lại; Thị Hàn viện phụ trách công việc biên soạn sách phục

vụ cho việc học tập, giúp vua thảo các sách, mệnh chỉ, chế, cáo; còn Nội Hàn viện

lo về ngự chế.

Đến năm 1820, vua Minh Mạng đổi Tam Nội viện thành Văn Thư phòng

[76:165], [68:35]. Văn Thư phòng có các viên Thị thư, Thị hàn, Nội hàn. Văn Thư

phòng được cấp ấn triện riêng. Hai năm sau (1822), vua Minh Mạng lại cho tách

chức năng soạn thảo văn bản khỏi Văn Thư phòng và thành lập Hàn Lâm viện. Năm

1826, Văn Thư phòng lại được giao thêm nhiệm vụ mới đó là quản lý Châu bản.

Page 31: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Trước đây, Châu bản liên quan đến bộ nào thì bộ đó có trách nhiệm giữ [24:123-

124].

Năm 1829, trước khối lượng công việc ngày càng đồ sộ mà Văn Thư phòng

không thể đảm đương nổi và làm cơ sở cho việc bãi bỏ Gia Định thành và Bắc

thành sau này [24:125], vua Minh Mạng cho đổi Văn Thư phòng thành Nội các.

Năm 1833, khi cho soạn Hội điển, vua Minh Mạng định chức trách, nhiệm vụ của

Nội các “là cơ yếu, phải đặc cách chọn lấy những bề tôi chầu hầu tuỳ tùng ở bên

nhà vua khiến cho ra vào gần gụi để phòng khi cần hỏi han... Phàm những sắc,

chiếu, sớ tấu, sách vở, ghi chép, hoặc xem xét giấy tờ, đều thuộc toà Nội các cả”

[69:917]. Những người sung vào đứng đầu Nội các đều phải quan hàm “tam, tứ

phẩm trong các bộ các viện, còn các thuộc viên thì lấy những người có chức hàm

trong viện Hàn lâm sung vào, cấp bậc thì ở dưới Lục bộ” [69:917]. Nội các có

quyền rất lớn, có thể được giám sát cả lục bộ và cơ quan ngang bộ nhưng các quan

đứng đầu cơ quan này chỉ mang hàm tam phẩm, tứ phẩm, thấp hơn Thượng thư lục

bộ. Nội các lại gồm có 4 tào (Thượng bảo, Ký chú, Đồ thư, Biểu bạ). Chức danh

Nội các chủ yếu đều do đội ngũ quan của các bộ, viện kiêm nhiệm. Vua Minh Mạng

quy định, quan đứng đầu Nội các trật chỉ đến Tam phẩm và phải đứng sau lục bộ,

tức là không thể thăng đến hàm Đại học sĩ hoặc lãnh chức Thượng thư các bộ tương

đương trật Nhị phẩm. Trong đó, đặt 2 viên trật tam phẩm do Thị lang các bộ hoặc

Chưởng viện học sĩ viện Hàn lâm kiêm nhiệm làm Thượng bảo khanh; 2 viên trật tứ

phẩm lấy Thị độc học sĩ viện Hàn lâm kiêm nhiệm làm Thượng bảo Thiếu khanh;

các thuộc viên gồm: Thị độc, Tu tuyển, Kiểm thảo, Đãi chiếu, Thừa chỉ, Biên

tu, Điển bạ đều là người của Hàn lâm viện sung làm Hành tẩu để giúp việc ở Nội

các [6:112-113]. Về số lượng quan lại, lúc đầu mới thành lập, Nội các có tổng cộng

28 người, đến năm 1834 là 30 người và đến năm 1844 là 34 người [24:133].

Năm 1844, vua Thiệu Trị cho kiện toàn lại Nội các với việc phân định lại chức

trách, nhiệm vụ và cho đổi 4 tào trước đây thành 4 sở là: Thượng bửu sở, Ty luân

sở, Bí thư sở và Bản chương sở. Trong đó Bản chương sở tiếp tục được chia thành 3

chương là Lại – Hộ chương, Lễ - Binh chương và Hình – Công chương. Các

Page 32: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

chương này có nhiệm vụ coi giữ tập tấu của các bộ tương ứng và một số nha, địa

phương theo phân định [24:130-132].

- Hàn Lâm viện: Có nhiệm vụ “biên soạn, ngành từ hàn, thảo luận kinh điển,

cùng hết thảy mọi sự văn từ, sắc mệnh”. Về chức trách, “Chưởng viện Học sĩ coi về

việc văn từ chế cáo, ra vào chầu hầu nhà vua để phòng khi vua hỏi. Trực học sĩ làm

việc sự vụ trong viện, nhưng quyền cũng như chưởng viện học sĩ. Thị độc học sĩ, Thị

giảng học sĩ, Thị độc, Thừa chỉ và Thị giảng, đều coi về việc biên soạn, trước thuật

để giúp vào việc từ hàn. Tu soạn, Biên tu, Kiểm thảo đều coi về việc phiên duyệt thư

tịch và kiểm duyệt từ hàn. Điển bạ coi việc phát, nhận văn thư. Đãi chiếu coi việc

hiệu đính và đối chiếu văn sử” [69:917].

- Cơ Mật viện: Năm 1834, vua Minh Mạng cho rằng “những việc quân, việc

nước trọng yếu, cơ mật và lớn lao, cũng cần phải phỏng theo như Khu mật viện của

nhà Tống và Quân cơ xứ của nhà Thanh, châm chước mà làm, để riêng làm một sở”

[70:439] nên cho đặt Cơ Mật viện. Đây là cơ quan tham mưu và là “Hội đồng tư

vấn tối cao cho Hoàng đế, giúp Hoàng đế hoạch định các chính sách quân cơ, nội

an, bang giao và phát triển kinh tế, dân sinh” [6:114], [7:51], đồng thời chịu trách

nhiệm trước vua về tình hình an ninh, chính trị trong nước. Đây cũng là cơ quan

giám sát công việc của triều đình, bảo quản các tài liệu tối mật, quốc bảo và quốc

cấm.

Về cơ cấu tổ chức, đứng đầu cơ quan này có 4 quan đại thần do vua đặc chỉ từ

đội ngũ quan văn võ có hàm từ Tam phẩm trở lên, trong khi các quan Nội các chỉ

hàm từ tam phẩm trở xuống. Sự khác biệt này là “ý niệm của vua Thánh tổ”. Đó là

“Nội các có thể thao túng chính sự trong toàn quốc nên buộc Trưởng quan phải

đứng sau Thượng thư sáu Bộ”, mục đích chỉ để cho “làm tròn nhiệm vụ mà thôi”.

Còn “Cơ mật viện chuyên trách biện lý những sự vụ do đặc chỉ của Hoàng đế giao

phái và theo chỉ thị của Hoàng đế nên cần sự hiện diện của các đại thần biết việc”

[24:143]. Viện Cơ mật có 2 ban: Nam chương kinh phụ trách những công việc có

liên quan từ Quảng Bình trở vào Nam và các nước ngoài về phía Nam và Bắc

chương kinh phụ trách những công việc có liên quan từ Hà Tĩnh trở ra và các nước

Page 33: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

ngoài về phía Bắc. Năm 1837, Nam và Bắc chương kinh được đổi thành Nam ty và

Bắc ty.

* Lục bộ: Lục bộ có từ thời Lê Thánh Tông đến triều Gia Long lục bộ đã

được tổ chức khá hoàn chỉnh, tuy nhiên đến triều Minh Mạng các chức danh phẩm

trật mới được kiện toàn ổn định. Dưới triều Nguyễn có 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh,

Hình, Công). Chức năng, nhiệm vụ của các Bộ được quy định như sau:

- Bộ Lại: “Phàm những cách thức về cất nhắc bổ dụng các quan văn về ban

cho gia cấp kỷ lục, khen thưởng, phép khảo sát tài năng hơn kém, điển lệ về phong

tước, tập ấm phong tặng và làm tờ cáo sắc chiếu mệnh, để tỏ lời nói của nhà vua:

làm sổ biên tên các quan, để biết rõ số ngạch các quan lại” [69:916].

- Bộ Hộ: “Phàm những việc đinh điền cống, phú, những phép lưu thông tiền

tệ, vàng bạc, những của chứa trong kho tàng, những giá vật hoá đắt hay rẻ, những

việc thu vào phát ra, chuẩn y hay bác bỏ những sự đó đều thuộc vào bộ Hộ cả”.

Ngoài ra, “những kho tàng trong nội cung hay trong kinh thành đều lệ thuộc vào bộ

Hộ” [69:916].

- Bộ Lễ: Chuyên lo “những nghi lễ về triều hội, khánh hạ điển lễ, tế tự, tấn

tôn, phong tước, những lễ đi kinh lý các địa phương và cử người làm tướng, những

việc giao thiệp với lân bang, yên ủi những người ở xa và vỗ về nước nhỏ, những quy

tắc về trường học, thi cử, những việc thưởng cho người sống lâu, người tiết nghĩa,

những việc phong sắc cho bách thần, ban tên thuỵ cho các quan” [69:916]. Các tự

như: Thái thường tự, Quang lộc tự, Hồng lô tự và Văn miếu đều là cơ quan trực

thuộc bộ Lễ.

- Bộ Binh: Có trách nhiệm “thuyên bổ các võ quan, chọn lọc và điểm duyệt

các quân sĩ, gọi ra và điều khiển các quân lính đi trận hay đi thú, tuyển mộ dân

đinh làm lính, khảo xét người có công, có tội, làm sổ sách trong ngạch quan võ”

[69:916]. Bộ Binh còn có trách nhiệm quản lý Thái bộc tự, Bưu chính ty, 2 kho

súng ống và thuốc súng.

Page 34: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

- Bộ Hình: “Phàm những chính lệnh về pháp luật, những thể lệ về tra xét, tâu

phán đoán xét lại những án tội nặng, tội còn ngờ, thẩm xét những kẻ bị giam cầm

trong nhà tù, nhà ngục” [69:916].

- Bộ Công: Lo “sửa sang mọi việc thổ mộc, đắp thành, đào hào, đóng các

thuyền bè, thu phát các tài liệu, ra mẫu thức cho các ngành thợ” [69:916]. Cơ quan

như: Ty Tiết thận trong Nội vụ phủ, ty Chế tạo của Võ khố, ty Doanh thiện của Mộc

thương cũng đều trực thuộc bộ Công.

Về cơ cấu tổ chức cơ quan trực thuộc các bộ có: cơ quan văn phòng bộ và cơ

quan chuyên môn:

- Văn phòng gồm hai ty là Ấn ty và Trực ty. Trong đó, Ấn ty phụ trách việc

giữ gìn ấn triện, tiếp nhận chương sớ, công văn từ các địa phương gửi về để chuyển

giao cho các ty chuyên môn thực hiện; còn Trực ty chịu trách nhiệm tập hợp

chương sớ, sổ sách do các địa phương gửi về đệ trình Hoàng đế [2:23].

- Cơ quan chuyên môn (còn gọi là Thanh lại ty): Tùy theo đặc thù của mỗi bộ

có từ 4 – 6 Thanh lại ty, như:

+ Bộ Lại có 4 Thanh lại ty là: Kiếm biện, Văn tuyển, Trừng trị và Phong điển.

+ Bộ Hộ 6 Thanh lại ty là: Kinh trực, Lưỡng cơ, Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Thưởng

lộc và Thuế hạng.

+ Bộ Lễ có 4 Thanh lại ty là: Nghi văn, Nhân tự, Tân hưng và Thù ứng.

+ Bộ Binh có 5 Thanh lại ty là: Võ tuyển, Kinh kỳ, Trực tỉnh, Khảo công và

Kiểm duyệt.

+ Bộ Hình có 4 Thanh lại ty là: Nam hiến, Bắc hiến, Kinh chương và Trực cơ.

+ Bộ Công có 4 Thanh lại ty là Doanh kiến, Quy chế, Khám biện và Tu tạo

[2:23-24].

Ngoài ra, một số bộ còn có các sở, ty trực thuộc, như: bộ Binh có Bưu chính

ty, Võ khố, Hỏa bác khố và Thái bộc tự; bộ Lễ có Thái thường tự, Quang lộc tự,

Thượng bửu tự và Hồng lô tự; bộ Hộ có Nội vụ phủ và Thương trường...

Page 35: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Trưởng quan của các bộ là 1 viên Thượng thư hàm Chánh nhị phẩm, 2 viên

Tả/Hữu Tham tri hàm Tòng nhị phẩm, 2 viên Tả/Hữu Thị lang hàm Chánh tam

phẩm, ngoài ra còn có các viên Lang trung, Viên ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ, Thư lại

giúp việc. Trưởng quan của lục bộ cùng với Trưởng quan của Đô sát viện, Đại lý tự

và Thông chính sứ ty là Cửu khanh của triều Nguyễn. Về trách nhiệm, Thượng thư

và Thị lang là Trưởng quan có nhiệm vụ quản lý, chịu trách nhiệm cao nhất mọi

hoạt động của các bộ; các Lang trung có nhiệm vụ “chuyển sức công việc và đôn

đốc thi hành” [2:25]; các Viên ngoại lang có nhiệm vụ cùng phối hợp với các quan

thuộc quyền để giải quyết công việc; các Chủ sự là những người trực tiếp thi hành

công việc của bộ còn các Thư lại “dùng để sai phái” công việc của bộ [2:25].

Về số lượng quan, lại của các bộ, năm 1805, vua Gia Long định số quan và lại

của các bộ là “bộ Hộ 80 người; bộ Lại, bộ Binh đều 70 người: ba bộ Lễ, Hình,

Công đều 50 người” [58:643]. Trong đó, các chức như: Thượng thư (1 viên), Tham

tri (2 viên), Thiêm sự (4 viên), Câu kê (2 viên), bộ nào cũng có cơ cấu giống nhau.

Kể từ năm 1827, vua Minh Mạng có thay đổi, đó là: Thượng thư (1 viên), Tham tri

làm phụ tá (2 viên), Thị lang làm tá nhị (2 viên), Lang trung (4 – 6 viên), Viên

ngoại lang (4 – 6 viên), Chủ sự (4 – 6 viên), Tư vụ (4 – 6 viên)... [2:25]. Đến năm

1844 (dưới thời Thiệu Trị), Bộ Lại có 90 người, Bộ Hộ có 118 người, Bộ Lễ có 86

người, Bộ Binh có 120 người, Bộ Hình có 87 người và Bộ Công có 91 người

[6:116].

* Các nha18

: Ngoài lục bộ, các vị vua đầu triều Nguyễn còn cho lập các phủ,

tự, viện, giám, ty, cục… gọi là các nha. Đây là cơ quan phụ trách một hoặc một số

công việc chuyên môn nhất định thuộc về các lĩnh vực hành pháp, tư pháp và giám

sát19

. Cụ thể:

- Tôn Nhân phủ: Có trách nhiệm chăm lo các vấn đề về hoàng tộc như: trông

coi sổ sách, biên soạn ngọc phả, tông phả, phái phả, đặt tên, lo giá thú… cho người

trong hoàng tộc, tế lễ tang ma, phong cấp tập tước, định mũ áo, chọn người làm

18

Xem thêm phụ lục 9, trang PL.36. 19

Đô sát viện sẽ trình bày ở phần sau.

Page 36: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

quan, chọn tôn sinh, giáo dưỡng để giảng dạy cho các hoàng tử, hoàng đệ và người

trong tôn thất, giúp vua quản lý mọi việc trong hoàng tộc... [2:25].

- Thái Y viện: Cơ quan này có nhiệm vụ tập hợp những lương y giỏi để đảm

đương việc chăm sóc sức khoẻ cho vua và người trong hoàng tộc, chăm lo việc

thuốc thang, chữa bệnh và chăm lo ngành y dược trong cả nước [6:122].

- Nội Vụ phủ: Là cơ quan chuyên trách việc coi giữ kho tàng, của công và các

hạng vàng ngọc châu báu, tơ lụa trong cung, lo việc thu phát, cất trữ các vật cống

tiến...

- Thị vệ xứ, ty Cẩn tín: Đây là hai cơ quan phụ trách công tác hậu cần của

triều đình, trong đó xứ Thị vệ là đơn vị vũ trang bảo vệ vua và nội cung còn ty Cẩn

tín có trách nhiệm giao nhận lễ vật và chương sớ cho vua từ các nơi chuyển đến

[6:122].

- Thương trường: Kho dự trữ thóc, gạo và tiền, do 1 quan Thị lang hàm

Chánh tam phẩm phụ trách.

- Võ khố20

: Kho chứa quân khí [69:918].

- Mộc thương21

: Đây là 7 cục thợ mộc có nhiệm vụ quản lý đội ngũ thợ mộc

giỏi có trách nhiệm đóng các đồ mộc và thuyền cho triều đình và là kho chứa đồ gỗ

của triều đình.

- Tào chính ty22

: Cơ quan này có nhiệm vụ vận tải hàng hóa, lương thực và

quân giới cho triều đình [69:920].

- Bưu chính ty: Có nhiệm vụ chuyển vận công văn và đưa đón quan lại trong

toàn quốc.

- Thông chính sứ ty: Nhiệm vụ của cơ quan này là: “Tiếp nhận tấu sớ, kiểm,

phát văn thư, ban ứng trực, chuyển, nhận công văn, phân xử trường hợp gửi chậm,

gửi nhầm, phái cử người đi công vụ” [53:177]. Ngoại trừ các mật tấu, công văn

20

Dưới thời Gia Long gọi là Ngoại đồ gia. 21

Năm 1853, vua Tự Đức cho đổi thành ty Tài mộc trực thuộc bộ Công. 22

Dưới thời Gia Long gọi là đội Trường đà.

Page 37: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

khẩn giao trực tiếp cho Thị vệ trình lên vua, còn văn bản thông thường, Thông

chính sứ có trách nhiệm tiếp nhận rồi giao cho các bộ, nha theo chức trách. Đối với

các công văn gửi các địa phương, cơ quan này phối hợp với bộ Binh xem xét nếu

không có vấn đề gì thì giao cho Bưu chính ty chuyển [6:127].

- Lục Tự: gồm: Đại lý tự23

, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng

lô tự, Thượng bảo tự, có nhiệm vụ giúp nhà vua các vấn đề về văn hoá, giáo dục, thi

cử, luật pháp, tế tự.

- Quốc tử giám: Có nhiệm vụ “giảng dạy kinh sách, đào tạo nhân tài, sửa

sang quy thức để đôn đốc sự giáo hoá, phân biệt lớp bậc để phân phát học bổng,

mọi việc có quan hệ đến quốc học” [70:919].

- Khâm thiên giám: Có trách nhiệm “suy tính để chiêm nghiệm sai độ của

từng năm, bình trật để phân đều khí hậu, ghi chép lịch số để nêu đúng năm và mùa,

miêu tả sắc mây và hình vật để xem đoán tượng trời, xem ngày giờ để chọn tốt lành,

coi giọt lậu để báo trống canh” [70:920]…

- Quốc sử quán: Là cơ quan chuyên trách việc nghiên cứu, lưu trữ sử liệu,

biên soạn các bộ sử chính thống của triều đình.

- Tập hiền viện: Đây là cơ quan “bàn bạc đạo trị nước, giảng sách cho hoàng

đế, hoàng thân và các đại thần từ tham tri trở lên và biên soạn sách giáo khoa về

chính trị” [6:129]…

Trong tổ chức bộ máy nhà nước của triều Nguyễn, sự khác biệt lớn nhất của

triều đại này so với các triều đại quân chủ Việt Nam trước đó, vua Minh Mạng đặt

ra lệ “tứ bất” nhưng không ban thành văn bản đó là: không đặt chức Tể tướng, thi

Đình không lấy Trạng nguyên, không lập Hoàng hậu24

và không phong tước vương

23

Đại lý tự được thành lập năm 1831. Đây là cơ quan tư pháp tối cao của triều Nguyễn, có nhiệm vụ: xét xử

phúc thẩm các vụ án có khiếu tố, án tử hình; thụ lý các vụ kiện của dân về tham ô, hối lộ, bức hiếp [8:25].

Ngoài ra, Đại lý tự còn phải phối hợp với bộ Hình và Đô sát viện thành Tam Pháp ty để xét xử hình án của

triều đình [69:655-656]. Trưởng quan Đại lý tự là Tự khanh (3a), có một Thiếu khanh (4a) và 29 thuộc quan

khác. Năm 1898, vua Thành Thái cho bãi bỏ Đại lý tự [9:140]. 24

Ngoại trừ vua Bảo Đại phong cho Nguyễn Hữu Thị Lan Nam Phương Hoàng hậu.

Page 38: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

cho cho người ngoại tộc [107:58]. Các chức như Tam thái, Tam thiếu chỉ là danh

nghĩa nhưng không có thực quyền.

Hội đồng đình thần, cơ quan trực thuộc Hoàng đế và các bộ là tổ chức cao

nhất, quan trọng nhất trong bộ máy hành chính của triều Nguyễn. Cơ quan này là

nơi tập trung đội ngũ quan cao cấp của triều đình, có nhiệm vụ tham mưu và thực

thi những lĩnh vực lớn, quan trọng của đất nước. Mỗi quyết sách của cơ quan hay cá

nhân trong tổ chức chính quyền trung ương sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quốc kế, dân

sinh, thậm chí đe dọa sự tồn vong của triều đại hay quyền lợi, sinh mạng của dân

chúng... Để hạn chế tối đa sai trái có thể xảy ra trong quá trình tham mưu, thực thi

nhiệm vụ của bộ máy chính quyền trung ương, yêu cầu khách quan đặt ra là triều

Nguyễn cần phải thành lập một cơ quan hay tổ chức có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát

toàn bộ hoạt động của bộ máy chính quyền trung ương, kể cả hoàng đế. Trong quá

trình cơ quan trong bộ máy chính quyền trung ương thực thi nhiệm vụ nếu ban hành

các quyết sách (dù vô tình hay hữu ý) sai trái, cơ quan này sẽ có trách nhiệm can

ngăn, không cho các quyết sách đó trở thành hiện thực để ảnh hưởng đến quốc kế,

dân sinh. Chẳng hạn, bộ Lại là cơ quan có trách nhiệm tham mưu cho vua và triều

đình quản lý, bổ dụng toàn bộ quan lại trong cả nước, trong quá trình thực thi nhiệm

vụ bộ Lại sẽ không tránh khỏi việc cân nhắc, nếu không nói là cố tình bổ dụng

người không giỏi, không thanh liêm vào vị trí quan trọng. Các kho của triều đình là

nơi cất giữ, bảo quản tài sản quý của triều đình và chứa lương thực, thực phẩm của

cả nước nếu không được quản lý giám sát chặt chẽ sẽ khó tránh khỏi việc tư lợi làm

thất thoát tài sản của nhà nước... Đặc biệt, dưới chế độ quân chủ, vua là thiên tử, là

người có quyền tối thượng, trong khi vua cũng là con người, không loại trừ có

những lời nói, việc làm quyết sách của vua có thể sai, không phù hợp với thực tiễn.

Do vậy, việc đặt ra các chức quan hay tổ chức có nhiệm vụ theo dõi lời nói, việc

làm của vua, nếu phát hiện sai trái thì can ngăn kịp thời để hạn chế ảnh hưởng đến

uy tín của vua, của đế quyền và quyền, lợi ích của đội ngũ lại, dân chúng... Đây là

các ví dụ cho thấy việc triều Nguyễn thành lập tổ chức có nhiệm vụ giám sát toàn

bộ hoạt động của bộ máy chính quyền trung ương là yêu cầu bức thiết.

Page 39: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

1.1.2.2. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của chính quyền địa phương

So với các triều đại trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, triều Nguyễn là

triều đại quản lý lãnh thổ có diện tích lớn nhất. Điều này mang lại nhiều thuận lợi

nhưng cũng gây không ít khó khăn cho triều đại này trong quá trình xác lập, xây

dựng đế quyền vững mạnh. Trong đó, khó khăn lớn nhất đó là công tác quản lý lãnh

thổ, địa giới hành chính và mọi mặt hoạt động ở cơ sở. Yêu cầu đặt ra là, triều

Nguyễn phải xây dựng bộ máy chính quyền địa phương đủ mạnh để giúp triều đình

quản lý cơ sở. Trước tình hình đó, trong thời gian trị vì, 4 vị vua đầu triều Nguyễn,

nhất là vua Minh Mạng đã từng bước xây dựng một hệ thống chính quyền từ tỉnh

trở xuống khá đầy đủ.

1. Dưới thời Gia Long, các đơn vị hành chính trong cả nước được chia thành

nhiều khu vực có tên gọi khác nhau: Kinh đô gọi là dinh Quảng Đức25

. Từ Thanh

Hoá trở ra Bắc gọi là Bắc thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn)26

. Từ Bình

Thuận trở vào Nam gọi là Gia Định trấn, đến năm 1808 đổi là Gia Định thành. Gia

Định thành cai quản năm trấn là Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh, Định Tường, Hà

Tiên. Bắc thành và Gia Định thành là hai đơn vị hành chính địa phương lớn nhất

trực thuộc trung ương, có đầy đủ bộ máy cai trị như một “tiểu triều đình”. Các địa

phương còn lại từ Bình Thuận ra đến Thanh Hoá được chia làm bảy trấn là Bình

Thuận, Bình Khương, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Nghệ An, Thanh Hoá.

Kinh đô ngoài quản lý dinh Quảng Đức còn phải quản lý ba doanh là Quảng Trị,

Quảng Bình và Quảng Nam. Đứng đầu Bắc thành và Gia Định thành là một viên

Tổng trấn. Giúp việc cho Tổng trấn có Hiệp Tổng trấn, Tham hiệp và 4 tào (tào Hộ,

tào Binh, tào Hình và tào Công) [68:873]. Trong đó, tào Hộ phụ trách Phòng công

và cục Tạo tác; tào Binh kiêm phòng Lại và tào Hình kiêm phòng Lễ. Về bộ máy

hành chính, mỗi thành có Tả Thừa ty, Hữu Thừa ty và Lương Y ty. Bắc Thành còn

đặt thêm Chiêm hậu ty. Về số lượng quan, lại, năm 1829, số nhân viên của Bắc

25

Trước đó là các huyện thuộc phủ Triệu Phong xứ Thuận Hoá, năm 1822 đổi thành phủ Thừa Thiên gồm ba

huyện Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang. 26

Năm nội trấn là Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ - Sơn Tây, Hải Dương, Kinh Bắc và sáu ngoại trấn là

Tuyên Quang, Hưng Hoá, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên.

Page 40: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

thành là 425 và chức Lang trung là 7, trong khi đó số nhân viên của Gia Định thành

chỉ 277 và Lang trung là 3 người [6:144-145].

Đơn vị trực thuộc của hai thành là các trấn. Lúc đầu Gia Long kế thừa cơ cấu

tổ chức của các chúa Nguyễn và triều Lê – Trịnh, cả nước được chia làm 23 trấn

(Bắc thành có 11 trấn, Gia Định thành 5 trấn và 7 trấn ở miền Trung trực thuộc

Kinh đô) và 4 dinh (doanh) trực thuộc Kinh đô. Đứng đầu mỗi trấn là Trấn thủ,

đứng đầu mỗi dinh là Lưu thư. Giúp việc cho Trấn thủ là các viên Cai bạ và Ký lục.

Các dinh, trấn đều được đặt tả Thừa ty và hữu Thừa ty để phụ trách 6 phòng: Lại,

Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Căn cứ quy mô và tầm quan trọng của mỗi dinh, trấn,

vua Gia Long cho định số quan lại theo 4 loại: loại 1 có 138 viên, loại 2 có 118

viên, loại 3 có 60 viên và loại 4 có 46 viên.

Dưới dinh, trấn là các đơn vị hành chính cấp phủ, huyện, châu. Đứng đầu phủ,

huyện và châu là chức Tri phủ, Tri huyện và Tri châu tương ứng. Dưới huyện là cấp

tổng có Cai tổng đứng đầu, xã có Lý trưởng và Phó lý phụ trách.

Nhìn chung, tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy chính quyền địa

phương nói riêng dưới thời Gia Long và những năm trước cuộc cải cách của vua

Minh Mạng “là một thời kỳ quá độ” [5:118]. Kể từ sau cuộc cải cách hành chính

của vua Minh Mạng (1831 – 1832), tổ chức bộ máy nhà nước của triều Nguyễn bắt

đầu được hoàn thiện và thống nhất từ trung ương đến địa phương.

2. Năm 1831, vua Minh Mạng cho bãi bỏ tổ chức hành chính Bắc thành, chia

các trấn từ Quảng Bình trở ra Bắc thành 18 tỉnh. Sang năm 1832, ông tiếp tục cho

bãi bỏ Gia Định thành và chia tất cả các trấn, doanh còn lại ở miền Trung và Đàng

Trong thành 12 tỉnh [5:145-147]. Đến đây, kể cả phủ Thừa Thiên cả nước có 31 tỉnh

chịu sự quản lý trực tiếp của chính quyền trung ương. Hai tỉnh có địa dư gần nhau

ghép lại thành một liên tỉnh do một viên tổng đốc cai quản, cá biệt cũng có trường

hợp 3 tỉnh hợp thành liên như tỉnh Sơn - Hưng - Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên

Quang)27

. Dưới tỉnh là phủ rồi đến huyện (châu), tổng, xã. Theo thống kê năm 1840,

27

Riêng Thanh Hóa là tỉnh độc lập nhưng triều Nguyễn cho lập Tổng đốc, vì đây là đất quý hương của họ

Nguyễn và là tỉnh có đất rộng, dân đông.

Page 41: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

cả nước bấy giờ có 31 tỉnh, 90 phủ, 20 phân phủ, 379 huyện và châu, 1742 tổng và

18.265 xã, thôn, phường, ấp [87:438].

Đến năm 1834, trên cơ sở các tỉnh đã được phân chia trước đó, vua Minh

Mạng lấy phủ Thừa Thiên làm trung tâm, đặt ra Tả trực, Hữu trực, Tả kỳ, Hữu kỳ,

Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Trong đó, Tả trực là hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi; Hữu

trực là hai tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình; Tả kỳ là 4 tỉnh Bình Định, Phú Yên,

Khánh Hòa, Bình Thuận; Hữu kỳ là 3 tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa; Nam Kỳ

là các tỉnh còn lại ở phía Nam và Bắc Kỳ là các tỉnh còn lại ở phía Bắc. Sự phân

chia này không phải về khu vực hành chính mà chỉ là sự biểu thị xa gần về mặt

không gian so với Kinh đô.

Song song với việc sắp xếp địa giới và tên gọi các tỉnh, vua Minh Mạng cũng

tiến hành cải tổ cơ cấu tổ chức và quan lại của các tỉnh. Đó là, các chức Trấn thủ,

Hiệp trấn, Tham hiệp trước đây được thay bằng Tổng đốc hoặc Tuần phủ. Mỗi viên

Tổng đốc thường “chuyên hạt28

một tỉnh và kiêm hạt29

một tỉnh” [69:232]. Tuy

nhiên, đối với tỉnh Thanh Hóa, Tổng đốc chỉ chuyên hạt một tỉnh30

và Sơn – Hưng –

Tuyên thì kiêm hạt ba tỉnh. Khi cho đặt chức Tổng đốc, vua Minh Mạng cho phân

định quan làm là: “Binh bộ Thượng thư kiêm Đô sát viện Hữu đô ngự sử, Tổng đốc,

Quảng Bình, Quảng Trị đẳng sứ địa phương đề đốc quân vụ kiêm lý lương thướng

lĩnh Quảng Bình Tuần phủ sự”. Còn các hạt khác “theo đó mà suy” [70:231]. Như

vậy, viên Tổng đốc cùng với Thượng thư lục bộ và Hữu Đô ngự sử hàm Chánh nhị

phẩm. Tổng đốc vừa là viên quan cao nhất tại địa phương, vừa là viên quan có tư

cách như một đặc phái viên của triều đình về cai quản tại địa phương. Còn chức

Tuần phủ thường được chuyên hạt một tỉnh và tỉnh nào có Tổng đốc thì viên Tổng

đốc đó sẽ kiêm chức Tuần phủ, ngược lại, tỉnh nào không có Tổng đốc sẽ được triều

đình đặt chức Tuần phủ. Ví dụ, Tổng đốc Bình – Trị được đóng tại Quảng Bình thì

chức Tuần phủ của tỉnh Quảng Bình sẽ do viên Tổng đốc kiêm còn tỉnh Quảng Trị

sẽ được đặt 1 viên Tuần phủ. Ngoại trừ một số liên tỉnh như Lạng – Bình hay Thuận

28

Chuyên hạt là chuyên chủ công việc trong hạt được giao quản lý. 29

Kiêm hạt là kiêm lý công việc một hạt ngoài hạt được giao quản lý. 30 Riêng Thanh Hóa vua Minh Mạng cho đặt riêng 1 Tổng đốc, vì đây là đất quý hương, đất “thang mộc”

của nhà Nguyễn và là tỉnh có đất rộng, dân đông [111:128].

Page 42: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

– Khánh, vua Minh Mạng không đặt Tổng đốc mà chỉ đặt Tuần phủ và Tuần phủ

cũng là kiêm hạt chứ không phải chuyên hạt. Tuần phủ cùng ngang hàm với Tham

tri và Hữu phó Đô ngự sử Đô sát viện hàm Tòng nhị phẩm. Đối với các tỉnh có

Tuần phủ thì triều đình sẽ không đặt chức Bố chánh mà chức này do Tuần phủ kiêm

[70:231], [111:127]. Vua Minh Mạng còn cho định quy tắc làm việc của các chức

quan này31

.

Một thay đổi nữa đó là Tả Thừa ty được đổi bằng Án sát sứ (còn gọi là Niết

ty) do Án sát đứng đầu, còn Hữu Thừa ty được đổi thành Bố chính sứ (còn gọi là

Phiên ty) do Bố chính đứng đầu. Ngoài ra, các tỉnh đều có chức Lãnh binh chuyên

lo việc quân. Lãnh binh các tỉnh lớn hàm Nhị phẩm hoặc tam phẩm còn tỉnh nhỏ,

hàm tam phẩm hoặc tứ phẩm. Ngoài ra, phụ trách việc quân, tùy theo tỉnh lớn nhỏ

đều có 1 hoặc 2 viên Thủy sư Lãnh binh hàm tam phẩm hoặc tứ phẩm. Phụ trách

công việc dân sự của Niết ty và Phiên ty có các chức như Thông phán, Kinh lịch và

Thư lại, lo việc quân của hai ty này là các Chưởng cơ và Vệ úy.

Việc liên tỉnh thiếu các chức danh chủ chốt, theo Đỗ Bang và một số nhà

nghiên cứu khác cho rằng đó là do “tình trạng thiếu quan lại có tầm cỡ, đủ tài năng

và uy tín xứng với quan đầu tỉnh” [5:148]. Đây cũng là một trong những nguyên

nhân chính dẫn đến việc triều Nguyễn cho thành lập các liên tỉnh.

Nhìn chung, cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh kể từ sau cuộc cải

cách hành chính của vua Minh Mạng đến năm 1885 hầu như không thay đổi nhiều.

Về bộ máy chính quyền cấp phủ, huyện, châu và tổng, sau cuộc cải cách, vua

Minh Mạng đã có những điều chỉnh. Cụ thể:

31

Xem thêm phần Phụ lục.

Page 43: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Bảng 1: Thống kê số quan cấp phủ thời Minh Mạng.

Chức danh

Loại phủ Tri phủ Đồng Tri phủ Huyện thừa Tri huyện

1 huyện 0 0 0 1

2 huyện 1 0 0 1

3 huyện 1 0 1 2

4 huyện 1 1 0 2

5 huyện 1 1 1 3

6,7 huyện 1 1 2 4

Nguồn: [6:164], [5:160-161].

Ngoài ra, đối với một số phủ ở vùng biên viễn, triều Nguyễn còn đặt thêm 1

viên An phủ sứ nhưng do Viên ngoại lang ở bộ Binh kiêm giữ và ở các phủ chưa ổn

định còn đặt thêm 1 viên Quản phủ.

Đối với chính quyền cấp châu, huyện, năm 1831, vua Minh Mạng quy định

thành 3 cấp: Các châu, huyện có số đinh không đủ 100 người và số điền không đủ

100 mẫu, đặt 1 thổ mục. Các châu, huyện có số đinh và số điền từ 100 trở lên, đặt 1

thổ Tri châu hoặc 1 Huyện thừa. Các huyện có số đinh từ 500 người và số điền từ

500 mẫu trở lên, đặt 1 thổ Tri châu hoặc 1 thổ Tri huyện và 1 thổ Lại mục [5:161-

162].

Đến năm 1835, vua Minh Mạng chủ trương cho bỏ chế độ thổ quan thay bằng

chế độ lưu quan. Tuy nhiên, chế độ lưu quan đã đặt ra không ít khó khăn trong việc

quản lý trực tiếp ở những vùng biên viễn và dân tộc ít người nên đến năm 1844, vua

Thiệu Trị đã chuẩn cho các tỉnh biên giới phía Bắc trở lại áp dụng chế độ thổ quan

và đến năm 1869, vua Tự Đức cho áp dụng chế độ thổ quan đối với vùng biên viễn

và dân tộc ít người trong cả nước.

Về chính quyền cấp tổng. Đây là tổ chức trung gian giữa huyện và xã, do đó tổ

chức bộ máy và quyền lực của cấp tổng khá đơn giản. Trong thời kỳ độc lập tự chủ

Page 44: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

của triều Nguyễn, chính quyền cấp tổng hầu như không thay đổi. Đứng đầu tổng là

chức Cai tổng hàm Tòng cửu phẩm ngang hàng với Lại mục cấp huyện. Đối với các

tổng lớn thì có thêm 1 viên Phó tổng [5:163].

Bộ máy hành chính nhà nước của triều Nguyễn cũng như hầu hết bộ máy hành

chính nhà nước của các triều đại quân chủ ở Việt Nam đều do vua đứng đầu và có

toàn quyền quyết định mọi công việc trọng đại của đất nước. Đây là một trong

những yếu tố quan trọng quyết định đến việc xây dựng, củng cố chế độ trung ương

tập quyền, thúc đẩy bộ máy chính quyền các cấp hoạt động có hiệu quả hơn.

Dưới thời Gia Long và những năm đầu thời Minh Mạng, bộ máy chính quyền

trung ương cũng như địa phương còn khá đơn giản và lỏng lẻo. Đội ngũ quan lại

hầu hết xuất thân từ võ quan và kinh qua trận mạc. Kể từ sau cuộc cải cách hành

chính của vua Minh Mạng (1831 – 1832), trên cơ sở kế thừa di sản của vua cha –

vua Gia Long để lại và kinh nghiệm trong hơn một thập niên trải nghiệm, vua Minh

Mạng đã thiết chế lại toàn bộ hệ thống chính trị, luật pháp và cơ cấu lại tổ chức bộ

máy chính quyền từ trung ương đến địa phương, đội ngũ quan lại hầu hết đều qua

thi cử và tuyển chọn. Kể từ đó, tổ chức bộ máy hành chính về cơ bản ổn định, các

triều đại sau đó tuy có điều chỉnh ít nhiều nhưng hầu như vẫn được giữ nguyên cho

đến những năm giữa thập niên 80 của thế kỷ XIX – khi thực dân Pháp bắt đầu tiến

hành xâm lược nước ta [9:54].

Xây dựng một hệ thống chính quyền cấp tỉnh, huyện tổng, xã... đầy đủ là một

trong những thành công lớn của các vị vua đầu triều Nguyễn, nhất là vua Minh

Mạng. Tuy nhiên, xây dựng được bộ máy hành chính địa phương đã khó, vận hành

bộ máy đó một cách có hiệu quả nhằm giúp cho triều đình quản lý tốt cơ sở, đồng

thời phần nào đáp ứng quyền, lợi ích của dân chúng lại càng khó gấp bội, nhất là

đối với những địa phương xa Kinh đô, địa hình khó khăn. Đây cũng là một trong

những yêu cầu bức thiết đặt ra cho triều Nguyễn cần phải có một đội ngũ quan lại

giúp triều đình giám sát hoạt động của hệ thống chính quyền địa phương nhằm hạn

chế tối đa những quan lại cấp tỉnh, địa phương lạm quyền tham ô, ức hiếp dân

Page 45: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

chúng gây phương hại đến uy tín của vua, ảnh hưởng đến đế quyền và quyền lợi của

dân chúng.

1.1.2.3. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của hệ thống quan lại từ trung

ương đến địa phương

Với mong muốn xây dựng một đế quyền ngày càng vững mạnh và trước yêu

cầu quản lý một lãnh thổ rộng lớn trong bối cảnh có nhiều yếu tố khách quan bất

lợi, các vị vua đầu triều Nguyễn từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức,

nhất là vua Minh Mạng đã cố gắng xây dựng một bộ máy hành chính đầy đủ từ

trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, để có được một bộ máy hành chính như

vậy, hệ thống quan chế là yếu tố có tính chất quyết định hàng đầu. Nhận thức được

vấn đề này, song song với việc kiện toàn và tiến hành công cuộc cải cách bộ máy

hành chính, vua Minh Mạng cũng đã quan tâm đến việc xếp định hệ thống quan chế

từ trung ương đến địa phương, với phẩm hàm, số lượng quan, lại và chức năng,

quyền hạn cụ thể. Về cơ bản, hệ thống quan chế của triều Nguyễn kể từ sau cuộc cải

cách hành chính của vua Minh Mạng đến năm 1885, được phân định thành hai ban

văn võ với 9 bậc từ cửu phẩm đến nhất phẩm32

.

Chúng ta có thể xem việc xây dựng bộ máy và hệ thống quan chế giống như

việc đóng một con thuyền. Đóng được con thuyền tốt nhưng không biết phát huy

hiệu quả, khắc phục hạn chế của nó để sử dụng đúng mục đích thì con thuyền đó có

lớn và tốt mấy đi chăng nữa cũng không có ý nghĩa. Đối với triều Nguyễn cũng vậy,

thành công lớn của các vị vua đầu triều đại này là đã xây dựng được một bộ máy

hành chính và đội ngũ quan lại đầy đủ. Tuy nhiên, đây mới chỉ là 2 trong các điều

kiện đủ còn điều kiện cần và có tính quyết định đến sự lớn mạnh của triều đại cũng

như để dân chúng đồng lòng “đẩy thuyền” đó là việc vận hành bộ máy hành chính

và sử dụng đội ngũ quan lại một cách có hiệu quả. Thực tiễn, để có được đội ngũ

quan thanh liêm, luôn “chăm dân” là vấn đề không hề đơn giản, nhất là đối với

những vị quan được giao đảm đương những nhiệm vụ quan trọng, có quyền quyết

định đến quyền, lợi ích của dân chúng... Ví như bộ Hình là cơ quan có trách nhiệm

32

Xem thêm Phụ lục 8, trang PL.28.

Page 46: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

tham mưu, giúp vua và triều đình trong hoạt động tư pháp, nhất là hoạt động xét xử

hình án. Đối với việc xét xử các hình án, bộ Hình và triều đình thường giao cho một

số quan, lại trực tiếp xét xử. Trong quá trình xét xử không loại trừ khả năng các

viên quan được giao nhiệm vụ xét xử vì vấn đề tình cảm hay vật chất có thể lợi

dụng quyền hạn để đổi trắng thay đen tội danh của kẻ phạm tội làm phương hại đến

quyền và lợi ích, thậm chí là sinh mạng của người bị hại. Một ví dụ nữa đó là Tổng

đốc, Tuần phủ là những viên quan có nhiệm vụ thay mặt vua và triều đình quản lý

và có quyền quyết định gần như toàn bộ hoạt động của địa phương được giao.

Quyết định của các viên quan này nếu sai trái có thể ảnh hưởng đến uy tín của vua,

triều đình và quyền, lợi ích, thậm chí là sinh mạng dân chúng. Thực tế có những vị

quan các tỉnh, các hạt trong quá trình thực thi trọng trách triều đình giao phó đã lợi

dụng quyền hành của mình để tư lợi, ức hiếp quan lại cấp dưới và dân chúng... Rõ

ràng, để quản lý hệ thống quan lại trong mọi lĩnh vực và trên khắp cả nước hoạt

động có hiệu quả, giúp cho vua quản lý tốt tất cả các lĩnh vực của đất nước là vấn đề

hết sức khó khăn đối với triều Nguyễn.

Chính vì những lý do trên đây đã đặt ra cho triều Nguyễn cần phải có các giải

pháp nhằm ngăn chặn và trừng trị kịp thời những viên quan “sâu mọt” lợi dụng

quyền hạn, luôn tìm cách bòn rút của triều đình, hãm hại dân chúng. Kinh nghiệm

lịch sử cho thấy, một trong những giải pháp quan trọng và hữu hiệu nhất đó là triều

Nguyễn cần phải thành lập cơ quan giám sát để giám sát, thanh tra quá trình thực thi

nhiệm vụ triều đình giao phó đối với toàn bộ hệ thống quan lại trong cả nước. Trong

quá trình giám sát, thanh tra, nếu phát hiện viên quan, lại nào cố tình làm trái để tư

lợi, hãm hại dân chúng thì tâu hặc hoặc thay mặt triều đình trừng trị kịp thời, răn đe

kẻ khác cũng như gây dựng lòng tin trong dân chúng và khẳng định sự lớn mạnh

của đế quyền.

Tóm lại, tùy theo từng thời kỳ lịch sử và cơ cấu tổ chức bộ máy của mỗi triều

đại, hầu hết các triều đại quân chủ ở Việt Nam trước triều Nguyễn và triều Thanh

(Trung Quốc) đều cho đặt các chức quan hay thành lập cơ quan giám sát tương ứng.

Việc đặt các chức quan, cơ quan đảm trách nhiệm vụ giám sát hoạt động của bộ

Page 47: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

máy hành chính đã trở thành yêu cầu tất yếu trong lịch sử chế độ quân chủ Việt

Nam trước triều Nguyễn cũng như triều Thanh. Thực tiễn cho thấy, các chức quan

hay cơ quan giám sát của các triều đại đó đã có những đóng góp thiết thực trong

việc giúp vua và triều đình giám sát hoạt động của bộ máy hành chính và hệ thống

quan lại từ trung ương đến địa phương, nhằm hạn chế tối đa tác động trái chiều làm

phương hại đến chế độ và dân chúng. Đây chính là những kinh nghiệm quý báu cho

triều Nguyễn, nhất là khi triều đại này quản lý một đất nước có diện tích lớn nhất so

với các triều đại quân chủ Việt Nam trước đó. Đặc biệt, kể từ sau cuộc cải cách

hành chính của vua Minh Mạng, tổ chức bộ máy hành chính và hệ thống quan lại

của triều Nguyễn là đầy đủ và hoàn chỉnh nhất trong lịch sử chế độ quân chủ Việt

Nam, yêu cầu phải có một hệ thống cơ quan giám sát hoạt động của bộ máy hành

chính và hệ thống quan lại trong cả nước càng trở nên bức thiết hơn. Cùng với chế

độ khảo khóa, tổ chức các trường thi chọn người tài, chế độ hồi tỵ, thưởng phạt…

việc xây dựng và vận hành cơ quan giám sát là một trong những biện pháp giúp

triều Nguyễn quản lý đội ngũ quan lại góp phần gây dựng lòng tin trong dân chúng

và củng cố đế quyền.

1.2. CƠ QUAN GIÁM SÁT CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885

1.2.1. Quá trình ra đời và kiện toàn cơ quan giám sát của triều Nguyễn

giai đoạn 1802 – 1885

Sau khi lên ngôi cùng với việc thiết lập bộ máy trung ương tập quyền, vua Gia

Long bắt đầu đặt ra các chức quan giám sát nhằm tăng cường kiểm tra, giám sát hệ

thống quan lại cũng như cơ quan hành chính trung ương. Năm 1804, nhân việc định

lại hệ thống quan chế, vua Gia Long cho đặt các chức quan giám sát như: Tả/Hữu

Đô ngự sử hàm Chánh nhị phẩm ngang hàng với Thượng thư sáu Bộ; Tả/Hữu phó

Đô ngự sử hàm Tòng nhị phẩm ngang hàng với Tham tri sáu Bộ và Tả lý [6:429],

[68:596-597]. Trong đó Tả/Hữu Đô ngự sử được đặt ra “để can gián nhà vua”, lục

khoa để giám sát các lục bộ.

Tiếp đến, năm Gia Long thứ 8 (1809), để ổn định tình hình ở Bắc thành, Hình

tào Bắc thành là Phạm Như Đăng dâng sớ điều trần 12 việc, trong đó có việc đặt

Page 48: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

viên Ngự sử Đô sát ở Bắc thành, với mục đích “Phàm quan lại không theo pháp

luật, kẻ quyền thế ức hiếp người dưới, việc nhỏ thì xét xử ngay, việc lớn thì đàn hặc

tâu lên, cho nghiêm phép làm quan; cuối năm kiểm duyệt các án do thành trấn đã

xét, nếu có việc oan thì xét lại” [68:753]. Vua y cho. Cùng với việc đặt ra tổ chức bộ

máy riêng, triều Nguyễn đã cho đặt ở Bắc thành cơ chế giám sát riêng. Đây là một

trong những trường hợp ngoại lệ và là sáng tạo của triều Nguyễn.

Nhìn chung, bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan giám sát nói riêng dưới

thời vua Gia Long vẫn cơ bản kế thừa triều Lê và các triều đại trước đó, thậm chí

đơn giản và lỏng lẻo hơn. Chẳng hạn, giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy hành

chính trung ương và hệ thống quan lại chủ yếu do bốn viên quan giám sát Tả/Hữu

ngự sử và Tả/Hữu phó Đô ngự sử đảm nhận. Nhiệm vụ của các vị quan này chủ yếu

là giám sát và can gián nhà vua ở triều đình trung ương, còn hoạt động giám sát ở

các địa phương vẫn chưa được thực hiện. Cơ quan giám sát chưa thực sự trở thành

một tổ chức độc lập, chuyên trách mà mới chỉ có một số chức quan ở triều đình

trung ương. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế và khó khăn đối với

hoạt động giám sát của các bộ phận này dưới triều vua Gia Long. Công tác thanh

tra, kiểm soát giữa cơ quan trong triều đình và giữa triều đình với các quan lại tại

địa phương thường xuyên bị gián đoạn. Dưới thời Gia Long nhất là những năm đầu

triều, bộ máy nhà nước của triều Nguyễn còn khá đơn giản, hơn nữa thời kỳ này xã

hội Việt Nam, nhất là các tỉnh phía Nam còn khá ổn định nên yêu cầu phải có một

bộ máy thanh tra, giám sát chưa đến lúc bức bách như những giai đoạn sau này.

Rút kinh nghiệm của các triều đại trước đó cũng như của vua cha và tham

chiếu thiết chế giám sát của triều Thanh (Trung Quốc), sau khi lên ngôi, vua Minh

Mạng đã từng bước xây dựng để thiết lập một cơ quan giám sát khá hoàn chỉnh từ

trung ương đến địa phương.

Năm 1825, trên cơ sở di sản tổ chức bộ máy của vua cha, vua Minh Mạng đã

đặt thêm các chức quan giám sát như Cấp sự trung và Giám sát ngự sử của các đạo.

Trong đó, các chức Cấp sự trung có nhiệm vụ giám sát hoạt động của các ngành

tương ứng, còn Giám sát ngự sử giám sát hoạt động ở các địa phương (đạo). Như

Page 49: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

vậy, so với thời Gia Long, vua Minh Mạng đã cho đặt các chức giám sát riêng cho

mỗi địa phương. Tiếp đến, năm Minh Mạng thứ 8 (1827), để phân biệt thứ bậc trong

hệ thống quan lại, triều đình đã định phẩm hàm từ Chánh nhất phẩm đến Tòng cửu

phẩm. Trong đó, quan giám sát cũng được định ra như sau: Tả/Hữu Đô ngự sử hàm

Chánh nhị phẩm; Tả/Hữu phó Đô ngự sử hàm Tòng nhị phẩm; Cấp sự trung lục

khoa và Giám sát ngự sử các đạo cùng ngang hàm với nhau - hàm Chánh ngũ phẩm;

lục Sự (ở Đô sát viện) hàm Chánh thất phẩm [69:655-657].

Không dừng lại ở đó, trong những năm 1831 – 1832, cùng với tiến hành cuộc

cải cách bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương, vua Minh Mạng đã

chính thức cho thành lập Đô sát viện. Đứng đầu cơ quan này là Tả/Hữu Đô ngự sử

ngang hàm với Thượng thư, giúp việc có Tả/Hữu phó Đô ngự sử ngang hàm với

Tham tri lục bộ. Ngoài bốn Trưởng quan trên còn có sáu viên Cấp sự trung lục khoa

theo dõi hoạt động của 6 Bộ tương ứng và 16 viên Giám sát ngự sử ở mười sáu đạo

cùng một số thuộc lại giúp công việc của từng bộ phận [33:21]. Như vậy, các viên

Đô ngự sử có nhiệm vụ đàn hặc vua và các quan đại thần của triều đình trung ương,

còn giám sát quan lại của cơ quan trung ương (chủ yếu là lục bộ) do sáu viên Cấp

sự trung lục khoa chuyên trách và Ngự sử mười sáu đạo chịu trách nhiệm giám sát

hoạt động của các đạo do triều đình phân công. Về số lượng quan, lại, sau khi vua

Minh Mạng cho đặt Đô sát viện (1832), tổng số thuộc viên của tổ chức này là: Đô

sát viện có 19 quan và lại (4 Trưởng quan, 1 viên Lục sự và 14 viên Thư lại nhập

lưu), 6 viên Cấp sự trung lục khoa, 16 viên Giám sát ngự sử 16 đạo và 4 viên Thư

lại Chánh bát/cửu phẩm [70:362], [9:141], [24:220], [2:35]. Đến năm 1836, vì công

việc của bộ Lễ nhiều nên cho Lễ khoa tăng thêm 1 Cấp sự trung và để tăng cường

giám sát hoạt động của Tôn Nhân phủ, vua Minh Mạng đã cho đặt thêm 1 Giám sát

ngự sử ở đạo Kinh kỳ. Nhiệm vụ của 2 viên quan này “Phàm người thừa hành trong

phủ, nếu có điều gì bất công, trái phép, lừa gạt, che giấu, chuyên quyền, làm không

hợp lý, thì cứ thực hặc tâu. Còn tư giáo các hệ, nhân viên Tôn thất và nhân viên

dịch lại thừa hành trong nha, nếu xét thấy quả có những tệ bê trễ chức vụ, chấm

Page 50: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

mút, lừa gạt, gian dối thì cho được tham hặc33

” [52:79], [71:1.004]. Sang năm

1837, vua Minh Mạng cho đặt thêm mỗi Khoa 1 Cấp sự trung. Viên Cấp sự trung

giữ ấn triện gọi là Chưởng ấn34

Cấp sự trung – cấp bậc để dễ thăng chuyển [24:222].

Cùng với lệ “tứ bất”, việc đặt thêm 2 chức quan giám sát này chứng tỏ triều

Nguyễn, nhất là vua Minh Mạng muốn từng bước cảnh giác và hạn chế bớt quyền

hành của hoàng thân, quốc thích.

Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), trước tình hình việc của Đô sát viện ngày

càng nhiều và mỗi lần triều đình cử thuộc viên của tổ chức này cùng đi công cán

không đủ người, vua Minh Mạng nói “Đô sát viện giữ chức đài hiến, có quan hệ

đến phong hóa kỷ cương, trẫm nghe khoa, đạo ở Bắc triều (Trung Quốc) đều có

chức Chưởng ấn, mỗi khoa, đạo đều 5, 6 người” nên ông đã chuẩn cho “đặt thêm

mỗi khoa đều 1 chức Chưởng ấn Cấp sự trung để làm cấp bậc thăng chuyển”

[69:148], [77:200]. Năm 1839, khi định vị thứ thuộc viên ở các bộ, viện, vua Minh

Mạng dụ rằng: “quan lại khoa, đạo (Cấp sự trung và Giám sát ngự sử), tuy cùng với

Viên ngoại lang 6 bộ đều là quan ngũ phẩm, nhưng là quan chức có quan hệ đến

phong hoá và pháp độ, quan khác không ví được” [72:505] nên đã chuẩn cho Viên

ngoại lang Chưởng ấn Cấp sự trung lục khoa trật Tòng tứ phẩm, cao hơn 1 bậc.

Đồng thời, cũng chuẩn cho các viên này “ở trên các chức Thiếu khanh Quang lộc

tự, Thiếu khanh Thái bộc tự, Tư nghiệp Quốc tử giám, Thị giảng học sĩ viện Hàn

lâm. Đó là triều đình ưu đãi các ngôn quan” [49:63], [72:505]. Còn Cấp sự trung

lục khoa và Giám sát ngự sử các đạo đứng trên Viên ngoại lang sáu bộ [77:202].

Trên cơ sở hệ thống cơ quan giám sát do vua Minh Mạng thành lập năm 1832

và được bổ sung những năm sau đó, các triều vua sau như Thiệu Trị, Tự Đức tiếp

tục duy trì, củng cố và hoàn thiện. Chẳng hạn, trước đây đạo Kinh kỳ có 2 viên

Giám sát ngự sử, đến năm 1844, vua Thiệu Trị giảm bớt 1 viên và đặt thêm 1 chức

33

Tham hặc (tạm dịch, 參 劾): tham gia vào việc luận tội, vạch tội người khác. 34

Cấp sự trung các khoa khi được triều Nguyễn trao ấn đến các địa phương làm nhiệm vụ thanh tra, giám sát

gọi là Chưởng ấn. Triều Nguyễn ban cho các Cấp sự trung chức Chưởng ấn nhằm mục đích cho các quan

giám sát “đủ quyền lực qua làm việc ở các bộ, viện” [48:145]. Theo quy định của triều Nguyễn, phẩm hàm

của Cấp sự trung là Chánh ngũ phẩm nhưng khi họ là Chưởng ấn Cấp sự trung, được tăng lên một bậc là

Tòng ngũ phẩm. Chưởng ấn là chức trách để làm việc chứ không phải là chức quan trong hệ thống quan chế

triều Nguyễn.

Page 51: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Chưởng ấn Giám sát ngự sử, viên này được kiêm xét sự việc ở Tôn nhân phủ, phẩm

trật cũng như chức lục khoa Chưởng ấn Cấp sự trung – Tòng tứ phẩm [49:63],

[73:688-689]. Như vậy, so với vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị đã coi trọng hoạt

động của Tôn nhân phủ cũng như đề cao vai trò của viên quan giám sát tại cơ quan

này. Bởi, Chưởng ấn chính là người có phẩm trật thấp nhưng giữ chức cao hơn để

làm cơ sở khi có điều kiện thăng chuyển.

Đến dưới thời Tự Đức, cơ quan giám sát của triều Nguyễn đã có một số thay

đổi. Năm 1851, vua Tự Đức đã nghị cho chuẩn bớt 6 viên Cấp sự trung ở sáu Khoa

[49:63]. Tiếp đến, năm 1854, cùng với việc cho ghép các đạo thành một đạo như: 2

đạo Nam - Ngãi thành đạo Nam trực; 2 đạo Trị - Bình thành đạo Bắc trực; 4 đạo

Bình, Phú, Thuận, Khánh thành đạo Tả kỳ; 3 đạo Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh

làm đạo Hữu kỳ. Các đạo sau khi ghép chỉ còn giữ lại 1 Giám sát ngự sử. Đối với

đạo Kinh kỳ bỏ bớt chức Ngự sử chỉ còn lại 1 viên Chưởng ấn Cấp sự trung. Như

vậy, sau lần kiện toàn này, ngoại trừ các viên quan, lại ở Đô sát viện và lục khoa,

tổng số quan giám sát ở cấp đạo - địa phương (kể cả đạo Kinh kỳ) là 14 người, cụ

thể: đạo Nam trực, đạo Bắc trực, đạo Tả kỳ, đạo Hữu kỳ, đạo Định - Biên, đạo Vĩnh

- Tường, đạo An - Hà, đạo Hà - Ninh, đạo Hải - Yên, đạo Định - Yên, đạo Sơn -

Hưng - Tuyên, đạo Bắc - Thái, đạo Lạng - Bằng và Kinh kỳ đạo, mỗi đạo một viên

Giám sát ngự sử [74:973].

Đây là một trong những minh chứng cho thấy triều Nguyễn không chỉ coi

trọng các ngôn quan trên lý thuyết mà thực tế, triều đại này, đặc biệt là vua Minh

Mạng đã có những chính sách, chế độ cụ thể nhằm “ưu đãi” những người mang

trọng trách can gián, đàn hặc trăm quan.

Không những vậy, vua Tự Đức còn cải tổ để cơ quan giám sát có phần đơn

giản hơn. Đó là năm 1865, ông cho chước định số nhân viên của các khoa, đạo tổng

cộng là 26 viên. Cụ thể, chuẩn định cho 6 tỉnh Nam Kỳ là: Gia Định, Biên Hòa,

Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên, làm đạo Nam Kỳ chỉ đặt 1 Ngự sử;

các viên Chưởng ấn Cấp sự trung ở lục khoa và đạo Kinh kỳ đều đình bớt 6 khoa

đều có chuyên ty 1 người; Ngự sử các đạo: Hà - Ninh, Định - Yên, Hải - Yên, Sơn -

Page 52: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Hưng - Tuyên, Ninh - Thái, Lạng - Bằng cho đặt lại Trực, Tả, Hữu kỳ y theo

chương trình định trước. Duy phủ Tôn nhân, Nội các, phủ Thừa Thiên, vẫn do

đạo Kinh kỳ, nguyên trước thuộc về Lễ khoa kiêm xét, thì từ đây đổi do Hình khoa

coi cả các khoa. Triều đình còn cho “chuyên hạch, kiêm hạch” như “đạo Kinh kỳ đã

có nhân viên kiêm biện, nếu 1 viên đi công cán, thì hiện tại đã có 1 viên, đủ có thể

tra xét, còn 13 đạo, đạo nào chuyên xét trong đạo ấy, không cần phải hội đồng”

[74:973]. Các đạo còn có trách nhiệm tra xét các dinh, vệ bên võ, cùng Xứ thị vệ.

Bảng 1: So sánh phẩm hàm của các chức quan thuộc cơ quan giám sát giữa các

triều: triều Lê, triều Nguyễn ở Việt Nam và triều Thanh ở Trung Quốc35

Triều đại

Chức Triều Lê Triều Nguyễn Triều Thanh

Tả/Hữu Đô ngự sử Chánh tam phẩm

(3a)

Chánh nhị phẩm

(2a)

Tòng nhất phẩm

(1b)

Tả/Hữu phó Đô ngự sử Chánh tứ phẩm

(4a)

Tòng nhị phẩm

(2b)

Chánh tam phẩm

(3a)

Cấp sự trung Chánh thất phẩm

(7a)

Chánh ngũ

phẩm (5a)

Chánh ngũ phẩm

(5a)

Giám sát ngự sử Chánh thất phẩm

(7a)

Chánh ngũ

phẩm (5a)

Tòng ngũ phẩm

(5b)

Nguồn: [76:1113-1114], [12:451-452], [16:30].

Qua bảng so sánh trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận định sau:

- Thứ nhất, nhìn chung các quan giám sát triều Thanh có phẩm hàm cao hơn

triều Nguyễn và các quan giám sát triều Nguyễn có phẩm hàm cao hơn triều Lê.

- Thứ hai, sự chênh lệch về phẩm hàm giữa các chức từ Tả/Hữu Đô ngự sử

đến Giám sát ngự sử của triều Nguyễn không nhiều so với triều Lê và triều Thanh.

- Thứ ba, phẩm hàm của hai chức Cấp sự trung (quan giám sát trung ương) và

Giám sát ngự sử (quan giám sát địa phương) dưới triều Lê và triều Nguyễn đều 35

Đối với triều Lê, lấy triều Lê Thánh Tông và triều Nguyễn lấy triều Minh Mạng làm căn cứ.

Page 53: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

bằng nhau (Chánh thất phẩm), trong khi dưới triều Thanh, phẩm hàm của hai chức

này đều là 1 bậc. Điều này chứng tỏ triều Lê và triều Nguyễn xem 2 chức này là

ngang nhau nhưng triều Thanh có sự phân biệt giữa quan giám sát trung ương và địa

phương, chênh lệch 1 bậc.

So với thời Trần và thời Lê, cơ quan giám sát của thời Nguyễn đã hoàn thiện

hơn rất nhiều, mặc dù tính chất của Đô sát viện vẫn là cơ quan giám sát như Ngự sử

đài của các triều đại trước đó. Đặc biệt dưới thời Minh Mạng, Đô sát viện được

thành lập đã trở thành cơ quan giám sát cao nhất trong đó lục khoa và giám sát Ngự

sử đều thuộc vào Đô sát viện và do Đô sát viện thống lĩnh. Là cơ quan độc lập ở

trung ương chịu trách nhiệm trước hoàng đế và là cơ quan giám sát có quyền lực

lớn nhất, khi hội đồng với bộ Hình và Đại lý tự thành lập Tam Pháp ty cơ quan tư

pháp tối cao/pháp đình của triều Nguyễn [34:41-42].

1.2.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ

* Đô sát viện

Về số lượng và phẩm hàm của các Trưởng quan Đô sát viện, đứng đầu Đô sát

viện là 2 viên Tả/Hữu Đô ngự sử (tức Trưởng quan của viện) ngang hàm với

Thượng thư lục bộ là Chánh nhị phẩm (2a). Giúp việc cho Tả/Hữu Đô ngự sử có

Tả/Hữu phó Đô ngự sử ngang hàm với Tham tri lục bộ là Tòng nhị phẩm (2b).

Ngoài ra, Đô sát viện còn có 14 thư lại do một viên lục sự Chánh thất phẩm (7a)

phụ trách.

Về nhiệm vụ, năm 1832, khi cho lập Đô sát viện, vua Minh Mạng đã quy định

nhiệm vụ của cơ quan này như sau: 2 Trưởng quan là Tả và Hữu Đô ngự sử có

nhiệm vụ “giữ việc chỉnh đốn chức phận của các quan, để nghiêm phong hoá đúng

phép tắc”. Còn 2 viên Tả và Hữu phó Đô ngự sử thì “xem xét làm việc trong Viện

và là phó phụ của Tả/Hữu Đô ngự sử được giao cho những việc trình bày đều phải

đàn hặc việc trái” [70:362], [52:73]. Không những vậy mà các “ngôn quan ở khoa,

đạo đều lệ thuộc vào đấy”, tức là thuộc quyền của 4 viên Đô ngự sử. Còn “lục Sự

thì thuộc dưới quyền Viện trưởng” và có trách nhiệm “giữ các công việc bao phong

Page 54: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

chương sớ và văn thư. Chánh bát cửu phẩm thư lại và Vị nhập lưu thư lại đều theo

làm việc” [70:362]. Đối với chính sự của triều đình, “việc được, việc hỏng nếu có

biết thực thấy rõ thì cứ thực tâu bày”. Đối với việc có lợi hay gây hại “đến sự sinh

sống của dân, chỗ nào nên làm, chỗ nào nên đổi, thì tuỳ việc mà bày tỏ lên”. Đối

với các việc cơ mật quan trọng của triều đình thì được quyền “tâu bày sự thực,

niêm phong kín dâng lên” [24:324]. Đối với những tờ chương tấu của nha môn, các

bộ, các viện đã được phụng chỉ và chiếu thư ban xuống “nếu việc gì quả thực chưa

tiện thi hành thì cứ điều mình đã biết tâu bày thẳng thắn, không được giấu giếm”.

Đối với các lễ tiết về đại tự hay trung tự36

của triều đình, “nếu thấy có những thiếu

sót như làm thịt con sinh không được sạch sẽ, không cung cấp muông sinh và lụa

cúng, trái lệnh cấm giới trong kỳ, phải giữ chay tịnh, không chịu đến ở nhà trai

giới, lỗi nghi thức làm lễ, vô cớ bỏ vắng không dự” [70:362], [52:73-75] đều phải

hặc. Tại các triều hội yến hưởng, “trong số quan chức lớn bé, có ai lấn vượt ban

thứ, nói năng ồn ào, uy nghi không nghiêm túc đều phải hặc” [70:362], [52:73-75].

Ngoài ra, đối với hoàng thân, quốc thích và các quan lớn nhỏ trong kinh hoặc

ngoài trấn, “có việc gì không công bằng, không giữ phép, dối trá, bưng bít, chuyên

quyền”, “tham hay liêm, tốt hay xấu”, “các đại thần đề cử và bổ dụng người và

chương sớ các nha môn trong ngoài, dâng lên hễ thấy không phải làm vì công tâm”

[70:361] Đô sát viện đều được quyền tham hặc.

Đối với việc thu chi ở Võ khố và Đốc công thì thuộc viên của viện hội đồng

với viện Cơ mật và thuộc viên của bộ Hộ kiểm xét. Các kho ở Kinh có chi phát tiền

gạo, Đô sát viện hội đồng với viên Giám lâm xem xét quy trình và ghi chép đầy đủ

số lượng chi của những kho này. Sau khi chi xong cùng với viên Giám lâm niêm

khóa kho [52:71].

Về quyền hạn, Đô sát viện có các quyền như sau:

1. Quyền đàn hặc (vạch rõ tội lỗi, vi phạm) của các quan từ bá quan đến

hoàng thân, hoàng tử.

36

Đại tự: lễ cúng tế to. Trung tự: lễ cúng tế vừa.

Page 55: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

2. Quyền can gián vua.

3. Quyền tấu trình trực tiếp với nhà vua.

4. Quyền ghi chép lời nói, hành động của nhà vua và quan chức trong các

ngày hội triều, nghe chính sự, tài liệu ghi chép được nộp cho Sử quán làm tư liệu.

5. Quyền kiểm soát các bộ, nha trong triều như việc tế tự, thiết triều, ngoại

giao, trường thi, kho tàng…

6. Quyền phúc duyệt các bản án [9:144].

Đô sát viện còn có trách nhiệm giám sát trong các kỳ thi của triều đình. Đối

với thi Hương, thi Hội, “nếu có sự ngấm ngầm chạy vạy đút lót gửi gắm cũng phải

hặc” [84:101]. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), khi ban hành lệ thi Hương quy định:

“… chọn các viên khoa, đạo sung làm giám sát công việc trường thi, mỗi trường 2

viên, chuyên kiểm sát các việc Nội trường và Ngoại trường, nếu thấy những việc

gian lận, thì cứ thực chỉ tên mà hặc” [71:118]. Ở Nội trường (Nội liêm), triều đình

giao một viên Ngự sử thay mặt triều đình trông coi việc thi cử hay dở thế nào. Còn

ở Ngoại trường (Ngoại liêm), một vị Chưởng ấn lo đốc suất 8 viên Thể sát khám xét

việc thi cử ngoài trường thi [103:135], [27:96]. “Tuy không được dự vào việc chấm

quyển nhưng mọi việc trong trường thi từ việc của Chánh Chủ khảo trở xuống nếu

thấy có gì không hợp lệ đều làm sớ trình về với triều đình” [18:88]. Hai vị này có

quyền rất lớn, giám sát công việc trường thi kể từ quan Chánh chủ khảo trở xuống.

Triều Nguyễn đã ban cho quan giám sát quyền khá lớn. Tuy nhiên, không phải

như vậy, các ngôn quan, “gián quan” có thể được “lộng hành”, “lộng quyền” mà

triều đình cũng quy định khi các quan giám sát tâu hặc thì “… đều phải vạch rõ sự

thực, không được nghe hơi bắt bóng, vì hiềm riêng mà càn bậy bới chuyện; đối với

các việc nhỏ nhặt có hại đến trị thể. Nếu gặp những việc chậm trễ, trái phép, lầm

lẫn và những tệ quan lại do bọn nha lại gian giảo đổi trắng thay đen đều phải vạch

rõ sự thực mà hặc tấu” [70:362-363], [52:71-72].

Đặc biệt, năm 1835, vua Minh Mạng giao thêm cho Đô sát viện và các khoa,

đạo một trọng trách nặng nề nữa đó là “Phàm những công việc có quan hệ đến

Page 56: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

chính trị mà chưa được chu đáo, thì nên làm phong kín tâu rõ từng điều” và giao

cho Tả phó Đô ngự sử Phan Bá Đạt “truyền sức cho bọn Khoa, đạo đều biết” để

thực hiện [71:501].

Trưởng quan của 3 cơ quan: Đô sát viện, Đại lý tự, Thông chính sứ ty cùng

với Thượng thư lục bộ (bộ Lại, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hình, bộ Công) là “Cửu

khanh”. Đây chính là “chế độ “Cửu khanh” – chính chức đại thần cao quý nhất của

triều Nguyễn, bắt đầu chính thức được đặt ra từ triều Minh Mạng” [111:84].

* Lục khoa

Lục khoa là cơ quan giám sát của triều đình tương ứng với lục bộ. Đứng đầu

mỗi Khoa là chức Cấp sự trung hàm Chánh ngũ phẩm và là “cấp dưới của Trưởng

quan Đô sát viện, chịu sự cai quản của Đô sát viện trong công vụ” [72:360]; điều

hành công vụ của khoa đó. Các viên Cấp sự trung có nhiệm vụ “giữ việc coi xét

gian phi tệ hại, tra cứu việc chậm trễ, trái phép”, “Nếu gặp những việc chậm trễ,

trái phép, lầm lẫn và những tệ quan gian giảo, đổi trắng, thay đen đều phải vạch rõ

sự thực mà hặc tấu”. Họ còn có quyền “Phàm quan viên văn võ ở Kinh thấy ai

không công bằng, không giữ pháp đều được phép hặc tâu” [72:360]. Các quan

thuộc Khoa và đạo cũng hặc tâu lẫn nhau. Đây là một trong những quy định khá đặc

biệt. Xét về phẩm hàm thì hai chức này bằng nhau nhưng xét về địa vị thì các Cấp

sự trung (tương đương cấp Bộ ngày nay) là quan giám sát trung ương còn Giám sát

ngự sử là quan giám sát địa phương (cấp tỉnh) nhưng triều Nguyễn cho phép quan

giám sát trung ương tâu hặc quan giám sát địa phương và ngược lại. Mặc dù là

“thuộc viên” của Đô sát viện (các Đô ngự sử) nhưng triều Nguyễn còn cho phép

mỗi “Khi có điều trần hoặc kiến nghị về những việc có quan hệ đến chính trị” thì

các Cấp sự trung được quyền “niêm phong kín đệ thẳng lên” [70:362] mà không

phải thông qua các Trưởng quan. Đây là một trong những tiến bộ của triều Nguyễn

trong việc xây dựng, vận hành và phát huy vai trò cơ quan giám sát.

Việc phân định nhiệm vụ giám sát của mỗi Khoa đối với mỗi cơ quan của

triều Nguyễn không có thay đổi nhiều so với triều Lê. Nhiệm vụ của lục khoa là

giám sát các bộ tương ứng và giám sát một số cơ quan khác. Cụ thể:

Page 57: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

“- Lại khoa kiểm soát Lại bộ, Hàn lâm viện và Thái y viện.

- Hộ khoa kiểm soát Hộ bộ, phủ Nội vụ đốc công, Tào chính, Thương

trường và Nội tàng.

- Lễ khoa kiểm soát Lễ bộ, Thái thường tự, Quang lộc tự, Hồng lô tự, Quốc

tử giám và Khâm thiên giám.

- Binh khoa kiểm soát Binh bộ, Thái bộc tự, Kinh thành đề đốc và 2 kho súng

ống thuốc đạn.

- Hình khoa kiểm soát Hình bộ, Đại lý tự.

- Công khoa kiểm soát Công bộ, Võ khố, Võ khố đốc công và Mộc thương”

[52:73-74], [70:360].

Về mặt lý thuyết, mặc dù triều đình đã có phân định rõ ràng trách nhiệm của

mỗi khoa nhưng trên thực tế hoạt động không phải cứng nhắc như vậy mà thuộc

viên của khoa này có thể tâu hặc công việc của khoa khác. Như năm 1880, Ngô

Xuân Mỹ là Chưởng ấn Binh khoa nhưng ông đã tâu xin nghiêm cấm cửa quan bến

tuần thu thuế quá lệ. Vua đã chuẩn giao cho các tỉnh “nếu có tệ nào không biết trích

ra trị tội, bị người tố cáo ra, tất phải xử tội nghiêm ngặt” [75:416].

Ngoài ra, để thuận lợi và giám sát lẫn nhau, vua Minh Mạng còn ban cho cơ

chế hội đồng trong quá trình hoạt động. Đó là trong những trường hợp nhất định,

các khoa là cơ quan giám sát cấp trung ương ương nhưng còn phải hội đồng với các

đạo. Cụ thể:

- Lại khoa hội đồng với Giám sát ngự sử các đạo Nam – Ngãi, Ninh – Thái.

- Hộ khoa hội đồng với Giám sát ngự sử các đạo Long – Tường, Định – An,

Lạng – Bằng.

- Lễ khoa hội đồng với Giám sát ngự sử các đạo Định – Biên, Hải – An.

- Binh khoa hội đồng với Giám sát ngự sử các đạo An – Hà, Thanh Hoa, Sơn

– Hưng – Tuyên.

- Hình khoa hội đồng với Giám sát ngự sử các đạo Bình – Phú, An – Tĩnh.

Page 58: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

- Công khoa hội đồng Giám sát ngự sử với các đạo Thuận – Khánh, Trị –

Bình, Hà – Ninh [52:73], [70:362].

Năm 1832, khi cho phân định 4 bậc trong đội ngũ quan lại của cơ quan là

Trưởng quan, Tá nhị, Thủ lĩnh và Lại điển, các Đô ngự sử là Trưởng quan, Cấp sự

trung lục khoa và Giám sát ngự sử các đạo cùng bậc Tá nhị - chức quan chịu trách

nhiệm thứ hai trong cơ quan giám sát [70:370].

* Giám sát ngự sử mười sáu đạo

Cùng với lục khoa, 16 viên Giám sát ngự sử của mười sáu đạo tương ứng có

nhiệm vụ giúp việc cho bốn vị đại thần của Đô sát viện. Giám sát ngự sử của mười

sáu đạo mang hàm Chánh ngũ phẩm. Năm 1832, vua Minh Mạng phân định trách

nhiệm của Giám sát ngự sử 16 đạo như sau:

1. Đạo Kinh kỳ giám sát Nội các và Phủ Thừa Thiên;

2. Đạo Nam - Ngãi, giám sát hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi;

3. Đạo Bình - Phú, giám sát hai tỉnh Bình Định, Phú Yên;

4. Đạo Thuận - Khánh, giám sát hai tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa;

5. Đạo Định - Biên, giám sát hai tỉnh Gia Định, Biên Hòa;

6. Đạo Long - Tường, giám sát hai tỉnh Vĩnh Long, Định Tường;

7. Đạo An - Hà, giám sát hai tỉnh An Giang, Hà Tiên.

8. Đạo Bình - Trị, giám sát hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị;

9. Đạo An - Tĩnh, giám sát hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh;

10. Đạo Thanh Hoa, giám sát tỉnh Thanh Hoa (Thanh Hóa);

11. Đạo Hà - Ninh, giám sát hai tỉnh Hà Nội, Ninh Bình;

12. Đạo Định - Yên, giám sát hai tỉnh Nam Định, Hưng Yên;

13. Đạo Hải - Yên, giám sát hai tỉnh Hải Dương, Quảng Yên;

14. Đạo Sơn - Hưng - Tuyên giám sát ba tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên

Quang;

15. Đạo Ninh - Thái, giám sát hai tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên;

16. Đạo Lạng - Bằng giám sát hai tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng [70:362],

[52:73].

Page 59: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Về cơ bản, Giám sát ngự sử các đạo đều có quyền như Cấp sự trung lục

khoa. Đó là “Phàm quan viên văn võ ở Kinh thấy ai không công bằng, không giữ

pháp đều được phép hặc tâu. Khoa và đạo cũng hặc tâu lẫn nhau. Khi có điều trần

hoặc kiến nghị về những việc có quan hệ đến chính trị thì được niêm phong kín đệ

thẳng lên” [70:362]. Ngoài ra, họ còn “phải kiểm xét địa phương đạo mình, nếu

quan lại có vạch ra những tệ tham ô, chậm trễ, trái phép thì tuỳ việc mà tham hặc”

[70:362].

Mặc dù, triều đình đã phân định chức năng giám sát các đạo của các Giám sát

ngự sử nhưng trong quá trình hoạt động các Giám sát ngự sử có thể tâu hặc những

việc của đạo khác. Năm 1838, Hoàng Thu lúc này là Ngự sử đạo Định - Yên nhưng

đã dâng sớ đề xuất cho dân hạt Thừa Thiên thuê làm việc ở các xưởng được nghỉ để

về thu hoạch lúa chiêm [72:305 – 306].

Để có được một cơ cấu cơ quan giám sát như trên, triều Nguyễn, nhất là vua

Minh Mạng đã tiếp thu kinh nghiệm của triều Lê ở Việt Nam trước đó và triều

Thanh đương thời ở Trung Quốc. Năm 1826, sau khi Hoàng Kim Hoán, Hoàng Văn

Quyền, Phan Huy Chú, Nguyễn Trọng Vũ, Trần Chấn và Nguyễn Hựu Nhân đi sứ

nước Thanh (Trung Quốc) về đã “đem sách Đài quy dâng lên”. Vua Minh Mạng

bảo thị thần rằng: “Sách này đều là điều lệ đặt cho gián quan, trong đó như Giám

sát ngự sử các đạo và Cấp sự trung sáu khoa đều có nhân viên nhất định” [69:498].

Do đó, “nối theo chí trước, phàm các phép tắc giường mối nghĩ muốn tuỳ nghi dựng

đặt để làm phép cho muôn đời, các khanh nên xét rõ sách này, chước lượng mà

làm” [69:498]. Tuy nhiên, sự tiếp thu của triều Nguyễn là có sáng tạo chứ không

phải “rập khuôn”, “không hoàn toàn giống mô hình Trung Quốc và các triều đại

quân chủ Việt Nam trước đó” [6:97-98], [36:8]. Năm 1832, khi cho đặt, vua Minh

Mạng và đình thần cho rằng “Đặt ra chức ngôn quan, từ xưa đã có, trải các đời

Hán, Đường, Tống đến Minh, Thanh, đời nào cũng có mặt, tên gọi không giống

nhau nhưng cốt yếu là làm nhiệm vụ kiểm soát và đàn hặc. Xét hội điển của Bắc

triều quy chế về chức đài hiến, đến đời Thanh mới đủ. Triều đại ta tự có chế độ

riêng không giống với điển lễ nhà Thanh” [70:362]. Nếu so sánh với các chức Giám

Page 60: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

nghị đại phu (thời Lý); Hành khiển, Ngự sử đài, Ngự sử trung tán, Ngự sử trung

tướng, Ngự sử đại phu và Giám sát ngự sử (thời Trần) và lục khoa (thời Lê Thánh

Tông), Đô sát viện của triều Nguyễn khá hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, có quyền rất

lớn, chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ hệ thống tổ chức bộ máy và quan lại trong

kinh lẫn ngoài tỉnh, có quyền độc lập tương đối cao và là thành viên của Tam Pháp

ty - cơ quan tư pháp tối cao của triều Nguyễn37

. Trong khi đó, Ngự sử đài và lục

khoa thời Lê là hai cơ quan độc lập với nhau, tách rời nhau.

Đối với việc triều Nguyễn tiếp thu kinh nghiệm của triều Thanh, Alexander

Barton Woodside cho rằng “For the most fart the Nguyễn Consorate (Đô sát viện)

was a scrupolous copy of its Ch’ing model”38

[127:71]. Cụ thể, cơ quan giám sát

của triều Nguyễn và triều Thanh đều có Đô sát viện (với các chức Tả đô ngự sử và

Hữu đô ngự sử), lục khoa (Cấp sự trung và Chưởng ấn Cấp sự trung) và Giám sát

ngự sử các đạo (triều Thanh có 12 Giám sát ngự sử, triều Nguyễn có 16 Giám sát

ngự sử) và ngoài nhiệm vụ giám sát hoạt động của hệ thống quan lại trong cả nước,

cơ quan giám sát của hai triều đại này đều phải đảm đương như giám sát các trường

thi, đảm đương nhiệm vụ ghi chép39

lời nói, việc làm của vua bất cứ khi vua ở trong

Kinh hay ra ngoài tỉnh. Tuy nhiên, cơ quan giám sát của triều Nguyễn có những

khác biệt nhất định so với triều Thanh, “Vietnammese emperors did not borrow and

apply extensively all the devices for bureaucratic control which Chinese courts had

developed”40

[127:72]. Đó là thứ nhất, cơ quan giám sát (Đô sát viện và lục khoa)

của triều Thanh có số lượng quan và lại nhiều gấp hai lần so với cơ quan giám sát

của triều Nguyễn. Thứ hai, lục khoa của triều Nguyễn có vai trò và quyền lực nhỏ

hơn, hạn chế hơn so với lục khoa của triều Thanh. Đặc biệt, triều Nguyễn không

hạn định thời gian đối với thuộc viên cơ quan giám sát mỗi khi được vua và triều

Nguyễn giao cho đi đến các tỉnh thực thi nhiệm vụ giám sát, trong khi triều Thanh

có quy định thời gian cụ thể; hay các thuộc viên cơ quan giám sát của triều Nguyễn

37

Sẽ trình bày cụ thể ở phần sau. 38

Tạm dịch: Phần lớn, Đô sát viện của nhà Nguyễn là bản sao chi tiết của mô hình nhà Thanh. 39

Chức Khởi cư chú. 40

Tạm dịch: những hoàng đế nhà Nguyễn đã không vay mượn và ứng dụng toàn bộ bộ máy quan lại mà các

triều đại Trung Hoa đã gây dựng, phát triển.

Page 61: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

thường được triều đình tránh không cho thực hiện nhiệm vụ khi có quan hệ họ hàng,

thân thuộc, trong khi triều Thanh thường không ràng buộc... [127:72-73]. Ngoài ra,

Đô sát viện dưới thời Minh và Thanh ở Trung Quốc chỉ chịu trách nhiệm giám sát

các địa phương, còn giám sát hoạt động ở cấp trung ương – Kinh đô thuộc về trách

nhiệm của lục khoa. Lục khoa là một cơ quan giám sát độc lập với Đô sát viện

[9:145].

1.2.3. Chế độ thăng bổ và thuyên chuyển của triều Nguyễn đối với cơ

quan giám sát

Dưới triều Nguyễn, quan giám sát chủ yếu được tuyển chọn, thăng bổ từ

những người có học hành đỗ đạt hoặc người đã từng kinh qua các chức thuộc quan

giám sát41

. Năm 1837, khi cho đặt thêm chức Chưởng ấn Cấp sự trung 6 Khoa, trật

Tòng tứ phẩm, vua Minh Mạng giao cho “đình thần xét ngay người hiện ở trong

khoa, đạo, người nào có thành tích tốt, làm được việc, cho lấy tâu lên sung bổ”

[49:297]. Sau khi đình thần chọn lên, vua đã lấy Nguyễn Trung Nghĩa, Ngự sử đạo

Ninh - Thái làm Chưởng ấn Cấp sự trung Lại khoa; Nguyễn Danh Quan, Ngự sử

đạo Hải - An làm Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ khoa; Cấp sự trung Lễ khoa Hà Thúc

Lương làm Chưởng ấn Cấp sự trung Lễ khoa; Ngự sử đạo Trị - Bình Nguyễn Danh

Hiển làm Chưởng ấn Cấp sự trung Binh khoa; Ngự sử đạo Định - Biên Trần Văn

Thông làm Chưởng ấn Cấp sự trung Công khoa [72:148]. Dưới thời vua Thiệu Trị,

Năm 1843, Giám sát Ngự sử đạo Thuận – Khánh là Ngô Bỉnh Đức được thăng thự42

Chưởng ấn Cấp sự trung Binh Khoa; năm 1844, Giám sát ngự sử đạo Kinh kỳ

Nguyễn Văn Diễm được thăng Thự Chưởng ấn Cấp sự trung Công khoa; năm 1846,

cho Cấp sự trung Hình khoa là Giang Văn Hiển thăng quyền Chưởng ấn Cấp sự

trung Hình khoa, Cấp sự trung Lại khoa Nguyễn Quýnh thăng quyền Chưởng ấn

Cấp sự trung Lại khoa; Giám sát ngự sử đạo Kinh kỳ Tạ Hữu Khuê thăng quyền

Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ khoa [73:920-921]...

41

Xem thêm phần phụ lục. 42

Quan thấp hơn 1 phẩm mà giữ việc trên [48:707].

Page 62: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Tuy nhiên, đến dưới thời Tự Đức, năm 1879, vua chuẩn định nếu chức Cấp sự

trung các khoa có khuyết thì giao bộ Lại chọn từ các “viên ngoại, chủ sự các bộ,

ngũ lục phẩm ở quán các”, “người nào từng đã cai trị dân và quan phủ, huyện tại

chức được trên 2 năm, xuất thân là tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, giám sinh, tú tài” và

“có tiếng hay, chăm chỉ được việc và thông hiểu chính thể, hơi có kiến thức, thì làm

danh sách tâu lên để chọn dùng” [75:371]. Còn các Giám sát ngự sử các đạo nếu

khuyết thì chọn từ các “đốc học, người nào từng đã cai trị dân và quan phủ, huyện tại

chức được trên 2 năm, xuất thân là tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, giám sinh, tú tài” [75:371]

lập danh sách tâu lên để bổ khuyết.

Để giảm bớt đội ngũ quan lại, triều Nguyễn, đặc biệt là vua Minh Mạng, các

chức gián quan ở Cấp trung ương là Đô sát viện và lục khoa đều được triều đình

giao cho kiêm một số chức vụ khác. Theo quy định, chức Tả/Hữu Đô ngự sử

thường lấy Tổng đốc kiêm còn Tả/Hữu phó Đô ngự sử thường do Tuần phủ kiêm

[52:72], [22:11], [4:377], [14:47]; Cấp sự trung các khoa thường do Viên ngoại lang

của Bộ tương ứng kiêm... Ví dụ: Tả phó Đô ngự sử Phan Bá Đạt (1783-1846) vừa là

quan đại thần Cơ mật viện vừa kiêm quản viện Hàn lâm; Tả phó Đô ngự sử Lê

Đăng Doanh kiêm quản ty Thông chính; năm 1839, Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh

Thượng thư bộ Hình là Vũ Xuân Cẩn (1772 – 1852) kiêm quản Đô sát viện; Hữu

tham tri bộ Binh là Nguyễn Công Trứ (1778 – 1857) kiêm chức Tả phó Đô ngự sử

Đô sát viện43

...

Việc cho Viên ngoại lang kiêm chức Cấp sự trung chính là cách đặt giám sát

viên ngay trong bộ để kiểm soát công việc của Bộ, đảm bảo yêu cầu hiểu biết công

việc ngay trong Bộ để kiểm tra, giám sát công việc của Bộ. Trong Bộ, phẩm trật của

các Viên ngoại lang là Chánh ngũ phẩm, thấp hơn các quan Thượng thư, Tham tri,

Thị lang và Lang trung, nhưng vì là ngôn quan thuộc sự thống quản của Đô sát viện,

họ lại có quyền xem xét, vạch lỗi. Mặt khác, do kiêm nhiệm công việc của Bộ, họ

lại không hoàn toàn là thuộc hạ của các quan Tả/Hữu và Tả/Hữu phó Đô ngự sử

lãnh đạo Đô sát viện. Họ có được sự độc lập trong sự kiểm soát, các bản tấu của họ

43

Xem thêm phần Phụ lục.

Page 63: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

được phép phong kín dâng thẳng lên vua. Tuy nhiên, trong thực tế các quan Cấp sự

trung kiêm nhiệm công việc của Bộ có thể dễ dàng thông đồng với các quan ở Bộ,

trong đó có bản thân mình tham gia với chức trách là một thuộc viên của Bộ, hoặc

các Trưởng quan của bộ vẫn có thể điều khiển được các ngôn quan này với tư cách

là cấp trên trực tiếp trong Bộ. Điều này đã làm giảm hiệu quả giám sát của lục khoa.

Việc bổ nhiệm, thăng chuyển các thuộc quan của Đô sát viện cũng không phải như

các ngạch quan khác có thể do các bộ cử mà phải có đặc chỉ của vua. Ví như năm 1840,

bộ Lễ dâng sớ cử Ngự sử đạo An – Tĩnh là Lưu Quỹ thăng Thự Lang trung bộ Lễ. Vua

Minh Mạng nói: “Khoa, đạo là ngôn quan, nếu có bổ đi nơi khác, phải do đặc chỉ, các

bộ, viện sao được suất lược mà cử như thế” nên không cho [72:645].

Về lệ tiến cử, dưới thời vua Thiệu Trị, khi chuẩn cho các đại thần trong Kinh ngoài

tỉnh mỗi người được tiến cử một người, vua Thiệu Trị chuẩn định: Thượng thư, Đô ngự

sử và Thượng thư kiêm Tổng đốc được tiến cử người có thể làm Án sát và Lang trung

sáu bộ; còn Tham tri, Phó Đô ngự sử và Tuần phủ được tiến cử người làm Viên ngoại

lang và quan các khoa, đạo... [73:100], [47:114].

1.2.4. Chế độ đãi ngộ, khen thưởng và kỷ luật

1.2.4.1. Chế độ đãi ngộ

Bốn vị vua đầu của triều Nguyễn không chỉ quan tâm đến việc xây dựng bộ

máy giám sát với những người “thanh liêm”, “mẫn cán”, đỗ đạt và được cơ cấu đủ

số lượng từ trung ương đến địa phương mà để phát huy vai trò của các gián quan

trong việc loại bỏ sâu mọt hại dân, hại nước, triều đình còn có những chế độ đãi ngộ

hợp lý về lương bổng, trang phục... Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), đã ban định chế

độ lương bổng cho đội ngũ quan văn võ, trong đó chế độ lương bổng cho các chức quan

giám sát như sau:

Page 64: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Bảng: Chế độ lương đồng niên theo phẩm hàm năm 1818 và năm 1840

Phẩm hàm

(quan giám sát)

Năm 1818 Năm 1840

Tiền

(quan)

Gạo

(phương)

Tiền

xuân

phục

Tiền

(quan)

Gạo

(phương)

Tiền

xuân

phục

Chánh nhất phẩm 600 600 70 400 300 70

Tòng nhất phẩm 360 360 60 300 250 60

Chánh nhị phẩm (Tả/Hữu Đô

ngự sử)

300 300 50 250 200 50

Tòng nhị phẩm

(Tả/Hữu phó Đô ngự sử)

156 156 30 180 150 30

Chánh tam phẩm 120 120 20 150 120 20

Tòng tam phẩm 90 90 16 120 90 16

Chánh tứ phẩm 60 60 10 80 60 10

Tòng tứ phẩm 50 50 10 60 50 10

Chánh ngũ phẩm

(Cấp sự trung lục khoa và

Giám sát ngự sử các đạo)

35 35 9 40 35 9

Tòng ngũ phẩm 30 30 8 35 30 8

Chánh lục phẩm 25 25 7 30 25 7

Tòng lục phẩm 22 22 6 25 22 6

Chánh/Tòng thất phẩm 20 20 5 22 20 5

Chánh/Tòng bát phẩm 18 18 4 20 18 4

Chánh/Tòng cửu phẩm 18 18 4 18 18 4

Nguồn: [22:227], [72:610-611], [16:141].

Như vậy, trong chế độ lương và tiền xuân phục hàng năm của triều Nguyễn có

sự chênh lệch khá lớn giữa các thang bậc phẩm hàm. Chẳng hạn, năm 1840, chế độ

tiền lương của Tả/Hữu Đô ngự sử nhiều hơn Cấp sự trung lục khoa và Giám sát ngự

sử các đạo 6,25 lần (250 quan và 40 quan); chế độ gạo nhiều hơn 5,7 lần (200

phương và 35 phương) và chế độ tiền xuân phục hàng năm giữa hai chức này chênh

lệch gần 5,5 lần (50 quan và 9 quan)...

Page 65: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

So với các chức quan khác, Nội các là nơi giữ chức Cơ mật còn Đô sát viện là

“trách nhiệm nghe trông, đều là công việc nhiều, chức trách nặng” nên năm 1874,

vua Tự Đức chuẩn định thêm lương có thứ bậc cho thuộc viên của Nội các và Đô

sát viện để cho xứng đáng với việc làm “trông coi Đô sát viện cấp thêm 150 quan,

khoa, đạo mỗi viên đều cấp thêm 100 quan” [75:28]. Những người trước đây “bị

giáng, bị phạt không khấu trừ”. Đồng thời, triều đình cũng chuẩn cho chức Chưởng

ấn ở lục khoa “thứ bậc ở trên Lang trung”, Ngự sử các đạo “thứ bậc ở trên Viên

ngoại lang” [75:28]. Mục đích là để trọng người có trách nhiệm can ngăn.

Ngoài ra, giống như những chức quan khác, thuộc quan của Đô sát viện và các

khoa, đạo còn được triều Nguyễn cho áp dụng chế độ tiền dưỡng liêm, áo mũ... Đối

với những chuyến công cán xa đến các đạo mất nhiều thời gian, triều đình cũng

thường chuẩn cho cấp thêm lương tiền. Năm 1839, sai Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh

Thượng thư bộ Hình kiêm quản Đô sát viện là Vũ Xuân Cẩn và 2 viên khoa, đạo đi

xét việc quân cấp ruộng công ở Bình Định, vua Minh Mạng đã sai cấp cho Vũ Xuân

Cẩn 50 lạng bạc và 2 viên khoa, đạo mỗi người 9 lạng [72:534-535].

Theo lệ cũ, các quan hàm từ tứ phẩm trở lên mới được triều đình ban áo rét

nhưng năm 1833, vua Minh Mạng đã ưu đãi các ngôn quan, nên đặc cách ban áo rét

cho các Trưởng quan Đô sát viện và thuộc viên của khoa, đạo loại áo “nửa tơ, trong

lót vải màu để rõ đặc cách” [82:76], [70:819]. Vua Tự Đức cũng từng có chỉ dụ cấp

áo rét cho các ngôn quan. Năm 1837, khi ban cấp áo mũ cho quan hàm ngũ phẩm,

trong khi “ngũ phẩm các nha, mũ áo triều không được đặc Chỉ, thì không được

cấp” [122:45] nhưng các quan khoa, đạo hàm ngũ phẩm lại được cấp loại “áo bào

bằng thứ đoạn đậu 8 sợi tơ trơn bóng, mũ bằng the đen, Cấp sự trung các khoa 6

người, cấp cho 3 bộ mũ áo; Ngự sử các đạo 17 người, cấp cho 9 bộ để dùng mặc

chung” [122:45]. Và để ưu đãi chức ngôn quan, vua Minh Mạng đã đặc cách cấp

cho Viện trưởng và Chưởng ấn ở 6 khoa cùng các khoa, đạo mới cấp mũ chầu “đều

thêm hai miếng sừng bịt bạc ở trên đầu mũ, gọi là mũ giải trãi, để hợp với ý nghĩa

Page 66: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

con giải trãi chỉ húc kẻ gian tà44

” [72:148]. Đồng thời, chuẩn định cho các viên

khoa, đạo khi được phái đi việc công thì được “mang cờ khâm sai và đến ngay các

địa phương thì ấn triện cấp trước vẫn được mang theo, nếu phái đi tỉnh ngoài tra

xét, thì ấn triện giao cho Viện trưởng tạm giữ” [72:148]. Năm 1833, vua Minh

Mạng cấp bài ngà cho quan văn45

.

Về văn phòng làm việc, năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vua cho “làm nha thự

Đô sát viện phường Bảo Hoà ở phía trên hoàng thành, làm công thự Tả Đô ngự sử

như kiểu dinh Thượng thư Lục bộ, hai bên tả hữu trước sân làm nhà công của mỗi

bên một cái; các thuộc ty dinh Tả phó Đô ngự sử làm như kiểu dinh Tham tri Lục

bộ, chung quanh đều xây tường gạch trước sau đều có 1 cửa46

. Dãy nhà các khoa

các đạo chung quanh cũng xây tường gạch, trước sau đều có 2 cửa” [70:360-378].

Còn Hữu Đô ngự sử, Hữu phó Đô ngự sử “đều là kiêm hàm của Tổng đốc và Tuần

phủ” [70:360-378] nên không phải xây nha thự.

1.2.4.2. Chế độ khen thưởng và kỷ luật

1. Không những có chế độ ưu đãi về lương bổng, điều kiện làm việc mà triều

Nguyễn còn có chế độ khen thưởng đối với những ngôn quan, gián quan có công

lao, thành tích lớn. Dưới thời vua Minh Mạng, năm thứ 18 (1837), trước tình hình

kinh tế khó khăn, dân các châu huyện Tiên Yên, Vạn Ninh, Hoành Bồ, Vân Đồn

“tình rất quẫn bách” nên không thể tuyển lính được, vua sai Ngự sử đạo Bình - Phú

Ngô Văn Địch đến kiểm tra. Sau khi kiểm tra về, Ngô Văn Địch tâu tình hình đúng

thực tế vua đã ban thưởng cho Địch kỷ lục 2 thứ và 10 lạng bạc [72:154].

44

Giải trãi là một loài thú trong thần thoại (giống như loài rồng) ở miền Đông Trung Quốc, có đặc tính phân

biệt được người ngay, kẻ gian. Mỗi khi thấy kẻ gian tà là nó kêu to và húc thẳng vào kẻ ấy. Bởi vậy, dưới chế

độ quân chủ ở Trung Quốc, các triều đại thường thêu hình con giải trãi vào mũ và áo các quan giám sát. 45 Tả Đô ngự sử, Phó Đô ngự sử và lục bộ Thượng thư, Tham tri, Thị lang, Đại lý Tự khanh, Thái thường

Tự khanh, Quang lộc Tự khanh, Thừa thiên phủ Phủ doãn đều dài 1 tấc 3 phân, rộng 8 phân. Còn Cấp sự

trung lục khoa, thập lục đạo Giám sát ngự sử và lục Sự, Chư phủ Phó trưởng sử, Tán thiện Bạn độc, Nội các

Hành tẩu, Thị độc, Thừa chỉ, Tu soạn, Biên tu, Kiểm thảo, Điển tịch, Đãi chiếu, Hàn lâm viện Tu soạn, Biên

tu, Kiểm thảo, Thái y viện Ngự y, Phó ngự y, Khâm thiên giám Giám chính... được cấp bài ngà dài 1 tấc,

rộng 6 phân [70:531]. 46

Phường Bảo Hòa sau đổi thành phường Trì Vụ nằm ở phía tây Kinh thành, hiện nay là khu dân cư được

bao bọc bởi 4 con đường là Triệu Quang Phục – phía Bắc, Trần Nguyễn Đán – phía Đông, Thạch Hãn – phía

Nam và Nguyễn Cư Trinh – phía Tây (xem phụ lục 1, sơ đồ 2, vị trí 132 và phụ lục 1, sơ đồ 3). Đến năm

1889, thực dân Pháp cho chuyển về phía đông bắc Kinh thành (xem phụ lục 1, sơ đồ, vị trí 160 và phụ lục 1,

sơ đồ 3), hiện nay là trường Trung học phổ thông Nguyễn Huệ (36 Đoàn Thị Điểm) [1:195-196],

[11:118,124], [13:88-94], [10:153].

Page 67: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Đến thời Tự Đức, năm 1848, khoa, đạo là Đặng Minh Trân, Lê Đức khi dâng

sớ vạch tội Đô thống phủ, Đô thống lãnh Tổng đốc Hà Ninh Tôn Thất Bật, về tội

làm bậy “khinh nhờn phép nước, xoay kiếm lợi riêng. (Cho binh đinh nghỉ việc, đòi

lấy tiền tài, lấn át viên biền dưới quyền mình tự tiện đóng gông giam cấm, cưỡng

mua con gái người ta, bắt giam dân không có tội, mua hiếp hàng hoá)” [74:93].

Vua bèn giáng Tôn Thất Bật 5 cấp lưu. Đối với Đặng Minh Trân và Lê Đức, vua

thưởng mỗi người một súc lụa. Hay năm 1856, vua Tự Đức cho rằng Chưởng ấn

Cấp sự trung Lễ khoa là Lê Văn Phả và Giám sát ngự sử đạo Long - Tường là Phạm

Trị năm 1855 khi được triều đình sai đi khám nghiệm các mỏ vàng ở Bắc Kỳ đã

phải trèo đèo, lội suối khó nhọc nhưng mọi việc được giao đều ổn thoả nên ban

thưởng cho mỗi người kỷ lục 2 thứ [74:455]. Năm 1868, triều đình đã thưởng cho

Ngự sử đạo Hà – Ninh là Phạm Doãn Địch được gia 2 trật. Trước đây, khi còn là Tri

huyện Nông Cống (Thanh Hoá), ông đã có công lao trong việc mộ dân đinh và

chiêu hồi dân xiêu tán lập được 9 ấp, số đinh tính được 41 người, gọi thêm dân sót

ngoài sổ và khẩn trưng ruộng đất để hoang được 1.579 mẫu, lập ra nghĩa thương 37

nơi, có được hơn 3.400 quan tiền, hơn 4.700 hộc thóc [74:1125].

2. Song song với việc áp dụng chế độ khen thưởng hợp lý đối với những gián

quan có công lao mà triều Nguyễn còn có những biện pháp răn đe, kỷ luật hợp lý

đối với những thuộc quan của Đô sát viện sai trái, tư lợi hay lời tâu hặc không đúng

sự thật mà chỉ vì tình riêng hoặc hiềm khích lẫn nhau. Năm Minh Mạng thứ 18

(1837), Cấp sự trung Lễ khoa là Hà Thúc Lương nhân đi dò xét tình hình ở Tuyên

Quang về tâu bày không đúng sự thật, vua Minh Mạng cho “y nghị giáng chức đổi

đi”. Song vua cho rằng Hà Thúc Lương vì xem xét sự tình chưa rõ mà tâu chứ

không phải vì tư lợi gì nên “gia ơn” cho “đổi giáng 2 cấp cho lại dùng” [52:81].

Năm 1845, vua Thiệu Trị đã tuyên phạt Quyền Chưởng ấn Cấp sự trung Hình

khoa Trình Nho thắt cổ cho chết về tội trước đây khi được phái đi thanh tra Hà

Tĩnh, ông đã nhận bừa đơn kiện của dân và cho rằng Tri huyện Hương Sơn là Hồ

Mậu Đức nhận của lót. Vua giao cho quan tỉnh Hà Tĩnh xét, sự thực không phải như

vậy mà là Trình Nho đã nhận hối lộ [73:753]. Năm 1879, quan Khoa, đạo là Tạ

Page 68: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Ngọc Đường bị phạt trượng hết bậc đem đi đồ vì tội trước đây, khi triều đình giao

cho đi tra xét Hồng lô Tự khanh là Nguyễn Chính Tâm về tội “có nhiều sự nhũng

tệ” [75:378-379] khi làm việc ở Thương cục, ông đã nhận hối lội của Nguyễn Chính

Tâm.

Thậm chí, triều Nguyễn còn phạt nặng đối với ngôn quan không “chín chắn”

mỗi khi tâu hặc... Chẳng hạn vào năm 1838, Thự Ngự sử đạo Nam Ngãi Nguyễn

Văn Lượng dâng sớ đề nghị đổi tên nước Việt Nam, vua bảo rằng: "Nước Việt ta từ

đời Trần, Lê, trở về trước, gọi là nước An Nam, bản triều đổi lại gọi là Việt Nam,

thần dân trong ngoài vẫn nghe biết cả, Nguyễn Văn Lượng học thức ngày thường ở

đâu, mà đại hiệu nước nhà lại không biết đến, vả lại hắn là người trong phong hiến

sao lại nói ra lời cuồng bậy đến thế” [72:255]. Vua Minh Mạng liền cho cách chức,

phát đi làm ở quân thứ Trấn Tây.

*

* *

Dưới chế độ quân chủ Việt Nam từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XVIII và triều

Thanh (Trung Quốc), cùng với việc quan tâm xây dựng bộ máy hành chính, hệ

thống quan chế, hầu hết các triều đại cũng đã đặt các chức quan hay thành lập cơ

quan giám sát, với mục đích giúp triều đình ngăn chặn và xử lý kịp thời những sai

phạm của đội ngũ quan lại trong quá trình thực thi trách nhiệm. Thực tiễn hoạt động

cho thấy, các chức quan hay cơ quan giám sát dưới các triều đại này đã có những

đóng góp quan trọng và sự tồn tại của nó đã trở thành tất yếu.

Đúc rút kinh nghiệm của các triều đại quân chủ Việt Nam trước đó và triều

Thanh (Trung Quốc) đương thời cũng như trước yêu cầu phải quản lý bộ máy hành

chính và hệ thống quan lại trong cả nước hoạt động có hiệu quả, song song với việc

xây dựng tổ chức bộ máy hành chính, 4 vị vua đầu triều Nguyễn, từ Gia Long, Minh

Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức đã từng bước xây dựng và kiện toàn hệ thống cơ quan

giám sát từ trung ương đến địa phương và theo từng lĩnh vực hoạt động.

Page 69: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Dưới thời Gia Long khi bộ máy hành chính còn khá đơn giản, vua Gia Long

cũng chỉ cho đặt các chức Tả/Hữu Đô ngự sử và Tả/Hữu phó Đô ngự sử ở cấp trung

ương còn hệ thống bộ máy hành chính địa phương chưa được kiện toàn nên ông

cũng chưa cho đặt các chức quan giám sát. Tình trạng này vẫn được vua Minh

Mạng kế thừa cho đến trước khi cuộc cải cách hành chính trong những năm 1831 –

1832, cơ quan giám sát mới được đặt ra đầy đủ hơn với hai cấp là trung ương và địa

phương. Trong đó, ở cấp trung ương, vua Minh Mạng cho đặt Đô sát viện và lục

khoa. Đô sát viện là cơ quan giám sát tối cao, còn lục khoa là 6 đơn vị giám sát của

6 bộ tương ứng. Đối với cấp địa phương, có Giám sát ngự sử các đạo (16 đạo).

Thành quả của vua Minh Mạng trong việc xây dựng, kiện toàn bộ máy hành chính

nói chung và cơ quan giám sát nói riêng được các vị vua sau kế thừa cho đến những

năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XIX. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, vua

Thiệu Trị và vua Tự Đức có thay đổi nhưng chỉ thay đổi về số lượng còn về mặt cơ

cấu cơ bản vẫn giữ như dưới thời Minh Mạng.

Không chỉ quan tâm đến việc xây dựng và kiện toàn tổ chức, vua Minh Mạng

còn có các quy định nhằm phân định phẩm hàm, chức trách, quyền hạn và chế độ

thưởng phạt cụ thể đối với cơ quan giám sát và thuộc viên của tổ chức này. Là một

tổ chức đảm trách những hoạt động khá đặc thù nên các vị vua đầu triều Nguyễn

cũng đã có những chế độ khá “ưu ái” đối với các thuộc viên giám sát.

Điều đáng quan tâm trong việc sử dụng đội ngũ quan giám sát của các vị vua

đầu triều Nguyễn đó là hầu hết các chức quan trong cơ quan giám sát đều được triều

đình cho kiêm nhiệm. Đây là một trong những sáng tạo của triều Nguyễn. Sự sáng

tạo này vừa có tính tích cực nhưng cũng gặp phải những hạn chế nhất định.

Qua nghiên cứu về quá trình ra đời kiện toàn cơ quan giám sát dưới các triều

đại quân chủ ở Việt Nam chúng ta có thể khẳng định rằng: tùy vào mỗi thời kỳ lịch

sử, nhìn chung các triều đại quân chủ của chúng ta đã có những quan tâm nhất định

trong việc xây dựng các chức quan hoặc cơ quan giám sát tương ứng. Trong đó,

triều Lê và 4 vị vua đầu triều Nguyễn là 2 triều đại có cơ quan giám sát khá hoàn

chỉnh, nhất là triều Nguyễn. Đây chính là một trong những cơ sở cho chúng ta tiếp

Page 70: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

tục khẳng định triều Lê và triều Nguyễn là hai triều đại có những đóng góp lớn cho

lịch sử dân tộc. Đặc biệt, sau cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông và

cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng, cơ quan giám sát đã được hoàn

thiện, đáp ứng yêu cầu trong từng thời điểm lịch sử nhất định.

Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống giám sát, các vị vua đầu triều

Nguyễn đã có sự kế thừa và tiếp thu kinh nghiệm của các triều đại quân chủ Việt

Nam trước đó (nhất là triều Lê) và triều Thanh (Trung Quốc) đương thời nhưng sự

kế thừa và tiếp thu đó không hoàn toàn rập khuôn, máy móc mà triều Nguyễn đã có

sáng tạo và chọn lọc để phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam lúc bấy giờ.

Page 71: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Chương 2

CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN GIÁM SÁT TRIỀU NGUYỄN

GIAI ĐOẠN 1802 – 1885

2.1. CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG ĐỘC LẬP

2.1.1. Độc lập trong việc can gián vua và hoàng thân quốc thích

Đô sát viện là cơ quan giám sát tối cao của bộ máy triều đình trung ương triều

Nguyễn. Hoạt động của tổ chức này cũng không chịu sự kiểm soát, ràng buộc và

hạn chế của bất kỳ cơ quan nào, ngoại trừ hoàng đế. Thuộc viên của Đô sát viện có

quyền đàn hặc từ hoàng thân quốc thích, hoàng tử, công chúa… cho đến bá quan

văn võ trong cả nước, kể cả nhà vua. Các quyết nghị do triều đình hay hoàng đế ban

ra mà không hợp với thực tế thì quan can gián có thể đàn hặc để xem xét lại, “đối

với các chiếu hay chỉ, dụ của Hoàng đế, mặc dù đã được ban xuống, nếu Viện (Đô

sát) xét có điều bất tiện, sự thi hành chưa được tích nghi, thì vẫn được phép trình

lại để xin hoàng đế thu hồi” [24:324]. Ví như năm 1841, nhân lúc vua Thiệu Trị

mới lên ngôi, với mong muốn vua giữ đúng chức phận, trách nhiệm, các quan khoa,

đạo là Lưu Quỹ và Ngô Bỉnh Đức liền dâng mười điều trần để khuyên can vua, đó

là: Thận trọng trong sự ham chuộng; Mở rộng lòng thành kính; Biết rõ trị

thể; Cần phải biết người; Chăm sóc dân đen; Cẩn thận về tài lợi; Không

dùng vật lạ; Công bình trong việc hình phạt; Tỏ rõ giáo hóa; Rộng đường

ngôn luận [73:58-63]. Đây là những yêu cầu cơ bản và tối cần thiết đối với bất cứ

một vị vua hay một người đứng đầu đất nước. Nó không chỉ nhắc nhở vua trách xa

thú ăn chơi, hưởng lạc mà còn cho vua biết vai trò, trọng trách lớn của mình trước

vận mệnh của đất nước, quyền lợi của dân chúng… Tuy nhiên, trong mười điều

trên, vua Thiệu Trị cho rằng chỉ có điều và điều “là có thể dùng được”

[73:63]. Để khuyến khích lời nói thẳng, can gián vua khi việc chưa xảy ra, vua

Thiệu Trị đã thưởng cho các quan khoa, đạo mỗi người một tấm lụa.

Page 72: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Đưa ra lời can gián khi vua mới nhậm quyền là hình thức can gián ngay từ đầu

của các quan khoa, đạo với hy vọng đất nước sẽ có một vị hoàng đế anh minh, biết

lắng nghe và hết lòng vì dân, vì nước.

Không chỉ độc lập trong việc can gián lời nói của vua mà thuộc viên của Đô

sát viện còn có trách nhiệm giám sát đối với toàn bộ hoạt động ban hành văn bản

hành chính của triều đình. Năm 1833, Tả phó Đô ngự sử Hà Duy Phiên tâu nói

“Chức vụ của Đô sát viện là giữ việc Khởi cư chú47

và xét hạch công việc các nha,

nếu chưa biết rõ sớ sách, e việc làm chẳng khỏi sai sót” nên ông đề nghị “những

bản thảo chỉ dụ của vua, các bản phiếu nghĩ của các nha và các phó bản về chương

sớ văn án trong Kinh, ngoài tỉnh sau khi được chỉ dụ” [70:485] nên giao cho Đô sát

viện kiểm tra lại nếu không có gì sai sót thì tiến hành đóng ấn. Vua Minh Mạng y

cho lời tâu của Hà Duy Phiên. Đây là một trong những ví dụ cho thấy, ngoài trách

nhiệm thường xuyên theo vua để ghi chép lời nói, việc làm của vua, Đô sát viện còn

có sự độc lập nhất định trong việc đóng ấn và lưu giữ hầu hết các văn bản của triều

đình, kể cả những văn bản không phổ biến hay chưa ban hành. Đặc biệt, Đô sát viện

còn được biết các chỉ dụ của vua đang là bản thảo chưa hoặc không ban hành.

Trong quá trình hoạt động và thực thi chức trách của mình, các ngôn quan

nói chung, Đô sát viện nói riêng đã rất thẳng thắn, không ngần ngại trong việc đàn

hặc, kiến nghị để giúp vua hạn chế những thiếu sót có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến

uy tín của vua, quyền lợi ích của bá quan văn võ, dân chúng cũng như góp phần xây

dựng chế độ, bộ máy ngày càng vững mạnh. Mặt khác, việc làm đó còn góp phần

điều chỉnh các chính sách phù hợp với quyền và lợi ích của nhân dân, làm sao cho

trên dưới thỏa đáng ngay trong phạm vi của thời quân chủ.

Không những được ban quyền trên lý thuyết mà vua và triều đình cũng mong

muốn các ngôn quan phát huy các quyền đó trong thực tiễn. Năm 1834, vua Minh

Mạng cho rằng các “khoa, đạo trước kia còn biết cố gắng khuyên can đôi chút, gần

đây hèn nhát, luôn luôn có án vỡ ra ! Như vậy thì chức ngôn quan của triều đình

47

Là đi theo vua để ghi chép việc làm, lời nói của vua.

Page 73: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

đặt ra chỉ là có danh không thực. Nếu vì sự can ngăn mà phải tội thì cũng chẳng

thẹn với Long Bàng và Tỷ Can48

ngày xưa” [71:199-200].

Một điểm khá tiến bộ của triều Nguyễn so với các chế độ quân chủ khác đó là, dưới

thời trị vì của mình, vua Minh Mạng đã có một quy định, đối với tù nhân trọng tội phải án

xử chém, thắt cổ… mặc dù vua đã có chỉ nhưng Đô sát viện được phép kiểm duyệt lại

làm bản phúc tấu cho hợp sự lệ. Nếu án nào chưa đúng người, đúng tội, thậm chí có

thể giảm nhẹ án, vua sẽ cho xét xử lại [70:363]. Đây là một quy định “có một không

hai” dưới chế độ quân chủ. Bởi, lời nói, quyết định của vua – thiên tử là “bất di bất

dịch” nhưng với quy định này chúng ta thấy vua Minh Mạng đã rất “thận trọng”

trong việc quyết định mạng sống của một con người. Quy định này cho thấy, vua

Minh Mạng đã rất tin tưởng các ngôn quan, ông cũng rất cẩn trọng đề phòng khi

quyết định của mình đưa ra có thể không đúng sẽ ảnh hưởng đến sinh mạng của dân

chúng.

Nhìn chung, hầu hết can gián của các ngôn quan đều được vua tôn trọng và

truyền khen thưởng. Tuy nhiên, cũng có những lời can gián mặc dù không sai, thậm

chí rất có ý nghĩa nhưng nếu vào thời điểm “nhân không hòa”, những lời can gián

đó không những không được vua chấp thuận mà còn có thể bị quở trách hoặc bị

phạt. Năm 1843, Đô ngự sử Đô sát viện Hà Thúc Lương và 12 quan khoa, đạo khác

cùng dâng sớ nói: “Gần đây, tu bổ miếu đền và các công sở, công việc chưa xong,

nay lại dời những nhà cửa ở vườn Thư Quang đi, làm thong thả thì trong một năm

không xong, làm vội thì không khỏi khó nhọc phí tổn. Vậy xin: phàm việc tu bổ các

sở thì cứ để làm, còn công việc ở vườn Cơ Hạ, xin hãy tạm đình chỉ” [73:542]. Vua

Thiệu Trị giận nói: “Nay ngoài biên thuỳ không có việc, binh lực đã thư” [73:542]

nên “chỉ nhân quy mô cũ mà sửa sang lại, chứ không phải nay mới tân tạo. Ta lên

ngôi từ khi còn trẻ tuổi, chưa từng vì lời nói mà bắt tội ai, cho nên họ mới dám thì

thào chê bai ở sau lưng như thế! Huống chi xin lưu biền binh lại để sửa sang nơi

phủ đệ nha thự, sao không nghĩ bè đảng với đám quyền thế, bỏ việc công, làm việc

48

Long Bàng là trung thần của Hạ Kiệt (1826 TCN – 1774 TCN). Tỷ Can là trung thần của Thương Trụ (vị

vua cuối cùng của nhà Thương, Trung Quốc), hai người này đều tận tụy trong việc can ngăn nhà vua

[71:199-200].

Page 74: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

riêng, có đương được cái lỗi nặng ấy không?” [73:542]. Vua bèn truyền chỉ nghiêm

quở tất cả. Đây là một ví dụ cho thấy dưới chế độ quân chủ, vua được coi là thiên

tử, ý vua là ý trời, quyền quyết định của vua là tối thượng đã hạn chế và gây trở

ngại lớn đối với quyền can gián của các ngôn quan, gián quan.

Cùng với trách nhiệm can gián lời nói, việc làm và giám sát việc ban các chiếu

chỉ của vua, các thuộc viên của Đô sát viện và các khoa, đạo còn có quyền độc lập

trong việc đàn hặc tất cả hoàng thân, quốc thích. Vua Minh Mạng đã từng quy định:

“Hoàng thân quốc thích các quan lớn nhỏ ở trong kinh hoặc ngoài trấn, có việc gì

không công bằng, không giữ phép, dối trá, bưng bít, chuyên quyền” [70:361] đều

được tham hặc. Cũng như hoạt động can gián vua, trách nhiệm đàn hặc hoàng thân,

quốc thích của cơ quan giám sát chủ yếu mang tính lý thuyết còn thực tế vẫn ít khi

xảy ra. Dẫu vậy, với những quy định này phần nào triều Nguyễn đã đề cao vai trò

của các ngôn quan, đồng thời góp phần hạn chế sự “cậy quyền”, “cậy thế” của tầng

lớp hoàng thân, quốc thích. Tết Nguyên đán Quý Tỵ (năm 1833), nhân dịp triều

đình tổ chức đi tế các miếu nhưng Hoàng tử Đức Thọ công (Miên Nghi), Hoàng đệ

An Khánh công (Quang) và Từ Sơn công (Mão) bị chậm trễ mà bộ Lễ và Đô sát

viện cho rằng dịp Tết nên không tham hặc kịp thời, vua Minh Mạng ra lệnh cho

phải tâu lại. Sau đó, vua nói rằng: “Từ nay, phàm các hoàng tử, các tước công và

văn võ đại thần, nếu ai có lầm lỗi thì (Bộ và Viện) nên tức khắc chỉ tên mà tham

hặc, không được chậm chạp quanh co nghe ngóng” [70:454].

Quyền can gián vua và hoàng thân quốc thích không chỉ giới hạn và độc lập

đối với các Trưởng quan của Đô sát viện mà các thuộc viên cấp dưới là quan khoa,

đạo cũng sự độc lập nhất định trong hoạt động này. Chẳng hạn năm 1835, Ngự sử

đạo Định Yên là Hà Thúc Trương đã dâng sớ nói: “người xưa dạy con cho theo lễ

nghĩa, chọn người chân chính để ở tả, hữu, trước, sau; nhưng phải tôn trọng chức

trách (của thầy), lòng hậu lễ nghi đối với thầy, khiến con biết đường kính sợ, rồi

sau đức nghiệp mới thành tựu được. Bởi thế nên hoàng tử có lễ phải lạy thầy học.

Thế mà gần đây còn có việc phủ thuộc phi ngựa đè chết người. Đó là bởi cớ chưa

tìm được người dạy bảo thật tốt. Nay nếu dùng người nhân phẩm tầm thường đảm

Page 75: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

nhiệm chức trách dạy bảo thì dẫu hàng ngày đem đánh cũng khó mong được thành

người tài đức” [71:816], [77:91]. Vua Minh Mạng cho là phải.

Đối với những hình phạt của vua nếu không công bằng, không đúng người,

đúng tội, các quan khoa, đạo cũng được quyền hặc tâu mà không cần phải được sự

cho phép của các Trưởng quan để vua và triều đình xét lại. Năm 1852, Tuần phủ

Biên Hoà Ngô Văn Địch có ý dung túng cho kẻ buôn lậu thuốc phiện. Vua Tự Đức

cho Ngô Văn Địch bị phạt bổng nhưng khoa, đạo Vương Sỹ Kiệt cho rằng hình phạt

đó nhẹ, không xứng với tội danh. Vua nói rằng: Khoa, đạo nói phải, bèn ra lệnh

tiêu bỏ Chỉ trước đi, rồi chuẩn cho bộ Hình xét lại. Sau đó, bộ Hình đề nghị phạt

Ngô Văn Địch phải giáng, đổi đi nơi khác [74:244], vua đồng ý.

Các quan khoa, đạo giữ việc can gián nhà vua, họ rất có ý thức đối với bổn

phận của mình, bất chấp lúc vua mới lên ngôi hay khi vua nóng giận. Thấy việc

không hợp tình, hợp lý, các quan tìm cách dâng sớ tâu bày can ngăn, dù biết vua có

thể không bằng lòng, hạ chỉ quở trách hoặc giáng phạt [73:284-285].

Dù vua và đình triều có đề cao vai trò của các ngôn quan đến mức độ nào đi

nữa, vua vẫn là người quyết định và có quyền bác bỏ khi lời can giám đưa ra không

hợp lý, không đúng với ý vua hoặc chạm đến lòng tự trọng của vua, thậm chí lời can

gián của các ngôn quan vào những thời điểm không thích hợp, lời can gián đó có

thể không những không được vua chấp thuận mà còn bị quở trách hoặc xử phạt.

Đây là một trong những khó khăn, trở ngại lớn đối với cơ quan giám sát trong hoạt

động can gián vua và nó cũng cho thấy vai trò của vua – thiên tử là tối thượng,

không một ai hay thế lực, tổ chức nào có thể khống chế được mỗi khi triều đại đó

còn vững mạnh, vị vua đó còn nắm thực quyền. Năm 1839, Ngự sử đạo Bình – Phú

là Nguyễn Thị dâng sớ xin nghiêm cấm uống rượu, đánh bạc, để trừ hại cho dân.

Vua không những không chuẩn y lời tâu đó mà còn bảo rằng: “Việc cấm đánh bạc

trong luật có điều rõ ràng, mà rượu để tế thần, cũng không nên bỏ. Quan địa

phương nếu biết bảo rõ phép cấm, thường dạy bảo luôn, lo gì không đổi thói bạc,

theo lòng trung, nay lại muốn ngăn cấm nghiêm mật, chỉ thêm nhiều việc, vả lại

Page 76: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

khiến cho lại dịch nhân đấy mà doạ nhiễu, lại sinh mối tệ, thì là chưa thấy lợi, mà

thấy hại trước”[72:454].

Việc ban cho Đô sát viện quyền can gián vua và đàn hặc hoàng thân quốc

thích là một trong những điểm tiến bộ của các vị vua đầu triều Nguyễn giai đoạn

1802 – 1885. Hoạt động can gián vua và đàn hặc hoàng thân quốc thích không chỉ

giới hạn đối với ở các Trưởng quan của Đô sát viện mà các thuộc viên cấp dưới

(Cấp sự trung lục khoa và Giám sát ngự sử các đạo) của tổ chức này cũng có quyền

hạn nhất định. Đặc biệt, trong quá trình thực thi trách nhiệm can gián vua, đàn hặc

hoàng thân quốc thích, triều Nguyễn cho phép cơ quan giám sát và thuộc viên của

tổ chức này quyền độc lập và không chịu sự chi phối nội bộ hay từ các tổ chức

khác. Thực tiễn hoạt động, các gián quan của triều Nguyễn đã có những lời đàn hặc,

can gián hiệu quả, góp phần hạn chế những sai sót trong hoạt động triều chính cũng

như ảnh hưởng đến đế quyền và dân chúng. Tuy nhiên, vua vẫn là người có quyền

tối thượng, do đó có những lời can gián mặc dù đúng nhưng vua không đồng ý vẫn

không được thực thi, thậm chí còn bị quở trách hay xử phạt.

2.1.2. Độc lập trong các hoạt động hội triều và nghe chính sự

2.1.2.1. Trách nhiệm của Đô sát viện

Dưới chế độ quân chủ, các ngày hội triều là một hoạt động hết sức quan trọng.

Vào các ngày này, hầu hết các bá quan văn võ của triều đình đều có mặt để cùng với

vua bàn những công việc trọng đại của đất nước cũng như các vấn đề liên quan đến

“quốc thái, dân an”... Không những vậy, chính tính hiệu quả, sự uy nghiêm của

hoạt động này còn cho chúng ta thấy sự hưng thịnh của mỗi triều đại cũng như

quyền lực, uy tín của mỗi vị vua đương nhiệm. Để hoạt động triều chính đáp ứng

được các yêu cầu đó, dưới thời trị vì của mình, 4 vị vua đầu triều Nguyễn đã xây

dựng được một hệ thống các thể chế liên quan đến hội triều như: phân định vai trò.

trách nhiệm, vị trí của mỗi cơ quan; quy định cụ thể về lễ nghi, trang phục, thái độ,

quyền hạn... của đội ngũ quan lại. Để thực thi các thể chế này một cách có hiệu quả,

triều Nguyễn đã phân định cho cơ quan giám sát những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.

Page 77: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Năm 1832, cùng với việc cho thành lập và ban quyền, nhiệm vụ cho cơ quan

giám sát, vua Minh Mạng đã có quy định về trách nhiệm của các Trưởng quan Đô

sát viện và thuộc viên các khoa, đạo như sau:

- Khi rước vua ra ngự điện để nhận lễ chầu mừng, một viên Viện trưởng đứng

ở bên Đông trên điện để hầu về lễ nghi, chỗ bệ sơn son thì dùng hai người khoa,

đạo, chỗ sân rồng thì bốn người chia nhau đứng ngoài ban Đông, Tây, xem xét lễ

nghi.

- Đối với lễ Thường triều ở điện Cần Chánh, trên điện hai người, dưới sân hai

người, cũng đều chia đứng ở hai phía Đông, Tây để xem xét lễ nghi. Đối với các đại

lễ tế tự của triều đình, “Viện trưởng đứng đợi hầu hạ về lễ nghi, chỗ bồi tế và các

người làm lễ” [70:363-364], [52:130-131], còn các quan khoa, đạo chia nhau đứng

để xem xét lễ nghi.

- Đối với các tiết Khánh hạ cung Từ Thọ, bốn người khoa, đạo chia nhau đứng

ở ngoài ban Đông Tây trước sân trong cửa Tiên Thọ để xem xét lễ nghi [70:363-

364], [52:130-131].

- Còn những ngày vua ra ngự ở Điện nghe triều chính, bốn quan khoa, đạo

chia ra đứng ở hai bên tả/hữu trên điện, hai người bên hữu sung vào chức Khởi cư

chú [69:722], 2 người bên tả theo dõi ghi chú các việc do các nha tâu lên.

- Khi vua ngự giá đi chơi thì đi hộ giá, việc ghi chú cũng như thế. Hằng ngày,

đem bản thảo ghi chú trình đường quan nhuận sắc lại, cuối tháng chép rõ ràng làm

thành tập, rồi cùng ký tên đóng dấu của Viện, giao cho Sử quán thu giữ…

Cũng trong năm 1832, vua Minh Mạng đã có dụ rằng “phàm các nha môn ở

lục bộ và Nội các có tâu việc gì thì một người khoa, đạo được phép theo ban thứ dự

thính, nắm từng việc mà ghi chú để phòng khi có cần kiểm điểm tham hặc”

[70:363]. Đối với chương sớ của các địa phương tấu trình về triều đình, sau khi vua

xem xong, Nội các có trách nhiệm làm một phó bản và chuyển giao cho Đô sát viện

xem xét việc gì cần làm thì trích ra làm lấy, còn lại thì kiểm tra, đối chiếu hạn trong

mười ngày phải đem bản phụ đó trả lại để Nội các lưu giữ. Còn các bản thảo chỉ dụ

Page 78: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

của nhà vua ban xuống, đều do Nội các sao lục chuyển giao sang Đô sát viện, các

khoa, đạo phải ghi rõ họ tên, chức vụ vào tờ sao chép đề phòng khi tra cứu đến.

Với các quy định này, hầu hết các hoạt động quan trọng cũng như hệ thống

văn bản đi và đến của triều đình cơ quan giám sát đều có trách nhiệm theo dõi, giám

sát và trách nhiệm đó là hoàn toàn độc lập.

Triều đình cũng đã từng nhắc nhở đối với các ngôn quan khi không thực thi

đúng chức trách của mình trong hoạt động triều chính. Năm 1845, bộ Lại tâu: Gần

đây, đình thần hội bàn, nhiều người bỏ thiếu ! Vua Thiệu Trị nói: Viện ấy49

có trách

nhiệm đàn hặc, mà không từng nói đến một lời ! Sợ mà không nói, là hèn kém;

chiều ý mà không nói, là bè đảng [73:790]. Vua cho từ nay “Nếu có những kẻ không

công bằng, không theo pháp luật, để đến phát sinh các tệ lười biếng, vắng mặt, bỏ

bễ công việc, thì phải hặc tâu ngay” [73:790]. Đây là một trong những ví dụ cho

thấy triều Nguyễn không chỉ xây dựng và ban quyền cho các ngôn quan trên lý

thuyết mà trong thực tế triều đại này cũng mong muốn các ngôn quan, gián quan

phát huy quyền năng của mình.

2.1.2.2. Trách nhiệm của các Cấp sự trung và Giám sát ngự sử

Trước đây, trong các ngày trọng thần của triều đình cùng vua hội triều thì chỉ

có các Trưởng quan của Đô sát viện mới được dự thính, trước sự tình đó, năm 1836,

bộ Lại cho rằng: trong các ngày hội triều, để cho sự thể được nghiêm trang, long

trọng, từ nay khi đình thần hội nghị, ngoại trừ việc cẩn mật, còn các hội đình khác,

Viện trưởng Đô sát viện “tức khắc phái hai viên khoa, đạo đến xét hạch, nếu ai

không cớ gì, mà quá giờ không đến và ai không trọng lẽ công, không theo pháp

luật, đều cho khoa, đạo tham hặc” [71:902], [79:60]. Vua Minh Mạng đã thuận theo

lời nghị. Ngoài ra, đối với những lần vua cho “triệu đình thần vào hầu” nhưng theo

lệ các quan khoa, đạo không được dự thính thì nội dung các lần bàn bạc đó đều

được thuộc viên Nội các ghi chép, ký, sau đó giao cho khoa, đạo “viết thành bản

chép” rồi chuyển cho các Trưởng quan của Đô sát viện “lệ duyệt chữa, như thế, thì

biên chép không việc gì không rõ, đủ, mà việc khảo xét có chuẩn đích” [72:480-

49

Chỉ Đô sát viện.

Page 79: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

481]. Như vậy, các ngôn quan khoa, đạo mặc dù không được trực tiếp tham dự

nhưng họ có quyền biết và có trách nhiệm ghi chép lại để tiện bề theo dõi. Trong

quá trình chép lại nếu phát hiện điều gì trái quy định họ cũng có quyền tâu hặc để

vua và triều đình xem xét. Năm 1833, các quan khoa, đạo kiểm tra, phát hiện thấy

trong tờ phiếu của bộ Hình viết lầm tên Nguyễn Kim Thược thành Nguyễn Kim

Thước nên đã tâu hặc, người viết lầm thì truy ra để phạt 40 roi, đường quan ở bộ

Hình không kiểm tra sẽ bị truyền chỉ nhắc nhở [60:119].

Theo quy định, mỗi khi có hội triều, các quan khoa, đạo chia làm hai ban

tả/hữu đứng hầu. Bên hữu có trách nhiệm ghi chép lời nói của vua, bên tả ghi chép

việc chính sự và lời nghị của bá quan văn võ, mỗi một phiên như thế thường kéo dài

khá lâu và họ phải ghi chép luôn tay từ khi khởi triều cho đến khi bãi triều... Do đặc

điểm của công việc của các quan khoa, đạo khá nặng nề như vậy nên sau này vua

Minh Mạng cho thêm hai viên ở bên tả thay đổi nhau ghi chép để tránh nhầm lẫn.

Một hoạt động mà các quan khoa, đạo cũng có trách nhiệm độc lập nữa đó là

mỗi khi vua ngự xe, thuyền ra ngoài Kinh đô du ngoạn, viên khoa, đạo theo hầu ghi

chép cẩn thận, rõ ràng lời nói, việc làm của vua. Sau đó chuyển cho Trưởng quan

Đô sát viện xem xét, quan trực ban đóng ấn quan phòng ở giữa hai tờ khác nhau.

Viên đương trực thấy có chỗ trong bản ghi chép chưa rõ ràng, đầy đủ phải trích ra

tâu hặc ngay. Tuy nhiên, nếu quan đương trực tự tiện thay đổi ý kiến trong bản ghi

chép nhưng các viên khoa, đạo thấy việc ghi chép của họ đúng thực tế thì họ vẫn

được quyền giữ ý kiến của mình.

Các quan khoa, đạo còn được vua giao cho trọng trách coi xét tư cách, lề lối

làm quan, trang phục… của các quan lại. Nhất là vào những lúc hội triều, nếu các

khoa, đạo thấy quan, lại nào đi đứng, nói năng, mang mặc… không đúng quy định

thì hặc lên để vua nghị xử. Năm 1833, quan khoa, đạo là Lưu Khắc Nhất hặc Phó sứ

ty Từ tế hữu là Hồng Tế vì hành động có lỗi như: mặc áo trắng, mang giày đi lại ở

trước điện, đến chỗ cửu đỉnh xem huy hiệu, bảo lính lấy đồ đồng thờ các vị tòng tự

Page 80: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

múc nước giặt áo, cho gánh nước đem đến trong cửa Sùng Thành tắm gội và chửi

mắng binh đinh trong ty... [75:590]. Vua liền sai phạt tội trảm giam hậu50

.

Các thuộc viên của Đô sát viện còn được triều đình ban cho một “đặc ân” đó

là được phép dự hầu hết các buổi họp bàn ở triều đình trừ những việc cẩn mật. Năm

1832, vua Minh Mạng cũng đã từng bảo Nội các rằng: Theo lệ trước thì quan Kinh

từ tứ, ngũ phẩm, tất phải liệt thành đơn rõ ràng, đợi được khuyên son của vua mới

được theo ban thứ mà tâu việc. Nhưng đối với quan viên các khoa, đạo “là những

chức quan được dự bàn nói can ngăn”, “vốn không câu nệ phẩm trật” nên “đều cho

theo ban vào chầu, chẳng cần làm danh sách nữa”, sau này “đều theo lệ ấy mà làm”

[52:74-75], [70:364]. Theo lệ định, trước thời gian hội triều một ngày, cơ quan triệu

tập phải báo trước cho Đô sát viện. Trưởng quan Đô sát viện sẽ cử ra hai viên khoa,

đạo đến xem xét, giám sát các đại thần, viên nào vắng mặt phải ghi rõ lý do để ban

chủ khảo báo với đình thần dự hội nghị, sau đó ghi sổ lưu. Trong quá trình hội triều,

các viên khoa, đạo được quyền đàn hặc những việc làm sai trái của bá quan văn, võ

cũng như nghiêm phong hóa kỷ cương trong hoạt động triều chính.

Đến năm 1834, vua Minh Mạng tiếp tục chỉ dụ cho các quan khoa, đạo được

vào hầu vua trong Cấm các và dụ Nội các rằng “... các quan Ngự sử có phận sự là

ghi chép lời nói và việc làm của ta, các quan khác không thể ví với được” [71:457].

Do vậy, chuẩn cho “từ nay, phàm những khi có việc cơ mật, đặc cách chỉ tên cho

gọi đình thần nào vào để dụ bảo tận mặt thì các quan khoa, đạo vẫn không được

vào dự” [71:457], nhưng khi chỉ có việc thường “viên khoa, đạo nào gặp ngày sung

vào Khởi cư chú cho phép được theo ban thứ các quan mà vào chầu” [71:457].

Các thuộc viên của Đô sát viện còn có trách nhiệm theo dõi, ghi chép khi vua

dự các lễ lớn của triều đình hoặc xe kiệu ra ngoài cung. Năm Thiệu Trị thứ 7

(1847), định lại điều cấm trên đường xe kiệu vua đi. Vua nhân dụ cho Nội các rằng

“Từ nay hễ đường loan giá đi đâu... Đài ngự sử51

, khoa, đạo có trách nhiệm chép

từng việc, biên từng lời, không được tự tiện vắng mặt ở trong ban. Nếu trong khi đi

50

Bị xử tội chém nhưng được giam lại để đợi vua quyết định. 51

Đô sát viện.

Page 81: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

tuỳ giá, thấy có chỗ nào không hợp thì chỉ ra từng việc mà tham hặc ngay, không

được trông ngóng, thiên vị, che chở” [73:1049]. Quy định này cho thấy triều

Nguyễn không chỉ mong muốn cơ quan giám sát phát huy vai trò của mình trong

các hoạt động triều chính ở trong cung mà đối với cả những hoạt động của vua ở

ngoài cung, từ đó khẳng định cho dân chúng thấy được sự uy nghiêm của triều đình

và quyền lực của vua.

Trách nhiệm ghi chép lời nói, việc làm của vua và quan lại của các thuộc viên

khoa, đạo là quan trọng. Bởi, nếu lời nói, việc làm của vua có khi là những quyết

định hệ trọng ảnh hưởng đến đất nước, dân chúng; có những lời nói là mệnh lệnh

nhưng không thực hiện trực tiếp; đối với lời nói, việc làm của quan lại là phép tắc

và quy chế của triều đình... do đó cơ quan giám sát cần phải theo dõi để ghi chép lại

sau đó phân định cho cơ quan theo chức năng để thực hiện. Tuy nhiên, để đảm bảo

khách quan và chân thực trong quá trình ghi chép, triều đình còn quy định khi ghi

chép, các ngôn quan, gián quan khoa, đạo phải chịu trách nhiệm đối với bản ghi

chép của mình, đồng thời khi ghi chép đòi hỏi các quan khoa, đạo phải có thái độ

nghiêm túc.

2.1.3. Độc lập trong giám sát hoạt động của các bộ, nha

2.1.3.1. Đối với hoạt động của các bộ

Sau khi cho thành lập lục khoa, vua Minh Mạng đã quy định khoa nào thì

giám sát, kiểm soát hoạt động của bộ đó: Lại khoa (Cấp sự trung) kiểm soát bộ Lại;

Hộ khoa kiểm soát bộ Hộ; Lễ khoa kiểm soát bộ Lễ; Binh khoa kiểm soát bộ Binh;

Hình khoa kiểm soát bộ Hình; Công khoa kiểm soát bộ Công [70:362].

So với thuộc viên của các khoa khác, Cấp sự trung Lại khoa là người có quyền

rất lớn và trách nhiệm nặng nề nhất. Bởi, chính việc phải giám sát hoạt động của bộ

Lại - cơ quan đảm trách nhiệm vụ tuyển bổ, thăng giáng, bãi miễn toàn bộ hệ thống

quan lại từ trung ương đến địa phương. Do đó, Lại khoa đã phải thực hiện việc giám

sát hoạt động của toàn bộ quan lại của triều đình thông qua bộ Lại. Nếu trong quá

trình thực thi trọng trách, Lại khoa phát hiện hoạt động của bộ Lại có những nghi

Page 82: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

vấn họ đều được quyền tham hặc. Năm 1834, Cấp sự trung Lại khoa Bùi Văn Bằng

đã tâu hặc về việc Thượng thư bộ Lễ là Phan Huy Thực đã bảo cử Nguyễn Thu và

Ngô Ngũ là người thân vào làm ty thuộc ở Bộ. Vua Minh Mạng đã phạt Phan Huy

Thực giáng một cấp. Còn Nguyễn Thu và Ngô Ngũ thì giao cho bộ Lại cải bổ chức

khác [71:361-362].

Nhận thấy vai trò và chức năng lục khoa và Giám sát ngự sử, đặc biệt là Lại

khoa, nên vua Minh Mạng đã từng cho rằng: Ngự sử có quan hệ đến phép tắc, trên

thì giúp chính sự cho nước, dưới thì xét phương pháp làm quan, kẻ được giữ chọn

làm chức ấy tất phải có người thanh bạch mới có thể vạch cái sai của người, nếu bên

ngoài có danh và thanh tra mà bên trong lại làm cái thuật ăn của đút lót, tự mình đã

bất chính thì sao chỉnh được người. Hơn nữa, bản thân bộ Lại là “rường cột”, là cơ

quan đầu não của triều đình. Vì vậy, công việc giám sát sáu Bộ của lục khoa là công

việc cần thiết, quan trọng, đồng thời cũng là trọng trách hết sức nặng nề đối với các

viên Cấp sự trung lục khoa, đó là những viên quan có tiếng là thanh liêm và thẳng

thắn. Năm 1840, Lại khoa Chưởng ấn Trần Văn Triện nhân Kinh phái thành Trấn

Tây về dâng sớ nói: nguyên nhân bọn thổ phỉ ở Trấn Tây gây biến là vì quan ở đây

làm trái quy định52

. Vua Minh Mạng liền giao điều tra, nghiêm trị. Sau khi điều tra

sự tình đúng như Trần Văn Triện nói, Vũ Hành, Lê Bá Hùng bị giáng phát đi Trấn

Tây làm binh [72:851]. Bên cạnh việc đàn hặc những lỗi lầm sai trái của quan lại,

Cấp sự trung và Chưởng ấn Lại khoa còn giúp vua và triều đình giám sát việc gia

ân, phong tặng phẩm cấp cho các quan lại và cha mẹ cũng như người thân của các

viên quan này.

Song song với cơ chế hoạt động độc lập, một điểm khá đặc biệt nữa đó là triều

Nguyễn đã rất linh động trong việc vận dụng cơ chế thanh tra, giám sát chéo giữa

cơ quan, thuộc viên giám sát. Quy định của triều đình phân định trách nhiệm giám

sát các bộ và nha tương ứng nhưng trong thực tế các chức quan này không chỉ đơn

thuần thanh tra, giám sát theo quy định mà thuộc viên của khoa này có thể giám sát

52

Đó là: các viên Thượng ty vỗ về trị dân trái phương pháp cùng những lưu quan như Tri phủ Hải Tây là Vũ

Hành, đòi lấy bạc hối lộ của thổ mục, lại hiếp bắt con gái dân mới quy phụ sung làm gia nô, Tri huyện Trung

Hà là Lê Bá Hùng cướp lấy thuỷ lợi để bán, đặt riêng đồn sở, đòi hỏi thuyền buôn phải đưa lễ vật. Và dân

Kinh lính Kinh, cũng cậy thế lấn áp người Thổ [72:851].

Page 83: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

hoạt động của bộ, nha khác. Ngay cả những hoạt động mang tính đặc thù, như việc

binh – quân sự là trách nhiệm của Binh khoa nhưng nếu thấy những hạn chế, các

khoa khác cũng được quyền tâu hặc. Năm 1840, Chưởng ấn Cấp sự trung Lại khoa

Trần Văn Triện khi được giao đi sai phái từ tỉnh Hà Tiên đến Trấn Tây dâng sớ nói:

khi giặc ở Thượng Phong, lan tràn qua phủ Tĩnh Biên, nguyên Phủ uý là Chân Triết

đã tình nguyện tự đem thổ binh tiến đánh. Trước khi đi ông đã đem người thân gửi

cho Lãnh binh An Giang là Nguyễn Đức Huấn và Tri phủ Nguyễn Khắc Biểu nhờ

trông nom cho, để được yên tâm đánh giặc. Nhưng khi nghe tin Chân Triết lui quân,

Nguyễn Đức Huấn và Nguyễn Khắc Biểu vội vàng sợ hãi bỏ chạy, bỏ mặc thân

quyến của Chân Triết. Vua Minh Mạng đã cho bắt Nguyễn Đức Huấn xiềng xích

lại, cách chức Nguyễn Khắc Biểu đem nghị xử. Khi án xét xong, Nguyễn Khắc Biểu

đã chết, đành cho truy thu bằng sắc; còn Nguyễn Đức Huấn xử trảm giam hậu

[70:832].

Cùng với trách nhiệm giám sát theo sự phân định trên đây, lục khoa còn được

triều đình cho phép độc lập trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của một số địa

phương – cấp mà trách nhiệm giám sát thuộc về Giám sát ngự sử các đạo. Năm

1840, Chưởng ấn Lại khoa Trần Văn Triện – người chủ yếu phụ trách việc giám sát

hoạt động của quan lại và nội chính nhưng đã được triều đình kinh phái đi dò xét

tình hình thổ phỉ ở Trấn Tây gây biến [72:851]... Hoặc trong một số trường hợp,

triều đình sai phái thuộc viên các khoa đi dò xét tình hình ở các địa phương nhưng

lĩnh vực dò xét không thuộc chức năng của Cấp sự trung các khoa. Đó là năm Minh

Mạng thứ 21 (1840), trước tình hình quan tỉnh Thanh Hoa tâu báo về dịch bệnh ở

tỉnh này làm chết hơn 2.000 người nên khó khăn cho việc tuyển lính, triều đình đã

phái Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ khoa Phan Tĩnh mật đi dò xét. Phan Tĩnh đi về

bẩm báo “hạt ấy khí dịch lệ đã lui đến 8, 9, 10 phần, chỉ vì tỉnh thần quên mất việc

duyệt tuyển, cho nên nói thác ra mà xin hoãn để che lỗi” [72:734]. Vua đã cách

chức Thự đốc Trần Hữu Thăng và Bố chính Nguyễn Nhược Sơn, giao cho bộ Lại

nghiêm bàn tội. Trong lúc đó, Phan Tĩnh là Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ khoa thì

trách nhiệm chính ông giám sát các hoạt động của bộ Hộ như xây dựng và các khoa

Page 84: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

chứa quân khí, gỗ... của triều đình nhưng lại được phái đi dò xét bệnh dịch và tuyển

lính.

Trọng trách triều đình giao cho các khoa là hết sức nặng nề, chủ yếu giám sát

hoạt động của quan lại cấp trung ương. Thực tiễn hoạt động, Cấp sự trung lục khoa

cũng đã cố gắng hoàn thành “sứ mệnh” triều đình tin tưởng giao phó. Tuy nhiên,

không phải ngôn quan các khoa đều được vinh danh mà có một số thuộc viên vì

những lý do chủ quan hay khách quan mà đã phạm phải thiếu sót, sai lầm, gây mất

lòng tin đối với vua và triều đình. Ví như năm 1846, Hộ khoa đã bị vua Minh Mạng

truyền chỉ quở phạt vì không hặc bộ Hộ chậm trễ trong việc kiểm tra sổ chi tiêu của

quan tỉnh Bắc Ninh [73:870].

2.1.3.2. Đối với hoạt động của các nha

Dưới triều Nguyễn, ngoài tổ chức bộ máy 6 bộ để phụ trách các hoạt động

theo từng lĩnh vực chuyên môn, triều đình còn cho lập các nha, gồm các phủ, tự,

viện, giám, ty, cục... Đây là những cơ quan chuyên trách các hoạt động thuộc về

hành pháp, tư pháp, giám sát ở triều đình gọi là Chư nha, hoạt động trên nhiều lĩnh

vực khác nhau, trong đó có nhiều cơ quan liên quan đến những lĩnh vực quan trọng

của triều đình, đất nước. Do đó, việc thanh tra và giám sát hoạt động của các nha là

không thể thiếu. Triều Nguyễn đã từng quy định: trong các nha nếu thấy có tình tệ

gác bỏ công việc cùng quá trình xét gấp, không làm xong ngay, điều tức thì giữ

phép tâu hạch trừng trị, nhược bằng đã từng dạy bảo, mà còn có tình diện kiêng nể,

không những quan đại thần đương trực Nội các, khoa, đạo giao bộ nghị xử. Còn

những viên khoa, đạo chuyên giữ việc kiểm soát các nha ấy cũng gồm giao nghiêm

nghị, có như thế mới xét chéo lẫn nhau mà có sự giữ gìn, mọi việc không đến nỗi

tích lại thành đống [52:169-170].

Song song với việc giám sát hoạt động của các Bộ tương ứng, triều Nguyễn

còn quy định lục khoa phải giám sát hoạt động của các nha. Cụ thể: Lại khoa (Cấp

sự trung) kiểm soát Hàn lâm viện; Hộ khoa kiểm soát Nội vụ phủ, Đốc công, Tào

chính, Thương trường và Nội tạng; Lễ khoa kiểm soát Thái thường tự, Quang lộc

tự, Hồng lô tự, Quốc tử giám và Khâm thiên giám; Binh khoa kiểm soát Thái bộc

Page 85: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

tự, Kinh thành đề đốc và hai kho súng ống, thuốc đạn; Hình khoa kiểm soát Đại lý

tự; Công khoa kiểm soát Võ khố và Mộc thương [70:362]. Với phân định này, triều

Nguyễn đã chuyên môn hóa trong việc giao trách nhiệm cho Cấp sự trung các khoa.

Đó là ngoài việc kiểm soát bộ cùng chuyên môn, Cấp sự trung mỗi khoa còn phải

giám sát hoạt động của một số cơ quan có chuyên môn tương ứng. Chẳng hạn, Công

khoa ngoài kiểm soát bộ Công (phụ trách về kiến thiết, xây dựng... ) còn phải kiểm

soát Võ khố (kho chứa quân khí) và Mộc Thương (kho chứa gỗ); Hình khoa giám

sát hoạt động hành pháp, hình án và Đại lý tự... [6:115,124]. Sự chuyên môn hóa

này đã góp phần thuận lợi cho các khoa trong việc thực thi trách nhiệm triều đình

giao phó, đồng thời giảm bớt đội ngũ quan lại.

Trong tất cả các nha, Nội vụ phủ và Võ khố là nơi tập trung tiền của còn Đốc

công phủ Nội vụ, Đốc công sở Nội tạo Võ khố là những nơi chế tạo đồ dùng, để hạn

chế thất thoát tài sản, tiền của, đồ dùng cũng như đốc thúc công việc, triều Nguyễn

giao cho Đô sát viện thường xuyên kiểm soát hoạt động của những kho, xưởng này.

Năm 1835, ở Võ khố có người tự tiện bắt thợ đổi cân của kho hòng gian lận trong

việc cân đo liền bị Cấp sự trung Vũ Quyền tâu hặc. Vua giao xuống cho bộ Hình trị

tội [71:672].

Đối với các kho ở Kinh đô, Đô sát viện chọn lấy một viên Cấp sự trung hoặc

Giám sát ngự sử công minh, cần mẫn cấp cho bài ngà khoa, đạo đến các kho kiểm

soát, tra xét theo định kỳ mỗi tháng thay người khác một lần. Nếu trong một tháng

viên nào có việc xin nghỉ, Viện sẽ phái người khác thay vào. Đối với hoạt động

xuất, nhập gạo, lương thực ở các kho, cơ quan giám sát cử thuộc viên đến kiểm soát

chặt chẽ và ghi chép đầy đủ các hoạt động ở đây như việc xét đơn, mở kho, xuất,

nhập, đóng triện, niêm phong kho, giao biền binh canh giữ… Năm 1838, các Giám

sát ngự sử phát hiện Đỗ Văn Nội và Đặng Văn Hòa đã tư túi trong khi lường lúa

nộp vào kho nên đã tâu báo, vua Minh Mạng phạt mỗi người 100 trượng và phái đi

làm lính [118:49,51].

Đối với các buổi tế tự, vua cho phép quan viên của Đô sát viện đến túc trực

kiểm tra với tư cách là giám sát viên: “phàm bày đặt nghi vệ triều đình và kính gặp

Page 86: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

các lễ hưởng tự lớn, Viện trưởng sung làm chức thủ nghi, các khoa, đạo ở ban

ngoài chia làm tả, hữu đứng xét nghi tiếp, thấy ai có nhầm lỗi và không có cớ gì mà

bỏ thiếu thì trích ra tâu hạch” [111:191]. Năm 1837, vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ

lệnh cho Đô sát viện “từ nay phàm gặp các ngày giỗ các thánh đế, hậu, đều phải

phái quan khoa, đạo đến xem xét lễ nghi như lệ 5 lễ thưởng” [72:49]. Tiếp đến, năm

1845, vua Thiệu Trị đã ban ra chỉ dụ quy định tại các buổi tế tự, phàm là đình thần

nếu: “không công bằng, không theo pháp luật, để đến phát sinh các tệ lười biếng,

vắng mặt, bỏ bê công việc” thì quan khoa, đạo phải hặc tâu ngay [73:790]. Các quy

định này đã góp phần cho các hoạt động tế tự của triều Nguyễn ngày càng nghiêm

trang.

Việc cho đặt ra các khoa giám sát các bộ tương ứng và giám sát các nha theo

từng lĩnh vực chuyên môn cho thấy triều Nguyễn đã chuyên môn hóa trong giám sát

thanh tra, giám sát cấp nha, bộ. Triều Nguyễn còn khá linh động khi cho phép các

khoa được quyền độc lập giám sát chéo. Đó là khoa này có thể độc lập trong giám

sát hoạt động của bộ hay nha khác không theo phân định, thậm chí các khoa có thể

giám sát nhau. Cơ chế thanh tra, giám sát chéo đã góp phần hạn chế tình trạng “kín

cổng cao tường” trong hoạt động giám sát các nha, các bộ và sự độc quyền trong

hoạt động giám sát các bộ của các khoa. Trong trường hợp nếu khoa nào chỉ được

giám sát bộ đó và một số nha nhất định mà không được giám sát bộ, nha khác sẽ

xảy ra tình trạng độc quyền trong hoạt động giám sát và là cơ hội cho ngôn quan

cấp khoa “bắt tay” với bộ của mình che dấu những sai phạm, lỗi lầm. Tuy nhiên,

phẩm hàm của Cấp sự trung các khoa chỉ Chánh ngũ phẩm, thấp hơn nhiều so với

Thượng thư (người đứng đầu các bộ) mang hàm Chánh nhị phẩm cũng là một hạn

chế. Bởi, cho dù Cấp sự trung các khoa được quyền giám sát toàn bộ hoạt động của

các bộ tương ứng nhưng khi phẩm hàm thấp hơn sẽ có những cản trở nhất định.

2.1.4. Độc lập trong giám sát hoạt động của hệ thống quan lại và các đạo

2.1.4.1. Đối với hoạt động của hệ thống quan lại

Tháng 9/1832, cùng với việc thành lập Đô sát viện, vua Minh Mạng đã định rõ

chức vụ của các thuộc viên cơ quan giám sát là: “các quan lớn nhỏ ở trong kinh

Page 87: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

hoặc ngoài trấn, có việc gì không công bằng, không giữ phép, dối trá, bưng bít,

chuyên quyền. Các quan chức trong Kinh và ngoài trấn có thực trạng là tham hay

liêm, tốt hay xấu, các đại thần đề cử và bổ dụng người và chương sớ các nha môn

trong ngoài, dâng lên hễ thấy không phải làm vì công tâm: đều được hặc tâu”

[70:361]... Đến năm Minh Mạng thứ 14 (1833), sau khi soạn xong Hội điển toát

yếu, vua chỉ rõ:

- “Tả, Hữu Đô ngự sử coi việc tu chỉnh thường quy của quan lại để làm cho

phong cách của gián đài được nghiêm trang” [70:917];

- Cấp sự trung của lục khoa “giữ việc soi xét sự gian tham, thối nát, sát hạch

sự chậm trễ, sai trái” của quan lại [70:917];

- Giám sát ngự sử của mười sáu đạo “giữ việc sát hạch phép làm quan, điều

trần đạo trị nước, cũng thuộc vào Đô sát viện” [70:917].

Quy định này cho thấy, triều Nguyễn đã có sự phân định rõ ràng trách nhiệm

của Đô sát viện, Cấp sự trung các khoa và Giám sát ngự sử các đạo trong việc giám

sát hệ thống quan lại.

Năm 1834, vua Minh Mạng bảo thị thần rằng: “Ngôn quan là tai mắt của triều

đình. Từ hoàng thân, quốc thích cho đến trăm quan, nếu ai không giữ công bằng,

pháp luật, ngôn quan đều được hặc tâu. Ta cho rằng vua có bề tôi nói thẳng, cũng

như cha có người con biết can, tưởng nên nói hết mọi điều, không giấu giếm để khỏi

phụ trách nhiệm đã ủy thác. Nếu vì sự can ngăn mà phải tội thì cũng chẳng thẹn với

Long Bàng và Tỷ Can ngày xưa” [71:199-200]. Như vậy, các thuộc quan của Đô sát

viện có quyền giám sát rất lớn, không trừ một ai: trên từ hoàng thân, quốc thích,

hoàng tử, dưới đến bá quan văn võ trong triều và ở các địa phương. Tất cả những

việc có liên quan đến sự an nguy của triều đình, lợi hại đến nhân dân, hay, dở của

quan lại… đều có quyền vạch rõ để triều đình nghị xử. Đồng thời, quyền giám sát

cũng được phân cấp rất rõ ràng và độc lập với nhau giữa triều đình trung ương và

địa phương. Đối với quan lại ở triều đình trung ương, việc giám sát, đàn hặc chủ

yếu là do các Đô ngự sử và Cấp sự trung lục khoa đảm nhiệm, còn quan lại ở các

Page 88: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

địa phương thuộc quyền giám sát và kiểm tra của Giám sát ngự sử các đạo. Tuy

nhiên, các Trưởng quan của Đô sát viện và ngôn quan của lục khoa cũng có thể tâu

hặc quan, lại địa phương, ngược lại Giám sát ngự sử các đạo cũng được quyền tâu

hặc quan, lại các nha, bộ. Năm 1833, Tả phó Đô ngự sử Phan Bá Đạt tâu việc Thự

án sát tỉnh Thái Nguyên là Nguyễn Du (trước đây là Ngự sử) lợi dụng việc đi phát

chẩn ở Hưng Yên đã mua con gái dân đói làm vợ lẽ. Vua liền cho cách chức

Nguyễn Du và áp giải về Kinh, giao Hình bộ nghị xử [70:749].

Với chức năng giám sát, các viên khoa, đạo có quyền và được phép dâng, đàn

hặc quan lại không kể người đó là ai giữ chức vụ gì. Tuy nhiên, việc tâu hặc quan

lại phải: “vạch rõ sự thực, không được nghe hơi bắt bóng” hay: “vì hiềm riêng mà

càn bậy bới chuyện” và những “việc nhỏ nhặt có hại đến trị thể, không được vào

kêu nhảm nhí” [70:362]. Nếu các ngôn quan, gián quan tâu hặc sai sự thật sẽ bị triều

đình nghiêm xử theo đúng quy định. Chẳng hạn, Minh Mạng năm thứ 21 (1840),

vua ngự điện Võ Hiển, Tổng đốc Hà - Ninh Phạm Hữu Tâm và Tổng đốc Định -

Biên Nguyễn Văn Trọng vào chầu xong rồi lui ra chỗ khác nghỉ ngơi. Thự Chưởng

ấn Công khoa Đặng Quốc Lang thấy vậy hặc tâu “hai người ấy đi ra hiên tây điện

Cần Chánh ngồi rỗi nói cười” [72:713]. Vua liền phạt Đặng Quốc Lang, Phạm Hữu

Tâm và Nguyễn Văn Trọng mỗi người lương 3 tháng.

Công việc chính của các gián quan Đô sát viện là giám sát, điều tra, vạch rõ

tội lỗi của quan lại, như: vi phạm luật lệ, quy tắc của triều đình; tham nhũng, lộng

quyền, ức hiếp nhân dân… nhằm giúp cho triều đình thấy để có biện pháp ngăn

chặn kịp thời, loại bỏ quan lại “sâu mọt” hại dân, hại nước góp phần làm trong sạch

đội ngũ quan lại trong bộ máy hành chính nhà nước [37:40].

Quyền hặc tâu của các ngôn quan dưới triều Nguyễn là không có “vùng cấm”,

kể cả đối tượng đó là công thần lớn của triều đình. Năm 1849, Phó Đô ngự sử Đô

sát viện là Bùi Quỹ cho rằng Trương Đăng Quế (Kinh diên giảng quan ở điện Tập

hiền) và Nguyễn Đăng Giai (Thự Hiệp biện Đại học sĩ, Thượng thư bộ Hình kiêm

Tổng tài Quốc sử quán) “chuyên quyền tự tiện làm càn”, “cử Tổng đốc có những

tình trạng kêu nhàm trước ấy”. Vua Tự Đức khen Quỹ “không nể người quyền quý”

Page 89: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

[74:148], đồng thời giáng Trương Đăng Quế xuống 2 cấp, Nguyễn Đăng Giai xuống

3 cấp và cho cả hai lưu lại làm việc. Họ cũng có quyền tâu hặc cả những “đồng

môn”/quan giám sát là cấp trên của mình, như năm 1850 các Chưởng ấn Nguyễn

Thước, Nguyễn Đăng Sĩ, Nguyễn Duy Tự và Nguyễn Duy Cần đã tham hặc các

Chưởng ấn Trần Gia, Phan Hữu Từ cùng các Ngự sử Nguyễn Vũ, Nguyễn Văn Tố,

Nguyễn Cư bỏ bê công việc chơi cờ bạc, trong khi đó Viện trưởng là Bùi Quỹ thì

“thiên tư che đậy”. Vua chuẩn cho đều giao nghị tội nghiêm ngặt. Nhưng sau đó,

các Ngự sử Lê Văn Dự, Dương Công Bảng, Phan Tam Tinh (trước là Nhật Tỉnh)

lại tâu rằng: Nguyễn Thước cũng ở trong cuộc đánh bạc lại hộ vệ mình công kích

người. Vua bảo rằng: Bách đài là chỗ phong hoá kỷ cương quan hệ ở đấy, chỉ trích

nhau rối bời như thế [74:164] nên chuẩn cho cách chức Cư và Thước, giáng chức

đổi đi Quỹ, Gia, Hữu Từ, Văn Tố, còn Đăng Sĩ, Duy Tự, Văn Dự, Công Bảng thì

phạt bổng theo thứ bậc khác nhau.

Quyền và trách nhiệm giám sát hệ thống quan lại trong cả nước của cơ quan

giám sát không chỉ được thể hiện trên lý thuyết mà thực tiễn hoạt động vua, triều

đình đã tạo điều kiện cho các ngôn quan, gián quan phát huy vai trò, chức trách của

mình. Kết quả là hầu hết các ngôn quan, gián quan đã xứng đáng với biểu tượng con

giải trãi trên mũ mà các vua triều Nguyễn đã tin tưởng gắn cho để húc những kẻ

gian tà...

2.1.4.2. Đối với hoạt động của các đạo

Dưới thời vua Gia Long và những năm đầu triều Minh Mạng, ở hai đầu Nam –

Bắc, triều Nguyễn đặt Bắc thành và Gia Định thành53

, triều đình cũng giao phó

quyền hành cho hai quan Tổng trấn tại 2 thành được phép thay mặt Hoàng đế định

đoạt mọi việc. Đứng đầu Bắc thành và Gia Định thành là các viên Tổng trấn có

quyền hành rất lớn tựa như một “tiểu triều đình” bên cạnh triều đình trung ương.

Tuy nhiên, sau một thời gian vận hành, thực quyền của 2 Tổng trấn là quá lớn, thậm

chí có nguy cơ đe dọa sự an nguy của Hoàng đế và triều đình. Thực trạng đó đã hạn

53

Bắc thành trực tiếp quản lý 11 trấn, phía Nam: Gia Định thành quản lý 5 trấn và kinh đô trực tiếp quản lý 4

doanh và 7 trấn Miền Trung. Năm 1802, đặt chức Tổng trấn Bắc Thành [68:529]; còn Tổng trấn Gia Định

Thành đến năm 1808 mới đặt [68:740].

Page 90: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

chế rất lớn đến hoạt động giám sát của trung ương đối với quan lại các địa phương

khi cơ quan Đô sát viện vẫn chưa được thành lập, do đó “chính sách quân quản”

vẫn là phương thức chính của việc trị nước trong gần 3 thập niên đầu của triều

Nguyễn. Nhận thấy mối nguy đó, năm 1831 – 1832 vua Minh Mạng đã bãi bỏ cơ

cấu hành chính “tản quyền” và chức Tổng trấn, chia cả nước thành 30 tỉnh và 1 phủ

Thừa Thiên trực thuộc chính quyền trung ương – triều đình [46:190].

Cùng với việc chia đặt các tỉnh, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, năm

1832 vua Minh Mạng đã cho thành lập cơ quan giám sát. Trong đó, các đạo (do

Giám sát ngự sử đứng đầu) có nhiệm vụ giúp triều đình giám sát hoạt động của các

địa phương, nơi mà triều đình không trực tiếp quản lý. Trách nhiệm của Giám sát

ngự sử các đạo cũng được vua Minh Mạng phân định cụ thể.

Giám sát ngự sử mười sáu đạo thường đóng tại liên tỉnh để giám sát mọi hoạt

động của cơ quan hành chính các tỉnh của đạo đó, chịu trách nhiệm trước vua về tất

cả các hoạt động của bộ máy hành chính cũng như có thể thay mặt nhà vua để đàn

hặc, bắt lỗi từ viên quan đứng đầu của tỉnh là Tổng đốc trở xuống và thường xuyên

nắm tình hình của các tỉnh nếu có gì bất thường thì tâu kiến. Thường là hai tỉnh (trừ

trường hợp ba tỉnh là Sơn – Hưng – Tuyên hay 1 tỉnh như tỉnh Thanh Hóa) đặt dưới

quyền của một viên Tổng đốc. Tổng đốc vừa là viên quan cao nhất tại địa phương,

lại vừa có tư cách như một thành viên của chính quyền trung ương được đặc phái về

cai trị tại địa phương. Đối với một số liên tỉnh không đặt Tổng đốc thì quyền đứng

đầu liên tỉnh về Tuần phủ hoặc Bố chính.

Trên cơ sở chức trách đã được phân định, Giám sát ngự sử các đạo đã không

phụ lòng tin tưởng của vua và triều đình. Thực tế hoạt động, các Giám sát ngự sử đã

thể hiện được chức trách của mình, đồng thời có những đóng góp đáng trân trọng.

Nhất là các Giám sát ngự sử đã thay mặt triều đình giải quyết kịp thời những công

việc đột xuất tại địa phương mà quan quân sở tại không giải quyết được hay kiến

nghị với triều đình trừng trị những quan lại chỉ lo tư lợi, ức hiếp dân chúng… Có

thể đơn cử ví dụ như: năm 1835, dân một số nơi của huyện Triệu Phong (tỉnh

Quảng Trị) bị đói, số người chết nhiều, số thì tha phương cầu thực nhưng Tri phủ ở

Page 91: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

đây không báo lên tỉnh, còn quan tỉnh thì bác đơn của dân. Vua Minh Mạng đã cho

Ngự sử đạo Long – Tường là Vũ Danh Thạc đi thăm dò tình hình, khi về sự tình

đúng như vậy, ông xin trừng trị quan tỉnh ở đây, vua Minh Mạng phạt Hà Học Hải

(Tri phủ phủ Triệu Phong) phải phát phối làm lính phủ Cam Lộ, còn Tuần phủ

Quảng Trị Trần Danh Bưu bị bắt giam chờ xét xử [71:731]...

Quy định là vậy nhưng qua nghiên cứu về thực tiễn hoạt động chúng ta sẽ thấy

một điểm đặc biệt của triều Nguyễn nữa, đó là 4 vị vua đầu triều Nguyễn đã rất linh

hoạt trong việc vận hành thực thi nhiệm vụ của Giám sát ngự sử các đạo. Cụ thể,

Giám sát ngự sử các đạo ngoài giám sát đạo theo triều đình phân định còn được

quyền đàn hặc và trách nhiệm trong việc giám sát hoạt động của các Bộ, Nha hay

địa phương, đạo khác. Năm 1832, khi cho thành lập Đô sát viện, vua Minh Mạng đã

giao trách nhiệm cho Giám sát ngự sử các đạo là “phải kiểm xét địa phương đạo

mình, nếu quan lại có vạch ra những tệ tham ô, chậm trễ, trái phép, thì tuỳ việc mà

tham hặc” [71:592]. Không những vậy, mà “Phàm quan viên văn võ ở Kinh thấy ai

không công bằng, không giữ pháp đều được phép hặc tâu. Khoa và đạo cũng hặc

tâu lẫn nhau” [71:592]. Ngự sử Đặng Kim Giám đã từng tâu hặc Phó vệ úy Tả vệ

Quảng Trị là Nguyễn Xuân Cát nhân được phái đi dò thám tình hình giặc ở huyện

Để Định (Tuyên Quang) đã “lẻn đến xã Phú An, dọa nạt lấy bạc lạng và ngựa của

dân” [71:592]. Vua Minh Mạng đã cho phạt trảm giam hậu.

Mọi hoạt động của cơ quan hành chính cấp tỉnh cũng như tình hình của quan

lại và nhân dân ở các địa phương và ở Kinh đô đều chịu sự giám sát của các viên

Giám sát ngự sử. Những viên quan này có quyền độc lập rất cao. Như tại trường thi,

nếu các quan khoa, đạo phát hiện quan lại từ Chánh Chủ khảo trở xuống có điều gì

khuất tất, “không hợp lệ đều làm sớ trình về với triều đình” [18:88] mà không cần

hội ý với nhau. Các Giám sát ngự sử không chỉ có quyền kiến nghị với vua và triều

đình tình hình trong đạo của mình mà nếu thấy ở các đạo khác có những vấn đề gì

trái với lẽ thường, ảnh hưởng đến dân chúng thì có thể được quyền tâu lên.

Mặc dù, mười sáu viên Giám sát ngự sử là thuộc viên và là cấp dưới của Đô

sát viện nhưng triều đình cho phép trong những trường hợp đặc biệt, tấu sớ của các

Page 92: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

quan khoa, đạo dâng lên không phải lệ thuộc và thông qua Viện trưởng, “Khi có

điều trần hoặc kiến nghị về những việc có quan hệ đến chính trị thì được niêm

phong kín đệ thẳng lên” [70:362] mà không phải trình báo, xin ý kiến của các

Trưởng quan Đô sát viện.

Theo quy định, Cấp sự trung giám sát hoạt động của các bộ tương ứng và là

quan cấp trung ương, Giám sát Ngự sử giám sát hoạt động của các địa phương và là

quan cấp địa phương. Thế nhưng, hai chức quan này đều có cùng phẩm hàm bằng

nhau, cho nên dù là quan trung ương và quan địa phương nhưng về chức trách,

nhiệm vụ và quyền hạn hai chức năng đều được quy định ngang nhau và có sự độc

lập nhất định. Chính vì vậy trong quá trình hoạt động, thực thi chức trách của mình

hai chức quan này thường được phân trách như nhau. Chẳng hạn, năm Minh Mạng

thứ 18 (1837), vua đã cho Cấp sự trung Binh khoa Trần Hiển Doãn đi đến Nam

Định, Hưng Yên, Hải Dương còn Ngự sử đạo Thanh Hoa Nguyễn Huy Hoán đi đến

Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh để kiểm duyệt tình hình biền binh các tỉnh Bắc Kỳ

[72:39].

Quyền và trọng trách của Giám sát ngự sử các đạo được triều đình tin tưởng

giao cho là rất lớn. Trong thực tế hoạt động, các Giám sát ngự sử đã thực hiện tốt

niềm tin mà triều đình giao phó. Tuy nhiên, cũng có những ngôn quan cấp đạo

không những không có trách nhiệm mà còn lợi dụng quyền hạn để tư lợi. Năm

Thiệu Trị thứ nhất (l841), Ngự sử đạo Nam Ngãi là Trương Đình Bằng được triều

đình giao cho trách nhiệm tra xét tình hình quan lại và nhân dân trong tỉnh nhưng

ông đã để cho Bố chính là Đào Trí Phú gây phiền hà cho dân để dân kéo nhau đến

lên Kinh nộp đơn kiện. Sự việc vỡ lỡ, Trương Đình Bằng đã bị vua Thiệu Trị giáng

xuống một cấp và cho đổi đi nơi khác [83:76].

Tăng cường hoạt động giám sát của các viên Giám sát ngự sử tại các địa

phương là một bước mới trong hoạt động của cơ quan giám sát trước khi thành lập

Đô sát viện (1802 - 1831) góp phần hạn chế sự chuyên quyền của quan lại tại các

địa phương, củng cố ở mức độ cao hơn tính tập quyền chuyên chế của bộ máy nhà

nước trung ương triều Nguyễn.

Page 93: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

2.1.5. Độc lập trong một số hoạt động khác

Bên cạnh những hoạt động trên đây, Đô sát viện còn được triều đình ban cho

cơ chế độc lập trong một hoạt động khá quan trọng đó là phúc duyệt các bản án.

Dưới triều Nguyễn, việc xét xử các hình án thuộc về trách nhiệm của Tam

Pháp ty (Đô sát viện hội đồng với Đại lý tự và bộ Hình cùng tra xét). Mặc dù, Đô

sát viện đã có vai trò nhất định trong hoạt động hình án của Tam Pháp ty nhưng

triều đình còn cho phép, cơ quan này một đặc quyền khác nữa đó là, đối với các bản

án xử tử hình của các địa phương và ở Kinh đô dâng lên, sau khi bộ Hình hoặc Tam

Pháp ty thẩm duyệt và nghị án, các thuộc quan của Đô sát viện có trách nhiệm phúc

duyệt một lần nữa nếu thấy có chỗ không hợp lý thì lược ra tâu lên. Hoặc tù phạm

đưa đến trong danh sách thẩm xét, phạm nhân ở Kinh bị xét xử chém, thắt cổ, sau

khi vua đã có chỉ nhưng Đô sát viện còn phải kiểm duyệt lại làm bản phúc tấu cho

hợp sự lệ [70:363], [59:202], [62:15]. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), bộ Hình tâu

nói: các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương và Quảng Yên tha các tù

phạm làm lính đã hết hạn 3 năm nhưng chỉ làm danh sách để tư, bộ Hình cũng

không đem việc ấy tâu lên. Nay tự biết làm việc như thế không đúng, xin trình bày

nguyên do, tự nhận tội. Vua liền giao Đô sát viện đem tội danh của các kẻ phạm ấy

tra xét lại, kẻ nào tội nhẹ thì được tha về như trước; nếu tội nặng tiếp tục quản thúc

làm lính [72:385-386]. Điều này chứng tỏ triều Nguyễn rất cẩn trọng trong việc

quyết định đến quyền sống của dân chúng. Nó cũng cho thấy triều Nguyễn rất tin

tưởng đến trách nhiệm “cầm cân, nẩy mực” của các ngôn quan.

Đối với những hình án có kết quả điều tra, xét xử khác nhau dẫn đến bất bình

giữa người bị hại và người phạm tội, triều đình cho phép Đô sát viện độc lập nghiên

cứu, xét lại để trả lại sự công bằng cho các bên. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), tỉnh

Quảng Nam kết án bọn lý dịch là Nguyễn Đăng Duy, Bùi Tiến Lập vì tội đánh Bùi

Thị Tám đang mang thai chết, bộ Hình phúc duyệt, án nghị của tỉnh và bộ không

giống nhau, Đô sát viện cho là trong luật có điều khoản kẻ nào chủ trương sai bảo là

thủ phạm. Sau khi kiểm xét lại, Đô sát viện xin y án tỉnh Quảng Nam đã kết.

Page 94: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Đô sát viện không chỉ có quyền trong việc thẩm tra các hình án khuất tất mà

còn có quyền giám sát việc thực thi các hình án của bộ Hình [60:22,34]. Năm 1838,

các Ngự sử là Võ Danh Thạc, Lê Văn Chân, Nguyễn Văn Đạt, Phan Vĩnh Định và

Nguyễn Thế Trị tâu nói việc bộ Hình xét xử vụ Dương Văn Phong làm án sơ suất và

không thấu đáo nên xin xét xử lại cho rõ ràng kẻo bị oan cho dân chúng, vua Minh

Mạng đã đồng ý [118:17-18]. Cũng trong năm này, bộ Hình tâu: ở “các tỉnh Hà

Nội, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương và Quảng Yên tha ra các tù phạm phát làm

lính đã hết hạn 3 năm, nhưng chỉ làm danh sách để tư, ở bộ cũng không đem việc ấy

tâu lên” [72:385-386]. Bộ Hình tự biết làm việc như thế không đúng nên xin trình

bày nguyên nhân và tự nhận tội. Vua nói: “Những tội phạm phát đi làm binh, bản

án can trước, có kẻ tội nhẹ, có kẻ tội nặng không giống nhau, há nên viện lẽ đủ niên

hạn mà nhất loạt tha ra ư ?” [72:385-386]. Bèn sai Đô sát viện đem tội danh của các

kẻ phạm ấy tra xét lại. Sau khi Đô sát viện điều tra quả thực như lời tâu của bộ

Hình, vua chuẩn cho “hễ kẻ nào tình tội nhẹ, thì được tha về như trước; nếu tội

nặng lại quản thúc làm lính” [72:385-386].

Một hoạt động có tính độc lập tương đối cao của cơ quan giám sát triều

Nguyễn mà phải quan tâm nghiên cứu nữa đó là tham gia giám sát tại các kỳ thi của

triều đình.

Như phần trên đã đề cập, Đô sát viện và các khoa, đạo còn có trách nhiệm

giám sát trong các kỳ thi của triều đình. Đối với thi Hương, thi Hội, “nếu có sự

ngấm ngầm chạy vạy đút lót gửi gắm cũng phải hặc” [70:361]. Tiếp đến năm Minh

Mạng thứ 15 (1834), khi ban hành lệ thi Hương quy định: “… chọn các viên khoa,

đạo sung làm giám sát công việc trường thi, mỗi trường 2 viên, chuyên kiểm sát các

việc nội trường và ngoại trường, nếu thấy những việc gian lận, thì cứ thực chỉ tên

mà hặc” [71:118], [84:101]. Việc triều Nguyễn giao cho các ngôn quan, gián quan

cấp khoa, cấp đạo độc lập trong giám sát mọi hoạt động của các trường thi là minh

chứng nữa cho thấy triều Nguyễn rất coi trọng vai trò của cơ quan giám sát. Bởi,

Cấp sự trung các khoa và Giám sát ngự sử các đạo chỉ mang hàm Chánh ngũ phẩm

Page 95: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

trong khi đó đội ngũ quan chịu trách nhiệm tổ chức trường thi thường là quan có

phẩm hàm cao hơn.

Tóm lại, triều Nguyễn xây dựng cho cơ quan giám sát và thuộc viên của tổ

chức này một cơ chế hoạt động độc lập cao và khá hoàn chỉnh. Cơ chế đó vừa có

tính độc lập giữa cơ quan giám sát với cơ quan khác, vừa có tính độc lập trong nội

bộ cơ quan giám sát với nhau hay độc lập giữa các thuộc viên của tổ chức này. Cơ

chế độc lập đó được phân định theo phẩm hàm và mỗi thuộc viên. Triều đình có sự

phân định cụ thể về chức trách của mỗi cấp nhưng trong quá trình hoạt động họ

không chỉ độc lập với chức trách được giao mà họ còn có quyền độc lập trong việc

giám sát hoạt động của cấp trên trực tiếp quản lý họ. Nhất là khi cơ chế hoạt động

độc lập của cơ quan giám sát và từng thuộc viên của tổ chức này không bị giới hạn

trong phạm vi hoạt động của mình hay những lĩnh vực nhất định, mà nó cho phép

các thuộc viên của cơ quan giám sát có quyền giám sát và tâu hặc bất cứ lĩnh vực,

ngành, địa phương nào... trong cả nước, kể cả vua, hoàng thân quốc thích và đại

thần của triều đình.

2.2. CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG PHỐI HỢP

Song song với cơ chế hoạt động độc lập, trong giai đoạn 1802 – 1885, các vị

vua đầu triều Nguyễn còn ban định cho cơ quan giám sát một hệ thống cơ chế hoạt

động khác cũng không kém phần quan trọng, đó là cơ chế hoạt động phối hợp.

Cũng giống như cơ chế hoạt động độc lập, cơ chế hoạt động phối hợp được thể hiện

trong nội bộ cơ quan giám sát cũng như giữa cơ quan giám sát với cơ quan, tổ chức

khác của triều Nguyễn.

2.2.1. Phối hợp trong nội bộ cơ quan giám sát

Để đảm bảo khách quan và mang lại hiệu quả cao trong hoạt động giám sát,

năm 1832, sau khi cho lập Đô sát viện, vua Minh Mạng đã đưa ra quy chế trong quá

trình hoạt động, các khoa, đạo phải liên kết, hội đồng với nhau. Cụ thể:

1. Các đạo Nam Ngãi, Ninh Thái hội đồng với Lại khoa.

2. Các đạo Long Tường, Định Yên, Lang Bằng hội đồng với Hộ khoa.

Page 96: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

3: Các đạo Định Biên, Hải An hội đồng với Lễ khoa.

4. Các đạo An Hà, Thanh Hoá, Sơn - Hưng - Tuyên hội đồng với Binh khoa.

5. Các đạo Bình - Phú, An - Tĩnh hội đồng với Hình khoa.

6. Các đạo Thuận - Khánh, Bình - Trị, Hà - Ninh hội đồng với Công khoa.

Vua Minh Mạng còn quy định các đạo “đều chiểu theo lục khoa mà chuyên

làm việc kiểm soát các nha môn Ngự sử ở các đạo cùng với Cấp sự trung (ở lục

khoa) xem xét mà làm”[70:362]. Với quy định này, Giám sát ngự sử các đạo không

chỉ được hội đồng với Cấp sự trung các khoa để kiểm soát hoạt động của các Bộ

tương ứng mà còn được hội đồng với các khoa để giám sát hoạt động của các nha ở

Kinh đô nữa. Quy định này nhằm ràng buộc chặt chẽ hơn nữa giữa các địa phương

và triều đình trung ương, đồng thời đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của các

viên Giám sát ngự sử địa phương và Cấp sự trung lục khoa tại triều đình trung

ương.

Trong quá trình hoạt động, triều đình còn cho phép có sự phối hợp, liên kết

giữa Cấp sự trung các khoa với nhau hay giữa Ngự sử của đạo này với với Cấp sự

trung của Khoa khác hoặc giữa các Ngự sử các đạo với nhau... mà không theo quy

định trên đây.

2.2.1.1. Phối hợp giữa Cấp sự trung các khoa

Cấp sự trung các khoa là các ngôn quan, gián quan có trách nhiệm trực tiếp

giám sát hoạt động của khoa tương ứng. Tuy nhiên, triều đình còn cho phép họ có

thể giám sát hoạt động của các địa phương cũng như hoạt động của các khoa khác

không thuộc phạm vi giám sát của họ, nhất là đối với những vấn đề quan trọng, các

Cấp sự trung được quyền hội đồng với nhau để tâu hặc với vua. Năm 1839, trước

tình hình một số tỉnh Bắc Kỳ dịch bệnh xảy ra thường xuyên đã cướp đi sinh mạng

của nhiều người dân và gây không ít khó khăn về kinh tế, Cấp sự trung Lại khoa Lê

Chân và Thự Cấp sự trung Lễ khoa Vũ Phạm Khải đã hội đồng cùng dâng sớ đề

nghị triều đình “xin chọn phái quan đại thần đi đến xét hỏi”, vua Minh Mạng cho

“phái Kinh lược đại thần ra xét” [70:476].

Page 97: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Sự phối hợp, liên kết giữa các khoa để giám sát hoạt động của các bộ, nha ở

triều đình, đồng thời cũng để giám sát hoạt động của các địa phương hay bất cứ một

lĩnh vực nào của đất nước. Như năm 1839, Chưởng ấn Cấp sự trung Binh khoa

Nguyễn Tự và Thự Chưởng ấn Cấp sự trung Lại khoa Trần Văn Triện cùng dâng sớ

nói về việc binh ở thành Trấn Tây54

. Địa giới thành Trấn Tây là rộng và trọng yếu,

tuy triều đình hàng năm đã đặt đồn điền nhưng không đủ lương thực để nuôi quân

nên phải mua của dân và các địa phương cấp thêm. Nhằm đề phòng khi có sự biến

xảy ra, các “ngôn khoa” đã xin chuẩn cho từ nay cần phải có lương thực dự trữ.

Đồng thời, xin sắc xuống cho các tỉnh lân cận mộ dân nộp thóc để tích trữ sau một

vài năm, việc khai khẩn, trồng trọt ở các đồn điền (do Thành quản lý) thu được

nhiều thóc thì thôi không mộ dân nộp nữa. Vua đã y cho [72:488]. Thực tiễn cho

thấy, việc phối hợp, hội đồng trong giám sát đã góp phần tăng sức mạnh, quyền lực

của các của các Cấp sự trung, đồng thời hạn chế vai trò cá nhân, tăng tính dân chủ

trong hoạt động giám sát của các ngôn quan, gián quan cấp khoa.

2.2.1.2. Phối hợp giữa Cấp sự trung với Giám sát ngự sử

Bên cạnh sự độc lập nhất định trong giám sát các bộ, nha của Cấp sự trung các

khoa và giám sát các đạo của Giám sát ngự sử, triều Nguyễn còn cho phép các ngôn

quan, gián quan cấp khoa và đạo phối hợp, đội đồng với nhau để giám sát một số

hoạt động khác không theo quy định của triều Nguyễn. Năm 1842, Nghệ An có bão,

lũ lớn, gây thiệt hại lớn về người và của cho nhân dân. Vua Thiệu Trị đã sai Cấp sự

trung Binh khoa Lê Văn Thành, Giám sát ngự sử đạo Định Biên Đặng Kham đi đến

Nghệ An để dò xét tình hình và cấp phát lương thực, quần áo cho dân [73:397].

Trong khi, triều đình không có quy định Binh khoa và đạo Định Biên phải hội đồng

với nhau. Một ví dụ nữa, đó là năm Minh Mạng thứ 16 (1835), vua sai Cấp sự trung

Lễ khoa Ngô Kim Lân và Thự Ngự sử đạo Lạng Bình Phạm Huy Diệu đến Gia

Định tra xét quan sở tại cho phủ huyện phân phát không công bằng số tiền quyên

góp cho dân nghèo. “Trong đó, có kẻ khai man, đội tên để nhận; có kẻ sai người

lĩnh thay, tự tiêu riêng hết…” [71:595]. Cũng như các khoa, sự phối hợp, liên kết

54

Nay thuộc Campuchia.

Page 98: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

giữa thuộc viên các khoa, đạo là để giám sát hoạt động của các bộ, nha và địa

phương do họ quản lý, đồng thời, triều đình còn có thể giao cho họ giám sát một số

hoạt động ở các địa phương khác, lĩnh vực khác. Như năm 1854, vua Tự Đức sai

phái Chưởng ấn Cấp sự trung Lễ khoa Lê Văn Phả và Giám sát Ngự sử đạo Long

Tường Phạm Trị đi khám nghiệm các sở mỏ vàng ở Bắc Kỳ [74:455].

Quản lý, bổ nhiệm, thăng chuyển và các chế độ cho quan lại trong cả nước là

trách nhiệm của bộ Lại. Triều đình cũng giao trách nhiệm giám sát hoạt động này

thuộc về Lại khoa và các thuộc viên của Lại khoa có quyền độc lập trong hoạt động

này. Tuy nhiên, để giám sát lẫn nhau, trong quá trình hoạt động, các ngôn quan có

thể đàn hặc những lỗi lầm, sai trái của bất cứ cơ quan, tổ chức, quan lại nào trong cả

nước, kể cả những công việc không thuộc chức trách của họ và không riêng gì công

việc của Lại khoa. Ví như năm 1844, Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Trung Mậu suy cử

Tri huyện Địa Linh là Dương Đăng Hiển lên làm Ngự sử đạo Sơn - Hưng - Tuyên.

Các quan khoa, đạo là Trình Nho và Mai Đức Thường cho rằng: “Hiển do tú tài

xuất thân, mới ở huyện ít ngày, mà Mậu đã vội suy cử, chưa được thỏa đáng đối với

dư luận” [73:622]. Vua Thiệu Trị nói rằng: “Dùng người, chỉ có ai có tài; Dương

Đăng Hiển làm việc chưa có gì là xuất sắc” [73:622] nên không cho Hiển thăng.

Việc cho các ngôn quan, gián quan cấp khoa và đạo phối hợp với nhau đã tạo điều

kiện cho Cấp sự trung các khoa biết về hoạt động của các đạo và ngược lại, Giám

sát ngự sử các đạo cũng có thể biết về hoạt động của các bộ, nha và hoạt động giám

sát của các Cấp sự trung.

2.2.1.3. Phối hợp giữa các Giám sát ngự sử

Năm 1833, các Giám sát ngự sử là Nguyễn Mưu và Vũ Danh Thạc đã cùng

dâng sớ đề nghị thay đổi một số quy định tại các kỳ thi Hương như: học trò trong

hạt thi đỗ học từ hạt nào và do ai dạy, số lượng học trò thi đỗ và không thi đỗ của

mỗi hạt... để triều đình có căn cứ khen thưởng, vua Minh Mạng đã cho bàn định và

chuẩn thi hành [70:503-504]. Hay năm 1841, Án sát tỉnh Nam Định là Lê Hữu Đức

trước đây có tội, bị cách chức nhân lúc ấy khoa, đạo là Vũ Trọng Bình và Trần

Thiện ra làm giám sát trường thi Nam Định, Đức mật sai người nhà đem chè đi tiễn

Page 99: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

tống, Vũ Trọng Bình đem việc ấy tâu lên, vua liền sai cách chức Đức. Để khen việc

hặc đúng người đúng tội cũng như “biết giữ mình thanh bạch” [73:263], [38:357]

của các gián quan, vua Thiệu Trị đã ban thưởng Vũ Trọng Bình và Trần Thiện.

Bên cạnh đó, để tăng cường việc kiểm soát trong nội bộ cơ quan giám sát,

triều Nguyễn còn cho phép Cấp sự trung các khoa và Giám sát ngự sử các đạo có

quyền cùng hặc tấu lẫn nhau. Năm 1844, trước tình hình dân ở một số hạt đang

trong lúc đói kém, triều đình phải giảm, hoãn thuế nhưng vẫn xin xây chùa rất

nhiều, vua Thiệu Trị liền giao cho Đô sát viện phái 1 viên khoa, đạo đi dò xét tình

hình tâu lên. Tuy nhiên, chỉ dụ chưa giao xuống thì Ngự sử Hoàng Khuê, Hồ Xuân

Huyên đều đến gặp riêng Viện trưởng Nguyễn Đức Hoạt để xin được đi liền bị các

khoa, đạo khác là Đặng Kham, Nguyễn Văn Diễn và Lê Di nêu ra tham hặc. Vua

trách rằng : “Đài ngự sử đặt ra, có quan hệ đến phong hiến... Bọn kia dám đến thỉnh

thác ở nhà riêng, kêu van trong xó tối, đến nỗi bị viện trưởng quát đuổi ra, người

cùng hàng chỉ ra mà tham hặc, thật đáng khinh bỉ quá !” [73:667]. Hoàng Khuê, Hồ

Xuân Huyên đều phải giải chức, giao xuống cho bộ Hình nghiêm nghị. Khi án tâu

lên, Hoàng Khuê, Hồ Xuân Huyên đều phải giáng bổ.

Cơ chế phối hợp, hội đồng giữa các khoa, đạo với nhau đã giúp cho hoạt động

của lục khoa, các Giám sát ngự sử nói riêng và cơ quan giám sát có những thuận lợi

nhất định. Trước hết, đó là xây dựng và thể hiện sức mạnh, tính đoàn kết và quyền

lực trong hoạt động của cơ quan giám sát. Thứ hai, chính sự phối hợp, liên kết trong

nội bộ cơ quan giám sát phần nào hạn chế sự độc đoán, chuyên quyền, lạm quyền

trong hoạt động giám sát của mỗi cấp và mỗi thuộc viên của tổ chức này. Trong

những trường hợp nhất định, nhất là những vấn đề trọng đại, nhạy cảm, ảnh hưởng

lớn đến quyền, lợi ích của triều đình, đất nước, dân chúng... cần phải có hội đồng

trong tâu hặc nhằm khẳng định sự đúng đắn, khách quan để thuyết phục vua và triều

đình thi hành theo kiến nghị của các ngôn quan.

Page 100: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

2.2.2. Tam Pháp ty: Thiết chế phối hợp giữa Đô sát viện, bộ Hình và Đại lý tự

2.2.2.1. Triều Nguyễn với việc thành lập và vận hành Tam Pháp ty

Trong những năm từ 1802 đến 1831, cơ quan tư pháp của triều Nguyễn là bộ

Hình. Đây là cơ quan tư pháp tối cao và duy nhất ở triều đình, có quyền quyết định

tất cả các hoạt động liên quan đến tư pháp từ trung ương đến địa phương. Đây cũng

là cơ quan chịu trách nhiệm về pháp luật, tham gia sửa định luật lệ, thực thi mệnh

lệnh của nhà vua, xét xử án trừng trị kẻ phạm tội... Như vậy, bộ Hình vừa phải chấp

hành mệnh lệnh của vua chỉ đạo cơ quan cấp dưới thực thi có hiệu quả, đồng thời

còn phải xét xử án, thụ lý kiện tụng và phải phúc thẩm các bản án do địa phương đệ

trình lên, tiếp nhận danh sách hình án cuối năm của các nha môn sau đó tổng hợp

lên vua nghị xử [24:213-214].

Đến năm 1831, vua Minh Mạng cho thành lập Đại lý tự và năm 1832 cho

thành lập Đô sát viện. Sau khi bàn định những khó khăn trong quá trình hoạt động

của bộ Hình, vua Minh Mạng cho rằng mỗi khi triều đình đang bàn việc ở Tả triều

đường mà bộ Hình trừng phạt những người can phạm và dân đến kiện cáo nộp đơn

là “hỗn tạp” nên đã sai đình thần bàn bạc, tham khảo và “phỏng theo điển lệ Bắc

triều, lấy 3 nha của Hình bộ, Đô sát viện và Đại lý tự, gọi riêng là Tam Pháp ty, rồi

tìm đặt làm dinh thự ở góc đông nam trong Kinh thành55

” [70:334], [9:139],

[22:13], [14:42], [24:322]. Như vậy, Tam Pháp ty không phải là cơ quan độc lập mà

nó được thành lập trên cơ sở liên kết giữa 3 cơ quan là Đô sát viện, bộ Hình và Đại

55

Do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, hiện nay dấu vết lộ thiên của Văn phòng Tam Pháp ty không còn

nữa nên việc xác định Văn phòng Tam Pháp ty trước đây hiện ở địa điểm nào, lâu nay đang có nhiều ý kiến

khác nhau. Trong đó, có nhiều ý kiến cho rằng: Văn phòng của Tam Pháp ty trước đây chính là Tam Tòa (Cơ

quan của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố Đô, tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay, địa chỉ 23 Tống Duy Tân). Ý

kiến này chưa thuyết phục, bởi khu vực Tam Tòa trước đây chính là chỗ ở của Thái tử Nguyễn Phúc Đảm

(sau này là vua Minh Mạng), sau đó khu vực này được sử dụng để xây chùa Giác Hoàng. Sau ngày thất thủ

Kinh đô (7/1885), thực dân Pháp sử dụng làm trại lính. Một thời gian sau, thực dân Pháp và triều đình Huế

cho xây ba tòa nhà, tòa ở giữa dành cho viện Cơ Mật, tòa bên trái là Bảo tàng Kinh tế (Musée Economique),

tòa bên phải là cơ quan cố vấn của thực dân Pháp (Delégations aux Ministères, còn gọi là nha Hội lý). Tên

Tam Tòa ra đời từ đó và tên gọi này chủ yếu dân chúng sử dụng để nói về 3 cơ quan trên. Do vậy, ý nghĩa

của tên gọi Tam Tòa hoàn toàn khác với tên Tam Pháp ty [11:140], [44:26], [1:551]. Xem thêm phụ lục 1, sơ

đồ 2 (vị trí 248). Theo Võ Hương An và L.Cadière văn phòng của Tam Pháp ty nằm giữa Cửa Ngăn và Cửa

Thượng tứ (quán Nhạc Hoa Viên hiện nay, ngã ba đường Đoàn Thị Điểm và đường Ông Ích Khiêm) là đáng

tin cậy nhất. Cơ sở cho nhận định này, đó là: thứ nhất, theo sách Đại Nam thực lục, Văn phòng Tam Pháp ty

nằm hướng đông nam của Kinh thành; thứ hai, trống Đăng văn được treo trên bờ thành (chỗ cao để khi đánh

vua có thể nghe được) trước Công chính đường của Tam Pháp ty [1:550-551], [11:planche XXXI và XXXII],

[13:82-84,89,94], [10:184] . Xem thêm phụ lục 1, sơ đồ 2 (vị trí 288).

Page 101: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

lý tự. Tuy nhiên, đội ngũ quan lại của Tam Pháp ty chủ yếu do quan lại của 3 cơ

quan trên luân phiên nhau kiêm nhiệm. Văn phòng được đặt ở góc phía Đông Nam

trong Kinh thành, với kiến trúc một toà 3 gian, 2 chái, mặt tả, mặt hữu và đằng sau

đều xây tường, phía trước được treo tấm biển “Công chính đường”, đằng trước về

bên tả, treo 1 cái trống lớn gọi là “Đăng văn cổ”56

, đúc ấn bằng bạc (khắc 4 chữ

triện “Tam Pháp ty ấn”), dấu kiềm bằng ngà (khắc 3 chữ triện “Tam Pháp ty”) giao

bộ Hình giữ, còn Đô sát viện và Đại lý tự thì cùng nhau niêm phong mỗi khi có đơn

kiện hay hình án [70:334], [33:21], [44:24-25].

Về quy trình nhận đơn, vào các ngày mồng 6, 16 và 26 hàng tháng, Tam Pháp

ty cử các thuộc viên của mình lên Công chính đường ngồi theo trật tự: bộ Hình ở

giữa, bên tả là Đô sát viện, bên hữu là Đại lý tự trực nhận đơn của dân chúng

[79:45], [2:36]. Ngoài 3 ngày trên, hàng ngày, bộ Hình, Đô sát viện và Đại lý tự,

mỗi cơ quan cử 01 thuộc viên thay phiên thường trực để nhận đơn. Việc xử lý đơn

cũng theo trình tự như quy định trên. Tuy nhiên, đối với với những đơn “xét ra là vu

cáo càn bậy thì tới kỳ đợi chỉ sẽ xử trị nghiêm ngặt” [70:334]. Thần dân ở trong

Kinh và các tỉnh ai có oan khuất gửi đơn. Đơn phải có 1 bản chính và 1 bản phụ,

“duy khi tố cáo bí mật về việc phản nghịch quan trọng và những việc có quan hệ

đến lợi hại lớn thì mới cho làm 1 bản tấu phong kín lại” [70:335]. Sau khi nhận

được đơn, Tam Pháp ty hội đồng để thống nhất nghị xử “rồi hội hàm làm thành tập

tấu dâng lên” [70:335] vua. Khi được chỉ của vua, đơn nào liên quan đến bộ, nha

nào thì gửi cho bộ, nha ấy thi hành. Khi tiếp được tờ tâu phong kín thì không được

tự tiện phát đi mà lập tức dâng trình để vua nghị xử. Về chức năng tư pháp, Đô sát

viện có quyền “phàm án kiện về việc hình có chỉ giao xuống Tam Pháp ty hội bàn

và hàng năm sổ án phúc thẩm về mùa thu (Đô sát viện) hội đồng với Hình bộ và

Đại lý tự xét làm” [70:335].

56

Đăng là cao, văn là nghe. Tức là treo trống trên cao đánh lên để thấu đến vua nghe.

Page 102: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Tiếp thu kinh nghiệm của các triều đại quân chủ Việt Nam trước đó, triều

Nguyễn cũng cho đặt trống Đăng văn57

để dân chúng kêu oan cho vua và triều đình

biết. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể đánh trống Đăng văn kêu oan mà triều

Nguyễn quy định: người đánh trống phải tự trói tay chân mình, đội sớ kêu oan lên

đầu, rồi cầm dùi đánh ba tiếng trống dõng dạc, tiếp đó đánh một hồi vang vọng để

vua và triều đình biết đó là tiếng trống của người kêu oan [134]. Nếu người kêu oan

không đúng sự thật và không khẩn thiết “thì việc dẫu có thực, cũng phải đóng gông

10 ngày để ở ngoài sân nhà Công chính đường, khi mãn hạn lại đánh ngay 100

trượng; nếu có vu cáo tức thì chiếu theo tội kiện vu cáo mà bắt chịu tội” [70:336],

kể cả những người xúi giục cũng bị phạt. Chẳng hạn, năm 1834, sản vật của dân

chúng ở phủ Thừa Thiên bị Phủ doãn Trần Tú Dĩnh đánh giá rẻ mạt nên đã kiện và

bị Phủ doãn đánh đòn, dân liền đến đánh trống Đăng văn. Vua Minh Mạng cho là

“Đặt ra trống Đăng văn cốt để những người không có chỗ kêu được thân oan, thế

mà từ trước đến nay, những kẻ đến kêu chỉ là những việc nhỏ nhặt trong làng xóm”

[71:308]. Bèn sai Tam Pháp ty tra xét, xử Trần Tú Dĩnh bị cách lưu vì đã đánh giá

rẻ sản vật của dân, để dân đến “đi kiện nhảm”. Người dân đánh trống để kêu, bị phạt

100 roi. Dưới thời Tự Đức, triều đình cũng đã có một số lần xử phạt việc lợi dụng

trống Đăng văn để kêu oan. Năm 1852, Bùi Văn Lâm đến đánh trống kêu oan về

việc bị người khác xâm chiếm đất đai. Sau khi tra xét, Bùi Văn Lâm tên thật là

Nguyễn Minh Khiêm, trước đây Khiêm cũng đã từng đến đánh trống kêu oan nhưng

việc kêu oan của Khiêm là không đúng nên không được xét, do đó Khiêm nghĩ nếu

lấy tên thật sẽ không được xét nữa đành đổi tên thành Bùi Văn Lâm. Vua Tự Đức

liền cho gông cùm Lâm chờ xét xử [122:98-101]. Đây là một trong những minh

chứng cho thấy các vị vua đầu triều Nguyễn đã tạo điều kiện cho dân chúng thể hiện

quyền dân nguyện của mình nhưng với điều kiện quyền đó phải được thể hiện đúng

quy định của triều đình và dân chúng cũng không thể lợi dụng quyền dân nguyện để

hòng đổi trắng thay đen tội lỗi của mình.

57

Từ thời vua Lý Anh Tông (1136 - 1175), triều Lý đã cho đặt hòm bằng đồng để thu nhận thư oan của dân

[87:131]. Dưới thời Lê, khi dựng lại đình Quảng Văn (tạm dịch: truyền bá rộng) – nơi treo các pháp lệnh trị

dân, vua Lê Thánh Tông cũng đã cho đặt trống Đăng Văn để dân chúng đến kêu oan.

Page 103: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Không chỉ có trách nhiệm trong việc nhận đơn kêu oan của dân chúng, Tam

Pháp ty còn có một nhiệm vụ nặng nề hơn nữa là xét hình ngục. Năm 1832, sau khi

cho lập Đô sát viện, vua Minh Mạng đã quy định trách nhiệm của Đô sát viện là

phàm án kiện thì cùng “hội đồng với Hình bộ và Đại lý tự xét làm” [70:363]. Hay có

lần vua Minh Mạng dụ cho Nội các được ghi lại trong Châu bản: “cho Tam Pháp ty

xét hình ngục cho nhanh chóng” [115:146].

Triều đình còn quy định, đối với những án nào do triều đình xét hỏi, đình thần

tới nhà Công chính đường (Tam Pháp ty) cùng hội đồng để xét hỏi, nếu án nào bị

xử phạt roi, phạt trượng, Tam Pháp ty thi hành ngay tại nhà Công chính đường.

Ngoài ra, những người đã về hưu trước đây phải đến kêu ở triều đình, đều do thuộc

viên coi quản của Tam Pháp ty xét thực tâu thay. Còn đối với “những người không

ở dưới một thống thuộc nào” [70:363-364] nếu thuộc quan văn thì bộ Lại, hàng võ

do bộ Binh xem xét, trình đơn để triều đình xét định, như vậy mới “then chốt được

kín đáo, phép tắc được nghiêm minh mà triều đình được tôn trọng” [70:363-364].

Quyền xét xử của Tam Pháp ty là rất lớn. Tất cả quan lại không từ một ai từ

quan trong kinh lẫn ngoài tỉnh nếu có phạm tội, kể cả quan đại thần hoặc thuộc liêu,

đồng nghiệp của mình nếu có phạm tội đều bị cơ quan này xem xét, trị tội theo pháp

định của triều đình. Năm 1845, quyền Chưởng ấn Cấp sự trung Hình khoa Trình

Nho trước đó khi được phái đi thanh tra tỉnh Nghệ An đã nhận bừa đơn kiện của

dân và tâu hặc Tri huyện Hương Sơn là Hồ Mậu Đức nhận hối lộ của dân chúng.

Khi vua Thiệu Trị giao cho quan tỉnh Hà Tĩnh xét sự thực là Hồ Mậu Đức không

nhận hối lộ mà nguyên nhân là do Trình Nho ngầm nhận của lót nên đỗ lỗi cho Hồ

Mậu Đức. Vua liền giao Tam Pháp ty hội tra, Trình Nho phải tội thắt cổ đến chết

[73:753]. Đây là một trong những minh chứng cho thấy Tam Pháp ty đã giúp cho

triều đình nhà Nguyễn loại bớt đội ngũ quan lại “sâu mọt” hại nước, hại dân cũng

như góp phần thực thi nền tư pháp quân chủ. Đặc biệt khi “sâu mọt” đó chính là

ngôn quan, gián quan – người được vua và triều đình tin tưởng giao cho trọng trách

“cầm cân, nẩy mực” để gây dựng lòng tin trong dân chúng và bảo vệ đế quyền.

Page 104: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Việc triều đình cho đặt trống Đăng văn đã góp phần cho Tam Pháp ty hoạt

động có hiệu quả, nhất là việc phát giác các vụ án oan khuất của dân chúng hay tệ

ức hiếp dân lành và tư lợi của quan tham. So với một số triều đại quân chủ Việt

Nam trước đó, việc đặt trống Đăng văn là một tiến bộ của triều Nguyễn. Trống

Đăng văn là “biểu hiện sự nghiêm minh của công lý, thể hiện được tính dân chủ.

Tiếng kêu của trống là tiếng kêu của dân đến tận tai nhà vua. Không phải tiếng kêu

ấy chỉ để nghe, để thấy, mà điều quan trọng bậc nhất là được thực hiện ngay”

[133]. Năm 1885, khi kinh thành Huế thất thủ, triều Nguyễn chính thức chấm dứt

vai trò là một triều đại tự chủ và chính thức lệ thuộc vào thực dân Pháp, vai trò,

chức năng của Tam Pháp ty và trống Đăng văn đều bị thực dân Pháp khống chế và

thực hiện theo mục đích của chúng. Đến năm 1901, vua Thành Thái muốn khôi

phục truyền thống tốt đẹp của các tiên đế, ông đã cho dựng lại Tam Pháp ty và trống

Đăng văn nhưng đến năm 1906 lại phải hủy bỏ vì thực dân Pháp không cho phát

huy công dụng như ngày xưa nữa [39:22], [145].

2.2.2.2. Vai trò của Đô sát viện trong Tam Pháp ty

Là một trong 3 thành viên hợp thành Tam Pháp ty giúp cho triều đình thi hành

hoạt động tư pháp nhưng ngoài những quy định trên, Đô sát viện còn có trách

nhiệm xem xét lại các hình án nặng. Năm 1832, khi định trách nhiệm của Đô sát

viện trong Tam Pháp ty, vua Minh Mạng quy định đối với các bản trọng án “trong

sổ phúc thẩm những phạm nhân bị bắt đến và những tên phạm ở Kinh bị án chém

hay án thắt cổ ngay, sau khi được chỉ” [70:363-364], Đô sát viện có trách nhiệm

xem xét và duyệt lại, sau đó làm thành bản phúc tấu để đợi chỉ, đối với các án tội tù

xử tử do các địa phương tâu lên thì sau khi bộ Hình dâng trình phiến nghĩ, Đô sát

viện có trách nhiệm duyệt lại, trong đó quả không có tình lý gì trở ngại thì chép vào

phiến nói rõ, giao cho bộ theo lời chỉ phê mà thi hành. Nếu có chỗ không hợp thì

trích ra tâu lại để vua và triều đình quyết định [70:363-364].

Với vai trò là thành viên của Tam Pháp ty, Đô sát viện đã cùng với Đại lý tự

và bộ Hình trở thành tổ chức tư pháp cao nhất của triều Nguyễn. Khi xét xử các bản

án, vai trò của Đô sát viện ngang bằng với Hình bộ và Đại lý tự. Tuy nhiên, đối với

Page 105: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

những vụ trọng án hoặc những vụ án do các địa phương xét xử, Đô sát viện còn có

quyền độc lập, thậm chí lớn hơn so với bộ Hình và Đại lý tự đó là giúp vua duyệt lại

các bản án đó. Như vậy, với vai trò, chức năng của mình trong thành viên của Tam

Pháp ty, Đô sát viện đã đưa hoạt động tư pháp của triều Nguyễn ngày càng hoàn

thiện hơn. Đồng thời, giúp cho vua và triều đình xét xử đúng người đúng tội.

Mặc dù là 1 trong 3 thành viên của Tam Pháp ty nhưng các thuộc viên của Đô

sát viện cũng có tính độc lập tương đối trong hoạt động tư pháp của mình. Đặc biệt,

trong một số vụ án lớn, Tam Pháp ty hay bộ Hình không xử hoặc xử không đúng

pháp luật, Đô sát viện và các khoa, đạo có thể được triều đình giao cho xét xử trực

tiếp mà không cần phải hội đồng với bộ Hình và Đại lý tự. Năm 1862, vua Tự Đức

hạ lệnh khi có án dâng lên bộ Hình phải tóm tắt chỗ thiết yếu để tiện dâng lên xem

xét, nếu có điểm nào không đúng thì giao cho Đô sát viện lại thẩm xét lại cho đúng

để cho hợp với ý nghĩa 3 lần xét 5 lần tâu [74:759].

Ví như năm 1854, trước tình trạng các thuyền buôn nước Thanh mỗi khi đến

Quảng Nam đều phải hối lộ tiền cho quan tỉnh này để được “ẩn lậu thuế công, thuế

quế”, Chu Trung Lập đã làm đơn đề trình lên nhưng Tam Pháp ty bác đơn, vua Tự

Đức bèn sai Hữu tham tri bộ Binh kiêm quản Đô sát viện là Trương Văn Uyển cùng

với quan khoa, đạo là Nguyễn Vĩnh đến Quảng Nam tra xét tình hình. Sau khi tra

xét sự thật đúng như Chu Trung Lập tâu báo, Trương Văn Uyển đề trình xử tội giảo

giam hậu 17 người; tội lưu58

25 người; tội đồ59

12 người; tội trượng và cách chức 8

người; lưu lại đợi kết án 1 người; tước bỏ tên trong sổ làm quan 1 người; truy thu lại

bằng sắc, xoá tên trong sổ làm quan 1 người; tâu bày lên đợi Chỉ 1 người [74:414-

415]. Vụ án này không những khẳng định vai trò của Đô sát viện mà nó còn có ý

nghĩa rất lớn trong hoạt động thương mại cũng như trừng trị quan tham.

Mặc dù, vai trò của các quan khoa, đạo trong hoạt động này không lớn nhưng

họ chính là những gián quan được triều đình giao cho đồng thời 2 nhiệm vụ, đó là

58

Tội lưu: tội phải đi đày. 59

Tội đồ: tội bị giam tù và phục dịch công việc.

Page 106: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

vừa tham gia tra xét đơn, vừa giám sát việc tra xét đơn của phái đoàn, nếu phát hiện

trường hợp tra xét không công minh, họ có quyền đàn hặc để vua nghị xử.

Như vậy, bên cạnh chức năng là cơ quan giám sát cao nhất, Đô sát viện còn là

một trong những thành viên quan trọng của cơ quan tư pháp triều Nguyễn hợp thành

cơ quan Tam Pháp ty kiêm nhiệm luôn cả chức năng tư pháp. Cùng với bộ Hình và

Đại lý tự, Đô sát viện đã trực tiếp góp phần hoàn chỉnh hệ thống tổ chức tư pháp

của triều Nguyễn, Tam Pháp ty là pháp đình tối cao của triều Nguyễn.

2.2.2.3. Đóng góp của Tam Pháp ty

Đóng góp lớn nhất của Tam Pháp ty đó là thẳng tay trừng trị nhằm hạn chế tệ

quan tham, nhũng nhiễu nhân dân. Chẳng hạn, năm 1844, sau khi quan khoa, đạo

xét thấy tơ, lụa màu... của kho Văn Ỷ bị thiếu, vua Thiệu Trị đã giao cho Tam Pháp

ty tra xét. Kết quả, số hóa vật trong kho thiếu hụt trị giá đến 10.583 quan tiền, 522

lạng bạc, triều đình đã giao các chủ thủ phải chia nhau đền đủ số thâm hụt trên

[73:569-570].

Một đóng góp nữa của Tam Pháp ty mà chúng ta cũng phải kể đến đó là góp

phần ổn định xã hội [39:22]. Năm 1842, trước tình hình nhân dân xã Diêm Phố tỉnh

Thanh Hoá, đất ít, dân nhiều không thể đảm bảo cuộc sống lại ở gần bờ biển thường

bị thiên tai đe dọa nên đã nộp đơn cho Tam Pháp ty xin được di cư đến xã An Giáo

để sinh sống. Sự thể này được thuộc quan của Ty tâu lên và vua y lời xin [73:393].

Ngoài ra, Tam Pháp ty còn thực hiện một số nhiệm vụ khác. Ví như: năm

1836, tỉnh Quảng Ngãi đã khám bắt được thuyền buôn nhà Thanh chở lậu 65 cân

thuốc phiện sống, 25 lạng thuốc phiện chín đem về Nội phủ, vua Minh Mạng đã

giao Tam Pháp ty tiêu huỷ ngay ở Công chính đường. Năm 1844, án sát tỉnh Quảng

Trị là Phan Văn Nhã đã phái thự Phó vệ Hoàng Văn Lợi cho người đi hỏi mua gà,

Đội trưởng Phùng Thế Hiền nói là mua cho quan, còn Cai tổng Phùng Thế Định

nhân đó nói dối truyền lời chiếu sắc, mượn việc để sách nhiễu dân. Việc bị phát

giác, vua giao Tam Pháp ty hội đồng tra hỏi đúng tội đã cho Hiền phải tội phát lưu

hết bậc, Lợi bị cách chức cho hiệu lực ở bộ Binh [72:576]. Hay năm 1847, trước

Page 107: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

tình hình một số quan và cai ngục đã có lòng tham, hòng muốn “ăn tiền” của ngục

tù, triều đình đã cho Tam Pháp ty tra xét. Kết cục, nhiều quan và cai ngục đã bị triều

đình xử phạt nặng, như Lãnh binh Quảng Trị Hoàng Đăng Thận bị giáng 3 cấp, bắt

về hưu, án sát Lê Đình Khản bị cách chức [73:1005-1006]...

Mặc dù là pháp đình tối cao của triều đình nhưng không phải Tam Pháp ty

được toàn quyền trong việc xét xử mà hầu hết các hình án sau khi “pháp đình” nghị

xử đều phải được vua xem xét lại. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), các thuộc quan

của Tam Pháp ty hội bàn đối với những đơn khống cáo liên quan đến bộ Hình thì

không cần bàn xét và cho phạt kẻ nguyên khống bằng cách đánh roi. Nhưng “Vua

xuống lệnh truyền chỉ nghiêm quở và sắc cho từ nay về sau, nhân dân có trần tình

khống tố việc gì mà dính đến Tam Pháp ty, thì cứ thực tâu lên đợi chỉ, không được

vội nghị xử ngay” [70:371]. Đặc biệt, đối với một số án liên quan đến hoàng thân,

quốc thích, sau khi bộ Hình hay Tam Pháp ty phán quyết đúng người đúng tội

nhưng vua vẫn có những châm chước riêng. Ví như năm 1848, khi các quan khoa,

đạo là Đặng Minh Trân và Lê Đức dâng sớ hặc “Đô thống phủ Đô thống lĩnh Tổng

đốc Hà Ninh là Tôn Thất Bật về các việc làm bậy khinh nhờn phép nước, xoay kiếm

lợi riêng” như: “Cho binh đinh nghỉ việc, đòi lấy tiền tài, lấn át viên biền dưới

quyền mình, tự tiện đóng gông giam cấm, cưỡng mua con gái người ta, bắt giam

dân không có tội, mua hiếp hàng hoá” [74:93]. Vua bèn giao Tam Pháp ty xét hỏi,

Tôn Thất Bật đáng phải tội cách chức. Nhưng vua nghĩ Bật là người trong tôn phả,

chưa nỡ đuổi bỏ. Bèn gia ân giáng 5 cấp lưu dùng, vẫn cho làm chức Hậu quân Đô

thống phủ Đô thống. Trong khi đó, các bố chính, án sát, lãnh binh cùng thành là

thuộc liêu, cấp dưới của Bật đều phải lãnh các hình phạt nặng hơn.

Đây chính là một trong những yếu tố góp phần hạn chế sự chuyên quyền, độc

đoán của Pháp đình tối cao nhưng ngược lại nó cho thấy quyền lực tối thượng của

vua dưới chế độ quân chủ. Ngoài ra, để hạn chế sự chuyên quyền cũng như tránh sai

sót trong quá trình xét xử, triều Nguyễn cũng đã giao mỗi ngày cử một viên thuộc ty

đến cùng với phái viên của Tam Pháp ty phái đến ứng trực ở công đường. Hễ có ai

đánh trống Đăng văn kêu việc gì, đơn kiện thì do Tam Pháp ty nhận xét, nhưng

Page 108: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

thuộc viên ứng trực cũng đăng ký ngay những đơn ấy để trình Công chính đường

lưu chiểu. Nếu Tam Pháp ty ỉm đi hay để chậm trễ không xét đơn thì tham hặc

[71:462].

Khi mà án từ quá nhiều, Tam Pháp ty không thể tra xét nổi, triều đình sẽ đặc

cử một số quan khác tham gia. Tuy nhiên, những viên được cử tham gia cùng Tam

Pháp ty xét xử hầu hết đều là thuộc viên của những cơ quan liên quan đến hành

pháp như Đô sát viện, bộ Hình… Ví như năm 1842, Tam Pháp ty tâu: từ Quảng Trị

đến Hà Nội, nhân dân nộp đến 4.000 lá đơn. Vua cho Pháp ty khó lòng làm chóng

xong được, bèn cho “Đông các Đại học sĩ, lĩnh Thượng thư bộ Hình Vũ Xuân Cẩn

sung chức Khâm sai đốc lý tra biện án kiện đại thần, Hữu thị lang bộ Lễ Hoàng Tế

Mỹ sung chức Khâm sai phó biện đại thần, cấp cho cờ, bài; Hồng lô Tự khanh Bùi

Nhật Tiến, Lễ khoa Chưởng ấn Cấp sự trung Phan Văn Xưởng, Công khoa Chưởng

ấn Cấp sự trung Đặng Quốc Lương, Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ Trương Hảo

Hợp đều sung chức tuỳ biện” [73:329].

Trong quá trình thực thi trọng trách triều đình giao phó, một trong những vụ

oan án lớn nhất mà Tam Pháp ty đã minh oan được đó là vụ án của Thủ khoa Bùi

Hữu Nghĩa (1807 - 1872). Khi Bùi Hữu Nghĩa làm Tri phủ Trà Vang (thuộc huyện

Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long ngày nay), ông đã không ngần ngại đứng về phía dân chài

địa phương, bênh vực những người bị các quan lại ức hiếp và nhũng lạm quyền thế,

không cho dân chúng khai thác thủy sản trên kênh rạch. Hành động cương trực của

ông bị các đồng liêu ganh ghét và tìm cách hãm hại. Triều đình chưa rõ thực hư mà

nghe lời tổng đốc Vĩnh Long nói Bùi Hữu Nghĩa xúi dân làm loạn nên đã cách chức

không cho ông làm Tri phủ Trà Vang. Đồng thời, ông cũng bị bắt giải về Kinh và

chờ ngày thọ án tử hình. Đứng trước tình cảnh đó, vợ ông là bà Nguyễn Thị Tôn đã

thực hiện một nghĩa vụ công dân rất đỗi can trường và nguy hiểm, bất chấp mọi khó

khăn, ròng rã cả tháng trời với chiếc ghe bầu vượt biển ra Kinh đô Huế để gióng lên

ba hồi trống Đăng văn, quyết minh oan, giải cứu cho chồng khỏi bản án tử hình

[134]. Sự việc được Tam Pháp ty điều tra và kết quả không phải như hình án đã

quyết nên vua Minh Mạng cho Bùi Hữu Nghĩa thoát khỏi án tử hình nhưng phải đày

Page 109: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

đi làm lính ở vùng biên giới An Giang. Bà Từ Dũ (Thái hậu của vua Tự Đức) biết

tin bèn ban tặng Nguyễn Thị Tôn một tấm biển chạm nổi bốn chữ vàng “Liệt phụ

khả gia” [145].

Tóm lại, qua quá trình việc xây dựng và vận hành tổ chức Tam Pháp ty của

triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885, Luận án có một số nhận định như sau:

- Một là, sự tồn tại của Tam Pháp ty đã góp phần khẳng định triều Nguyễn đã

có những tiến bộ lớn trong việc xây dựng bộ máy tư pháp, nhất là hình pháp. Mặc

dầu là pháp đình tối cao nhưng quyền hành của Tam Pháp ty không phải là “bất khả

xâm phạm” mà đối với những hình án có ảnh hưởng lớn đến nhân mạng và kinh tế

thì phải có sự kiểm xét của vua. Đây chính là một trong những yếu tố hạn chế sự

chuyên quyền của Tam Pháp ty nhưng nó cũng cho chúng ta thấy quyền “tối

thượng” của nhà vua dưới chế độ quân chủ.

- Hai là, dù quyền hành, trọng trách và khối lượng công việc rất lớn nhưng các

thuộc viên của Tam Pháp ty không phải là chuyên trách mà hầu hết các thuộc viên

của cơ quan này đều kiêm nhiệm và được “hợp nhất” từ Đô sát viện, Đại lý tự và bộ

Hình. Đây cũng là một tiến bộ nữa của triều Nguyễn trong việc xây dựng bộ máy

cũng như “dụng người”. Bởi, việc sử dụng thuộc viên của Đô sát viện, Đại lý tự và

bộ Hình đảm đương thêm công việc của Tam Pháp ty, một mặt hạn chế được số

lượng quan lại, mặt khác các thuộc viên này mặc dù đảm đương hai nhiệm vụ

nhưng cùng chuyên môn sẽ thuận lợi lớn cho họ khi thực thi nhiệm vụ của mình.

Đặc biệt, triều Nguyễn đã tạo cơ chế phối hợp trong hoạt động giữa cơ quan hành

pháp và tư pháp.

- Ba là, so với một số triều đại quân chủ Việt Nam trước đây, đó là triều

Nguyễn đã cho đặt trống Đăng văn để các “oan dân” có thể báo cho triều đình, Tam

Pháp ty biết về oan khuất của mình. Việc đặt trống Đăng văn phần nào tạo điều kiện

cho dân chúng nói lên tiếng nói dân nguyện của mình trước pháp luật cũng như hạn

chế quyền hành và tệ “quan tham” ức hiếp nhân dân của một bộ phận quan lại

[39:25].

Page 110: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

2.2.3. Phối hợp trong hoạt động kinh lược

“Kinh lược” là một thuật ngữ có nhiều khái niệm, cách dùng khác nhau. Theo

từ điển tiếng Việt, “kinh lược” có nghĩa là “thay mặt vua đem quân đi dẹp loạn, lập

lại trật tự ở một vùng thời phong kiến” [123:529]. Theo Từ điển Chức quan Việt

Nam, kinh lược là tên thuộc ngạch võ quan, thời Tống, kinh lược có nhiệm vụ “nắm

việc binh dân của một lộ”, dưới thời Pháp thuộc (từ năm 1886 – 1897) đây là chức

quan đại diện vua làm việc với Thống sứ Bắc Kỳ [48:377]… Trong Luận án này

thuật ngữ “kinh lược” được nghiên cứu là tên gọi của một hoạt động dưới triều

Nguyễn với nhiệm vụ thay mặt triều đình tiến hành thanh tra, giám sát và giải quyết

những việc cấp bách ở một số địa phương trong giai đoạn 1802 – 1885.

2.2.3.1. Quy định của triều Nguyễn và vai trò của cơ quan giám sát trong hoạt

động kinh lược

Hoạt động kinh lược đã được áp dụng từ thời Lê, đến thời vua Gia Long, chế

độ này tiếp tục được thực thi. Năm Gia Long thứ 9 (1810), vua đã sai Văn Nhân đi

kinh lược Nam Vang (Phnông Pênh ngày nay) để kiểm tra tình hình tạo phản và tiếp

tay cho quân Xiêm chiếm vùng biên viễn [68:802]. Thời Minh Mạng hoạt động này

được quan tâm nhiều hơn. Đến thời Thiệu Trị, đặc biệt là dưới triều vua Tự Đức,

tình hình của đất nước có nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp nhất là ở các tỉnh

Nam Kỳ, do đó việc tổ chức các phái đoàn kinh lược sứ đi kinh lý các tỉnh phía

Nam ngày càng nhiều và thường xuyên hơn.

Nhìn chung, trong hơn 80 thập niên từ năm 1802 đến năm 1885, triều Nguyễn

không có quy định cụ thể về lịch trình, thành phần, chế độ... trong hoạt động kinh

lược. Về thành phần tham gia hoạt động kinh lược, tùy theo mục đích của mỗi một

đợt kinh lược, vua và triều đình sẽ chọn những viên quan có chức năng tương ứng.

Tuy nhiên, điểm chung đó là những người được chọn đi kinh lược đều là những

viên quan lại thanh liêm, chính trực. Chẳng hạn, hàng năm hai trấn Nghệ An và

Thanh Hoa dân thường bị đói, phiêu bạt, giặc thường đánh phá, cướp bóc vùng biên

viễn… đến năm 1819, triều đình đã cho kinh lược hai địa phương này, thành phần

tham gia có Chưởng Tả quân Lê Văn Duyệt, Phó Đô thống chế Nguyễn Văn Trí, Vệ

Page 111: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

úy Tôn Thất Huy phục trách việc binh, Tham tri Lê Bá Phẩm giúp việc quân cơ,

Tham bồi Nguyễn Hựu Nghi sung làm giấy tờ trong quân [68:983]. Hay năm 1843,

vua Minh Mạng đã sai quyền lĩnh Tổng đốc An – Tĩnh là Nguyễn Văn Xuân làm

Kinh lược đại sứ, Thự Thống chế Thần sách Tiền dinh là Phạm Văn Điển làm Kinh

lược phó sứ đi kinh lược tình hình giặc nổi lên ở Trấn Ninh [71:55]…

Chính vì trọng trách nặng nề, thay mặt nhà vua đến các tỉnh thực hiện công tác

thanh tra và giám sát cũng như giải quyết tại chỗ các công việc quan trọng của địa

phương, triều Nguyễn rất quan tâm đến việc chọn lựa các quan đại thần tham gia

hoạt động kinh lược. Đó là những viên quan giỏi, có tư chất, đạo đức tốt. Nhất là hai

viên Kinh lược đại sứ (trưởng đoàn) và Kinh lược phó sứ (phó đoàn), thường là

những quan đại thần có tiếng thanh liêm. Năm 1836, triều đình phái Binh bộ

Thượng thư Cơ mật đại thần Trương Đăng Quế, Lại bộ Thượng thư Nguyễn Kim

Bảng; thự Lễ bộ Hữu thị lang Tôn Thất Bạch và thự Thông chính sứ Nguyễn Đắc

Trí đi kinh lược tình hình 6 tỉnh Nam Kỳ [71:880]. Năm 1850, vua Tự Đức chọn

Nguyễn Tri Phương sung làm Kinh lược đại sứ đi kinh lược các tỉnh Nam Kỳ,

Nguyễn Đăng Giai sung làm Kinh lược đại sứ đi kinh lược các tỉnh Hữu kỳ60

Phan Thanh Giản sung làm Kinh lược đại sứ đi kinh lược các tỉnh Tả kỳ61

.

Dưới các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, ngoài các quan đại thần,

thuộc viên của cơ quan giám sát cũng thường được chọn đi kinh lược. Năm 1840,

vua cho Tả Đô ngự sử là Nguyễn Công Trứ làm Tán lý cơ vụ cùng Kinh lược Phạm

Văn Điển và Nguyễn Tiến Lâm đem quân đi kinh lược dẹp giặc ở Trấn Tây

[72:861]. Khi đến nơi, các ông thấy thổ phỉ được quân Xiêm hỗ trợ đã gây không ít

khó khăn cho đoàn kinh lược cũng như dân chúng nơi đây nên ông đã đề xuất với

triều đình một số giải pháp để dẹp yên thổ phỉ và răn đe quân Xiêm, phòng trừ hiểm

họa cho dân như: tích trữ lương thực; cho tội phạm đang thụ án hay giam giữ ở các

nơi được lấy công chuộc tội, khi dẹp xong giặc đội ngũ này sẽ ở lại khai hoang, sinh

sống trên những vùng đất trước đây bị thổ phỉ chiếm đóng nhằm giúp triều đình

ngăn chặn thổ phỉ tiếp tục trở lại gây hấn… vua Minh Mạng đã chuẩn y đồng thời

60

Hữu kỳ là 3 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. 61

Tả kỳ là 3 tỉnh: Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận.

Page 112: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

cho tội phạm từ Quảng Bình trở vào phía Nam được đến Trấn Tây đánh giặc chuộc

tội [72:884-886]. Các giải pháp này đã giúp cho triều đình có được kế sách lâu dài

nhằm đối phó, ngăn ngừa âm mưu của thổ phỉ và quân Xiêm quấy rối vùng biên

giới.

2.2.3.2. Những đóng góp của hoạt động kinh lược

- Hạn chế sự những nhiễu của quan lại và góp phần làm trong sạch bộ máy

hành chính: Năm 1836, trong chuyến đi kinh lược lập địa bạ 6 tỉnh Nam Kỳ, kinh

lược Trương Minh Giảng và Trương Đăng Quế đã phát hiện Lãnh binh Hà Tiên là

Hoàng Văn Lý lợi dụng chức quyền cưỡng ép con gái của thường dân về làm vợ và

ức hiếp lấy tiền, tài sản của dân chúng địa phương, đoàn kinh lược đã khép Lý vào

tội giảo giam hậu, đồng thời xin lấy phó Lãnh binh Trấn Tây là Hoàng Quang

Thông làm Lãnh binh Hà Tiên thay Hoàng Văn Lý [71:968]. Cũng trong chuyến

kinh lược này, các quan kinh lược đã phát hiện Phó lãnh binh Gia Định là Nguyễn

Văn Hội “có tuổi, sức đã yếu, làm việc chậm chạp” [71:934], không thể đảm đương

được chức trách nên tâu kiến vua cho Hội về hưu, đồng thời đoàn kinh lược cũng

thấy Phó Vệ uý Nhị vệ Hậu bảo là Nguyễn Văn Tiến nhanh nhẹn, giỏi giang, lại có

chiến công nên xin sung bổ làm Phó lãnh binh Gia Định thay Nguyễn Văn Hội. Còn

Cai đội Trần Văn Quản đã từng trải trận mạc, xin cho thăng thụ Thành thủ uý, thự

Phó Vệ uý Nhị vệ Hậu bảo. Tất cả những tấu nghị này, vua Minh Mạng đều cho là

phải và dụ rằng: “Các khanh vâng mệnh đi kinh lược, ngay một việc này đã đủ thấy

có lòng công bằng, trung thực vì nước” [71:934].

- Khắc phục kịp thời hậu quả thiên tai, ổn định cuộc sống cho nhân dân: Năm

1827, sau khi đánh dẹp xong thổ phỉ ở Bắc thành, tình hình dân chúng đau khổ, điêu

tàn, phiêu tán mong được quan đại thần đi vỗ về, chiêu tập vậy, vua Minh Mạng đã

đem chuyện đó bàn với các quan lại trong triều và nói lên suy nghĩ của mình rằng

“Nguyễn Văn Hiếu trước ở Nam Định có tiếng về chính sự tốt, lại vốn hiểu rõ công

việc quan lại, tình tệ dân gian, sai đi kinh lược có được không?” [69:588]. Khi vua

đưa ra ý kiến như vậy, hầu hết các quan lại trong triều đều cho là được, vua quyết

định lấy Nguyễn Văn Hiếu làm Kinh lược đại sứ. Đi kinh lý cùng Nguyễn Văn Hiếu

Page 113: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

còn có Hoàng Kim Xán làm Phó sứ và Thân Văn Duy. Khi đến, Kinh lược sứ

Nguyễn Văn Hiếu tâu rằng: Dân hai trấn Sơn Nam, Nam Định trước bị giặc tàn phá,

trong đó có 35 xã thôn, trang trại bị “tàn hại rất dữ, dẫu ruộng chưa bỏ hoang hết,

dân chưa xiêu tán hết” nhưng “túng đói quẫn bách, không thể chịu nổi, nếu đợi đến

xiêu tán mới bàn rộng hoãn thì ngày sau vỗ về chiêu tập khó có hiệu quả. Sao bằng

cứu chữa trước cho dân được yên ở làm ăn, không phải xiêu tán, thì việc làm một

nửa mà công gấp đôi” [69:633-634]. Vua cho lời tâu là phải, sai tha thuế năm ấy,

những binh dao tạp dịch bỏ thiếu từ năm trước đều cho hoãn cả. Đồng thời, vua cho

các quan đi Kinh lược sứ là Nguyễn Văn Hiếu, Hoàng Kim Xán, Thân Văn Duy về

Kinh phục mệnh và dụ rằng: “Bọn ngươi kinh lược hai trấn Sơn Nam, Nam Định,

công việc vỗ yên dần đã đâu vào đấy, cũng toan sai đi khắp Bắc Thành xét hỏi

những điều đau khổ của dân để tỏ ý thương yêu tất cả” [69:633-634]. Với những

công lao đó, Nguyễn Văn Hiếu được thăng làm Đô thống chế Tả dinh quân Thần

sách nhưng vẫn kiêm lĩnh Trấn thủ Nghệ An; Hoàng Kim Xán làm Thượng thư

Hình bộ, Thân Văn Duy làm Hữu thị lang Hình bộ, đều thưởng gia 1 cấp; các quan

thuộc theo làm việc đều thưởng cho bạc tiền theo thứ bậc [69:633-634].

- Giúp triều đình chống giặc, dẹp cướp ổn định trật tự xã hội: Năm Gia Long

thứ 11 (1812), thổ phỉ ở Thanh Hoa là Nguyễn Tuấn tự xưng Hổ uy đô thống, tụ

đảng ở Nghệ An, lẩn lút ở khoảng Nam Đường, Đông Thành. Quản phủ Diễn Châu

là Lê Văn Quân đem quân đi tuần bắt, bị chúng giết. Việc tâu lên. Vua thấy lính trấn

chưa giỏi đánh trận, muốn lấy lính Kinh ra đánh riết, bèn sai Đô thống chế Trung

dinh quân Thần sách là Trần Công Lại quản lãnh quân vệ Long võ ra kinh lược

Nghệ An. Triệt án thủ Hà Trung là Phan Công Nghĩa về trấn, lấy 500 tinh binh

mạnh lệ theo. Lại sai Phó đô thống chế Tả dinh là Trịnh Ngọc Trị đem hơn 1.000

người Kinh đóng ở đồn Thổ Sơn chia đường ngăn chặn. Sau thấy địa phương đã yên

ổn, vua liền cho triệu Trần Công Lại và Trịnh Ngọc Trí về Kinh [68:833]. Hay năm

Gia Long thứ 16 (1815), cũng ở Thanh Hoa và Nghệ An nhân dân đói kém, thổ phỉ

nổi lên cướp bóc, hành hạ dân lành. Vua nghe tin, sai Phó đô thống chế Hữu dinh

quân Thần sách là Tôn Thất Bính đem lính Kinh hơn 2.900 người đến hai tỉnh này

kinh lược, đồng thời sai trấn thần địa phương gọi thêm biền binh thuộc trấn cùng

Page 114: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

với quan quân kinh lược dẹp thổ phỉ [68:960]. Dưới thời Minh Mạng, năm 1824,

vua thấy Tổng trấn Bắc Thành Lê Chất đi kinh lược Thanh Nghệ đã chia đặt canh

giữ, trộm cướp vì đấy mà dứt, lấy công thay chẩn, dân nghèo nhờ vậy mà sống,

nhân dân địa phương đã yên ổn nên cho ông về lỵ sở để tiếp tục kinh lược hai trấn

Hải Dương, Bắc Ninh để “cho giặc hết dân yên, cho trẫm khỏi lo về miền Bắc”

[69:352].

Việc kinh lược không chỉ đánh dẹp được giặc, đem lại bình yên cho dân chúng

mà có những đợt kinh lược đã thu phục được giặc sung làm lính, đứng về phía triều

đình. Năm 1819, trong chuyến kinh lược dẹp thổ phỉ ở Nghệ An và Thanh Hoa, Lê

Văn Duyệt đã thu phục được 900 giặc tuyển bổ làm lính và hàng năm thổ mục của

vùng núi Thanh – Nghệ hàng năm đều nguyện cống nộp cho triều đình [69:80].

Không những có nhiệm vụ đánh dẹp thù trong mà hoạt động kinh lược còn có

nhiệm vụ giữ gìn an ninh, bảo vệ những vùng trọng yếu của đất nước, nhất là những

vùng biên viễn thường xuyên bị giặc nhòm ngó, gây hấn. Năm Gia Long thứ 9

(1810), vua đã sai Văn Nhân đi kinh lược Nam Vang (Phnông Pênh ngày nay) để

kiểm tra tình hình tạo phản và tiếp tay cho quân Xiêm chiếm vùng biên viễn

[68:802]. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), đoàn kinh lược và tướng quân ở Trấn Tây

tâu bày về tình hình thổ phỉ được sự giúp sức của quân Miên, quân Xiêm và quân

Ai Lao đã nổi lên quấy rối vùng Trấn Tây, làm cho quan lại ở vùng này vào thế rất

khó xử lý.

Đối với những đợt kinh lược liên quan đến giặc, thổ phỉ gây hấn hay tình hình

dân bất ổn… ngoài những viên đại thần trên, triều đình thường chuẩn cho một

lượng lính hoặc biền binh đi theo để giúp ổn định tình hình, thậm chí có thể dùng vũ

trang để khống chế sức mạnh của đối phương.

So với hoạt động của Tam Pháp ty, vai trò của Đô sát viện và các khoa, đạo

trong hoạt động kinh lược ít hơn. Nguyên do là vì hoạt động của Tam Pháp ty chủ

yếu thuộc lĩnh vực tư pháp còn hoạt động của kinh lược sứ chủ yếu là liên quan đến

lĩnh vực hành pháp, trong khi đó chức năng chính của Đô sát viện và các khoa, đạo

là tư pháp…

Page 115: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

2.2.4. Phối hợp thực hiện một số nhiệm vụ khác

2.2.4.1. Hội đồng trong hoạt động thanh tra

Dưới bốn vị vua đầu triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885, theo định kỳ triều

đình thường phái đoàn đi thanh tra các bộ, các địa phương để tra xét các một số hoạt

động liên quan như chế độ tiền lương ở bộ Hộ, tình hình quản lý ở Võ khố, Nội vụ,

thanh tra việc thu thuế ở các địa phương...

Đối với hoạt động thanh tra các địa phương, năm thứ 15 (1816), vua Gia Long

đã cho định lại theo định kỳ 4 năm 1 lần. Cụ thể, ở Bắc Thành tổ chức thanh tra vào

các năm Tý, Ngọ, Mão và Dậu; còn từ Quảng Đức trở vào tổ chức thanh tra vào các

năm Thìn, Tuất, Sửu và Mùi [68:939-940]. Đến thời Minh Mạng, định hạn thanh tra

vẫn như trước đây nhưng cả nước đều được vào các năm Tý, Ngọ, Mão và Dậu

[69:63]. Đến năm 1844, vua Thiệu Trị cho đổi định lại khóa lệ thanh tra kho ở các

địa phương tất cả thành 6 năm/lần. Thành phần tham gia đoàn thanh tra vẫn như

trước đây, đó là tỉnh lớn “dùng Lang trung hoặc Chưởng ấn; tỉnh vừa thì Viên ngoại

lang hoặc khoa, đạo” [73:699].

Đối với thanh tra các nha, bộ, triều Nguyễn chủ yếu tập trung thanh tra các

kho cất giữ tài sản và các xưởng chế tác đồ dùng quý hiếm... cho triều đình như Võ

khố, Nội vụ, Mộc thương... Sau đây là khái quát về lệ định các khóa thanh tra các

nha, bộ của triều Nguyễn trong giai đoạn 1802 – 1885:

- Năm 1827, vua Minh Mạng ban định khóa thanh tra bộ Công theo định kỳ 6

năm 1 khóa, vào các năm Tỵ và Hợi [69:597]. Năm 1829, vua Minh Mạng định lệ

thanh tra kho thuốc đạn theo định kỳ 12 năm/1 lần [69:909].

- Năm 1833, trước tình hình các án phạt ở bộ Hình có sung công ruộng, đất,

bạc, tiền, thóc, gạo, khí giới, bằng sắc... vua Minh Mạng tiến hành cho thanh tra bộ

Hình khóa đầu tiên, với thành phần 1 viên Thị lang làm Đổng lý, 1 Viên ngoại lang,

9 Bát, Cửu phẩm thư lại. Sau đó, vì việc sung công của bộ Hình có liên quan đến bộ

Hộ nên cho ghép khóa thanh tra hai bộ này làm một, với thành phần 1 Viên ngoại

Page 116: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

lang hoặc Chủ sự, 3 Bát/Cửu phẩm thư lại đi theo viên Đổng lý, chuyên làm sự việc

thanh tra bộ Hình [70:516].

- Năm 1837, cùng với việc cho đặt nha môn Mộc thương, vua Minh Mạng đã

định lệ khóa thanh tra cơ quan này 6 năm/lần vào các năm Tỵ, năm Hợi [72:97].

Đến năm 1844, vua Thiệu Trị cho đổi định niên khóa thanh tra Mộc thương vào các

năm Tý và năm Ngọ còn Võ khố thì lấy năm Sửu và năm Mùi (trước đây Võ khố

được thanh tra vào các năm Dần và năm Thân) [73:689].

- Năm 1878, vua Tự Đức cho định lại niên khoá thanh tra phủ Nội vụ, Võ khố,

các kho ở Kinh và kho các tỉnh đều 3 năm/1 lần (trước đây phủ Nội vụ 3 năm/1 lần,

Võ khố 4 năm/1 lần, các kho ở Kinh và kho các tỉnh 6 năm/1 lần). Còn sở thuốc

súng, quân Thuỷ sư trước đây 12 năm/1 lần nay đổi 5 năm/1 lần [75:279].

Các quy định trên đây cho thấy, hầu hết cơ quan, kho tàng quan trọng lưu giữ

đồ vật, lương thực... đều được triều Nguyễn định các khóa thanh tra theo định kỳ.

Về thành phần tham gia hoạt động thanh tra, triều Nguyễn cũng không có quy

định cụ thể nhưng nhìn chung, triều đình thường chọn lựa những quan, lại có chức

năng liên quan đến đối tượng thanh tra và có sự phối hợp liên, đa ngành. Trong đó,

đứng đầu đoàn thanh tra là 1 viên Đổng lý – Trưởng đoàn, 1 viên Phó Đổng lý và 1

viên Hiệp lý cùng một số quan, lại thuộc cơ quan khác nhau giúp việc. Tùy theo

tính chất và sự phức tạp của mỗi khóa thanh tra, thành phần và số lượng quan, lại

tham gia đoàn cũng khác nhau. Có những khóa thanh tra, triều đình ban đầy đủ các

chức Đổng lý, Phó Đổng lý và Hiệp lý cùng một số quan, lại khác nhưng cũng có

những khóa thanh tra có thể thiếu chức Phó Đổng lý hoặc Hiệp lý. Đổng lý là chức

bắt buộc phải có của mỗi khóa thanh tra.

Hầu hết các khóa thanh tra đều có thuộc viên của cơ quan giám sát, nhất là

thuộc viên của các khoa, đạo. Các thuộc viên của cơ quan giám sát khi được triều

đình cử tham gia các đoàn giám sát thường được giữ các vị trí như Đổng lý, Phó

Đổng lý hoặc Hiệp lý. Trong đó, chức Đổng lý “thường lấy các quan từ tứ phẩm

trong số các quan khoa, đạo của Đô sát viện cho làm” [48:257]. Năm 1838, khi

Page 117: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

thành lập đoàn thanh tra các hạt từ Ninh Bình đến Quảng Ngãi, vua Minh Mạng đã

lấy Thự Chưởng ấn Cấp sự trung Hình khoa Nguyễn Văn Đạt làm Đổng lý

[72:436].

Đối với một số khóa thanh tra, các gián quan chỉ là chức Phó Đổng lý. Năm

1837, khi cho thanh tra Mộc thương, triều đình đã cho Trần Hiển Doãn, Biện lý bộ

Binh sung chức Đổng lý còn Ngự sử đạo Định An là Nguyễn Xuân Quang làm Phó

Đổng lý [72:140]. Hoặc chỉ giữ chức Hiệp lý, như năm 1836, khi cho thanh tra bộ

Hộ và bộ Hình, vua Minh Mạng cho phái Thị lang bộ Lại là Tôn Thất Bạch và Biện

lý bộ Binh là Nguyễn Hợp sung làm Chánh, Phó Đổng lý còn Cấp sự trung Lễ khoa

Mai Hữu Điển được sung làm Hiệp lý [71:1072]. Trong một số khóa thanh tra, triều

đình không phân định rõ chức trách của các thành viên trong đoàn, kể cả thuộc viên

của các khoa, đạo. Năm 1842, Biện lý bộ Lại Vũ Đức Nhu và Thự Chưởng ấn Cấp

sự trung Lại khoa Vũ Danh Trì cùng thanh tra Nội vụ phủ (không phân định chức

trong đoàn) [73:375]. Năm 1842, Biện lý bộ Hình là Lê Nguyên Giám và Thự

Chưởng ấn Cấp sự trung Hình khoa Mai Khắc Mẫn cũng đi thanh tra Võ khố

[73:380]...

Các thuộc viên của cơ quan giám sát không chỉ có vai trò trong hoạt động

thanh tra mà trong một số trường hợp đặc biệt, nhất là những đợt thanh tra liên quan

đến lĩnh vực tư pháp, tổ chức này còn được triều đình giao xét xử các hình án là kết

quả của các đợt thanh tra. Năm 1836, sau khi đoàn thanh tra của triều đình thanh tra

việc Nội các và các nha thuộc lục bộ làm thất lạc việc quan đến hơn 2.000 khoản,

Đô sát viện đã xin bắt tội hơn 100 người, vua Minh Mạng cho phạt có thứ bậc khác

nhau [71:1077]. Bên cạnh đó, cơ quan giám sát và thuộc viên của tổ chức này

còn có quyền giám sát và đàn hặc độc lập mỗi khi hoạt động này có dấu hiệu

sai phạm quy định của triều đình. Chẳng hạn, năm 1840, Chưởng ấn Cấp sự trung

Hộ khoa Vũ Trọng Bình đã từng tham hặc Giám sát ngự sử đạo Bình Phú là

Nguyễn Thị khi đi thanh tra Phú Yên về đã lấy vợ lẽ, mua ngựa [72:681-682]; năm

1842, ông tiếp tục tham hặc Viên ngoại lang bộ Hình là Lê Ngọc Chấn vì tội trong

Page 118: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

khi đi thanh tra ở Hà Tĩnh đã bắt 14 tên phu trạm và 2 con ngựa trạm để vận tải đồ

vật của mình, vua đã xử Lê Ngọc Chấn tội mãn đồ62

[73:421]…

Với trọng trách được triều đình giao phối hợp tham gia hoạt động thanh tra các

kho, xưởng ở Kinh và hoạt động của địa phương, các thuộc viên của cơ quan giám

sát triều Nguyễn đã có những đóng góp nhất định. Năm 1841, Chưởng ấn Đặng

Quốc Lang được phái đi thanh tra việc Bố chính tỉnh Quảng Yên là Bùi Cung Tiên

và Án sát tỉnh Quảng Yên là Vũ Viết Sĩ trước đây khi thu thuế thương nhân nhà

Thanh đã làm thiếu mất 1.000 quan tiền, vua phạt Bùi Cung Tiên đi làm lính ở đảo

Phú Quốc, Vũ Viết Sĩ đi phục dịch ở Đà Nẵng [73:244].

Tuy nhiên, nếu như hoạt động của Tam Pháp ty và Kinh lược sứ chủ yếu là

“chữa bệnh”/ngăn ngừa “mối tệ” và khắc phục hậu quả thì hoạt động thanh tra của

triều Nguyễn chủ yếu là “phòng bệnh”. Cụ thể, trong khi hoạt động của Tam Pháp

ty và Kinh lược sứ được triển khai khi sự việc đã xảy ra, đột xuất và không theo

định kỳ thì hoạt động thanh tra là theo định kỳ và là hoạt động gắn với sự việc chưa

hoặc đang xảy ra nhiều hơn là sự việc đã xảy ra. Bởi vậy, so với hoạt động của Tam

Pháp ty và Kinh lược sứ, hoạt động thanh tra dường như không có đóng góp trực

tiếp mà chỉ là những đóng góp gián tiếp. Đó là là khi đoàn thanh tra đến thanh tra

các hoạt động đang diễn ra của các xưởng hay việc đang thu chi của các kho sẽ

ngăn không cho các quan tham ở đây thực hiện được âm mưu tư lợi của chúng…

Song song những đóng góp trên, trong quá trình phối hợp tham gia hoạt động

thanh tra, một số thuộc viên của cơ quan giám sát triều Nguyễn cũng đã phạm phải

những lỗi lầm buộc triều đình phải có những hình thức kỷ luật. Chẳng như năm

1845, Quyền Chưởng ấn Cấp sự trung Hình khoa Trình Nho khi được giao phái đi

thanh tra ở Nghệ An đã nhận bừa đơn kiện của dân hạt Hà Tĩnh và vu khống Tri

huyện Hương Sơn là Hồ Mậu Đức nhận của lót. Tuy nhiên, khi Tam Pháp ty điều

tra sự thật là ông nhận đơn không đúng quy định và vu khống Hồ Mậu Đức, vua

Thiệu Trị đã phạt Trình Nho “phải tội thắt cổ cho chết, nhưng còn giam để đợi chỉ”

62

Mãn đồ là niên hạn tối đa trong tội đồ.

Page 119: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

[73:753]. Hình phạt này phần nào đã góp phần trừng trị và răn đe đội ngũ quan lại

lợi dụng chức quyền khi triều đình ban cho để hãm hại dân chúng và cấp dưới.

2.2.4.2. Hội đồng giám sát, kiểm xét việc thu, chi ở các kho

Dưới triều Nguyễn, Nội vụ, Võ khố là nơi tụ hội của cải, còn Đốc công ở Nội

vụ, Nội tạo, Đốc công ở Võ khố là xưởng chế tác đồ dùng, vật hạng quý cho vua và

triều đình. Do vậy, nếu không quản lý chặt chẽ sẽ xảy ra trình trạng tư lợi, thất thoát

tài sản quý hiếm của triều đình. Dưới thời trị vì của mình, các vị vua đầu triều

Nguyễn đều có những quy định để kiểm tra, giám sát việc thu phát ngân khố, tài sản

của các quan, lại ở Nội vụ, Võ khố và Đốc công. Trong đó, triều Nguyễn đã giao

cho cơ quan giám sát phối hợp chặt chẽ với cơ quan có liên quan để giám sát các

hoạt động ở Nội vụ, Võ khố và Đốc công, cụ thể như:

- Dưới thời Minh Mạng, năm thứ 13 (1832) chuẩn định: đối với các đồ dùng

của vua, giao cho Nội các, Thị vệ hội đồng với Nội vụ phủ xét xem; đối với các vật

hạng thu chi, chuẩn cho bộ Hộ, bộ Công và Đô sát viện đều phái thuộc viên hội

đồng với Nội vụ phủ thường xuyên đến để kiểm tra, xem xét. Năm 1835, vua Minh

Mạng sai Tả phó Đô ngự sử Phan Bá Đạt và một số đại thần triều đình đến Võ khố,

cứ thay đổi 10 ngày một phiên, mỗi phiên 1 viên đến kiểm tra. Đối với các viên

khoa, đạo “giữ việc tuần tra, trước chuẩn định mỗi tháng đến Nội vụ 3 lần, đến Võ

khố 2 lần, nay đổi làm cứ cách 2 ngày đến 1 lần” [79:55], [71:496-497]. Đến năm

thứ 18 (1837), vua Minh Mạng cho định lại: “lấy bộ Hộ, bộ Công, Đô sát viện, viện

Cơ mật làm 4 nha, phàm các đồ vật may, thêu ở công sở Nội vụ chi ra, đều do phái

viên 4 nha hội đồng biên vào sổ, Võ khố cũng theo như thế” [73:778-781].

- Dưới thời Thiệu Trị, năm 1842, triều đình chuẩn định: “sở Đốc công Võ khố,

do Bộ Công, Đô sát viện phái người 5 ngày 1 lần đến trước xem xét, nếu để chậm,

chi quá, ăn bớt thì hặc” [73:778-781]... Năm 1841, Võ khố tâu việc nhập đồng từ

Tuyên Quang về Hà Nội để đúc đã bị thiếu 500 cân, vua Minh Mạng đã cho phái

các viên ở khoa, đạo và bộ ty mỗi nơi 1 người hội đồng đến để tra xét tâu lên

nghiêm trị. Hầu hết các hoạt động xuất nhập ở tất cả các kho của triều đình đều

được phái viên của Đô sát viện hội đồng để theo dõi, giám sát. Năm 1878, vua Tự

Page 120: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Đức sai quan khoa, đạo Trần Đình Liêm hội đồng với Bố chính Đồng Sĩ Vịnh, Án

sát Nguyễn Duy Kế kiểm xét tình hình các kho ở Kinh đô. Sau khi kiểm xét, tổng

các kho thiếu hụt tiền, thóc, gạo tính thành tiền hơn 100.000 quan. Vua cho xử phạt

các quan liên quan thích đáng63

[75:328]. Đặc biệt, năm 1835, khi cho đúc đỉnh

đồng, vua Minh Mạng đã phái 2 viên khoa, đạo và 2 viên quản vệ cùng đôn đốc,

kiểm soát việc đúc đỉnh [71:793]. Giám sát cả việc đóng thuyền, năm 1840, Bộ

Công tâu ngày 03/6/1840 khởi công đóng thuyền Kim Ưng xin phái một viên khoa,

đạo và một viên thuộc ty (của Bộ Công) để kiểm soát, vua Minh Mạng đã y tâu

[119:27].

Trước đây, cuối hàng năm, Đô sát viện phái 1 viên khoa, đạo hội đồng với

nhân viên cục in sách kiểm đếm những mảnh chữ bằng thiếc, làm sổ coi giữ dâng

lên nhưng kể từ năm 1870, vua Tự Đức cho định lại thể lệ kiểm tra chữ thiếc ở cục

in sách cứ cách 1 năm Đô sát viện phái 1 viên khoa, đạo, còn bộ Lễ và Sử quán phái

thuộc mỗi cơ quan 1 viên quan hàm lục hoặc thất phẩm, các bộ: Lại, Hộ, Binh,

Công mỗi bộ chọn phái 1 thư lại cùng đến cục in sách “hội đồng sức làm kiểm điểm

mảnh chữ ấy và các hiệu sách ván in hiện giữ” [74:1215] để tránh thất thoát.

Hoạt động giám sát của Đô sát viện và cơ quan đối với các kho dự trữ, xưởng

chế tác... đã góp phần cho triều đình quản lý tốt và hạn chế thất thoát tài sản của

triều đình cũng như trừng trị kịp thời, thích đáng những tên quan, lại không có trách

nhiệm trong việc quản lý hoặc bòn rút tài sản công.

2.2.4.3. Hội đồng giám sát, kiểm xét trường thi

Kể từ triều vua Minh Mạng trở đi, hầu hết tại các trường thi ở triều đình và các

địa phương, triều đình thường giao cho các thuộc viên của cơ quan giám sát có

trọng trách giám sát mọi hoạt động của trường thi. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846),

triều đình đã phái Chưởng ấn Cấp sự trung Lại khoa Nguyễn Kim Thuận và Cấp sự

trung Công khoa Trần Gia Ty cùng hội đồng giám sát trường thi Hà Nội, còn Cấp

sự trung Lễ khoa Tôn Thất Nghĩ và Giám sát Ngự sử đạo An Tĩnh Hồ Tấn Dụng

63

Các chủ điển thủ, phòng bạ (Bùi Hữu Thuyết, Vũ Văn Cung, Lê Đức Tuấn, Hà Văn Vọng, Nguyễn Đình

Tuân, Trần Danh Mỹ) đều phải trảm quyết giam bồi, Sơn phòng tỉnh Quảng Nam Nguyễn Tạo (trước đây là

Bố chính) bị cách cho làm việc chuộc tội.

Page 121: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

cùng hội đồng giám sát trường thi Nam Định [120:324]. Ngoài trách nhiệm giám

sát, cơ quan giám sát còn được triều đình giao cho một nhiệm vụ cũng không kém

phần quan trọng nữa đó là cùng hội đồng chấm lại trong các kỳ thi Hội. Trước đây,

thi Hội không có quy định chấm lại nhưng kể từ năm 1871, vua Tự Đức cho rằng để

tránh “câu nệ về thể cách bó buộc, để đến nỗi bỏ sót người có tài, chớ lấy rộng quá,

để có người trà trộn được” [74:1274], đồng thời đảm bảo công bằng cho thí sinh,

chọn được người tài cho đất nước nên cho chuẩn định lệ thi Hội phải chấm lại. Cụ

thể, sau khi bài thi Hội được quan trường chấm xong thì “đem cả những quyển thi

kỳ thứ 4 được dự vào hàng đỗ và những quyển thi 3 kỳ đều đỗ cả” [74:1274] giao

cho Đô sát viện hội đồng với bộ Lễ và Nội các xét lại ở viện Tả đãi lậu64

. Quy định

này cho thấy, ngoài trách nhiệm giám sát quá trình tổ chức thi tại các trường thi, cơ

quan giám sát còn có trách nhiệm hội đồng, phối hợp với với bộ Lễ và Nội các để

xét kết quả của các kỳ thi Hội. Nếu kết quả thi không đúng với thực tế hoặc có

những sai sót, không công bằng, thuộc viên của tổ chức này có quyền và trách

nhiệm hội đồng với cơ quan khác hặc tâu để triều đình trị tội theo pháp luật, nhằm

đảm bảo công bằng cho thí sinh cũng như chọn lựa được nhân tài cho đất nước.

Bên cạnh nhiệm vụ giám sát hoạt động của trường thi, các thuộc viên của cơ

quan giám sát còn được triều đình tin tưởng giao cho phối hợp với thuộc viên của

cơ quan chuyên trách khác tham gia tổ chức trường thi. Chẳng hạn, năm 1835, tại

kỳ thi Đình, vua Minh Mạng đã cho Phó Đô ngự sử Phan Bá Đạt cùng với Thượng

thư bộ Binh Trương Đăng Quế, Hữu thị lang bộ Công Hà Tông Quyền và Đại lý tự

khanh Phan Thanh Giản đều sung chức độc quyển65

[71:674]. Một ví dụ nữa là

Minh Mạng năm thứ 21 (1840), tại khoa thi Hương, vua sai Hữu Tham tri bộ Binh

kiêm Tả phó Đô ngự sử Đô sát viện là Nguyễn Công Trứ sung làm Chủ khảo trường

Hà Nội [72:816]. Như vậy, lúc này thuộc viên của cơ quan giám sát không phải

thực thi nhiệm vụ giám sát trường thi mà vai trò của ông là một trong những người

thực thi nhiệm vụ tổ chức trường thi. Hay nói cách khác, lúc này vai trò của các

gián quan là thực hiện công tác hành pháp chứ không phải là công tác tư pháp.

64

Nhà ngồi chờ bên tả ở Phủ Nội vụ. 65

Đọc quyển thi.

Page 122: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

2.2.4.4. Hội đồng kiểm tra, giám sát hoạt động ở các lăng tẩm

Lăng tẩm, đền miếu và những nơi thờ cúng của triều đình là chỗ tôn nghiêm

và là nơi có các đồ thờ tự quý giá. Theo định kỳ hàng tháng, hàng năm triều đình

thường tổ chức cúng tế. Để các hoạt động được nghiêm trang, tỏ rõ sự tôn kính đối

với các bậc tiền nhân, tổ tiên và không thất thoát, mất mát đồ thờ tự, triều Nguyễn

đã có những quy định cụ thể về quản lý hoạt động tại các lăng tẩm, nơi thờ tự của

triều đình. Như dưới triều vua Minh Mạng, năm 1835, triều đình giao phái quan

khoa, đạo, Lễ ty, Thị vệ mỗi tháng (mỗi cơ quan đều cử 1 người) cùng hội đồng đến

lăng Thiên Thọ66

tuần tra 2 lần. Đối với tôn lăng các đế, hậu... theo định kỳ mỗi

tháng quan khoa, đạo và Thị vệ (mỗi cơ quan đều 1 người) phối hợp với thuộc viên

Thái thường tự, Suất đội Vũ lâm, Cấm binh (mỗi cơ quan đều 2 người) chia nhau

đến tuần tra một lần. Nội dung kiểm tra là “phàm trong ngoài thành lăng, phải giữ

cho được hoàn toàn sạch sẽ, đồ tế tự phải được tề chỉnh, cây cối cần được xanh

tốt...” [71:506]. Nếu có gì không đúng quy định, cứ thực nghiêm hặc. Đồng thời,

vua Minh Mạng cũng cho chế 4 chiếc bài ngà “Khâm phái tuần tra” và giao cho Đô

sát viện giữ để tới kỳ tuần tra cấp cho đoàn. Đối với các đồ thờ quý, năm 1836, vua

Minh Mạng quy định “những đồ thờ không phải đem bày ngày thường thì đều kính

cẩn cất vào trong tủ vàng” [71:1018], mỗi khi cần dùng hay cất, ty Từ tế báo cho

các bộ, ty và khoa, đạo kiểm tra số lượng sau đó niêm phong đánh dấu để trách hư

hỏng, thất thoát. Nếu xét thấy có tình tệ xâm phạm, gian trá, tráo đổi, thì các khoa,

đạo phải nghiêm hặc.

2.2.4.5. Hội đồng trong một số hoạt động khác

Cùng với việc tham gia các hoạt động trên, cơ quan giám sát và thành viên của

tổ chức này còn phối hợp với cơ quan khác để giúp triều đình trong lĩnh vực hình án

mà các địa phương, bộ Hình hay Tam Pháp ty xét không hết hoặc kết quả xét xử

không thỏa đáng. Năm 1838, trước tình hình số lượng án nguỵ ở Gia Định quá lớn,

hơn 360 người. Vua lập tức dụ sai Giám sát ngự sử Nguyễn Văn Thịnh và Thị giảng

66

Lăng Gia Long.

Page 123: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

học sĩ sung biện Các vụ Lê Khánh Trinh mang cờ bài, đem cả thuộc ty trấn phủ bộ

Hình hội đồng với thự án sát là Nguyễn Văn tra xét [72:267].

Khi công việc xét xử của bộ Hình và Tam Pháp ty quá nhiều không thể hoàn

thành theo quy định của triều đình, vua đã giao cho thuộc viên các khoa, đạo cùng

hội đồng với thuộc viên của các ngành khác để xét xử. Chẳng như năm 1842, trước

tình hình đơn của nhân dân các tỉnh từ Quảng Trị trở ra Bắc có đến 4.000 lá gửi về

cho triều đình nhưng Tam Pháp ty khó có thể xét hết được, vua Thiệu Trị bèn cho

sai thuộc viên của các khoa, đạo (Chưởng ấn Cấp sự trung Lễ khoa Phan Văn

Xưởng, Chưởng ấn Cấp sự trung Công khoa Đặng Quốc Lương) cũng tham gia để

xét xử cho kịp thời gian và đáp ứng nguyện vọng của dân chúng [73:329].

Hoạt động tư pháp, nhất là hình án thuộc về trách nhiệm của bộ Hình hoặc

Tam Pháp ty. Tuy nhiên, năm 1832, khi cho đặt Đô sát viện, triều Nguyễn đã quy

định thêm. Đối với những án do bộ Hình tra tra xét nhưng nếu án nào chưa rõ ràng,

xét xử chưa thỏa đáng, Đô sát viện được niêm phong để tâu lên vua [70:404]. Với

quy định này, trong một số trường hợp nhất định, Đô sát viện có thể có quyền hơn

cả pháp đình tối cao của triều đình là Tam Pháp ty.

Ngoài việc tham gia các hoạt động trên, Đô sát viện và các khoa, đạo còn phối

hợp, liên kết trong tham gia một số lĩnh vực khác như: tham gia biên soạn các bộ sử

lớn của triều Nguyễn [74:394]; tham gia tuyển lính và kiểm duyệt biền binh

[71:953]; tham gia điều chỉnh giá gạo [71:780]... Việc tham gia các hoạt động này

chứng tỏ triều đình đã rất tin tưởng vai trò của cơ quan giám sát và thực tiễn hoạt

động tổ chức này cùng các thành viên của họ đã có những đóng góp nhất định.

*

* *

Song song với việc quan tâm xây dựng cơ cấu tổ chức, các vị vua đầu triều

Nguyễn, từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức, nhất là vua Minh Mạng

cũng đã ban định cho cơ quan giám sát một hệ thống cơ chế hoạt động khá đầy đủ

Page 124: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

và chặt chẽ. Cơ chế đó vừa có tính độc lập nhưng vừa có sự phối hợp và được biểu

hiện trên tất cả các hoạt động từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội và quốc

phòng, an ninh.

Đối với cơ chế độc lập, triều đình quy định trong quá trình hoạt động, Đô sát

viện, lục khoa, Giám sát ngự sử và các ngôn quan, gián quan không chỉ có quyền

độc lập với nhau mà cơ quan giám sát còn có quyền độc lập với cơ quan, tổ chức

khác để thực thi các hoạt động như: can gian vua và hoàng thân quốc thích, giám sát

các hoạt động triều chính, giám sát hoạt động của tất cả cơ quan và quan lại từ trung

ương đến địa phương... Đặc biệt, triều Nguyễn đã cho phép các thuộc viên của cơ

quan giám sát dù lớn hay nhỏ đều được quyền can gián vua và hoàng thân quốc

thích. Hoạt động can gián vua đã góp phần hạn chế sai sót trong quá trình điều hành

của vua, đàn hặc hoàng thân quốc thích nhằm ngăn chặn phần nào tình trạng “cậy

quyền, cậy thế” và nguy cơ lấn lướt quyền của vua từ một số người trong hoàng tộc.

Đây là một điểm mới và tiến bộ dưới chế độ quân chủ ở Việt Nam. Tuy nhiên, dù

không bị ràng buộc bởi một cơ quan, tổ chức hay được ban quyền hạn lớn mấy

chăng nữa thì quyền tối thượng vẫn là thiên tử.

Triều Nguyễn có phân định khá rõ ràng trách nhiệm của cơ quan giám sát. Tuy

nhiên, thực tiễn triều đình cho cho phép các gián quan, ngôn quan trung ương được

quyền tâu hặc những lỗi lầm của quan lại địa phương; ngược lại, gián quan, ngôn

quan địa phương cũng được quyền giám sát quan lại ở trung ương – giám sát vượt

cấp. Đây chính là cơ chế thanh tra, giám sát chéo trong bộ máy để không chỉ các

gián quan giám sát quan lại mà các gián quan có thể giám sát lẫn nhau.

Đối với cơ chế phối hợp, các vị vua đầu triều Nguyễn quy định trong quá trình

thực thi vai trò, nhiệm vụ của mình, cơ quan giám sát cần phải có sự phối hợp nội

bộ. Đó là phối hợp, liên kết giữa các Trưởng quan của Đô sát viện với các gián quan

cấp khoa, cấp đạo và liên kết trong nội bộ các quan cấp khoa hay các quan cấp đạo

với nhau. Thứ hai là cơ quan giám sát và thành viên của tổ chức này phối hợp với

thành viên và cơ quan, tổ chức khác. Cơ chế này được thể hiện qua các hoạt động

như: Đô sát viện hợp với Đại Lý tự và bộ Hình thành Tam Pháp ty; tham gia hoạt

động kinh lược; tham gia các hoạt động thanh tra, giám sát các kho, xưởng, lăng

tẩm, các kỳ thi do triều đình tổ chức và tham gia các hoạt động tư pháp và hành

Page 125: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

pháp khác... Trong đó, điển hình nhất là hoạt động của Tam Pháp ty và hoạt động

Kinh lược sứ. Hai hoạt động này có những khác biệt nhất định. Một là hoạt động

của Tam Pháp ty chủ yếu liên quan đến lĩnh vực tư pháp, trong khi hoạt động Kinh

lược thuộc lĩnh vực hành pháp. Hai là, về không gian hoạt động của Tam Pháp ty

chủ yểu diễn ra ở Kinh đô còn các thành viên tham gia hoạt động Kinh lược sứ chủ

yếu đến các địa phương. Ba là, về tổ chức, Tam Pháp ty là tổ chức hợp nhất của bộ

Hình, Đại lý tự và Đô sát viện, còn hoạt động Kinh lược chỉ đơn thuần là một hoạt

động của triều đình được tổ chức không theo định kỳ, tổ chức của hoạt động cũng

không thống nhất là thành phần về chức vị. Một điểm nữa đó là hoạt động của Tam

Pháp ty được phân định cụ thể, trong khi hoạt động của Kinh lược sứ tùy thuộc vào

tình hình cụ thể của mỗi địa phương. Khi địa phương nào đó có cướp bóc, địch họa

hay thiên tai đe dọa, dân xiêu tán thì triều đình sẽ cử đoàn kinh lược đến để thay

triều đình giải quyết...

Với vai trò là thành viên của pháp đình tối cao, các thành viên của Đô sát viện

đã có những đóng góp lớn trong việc xét xử các án oan, các vụ án có ảnh hưởng lớn

đến tính mạng của cải của nhà nước và nhân dân. Việc triều Nguyễn cho treo trống

Đăng văn để các oan dân có thể đến đánh trống kêu oan, thể hiện dân nguyện với

vua và triều đình. Đây là một yếu tốt khá tích cực dưới chế độ quân chủ ở Việt Nam

nói chung và triều Nguyễn nói riêng.

Đối với hoạt động thanh tra, giám sát các kho, xưởng của triều đình các ngôn

quan, gián quan và thuộc viên của các tổ chức liên quan cũng đã hội đồng thực hiện

tốt nhiệm vụ vua và triều đình giao nhằm trừng trị những viên quan lại tham ô, tư

lợi của công và giúp triều đình quản lý tài sản quý của nhà nước.

Nhìn chung, dù phối hợp hay độc lập, trong quá trình vận hành cơ quan giám

sát, triều Nguyễn có một điểm tích cực nữa đó là đối với hoạt động giám sát ở các

địa phương ngoài Kinh đô, ngoại trừ những vấn đề trọng đại, triều đình cho phép

thuộc viên của cơ quan giám sát và cơ quan khác được quyền giải quyết, xử lý theo

quy định sau đó tâu báo vua và triều đình sau. Đặc quyền này phần nào giúp giảm

tải công việc cho triều đình nhưng đặc biệt nó đã giải quyết kịp thời vụ việc góp

phần hạn chế thiệt hại, phiền hà cho dân chúng.

Page 126: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Chương 3

NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ

TRONG CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG

CỦA CƠ QUAN GIÁM SÁT TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885

3.1. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ TRONG CƠ CẤU TỔ CHỨC

Trải qua hơn 80 năm (1804 – 1885) ra đời và hoàn thiện, từ các chức Tả/Hữu

Đô ngự sử được vua Gia Long đặt ra năm 1804, đến năm 1832, vua Minh Mạng xây

dựng thành một tổ chức đầy đủ từ trung ương đến địa phương, sau đó vua Thiệu Trị

và vua Tự Đức tiếp tục kế thừa cho thấy, trong quá trình đó cơ quan giám sát của

triều Nguyễn có những đóng góp và hạn chế như sau:

3.1.1. Những đóng góp

- Đóng góp thứ nhất, để xây dựng được một cơ cấu cơ quan giám sát hoàn

chỉnh, các vị vua đầu triều Nguyễn đã tiếp thu kinh nghiệm của các triều đại quân

chủ Việt Nam trước đó, nhất là triều Lê và triều Thanh (Trung Quốc) đương thời.

Tuy nhiên, sự tiếp thu đó là có sáng tạo chứ không phải rập khuôn, máy móc và như

vua Minh Mạng đã từng nói: Triều đại ta có chế độ riêng không giống với điển lễ

nhà Thanh [70:361]. So sánh với các chức quan dưới triều Lý đến triều Trần hay cơ

quan giám sát của triều Lê ở Việt Nam và nhà Thanh (Trung Quốc), cơ quan giám

sát của triều Nguyễn khá hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, có chức năng, nhiệm vụ rất

lớn và đảm nhiệm công việc tương đối nặng nề, chịu trách nhiệm giám sát cả trong

Kinh lẫn ngoài tỉnh, với quyền độc lập tương đối cao và là thành viên của Tam Pháp

ty - cơ quan tư pháp tối cao của triều Nguyễn. Trong khi đó, Ngự sử đài và lục khoa

thời Lê là hai cơ quan độc lập và tách rời nhau. Cơ quan Đô sát viện thời Minh -

Thanh chỉ chịu trách nhiệm giám sát các địa phương, còn ở Kinh đô giao cho lục

khoa là một cơ quan giám sát độc lập với Đô sát viện [9:145], [8:50].

Page 127: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

- Đóng góp thứ hai, trong quá trình ra đời và hoàn thiện, tùy theo mỗi thời kỳ

lịch sử và cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính, 4 vị vua đầu triều Nguyễn, nhất là hai

vị vua Gia Long và Minh Mạng đã đặt ra các chức quan hay xây dựng thành một cơ

quan giám sát đầy đủ. Cụ thể, dưới thời vua Gia Long khi bộ máy hành chính chưa

hoàn thiện, mới chỉ tập trung ở cấp trung ương, nhất là Bắc thành và Gia Định thành

triều đình còn giao toàn quyền cho các Tổng trấn tự quyết, cơ quan giám sát mới chỉ

được đặt các chức Tả/Hữu Đô ngự sử. Đến dưới thời Minh Mạng, trong quá trình

xây dựng, kiện toàn bộ máy hành chính, nhất là sau khi tiến hành cuộc cải cách

hành chính, trước yêu cầu phải có một cơ quan giám sát nhằm giúp vua và triều

đình giám sát hoạt động của bộ máy hành chính và hệ thống quan lại từ trung ương

đến địa phương, ông đã cho thành lập cơ quan giám sát với các thành phần như: Đô

sát viện (Tả/Hữu Đô ngự sử và Tả/Hữu phó Đô ngự sử), lục khoa (6 viên Cấp sự

trung) và Giám sát Ngự sử 16 đạo. Tuy nhiên, qua hoạt động, vua Minh Mạng đã có

những điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Đó là bộ nào có khối

lượng công việc lớn và đảm đương những chức trách quan trọng, cho đặt thêm 1

viên Cấp sự trung. Năm 1836, trước tình hình công việc của bộ Lễ ngày càng nhiều,

vua Minh Mạng cho đặt thêm 1 Cấp sự trung và để tăng cường giám sát hoạt động

của Tôn Nhân phủ, đạo Kinh kỳ được tăng thêm 1 Giám sát ngự sử [52:79],

[71:1.004]. Đây là minh chứng cho thấy, mặc dù kế thừa kinh nghiệm của các triều

đại quân chủ Việt Nam trước đó và triều Thanh ở Trung Quốc đương thời nhưng

triều Nguyễn đã có sự điều chỉnh để phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước vào

mỗi thời kỳ nhất định.

- Đóng góp thứ ba, trước trọng trách nặng nề của cơ quan giám sát, 4 vị vua

đầu triều Nguyễn đã có những ưu ái cho tổ chức này bằng các chế độ như: khen

thưởng, lương, phẩm phục… Thực tiễn hoạt động cho thấy, những chính sách này

đã góp phần giúp cho triều Nguyễn có được những vị ngôn quan, gián quan giỏi,

thanh liêm, công tâm và có nhiều đóng góp cho đất nước.

- Đóng góp thứ tư, cơ quan giám sát đã được triều đình phân cấp và quy định

trách nhiệm khá rõ ràng, Đô sát viện (4 Trưởng quan) chịu trách nhiệm giám sát

Page 128: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

hoạt động của chính quyền trung ương và là cơ quan giám sát tối cao, lục khoa giám

sát hoạt động của lục bộ tương ứng và Giám sát ngự sử 16 đạo giám sát 16 đạo. Tuy

nhiên, trong quá trình hoạt động, triều đình cho phép Cấp sự trung khoa này có thể

giám sát hoạt động của bộ khác, thậm chí Giám sát ngự sử các đạo là quan giám sát

cấp địa phương nhưng cũng có quyền giám sát hoạt động của cơ quan trung ương

và đàn hặc cả các Trưởng quan (các Đô ngự sử) của mình nếu có sai phạm, thậm chí

can gián cả vua. Ngoài ra, triều Nguyễn còn quy định cơ quan giám sát còn phải

giám sát cơ quan theo chuyên môn của mình. Cơ chế giám sát chéo này là một sáng

tạo của triều Nguyễn. Sự sáng tạo này đã đem lại những yếu tố tích cực trong quá

trình thực thi trọng trách của cơ quan giám sát.

- Đóng góp thứ năm, triều Nguyễn đã ban định cơ chế hoạt động độc lập và cơ

chế hoạt động phối hợp. Trong quá trình hoạt động, cơ quan giám sát và các thuộc

viên của tổ chức này có sự độc lập nhất định để thực thi chức trách của mình. Lục

khoa và các Giám sát ngự sử là cấp dưới của các Đô ngự sử nhưng trong khi thực

thi hoạt động giám sát họ được quyền báo với vua, triều đình về những sai phạm

của bá quan văn võ, thậm chí cả các Đô ngự sử mà không phải xin hay được sự cho

phép của các Trưởng quan này. Song song với hoạt động độc lập, cơ quan giám sát

và thuộc viên của tổ chức này cũng có thể phối hợp, hội đồng nội bộ với nhau và

với các tổ chức, cơ quan khác để triển khai hoạt động vua và triều đình giao phó.

- Đóng góp thứ sáu, hoạt động của các Đô ngự sử, lục khoa và các Giám sát

ngự sử triều Nguyễn dưới thời trị vì của bốn vị vua đầu triều (1802 – 1885) là

không có vùng cấm. Bốn vị vua đầu triều Nguyễn cho phép cơ quan giám sát được

quyền giám sát toàn bộ bá quan văn võ từ trung ương đến địa phương, kể cả vua,

hoàng thân quốc thích và giám sát bất cứ hoạt động nào của đất nước, bất cứ hoạt

động đó thuộc lĩnh vực chính trị, kinh tế hay văn hóa, xã hội và kể cả quốc phòng,

an ninh…

Qua nghiên cứu cho thấy, để có được một cơ quan giám sát với những đóng

góp trên đây, vua Minh Mạng là người có công lao lớn nhất. Đây là một trong

Page 129: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

những minh chứng góp phần khẳng định vua Minh Mạng là vị vua đã có nhiều đóng

góp cho triều Nguyễn nói riêng và lịch sử nước nhà nói chung.

3.1.2. Hạn chế

Bên cạnh những đóng góp trên đây, cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai

đoạn 1802 – 1885 còn tồn tại một số hạn chế như sau:

- Thứ nhất, việc kiêm nhiệm thêm một số chức quan khác sẽ tạo điều kiện cho

ngôn quan giám sát lẫn nhau, thâm nhập thực tiễn nhưng ngược lại đây chính là hạn

chế trong quá trình các ngôn quan thực thi chức trách của mình, nếu không nói là

“vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Do đó, ngôn quan, gián quan phải là những viên quan

chuyên trách, không kiêm nhiệm và hoạt động độc lập càng cao càng tốt. Đến dưới

thời Tự Đức, triều đình có một điểm mới so với các triều đại trước đó là năm Tự

Đức năm thứ 28 (1875), khi chuẩn cho Tả thị lang bộ Công Phan Huy Kiêm kiêm

quản Đô sát viện được thăng thự Tả phó Đô ngự sử nhưng chuẩn cho không kiêm

chức ở bộ mà để cho có chuyên trách. Vua Tự Đức cho rằng “Đô sát viện năm gần

đây phần nhiều lấy quan ở bộ phải kiêm. Đến nay, viện ấy vì là nơi phong kiến,

quan hệ rất lớn, xin đặt chuyên viên67

” [75:99]. Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là quy định

tức thời và cá biệt. Bởi, sau đó triều vua Tự Đức vẫn tiếp tục cho kiêm nhiệm như

trước đây. Đó là năm 1876, vua Tự Đức cho Mai Thế Quý giữ chức Trung phụng

Đại phu, Binh bộ Tham tri nhưng kiêm thêm các chức như Hữu phó Đô ngự sử và

Tuần vũ Tuyên Quang, còn Phạm Thận Duật được bổ Tham tri bộ Lại kiêm Phó Đô

ngự sử; năm 1877, Tuần phủ Hưng Yên là Nguyễn Văn Thận được bổ giữ chức thự

Hữu tham tri bộ Lại nhưng tiếp tục kiêm coi Đô sát viện [75:253]... Việc triều Nguyễn

cho đội ngũ quan lại một lúc kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau đã góp phần

giảm bớt số lượng quan lại nhưng đây là hạn chế lớn cản trở quá trình thực thi

nhiệm vụ của những ngôn quan, gián quan được triều đình giao cho trọng trách

“cầm cân nẩy mực”.

67

Chuyên trách.

Page 130: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

- Thứ hai, so với vua Gia Long và nhất là vua Minh Mạng dưới thời vua Thiệu

Trị và vua Tự Đức, cơ quan giám sát có thay đổi và tinh giản68

. Sự tinh giản này đã

không phù hợp với cơ cấu tổ chức bộ máy tương đương. Đây chính là một trong

những nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động giám sát của tổ chức này cũng như

góp phần làm cho tệ quan tham, nhũng nhiễu dân chúng và tình hình xã hội Việt

Nam dưới thời hai vị vua này có phần bất ổn hơn so với dưới thời vua Gia Long và

vua Minh Mạng.

- Thứ ba, dù có nhiều cố gắng nhưng triều Nguyễn cũng không thể vượt ra

khỏi hạn chế mang tính lịch sử đó là vai trò tối thượng của hoàng đế. Dưới chế độ

quân chủ, phong kiến nói chung và triều Nguyễn nói riêng, vua được coi là thiên tử,

vua có quyền tối thượng và bất khả xâm phạm, “ý vua là ý trời”, do vậy cơ quan

giám sát và các ngôn quan, gián quan được trao quyền rất lớn nhưng nếu không

thuận theo ý vua thì quyền đó vẫn không được thực thi.

Nhìn chung, những hạn chế này đã ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình thực thi

chức năng, nhiệm vụ của cơ quan giám sát. Tuy nhiên, đây là những hạn chế mang

tính khách quan, không phải là ý muốn chủ quan của cơ quan giám sát.

3.2. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ QUA THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG

3.2.1. Những đóng góp

Với trọng trách được giao phó là giám sát hoạt động của bộ máy hành chính

và hệ thống quan lại trong cả nước, thực tiễn hoạt động, cơ quan giám sát và hầu hết

các thuộc viên của tổ chức này đã có những đóng góp rất lớn, không phụ lòng tin và

xứng đáng là tai mắt của vua. Những đóng góp đó được thể hiện trên các mặt như

sau:

68

Như năm 1851, vua Tự Đức đã nghị cho chuẩn bớt 6 viên Cấp sự trung ở sáu Khoa [49:63]. Tiếp đến, năm

1854, cùng với việc cho ghép các đạo thành một đạo như: 2 đạo Nam - Ngãi thành đạo Nam trực; 2 đạo Trị -

Bình thành đạo Bắc trực; 4 đạo Bình, Phú, Thuận, Khánh thành đạo Tả kỳ; 3 đạo Thanh Hoá, Nghệ An và Hà

Tĩnh làm đạo Hữu kỳ. Các đạo sau khi ghép chỉ còn giữ lại 1 Giám sát ngự sử. Đối với đạo Kinh kỳ bỏ bớt

chức Ngự sử chỉ còn lại 1 viên Chưởng ấn Cấp sự trung. Như vậy, sau lần kiện toàn này, ngoại trừ các viên ở

quan, lại ở Đô sát viện và lục Khoa, tổng số quan giám sát ở cấp đạo - địa phương (kể cả đạo Kinh kỳ) là 14

người, cụ thể: đạo Nam trực, đạo Bắc trực, đạo Tả kỳ, đạo Hữu kỳ, đạo Định - Biên, đạo Vĩnh - Tường, đạo

An - Hà, đạo Hà - Ninh, đạo Hải - Yên, đạo Định - Yên, đạo Sơn - Hưng - Tuyên, đạo Bắc - Thái, đạo Lạng -

Bằng và Kinh kỳ đạo, mỗi đạo một viên Giám sát ngự sử [74:973].

Page 131: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

3.2.1.1. Góp phần xây dựng và bảo vệ nền quân chủ chuyên chế

- Tham mưu cho vua và triều đình trừng trị quan tham, góp phần làm trong

sạch bộ máy hành chính: Trách nhiệm chính của Đô sát viện và các khoa, đạo là

giám sát, đàn hặc việc hay, dở của quan lại từ trong kinh ra ngoài tỉnh, nhất là đối

với những quan lại nhũng nhiễu, hà hiếp… dân chúng. Năm 1842, quan khoa, đạo

là Vũ Trọng Bình đã tâu việc Ngoại lang bộ Hình là Lê Ngọc Chấn đi thanh tra ở

Hà Tĩnh trở về bắt 14 tên phu trạm và 2 con ngựa để vận tải đồ vật riêng cho mình,

quan tỉnh này còn bắt biền binh đi hộ tống cho Lê Ngọc Chấn. Vua cho rằng: “Chấn

khinh nhờn pháp luật, liền hạ lệnh cách chức, giao Đô sát viện xét xử. Chấn bị xử

tội mãn đồ” [73:420]. Còn Bố chính Nguyễn Đồng Khoa và Án sát Nguyễn Khắc Trạch

ở Hà Tĩnh đều bị giáng 2 cấp lưu. Hoặc năm 1848, quan khoa, đạo là Đặng Minh

Trân và Lê Đức đã dâng sớ vạch tội Đô thống lãnh Tổng đốc Hà - Ninh Tôn Thất

Bật về tội “Cho binh đinh nghỉ việc, đòi lấy tiền tài, lấn át viên biền dưới quyền

mình tự tiện đóng gông giam cấm, cưỡng mua con gái người ta, bắt giam dân

không có tội, mua hiếp hàng hoá” [74:93]. Vua Thiệu Trị phạt giáng Tôn Thất Bật 5

cấp lưu… Đây là những minh chứng cho thấy, trong quá trình thực thi trách nhiệm,

các quan giám sát từ cấp trung ương đến địa phương đã có rất nhiều lần tâu hặc

những viên quan có lòng tham, luôn tìm cách bòn rút và hãm hại nhân dân cũng như

thoái thác trách nhiệm… để triều đình trừng trị thích đáng.

Trách nhiệm giám sát, đàn hặc của các ngôn quan, gián quan không chỉ giới

hạn trong đội ngũ quan lại mà đối với những cường hào, ác bá có tội cũng bị các

ngôn quan, gián quan tâu để vua và triều đình xem xét trị tội. Năm 1836, các hạt ở

Bắc Kỳ có kẻ là cường hào của vùng nhưng xin làm Trương huyện, Tuần huyện,

Cán huyện, Ký huyện, Tổng hào và Tuần tổng, mượn tiếng làm việc quan để hà

hiếp, bóc lột nhân dân, đã bị Giám sát ngự sử đạo Thuận Khánh là Bùi Mậu Tiên

phát giác, dâng sớ lên triều đình báo tội. Vua Minh Mạng đã chuẩn giao bộ Lại bàn

định xem xét [71:885-886]. Bộ Lại tâu xin: cấm hẳn các chức sắc như Cai huyện,

Ký huyện, Tuần huyện, Trương huyện, Tổng hào, Tuần tổng vĩnh viễn không được

Page 132: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

đặt nữa. Kẻ nào vi phạm sẽ khép vào tội lạm đặt quan lại, vua liền chuẩn cho thi

hành.

Một đóng góp nữa là các thuộc viên của cơ quan giám sát đã thực hiện tốt

chức trách của mình trong việc giám sát tuyển bổ nhân sự đối với những vị trí, cơ

quan quan trọng của triều đình. Năm 1835, triều đình cho Viên ngoại lang bộ Binh

là Lý Văn Phức giữ chức Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ sung Hành tẩu Nội các

nhưng các quan khoa, đạo là Bùi Văn Bằng và Nguyễn Viễn Du nhận thấy: Lý Văn

Phức khi còn là Tham tri bộ Hộ trong khi thực thi công việc có nhận hối lộ nên đã

bị án trảm giam hậu. Do đó, nếu “Phức có chút tài nhỏ, nết mọn, thì cho một chức

quan khác cũng được; chứ để ở nơi trọng yếu, e không phải là việc nên làm”

[71:516]. Vua Minh Mạng bèn cho đổi Lý Văn Phức làm Ngoại lang bộ Công.

- Góp phần xây dựng tổ chức bộ máy: Đóng góp này được thể hiện trên cả hai

khía cạnh vừa trực tiếp, vừa gián tiếp. Gián tiếp đó là các ngôn quan, gián quan và

cơ quan giám sát chính là tấm gương để đội ngũ quan lại trong cả nước soi chiếu

noi theo, từ đó dù vô tình hay hữu ý, các thuộc viên của cơ quan giám sát đã góp

phần xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch. Còn trực tiếp đó là

trong quá trình hoạt động các thuộc viên của tổ chức này đã có những kiến nghị, đề

xuất về những bất cập, hạn chế, thiếu sót của bộ máy. Qua đó, vua và triều đình có

những bổ sung, thay đổi nhằm hoàn thiện hơn. Như năm 1833, các quan khoa, đạo

là Trần Quang Tiến, Vũ Quyền và Vương Hữu Quang tâu: “Đặt ra đê, là cốt để bảo

vệ cho nghề nông” nhưng các quan hà đê chỉ chăm lo đến việc giữ đê cho vững,

không bị vỡ khi mùa mưa lũ đến, còn việc ngập úng vào mùa mưa hay hạn hán

đồng ruộng về mùa nắng... không phải chức năng, nhiệm vụ của họ nên họ không

có trách nhiệm. Trong khi đó, “các tỉnh đã có đại viên Đốc, Phủ chịu trách nhiệm

về sự làm lợi trừ hại cho dân” [70:619]. Nên các ông đã đề nghị “xin đem công đê

và tư đê giao cả cho các quan tỉnh quản lĩnh, theo như chương trình mà làm... và

việc đê đã giao cho quan địa phương và xin nên bỏ nha môn Đê chính” [70:619].

Vua Minh Mạng sai đình thần bàn tâu, đều cho là phải. Vua bèn cho làm theo lời

bàn ấy. Đề xuất này vừa góp phần tinh giản bộ máy quan lại vừa giúp triều đình quy

Page 133: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

định trách nhiệm rõ ràng cho đội ngũ quan lại đối với dân chúng cũng như góp phần

cho triều đình quản lý tốt công tác trị thủy.

Một đóng góp khác trong lĩnh vực này đó là các ngôn quan đã có những kiến

nghị về tiến cử quan lại vào những vị trí quan trọng hay định số quan lại ở một số

cơ quan của triều đình... Có thể thấy quan một số ví dụ như: năm 1836, các quan

khoa, đạo thấy Tri huyện Chân Ninh là Tô Ngọc Huyền không phải là người trong

sạch, cẩn thận nhưng Hữu tham tri bộ Hộ là Vũ Đức Khuê cố cử làm Tri phủ Hoài

Đức nên đã tâu hặc. Vua Minh Mạng liền có Chỉ sai Vũ Đức Khuê tâu rõ lại nhưng

“tờ tâu phần nhiều chống chế, bào chữa, gượng gạo biện bạch, lại không nhận lỗi”

[71:899]. Vua giao xuống bộ Hình bàn xử. Sau đó, Khuê vì tiến cử người không

xứng đáng nên bị giáng 3 cấp. Một ví dụ nữa là năm 1844, Thượng thư bộ Lễ

Nguyễn Trung Mậu suy cử Tri huyện Địa Linh là Dương Đăng Hiển lên làm Ngự

sử đạo Sơn - Hưng - Tuyên. Các quan khoa, đạo là Trình Nho và Mai Đức Thường

cho rằng: “Hiển do tú tài xuất thân, mới ở huyện ít ngày mà Mậu đã vội suy cử,

chưa được thỏa đáng đối với dư luận” [73:622]. Vua nói rằng: “Dương Đăng Hiển

làm việc chưa có gì là xuất sắc. Không biết Nguyễn Trung Mậu đích kiến thế nào

mà dám chắc người ấy không phụ lòng mình suy cử ? Huống chi, là người cùng

trong một phủ mà không tránh sự hiềm nghi về ruộng trồng dưa và dưới gốc cây

mận69

, vội bảo cử ngay thì quả là bụng công hay là bụng tư” [73:622]. Vua Thiệu

Trị liền không cho Dương Đăng Hiển thăng Ngự sử đạo Sơn - Hưng - Tuyên.

Năm 1838, vua Minh Mạng nghĩ bộ Lại công việc hơi ít mà bộ Công hơi

nhiều nên chuẩn cho theo lời 6 bộ bàn để chiểu hiện ngạch các bộ ty liệu thêm hay

bớt cho hợp lý70

. Phó Đô ngự sử Lê Đăng Doanh đã tâu rằng “Công việc bộ Lại tuy

không nhiều bằng các bộ, nhưng việc phải làm, chưa phải là ít lắm, vả bộ Lại đối

với sáu chức quan thì là hơn cả, văn chức thì ở trên, lấy chính thể mà nói nên theo

ngạch cũ” [72:287]. Như vậy, khi định số quan và lại cho các bộ, Lê Đăng Doanh

69

Ruộng dưa, cây mận: trong truyện Liễu Công Quyền đời Đường, người quân tử khi đi qua ruộng dưa, đừng

sửa lại giày, khi đi qua dưới cây mận, đừng đội lại mũ, e người ta ngờ rằng lấy dưa hoặc mận giấu vào giày,

mũ [73:622]. 70

Bộ Lại, Lang trung, Viên ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ, mỗi chức 4 người, giảm làm mỗi chức 3 người, vị

nhập lưu thư lại 70 người giảm xuống làm 60 người. Bộ Công, Chủ sự, Tư vụ, mỗi chức 4 người, thêm làm

mỗi chức 5 người, vị nhập lưu thư lại 50 người thêm làm 60 người [72:287].

Page 134: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

không chỉ dựa số lượng công việc mà ông còn quan tâm đến tầm quan trọng của các

bộ, đặc biệt công việc của bộ Công có thể định lượng được trong khi công việc của

bộ Lại đa số là việc vô hình, không định lượng được mà chỉ định tính.

Trách nhiệm đàn hặc của các ngôn quan không từ một ai, trong Kinh từ hoàng

thân, quốc thích đến ngoài tỉnh từ bá quan văn võ, kể cả đồng liêu của mình là các

quan giám sát cùng cấp hoặc cấp trên. Do đó, bên cạnh đàn hặc bá quan văn võ

nhằm làm trong sạch bộ máy hành chính nói chung, các ngôn quan còn đàn hặc cả

ngôn quan là đồng nghiệp của mình mỗi khi họ có sự gian trá, tham tư... Năm Thiệu

Trị thứ 4 (1844), triều đình giao cho một số quan, lại đi đến các địa phương thực

hiện trọng trách của triều đình nhưng chỉ dụ chưa giao xuống, các Ngự sử là Hoàng

Khuê và Hồ Xuân Huyên đã đến gặp riêng Viện trưởng Nguyễn Đức Hoạt tại nhà

để cầu xin được sai đi, Nguyễn Đức Hoạt quát lên và ngăn lại. Sự việc này đã bị các

quan khoa, đạo là Đặng Kham, Nguyễn Văn Diễn và Lê Di biết và tham hặc. Vua

trách rằng: “Theo lễ trước thì hoặc đến kỳ sẽ chọn phái đi, hoặc do Viện trưởng giữ

lễ công bằng mà kén chọn. Bọn kia dám đến thỉnh thác ở nhà riêng, kêu van trong

xó tối, đến nỗi bị Viện trưởng quát đuổi ra, người cùng hàng chỉ ra mà tham hặc,

thật đáng khinh bỉ quá ! Ôi, “tình thân ngự sử, thức diện đài lang”71

” [73:668].

Vua cho xét rõ mà trừng trị, để ngăn ngừa mối tệ. Sau đó, Hoàng Khuê và Hồ Xuân

Huyên đều phải giáng bổ. Việc đàn hặc những ngôn quan như trên đây không

những góp phần làm trong sạch bộ máy nói chung mà nó còn trực tiếp loại dần

những tham quan sâu mọt trong cơ quan giám sát nói riêng.

- Góp phần thực thi nền tư pháp quân chủ: Chức năng chính của cơ quan giám

sát (Đô sát viện, lục khoa và Giám sát ngự sử các đạo) là hoạt động trên lĩnh vực tư

pháp. Trong quá trình thực thi trọng trách của triều đình giao phó, cơ quan và thuộc

viên của cơ quan giám sát đã giúp triều đình trừng trị đúng người đúng tội và thi

hành hệ thống pháp luật quân chủ. Năm 1838, trước tình hình tội phạm ở Gia Định

hơn 360 người, đã lâu năm nhưng chưa xét xong, đặc biệt phần nhiều chết ở trong

71

“Tình thân ngự sử, thức diện đài lang” có nghĩa là Tôn Biện đời Tống khi giữ chức Ngự sử Trung thừa đã

tiến cử Đường Giới và Ngô Trung Phục làm Ngự sử, có người hỏi ông chưa từng “biết tiếng hai người ấy,

sao đã vội tiến cử”. Tôn Biện nói: “Ngự sử tự đem tiến mình, người đời xưa lấy làm xấu hổ, nay không cần gì

Ngự sử đã biết mặt”. Dẫn theo [73:668].

Page 135: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

ngục. Bộ Hình cho việc đó có nhiều người “liên can đà luỵ” nên đã hặc tâu

[72:267]. Vua lập tức dụ sai Giám sát ngự sử Nguyễn Văn Thịnh và Thị giảng Học

sĩ sung biện Các vụ Lê Khánh Trinh hội đồng với Thự án sát là Nguyễn Văn tra xét.

Thực hiện trọng trách đó, các ông đến nơi tra xét một tháng thì xong, người có tội

hay những người có liên can đều được xét xử công minh. Đây là một trong nhiều ví

dụ về hoạt động tư pháp mà trong quá trình hoạt động cơ quan giám sát của triều

Nguyễn đã thực thi và có những đóng góp rất lớn. Trong đó, điển hình nhất đó là

khi Đô sát viện là thành viên của Tam Pháp ty đã có nhiều đóng góp trong việc xét

xử hình án.

- Góp phần thực thi nghiệp vụ hành pháp và lập pháp: Điều đặc biệt của triều

Nguyễn trong việc vận hành cơ quan giám sát là bên cạnh chức năng chính là tư

pháp, các vị vua đầu triều Nguyễn đã rất linh động để cho tổ chức này tham gia

thêm các hoạt động liên quan đến hành pháp và lập pháp.

Ngày nay, các nước đã có sự phân định khá rõ ràng giữa hoạt động hành pháp,

tư pháp và lập pháp – “tam quyền phân lập” nhưng dưới chế độ quân chủ Việt Nam,

3 lĩnh vực chuyên môn này hầu như chưa có sự phân định rõ ràng. Đối với một cơ

quan, chức năng chính của nó là tư pháp hoặc hành pháp hay lập pháp nhưng trong

quá trình hoạt động, cơ quan đó có thể tham gia thêm một hoặc hai lĩnh vực còn lại.

Trong đó, cơ quan giám sát dưới triều Nguyễn là một trong những ví dụ điển hình

nhất.

Chức năng chính của cơ quan giám sát triều Nguyễn (Đô sát viện, lục khoa và

Giám sát ngự sử các đạo) là đảm trách lĩnh vực tư pháp. Khi là thành viên của Tam

Pháp ty hay khi tham gia xét hình án thì cơ quan giám sát của triều Nguyễn thuộc

lĩnh vực tư pháp nhưng khi tham gia các hoạt động khác như: hoạt động kinh lược

hay giải quyết các vấn đề như thiên tai, cứu đói cho nhân dân, đánh dẹp thổ phỉ,

giặc dã… các hoạt động này thuộc lĩnh vực hành pháp. Bên cạnh đó, trong quá trình

hoạt động, một số đề xuất của thuộc viên tổ chức này có thể là căn cứ để vua và

triều đình điều chỉnh, bổ sung các chế định pháp luật hoặc tổ chức bộ máy… đây là

hoạt động thuộc lĩnh vực lập pháp. Thực tế cho thấy, trong quá trình hoạt động, một

Page 136: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

số đề xuất của các quan giám sát đã trở thành căn cứ cho triều đình xây dựng các

chế định pháp luật. Năm 1843, quan khoa, đạo Vũ Trọng Bình và Nguyễn Cư Sĩ đã

tâu: Việc thu thuế cửa quan hàng năm ở các địa phương từ Hà Tĩnh trở ra Bắc được

tổ chức theo hình thức đấu giá, ai đặt giá cao thì được chọn nên đã xảy ra tình trạng

tranh giành lẫn nhau, sau đó những người được chọn thu thì lạm thu và thu không

đúng quy định để mưu lợi riêng, đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động thương nghiệp

[73:692]. Do vậy, ông đề nghị chiếu theo các năm trước, để chọn giá nào vừa phải,

đồng thời hằng năm, các địa phương phái thuộc viên theo lệ để thu, còn việc hằng

năm đấu giá thì xin đình bãi. Trước đề nghị của ông, sang năm 1844, triều đình đã

định lại lệ thu thuế cửa ải và bến đò từ Hà Tĩnh trở ra Bắc dựa trên cơ sở điều trần

trên của hai ông. Đó là: “lệ thu thuế hằng năm từ năm Minh Mạng thứ 19 đến năm

Thiệu Trị thứ 4 của các sở cửa quan, ở các địa phương thuộc tỉnh Hà Tĩnh trở ra

Bắc, lấy mức trung bình, thích hợp châm chước định ra giá nhất định” [73:692].

Việc tham gia thêm các hoạt động thuộc lĩnh vực hành pháp và lập pháp cho thấy

triều Nguyễn rất tin tưởng vai trò, trách nhiệm của các thuộc viên cơ quan giám sát

nhưng nó cũng khẳng định hoạt động của cơ quan giám sát là phong phú, đa dạng.

3.2.1.2. Trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh

- Tham gia xây dựng quân đội: Quân đội là một tổ chức đặc biệt, đối với một

số chế độ, một số nước, quân đội và hoạt động quân sự là một lĩnh vực “bất khả

xâm phạm”. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1802 – 1885, triều Nguyễn đã có những

quan tâm nhất định nhằm xây dựng lực lượng quân đội góp phần bảo vệ và khẳng

định một triều đại vững mạnh. Một trong những biện pháp đó là triều Nguyễn đã

cho đặt Binh khoa nhằm giám sát hoạt động của bộ Binh nói riêng và hoạt động của

quân đội trong cả nước nói chung. Trong quá trình giám sát hoạt động của quân đội,

Binh khoa và thuộc viên của cơ quan giám sát đã có những đóng góp nhằm làm

trong sạch và xây dựng lực lượng quân đội vững mạnh bảo vệ triều đại. Năm Thiệu

Trị thứ 3 (1843), Chưởng ấn Binh khoa là Đặng Minh Trân dâng phong thư dán kín

Page 137: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

bày tỏ 3 điều72

. Trong đó, điều 1 ông đã đề nghị khi tuyển lính phải dựa vào số dân

chứ không thể bình quân nơi đông dân cũng như nơi ít dân. Đây là một đề xuất rất

phù hợp. Bởi, không thể áp dụng việc tuyển lính nơi ít dân cũng như nơi đông dân.

Điều thứ hai đó là ông đã kiến nghị với triều đình hàng tháng sử dụng một nửa số

binh lính huấn luyện, nữa còn lại phân công làm việc, đến tháng sau luân chuyển

lại. Với chính sách này, một mặt binh lính sẽ không quên kỹ năng quân sự, mặt

khác sẽ giúp cho triều đình và các địa phương có được một lực lượng lao động rất

lớn. Đây là một trong những chính sách “ngụ binh ư nông”. Ông cũng quan tâm

đến việc bảo vệ các vùng biên viễn, nhất là các vùng biển có tàu thuyền phương Tây

thường ra vào trao đổi hàng hóa. Đối với những vùng biển này, ông đề nghị cho đặt

các đồn trấn giữ và cho binh lính kiểm tra nghiêm ngặt đề phòng biến cố [74:37].

Đối với những viên quan trong quân đội chuyên quyền, độc đoán, cố tình làm

trái quy định của triều đình để tư lợi, các ngôn quan cũng có quyền tâu hặc để vua

trừng trị. Năm 1864, Hiệp lý Thuỷ sư là Nguyễn Luận lợi dụng chức quyền sai bắt

binh đinh làm việc riêng và đòi lấy tiền đút lót đã bị Chưởng ấn Đặng Huy Trước

chỉ tên tham hặc, vua Tự Đức đã giao cho Tam Pháp ty tra xét, sau khi án xét xong

Nguyễn Luận bị cách chức, Đô thống lĩnh Thuỷ sư Đề đốc là Vũ Phẩm vì tội bao

che nên bị giáng 3 cấp phải đổi đi [74:883].

Một đóng góp khác, đó là các quan khoa, đạo còn tham gia việc giám sát và

kiểm duyệt biền binh ở các địa phương. Trước đây, triều Nguyễn quy định “hằng

năm 2 quý xuân thu phái 2 người thuộc về bộ Binh, hạn trong 1 tháng, đi đến các

quân, hợp đồng với Thống chưởng và bọn khoa, đạo chuyên môn, để kiểm điểm

binh trượng đều 1 lần, hạ đông 2 quý, phái cho bộ Binh hội đồng Nội các, Đô sát,

Thị vệ, kiểm điểm những hiện ban lính mộ ở Kinh đều một lần” [75:253], đến năm 72

Ba điều đó là: “Điều thứ nhất: giữ bền căn bản của nước (nghĩ xin phép duyệt đinh tuyển lính, hễ nơi nào

dân đông thì tuyển tăng lên, nơi nào dân điêu háo thì tuyển bớt đi, không được nhất khái theo lệ chia từng

thành bắt phải tăng tục, và cũng bất tất phải chia từng thành để nghị xin thưởng phạt). Điều thứ hai: sửa

sang quân chính (xin thông dụ cho trong Kinh, ngoài các tỉnh, chiểu theo hằng tháng số binh tại ban chia

làm 2 phần, một phần thì hằng ngày huấn luyện, một phần thì sai phái làm công việc. Đến ban sau thì một

nửa nguyên thao diễn ấy đổi làm việc. Nếu công việc bề bộn, thì đến lúc ấy sẽ tâu xin lượng bắt bọn đã mãn

ban về nghỉ phụ làm, để cho khó nhọc và nhàn rỗi được đều nhau).Điều thứ ba: làm vững mạnh bờ cõi ngoài

biên (xin thông dụ trong Kinh ngoài tỉnh, chiểu các cửa biển, chỗ nào mà tàu thuyền phương Tây có thể ra

vào được, thì bắt binh đóng đồn phải phòng giữ nghiêm ngặt hơn lên, để không được tự tiện chạy vào. Còn lệ

hằng năm phái đi đường biển, xin nên đình chỉ)” [74:37].

Page 138: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

1883, vua Tự Đức lại chuẩn cho “đều đình phái, chuyên do các Thống quản chiểu

lệ, tự hành kiểm soát đầy đủ, nhưng bất thần do bộ Binh ủy cho đường quan hoặc

do các khoa, đạo chuyên môn đi đến vệ đội các dinh, kiểm xét chỉnh đốn mọi việc.

Nếu có một vật ngoan tệ hay một người trốn thiếu ấy, tức thì tham hặc nghiêm trị”

[75:253]. Trách nhiệm của các quan khoa, đạo là giám sát hoạt động của các khoa

và các đạo tương ứng nhưng triều Nguyễn đã giao phái thêm nhiệm vụ theo định kỳ

kiểm duyệt và giám sát hoạt động của lực lượng biền binh.

- Giữ gìn an ninh và bảo vệ biên giới, lãnh thổ: Trong lịch sử Việt Nam cho

đến những năm đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn là triều đại quản lý lãnh thổ đất nước

có diện tích rộng lớn nhất. Điều này đã mang lại không ít thuận lợi nhưng cũng gây

không ít khó khăn cho các vị vua triều Nguyễn trong quá trình quản lý đất nước.

Trong đó, công tác bảo đảm quốc phòng – an ninh nói chung cũng như vấn đề an

ninh biên giới, bảo vệ lãnh thổ nói riêng là một trong những khó khăn nhất. Để làm

tốt công tác này, các vị vua đầu triều Nguyễn đã có khá nhiều biện pháp, trong đó

vai trò và đóng góp của các thuộc viên và cơ quan giám sát là cần phải được ghi

nhận. Chẳng hạn như năm 1839, trước tình trạng thành Trấn Tây (thuộc Campuchia

ngày nay) là vùng biên giới trọng yếu nhưng các địa phương ở đây không cung cấp

đủ lương thực cho binh lính, Chưởng ấn Cấp sự trung Binh khoa Nguyễn Tự và Thự

Chưởng ấn Cấp sự trung Lại khoa Trần Văn Triện dâng sớ “xin sắc xuống cho các

tỉnh Gia Định, Biên Hoà, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang mộ dân nộp thóc”

[72:488-489] bổ sung để dự trữ phòng khi có biến cố thì có lương thực cho quân

lính. Trước đề xuất xác đáng đó, vua Minh Mạng đã chuẩn lời tâu và cho thi hành.

Ngoài ra, triều đình cũng đã nhiều lần phái các quan giám sát cùng hội đồng với

quan của các nha, bộ và các tỉnh đến các vùng biên viễn để dẹp trừ tình trạng gây

rối của thổ phỉ và giặc ngoại xâm đánh phá, cướp bóc, quấy rối dân chúng.

3.2.1.3. Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội

- Góp phần duy trì nền giáo dục Nho học: Như đã trình bày ở các phần trên,

triều Nguyễn đã có quy định khá cụ thể về vai trò, trách nhiệm của cơ quan giám sát

trong các kỳ thi Hương, thi Hội. Tại các kỳ thi này, trách nhiệm chính của thuộc

Page 139: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

viên cơ quan giám sát là giám sát trường thi. Trách nhiệm của các quan giám sát

trường thi không chỉ giám sát thí sinh dự thi mà họ còn có tránh nhiệm giám sát tất

cả hoạt động của trường thi, nếu phát hiện quan trường có tư lợi, gian lận họ đều

được quyền tâu hặc để vua và triều đình nghị xử nghiêm minh. Năm 1879, trước

tình hình tại các kỳ thi Hương ngạch võ “bọn lại phòng rất dễ đem tên người kia đổi

làm tên người này” [75:370], các quan khoa, đạo là Nguyễn Xuân và một số người

khác tâu xin “bãi bỏ việc niêm phong, soạn số, cho đỡ phiền phức, mà ngăn được

cái tệ của lại dịch. Lại như kỳ gọi tên vào phúc hạch, thải loại số nhiều, cùng với 3

kỳ trước không khác gì. Đôi khi có người tài nghệ hơi khá, mà sức hoặc không đủ,

chưa khỏi có sự thuê người vào thay về kỳ thứ nhất, để cầu được đỗ. Kỳ ấy số học

trò còn nhiều, quan trường cũng không thể xét chọn được tất cả, trong đó không

khỏi không có người lạm trúng” [75:370]. Do vậy các ông đã xin thêm kỳ thứ tư

làm kỳ phúc hạch, yết bảng vào thi, theo như lệ 3 kỳ trước mà làm, “Việc lấy đỗ

xong, ngày ra bảng, quan trường ra cửa trường đem số lấy đỗ là bao nhiêu, gọi tên

vào phúc hạch, rồi đem quyển kỳ đệ nhất đối chiếu so dáng mặt, điểm chỉ đều hợp,

lại chiểu trong quyển mang tạ đi được bao nhiêu trượng thước, làm lại một lần, như

có hơi kém trên dưới 1 - 2 trượng, cho dự hạng đỗ. Nếu tên nào kém quá, đích là

mượn người làm thay, thì giao quan địa phương tra rõ, chiểu luật nghị xử”

[75:370]. Đề nghị này không chỉ đảm bảo quyền lợi cho thí sinh tại kỳ thi Hương

này mà còn là cơ sở cho triều đình xây dựng, bổ sung, điều chỉnh các quy định, chế

định còn bất cập trong hoạt động thi cử. Những lời nghị này sau đó đã được vua Tự

Đức cho xây dựng lại điều lệ thi Hương ngạch võ.

Bên cạnh đó, trong một số trường hợp nhất định, thuộc viên của tổ chức này

còn được vua và triều đình giao cho trọng trách tổ chức trường thi – Chủ khảo/Phó

chủ khảo. Với vai trò, trọng trách đó, các ngôn quan, gián quan đã có những đóng

góp nhất định nhằm góp phần đảm bảo sự công bằng cho thí sinh, sự minh bạch của

các kỳ thi nhằm tuyển chọn được nhân tài cho đất nước. Đặc biệt, những đóng góp

của họ cũng đã góp phần duy trì nền giáo dục Nho học dưới chế độ quân chủ, mà

trực tiếp là các kỳ thi tuyển.

Page 140: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Ngoài ra, có một số quan giám sát đã được vua và triều đình tin tưởng giao

cho trọng trách chăm sóc, dạy dỗ các hoàng tử và con em hoàng thân, quốc thích

trong triều. Như năm Minh Mạng thứ 16, Ngự sử Định An là Hà Thúc Trương dâng

sớ tâu chọn những quan đại thần có phẩm chất tốt để “phụ giúp, giáo dẫn” cho các

hoàng tử. Vua Minh Mạng cho là phải và liền chọn Tham tri bộ Lễ là Nguyễn Đăng

Tuân đảm trách việc giáo dưỡng cho các hoàng tử [77:91-92].

- Góp phần thiết lập trật tự xã hội và ổn định dân cư: Dưới triều Nguyễn, các

thế lực như thổ phỉ ở các vùng rừng núi, trộm cướp và giặc ở các vùng biên viễn…

thường xuyên đến cướp bóc, gây rối, đe dọa dân chúng ở những vùng xa xôi, hẻo

lánh. Nguyên nhân của tình trạng này đó là phần vì đây là những địa bàn quá xa

triều đình và chính quyền địa phương, phần vì sự quản lý lỏng lẻo của đội ngũ quan

lại và chính quyền sở tại. Trước tình hình đó, một số thuộc quan của Đô sát viện đã

có những tham mưu, đề xuất để triều đình có các biện pháp quản lý tốt những vùng

biên viễn. Năm 1841, Ngự sử Phan Văn Xưởng tâu rằng: “bọn thổ phỉ ở Ô Môn

(thuộc An Giang ngày nay) làm loạn, dân ở đấy bỏ đi nơi khác, thế mà Quản cơ Trần

Đức Tế và đội trưởng Tô Văn Hương do tỉnh phái đến đóng để phòng giữ, mượn cớ

bới việc hoặc lấy không thuyền của dân hoặc thu riêng thóc gạo. Tri phủ Nguyễn

Văn Đức lại nhân thế đổi lấy thuyền của dân...”[73:126] làm cho dân chúng bất

bình, ta thán. Khi án dâng lên triều đình đã phát phối Tế và Đức đi làm lính, vua

cũng thưởng cho Phan Văn Xưởng 1 đồng kim tiền và cho thăng 1 cấp. Đóng góp

của Phan Văn Xưởng vừa giúp triều đình có biện pháp trừng trị thổ phỉ, giúp dân

chúng ổn định cuộc sống, vừa giúp triều đình trừng trị những viên quan lạm quyền,

ức hiếp, vơ vét của nhân dân.

Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), các Ngự sử Ngô Văn Địch và Nguyễn Thị

cho rằng hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa sát nhau nhưng một số xã của Thanh

Hóa vừa cách xa thủ phủ của tỉnh vừa bị sông cách trở nhưng lại gần với Ninh Bình.

Do đó, hai ông đã xin cho các xã này (của Thanh Hóa) nhập vào tỉnh Ninh Bình để

thuận trong việc quản lý, vua Minh Mạng đã giao cho bộ Hộ xem xét [116:95-96].

Đề xuất này vừa là cơ sở cho triều đình phân định địa giới hành chính hợp lý hơn,

Page 141: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương quản lý tốt chính quyền cơ sở cũng

như dân cư trên địa bàn.

Tâm linh, tín ngưỡng là một trong những yếu tố văn hóa đã tồn lại bao đời nay

và không thể thiếu trong đời sống của người dân Việt Nam. Tuy nhiên, dưới triều

Nguyễn dân chúng ở một số nơi đã không nhận thức đúng vấn đề tâm linh gây nên

sự lãng phí và ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Trước tình hình đó, trong quá trình

giám sát hoạt động của các địa phương, Giám sát ngự sử các đạo đã phát hiện và tâu

báo với triều đình có biện pháp quản lý tốt vấn đề tâm linh, tín ngưỡng trong nhân

dân. Năm 1836, Giám sát ngự sử đạo Thuận Khánh Bùi Mậu Tiên dâng sớ trình tấu

việc các hạt ở Bắc Kỳ tục lệ thờ thần phần nhiều quá lãng phí và tiếng là thờ thần

nhưng thực tế làm hại dân “Kể đến lễ tang tế, đua nhau xa xỉ, đến nỗi có kẻ khuynh

gia bại sản để trả nợ miệng. Tệ hại đến như thế, thực không phải là cái nghĩa giúp

đỡ, thương xót nhau” [71:885-886]. Vua Minh Mạng liền chuẩn giao cho bộ Lễ bàn

định. Bộ Lễ bàn xin: đối với các miếu đế vương, hoàng hậu và miếu thần thì cứ thờ

như cũ, còn tất cả dâm thần đều rút bỏ. Đối với đền miếu chỉ được dựng 2 - 3 gian,

không được xây cổng có lầu. Nghi trượng và đồ thờ không được chạm hình rồng

phượng. Hàng năm, trong kỳ xuân tế, thu tế, hát xướng không được liên miên, tế

phẩm không được quá phí. Kẻ nào vi phạm đều bị xử vào tội trái lệnh [71:885-886].

Vua Minh Mạng đã chuẩn cho thi hành.

Dưới thời trị vị của mình, các vị vua đầu của triều Nguyễn đã ban nhiều chính

sách nhằm hạn chế sự du nhập và phát triển của Thiên Chúa giáo. Chủ trương này

phần nào đã tác động và ảnh hưởng đến một số lĩnh vực của đời sống xã hội Việt

Nam lúc bấy giờ. Trong đó, tình trạng nghi kỵ, xích mích lẫn nhau giữa người theo

tôn giáo này, người theo tôn giáo khác hay giữa người có đạo và người không có

đạo đã xảy ra ở một số địa phương. Năm 1875, trước tình hình dân lương và giáo ở

Nghệ An nghi kỵ lẫn nhau, xảy ra việc đốt nhà, giết người, vua Tự Đức đã phái Tả

phó Đô ngự sử Phan Huy Khiêm sung làm Khâm sai đến Nghệ An tra xét

[75:1875].

Page 142: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Một số trường hợp đã lợi dụng vấn đề cấm đạo, vấn đề tôn giáo để gây hiềm

khích trong xã hội, hiềm khích giữa dân theo đạo và dân không theo đạo. Thực tế

này đã đòi hỏi triều Nguyễn phải có các biện pháp để trừng trị những thế lực lợi

dụng vấn đề tôn giáo gây mất ổn định xã hội. Ví như năm 1868, các Tú tài ở Nghệ

An là Trần Tấn, Đặng Như Mai cũng một số dân chúng khác đốt phá giáo đường,

đạo quán và nhà của dân đi đạo, quan tỉnh Nghệ An tâu xin xử nhẹ, Giám mục Ngô

Gia Hậu đành đem việc ấy kêu triều đình. Vua sai Thượng thư bộ Lại Vũ Trọng

Bình và Ngự sử Đinh Văn Bân cùng đi tra xét. Sau khi điều tra, sự thực là bọn Trần

Tấn vì hiềm khích cá nhân đã “giả làm công nghị, nên nhiều người theo nhầm, nay

hiểu thị và xếp đặt, lòng người ổn thoả” [74:1108]. Sau án dâng lên, cả Tấn và Mai

đều xử tội phải chém, nhưng để đợi xét, thủ phạm là Hoàng Đức Đề, Nguyễn Mỹ

Nghi và Nguyễn Văn Vinh xử tội trảm giam hậu, còn lại xử tội lưu, đồ, trượng có

bậc.

Bên cạnh đó, Đô sát viện đã tham gia xét xử các vụ án hay đề xuất một số kiến

nghị giúp cho triều đình hạn chế những tác nhân ảnh hưởng đến luân lý, đạo đức,

nhằm duy trì, bảo vệ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc... Tháng

4/1855, bộ Hình giao đến 1 bản án thông dâm do Thự Tuần phủ tỉnh Định Tường

Nguyễn Tường Vĩnh tra xét đệ trình. Sau khi xét lại cho rõ ràng, Đô sát viện cho

rằng tên gian phu Đặng Văn Chất là cháu của Đặng Văn Viện đã chết. Khi vợ thứ

của Đặng Văn Viện là Nguyễn Thị Duyên đến nhà Đặng Văn Chất ở lại, cả hai đã

dám tư thông dẫn đến có thai. Đô sát viện xin triều đình cho xử cả hai đều phải treo

cổ [62:16]. Vua Tự Đức đã cho y tấu của Đô sát viện.

- Khắc phục hậu quả thiên tai, bảo vệ quyền, lợi ích của dân chúng: Mặc dù

đây không phải là trọng trách của cơ quan giám sát nhưng chính vì tinh thần trách

nhiệm, trong quá trình hoạt động, các thuộc viên của cơ quan giám sát còn được vua

và triều đình nhiều lần giao cho nhiệm vụ đến các địa phương để khắc phục hậu quả

thiên tai, phát chẩn cứu đói hay điều tra xét hỏi sự tình dân bị thua thiệt, án oan...

nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho nhân dân. Có thể đơn cử một số ví dụ như: năm

1835, các quan khoa, đạo là Vũ Danh Thạc, Phan Đăng Đệ và Hoàng Dũ Quang khi

Page 143: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

được phái đi dò xét tình hình đời sống của dân chúng ở Quảng Trị, khi đi qua các

tổng Thủy Ba, An Xá (thuộc huyện Hải Lăng ngày nay) thấy dân ở đây “phong tục

không được thuần thục, đua nhau kiện tụng, bỏ nghề làm ăn, dân đến đói khát” nên

các ông đã “thể theo đức ý nhà vua, gặp người đói khổ thì nấu cháo để nuôi, thấy

người đau ốm thì đem thuốc để chữa, do đấy cứu sống được rất nhiều” [71:758].

Vua Minh Mạng khen và thưởng cho các khoa, đạo mỗi người đều gia một cấp. Hay

năm 1842, ở Nghệ An có bão lớn, nước biển dâng lên cao hơn bình thường 13 - 14

thước làm cho 40.753 nhà cửa bị đổ nát, 696 chiếc thuyền buôn và thuyền đánh cá

bị chìm đắm, 5.240 người dân bị chết [73:397]. Vua Minh Mạng lập tức sai Cấp sự

trung Binh khoa Lê Văn Thành và Giám sát ngự sử đạo Định Biên Đặng Kham đi

đến tuyên chỉ cẩn cấp cho nạn dân.

Đối với những địa phương nếu bị thiên tai gây mất mùa làm cho nhân dân đói

kém, triều đình cũng cử các quan khoa, đạo đến để xem xét. Năm 1876, ở Quảng

Ngãi thiên tai gây mất mùa làm cho giá gạo lên cao, vua Tự Đức cho phái Ngự sử

đạo Trị Bình là Nguyễn Ngọc Chấn đến “dò xét đích xác, nếu quả túng thiếu quá

đáng, chuẩn cho hội đồng với quan tỉnh chi thóc kho ra, giảm giá đem bán, để thư

khẩn cấp cho dân” [75:191]. Năm 1871, các tỉnh ở Bắc Kỳ đê bị vỡ, vua Tự Đức

liền sai phái Chưởng ấn Nguyễn Duy Chí đi đến Nam Định, Hưng Yên; Chưởng ấn

Trần Nhượng đi đến Sơn Tây; Ngự sử Hoàng Đỗ Luyện đi đến Hà Nội, Bắc Ninh

để cứu giúp dân chúng [74:1283].

Các ngôn quan còn chủ động với trách nhiệm triều đình giao phó. Đó là trong

quá trình thực thi nhiệm vụ, cụ thể là trong những lần được triều đình phái đi kinh

lý các địa phương, ngoài trách nhiệm được giao, các ngôn quan còn chủ động nắm

bắt, điều tra, xét hỏi tình hình của những địa phương họ đi qua nếu phát hiện những

sự tình bất thường họ sẽ kiến nghị triều đình xử lý. Năm 1839, nhân đi công sai các

tỉnh phía bắc về thấy ở Thanh Hoá gạo đắt, dân thiếu ăn nhiều, Ngự sử đạo Hà Ninh

Nguyễn Đình Duệ đem việc ấy tâu lên và xin phát thóc bán ra cho dân. Vua liền sai

quan tỉnh xuất thóc kho giảm giá bán cho dân [72:479]. Hay năm 1852, Chưởng ấn

Công Khoa Vương Sĩ Kiệt trên đường đi kinh lý các tỉnh phía bắc thấy một số địa

Page 144: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

phương bị hạn hán hay lũ lụt mất mùa “đường sinh lý không bằng trước” nên đã tấu

trình xin cho các địa phương tìm cách cứu chữa, vua Tự Đức đã đồng ý [121:135-

136]. Những việc làm này của các ngôn quan đã góp phần giúp triều đình quản lý

tốt các địa phương cũng như đem lại lợi ích cho dân chúng.

Trên đây là những ví dụ cho thấy trong quá trình thực thi nhiệm vụ chính của

mình là giám sát hệ thống quan lại và bộ máy hành chính từ trung ương đến địa

phương, dù trực tiếp hay gián tiếp các thuộc viên của cơ quan giám sát đã có những

đóng góp trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, xã hội của đất nước.

3.2.1.4. Trên lĩnh vực kinh tế, thuế khóa và trị thủy

- Đối với lĩnh vực kinh tế và thuế khóa: Về hoạt động thu thuế, các ngôn quan,

gián quan đã có những kiến nghị, đề xuất để triều đình kiểm soát, áp dụng tốt chế

độ thuế khóa, như năm 1879, Chưởng ấn Vũ Ích Khiêm dâng sớ tâu tình trạng ở

Quảng Nam số hộ tham gia khai thác vàng thường nhiều nhưng số hộ nộp thuế

thường ít nên ông “xin 10 tên trong hộ lấy vàng, chỉ liệu để lại 2 - 3 tên đi lấy, nộp

bằng vàng thực”, số còn lại “rút về số dân chính cung, điền vào hạng lính chọn

tuyển” [75:367]. Đặc biệt, ông thấy hạt Quảng Nam có nhiều thôn, xóm nhỏ không

có ruộng đất công hay tư hoặc có chăng thì rất ít, không đủ sống, ông đã xin triều

đình cho quan tỉnh Quảng Nam và Doanh điền sứ “khuyên bảo dân được tùy tiện

đến chỗ bỏ không ở mạn núi, mạn biển, mộ người khai hoang lập ấp” [75:367]. Vua

Tự Đức liền chuẩn cho thi hành. Hay năm 1880, trước tình hình quan phụ trách thu

thuế ở một số bến tuần thu quá quy định, Chưởng ấn Cấp sự trung Binh khoa Ngô

Xuân Mỹ tâu xin nghiêm cấm việc này. Vua Tự Đức đã: “Chuẩn thông sức cho các

tỉnh, nếu có tệ nào không biết trích ra trị tội, bị người tố cáo ra, tất phải xử tội

nghiêm ngặt. Bộ cũng phải thường xét hỏi luôn, biết sự thực, có tệ thì phải sửa đổi”

[75:416].

Có thể thấy những đóng góp trong chính sách thuế của các gián quan được thể

hiện trên các phương diện như: giúp cho triều đình quản lý tốt hoạt động thu thuế

của các địa phương cũng như những hoạt động kinh tế mà trước đây triều đình chưa

thu thuế được và hạn chế tình trạng “buôn gian, bán lận” nhằm góp phần tăng

Page 145: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

nguồn thu cho triều đình; mặt khác, những đóng góp của các gián quan cũng phần

nào ngăn ngừa, trừng trị những quan thuế lạm quyền để tư lợi73

.

Một đóng góp nữa đó là trong quá trình giám sát hoạt động thu thuế và thương

nghiệp, các gián quan cũng có những đóng góp để vua và triều đình cảnh giác với

âm mưu của một số nước trong việc cho thương nhân nước họ đến lợi dụng hoạt

động buôn bán để dòm ngó bờ cõi, thu thập thông tin để khi có điều kiện hòng xâm

lược Việt Nam. Minh chứng là năm 1854, Thự Chưởng ấn Cấp sự trung Hình khoa

Nguyễn Thái dò được việc có 1 thuyền nước Thanh đậu lâu ngày ở cửa biển Thị

Nại, trong thuyền ấy chở nhiều gạo và ngầm đem người Tây dương nhưng tỉnh thần

Bình Định dung túng cho thuyền ấy chở đi, ông đem việc ấy hặc tâu. Vua Tự Đức

liền sai Thị lang Nội các là Vũ Duy Ninh đến tra xét việc ấy. Sau khi bản án dâng

lên, Hộ đốc Vương Hữu Quang cùng Lãnh binh Lê Nguy vì tội trái lệ cấm và tha kẻ

phạm, nên triều đình đã phạt Quang tội đồ, Nguy phải cách chức hồi dân [74:342].

- Đối với công tác trị thủy: Việt Nam là một đất nước có địa hình phức tạp và

khí hậu khá khắc nghiệt. Đây chính là những yếu tố dẫn đến tình trạng hạn hán và lũ

lụt thường xuyên xảy ra vào mùa hè và mùa mưa hàng năm. Nhất là khi, kinh tế,

khoa học - kỹ thuật... chưa phát triển thì vấn đề trị thủy là một trong những vấn đề

nan giải. Về vai trò của các thuộc viên cơ quan giám sát trong công tác trị thủy, qua

nghiên cứu cho thấy họ đã có những đóng góp quan trọng. Chẳng hạn như năm

1857, Thự Ngự sử đạo Hà Ninh là Đặng Toán dâng sớ nói: Nước sông ở một số tỉnh

phía Bắc lên to quá mức thường, đê điều vỡ nhiều. Nguyên nhân là do cửa sông lâu

ngày bị bồi lấp nhưng các tỉnh không cho khơi thông nên xin khơi thông đường

sông cho nước thoát nhanh chống lũ vùng thượng nguồn. Vua Tự Đức cho “phải

tìm cách khơi thông, cốt sao cho nước đọng ở mạn dưới trong tiêu tiết hết”

[74:510]. Đồng thời, sai các quan khoa, đạo là Trương Ý, Đặng Toán lập tức đến

73

Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), bộ Hộ tâu quan địa phương ở các tỉnh dọc biên giới Bắc Kỳ không quan

tâm nên tạo điều kiện cho kẻ buôn xảo trá, dân trốn thuế làm cho việc thu thuế mỏ vàng, bạc giảm. Vua bèn

sai bọn Ngự sử Nguyễn Văn Chấn, Vũ Viện chia nhau đi, đem sự thực tâu lên [72:466-467]. Năm 1839, Bộ

Hộ cho rằng “mỏ vàng, bạc ở các tỉnh dọc biên giới Bắc Kỳ gần đây chỗ hiện trưng thì ngạch thuế có giảm

không tăng, mà chỗ đắp lấp thì cũng chưa khai lấy, đều là bởi quan địa phương ít nghĩ đến thuế khoá đủ

thiếu, nên để cho của cải sinh ra ở đất không khỏi làm lợi riêng cho kẻ buôn xảo trá, dân gian” [72:466] và

xin phái khoa, đạo đi xem xét. Vua bèn sai Ngự sử Nguyễn Văn Chấn và Vũ Viện chia nhau đi.

Page 146: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

các tỉnh hội đồng với quan tỉnh phát chẩn và đi khắp các chỗ nước lụt tràn đến, chỗ

nào nên khơi thông, chỗ nào nên giữ lại, bàn cùng quan tỉnh làm cho thoả đáng. Nếu

thấy viên nào lười biếng sơ suất trễ nải không nghĩ đến quốc kế dân sinh, thì nghiêm

ngặt tham hặc đợi chỉ.

Một ví dụ nữa là năm 1833, các quan khoa, đạo là Trần Quang Tiến, Vũ

Quyền và Vương Hữu Quang đã có hai kiến nghị lớn góp phần cho triều đình quản

lý công tác trị thủy đó là các ông đã tâu xin bỏ bớt nha môn Đê chính Bắc Kỳ và đối

với những vùng thường ngập úng vào mùa mưa, không hạn vào mùa khô thì cho đặt

hệ thống cống để tiêu úng và cấp nước kịp thời. Nguyên nhân của việc bỏ bớt Đê

chính Bắc Kỳ là vì sự đùn đẩy trách nhiệm giữa quan Đê chính và quan địa phương

trong việc quản lý đê và trị thủy đã ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của nhân

dân. Kiến nghị dâng lên, vua Minh Mạng sai đình thần bàn tâu, đều cho là phải, vua

bèn cho làm theo lời bàn ấy [70:536].

Qua những nghiên cứu trên cho thấy, những đề xuất của các gián quan đã giúp

cho triều đình nhà Nguyễn có những biện pháp, kế hoạch kịp thời trong công tác trị

thủy. Cũng chính những đề xuất đó đã góp phần giúp cho dân chúng ở một số địa

phương thuận lợi hơn trong việc sản xuất, đời sống, tránh được các hiểm họa của

thiên tai, nhất là lũ lụt.

3.2.2. Hạn chế

Bên cạnh những đóng góp trên đây, vì điều kiện khách quan hay chủ quan,

trong thực tiễn thực thi chức năng, nhiệm vụ, cơ quan giám sát của triều Nguyễn

còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Từ hạn chế trong cơ cấu tổ chức, đó là triều

Nguyễn thực thi chế độ kiêm nhiệm đối với cơ quan giám sát đã ảnh hưởng đến

thực tiễn hoạt động của tổ chức này. Việc không phân định cụ thể chức năng của cơ

quan trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới chế độ quân chủ nói chung

và triều Nguyễn nói riêng có rất nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên, chức năng chính

của Đô sát viện là hoạt động trên lĩnh vực tư pháp nhưng trong thực tiễn hoạt động

tổ chức này còn tham gia hoạt động hành pháp và lập pháp. Đây là một trong những

nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tư pháp của họ. Đối với cơ quan

Page 147: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

giám sát trong thực tiễn hoạt động trên lĩnh vực tư pháp và hành pháp họ sẽ thấy

được những hạn chế nhất định của hệ thống pháp luật, từ đó sẽ có những đóng góp

để thay đổi luật định chưa phù hợp hay bổ sung những điều luật chưa được ban

hành và phần nào đã giúp triều Nguyễn trong việc giảm bớt bộ máy cồng kềnh, gây

lãng phí. Ngược lại, khi họ là những người chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của

toàn bộ quan lại trong cả nước, kể cả Thượng thư các bộ và Tổng đốc các tỉnh,

trong khi họ là chính là những người kiêm nhiệm thêm những chức này quả là khó

khăn rất lớn cho họ thực thi vai trò của mình.

Dẫu còn một số hạn chế nhưng thực tiễn hoạt động, cơ quan giám sát của triều

Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 đã có những đóng góp rất lớn. Những công lao đó

không chỉ giới hạn trong việc trừng trị quan tham, làm trong sạch bộ máy mà còn

được thể hiện hầu hết các mặt của đời sống xã hội và phần nào đã đảm bảo được

quyền lợi ích cho dân chúng.

Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về triều Nguyễn nói riêng và nhà

Nguyễn nói chung đã đạt được những thành quả rất lớn. Các kết quả nghiên cứu đã

minh chứng cho thấy triều Nguyễn và các chúa Nguyễn đã có những đóng góp lớn

cho lịch sử, văn hóa của dân tộc. Qua nghiên cứu này cho thấy, việc xây dựng, kiện

toàn và vận hành bộ máy hành chính cũng như đưa ra các biện pháp nhằm phát huy

hiệu quả của bộ máy đó cũng là một trong những đóng góp của triều Nguyễn. Trong

đó, việc đặt ra cơ quan giám sát và tạo cơ chế cho tổ chức này hoạt động hiệu quả là

một trong những biện pháp hữu hiệu nhất. Tuy nhiên, những biện pháp này không

còn phù hợp với tổ chức bộ máy quân chủ chuyên chế nặng nề, bảo thủ [54:20],

nhất là khi thế giới đã và đang bước sang hình thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn.

Dẫu vậy, đây cũng là một trong những kinh nghiệm quý báu cho việc xây dựng và

hoàn thiện hệ thống thanh tra, giám sát hiện nay ở Việt Nam.

*

* *

Page 148: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

Tóm lại, việc xây dựng, kiện toàn và vận hành cơ quan giám sát dưới 4 triều

vua từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức đã đạt những đóng góp quan

trọng. Về mặt cơ cấu tổ chức, tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính, các

vị vua đầu triều Nguyễn đã xây dựng cơ quan giám sát tương ứng, trong đó dưới

thời vua Minh Mạng là hoàn chỉnh và đầy đủ nhất. Trước trọng trách phải giám sát

toàn bộ bộ máy hành chính khá nặng nề, triều Nguyễn đã có các chế độ đãi ngộ cho

cơ quan giám sát như chế độ lương, phẩm phục... Song song với việc xây dựng cơ

cấu tổ chức, các vị vua đầu triều Nguyễn cũng đã ban định cho cơ quan giám sát và

các thành viên của tổ chức này quyền hạn, trách nhiệm cũng như xây dựng cơ chế

hoạt động khá đầy đủ và chặt chẽ. Đặc biệt, triều Nguyễn cho phép các ngôn quan,

gián quan giám sát hoạt động của toàn bộ hệ thống bộ máy hành chính từ trung

ương đến địa phương và trong tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo

dục, quân sự...

Không chỉ về mặt lý thuyết, thực tiễn hoạt động, cơ quan giám sát của triều

Nguyễn dưới thời trị vì của 4 vị vua (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức)

cũng có những đóng góp rất lớn. Chính vì các ngôn quan, gián quan được quyền

giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy hành chính và tất cả các lĩnh vực của đất

nước nên đóng góp của họ cũng được thể hiện khá đa dạng. Trên lĩnh vực chính trị,

tổ chức này đã có những đóng góp như: tham mưu cho vua và triều đình trừng trị

quan tham, làm trong sạch bộ máy hành chính; trực tiếp giám sát việc bổ dụng, tiến

cử quan lại nhằm góp phần xây dựng tổ chức bộ máy hành chính; giúp thực thi nền

tư pháp quân chủ nhằm củng cố đế quyền và phần nào đảm bảo quyền, lợi ích cho

dân chúng; ngoài ra họ còn có những đóng góp quan trọng trên trong hoạt động

hành pháp và lập pháp. Trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh, cơ quan giám sát có

những đóng góp như: tham gia xây dựng lực lượng quân đội, tham gia kiểm duyệt

biền binh; tham gia giữ gìn an ninh, bảo vệ biên giới lãnh thổ, tham gia đánh dẹp

thổ phỉ, các thế lực chống đối triều đình... Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, các thuộc

viên của cơ quan giám sát đã góp phần duy trì nền giáo dục Nho học, nhất là giám

sát hoạt động của các trường thi; góp phần thiết lập trật tự xã hội và ổn định dân cư;

tham gia khắc phục hậu quả thiên tai, bảo vệ quyền, lợi ích của dân chúng. Ngoài

Page 149: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

ra, cơ quan giám sát và các thuộc viên còn có những đóng góp trên các lĩnh vực

kinh tế, hoạt động thu thuế, công tác trị thủy...

Bên cạnh những đóng góp trên đây, trong quá trình xây dựng và vận hành, cơ

quan giám sát dưới thời bốn vị vua đầu của triều Nguyễn (1802 – 1885) còn tồn tại

một số hạn chế nhất định. Về mặt cơ cấu tổ chức, hầu hết các vị vua đầu triều

Nguyễn đều quy định các ngôn quan, gián quan ngoài đảm đương các chức như Đô

ngự sử, Cấp sự trung đến các Giám sát ngự sử còn phải kiêm nhiệm thêm một số

chức quan khác; dưới thời trị vì của mình vua Thiệu Trị và vua Tự Đức đã có nhưng

thay đổi, tinh giản cơ quan giám sát... Đây chính là một trong những nguyên nhân

ảnh hưởng đến quá trình vận hành và thực thi trách nhiệm của cơ quan giám sát.

Một hạn chế mang tính lịch sử, đó là dù được ban quyền lớn nhưng vua vẫn là thiên

tử có quyền tối thượng nên đã hạn chế vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của tổ

chức này. Chính những hạn chế về mặt cơ cáu tổ chức trên đây đã tác động và hạn

chế đến thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát. Nhất là khi các ngôn quan, gián

quan vừa phải đảm đương nhiệm vụ tư pháp nhưng vừa phải kiêm nhiệm thêm

nhiệm vụ hành pháp.

Là một tổ chức quan trọng trong hệ thống tổ chức bộ máy hành chính và thực

tiễn hoạt động, các Đô ngự sử, Cấp sự trung và Giám sát ngự sử các đạo của triều

Nguyễn đã khẳng định được vai trò, có nhiều đóng góp quan trọng. Đó là giúp triều

đình giám sát toàn bộ bộ máy hành chính, hệ thống quan lại trong cả nước cũng như

phần nào đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi ích của dân chúng. Thành công trong xây

dựng và vận hành cơ quan giám sát là một trong những minh chứng góp phần cho

chúng ta khẳng định triều Nguyễn là triều đại có tổ chức bộ máy hoàn chỉnh nhất và

nhiều đóng góp trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam.

Page 150: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

KẾT LUẬN

Song song với việc xây dựng tổ chức bộ máy hành chính, các triều đại quân

chủ Việt Nam trước triều Nguyễn và triều Thanh (Trung Quốc) đã có những quan

tâm nhất định trong việc đặt các chức quan hay thiết lập cơ quan giám sát cho triều

đại mình. Tùy thuộc vào mỗi thời điểm lịch sử cũng như quy mô bộ máy hành chính

mà mỗi triều đại đều đặt ra các chức quan hay xây dựng cơ quan giám sát tương

ứng. So với các triều đại trước triều Nguyễn, triều Lê là triều đại đã xây dựng được

một cơ quan giám sát đầy đủ và hoàn chỉnh nhất.

Lịch sử quá trình tồn tại và hoạt động cho thấy, các chức quan và cơ quan

giám sát của các triều đại quân chủ Việt Nam trước triều Nguyễn đã có những đóng

góp quan trọng và là một thành phần không thể thiếu của tổ chức bộ máy hành

chính. Đây chính là những kinh nghiệm quý báu cho triều Nguyễn kế thừa để xây

dựng hệ thống giám sát cho triều đại mình, nhất là khi tổ chức bộ máy hành chính,

hệ thống quan chế của triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 có quy mô và số lượng

khá lớn so với các triều đại trước đó thì yêu cầu cần phải có một tổ chức để giám sát

hoạt động của toàn bộ bộ máy hành chính và hệ thống quan lại từ trung ương đến

địa phương đó lại trở nên bức thiết hơn.

1. Ngay sau khi giành được chính quyền từ vương triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh

lên ngôi hoàng đế và lập ra triều Nguyễn vào năm 1802, nhà vua đã bắt tay vào quá

trình xây dựng bộ máy hành chính nhà nước. Đến những năm cuối thập niên 20 đầu

thập niên 30 của thế kỷ XIX, trước yêu cầu quản lý hành chính và sự phát triển kinh

tế - xã hội cũng như củng cố nền quân chủ chuyên chế, vua Minh Mạng đã tiến

hành cuộc cải cách hành chính trong cả nước. Để quản lý, vận hành tốt bộ máy hành

chính đó, trên cơ sở kinh nghiệm của các triều đại quân chủ Việt Nam và triều

Thanh đương thời, vua Minh Mạng cũng đã cho kiện toàn cơ quan giám sát các cấp.

Page 151: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

1.1. Về tổ chức: Nhìn chung, dưới thời Gia Long và những năm đầu triều vua

Minh Mạng, cơ cấu tổ chức của cơ quan giám sát còn đơn giản. Cơ quan giám sát

mới chỉ được đặt ra ở triều đình với các chức như Tả/Hữu Đô ngự sử, Tả/Hữu phó

Đô ngự sử và lục khoa. Đến năm 1832, cùng với công cuộc cải cách bộ máy hành

chính từ trung ương đến địa phương, vua Minh Mạng chính thức thành lập Đô sát

viện – cơ quan giám sát cao nhất trong bộ máy nhà nước triều Nguyễn, đứng đầu là

Tả/Hữu Đô ngự sử và Tả/Hữu phó Đô ngự. Dưới Đô sát viện và 4 Trưởng quan của

cơ quan này còn có lục khoa và Cấp sự trung ở các đạo. Lục khoa có trách nhiệm

giám sát hoạt động của lục bộ và một số nha theo sự phân định của triều đình. Đứng

đầu mỗi khoa có Cấp sự trung. Còn giám sát các địa phương là trách nhiệm của

Giám sát Ngự sử các đạo. Năm 1832, cùng với việc đặt ra Giám sát Ngự sử, triều

Nguyễn cho đặt ghép 31 tỉnh và phủ Thừa Thiên thành 16 đạo. Giám sát mỗi đạo là

1 Giám sát Ngự sử.

Cùng với việc thành lập cơ quan giám sát đầy đủ từ trung ương đến địa

phương, vua Minh Mạng còn phân định phẩm hàm và trách nhiệm cụ thể cho mỗi

viên quan, lại thuộc tổ chức này. Trên cơ sở cơ quan giám sát được thành lập dưới

triều Minh Mạng, các vị vua sau từ Thiệu Trị đến Tự Đức đều kế thừa và hầu như

không thay đổi nhiều.

Cơ quan giám sát của triều Nguyễn, nhất là dưới triều Minh Mạng chủ yếu

được xây dựng trên cơ sở di sản của các triều đại quân chủ Việt Nam trước đó và có

phần mô phỏng theo cơ quan giám sát của triều Thanh đương thời. Tuy nhiên, sự

tiếp nối, mô phỏng của triều Nguyễn là có sáng tạo để phù hợp với tình hình của

Việt Nam lúc bấy giờ chứ không phải rập khuôn hoàn toàn.

1.2. Về hoạt động: Song song với việc xây dựng một cơ cấu tổ chức hoàn

chỉnh từ trung ương đến địa phương, triều Nguyễn đã xây dựng cơ quan giám sát và

thuộc viên của tổ chức này hai cơ chế hoạt động, đó là cơ chế độc lập và cơ chế

phối hợp, liên kết khá hoàn chỉnh và chặt chẽ.

Đối với cơ chế độc lập, triều Nguyễn không chỉ quy định cơ quan giám sát có

quyền độc lập với các tổ chức khác trong hoạt động, mà trong nội bộ tổ chức này

Page 152: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

cũng có sự độc lập nhất định. Đó là độc lập giữa cơ quan giám sát trung ương và cơ

quan giám sát địa phương, độc lập giữa ngôn quan cấp trên với ngôn quan cấp dưới

và độc lập giữa các thuộc viên của tổ chức này với nhau.

Về cơ chế phối hợp, liên kết, triều Nguyễn cho phép cơ quan giám sát được

liên kết, phối hợp nội bộ với nhau và với cơ quan, tổ chức khác để cùng tham gia

các hoạt động lớn như: giám sát toàn bộ hệ thống quan lại từ trung ương đến địa

phương; cùng với Đại lý tự và bộ Hình hợp thành Tam Pháp ty – Pháp đình tối cao

của triều Nguyễn; tham gia hoạt động kinh lược tại các địa phương. Ngoài ra, Đô

sát viện, lục khoa và Giám sát ngự sử các đạo còn phối hợp với nhau và phối hợp

với thuộc viên của cơ quan khác tham gia một số hoạt động khác như: thanh tra hoạt

động ở các kho xưởng ở Kinh đô và địa phương, thanh tra các kỳ thi...

Việc phân định trách nhiệm, ban hành cho cơ quan giám sát cùng lúc cả hai cơ

chế vừa độc lập, vừa phối hợp liên kết trong hoạt động là một trong những sáng tạo

và có tính ưu việt của triều Nguyễn so với các triều đại Việt Nam trước đó. Thực

tiễn hoạt động cho thấy, với hai cơ chế này cơ quan giám sát và thuộc viên của tổ

chức này đã phát huy được vai trò, trọng trách mà vua và triều đình tin giao góp

phần xây dựng, củng cố nền quân chủ chuyên chế và bảo vệ quyền, lợi ích của dân

chúng. Cụ thể, cơ quan giám sát đã có những đóng góp trên nhiều lĩnh vực khác

nhau, từ xây dựng, làm trong sạch bộ máy hành chính; góp phần thực thi nền tư

pháp, hành pháp quân chủ; tham gia xây dựng quân đội, bảo vệ an ninh biên giới;

góp phần duy trì nền giáo dục Nho học, duy trì trật tự xã hội; tham gia công tác trị

thủy, khắc phục hậu quả thiên tai, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân...

Trong quá trình xây dựng, kiện toàn và thực tiễn hoạt động, cơ quan giám sát

của các vị vua đầu triều Nguyễn là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã

có những đóng góp quan trọng. Những đóng góp đó không chỉ được thể hiện qua

việc triều Nguyễn xây dựng, kiện toàn và tạo cơ chế cần thiết cho tổ chức này hoạt

động mà đặc biệt hơn qua thực tiễn hoạt động, tổ chức này phát huy được vai trò,

chức năng của mình. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp, việc xây dựng và vận

hành cơ quan giám sát cũng còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Một trong những

Page 153: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

hạn chế lớn nhất là vai trò tối thượng của hoàng đế - thiên tử, ý vua là ý trời do vậy

quyền tham hặc, can gián của các ngôn quan, gián quan cũng chỉ là cơ sở để vua

tham khảo, quyết định của vua vẫn là cuối cùng và bất khả xâm phạm. Bên cạnh đó,

để giảm bớt đội ngũ quan lại, triều Nguyễn đã cho các ngôn quan, gián quan đều

phải kiêm nghiệm. Đó là các Đô ngự sử, Cấp sự trung và Giám sát ngự sử là những

viên quan hoạt động trên lĩnh vực tư pháp nhưng họ còn phải kiêm nhiệm thêm

nhiệm vụ thuộc lĩnh vực hành pháp như kiêm nhiệm công việc ở các bộ (Tham tri),

các tỉnh (Tổng đốc)... Đây chính là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến

quá trình thực thi vai trò của cơ quan giám sát.

Trải qua hơn 80 năm (1804 – 1885) ra đời, phát triển và thực thi trọng trách

của triều đình giao phó, cơ quan giám sát của triều Nguyễn đã xuất hiện những

ngôn quan, gián quan tiêu biểu như Võ Xuân Cẩn, Võ Trọng Bình, Phan Bá Đạt...

Những vị quan này đã có những đóng góp rất lớn trong vai trò là ngôn quan nói

riêng cũng như cuộc đời làm quan của họ nói chung. Thực tế, sử sách đã ghi nhận

điều đó. Đây chính là những tấm gương thanh liêm, mẫn cán, một đời cống hiến cho

triều đình, cho đất nước, cho dân chúng. Tuy nhiên, cho đến nay, việc nghiên cứu

về những ngôn quan, gián quan này chưa nhiều, nhất là khi họ là thuộc viên của cơ

quan giám sát. Bên cạnh đó, nhà nước, cơ quan hữu quan... cũng chưa có các giải

pháp trùng tu, bảo tồn các di tích liên quan đến các vị quan này để vinh danh và

giáo dục cho các thế hệ sau noi theo...

Việc xây dựng và ban định cho cơ quan giám sát một hệ thống cơ chế hoạt

động khá đầy đủ là một trong những giải pháp tích cực của triều Nguyễn nhằm góp

phần xây dựng bộ máy hành chính trong sạch, đảm bảo quyền và lợi ích cho dân

chúng… Tuy nhiên, các giải pháp đó cũng không thể giúp cho triều Nguyễn vượt

lên khỏi những hạn chế của nền quân chủ, phong kiến phương Đông nói chung. Đó

là, bộ máy nhà nước triều Nguyễn vẫn là bộ máy của một nhà nước quân chủ tập

trung quan liêu chuyên chế nặng nề. Nhất là, khi thế giới đang bước sang giai đoạn

cao trào của cuộc cách mạng công nghiệp để hướng đến hình thái kinh tế - xã hội

tiên tiến hơn là tư bản chủ nghĩa thì nền quân chủ chuyên chế mà triều Nguyễn đang

Page 154: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

xây dựng sẽ không còn phù hợp nữa mà nó sẽ trở thành thuộc địa màu mỡ cho các

nước tư bản lớn đang khao khát tìm kiếm nguồn nguyên liệu và thị trường. Nguy cơ

đó đã trở thành sự thật vào đêm 04 rạng sáng ngày 05/7/1885, thực dân Pháp tiến

hành đánh chiếm Kinh thành Huế, chính thức biến Việt Nam thành thuộc địa.

2. Mặc dù còn tồn tại một số hạn chế nhất định, qua nghiên cứu về tổ chức,

hoạt động của cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 và các

triều đại quân chủ Việt Nam trước đó, chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm cho

việc xây dựng tổ chức thanh tra, giám sát hiện nay ở Việt Nam như sau:

- Về cơ cấu tổ chức, xây dựng một hệ thống tổ chức thanh tra, giám sát đầy đủ

từ trung ương đến địa phương và theo mỗi ngành chức năng. Vừa có tổ chức thanh

tra, giám sát liên ngành nhưng cũng vừa có chuyên ngành. Khi xây dựng bộ máy

hành chính nói chung và hệ thống tư pháp, thanh tra, giám sát nói riêng, phải có sự

kế thừa, đúc rút kinh nghiệm của lịch sử cũng như của các nước trên thế giới có tổ

chức và hoạt động giám sát hiệu quả. Tổ chức thanh tra, giám sát phải có sự độc lập

nhất định, không chịu sự ràng buộc bởi một cá nhân hay tổ chức nào. Nhất là hạn

chế vai trò “quyền tối thượng” của cá nhân trong mọi hoạt động của tổ chức này.

- Về con người, thanh tra, giám sát là hoạt động liên quan đến nhiều đối tượng

với nhiều chuyên môn, môi trường, hoàn cảnh… khác nhau. Do vậy, một trong

những điều kiện cần thiết nhất đó là vừa phải chọn những người giỏi về chuyên

môn, thanh liêm, chính trực [34:42]; Nhà nước cần phải có chế độ đãi ngộ và

thưởng, phạt hợp lý đối với những người hoạt động trong môi trường thanh tra,

giám sát, nhất là điều kiện vật chất. Đồng thời, cần có những chế tài kỷ luật nghiêm

minh, đủ sức răn đe, xử phạt thích đáng những cán bộ làm công tác thanh tra, giám

sát lợi dụng chức vụ, quyền hạn bao che tội phạm, tư lợi, hãm hại nhân dân... trong

quá trình thực thi chức năng được giao. Không nên bố trí cán bộ làm công tác thanh

tra, giám sát trên quê hương của họ hay ở những nơi có nhiều người thân mà nên áp

dụng chính sách hồi tỵ. Nhà nước cũng cần có quy định về luân chuyển đối với cán

bộ làm công tác thanh tra, giám sát.

Page 155: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

- Về cơ chế vận hành, về khía cạnh lý thuyết Nhà nước có quy định phân định

trách nhiệm, quyền hạn của tổ chức thanh tra, giám sát trung ương và địa phương

nhưng thực tiễn hoạt động cán bộ thanh tra, giám sát ngành, địa phương này có

quyền thanh tra, giám sát, tố giác sai phạm của ngành khác, địa phương khác, kể cả

cấp trên của mình và không nên có “vùng cấm” trong hoạt động thanh tra, giám sát.

Có cơ chế và tạo điều kiện cho nhân dân phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của

mình. Bởi, nhân dân chính là đối tượng được hưởng lợi và cũng là đối tượng bị ảnh

hưởng nhiều nhất... Nhà nước cũng tạo ra các kênh thông tin để nhân dân thuận lợi

trong việc phát huy vai trò thanh tra, giám sát cũng như tố giác sai phạm của cán bộ

và hệ thống chính quyền. Đồng thời, có chế tài bảo vệ nhân dân khi họ tham gia

hoạt động này, tránh tình trạng khi nhân dân tố giác sai phạm bị các thế lực khác đe

dọa, hãm hại. Để họ thực sự là những người “cầm cân, nẩy mực”, có nhiều đóng

góp hơn nữa cho sự trong sạch của bộ máy hành chính và sự công bằng cho nhân

dân, Nhà nước phải có chế tài đặc biệt để bảo vệ bản thân người tham gia công tác

thanh tra, giám sát cũng như người thân của họ. Trong những trường hợp nhất định,

trung ương có thể thành lập các đoàn kinh lược đến thanh tra, kiểm soát ở những địa

phương, cơ quan, tổ chức để thay mặt Nhà nước giải quyết kịp thời những khuất tất,

dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc nhân dân gặp khó khăn trong hoạn nạn... Về thành

phần của hoạt động này có thể chỉ có thành viên của tổ chức thanh tra, giám sát

cũng có thể có sự phối hợp liên ngành, được tổ chức bí mật, có tính độc lập cao và

không nên kiêm nhiệm.

3. Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Nhà nước, chính quyền

địa phương và quốc tế, công tác nghiên cứu cũng như bảo tồn, trùng tu, tôn tạo,

phục hồi các di tích liên quan đến nhà Nguyễn, triều Nguyễn đã đạt được những kết

quả nhất định. Tuy nhiên, những kết quả này cũng chưa phải ánh đầy đủ và toàn

diện về triều đại này, trong đó có cơ quan giám sát. Do vậy, qua nghiên cứu về cơ

quan giám sát dưới 4 vị vua đầu triều Nguyễn và khảo sát các di tích liên quan đến

tổ chức này, Luận án mạnh dạn đề xuất với cơ quan hữu quan và các nhà quản lý

một số kiến nghị như: đầu tư nghiên cứu sâu hơn về tổ chức, hoạt động của cơ quan

giám sát và các vị quan tham gia tổ chức này của triều Nguyễn nói riêng và dưới

Page 156: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

chế độ quân chủ ở Việt Nam nói chung; cần có sự quan tâm đầu tư nhằm bảo tồn,

trùng tu những di tích liên quan đến cơ quan giám sát của triều Nguyễn hiện nay đã

xuống cấp như: Đô sát viện, Tam Pháp ty… nhất là cho dựng lại trống Đăng văn –

một biểu tượng dân nguyện của chế độ quân chủ, để các thế hệ ngày nay và mai sau

có thể thấy được các vị vua đầu của triều Nguyễn cũng đã cố gắng tạo điều kiện cho

dân chúng thể hiện tiếng nói của mình...

Tóm lại, xã hội ngày nay là xã hội mở - toàn cầu hóa và cơ chế thị trường đang

ảnh hưởng đến mỗi quốc gia, dân tộc... Việt Nam chúng ta không thể đóng cửa để

phát triển. Trên lĩnh vực thanh tra, giám sát cũng không phải là ngoại lệ, Việt Nam

có lịch sử hàng ngàn năm, đặc biệt chế độ quân chủ đã cho chúng ta những kinh

nghiệm quý báu về xây dựng, tổ chức hoạt động của cơ quan giám sát. Bên cạnh,

phát huy những kinh nghiệm đó để xây dựng hệ thống giám sát mang đặc trưng

riêng có của Việt Nam, chúng ta cũng phải tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm

tích cực của thế giới nhằm có được một hệ thống cơ quan giám sát hoàn chỉnh, hoạt

động hiệu quả./.

Page 157: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN

1. Báo cáo khoa học

1) Ngô Đức Lập (2011), “Tìm hiểu về quá trình ra đời và kiện toàn cơ quan giám sát của

các triều đại quân chủ Việt Nam”, tạp chí Lịch sử Quân sự, số 239 (11), tr.38-52.

2) Ngô Đức Lập (2011), “Cơ quan giám sát của các triều đại quân chủ Việt Nam”, Kỷ

yếu Hội nghị khoa học trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Sau đó bài này được

chọn đăng tại tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 72A (3/2012), tr.147-156.

3) Ngô Đức Lập (2012), “Các triều đại quân chủ Việt Nam với việc xây dựng cơ quan

giám sát”, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1 (285), tr.03-08.

4) Ngô Đức Lập (2012), “Hoạt động của Tam Pháp ty triều Nguyễn (1802 – 1885)”, Hội

thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ IV, Hà Nội tháng 11/2012.

5) Ngô Đức Lập (2012), “Hoạt động kiểm tra, giám sát của viện Đô sát triều Nguyễn”,

tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 02 (430), tr.36-41.

6) Ngô Đức Lập (2012), “Vũ Trọng Bình – Nửa thế kỷ “quan lộ” và những đóng góp”,

kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về Danh nhân văn hóa Quảng Bình, tr.355-362.

7) Ngô Đức Lập (2012), “Hoạt động của Tam Pháp ty triều Nguyễn (1802 – 1885) và

một vài nhận định”, tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 22 (230), tr.26-30.

8) Hoàng Văn Hiển, Nguyễn Văn Đăng, Ngô Đức Lập (2012), “Features architecture of

Van Thanh, Vo Thanh Hue (Đặc điểm kiến trúc Văn Thánh, Võ Thánh Huế”, in

Heritage in Vietnam Designing the Sustainable Territory, Fausto Pugnaloni

Landscape, Published by Giancarlo Ripesi Editore, Via del Lavoro, 23 - 60015

Falconara Marittima AN (www.giancarloripesieditore.it).

9) Ngô Đức Lập (2013), “Hoạt động Kinh lược dưới triều Nguyễn (1802 - 1885)”, Tạp

chí Lịch sử Quân sự (Viện Lịch sử Quân sự), số 257, tr.45-48.

10) Ngô Đức Lập (2013), “Kinh lược hoạt động thanh tra, giám sát đặc biệt dưới triều

Nguyễn (1802 - 1885)”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, tập 82, số 4, tr.173-180.

11) Ngô Đức Lập (2013), “Vài nét về cơ chế hoạt động độc lập của cơ quan giám sát dưới

triều Nguyễn”, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 08 (448), tr.37-42.

12) Ngô Đức Lập (2013), “Quy định của triều Nguyễn đối với hoạt động thanh tra giai

đoạn 1802 – 1885”, Hội nghị khoa học trẻ trường Đại học Khoa học Huế lần thứ VIII,

tr.193-197.

2. Đề tài nghiên cứu khoa học

13) Ngô Đức Lập (chủ trì), “Tìm hiểu về cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát dưới triều

Nguyễn (1802 - 1885)”, đề tài cấp cơ sở, nghiệm thu năm 2009.

14) Ngô Đức Lập (chủ trì), “Tìm hiểu về quá trình ra đời và kiện toàn của cơ quan giám

sát dưới triều Nguyễn (1802 - 1885)”, đề tài cấp cơ sở, nghiệm thu năm 2010.

Page 158: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

[1]. Võ Hương An (2012), Từ điển nhà Nguyễn, Namviet Publisher, P.O. Box

14982, Irvine, CA 92623, USA.

[2]. Huỳnh Công Bá (2012), Nghiên cứu pháp luật hành chính và quân sự triều

Nguyễn (1802 – 1884),Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp

Bộ, Đại học Sư phạm, Đại học Huế.

[3]. Ngô Văn Ban, Nguyễn Công Lý, Lê Trọng Ngoạn (1997), Lược khảo và tra

cứu về học chế quan chế ở Việt Nam từ 1945 về trước, Nxb Văn hoá Thông

tin, Hà Nội.

[4]. Đỗ Bang (1996), “Khảo cứu về đế quyền triều Nguyễn”, trong Kỷ yếu Hội

thảo khoa học 690 năm Thuận Hóa – Thừa Thiên – Huế.

[5]. Đỗ Bang (chủ biên, 1997), Tổ chức bộ máy Nhà nước triều Nguyễn giai đoạn

1802 - 1884, Nxb Thuận Hóa, Huế.

[6]. Đỗ Bang (1998), Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều

Nguyễn: những vấn đề đặt ra hiện nay, Nxb Thuận Hóa, Huế.

[7]. Đỗ Bang (2007), “Thiết chế cực quyền và các chế tài điều tiết cực quyền”,

Nghiên cứu lịch sử, số 1 (369), tr.42-53.

[8]. Đỗ Bang (2007), “Thiết chế cực quyền và các chế tài điều tiết cực quyền”

(tiếp theo), Nghiên cứu lịch sử, số 2 (370), tr.45-53.

[9]. Đỗ Bang (2010), “Các biện pháp chế tài để điều tiết cực quyền của bộ máy

nhà nước tập quyền triều Nguyễn”, trong Thuận Hóa – Phú Xuân – Thừa

Thiên Huế: 700 năm hình thành và phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, tr.135-150.

[10]. L.Cadière (2006), Kinh thành Huế địa danh học, trong Những người bạn Cố

đô Huế, bản dịch của Hà Xuân Liêm, tập XX (1933), Nxb Thuận Hóa, Huế,

tr.111-188.

[11]. L.Cadière (1996), La Citadelle de Hue onomastique - Kinh thành Huế địa

danh, bản dịch của Nxb Đà Nẵng.

[12]. Phan Huy Chú (bản dịch, 1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[13]. H. Cosserat (2006), Kinh thành Huế bản đồ học, trong Những người bạn Cố

đô Huế, bản dịch của Hà Xuân Liêm, tập XX (1933), Nxb Thuận Hóa, Huế,

tr.5-110.

[14]. Paulus Của (1888), Sách quan chế, Sài Gòn.

Page 159: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

[15]. Nguyễn Doãn Cương (1998), “Các qui định về quyền và nghĩa vụ của quan

lại trong các văn bản pháp luật dưới thời Lê Thánh Tông”, Nhà nước và

Pháp luật, số 8 (124), tr.34-47.

[16]. Phan Đại Doãn (1998), Một số vấn đề quan chế triều Nguyễn, Nxb Thuận

hóa, Huế.

[17]. Phan Tiến Dũng (2006), “Các biện pháp phòng chống tham nhũng của triều

Nguyễn trong việc xây dựng Kinh đô Huế: Tác dụng và bài học kinh

nghiệm”, trong Thuận Hóa – Phú Xuân – Thừa Thiên Huế: 700 năm hình

thành và phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.150-168.

[18]. Phạm Đức Thành Dũng (chủ biên, 2000), Khoa cử và các nhà khoa bảng

triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.

[19]. Bùi Xuân Đính (2004), “Việc tuyển chọn và sử dụng quan lại trong lịch sử

chế độ phong kiến Việt Nam”, Nhà nước và pháp luật, số 3, tr 46-53.

[20]. Bùi Xuân Đính (2005), Nhà nước và pháp luật thời phong kiến Việt Nam

những suy ngẫm, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

[21]. Trần Quang Đức (2013), Ngàn năm áo mũ – Lịch sử trang phục Việt Nam

giai đoạn 1009 – 1945, Nxb Thế giới, Hà Nội.

[22]. Nguyễn Sỹ Giác (bản dịch, 1993), Đại Nam điển lệ toát yếu, Nxb thành phố

Hồ Chí Minh.

[23]. Vũ Minh Giang (2000), “Đặc điểm của hoạt động lập pháp, hành pháp và tư

pháp trong lịch sử trung đại Việt Nam”, trong Một chặng đường nghiên cứu

lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[24]. Nguyễn Sĩ Hải (1962), Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ:

1802-1847, Luận án Tiến sỹ Luật khoa, Sài Gòn.

[25]. Lê Thị Thanh Hòa (1994), Lựa chọn và sử dụng nhân tài trong lịch sử, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[26]. Lê Thị Thanh Hòa (1995), “Việc sử dụng quan lại của vương triều Nguyễn từ

1802 – 1884”, Nghiên cứu lịch sử, Số 3, tr.56-63.

[27]. Lê Thị Thanh Hòa (1998), Việc đào tạo và sử dụng quan lại của triều

Nguyễn từ 1802 – 1884, Nxb KHXH, Hà Nội.

[28]. Thái Hoàng, Bùi Quý Lộ (1995), “Thanh tra, giám sát và khảo xét quan lại

thời phong kiến ở nước ta”, Nghiên cứu lịch sử, số 6 (283), tr. 26-31.

[29]. Phạm Đình Hổ (2007), “Minh Mạng chiêu hiền” trong Những vấn đề lịch sử

triều Nguyễn, Nxb Văn hóa, Sài Gòn.

[30]. Nguyễn Thị Hương (2005), Chính sách và biện pháp chống tiêu cực trong bộ

máy quan chức triều Nguyễn (1802 – 1885), Khóa luận cử nhân, khoa Lịch

sử, trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.

Page 160: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

[31]. Nguyễn Thị Việt Hương (2008), “Kinh nghiệm xây dựng và sử dụng đội ngũ

quan lại trong nền hành chính Việt Nam thời kì phong kiến”, Nhà nước và

pháp luật, số 11, tr. 19 – 27.

[32]. Bùi Huy Khiên (2006), “Tuyển chọn, kiểm tra, giám sát công chức dưới triều

Lê Thánh Tông”, Nhà nước và Pháp luật, số 7, tr 11-17.

[33]. Bùi Huy Khiên (2006), “Tuyển chọn, kiểm tra, giám sát đội ngũ quan lại

dưới triều Minh Mạng”, Nhà nước và pháp luật, số 8, tr.19-23.

[34]. Ngô Đức Lập (2011), “Tìm hiểu về quá trình ra đời và kiện toàn cơ quan

giám sát của các triều đại quân chủ Việt Nam”, Lịch sử Quân sự, số 239 (11-

2011), tr.38-52.

[35]. Ngô Đức Lập (2012), “Cơ quan giám sát của các triều đại quân chủ Việt

Nam”, Khoa học, Đại học Huế, số 72A (3/2012), tr.147-156.

[36]. Ngô Đức Lập (2012), “Các triều đại quân chủ Việt Nam với việc xây dựng

cơ quan giám sát”, Nhà nước và Pháp luật, số 1 (285), tr.03-08.

[37]. Ngô Đức Lập (2012), “Hoạt động kiểm tra, giám sát của viện Đô sát triều

Nguyễn”, Nghiên cứu lịch sử, số 02 (430), tr.36-41.

[38]. Ngô Đức Lập (2012), “Vũ Trọng Bình – Nửa thế kỷ “quan lộ” và những

đóng góp”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về Danh nhân văn hóa

Quảng Bình, tr.355-362.

[39]. Ngô Đức Lập (2012), “Hoạt động của Tam Pháp ty triều Nguyễn (1802 –

1885) và một vài nhận định”, Nghiên cứu Lập pháp, số 22 (230), tr.26-30.

[40]. Ngô Đức Lập (2012), “Hoạt động của Tam Pháp ty triều Nguyễn (1802 –

1885), Hội thảo Việt Nam học lần thứ IV, Hà Nội, tháng 11/2012.

[41]. Phan Huy Lê (1960), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb Quốc gia

giáo dục, tập 2, Hà Nội.

[42]. Ngô Sĩ Liên (Ngô Đức Thọ dịch, 2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

[43]. Võ Thị Lý (2002), Tìm hiểu hoạt động của cơ quan tư pháp triều Nguyễn

giai đoạn 1802 – 1883, Khóa luận cử nhân, khoa Lịch sử, trường Đại học

Khoa học Huế.

[44]. Lê Nguyễn Lưu (2011), “Từ ấn Công đồng và đình thần đến tiếng trống

Đăng Văn”, Nghiên cứu và Phát triển (Sở Khoa học và Công nghệ Thừa

Thiên Huế), số 1 (84), tr.17-28.

[45]. Lê Trọng Ngoạn, Ngô Văn Ban, Nguyễn Công Lý (1997), Lược khảo và tra

cứu về học chế quan chế ở Việt Nam từ 1945 trở về trước, Nxb Văn hoá

thông tin, Hà Nội.

[46]. Nguyễn Quang Ngọc (2003), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

Page 161: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

[47]. Nguyễn Ngọc Nhuận (chủ biên, 2009), Một số văn bản điển chế và pháp luật

Việt Nam, tập 2 (từ thế kỷ XV – XVII), Nxb KHXH, Hà Nội.

[48]. Đỗ Văn Ninh (2006), Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

[49]. Nội các triều Nguyễn (bản dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,

tập 2, Nxb Thuận Hóa, Huế.

[50]. Nội các triều Nguyễn (bản dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,

tập 5, Nxb Thuận Hóa, Huế.

[51]. Nội các triều Nguyễn (bản dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,

tập 7, Nxb Thuận Hóa, Huế.

[52]. Nội các triều Nguyễn (bản dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,

tập 14, Nxb Thuận Hóa, Huế.

[53]. Nội các triều Nguyễn (bản dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,

tập 15, Nxb Thuận Hóa, Huế.

[54]. Nguyễn Danh Phiệt (1993), “Suy nghĩ về bộ máy Nhà nước quân chủ trung

ương tập quyền Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX”, Nghiên cứu lịch sử, số 6

(271), tr.13-20.

[55]. Vũ Thị Phụng (1983), Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb Hà Nội,

Hà Nội.

[56]. Vũ Thị Phụng (2007), “Nền hành chính Việt Nam thời phong kiến - Một số

di sản cần kế thừa và tham khảo”, Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính

Quốc gia số 4, tr. 20-24.

[57]. Nguyễn Phan Quang (1995), Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và củng cố

pháp quyền trong lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[58]. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX, Nxb thành phố Hồ Chí

Minh.

[59]. Quốc sử quán triều Nguyễn (1833), Châu bản triều Nguyễn, triều Minh

Mạng, tập 48, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.

[60]. Quốc sử quán triều Nguyễn (1833), Châu bản triều Nguyễn, triều Minh

Mạng, tập 49, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.

[61]. Quốc sử quán triều Nguyễn (1833), Châu bản triều Nguyễn, triều Minh

Mạng, tập 50, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.

[62]. Quốc sử quán triều Nguyễn (1855), Châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức,

tập 355, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.

[63]. Quốc sử quán triều Nguyễn (1855), Châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức,

tập 374, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.

[64]. Quốc sử quán triều Nguyễn (1867), Châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức,

tập 182, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.

Page 162: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

[65]. Quốc sử quán triều Nguyễn (1869), Châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức,

tập 224, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.

[66]. Quốc sử quán triều Nguyễn (1873), Châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức,

tập 262, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.

[67]. Quốc sử quán triều Nguyễn (1878), Châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức,

tập 334, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.

[68]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 2007), Đại Nam thực lục, tập 1, Viện

Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Sử học xuất bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[69]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 2007), Đại Nam thực lục, tập 2, Viện

Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Sử học xuất bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[70]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 2007), Đại Nam thực lục, tập 3, Viện

Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Sử học xuất bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[71]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 2007), Đại Nam thực lục, tập 4, Viện

Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Sử học xuất bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[72]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 2007), Đại Nam thực lục, tập 5, Viện

Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Sử học xuất bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[73]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 2007), Đại Nam thực lục, tập 6, Viện

Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Sử học xuất bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[74]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 2007), Đại Nam thực lục, tập 7, Viện

Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Sử học xuất bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[75]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 2007), Đại Nam thực lục, tập 8, Viện

Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Sử học xuất bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[76]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 1998), Khâm định Việt sử thông giám

cương mục, bản dịch của Viện Sử học, tập 1, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

[77]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 1994), Minh Mạng chính yếu, tập 1,

Nxb Thuận hóa, Huế.

[78]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 1994), Minh Mạng chính yếu, tập 2,

Nxb Thuận hóa, Huế.

[79]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 1994), Minh Mạng chính yếu, tập 3,

Nxb Thuận hóa, Huế.

[80]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 1997), Đại Nam chính biên liệt truyện,

tập 3, Nxb Thuận hóa, Huế.

[81]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 1997), Đại Nam chính biên liệt truyện,

tập 4, Nxb Thuận hóa, Huế.

[82]. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 1998), Quốc triều chính biên toát yếu,

Cao Xuân Dục và Trần Đình Phong dịch, Nxb Thuận hóa, Huế.

Page 163: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

[83]. Trịnh Thị Quyên (2005), Tổ chức và hoạt động cơ quan giám sát của triều

Nguyễn (1802 - 1885), Khóa luận cử nhân, khoa Lịch sử, trường Đại học

Khoa học Huế.

[84]. Nguyễn Ngọc Quỳnh (2011), Hệ thống giáo dục và khoa cử Nho giáo triều

Nguyễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[85]. Trương Hữu Quýnh (1982), “Tìm hiểu những cải tổ chính trị thời Minh

Mạng”, Thông báo Khoa học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội I.

[86]. Trương Hữu Quýnh (1995), “Hệ thống hành chính quốc gia nước ta thời xưa

– Một di sản cần nghiên cứu”, Nghiên cứu lịch sử, số 6 (283), tr.16-19.

[87]. Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (1999),

Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[88]. Văn Tạo (1993), “Sơ bộ nhận thức về nhà Nguyễn nửa đầu thể kỷ XIX”,

Nghiên cứu lịch sử, số 6.

[89]. Trần Vũ Tài (2008), “Quốc sử quán triều Nguyễn từ thời vua Gia Long đến

Tự Đức”, Kỷ yếu Hội thảo chúa Nguyễn và triều Nguyễn trong lịch sử Việt

Nam từ thế kỷ XVI - XIX, tr. 380-387, Nxb Thế giới, Hà Nội.

[90]. Chu Phát Tăng, Trần Long Đào, Tề Cát Tường (chủ biên, 2001), Từ điển lịch

sử chế độ chính trị Trung Quốc, bản dịch của Nguyễn Văn Dưng, Nxb Trẻ.

[91]. Nguyễn Hữu Tâm (2008), “Khái quát tình hình nghiên cứu lịch sử triều

Nguyễn của các học giả Trung Quốc từ đầu thế kỷ XXI đến nay”, Nghiên

cứu lịch sử, số 391+392, (11+12/2008), tr. 44-55.

[92]. Trần Thanh Tâm (1999), Quan chức nhà Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.

[93]. Trần Thị Thanh Thanh (1998), “Về pháp luật dành cho quan lại thời Nguyễn

(1802-1883)”, TTBCKH Hội thảo quốc tế về Việt Nam học, Trung tâm

KHXH&NV quốc gia, Nxb Thế Giới, Hà Nội.

[94]. Trần Thị Thanh Thanh (1999), “Hội đồng trong triều chính nhà Nguyễn thời

kỳ 1802-1883”, Xưa và Nay, Số 65 B.

[95]. Trần Thị Thanh Thanh (2000), ““Phiếu nghĩ”- một thể thức tham mưu và

giám sát trong triều chính nhà Nguyễn”, Xưa và Nay, Số 72 B.

[96]. Trần Thị Thanh Thanh (2001), Định chế quản lý nhà nước thời Nguyễn

(1802-1883), Đề tài Tiến sĩ sử học, bảo vệ tại Trường ĐHSP Tp.HCM.

[97]. Trần Thị Thanh Thanh (2004), “Về nền hành chính triều Nguyễn thời kỳ

1802-1883”, Nghiên cứu lịch sử, Số 2 (333), tr.17-25.

[98]. Trần Thị Thanh Thanh (2004), “Về cơ chế giám sát trong nền hành chính nhà

Nguyễn”, Khoa học, Trường ĐHSP Tp.HCM, Số 3(37).

[99]. Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa (1996), Cải cách Hồ Quý Ly, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

Page 164: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

[100]. Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa (1997), Lịch sử các định chế chính trị và

pháp quyền Việt Nam, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[101]. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu (bản dịch của Nguyễn Q. Thắng và

Nguyễn Văn Tài, 1994), Hoàng Việt luật lệ (luật Gia Long), t.1, Nxb Văn

hoá thông tin, thành phố Hồ Chí Minh.

[102]. Nguyễn Q. Thắng (1991), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

[103]. Nguyễn Quốc Thắng (bản dịch, 2002), Lược khảo Hoàng Việt luật lệ: Bước

đầu tìm hiểu luật Gia Long, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

[104]. Nguyễn Q. Thắng (2003), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Tổng hợp,

Tp. Hồ Chí Minh.

[105]. Đặng Thị Tịnh (1994), “Mấy nét về giáo dục, đào tạo nhân tài dưới triều

Nguyễn”, Huế Xưa và Nay, số 7, tr.20-23.

[106]. Nguyễn Thị Thủy (2005), Tìm hiểu chế độ trung ương tập quyền triều

Nguyễn, Khóa luận cử nhân, khoa Lịch sử, Trường ĐHKH, Đại học Huế.

[107]. Nguyễn Thị Thúy (2010), “Một số hệ luận rút ra từ kinh nghiệm tổ chức

chính quyền đầu thời Nguyễn”, Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, KHXH

và NV, số 26 (2010), tr.53-61.

[108]. Nguyễn Quốc Triều (2008), “Từ Lê Chất và Trương Đăng Quế đối điều suy

nghĩ về thuật sử dụng người tài của nhà Nguyễn”, Kỷ yếu Hội thảo Chúa

Nguyễn và triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI - XIX, tr. 474-

477, Nxb Thế giới, Hà Nội.

[109]. Trung tâm KHXH và Nhân văn – Viện văn học (1998), Hoàng đế Lê Thánh

Tông nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn, Nxb KHXH,

Hà Nội.

[110]. Nguyễn Minh Tuấn (2006), Tổ chức chính quyền thời kỳ phong kiến ở Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

[111]. Nguyễn Minh Tường (1996), Cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

[112]. Nguyễn Minh Tường (2008), “Cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng

(1802-1840)”, Kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn và triều Nguyễn trong lịch sử

Việt Nam từ thế kỷ XVI - XIX, tr. 388-398, Nxb Thế giới, Hà Nội.

[113]. Đào Tố Uyên, Nguyễn Cảnh Minh (1995), “Tìm hiểu tổ chức chính quyền

trung ương nước ta thời phong kiến”, Nghiên cứu lịch sử, số 6, tr. 20-25.

[114]. Nguyễn Hoài Văn, Đặng Thị Thìn (2012), Chính sách đào tạo, sử dụng quan

lại thời Lê Thánh Tông và công tác cán bộ hiện nay, Nxb, Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

Page 165: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

[115]. Viện Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu học (bản thảo, 1962), Mục lục

châu bản triều Nguyễn, triều Minh Mạng, t.68.

[116]. Viện Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu học (bản thảo, 1962), Mục lục

châu bản triều Nguyễn, triều Minh Mạng, t.69.

[117]. Viện Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu học (bản thảo, 1962), Mục lục

châu bản triều Nguyễn, triều Minh Mạng, t.71.

[118]. Viện Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu học (bản thảo, 1962), Mục lục

châu bản triều Nguyễn, triều Minh Mạng, t.72.

[119]. Viện Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu học (bản thảo, 1962), Mục lục

châu bản triều Nguyễn, triều Minh Mạng, t.77.

[120]. Viện Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu học (bản thảo, 1962), Mục lục

châu bản triều Nguyễn, triều Thiệu Trị, t.3.

[121]. Viện Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu học (bản thảo, 1962), Mục lục

châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức, t.39.

[122]. Viện Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu học (bản thảo, 1962), Mục lục

châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức, t.40.

[123]. Viện Ngôn ngữ (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ

điển xuất bản.

[124]. Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn (1963), Lịch sử chế độ phong kiến Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tập 1.

[125]. Nguyễn Đắc Xuân (2000), Hỏi đáp về triều Nguyễn và Huế xưa, Nxb Thuận

Hóa, Huế.

[126]. Insun Yu (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

II. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI

[127]. Alexander Barton Woodside (1971), Vietnam and the Chinese model: A

comparative study of Nguyễn and Ch’ing civil government in the first half of

the nineteenth century, Harvard University Press.

[128]. Li Tana (1992), “The Inner Region”: A social and economic history of

Nguyen Vietnnam in the seventeenth and eighteenth centuries, Thesis (Ph.D)

Australian National University.

[129]. Yoshiharu Tsuboi (1982), La Dynastie des Nguyen au Vietnam face à

l'expansion française et à la pénétration chinoise: de l'avènement de Tu Duc

au traité de Tian Jin, 1847-1885, Paris, E.H.E.S.S.

III. TÀI LIỆU INTERNET

[130]. Đỗ Bang (2008), “Chính sách của triều Nguyễn đối với Thiên Chúa giáo”,

Hội thảo Việt Nam học lần thứ III, tại địa chỉ:

http://tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/6219/1/1.pdf

Page 166: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

[131]. Lê Thanh Bình (2006), “Nghĩ về phương sách dùng người giỏi thời nhà

Nguyễn”, tại địa chỉ:

http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/Preview/PrintPreview.aspx?co_id=3061

0&cn_id=153735

[132]. Đỗ Minh Cương (2006), “Hồi tỵ - Bài học quý trong đổi mới công tác cán

bộ”, tại địa chỉ:

http://www.xaydungdang.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=1406&

print=true

[133]. Nguyễn Quang Hà (2011), “Trống Đăng Văn: một biểu tượng công lý”, tại

địa chỉ: http://suckhoedoisong.vn/2011218101354364p0c15/trong-dang-van-

mot-bieu-tuong-cong-ly.htm

[134]. Nguyễn Quang Hà (2012), “Âm vang đâu đây tiếng trống Đăng Văn”, tại địa

chỉ: http://baolamdong.vn/bao-xuan-2012/201201/am-vang-dau-day-tieng-

trong-dang-Van-2148590/

[135]. Nguyễn Thu Hoài, “Tổ chức bộ máy chính quyền trung ương thời Minh

Mạng”, tại địa chỉ:

http://www.archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?ite

mid=220&listId=c2d480fb-e285-4961-b9cd-b018b58b22d0&ws=content

[136]. Phạm Thị Huệ, “Phòng, chống tham nhũng xưa và nay”, tại địa chỉ:

http://www.giri.ac.vn/index.php?lang=0&cateid=1&mod=2&newid=835&su

b=0

[137]. Nguyễn Minh Tường (2010), “Sử dụng quan lại thời Minh Mạng”:

http://www.xaydungdang.org.vn/Home/dien-dan/2010/2193/Su-dung-quan-

lai-thoi-Minh-Menh.aspx

[138]. http://vi.wikipedia.org/wiki/Ngô_Sĩ_Liên

[139]. http://wenwen.soso.com/z/q174435300.htm

[140]. http://www.tiengiang.gov.vn/xemtin.asp?idcha=3609&cap=2&id=6092

[141]. http://www.dostbinhdinh.org.vn/DiaChiBD/dan_nhap.htm

[142]. http://www.quangbinh.gov.vn/3cms/?cmd=180&art=1328776210899

[143]. http://www.quangbinh.gov.vn/3cms/?cmd=130&art=1328776210899&cat=1

185874918112

[144]. http://www.dostbinhdinh.org.vn/DiaChiBD/ptich_pquan_dien.htm.

[145]. http://www.baovinhlong.com.vn/newsdetails.aspx?newsid=65565

Page 167: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1. Sơ đồ .............................................................................................. PL.1

- Sơ đồ 1. Cơ cấu tổ chức của cơ quan giám sát trong bộ máy hành chính triều

Nguyễn giai đoạn 1802 - 1885 ............................................................................. PL.1

- Sơ đồ 2. Kinh thành Huế (bản vẽ của Nguyễn Thứ) ......................................... PL.2

- Sơ đồ 3. Kinh thành Huế và địa điểm cơ quan tư pháp, giám sát ...................... PL.3

- Sơ đồ 4. Sơ đồ văn phòng lục bộ ....................................................................... PL.4

PHỤ LỤC 2. Hình ảnh ........................................................................................ PL.5

- Ảnh 1. Quang cảnh Văn phòng Đô sát viện ...................................................... PL.5

- Ảnh 2. Quang cảnh Văn phòng Tam Pháp ty .................................................... PL.5

- Ảnh 3. Vị quan đang ngồi xử án năm 1885 ....................................................... PL.6

- Ảnh 4. Quang cảnh một buổi thiết triều của các quan triều Nguyễn ................. PL.6

- Ảnh 5. Mũ đại triều của quan ngự sử ................................................................ PL.7

- Ảnh 6. Nguyễn Công Trứ .................................................................................. PL.7

- Ảnh 7. Phan Thanh Giản .................................................................................... PL.7

- Ảnh 8. Phạm Thận Duật .................................................................................... PL.8

- Ảnh 9. Từ đường tộc Lê ở làng Luật Chánh (xã Phước Hiệp, huyện Tuy

Phước, tỉnh Bình Định), nơi thờ Thượng thư Bộ binh kiêm Hữu Đô ngự sử Lê

Đại Cang ................................................................................................................ PL.8

- Ảnh 10 và 11. Khu tưởng niệm và lăng mộ của vợ chồng Bùi Hữu Nghĩa ...... PL.9

- Ảnh 12: Bia Vũ Xuân Cẩn ..................................................................................... 10

- Ảnh 13: Nhà thờ họ Ngô Kim (họ của ông Ngô Kim Lân) thôn Lại Thế

Thượng, phường Phú Hiệp, thành phố Huế ...................................................... PL. 10

PHỤ LỤC 3. Bảng thống kê một số quan giám sát tiêu biểu của triều Nguyễn

giai đoạn 1802 – 1885 ....................................................................................... PL.11

PHỤ LỤC 4. Một số châu bản triều Nguyễn liên quan đến tổ chức giám sát

giai đoạn 1802 – 1885 ........................................................................................ PL.12

PHỤ LỤC 5. Khái quát về tiểu sử và đóng góp của một số quan giám sát tiêu

biểu triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 ........................................................... PL.27

Page 168: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PHỤ LỤC 6. Danh sách thống kê một số quan giám sát kiêm nhiệm và được

đổi bổ, thăng bổ các chức thuộc lĩnh vực tư pháp, giám sát của triều Nguyễn

giai đoạn 1802 – 1885 ........................................................................................ PL.35

PHỤ LỤC 7. Chức quan và phẩm hàm quan lại, cấp tỉnh do vua Minh Mạng

phân định năm 1831 ........................................................................................... PL.38

PHỤ LỤC 8. Quy tắc làm việc của hệ thống quan cấp tỉnh do vua Minh

Mạng phân định năm 1831 ................................................................................. PL.40

PHỤ LỤC 9. Bảng thống kê sơ lược hệ thống quan chế triều Nguyễn giai

đoạn 1802 – 1885 ............................................................................................... PL.45

PHỤ LỤC 10. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của các nha, tự, viện...

triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 .................................................................. PL.50

Page 169: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PL.1

PHÁP

GIÁM

SÁT

GIAO

THÔNG

LIÊN

LẠC

KHO

BÃI

QUAN

KHÁC

TỨ TRỤ

ĐẠI

THẦN

PHỤ

CHÍNH

ĐẠI

THẦN

CỬU

KHANH

THƯỢNG THƯ LỤC BỘ

THÔNG CHÍNH SỨ

ĐẠI LÝ TỰ KHANH (ĐẠI LÝ TỰ)

VIỆN

ĐÔ

SÁT

(ĐÔ

NGỰ

SỬ)

BỘ

HÌNH

TAM PHÁP TY

4 TRƯỞNG

QUAN

(Tả/hữu Đô

ngự sử và

tử/hữu phó

Đô ngự sử)

BINH

KHOA

(Cấp sự

trung)

LỄ

KHOA

(Cấp sự

trung)

HỘ

KHOA

(Cấp sự

trung)

LẠI

KHOA

(Cấp

sự

trung)

HÌNH

KHOA

(Cấp sự

trung)

CÔNG

KHOA

(Cấp sự

trung)

GIÁM

SÁT

NGỰ SỬ

(16 đạo)

ĐẠI

TỰ

CÁC NHA

VĂN

HÓA

GIÁO

DỤC

Sơ đồ 1. Cơ cấu tổ chức của cơ quan giám sát trong bộ máy hành chính

triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1885

VUA

NỘI

CÁC

QUAN

ĐẠI THẦN

HỘI ĐỒNG

ĐÌNH THẦN

CƠ MẬT VIỆN LỤC BỘ

PHỤ LỤC 1. SƠ ĐỒ

Page 170: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PL.2

Sơ đồ 2. Kinh thành Huế (bản vẽ của Nguyễn Thứ) Nguồn: [11: planche XXXI]

Chú thích: địa điểm số 132 là Đô sát viện (đến năm 1889 chuyển đến địa điểm số 160); địa

điểm số 248 khu vực Tam tòa; địa điểm số 288 là văn phòng Tam Pháp ty và địa điểm từ số

211 – 228 là văn phòng lục bộ

Page 171: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PL.3

Sơ đồ 3. Kinh thành Huế và địa điểm cơ quan tư pháp, giám sát

Nguồn: https://maps.google.com/

KHU VỰC

VĂN PHÒNG

LỤC BỘ

TAM PHÁP

TY

VIỆN ĐÔ SÁT

SAU NĂM

1889

VIỆN ĐÔ SÁT

TRƯỚC NĂM

1889

Page 172: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PL.4

Đường Đông Ba (nay là đường Mai Thúc Loan)

Bộ

Lại

I

Bộ

Hộ

I

Bộ

Lễ

I

Bộ

Binh

I

Bộ

Hình

I

Bộ

Công

I

Đường Thị lang ((nay là đường Nguyễn Biểu)

Bộ

Lại

II

Bộ

Hộ

II

Bộ

Lễ

II

Bộ

Binh

II

Bộ

Hình

II

Bộ

Công

II

Đường Tham tri (nay là đường Đặng Dung)

Bộ

Lại

III

Bộ

Hộ

III

Bộ

Lễ

III

Bộ

Binh

III

Bộ

Hình

III

Bộ

Công

III

Đường lục Bộ (nay là đường Nguyễn Chí Diểu)

Sơ đồ 4. Sơ đồ văn phòng lục bộ

Nguồn: [5:73]

Ghi chú: - I. Thị lang đường

- II. Tham tri đường

- III. Thượng thư đường

Đư

ờng T

ợng

Tứ

(n

ay l

à đư

ờng Đ

inh T

iên H

oàn

g)

Đư

ờng H

iển N

n (

nay

đư

ờng Đ

oàn

Thị

ĐIể

m)

Đư

ờng Â

m h

ồn (

nay

đư

ờng L

ê T

hán

h T

ôn)

CỬA HIỂN NHƠN

ĐI CỬA ĐÔNG BA

ĐI

CỬ

A T

ỢN

G T

ĐÔNG

TÂY

BẮC

NAM

Page 173: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PL.5

PHỤ LỤC 2. HÌNH ẢNH

Ảnh 1. Quang cảnh Văn phòng Đô sát viện sau năm 1889

(nay là trường Trung học Phổ thông Nguyễn Huệ, 36 Đoàn Thị Điểm, thành phố Huế)

Nguồn: Ngô Đức Lập

Ảnh 2. Quang cảnh Văn phòng Tam Pháp ty

(72 Ông Ích Khiêm, thành phố Huế)

Nguồn: Ngô Đức Lập

Page 174: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PL.6

Ảnh 3. Vị quan đang ngồi xử án năm 1885

Nguồn: http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-

binhluan/langbavanhtritoivatranyem.htm

Ảnh 4. Quang cảnh một buổi thiết triều của các quan triều Nguyễn

Nguồn: http://dantri.com.vn/van-hoa/cuon-sach-do-so-ke-chuyen-tham-cung-bi-su-trieu-

nguyen-691837.htm

Page 175: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PL.7

Ảnh 5. Mũ đại triều của quan ngự sử (do Tôn Thất Sa vẽ) Nguồn: [21: 311].

Ảnh 6. Nguyễn Công Trứ

Nguồn:

http://nguyencongtru.edu.vn/vi/news/Tieu-

su-Nguyen-Cong-Tru

Ảnh 7. Phan Thanh Giản

(Hình chụp tại Paris năm 1863 nhân dịp ông

dẫn đầu sứ bộ sang Pháp để xin chuộc lại ba

tỉnh miền Đông Nam Kỳ)

Nguồn:

http://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_Thanh_Gian

Page 176: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PL.8

Ảnh 8. Phạm Thận Duật

Nguồn: http://www.tienphong.vn/xa-hoi/phong-su/521812/Khuc-cuoi-bat-hu-cua-vo-nhac-

kich-tpp.html

Ảnh 9. Từ đường tộc Lê ở làng Luật Chánh (xã Phước Hiệp, H.Tuy Phước, Bình Định),

nơi thờ Thượng thư Bộ binh kiêm Hữu Đô ngự sử Lê Đại Cang.

Nguồn: http://www.tinmoitruong.vn/di-tich-xua/--chiec-don-khieng-vong-cua-bac-

quoc-si_158_21096_1.html

Page 177: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PL.9

Ảnh 10 và 11. Khu tưởng niệm và lăng mộ của vợ chồng Bùi Hữu Nghĩa (người được vợ

đánh trống Đăng Văn kêu oan) tại quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

Nguồn: http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Can-Tho-khanh-thanh-Khu-tuong-niem-Thu-

khoa-Bui-Huu-Nghia/20133/162946.vgp

Page 178: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PL.10

Ảnh 12: Bia Vũ Xuân Cẩn

(làng Hòa Luật Nam, xã Cam Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình)74

Nguồn: Ngô Minh Oanh

Ảnh 13: Nhà thờ họ Ngô Kim (họ của ông Ngô Kim Lân) thôn Lại Thế Thượng,

phường Phú Hiệp, thành phố Huế.

Nguồn: Ngô Đức Lập

74

Trước đây, mộ ông Vũ Xuân Cẩn cũng tại làng Hòa Luật Nam, xã Cam Thủy, huyện Lê Thủy, tỉnh Quảng

Bình, sau đó được di dời lên xã Tân Thủy, huyện Lê Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Page 179: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

PL.11

PHỤ LỤC 3. BẢNG THỐNG KÊ MỘT SỐ QUAN GIÁM SÁT TIÊU BIỂU

CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885

TT Họ và tên Năm sinh

Năm mất

Quê quán Giữ chức

Năm

1. Ngô Kim Lân ? – 1848 Thừa Thiên Huế Lễ khoa Cấp sự trung 1826

2. Lê Đại Cang 1771 – 1847 Quảng Ngãi Thượng thư Bộ binh kiêm giữ chức Hữu Đô ngự sử 1832

3. Phan Bá Đạt 1783 – 1846 Hà Tĩnh Tả phó Ðô ngự sử 1832

4. Hà Duy Phiên ? – 1853 Thanh Hoá Tả phó Đô ngự sử 1833

5. Vũ Trọng Bình 1808-1898 Quảng Bình Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ khoa 1834

6. Lê Đăng Doanh ? ? Tả phó Đô ngự sử, kiêm quản ty Thông chính 1837

7. Vũ Xuân Cẩn 1772 - 1852 Quảng Bình Thượng thư bộ Hình kiêm quản Đô sát viện 1839

8. Nguyễn Công Trứ 1778 – 1858 Hà Tĩnh Tả Ðô ngự sử kiêm Tham tri Bộ binh 1839

9. Tôn Thất Bạch ? ? Tả Đô ngự sử kiêm Tả Tôn khanh ở Tôn nhân phủ 1842

10. Hà Thúc Lương ? ? Tả phó Đô ngự sử 1843

11. Phan Thanh Giản 1796 - 1867 Vĩnh Long Tả phó Đô ngự sử 1844

12. Phạm Thế Hiển 1803 – 1861 Thái Bình Tả phó Đô ngự sử 1846

13. Doãn Uẩn 1795 – 1850 Thái Bình Thượng thư Bộ Binh kiêm Đô ngự sử và Tổng đốc 1847

14. Bùi Quỹ 1795 – 1861 Hưng Yên Hữu phó Đô ngự sử 1849

15. Phạm Thận Duật 1825–1885 Ninh Bình Tả tham tri bộ Lại kiêm Tả phó Đô ngự sử 1876

16. Mai Thế Quý 1822-1877 Hà Tĩnh Hữu phó Đô ngự sử 1876

17. Hồ Trọng Đính ? – 1913 Nghệ An Tham tri Bộ lại kiêm quản Đô sát viện 1878

18. Phan Sĩ Thục 1822 - 1891 Nghệ An Tham tri Bộ binh kiêm Phó đô Ngự sử 1878

Page 180: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

1

PHỤ LỤC 4. MỘT SỐ CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN

LIÊN QUAN ĐẾN TỔ CHỨC GIÁM SÁT GIAI ĐOẠN 1802 – 1885

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.

- Tờ 202, tập 48, trang 1.

- Thời gian tài liệu: ngày

17/10 năm Minh Mạng 14

- Loại văn bản: Phụng dụ

- Trích yếu nội dung:

Thần là Thân Văn Quyền,

Hà Tông Quyền ở Nội các

vâng Thượng dụ:

Nay xét tập công trạng của

viên biền do Tổng Đốc An

Tĩnh Tạ Quang Cự tuân dụ

gửi về tâu trình... 3 người là

Nguyễn Tĩnh Lộc, Đoàn

Tông Lâu, Nguyễn Văn Tân

đều xếp hạng ưu, hai người

là Phạm Văn Hoả, Ngô

Đình Uý đều xếp hạng

bình.. Trên đây những

người xếp hạng ưu, truyền

thưởng quân công thêm 1

cấp, người xếp hạng bình

truyền thưởng quân công

ghi nhận 2 lần về tập Thanh

minh của Tam Pháp ty. Nội

các đã nghĩ chỉ: 12 người từ

Đoàn Văn Suất đến Hoàng

Văn Thể đúng là thực lòng

muốn bỏ tù giáo, đều truyền

gia ân tha tội.

Về tập hồi ty của bộ Lại.

Nội các đã nghĩ chỉ: Về các

việc xét xử của bộ Hình do

thanh tra trích ra, truyền sửa

lại là giao cho Đô sát viện

nghị xử rồi tâu trình.

Châu điểm.

- Xuất xứ: Nội các

Page 181: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

2

- Tờ 202, tập 48, trang 2.

Page 182: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

3

- Tờ 202, tập 48, trang 3.

Page 183: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

4

- Tờ 202, tập 48, trang 4.

Page 184: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

5

- Tờ 119, tập 49, trang 1.

- Thời gian tài liệu: 1

tháng 11 năm Minh

Mạng 14

- Loại văn bản: Chỉ

- Trích yếu nội dung:

Thần là Thân Văn

Quyền, Hà Tông Quyền

ở Nội các Phụng chỉ:

Căn cứ theo Đô sát viện

kiểm tra ra thấy trong

các phiếu của bộ Hình

có tên Nguyễn Kim

Thược viết lầm là

Nguyễn Kim Thước trừ

khoản này sẽ do bộ ấy

sửa lại cho đúng sự thực

ra. Còn người viết sai

truyền tìm rõ họ tên

đánh 40 roi để cảnh cáo.

Đường quan ở bộ này

[mắc tội] không kiểm tra

truyền giáng chỉ nhắc

nhở. Khâm thử!

- Xuất xứ: Nội các

Page 185: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

6

- Tờ 119, tập 49, trang 2.

Page 186: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

7

Tờ 13, tập 355, trang 1.

- Thời gian tài liệu:

ngày 27 tháng 4 năm Tự

Đức 9

- Loại văn bản: Tấu

- Trích yếu nội dung:

Chúng thần Đô sát viện

tâu: Ngày 15 tháng này,

tiếp quan bộ Hình

Trương Văn Uyển giao

đến 1 bản án cướp của

giết người do quan tỉnh

Hà Nội Lâm Duy Nghĩa

kết án đệ trình và đã

được cung nghĩ phụng

chỉ các lẽ. Nay chúng

thần đem án đó thẩm

duyệt thêm cho rõ ràng.

Tên tội phạm Nguyễn

Đức Đặng can án bỏ

trốn lại giám tụ tập bè

đảng cướp của giết

người, rõ là một tên tội

phạm hung ác. Vậy tên

tội phạm đó cho xử

chém biêu đầu cũng

không oan uổng, xin

chờ chỉ.

Phụng chỉ: Y tấu

- Xuất xứ: Đô sát viện

Page 187: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

8

Tờ 13, tập 355, trang 2.

Page 188: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

9

Tờ 13, tập 355, trang 3.

Page 189: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

10

Tờ 13, tập 355, trang 4.

Page 190: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

11

Tờ 13, tập 355, trang 5.

Page 191: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

12

Tờ 16, tập 355, trang 1.

- Thời gian tài liệu: ngày

29/4 năm Tự Đức 9

- Loại văn bản: Tấu

- Trích yếu nội dung:

Chúng thần Đô sát viện

tâu: Ngày 17 tháng này,

quan bộ Hình là Trương

Văn Uyển giao đến 1

bản án thông dâm do

Thự Tuần phủ tỉnh Định

Tường Nguyễn Tường

Vĩnh tra xét đệ trình, đã

được các lẽ cung nghĩ

Phụng chỉ. Nay chúng

thầntuân chỉ đem án đó

thẩm duyệt lại rõ ràng.

Tên gian phu Đặng Văn

Chất là cháu của Đặng

Văn Viện đã chết. Nhân

vợ thứ của Đặng Văn

Viện là Nguyễn Thị

Duyên đến ở nhà tên đó,

lại dám tư thông có thai.

Thật là rất bại hoá

thương luân. Vậy tên

gian phu Đặng Văn Chất

và gian phụ Nguyễn Thị

Duyên, 2 tên tội phạm

đó đều xử treo cổ ngay

thật không oan uổng,

xin chờ chỉ.

Phụng chỉ: Y tấu.

- Xuất xứ: Đô sát viện

Page 192: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

13

Tờ 16, tập 355, trang 2.

Page 193: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

14

Tờ 16, tập 355, trang 3.

Page 194: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

15

Tờ 16, tập 355, trang 4.

Page 195: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

16

PHỤ LỤC 5. KHÁI QUÁT VỀ TIỂU SỬ VÀ ĐÓNG GÓP

CỦA MỘT SỐ QUAN GIÁM SÁT TIÊU BIỂU TRIỀU NGUYỄN

GIAI ĐOẠN 1802 – 1885

1. Vũ Xuân Cẩn (còn gọi là Võ Xuân Cẩn, 1772 - 1852): Ông là người làng Hòa

Luật Nam, thuộc xã Cam Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Trong cuộc đời làm

quan dưới 4 triều vua, ông đã từng trải qua nhiều chức vụ quan trọng1. Người đương thời

nhận xét ông như là một con người hoàn hảo “Văn võ song toàn”, “Lúc vào Kinh thành thì

tâu bày mưu lược, lúc ra trận mạc thì gươm giáo đầy đủ” [121]. Về công lao, dù ở cương

vị, chức quan nào, ông đều có đóng góp, trong đó có những công lao rất lớn cho triều đình

cũng như cho nhân dân. Có thể điểm qua một số công lao của ông như sau.

Trước hết, trên cương vị là một quan giám sát, ông đã có công lớn trong việc thi

hành chính sách quân điền tại Bình Định. Đó là năm 1838, khi còn là Tổng đốc Bình - Phú

ông đã dâng tập thỉnh an nói: ở Bình Định ruộng công chỉ có trên 5.000 mẫu mà ruộng tư

đến trên 107.000 mẫu, trong đó ruộng tư chủ yếu là của bọn cường hào, còn dân nghèo hầu

như không có ruộng. Nên ông xin “lượng xét định ra quy chế, phàm ruộng tư định hạn cho

5 mẫu, ngoài ra làm ruộng công cả chia cấp cho binh dân để làm ruộng lương, ruộng khẩu

phần giúp cho sinh sống” [72:407]. Nhưng vua Minh Mạng tỏ ra dè dặt, dụ rằng: “sổ sách

đã thành, nay vô cớ cắt lấy của riêng, vốn liếng làm ăn khó nhọc của người, chắc không

phải lòng người được yên, mà một phen làm ra thay đổi, sợ chưa thấy lợi, mà đã nhiễu

không thể nói xiết” và không cho thi hành [72:407]. Tuy nhiên, một năm sau (tháng

3/1839), vua cho gọi ông vào Kinh và hỏi lại tình hình ruộng đất ở Bình Định, ông thưa:

“ruộng đất phần nhiều là ruộng tư, nhà hào phú chiếm cả, có đến một, hai trăm mẫu mà

người nghèo không một thước tấc, suốt đời làm đầy tớ người giàu, nay nếu theo cả ruộng

của người giàu, để cho 1-2 phần làm cơ nghiệp lâu dài, còn 8-9 phần đem chia cấp cho

binh, dân và người nghèo thì nguồn lợi về ruộng đất được đều” [72:474]. Mặc dù đây là

chính sách có nhiều phần tích cực nhưng vua Minh Mạng lo rằng: “vô cố lấy ruộng của

dân giàu, không bằng lòng thì kêu ca, đâu được yên lặng không lời kia khác” [72:474] do

đó vua cũng chưa đồng ý nhưng giao cho bộ Hộ cùng các bộ bàn kỹ. Với đóng góp này,

ông đã được vua cho theo chức Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh Thượng thư bộ Hình kiêm quản

Đô sát viện.

Đến tháng 7/1839, vua Minh Mạng đã đồng ý cho Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh Thượng

thư Bộ Hình kiêm quản Đô sát viện là Vũ Xuân Cẩn và Hữu tham tri bộ Hộ là Doãn Uẩn đi

Bình Định làm việc quân cấp ruộng công... theo quy định: “thôn ấp nào ruộng đất tư nhiều

1 Năm Gia Long thứ nhất (1802), ông được bổ vào Hàn lâm viện, sang năm 1803, làm Tham hiệp trấn Hưng

Hóa, sau đó trải qua các chức như Cai bạ Bình Định. Dưới thời vua Minh Mạng, năm 1820, làm Hiệp trấn

Sơn Nam, Tả Tham tri bộ Hình; năm 1824 làm Hiệp trấn Nghệ An, năm vì lỗi biết một số quan trường thi

Nghệ An gian lận nhưng báo chậm nên vua Minh Mạng đã giáng làm Tuyên phủ phủ Hoài Đức [75:483], sau

thăng làm Tả Thị lang Hình bộ lĩnh Hình tào Bắc thành. Năm 1827, ông được chuyển bổ Hữu thị Lang Hình

bộ nhưng vẫn kiêm giữ Hình tào Bắc thành. Năm 1830, ông lại được thăng chuyển làm Hữu Tham tri bộ Lại.

Năm 1831, ông được thăng làm Thượng thư bộ Công, cũng trong năm này ông được chuyên giữ chức

Thượng thư bộ Hình [70:220-225]. Năm 1833, ông được chuyển làm Tổng đốc Bình – Phú, một năm sau ông

được thăng Hiệp biện Đại học sĩ nhưng vẫn kiêm giữ Tổng đốc Bình – Phú [71:170]. Năm 1839, vua Minh

Mạng cho ông là “bậc cựu thần tuổi già có danh vọng, lại am hiểu việc cũ” nên cho làm Tổng tài sở Thực lục

[72:521]. Cũng trong năm 1839, ông được thăng Thượng thư bộ Hình kiêm quản Đô sát viện. Năm Thiệu Trị

thứ nhất (1841), ông được thăng thự Đông các Đại học sĩ nhưng vẫn lĩnh giữ Thượng thư bộ Hình.

Page 196: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

17

hơn ruộng đất công, thì ruộng công cứ để nguyên quân cấp như cũ; còn ruộng tư thì cắt

lấy một nửa; gián hoặc có dân đinh nào không có ruộng đất và có đất không có ruộng,

cùng là số người nhiều mà số ruộng ít, thì nhằm chỗ cận tiện, trích lấy ruộng công, ruộng

trại công mà cấp phát cho họ, thì binh, dân đều được lợi cả” [72:534]. Khi đoàn đến nơi

dâng sớ về báo là đã cho Tổng lý và các phú hộ đến thông báo biết dụ của triều đình về

chính sách quân điền, tất cả đều vui vẻ thoả thuận. Vua bèn sai cấp thêm lộ phí và thuộc

viên để làm việc1. Điều đáng quan tâm ở đây đó là sau khi tìm hiểu tình hình cụ thể về

ruộng đất ở Bình Định, ông xin không chia ruộng đều theo lời bàn của các bộ trước đó2,

vua đã đồng ý [72:534-535]. Đến tháng 11/1839, sau gần 4 tháng, việc quân điền ở Bình

Định hoàn thành, vua Minh Mạng rất khen ngợi và thưởng cho ông 1 chiếc nhẫn giát ngọc

kim cương, 5 hạt liền nhau, thẻ bài đeo bằng ngọc trắng, đồng tiền vàng Như ý, nhẫn vàng

mỗi thứ đều 1 chiếc; còn Doãn Uẩn và các thuộc viên đi theo cũng đều được thưởng xứng

đáng theo thứ cấp.

Phép quân điền do Vũ Xuân Cẩn đề xuất và thực thi năm 1839 ở Bình Định là rất độc

đáo và duy nhất [17:21]. Đây cũng là một trong những chính sách ruộng đất tích cực nhất

trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam [121]. Theo như lời của vua Minh Mạng “Phép

quân điền là vốn muốn chia lợi cho dân chứ thuế hơn hay kém đi không phải là điều đáng

so tính” [72:607-608].

Trên cương vị các chức quan khác ông cũng có những đóng góp lớn được vua và

triều đình khen ngợi. Trong những năm giữ chức Tổng đốc Bình – Phú, vua Minh Mạng

từng dụ Nội các rằng: “Tổng đốc Bình – Phú, Vũ Xuân Cẩn, từ khi đến nhậm chức tới nay,

thì Nam Kỳ luôn năm có việc. Địa hạt y ở ngay khoảng đường trung độ, việc gọi lính và tải

lương rất bận rộn, thế mà mọi việc đều được chu đáo” nên vua đã đặc cách gia cho ông

hàm “Thái tử thiếu bảo và lại gia một cấp trác dị3” [71:493]. Cũng trên cương vị đó, năm

1834, ông đã tâu hặc thự Tuần phủ Phú Yên Nguyễn Công Liêu và Án sát Vũ Đức Mẫn

trong khi mộ hương dõng đã chọn bổ không đều. Vua Minh Mạng giao bộ Hình nghị xử,

sau đó cả hai đều bị phạt cách lưu [71:62].

Không chỉ có những đóng góp như trên, ông còn là vị quan tham liêm và rất nhân từ.

Minh chứng cho lòng nhân từ đó là năm 1824, khi được đi phái phát chẩn ở Nghệ An ông

đã chủ động xét người phát theo tiêu chuẩn người nào khỏe mạnh thì cho ít, trẻ con ốm yếu

thì phát nhiều và khi về triều ông xin chịu tội “vi chế”, vua Minh Mạng bảo: “Nếu có lợi

cho dân thì tự ý làm cũng được, có tội gì ?” [75:346]. Hoặc giả năm 1847, ông dâng sớ

nghị luận xin khai phục tội cho Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành và Lê Chất. Ông cho

rằng “Dù bọn Lê Văn Thành có tội thì tội đã trị rồi, mà công thì không hỏi đến, chẳng hóa

1 Vũ Xuân Cẩn trước cấp 10 lạng, tăng thêm 40 lạng nữa, Doãn Uẩn trước cấp 10 lạng, tăng thêm 30 lạng

nữa, 2 viên Khoa, đạo theo đi làm việc, trước cấp mỗi người 4 lạng, tăng thêm 5 lạng nữa, 6 viên bộ ty trước

cấp mỗi người 2 lạng, tăng thêm 2 lạng nữa và chuẩn cho theo bản nghị trước thi hành. Lại cho là việc quân

cấp điền thổ, số mục rất nhiều, mà số người tuỳ tòng đi làm việc còn ít nên lại phái thêm thuộc ty ở 6 bộ Viên

ngoại lang chủ sự mỗi hạng 1 viên và 4 viên bát cửu phẩm thơ lại đi theo (Viên ngoại lang thưởng 7 lạng bạc,

chủ sự 5 lạng, thư lại đều 3 lạng). 2 Đó là: “Ấp nào không may được số ruộng hơi nhiều, thì đến kỳ quân cấp, tuân theo quy chế, chia hạng cấp

suốt lượt. Ấp nào ruộng hơi ít, thì trước hết cấp ruộng lương lính, còn thừa mới cấp cho khẩu phần ; Ấp nào

ruộng rất ít, thì chỉ cấp ruộng lương thôi. Tựu trung ấp nào ở xa cách, không có ruộng trại công có thể được,

xin nhằm vào những ấp có nhiều ruộng công ở gần cạnh, trích lấy một vài mẫu, hoặc ruộng trong số cũ,

hoặc ruộng mới cắt lấy, hoặc ruộng công bỏ hoang mới trưng lại, chia cấp cho làm ruộng công. Còn như

ruộng tư, tuy là ruộng công thần, thế tộc cũng đều cắt lấy một nửa” [72:534-535]. 3 Cấp trác dị là một thứ cấp kỷ đặc biệt để ban cho những ai có công lao ưu việt khác thường, nhưng có khi

cũng ban cả cho người nào được thưởng một cách đặc ân.

Page 197: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

18

ra đem cái công lao bách chiến mà để đến nỗi cái tàn hồn phải bơ vơ như ma trơi ngoài

đồng, khác nào như quỷ Mạc Ngan không ai thờ cúng không?” [81:946]. Vua Tự Đức đã

chấp nhận sớ của ông và cho khai phục địa vị của Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành. Ông

cũng là người không ham danh lợi, khi biết tuổi già sức yếu sợ không cáng được được

trọng trách triều đình giao phó nên ông đã hai lần xin triều đình cho nghỉ về hưu. Lần thứ

nhất là năm ông 70 tuổi (1842) nhưng vua không Thiệu Trị không cho. Lần thứ hai là năm

ông 80 tuổi (1852), vua đồng ý. Tuy nhiên, vua cho quan Nội các đến hỏi ông những việc

nên thường làm, ông đã trình bày 4 việc liên quan đến tích trữ lương thực phòng khi mất

mùa; chính sách “ngụ binh ư nông”; sự dụng con của các tước vương, công chúa1... Vua

Tự Đức liền cho thi hành [80:228]. Qua ví dụ này cho thấy, ông là người rất được các vị

vua đầu triều Nguyễn tin tưởng và trọng dụng.

Tóm lại, Vũ Xuân Cẩn là một người dù ở cương vị nào ông cũng làm tròn chức trách,

đặt quyền lợi người dân lên trước mà giải quyết công bằng, hài hòa tình, lý. Năm 1841, vua

Thiệu Trị lên ngôi thì ông đã là 1 lão thần 70 tuổi nhưng ông vẫn được thăng Thự Đông

các đại học sĩ. Tuy nhiên, xét thấy tuổi cao, sức yếu nên ông xin hồi hưu nhưng không

chuẩn tấu. Vua Thiệu Trị nói: “Nước có bề tôi già, là điều hay của thịnh triều...”. Năm

Thiệu Trị thứ 6 (1846), nhân lễ Khánh tiết ban ơn gia chức Ngự triều Đại thần, vua đã ban

cho ông thẻ bài bằng ngọc có chạm 4 chữ vàng “Ngự triều đại thần”. Năm thứ 3 triều Tự

Đức gặp kỳ “Đại kế”, vua thưởng cho ông một chiếc Kim khánh khắc chữ “Túc đức

nguyên lão”2 [120]. Năm ông 80 tuổi, vua Tự Đức làm 2 bài thơ tặng với ý ngợi ca, tỏ

niềm tâm đắc với một Đại thần. Tháng 4 (Âm lịch) năm 1852, ông mất tại quê nhà vua Tự

Đức đã ban cho ông tên thụy là Văn Đoan, vua cũng truy tặng ông danh dự “Tứ triều

nguyên lão”3 và được liệt thờ vào miếu Hiền lương [118:946], [80:229]. Quả là không quá

khi người đời thường gọi ông là người tam đạt: Tước cao – Đức lớn – Sống lâu [120].

2. Vũ Trọng Bình (còn gọi là Võ Trọng Bình, 1808 - 1898): Người làng Mỹ Lộc,

huyện Phong Đăng (nay là huyện Lệ Thủy), tỉnh Quảng Bình. Ông là một trong 46 người

đã đỗ trong kỳ thi Hương năm 1834 [71:281]. Suốt cuộc đời làm quan của mình (1834 -

1884), ông được biết đến là một vị quan giỏi, thanh liêm, chính trực, luôn chăm lo cho dân

và có nhiều đóng góp cho triều đình [104:940]. Trong 50 năm tham gia chốn quan trường,

Vũ Trọng Bình đã từng trải qua nhiều chức quan ở nhiều lĩnh vực khác nhau4.

1 Một là năm được mùa giá thóc rẻ, đặt giá thêm lên đong vào, gặp năm mất mùa đem ra chẩn cấp. Hai là

lính ở Miền Nam thì 6 đinh giảm đi 1 lính, Miền Bắc thì hàng năm về Kinh thao diễn, rồi lưu lại làm việc 6

tháng. Lính ở Kinh thì đầu năm kiểm duyệt xong chia làm 2 ban, 1 ban ở lại, 1 ban về. Ba là con trai, con gái

của các tước vương, tước công cùng với con trai con gái em và cháu (gọi bằng chú, bác) của quan văn, quan

võ từ tam phẩm trở xuống được lấy nhau, nếu có người nào theo làm việc và xuất thân do văn khoa võ tuyển,

thì cho phép cùng được bổ dụng. Bốn là xin cho chăm dưỡng mẹ đẻ của viên Lạng Sơn án sát đã chết là Mai

Anh Tuấn. 2 Lão thần giàu đức độ.

3 Nghĩa là ông lão có đức vọng lớn ở bốn triều (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức).

4 Sau khi đậu Cử nhân, ông được bổ làm Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ khoa. Tháng 7/1844, ông được thăng

thự Lang trung bộ Lễ, đến tháng 8 kiêm thêm nhiếp hữu Tá lý Tôn nhân phủ. Tháng 1/1846, ông được điệu

bổ làm án sát Hà Tĩnh, đến tháng 6 ông lại được chuyển bổ án sát Nghệ An. Tháng 3/1847, ông được điều bổ

án sát tỉnh Thái Nguyên. Tháng 9/1854, ông được thăng bổ Tuần phủ Hưng Yên. Năm 1856, ông được đổi

bổ đi Tuần phủ Bắc Ninh. Năm 1863, ông được thực thụ Tổng đốc; cũng trong năm này, ông được đổi bổ

làm Thượng thư bộ Hộ kiêm làm công việc bộ Công. Sang năm 1864, vì ông là người luôn “giữ lòng trong

sạch, làm việc siêng năng, việc trong hạt đều đâu ra đấy, lại dân yêu phục” nên ông được sung làm Cơ mật

viện đại thần. Đồng thời, “Dụ thưởng gia trác dị một cấp, một cái khánh vàng khắc chữ “Liêm bình cần

cán”, cho các hạng quần áo”. Cũng trong năm 1864, ông được triều đình cử làm Kinh lược các đạo Ninh,

Thái, Lạng, Bằng, lĩnh Tổng đốc Ninh - Thái và thưởng bạc 30 lạng. Năm 1866, vua cho rằng “Kinh lược sứ

là Vũ Trọng Bình thanh liêm, chăm chỉ, nhanh nhẹn, tài cán, đến đâu cũng có tiếng tốt” nên cho thăng thự

Page 198: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

19

Năm Kiến Phúc thứ nhất (1884), vua đã chuẩn cho Vũ Trọng Bình về quê hưu trí,

đồng thời khai phục nguyên hàm Tổng đốc Định Yên. Đây là một trong những trường hợp

ngoại lệ. Bởi, vua cho rằng ông là vị quan đã trải qua bốn triều vua và là người liêm năng,

“vua thương là người bầy tôi cũ, cho nên mới có mệnh này” [75:99]. Năm 1898, ông mất

tại quê nhà, thọ 90 tuổi.

Những đóng góp của ông trên cương vị là một ngôn quan: Tháng 2/1843, ông cùng

với các quan khoa, đạo như Ngô Bỉnh Đức, Lê Di và Nguyễn Huy Lịch dâng sớ trình bày 8

việc. Trong đó, có những việc có ảnh hưởng đến thuế quan, giá cả thị trường như: “Xin tha

hoặc giảm thuế cho phủ Thừa Thiên. Về thuế cửa ải và bến đò (xin lấy giá vừa phải về năm

trước đã phát mại làm chuẩn định, do địa phương sai người chia đi ngồi thu. Bãi không

cho phú hộ theo giá lĩnh trưng). Đặt mua các vật hạng với giá thoả thuận”... hay trợ cấp,

việc hình án như: “Xin đừng cho người Tây dương giao thông đi lại vì phần nhiều họ hay

dối trá. Xin liệu cấp tiền và gạo cho những lính ở Kinh bị bệnh truyền nhiễm. Xin rộng

thêm hạn tháng để thư sức cho những người làm lực dịch. Xin thương xót các tù giam để

hình án khỏi đọng” [73:465]. Vua đã cho chuẩn xét thi hành một số điều. Năm 1861, khi

đang là Thự Tổng đốc An Tĩnh ông dâng nói để vỗ yên Bắc Kỳ có 3 điều cần phải làm

là: 1. Cách thói tệ của bọn làm quan, 2. Quyên lương lính, 3. Miễn tội cho kẻ xuất thú. Vua

cho là phải [74:798].

Một số đề xuất của ông đã trở thành căn cứ cho triều đình xây dựng các chế định

pháp luật. Chẳng hạn, năm 1842, khi cho định lại điều cấm về các nhà trạm, triều đình

đã căn cứ vào lời tâu hặc của ông trước đây về việc “ngoại lang bộ Hình là Lê Ngọc

Chấn đi thanh tra việc công Hà Tĩnh trở về, tự tiện lấy 14 tên phu trạm và 2 con ngựa trạm

để vận tải đồ vật riêng cho gia quyến. Quan tỉnh lại riêng cắt biền binh đi hộ tống”. Về tội

danh của các tham quan này, vua cho “Chấn khinh nhờn pháp luật, liền hạ lệnh cách chức,

giao Đô sát viện xét xử. Chấn bị xử tội mãn đồ. Bố chính Nguyễn Đồng Khoa và án sát

Nguyễn Khắc Trạch ở Hà Tĩnh đều bị giáng 2 cấp, lưu” [73:420]. Hai năm sau (1844), triều

đình đã định lại lệ thu thuế cửa ải và bến đò từ Hà Tĩnh trở ra Bắc. Việc định lại lệ thu thuế

này đã dựa trên cơ sở điều trần trước đây của ông và Nguyễn Cư Sĩ. Đó là năm 1843, các

quan khoa, đạo là Vũ Trọng Bình, Nguyễn Cư Sĩ Lại tâu lên rằng: Việc thu thuế cửa quan

ở các địa phương từ Hà Tĩnh trở ra Bắc hằng năm đấu giá, ai đặt giá cao thì được trưng thu

dẫn đến tình trạng tranh nhau, lạm thu không đúng quy định... đã ảnh hưởng đến dân

chúng. Do vậy, ông đề nghị chiếu theo các năm trước, giá nào vừa phải thì chọn, đồng thời

cho đình bãi việc đấu giá như trước đây và hàng năm các địa phương phái thuộc viên thu

theo quy định. Vua đã giao cho xuống đình thần bàn, sau đó định lại: “lệ thu thuế hằng

năm từ năm Minh Mạng thứ 19 đến năm Thiệu Trị thứ 4 của các sở cửa quan, ở các địa

phương thuộc tỉnh Hà Tĩnh trở ra Bắc, lấy mức trung bình, thích hợp châm chước định ra

giá nhất định” [73:692].

Ông đã góp phần làm trong sạch bộ máy cũng như trừng trị tệ quan tham. Năm 1840,

với cương vị là một gián quan - Giám sát ngự sử khi được phái cùng Giám sát ngự sử đạo

Bình Phú là Nguyễn Thị đi Phú Yên thanh tra, khi về Nguyễn Thị đã lấy vợ lẽ, mua ngựa,

ông tham hặc, vua Minh Mạng “lập tức sai cách chức Nguyễn Thị, giao bộ nghiêm nghị”

[72:681]. Hay năm 1841, Án sát tỉnh Nam Định là Lê Hữu Đức trước đây có tội, bị cất

chức nhân lúc ấy khoa, đạo là Vũ Trọng Bình và Trần Thiện ra làm giám sát trường thi

Hiệp biện Đại học sĩ. Năm 1868, ông được thăng thụ thực hàm lĩnh Tổng đốc Hà - Ninh đồng thời sung làm

Khâm sai đại thần của 3 tỉnh là Tuyên Quang, Thái Nguyên và Lạng Sơn. Năm 1869, ông được sung làm

Tổng thống Lạng - Bằng [73:451,620,815,994]; [74:338,477,804,825,835,840,985,1138,1171], [81:154-

161]...

Page 199: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

20

Nam Định, Đức mật sai người nhà đem chè đi tiễn tống, Vũ Trọng Bình đem việc ấy tâu

lên, vua liền sai cách chức Đức. Để khen việc hặc đúng người đúng tội cũng như “biết giữ

mình thanh bạch” của các gián quan, vua Thiệu Trị đã ban thưởng “Vũ Trọng Bình và Trần

Thiện kỷ lục 1 thứ và 1 súc lụa” [73:263].

Một trong những kế sách giữ nước của ông đó là dựa vào dân, dựa vào lòng người.

Năm 1866, các tỉnh Bắc Kỳ “xin đào hào, đắp thành ở các phủ, huyện, mộ lính dõng thêm

lính lệ, lượng cấp cho súng và khí giới để phòng bị”. Ông tâu rằng: “Giữ nước, việc cậy

được là ở lòng người, tôi xét kỹ, lòng dân phần nhiều trễ nải, trộm thường lấy làm lo,

tưởng nên trước hết lấy cố kết lòng người làm việc cốt yếu, Kinh sư là căn bản của các

nơi, phải nên mười phần chấn chỉnh, để cho các hạt trông mà bắt chước”. Vua khen và

nhận lời [73:1064].

Vũ Trọng Bình là người “sở đoản về cách dùng binh nhưng sở trường về cách trị

dân” nên trong suốt cuộc đời – 50 năm làm quan, ông đã có đóng góp lớn cho đất nước,

cho nhân dân nhưng không ham địa vị, danh lợi. Ông rất xứng danh với 3 chữ “không dối

vua” [81:160]. Với những đóng góp của ông cũng như những thất thiệt mà ông phải gánh

chịu, tháng 11/1886, vua đã chuẩn cho cấp cho ông mỗi tháng 20 quan tiền, 3 phương gạo

để giúp việc dưỡng lão. Đặc biệt, ông đã được Hoàng Thái hậu Từ Dũ nêu gương “là vị

quan thanh liêm để quan lại sửa mình”.

3. Phan Bá Đạt (1783-1846): Ông là người xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà

Tĩnh, thi đỗ Đệ tam Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Ngọ (1822). Ông có người con gái là

Phan Thị Long lấy Phan Ðình Tuyển (Phó bảng) sinh ra Phan Ðình Phùng – người đậu

Đình nguyên Tiến sĩ, lãnh tụ phong trào Cần vương. Năm 1832, cùng với việc cho đặt Đô

sát viện, vua Minh Mạng cũng đã bổ ông giữ chức Tả phó Đô ngự sử kiêm Hữu Tham tri

bộ Hình [70:364]. Lúc này không có Tả/Hữu Đô ngự sử và Hữu phó Đô ngự sử, do vậy

ông chính là Trưởng quan của Đô sát viện. Trong cuộc đời làm quan của ông tuy có “lúc

trầm, lúc bổng” nhưng ông từng được giao giữ những trọng trách lớn1 và là người thanh

liêm, hết lòng vì vua, vì dân. Cho dù ở cương vị, chức quan nào, ông đều có những đóng

góp đáng phải ghi danh.

Năm 1844, khi còn là Thự Tổng đốc Định Yên ông cho rằng lại dịch ở 2 ty Phiên,

Niết của tỉnh Nam Định, có những người là cha con, anh em, thân thuộc nhưng cùng thuộc

một tỉnh. “Để cho trong sạch các mối tệ hại trong đám lại dịch”, ông xin đổi bổ đi tỉnh

khác không cho làm chung 1 tỉnh. Ông cũng xin: “trong một tỉnh, phàm cha con, anh em

và anh em chú bác cho đến thân thuộc xa mà còn có để tang nhau và những chỗ thông gia,

đều bắt phải đi hồi tị” [73:596-597]. Vua đã chuẩn y, nhân dụ cho các nha môn ở các tỉnh

1 Năm 1834, Tả phó Đô ngự sử Đô sát viện Phan Bá Đạt được giao quyền lĩnh ấn quan phòng Tuần phủ

Hưng Yên. Năm 1835, Tả phó Đô ngự sử Đô sát viện Phan Bá Đạt được sung làm Cơ mật viện đại thần;

tháng 5/1835, Tả phó Đô ngự sử Phan Bá Đạt được sung làm Phó tổng tài Sử quán; sau đó, ông được giao

kiêm coi công việc bộ Hình; cũng trong năm 1835, ông được kiêm Hữu thị lang bộ Lại nhưng vẫn sung Cơ

mật viện đại thần và kiêm Tả phó Đô ngự sử; đến cuối năm 1835, ông lại được kiêm Hữu tham tri bộ Hình

vẫn sung làm đại thần viện Cơ mật và kiêm Tả phó Đô ngự sử [71:361, 481, 626, 684, 788, 822]. Năm 1837,

ông có công nên vua cho làm Thái thượng Tự khanh, Biện lý công việc bộ Lễ, cũng trong năm 1837, ông

được giao kiêm Hữu thị lang bộ Lễ; đến tháng 11/1837, ông được thăng thự Hữu tham tri bộ Binh kiêm quản

Thái thường tự. Năm 1839, ông được chuyển bổ sang tả Tham tri bộ Lễ. Năm 1840 làm Tả tham tri bộ Hình

kiêm quản Quang lộc tự [72:75, 143, 191, 620, 857]. Năm 1841 được cải bổ làm Tham tri bộ Lễ nhưng kiêm

quản Quang lộc tự ấn vụ; sau đó được thăng Thự Thượng thư bộ Lễ kiêm trông coi ấn vụ Thái thường tự;

năm 1841, khi cho đặt thêm chức Tổng tài và Phó Tổng tài mỗi chức đều 2 viên ở Sử quán, ông sung làm

Phó tổng tài. Năm 1842, làm Thự Thượng thư bộ Hình. Năm 1843, ông được bổ làm Thự Tổng đốc Định -

Yên. Năm 1844, ông được chuẩn cho thực thụ Hậu quân Đô thống [73:55, 239, 241, 380, 499, 633].

Page 200: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

21

ngoài: phàm gặp sự tình giống như thế, đều phải nêu ra, sức cho hồi tị. Đây chính là cơ sở

để vua Thiệu Trị cho định lại lại dịch phải hồi tỵ1.

Bên cạnh đó, khi được giữ chức ngôn quan, ông cũng đã có những thành tích được

triều đình khen ngợi. Năm 1832, Tuần phủ Ninh Bình Hoàng Công Tài, trước ở Quảng

Nam, lén lút đóng thuyền chế tín bài, làm nhiều điều trái phép. Đến khi có lệnh gọi vào

Kinh, Tài lại cáo ốm xin nghỉ, để tẩu tán của riêng. Bấy giờ Ngự sử Lê Hữu Bản nhân đi

chuyến sai, dò biết được thực trạng, về tâu. Vua, đặc cách sai Đô sát viện Tả phó Đô ngự

sử là Phan Bá Đạt, đem ty viên bộ Hình và lính trấn phủ mang cờ biển đi tra xét, gặp Tài ở

giữa đường, kiểm soát hòm riêng, bắt được thuốc phiện lậu. Tài sợ tội, đâm đầu xuống

sông định tự tử. Bá Đạt đem việc tâu lên. Vua ra lệnh lập tức cách chức bắt giam để xét

hỏi, xử tội. Khi thành án, Tài bị tội trảm giam hậu [70:409].

Một năm sau (1833), ông lại tiếp tục ghi công khi vua Minh Mạng giao đi điều tra

việc Thự Án sát Thái Nguyên Nguyễn Du (trước đây là Ngự sử) nhân đi phát chẩn ở Hưng

Yên đã mua con gái của dân nghèo về làm vợ lẽ. Ông điều tra đúng như vậy, vua cho áp

giải Nguyễn Du về Kinh giao Hình bộ nghị xử. Ông cũng là người đề cao pháp trị “Cái đạo

trị dân phải có pháp luật để trị, mà pháp luật cần phải có người tốt rồi sau mới thi hành

được”. Tuy nhiên, ông cũng quan niệm để thực thi tốt chế độ pháp trị thì người thì trước hết

người thi hành pháp luật phải là người tốt để “phòng gian lại trở thành cái túi tham cho kẻ

gian giảo hoạt” [70:976]. Vua Minh Mạng cho lời nghị của ông rất phải nên giao các bộ

chuẩn cho thi hành.

Ngoài ra, ông cũng là người có công trong một số lĩnh vực khác. Như đối với các kỳ

thi lớn của triều đình, năm 1833, khi triều đình cho định lại Ban văn thể tam trường cho cả

trong Kinh và các tỉnh ngoài, vua Minh Mạng giao cho Phan Bá Đạt (Tả phó Đô ngự sử)

trông coi các quan lại chọn các bài văn, thơ, phú... để cho các kỳ thi Hương, thi Hội

[70:581-582] hay năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), khi triều đình tổ chức thi Đình, lúc này ông

là thự Thượng thư bộ Hình được giao đọc quyển [73:497]... Ông cũng là người từng đề

xuất với triều đình trong công tác phòng thủ cửa biển trọng yếu. Đó là năm 1844, ông đã

tâu nói: “Hai đồn đồn Bình Hải và Ba Lạt (Nam Định) cách cửa biển hơi xa, xin dời đặt

đến chỗ gần cho tiện việc phòng thủ”. Vua Thiệu Trị cho các quan khoa, đạo đến khám lại,

rồi giao hai bộ Binh, Công hội nghị. Hai bộ đều xin y như lời ông nói, vua liền cho dời 2

đồn đến nơi trọng yếu, thuận lợi cho việc phòng thủ và mộ lính [73:626]...

Ông là người đã có đóng góp nhằm bảo vệ quyền lợi cho nhân dân và trừng trị những

quan tham. Đó là năm 1844, ông đã phát giác việc Án sát Trần Quang Tiến khi được giao

khám xét việc dân hạt Nam Định tranh nhau trưng bãi sa bồi đã “nhận của lót của người ta

nhờ cậy”. Còn quan tỉnh này là Bùi Phác được giao điều tra, xét xử tội của Trần Quang

Tiến đã “kết án một cách hàm hồ, có ý gỡ tội cho Trần Quang Tiến”, “nguyên Hộ đốc Hà

Thúc Lương cũng hùa theo, dựa ý và dung túng” [73:621]. Vua Thiệu Trị xử Trần Quang

Tiến phạt trượng và tội đồ, Hà Thúc Lương bị cách lưu, Bùi Phác phải phát đi sung quân ở

đồn cửa biển Đà Nẵng. Vua cũng khen ông có công lớn đối với một vụ án phức tạp.

Trong cuộc đời làm quan, có một số lần triều đình đã kết oan cho ông hay vô tình

ông phạm phải sai lầm nên đã bị xử phạt. Đó là năm 1837, khi giao điều tra trộm cướp ở

Thừa Thiên vì “nhẹ dạ nghe kẻ phạm cung xưng giả dối, đánh khảo người thường dân”,

1 “Hồi tỵ” tức là tránh bố trí, sử dụng người đứng đầu một địa phương hoặc một tổ chức nhà nước mà người

đó có mối quan hệ ruột thịt với những người đang ở nơi đó, cơ quan đó. Đây là một chính sách quản lý quan

lại quan trọng của một số triều đại phong kiến nước ta [150].

Page 201: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

22

ông đã “lấy đến kẻ không tội” [72:30], [79:479]. Vua Minh Mạng chuẩn giáng bổ ông làm

Lang trung bộ Hình. Năm 1845, khi được giao đến Nam Định “sửa sang mối tệ của quan

lại”, ông đã cả tin bọn gian tà gian xảo, vu khống một số dân trong hạt phản nghịch. Sau

đó, ông và quan sở tại cho giam cầm 200 người vô tội và nhận bừa tiền của một số người.

Vua Thiệu Trị cho Ngự sử Trần Kinh Vĩ và quyền Tả tham tri Bộ Hình Trương Văn Uyển

đến tra hỏi “thì kẻ phạm tội đổi hết lời cung trước, kẻ tố cáo và tỉnh lại cũng đều thú tội”.

Vua phạt Phan Bá Đạt phải giáng chức (Tổng đốc Định Yên) giao cho bộ Lại và Đô sát

viện phân biệt nghị xử, còn số tiền do nhà giàu quyên ra, Phan Bá Đạt phải truy trả cho

những người đã cấp. Tuy nhiên, ông cho rằng Trương Văn Uyển đã bỏ bớt án tình, nghĩ xử

lơ lửng lờ mờ, còn Trần Kinh Vĩ thì “mang con hát đi chơi đêm, sợ người phát giác trước,

mới mưu tính vụ cho để hãm hại”. Vua lại giao cho đình thần hội bàn. Khi tâu lên, kẻ tố

giác và tỉnh lại đều phải tội: Trần Kinh Vĩ vì hạnh kiểm có khuyết, phạt đánh 100 trượng,

phát làm binh ở Hà Tiên; Trương Văn Uyển xét xử không đúng phải giáng 2 cấp, lưu; còn

Phan Bá Đạt “tuy không có tình trạng rõ rệt về nhận của lót riêng, nhưng đã làm lụy nhiều

người, chiếu lệ phải cách chức” [73:806] nhưng án chưa tâu lên ông đã bị ốm và chết. Đến

năm Tự Đức thứ nhất (1848), biết ông bị oan và “là người cương quyết, trong sạch, có khí

tiết, nhưng tự cưỡng, dễ lầm, nên vấp phải việc hỏng này”, vua Tự Đức khen ông thanh

cần nhất tiết và truy tặng ông Viên ngoại lang Lại Bộ.

4. Ngô Kim Lân (? – 1848): quê thôn Thế Lại, xã Hương Vinh, huyện Hương

Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là phường Phú Hiệp, thành phố Huế). Ông nổi tiếng

việc quan, giỏi việc chính trị, xuất thân là Giám sinh. Ông là giữ chức Cấp sự trung Lễ

khoa từ năm 1826 – 1838, sau đó chuyển ra Bang biện từ chương Quân thứ Thanh Hóa.

Năm 1839, ông được đổi bổ Lang trung bộ Công, sau đó làm Lang trung bộ Hộ biện lý

[72:475]. Năm 1839, làm Bố chính Hải Dương [72:494]. Năm 1844, chuyển quyền giữ

ấn quan phòng Tuần phủ Hưng Yên [73:690]. Năm 1845, được điệu bổ Bố chính

Tuyên Quang [73:724]. Năm 1846, thăng quyền Tuần phủ Ninh Bình, kiêm lĩnh ấn

triện Bố chính [73:861].

Mặc dù chỉ giữ đến chức Cấp sự trung nhưng với cương vị là quan giám sát ông là

một trong những người có đóng góp rất lớn. Năm 1834, xã Hoà An, huyện Phú Vinh, có

xảy vụ cướp nhưng Lý dịch địa phương đã giấu không trình báo, còn Phủ huyện cũng điềm

nhiên không nghe biết gì. Với cương vị là Cấp sự trung Lễ khoa, ông đã tâu hặc về việc

bưng bít vụ cướp ấy. Vua Minh Mạng lấy làm lạ, bảo: “Kinh huyện ở dưới chỗ xe nhà vua

qua lại, sao lại có cướp xảy ra ở nơi phố xá, đường ngõ nghiêm túc này !” [71:428]. Lập

tức sai ông và một số người khác đến xét hỏi thì quả có việc ấy. Sau đó, triều đình đã xử

Lý dịch bị tội đồ, quyền Tri huyện Đinh Văn Hưởng bị cách chức. Vua Minh Mạng khen

ngợi lời tâu của ông đúng sự thực nên thưởng 20 lạng bạc.

Ông cũng là người có trách nhiệm trong việc xây dựng tổ chức bộ máy cũng như bảo

vệ quyền và lợi ích cho những vị quan có công đối với triều đình. Năm 1834, Tri phủ Anh

Sơn là Nguyễn Hữu Hoàng có công lao được triều đình có chỉ gọi về Kinh để thăng chuyển

chức cao hơn nhưng không may trên đường về Kinh ông bị bệnh rồi chết. Ngô Kim Lân

dâng sớ nói: “Hoàng làm quan trong sạch, giản dị, rất được lòng dân, sau khi mất, trong

túi không có tiền thừa, trước nhận chức ở Phú Vinh, đến nay hãy còn được dân nhớ mến”

[71:385]. Vua Minh Mạng bèn thưởng Nguyễn Hữu Hoàng 100 quan tiền, đồng thời sai

phủ Thừa Thiên thuê thuyền đưa ông về quê Quảng Nam an táng...

Bên cạnh những quan giám sát trên, dưới thời trị vì của 4 vị vua đầu triều Nguyễn

còn có một số vị quan giám sát tiêu biểu khác, như: Lê Đại Cang (1771 – ?), năm 1829

Page 202: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

23

được bổ giữ chức Thượng thư bộ Binh kiêm giữ chức Hữu Đô ngự sử Đô sát viện và Tổng

đốc ba tỉnh: Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang. Lê Đăng Doanh (? – 1848), năm 1836

thăng Hữu phó Đô ngự sử. Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), năm 1839 giữ chức Hữu

Tham tri bộ Binh kiêm Tả phó Đô ngự sử [72:577]. Phan Thanh Giản (1796 – 1867),

năm 1847 được bổ giữ chức Tham tri bộ Lại kiêm Phó Đô ngự sử. Phan Sĩ Thục (1822 –

1891), năm 1860, thăng chức Ngự sử đạo Nam Trực sau đổi sang làm Quản đạo Phú Yên;

năm 1878 giữ chức Tham tri bộ Binh kiêm Phó Đô ngự sử. Phạm Thận Duật (1825 –

1885), năm 1876, được bổ làm Tham tri bộ Lại kiêm Phó Đô ngự sử. Mai Thế Quý (1822

– 1877), Phó Đô ngự sử năm 1876. Phan Đình Phùng (1847 – 1895), năm 1883 giữ chức

Chưởng ấn Cấp sự trung Hình khoa...

Page 203: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

24

PHỤ LỤC 6. DANH SÁCH THỐNG KÊ MỘT SỐ QUAN GIÁM SÁT

KIÊM NHIỆM VÀ ĐƯỢC ĐỔI BỔ, THĂNG BỔ CÁC CHỨC

THUỘC LĨNH VỰC TƯ PHÁP, GIÁM SÁT DƯỚI TRIỀU NGUYỄN

GIAI ĐOẠN 1802 – 1885

Năm 1833, Cấp sự trung Hộ khoa Nguyễn Mưu thăng Thự Án sát tỉnh Thái

Nguyên; Cấp sự trung Hình khoa Lê Đức Ngạn thăng Thự Án sát Thanh Hoa và

Thự Cấp sự trung Lễ khoa Phạm Duy Trịnh thăng Án sát Biên Hoà

[70:496,719,749].

Năm 1834, Giám sát Ngự sử đạo Kinh Kỳ Lê Văn Luyện thăng thự Đại lý

tự Thiếu khanh; Giám sát ngự sử đạo Nam – Ngãi bổ làm Thự Án sát Quảng Yên

[71:108,355].

Năm 1835, Giám sát ngự sử đạo Định – Yên Nguyễn Quốc Hoan thăng Thự

Án sát Thanh Hoa; bổ Giám sát ngự sử đạo Long Tường Vũ Danh Thạc bổ giữ Án

sát Ninh Bình; Ngự sử Đặng Kim Giám thăng Án sát Quảng Ngãi; Thự Cấp sự

trung Hộ khoa Trần Ngọc Dao bổ thụ làm Viên ngoại lang bộ Hình kiêm Thự Án

sát Hà Tĩnh; Ngự sử đạo Thanh Hoa Đinh Doãn Trung đổi bổ làm Viên ngoại lang

bộ Hình kiêm thự án sát Định Tường; Giám sát Ngự sử đạo Sơn – Hưng – Tuyên

Nguyễn Viễn Du Cải bổ làm Viên ngoại lang bộ Hình kiêm thự án sát Bình Thuận;

Cấp sự trung Hình khoa Nguyễn Văn làm Đại lý tự Thiếu khanh kiêm biện lý công

việc bộ Hình; Tả phó đô Ngự sử Phan Bá Đạt kiêm coi công việc bộ Hình, sung Cơ

mật viện đại thần, sau đó đổi kiêm Hữu thị lang bộ Lại và đổi kiêm Hữu tham tri bộ

Hình nhưng vẫn sung làm đại thần viện Cơ mật. Năm 1836, Phan Bá Đạt được giải

chức Cơ mật viện đại thần để chuyên làm công việc bộ Hình và Đô sát viện. Đến

năm 1837, Tả phó Đô ngự sử Phan Bá Đạt lại được sung đại thần Cơ mật viện kiêm

quản viện Hàn lâm [71:704,766,623,502,515,526,692,684,788,822,938], [72:10].

Năm 1836, Giám sát ngự sử đạo Thuận Khánh Bùi Mậu Tiên thăng Thự Án

sát Ninh Bình; Giám sát ngự sử đạo An – Tĩnh Nguyễn Bá Nghi thăng Thự Án sát

Vĩnh Long [71:886,935].

Năm 1837, Ngự sử đạo An - Tĩnh Vũ Doãn Cung thăng Chưởng ấn Cấp sự

trung Lại khoa; Ngự sử đạo Định - Biên Nguyễn Xuân Quang thăng Binh khoa

Chưởng ấn Cấp sự trung; Bố chính Quảng Trị kiêm Hộ lý tuần phủ Trị - Bình Lê

Đăng Doanh làm Tả phó Đô ngự sử Đô sát viện kiêm quản Thông chính ty. Năm

1838, Phó đô ngự sử Đô sát viện Lê Đăng Doanh kiêm làm công việc bộ Hình; sau

đó Tả phó đô ngự sử Lê Đăng Doanh kiêm biện Lại bộ nhưng kiêm quản ty Thông

chính [72:232,220,321,368]; cũng trong năm 1838, Tả phó đô ngự sử Lê Đăng

Doanh thăng thự Thượng thư bộ Hình nhưng kiêm việc Đô sát viện.

Năm 1838, Chưởng ấn Cấp sự trung Binh khoa Nguyễn Xuân Quang thăng

thự án sát Hưng Yên; Chưởng ấn Cấp sự trung Lễ khoa Hà Thúc Trương thăng thự

án sát Hưng Hoá; Chưởng ấn Cấp sự trung Hình khoa Ngô Văn Địch chuyển bổ

Page 204: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

25

quyền Thự Án sát Hưng Hóa; Chưởng ấn Cấp sự trung Lễ khoa Lê Văn Thực thăng

Thự Án sát Hà Tiên; Chưởng ấn Cấp sự trung Lại khoa Vũ Doãn Cung thăng Thự

Án sát Khánh Hoà [72:252,306,344,425].

Năm 1839, Ngự sử đạo Định - Biên Tô Trân thăng thự Chưởng ấn Cấp sự

trung Binh khoa; Thự Chưởng ấn Cấp sự trung Lễ khoa Hoàng Thu thăng Thự Án

sát Hưng Hoá [73:483]; Hữu tham tri bộ Binh Nguyễn Công Trứ kiêm Tả phó Đô

ngự sử Đô sát viện [72:556-577].

Năm 1840, Thự Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ khoa Trần Trứ thăng Thự Án

sát Ninh Bình; Năm 1840, Giám sát ngự sử đạo An - Hà Vũ Đức Nhu thăng Thự Án

sát Quảng Bình; Ngự sử đạo Nguyễn Sỹ Đăng thăng Chưởng ấn Cấp sự trung Lễ

khoa và Ngự sử đạo Lê Tập thăng Chưởng ấn Cấp sự trung Binh khoa; Ngự sử đạo

Ninh - Thái Hoàng Mẫn Đạt đổi bổ quyền Thự Án sát Hà Tiên kiêm quyền giữ ấn

Tuần phủ quan phòng; Hữu tham tri bộ Binh kiêm Tả phó Đô Ngự sử Đô sát viện

Nguyễn Công Trứ thăng thự Tả đô ngự sử Đô sát viện nhưng vẫn kiêm Hữu tham

tri bộ Binh [72:664,744,749,853,857].

Năm 1841, Thự Chưởng ấn Cấp sự trung Lễ khoa Nguyễn Thế Trị thăng Thự

Án sát An Giang; Giám sát Ngự sử đạo Định - Biên Phan Văn Xưởng thăng

Chưởng ấn Cấp sự trung Lễ khoa; Cấp sự trung Lại khoa Lê Chân thăng Thự

Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ khoa, sau đó thăng Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ khoa;

Giám sát Ngự sử đạo Kinh kỳ Lê Khắc Nhượng thăng Chưởng ấn Cấp sự trung Lại

khoa; Hiệp biện Đại học sĩ Lê Đăng Doanh đổi lĩnh chức Tả đô ngự sử Đô sát viện

kiêm trông coi ấn vụ của ty Thông chính nhưng vẫn sung làm chức sư bảo cho các

hoàng tử, hoàng đệ [73:81,177,197,227,239].

Năm 1842, Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh Tả phó Đô Ngự sử Đô sát viện Lê

Đăng Doanh kiêm lĩnh việc ấn bộ Hình; Tôn Thất Bạch điệu bổ Tả đô Ngự sử Đô

sát viện kiêm giữ chức Tả tôn khanh Tôn nhân phủ; Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ

khoa Lê Chân thăng Thự Lang trung bộ Hộ kiêm quyền Án sát tỉnh Gia Định

[73:282347,403].

Năm 1843, Thự Chưởng ấn Cấp sự trung Công khoa Nguyễn Đức Hoan bổ

thụ Thái bộc tự Thiếu khanh thăng Thự Án sát tỉnh Nghệ An; Chưởng ấn Cấp sự

trung Lễ khoa Phan Văn Xưởng thăng Thự Án sát tỉnh Biên Hoà; Chưởng ấn Cấp

sự trung Lễ khoa Nguyễn Tất Phong thăng Thự Án sát tỉnh Bình Thuận; Thự

Chưởng ấn Cấp sự trung Lại khoa Vũ Danh Trì thăng Chưởng ấn Cấp sự trung Lại

khoa; Cấp sự trung Hộ khoa Vũ Trọng Bình thăng Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ

khoa, Thự Chưởng ấn Cấp sự trung Binh khoa Trần Thiện thăng Chưởng ấn Cấp sự

trung Binh khoa, Thự Chưởng ấn Cấp sự trung Hình khoa Mai Khắc Mẫn thăng

Hình khoa Chưởng ấn Cấp sự trung; Tuần phủ hộ đốc Nam Định Hà Thúc Lương

bổ giữ Tả phó Đô ngự sử Đô sát viện; Phó đô Ngự sử Đô sát viện Tôn Thất Bạch

kiêm quyền Hữu tôn khanh; Phó đô ngự sử Tôn Thất Bạch điệu bổ Thượng thư bộ

Công nhưng vẫn kiêm quyền chức Hữu tôn khanh Tôn nhân phủ [73:443,

451,452,459,486,616].

Page 205: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

26

Năm 1844, Giám sát ngự sử đạo Hà - Ninh Mai Đức Thường thăng Thự Lại

khoa Chưởng ấn Cấp sự trung; Chưởng ấn Cấp sự trung Lại khoa Đặng Kham thăng

Thự Án sát tỉnh Quảng Ngãi và Giám sát Ngự sử đạo Kinh kỳ Hà Đồng Chính đổi

bổ làm Cấp sự trung Binh khoa; Hữu tham tri bộ Binh Phan Thanh Giản bổ làm Tả

phó đô ngự sử Đô sát viện sung đại thần viện Cơ mật [73:669,675,679,688].

Năm 1845, Giám sát ngự sử đạo Hải - An Nguyễn Công Dự thăng Thự

Chưởng ấn Cấp sự trung Lại khoa và Cấp sự trung Hộ khoa Nguyễn Thuận thăng

quyền Lại khoa Chưởng ấn Cấp sự trung [73:725,748].

Năm 1846, Thự Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh Thượng thư bộ Lễ Tả phó đô

Ngự sử Đô sát viện Phan Thanh Giản được thăng quyền Thượng thư bộ Hình sung

làm đại thần ở viện Cơ mật. Quyền Hữu tham tri bộ Hộ là Phạm Thế Hiển được bổ

thụ Tả phó đô Ngự sử ở Đô sát viện; Cấp sự trung Lại khoa Nguyễn Quýnh thăng

quyền Chưởng ấn Cấp sự trung Lại khoa; Giám sát Ngự sử đạo Kinh kỳ Tạ Hữu

Khuê thăng quyền Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ khoa; Cấp sự trung Hình khoa

Giang Văn Hiển thăng quyền Chưởng ấn Cấp sự trung Hình khoa; Chưởng ấn Cấp

sự trung Binh khoa Ngô Bỉnh Đức thăng quyền Đại lý tự Thiếu khanh và Giám sát

Ngự sử đạo Kinh kỳ Tạ Hữu Khuê thăng quyền Chưởng ấn Cấp sự trung Hộ khoa

[73:820.841,920,921].

Năm 1847, Thự Chưởng ấn Hình khoa Giang Văn Hiển thăng Chưởng ấn

Ngự sử đạo Kinh kỳ và Cấp sự trung Lễ khoa Lê Quang Nguyên thăng Thự Án sát

tỉnh Gia Định [73:1024,1074].

Năm 1871, Hữu thị lang bộ Hộ quyền trông coi Đô sát viện Nguyễn Huy Tế

được thăng thự Tả phó đô Ngự sử [74:1264].

Năm 1873, Thự Hữu tham tri bộ Lại Nguyễn Chính đổi làm Thự Tả phó đô

Ngự sử Đô sát viện và Thự Tham tri bộ Lại Trần Văn Thiều đổi làm thự Tả phó Đô

ngự sử Đô sát viện; sau đó, Trần Văn Thiều được đổi làm thự Hữu tham tri bộ Hình

nhưng vẫn kiêm quản Đô sát viện [74:1376,1382,1428].

Năm 1875, Tả thị lang bộ Công kiêm quản Đô sát viện Phan Huy Kiêm

thăng thự Tả phó Đô ngự sử [75:99].

Năm 1876, Tuần phủ hộ lý Tổng đốc Ninh - Thái Phạm Thận Duật bổ giữ

Tả tham tri bộ Lại kiêm Tả phó Đô ngự sử Đô sát viện [75:189].

Page 206: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

27

PHỤ LỤC 7. CHỨC QUAN VÀ PHẨM HÀM QUAN, LẠI CẤP TỈNH

DO VUA MINH MẠNG ĐẶT NĂM 1831

- Tổng đốc chuyên hạt một tỉnh và kiêm hạt 1 tỉnh, thí dụ như Bình Trị Tổng

đốc chuyên hạt Quảng Bình, kiêm hạt Quảng Trị. Quan hàm biên là: “Binh bộ

Thượng thư kiêm Đô sát viện Hữu đô ngự sử, Tổng đốc, Quảng Bình, Quảng Trị

đẳng sứ địa phương đề đốc quân vụ kiêm lý lương thướng lĩnh Quảng Bình Tuần

phủ sự”. Ngoài ra theo đó mà suy. Duy Thanh Hoa chỉ chuyên hạt 1 tỉnh, Sơn Hưng

Tuyên thì kiêm hạt những 2 tỉnh.

- Tuần phủ chuyên hạt 1 tỉnh, như Tuần phủ Quảng Trị. Quan hàm biên là “Binh

bộ Tham tri hoặc Thị lang kiêm Đô sát viện Hữu phó đô ngự sử, Tuần phủ, Quảng

Trị đẳng xứ địa phương, Đề đốc quân vụ kiêm lý lương thướng, lĩnh Bố chính sự”.

Duy có Lạng Bình thì kiêm hạt 1 tỉnh.

- Bố chính và Án sát - Bố chính thự lý Tuần phủ, như: Bố chính Thái Nguyên,

quan hàm biên là: “Thái Nguyên đẳng xứ địa phương Thừa tuyên Bố chính sứ ty Bố

chính sứ, thự lý Tuần phủ ấn vụ”. Bố chính sứ trật Chánh tam phẩm, Án sát trật

Tòng tam phẩm. Tỉnh nào thuộc Tổng đốc chuyên hạt hay Tuần phủ kiêm hạt thì đặt

Bố chính, Án sát mỗi chức 1 viên. Tỉnh nào có Tuần phủ lĩnh công việc Bố chính

thì chỉ đặt một viên Án sát. Quan hàm như: Bố chính Quảng Bình, biên rằng:

“Quảng Bình đẳng xứ địa phương, Thừa tuyên Bố chính sứ ty Bố chính sứ”. Án sát

thì biên “Quảng Bình đẳng xứ địa phương Đề hình Án sát sứ ty Án sát sứ”. Ngoài ra

theo đó mà suy. Hai ty Bố chính, Án sát, mỗi ty đặt 1 Thông phán, 1 Kinh lịch.

- Bát phẩm Thư lại ty Bố chính - Quảng Bình 3, Quảng Trị 2, Nghệ An, Thanh

Hoa, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh đều như Quảng Bình, Hà

Tĩnh, Ninh Bình, Hưng Yên, Quảng Yên, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên,

Lạng Sơn, Cao Bằng đều như Quảng Trị.

- Cửu phẩm thư lại. Nghệ An, Thanh Hoa, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Sơn

Tây, Bắc Ninh đều 6 viên; Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Hưng Yên

đều 5 viên, Lạng Sơn 4 viên; Quảng Yên, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên,

Cao Bằng đều 3 viên.

- Vị nhập lưu thư lại - Nghệ An, Thanh Hoa, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương,

Sơn Tây, Bắc Ninh, đều 60 viên, Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Ninh Bình,

Hưng Yên, Lạng Sơn đều 40 viên; Quảng Yên, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái

Nguyên, Cao Bằng đều 30 viên.

- Thư lại ty Án sát - Thanh Hoa, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Sơn Tây, Bắc

Ninh đều 2 Bát phẩm, 4 Cửu phẩm, 40 Vị nhập lưu thư lại. Nghệ An, Bát, Cửu

phẩm cũng như những tỉnh trên, Vị nhập lưu 30 viên. Quảng Bình, Quảng Trị, Hà

Tĩnh, Ninh Bình, Hưng Yên đều 1 Bát phẩm, 3 Cửu phẩm, 20 Vị nhập lưu. Quảng

Yên, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng đều 1 Bát phẩm,

2 Cửu phẩm, 20 Vị nhập lưu.

Page 207: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

28

- Lãnh binh quan - Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoa, Hà Nội, Nam Định, Hải

Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh đều dùng quan nhị, tam phẩm; Quảng Bình, Quảng Trị,

Ninh Bình, Hưng Yên, Quảng Yên, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Lạng Sơn, đều dùng

quan tam, tứ phẩm; Cao Bằng dùng quan tứ phẩm.

- Thuỷ sư Lãnh binh quan - Dùng quan Tam, Tứ phẩm. Các địa phương Quảng

Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Thanh Hoa, Ninh Bình, Hưng Yên, Quảng Yên, Hưng

Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, mỗi nơi đều đặt 1 Lãnh

binh, chuyên cai quản bộ binh; Nghệ An, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Sơn Tây,

Bắc Ninh, đều 2 Lãnh binh quan chia nhau cai quản bộ binh. Quảng Bình, Nghệ An,

Thanh Hoa, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương đều đặt 1 Thuỷ sư Lãnh binh quan

chuyên cai quản thuỷ binh. Ninh Bình thuộc về kiêm hạt của Tổng đốc Hà - Ninh,

Hưng Yên thuộc về kiêm hạt của Tổng đốc Định - Yên, Quảng Yên thuộc về kiêm

hạt của Tổng đốc Hải - Yên, Thuỷ sư do các Tổng đốc phái đi tuần phòng đóng giữ.

Sơn - Hưng - Tuyên, Ninh - Thái, Lạng - Bình đều là đất thượng du, không đặt thuỷ

sư [75:232-233].

Page 208: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

29

PHỤ LỤC 8. QUY TẮC LÀM VIỆC CỦA HỆ THỐNG QUAN CẤP TỈNH

DO VUA MINH MẠNG PHÂN ĐỊNH NĂM 1831

1. Tổng đốc giữ việc cai trị cả quân, dân, cầm đầu các quan văn quan võ trong

toàn hạt. Khảo hạch các quan lại, sửa sang bờ cõi. Tổng đốc, Tuần phủ hay các viên

thự lý Tuần phủ ấn vụ, công việc cũng như nhau. Phàm trong hạt sự việc gì nên tâu

báo, đều được làm chuyên tập tâu lên. Duy Tuần phủ (ở tỉnh do Tổng đốc) kiêm hạt,

khi có chính sự lớn lao về việc hưng lợi trừ tệ thì cùng với Tổng đốc bàn bạc rồi ký

tên tâu chung một giấy. Nếu ý kiến khác nhau, thì cho làm tờ tâu riêng. Nếu là việc

biên cương hay quân cơ khẩn yếu thì một mặt điều khiển rồi tâu lên, một mặt tường

báo cho Tổng đốc định liệu. Hai ty Bố chính, Án sát: phàm những việc nên tâu nên

tư, đều phải tường báo với quan trên là Tổng đốc hay Tuần phủ để phân biệt, liệu

làm. Duy việc quan hệ đến lợi hại về đời sống của dân chúng mà ý kiến khác nhau

hoặc bị quan trên chèn ép thì cho được đệ sớ niêm phong tâu thẳng. Lại như tình

hình Cao Bằng không giống với các hạt khác. Khi gặp việc gì quan khẩn thì Bố

chính, Án sát cùng nhau bàn bạc, làm chung giấy đệ tâu thẳng và một mặt tường

báo với Tuần phủ Lạng Bình. Còn những việc lớn như mở điều lợi, trừ mối tệ thời

phải tường báo với Tuần phủ xét kỹ tâu xin thi hành. Ngoài ra, công việc thuộc về

ty nào cứ chiếu lệ thường mà làm. Việc nên tâu thì làm sớ tâu, nên tư bộ thì lấy đủ

lý do mà báo bộ.

- Tuần phủ giữ việc tuyên bố đức ý triều đình, vỗ yên nhân dân, coi giữ các việc

chính trị, giáo dục, mở điều lợi, bỏ điều hại.

- Bố chính sứ giữ việc thuế khoá, tài chính toàn hạt. Triều đình có ân trạch,

chính lệnh gì ban xuống thì truyền đạt cho các người phần việc.

- Án sát sứ giữ việc kiện tụng hình án trong toàn hạt, chấn hưng phong hoá, kỷ

cương, trừng thanh các quan lại, kiêm coi công việc chạy trạm trong hạt, khi có

những việc trọng đại hai ty (Bố chính, Án sát) hội đồng bàn bạc, rồi trình bày với

Tổng đốc hay Tuần phủ mà làm.

2. Thông phán, Kinh lịch, Bát, Cửu phẩm và Vị nhập lưu thư lại ở 2 ty Bố

chính, Án sát thì lấy viên chức ở hai ty thừa của trấn cũ mà sung bổ. Thông phán,

Kinh lịch ở hai tỉnh Hà Tĩnh và Hưng Yên mới đặt thì do bộ chọn bổ. Còn Thư lại

của Hà Tĩnh thì do Nghệ An trích lấy ty thuộc trấn cũ, của Hưng Yên thì do viên

quyền Chưởng thành ấn trích lấy ty thuộc của trấn Sơn Nam cũ mà chia bổ.

3. Về lỵ sở Bắc Thành, nay đã đặt nha môn tỉnh Hà Nội thì quan lại cũ ở các

tào, các phòng và cục Tạo tác đều phải rút đi, nhưng công việc bàn giao rất nhiều

hãy cho họ tạm lưu lại ở Hà Nội, để viên Tổng đốc đốc sức làm cho thanh thoả rồi

sẽ xét bổ.

4. Khi sổ sách các hạt đệ tâu, khi Bố chính, Án sát làm xong, phải tường báo với

Tổng đốc, Tuần phủ duyệt lại, ký tên, đóng dấu quan phòng. Cuối sổ sách phải có

chữ ký rõ họ tên người cứu duyệt, người viết là thuộc viên của ty mình để tiện kiểm

tra. Ngạch lính hằng năm, nguyên vẫn thuộc các quân dinh, viên cai quản phải theo

Page 209: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

30

lệ làm thành sổ sách, tường báo với Tổng đốc, Tuần phủ duyệt lại và chứng thực.

Còn sổ các hạng quan văn, quan võ và binh dịch trong hạt thì do Tổng đốc, Tuần

phủ hội đồng cùng làm và cũng phải đệ luôn thể (với số ngạch binh) để bộ chiếu đó

làm việc.

5. Những trọng án các phủ huyện đã kết nghĩ đệ lên cho ty Án sát phúc thẩm

với các án do ty Án sát tra xét khi xong phải chuyển đệ lên Tổng đốc, Tuần phủ xét

lại. Án nào nên tâu thì làm giấy tờ tâu lên. Những án xử phát lưu làm lính trở xuống

thì Tổng đốc, Tuần phủ phê sức cho ty Án sát chiểu theo thi hành, đến cuối năm,

làm thành danh sách. Những án phủ huyện xét xử mà đương sự chưa phục tình thì

được chống án lên ty Án sát xin xét; ty Án sát xét xử mà đương sự vẫn chưa pbục

tình thì do Tổng đốc, Tuần phủ xét lại, rồi trích phái nhân viên ty Bố chính hội xét

với viên đầu phủ hay đầu huyện, chớ nên phái uỷ nhân viên ty Án sát xét nữa.

6. Những tờ chiếu, cáo, chỉ dụ được giao về cùng các thứ chương tấu, sổ sách

văn thư án kiện ở thành, từ năm Gia Long thứ 1 (1802) trở về sau, đều do viên

quyền chưởng thành ấn chuyển sức cho phần việc kiểm duyệt rồi giao nha môn Hà

Nội lưu trữ, đợi sau hạt nào có việc cần tra cứu thì tư hội sức cho sao lục. Còn hai

tỉnh mới đặt là Hà Tĩnh và Hưng Yên những thể lệ chung hiện để tuân hành, sẽ do

Tổng đốc An Tĩnh và Tổng đốc Định Yên sao lục giao cho thi hành.

7. Các hạng biền binh thuộc các hạt trước trừ những danh hiệu quân đội đã nói ở

trên, còn thì đều cho lưu lại bản hạt theo Tổng đốc, Tuần phủ phân phái.

8. Các cơ thuỷ binh từ Quảng Bỉnh trở ra bắc, đều theo mệnh lệnh quan địa

phương và quan Thuỷ sư Lãnh binh, chứ không thuộc quyền thuỷ quân như trước nữa.

9. Ba cơ Bắc tượng tiền, Bắc tượng tả, Bắc tượng hữu, mỗi cơ 5 đội, chia bổ về

5 tỉnh to là Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh mỗi tỉnh 3 đội, đặt

làm 1 cơ. Cơ của Hà Nội thì gọi là Hà Nội tượng cơ; các tỉnh khác cũng theo lối

như thế. Mỗi hạt định ngạch là 20 thớt voi, đem số voi hiện có mà chia cho đều,

thiếu thì sẽ cấp sau.

10. Các tượng cơ từ Quảng Trị trở ra bắc đều thuộc quyền quan địa phương và

quan Lãnh binh. Những viên chuyên quản tượng cơ ở Kinh đặt trước đều rút đi cả.

11. Bộ binh các hạt trong có một số trước thuộc 5 quân Thần sách, nay tuy vẫn

lệ thuộc Chưởng lãnh ở Kinh, nhưng cũng cùng với bộ binh, thuỷ binh, tượng binh

đặt dưới quyền Tổng đốc, Tuần phủ sở tại điều khiển liệu lượng phân phái đi đóng

giữ các nơi xung yếu.

12. Các nha Tuần phủ, khi gặp có tin báo nguy cấp mà số biền binh trong hạt

không đủ sai phái thì một mặt tư trình Tổng đốc, một mặt trưng dụng binh ở tỉnh

cùng hạt, như Quảng Bình với Quảng Trị chẳng hạn. Duy Tuần phủ Lạng Sơn, được

phép báo cho Tổng đốc Ninh - Thái sai phái binh đi, việc xong lại cho lính về tại ngũ.

13. Các hạt đuổi bắt giặc cướp mà chúng chạy sang hạt khác, thì được phép báo

cho hạt tiếp giáp, phái binh ngăn chặn, hoặc hợp sức vây bắt. Nếu hạt giáp giới tự

cho là khác bờ cõi, không chịu tiếp ứng để bọn giặc cướp chạy xa, sẽ truy cứu

duyên do, phân biệt trị tội.

Page 210: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

31

14. Cao Bằng, việc bắt giữ cướp cũng ít. Nếu gặp việc cần phải thêm quân, đã

có Tuần phủ Lạng Bình điều khiển, đợi sau này kho thóc ngày thêm dồi dào đủ nuôi

quân, bấy giờ bàn việc phái lính đến đóng.

15. Thuế các phủ huyện, thuộc về hạt nào thì nộp vào kho hạt ấy. Duy các xứ

Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Quảng Yên ngạch thuế có ít hơn nơi khác,

không đủ chi phát. Vậy 3 huyện là Hạ Hoa, Hoa Khê, Thanh Ba của Sơn Tây,

nguyên trước nộp thuế về Hưng Hoá, 4 huyện Hùng Quan, Tây Quan, Sơn Dương,

Đăng Đạo của Sơn Tây trước nộp thuế về Tuyên Quang, huyện Thiên Phúc của Bắc

Ninh được nộp thuế về Thái Nguyên và 2 huyện An Dương, Thuỷ Đường của Hải

Dương trước nộp thuế về Quảng Yên, đều vẫn cho nộp theo như cũ. Lại 6 huyện là:

Đường An, Đường Hào, Vĩnh Lại, Tứ Kỳ, Gia Lộc, Thanh Miện của Hải Dương

cũng vẫn theo như cũ nộp thuế vào kho Xích Đằng cho tiện việc vận tải. Đến

như các cửa ải, các bến sông, các hồ, ao đấu trưng, đến kỳ, do quan địa phương

chiếu lệ mà làm.

16. Các trấn nguyên thuộc Bắc Thành, sang năm đến kỳ tuyển lính, những công

việc chia tỉnh đặt quan mới bắt đầu xây dựng, việc tuyển lính chưa được tiện, hãy

hoãn đến năm Quý tị, Minh Mệnh thứ 14 (1833) sẽ làm. Khoá thanh tra năm nay,

các hạt đã có Tổng đốc, Tuần phủ thay thế bàn giao thì cứ theo lệ, chọn phái các

nhân viên chuyên làm việc này mà bỏ chức đổng lý đi.

17. Các trấn thuộc Bắc Thành cũ và hạt Ninh Bình thường phải nộp những vật

hạng gì từ nay về sau, hằng năm, bộ Hộ cứ theo lệ tính xem vật hạng trong Kinh cần

dùng là bao nhiêu, chiếu hạt tư cho quan sở tại đốc thu hoặc đặt tiền mua cho đủ số.

Thứ gì chở đường biển cho người đem đến Nam Định tạm chứa, đợi lấy được

thuyền vận tải đến thì theo đoàn thuyền tải vào Kinh nộp. Những thứ gì đi đường bộ

thì phái người đi ngựa trạm đem vào Kinh đệ nộp.

18. Lệ trước ấn định Nghệ An, Nam Định, mỗi năm mỗi trấn được cấp tiền công

nhu 300 quan. Nay Nghệ An đặt thêm ra Hà Tĩnh, Nam Định, đặt thêm ra Hưng

Yên, thì Nghệ An và Nam Định theo lệ Sơn Tây, Hải Dương, Bắc Ninh, đều cấp

cho 250 quan tiền, còn Hà Tĩnh, Hưng Yên thì chiếu theo lệ Ninh Bình, cấp cho

mỗi tỉnh 200 quan tiền. Lại như trấn Sơn Nam cũ đổi làm Hà Nội thì vẫn chiểu theo

lệ Sơn Nam mà cấp tiền công nhu. Còn các tỉnh khác vẫn theo lệ cũ.

19. Hà Tĩnh, Hưng Yên chưa có chỗ đóng tỉnh lỵ, Tuần phủ, Án sát Hà Tĩnh

tạm đóng ở phủ thành Hà Hoa, Tuần phủ, Án sát Hưng Yên tạm đóng ở trường sở

Xích Đằng đợi sau chọn đất sẽ lập tỉnh lỵ.

20. Hà Nội đặt lỵ sở ở phủ Hoài Đức, thì chỗ trấn lỵ Sơn Nam cũ nay đổi làm

phủ lỵ Lý Nhân, kiêm huyện Kim Bảng. Phủ thành Lý Nhân đổi làm huyện thành

Bình Lục, rồi điệu bổ viên huyện Kim Bảng sang Bình Lục, đóng ở đó. Còn nhà cửa

kho tàng của trấn Sơn Nam cũ, đợi khi xây dựng lỵ sở tỉnh Hưng Yên sẽ liệu cho

dời đổi.

21. Thành sở cũ của Hà Nội so với các hạt khác có to rộng hơn. Nhưng cơ sở đã

thành thì hãy cứ để như cũ. Công sảnh của Tổng trấn và Hình tào để làm dinh Tổng

đốc, Bố, Án; công sảnh Binh tào để làm nha Đê chính. Những nhà cửa các võ quan

Page 211: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

32

và trại lính của các quân thì về phần Trung quân vẫn lưu đóng ở đấy, còn của bốn

quân Tiền, Tả, Hữu, Hậu nay thuộc hạt nào dỡ đem về hạt ấy. Đến như các nhà cửa

kho tàng của Phó tổng trấn cùng các tào, cục đều do Tổng đốc liệu định, cái nào nên

để, cái nào nên bỏ, tâu lên đợi chỉ. Lại như hành cung, Văn miếu, miếu Hội đồng, Hà

Nội đã có ở thành xây dựng từ trước rồi, thì những cái của trấn Sơn Nam cũ đều dời

về Hưng Yên.

22. Gặp các khánh tiết Thánh thọ, Vạn thọ, Nguyên đán, Đoan dương trong các

thiếp mừng, biểu mừng, Tổng đốc, Tuần phủ song song cùng đóng hai ấn quan

phòng. Ba viên đốc phủ Sơn - Hưng - Tuyên thì đóng nối dọc ba ấn quan phòng.

Thanh Hoa đóng ấn tuần phủ quan phòng. Thiếp biểu mừng ấy đều giao viên Tri

phủ hay viên Tri huyện đem vào Kinh chúc mừng. Lạng - Bình chưa có phủ, huyện

thì uỷ cho Thông phán hay Kinh lịch đi thay. Còn như phẩm vật thổ ngơi các hạt thì

Tổng đốc, Tuần phủ đều chiếu sản vật trong hạt mình theo lệ cũ mà lấy để cung

tiến.

23. Đốc, Phủ, Bố, Án các hạt đã có ấn quan phòng nhà nước cấp, còn các quan

phòng ấn triện cũ của thành tào và các trấn từ Quảng Trị trở ra Bắc, đều tức thì thu

lại và tiêu huỷ đi.

24. Hai tỉnh Hà Tĩnh và Hưng Yên mới thiết lập mỗi tỉnh đều đặt viên Đốc học

và theo lệ, chế cấp ấn quan phòng chuyên giữ học chính.

25. Các quan phủ huyện hạt nào đổi đi hạt khác đều do bộ Lại làm tờ chiếu cấp

cho.

26. Các hạt, khi khuyết Suất đội, Tổng đốc, Tuần phủ, chọn lấy người rồi tâu

xin sung bổ. Còn từ Phó quản cơ trở lên, phải đợi chỉ nhà vua bổ hay bãi.

27. Văn thư các trạm hoặc phái người cưỡi ngựa chạy trạm thì Án sát tường báo

với đốc, phủ cấp trát cho chuyển đệ phát đi. Duy khi Bố chính, Án sát có thực

phong đệ thẳng, thì cho được làm trát đóng ấn mà phát đệ, nhưng trong trát phải viết

rõ những chữ “Bố chính hay Án sát thực phong” thì các trạm dọc đường mới được

tiếp nhận. Còn như Cao Bằng hiện không có Tuần phủ thì cho phép hay Bố chính,

Án sát được làm trát phát đệ.

28. Hà Nội đặt ty Bưu truyền1 lệ thuộc Án sát sứ dưới quyền có Tư vụ, Bát Cửu

phẩm thư lại mỗi chức một người, Vị nhập lưu thư lại 12 người. Ở ngoài thành đặt

một trạm, số lính trạm hạn 60 người. Phàm những chương sớ, công văn các hạt bất

kỳ gặp có việc phải phi đệ rất khẩn cấp và phái người đem đi thì do quan địa

phương cấp trát đệ thẳng. Còn những việc khẩn vừa thì các tỉnh Hà Nội, Sơn Tây,

Bắc Ninh, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng làm trát

giáo ty Bưu truyền tiếp nhận (để chuyển đệ), mỗi ngày cứ giờ Mão, giờ Dậu, 2 lần

đổi trát, Tổng đốc Hà Nội trát giao phát đệ, việc thường thì 3 ngày chạy 1 lần. Còn

như ống trạm do sáu bộ ở Kinh phát giao chuyển đến các hạt, ty Bưu truyền tiếp

nhận được lập tức đổi trát, xem về hạt nào thì chuyển phát ngay đi hạt ấy. Lại ở

ngoài thành Nam Định, đặt một nhà trạm. Phàm các tỉnh Nam Định, Hải Dương,

1 Cơ quan phụ trách về việc chạy trạm, chuyển đệ công văn và thư trát của nhà nước phong kiến.

Page 212: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

33

Hưng Yên, Quảng Yên, có phát đệ ống trạm, đều giao cho ty Án sát Nam Định

chiếu lệ Bưu truyền Hà Nội mà làm. Nhân viên và chức dịch ty Án sát ấy được đặt

thêm 1 Cửu phẩm thư lại và 5 Vị nhập lưu thư lại để sung vào làm việc này. Trạm

Ninh Đa ở Ninh Bình phải chạy đi hai ngả đường. Công việc vất vả hơn các trạm

khác, cấp thêm cho 20 lính trạm. Khi ở Kinh có chiếu văn chỉ dụ hồng bản1 ban cho

các hạt thì phái 2 người đi ngựa trạm đến trạm Ninh Đa: một người từ Ninh Đa qua

Nam Định thẳng đến Hải Dương cấp phát. Công văn nào phát cho Hưng Yên thì do

Nam Định phát, phát cho Quảng Yên thì do Hải Dương phát; đều do các Tổng đốc

nhận lĩnh, rồi phái người chuyển đi. Một người đi thẳng lên Hà Nội, Sơn Tây, Bắc

Ninh và Lạng Sơn để cấp phát. Công văn nào phát cho Hưng Hoá, Tuyên Quang thì

do Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên nhận lĩnh; phát cho Thái Nguyên, thì do Tổng đốc

Ninh Thái nhận lĩnh, phát cho Cao Bằng thì do Tuần phủ Lạng Bình nhận lĩnh, rồi

đều phái người đi chuyển giao.

29. Thuyền các hạt: Quảng Bình, Quảng Trị, Nghệ An, Thanh Hoa đều theo

ngạch cũ. Thuyền Hà Tĩnh, do Tổng đốc An Tĩnh chia phái đi đóng giữ. Thuyền Hà

Nội, Nam Định, Hải Dương, Quảng Yên, Ninh Bình sẽ do bộ Công bàn định cấp phát.

30. Sắp xếp công việc đi sứ. Từ nay đến kỳ đi sứ, các phẩm vật, thứ nào bấy nay

vẫn do Kinh đô phát giao thì cứ làm theo như cũ còn ngoài ra hết thảy các vật hạng

khác đều do Tổng đốc Hà Ninh chiếu lệ Bắc Thành đã làm qua, sức cho ty Bố chính

Hà Nội mua sắm và thuê thợ làm đúng như mẫu. Việc cung ứng vật hạng và điều

bát dân phu, cũng đều làm theo lệ trước. Lại phòng những việc thuộc về bang giao,

các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Quảng Yên tiếp giáp với

nước nhà Thanh, khi có gửi công văn cho các địa phương nhà Thanh tiếp giáp với

hạt mình đều dúng ấn Tuần phủ quan phòng. Duy Cao Bằng thì dùng ấn Bố chính.

31. Việc giải tù phạm. Các tỉnh Hà Tĩnh, Hà Nội, Hải Dương, Sơn Tây, Bắc

Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thái

Nguyên, Quảng Yên phần nhiều không tiện đường thuỷ, hoặc có đường thuỷ nhưng

các thuyền vận tải sản vật đường biển không đến, thì việc giải tù phạm từ Nghệ An

trở ra Bắc, nên chiếu lệ vẫn làm mà giải đi đường bộ. Còn những tù phạm từ Quảng

Bình trở vào Nam, cần phải tải đường biển. Đến kỳ tải, Tổng đốc, Tuần phủ phái

lính cùng với ty Án sát giải các tù phạm đem theo lương thực khẩu phần ăn đường

có biên ghi sổ sách làm bằng. Hà Tĩnh giải đến Nghệ An, Hà Nội, Hải Dương, Sơn

Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng

Hoá, Thái Nguyên, Quảng Yên đều giải đến Nam Định, cho tạm giam lại. Ty Án sát

những hạt có tù phạm phải để nhân viên đi áp giải ở lại đó, đợi đoàn thuyền hải vận

cập bến sẽ cho cùng với phạm cần giải của hạt sở tại Nghệ An, Nam Định đi tải cả

thuyền vào Kinh, do bộ chuyển phát đi các nơi. Khi tải bộ phát giải tù cho các địa

phương cũng do các quan hạt An Tĩnh, Định Yên chuyển phát. Còn như tù phạm ở

Thanh Hoa, Quảng Bình, Quảng Trị đều lưu tại hạt, phân giải theo thể lệ) [75:233-

240].

1 Hồng bản: bản sớ tâu được vua phê chữ son, giao lại cho thi hành.

Page 213: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

34

PHỤ LỤC 9. BẢNG THỐNG KÊ SƠ LƯỢC HỆ THỐNG QUAN CHẾ

TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885

1. VĂN BAN

CHÁNH TÒNG

NH

ẤT

PH

ẨM

04 Đại học sĩ (Cần chánh điện, Văn minh

điện, Võ hiển điện, Đông các) và Cáo

thụ1 Đặc tiến vinh lộc đại phu.

Hiệp biện Đại học sĩ, cáo thụ

Vinh lộc đại phu.

NH

PH

ẨM

Lục bộ Thượng thư, Tả/Hữu Đô ngự sử

Đô sát viện, cáo thụ Tư thiện đại phu.

Tả/Hữu Tham tri Lục bộ,

Tả/Hữu Phó đô ngự sử Đô sát

viện, Cáo thụ trung phụng đại

phu.

TA

M P

HẨ

M Tả/Hữu Thị lang Lục bộ, Chưởng viện

học sĩ, Trực học sĩ, Thông chính sứ ty,

Đại lý tự khanh, Thái thường tự khanh,

Thị lang (Nội vụ phủ, Vũ khố), Thiêm sự,

Phủ doãn phủ Thừa Thiên, Hiệp trấn các

trấn, Cáo thụ gia nghị đại phu.

Thượng bảo khanh, Quang lộc

Tự khanh, Thái bộc Tự khanh,

Cáo thụ trung nghị đại phu.

TỨ

PH

ẨM

Thiếu khanh (Hồng lô tự, Đại lý tự, Thái

thường tự), Quốc tử giám Tế tửu, Hàn

lâm viện Thị độc học sĩ, Lang trung (Lục

bộ, Nội vụ phủ, Vũ khố), Thiêm sự phủ

thiếu Thiêm sự, Tào chính ty Tào chính

sứ, Thương bạc ty Thương bạc sứ, Phủ

thừa (Tôn Nhân phủ, Thừa Thiên phủ);

Tham hiệp các trấn, Hoàng tử phủ

Trưởng sử; Thân công phủ Trưởng sử,

cáo thụ Trung thuận đại phu.

Thiếu khanh (Thượng bảo tự,

Quang lộc tự, Thái bộc tự),

Quốc tử giám Tư nghiệp, Hàn

lâm viện Thị giảng học sĩ, Từ

tế sứ, Hoàng tử phủ Phó

trưởng sử, Thân công phủ Phó

trưởng sử, Cáo thụ triều liệt

đại phu.

NG

Ũ P

HẨ

M

Hồng lô tự Thiếu khanh, Viên ngoại lang

(Lục bộ Thanh lại ty, Đại lý tự, Thái

thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Nội

vụ phủ Thanh thận ty, Vũ khố Thanh thận

ty), Hàn lâm viện Thị độc, Cấp sự trung

lục khoa, Giám sát ngự sử các đạo, Đốc

học các trấn, Từ tế ty Từ tế Phó sứ, Thái y

viện Ngự y, Giám chính Khâm thiên

giám, Tào chính phó sứ, Cáo thụ phụng

nghị đại phu.

Thừa chỉ Hàn lâm viện, Thị

giảng Hàn lâm viện, Miếu

lang, Tri phủ, Phó ngự y Thái

y viện, Giám phó Khâm thiên

giám, Tri bạ (Cẩm y, Thị

trung), Cáo thụ phụng thành

đại phu.

1 Cáo thụ: cáo mệnh của triều đình cho tước hiệu.

Page 214: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

35

LỤ

C P

HẨ

M

Chủ sự (Thanh lại ty Lục bộ, Đại lý tự,

Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc

tự, Hồng lô tự, Nội vụ phủ Thanh thận ty,

Vũ khố Thanh thận ty, Tào chính Thanh

cần ty, Thương bạc ty), Đồng tri phủ, Tri

huyện, Khâm thiên giám ngũ quan chính,

Hộ thành binh mã ty Chủ sự, Tri bạ, Kiên

kỳ Tri bạ, Phi kỵ Tri bạ, Thần sách Tri bạ,

sắc thụ1 Thừa vụ lang.

Hàn lâm viện Tu soạn, Tri

huyện, Kinh huyện Huyện

thừa, Học chính Quốc tử

giám, Tri bạ (Giám thành,

Võng thành, Vệ cơ, Chư

quân), Tả/Hữu thông phán

(Thừa Thiên phủ, Chư thành

trấn đạo), Thổ tri phủ, sắc thụ

Văn lâm lang.

TH

ẤT

PH

ẨM

Hàn lâm viện Biên tu, Tư vụ (Thanh lại ty

lục bộ, Đại lý tự, Thái thường tự, Quang

lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự, Nội vụ

phủ Thanh thận ty, Vũ khố Thanh thận ty,

Tào chính Thanh cần ty, Thương bạc ty,

Hộ thành binh mã ty, Hoàng tử phủ Văn

hàn ty, Tôn Nhân phủ Thừa biện ty), lục

sự Đô sát viện, Giám thừa, Huyện thừa

Quốc tử giám các huyện, Khâm thiên

giám linh đài lang, Giáo thụ các phủ,

Tả/Hữu kinh lịch (Thừa Thiên phủ, các

thành trấn đạo), sắc thụ Trưng sĩ lang.

Hàn lâm viện Kiểm thảo,

Miếu thừa, Thái y viện Y

chính, Chiêm hậu ty linh đài

lang các thành Trấn đạo, Hiệp

thủ các quan trấn, thổ tri châu,

thổ tri huyện, sắc thụ Trưng sĩ

tá lang.

T P

HẨ

M

Các huyện Huấn đạo, Thư lại (Thanh lại

ty lục bộ, Đại lý tự, Thái thường tự,

Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự,

Nội vụ phủ Thanh thận ty, Vũ Khố Thanh

thận ty khố, Tào chính Thanh cần ty,

Thương bạc ty, Khâm thiên giám, Từ tế

ty, ngoại khoa y chính Thái y viện, Hoàng

tử phủ Văn hàn ty, Tôn Nhân phủ Thừa

biện ty, Thừa Thiên phủ, các thành trấn

đạo, Tri sự các phủ, Hành nhân ty, Sắc

thụ tu chức lang.

Hàn lâm viện Điển bạ, Văn

miếu tự thừa, Quốc tử giám

Điển bạ, Thái y viện Y phó,

Thư lại (Cẩm y, Thị trung, Hộ

thành binh mã ty, Hoàng tử

phủ Văn hàn ty), Thân công

phủ Chủ bạ, Tri sự các huyện,

thổ huyện thừa, sắc thụ Tu

chức tá lang.

1 Sắc thụ: sắc mệnh của triều đình cho tước hiệu.

Page 215: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

36

CỬ

U P

HẨ

M

Chánh cửu phẩm thư lại (Thanh lại ty lục

bộ, Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc

tự, Chánh cửu phẩm thư lại Thái bộc tự,

Hồng lô tự, Nội vụ phủ Thanh thận ty, Vũ

Khố Thanh thận ty, Tào chính Thanh cần

ty, Thương bạc ty, Khâm thiên giám, Từ

tế ty, Thị nội, Kiêu kỵ, Phi kỵ, Thần sách,

Hộ lăng, Hoàng tử phủ Văn hàn ty, Tôn

Nhân phủ Thừa biện ty, Thừa Thiên phủ,

các thành trấn đạo,), Thái y viện ngoại

khoa y phó, Thái y viện y sinh, Văn miếu

tự thừa các thành trấn đạo, lại mục các

phủ, Tượng y ty tượng y phó, Hành nhân

Hành nhân ty, Sắc thụ đăng sĩ lang.

Hàn lâm viện Đãi chiếu, Quốc

tử giám điển, Thái y viện

ngoại khoa y sinh, Tòng cửu

phẩm thư lại (Hộ thành binh

mã ty, Hoàng tử phủ Văn hàn

ty, Thân công phủ, Giám

thành, Võng thành, Lục kiên,

Lý thiện, Tuần bạc, Tuần

thành, Nam Bắc tào, các vệ cơ

đội các thành trấn đạo),

Lương y ty y sinh các thành

trấn phủ đạo, lại mục các

huyện, Cai tổng, Tượng y ty

tượng y sinh, thổ lại mục, sắc

thụ Đăng sĩ tá lang.

Vị nhập lưu: Vị nhập lưu thư lại ở các bộ, viện, phủ, ty, giám, tự, ty văn hàn hàm

phủ Hoàng tử, phủ Thân công, các đội, vệ, cơ ở các thành, trấn, đạo, Lễ sinh ở

Văn Miếu… [16:102-105], [4:169-172], [75:655-661].

2. VÕ BAN

CHÁNH TÒNG

NH

ẤT

PH

ẨM

Chư quân Đô thống phủ, Chưởng

phủ sự, cáo thụ Đặc tiến Tráng võ

tướng quân.

Thị nội Thần cơ dinh Đô thống, Thị

nội Tiền phong dinh Đô thống, Thị

nội Long võ dinh Đô thống, Thị nội

Hổ oai dinh Đô thống, Thần sách ngũ

dinh Đô thống; cáo thụ Tráng võ

tướng quân.

NH

Ị P

HẨ

M

Thị trung Tả dực Thống chế, Hữu

dực Thị trung Thống chế, Thị nội

Thần cơ dinh Thống chế, Thị nội

Tiền phong dinh Thống chế, Thị

nội Long võ dinh Thống chế, Thị

nội Hổ oai dinh Thống chế, Thần

sách ngũ quân Thống chế, chư

quân Thống chế, cáo thụ Nghiêm

uy tướng quân.

Cẩm y Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy

sứ, Cẩm y Chưởng vệ sự, Kinh thành

Đề đốc, Thị trung Tả dực Vệ uý, Thị

trung Hữu dực Vệ uý, Khinh xa đô uý

tập ấm, cáo thụ Hùng uy tướng quân.

Page 216: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

37

TA

M P

HẨ

M

Nhất đẳng thị vệ, Cẩm y vệ Đô

Chỉ huy sứ ty chỉ huy sứ, dinh

Thị nội Thần cơ Vệ uý, Thị nội

Tiền phong Vệ uý, Thị nội Long

võ Vệ uý, Thị nội Hổ oai Vệ uý,

Thị nội Nội hầu Vệ uý, Thị nội

Kỳ võ Vệ uý, Thị nội Thành võ

Vệ uý, Thị nội Thị tượng Vệ uý,

Thượng tứ viện viện sứ, Nội thuỷ

Phấn dực Vệ uý, Kiêu kỵ Vệ uý,

Phi kỵ Vệ uý, Thần sách Vệ uý,

Hộ lăng Vệ uý, Thị trung Tả dực

Phó vệ uý, Thị trung Hữu dực

Phó vệ uý, chư quân Thống quản

thập cơ, Trấn thủ các thành trấn,

cáo thụ Anh dũng tướng quân.

Hộ thành binh mã ty Binh mã sứ,

Thượng trà viện Viện sứ, Giám thành

Vệ uý, Võng thành Vệ uý, Vệ uý các

quân, Ngũ hộ Vệ uý, Thị nội Thần cơ

Phó vệ uý, Tiền phong Thị nội Phó vệ

uý, Thị nội Long võ Phó vệ uý, Hổ oai

Thị nội, Vệ uý Nội hầu Thị nội Phó vệ

uý, Thị nội Kỳ võ Phó vệ uý, Thị nội

Thành võ Phó vệ uý, Thị nội Thị

tượng Phó vệ uý, Nội thuỷ Phấn dực

Phó vệ uý, Kiêu kỵ Phó vệ uý, Phi kỵ

Phó vệ uý, Thần sách Phó vệ uý, Hộ

lăng Phó vệ uý, chư quân Phó thống

thập cơ, Kinh thương Giám đốc, Kiêu

kỵ Đô uý tập ấm, cáo thụ Phấn dũng

tướng quân.

TỨ

PH

ẨM

Nhị đẳng thị vệ, Hộ thành binh

mã ty binh mã Phó sứ, Thượng

trà viện Phó sứ, Giám thành Phó

vệ uý, Võng thành Phó vệ uý,

Chư quân Phó vệ uý, Ngũ hộ Phó

vệ uý, Quản cơ, Kinh thương Phó

giám đốc, Minh nghĩa Đô uý.

Thành thủ uý, Phó quản cơ, Trung hầu

Cai đội, Nội hầu Cai đội, Cẩm y Cai

đội Thị trung Tả dực Cai đội, Hữu dực

Thị trung Cai đội, giám đốc các cục

Bảo hoá, Bảo tuyền, Tạo tác, Kỵ đô

uý tập ấm, Tuyên uý sứ, Trưởng chi

các chi Thổ binh, cáo thụ Tín nghĩa đô

uý.

NG

Ũ P

HẨ

M

Tam đẳng thị vệ, Cẩm y Hiệu uý,

Thị nội Cai đội (Thần cơ, Tiền

phong, Long võ, Hổ oai, Nội hầu,

Kỳ võ, Thành võ, Thị nội Thị

tượng , Tả hầu, Hữu hầu, Trung

hầu, Dực võ, Thượng trà Tiểu sai,

Tả vệ, Hữu vệ, Kim đao, Kim

sang, Ngân sang, Thị nghi,

Thượng thiện, Tiểu hầu, Tài hoa,

Phấn dực Nội thuỷ, Kiêu kỵ, Phi

kỵ, Thần sách, Hộ lăng), Tả/Hữu

dực Thị trung Phó đội, Chánh đội

trưởng suất đội (Trung hầu, Nội

hầu), quản lĩnh Nam Bắc tào, cáo

thụ Võ công đô uý.

Tứ đẳng thị vệ, Cai đội (Giám thành,

Võng thành, chư quân, Thân công

phủ, Ngũ hộ, Lục kiên, Lý thiện, Tuần

bạc, Tuần thành), Chánh đội trưởng

Thị nội (Thần cơ, Tiền phong, Long

võ, Hổ oai, Nội hầu, Kỳ võ, Thành võ,

Thị tượng, Tả hầu, Hữu hầu, Trung

hầu nhất, Dực võ, Thượng trà, Tiểu

sai, Tả vệ, Hữu vệ, Kim đao, Kim

sang, Ngân sang, Thị nghi, Thượng

thiện, Tiểu hầu, Tài hoa), Chánh đội

trưởng (Nội thuỷ Phấn dực, Kiêu kỵ,

Phi kỵ, Thần sách, Hộ lăng, Từ tế),

phó lĩnh Nam Bắc tào, Phi kỵ uý tập

ấm, Tuyên uý Phó sứ, Phòng ngự sứ,

Phó chi các chi thổ binh, Cáo thụ Kiến

công đô uý.

Page 217: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

38

LỤ

C P

HẨ

M

Ngũ đẳng thị vệ, các đội ngạch

ngoại, Cai đội các thành trấn đạo;

Cai đội thuộc binh; Giám thành

Chánh đội trưởng suất đội, Võng

thành Chánh đội trưởng suất đội

(Chánh đội trưởng dưới này đều

là Chánh đội trưởng suất đội),

Chánh đội trưởng (Chư quân,

Thân công phủ, Ngũ hộ, Lục

kiên, Lý thiện, Tuần bạc, Tuần

thành, Trung hầu đội suất thập,

Nội hầu đội suất thập thủ ngự),

Đốc vận các quan tấn, Sắc thụ

Tráng tiết kỵ uý.

Chánh đội trưởng suất đội (các thành trấn

đạo, thuộc binh, Cẩm y suất thập), Chánh

đội trưởng Tả/Hữu dực Thị trung, Đội

trưởng (Trung hầu đội, Nội hầu đội),

Chánh đội trưởng Thị nội (Thần cơ, Tiền

phong, Long võ, Hổ oai, Nội hầu, Kỳ võ,

Thành võ, Thị tượng, Tả hầu, Hữu hầu,

Trung hầu nhất, Dực võ, Thượng trà,

Tiểu sai, Tả vệ, Hữu vệ, Kim đao, Kim

sang, Ngân sang, Thị nghi, Thượng

Thiện, Tiểu hầu, Tài hoa), Chánh đội

trưởng (Nội thuỷ Phấn dực, Kiêu kỵ, Phi

kỵ, Thần sách, Hộ lăng, Từ tế), Ân kỵ uý

tập ấm, Tuyên uý đồng tri, Phòng ngự

đồng tri, Cai đội thổ binh, sắc thụ Tráng

tiết tá kỵ uý.

TH

ẤT

PH

ẨM

Giám thành Chánh đội trưởng suất

thập (Chánh đội trưởng ở sau đều là

Chánh đội trưởng suất thập), Chánh

đội trưởng (Võng thành, Chư quân,

Thân công phủ, Ngũ hộ, Lục kiên,

Lý thiện, Tuần bạc, Tuần thành),

Đội trưởng (Cẩm y suất thập, Tả/

Hữu dực Thị trung), Đội trưởng Thị

nội (Thần cơ, Tiền phong, Long võ,

Hổ oai, Nội hầu, Kỳ võ, Thành võ,

Thị tượng, Tả/Hữu hầu, Trung hầu

nhất, Dực võ, Thượng trà, Tiểu sai,

Tả vệ, Hữu vệ, Kim đao, Kim sang,

Ngân sang, Thị nghi, Thượng thiện,

Tiểu hầu, Tài hoa), Đội trưởng (Nội

thủy Phấn dực, Kiêu kỵ, Phi kỵ,

Thần cơ, Hộ lăng, Từ tế), Thiên hộ,

Nội tạo các cục tượng chính tri sự,

sắc thụ Hiệu trung kỵ uý.

Chánh đội trưởng suất thập (các thành

trấn đạo, thuộc binh, Giám thành), Đội

trưởng (Võng thành, Chư quân, Thân

công phủ, Ngũ hộ, Lục kiên, Lý thiện,

Tuần bạc, Tuần thành, thổ binh), Phó

thiên hộ, Nội tạo tác các cục tượng

phó tri sự lĩnh vận thiên tổng, Phụng

ân uý tập ấm, sắc thụ Hiệu trung tả kỵ

uý.

T P

HẨ

M Đội trưởng suất thập các thành trấn

đạo, thuộc binh đội trưởng suất thập,

Bá hộ, các cục tượng Tri sự công

thương, công khố thứ Đội trưởng,

dịch trạm thứ đội trưởng, sắc thụ

Trung tín hiệu uý.

Bá hộ, các cục tượng phó Tri sự, Thừa

ân uý tập ấm, sắc thụ Trung tín tá hiệu

uý.

CỬ

U

PH

ẨM

Bá hộ, Tượng mục các cục tượng

chính, sắc thụ Hiệu lực hiệu uý.

Bá hộ, Hộ trưởng các hộ, thợ các cục,

Tượng mục, huyện lệ mục, sắc thụ

Hiệu lực tá hiệu uý.

Page 218: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

39

Nguồn: [16:105-109], [4:172-175], [75:655-661].

Page 219: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

40

PHỤ LỤC 10. CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ

CỦA CÁC NHA, TỰ, VIỆN... TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885

Dưới thời kỳ độc lập, tự chủ (1802 – 1885), ngoài lục bộ, các vị vua đầu triều

Nguyễn còn cho lập các phủ, tự, viện, giám, ty, cục… gọi là các nha. Đây là các cơ

quan phụ trách một hoặc một số công việc chuyên môn nhất định thuộc về các lĩnh

vực hành pháp, tư pháp và giám sát.

- Tôn Nhân phủ: thành lập năm Minh Mạng 13 (1832), là cơ quan chuyên

chăm lo các vấn đề về hoàng tộc như: trông coi sổ sách, biên soạn ngọc phả, tông

phả, phái phả, đặt tên, lo giá thú… cho người trong hoàng tộc, tế lễ tang ma, phong

cấp tập tước, định mũ áo, chọn người làm quan, chọn tôn sinh, giáo dưỡng để giảng

dạy cho các hoàng tử, hoàng đệ và người trong tôn thất, thay nhà vua quản lý mọi

mặt trong hoàng tộc... Đứng đầu phủ Tôn nhân là Tôn nhân lệnh, chức quan này

thường lấy một vị Thân vương có uy tín trong Hoàng tộc đảm nhiệm. Các quan giúp

việc gồm có: Tả/Hữu Tôn chính, Tả/Hữu Tôn nhân, Tả/Hữu Tôn khanh; thuộc viên

gồm có: Tả/Hữu Tá lý, Lang trung, Viên ngoại lang, Chủ sự, Ty vụ, Thừa biện ty…

[4:25].

- Thái Y viện: Cơ quan này được vua Gia Long thành lập năm 1802. Thái Y

viện là cơ quan tập hợp những lương y giỏi, có trách nhiệm chăm sóc sức khoẻ cho

vua và người trong hoàng tộc, chăm lo việc thuốc thang, chữa bệnh và chăm lo

ngành y dược trong cả nước. Đứng đầu Thái Y viện là 1 Viện sứ giữ chức Lệnh y

viện hàm Chánh tứ phẩm, 1 Ngự y hàm Chánh ngũ phẩm, 1 Phó Ngự y hàm Tòng

ngũ phẩm, 2 viên Tả/Hữu Viện phán hàm Tòng lục phẩm, 2 viên Thừa viện phán,

thuộc viên có các Y chính 10 người, Y sinh 23 người, Nhập lưu Y sinh 20 người;

ngoại khoa có 2 Y chính, 2 Y phó và 16 Y sinh... Thái y viện còn có nơi chế thuốc

riêng và quản lý kho Ngọc dược giữ các loại thuốc quý dùng cho nhà vua [6:122].

- Nội Vụ phủ: tiền thân dưới thời vua Gia Long là Nội đồ gia, năm Minh Mạng

thứ nhất (1820) đổi tên thành Nội Vụ phủ. Đây là cơ quan chuyên trách việc coi giữ

kho tàng, của công và các hạng vàng ngọc châu báu, tơ lụa trong cung, lo việc thu

phát cất trữ các vật cống tiến... Nội vụ phủ có 10 kho là: Châu ngọc khố, Cẩm tú

khố, Trân ngoạn khố, Vật hạng khố, Văn y khố, Kim ngân khố, Nhạc khí khố, Thái

phục khố, Sa lăng khố và Dược phẩm khố.

- Thị vệ xứ, ty Cẩn tín: Đây là hai cơ quan phụ trách công tác hậu cần của triều

đình, trong đó xứ Thị vệ là đơn vị vũ trang bảo vệ vua và nội cung còn ty Cẩn tín có

trách nhiệm giao nhận lễ vật và chương sớ cho vua từ các nơi chuyển đến. Khi làm

việc ở trong Kinh, các thuộc viên của xứ Thị vệ được chia làm 4 ban còn ty Cẩn tín

chia làm 2 ban để cùng nhau túc trực ở Duyệt Thị đường [6:122].

- Thương trường: Kho dự trữ thóc, gạo và tiền, do 1 quan Thị lang hàm Chánh

tam phẩm phụ trách.

Page 220: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

41

- Võ khố: Thời Gia Long gọi là Ngoại đồ gia, đến năm 1820, vua Minh Mạng

đổi thành Võ khố. Đây là kho chứa quân khí. Đứng đầu Võ khố là 1 quan Thị lang

hàm Chánh tam phẩm. Nội vụ phủ và Võ khố đều dùng chức Thị lang đứng đầu,

giúp việc cho Thị lang có Lang trung và Tham biện. Các thuộc viên đều có Viên

ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ, Bát, Cửu phẩm và Vị nhập lưu thư lại, cùng chia nhau

trông coi đồ vật và sổ sách [75:918].

- Mộc thương: Đây là kho chứa đồ gỗ của triều đình, đến năm 1853 vua Tự

Đức cho đổi thành ty Tài mộc và cho trực thuộc bộ Công. Kho Mộc thương do 1

viên Lang trung hàm Chánh tứ phẩm trông coi. Ngoài ra, còn có các Viên ngoại

lang, Chủ sự, Tư vụ và một số viên bát cửu phẩm, nhập lưu giúp việc. Ngoài ra,

Mộc thương còn có Doanh thiện ty. Đây là 7 cục thợ mộc thuộc Mộc thương, có

nhiệm vụ quản lý đội ngũ thợ mộc giỏi có trách nhiệm đóng các đồ mộc và thuyền

cho triều đình. Đứng đầu ty này là 1 Viên ngoại lang hàm Chánh ngũ phẩm và một

số viên giúp việc.

- Tào chính ty: Ty này được đặt dưới thời Gia Long với tên đội Trường đà.

Năm 1822, Minh Mạng đổi thành Tào chính ty. Cơ quan này có nhiệm vụ vận tải

hàng hóa, lương thực và quân giới cho triều đình. Đứng đầu Tào chính ty là Tào

chính sứ hàm Chánh nhị phẩm trở lên và do vua lựa chọn. Các thuộc viên có Chủ sự

và Tư vụ, Bát, Cửu phẩm và Vị nhập lưu thư lại. Nam, Bắc tào quản lĩnh giữ việc

cai quản và hộ vệ các thuyền bè trên sông. Phó quản lĩnh tham dự giúp việc. Còn

viên Đốc vận, Lĩnh vận và Thiên tổng thì đều theo Quản lĩnh để phụng hành việc

vận tải của nhà nước. Cửu phẩm thư lại coi giữ sổ sách ghi chép công việc của Tào

chính [75:920].

- Bưu chính ty: Do Minh Mạng thành lập năm 1820. Cơ quan này có nhiệm vụ

chuyển vận công văn và đưa đón quan lại trong toàn quốc. Phụ trách Bưu chính ty

là 1 viên Chủ sự hàm Chánh lục phẩm.

- Thông chính sứ ty: Dưới thời Gia Long, việc vận chuyện công văn về Kinh

và ngược lại đều do Bưu chính ty (trực thuộc bộ Binh) đảm nhận. Năm 1834, vua

Minh Mạng cho đặt Thông chính sứ ty trực thuộc triều đình trung ương. Nhiệm vụ

của cơ quan này là: “Tiếp nhận tấu sớ, kiểm, phát văn thư, ban ứng trực, chuyển,

nhận công văn, phân xử trường hợp gửi chậm, gửi nhầm, phái cử người đi công vụ”

[53:177]. Ngoại trừ các mật tấu, công văn khẩn giao trực tiếp cho Thị vệ trình lên

vua, còn văn bản thông thường, Thông chính sứ có trách nhiệm tiếp nhận rồi giao

cho các bộ, nha theo chức trách. Đối với các công văn gửi các địa phương, cơ quan

này phối hợp với bộ Binh xem xét nếu không có vấn đề gì thì giao cho Bưu chính ty

chuyển [6:127]. Thuộc viên của cơ quan này có Viên ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ,

Bát, Cửu phẩm và một số Nhập lưu thư lại [70:918].

- Lục Tự: là sáu tổ chức giúp nhà vua các vấn đề về văn hoá, giáo dục, thi cử,

luật pháp, tế tự gồm: Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô

tự, Thượng bảo tự. Trong đó, Hồng lô tự và Thượng bảo tự có chức trách thường

trực, còn các Tự khác thường chỉ kiêm nhiệm hoặc chỉ làm chức quan để phong.

Lục Tự có tổ chức từ thời Lê Thánh Tông, nhà Nguyễn cũng lập lục Tự nhưng

Page 221: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

42

thường không đủ 6 Tự. Những chức như Tự khanh, Tự thiếu khanh, Tự thừa thường

trao cho những tản quan không có chức vụ nhất định.

+ Đại lý tự được thành lập năm 1831. Đây là cơ quan tư pháp tối cao của triều

Nguyễn, có nhiệm vụ: xét xử phúc thẩm các vụ án có khiếu tố, án tử hình; thụ lý các

vụ kiện của dân về tham ô, hối lộ, bức hiếp [8:25]. Ngoài ra, Đại lý tự còn phải phối

hợp với bộ Hình và Đô sát viện thành Tam Pháp ty để xét xử hình án của triều đình

[75:655-656]. Trưởng quan Đại lý tự là Tự khanh (3a), có một Thiếu khanh (4a) và

29 thuộc quan khác. Năm 1898, vua Thành Thái cho bãi bỏ Đại lý tự [9:140].

+ Thái thường tự được vua Gia Long đặt ra năm 1814 nhưng không phải là cơ

quan chuyên trách. Đến năm 1827, vua Minh Mạng mới có định chế cụ thể cho cơ

quan này. Nhiệm vụ của Thái thường tự là tổ chức các đại lễ của triều đình [6:132].

+ Quang lộc tự được thành lập năm 1835, với nhiệm vụ xem xét, kiểm tra các lễ

vật, phẩm tế trong các cuộc tế lễ, yến tiệc của triều đình. Thái thường tự và Quang

lộc tự là hai cơ quan trực thuộc Bộ Lễ.

+ Thái bộc tự lo việc kiểm duyệt các đồ nghi trượng, phép rèn dạy ngựa.

+ Hồng lô tự là cơ quan có nhiệm vụ tổ chức các buổi xướng danh các tân tiến

sĩ thi đậu các kỳ thi Đình, đồng thời Hồng lô tự còn có nhiệm vụ sắp xếp các thể

thức nghi lễ, sắp xếp trật tự, vị trí các quan trong các ngày hội triều và lễ khánh hạ

[6:134].

+ Thượng bảo tự là cơ quan thuộc bộ Lễ, có nhiệm vụ đóng ấn quyển thi Hội.

Đứng đầu các tự là viên Tự khanh trông coi sự vụ trong tự của mình, phó của

các tự là Thiếu khanh, giúp việc cho Tự khanh. Các tự đều có thuộc viên như Viên

ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ, Bát, Cửu phẩm và Vị nhập lưu thư lại [70:919].

- Quốc tử giám: Quốc tử giám có từ thời Lý. Dưới thời Nguyễn, năm 1803 vua

Gia Long cho lập Đốc học đường (về sau đổi là Quốc tử giám), ban đầu đặt chức

quan Đốc học đứng đầu. Quốc tử giám có nhiệm vụ “giảng dạy kinh sách, đào tạo

nhân tài, sửa sang quy thức để đôn đốc sự giáo hoá, phân biệt lớp bậc để phân phát

học bổng, mọi việc có quan hệ đến quốc học” [70:919]. Đến năm Minh Mạng thứ 2

(1821) đổi đặt chức Tế tửu (tương đương Hiệu trưởng - hàm Chánh tứ phẩm), 2

viên Tư nghiệp (tương đương Hiệu phó - hàm Tòng tứ phẩm), thuộc viên gồm có

các viên: Học chính, Giám thừa, Điển bạ, Điển tịch và các Vị nhập lưu thư lại để

giúp việc. Từ năm Minh Mạng 14 (1833) trở đi đặt thêm 1 viên đại thần hàm Nhất

phẩm để kiêm quản. Như năm 1838, vua Minh Mạng đã cử hai Đại học sĩ là Lê Văn

Đức và Trương Đăng Quế kiêm quản, đến năm 1841, vua Thiệu Trị cử Vũ Xuân

Cẩn thay Lê Văn Đức, còn Trương Đăng Quế vẫn tiếp tục kiêm quản. Về chức trách

của các thuộc viên, “Tế tửu coi việc học chính và đào tạo nhân tài để giúp cho nền

văn hoá được thịnh đạt. Tư nghiệp tham dự công việc học chính làm phó phủ để

giúp Tế tửu. Học chính theo viên Giám đường chuyên giữ việc giảng dạy học tập.

Tôn học và Giám thừa đem các thuộc viên để làm mọi sự vụ Quốc học. Điển bạ và

Điển tịch đều coi giữ kinh sách, sổ bạ, còn những Vị nhập lưu thư lại thì lệ thuộc

vào Giám để sai phái làm việc công” [70:919].

Page 222: 2.NgoDucLap-Noi dung.pdf

43

- Khâm thiên giám: Cơ quan này được thành lập năm 1805, dưới triều vua Gia

Long. Khâm thiên giám có trách nhiệm “suy tính để chiêm nghiệm sai độ của từng

năm, bình trật để phân đều khí hậu, ghi chép lịch số để nêu đúng năm và mùa, miêu

tả sắc mây và hình vật để xem đoán tượng trời, xem ngày giờ để chọn tốt lành, coi

giọt lậu để báo trống canh” [70:920]… Về đội ngũ quan lại, Khâm thiên giám do 1

viên quan Đại thần đứng đầu, dưới đặt 1 viên Giám chính hàm Chánh ngũ phẩm, 3

viên Chiêm hậu hàm Tòng ngũ phẩm, 1 viên Thủ hợp trông coi văn phòng và 30

viên Chiêm hậu lại ty. Đến năm 1826, vua Minh Mạng cho kiện toàn lại và giao cho

1 quan đại thần phụ trách, đội ngũ quan lại có 1 viên Giám chính, 1 viên Giám phó,

4 viên Ngũ quan chính, 4 viên Linh đài lang và một số thuộc lại.

- Quốc sử quán: Là cơ quan chuyên trách việc nghiên cứu, lưu trữ sử liệu, biên

soạn các bộ sử chính thống của triều đình. Năm 1820, vua Minh Mạng dụ rằng:

“Nhà nước ta từ khi mở mang đến nay, các thánh nối nhau hàng 200 năm. Kịp đến

Thế tổ Cao hoàng đế ta trung hưng thống nhất đất nước, trong khoảng ấy sự tích

công nghiệp nếu không có sử sách thì lấy gì để dạy bảo lâu dài về sau. Trẫm muốn

lập Sử quán, sai các nho thần biên soạn quốc sử thực lục để nêu công đức về kiến,

đốc, cơ, cần làm phép cho đời sau, cũng chẳng là phải sao” [75:66] nên đã cho lập

Quốc sử quán. Quan viên Quốc sử quán đều chọn người có chữ nghĩa, giỏi văn học.

Đứng đầu cơ quan này là các Tổng tài kiêm quản. Ngoài ra, còn có một số chức

quan khác như: 2 viên phó Tổng tài, 4 viên Toản tu, 8 viên Biên tu, 4 viên Khảo

hiệu, 6 viên Đàng lục, 6 viên Thu chưởng… Các đại quan đã từng được giao nhiệm

vụ kiêm quản Quốc sử quán như: Nguyễn Văn Thành, Trương Đăng Quế, Vũ Xuân

Cẩn, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình,

Nguyễn Trọng Hợp, Trương Quang Đản, Cao Xuân Dục… [6:131]. Quốc sử quán

đã từng biên soạn các bộ sử lớn của triều Nguyễn như: Khâm định Việt sử thông

giám cương mục, Đại Nam thực lục (chính biên và tiền biên), Minh Mạng chính

yếu, Đại Nam chính biên liệt truyện, Đại Nam nhất thống chí, Quốc triều chính biên

toát yếu…

- Viện Tập hiền: Đây là cơ quan “bàn bạc đạo trị nước, giảng sách cho hoàng

đế, hoàng thân và các đại thần từ tham tri trở lên và biên soạn sách giáo khoa về

chính trị” [6:129]. Viện Tập hiền đặt các viên Kinh diên giảng quan và Kinh diên

nhật giảng quan hàm Nhị phẩm trở lên chuyên trách việc giảng dạy, ngoài ra có các

viên Thị giảng, Thị độc, Khởi cư trú và Bút thiếp thức giúp việc giảng dạy, nghiên

cứu, biên soạn kinh điển, kê cứu, ghi chép sổ sách...