4 cuon sach cua nguyen tam thuong

365
VIẾT TRONG TÂM HỒN Đoản khúc 1: Dang dỡ Đoản khúc 2: Tình yêu Đoản khúc 3: Những bước chân Đoản khúc 4: Giáo Hội Đoản khúc 5: Thành công Đoản khúc 6 : Hoa nghĩa trang Đoản khúc 7: Điệu nhảy của người mù Đoản khúc 8: Kẻ theo Ngài Đoản khúc 9: Chiếc nhẫn Đoản khúc 10 : Nước Trời Đoản khúc 11: Đi trong nỗi buồn Đoản khúc 12 : Xuân tâm hồn Đoản khúc 13: Lời khen NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 1

Upload: quocvuong1503

Post on 27-Jun-2015

1.090 views

Category:

Documents


50 download

TRANSCRIPT

Page 1: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

VIẾT TRONG TÂM HỒNĐoản khúc 1: Dang dỡ

Đoản khúc 2: Tình yêu

Đoản khúc 3: Những bước chân

Đoản khúc 4: Giáo Hội

Đoản khúc 5: Thành công

Đoản khúc 6 : Hoa nghĩa trang

Đoản khúc 7: Điệu nhảy của người mù

Đoản khúc 8: Kẻ theo Ngài

Đoản khúc 9: Chiếc nhẫn

Đoản khúc 10 : Nước Trời

Đoản khúc 11: Đi trong nỗi buồn

Đoản khúc 12 : Xuân tâm hồn

Đoản khúc 13: Lời khen

Đoản khúc 14: Trăng đêm

Đoản khúc 15: Con diều và tình yêu

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 1

Page 2: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đoản khúc 16 : Vá lưới

Đoản khúc 17: Ước mơ của Chúa

Đoản khúc 18 : Trang điểm

Đoản khúc 19: Bỏ đi tìm

Đoản khúc 20: Thập giá và thánh giá

Đoản khúc 21: Ý thơ trong địa đàng

Đoản khúc 22: Những cái nhìn

Đoản khúc 23 : Kinh chiều

Đoản khúc 24: Hoa tưởng nhớ

Đoản khúc 25 : Mây trời

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 1: DANG DỠ

“Tình chỉ đẹp khi còn dang dở

Đời mất vui khi hẹn câu thề.”

Đời có thật mất vui khi vẹn câu thề? Tình chỉ đẹp khi còn dang dở hay là cho dù dở dang tình vẫn đẹp? Người ta nói chấm dứt mối tình dở dang, nghĩa là lúc tình đó đang dang dở thì bị chấm dứt. Có phải đã chấm dứt rồi thì không còn dang dở nữa?

Chấm dứt là xong, là trọn vẹn không còn gì để nói. Khi đã chấm dứt thì tình đó thuộc về dĩ vãng nguyên tuyền. Nó dang dở trong quá khứ mà trọn vẹn xong ở hiện tại. Như vậy, tình thuộc dĩ vãng không còn tiếp tục hôm nay thì còn gì là dang dở?

Xem ra là thế, tuy nhiên, thuộc về dĩ vãng chưa hẳn là thuộc về vùng đã quên. Nếu còn nhớ thì ngay khi chấm dứt tình dang dở, tình vẫn chưa hết dở dang. Chấm dứt mà còn nhớ thì chuyện tình chỉ chấm dứt trong không gian ngoại cảnh chứ chưa hết trong không gian tâm hồn. Vì lẽ ấy, cũng khá khó cho một định nghĩa tình dang dở là gì, và còn khó hơn, tình dang dở có còn đẹp?

Có thể tìm một định nghĩa dễ hơn. Tình dang dở là tình còn nhớ. Ở đây, dang dở không có nghĩa là chấm dứt lúc còn dở dang. Dang dở là chưa xong.

“Rồi Người gục đầu xuống và tắt thở” (Yn 19:30). Đó là Tin Mừng Yoan tường thuật về cái chết của Đức Kitô. Hơi thở của Ngài không còn dang dở. Một sự gục đầu trọn vẹn kết thúc. Nhưng tình của Đức Kitô không phải là tình đã xong trong quá khứ. Tình ấy không chấm dứt ở thập giá chiều nào trên đồi Do Thái. Tình ấy vẫn hằng ngày gọi, hàng chiều chờ. Tội gọi tình ấy là tình dang dở.

Đức Kitô tiếp tục yêu, còn tôi, tôi chưa nhận đủ. Ngài cho tình yêu, nhưng bàn tay tôi có nhiều khe rãnh, nên hứng lãnh mà tình ấy cứ rơi đi hoài. Vì cái dang dở ấy nên Ngài cứ băn khoăn làm sao cho tôi múc được nhiều để hồn tôi bớt trống  và tim tôi thôi vơi. Và vì thế, dở dang của tình

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 2

Page 3: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

yêu ấy là dang dở đẹp. Tôi thấy trong dang dở của tình yêu này một trái tim bao dung và kiên nhẫn. Nhờ dang dở ấy mà tôi thấy Ngài không mòn mỏi vì phải đợi chờ, không đếm thời gian và đưa tình yêu vào thời khoá biểu. Giữa tôi với Ngài, còn thời gian thì còn dang dở, còn thương xót.

Đức Kitô yêu tôi bằng tình trọn vẹn. Ngài là tình yêu (1 Yn. 4:16). Ngài cho tôi chính Ngài với hơi thở sau cùng trên thập tự. Nói về công việc thì xong, biến cố lịch sử trên Núi Sọ hoàn tất. Nhưng tình yêu ấy không là biến cố lịch sử. Biến cố lịch sử chỉ là một trong những đường nét để vẽ chân dung tình yêu. Tình yêu ấy vẫn yêu tôi. Thập tự giá ngày xưa vẫn là thập tự giá hôm nay kéo dài trên bàn thờ khi tôi dâng lễ.

Đức Kitô đã phục sinh, nhưng trong đau đớn của chi thể Ngài là nhân loại thì Ngài vẫn còn bị đóng đinh. Trong yếu đuối, tôi làm phai nhạt bao nhiêu chuyện tình đẹp giữa tôi và Ngài, tôi vẫn có lỗi phạm. Trong lãng quên, tôi vẫn xuôi chiều bao nhiêu cám dỗ. Vì thế, tình tôi với Ngài làm sao mà không dang dở cho được.

Chỉ có tình trọn vẹn ở phía thập giá. Thập giá yêu thương nhân loại nhưng nhân loại không có tình trọn vẹn, nên khi tình trời nối với tình đất thì tình trời mang thương khó. Ngày nào còn nhân loại thì tình giữa nhân loại và thập giá còn là tình dở dang.

Không có tình yêu, trọn vẹn sẽ là trọn vẹn thiếu. Với tình yêu, dang dở sẽ thành dang dở quý mến.

Có những dang dở cần thiết. Dang dở cho chuyện tình còn dài, còn nhắc nhở, còn xám hối. Trong các phép lạ của Chúa, có một loại phép lạ có thể gọi tên là phép lạ dang dở. Một thứ dang dở mà Đức Kitô nhất định giữ:

- Khi chữa mắt cho người mù, Ngài chỉ chữa một cách dang dở. Ngài lấy bùn thoa vào mắt người mù nhưng anh ta chẳng khỏi. Anh ta phải đi rửa ở hồ Sứ Gỉa. Mù làm sao mà đi dễ dàng, thế mà Chúa không chữa cho xong. (Yn. 9:1-41).

- Tiệc cưới Cana cũng vậy. Chúa không làm phép cho có rượu, nhưng chỉ làm cho nước hoá rượu. Đức Kitô bảo các gia nhân: “Hãy múc nước đổ đầy các chum” (Yn. 2:7). Sao Chúa không làm cho có rượu luôn đi mà lại bảo người ta đổ nước? Chúa chỉ làm một nửa. Thương xót thì trọn vẹn, nhưng thương xót ai, bởi đó, thương xót còn hệ tại đối tượng được thương xót muốn thương xót bao nhiêu.Do đấy, có những thương xót cần dang dở để đối tượng được thương xót kia lựa chọn mức độ thương xót cho mình. Nếu các gia nhân chỉ múc nửa bình thì chắc rượu chỉ có nửa bình thôi.

- Làm phép bánh từ “không có hoá ra có”, và từ “có sẵn hoá ra có thêm” là hai thái độ, biểu tượng cho hai nội dung rất khác nhau. Chiều hôm ấy, đám dân chúng đói không có gì ăn. Các môn đệ không đủ bánh, nghĩa là có nhưng thiếu, hoặc nói cách khác là có mà dở dang. Chúa không vứt vất cái dang dở ấy rồi tự mình làm phép lạ. Chúa bảo đem cái dang dở ấy đến. Sao Chúa không làm phép lạ cho có bánh, mà chỉ làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều. Sao Chúa cứ thích cái dang dở của các tông đồ làm chi. (Mc. 6:35-43).

- Thấy đền thờ thành nơi buôn bán, dơ uế mất rồi, Chúa bảo phá đi rồi trong ba ngày Ngài xây dựng lại. Tại sao Ngài không phá luôn cho tiện mà chỉ xây lại khi người khác phá (Yn. 2:13-22).

Chúa thích những phép lạ dang dở. Chúa làm có một nửa nên nhân loại mới góp phần trong công việc trọng đại ấy. Cái dang dở mà Chúa để xẩy ra là dang dở huyền diệu. Thiếu dang dở này con người  thiệt thòi biết bao. Cần có những dang dở của Chúa để dang dở của con người hết dở dang. Con người không thể làm phép lạ tự cứu lấy mình. Chúa cũng không cứu con người khi con người không tự do nhận lãnh. Phép lạ của Chúa cần là phép lạ một nửa, phép lạ dang dở để tôi được tham dự. Cái dang dở của Chúa là chỗ trống cho tôi bước vào.

 

Chúa không thể nào bất toàn. Bởi đó, những gì dang dở mà Chúa để xẩy đến trong cuộc sống, tôi phải tìm hiểu. Có khi là đau khổ, cso khi là những ngày chán nản. Những mũi chỉ thêu ngang

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 3

Page 4: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

dọc làm cho tấm tranh rối mù lộn xộn, nhưng nó sẽ là tác phẩm nghệ thuật khi nó hết dở dang. Con đường Hội Thánh đang đi là con đường dang dở. Công cuộc rao giảng Tim Mừng là công cuộc dang dở. Công cuộc rao giảng Tin Mừng là công cuộc dang dở. Nhưng trong dang dở ấy là ngưỡng của hi vọng. Đời truyền giáo của tôi là một hành trình đang dang dở. Tay tôi ngắn mà cánh đồng thì mênh mông. Nhưng nối tiếp những dang dở sẽ thành hoàn hảo. Người sống hi vọng phục sinh là kẻ chấp nhận những dở Chúa để xẩy đến, và nhìn thấy dang dở trong công cuộc rao giảng thập giá là dang dở lạc quan.

Dang dở của tình yêu giữa tôi và Chúa không là dang dở phải chấm dứt. Chúa không bao giờ chê căn nhà tôi nghèo nàn. Tôi cũng chẳng muốn bỏ Chúa. Dang dở chỉ vì yếu lòng. Dang dở vì vụng về trong những lựa chọn. Dang dở vì lấp lửng  với những cám dỗ. Từ linh hồn thành thật rất sâu, tôi không muốn những dang dở này. Có băn khoăn về những sa ngã, có hối hận về những không trọn vẹn sẽ làm cho chuyện đường thập giá gồ ghề hơn. Những gồ ghề là những cản ngăn, nghĩa là đường thập giá sẽ thập giá hơn nữa. Khi đường thập giá trở nên thập giá hơn thì linh hồn gian nan hơn,  nhưng vì gian nan đó cũng sẽ làm cho đường thập giá ấy ý nghĩa hơn.

Những chuyện tình gian nan bao giờ cũng là những chuyện tình nhiều kỉ niệm. Và, bởi đó, đường thập giá cho dù dang dở vẫn luôn luôn là những chuyện tình đẹp. Không phải dang dở thì mới đẹp, nhưng là vẫn đẹp khi dở dang.

 

 

Lạy Chúa, ngày nào còn hơi thở thì tim con còn rung cảm rực nóng. Còn rung cảm rực nóng. Còn rung cảm rực nóng thì còn những dang dở. Nhưng đường Chúa gọi đi là đường tình thập giá không đánh dấu bằng những lần ngã dở dang. Chúa nối những dang dở ấy thành đường thập giá. Bởi đó, con hi vọng và lạc quan trong mọi dang dở của hành trình thiêng liêng. Và con phải biết Chúa rất cần một thứ dang dở là Chúa không hoàn thành cho con tất cả ước mơ nếu con không thực sự mơ ước.

Ước mơ đẹp là mình ước mơ, còn ước mơ hững hờ là ước mơ người khác mơ ước giùm mình.

Xin cho con không bao giờ thở dài về sự dở dang trong công cuộc truyền giáo rồi thôi rao giảng Tin Mừng để cho khỏi băn khoăn về những dang dở ấy.

Vân, lạy Chúa, con không muốn làm cho chuyện tình thành dang dở, nhưng chỉ vì con yếu đuối. Chúa thương con, thì với Chúa, những chuyện tình dở dang của con trên đường theo Chúa vẫn là những chuyện tình đẹp.

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 4

Page 5: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 2: TÌNH YÊU

Có bài ca trong đời hát rằng: “Con chin quý thì phải ở lồng son.” Không biết lời ca đó có tự bao giờ, từ bao nhiêu thời gian thưở trước. Nhưng cũng từ gốc thời gian ấy có lời trầm buồn của một bài thơ. Tiếng người thục nữ u

uẩn trong cung điện lầu son nhìn mây thênh thang đi về cuối chiều. Có vị vua thương nàng nhiều lắm, nhưng nàng chẳng hạnh phúc. Nàng đẹp như dáng thu. Bên đồi dâu nàng hong tơ dệt lụa. Hạnh phúc êm ả đi về trên lối cỏ may bốn mùa. Vị vua tiếc thương đời người thục nữ xinh mà chẳng có lầu son. Tiếc màu xanh thiên lý bên giàn gỗ mộc. Nhà vua bảo rằng hoa quý thì phải ở trong bình vàng cổ sứ cao sang. Vua đem người thục nữ về cung. Từ thưở đó có tiếng ru vào đời à ơi thương cho số phận: “Con chim quý thì phải ở lồng son!” Có lời thương đau trong hồn hiu quạnh của cánh chim nhớ rừng. Vỗ về của bàn tay con người là khóc than trong trái tim của cánh chim thở dài nhìn trời cao. Có bàn tay dịu dàng đưa âu yếm. Nhưng trên đôi cánh ấy trĩu nặng mùa thập tự gian nan. Con chim nhỏ nói với “người yêu” của nó: - Hãy mở của cho tôi bay cao. Tôi biết người âu yếm tôi. Nhưng tôi không cần được âu yếm, đó chỉ là âu yếm người cần. Tôi không là cánh chim nữa khi tôi không biết bay. Bởi đó, trong lồng son âu yếm người dành, không bao giờ có cánh chim thật, tôi chỉ là hình bóng mà thôi. Hạnh phúc của tôi ở cuối gió lưng đèo. Tôi chỉ cần gió và bầu trời. Hạnh phúc của loài chim là đôi cánh. Nếu người thương tôi thật tình, xin hãy nhìn hạnh phúc của tôi chứ đừng nhìn tôi mà hạnh phúc. Tiếng con chim nhỏ chỉ là lời kinh cầu thương khó. Bởi, làm sao định nghĩa được yêu thương? Trong tình yêu, nhiều khi, yêu thương của trái tim này là khổ tâm cho trái tim khác. Biết rằng hạnh phúc của cánh chim nhỏ là trời cao. Nhưng tung cánh bay là chia ly. Nhìn bóng bay xa về rừng vô tận là rưng rưng mất mát. Bởi đó, người ấp ủ cánh chim nhưng chỉ là thương mìn. Và từ đấy, yêu thương là gian nan cho người được yêu. Tôi ray rứt người tôi thương mến bằng tình thương tôi trao tặng. Quà tặng yêu thương trở thành dằn vặt. Nhưng tôi vẫn nói với đời rằng tôi rộng lượng bao dung. Tôi vẫn nói với mình rằng tôi bác ái thật thà. Khi tôi xây ngục thất cho tha nhân bằng hận thù thì tôi biết mình không có yêu thương. Nhưng khi lấy yêu thương xây ngục thất thì không biết mình đã mất thương yêu và tha nhân đang khổ đau. Tôi yêu cánh chim nên tôi không thể để mất. Tất cả là tình yêu. Tôi nhân danh tình yêu để giữ gìn. Trong tình yêu ấy, cánh chim chỉ biết nhìn khung trời tự do trong ý muốn khắc khoải. Thở dài. Tôi không muốn được yêu thương như thế. Đấy không phải là thương yêu mà chỉ là tiếng thở dài đìu hiu. Thôi, ta hãy mở cửa lồng cho cánh chim buông theo chiều gió. Nhìn cánh chim hạnh phúc đấy mới là yêu thương. Rung cảm thì dễ dàng, còn yêu thương là sáng suốt lựa chọn và dũng cảm đi theo chọn lựa sáng suốt đó. Điều ấy có dáng dấp của khổ đau. Muốn yêu thương thật là muốn cho người hạnh phúc. Mà để người hạnh phúc thì yêu thương của ta phải thanh luyện bằng đau khổ. Nhìn cánh chim bay về cuối trời. Nghĩ đến ngày mai trống trải thiếu một bóng hình. Đó là nỗi vắng rất âm u Cía nhạt nhoà ở cuối trời nó đi vào hồn ta. Cái trống trải vì thiếu một bóng hình nó nhắc ta nỗi cô đơn mà từ lâu ta cứ tránh né. Vì thế, thứ tình yêu mình-yêu-thương-mình nằm kín rất sâu dưới lòng sông tâm hồn. Thôi thúc thoả mãn nhu cầu mình-yêu-thương-mình có thể thành những con sâu độc trong màu áo vị tha. Người nông phu nuôi con công thật chu đáo, bởi ông thương bộ lông. Có người thiếu nữ chỉ mơ một mái gia đình nhỏ bé với hạnh phúc đơn sơ. Nhưng niềm kiêu hãnh của bà mẹ bị đánh thức. Bởi, muốn rực rỡ như loài công xoè cánh nên bà muốn con mình phải ở lầu son gác tía. Người con gái chỉ thương một loại bông đơn sơ vì nó thật thà. Nhưng người mẹ bào loài hồng nhung mới đáng quý. Cho con sự khôn ngoan là tặng phẩm. Nhưng người nào lấy đường hạnh phúc của mình vẽ lối cho kẻ khác phải theo thì không còn là cho nhau tặng phẩm khôn ngoan nữa mà chỉ là khôn ngoan chọn tặng phẩm cho riêng mình. Khi thành công của người con chỉ là thoả mãn niềm kiêu hãnh của người mẹ thì người mẹ hạnh phúc, nhưng chưa chắc đã là hạnh phúc của người con. Người khách qua đường khen màu sắc con công đẹp. Từ giá trị được xã hội đánh giá, ông nông phu muốn con công phải xoè màu. Như thế có gọi là tình yêu chăng? Đi tìm định nghĩa cho tình yêu, tình yêu bảo rằng tình yêu có một định nghĩa đơn sơ thôi: Khi áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc, đấy là tôi thương em. Tôi yêu hoa cúc, nên muốn em mặc áo lụa vàng, đấy là tôi thương tôi. Vì yêu màu hoa cúc mà tôi muốn em mặc áo lụa vàng thì em chẳng có tự do. Vì em

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 5

Page 6: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

không mặc áo lụa vàng làm tôi nhớ màu hoa cúc, thì qua em, tôi tìm một bóng hình nào đó mà thôi. Tôi không muốn yêu người như thế. Ngược lại, tôi cũng không muốn ai thương tôi như vậy. Nếu người không thể mở cửa lồng cho cánh chim bay đi là lòng người thiếu tự do. Thiếu tự do thì trong trung thành có mầm chống đối. Trong chung thuỷ đã chán chường. Trong gần gũi đã cách xa. Nếu tôi được thương bằng tình không có tự do như thế tôi chỉ là đồ chơi. Tôi không muốn cỗ quan tài buồn dù áo quan đó làm bằng thương mến. Chỉ là khổ đau cho kẻ bị yêu thương. Những cỗ áo quan dù gợi bao nhiêu nước mắt tiếc thương cũng chỉ là nước mắt rơi trên sự chết. Tôi không muốn tình yêu mang một chút gì tang chế. Tin Mừng Luca (Lc. 15:11-31) có kể chuyện một người cha giàu có lắm, có hai đứa con. Đứa con thứ bảo cha chia gia tài cho mình. Sau khi nó tiêu hết sản nghiệp của cha cho rồi, nó túng thiếu quá phải đi chăn heo mà chẳng đủ ăn. Nó tìm đường về làng cũ. Ngày nhìn con đi, bóng nó nhạt dần ở cuối trời, như cánh chim bay, ông thấy trống trải vì thiếu vắng một bóng hình. Ông cầu mong cánh chim ấy gặp đường hạnh phúc, cúi nhìn hồn mình mất mát. Rồi ngày kia, đứa con về trong thất bại tang tóc. Thua cuộc đời. Nó về, tức là làm dấy lên cho ông những lời bình phẩm của hàng xóm. Giả sử nó không về, câu chuyện có khi cũng lãng quên dần. Hôm nay trở về là nhắc nhở cho người chung quanh sự thất bại trong gia đình ông. Cái hình hài và quá khứ “không ra gì” của đứa con bỏ nhà đi, bây giờ, có khi trở thành đề tài đầu môi câu chuyện ở đầu làng cuối xóm. Ông không tìm màu sắc rực rỡ của loài công. Bê béo đã giết. Tiệc liên hoan tưng bừng. Khách đến hỏi con ông đâu. Người khách muốn hỏi xa xôi hơn rằng vì sao ông mở tiệc chúc mừng, đâu là sự nghiệp con ông mang về. Người khách muốn biết điều gì làm ông hãnh diện. Khách được mời chẳng ai hiểu vì sao ông lại mở tiệc ăn khao khi con ông trở về trắng tay. Đối với họ, không thể có chuyện đó. Bởi, họ muốn được chào kính bằng vinh quang của người khác. Những chuyện dân gian là thế, người ta dấu kín chuyện đời thất bại của người khác, người ta mắc cỡ, có phải vì thương xót chính người trong cuộc, hay rất nhiều khi chỉ vì họ lấy thành công của tha nhân mà nuôi dưỡng niềm hãnh diện của họ? Khách được mời ngỡ ngàng lắm khi ông chủ khoe rằng con ông nay trở về sau những ngày chăn heo. Họ không hiểu được. Nếu cuộc đời đứa con như thế tại sao lại mở tiệc. Đáng lẽ ông phải xấu hổ mà dấu kín chuyện con ông đi chứ. Họ không hiểu vì mỗi người định nghĩa tình yêu một ý khác nhau. Riêng ông cha già thì biết rõ việc mình làm. Ông hiểu tình yêu là gì vì ông không tìm định nghĩa cho tình yêu. Bởi, chính ông là tình yêu. Lạy Chúa , đấy là hình ảnh tình yêu của Chúa đối với con.

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 3: NHỮNG BƯỚC CHÂN

Nói đi vào hoặc đi ra là nói đến những bước chân. Nhưng khi vào đời, tôi không vào đời bằng chân vì tôi chỉ là hài nhi không biết đi. Ra khỏi cuộc đời, tôi cũng chẳng ra khỏi bằng chân vì tôi chết. Như thế, vào đời hay ra khỏi cuộc đời là những bước chân thiêng liêng. Đó là những bước chân liên quan đến hạnh phúc và ơn cứu độ.

Trong khoảng thời gian từ lúc tôi mới sinh ra, không biết đi, đến khi tôi không thể đi vì tôi chết, là một hành trình thật dài. Trong hành trình dằng dặc này của cuộc sống, tôi bước những bước chân. Tôi đi. Tôi đi rất nhiều. Vì tôi vào đời đón sự sống bằng bước chân thiêng liêng. Tôi từ giã cuộc đời, ra khỏi sự sống bằng vết chân thiêng liêng, nên những bước chân hàng ngày tôi đi trên mặt đất rất liên quan đến những ý nghĩa thiêng

liêng.

Hướng chân đi

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 6

Page 7: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đi, là đi đâu. Đi không định hướng sẽ là cuộc đi thiếu năng lực. Vì không có lí tưởng để tiến tới nên chân mỏi mệt lắm. Rồi, cuộc đời là cuộc đi buồn bã. Có bước chân ban sáng, có bước chân chiều tà. Bước đi trong đời, ai cũng mang một trong hai bước chân đó. Đức Kitô biết rõ những loại chân này, nên Ngài nói với các môn đệ: “Khi còn sáng ngày Ta phải làm việc của Cha Ta. Đến tối không ai còn làm việc nữa” (Yn. 9:4). Thời gian sẽ ngắn lại, bước chân ta chậm theo dòng đời. Bình minh gọi, kẻ không bước đi sẽ muộn phiền hối tiếc khi chiều buông xuống.

Có người đi ban đêm. Có kẻ đi ban ngày. Có người đi trên đường. Có kẻ đi dưới rãnh. Có nhiều thứ đi. Có nhiều thứ bước chân. Khi Đức Kitô bị bắt thì có những bước chân chạy trốn mà cũng có những bước chân đến gần. Khi Đức Kitô gọi, thì có những bước chân theo mà cũng có bước chân chối từ. Có bước chân đi phân vân và cũng có bước chân dứt khoát. Từ khởi điểm của vào đời và ra khỏi đời là trăm ngàn ngõ bước, lối đi, những bước chân khác nhau.

Điệu chân đi

Nói đến đi thì cũng  nói tới bước chân đi và lối ngõ để bước chân đi trên đó. Có những lối ngõ khác nhau và phải bước theo cách thế của mỗi lối đi. Không thể bước trên đường sỏi đá giống như bước trên đồi cỏ. Rồi ngay mỗi người cũng có nhiều đoạn đường khác nhau trong một lối đường. Bởi đó, người ta phải học cách bước của mỗi đoạn đường. Đoạn đường Maria đi thăm chị họ mình để báo tin vui là bước chân đon đả, không giống đoạn đường trốn sang Ai Cập. Cách Đức Kitô bước vào dinh tổng trấn Philatô chắc không giống cách Người bước vào nhà người thu thuế. Thích nghi với hoàn cảnh, văn hoá trong công cuộc rao giảng Tin Mừng chẳng những là sáng tạo mà còn là một định luật. Chọn cho mình một lối đúng mà không bước đúng cách cũng chưa là đi đúng.

Người ta nói: Bước vào yêu. Thì nghe cũng như đúng vậy thôi. Tình yêu ở đâu để mà bước vào? Tình yêu tự nó không là thửa đất, không là cánh đồng. Tình yêu không giống như một bản đồ vẽ sẵn. Rồi ai nấy chọn một ngã. Tình không chờ sẵn như căn nhà rồi ta vào ở. Đức Kitô không bước vào yêu mà Ngài là Tình Yêu vào thế gian (Yn. 3:16). Như thế, bước vào yêu theo nghĩa đẹp nhất là tình yêu đưa ta bước tới. Tình yêu nơi trái tim Đức Kitô đưa bước chân Ngài lên Núi Sọ. Ngài không lên Núi Sọ tìm tình yêu mà là tinhd yêu thúc đẩy Đức Kitô gặp thập giá, để thập giá có tình yêu.

Tình yêu và bước chân

Trong cuộc đời sẽ có hai bước chân của hai lối đi khác nhau về tình yêu. Một bước chân vào đời do tình yêu đưa lối. Và một bước chân tìm lối đi của tình yêu trong đời.

- Bước chân do tình yêu đưa lối thì có năng lực và không bao giờ bước sao. “Bỏ lại chín mươi chín con chiên đó mà đi tìm con chiên lạc” (Mt.18:12-13). Những bước chân này đi tới đâu là rộn rã yêu thương tới đó. “Vì Cha quá yêu thế gian nên đã sai Con Một vào thế gian” (Yn. 3:16). Không là chân đi tìm tình yêu mà là tình yêu đẩy chân đi tìm.

- Còn lối bước thứ hai là bước chân đi tìm tình yêu. Bước chân này rất dễ lầm đường lạc lối. Tình yêu không co sẵn khơi khơi. Bởi đó, làm sao tìm thấy tình yêu được. Họ không thấy tình yêu mà chỉ  thấy cái họ thích yêu.

Khi tôi gặp người tôi thương mến, điều ấy có nghĩa là tôi bắt gặp điều làm tôi yêu thích. Tôi phải để  tình yêu trong tôi lên tiếng thẩm định cho sự gặp gỡ này. Rạo rực của con tim khi gặp người tôi mến thương thúc đẩy tôi phải ôm giữ. Rồi, từ đó tôi ngỡ rằng đó là tình yêu và tôi đã gặp tình yêu.  Khi trong tim tôi không có tình yêu thì sự ôm giũ này trở thành cuồng phong, vì tôi lầm lẫn cho đó là tình yêu. Nếu trái tim tôi có tình yêu thì tình yêu sẽ lên tiếng thẩm định và câu trả lời có thể là không cho phép tôi bước tới. Nếu bước tới, bước chân đó sẽ sai vì không nghe tiếng tình yêu nói mà chỉ là tìm cái tôi thích yêu.

Nếu nói gặp người tôi thương mến là gặp tình yêu thì làm sao có trung thành trong hôn nhân luôn luôn gặp những người yêu mới.

Đức Kitô không bao giờ đi sai vì chân Ngài được tình yêu thúc đẩy. Trước giờ chết, trước kẻ có quyền kết tội, Ngài không chối từ, không trốn tránh vì Ngài có tình yêu làm sức mạnh. Trên đường đời có những quãng vắng khắc nghiệt vì sỏi đá. Tình yêu sẽ đẩy chân bước tới. Còn bước

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 7

Page 8: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

chân đi tìm tình yêu sẽ phân vân ngại ngùng tránh né. Bởi đó, trong hôn nhân, và người tu sĩ cũng thế, không có lạc lối trong tình yêu mà chỉ là không có tình yêu nên mới lạc lối.

Những bước chân riêng

Mỗi người có một lối nên không thể lấy bước chân kẻ khác làm bước chân của mình. Sự nghèo khó, lý tưởng, con cái, giáo dục, thân xác, hoàn cảnh của mỗi gia đình không giống nhau. Áng màu nào cũng đẹp nhưng nó phải phù hợp với ơn gọi của nó. Bước lẫn sang lối đi của người khác là lạc lối. VÌ lối đi của người khác đúng với họ mà thôi nên khi lấy cái đúng của họ làm của mình nó dễ trở thành cái sai. Khó mà nhận ra cái lạc lối của mình khi mình đi trong lối đi của kẻ khác, bởi vì cứ nghĩ rằng nó đúng với tha nhân thì cũng đúng với mình.

Những bước chân phải cùng nhau đi mà không đi cùng nhau là đi sai. Những bước chân phải đi đơn lẻ mà cứ quyến luyến nhau cũng là đi không đúng. Huyền nhiệm của những bước chân là thế.

Có những bước chân âm thầm. Có những bước chân trong chiều mưa. Là những bước chân riêng, nhưng bước chân nào thì cũng biết mỏi. Đường ở đâu hay ở đó, hôm nay hay ngày mai, ở đâu và thời gian nào thì đường cũng có thể làm chân ê ẩm, gây thương tích đau đớn. Đường đời dài lắm. Nhất là đường sám hối, đường muốn tập nhân đức. Bởi vậy, chân cần nghỉ ngơi, cần xoa dịu. Là những bước chân riêng, nhưng cùng một ơn cứu độ. Có phải vậy mà đường chiều thập giá là Simon vác thập tự cho Đức Kitô đỡ té ngã. Có phải thế mà hôn nhân cùng nhau đi.

 

Lạy Chúa, khi biết mình sắp xa các môn đệ, Chúa đã rửa chân cho họ. Nếu chỉ nhìn những bàn chân được rửa như một gương khiêm nhường Chúa đã làm thì con thấy chưa đủ. Bỏ trời cao xuống trần chưa đủ là khiêm nhường sao. Sinh ra trong nghèo khó đủ cho con thấy Chúa thế nào rồi. Thái độ rửa chân cho  chúng con là hình ảnh tuyệt vời ý nghĩ của những bước chân. Cần thiết lắm. Một ý nghĩ rất sâu của những bàn chân sẽ bước đi rất chơi vơi trong đời. Sắp chết là Chúa sắp bước những bước chân vô cùng mầu nhiệm. Ai có thể đi theo những bước chân gian nan khổ nạn ấy? Phải là những bàn chân được Chúa rửa thì mới có năng lực bước theo Chúa vào khổ nạn được. Rửa cho rơi đi những ươm hèn, gian dối, nhỏ nhen. Bàn chân con phải được rửa bằng tình yêu của Chúa để bàn chân ấy có tình yêu thì con mới có thể bước đi trong đời mà không bước sai.

Vì hệ trọng, nên khi bước, chân phải biết mình đang đi đâu và bước như thế nào.

Chúa bảo chúng con rửa chân cho nhau. Bởi, chân nào đi mà không mỏi. Đường đời dài thăm thẳm. Lối đi nào mà không nhiều lúc dẵm sang đời nhau. Chúng con cần nâng đỡ cho đôi chân nghĩ ngơi, cần được nhắc nhỡ cho đôi chân tỉnh thức, cần thông cảm cho đôi chân khỏi chán nãn.

 Lạy Chúa, con phải suy tư như thế nào về bước chân của mình và của người anh em?

Những người nghèo là người phải đi bộ. Và đi bộ thường phải đi bên lề đường. Nếu họ đi bên lề đường chỉ vì nghèo để tránh rộng lối cho con đi, và nếu chỉ vì nghèo mà bước chân bên lề đường ấy làm họ phải bước bên lề cuộc đời thì con nghĩ sao về bước chân của mình.

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 8

Page 9: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 4: GIÁO HỘI

Tôi lớn lên với đất quê ruộng vườn nên kỷ niệm tuổi thơ gắn liền với đồng lúa ngô khoai. Luỹ tre, bờ đậu là hình ảnh tôi dán trên những trang đầu của cuốn album cuộc đời. Bởi thế, nó chìm sâu.

Một khung trời xanh. Một dòng nước đục lặng lờ. Có gì đâu. Thế mà hơn mười năm đi xa, những hình ảnh ấy vẫn không quên. Rồi tôi nghĩ nếu có một ngày nào đó được nhìn lại bóng dừa xuôi lá. Hơn mười năm tây phương không ánh trăng đêm rằm, nghĩ đến trăng khuya mà nghe như truyện trong cổ tích vậy thôi. Tôi mong một ngày trở lại vùng nhiệt đới, nhìn lại cái nắng hanh, cái mưa rào.

Ước mơ cũng giống như làn sương mỏng. Nó mơ hồ lãng đãng đâu đó nhưng nó có thật. Từ những hạt sương mờ bụi rồi dần dần đọng lên thành những hạt sương sũng nước. Khi thời gian chín tới, những hạt sương sũng nước ấy trĩu nặng cho cọng lá thu trên cành rơi xuống. Đấy là lúc mơ ước thành sự thật.

Một ngày mùa hạ

Máy bay xuống phi trường HồngKông, nắng nhiệt đới chói chang. HồngKông về đêm chỗ nào cũng như trẩy hội hoa đăng. Không thành phố nào rực đèn màu như thế. Nơi đây tôi không bắt gặp bóng dừa êm ả, tiếng dế mèn rỉ rả trong mưa. HồngKông là một thành phố tây phương hơn cả tây phương rời HồngKông qua Macao. Tôi muốn sống lại dấu ấn lịch sử của các vị thừa sai đã một thời dừng chân nơi này như cứ điểm cho  công cuộc đem Tin Mừng vào đất nước Việt Nam. Tôi muốn hình dung lại một chút lịch sử, dù đã khuất bóng nhưng âm vọng vẫn bền bỉ như những hình ảnh mộc mạc của mảnh vườn cũ, quê xưa, cứ chìm chìm mà không mất dạng.

Tường thành cháy đổ của nhà thờ chính toà, nay cỏ và rêu đang im lặng rủ kín bờ đá. Lưa thưa vài ba khách du lịch, chắc cũng đang đi tìm dấu ấn lịch sử như tôi. Có thể họ là con cháu của các anh hùng tử đạo mà thánh tích đã một thời lưu trữ ở đây, nay tìm về nguồn cội của mình. Trời Macao bắt đầu có dáng ít ồn ào. Mênh mông. Tôi gần vùng đất của Phanxicô Xaviê gởi lại thân xác cho đất bụi lắm rồi.

Mơ ước mà mình cứ tiếp tục ước mơ, bền bỉ và kiên nhẫn thì hơi sương của mơ ước rũ nặng cho cánh lá thu phải rơi xuống thành trái. Một lần nữa, mơ ước một ngày nào được thăm viếng mộ của Xaviê nơi vùng đất cấm đã thành sự thật. Rời Macao, tôi vào Trung Quốc, hi vọng tìm đến nơi Phanxicô Xaviê đã chết.

Trời rất trong và rất xanh, rất cao và rất rộng.  Thinh lặng êm đềm làm cho không khí nên dịu và như có chất ngọt trong hơi thở. Đã hơn mười năm sống trong môi trường đường phố ngộp xe cộ, một sự ngột ngạt chật chội trong thiên nhiên làm tôi, hôm nay, như cánh chim đứng trước cửa lồng, nó không muốn bay vội, nó muốn rũ cánh cho rơi xuống những bụi bặm ngày xưa cũ trước đã. Nơi đây giống hệt như miền đất quê hương tôi. Cũng có cánh bướm và hàng đậu với dây mướp hoa vàng. Bụi mía và cánh chuồn chuồn. Mẹ quê phơi thóc bên sân nhà.

Có mái nhà công dáng chùa, đình làng và cổng vào làng nhưng không thấy tháp chuông. Cả miền đất rộng tôi đi qua mấy ngày nay rồi không thấy ngôi thánh đường nào. Nghe nói cách đây khá xa, ngày xưa có một làng Công Giáo, ở đó có nhà thờ, nhưng bây giờ không rõ nó còn dân chúng không.

Người bạn dẫn đường ngỏ ý dẫn tôi đi nếu tôi muốn tham quan. Chúng tôi xuôi miền trên chuyến xe đò của một đường quê mà lâu lắm mới gặp một chiếc chạy ngược chiều. Đồng lúa mênh mông. Thanh thản. Có thể cái không khí ấy vẫn nằm trong tim những người dân này kín đáo, tôi chỉ là khách lạ từ phương xa nên không mang u uẩn của hồn thiêng oan trái mà chưa hẳn là đã vắng bóng đi xa. Chỉ có màu xanh của ruộng vườn, màu vàng của cỏ rạ. Đối với viễn khách lạ như tôi, tôi thấy

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 9

Page 10: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

trời thật đẹp và tôi đang sống trên một quê hương thanh bình.

Người dẫn đường bắt đầu ngơ ngác tìm lại kí ức để chỉ cho tôi dấu tích của lịch sử. Trước mặt tôi là rừng tre, ông ta phân vân, không xác định lắm, chỉ cho tôi một chỗ, bảo rằng ngày xưa ở đây có tượng Đức Mẹ. Ông nhớ trước khi vào làng, có một tượng đài Đức Mẹ mà chính ông cũng không biết từ bao giờ. Đã lâu quá rồi bây giờ ông mời trở lại nơi này. Chúng tôi đã xuống xe đò từ lúc nãy. Để đến nhà thờ, chúng tôi phải theo đường quê mà đi. Từ nãy đến giờ, tôi không gặp ai trên đường. Con đường vẫn còn nhưng không ai săn sóc đã trở thành dấu mòn ít người qua lại. Không thấy nhà nhưng có người ở vì chung quanh chỗ tôi đi là những nương sắn cao xanh đến đầu người. A! kia rồi! có bóng thánh giá.

Gió lùa qua cửa sổ, giáo đường mát dịu từ bờ đá thở ra. Trong nhà thờ không còn dấu vết có người lui tới. Gian cung thánh hoang tàn. Trên nóc cao mấy con chim sẻ rỉa cánh kêu liếp nhiếp. Hoang vu nhưng an bình. Vắng lặng nhưng êm đềm. Chắc lâu lắm rồi không ai lai vãng tới đây ngoại trừ những người làm vườn vào nghỉ trong những trưa hè nóng. Rừng thưa và ngôi thánh đường cổ. Âm âm có lời thơ như man mác một chút nỗi niềm riêng, nhưng trong thinh lặng kỹ lưỡng thanh âm của hồn thơ rất cao siêu thanh thoát. Cái êm đềm ở đây là êm đềm thánh thiện trầm trầm lời kinh cầu của Hàn Mặc Tử: “Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu.” Kinh cầu là những bờ đá. Giáo đường không còn lầu chuông vọng về khi chiều xuống. Người xưa đã khuất bóng. Một thủa nơi rừng thưa này chắc đã vui lắm vào những mùa hoa tháng năm kính dâng Mẹ. Tôi đứng trong giáo đường nghe âm u vọng về từ quá khứ đã mờ mịt. Thời gian và biến đổi của dòng đời.

                

Nắng ban trưa rộn rã nhưng không gay gắt. Rừng xanh như tấm thảm thấm hút nắng mặt trời rồi lọc đi sức nóng nào vô lễ quá độ làm cho tháng hạ nên dịu. Tôi ra ngồi nghỉ bên bờ dậu nhìn ngôi giáo đường. Ngôi thánh đường thanh thản không phàn nàn, không thao thức về số phận mình. Hôm nay nhà Chúa không còn nến hương hoa, nhưng là chỗ nghỉ trưa cho những người lao động nghèo khổ. Chúa thành chỗ cho các em chăn trâu có thể vui đùa. Lúc nào và chỗ nào thì Tin Mừng cũng có đất sống. Ở những nghịch cảnh khó khăn, người ta tưởng phải bứng rễ để bảo vệ Tin Mừng. Nhưng thật ra, Tin Mừng đã cho họ năng lực sống để khỏi bị bứng rễ. Tin Mừng như sợi dây leo, đứt từng khúc, thì từng khúc ấy nẩy mầm. Tôi không thấy tâm trạng chua xót cho ngôi thánh đường một thời cang bóng mà nay chìm im. Mỗi nét có vẻ đẹp riêng. Vang cung đàn thì vẻ đẹp thành quí phái sủng mộ. Hoang vu thì nét đẹp trở nên linh thiêng kín đáo.

Đáng nhẽ tôi phải tiếc lắm cho cái thời nguy nga tráng lệ của nền nhà thờ bóng loáng chứ. Không hiểu sao tâm tư tôi phẳng lặng và nghe như câu kinh vẫn còn âm. Ngôi thánh đường tự nó như đang đối thoại với vũ trụ nhân sinh. Không chết. Không hoang vu lạnh lẽo. Cứ nhìn thật kĩ, ngôi giáo đường bình an như một câu văn đẹp đang chờ người biết chữ.

Tôi biết ở đây  sẽ có hoang vu. Trước khi đi, tôi sắp sẵn cho mình một tâm hồn mang màu tím. Tôi muốn đứng bên tường vôi đổ nát để âm vọng về những ngày loạn lạc điêu linh. Tôi muốn đi tìm di tích lịch sử để đem hồn mình vào một quá khứ u uẩn. Tôi như cần những dấu ấn đó cho khơi lửa tin mến trong hồn mình. Bây giờ, trước mặt tôi là dấu ấn lịch sử đó. Hoang tàn điêu linh còn lại. Im và vắng. Đáng lí sự đổ nát ấy phải chùng tim tôi cho nhớ tiếc một thủa vàng son của Giáo Hội. Nhưng không! Tôi không buồn, mà như có một cảm nghiệm thanh bình đang ở một độ rung rất lạ. Tôi yêu cái hoang vu nơi này. Tôi quý mến vẻ đẹp quanh năm chỉ có mưa nắng thiên nhiên rơi trên bờ đá còn lại của ngôi thánh đường.

Có phải cái nuối tiếc trong tôi khi xưa là nuối tiếc của những nghi lễ hoa đèn chứ chưa chắc là nuối tiếc niềm tin?

Tôi vẫn nhìn về giáo hội với cấu trúc của nó, bóng, đen sậm màu gỗ lim. Chúa ơi! Cụ vẫn đến đây để lau những chân cột này sao?

Lạy Chúa, cụ có mơ một ngày nào đó có người linh mục trẻ về đây dựng lại giáo đường? Cụ đã lặng lẽ lau những chân cột này từ bao năm? Niềm tin của cụ có thưa dần như những cánh hoa

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 10

Page 11: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

tháng Năm dâng Mẹ ngày xưa mà nay không còn, hay lời kinh vẫn nở, cứ là đoá hoa lòng? Không có Mình Thánh Chúa, chẳng còn ai đến thưa kinh thì cụ lau những chân cột kia làm gì? Thánh đường thành hoang vu rồi mà. Âm thầm như thể đã bao mùa mưa nắng rồi hả Chúa? Ôi! lửa mến. Ôi! niềm tin.

Năm đó, hè 1989, tôi chuẩn bị lãnh chức Phó Tế. Chỉ một năm sau nữa tôi sẽ là linh mục. Tôi nhớ ngày ấy tôi rưng lệ nhìn cụ già còng lưng lặng lẽ lau từng chân cột nhà thờ. Ở một nơi quá xa xôi, không ai biết tới, có một ngôi thánh đường hoang vu, một niềm tin thiết tha. Tôi biết trong đời mình dù có dâng lễ sốt sắng đến đâu cũng chẳng thế nào đẹp như thánh lễ hàng ngày của cụ. Thánh lễ không bánh và rượu. Thánh lễ bằng một đời quá đỗi yêu mến.

Tôi xa dần khu rừng.

Bầu trời ở đó như lời kinh đang dâng lên cao. Một buổi chiều làm tôi muốn suy nghĩ về thành tố làm nên Giáo Hội và đâu là vẻ đẹp của Giáo Hội. Nhà thờ thì cần thiết nhưng vẻ đẹp của Giáo Hội trong ý nghĩa ơn cứu độ lại không ở những nghi lễ đầy màu sắc, hay đền thờ to lớn. Vẻ đẹp của Giáo Hội quá sâu, nó thầm lặng trong tâm hồn. Thầm lặng đã là khó thấy rồi, lại còn thầm lặng trong tâm hồn nên nó quá sâu cho những dòng chữ có thể viết ra.

Từ trên cao nhìn xuống, Chúa có băn khoăn vì biết bao tâm hồn đang lo âu chỉ vì đền thờ, hay Chúa vì vẫn thấy lấp lánh những vì sao trên những ngôi thánh đường đổ vỡ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 5: THÀNH CÔNG

Trong cả bốn Phúc Âm không thấy có danh từ thành công, dù là chỉ một lần nhắc đến. Giữa lúc con người băn khoăn về thành công thì Phúc Âm lại không nhắc tới thành công. Phúc Âm chỉ nói tới những danh từ tương tự giống như thành công. Chẳng hạn bảo chúng con phải ra đi và

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 11

Page 12: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

sinh nhiều hoa trái (Yn. 15:16). Bao nhiêu là nhiều? Mà nhiều thì có nghĩa là thành công không?

Thành công trong đời sống xã hội.

Xây được một căn nhà, người ta bảo đó là thành công. Làm ăn phát đạt giàu có, người ta gọi là thành công. Học hành thành tài, đó là thành công. Một người hoàn thành một công việc nào đó thì người ta bảo là thành công.

Nhìn vào thành công, ta thấy một trong những đặc tính của thành công là sự lo âu. Trước khi thành công, người ta lo âu về không thành công. Khi thành công, người ta lo âu giữ để không mất thành công đang có. Khi mất thành công, người ta lo âu để lấy lại thành công đã mất, rồi buồn khổ và nuối tiếc. Thành công và lo âu dường như luôn luôn đi với nhau.

Mục đích của thành công là gì? Trong đời sống, tôi đi tìm thành công vì tôi muốn hạnh phúc. Hạnh phúc là đích điểm. Như thế, mục đích chính xác của thành công có phải là hạnh phúc tôi nhằm tới? Tôi muốn có cơ nghiệp vì cơ nghiệp đó cho tôi cuộc sống thoải mái. Tôi nỗ lực học hành thành đạt vì tôi tin rằng sự học đó cho tôi tương lai tốt đẹp. Tôi đầu tư nhà cửa, đất đai vì tôi sẽ tìm hạnh phúc trong hoa lợi ấy. Vậy, có phải qua thành công, tôi bắt gặp hạnh phúc?

Như vậy, một người giàu có, được ca tụng bởi những kết quả thành đạt trong cuộc đời, nhưng để đạt được thành công mà người đó luôn sống trong khổ sở dằn vặt thì có gọi là người đó thành công không? Nếu chỉ vì băn khoăn đến thành công mà cuộc sống luôn luôn âu lo thì còn đâu là hạnh phúc nữa? Có phải, qua thành công tôi tìm hạnh phúc, nhưng tôi lại sẵn sàng đánh mất hạnh phúc để được thành công?

Có thể gọi một người nghèo, không địa vị quan trọng trong xã hội, nhưng hạnh phúc, bình an trong tâm hồn, là một người thất bại?

Thành công là lời cầu chúc cho nhau. Ai ai cũng nói đến thành công. Nhưng thành công là gì? Câu trả lời không rõ và ngay khi con người đi tìm thành công, dường như họ cũng không biết chắc họ tìm gì.

Thành công và đời sống thiêng liêng.

Vì xã hội đề cao, tìm cách chiếm đoạt thành công nên thành công đã trở thành bóng ma đóng dấu trên khắp lối đi và hương khói thành công bay vào nhà Chúa, trong cả lối đi của đời sống thiêng liêng nữa.

Có thành công trong đời sống tu đức không? Nếu hiểu thành công là leo lên được một bậc thềm nhân đức thì có thành công. Nhưng nếu thành công là đạt trọn vẹn, hay thoả mãn với nhân đức mình có thì không thể có thứ thành công này. Hành trình tới Chúa là một hành trình dài. Vì dài nên không thể có thành công nếu hiểu là ai đã đi cạn tới cùng của lòng mến trọn lành.Thành công chỉ là những bậc thềm nho nhỏ tôi đi từng ngày. Tôi biết mình cần đi mãi thì tôi không kết án tôi sao không đạt được trọn hoàn hảo, và tôi không vội vã khắt khe bắt mình phải “thành công”. Thành công là lối đi chầm chậm với từng chiều cố gắng sẽ không làm tôi lo âu. Tôi kiên nhẫn đi. Chúa kiên nhẫn chờ.

Chúa không nói tới thành công, nhưng hôm nay các môn đệ Chúa lại luôn luôn thao thức về thành công. Danh từ này im bóng trong Phúc Âm nhưng lại ồn ào trong lời giảng và ám ảnh tâm hồn người rao giảng. Nếu xét thành công trong quan niệm xã hội hôm nay thì Chúa là người thất bại nhất trong các lãnh tụ thế giới. Chẳng có lãnh tụ nào nghèo như thế. Chẳng có thành công nào mà bị đóng đinh trên thập tự. Chẳng có thành công nào mà chỉ có 12 người theo, một người lại phản bội. Người tông đồ hôm nay bị ám ảnh phải thành công trong cuộc đời, rồi phải thành công trong khía cạnh thiêng liêng, rồi từ ám ảnh đó dẫn tới khía cạnh phải thành công trong việc tông đồ.

Thành công và việc tông đồ.

Đức Kitô nói thà chột mắt, cụt chân mà vào Nước Trời còn hơn là lành lặn mà bị loại ra ngoài (Mt 5:29-39). Như vậy, có nghĩa thà mất “thành công” mà được hạnh phúc thì vẫn hơn. “Được cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì” (Mt 16:26). Đức Kitô từ chối tất cả vinh quang trần thế khi Satan cám dỗ Ngài chọn lựa (Mt 4:1-10). Đức Kitô không nói đến thành công, nhưng đời của Ngài là

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 12

Page 13: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

tấm gương soi cho các môn đệ hiểu thành công là gì.

Nếu chấp nhận thà cụt một chân mà được vào Nước Trời vẫn hơn thì các tông đồ Chúa hôm nay phải đặt lại nhiều vấn đề. Người tông đồ dường như đang đánh giá sự thành công của việc tông đồ qua những thành đạt hữu hình hơn là siêu nhiên. Một xứ đạo xây xong một nhà thờ nguy nga. Lập tức xứ đạo đó hãnh diện và thành công. Cha xứ và ban hành giáo được ca tụng là thành công. Điều đó xét về phương diện sản xuất là thành công. Nhưng ngay bên cạnh là một giáo xứ khác nghèo rách thiếu thốn. Trong một địa phận mà có giáo xứ cờ xí tưng bừng đến dư thừa, và những giáo xứ hẻo lánh thì thiếu thốn đến cơ bần. Như vậy, có là thành công trong việc tông đồ? Chúa ở nhà thờ bên cạnh rách rưới là thất bại thì Chúa trong ngôi nhà thờ sang trọng kia có là thành công?

Quá đặt vấn đề thành công qua phương diện hữu hình có thể đánh mất ưu tư về khía cạnh siêu nhiên. Nguy hiểm là thành công này sẽ che mờ tất cả thao thức cho công cuộc rao giảng Tin Mừng. Nhiều khi vì nghèo về đời sống siêu nhiên nên cành cân fnhững hình thức bên ngoài để tạo một dáng vẻ thành công. Vì muốn thành, nên ngay cả các đoàn thể tông đồ cũng cạnh tranh nhau để phong trào mình thành công hơn phong trào khác. Thiên Chúa bị biến thành những sản phẩm kinh tế thị trường. Một sự cạnh tranh Thiên Chúa của địa phận mình, của xứ đạo mình, của nhóm mình phải huy hoàng hơn Thiên Chúa của xứ đạo kia, địa phận khác. Nếu muốn công việc tông đồ của mình, của đoàn thể mình thành công hơn người khác thì định luật dễ bị cám dỗ là cần việc tông đồ của người khác kém thành công hơn mình. Mong việc tông đồ của kẻ khác kém hơn mình có thể xảy ra dưới ba hình thức:

- Một là ao ước họ đừng thành công như mình.

- Hai là không giúp để họ ngang bằng mình.

- Và xấu xa nhất là phá hoại  công việc của họ cho họ thua kém mình.

 

Lạy Chúa, trên quê hương, chúng con đã kéo đường dây điện Bắc Nam, thắp sáng đèn đường. Chúng con có thể xây đường cao tốc mênh mông. Nhưng xây một xa lộ lương tâm không phải một sáng là xong như đổ xi măng làm đường. Ngăn sông nước lũ của những quan niệm sống vô luân, kéo đường dây thắp sáng lương tâm không phải là công việc một chiều là hoàn tất. Chúa đặt con vào dân tộc con để từ dân tộc ấy con rao giảng Tin Mừng. Con phải yêu mến dân tộc con và lấy Tin Mừng làm tiêu chuẩn cho một sự xây dựng nghiêm túc.

Vì sống trong xã hội nên con ảnh hưởng tất cả những gì  xã hội này sống. Chúa bảo con sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian (Yn. 15:19). Điều đó có ý nghĩa là những quan niệm thành công trong thế gian chưa chắc là thành công mà Chúa muốn con áp dụng cho Nước Trời. Con phải tinh tế lắng nghe để biết đâu là thành công của Tin Mừng.

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj

Viết trong tâm hồn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 13

Page 14: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

ĐOẢN KHÚC 6 : HOA NGHĨA TRANG

Nghĩa trang có nhiều loại hoa. Chúng khác nhau ở tên gọi mà giống nhau ở một sự kiện: Hoa nghĩa trang là hoa ở lại với người sống chứ làm sao theo người chết ra đi được. Trong không gian lạnh, trong vùng tối

không còn bầu trời của huyệt mộ làm sao người chết biết đến màu sắc của hoa? Vì thế, hoa ân tình hay hoa xã giap thì cũng chỉ người sống nhìn thấy hoa thôi.

Bi thương của con người trong kiếp sống nhân sinh là kẻ sống có thể lấy hoa thật tiễn đưa người chết bằng những tâm tình giả. Bi thương của người chết là có những tâm tình thật, nhưng kẻ đã miền miệt ra đi rồi thì chẳng bao giờ nhìn thấy hoa.

Hoa nghĩa trang vẫn là hoa chỉ kẻ sống nhìn thấy thôi. Chết là đi vào thế giới khác rồi. Hoa hãy ở lại, giã từ hoa.

Lời của một đoá hoa.

Tôi là đoá hoa hồng. Tôi ra đời trong một thửa đất miền quê. Chúng tôi vui với gió và nắng. Bình minh lên, chúng tôi thức dậy chào một ngày mới. Nắng trang điểm cho chúng tôi rực lên sắc đỏ, mướt lên màu xanh. Chiều về chúng tôi chờ sương đêm. Những giọt sương trong và mát như suối tiên xoa trên da chúng tôi nước tinh khiết của trời. Rồi ngày mai nắng lại làm những cánh hoa chúng tôi óng ả. Chúng tôi sống êm dịu với sương đêm và nắng ngày. Thế rồi, bỗng đến một bình minh khắc nghiệt.

Tôi đang sống tuổi thần tiên nhất trong đời thì có người đến bứng khỏi thửa vườn rất thân mến dấu yêu. Tôi không biết bị đem đi những đâu, bị đưa qua những chốn nào. Một sáng nọ, khi tôi thấy ánh mặt trời thì chung quanh tôi hoàn toàn khác lạ. Nơi tôi ở không phải là khu vườn miền quê nữa. Tôi không còn thở hơi của đất, hương đồng của cỏ. Các loại hoa chung quanh tôi cũng bàng hoàng như thế. Tôi đang được bày bán ở một chợ hoa. Và từ đó, định mệnh của chúng tôi bắt đầu.

Chỗ nào con người muốn sang trọng huy hoàng, họ đem chúng tôi đến. Chúng tôi trở nên nhan sắc cho con người. Ai trong chúng tôi cũng băn khoăn về duyên số của mình. Riêng tôi, tôi không biết mình sẽ lại trôi dạt một chuyến đò nữa đi đâu. Nghe chuyện con người nói với nhau khi họ đến chợ hoa, chúng tôi mới biết thế giới của con người rất phức tạp chứ không như khu vườn của tôi ngày xưa. Và, họ đang có một định mệnh cho tôi.

Có những cành hoa sẽ theo cô dâu về nhà chồng. Trên tay người thiếu nữ xinh xắn nào đó, chúng sẽ làm cho người con gái ấy mơ màng duyên dáng. Có những đoá hoa còn trang trọng hơn nữa, chúng sẽ ở trên bàn thờ, gần chỗ của Thượng Đế. Có bông hoa thì hạnh phúc vì tình yêu ban đầu tặng nhau. Chúng được đưa lên môi nồng nàn. Chúng cũng ban hương cho những nụ hôn của các đôi tình nhân thêm mộng mị. Chung quanh chúng tôi là thế giới bí mật của loài người. Chúng tôi tự hỏi mình, rồi hỏi lẫn nhau:

- Nơi nào hạnh phúc nhất?

Tôi chưa bao giờ có kinh nghiệm về định mệnh này. Chẳng thấy đoá hoa nào đã ra đi rồi trở lại kể cho chúng tôi hay. Tôi biết có những đoá hoa được tặng cho các danh nhân lỗi lạc. Ước mơ một đời làm hoa như tôi là một ngày nào đó, sau khi người nghệ sĩ trình tấu một tình ca tuyệt vời, tôi được trao tặng và người nghệ sĩ giơ tôi lên cao trước hàng ngàn bàn tay ngưỡng mộ. Ôi! hạnh phúc biết mấy!

Tôi cũng nghĩ, biết đâu tôi đwocj cắm trong bình ngọc quý, êm ả ru đời trong phòng một cô thiếu nữ mới lớn. Tôi sẽ rình mò lén nghe cô nhỏ viết nhật kí. Bao nhiêu tưởng tượng thần thoại đi về trong giấc ngủ của tôi.

Tôi là loài hoa cũng lãng mạn, đôi khi tôi thích những chân trời màu tím, và có nước mắt. Nhất là nước mắt của tình yêu, nó dịu dàng làm sao! Một ngày nọ, tôi bồi hồi quá đỗi khi biết mình

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 14

Page 15: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

sắp về vùng trời có nước mắt và màu tím. Màu tím hôm nay là tím ở trong lòng. Màu tím của một nghĩa trang. Tôi chưa bao giờ biết nghĩa trang. Tôi chỉ bâng khuâng hiểu rằng nơi đó có biệt li và sầu nhớ.

Tôi yêu những khung trời có nỗi đau ngọt ngào, vì tôi nghĩ rằng trong nước mắt sẽ có nhớ, có thương. Tôi hân hoan giã từ bè bạn đi theo định mệnh của tôi ra nghĩa trang.

Tôi được trân trọng đưa vào khung trời cô đơn này. Bây giờ tôi hiểu cô đơn cũng có nhiều thứ. Có cô đơn của một cánh lá chiều hoang. Nó biệt li thầm lặng, lững thững một mình tìm nỗi sầu. Có cô đơn của một cánh chim lẻ bạn. Nó man mác trong hồn niềm thương. Có cô đơn của thập giá. Nó linh thiêng dũng cảm. Trong nghĩa trang, tôi hiểu thêm những cô đơn khác, và nhất là nỗi cô đơn trong tôi.

Khi cành hoa đứng một mình trong vườn hoa, cô đơn của nó là cô đơn chờ mong, đẹp như cô đơn của người thiếu nữ. Cô đơn của người thiếu nữ mới lớn là cô đơn làm cho kẻ khác cô đơn. Khi những cô đơn ấy tìm nhau thì cô đơn âm lên những giai điệu ngọt ngào thích thú. Nhưng cô đơn của tôi trong nghĩa trang này là cô đơn của một bông hoa thật đã thành đoá hoa giả.

Tôi yêu màu tím của biệt li, nhưng tôi không gặp màu tím thương nhớ ở đây. Tôi muốn là bông hoa nối dài thương nhớ của người ra đi và kẻ ở lại. Tôi muốn là bông hoa ân tình làm vòng khăn tang cho thương tiếc. Tôi yêu những dòng nước mắt có nhớ, có đau, nhưng tôi chỉ gặp thờ ơ. Tôi muốn là bông hoa cho người ra đi. Tôi muốn theo người đã vĩnh biệt để vào thế giới vĩnh hằng bên kia. Nhưng tôi chỉ được đem tới đây để làm vui người sống.  Thế giới của con người kì lạ quá. Trong nghĩa trang này tôi đã thấy: Có những người con khi mẹ còn sống thì quên lãng thờ ơ. Rồi ngày mẹ chết, cũng ôm một đoá hoa cho nhân thế khen mình hiếu trung. Có những vợ chồng lúc còn sống, thầm ao ước được một bông hoa, mà sao hiếm hoi quá. Khi chết rồi họ đem ra nghĩa trang những vòng cườm lặng lẽ.

Những đoá hoa đem ra mộ huyệt mà chỉ là của người sống làm vui lòng người sống với mục đích tư lợi cho mình thì đấy là những đoá hoa giả hình. Khi tôi phải làm cánh hoa như thế thì nỗi cô đơn trong tôi sầu buồn chất ngất.

 

 

Hỡi bạn ơi, để tìm vẻ đẹp của loài hoa chúng tôi, không phải là chưng hoa, tặng hoa mà là nhìn thấy tiếng nói của Thượng Đế trong hồn hoa. Loài hoa chúng tôi không chối từ người gian dối hay người thành thật. Hoa không chọn lựa là hoa cưới hay hoa nghĩa trang. Hoa chấp nhận ở trên bàn thờ cũng như trong phòng trà. Chúng tôi yêu đời sống bằng trái tim của Thượng Đế. Vẻ đẹp của hoa là làm đẹp bất cứ nơi nào mình tới, bất cứ thửa vườn nào mà mình được ươm trồng. Con người thích hoa mà sao chẳng thấy vẻ đẹp sâu thẳm trong màu sắc của chúng tôi. Thượng Đế dựng nên chúng tôi để nói về lòng thật thà, bao dung. Sự thật thà là vẻ đẹp Thượng Đế yêu quý.

 

Tôi không phải là hoa giả. Tôi là đoá hồng với tất cả sự sống Thượng Đế đã ban tặng. Tôi bị gọi là giả, bởi, tôi rơi trong tay người giả dối, họ đem tôi ra đây với những ý nghĩ giả dối mà thôi. Tôi đang ở trong nghĩa trang. Tôi đã nghe nhiều bài điếu văn tiễn người chết. Nhưng chết rồi làm sao nghe? Rất nhiều khi chỉ là lời của kẻ sống mượn người chết mà tìm vinh quang cho nhau. Tại sao nhân phận tôi lại là đoá hoa của người sống muốn làm vui lòng người sống? Tôi thấy những bài điếu văn tiễn người chết nhưng lại cố ý là để lấy lòng người sống vô duyên thế nào thì thân phận làm hoa nghĩa trang của tôi cũng vô duyên như thế. Có những chuyện đời chỉ vì nghi lễ tiễn đưa người chết không làm cho người sống được tiếng khen mà tâm tình gia tộc bị đổ vỡ. Có người đến nghĩa trang vì xã giao, vì lí do chính trị, vì chuyện làm ăn. Ôi! ở ngoài nghĩa trang này có nhiều ý nghĩ và tâm tình

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 15

Page 16: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

khác nhau lắm.

Tôi đang cô đơn vì tôi chỉ là cành hồng của người sống mượn người chết mà lợi dụng nhau. Nỗi cô đơn ấy xót xa, vì linh hồn người chết rất tủi, không muốn nhìn tôi, họ không nhận tôi vì tôi không thuộc về họ. Còn người sống sẽ bỏ tôi ngoài nghĩa trang rồi ra về, họ quên tôi.

Chết mà không được nhớ là chết lần thứ hai, thì sống mà không được nhớ là chết hai lần trong một lúc. Vì thế tôi đang sống, nhưng trong tôi là hai nỗi chết.

 

Chúa đàn điểm trái đất bằng vẻ đẹp của hoa. Chung quanh con có biết bao nhiêu hoa. Hoa mọc ngoài đường. Hoa mọc ngoài đồng. Hoa trên bàn thờ. Hoa bên hàng rào. Chúng là ngôn sứ của Chúa để nói với con bằng ngôn ngữ thật nên thơ. Nếu con biết đứng nhòn cành thiên lí trong một chiều êm ả, con sẽ nghe được sự đơn sơ cần thiết trong cuộc sống. Nhìn đoá hoa sen trong ao, con sẽ thấy sự thanh tao cần thiết trong cõi đời. Hương bưởi thoang thoảng bên ngõ nhà ai một tối trời nào đó, sẽ đưa con về ý nghĩ trong đêm đen vẫn có vẻ diễm kiều của đêm đen. Trong những hoàn cảnh khó khăn vẫn có vẻ đẹp của cuộc sống.

Hoa không chọn nơi nào đẹp mới tới, mà bất cứ nơi nào tới hoa sẽ làm đẹp nơi đó. Hoa thành thật. Hoa bao dung. Ngôn ngữ loài hoa nghĩa trang thật xót xa. Con muốn cầu xin cho con nhìn hoa mà biết ý nghĩa sống trên đời.

Hãy cho nhau một cánh hoa lúc còn sống, đợi khi chết thì cả rừng hoa đem ra nghĩa trang cũng chẳng ý nghĩa gì.

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 7: ĐIỆU NHẢY CỦA NGƯỜI MÙ

Đặc tính của tuổi thơ là hay nhẩy. Chúng vừa đi vừa nhẩy. Tuổi thơ lúc nào cũng có thể tung tăng vì tuổi thơ vui. Hồn tuổi thơ nhẹ. Lòng tuổi thơ dễ bay. Giã từ tuổi thơ cũng là giã từ những ngày hay chạy nhẩy. Làm người lớn là bước vào thế giới nặng nhiều ưu tư. Càng nặng ưu tư

càng không thể nhẩy. Điệu nhẩy của người lớn thật là khó. Thế nhưng, điệu nhẩy khó nhất phải là điệu nhẩy của người mù. Vì mù làm sao mà nhìn thấy mà nhẩy?

Người mù bên vệ đường nghe tiếng người ta nói: Đức Kitô gọi anh kìa. Anh liền nhẩy chồm lên mà đến với Ngài (Mc. 10:46-52). Nhẩy diễn tả hành động dứt khoát. Nhẩy về phía trước là bỏ lại phía sau. Càng nhẹ nhẩy càng cao. Nhưng điệu nhẩy của người mù còn đòi nhiều hơn thê nữa. Nhẩy trong mù loà là một thánh đố can trường.

Mù mà nhẩy thì nguy hiểm. Chung quanh đầy bóng tối. Không nhìn thấy hướng mà cứ nhẩy nên điệu nhẩy của người mù là nhẩy bằng linh hồn. Lắng nghe tiếng của con tim. Ngọn đèn hải đăng trong linh hồn phải sáng lắm cho niềm tin xác quyết mới dám nhẩy. Đi tìm hướng nhẩy không phải

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 16

Page 17: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

bằng hình ảnh bên ngoài mà là nội tâm. Không nhìn thấy bằng con mắt, nhưng trọn vẹn bằng linh hồn, anh ta đã nhẩy chồm về phía Đức Kitô.

Chưa nghe tiếng Chúa, mới chỉ nghe những người chung quanh báo tin: “Ngài gọi anh kìa,” thế mà người mù nhẩy chồm dậy. Anh ta không sợ nguy hiểm với đôi mắt mù. Anh ta quên mình trong cú nhẩy. Hướng về tiếng gọi mà chồm tới. Nhẩy chồm tới Chúa là lao về một niềm tin rất xác định. Nhẩy là phản ứng không muốn chậm trễ thêm. Nhảy là chờ đợi từ lâu và không đợi chờ thêm được nữa. Có đắn đo, phân vân, sẽ không có nhẩy chồm tới. Cú nhẩy của người mù bao hàm một ao ước tha thiết và xác tín.

 

 

Lạy Chúa, soi mình trong điệu nhẩy của người mù, con thấy lửa trong hồn con chỉ là âm ỉ. Có bóng dáng Chúa nhưng không mãnh liệt thiết tha. Vì thế, con chưa có cảm nghiệm về cái nhẩy thật vui mừng. Nhìn người mà chồm tới trong cú nhẩy đức tin, con có thể dùng hình ảnh ấy để soi mình trong những cú nhẩy vội vã, hối hả trong cuộc đời.

Cản ngăn của điệu nhẩy

Có nhiều thứ chồm tới để bắt nắm điều mình mong ước trong đời sống. Có nhiều tiếng gọi. Phêrô đang đánh cá, chợt nghe Yoan nói: “Kìa, Thầy đấy.” Ông vội và nhẩy xuống biển mà đến với Ngài (Yn. 21:7). Con trẻ trong lòng Elizabeth liền nhẩy mừng khi thoạt nghe tiếng Mẹ Maria chào (Lc 1:44). Đấy là những cú nhẩy đón chào ơn thánh. Đàn heo bị quỷ nhập cũng nhẩy, nhưng nhẩy xuống biển mà chết (Mc 5:12-13). Mỗi tiếng gọi và cú nhẩy đều có giá trị riêng.

Nhẩy là hăm hở về phía trước mà bỏ phía sau. Không thể để chân bước tới mà lại cứ nhìn khúc đường vừa bỏ. Càng hân hoan về trước mặt, càng chóng tới đích. Bỏ lại những quen thuộc không phải là dễ. Muốn nhẩy, người nhập cuộc phải phân tích xem có những đà cản nào chắn lối. Khó để nhẩy chồm lên có thể hệ tại hai nguyên nhân:

- Một là không đủ hăm hở ở tương lai.

- Hai là nặng lưu luyến ở hiện tại và quá khứ.

Lưu luyến của phí sau cũng có hai khía cạnh. Một là mình tiếc nhớ. Hai là có khi lòng mình không muốn gắn bó, nhưng nó cứ bám vào mình.

Muốn bỏ linh hồn cũ đó, mà sao cứ phân vân tiếc nhớ. Qúa khứ đã thân quen, từ đó, nó cho con người cảm giác an toàn, dù là một thứ an toàn cũ kĩ, rồi nó gợi ra những bấp bênh ẩn kín ở tương lai để đe dọa. Khi quá khứ là lười biếng, nó níu kéo người ta bằng vũng lầy êm ái làm ta nuối tiếc. Khi quá khứ là lỗi lầm, nó tạo ra hình ảnh mất hy vọng làm ta sợ hãi. Những loại quá khứ này có thể nổi lên bám vào bước chân muốn quay đi của con người.

 

Lạy Chúa, con cần bỏ lại quá khứ để đi tới. Chính Phêrô mà còn có lúc phân vân: “Chúng tôi đã bỏ mọi  sự mà theo Thầy, thì phần chúng tôi sẽ ra sao?” (Mt. 19:27). Chú cũng đã vừa khuyên bảo vừa nghiêm trị: “Kẻ vừa tra tay cầm cầy vừa ngó lui sau là người bất kham đối với nước Thiên Chúa” (Lc. 9:62). Trong những tâm hồn muốn chạy về phía trước, cũng đã có níu kéo rất cụ thể: “Thưa Thầy, xin cho tôi lui về để chôn cất cha tôi đã” (Mt. 8:21-22).

Đam mê là rừng, là đất già giữ chặt ý nghĩ muốn đi tới của loài cây nhỏ. Cám dỗ là miền đất lún êm ái làm vất vả dấu chân thiêng liêng. Ngay cả mặc cảm tội lỗi, những tội lỗi mà Chúa không muốn nhớ cũng có sức mạnh giữ con, không cho đi tới với Chúa. Nó vang lên âm thanh bảo con rằng con không còn giá trị, con không thể nào đi tới. Những ao ước chỉ thà làm

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 17

Page 18: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

thân cỏ cây chứ không dám làm người vì dợ phạm tội mất tình Chúa là lời khiêm nhường hay băn khoăn ám ảnh của tội lỗi? Con cần dứt khoát với quá khứ.

Vất chiếc áo đi

Trong điệu nhẩy của người mù, nghệ thuật nhẩy của anh là: “vất chiếc áo khoát đi mà chồm  dậy”. Anh ta không nhẩy với chiếc áo nặng. Duyên dáng của điệu vũ là nét nhẹ nhàng. Cái gia tài gắn bó với đời ăn xin của anh ta là chiếc áo khoác, hôm nay, vất bỏ. Tấm áo khoác trải trên đường, một đời góp nhặt những đồng tiền của nhân gian, hôm nay, buông xuống cho rơi đi. Quá khứ là ủ đời mình trong tấm áo gắn bó với những khoanh lạc. Thế mà bây giờ đẩy ra một bên, nhẩy chồm dậy để đi tới. Những cú nhẩy vụng về là cú nhẩy ôm theo ràng buộc. Đường bay của Chúa Thánh Thần là cánh chim nhẩy không vướng víu. Để nhẩy dễ, phải buông tay cho rơi bớt. Để nhẩy cao, phải vươn tay với tới. Từ giã mà đi.

 

Lạy Chúa, mỗi người có những tấm áo khoác riêng. Để nhẩy chồm về phía Chúa, con phải học nghệ thuật của người mù. Mỗi tấm áo khoác là một vướng víu. Tên gọi của chúng khác nhau, sắc đẹp, sự nghiệp, xây dựng, tông đồ,.. v.v. có khi ẩn náu dưới nhiều màu sắc thánh thiện nữa. Nếu chúng có đặc tính là nặng, thì đó chỉ là những cản trở mà thôi. Ngay cả lúc Chúa phục sinh, khăn choàng và áo liệm Chúa cũng đẩy sang một bên mà bay ra khỏi mồ. Ngày nào con thấy nặng nề khó ra đi là lúc rễ bắt đầu bén vào đất. Ngay cả những chức vụ tông đồ khi Chúa gọi con thay đổi cho người khác mà con cứ muốn giữ chặt, đấy cũng là dấu hiệu con đang mất vẻ thanh tao của bước chân theo Thầy. Điệu nhẩy sẽ vụng về lúng túng.

Nhẩy về phía Thánh Thần

Trong đời sống có nhiều hướng để chồm tới. Người mù chồm dậy mà đi đến cùng Chúa. Nhưng Chúa đi đâu? Khi được mở mắt, anh ta thấy khúc đường Jêricô đang dẫn về Jêrusalem. Nghĩa là Chúa đang hành trình về thương khó của thập giá.

Chồm tới là bước chân khởi đầu của điệu vũ. Cú nhẩy khởi điểm của điệu vũ ấy đang dẫn đến cái chết. Chân người mù gặp đường di của Đức Kitô từ cú nhẩy chồm trong đức tin. Không có điệu nhẩy cho người mù. Không thấy ai mù mà nhẩy. Và kẻ mù cũng chẳng muốn nhẩy. Nên khi mù mà nhẩy là những điệu nhẩy thần thánh.

Được sáng mắt, sao không nhẩy lui về phía Jêricô để sống mà lại nhẩy về phía Jêrusalem với Ngài để gặp sự chết?

 

Lạy Chúa, soi mình trong điệu nhẩy của người mù, con cần ơn của Chúa Thánh Thần. Xin cho con can đảm trong những cú nhẩy của đức tin để sứt khoát với tiếng Chúa gọi. Người mù đã gạt bỏ tất cả để nhẹ nhàng về Jêrusalem với Chúa. “Kẻ cố tìm sự sống mình, thì sẽ mất; còn kẻ đánh mất sự sống mình vì Ta thì gặp lại” (Mt. 10:39).

Khi không bỏ rơi được vướng víu, không nhẹ nhàng đón cái chết thì sự chết sẽ chờ đón mình.

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 18

Page 19: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

ĐOẢN KHÚC 8: KẺ THEO NGÀI

Khi Thấy Đức Kitô đi ngang qua, ông lên tiếng nói:

“Đây là Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Đức Yêsu

                                                                               (Yn. 1:36-37).

Đó là lời tường thuật về liên hệ giữa ba người: Đức Kitô, Yoan Tẩy Giả và hai môn đệ của ông. Câu chuyện khá í nhị. Hai người môn đệ bỏ Yoan mà theo Đức kitô xẩy ra đột ngột như vậy sao. Làm sao một môn sinh đang theo thầy rồi trong phút chốc bỏ thầy dễ dàng như thế mà theo người khác? Đặt mình vào khung cảnh ngày hôm ấy, lúc bấy giờ, tôi thấy tâm sự của cả ba phía đều mang những giá trị đặc biệt. Thứ nhất, đối với Yoan Tẩy Giả . Ông là một tiên tri có tên tuổi trong xã hội, ông đang có các môn sinh theo mình. Khi các môn sinh bỏ ông mà theo người khác, ông có thấy mình lẻ loi vì mất mát không? Thứ hai, đối với hai môn sinh. Những người học trò này đã mang nặng ơn nghĩa tầm thầy học đạo từ lâu, thầy đi đâu họ đi đấy, bây giờ bỏ thầy theo người khác, ông có thấy mình lẻ loi vì mất mát không? Thứ hai, đối với hai môn sinh. Những người học trò này đã mang nặng ơn nghĩa tầm thầy học đạo từ lâu, thầy đi đâu họ đi dấy, bây giờ bỏ thầy theo người khác, các ông có bịn rịn tiếc

 

 

Có thể hôm nay trong âm thầm không rõ ràng. Chúa cũng đang đối diện với sự chết. Khi con không hoàn toàn siêu nhiên giới thiệu Chúa cho người khác mà dùng Chúa để mình được giới thiệu, thì cũng là đang kết án Chúa đấy thôi. Rất tinh vi. Mỗi hành động tông đồ mình làm mà muốn được để ý là con đã không có tâm hồn tựdo như Yoan, quên mình đi.

Trong thực trạng hôm nay, có những lúc suy nghĩ về những ngày mình đang sống, con không khỏi thấy những vấn đề. Giáo dân có, linh mục có, khi được một địa vị an toàn rồi thì không muốn ra đi nữa. Có hai cơ nghiệp, cơ nghiệp thiêng liêng là vì ích lợi các linh hồn, cơ nghiệp vật chất có thể là tình cảm, là nhà cửa, là giáo dân đông đảo giàu có, là một sự an toàn nào đó. Cơ nghiệp vật chất thì cụ thể, nó cho người ta một sự êm ái. Cơ nghiệp thiêng liêng thì vô hình, khó nhìn thấy, khó nhận diện, khó biết đang như thế nào.

Yoan để rơi đi cơ nghiệp vật chất là địa vị, là các kẻ chung quanh ông để chấp nhận một con đường phiêu lưu trong lãng quên. Có phải đấy là con đường  phải đi thì cơ nghiệp thiêng liêng mới có thể lớn lên?

Lạy Chúa, hai môn đệ Yoan đã theo Chúa trong hân hoan. Thay vì nuối tiếc thì Yoan đã hạnh phúc hối dục họ lên đường. Nếu hai ông không muốn theo Chúa mà cứ nấn ná ở lại với Yoan thì giáo dục tôn giáo của Yoan đã thất bại. Nếu hai người môn sinh kia cứ đòi ở với Yoan thôi là dấu chứng Yoan chỉ nói về mình, gây ảnh hưởng cho mình. Lên đường theo Chúa như một khám phá mới của hai người môn sinh là kết quả thành công của Yoan trong sứ mạng làm người dọn đường của ông. Ông mất hai người môn sinh nhưng không là thất bại mà là ông đã chiến thắng. Ông chiến thắng chính mình. Ông làm cho hai môn đệ ông cũng chiến thắng.

Con phải tinh tế thế nào về những giáo dục tôn giáo mà con có phận sự. Nếu thiếu tinh thần siêu thoát, con gợi lòng tự ái để vật chất được đóng góp, để có nhiều người theo, để công việc tông đồ do mình đảm trách được hoàn thành, thì biết đâu trong kết quả ấy đã chứa mầm suy vong.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 19

Page 20: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

 

Bản tính tự nhiên của con người, ai mà không muốn mình được chú ý. Người ta còn đến với Đức Kitô bao nhiêu thì Yoan càng mờ dần. Đây có là nỗi xót xa? Làm sao Yoan có thể làm được điều này? Yoan không bị sa vào cám dỗ là tìm cách xây dựng sự an toàn, công trình  cho riêng mình. Ông để môn đệ ra đi dễ dàng vì ông luôn luôn “dán mắt” vào Đức Kitô. Theo nhà chuyên môn về văn phạm tiếng Hi Lạp, ông Zerwick, thì hầu hết các bản dịch không diễn tả được động từ “nhìn” trong tiếng Hi Lạp khi Yoan “nhìn” Đức Kitô đi ngang qua. Theo nguyên ngữ Hi Lạp, Paul Hinnebusch, nhà Kinh Thánh thuộc Hội Kinh Thánh Hoa Kỳ dịch sang tiếng Anh như sau“fixing his eyes intently on Jesus as he walked by.” (Paul Hinnebusch, Come and you will see, p. 10). Bảng tiếng Việt dịch là “thấy” Đức Yêsu đi ngang qua. Nhưng nếu theo ý thì phải biểu Yoan đã “dán mắt” vào Đức Yêsu chứ không chỉ “thấy” một cách bình thường.

Động từ này soi sáng thêm liên hệ quan trọng trong cái nhìn tâm hồn của Yoan về Đức Kitô, vì trong hoang địa Yoan đã kêu to: “Hãy dọn đường thẳng cho Chúa đi” (Yn. 1:23). Hoang địa thì vắng không có người, vậy Yoan kêu ai nếu không là nói với chính mình? Nói với chính mình nghĩa là tâm hồn ông đã “dán mắt” vào Đức Kitô rồi. Đặt liên hệ như vậy để thấy toàn diện tâm hồn, cuộc sống của Yoan luôn luôn thao thức là hướng về tâm điểm Đấng Cứu Thế. Nhờ “dán mắt” đi tìm Đức Kitô nên Yoan mới đủ dũng cảm để Đức Kitô lớn lên còn ông thì chìm mờ đi (Yn. 3:30). Sự “dán mắt” vào Đức Kitô cho ông năng lực để không “dán mắt” vào cơ nghiệp vật chất. Ông có tự do.

Đường tu đức thiêng liêng cần sự tự do này. Sau khi nghe thầy mình là Yoan giới thiệu Đức Kitô, hai người môn sinh theo Chúa ngay. Thái độ của họ cũng giống thầy họ, cả thầy lẫn trò đều có tinh thần từ bỏ, họ có một tâm hồn rất tự do. Yoan phải từ bỏ mà môn đệ của ông cũng phải từ bỏ. Thái độ của Yoan là mẫu mực cho người tông đồ hôm nay. Nhưng thái độ hai người học trò của Yoan cũng là hình ảnh không kém siêu thoát. Hôm nay có nhiều người chỉ theo “kẻ giảng về Chúa” chứ không chắc là theo Chúa. Niềm tin của họ dựa vào tư cách, cảm tình đối với người nói về Chúa. Nên khi thần tượng sụp đổ thì Thiên Chúa của niềm tin chao đảo.

 

 

Lạy Chúa, khi những khủng hoảng xẩy ra trong Giáo Hội với những tranh chấp thì xin Chúa cho con nhìn thấy sự từ bỏ của Yoan và hai môn đệ của Yoan mà xét lại vấn đề. Con đang giới thiệu Chúa hay dùng Chúa để mình được lợi. Con đang theo Chúa hay chỉ theo người theo Chúa. Khi con không muốn rời bỏ một nơi chốn, hoặc con chỉ thích đến một nơi nào đó vì những lý do tự nhiên, thì đấy là dấu chỉ có thể con đang đánh mất cơ nghiệp thiêng liêng  mà giữ cơ nghiệp vật chất. Người môn đệ của Yoan sẽ khó lên đường nếu Yoan không giáo dục họ. Làm sao giáo dục nếu tâm hồn ông không “dán mắt”  vào Chúa. Con cần tâm hồn như thế biết bao.

Nếu hai môn đệ kia không theo Chúa mà chỉ theo Yoan thì thiệt thòi quá. Có những hoàn cảnh người giáo dân phải cam đảm bỏ đi những liên hệ riêng tư với vị chủ chăn mà nhìn vào chính Chúa. Để nhìn vào Chúa là cùng đích ơn cứu độ, cả hai, đoàn chiên và người chăn chiên cùng phải từ bỏ.

Xin cho Giáo Hội lữ hành của Chúa trên trần gian đươc những nhà hướng dẫn thánh thiện và những giáo dân khôn ngoan.

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 20

Page 21: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

 

Một khía cạnh khác của Yoan đã được khai triển trong bài suy niệm Sa Mạc, trong cuốn Con Biết Con Cần Chúa, tr. 121.

 

 

 

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

 Lạc Phòng Ảnh Nghệ Thuật

Hướng

Dẫn

  Tìm Theo Chủ Đề

  Văn Hóa Biên Khảo

  Văn Học Nghệ Thuật

  Tâm Linh Tôn Giáo

  Mục Lục

Đoản khúc 1: Dang dỡ

Đoản khúc 2: Tình yêu

Đoản khúc 3: Những bước chân

Đoản khúc 4: Giáo Hội

Đoản khúc 5: Thành công

Đoản khúc 6 : Hoa nghĩa trang

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 9: CHIẾC NHẪN

Chắc khó có ai biết chuyện đời lịch sử của cái nhẫn. Nó ra đời từ bao giờ? Tại sao người ta lại đeo nhẫn? Hôm nay, nhiều người thích đeo nhẫn. Nhẫn làm đẹp. Nhẫn của nữ tu khấn dòng. Nhẫn hôn nhân. Nhẫn Giám Mục. Chúng không cùng một ý nghĩa giống nhau.

Những trang xa xưa nhất trong sách Sáng Thế Kí, lần đầu tiên nói đến nhẫn vàng là chiếc khuyên mà lão bộc của Abraham trao cho Rebecca (Gn. 24:22). Đó là nhẫn hôn nhân. Những trang gần nhất trong Tân ước thì Phúc Âm nhắc đến có một lần. Đó là chiếc nhẫn người cha đeo cho đứa con hoang đàng trở về. Nhẫn tình thươnf cho lại quyền làm con.

Chiếc nhẫn Rebecca

Ngày nay, có nghi thức trao nhẫn cho nhau trong lễ cưới. Biết đâu, đọc lại đôi dòng về

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 21

Page 22: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đoản khúc 7: Điệu nhảy của người mù

Đoản khúc 8: Kẻ theo Ngài

Đoản khúc 9: Chiếc nhẫn

Đoản khúc 10 : Nước Trời

Đoản khúc 11: Đi trong nỗi buồn

Đoản khúc 12 : Xuân tâm hồn

Đoản khúc 13: Lời khen

Đoản khúc 14: Trăng đêm

Đoản khúc 15: Con diều và tình yêu

Đoản khúc 16 : Vá lưới

Đoản khúc 17: Ước mơ của Chúa

Đoản khúc 18 : Trang điểm

Đoản khúc 19: Bỏ đi tìm

Đoản khúc 20: Thập giá và thánh giá

Đoản khúc 21: Ý thơ trong địa đàng

Đoản khúc 22: Những cái nhìn

Đoản khúc 23 : Kinh chiều

Đoản khúc 24: Hoa tưởng nhớ

Đoản khúc 25 : Mây trời

Nối kết - Links

Văn Hóa - Văn Học

Tâm Linh - Tôn Giáo

Truyền Thông - Công Giáo

Links

cách tìm nàng dâu Cựu Ước và ý nghĩa chiếc nhẫn ông lão bộc của Abraham trao cho Rebecca, người vợ tương lai của Ysaac sẽ cho các đôi tân hôn những hình ảnh đẹp hơn về chiếc nhẫn họ trao cho nhau trong ngày cưới của họ. Chuyện kể:

Apraham đã già nua trong tuổi tác và trong mọi sự, Yavê đã chúc lành cho Abraham. Abraham nói với người lão bộc: “Ngươi hãy đặt tay dưới đùi ta, ta muốn ngươi lấy Yavê, là thần trời đất, mà thề rằng ngươi sẽ không lấy vợ con cho ta trong hàng con gái dân Canaan nơi ta lập cư đây. Nhưng ngươi sẽ đi tới đất quê ta, đến với dòng tộc  của ta mà cưới vợ cho con ta là Ysaac” (Gn. 24:1-4).

Rồi ông lão bộc lên đường thi hành sứ mạng chủ đã trao phó.

Lão bộc lấy mười con trong đàn lạc đà của chủ, đem theo tất cả những gì quý báu của chủ, mà lên đường đến xứ Aram Naharaim, đến thành của Nakhor. Lão cho lạc đà phục xuống bên ngoài thành, bên giếng nước, vào lúc xế chiều, vào buổi phụ nữ ra kín nước. Lão khấn: “Lạy Yavê, Thiên Chúa của Abraham chủ tôi, xin cho tôi được gặp may hôm nay, xin làm nghĩa cho Abraham chủ tôi! Này tôi đứng bên suối nước, và con gái dân thành đang ra kín nước. Cô gái nào tôi xin: “Cô ngả vò cho tôi uống với” mà cô ấy nói: “Xin ông uống! tôi cũng sẽ cho lạc đà của ông uống nữa”, thì đích thị cô ấy là kẻ Người sẽ se kết với tôi tớ của Người là Ysaac, và nhờ đó tôi biết là Người đã làm nghĩa cho chủ tôi.”

Lão chưa nói hết thì này, Rebecca đi ra. Cô gái nhan  sắc tuyệt đẹp, còn trinh, chưa đàn ông nào biết đến. Cô xuống suối, cho nước đầy vò rồi lên. Người lão bộc chạy lại đón cô và nói: “Làm ơn cho tôi uống một ngụm nước nơi vò của cô.” Cô đáp: “Xin ông uống.” Rồi cô lanh chai hạ vò xuống tay mà cho ông uống. Cho ông lão uống xong, cô nói: “Tôi sẽ kín nước cho cả lạc đà của ông nữa, cho đến khi nào chúng uống xong.” Rồi cô lanh chai đổ vò nước vào máng và còn chạy tới giếng để múc nước, và cô đã múc nước cho cả mấy con lạc đà. Người kia cứ ngắm cô, trầm ngâm muốn biết Yavê đã cho con đường của lão được may mắn hay  không (Gn. 24:10-21).

Qua bài tường thuật trên, ta thấy trước hết là nhân đức. Abraham trối lại cho lão bộc là tìm người con gái trong dòng tộc thuộc về Yavê. Ta thấy câu chuyện tìm nàng dâu trong Cựu Ước là một cảnh thật nên thơ. Dựa vào lời cầu nguyện mà tìm người. Một bên là cô gái hiền dịu, hăm hở giúp đỡ cho người qua đường. Còn một bên thì trầm ngâm không dám tin vào cảnh đang xẩy ra. Đây là người con gái Yavê gởi đến theo lời cẩu của tôi sao? Đẹp như thế ư. Con gái nhà ai mà nhân nghĩa vậy. Khi đoàn lạc đà uống nước xong, lão bộc lấy nhẫn và xuyến vàng đeo vào tay và mũi người con gái, đoạn ông hỏi: “Cô con nhà ai, xin nói cho lão biết. Nhà ông thân sinh có chỗ trọ cho chúng tôi đêm nay không?” (Gn. 24:23). Dĩ nhiên với tâm hồn cao thượng như thế  thì làm sao  cô không nói chuyện với cha mẹ cho ông già trọ đêm. Câu hỏi của lão bộc thật có duyên. Ông tính gặp thân sinh của cô gái để tính chuyện trăm năm ấy mà! Sau khi thuật lại tất cả cho ông bà thân sinh của Rebecca nghe về lời cầu khẩn của Yavê. Gia đình bên Rebecca thưa:“Sự xẩy đến do bởi Yavê, chúng tôi không thể nói với ông phải chăng gì nữa. Này Rebecca trước mặt ông, xin ông cứ lấy mà đi, nó hãy làm vợ con chủ ông, theo như Yavê đã phán” (Gn. 24:50-51). Sáng hôm sau, Rebecca chuẩn bị lên đường. Sắp xa con mất rồi, mẹ Rebecca băn khoăn xin lão bộc: “Cho con bé ở lại với chúng tôi ít ngày, mười ngày chẳng hạn, rồi sau đó sẽ trẩy đi” (Gn. 24:55).  Lão bộc nóng lòng không chịu. Phía gia đình Rebecca đề nghị: “Để chúng tôi gọi con bé lại và hỏi ngay chính miệng nó nhé” (Gn. 24:57). Họ gọi Rebecca và nói với nàng: “Con có muốn đi với người này không?” Nàng đáp: “Con xin đi” (Gn. 24:58).

Câu chuyện đám hỏi thật đẹp. Chan chứa tự do và kính trọng tôn ý Yavê. Trên đường về. Câu chuyện được Kinh Thánh ghi đoạn kết như sau:

Ysaac trên đường về sau chuyến đi giếng Lakhay-Roy, chàng ở lại vùng Nam-sa. Chàng ra dạo chơi ngoài đồng, lúc xế chiều. Ngước mắt lên chàng nhìn, thì thấy đoàn lạc đà đi lại. Rebecca ngước mắt lên chợt thấy Ysaac. Nàng xuống lạc đà. Và

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 22

Page 23: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

hỏi người lão bộc: “Ai đó, người đi trong đồng đang đến với ta kia?” Lão bộc đáp: “Chính chủ tôi đó.” Nàng liền lấy chiếc khăn phủ lấy mình. Lão bộc thuật lại tự sự việc mình đã làm. Ysaac đưa nàng vào lều của mẹ chàng. Chàng đã lấy Rebecca, và nàng đã nên vợ chàng. Chàng yêu nàng.

(Gn. 24:62-67).

Qua câu chuyện tìm nàng dâu Cựu Ước bên trên, ta thấy lão bộc dựa vào tiêu chuẩn tìm người có tâm hồn cao thượng, có lòng bác ái mà trao nhẫn. Còn Rebecca, người dám nhận nhẫn là kẻ biết mình có tiêu chuẩn đó. Múc nước cho mười con lạc đà không phải là ít. Chiếc nhẫn đầu tiên trong đám hỏi của Kinh Thánh nói về cam kết của sự cao thượng trong tâm hồn. Thiếu điều này, người tìm không trao, và người nhận cũng không nên cầm vì nhẫn đó không thuộc về mình.

Chiếc nhẫn mùa Chay

Tôi không đeo nhẫn, nhưng tôi có chiếc nhẫn. Tôi cũng không biết chiếc nhẫn này của ai. Kẻ đã có thời giũ nó là một người đàn ông hay đàn bà? Tôi bắt gặp nó trong nhà thờ vào một sáng Chúa nhật, sau thánh lễ. Tôi giữ làm kỷ niệm, tôi gọi nó là “chiếc nhẫn mùa Chay.”

Năm đó vào khoảng năm thứ ba tôi ở trại Palawan, Philipines. Trại vẫn còn đến mấy ngàn người. Năm 1989, tôi mới tới trại, có lúc trại lên tới 9 ngàn người. Chật chội vô cùng. Chỗ nào cũng thấy người là người. Người ngồi gốc cây. Người nằm hong gió ở thềm nhà. Nhà lá san sát nhau. Lúc nào cũng ồn ào, gây gỗ, cãi cọ. Nam nữ, người có gia đình, độc thân ở chung lẫn lộn. Khi một ghe thuyền nhân tấp đảo là được chia vào những căn nhà nào có thể chứa. Có khi một căn gác chỉ bằng ba khoanh chiếu mà đến chục người. Ngăn vách trống trải. Những tấm phên tre che vội cho một buồng tắm thiếu kín đáo. Không phải họ chỉ ở một thời gian ngắn mà kéo dài suốt từ năm này qua năm nọ. Lo lắng vì tương lai định cư mù mịt. Thiếu thốn vật chất. Cô đơn xa lạ. Đời tị nạn mù mịt nghẽn lối tương lai. Chán nản. Trong hàng rào của bốn khung trời chật hẹp. Ngày cũng như đêm, đời họ chỉ có thế.

Trong hoàn cảnh như vậy, những chuyện tình vội, ghép hộ sống cho qua ngày, những vụ phá thai là chuyện phải đến. Có biết bao thiếu nữa, lúc tôi mới gặp lần đầu mới đến trại, hồn nhiên và yêu đời. Nhưng một vài năm sau, không còn hồn nhiên, vui tươi nữa. Chán nản và cô đơn là con đường dẫn đến những cuộc sống chung cho hết tháng ngày ở đây. Họ nghĩ đâu ai biết mình. Rồi mỗi người một chân trời. Căng thẳng tâm trí như sóng nước đến mùa dâng cao nhất. Nó triền miên kéo dài cho những ai dũng cảm cũng phải lung lay. Thế rồi, biết bao tâm hồn đã thua cuộc, xuôi tay cho những cuộc yêu vội đó muốn đi tới đâu thì đi. Xa dần sự bình an của tâm hồn, xa dần những ngày mới tới trại đầy nhiệt huyết ước mơ tương lai.

Sáng Chúa nhật đó, khi đổ túi tiền xin trong thánh lễ thì có một gói giấy nho nhỏ bằng cái kẹo. Trong đó gói một chiếc nhẫn vàng. Lạ quá. Có lẽ đấy là chiếc nhẫn duy nhất trên địa cầu này trong túi tiền xin ở các nhà thờ. Chiếc nhẫn được gói trong tờ giấy đơn sơ vậy thôi. Tờ giấy chỉ bằng khoảng ba ngón tay. Trong tờ giấy đó viết: “Con xin dâng Chúa chiếc nhẫn này. Nó làm con mất tự do, con dâng lên Chúa những sự ràng buộc, xin Chúa hãy nhận cho con trong mùa Chay thánh.”

Không biết nét chữ là nam hay nữ. Thế nào là ràng buộc? Thế nào là mất tự do? Có thể chiếc nhẫn đã đưa hai người vào những cam kết không chính đáng. Một sự ràng buộc mà người đeo nó biết đấy là sai. Chiếc nhẫn đã đưa hai người về những chân trời sóng gió nào? Nó đang dự tính đưa hai người phiêu lưu tới đâu nữa? Chắc vì thế, nhìn lại chiếc nhẫn trên tay, xét lại lương tâm mình, nhìn lương tâm người mình đang liên hệ. Rồi, một thánh lễ sáng Chúa nhật mùa Chay, quyết định bỏ cái nhẫn để tìm một khung trời tự do cho linh hồn. Tôi giữ chiếc nhẫn ấy như một kỉ niệm trong đời mục vụ để nhắc tôi về ý nghĩa của những chiếc nhẫn.

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 23

Page 24: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Dựa vào những lần Kinh Thánh nói tới nhẫn, ta có thể thấy có ba loại nhẫn. Đối chiếu trong đời sống xã hội hôm nay, dường như điều ấy vẫn đúng lắm.

Nhẫn hôn nhân. Đó là nhẫn Rebecca nhận cho một lời thề nguyền. Nhẫn ấy trên ngón tay ai thì nhắc cho người đeo nó về một giao ước tình yêu. Tôi sẽ không nhận nó nếu tôi không độ lượng bao dung với người trao tặng. Tôi cũng không trao tặng cho người không đủ rộng lượng bao dung với tôi.

Nhẫn cai quản. Sau khi nói về người lão bộc hỏi Rebecca làm con dâu cho Abraham, chiếc nhẫn kế tiếp được sách Sáng Thế Kí đề cập tới như sau:

“Pharaô nói với Giuse: “Sau khi Thiên Chúa đã tỏ cho khanh biết mọi điều ấy hẳn không có ai sáng suốt khôn ngoan được như khanh. Chính khanh sẽ là trưởng phái đầu triều của trẫm, toàn dân trẫm sẽ cắn cỏ vâng lệnh khanh, trẩm lớn hơn khanh chỉ vì ngôi báu.” Pharaô nói với Giuse: “Này trẫm đặt khanh coi toàn cõi Aicập.” Và Pharaô rút nhẫn khỏi tay mình mà trao tay cho Giuse (Gn. 41:39-42).

Người biết mình thiếu bổn phận thì không thể nhận nhẫn này. Quyền cai quản tượng trưng trên chiếc nhẫn cũng là dấu chỉ giao ước một đời phục vụ.

Nhẫn giàu sang. Tân Ước đề cập tới nhẫn có hai lần. Chiếc nhẫn trong dụ ngôn đứa con hoang đàng của Luca, người cha cho nó lại quyền làm con mà quản trị gia nghiệp. Và chiếc nhẫn trong thư thánh Yacôbê:

Giả như có người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: “Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này”, còn với người nghèo, anh em lại nói: “Đứng đó!” hoặc: “Ngồi dưới bệ chân tôi đây!”, thì anh em đã chẳng tỏ ra kì thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao? (Yacôbê 2:2-4).

 

Hai chiếc nhẫn đầu, Kinh Thánh dạy nhiều về nghệ thuật trao nhẫn và tư cách của người nhận nhẫn. Chiếc nhẫn trong thư thánh Yacôbê nhấn mạnh về nghệ thuật nhìn nhẫn.

Nhẫn cai quản mà thiếu phục vụ thì nhẫn thành độc tài. Nhẫn hôn nhân mà thiếu yêu thương thì nhẫn thành giả dối. Nhẫn giàu sang có thể thành kiêu ngạo, khoe khoang. Nhẫn là biểu tượng cho một ý nghĩa ở đằng sau. Nhưng nhẫn lại bằng vàng. Mà vàng thì làm người ta dễ ham muốn. Sự ham muốn có thể đưa người ta đeo lẫn lộn những cái nhẫn khác nhau, không phải của mình. Đeo nhẫn không dễ. Điều gian nan cho người đeo nhẫn là khi chỉ cần biểu tượng chứ không quan tâm ý nghĩa thì chiếc nhẫn ấy sẽ đưa họ vào những vùng trời tối xám, có khi không biết đâu là lối ra.

Có thể chiếc nhẫn dâng Chúa sáng Chủ nhật đó là chiếc nhẫn của ngươờ chồng biết mình đang phản bội. Hay là của người vợ biết mình không thuỷ chung? Biết đâu người thiếu nữ nào đó đã xuôi lòng thèm muốn trước vẻ đẹp giàu sang của chiếc nhẫn. Cũng không chừng người đàn ông nào đó muốn dùng chiếc nhẫn để lừa gạt một tâm hồn. Chiếc nhẫn mùa Chay hôm ấy sẽ mãi là chiếc nhẫn bí mật không có câu trả lời. Có điều chắc chắn là người từ bỏ không đeo nó đã mang về một bầu trời tự do cho tâm hồn.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 24

Page 25: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

Lạy Chúa, con sẽ cử hành nhiều thánh lễ hôn phối. Xin cho con trang trọng chúc lành cho những chiếc nhân ấy, kính trọng nó trong một bí tích cao cả. Con cầu xin cho các đôi tân hôn biết tha thiết ý nghĩa đàng sau chiếc nhẫn chứ không vì chiếc nhẫn mà quên ý nghĩa ở đàng sau.

Là linh mục, xin cho con biết kính trọng chiếc nhẫn quyền cai quản trên tay Giám Mục mà con đã hứa vâng phục ngày con lãnh thiên chức.

Và, khi con để mất sự công bình, vô tư, hoặc muốn làm bạn trứoc bàn tay chỉ vì chiếc nhẫn giàu sang là con đánh mất giá trị của một tâm hồn dũng cảm. Con cần một chiếc nhẫn để làm đepkj, đó là chiếc nhẫn mùa Chay. Xin cho con một tâm hồn thanh thản như một bầu trời rất tự do.

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 10 : NƯỚC TRỜI

Bao nhiều lần người ta hỏi về Nước Trời là bấy nhiều lần Đức Kitô trả lời một cách khác nhau. Nước Trời giống như người kia gieo lúa tốt

trong ruộng mình, song lúc mọi người ngủ thì kẻ thù gieo cỏ vào rồi bỏ đi (Mt. 13:45-46). Nước Trời giống như kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng (Mt. 13:44). Nước Trời giống như người chủ sáng sớm đi thuê thợ làm vườn nho (Mt 20:1-16). Nước Trời giống như nhà vua dọn tiệc cưới cho con trai (Mt. 22:2-14). Nước Trời giống như mười người trinh  nữ đi chón chàng rể (Mt. 25:1-13). Nước Trời giống như hạt giống gieo rồi thì cứ âm thầm mọc dù ngày hay đêm (Mc. 4:26-29). Nước Trời giống như….

Nước Trời chỉ giống như những hình ảnh đó thôi, không có một hình ảnh nhất định. Người ta hỏi khi nào Nước Trời đến. Đức Kitô bảo: “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền” (Lc. 17:20).

Nghĩa là người ta không gặp Nước Trời bằng cách quan sát, nhìn xem. Không thấy Nước Trời, nhưng tất cả giải thích về Nước Trời mà Chúa dùng lại là những hình ảnh có thể thấy.

Hình ảnh Nước Trời

Gọi là hình ảnh thì đó không phải là thật. Vì không thật nên người ta có thể nhìn sai. Một là sai ở hình ảnh, hai là sai ở ý nghĩa đàng sau hình ảnh. Thấy nhiều nhà thờ, người ta có thể bảo khu này toàn là Công Giáo. Điều đó đúng. Nhưng nếu bảo đấy là tiêu biểu cho Nước Trời thì có thể sai nhiều lắm. Dựa vào những lầu chuồn cao mà bảo Nước Trời nơi đó manh, yếu thì có thể lầm lớm. Chúa đã chẳng bảo phả đền thờ Jêrusalem đi đó hay sao (Yn. 2:19)

Dựa vào lời kinh nguyện có thể là hình ản nước trời không? Xét về lời kinh, trầm hương, thì sách tiên tri Isaia viết:

Muôn vàn hi lễ có lợi gì cho Ta? Ta đã chán chê,

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 25

Page 26: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng

chiên bò. Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta

những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta

không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày

Sabat và các lễ trọng khác. Ta chán ghét những

ngày trăng mới và lễ trọng của các ngươi. Tất cả

những thứ đó làm khổ Ta. Ta đã nhàm chán chịu

đựng rồi. Và khi các người giơ tay các người lên thì

Ta quay mặt đi. Khi các người càng cầu nguyện thì

Ta càng không nhận lời. Vì tay các người vẩy đầy máu (Is. 1:10-20)

Như thế, dựa vào các dấu chỉ này mà xây dựng Nước Trời thì phải cẩn thận kẻo Chúa đã ghê tởm mùi hương, chán ghét những ngày lễ trọng.

Nhìn các chức sắc trong xứ đạo, các tu sĩ mà gọi đấy là sự hiện diện của Nước Trời được không? Điều này cũng đúng vì Chúa đã bảo họ hãy là đèn sáng cho thế gian. Nhưng thế nào là đèn sáng? Chúa cũng đã chẳng trách rằng những kinh sư chỉ thích mặc áo tua rộng thùng thình, thích được người ta chào đón nơi công hội và ngồi ghế nhất trong các bữa tiệc đó sao (Mc. 12:38-40). Vì thế, dựa vào những hình ảnh này mà giới thiệu đấy là tiêu biểu sự có mặt của Nước Trời thì cũng phiêu lưu quá.

Tất cả những hình ảnh có thể quan sát được thì lại có thể là những hình ảnh nguy hiểm làm sai lạc về Nước Trời.

Nước Trời ở đâu?

Khi người ta hỏi Nước Trời ở đâu thì Đức Kitô bảo: “Không thể nói Nước Trời ở đây hay ở kia” (Lc. 17:21). Người căn dặn các môn đệ: “Người ta sẽ bảo các con: Này Người ở đây, và này Người ở kia. Các con chớ đi tìm kiếm” (Lc. 17:23). Chúa trả lời Biệt Phái rằng Nước Trời không ở đây, không ở kia, vì: “Nước Trời ở giữa các ông” (Lc. 17:21). Nếu đã ở giữa thì phải cẩn thận. Đã ở giữa mà lại đi tìm bên ngoài thì làm sao thấy được. Đã ở giữa mà lại ra ngoài đi tìm nghĩa là bỏ chỗ Nước Trời ở để đi tìm chỗ không có Nước Trời. Đức Kitô cũng đã bảo rằng đến lúc người ta không còn thờ Ngài trên núi này, hay núi nọ nữa mà là trong chân lí (Yn. 4:20-24). Chân lí ở đâu mà gặp !

Nước Trời giống như người thương gia đi tìm ngọc. Điều ấy có nghĩa người thương gia là hình ảnh Nước Trời. Nước Trời cũng giống như viên ngọc quý chôn vùi dưới ruộng. Như vậy, viên ngọc cũng là hình ảnh Nước Trời. Cả hai, người thương gia đi tìm ngọc và viên ngọc đều là hình ảnh Nước Trời thì còn phải tìm ở đâu nữa! Cả hai ở trong nhau mất rồi!

Viên ngọc quý là hình ảnh Nước Trời, đó là đối tượng để tìm. Người thương gia cũng là hình ảnh Nước Trời, đó là chủ thể đi tìm. Đối tượng để tìm và chủ thể đi tìm chung một biểu tượng giống nhau. Nghĩa là hình ảnh Nước Trời đi tìm hình ảnh Nước Trời. Vậy thì, đối tượng để tìm nằm trong chủ thể đi tìm rồi. Chỗ tìm là ngay trong tim mình. Ở ngay trong hồn mình thì đi tìm, không có nghĩa là quan sát bên ngoài, nơi đền đài, nơi lễ lạc, trên núi này, núi kia mà là tìm xem trong cõi lòng.

Nước Trời đến để làm gì?

Đức Kitô trả lời: “Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được” (Lc . 17:20). Thấy Nước Trời thì Nước Trời còn ở ngoài. Còn quan sát được là còn có chủ thể quan sát và khách thể bị quan sát. Còn là hai thì còn đi bên cạnh nhau. Đi bên cạnh thì có thể có hai tâm thức, hai ý muốn khác nhau. Khi Phêrô đi bên cạnh thì Phêrô có thể kéo Thầy lại với mình mà lên tiếng trách Thầy (Mc. 8:32). Gặp Đức Kitô bằng quan sát thì ở chỗ này hay chỗ kia vẫn chỉ là gặp bóng hình.

Khi Nước Trời ở trong tôi và tôi ở trong Nước Trời như cành nho kết hợp với cây nho thì

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 26

Page 27: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

bấy giờ tôi mới hiểu Nước Trời là gì (Yn. 15:4-5). Kết hợp là một sự biết nhau ở trong nhau chứ không còn hai tâm thức bên cạnh nhau nữa. Nước đem lại sự sống. Trời cho tự do. Không thể có sự sống bằng nhìn xem, nhưng, bằng tin và lãnh nhận. Trong Phúc Âm Yoan 9:1-41 Đức Kitô hỏi người mù:

- Anh có tin vào Con Người không?

Người mù nhìn thấy Đức Kitô đó mà vẫn hỏi:

- Con Người là ai để tôi tin?

Ngài trả lời:

- Chính kẻ đang nói với anh.

Sau câu nói đó, người mù sấp mình thờ lạy. Lúc trước, người mù nhìn thấy Đức Kitô mà vẫn không nhận ra đó là Đức Kitô. Lần thứ hai, anh ta nhận ra. Tạo sao? Xét về cái nhìn bên ngoài thì không có gì khác biệt. Cả hai lần anh ta đều ở trước mặt Ngài. Chính cái nhìn nội tâm đã thay đổi lịch sử cuộc đời. Sự khác biệt nội tâm là anh ta quyết định tin vào lời: “Chính Ta, kẻ đang nói với anh” (Yn. 9:35-38). Anh đóng chặt đời mình vào Đức Kitô. Cây đinh  niềm tin mà không nghi ngờ nào có thể nhổ lên được. Vì, chính nơi thân xác của anh, anh đã cảm nhận rõ Đức Kitô này chữa mắt cho mình. Cảm nghiêm chứ không phải suy lý.

 

 

Lạy Chúa, con dựa vào đâu để nói cho những người con phải rao giảng về sự hiện diện của Nước Trời. Con sợ rằng những hình ảnh đền đài, kinh sách có thể làm hỏng về Nước Trời.

Biết về Nước Trời là nhận, tin, sống. Để cành nho có sự sông và biết cây nho thế nào thì nó phải dính liền với thân cây. Một cách để cho nó dính vào thân cây là đóng đinh cành vào cây.

Ông thương gia, chủ thể đi tìm là hình ảnh Nước Trời, và viên ngọc, đối tượng để tìm cũng là người tìm quện vào khách thể muốn tìm. Thì như thế, khi con nói về Nước Trời, chắc người nghe sẽ không tha thiết đâu, mà người ta muốn tìm xem Nước Trời con đang nói đó có quện ở trong con hay không.

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 11: ĐI TRONG NỖI BUỒN

Nếu muốn nên trọn lành, hãy đi bán hết những gì người có mà cho người nghèo, ngươi sẽ được kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Tôi. Nghe lời ấy, người thanh niên bỏ đi buồn

rầu vì anh có nhiều của cải (Mt. 19:23-24).

 

Người thanh niên đã chọn một đường đi rất lạ: Đường đi buồn rầu.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 27

Page 28: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Cuộc đời là một đường đi. Đường thì bao giờ cũng dẫn đến một nơi nào đó. Đường buồn rầu sẽ dẫn tới buồn rầu. Trong căn nhà ấy chắc đìu hiu lắm. ”Người thanh niên bỏ đi buồn rầu.” (mt. 19:22) Hình ảnh đó sao mà ảm đạm. Nó như một mùa tang sầu trống trải. Một bóng hình đi trong lẻ loi.

Đời là một hoà tấu. Ngay nào tôi dừng lại ở một nốt nhạc mà thôi là tôi làm hỏng bài ca cuộc sống. Khi chỉ có một nốt nhạc thì bài ca không còn là bài ca. Âm nhạc hỏng mất rồi. Nó chỉ là tiếng còi tàu đơn độc. Bản nhạc cuộc đời anh ta bây giờ chỉ có một cung trầm. Phím đàn đã hư. Nó như tiếng ve inh ỏi độc đoán.

Âm thanh giàu có của cuộc đời anh chỉ thanh tao khi hoà nhịp với những cung điệu khác như độ lượng, tự do, bao dung, trong bản hoà tấu đời sống. Nhưng trong giây phút chọn lựa, anh đã chọn thanh âm của con đường đi trong buồn rầu. Người nhạc công khôn ngoan khi biết nốt nhạc nào hỏng trên phím đàn thì phải đề phòng vì nó có thể làm sai một công trình nghệ thuật. Cuộc đời cũng thế, phải tránh né những nốt nhạc hư trên phím đàn đời sống.

Người thanh niên muốn bay cao nhưng anh ta đã không bay được bởi âm thanh của ràng buộc vang lên. Phân vân chọn lựa rồi quyết định hướng cánh đậu. Anh chọn một con đường:Đường đi buồn rầu . Được tự do lựa chọn thì phải hân hoan với lựa chọn của mình chứ? Nếu tin rằng chọn lựa đem cho mình hạnh phúc tại sao lại đi trong buồn rầu? Phải chăng, anh ta biết mình chọn sai nhưng vẫn lựa chọn? Nếu thế, sự giàu sang phải là một cũng điệu mê hoặc. Tại sao?

Cung điệu mê hoặc

Đường đi buồn rầu là nỗi thương đau tự nguyện. Ràng buộc êm ái, nó ngọt ngào bởi là nô lệ chọn lựa. Tiền có khả năng làm cho người ta đẹp, người ta sang, được quý mến. Đẹp chẳng bao giờ cùng. Sang khó mà có giới hạn. Người có tiền thường giao tiếp với những người có tiền. Kẻ sang thì quen với những người sang. Bởi đó, trong thế giới ấy, giữa những tương quan so sánh với nhau, ai cũng thấy mình vẫn túng thiếu. Sang đến đâu cũng vẫn thấy kẻ khác sang hơn mình. Trong thế giới của người giàu với người giàu, ai cũng cảm thấy mình nghèo. Do đó, tiền là tiếng gọi biết rằng có thể đưa đến nhiều buồn rầu, người ta vẫn yêu cái buồn rầu đó.

Tiền có khả năng thỏa mãn nhiều mơ ước. Mơ ước này sinh ra mơ ước khác. Đứng trước mơ ước, tiền có hai tiếng nói. Một âm thanh rung lên những cảm xúc ngất ngây của ước mơ được thỏa mãn. Nó vẽ ra một thế giới thật đẹp. Một âm thanh khác lại gằn xuống những đau khổ vì không thoả mãn được mơ ước chỉ vì không có tiền. Hai tiếng nói ấu hỗ tương cho nhau, lúc đẩy linh hồn ta đi tìm tiền và tìm mãi. Có khi chỉ ở trong trí tưởng tượng mà thôi, cái ngọt ngào của thỏa mãn nhi cầu này khơi lên cái bất hạnh vì không đạt được ước ao nọ, rồi cứ thế, chúng reo gọi làm ta không nghỉ ngơi được nữa.

Có tiền lại càng yêu tiên. Càng yêu lại càng muốn giữ. Mới đầu họ nghĩ rằng cần tiền là vì tiếc tiền nên có mơ ước mà không dám đem tiền ra thực hiện. Rồi thì, mơ ước của họ nằm chết im lặng theo những con số trên đồng tiền. Cứ im lặng như thế cho đến ngày họ cũng chết. Đấy là thứ âm thanh mê hoặc của tiền.

Trong cái mê hoặc, tiền còn khả năng gặm nhấm làm dang dở niềm vui những ước mơ mà với tiền  ta đã thực hiện. Để thực hiện ước mơ thì cần tiền. Mất tiền thì tiếc. Chính vì thế, niềm vui của thực hiện được mơ ước mất trọn bẹn, vì có vui đó, nhưng cũng lại tiếc nuối đó/

Khi những con số trong trương mục ám ảnh ta thì tiền không còn là phương tiện để thực hiện ước mơ nữa, nó đánh lừa ta và đương nhiên trở thành mục đích. Khi phương tiện trở thành mục đích thì ta sẵn sàng bỏ ước mơ ban đầu là mục đích đã nhắm tới để rồi chỉ đạt phương tiện.

Những nốt nhạc không được cất lên lời

Khi tôi bị ám ảnh bởi một ràng buộc là luc tôi nhìn đời trong một khía cánh mà thôi. Lúc đó, tôi mất dần khả năng thưởng thức những niềm vui khác. Hoặc ngược lại, khi tôi mất dần khả năng để thưởng thức những niềm vui khác thì tôi sẽ lệ thuộc vào một ràng buộc. Đời là cánh hạc bay. Ngọn tre hay bờ trúc thì cũng chỉ là một khoảnh dừng chân rồi lại bay. Càng muốn bay xa thì càng cần nhẹ

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 28

Page 29: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

nhàng thanh thoát. Đã là xích thì xích nào  cũng  gian nan dù là những mắt xích vàng. Để được như cánh hạc bay tôi phải có khả năng đề kháng với tiếng gọi của tiền. Đề kháng đó là xây dựng khả nưng cảm nghiệm những niềm vui khác.

Khả năng đề kháng là luôn luôn lắng nghe tiếng gọi mê hoặc của tiền đê biết tôi thực hiện mơ ước bằng tiền hay tiền là ước mơ của tôi. Khả năng xây dựng hạnh phúc cuộc đời là thưởng thức những nốt nhạc khác nhau, để cảm thấy khi tôi chỉ nghe có một âm thanh nó làm tôi mất đi bao nhiêu hương thơm của những âm điệu khác như thế nào. Niềm vui của nhà truyền giáo là sống với những lớp học nghèo nàn mà hạnh phúc, vì thấy những trẻ thơ thiếu may mắn kia đang được giáo dục. Đối với kẻ không có khả năng tiếp nhận những niềm vui khác ngoài sự giàu có thì đấy là lối sống bất hạnh vì thiếu tiện nghi. Khi ta bị ám ảnh bởi một thú vui duy nhất, ta tự cô lập tất cả những nguồn vui khác. Vì thế, thập giá là vinh quang cho Phaolô nhưng lại là điên rồ cho thế gian. “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa” (1 Cor. 1:18).

 

 

Chuyện nhân gian kể rằng trên đường đi tìm hạnh phúc, bất chợt ba người bộ hành nghe tiếng la thất thanh của vị đạo sĩ từ trong hang núi chạy ra: “Thần Chết! Tôi đã gặp thần chết!” Ba người bộ hành yêu cầu đạo sĩ dẫn mình vào hang để xem thần chết. Vào huyệt đá sâu,  vị đão sĩ chỉ cho ba khách bộ hành đang đi tìm  hạnh phúc thấy một khi vàng chôn dấu. Vị đạo sĩ lại kêu to: “Thần Chết! Thần Chết!” Rồi bỏ chạy.

Ba người bộ hành quá đỗi bàng hoàng vì kho vàng, họ cùng nhau hối hả đào. Nhưng phải có lương thực để ăn hầu còn lấy sức mà tiếp tục đào chứ. Thế là một người tình nguyện đi mua thức ăn. Hai người ở lại đào. Nhưng bất hạnh cho người đi mua lương thực. Khi ông đi mua thức ăn thì hai kẻ kia ở nhà bàn cách giết ông. Lúc mang thức ăn về, ông đã bị hai người giết như họ dự định để số vàng còn chia đôi mà thôi. Vàng bạc đã cho vào bao. Bây giờ, ăn, mà còn khởi hành chứ. Bất hạnh! họ đâu ngờ trong thức ăn đã có thuốc độc của gã đàn ông tham lam kia cũng toan tính muốn giết chết cả hai người, để số vàng thuộc về riêng mình!

Vị đạo sĩ nhìn thấy thần chết vì ông  có khả năng đề kháng tiếng mê hoặc của lòng mình. Ba người lữ hành không có khả nưang cảm nghiệm những niềm vui khác như tình bạn, lòng trung thành, sự độ lượng nữa, mà chỉ có một hạnh phúc duy nhất là tiền. Sự ràng buộc, bây giờ trở thành độc đoán, kéo ta xuống sâu trong đường một chiều. Để rồi ta chỉ còn một chiều đường để đi. Nó như tấm da người thổ mộ che mắt con ngựa để con ngựa chỉ nhìn thấy một lối ngõ trước mặt. Con ngựa miệt mài bước. Nó không biết rằng còn bao nhiêu con đường thi vị khác ở chung quanh. Lúc mà ta để một cung đàn trong tâm hồn tiêu diệt những cung điệu khác, thì cuộc đời, như tấm hạnh phúc, vỡ mất rồi.

Khi ta tìm hạnh phúc bằng cách vô hiệu hoá khả năng đón nhận những hạnh phúc khác thì phải đặt lại về bản chất của hạnh phúc mà mình đang kiếm tìm.

 

Của cải, tự nó không là con đường buồn rầu. Người thanh niên bước đi buồn rầukhông phải vì buồn rầu đã rải sẵn trên lối đi, nhưng vì anh ta tự chọn cho mình trái yim không tiếp nhận những vẻ đẹp khác nữa.

 

Thật ra, anh không có tự do chọn con đường anh đi. Vì tự chọn thì anh phải vui. Anh đã để

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 29

Page 30: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

đường đi buồn rầu thu hút trong cái nhìn nuối tiếc về phía Đức Kitô. Từ giây phút này, đi đâu anh cũng buồn rầu, anh đem buồn rầu rải xuống lối đi.

 

 

Cái đơn độc u hoài là không biết người thanh noên ấy sẽ bướ đi buồn rầu như thế bao lâu. Chẳng lẽ suốt cuộc đời như vậy sao?

 

 

 

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 12 : XUÂN TÂM HỒN

Có hai thứ mùa xuân. Mùa xuân ngoài đất trời và mùa xuân trong tâm hồn. Cứ hết năm là mai nẩy lộc. Xuân đât trời, không tìm vẫn có, không đợi vẫn đến. Khi thời gian chưa tới thì có mong, mai vẫn chẳng nở,

đào vẫn không đơm nụ, và chẳng làm sao có mùa xuân. Bởi thế, khi người ta đi tìm mùa xuân là ngụ ý nói về mùa xuân tâm hồn. Mùa xuân trong tâm hồn  có thể tìm được. Nó không lệ thuộc vào không gian, hoàn cảnh vật lí. Mùa xuân này lúc nào cũng có thể thấy và lúc nào cũng sẵn sàng để có thể mất. Mùa xuân tâm hồn huyền diệu là ta có thể cất chứa mùa xuân này trong một ngăn kéo trí nhớ. Có những mùa xuân xa xưa lắm, mà nay, bên một chiều, ta có thể bảo trí nhớ quay về gọi mùa xuân hiện diện lại. Thượng Đế ban cho con người trí nhớ để có thể lưu giữ những mùa xuân này trong tâm hồn. Một lúc trống trải nào đó trong đời sống, ta lấy mùa xuân ra khỏi ngăn kéo, và ngăn kéo này đưa ta vào ngày tháng êm ả. Cứ như thế, lúc nào ta cũng có thể có mùa xuân.

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 30

Page 31: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Con cám ơn Chúa đã ban cho con người khả năng để nhớ. Trong những tặng phẩm cần thiết cho đời sống, mùa xuân tâm hồn là một góp phần quý hoá của trí nhớ, nó có sức làm dịu ngọt cuộc đời, nó cũng có thể ray rứt, thúc dục cuộc sống suy nghĩ.

Con thích đi tìm mùa xuân bằng mở lại những ngăn kéo hồi tưởng này. Trí nhớ, ôi! Quà tặng thật huyền diệu Chúa đã ban. Kín đáo, tĩnh mịch, ai  cũng có thể  sống trong mùa xuân trí nhớ. Chỉ cần một mơ ước nhỏ nhủ xuống tâm hồn hoặc hỏi hồn mình về một thao thức nào đó, rồi từ trong những tiếng nói sẽ sàng ấy, tâm hồn đưa con vào những giây phút rất quý của thời gian. Có những sự cố xẩy đến vội vàng mà trí nhớ gom nhặt chưa hết, thì trong những giây phút hồi tưởng, bao nhiêu chi tiết nẩy sinh và như một cành cây trong buổi sáng xauan ấm, nó lên xanh những suy nghĩ, đưa êm ả, hoặc thao thức về và dạy tương lai nẻo vào hạnh phúc.

 

 

Lạy Chúa, câu chuyện xẩy ra vào một chiều cuối năm. Buổi chiều có người đàn bà ngồi đợi con ở cuối nhà thờ. Là  linh mục thì Chúa biết đó, con gặp gỡ biết bao nhiêu người. Nhưng người đàn bà này đã đi vào ngăn kéo  trí nhớ con và rồi dừng lại ở đấy. Có quên rồi lại nhớ. Cứ khi trời trở lạnh vào cuối tháng Chạp, mỗi độ đất se mình vào xuân là con lại nhớ về hình ảnh người đàn bà này. Nếu không là linh mục thì câu chuyện cuối năm đó chắc đã phôi pha mất rồi. Nếu không có bóng dáng Chúa trong chuyện này thì cái nhớ chắc cũng sơ sài thôi.

Không biết người đàn bà đã ngồi ở cuối nhà thờ từ bao giờ. Chắc khá lâu. Trại tị nạn đang vào những ngày cuối năm. Đã gần 6 năm chờ đợi rất mỏi ở đây rồi, cứ Tết đên, năm nào người tị nạn cũng nói đây là năm cuối hay chỉ là cuối năm. Tết trong trại tị nạn là những cái Tết khó diễn tả. Tết là ngày gia đình xum họp, vì thế cứ Tết đến là ai cũng nhớ nhà. Hoàn cảnh tị nạn làm vợ chồng  xa nhau, con cái vắng bóng cha mẹ. Cả năm không liên lạc gì, nhưng Tết đến, ít nhất cũng viết dăm ba lá thư hỏi thăm. Viết thư là nhắc đến nỗi lòng, nỗi lòng giờ đây có gì vui đâu. Vì thế, dù có tổ chức Tết bên ngoài thế nào đi nữa thì Tết trong tâm hồn vẫn là cái Tết sầu biệt li.

 

 

Trước khi nói về câu chuyện người đàn bà trong buổi tối cuối năm này, tôi muốn hồi tưởng lại đôi dòng về buổi trưa cùng ngày hôm đó. Cũng lại là câu chuyện của một người đàn bà nữa.

Tết là những này linh thiêng, dù hoàn cảnh nào, vui hay buồn, người Việt Nam cũng ăn Tết. Đã có tiếng pháo nổ rời rạc đây đó. Những bài hát xuân không làm cho mùa xuân thêm hương sắc ngày Tết mà nó ai oán hơn, vì “xuân này con không về chắc mẹ buồn lắm.” Nếu có ai bùi ngùi thì người ta để trong lòng, còn bên ngoài vẫn cố đón xuân. Một chút  mua sắm, dăm ba túi bánh kẹo cho con. Đó là những hình ảnh đón xuân.

Người đàn bà dắt đứa con nhỏ đến gặp tôi trưa nay xin chút tiền là vì thế. Ngày Tết đến, thấy người ta sắm sửa cui xuân, dễ làm kẻ túng thiếu cảm thây bơ vơ. Tôi cho người đàn bà chút tiền để mua quà cho cháu bé và gởi bà ta lời chúc Tết.

Tôi nghĩ cháu bé sẽ hạnh phúc trong bộ đồ mới. Người mẹ bớt tủi lòng vì thấy con mình

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 31

Page 32: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

không rách rưới thèm thuồng bánh kẹo của con hàng xóm. Tôi đã cho người mẹ ấy một niềm vui, và niêmg vui ấy cũng cho tôi một chút thanh thản tâm hồn. Tôi muốn nhặt, cất đi những mẩu gặp gỡ nho nhỏ ấy như kỷ niệm trong những ngày làm việc ở trại. Tôi đang vào mùa xuân bằng những êm ả kín đáo.

Nhưng, đời thường có những không tưởng, nó vuột tầm ngờ của ta. Vô tình, chỉ một lúc sau, tôi băt gặp người đàn bà ấy đang đnáh bài bằng tiền tôi vửa mới giúp. Cháu bè đứng bên cạnh mẹ. Khuôn mựat tuổi thơ mới gặp ban trưa. Liệu mùa xuân này cháu có manh áo không?

Trong hoàn cảnh như thế người ta chỉ có hai suy nghĩ cho hai phản ứng. Suy nghĩ thứ nhất là có lẽ người đàn bà ấy buồn quá, muốn mua vui một chút cho qua tẻ nhạt vào độ chiều cuối năm, những ngày mà nhiều người cũng đang tìm quên. Có thể  bà ta biết số tiền ấy quý, nhưng nỗi buồn có sức mạnh riêng của nó. Hãy thông cảm với bà ta.

Suy nghĩ thứ hai có thể đặt ra là bà ta muốn dùng chiều cuối năm như dịp tiện để có thể lừa tôi. Mỗi người có những lí do riêng khi đến gặp tôi mà lí do nào cũng thương tâm. Có những lí do thật, có những gian dối tinh vi mà cuộc đời đã dạy họ để mà sống sót. Vì thế, phân biệt xem đâu  là thương tâm thật, đâu là nghệ thuật lừa đảo là một thách đố cho ai muốn thử sự thông minh của mình. Tôi đã biết có những người lừa được tiền để đi uống rượu, họ kể nhau nghe, rồi cười như một trò chơi. Trong phản ứng tự nhiên không muốn kiểm soát luận cứ của mình, tôi rơi vào suy nghĩ thứ hai.

Tôi thấy mình như bị lừa. Nếu bị lừa, người đánh lừa sẽ nghĩ gì về mình, họ có cho tôi là khờ khạo quá chăng? Sự thông minh đã bị tổn thương. Khi sự thông minh bị kẻ khác dẵm lên, nó là một thứ đau của niềm tự ái. Và dĩ nhiên, tôi đã mang một buổi chiều cau có trong tâm hồn từ giây phút biết sự thật người đàn bà ấy đã dùng tiền đi đánh bài.

Bây giờ trở lại người đàn bà thứ hai đợi tôi ở cuối nhà thờ. Thấy tôi ra khỏi nhà xứ, bà theo tôi ngay. Khi biết bà cũng lại xin tiền gọi là để mua ít bột ngọt, thêm mắm muối cho ngày Tết, tôi liên tưởng ngay đến người đàn bà hồi trưa đã xin tôi tiền rồi đi đánh bài. Bà nãy cũng dắt một cháu bé, cũng ngôn ngữ na ná như thế. Có phải trẻ thơ là phương tiện để khơi động sự thương tâm? Sự “ thông minh bị tổn thương” ban chiều nhắc ngay đến niềm đau tự ái. Tôi đã từ chối bà ta.

Lời từ chối của tôi nhẹ nhàng rồi nghiêm khắc dần. Hi vọng của bà cũng theo đường độ ấy trĩu theo niềm thất vọng xuống sâu hơn. Điều đó tỏ rõ  trên khuôn mặt rất buồn của bà. Tôi bỏ đi. Hi vọng cuối cùng muộn màng như giải nắng tan. Bà cố theo sau tôi năn nỉ. Tôi đi trước, bước chân có ngập ngừng. Bà bước phía sau, chắc cũng sượng sần. Tôi không đủ thời gian cho một suy tính rất vội. Biết đâu bà mẹ này tội nghiệp thật thì sao? Bà đang cần một chút an ủi trong mùa xuân vắng, mà tôi là người có thể từ chối hoặc ban tặng. Chỉ trong giây phút này thôi, chiều cuối năm của bả sẽ được quyết định, tôi phải hành động thế nào? Cái suy tính ấy làm khoảng cách giữa tôi và bà xa dần. Tôi nghĩ với lòng mình, thôi cứ giúp bà một chút đi, dầu sao cũng là cuối năm. Lúc tôi quay lại thì bà không còn theo tôi nữa. Trong khoảng tối, cầm tay cháu nhỏ, bà đang đứng trước hang đá Đức Mẹ.

Khuôn mặt bà khá lạ đối với tôi. Tôi không gặp ở nhà thờ. Chắc bà không phải là người Công Giáo. Nếu vậy tại sao bà lại cầu nguyện với Đức Mẹ? Mà bà cầu nguyện gì đây? Đêm nay đang giao mùa giữa cũ và mới. Trong khoảng đất trôi dạt ở một vùng trời xa quê hương, xa gia đình, có hai mẹ con bơ vơ tìm mùa xuân.

Tôi không biết được lời nguyện cho một niềm tin mà như xa lạ, bà đã nói gì với Đức Maria, và đâu là tiếng vọng của Mẹ từ bi cho bà. Nếu trong lời nguyện ấy, bà cầu xin cho có người giúp đỡ mẹ con bà trong giây phút túng thiếu này thì Mẹ Maria bảo bà tìm đến với ai. Không có người nào giả vờ túng thiếu mà trong kín đáo của bóng tối đi tìm Đấng Cao Cả gởi niềm trông cậy cầu xin. Tôi nghĩ vậy, và lòng tôi bắt đầu không an tâm. Vào những ngày tháng mà ngoại cảnh rất đặc biệt này nó làm cái lạc lõng của giây phút cần được nâng đỡ mà bị từ chối thành muộn phiền rất sâu. Tượng Mẹ Maria ở đó đã bao năm, bạc màu với năm tháng theo lời cầu xin trĩu nặng trăn trở của  những con người tuyệt vọng đang tìm đất sống. Tượng Mẹ bằng đá, Mẹ không lên lời đáp trả được, nhưng vẫn có gối quỳ đọc kinh hàng đêm, vì họ mong Mẹ ban ơn cho con người có trái tim mềm dịu mà giúp đỡ nhau. Và đêm nay, lại một tâm hồn đang đến với Mẹ để tìm mùa xuân.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 32

Page 33: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Lại một lần nữa, trong đời có những không tưởng nó vuột tầm ngờ của ta. Tôi nghĩ rằng tôi phải hỏi thăm bà về đời sống của bà ở trại tị nạn này. Một lời thăm hỏi lắng nghe của Đức Kitô trong Tin Mừng mà hôm nay một linh mục của Chúa phải làm. Tôi bình an và vui với quyết định ấy. Tôi quyết định sẽ chi bà một số tiền.

Tiếng pháo lẹt đẹt rải rác đây đó. Trên lối ngõ gặp nhau đã có lời chúc qua năm cũ vào năm mới được nhiều may mắn hơn. Và tối đó, trên đường đi, cũng có người dừng chân chúc Tết cho tôi. Ân cần câu chuyện cuối năm. Khi câu chuyện chấm dứt, tôi quay lại nhìn thì không thấy người đàn bà kia đâu nữa. Nghĩ đến chuyện tôi đã quyết định giúp bà ta vì rất có thể bà ta đang khổ cực, tôi có linh cảm bất thường, tự dưng thấy buồn và hồi hộp. Tôi vội đến hang đá tìm bà, nhưng đúng vậy, sân không bóng người. Chung quanh ngã ba, cả ba phía hút về phía xa, không có bóng ai. Người đàn bà hoàn toàn khuất dạng trong đêm cuối năm.

 

Trong một ngày nào đó của cuộc sống, trí nhớ quay về những sự cố sẩy đến trong đời, ta thấy mất mát trong đời sống không phải do cuộc đời tránh ta mà thường là do ta bỏ rơi mất cuộc đời. Rất nhiều khi không ai lừa mình, nhưng sự thông minh nằm sâu trong tiềm thức không được kiểm soát kĩ lưỡng đẩy ta vào một căn dặn có vẻ triết học. Lời căn dặn định nghĩa rằng nghi ngờ là khởi điểm của khôn ngoan. Biết vậy. Nhưng trong trường hợp khi không khôn ngoan đủ để sự thông minh của mình lừa gạt chính mình thì làm sao định nghĩa về sự thông minh đó và gọi sự khôn ngoan kia là gì.

 

 

Lạy Chúa, đêm ấy hai mẹ con bà đã cầu nguyện gì với Chúa? Cái hoang vu của một đêm vắng tình thân trong vườn Giêtsimani thủa nào chưa chấm dứt. Vẫn có những tâm hồn đi tìm mùa xuân trong nỗi khát khao.

Người đàn bà ấy bây giờ ở đâu? Những ngày cuối năm đó đã đi vào ngăn kéo trí nhớ của bà. Lời nào Mẹ Maria nói với bà trong buổi tối ảm đạm ấy? Bà có gặp mùa xuân mà hai mẹ con đã đi tìm trong chiều cuối năm đó không. Chiều cuối năm ấy đã đi qua, nhưng mùa xuân đó trong tâm hồn bà thì chưa chắc đã im nghỉ. Hôm nay, gió bắt đầu se lạnh, sắp vào cuối tháng Chạp, có thể mùa xuân này lại nhắc bà về một mùa xuân trí nhớ.

Vâng, lạy Chúa, lại một cuối tháng Chạp nữa trong cuộc sống. Con cũng xin mượn trí nhớ quay về mùa xuân năm đó. Nhìn lại những mùa xuân, xin Chúa dạy con biết định nghĩa đúng mùa xuân của tâm hồn là gì và nhắc nhở con luôn là con đang tìm mùa xuân tâm hồn như thế nào trong đời sống hàng ngày của con.

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 33

Page 34: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

ĐOẢN KHÚC 13: LỜI KHEN

Một trong những người ít lời khen là Đức Kitô. Mắng thì nhiều mà khen chẳng bao nhiêu!

Vị Giáo Hoàng thứ nhất đã bị Chúa mắng ngay từ những ngày đầu bỏ chài lưới ở biển hồ Galilê. Rồi sau đấy bị mắng liên tiếp cho tới ngày cuối đời ở Jêrusalem. Lời mắng đầu tiên là quân yếu tin (Mt. 14:21). Lần mắng sau đó là về sự tối dạ:  “Đến bây giờ rồi mà anh em vẫn còn ngu tối sao” (Mt. 15:16). “Đến bây giờ rồi” có nghĩa là một thời gian lâu rồi mà vẫn chậm hiểu. Rồi lời mắng nặng hơn: “Satan, xéo đi sau Ta” (Mc. 8:33). Trước khi chết, Chúa còn mắng thêm lần nữa: “Bỏ gươm vào vỏ. Chán Cha đã ban cho Ta, Ta lại không uống sao?” (Yn. 18:11).

Có một lần thánh Phêrô cũng thông minh trả lời Thầy rằng Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Hôm ấy, Chúa khen rằng phúc cho Phêrô. Nhưng Chúa lại bảo ngay không phải“máu thịt đã mạc khải cho ngươi, mà là Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt. 16:17). Chúa muốn nói nhờ Chúa Cha trên trời mạc khải cho nên thánh Phêrô mới nói được như thế. Như vậy, còn gì là khen nữa.

Bị mắng nhiều mà khen chẳng bao nhiêu. Tiểu sử vị thủ lãnh đầu tiên của Giáo Hội là thế. Vậy mà bây giờ các môn sinh của vị thủ lãnh ấy lại hay băn khoăn về lời khen. Khen làm người ta vui thế nào thì chê làm người ta đau đớn như thế. Cũng từ đó, các môn sinh của vị thủ lãnh ấy dằn vặt nhiều lắm vì tiếng chê.

Lời khen và khả năng

Người ta hãnh diện khi được khen vì khen là  dấu hiệu mình có khả nưng. Đếm lời khen cũng là cách để biết mình thế nào. Những khả năng, dù vật chất hay tinh thần, thành công trong việc làm hay tình yêu, giàu có bằng của cải hay trí thức, đều là những khả năng. Cứ nhìn vào đấy mà người ta đánh giá cuộc đời. Hiện hữu là sự sống, mà sự sống thì ai cũng hiện hữu như nhau thôi. Chính khả năng riêng của mỗi cá thể làm cho hiện hữu ấy khác biệt. Nó như màu sắc rải lên một buổi chiều. Trời chiều tự nó chỉ là xám màu tro, nhờ ngũ sắc của những áng mây mà làm cho buổi chiều lên hoa nắng. Vì khả nưng làm cho sự hiện hữu của một cá thể thêm lung linh, cho nên có thể nói khả năng của một người làm cho sự hiện hữu của người đó càng hiện hữu thêm. Nghĩa là sự sống đã vào đời bây giờ “sống” hơn nữa. Liên quan đến sự sống là hồn thiêng ai cũng tìm kiếm. Từ đó, họ đi tìm lời khen.

Khả năng đặc biệt của mỗi cá thể là những hạt kim cương của mỗi người. Chẳng ai đeo kim cương rồi giấu kín đi. Muốn cho người khác biết thì cần để lộ ra. Vì thế, tự nhiên, người ta có khuynh hướng làm cho khả năng mình nổi bật giữa những cá thể khác. Một tâm hồn nào đó chỉ hạnh phúc vì tiếng khen. Có cách tìm dễ dãi là chỉ việc cho người ta biết mình có khả năng. Bởi đó, tiếng khen và sự khoe khoang gần nhau lắm.

Lời khen và sự mê hoặc

Cách dễ dãi để cho đời biết hạt kim cương là đeo trên ngực áo. Khổ một điều, khi không có khả năng thì lấy gì để cho người ta biết. Từ đó, nhu cầu cần tiếng khen xua người ta vào những vùng tăm tối của những giá trị không thật. Họ tạo ra những khả năng không có. Và, cũng từ đó, giả dối đi vào cuộc sống, nên sự sống của họ không còn sống trọn vẹn nữa. Bi thảm của lòng ham muốn tiếng khen là chỉ vì muốn sự hiện hữu của mình thêm hiện hữu hơn mà tạo ra những giá trị không thực, để rồi làm cho chính sự hiện hữu đang có ấu mất đi một phần hiện hữu của nó.

Khi không được khen mà tiếng khen đó lại về người khác, nó làm cho người ta xao xuyến. Tiếng khen là lời ca tụng khả năng, khả năng là hạt kim cương trang điểm cuộc sống. Sống là sống với ai. Giữa rừng người ấy thì không muốn so sánh người ta cũng thấy những khác biệt. Có ánh kim cương này ngời sáng hơn ánh kim cương khác. Khen là xác định sự khác biệt ấy. Bởi đó, khen người này đẹp thì người bên cạnh tự nghĩ là mình kém xinh. Tiếng khen là hạnh phúc cho khóm hoa cúc thì

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 34

Page 35: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

cũng có thể là nỗi dằn vặt cho cành hoa ngâu. Biết bao tâm hồn đã khổ đau vì nghe người khác được khen. Lời khen tự nó chẳng là gì. Con người ban tặng nó sức mạnh để làm con người ngây ngất và cho nó thuốc đôck để sầu muộn hoá sự sống.

Thê thảm của lời khen là lời khen không đúng. Nó vẽ lên khả năng ta không có để ta hạnh phúc với điều không thật. Điều không thật mà có khả năng làm ta hạnh phúc thì đấy là dấu chứng ta không có khả năng để hiểu hạnh phúc thật là gì.

Lời khen không đúng là thê thảm. Nhưng lời khen đúng cũng không hẳn là không làm ta thảm hại. Khi con người say tìm lời khen thì lời khen trở thành thuốc phiện đưa ta vào nghiện ngập nô lệ. Ta không làm chủ đời ta nữa mà là tiếng khen làm chủ đời ta. Tại sao tôi lại để đời mình ngây ngất hay ủ dột, tôi mua giá quá đắt cho một lời nói không mất tiền mua.

Lời khen và người môn sinh

Các môn  sinh của vị thủ lãnh đầu tiên của Giáo Hội không có luật trừ. Họ không ra khỏi hàng rào tập quán giá trị của xã hội. Ngày kia, có tiếng đồn đại về một người môn sinh. Chàng xuống núi hành đạo và tín đồ cho chàng lời ca tụng. Chàng băn khoăn về lời khen. Rồi cũng ngày kia, kẻ đồng môn của chàng lại cũng được đời cho những lời tụng ca. Kẻ đồng môn ấy bắt đầu tìm khuôn mựt mình bằng đếm nhặt những khả năng. Từ đó, cả hai người môn sinh đều thẩm định sứ mạng bằng thành công do lời khen của người chung quanh.

Rồi dần dà từ ấy, họ lo âu soạn những lời thuyết giảng sao cho hay hơn. Ngày nọ qua ngày kia, lời ca tụng đến nhiều, họ hạnh phúc nhiều và họ lại cũng lo âu nhiều. Lời giảng thuyết nói về bình an nội tại, nhưng biết nói sao đây cho người đời khen tặng, nên chính lúc nói về bình an mà nội tâm người môn sinh lại lo âu. Họ cứ đếm khả năng của nhau mà soạn lời thuyết giảng. Mùa nắng lên. Mùa mưa về. Thời gian đưa cuộc đời ngắn dần. Mải mê để cuộc đời định giá, họ chỉ còn vui khi được lời khen. Lời khen tưạng của đời có sức xoá vơi thao thức lời mắng của Đức Kitô.

Một nỗi băn khoăn.

Thánh Phêrô, vị thủ lãnh của họ ngày xưa bị Đức Kitô mắng nhiều. Hôm nay, các kẻ nối gót vị thủ lãnh ấy lại nghe những lời phê bình và đi tìm hãnh diện qua lời khen. Nhớ về các môn đệ nơi trần thế, nêú thánh Phêrô hồi tưởng lại ngày còn ở thế trần, thì một trong những kỉ niệm đáng nhớ là ngày Đức Kitô giảng về dự uế tạp. Chúa bảo những gì ở bên ngoài thì không làm cho người ta ra sạch hơn, hoặc bẩn hơn được (Mt. 15:10-20).

Hôm nay, vị thủ lãnh ấy chắc đang nghĩ ngợi về  môn đệ của mình ở trần gian, vì các môn đệ này tin rằng những lời khen ở ngoài nhưng có sức làm cho họ ra sạch hoặc ra bẩn.

Thánh Phêrô có kinh nghiệm rằng Đức Kitô tìm người biết lắng nghe cho dù có bị mắng. Mà dường như hôm nay Chúa lại gặp nhiều các môn sinh thích đi tìm tiếng khen. Bởi thế, tâm trạng của thánh Phêrô đối với Giáo Hội có thể là tâm trạng đang băn khoăn.

 

 

Lạy Chúa, Chúa mắng thánh Phêrô nhiều mà ít lời khen. Như vậy, con theo một người nhiều mắng ít khen, mà lại mong khen nhiều ít mắng thì có là theo lầm người không. Hoặc là theo đúng người nhưng lại không đúng cách theo.

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 35

Page 36: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 14: TRĂNG ĐÊM

Như song lộc triều: ơn phước cả

Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng.

Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng

Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể.

Và Tổng-lãnh-Thiên-thần quỳ lạy Mẹ

Tung-hô câu đường ngợp ngớt châu sa.

Hương xông lên lời ca-ngợi sum-hoà:

Trí miêu-duệ của muôn vì rất thánh.

                                             (Hàm-Mặc-Tử)

 

 

Trăng và đêm

Bước dưới trăng là bước trong đêm. Đi trong đêm trăng là đi giữa bóng tối và ánh sáng. Buông tay với trăng là lúc chơi vơi giữa đêm. Trăng sáng mà trăng huyền ảo vì trăng đi trong đêm. Đêm có trăng thành đêm đẹp, đêm diệu huyền. Trăng lên làm cho đêm thành ngọc ngà. Đêm quý hoá. Đêm tăm tối mà thi nhân khắc khoải trong hồn lối đi nên đói ánh sáng. Tìm sáng mà ngớp trăng, nên trăng về là say, trăng đi là tiếc. Càng say, càng tuý luý với thi nhân, trăng nên ân tình, trăng thành chưa phỉ.

Trăng duổi tối mà đi nhưng trăng vẫn đi trong đêm. Nếu trăng từ chối đêm, trăng mất đẹp. Đêm càng sâu thì trăng càng vằng vặc sáng. Đêm càng dài thì trăng càng thong thả. Trăng đi cho đêm vỡ tối. Trăng rê đêm bưàng dịu hiền chứ không phẫn nộ. Và, đêm phải nhường chỗ chờ trăng sáng. Bởi, đêm biết đêm chỉ làm cho trăng đẹp chứ đêm không có quyền năng chối từ trăng.

Maria dịu hiền. Người thiếu nữ Sion vào đời như một vầng trăng.

Maria, vầng trăng niềm tin

Trong đêm ngủ dài của vũ trụ từ ngày Evà lỗi phạm, Maria xuất hiện rẽ đêm cho nhân loại thấy bóng trời cao. Bóng tối bị chẻ vỡ, dáng tà áo Maria bay, ánh lên cho nhân loại thấy màu hi vọng. Giữa âm u của một vũ trụ mịt mù ảm đạm, lặng lờ theo thời gian đã hàng vạn thế kỉ, im lặng bỗng rạn vỡ. Tên gọi Maria âm vang trong vũ trụ. Và, từ tiếng gọi tên ấy, nhân loại chuẩn bị thấy Mặt Trời.

Trăng đuổi tối mà đi, nhưng huyển diệu là trăng vẫn đi trong đêm. Maria cũng vậy, Người là ánh sáng đuổi bóng tối nhưng Thiên Chúa không cất tất cả đêm đen chung quanh Người. Lời chào của sứ thần: “Maria, cô sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai” (Lc. 1:31), đã làm Maria băn khoăn. Đêm mà thiên thần vang hát trên trời cao thì dưới thế Con Thiên Chúa không có chỗ hạ sinh. Maria nhìn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 36

Page 37: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Con Trẻ trong máng cỏ nghèo hèn, bị nhân loại từ chối. Đấy không phải là bóng tối đau đớn sao? Người chỉ biết giữ niềm tin thôi. Vào đền thánh, tiên tri Simeon báo cho Maria hay: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng cô” (Lc. 2:35). Làm sao Maria hiểu trọn vẹn lời loan báo tai ương đó. Bao giờ thì lưỡi gươm tới? Sẽ đâm qua hồn một lần hay một đời? Lời loan báo ngắn nhưng nỗi đau như thêm dài.

Càng vào khuya, trăng càng sáng. Nhưng. Đêm vẫn là đêm. Đường trốn sang Ai Cập là một đêm dài khó biết tương lai. Tại sao nhân loại chống đối Con Thiên Chúa? Đời sống trên xứ lạ ra sao? Bến bờ nào trú thân? Thập giá trên Núi Sọ lại cũng là ngày mù mịt bóng tối. Vầng trăng Maria không ra khỏi đêm đen. Bóng sương mịt mờ cho trăng lên huyền nhiệm lung linh.

Vào đêm là lữ hành chờ trăng mà lên đường. Ánh trăng sáng đủ cho lữ hành tìm lối nhưng ánh trăng cũng không loại hết bóng đêm. Ngay niềm tin của Maria cũng vậy. Thiên Chúa cho Maria ánh sáng để đi trong đêm tối chứ không cho Maria ánh sáng để đi ban ngày. Và niềm tin của Maria ngời sáng. Nói cách khác, có phải bóng tối cần cho con người nhìn không rõ về cái nhìn của mình, khi niềm tin gặp bóng tối thì Chúa lại cho ánh sáng. Ánh trăng của Maria đối với đêm đen đức tin nhân loại cũng là thế.

Maria, vầng trăng của kẻ lữ hành

Ở những thời điểm gian nan của niềm tin, Thiên Chúa gởi Maria cho tôi như ánh trăng nhiệm mầu. Chính Thiên Chúa đã đưa Đức Maria trên đường đức tin bằng cả hai: Bóng tối và ánh sáng. Từ đó, Maria trở nên ánh sáng trợ giúp niềm tin khi tôi gặp đêm đen của những khổ đau trong cuộc sống.

Linh hồn tôi chúc tụng Chúa tôi

Vâng, từ nay muôn đời sẽ gọi tôi diễm phúc.

Chúa đã trông đến sự thấp hèn tôi tá Chúa

Đấng quyền năng đã làm cho tôi

những điều cao trọng

Và danh Người là Thánh

                                 (Lc. 1:46-49).

Lời của Maria chúc tụng Thiên Chúa là lời của trăng gởi mặt trời. Trăng dịu hiền là trăng rất mến. Tự trăng không có ánh sáng mà trưng nhận ánh sáng từ mặt trời, như Maria tự mình xưng tụng: “Chúa đã làm cho tôi những điều cao trọng” (Lc. 1:49). Trăng rót sáng xuống ngàn là trăng gọi cỏ cây nhớ về mặt trời. Lời Mẹ thương con mà Maria ru nhân loại là bản dịch tình yêu của Thiên Chúa gởi con người. Trăng tung hành là trăng không bao giờ bị cám dỗ. Từ khi chưa có con người, từ độ chưa thành biển khơi, trăng đã âm thầm làm kẻ chuyển ánh sáng cho trần gian. Maria cũng vậy,  này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc. 1:38). Ở Maria, duyên của Người là duyên thánh độ thanh khiết. Ánh sáng của Người là độ lượng khiêm nhu.

Tôi đi tìm trăng là tôi chờ mặt trời lên. Lúc đêm xuống là khi mặt trời gởi trăng cho tôi. Lúc đau khổ của một niềm tin mất hướng là khi Chúa bảo tôi họi tên Mẹ. Mẹ Maria là bản dịch tình yêu của Chúa cho tôi thì tôi ca tụng Mẹ là hộp thư cho một địa chỉ chung đi về với Chúa. Chẳng ai chối từ trăng mà lại không xúc pham ánh sáng mặt trời.

Trăng làm tôi khứat khao mặt trời thêm. Người thi sĩ say trăng vì đói ánh sáng. Mặt trời khôn ngoan cho trăng mở ngõ đưa thi nhân về ánh sáng đó. Qúa mầu nhiệm nên “Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu” (Hàn- Mặc-Tử). Qúa nhiệm mầu nên trăng ân tình, trưng không bao giờ phỉ. Nhìn trăng say mà hỏi:

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 37

Page 38: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Hỏi Sứ-thần-Thuên-chúa Gabriel,

Khi Người xuống trưyền tin cho Thánh-nữ,

Người có nghe xôn-xao muôn tinh-tú?

Người có nghe náo-động cả muôn trời?

Người có nghe thơ mầu-nhiệm ra đời

Để ca tụng, - bằng hoa hương sáng-láng

Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng

Một đêm xuân là rất đỗi anh-linh?

                                             (Hàn-Mặc-Tử)

Trăng đơn sơ mà trăng huyền nhiệm quá. Trăng rất đỗi anh linh nên muôn đời sứ thần chẳng có câu trả lời.

 

Lạy Chúa, Mẹ Maria không muốn làm trăng châu sa ngọc ngà. Mẹ chỉ muốn làm nữ tỳ của Chúa. Như trăng nhận ánh sáng mặt trời thì Mẹ cũng để Chúa làm những điều trọng đại cho Mẹ. Chính vì thế Mẹ thành trăng sáng láng, trăng rất thánh. Khi con yêu Mẹ là tình ca con gởi Chúa.

Và, lạy Chúa, trong những quãng đời linh hồn con gặp tối tăm, mỗi đêm trăng về, chớ gì huyền diệu của trăng bảo con tìm sự lặng thinh của đêm mà cứ thêm lòng Mến, Cậy, Tin.

Cho tôi thắp hai hàng cây bạch-lạp

Khói nghiêm-trang sẽ dâng lên tràn-ngập

Cả hàn-giang, cả mầu-sắc thiên-không

Lút trí khôn và ám-ảnh hương lòng

Cho sốt-sáng, cho đê-mê nguyện-ước…

                                             (Hàn-Mặc-Tử).Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 15: CON DIỀU VÀ TÌNH YÊU

          Hãy nắm chặt lấy giáo huấn đừng thả. Hãy giữ lấy nó: Đó là sự sống của con. (Cách ngôn. 4:13) Con diều và gió Gió đưa về buổi chiều đẹp làm sao. Ở trên cao là vùng trời hút thẳm mời gọi vào cuộc phiêu lưu vô biên.

Có nắng. Có gió. Có mây. Và chiều nay, cánh diều lên khơi. Cánh diều đong gió như sức sống mãnh liệt đẩy người bạn tre vào đời. Có ước mộng cho đường bay rẽ vào tương lai. Con diều nào cũng cần gió mà đi. Cũng như tình yêu căng buồm cho con tim sức sống vào đời. Gió vô vàn bát ngát và tình yêu cũng thế. Gió không chân trời. Cũng như có ai nhìn thấy tình yêu và đóng cửa giữ tình yêu được

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 38

Page 39: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

đâu. Tình yêu ở đó, nhưng khó mà nhận diện được tình yêu. Gió là thế, chẳng biết gió đi nơi nào. Vì tình yêu bàn bạc, vì gió mông lung, nên ta lạc tình yêu cũng như gió dỗ con diều vào chân trời không biết đâu là bến bờ. Tâm hồn nào cũng cần tình yêu như sợi dây leo bấu vào thân cây mà sống. Nhưng dấu hỏi khó khăn vẫn là tại sao cần tình yêu để sống mà lại có khổ đau vì tình yêu. Đau khổ vì tình yêu không có nghĩa như Đức Kitô chết cho người mình yêu mà là tình yêu của họ chết. Tình yêu đưa họ vào cõi vắng âm u. Đã biết rằng phải có gió mà lên khơi nhưng đã có những con diều chỉ vì gió mà không bao giờ trở lại, những con diều không tìm thấy bến mơ. Đã biết rằng không tình yêu đời người là nghĩa trang thu buồn, nhưng có những khổ đau đã làm cho họ gọi tình yêu là mùa thu buồn nghĩa trang. Gió không biên cương nên gió lúc nào cũng là khởi đầu. Tình yêu cũng thế, tình yêu có thể gõ cửa ngõ hồn ta vào những giờ không định. Có khó gì đâu một buổi chiều, nó “chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu.” Tự bản tính của con diều là theo chiều gió mà bay. Trời càng rộng, gió càng lộng thì giấc mơ của diều càng không lối ngõ. Cuộc đời cũng vậy, tiếng mời gọi của cuộc đời là một lời mời cám dỗ bao la như gió, như mây. Mây rong chơi bốn mùa. Mây đi ngang sân nhà để con diều thèm muốn ước ao. Nhìn mây bay mà hồn con diều mở lối cho ước vọng buông cánh. Mây không có địa chỉ thì hồn con diều biết đi về đâu? Nhưng con diều không hiểu điều đó. Con người không định nghĩa được tình yêu là gì thì tình yêu làm sao nói cho con người biết nơi nào tình yêu đến, nơi nào tình yêu đi. Bởi đó, như mây lãng tử, như gió đưa, tình yêu có thể dẫn con người vào vùng trời lạc lối. Con diều và sợi dây Con diều không phải chỉ nhờ gió mà buông cánh bay. Nó bay được là nhờ sợi dây ràng buộc những ước mơ vô cùng mãnh liệt của gió gọi. Ngày nào nó nghĩ phải rũ bỏ sợi dây để mà lên cao thêm nữa là ngày nó rơi xuống vực sâu. Cái dại khờ của con diều là chỉ biết gió cho lòng mình nôn nao. Nó không hiểu rằng sợi dây ràng buộc lại cần thiết để nôn nao trong hồn không bay mất. Tình yêu cũng vậy thôi. Cám dỗ lớn nhất của tình yêu là yêu không biên giới. Nét đẹp của tình yêu là vô biên giới nhưng người ta lại không thể không giới hạn khi yêu. Vì tình yêu mang sẵn trong bản tính là gió không giới hạn, nên luôn luôn có lời rủ rê bảo mở ngõ đi xa. Vì vẻ đẹp không biên giới ấy làm con người sa vào nguỵ biện: Yêu là tất cả, yêu là xoá hết bến bờ. Như con diều ngỡ rằng muốn lên cao là xoá đi mọi bờ bến cản ngăn. Thu buồn nghĩa trang là đó. Ngang trái mưng màu khổ đau từ đây. Con diều mất sợi dây cầm giữ, nó sẽ rơi xuống thế nào thì tình yêu không giới hạn cũng gieo sầu thương như vậy thôi. Con diều khôn ngoan phải biết gió đưa mình bay nhưng sợi dây đưa mình lên cao. Cuộc đời hạnh phúc là cuộc đời có tình yêu đưa ta đi nhưng có ràng buộc đưa tình yêu về địa chỉ. Không giới hạn ràng buộc, tình yêu chẳng còn địa chỉ để tới, nó sẽ theo con diều vuột dây khi ào ào gió tới rồi lặng lẽ mục nát ở một khoảnh vườn nào đó. Tình yêu khôn ngoan là tình yêu biết nét đẹp của mình là bao dung, không biên giới. Nhưng không biên giới của tình yêu là chiều sâu chứ không phải là vuột khỏi mọi ràng buộc. Khi con diều nhìn những con diều Lời ngọt cám dỗ rất mến là lòng ghen tị trong trái tim con diều. Bởi, nó thấy những cánh diều khác cũng cùng chung một chân đồi, góc gió. Lòng kiêu hãnh muốn hơn đời rủ nó vào bến mê của lường gạt. Một hôm con diều thầm nhủ với hồn nó rằng ta phải bay cao lên trời. Ta phải đi xa để trông đời. Cuộc đời cũng vậy thôi. Phải hơn người vì nhan sắc, phải hơn người vì tiếng khen. Vì muốn hơn người, gió tới là nó vươn. Sợi dây mỗi ngày trở thành lối rào ngăn cản. Lòng kiêu hãnh muốn hơn người bảo nó thả lỏng sợi dây mà đi. Mùa thu chết của nghĩa trang bao giờ cũng được dẫn lối bằng tình yêu muốn tự do. Tình yêu dẫn vào vườn hạnh phúc là lối đi êm ả, mà lối đi ấy phải là giới hạn của lề luật. Khi lối đi réo gọi những sôi nổi không còn nhẫn nhục của sợi dây là bắt đầu điệu nhạc của mùa chia ly. Lề luật trong tình yêu là sự trung thành. Nếu cánh gió rủ con diều đi xa thì lề luật trong tình yêu là nhìn lại những cám dỗ. Sợi dây làm cánh diều khó chịu thì lề luật trong tình yêu là chiến đấu chối từ dễ dãi buông lơi. Gió là của chung, như tình yêu bàn bạc phổ quát mênh mông. Nhưng mỗi con diều có sợi dây riêng. Tình yêu cũng thế, không phải ai cũng bước vào tình yêu như lá trên đồi buông theo nhịp gió. Mỗi tình yêu có một địa chỉ đi về. Bởi đó, con diều chấp nhận sợi dây đưa nó vào chiều gió thế này, thì mỗi người cũng có lối riêng cho cuộc tình như vậy. Cánh diều không thể so sánh chiều cao của cánh diều khác mà bỏ sợi dây của mình, thì tình yêu cũng nài nỉ con người đừng chối từ tình yêu của họ bằng thèm muốn một cung đàn khác. Bởi, con diều lạc lối ở một độ cao không cầm giữ, thì cung đàn sẽ lạc giọng ở một độ rung không giới hạn. Và tình yêu quằn quại khi buông rơi trong tự do. Gió thổi tắt ngọn đèn thế nào, thì đam mê là lửa đốt tình yêu thành tro than như thế. Gió ào ào bảo con diều vuột bỏ sợi dây thế nào, thì đam mê cũng bảo con người vượt lối lề luật tình yêu như vậy. Xin Thượng Đế cho con sự khôn ngoan để thẩm định tình yêu của mình trước những mời gọi rất dễ

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 39

Page 40: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

mến của đam mê. Xin cho con lòng dũng cảm giữ sợi dây ràng buộc, bởi, nếu không có ràng buộc con sẽ như cánh diều rơi trong gió lộng. Và, xin cho con suy niệm về lề luật Ngài đã ban hành. Lề luật là yêu thương đưa con lên cao trong tự do chứ không phải là àng rào cản ngăn. Xin cho con đón nhận lề luật của Ngài như đón nhận quà tặng. Con cần thẩm định kỹ lưỡng tiếng gọi thầm kín trong hồn về những ước mơ. Con cần thinh lặng bên chiều gió để suy tư về ý nghĩa của những ràng buộc. Cuộc đời là sòng suối có lời thánh vịnh mọc xanh đôi bờ nhắn nhủ: Thú vui là thánh chỉ Yavê. Luật pháp Ngài nhẩm đi nhẩm lại ngày đêm. Kẻ ấy như cây trồng bên suối nước. Cứ đến mùa là sinh quả kết hoa. Cành chẳng bao giờ tàn và lá cứ xanh. (Tv. 1:1-2)

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 16 : VÁ LƯỚI

Khoảng lưới tung xuống dòng nước sao mà nhỏ nhoi. Nước mênh mông quá. Bàn tay nắm vào cõi trời. Bao la. Ôi! Bàn tay nhỏ bé. Lưới buông xuống dòng sâu như với bàn tay lên trời. Thương làm sao những bàn tay đi

kiếm ân sủng. Tội nghiệp làm sao những tấm lưới đi tìm hạnh phúc. Cuộc đời như dòng nước xuôi nguồn, đâu cũng là nước. Nước về thung lũng. Nước xuống từ rừng. Hạnh phúc cũng thế, yêu thương cũng vậy, ở đâu cũng có. Mà sao lưới đời cứ hụt hẫng và những mẻ lưới đi tìm hạnh phúc cứ trống trải, cứ buồn tênh. Bên bờ cuộc đời Có người ngư phủ ngồi vá lưới bên bờ cuộc đời. Những mảnh lưới đã rách. Trông dòng nước chảy xuôi mà tiếc nuối cho một chiều tiêu điều. Cõi hồn là căn nhà buông cửa mà niềm vui không ghé lại. Hạnh phúc biết trôi về đâu trong con nước vô tình hôm nay. Bên dòng nước một mình nhìn hồn mà nhủ lòng cho một con trăng đơn độc sẽ về. Đã bao lần mỏi tay đa lưới xuống đời mà đời cứ nghèo, cứ im lặng. Vì sao? Bởi, lưới đi tìm hạnh phúc đã rách. Rồi, chiều nay, bên cuộc đời, có người ngư phủ đang ái ngại nhìn dòng sông và phân vân nhìn lưới trong tay ôm thở dài. Những bóng cá vẫy mà xa xôi trong tim người ngư phủ tiếc nuối. Nước mênh mông, biết đâu mà thả lưới. Dập dềnh trên sóng. Sáng. Chiều. Lênh đênh nhận nỗi im của những bến bờ không bóng mà đã bao lần kéo lên thất vọng. Thả xuống mệt mỏi mà chùng tay là kiên nhẫn chịu đựng. Như đời rộng rãi biết nơi nào hạnh phúc buông cánh đậu cho bắt gặp. Cuộc sống là những kiếm tìm hết sức băn khoăn cũng chưa dễ tới chỗ hạnh phúc ẩn náu. Mỏi chân tìm. Dài ngày tháng mong. Chưa thấy. Ấy mà lưới đời còn rách thì nỗi lòng còn mang mác u hoài đến đâu. Vì thế, trên bến sông, chiều nay, có người ngư phủ cặm cụi vá lưới. Lưới càng rách, lòng ngư phủ càng xao xuyến băn khoăn. Trời càng chiều, dòng nước càng hối hả. Ai mà chẳng tung lưới xuống đời. Lưới tình yêu. Lưới hôn nhân. Lưới thành công. Những bóng hạnh phúc càng rời xa thì bàn tay càng vội vàng. Hạnh phúc có thể là con cái, là người tình, là vợ chồng. Nhưng lưới đời ai mà chẳng có những mảng lưới rách. Bóng hạnh phúc cứ vẫy xa. Và lòng người càng quấn quýt. Âu lo dâng về. Nước mắt rơi xuống. Và, trong tay ôm chặt mảng lưới, cặm cụi theo bóng thời gian, người ngư phủ quay quắt tìm khoảng rách mà vá. Người ngư phủ nào cũng đều vá lưới theo tiếng đập của con tim. Càng thao thức về một bóng hình nào đang vượt xa, càng tiếc một chiếm hữu nào sắp mất thì độ tay vá càng run, cáng giục giã. Và khi đôi tay giục giã với tiếng lòng thổn thức của con tim thì thế giới chung quanh càng nhạt bóng. Mây trời có trôi hay ngừng. Hoàng hôn đang xuống hay nắng hồng đang lên. Tất cả đều lạc đề với trái tim của một người đang cuống quýt vá lưới. Đôi mắt người vá lưới mờ trong lo âu cho một mộng ước có thể mất mùa. Bởi đó, ngoài kia ruộng cỏ lúa xanh, cánh bướm có nhởn nhơ thì lòng người vá lưới vẫn dửng dưng vô nghĩa. Khi tim người vá lưới đuổi theo bóng vẫy của những đuôi cá hạnh phúc đang vuột tầm với thì trái tim ấy không còn nghe thấy một tiếng gọi nào khác nữa. Tiếng chuông cầu kinh có ai oán hay linh thiêng. Tiếng hót trên cành của một loại chim quý cũng thế mà thôi. Trái tim ấy bị vây khốn bằng những mắt lưới rối rắm mù mịt. Những sợi chỉ ngang dọc quấn rào

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 40

Page 41: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

làm tim ngộp thở và chẳng thấy một âm thanh nào du dương ngoài nỗi sợ của tấm lưới đang rách. Cũng là những cánh vỗ đêm mưa nhưng không là nhạc khúc. Trong tim người vá lưới chỉ còn giằng giặc những nghẽn trở. Trong giấc ngủ cũng chập chùng âu lo dằn vặt. Đêm dài là thao thức những tiếng thở nặng nề ảm đạm. Rồi cuộc đời từ đó mất vui. Băn khoăn về ngõ trước. Buồn bã đợi đón cổng sau. Đời là dòng suối cạn khô cứng những mộng mị gẫy dập. Nhìn mẻ lưới của người khác mà chua xót. Cá hạnh phúc về trong bến đậu của nhà ai. Càng thấy hạnh phúc của người bao nhiêu thì càng dằn vặt về tấm lưới của mình. Thấy lưới mình rách mà thua thiệt thì băn khoăn về lưới đời ấy càng sâu, càng cay nghiệt. Tâm sự con người vá lưới chẳng những là tâm trạng âu lo mà là thương cho thân phận của mình. Thương thân phận mình bao nhiêu thì bất mãn với lưới hạnh phúc của người bấy nhiêu. Từ đó trống trải, ghen tức rải dài xuống đời sống. Trên bến đời, chiều nay có người đang vá lưới. Giã từ cuộc vui. Chịu đựng âm thầm ráp nối lại đổ vỡ. Ngoài kia vẫn là cuộc sống, mà trong đây, mảnh hồn mệt mỏi. Dòng nước cứ vô tình trôi. Người vá lưới ôm rạn nứt trên tay nhìn xuống dòng sông cuộc đời. Lời nguyện cho người vá lưới Thôi bạn ạ, dừng tay nghỉ ngơi một chút. Đã nhiều lần có bước chân Người đi qua. Người cất tiếng gọi mà lòng bạn trĩu nặng lo âu nên tiếng Người theo dòng sông xuôi mất. Người gọi. Trong âm thanh nhiệm mầu, tiếng Người có lời khôn ngoan vì Người không xa lạ với nghề ngư phủ. Người đã rảo nắng khắp biển hồ Galilêa. Người đến dừng chân thật lâu trước cửa nhà bạn, nhưng bạn mải mê vá lưới nên chẳng nghe thấy tiếng Người. Người chờ đợi rồi bỏ đi. Rồi Người lại quay về. Người hiểu nỗi lo của kẻ lưới đời bị rách. Trong dáng dấp băn khoăn, Người như muốn nói một điều gì hệ trọng lắm. Nhưng bạn không ngẩng mặt lên nhìn, nên chẳng thấy Người đã đứng đợi bạn mãi. Người bỏ đi mà giây phút ấy cứ chần chừ như muốn ở lại. Dừng tay một chút, lắng nghe tiếng Người đi thôi. Cuộc đời mỏi rồi và cho dù lưới có vá xong thôi. Cuộc đời mỏi rồi và cho dù lưới có vá xong cũng chưa biết đâu là bến thả, chưa biết đâu là hạnh phúc mà vây bắt. Trong đêm hoang vu mịt mù, trong đêm mệt mỏi, bàn tay đám ngư phủ của biển hồ năm xưa về với cánh buồm não nề. Cả đêm vất vả mà chẳng bắt được con cá nào! Họ thú nhận như thế. Rồi Người đến bảo họ: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền.” Và cá nhiều quá kéo lên không nổi ( Yn. 21:1-7). Trong những khúc nghiệt ngã của đời sống, lúc mà lưới rách cho vuột cõi hạnh phúc là lúc Người đến. Nhưng bất hạnh là bạn cứ vá lưới theo cung điệu cố cựu của bạn. Hãy nghe và hành động theo ý Ngài. Người ngư phủ chỉ thả lưới trong đêm tối. Nhưng khi Người đến, Người bảo thả lưới vào lúc trời đã tảng sáng! Ngược đời là thế! Ấy vậy mà nhiều cá quá! Lời kinh của người vá lưới Lạy Chúa, con thấy dòng nước đang hối hả. Bóng cá vẫy đang đi xa mà lưới đời lại rách, làm sao không lo âu, làm sao con dám buông tay ngơi nghỉ. Có những nước mắt mà không biết làm sao cho khô. Có những câm nín mà không biết làm sao chịu đựng. Nó là tình yêu vợ chồng. Nó là tương lai con cái. Nó là công ăn việc làm. Giông tố về đổ vỡ trong tim mà bên ngoài con phải tươi cười che đậy. Nó là những thống khổ. Nhìn lưới đời rách là biết đang vuột tầm với cho một ước mơ, nó như nỗi chết từ từ. Hiu hắt lắm. Chuyện người vá lưới 2000 năm xưa Đi một quãng nữa, Chúa thấy Giacôbê, con ông Giêbêđê cùng với em là Gioan đang vá lưới dưới thuyền. Chúa liền gọi hai ông. Hai ông đi theo Chúa. Để lại dưới thuyền cha mình là ông Giêbêđê và những người làm thuê (Mc. 1:19-20). Hai nghìn năm xưa có người ngư phủ vá lưới bên biển hồ. Chiều nay cũng có người vá lưới bên bờ cuộc đời. Đức Kitô có thể chỉ cho tôi cách nào vá lưới tốt nhất. Người cũng có thể chỉ cho tôi chỗ nào thả lưới tốt nhất. Nhưng Người cũng có thể bảo không vá nữa, không thả lưới nữa. Đi theo Ta. Đi với Chúa. Rồi bấy giờ các môn đệ mới khám phá ra một cảnh đời mời, bỏ tấm lưới cũ, đó chính là cung điện vá lưới của Ngài.

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 41

Page 42: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

ĐOẢN KHÚC 17: ƯỚC MƠ CỦA CHÚA

“Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những

người Cha ban cho con cũng ở đó với con”

(Yn. 17:24).

Trong tình yêu, gần là thương, xa là nhớ. Những người yêu nhau, họ không chấp nhận ngăn cách của không gian. Họ mơ ước người yêu ở đâu thì họ ở đấy. Như cánh bướm, họ đi tìm. Ngay lá rừng, không cất cánh đi tìm mùa thu được, thì lúc thu đến, rừng lá cũng chuyển màu như í thầm nói lên nỗi mong, nỗi muốn bỏ quê cũ của mình mà đi tìm thu. Vũ trụ đi tìm vũ trụ. Con người đi tìm con người. Tình yêu thúc đẩy họ tìm nhau. Sao Đức Kitô không nói: “Lạy Cha, con muốn rằng những người Cha ban cho con ở đâu thì con cũng ở đấy.” Tại sao Ngài lại mơ ước ngược chiều là Ngài ở đâu thì tôi ở đấy, chứ không là tôi ở đâu thì Ngài theo đến đó với tôi.

Lạy Chúa, khi mến thương ai thì hay mang hình ảnh người ấy. không phải ấp ủ trong giấc mơ mà thôi mà trong cuộc sống thực.  Người hạnh phúc là người có nhiều kẻ thương mến, có hình bóng trong nhiều ước mơ. Con hạnh phúc vì trong ước mơ của Chúa có bóng hình con. Khi con nghĩ về một người thì trong mơ ước, con có cả một đường dài, một khung trời, một lối đi cho người ấy, chứ không phải chỉ là một hình ảnh có thể tan trong sương, bay theo nhẹ của khói. Vậy, khi Chúa mơ về con, Chúa có một khung trời cho con không? Chúa dùng ngôn ngữ rung cảm của xác thân là đau khổ, là tiếng khóc, là niềm vui, là hi vọng, là ước mơ mà nói với con, thì con cũng lấy ngôn ngữ tự nhiên ấy để cố hiểu về Chúa. Và, lạy Chúa, chiều nay, con muốn hiểu về ước mơ của Chúa cho con như thế nào.

Rẽ nhánh đôi bờ, trong tình yêu của con, tình yêu có cả hai, một bờ mong rằng mình ở đâu thì người mình thương ở đó. Và ngược lại, một bờ mong rằng người tôi thương ở đâu, tôi sẽ sẵn sàng đi tới nơi ấy. Trong mơ ước của Chúa có bóng dáng con. Chúa có khung trời nào  cho con khi nói rằng Chúa ở đâu thì con ở đấy?

Trên thập giá, con thấy  trong mơ ước của Chúa, Chúa đem con đi trong cả hai bến bờ của ước mơ. Ước mơ thứ nhất là con ở đâu thì Chúa tìm đến nơi ấy với con. Đó là Chúa đã sinh ra và ngồi chung ngưỡng cửa căn nhà nhân loại với con. Trong căn nhà nhân loại, Chúa đến bằng bước chân trần đi trên đường bụi cát. Có gió lạnh ở biển hồ đêm khuya. Có trưa mỏi bên giếng nước Samaria. Trong căn nhà nhân loại, Chúa ghé thăm những cánh buồm rất mệt trên dòng đời. Chúa an ủi những mảnh hồn rất lạnh, rất đơn côi trong cuộc sống, như Mađalêna, như người thiếu nữ bị kết tội phải ném đá cho chết. Trong căn nhà nhân loại, Chúa dẫn người mù lên đường, Chúa nâng người què đứng dậy, Chúa bào chữa cho những người nghèo khổ rằng “lề luật được dựng nên cho con người chứ không phải con người cho lề luật” (Mc. 2:37). Lời ca đêm Giáng Sinh nói cho con rất rõ về mơ ước này của Chúa: Một Con Trẻ sẽ sinh ra, tên gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi (Mt. 1:23).

Trong căn nhà nhân loại ấy, Chúa đã đến với con. Cả cuộc đời Chúa trong Tin Mừng là hình ảnh của một người đi tìm người mình thương mến. Có thể là rưng màu gai, có thể mệt ở một chân đồi, người chăn chiên vẫn đi tìm chiên cuả mình (Lc. 15:4-6). Chúa đi tìm con như tìm mảnh hồn của chính Chúa. Bỏ trời cao xuống căn nhà của con, gõ cửa linh hồn khi con đau ốm, đấy không phải là con ở đâu thì Chúa ở đó hay sao. Vậy mà lời nguyện của Chúa hôm nay sao lại khác thế. Chúa mơ ước rằng Chúa ở đâu thì con ở đấy.

Lạy Chúa, cũng nhìn lên thập giá, con suy niệm về ước mơ của Chúa. Chúa nói Chúa ở đâu thì mong con ở đấy là lúc Chúa sắp bước vào cuộc thương khó. Chúa sắp bị căn nhà nhân loại lên án tử hình. Cánh cửa đó sắp công bố một chối từ. Và trong xa cách ấy, Chúa vẫn muốn gần con. Rồi sẽ xa. Thập giá sẽ dựng nên. Căn nhà nhân loại sẽ đóng cửa.

Những gì chưa có thì mới là mơ ước. Đã mơ ước thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 42

Page 43: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

mong. Khi Chúa mơ ước Chúa ở trên trời thì con cũng ở đó, có nghĩa là ngày nào con chưa về trời với Chúa thì trong hồn Chúa luôn có bóng hình con. Chúa không muôn mất con. Lạy Chúa, xin cho con suy niệm lời ước mơ này của để con thấy mình hạnh phúc.

Trong hai bến đỗ của liên hệ yêu thương, đến với người mình thương và ước ao người mình thương đến với mình, thì Chúa đã đến với con rồi. Đấy không còn là ước mơ của Chúa nữa. Bến đỗ ấy Chúa đã đi qua. Bến còn lại, Chúa chỉ biết ước mơ thôi, căn nhà nhân loại của con đóng cửa không cho Chúa ở. Con có đến với Chúa hay không là tuỳ con.

Người ta có thể giữ mơ ước trong hồn thing lặng. Người ta có thể kín đáo nuôi ước mơ. Trong ước mơ này, Chúa không giữ bóng hình con im lặng, Chúa dâng lời nói với Chúa Cha. Trong tâm hồn Chúa, hình ảnh con được Chúa gìn giữ rất quý, rất thương. Khi nói với ai về một ước mơ, có thể là mình sung sướng nhiều về mơ ước ấy, cũng có thể là mình muốn người khác giúp mình đạt được ước mơ. Đó là trường hợp của con trong ước mong của Chúa.

Có những mùa lá rụng rơi bên ngõ, hoàng hôn xuống dần, đưa đêm đến. Tự nhiên trong im lặng, con nghĩ tới ngày biệt ly. Rồi cũng như cuống lá xuôi đất về cội nguồn. Con sẽ đi về đâu khi tắt nắng trên dòng đời? Băn khoăn hỏi mình, con không khỏi những suy tư mà có lúc sợ đối diện. Sự Chết. Những bóng tối của tội lỗi, những lầm lỡ của yếu đuối, những xám hối không trọn vẹnh, còn có tất cả những tiếng nói ấy trong lương tâm. Có những giây phút trăn trở, lương tâm lên tiếng hỏi linh hồn,  nhất là trong những lúc đơn côi, nhìn hoàng hôn tắt dần. Rồi bên kia cuộc đời?

Không ai có kinh nghiệm về sự chết. Có những biệt ly không ngờ. Có những ra đi không sửa soạn. Chiếc lá không có hơi thở thế mà khi ngọn gió vẫy nó lìa đời, con vẫn cảm thấy một  nỗi tiếc. Huống chi một cuộc sống, bởi đó, nhìn ngày mình ra đi, con  thấy bâng khuâng.

Lòng Chúa tha thiết con về trời với Chúa nói cho con biết trước một hạnh phúc đang chờ. Ước mơ của Chúa như dòng suối mát, rất dịu và rất êm trong hồn con, cho con một niềm vui như những chồi non tiềm ẩn nhắc cành cây khô về nắng xuân đang tới. Trong ước mơ ấy, con thấy tình thương của Chúa rộng lắm, nó trải dài kín trong cuộc đời của Chúa, gìn giữ kín cuộc đời của con. Trong ước mơ ấy, Chúa cho con một đường dài vững chắc, một khung trời bảo đảm, một lối đi sẽ tới. Lúc nào Chúa cũng mong con có mặt ở nơi Chúa ở thì không một lẽ gì con lại không có mặt ở đó, lạy Chúa, con nguyện xin cho ước mơ ấy thấm sâu trong hồn con.

Con muốn suy niệm về ước mơ của Chúa để con không còn bâng khuâng về màu hoàng hôn, để con tin vui đi trong cõi đời vì con biết con luôn luôn là hình ảnh trong ước mơ thánh của Chúa.

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 43

Page 44: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

ĐOẢN KHÚC 18 : TRANG ĐIỂM

Chẳng ai trang điểm khi sống một mình. Trang điểm là muốn được người nhìn. Muốn đẹp là để thu hút người và để người thu hút mình. Ngày nào còn sự khắc khoải muốn được thu hút ấy trên mặt đất thì trang điểm sẽ mãi mãi là vấn đề. Trai cần tài, gái cần sắc, từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ miền đất này qua miền đất nọ, cứ thế mà con người đi tìm.

Tiêu chuẩn của xã hội mong ước là trời sinh làm con gái thì phải đẹp. Từ đó, người con gái cần vàng bạc, gấm vóc để điểm trang. Đời cũng muốn làm trai phải có tài. Vì thế, trí thức cũng có thể là một thứ trang điểm cho người con trai. Trong những tiêu chuẩn ấy, cũng có tiêu chuẩn cho người tông đồ. Đã là tông đồ thì phải đạo đức.

Bởi thế, thánh thiện có thể cũng là thứ trang sức mà xã hội đẩy người tông đồ đi tìm. Và, khi sự thánh thiện trở thành đồ  trang sức thì nhân đức chỉ là một tà áo lụa, một chiếc nhẫn trên ngón tay mà  thôi.

Có phải người con gái trời đã sinh để làm tươi mát cuộc đời. Họ là bông hoa trên bàn viết cho người nghệ sĩ, họ đưa sáng tạo tới, họ gọi tác phẩm thành hình. Có lẽ Thượng Đế muốn họ đẹp để giúp Ngài một tay kiện toàn sự sống trên vũ trụ này, vì thế, làm đẹp là “giới luật yêu thương” mà Ngài đã phổ vào tâm hồn mỗi người con gái. Họ được kêu gọi làm đẹp và Thượng Đế chuẩn bị cho họ tằm dâu nhả tơ may áo.

Loài ong cần mật để cho đời ngọt ngào vì đời nhiều đắng cay. Đời cần ngọt ngào để đời tiếp tục sống. Hoa không hương thì làm sao ong biết đường tìm đến hoa. Vì thế, hương như nhan sắc gọi ong tới. Hoa lấy hương gọi ong đến mà đưa nhuỵ phấn bay. Rồi chúng, cả hai, ban cho đời  trái thơm dịu dàng.

Hoa cho mật ngọt. Ong cho hoa sự sống giao thoa. Sự khôn ngoa của Thượng Đế đã cho hoa có hương chỉ lối cho bầy ong. Cái đẹp của người con gái cũng trong mục đích của Thượng Đế là nuôi dưỡng sự sống của trái đất này. Sắc đẹp của người con gái là tín hiệu cho người con trai tìm đường. Bởi đó, người con gái trang điểm cho mình mà không có trái tim kính trọng sự sống và yêu mến sự sống là họ đã ăn cắp ơn sủng của  Thượng Đế.

Trái Đất này đẹp là sự sống mà Thượng Đế đã trang hoàng cho nó. Ngài có muôn ngàn cánh ong là sứ giả buông lối tìm hoa. Mỗi mùa hoa nở là nghìn vạn tiếng gọi yêu thương. Rừng hoa đánh đi những tín hiệu. Rồi ngang dọc bầu trời, hàng triệu cánh ong nhỏ bận rộn vì những tín hiệu ấy. Chúng bay mọi góc biển chân trời để kiếm tìm. Chúng vượt thung lúng, chúng băng rừng già. Tất cả vì tín hiệu. Vũ trụ xôn xao biết bao. Cứ như mùa trẩy hội. Thượng Đế có sáng kiến vô cùng thú vị. Ngài làm Thượng Đế có sáng kiến vô cùng thú vị. Ngài làm cho vũ trụ nôn nao chỗ nào cũng là thương mến. Rồi êm đềm mà rạo rực, cả mặt đất chuyển mình. Bông hoa im lặng kết nụ thành trái. Hàng triệu triệ sự sống trong trái ngọt sẵn sàng gieo xuống đất mềm cho vũ trụ tiếp tục vũ điệu.

Từ nguyên thuỷ lâu lắm rồi, và sẽ là mãi mãi sau này không ai biết đến bao giờ, hoa cứ có hương sắc và bầy ong cứ náo nức đi tìm. Hoa không bay đi đây đó nhìn vũ trụ được thì Thượng Đế cho hương sắc để mà làm dáng. Để bày bướm rách cánh trong sương. Để bầy ong vất vả tìm kiếm. Nhưng hoa và ong, chúng chung khúc ngợi ca sự sống. Từ vùng đất này tới vùng đất khác. Hoa tiếp tục trang điểm đời mình bằng hương cho ong biết chỗ. Ở nơi đâu cũng thế, từ bờ tre đến đồi sim trên ngàn, hoa trang điểm bằng sắc cho bầy bướm khỏi lạc lối. Chúng bận rộn trang điểm cho mình. Và vì thế mà vũ trụ mới tươi xinh. Ngày hoa kết sắc màu và không còn hương bay. Ngày đó sẽ ủ dột cho bầy bướm biết bao và sầu buồn cho cánh ong như thế nào. Đấy là ý nghĩa của trang điểm.

Sau khi tạo dựng nên những tín hiệu yêu thương ấy, Thượng Đế thấy bày ong và cánh hoa thu hút nhau, Ngài hài lòng để rồi viết những trang đầu Kinh Thánh như thế này: “Mọi sự đều tốt lành quá đỗi” (Stk. 1:31).

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 44

Page 45: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Thấy mọi sự tốt lành. Vũ trụ tưng bừng kiếm tìm những tín hiệu yêu. Rồi Ngài bảo: “Ta hãy làm ra con người” (Stk. 1:26). Thế rồi Adam-Evà vào đời. Thượng Đế bảo họ: “Hãy sinh sôi nẩy nở và nên đầy dẫy trên mặt đất” (Stk. 1:28). Từ đó, Evà theo hoa gởi những tín hiệu yêu và Adam bắt chước cánh ong đi tìm. Evà có nhan sắc và bày bướm trong hồn Ađam run cánh trong sương mai.

Nhưng câu chuyện thần tiên không bao lâu phải chấm dứt. Evà đã muốn trang điểm cho mình một trí tuệ: “Ngày nào ăn trái táo ấy nàng sẽ nên thông minh” (Stk. 3:4). Evà nhìn trái cây đẹp mắt và thèm ăn. Người đàn bà đầu tiên của vũ trụ đã hái trái táo hồng đưa lên môi. Người thiếu nữ trang điểm sai từ dạo đó.

Theo dọc thời gian vào những thế kỉ tiếp nối, trang điểm là đầy đoạ lao đao cho mọi người con gái. Khi người con gái trang điểm mà không có yêu thương cho sự sống thì tín hiệu yêu sẽ làm người con trai lầm lạc. Khi người con trai lầm lạc thì người con gái khổ lụy.

Sau trái-táo-evà, cuộc luân vũ tuyệt vời của con người đã chấm dứt. Chỉ còn hoa và bầy ong vẫn tiếp tục. Trái đất hoang vu lỗi cung điệu nên Thượng Đế tiếp tục tạo dựng bày ong và rừng hoa để lời Kinh Thánh còn nối tiếp âm hưởng tốt đẹp thủa ban đầu. Ngày nào người con gái còn trang điểm sai thì vũ trụ còn lỗi nhịp. Ngày nào người con trai còn lầm lẫn vì trang điểm của người con gái thì lỗi nhịp ấy vẫn nối dài.

Người con gái có nên trang điểm cho người con trai tìm kiếm? Chắc Thượng Đế muốn như vậy. Nhưng thế nào là trang điểm và thế nào là đẹp thì e rằng người con gái chắc khó đủ trí tuệ để trả lời. Vì muốn thông minh như các thần “để biết mọi sự” nên trí tuệ Evà đã thành cằn khô. Sự trang điểm sai của người thiếu nữ đầu tiên ấy theo thời gian vào vũ trụ cũng làm biết bao người thiếu nữ hôm nay không biết đâu là ranh giới của vẻ đẹp và đâu là vực sâu của gian truân. Ađam đã lầm lẫn ngay bởi trí tuệ của Evà thì làm sao người con trai trả lời được câu hỏi ấy. Bởi đó, đi tìm định nghĩa cho trang điểm vẫn là câu hỏi gian nan vì nhan sắc. Còn người con trai vì nhan sắc cũng sẽ tiếp tục gian nan theo.

Chinh phục làm người ta thỏa mãn hạnh phúc và để người khác chinh phục cũng là một thú yêu đương.

Yêu và được yêu là nhu cầu sống. Bởi thế, con người tiếp tục trang điểm để hút nhau. Rồi từ những thúc đẩy của xã hội tiếp tục ban ra. Trai phải tài. Gái phải sắc. Tu sĩ phải đạo đức. Những khả năng ấy cần thiết để người đến với mình, để mình đến với người. Vì thế, người tông đồ cũng không dễ tránh khỏi đi tìm sự thánh thiện để đáp ứng quy định xã hội và nhu cầu của mình. Từ đấy, nẩy sinh những nhân đức như một thứ trang điểm.

Thánh thiện là hương nhân đức, nó thắp sáng bóng đêm. Khi người tông đồ lấy sự thánh thiện để trang điểm thì phải tìm ánh sáng để lộ ra người ta mới thấy nhân đức. Thánh thiện ấy không có khả năng đưa hương nhân đức ngược chiều gió, nên người tông đồ có phải tìm chiều gió mà thả hương.

Khi chán việc tông đồ chỉ vì người khác không thấy việc đạo đức của mình thì đấy là dấu hiệu nhân đức đó chỉ là một thứ trang điểm.

Bấy giờ, trong đáy sâu linh hồn sẽ có bóng dáng của ghen tương thôi thúc, so sánh mình với người. Xao xuyến về lời khen chê của người chung quanh định giá về tiếng tăm của mình, băn khoăn về địa vị xã hội sẽ làm lệch lạc nhận thức về sự thiêng liêng của công việc tông đồ. Và rồi, cũng việc tông đồ, nhưng, nếu tôi mất ngôi vị kia, không được người ấy để ý, tôi thấy chán nản rồi thôi không hợp tác nữa.

Người con gái trang điểm sai là đêm đời đi bên vực thẳm chênh vênh. Nhưng người tông đồ dùng sự thánh thiện để trang điểm sẽ đem đời mình đi dưới hố sâu.

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 45

Page 46: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 19: BỎ ĐI TÌM

Nói với lòng mình

Thôi xin giã từ mà lên đường. Còn nắng chiều cho đủ một quyết định. Tôi phải ra đi, vì đêm về, rồi sẽ muộn màng hối tiếc (Yn. 9:4). Kiếm tìm những gì đã mất hay những gì chưa có thì đều cũng cần phải từ giã mà xuất hành. Cổng thành đã lên tiếng trống. Lệnh ban rồi. Hãy can đảm mà đi. Hãy hân hoan mà tới.

Những gì đã mất mà muốn lấy lại thì phải tìm. Mất, bao giờ cũng mất ở nơi nào đó. Không giữ được, bao giờ cũng có nguyên nhân. Bởi thế, phải kiếm, phải tìm.

Những gì chưa có mà muốn có là mơ ước. Mơ ước chẳng bao giờ tự lại mà thành. Muốn thấy những gì mình chưa thấy thì cũng phải tìm, phải kiếm.

Do đấy, tìm kiếm là định luật không gì có thể thay thế được. Dù tìm những gì đã mất hay những gì chưa có cũng không thể tìm trong giấc ngủ. Những gì thấy trong giấc ngủ chỉ là mơ. Mộng mị trong giấc ngủ dù có thần tiên đến đâu cũng chỉ là giấc ngủ. Không thể tìm trong cơn say. Những gì thấy trong cơn say chỉ là ảo giác.

Tìm là bừng tỉnh của toàn thể con người: Tâm và trí. Trí soi sáng, nhưng trí cần con tim cho năng lực. Không yêu mến sẽ chẳng có kiếm tìm. Tìm kiếm là sự tỉnh thức cả ý chí và lí trí.

Nuối tiếc một hạnh phúc đã mất mà nay muốn gặp lại thì phải trở về bến bờ mà mình đã đánh rơi. Muốn thấy những gì chưa thấy thì phải tới nơi mà ước mơ đang ẩn náu. Như thế, muốn tìm thì phải đi.

Người ta nói đi tìm chứ không nói tìm! Vì tìm là hàm chứa tìm ở đâu. Do đấy động từ tìm luôn rủ theo động từ đi.

Đi thì mỏi mệt. Lên đường nào cũng cần nhiều phấn đấu. Không đi, thì tìm chỉ là tìm hờ hững. Chỗ này không thấy, phải đi chỗ khác. Có khi phải đi nhiều. Lắm lúc phải đi lâu. Đi không dễ vì chướng ngại trên đường đi. Chướng ngại bên ngoài là nắng mưa. Cản trở nội tâm là lòng nghi ngờ.

Đi là xuất hành. Muốn đi thì phải bỏ lại chốn cũ. Bởi đó, bỏ là cần thiết

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 46

Page 47: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

để đi. Không thể đi nếu không muốn rời chỗ. Để đi và  tìm thì phải bỏ chỗ không có mà đến chỗ hi vọng có. Từ đấy, cả ba động từ nối chân nhau thành một cụm từ liên hệ bất khả phân bi: Bỏ-Đi-Tìm.

Bỏ là thái độ không cho phép lòng mình vương vấn. Bỏ là quyết định như lệnh ban hành. Trong khi tìm kiếm, phải đi nhiều bao nhiêu thì cũng phải từ bỏ nhiều bấy nhiêu. Cuộc sống là dòng sông dài. Mỗi chốn đến là một bến đỗ. Mỗi lúc dừng là một kỉ niệm. Có những bến đỗ nhiều lưu luyến. Có chỗ dừng chân rất thơ mộng. Vì thế, nhổ neo chèo thuyền từ giã bến đậu không dễ. Mỗi nhịp khua sóng bắt đầu là một chia li. Có tiếng gọi đi tới tìm kiếm thì cũng không thiếu lời xúi dục bảo dừng tay chèo.

Chuyện người đi tìm 2000 năm xưa

Đời sống thiêng liêng ví như thương gia kia đi tìm các thứ ngọc xinh đẹp. Đi mà không tìm sẽ không thấy. Cả ba động từ bỏ, đi, tìm đều là  ba hành động đòi hỏi lòng muốn dũng cảm. Lần mức phân biệt ranh giới gặp được viên ngọc hay không là ý chí chứ không phải tri thức.

Ý chí gọi tới rồi người đi tìm ngọc lên đường. Chỗ ông đang đứng có thể là căn nhà ươn lười, dửng dưng với nhân đức. Ông phải thổi lên tiếng kèn trong linh hồn mà bỏ đi. Chỗ ông tìm mà không thấy, đó có thể là những khúc lộ dây dưa đường đi, lấp lửng lối về. Ông phải thúc lên lệnh ban hành mà quay mặt. Tất cả đều đòi lòng dũng cảm.

Viên ngọc Nước trời chôn giấu nên không một sớm mà thấy. Linh hồn, không phải một lời kinh là chắp cánh bay cao. Viên ngọc, không thấy một lần là xong. Đường thiêng liêng đi tìm nhân đức cũng thế, sương sẽ phủ mờ hàng đêm, bụi cố che khuất hàng ngày. Muốn bay cao phải miệt mài nhiều lắm. Muốn tìm Nước Trời phải trung kiên không ít.

Gặp nhân đức trên đường thiêng liêng cũng như hai trái tim gặp nhau. Nếu họ dừng lại vì đã gặp nhau thì tình yêu ấy sẽ chết. Chuyện kể về người thương gia tìm viên ngọc Nước Trời là ông bán tất cả sản nghiệp mà mua thửa ruộng ấy (Mt. 13:44). Họ phải sáng tạo giữ nhau trong chập chùng cánh bướm. Để giữ nhau thì mỗi ngày họ phải giục giã một mến yêu tìm kiếm sáng tạo mới. Gặp mới chỉ là thấy. Thấy rồi phải đem hết đời nhau mà đổi cho nhau. Gặp nhân đức trên đường thiêng liêng chỉ là khởi điểm của người thương gia thấy viên ngọc. Giờ đây là bán một khung trời cũ. Ôm giữ một lí tưởng mới là luôn luôn phải từ bỏ lí tưởng cũ vì nó có thể quay trở lại. Bởi đó, gặp rồi cũng vẫn phải tiếp tục bỏ và đi.

Ngày nào mà không có ươn lười. Ở đâu chẳng gặp han rỉ làm nguội lòng mến. Bởi thế, đường thiêng liêng sau khi gặp nhân đức vẫn phải tiếp tục từng hơi thở trong cuộc sống của mệnh đề bỏ-đi-tìm. Nước Trời, gặp rồi không có nghĩa là đã có ơn cứu độ. Họ phải dục dã một chiếm hữu thiết tha. Khi tình yêu đòi đời nhau hai phải nên một thì Nước Trời cũng thế thôi, phải bỏ hết mà nhập vào Nước Trời.

Tâm sự gởi người đi tìm hôm nay

Giờ đã rõ câu chuyện. Cổng thành vang từng hồi trống hối thúc. Trong cuộc đời có nhiều đoàn viễn khách khác nhau. Tiếng trống cũng ban hành nhiều lệnh khác biệt. Và,. bến sông cũng lắm chuyến đò xuôi ngược. Tất cả đang đi tìm. Mỗi người có một lí tưởng riêng để tìm. Mỗi tìm kiếm có

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 47

Page 48: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

một chuyến đò. Ngược xuôi nào cũng là mong thấy, mong gặp điều mình tìm kiếm. Bàn tay vẫy bàn tay. Lời cầu chúc tiễn đưa lời cầu chú. Ở mỗi cuối trang thư, ở mỗi đầu câu kinh là khấn nguyện cho nhau tìm thấy ước mong.

Giờ đã rõ câu chuyện. Thì cũng hãy gởi cho lòng một nguyện cầu. Tiếng lệnh đã ban hành. Phải bỏ mà đi. Phải lên đường mà tìm. Trong những trống lệnh khác nhau, hãy nghe tiếng lệnh ban hành cho riêng mình. Giữa những con đò xuôi ngược, hãy xuống con đò mà bến lí tưởng của linh hồn thôi thúc. Đoàn lữ hành ngang dọc chiều hướng đi thì hãy chọn đường tìm viên ngọc quý.

Lời nguyện của người đi tìm

Chúa đã bỏ chín mươi chín con chiên ở lại mà đi tìm con chiên lạc. Khi muốn tìm lại tình sử cho Ađam-Evà, Chúa bỏ trời cao mà xuống thấp. Thương mến nhau là đi tìm nhau. Để gặp nhau thì phải bỏ đi một phần đời của mình. Muốn nói ngôn ngữ của người mình thương thì phải quên đi ngôn ngữ của mình. Mồ hôi trên đường bụi, đau khổ nghèo đói là mâm cơm nhân loại mà Chúa đã ngồi xuống ăn chung.

Lời khấn nguyện của con hôm nay là xin cho lòng một trái tim dũng cảm. Con muốn đi và muốn tin. Con muốn bỏ lại căn nhà cũ kĩ, vẫy gọi một chân trời mới. Con muốn đi xa và đi cao, đi hết tiếng thôi thúc của linh hồn đến một nơi rất đẹp theo tiếng gọi của Cha. Con tin rằng có một vùng trời huyền nhiệm. Con muốn tìm một đường thiêng liêng dẫn con tới nơi an nghỉ sau cùng hạnh phúc trong tay Cha: Nước Trời.

Ngoài kia nắng đang chờ. Lệnh ban hành rồi. Con đã nghe tiếng trống vang gọi. Gấp lại trang sách thôi. Con nhất định đi tìm. Xin bỏ lại khung trời cũ.

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 20: THẬP GIÁ VÀ THÁNH GIÁ

Tôi thấy thập giá khắp nơi, trên mộ bia trong nghĩa trang, trên tháp cao nhà thờ, bên bàn thân lễ, trên ngực áo, bên vành tai, trên tường đá. Nhiều thập giá quá. Đức Kitô bị đóng đanh trên thập giá. Thập giá đã mặc nhiên được coi như biểu tượng của Kitô hữu. Nơi nào thấy thập giá,

người ta nghĩ ngay nơi ấy có đạo Chúa. Vậy có thể nói nơi nào có thập giá, nơi ấy có Đức Kitô không?

Tôi không ngĩ vậy.

Trong khi Đức Kitô bị đóng đanh đã có thập giá rồi. Người Rôma dùng thập giá để lên án tử hình cho các tội nhân. Bây giờ, ở đâu có thập giá là có sự chết. Người ta sợ hãi thập giá. Bóng thập giá là tử thần. Thập giá ở đâu có khóc than ở đó. Bởi thế, nếu nói đâu có thập giá là có Chúa thì kiểu nói ấy e rằng rất hàm hồ. Hôm nay, nếu  nói nơi nào có bóng thập giá là nơi ấy có vết chân người Kitô hữuthì có thể đúng. Nhưng làm sao dám khẳng định nơi nào có Kitô hữu là có Chúa hiện diện? Người ta có thể dùng thập giá để đấu tranh. Đã chẳng có những xứ đạo mất bình an chỉ vì xây cất nhà thờ đó sao. Không phải cứ có bóng thập giá là có sự hiện diện của Chúa.

Biểu tượng và ngẫu tượng

Những gì tôi thấy hôm nay, thập giá trên tháp chuông cao, thập giá trên bàn thờ nhà tôi,

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 48

Page 49: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

thập giá ở cổng giáo đường, nhiều khi rất là vô nghĩa. Tôi quá quen thuộc với biểu tượng nên biểu tượng có thể trở thành ngẫu tượng. Khi tôi mặc nhiên cho rằng nơi nào có thập giá là có Chúa thì tôi có thể chỉ nỗ lực xây dựng nhiều thập giá. Điều này dễ rơi xuống hố sâu nguy hiểm. Biểu tượng bao giờ cũng mang hai đặc tính. Đặc tính thứ nhất của biểu tượng là cần nhìn thấy. Vì thế, thập giá có thể bằng xi măng, bằng đá, bằng đồng, bằng vàng. Đặc tính thứ hai là biểu tượng ấy phải diễn tả một thực tại không nhìn thấy ở đàng sau. Điều này gian nan chứ không đơn giản. Một thực tại vắng mặt thì có thể diễn tả bằng một biểu tượng. Nhưng không phải cứ có biểu tượng là có thực tại vắng mặt. Và bi đát hơn nữa là người ta có thể đánh lừa bằng biểu tượng. Gởi tặng cánh hoa là gởi biểu tượng để chuyển ngữ một tình cảm không nhìn thấy. Biểu tượng ấy chỉ đúng nghĩa khi có tình yêu ở phía sau. Như thế phải có tình yêu trước. Biết bao giờ người tặng hoa những không tặng tình yêu. Biết bao giờ người nhận hoa mà trao lầm trái tim vì ngỡ rằng có tình yêu ở đàng sau cánh hoa.

Điều đó cũng đúng với thập giá. Thập giá là biểu tượng thì tôi phải đi tìm thực tại đàng sau biểu tượng. Nếu tôi gọi thập giá là biểu tượng hiện diện của Chúa mà thật sự không có Chúa thì lòng yêu mến biểu tượng ấy  thành ôm giữ ngẫu tượng. Qúa quen với não trạng thập giá là biểu tượng hiện diện của Chúa, nên ta ít tự hỏi nếu không có sự hiện diện của Chúa thì tôi đang ôm giữ gì. Không còn là biểu tượng hiện diện của Chúa, nếu không là ngẫu tượng thì ta gọi là chi?

Lý do các thượng tế đưa ra để kết tội Chúa là vì Đức Kitô nhận mình là con Thiên Chúa. Theo họ, Đức Kitô đã phạm thượng vì xúc phạm đến Thiên Chúa. Còn họ thì phải bảo vệ Thiên Chúa. (Mc. 14:60-64). Chính trong hành động nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Thiên Chúa họ đã kết án Thiên Chúa. Chính hành động họ nói với Đức Kitô phạm thượng, họ đã phạm thượng. Gian nan là ở đấy. Quá gần Thiên Chúa nên ngỡ Thiên Chúa ở rất xa. Càng đợi trông một Thiên Chúa ở xa mà Ngài lại ở gần thì sự xa cách ấy lại càng xa hơn nữa.

Do đấy, kẻ ôm giữ thập giá là biểu tượng chứ chưa chắc có sự hiện diện của Chúa mà họ cứ khăng khăng tin rằng họ đang ôm giữ Chúa thì làm sao mà nhận ra sự xa cách ấy. Cho nên họ tưởng rất gần Chúa mà thật sự rất xa. Từ biểu tượng đến ngẫu tượng, họ tưởng rất xa, mà lại hoá quá gần.

Từ thập giá đến THÁNH giá

Ba cây thập giá dựng lên trong chiều ấy. Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là THÁNH giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Ngài đi vào Phục Sinh thì cây thập giá khốn khó ấy thành cây cứu rỗi và trở nên THÁNH. Chất THÁNH ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết, là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không phải là THÁNH giá.

Nhìn lại những bến bờ đã đi qua của thập giá và THÁNH giá, ta thấy khi thập giá trở thành THÁNH giá rồi cũng không có nghĩa cứ thoáng nhìn là nhận ra THÁNH giá. Vẫn có một khác biệt rất lớn. Câu chuyện hai người trômk bị đóng đanh cùng với Chúa chứng minh điều đó. Một người nhục mạ Chúa:

“Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu chúng tôi với.” Một người thì nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Đức Yêsu: “Ông Yêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi.” Đức Yêsu nói với anh: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc. 23:39-43).

Một người nhìn thấy thập giá là THÁNH giá. Một người thấy THÁNH giá chỉ là thập giá.

Phân biệt thập giá và THÁNH gía không đơn giản. Lại càng không giản đơn khi ta quá quen biểu tượng trong một não trạng mù mờ. Trước THÁNH giá thật mà còn không nhận ra THÁNH giá thì trước những THÁNH giá giả vấn đề còn gian truân tới đâu. Nếu không biết yếu tố làm nên chất THÁNH, nếu không tìm yếu tố làm nên chất THÁNH, nếu không sống yếu tố làm nên chất THÁNH thì ta không có THÁNH giá. Cả một bến bờ cuộc sống chỉ là ngẫu tượng.

Trong xã hội hôm nay, từ tâm lý quảng cáo đến các tổ chức chính trị, văn hoá, thể thao, nghệ thuật, từ cá nhân đến tập thể, chỗ nào cũng thấy có những biểu tượng cho sinh hoạt của tổ

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 49

Page 50: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

chức đó. Mặc dầu Chúa bảo: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con hãy yêu thương nhau” (Yn. 13:34-35). Nhưng chúng ta cũng vẫn có một biểu tượng cho sự hiện diện của đạo Chúa, đó là THÁNH giá.

Biểu tượng là để người khác nhìn. Tôi sống trên quê hương tôi thì biểu tượng là ngôn ngữ nói với những người cùng một quê hương ấy. Tôi phải dùng ngôn ngữ nào dễ hiểu và chính xác cho thực tại là Chúa ở sau biểu tượng? Trên một quê hương nghèo đói thì biểu tượng để nói về Chúa là bác ái, chia xẻ cảnh khốn cùng. Giữa tuổi chán nản với lí tưởng hoà bình, nhân quyền, buông xuôi theo lối sống cho qua ngày thì biểu tượng là trái tim nhiệt thành, can đẩm, yêu đời. Giữa cảnh các bé thơ thất học không có trường lớp, thầy cô thiếu lương, thì sự hiện diện của Chúa không là biểu tượng thập giá to hay nhỏ, mà phải là THÁNH giá có tình yêu, dấn thân cho Tin Mừng bừng con tim tân tụy như chính một rung cảm chiều nọ bên đồi vắng: “Ta thương đoàn dân này… Ta không muốn để họ đói… Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt. 15:32)

Lạy Chúa, không có bác ái, không có THÁNH giá, chỉ có thập giá thì con chẳng nói gì về Chúa cho những người cùng một dân tộc mà Chúa sai con tới cả. Một biểu tượng sai về Chúa sẽ làm cho Chúa còn khổ tâm hơn nữa. Có khi người ta càng nhìn thấy thập giá mà càng xa Chúa. Có khi càng nhiều bóng thập giá càng làm người ta khó chịu những kẻ xây dựng nên nó. Điều đó cũng đúng thôi, vì thập giá không là THÁNH giá. Có THÁNH gía phải có bác ái.

Lạy Chúa, nhưng nếu con không hiểu rõ  con đang có THÁNH giá hay chỉ có thập giá trong giáo xứ, trong gia đình, trong đời sống của con thì làm sao con biết nói với dân tộc con về Chúa qua biểu tượng THÁNH giá.

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 21: Ý THƠ TRONG ĐỊA ĐÀNG

         Trước khi vào đoản khúc: + Lỗi phạm của Ađam, Evà là tội nguyên tổ, một sự dữ. + Sự sa ngã của Ađam là một điều xấu, không thể biện minh. Tôi nêu hai chú thích trên để khẳng định lời dạy của giáo lí Công

Giáo, hầu hi vọng người đọc không thể hiểu lầm ý viết trong đoản khúc này.

          Giả sử Ađam đã không sa ngã thì địa đàng ra sao? Câu chuyện hôn nhân đầu tiên trong sách Sáng Thế Kí được trình bày bằng lối văn chương thật thơ mộng. Chuyện tình sử Ađam-Evà mang nhiều chất “tình” hơn chất “sử”. Ngay từ giây phút tạo dựng ban đầu, liên hệ nam nữ đã là đề tài thứ nhất. Thượng Đế không gọi Ađam đi tu. Ngài tìm cho Ađam một tâm hồn và một thân xác. Ngài dựng nên người nữ. Trong lối trình bầy đẹp như một chuyện thần tiên, những trang mở đầu của pho Kinh Thánh cũng là những trang nói về chuyện đẹp thần tiên ấy: Chuyện nam nữ. Ađam vào đời như một cung nhạc reo cao. Hân hoan. Thơ tới. Tuy nhiên, cái rong chơi của Ađam trong địa đàng có tự do, mà dường như là tự do trong không gian vắng của con tim. Có bướm bay và lá hoa khoe màu. Suối vui. Đẹp của địa đàng vẫn chỉ là đẹp trầm trầm. Có bình yên mà dường như vẫn thiếu. Ađam vẫn là

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 50

Page 51: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ađam của kiếm tìm. Bởi, chim và bướm không nói ngôn ngữ của Ađam. Và rồi, công trình tạo dựng của Thượng Đế chỉ trọn vẹn khi Evà xuất hiện. Tác phẩm mà Thượng Đế để dành sau cùng để làm xinh tươi địa đàng là người thiếu nữ. Lối trình bày ấy đưa chân dung người nữ lên thành hình ảnh một kiện toàn rất thơ mộng cho vũ trụ. Ađam bước một mình không tốt (Stk. 1:18). Nói việc tạo dựng nên Evà để Ađam được “tốt hơn”, có phải cũng là cách nói sự vắng mặt của Evà làm Ađam không toàn vẹn? Như thế, Evà không đến để phục vụ Ađam mà Ađam cần Evà cho đời sống của mình phong phú hơn. Là phần đời của Ađam nên Ađam không thể không bỏ mọi sự mà yêu thương Evà, nếu Ađam muốn mình sống trọn vẹn phong phú ấy (Stk. 2:24). Qua hình ảnh thi vị của câu chuyện sáng tạo, người nữ không những là vẻ đẹp Thượng Đế ban cho địa đàng mà còn là sự cần thiết Ngài ban tặng cho cuộc đời. Cách trình bầy câu chuyện sáng tạo mang chiều sâu của thi ca. Lời ngắn mà ý mênh mông. Vườn cây của địa đàng dưng dưng chờ đợi, và trái tim Ađam cũng thế, lặng lờ cho tới khi Evà chào đời. Bấy giờ mới thật đẹp xinh. Nhưng! khổ lụy khi Evà sa ngã thì sao? Qua dòng lịch sử và văn hoá của nhiều miền đất, Evà đã bị coi như căn do làm địa đàng bất hạnh. Đã có thời nền tu đức coi người nữ nguy hiểm như nguyên nhân tội lỗi. Bị chối từ nhiều ơn gọi. Từ cuộc sống thực hôm nay, nhìn lại lối trình bầy bóng bẩy trong văn chương “tình” nhiều hơn “sử”, ta thấy hình ảnh của người nữ là làm đẹp và kiện toàn sự sống trên vũ trụ như lời địa đàng thủa xưa. Đặt vấn đề vì Evà mà Ađam mới sa ngã và quy tội cho người nữ là căn nguyên tội lỗi là đặt một phán quyết thiếu nghiêm túc. Đã có một thời của quá khứ với những suy tư đáng tiếc ấy. Hôm nay, người nữ đang tìm lại được nét duyên trang trọng của trang Cựu Ước ban đầu. Bởi đó, nên nhìn câu chuyện “tình sủ” đẹp của ngày tạo dựng bằng “tình” hơn bằng “sử” và đọc với tâm hồn thi ca. Thi ca bao dung. Người có tâm hồn thi ca không phải nhìn đời dưới khía cạnh tất cả bóng tối là khổ nạn. Thi ca không đặt vấn đề vì hiện diện của Evà mà Ađam sa ngã. Nhưng tâm hồn thi ca muốn rủ đời thong thả đi vào sầu đắng để tìm mật ngọt. Nếu có đặt vấn đề thì băn khơn của người có tâm hồn thi ca là nếu Ađam không sa ngã thì sao ? Ngôn ngữ của trang Kinh Thánh rất thơ thì ta cũng hãy đi tìm ý của ngôn ngữ ấy với tâm hồn rất thơ của thi ca. Gỉa sử Ađam không sa ngã thì địa đàng chắc buồn lắm! Evà phạm tội thì đời nàng phải khổ lụy theo tội. Dù không muốn biệt li, nàng cũng phải chia tay Ađam mà xa dần. Nhìn Evà khổ lụy, liệu Ađam có khỏi trầm luân? Nếu Ađam không sa ngã theo Evà, nếu Ađam cứ đi riêng con đường của mình thì con đường nào Evà sẽ đi, đi về đâu? Phải chăng địa đàng từ đó là hai lối đi, hai ngã rẽ, hai khung trời? Nếu Ađam không theo lời Evà, cứ theo lộ trình khác đi riêng mình thì Ađam vẫn tiếp tục một mình vì thiếu vắng người nữ. Chính cái “một mình không tốt” ấy mà Thượng Đế đã tạo dựng cho Ađam người nữ. Vậy, giờ đây nếu Ađam không chung đường với Evà thì Thượng Đế có phải tạo một Evà khác cho Ađam? Mà tạo dựng Evà khác thì Thượng Đế sẽ tạo người nữ ấy từ hư vô hay cũng lấy xương thịt của Ađam. Nếu lấy từ xương thịt Ađam thì Evà có đi đâu chưng nữa vẫn là phần đời của Ađam. Ađam có một Evà khác xinh đẹp thế nào đi nữa thì cũng chẳng thể nguôi khoai được vì một phần đời cảu mình đã ở nơi Evà cũ. Nếu Evà thứ hai được tạo dựng từ hư vô thì liên hệ giữa Ađam với Evà thứ hai này có lẽ xa xôi như liên hệ của hai chủ nhân. Ađam không sa ngã là Ađam của ánh sáng. Evà mang thân phận bóng tối rồi. Không còn chung một khung trời thiêng liêng thì trong địa đàng là ngã rẽ, ngổn ngang đằng trước, gập ghềnh phía sau. Nếu không nhìn bưàng ý của thi ca trong câu chuyện sáng tạo thì Ađam phải lị dị Evà. Lúc ấy địa đàng chắc buồn lứam! Thượng Đế đã tạo dựng Evà từ xương thịt của Ađam là lối trình bầy thật quá thơ và quá thực. Thực, vì nó toát ra một gắn bó yêu thương quá tạo hình, không cần lí giải. Thơ, vì nó quá mênh mông nên cũng không thể dùng nhận thức của trí tuệ mà lí giải được. Tạo hình, vì Evà đến từ xương thịt Ađam thì địa đàng không thể có hai chủ nhân mà chỉ có một. Tình yêu ấy trở thành nhất thể. “Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắn khít với vợi mình và chúng sẽ nên một thân xác” (Stk. 2:24). Bì chỉ có một nên Ađam xúc phạm Evà là xúc phạm chính mình. Ađam cũng không thể yêu thương Evà như yêu một chủ thể ngoại tại được, như thích một bông hoa, một ngọn đồi. Evà là phần đời của mình, bởi đó, cso phải con đường hạnh phúc và đẹp như thơ của Ađam là yêu thương Evà để yêu thương mình? Đấng Cứu Thế đã giáng trần vì tội nguyên tổ. Trong đêm Phục Sinh, lời phụng vụ reo vui và gọi tội ấy là “ôi! tội hồng phúc”. Tâm hồn thi ca có thể gọi sa ngã của Ađam là “tội yêu thương”. Gọi là Kinh Thánh vì lời đó có chất “thánh”. Vậy, ta hãy nhìn “tội” trong trang Kinh Thánh đầu tiên ấy với cái nhìn về phía “thánh” hơn là phía “tội”. Rồi, chuyện “tình sử” ấy sẽ tiếp tục lung linh đẹp lên ý nghĩa chuyện tình yêu. Cái sa ngã của Ađam làm cho Evà cùng đi chung một đường trần, cùng bước chung một nhịp tình. Tâm hồn thi ca thấy ý của sa ngã ấy, thấy nghĩa của lỗi phạm đó là địa đàng làm sao lại

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 51

Page 52: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

có thể có hai khung trời được. Địa đàng có đau khổ mà vẫn không thấy ngôn ngữ li dị. Có chao đảo mà không biệt li. Tội Ađam đã nâng đầy một vận điệu sai cung cho ngõ cụt có lối đi. Phải chăngm vì thế, cùng đi trong hôn nhân có một giá trị đẹp. Ý của thơ không tìm cách giải lí tại sao trong hôn nhân lại có đau khổ. Trong dầu đắng tâm hồn thơ đi tìm mật ngọt. Đối với thơ thì tình yêu hôn nhân trong vườn địa đàng thuở xưa đẹp vì hai tâm hồn ấy đã lấy đau khổ mà dìu nhau đu. Ađam đã cùng khổ lụy trong nỗi gian nan của Evà. Tình yêu từ đó đậm thêm ngôn ngữ thi ca. Có những quãng đời đường như không thấy hạnh phúc đâu. Lúc ấy hạnh phúc ẩn náu bằng ngôn ngữ của thơ. Thơ sẽ định nghĩa hạnh phúc là cùng nhau đau khổ. Ngôn ngữ của thi ca đi tìm hạnh phúc là khi cùng nhau sầu đắng thì có mật ngọt trong sầu đắng rịn ra. Đơn giản, kín đáo và siêu bạo. Trong cái nhìn bao dung của ngôn ngữ thi ca, ta chửng kết án Evà, không phàn nàn Ađam, rồi sẽ thấy ý đẹp của chuyện tình còn đó. Trong cái bao dung của ngôn ngữ ấy, ta thấy lỗi lầm của Ađam đã chủ động một tiềm lực sáng tạo ý nghĩa biết bao. Là chuyện “tình sử”, hãy nhìn phía “tình”. Là Kinh Thánh, hãy nghe tiếng nói từ phía “thánh”. Rồi ta sẽ thấy hình ảnh Ađam làm một chọn lựa với Evà, hai người cùng nhau đi trong gian nan, không phải là ngôn ngữ thẳm sâu nói về tình yêu của hôn nhân sao? Không đọc chuyện gian nan địa đàng xưa là chuyện cổ tích tội lỗi, mà với ý thơ, ta đọc như chuyện tình của chính mình. Người đàn ông ngã xuống với vụng về của Evà là bóng hình chính mình. Đức Kitô ngã xuống với nhân loại trong nghèo khó. Người đàn bà, bóng hình của người đàn ông, hạnh phúc vì nắm bắt được thiên đàng vừa vụt bay. Rồi bóng hình của nhau ấy cùng dìu nhau đi. Chất thơ trong tội của Ađam là “mình bõc vỏ mình” để với người yêu của mình cùng đi, dẫu đời có chát chúa. Địa đàng sau khi Evà phạm tội có thay đổi nhưng vẫn một khung trời. Tâm hồn hai người có khác thủa mới tạo dựng nhưng vẫn chung một lối đi. Vẫn còn là chuyện tình. Chớ gì ta luôn có tâm hồn thơ để bao dung với đời. Thinh lặng nhặt những mẩu đời tầm thường trong cuộc sống mà đưa thành sáng tạo, kiên nhẫn, nhân từ với bóng hình của chính mình. Trong tình yêu có những hiu quạnh và sầu đưáng, xin cuộc đời cho ta biết lắng nghe lời thi vị của thi ca mà tìm ý nghĩa. Ý nghĩa cuộc đời mà linh hồn của thơ muốn tìm là nếu Ađam không cùng chung hệ lụy với Evà thì bây giờ địa đàng thế nào. Chắc mỗi người một nẻo, hai người hai ngả rẽ, chuyện tình ấy rồi biết đi về đâu!

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 22: NHỮNG CÁI NHÌN

Nhìn lên. Nhìn xuống. Nhìn quanh quẩn. Có cái nhìn lương thiện. Có cái nhìn lẳng lơi. Nhìn vu vơ. Nhìn quyến rũ. Nhìn thoáng qua. Trong cái nhìn kĩ, cũng có thể chia thành nhiều cái nhìn khác như là nhìn thèm muốn, nhìn tìm hiểu, nhìn gian tham.

Yêu lặng lẽ là yêu không dám nói

Là âm thầm để chuốc lấy thương đau

Nhìn người ta rồi khe khẽ cúi đầu

Để đêm vè khóc thầm bên gối trắng (1)

Chỉ có “nhìn người ta” thôi mà trong cái nhìn ấy có “yêu lặng lẽ”, có “yêu không dám nói”, có “âm thầm”, có “thương đau”, có “khe khẽ cái đầu”, có “khóc thầm”, có “gối trắng”. Trời ơi! một cái nhìn thôi sao nhiều í quá, beo nhiêu hình ảnh! Thế mà trên đời lại có không biết bao nhiêu cái nhìn!

Không ai nói hết được về những cái nhìn. Nhìn nhiều mà vẫn có thể là nhìn thiếu. Vì thế, những gì tôi viết về cái nhìn chỉ là cái nhìn bắt đầu gợi í mà thôi. Tôi muốn gợi í về hai cái nhìn. Cái nhìn thứ nhất là thấy vì đã nhìn. Cái nhìn thứ hai là nhìn mà không thấy.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 52

Page 53: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Thấy vì đã nhìn.

Đôi mắt mở ra cho nhiều cuộc gặp gỡ diệu kì. Chiều hoàng hôn đẹp có thể cho người nghệ sĩ một tác phẩm thành hình. Có người nhìn dòng sông mà soi tâm hồn cuộc sống trong dòng đời. Có người nhìn những biến cố xẩy đến trong định mệnh rồi thấy con đường Chúa muốn mình đi. Rất nhiều í nghĩa cuộc sống đã được khám phá vì chịu khó nhìn. Thí dụ hai người môn đệ của Yoan Tẩy Giả: “Hãy đếm mà xem. Họ đến, thấy chỗ Chúa ở và lưu lại với Ngài” (Yn. 1:39).Hai người ấy đã đến, đã xem, đã gặp rồi theo Chúa.

“Anh em cứ nhìn xem cây cả mà học hỏi. Khi anh em thấy cành nó mềm ra và trổ lá là biết mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó, anh em hãy biết Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mt. 24:32-33).Chúa Kitô bảo những người nghe Ngài là cứ qua cái nhìn sẽ khám phá các dấu chỉ í nghĩa. Cũng liên quan đến cái nhìn, Tin Mừng có một câu chuyện khác: “Nước Trời cũng giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào giữa lúa rồi đi mất. Khi lúa mọc lên có bông thì cỏ lùng cũng xuất hiện” (Mt. 13:24-26).Đó là  hậu quả của những giấc ngủ thiếu cái nhìn. Trong đời sống thiêng liêng, ta thiếu những cái nhìn này biết bao. Các  mục đồng chăn chiên và ba vua nhìn ngôi sao lạ dẫn đường mà thấy Thiên Chúa giáng sinh. Khởi đầu gặp gỡ ơn sủng là những cái nhìn.

Lạy Chúa, Chúa cho con nhiều cơ hội để gặp gỡ ơn sủng, nhưng con đã không nhìn kĩ, nhìn đủ. Khó khăn trong gia đình, nghèo đói trên đất nước, xích mích trong họ đạo, sự kiện nào cũng có nguyên nhân. Con không thấy vì con không quen nhìn.

Người mù ở cổng thành Jericô đã thấy Chúa rồi theo Chúa về Jêrusalem. Anh ta đã gặp ơn cứu độ. Ngày đó Chúa hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Người mù đáp: “Thưa Thầy xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc. 10:51). Tất cả cái thấy đó hệ tại một yếu tố rất ngắn gọn: Lòng muốn của anh ta. Để thấy thì phải nhìn. Để thì thấy thì phải muốn. Ước ao là điều kiện đầu tiên mở ra cho một chân trời mới. Xin cho con biết ngỏ thời giờ cho những ngày tĩnh tâm để con nhìn những nguyên nhân nào đang làm đời mệt mỏi, mất vui. Con muốn lấy lời cầu xin của anh mù làm lời kinh của con hôm nay: “Thưa Thầy, xin cho con được thấy.”

Nhìn mà không thấy.

Trong đời sống bình thường, kinh nghiệm cho hay nhiều lúc người ta muốn nhìn một vật gì đó, nhìn mãi mà chẳng thấy. Hai người đứng cạnh nhau, một người cứ hỏi: “Đấy, thấy không, thấy không?”. Người kia: “Đâu, ở chỗ nào đâu mà chăng thấy!” Như thế, ước ao nhìn mà cũng chưa thấy. Có người chỉ cho mà cũng chưa chắc thấy. Rồi gian nan hơn nữa là có khi thấy rồi mà không hiểu. Nhìn bức tranh chỉ thấy màu thôi chứ không thấy hội hoạ. Người không biết đọc sẽ thấy chữ chứ không thấy nghĩa. Thấy mà không hiểu thì cũng chả hơn gì nhìn mà không thấy.

Như vậy, để nhìn mà thấy, nghĩa là nhìn mà hiểu thì qua cái nhìn tiếp cận bên ngoài, người nhìn phải đi vào thế giới khác nữa: Thế giới nội tâm. Thế giới nội tâm này quyết định cái nhìn nào thấy và cái nhìn nào không thấy. Bao nhiều người nhìn Đức Kitô, nhưng vẫn không thấy đấy là Thiên Chúa. Nguyên nhân làm cho họ nhìn Đức Kitô mà không thấy Ngài là Thiên Chúa vì thế giới nội tâm của họ cắt nghĩa sai về những gì họ nhìn nơi Đức Kitô.

Tảng đá là tảng đá. Tự nơi sự vật không bao giờ sai về bản thể của nó. Có người nhìn tảng đá nhưng bảo là ngôi mộ. Vậy nhìn mà không thấy điều phải thấy luôn luôn sai về phía chủ thể nhìn. Nơi chủ thể nhìn có một đà cản. Để nhìn rõ, Đức Kitô bảo: “Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ” (Mt. 7:5)

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 53

Page 54: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Theo lời Đức Kitô, để nhìn rõ, con người phải chuẩn bị sửa soạn ở phía mình. Lấy cái xà ra không phải là dễ. Khó vì có thể không biết mình có cái xà. Và có khi biết mà lấy không được, hoặc được mà không trọn vẹn. Thí dụ, nhìn ngôi mộ, ban ngày đi qua ta thấy, như trong Kiều của Nguyễn Du, nó chỉ là “sè sè nấm đất bên đường”. Nhưng tối đến, ngang qua, ta thấy sợ. Ta nói với mình: “đừng sợ, đó chỉ là nấm đất”, nhưng vẫn không hết sợ. Ta biết có cái xà cản, muốn lấy đi mà không được. Hoặc cũng chỉ một ngôi mộ, mà một người sợ, một người không sợ. Như vậy, không phải tại ngôi mộ mà tại ta đã nhìn sự vật không đúng như sự vật nữa. Thế giới nội tâm cắt nghĩa cho nó những hình ảnh khác về chính nó. Đây là một thứ xà trong mắt. Ta không có tự do để nhìn khách thể bị nhìn như những gì nó là. Cáo xà cản này có nhiều hình thức, nó là giáo dục, tập quán, môi trường sống, sức khoẻ, những gì liên quan đến con người.

Nhìn mà không thấy thì những phản ứng, hành động tiếp sau sẽ sai lạc. Sự sai lạc này xẩy ra dưới 3 cấp bậc khác nhau. Sai ít, là những cái sai làm ta đau khổ ít. Sai nhiều, là những cái sai gây đau khổ nhiều. Cái sai đau khổ nhất là không nhìn thấy Đức Kitô.

- Có những lúc chúng ta mua lộn một món đồ. Đi lộn một khúc đưòng. Trang điểm lộn một nét son. Cuộc đời có những cái chọn sai. Nhưng đây chỉ là cái sai nhỏ. Một thoáng qua rồi cũng xong.

- Có người, một lúc nào đó, thở dài. Nhớ lại ngày đầu quen nhau. Tại sao ngày ấy mình không nhìn ra sự thật thế này nhỉ! Bây giờ mọi sự đã lỡ làng. Biết sao đây. Mua lộn chiếc áo thì đổi chiếc khác. Nhưng cưới lộn một người biết bao giờ đổi! Đây là cái sai chết trong đời người.

- Sống là nhìn. Nhìn chung quanh. Nhìn trời cao. Nhìn đất thấp. Nhìn mà không thấy rõ hướng thì đời sẽ đi sai. Chọn sai, đời sẽ khổ. Tẩt cả hạnh phúc của con người hệ tại những cái nhìn đúng và chọn đúng. Sai ít, đời khổ ít. Sai nhiều, đời khổ nhiều. Trong ba cái nhìn, cái nhìn không thấy Đức Kitô rồi bảo đó là tên quỷ ám, tên mê ăn uống, tên tội lỗi, không phải là người cảu Thiên Chúa (Yn. 9:24;9:16. Mt. 9:11;9:34. Lc. 19:7)

Cái nhìn về thiên đàng

Ra trước tòa phán xét về cuộc sống đời sau là ngày hệ trọng nhất. Ngày ấy liên quan đến cái nhìn nhiều lắm. Phúc Âm Mátthêu kể về cái nhìn như sau:

Đức vua nói với những người bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho ma quỷ và các ác thần của nó. Vì xưa Ta đói các người không cho căn. Ta khát các người không cho uống. Ta là khách lạ các người đã không tiếp rước. Ta trần truồng các người không cho mặc. Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thămnom.“ Bấy giờ những người ấy sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chũng con THẤY Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không giúp đỡ Chúa đâu?” Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các người đã không làm cho chính Ta vậy.” Thế là họ sẽ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính thì vào hưởng sự sống muôn đời (Mt. 25:41-46)

Điều kiện để nhìn

Cuộc sống vĩnh hằng của họ rơi vào tràm ải vì không nhìn thấy Chúa nghèo đói. Để nhìn mà thấy thì phải có điều kiện. Chúa đã chỉ cho những kẻ theo Ngài điều kiện đó: “Phúc cho ai cótâm hồn trong sạch vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt. 5:8). Như vậy, điều kiện để nhìn mà THẤY là một tâm hồn trong sạch. Tội là mây mù mưa sa ngăn cản lối nhìn. Khách thể bị nhìn không thay đổi. Nội tâm chúng ta cắt nghĩa khách thể chúng ta nhìn. Cũng một người đàn bà phạm tội, những người Pharisiêu thấy: “Người đàn bà này bị bắt quả tang ngoại tình. Theo luật, chúng tôi phải ném đã hạng đàn bà như thế”. Còn Chúa Kitô thì: “Ta không xử tội người đâu. Đi đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Yn 8:1-11). Cùng một sự kiện, hai cái nhìn, hai lối thấy khác nhau. Những người Pharisiêu không nhìn thấy độ lượng, bao dung vì họ không có trái tim trong sạch. Chính câu nói của Chúa: “Ai trong

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 54

Page 55: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

các ngươi sạch tội thì ném đá trước đi”, cho thấy điều kiện để nhìn thấy Chúa là trái tim sạch tội.

Lạy Chúa, để hạnh phúc thì con phải nhìn rõ. Thế giới nội tâm con bị đục vì lo âu, vì tội lỗi vì đam mê nên nhìn mà không thấy, thấy mà hiểu sai. Xin Chúa cho con quả tim mới để con có cái nhìn đúng về người chung quanh con đang sống với. Và quan trọng hơn nữa là nhìn rõ về chính con. Theo cái nhìn của Chúa thì cứ khởi đầu bằng lòng thương xót. Có lòng bao dung, độ lượng con sẽ nhìn cuộc đời rõ và đúng hơn.

Làm sao biết mình đã nhìn thấy?

Để biết mình nhìn mà có thấy hay không thì có thể kiểm chứng qua hai cách. Thứ nhất là xét về kết quả những cái nhìn của kẻ gặp Chúa xem thế nào. Thứ hai là tìm xem cách Chúa nhìn ra sao.

Thứ nhất, kẻ “thấy” Chúa thì đời họ có sự biến đổi qua hành động cụ thể. người mù thì lên đường theo Chúa về Jêrusalem. Hai môn đệ của Yoan thấy Chúa rồi thì ở lại với Ngài. Người đàn bên giếng nước thì chạy về nói cho dân trong làng. Môn đệ trên đường Emau thì thấy như bừng lửa trong lòng.

Thưa hai, Đức Kitô nhìn con người bằng tâm hồn xót thương. Thí dụ như một chiều bên đồi cỏ, thấy dân chúng đói, Chúa đã truyền cho các môn đệ lo cho họ ăn: “Thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt. 9:36). Rồi ở nhà Maria, trước cái chết của Lazarô: “Thấy cô khóc  và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Kitô thổn thức trong lòng và xao xuyến.”   Khi người ta bảo Ngài đến mà xem chỗ xác Lazarô nằm thì Yoan tường thuật: “Đức Yêsu liền khóc” (Yn. 11:32-35). Cái nhìn của Đức Kitô luôn luôn chứa chan một tình cảm sâu trong tim.

Để xét mình, tôi có thể dựa vào hai tiêu chuẩn này mà hỏi linh hồn. Tôi có cái nhìn nhân ái với con người hay không? Có gì thay đổi trong lối sống của tôi không? Nếu không có, thì những gì tôi nhìn thấy Chúa có thể chẳng khác người Pharisiêu thấy Chúa là bao. Tử nạn lịch sử trên Núi Sọ của Đức Kitô đã hoàn tất. Hôm nay chỉ còn tử nạn của Đức Kitô nơi con người. Câu trả lời: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con THẤY Chúa đói, khắt, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, hay yếu hay ngồi tù, mà không giúp đỡ Chúa đâu?” là chứng từ một cái NHÌN MÀ KHÔNG THẤY.

Câu Chúa đáp trả: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các người không làm như thế cho một trong những người bé nhỉ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”, là chứng từ minh xác rằng cách ta nhìn trong cuộc sống này sẽ liên hệ tới số phận đời đời.

---------------------------------------------------------

(1) Lời thơ trên tôi không nhớ trọn vẹn. Có thể là của Lệ Khánh, trong tập thơ Em Là Gái Trời Bắt Xấu.

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 55

Page 56: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

ĐOẢN KHÚC 23 : KINH CHIỀU

Đêm nay con muốn nói với Chúa về nỗi cô đơn của mộ linh mục. Con không còn trẻ như một linh mục mới ra trường để rạo rực thấy màu áo dòng luôn sáng mùa phục sinh. Con cũng chưa là tay thợ gặt đã  sương gió quá đời người trên cánh đồng. Con chỉ vừa đủ một quãng đời cho một kinh nghiệm nỗi cô đơn của đời linh mục là gì.

Ngày giã từ nhà trường với hương thơm của sách vở vẫn còn phảng phất đâu đây. Con nhớ ngày đó đẹp làm sao. Như cánh diều nhờ gió cho một chân trời đã căng đầy ước mơ từ lâu. Gìơ đã đến, tung gió mà bay cho bát ngát bầu trời. Chiếc áo dòng đóng dấu đời con một tình sử

thiêng liêng. Con bước xuống cánh đồng với lời hứa sẽ đem ề một mùa lúa hân hoan.

Đêm nay, nhìn màu áo trong thinh lặng của một đêm trằn trọc tâm tư. Có nhiều thứ cô đơn trong cuộc sống. Cô đơn con muốn nói với Chúa đêm nay là cô đơn mà một linh mục thấy cô đơn hơn cả.

Trong tình yêu, khi một người muốn yêu mà tình yêu cứ bay ngược gió, họ thấy hồn họ hiu hắt buồn. Họ có thể gọi nỗi buồn ấy là cô đơn. Dường như con tim phải đi tìm con tim. Chẳng thế, sao Chúa phải tạo dựng Evà cho Ađam? Trong câu chuyện tạo dựng Ađam-Evà, lời Kinh Thánh thật thơ mộng khi bảo rằng trái tim người thanh niên ở một mình không tốt. Đó là tiếng gọi nhiệm mầu liên hệ giữa nam và nữ. Từ thời gian đó về sau, con tim đi tìm con tim.

Nhưng câu chuyện yêu thương đẹp như thần thoại ấy cũng có lối rẽ riêng cho một màu sắc khác. Đó là khi Evà đến thì Ađam đã sa ngã. Vậy, nếu Evà đừng tới có phải trái tim một mình của Ađam tự do dong chơi hơn? Lời trong trang Kinh Thánh thì ngắn mà ý thì mênh mông vô bờ. Có liên hệ nhiệm mầu giữa hai người, nhưng giữa hai người vẫn có khoảng cách. Ađam đã sa ngã sau khi Evà đến cho thấy liên hệ nam nữ ấy không phải là định đề tất yếu tối hậu cho một hạnh phúc trọn hảo.

Tuy không là liên hệ tất yếu phải có, nhưng liên hệ nam nữ là tiếng gọi rất sâu trong thân xác. Tiếng gọi nhiệm mầu của con tim đi tìm con tim vẫn luôn là thôi thúc. Tuy nhiên, không phải là định đề tất yếu phải có cho hạnh phúc, nên tình yêu nam nữ chỉ là một thứ nhu cầu trong nhiều nhu cầu khác của cuộc sống. Trong khoảng cách nam nữ, nhiều người đi tìm một tình yêu dàn trải hơn, nó là sáng tạo, là nghệ thuật, là phụng sự, là lí tưởng tôn giáo như lí tưởng con đang theo.

Con yêu những chân trời nắng dội. Con không thể đánh đổi cho dù một vườn cung ngự uyển nào cả. Con muốn đi. Con hạnh phúc với cánh tay  với mãi bầu trời. Con muốn bay. Con không thể đánh đổi những chiều băng gió, qua mây ngàn tìm ánh sao. Những buổi chiều ấy huyền nhiệm quá. Có những bóng chiều một mình, mây ngàn hun hút thẳm, trái tim có khi rất thơ cho một bóng hình. Con độc hành mà vẫn không cô đơn. Vắng bóng hình trong liên hệ nam nữ không là nỗi cô đơn của con. Bởi cô đơn làm sao được khi con đem kinh cầu gõ lối cho ý thơ bay cao. Vậy, nỗi cô đơn con muốn nói Chúa đêm nay là nỗi cô đơn nào.

Trong những định nghĩa về côc đơn cũng có thể là cô đơn vì thiếu quý mến của kẻ dồng hành. Đường về Nhà Chúa là ơn gọi đi chung. Con không  thể là linh mục của Chúa nếu không đi với ai. Con có bước chân riếng, nhưng trong cái riêng ấy không vắng những bước chân bên nhau. Những bước chân bên nhau ấy đã có những bước lầm lẫn dẵm vào đời nhau. Và lầm lẫn ấy làm cho đôi chân xa nhau trên một lộ trình mà ngại nhìn nhau trong gặp gỡ đó là nỗi vắng giữa đám đông. Nó là nỗi vắng không dám định nghĩa là cô đơn. Khi chiều buông, là cây xẻ cánh rũ vào đêm, hình hài nỗi vắng ấy lên màu. Khoảng màu ấy là sự xa cách. Lúc thinh lặng của bóng hoàng hôn và khi tiếng kinh chiều đã lịm, trăn trở của một chiều nghỉ ngơi mà thấy chung quanh  mình là chống đối, đó không phải là những chiều cô đơn sự đơn côi sao.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 56

Page 57: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Nhưng thưa Chúa, không hẳn mọi xa cách đều mang màu đơn độc. Đối với con, có những xa cách cần thiết cho sáng lên một định đề lí tưởng mình đã chọn cho đời mình. Con có đủ can đảm chấp nhận khác í để giữ trọn lối sống. Bước đi bên cạnh bao nhiều bước chân khác, con phải học can trường mà chấp nhận những giây phút bị những bước chân chống đối. Đẹp biết bao khi bước chân nào cũng rạo rực những thương cùng mến, những nhờ cùng mong. Là linh mục, con không mơ tưởng điều ấy, con nguyện xin và cố gắng, nhưng con phải thực tế nhìn những khía cạnh dang dở của cuộc đời và chấp nhận những ngày u ám. Và, con đủ nghị lực để không định nghĩa những chiều nghỉ ngơi trong trăn trở của những cảm tình xa cách mình ấy là cô đơn. Nhưng giây phút không có Chúa bên mình, không thấm linh hồn trong cầu nguyện, xa cách ấy có thể làm lí tưởng linh mục bạc màu. Con cũng đã thấy có những tâm hồn linh mục mang nhiều thương đau của những chống đối đó. Con cũng sợ những giây phút con không thấm linh hồn trong cầu nguện không có Chúa bên con.

Còn hơi ấm của máu, còn tiếng thở của rung cảm là còn nỗi chán của những xa cách. Phải cam đảm lắm mà chống cự. Phải anh hùng lắm mà giữ vững niềm vui. Tuy hoang vu thế nào đi nữa con vẫn không định nghĩa sự xa cách đó là cô đơn. Thiếu thương mến của những bước chân song hành, nếu có khó khăn của những bước chân đưa đời mình vào nghịch cảnh, con gọi đó là những u ám của mùa thương khó. Có chán nản con cũng không gọi đó là cô đơn. Vì con vẫn có Chúa. Nỗi cô đơn con muốn nói với Chúa đêm nay ở sâu  mãi trong tâm hồn con.

Có lẽ con đỉ cam đảm để di những tháng ngày u ám của mùa thưogn khó. Có lẽ con đủ tha thiết để bay cao trong những chiều có tiếng gọi thầm trong thân xác của vườn địa đàng. Nhưng nỗi cô đơn trong con là cô đơn khi con không muốn nghĩ về Chúa, không muốn nói về Chúa, không đủ năng lực đem Chúa cho ngưòi khác, và nhất là không có Chúa trong con.

Là linh mục, mà con không muốn nói về Chúa cho cuộc đời, con thấy trong con úa nắng làm sao. Là linh mục, mà mỗi sáng con ngại ngùng dâng lễ, con thấy trống vắng lắm. Những lúc như vậy, con thấy dâng lên một nỗi chán rất sâu. Nỗi chán ấy đến từ vùng sâu thẳm nhất của linh hồn. Là linh mục, mà con không đủ nghị lực đem Chúa cho người khác, con thấy những ngày như vậy giống như mùa thu rất ngắn trong khu vườn rất chật. Lặng lẽ và lẵng lờ. Con gọi tất cả những nỗi chán và nỗi vắng ấy là cô đơn. Khi con không muốn nói về Chúa, nghĩ về Chúa, không có Chúa trong con, con thấy lẻ loi. Con gọi sự lẻ loi ấy là cô đơn.

Con yêu những chân trời nắng dội của Phanxicô Xaviê. Người thanh niên một thuở nuôi mộng đời giữa kinh thành hoa lệ Paris đã giã từ bờ biển Tây Phương không hẹn ngày trở lại. Và thực sự, người thanh niên ấy đã ra đi không bao giờ trở lại quê hương mình. Theo cánh buồn của đám thương gia tìm đường đi truyền giáo. Rời Lisbon đến Ấn Độ. Bỏ Ấn Độ tìm đường đi Mã Lai. Bỏ Mã Lai tìm vào Nam Dương. Bỏ Nam Dương tìm vào Nhật Bản. Bỏ Nhật Bản tìm vào Trung Hoa. Một ngày u ám không tiếng sóng, chết trên bờ biển với người bạn fuy nhất mà vẫn xuối mát nhìn vào Hoa Lục vì mơ ước chưa thành.

Lạy Chúa, không có nghịch cảnh nào ngăn nổi bước chân Phanxicô Xaviê vì người thanh niên ấy muốn nói về Chúa. Con muốn đi qua những giới hạn của liên hệ trong tâm hồn, trong thân xác, trong xã hội để cánh chom bay cao. Cô đơn của linh mục là không muốn nghĩ về Chúa, không muốn nói về Chúa. Và, lạy Chúa, khi con ngại dâng lễ, chán giờ kinh nguyện là dấu chỉ con đang đi vào cô đơn. Đêm nay, con muốn nói với Chúa về nỗi cô đơn đó.

 

 

 

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 57

Page 58: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

ĐOẢN KHÚC 24: HOA TƯỞNG NHỚ

Có phải hoa nghĩa trang là những cánh hoa nói về niềm thương nhớ? Có cánh hoa của người sống ở  nghĩa trang trước mộ bia người chết, nhưng là để lấy lòng người sống.  Có cánh hoa xã giao như vậy thì cũng có những cánh hoa ân tình của người sống gởi người ra đi rất đỗi chân thành yêu mến. Những cánh hoa đó là cánh hoa nhớ thương.

Lời của cánh hoa nhớ thương.

Tôi là một cánh hoa đẹp chứ không bị làm cánh hoa giả hình như đoá  hồng nhung mà các bạn vừa nghe tâm sự ở đoản khúc 6 bên trên. Đoá hồng nhung được đem ra mộ bia, nhưng thật tình chỉ là để người sống xã giao với người sống. Bởi đó, đoá hồng nhung có nỗi câm nín riêng.

Tôi là cánh hoa nhớ thương thật tình của người sống tiễn người đi trong tiếc nuối. Nếu cô đơn có nhiều tha thức, nếu đau khổ có nhiều hạt giống khác nhau thì thương nhớ cũng vậy. Có thương nhớ cắn rứt xót xa. Có thương nhớ của hối hận ăn năn.

Có nhớ gởi đi xa để gọi thương về gần. Tôi là cánh hoa của hai nỗi: thương và nhớ.

Ngày xưa, tôi là cánh hoa nhớ thương của hai người sống gởi cho nhau. Nhưng hôm nay tôi đang ở nghĩa trang, tôi là cánh hoa của một người sống gởi một người chết. Tôi xin kể về thế giới của loài hoa được làm thương nhớ.

Tôi đên nghĩa trang này vào một buổi sáng không có mấy. Trời cao nguyên mà không trong, không độ lượng, màu xám bao che không gian. Bụi sương bay nhẹ trong hồn tôi như sương bay ngoài cánh đồng.

Những đoá hoa chúng tôi trang trọng theo đoàn người ra mộ bia. Có tiềng thổn thức trong hồn ai đó. Chuyện tình của họ đã mấy chục năm nay. Có những ngày họ yêu nhau nồng nàn và cũng có những ngàu họ chán nhau. Những giận hờn đây đó rải rác  trong đời họ cũng nhiều, nhưng chỉ là những cách xa giới hạn, rồi họ lại cùng nhau đi. Họ không ngờ có ngày họ xa nhau vĩnh viễn như hôm nay.

Tình yêu cần thời gian vô cùng. Người ta chỉ có thể yêu nhau rất nhiều chứ không thẻ bảo là đã yêu nhau trọn vẹn. Vì thế, thời gian luôn luôn mở ngõ về phía trước để tình yêu của họ có thể nồng nàn hơn.  Khi đau thương thì thời gian cũng mở ngõ cho họ hi vọng làm lại chuyện tình. Bởi đó, thời gian là định mệnh hệ trọng của tình yêu. Khi một trong hai vĩnh viễn ra đi thì ngõ tương lai ấy khép lại mất rồi, và kẻ kia chỉ vời trông theo mà thôi.

Đám tang sáng nay là chuyện tình của hai người mà trong quá khứ chưa yêu thương như lòng họ mong muốn. Họ dự định cho nhau tình yêu nồng nàn ở tương lai. Nhưng, một đồi chiều mây xám bên nghĩa trang, lối tương lai đem bóng hình người yêu di mất rồi. Do vậy, trong sa mù sáng nay có gợi nhớ, gợi thương. Vì thương nhớ đó mà loài hoa chúng tôi theo chân người ra nghĩa trang.

Nhớ thương một người đã chết có thể là ray rứt của trái tim chưa yêu ngươờ chết cho đủ khi còn sống. Và cũng có thể nhớ thương người ra đi là tiếc  xót cho mình. Người chết đã đi rồi nên

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 58

Page 59: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

người sống có nhớ, thì người chết cũng chẳng biết. Người chết về một cõi xa xăm, vì thế xót thương người chết lại quay về với người gởi xót thương đi.

- Bởi đâu có xót thương nếu không có mất mát? Chỉ người ở lại thấy căn phòng trống trải. Chỉ kẻ ở lại thấy mình mất. Như vậy, xót thương trong nghĩa trang không phải là xót thương mình sao.

Nếu thế, những bông hoa thương tiếc trước mộ bia cũng chỉ là để xoa dịu nỗi đau của kẻ sống mà thôi. Người chết về thế giới linh thiêng là người chết bỏ lại thế giới này chứ không phải là mất, nên họ không đau đớn, xót thương. Do đay, những cánh hoa trước mộ bia là cánh hoa của người sống đem thương nhớ đến rồi lại lấy thương nhớ về.

Câu chuyện nỗi thương nhớ sáng nay trên vùng trời cao nguyên này là thế. Tôi được họ ôm sát lồng ngực, nên cánh hoa chúng tôi nghe rõ con tim đau đớn. Họ nuối tiếc một trời quá khứ đã chẳng thương nhau đủ, để đời nhau thổn thức. Giờ đây, kẻ ở, người đi nghìn trùng xa cách. Tôi nghe nước mắt xót thương của người sống rơi trên từng cánh hoa, tôi xúc động lắm, nhưng tôi không theo người chết ra đi mà gởi thương nhớ được. Chính vì thế, lúc này, loài hoa chúng tôi cũng chẳng thể nói gì đựoc với người đã ra đi. Tôi chỉ xin có lời cho người còn sống thôi.

Lời cho người sống:

Trước định mệnh cuối đời ở nghĩa trang này, tôi cũng hạnh phúc là ngày xưa được làm bông hoa của hai người sống trao cho nhau. Tôi xin kể đôi lời về những tháng ngày hạnh phúc ấy.

Ngày đó, tôi là bông hoa bận rộn như cánh ong đến mùa làm mật. Họ càng yêu nhau thì tôi càng say đường đi, chóng mặt ngõ về. Họ gởi hoa tặng nhau. Chúng tôi vô cùng hạnh phúc thích thú trong trò chơi tuyệt vời của Thượng Đế tạo dựng này. Khi hai người thương nhau, họ nâng niu chúng tôi từng cánh mỏng, họ đưa lên lồng ngực ấp ủ, rồi chúng tôi đem sứ mạng tình yêu của người này chạy một đường dài tới cho người kia, ở đó, chúng tôi lại được lồng ngực khác đưa lên thương mến. Đời chúng tôi cứ là thế. Chúng tôi là loài hoa được nghe hết những nồng nàn trên hương tóc, trên bàn viết, trên đôi môi của con người. Chúng tôi chan hoà hạnh phúc vì đem giây ngọt ngào ràng buộc con người với con người, trái tim với trái tim.

Bạn ạ, không gì đẹp cho cánh hoa khi được làm thiên thần truyền tin đem tình yêu cho con tim. Lối đi, chúng tôi được tiễn bằng chờ mong. Lối về, chúng tôi được đón bằng mong nhớ. Người gởi tình yêu đi thì cho chúng tôi hạnh phúc. Người nhận tình yêu về thì cho chúng tôi ngọt ngào. Ngõ đi lối về đều là mật, là hương. Và dường như, vì thế mà chúng tôi được Thượng Đế sinh ra.

Chúng tôi muốn là bông hoa của người sống gởi cho người sống. Khi chúng tôi theo chân người ra nghĩa trang, chúng tôi không biết đi đâu. Tôi đem thương nhớ của người sống đến đây, nhưng người chết không cho địa chỉ nên chúng tôi phải quay về với người sống..

Thương nhớ ở nghĩa trang là đường một chiều. Chúng tôi là những cánh hoa đi mà không có bến đỗ. Chúng tôi là cánh hoa không làm trọn tin mừng truyền tin của thiên thần. Vì, lối tiễn có người đưa mà lối đi không có ai nhận. Chúng tôi là cánh hoa thương nhớ. Chúng tôi xẻ tim mình thành hai bến đò:Bến Thương và Bến Nhớ.

Thương và nhớ là hai động từ chúng phải được tác động từ một chủ thể. Trong tình yêu, thương và nhớ hoà lẫn vào nhau. Nhưng bạn ạ, nếu nhìn kĩ, trong cái hoà lẫn vẫn có nhưng biên giới khac biệt.

Đã được làm hoa thương nhớ, giờ đây, loài hoa chúng tôi xin nói về hai bến thương và nhớ đó.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 59

Page 60: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Không thương nếu không biết. Không nhớ nếu không thương. Tôi thương là thương ai. Khi thương thì động lực trong tim tôi thúc đẩy mình phải làm “một cái gì đó” cho người mình thương. Nó diễn ra bằng hành động. Thương mà không có việc làm, và chẳng làm gì cho người minhg thương là thương hờ. Thương, rồi động tự nhớ mới đến sau. Không có ai trước khi thương mà đã nhớ. Nhớ chỉ đến sau khi đã thương. Nhớ chỉ là hình ảnh, thay mặt cho thương khi không có mặt người đó để thương. Thương thúc đẩy nhớ. Nhớ chỉ là thay mặt, nên trong tình yêu, thương là động từ chính, nhớ là động từ phụ.

Chẳng đôi tình nhân nào lại nhớ vòng tay khi họ đang trong yêu thương mặn nồng. Khi thương đến, thì bùng lên tràn vỡ  bằng trọn vẹn tâm tư, ước muốn, hành động. Khi không có thể thương vì xa cách, bấy giờ động từnhớ mới thay mặt gọi lại thương. Và lúc này, động từ nhớ đẩy chủ thể tìm cách thương thêm và chuẩn bị để thương nhiều, thương cách khác nữa.

Trong tình yêu có cả thương và nhớ. Khi con người còn sống thì họ có thể vưa thương vừa nhớ. Hiểu rằng thương là hành động cụ thể, làm “một cái

gì đó” cho người mình thương, nó là hi sinh, là tặng phẩm, là tha thức, là xin lỗi, thì lúc chết rồi chỉ có thể nhớ mà không còn thương đựoc nữa. Khi còn có nhau, họ nhớ nhau đó, mà sao khó thương . Đến khi một kẻ ra đi rồi, không thương được nữa, bấy giờ họ lại nhớ. Chuyện con người sao lạ quá nhỉ.

Nhớ mà không thương thì chỉ là nhớ buâng quơ. Nhớ mà thương, nhưng không cách nào thương được nữa là nhớ xót xa. Nhớ thương trong nghĩa trang sáng nay là thương nhớ xót xa này.

Tôi muốn là bông hoa được thương để rồi có nhớ. Tôi không muốn là bông hoa khi nhớ thì không còn cơ hội để thương.

Tôi muốn là bông hoa của vợ chồng trao cho nhau trong cuộc đời lúc còn sống chứ không phải ở ngoài nghĩa trang. Rồi họ cũng phải giã từ nhau. Nhưng chẳng ai muốn giờ li biệt của mình là giã từ trong lạnh lẽi tẻ nhạt. Họ cần cho nhau một bông hoa lúc còn sống để biết bông hoa ấy sẽ  vẫy chào nhau lúc biệt li.

 

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Viết trong tâm hồn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 60

Page 61: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

ĐOẢN KHÚC 25 : MÂY TRỜI

Là bụi tro tôi sẽ trở về với tro bụi. Như mây hợp rồi tan. Rất đơn sơ.

Nhưng mây sẽ làm gì từ khi hợp đến khi tan? Từ khi hợp đến lúc tan là một hành trình dài của mây. Tôi đến từ bụi tro, ngày nào đó lại thành bụi tro thôi. Ngắn gọn là thế. Nhưng quãng đường từ thứ bụi tro này đến bụi tro khác là cuộc đời dài. Cũng như mây, tôi sẽ làm gì trên hành trình dài đó của cuộc sống?

Mây đem mưa cho núi đồi. Những sợi nước ngọt gọi đất thức giấc. Từ mong đợi của lòng, đất nhẹ nhàng thở hơi. Và rừng xuân thay lá. Rừng vắng ngái ngủ có mây về rải mưa. Rồi rừng thức dậy vào liên khúc bốn mùa. Mây về rải mưa xuống ngàn cho lúa lên nạ đòng đòng. Có mây và có mưa, có mùa sai lúa an ủi bác nông phu. Mây về đem mưa cho đất thành đồi cỏ xinh. Từ ngàn xưa, Cựu Ước đã chờ mưa, những dòng mưa thiêng liêng cho tâm hồn: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc tôi.”

Là linh mục, xin Chúa cho đời con làm đám mây hồng. Vẫn biết hợp rồi tan nhưng lời cầu của con là trước thời điẻm tan loãng, con biết đem mưa đến cho đời. Có những hanh nắng và thửa vườn cằn khô. Ai đâu đến với họ cho họ một niềm vui. Biết bao mỏi mệt đổ dài trên những cuộc đời vất vả. Mùa đông cứ im, cành cây cứ lặng và họ mong mưa xuân từng ngày rất mỏi. Mây không lười biếng. “Lúa chón đầy đồng mà thợ gặt thì ít.” (Lc. 10:2).

Xin cho con được bay theo đường bay của Chúa Thánh Thần. Vào giờ Thánh Thần Chúa ban lệnh, con sẵn sàng lên đường ngay.

Mây bay ngang trong đời và mây không chọn vùng trời. Mây đem mưa cho đời và mưa không chọn từng người. Mây không rủ mưa về mảnh vườn thương mến. Mưa không rơi trên những núi đồi nào mến thương mình. Mây vô tư bảo mưa quảng đại. Bởi, mây biết mình hợp rồi tan. Mây biết mình thuộc về trời cao nên không mơ tưởng những gì thuộc về đất thấp.

Mưa cho đi là cho rộng rãi. Cho cỏ cũng như cho hoa. Cho ruộng mạ cũng như cho rừng già. Mây đem mưa là mưa bao dung. “Mưa rơi trên người công

chính cũng như trên kẻ ác” (Mt. 5:45). Mưa không tránh lòng tham của sa mạc khô cháy. May không ngại hao mòn vì mây biết đời mình là tan theo dòng mưa. “Chẳng có tình nào cao quý bằng chết cho người mình thương mến” (Yn. 15:13).

Là linh mục, xin Chúa cho con nhìn mây mà cầu nguyện, nhìn mưa mà khấn xin. Xin cho con độ lượng, bao dung. Khi mưa không vô tư, chỉ đem nước cho mảnh vườn mình âu yếm thì đấy không phải là mưa, mà là nước từ ao hồ người làm vườn rẩy lên.

Khi đời kinh mục của con có lối ngã riêng thì đấy không phải là cho nhau ơn sủng từ trời cao, mà là nhặt nhặn từng mẩu bánh đã rơi lâu ngày ở mặt đất. Chỉ có mưa từ trời thì hạt nước mới trong, và bao giờ cũng trong. Nước từ hồ ao có thể vấn bùn làm cho cành hoa thật đẹp mất xinh tươi.

Mây đi muôn phương. Không có đồi thu nào giữ được chân mây. Không có rừng hạ nào bảo được mây thôi đi. Mây không có nhà, chẳng mảnh vườn nào quyến rũ được mây lưu lại chọn làm quê hương. Tôi mong đời mình như mây. Tôi mơ đời mình tự do như Đức Kitô:  “Chồn có hang, chim có tổ, nhưng Ta không có viên đá dựa đầu” (Lc. 9:58). Chim có tổ nên phải nhớ lối về. Chồn có hang nên không quên được vùng đất mốc. Còn Đức Kitô thì tự do khắp đồi núi.

Tôi muốn như mây, dù có thương nhớ trên thung lũng nào đó, mây vẫn bay. Có tiếng gọi từ

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 61

Page 62: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

dòng suối nào đó bảo mây nghỉ ngơi, mây vẫn giã từ. Mây cứ nhẹ nhàng trôi. Mây tự do. Không ai ràng được chân mây. Tôi muốn đời tôi là thế. Tôi muốn không bao giờ xây hạnh phúc bằng những bến đỗ. Mây rong ruổi ngàn gió. Mây thuộc về trời cao thanh tịnh.

Lạy Chúa, đôi lúc con đã phân vân ở những lười biếng mà đnág lẽ con phải dứt khoát. Con đã ngại ngùng ở những bổn phận mà đáng lẽ con phải ấp ủ. Con khác mây vì mây ở trên cao còn con ở đất thấp. Mơ về trời cao từ đất thấp làm sao không gian nan. Để như mây, lạy Chúa, con cũng phải thản nhiên lên đường. Dũng cảm.

Mây tặng mưa xuống ngàn rồi mây quên. Con ban tặng là muốn họ lệ thuộc. Trong quà tặng cho đi có im lặng của ràng buộc tinh vi. Mây không muốn ai ngủ trong bóng mây của mình. Còn con muốn che chở người như căn nhà quen để họ lại tìm về. Mây cho bóng mát là mây cho nâng đỡ để họ tìm đường đi lên. Con cho bóng mát là muốn họ lưu luyến. Vì thế, bóng mát của mây cần thiết còn bóng mát của con có thể làm chậm lối người đi.

Mây cho mưa, mưa không bao giờ lấy lại. Dù sa mạc chẳng bao giờ có đồi cỏ, mây vẫn đem mưa không chối từ. Còn con, sao mà khó khăn khi muốn độ lượng. Trong cho đi có giằng co. Mây đem mưa vì bản tính của mưa là ban phát. Mưa không đòi điều kiện. Độ lượng của con nhiều khi phải qua những cánh cửa khắt khe của biết bao nhiêu tiêu chuẩn. Con biết như vậy mà hồn mình vẫn chưa thênh thang.

Mây bay hàng ngày qua ngõ nhà thờ. Mây bay hàng chiều qua ngõ hồn con. Ngày ngày có mây nhắc nhở mà sao kinh cầu vẫn quên.

Người nghệ sĩ yêu chiều mây. Không mây buổi chiều sẽ đơn điệu. Không mây trời chiều sẽ u mặc, lên màu sa mạc buồn tênh. Nhưng nếu mây không bay theo gió, mây chọn một khung trời rồi ngưng đọng, buổi chiều ở đấy rồi cũng thành nhạt nhẽo.

Nếu mâu hợp rồi không tan, sắc mây sẽ nhàm chán. Nếu mây chỉ có một màu thì buổi chiều cũng là rất vắng. Chiều không quên chiều mà những áng mây biết hoà hợp với nhau để đem chiều lên muôn màu. Chiều chỉ có mộtmàu mây là chiều mây sẽ không ai nhớ. Đời người cũng thế thôi. “Ai tìm kiếm sự sống mình thì sẽ mất” (Mt. 10:39).

Ngang đời là một bến chiều. Xin cho tôi biết nhìn mây mà dừng chân nhủ lòng tìm bến đỗ thiêng liêng cho tâm hồn.

Mây đem màu về góp hội. Mây không tranh  giành nên mây không tính toán làm sao cho mình được nhớ. “Hoa quả của Thánh Thần là mến yêu, vui mừng, bình an, đại lượng, nhân hậu, trung thực, hiền từ, tiết độ” (Gal. 5:22).

Mây không băn khoăn muốn mình được nhớ vì mây luôn nhớ mình hợp đó nhưng sẽ tan. Có phải nhớ mình sẽ tan mà mây độ lượng bao dung. Khi muốn được nhớ là bắt đầu rơi vào những ràng buộc. Vũ điệu là tung hướng đi muôn phương. Ràng buộc sẽ làm vũ điệu thành những bến đỗ. Bến đỗ thì chỉ biết mong người đến chứ không đến được với người. Mây vào đời cũng như chào từ giã cuộc đời, nhẹ nhàng như một bến mơ.

“Nếu sống bởi Thánh Thần thì hãy theo Chúa Thánh Thần mà tiến bước” (Gal. 5:25). Lạy Chúa, lời nguyện ấy của Phaolô từ nghìn xưa năm cũ chớ gì cũng là lời nguyện của con hôm nay. Mấy hôm nay cũng vẫn là mây của tháng ngày Phaolô ngồi viết Tông Thư bên đồi Galat thôi.

Gởi mây cho gió. Và, xin gời lời nguyện từ mơ ước của tâm hồn cho mây.

                                                                                                                                         

 

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 62

Page 63: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 63

Page 64: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đoản khúc 26: Lời trên sân ga

Có đoàn tàu tìm về bến, có con tàu bỏ bến đi. Ở bến ga, có gặp gỡ mà cũng không thiếu chia ly. Bàn tay vẫy bàn tay, thương và nhớ. Thời gian ở bến ga không xuôi theo lối đi của mặt trời nữa, có giằng co với tâm trạng của con tim. Người muốn giữ con tàu lại, thì, ôi! Chưa hết những dặn dò mà tiếng còi đã ngân dài. Kẻ mong con tàu chóng tới, thì, ôi! Tuyến đường sao mà xa xôi.

            Sân ga cũng giống như mùa thu. Khi chiếc lá thu buông cánh, có thể là man mác buồn cho một người nào đó, nhưng cũng có thể là thơ mộng trong hồn cho một trái tim khác. Cái huyền diệu dễ thương của mùa thu là buồn với người buồn và vui với người vui. Phải chăng vì thế, bài thơ nào cũng muốn nhận mùa thu là của mình. Sân ga cũng có bí quyết ấy, nhìn bà mẹ tiễn con lên đường, thấy đẹp làm sao yêu thương săn sóc, sân ga rủ ngợp thương mến. Lúc đó, tiếng còi là não lòng chia ly. Ở bến ga ấy, cũng không thiếu những náo nức chờ mong. Khi con tàu đem gặp gỡ đến, thì tiếng còi lại nghe như rộn rã, hối hả chặt còng tay cho những cái ôm hạn phúc.

            Yêu thương, chia ly, mong đợi là nhịp sống của con người. Bến ga có tất cả dấu ấn đó. Bởi đấy, dừng lại ở bến ga, nghe bến ga thầm thì, ta sẽ thấy bến ga có nhiều lời nói với ta về cuộc đời.

Lời  Của  Con  Tàu.

          Tôi bỏ bến ga ra đi. Một chiều chia ly biền biệt. Nhưng, chẳng có đoàn tàu nào ra đi mà không về bến cũ. Tôi ra đi như một tiếng gọi của đời sống. Ra đi của đời sống sẽ mang tôi trở về. Con tàu không bao giờ rời bến là con tàu bệnh hoạn buồn hiu. Nó phải chuyển bánh mà lên đường. Khi không ra đi vì lưu luyến bến đỗ, tôi chẳng làm cho bến ga hạnh phúc mà chỉ làm cho vắng lên nỗi nhàm chán thừa thãi. Nhưng bến ga không có con tàu chuyển bánh, đường rêu sẽ lên, cỏ dại xoá hết bến đỗ. Lúc ấy, bến ga sẽ còn xơ xác một vùng hoang. Chuyển bánh lên đường, có chia ly đó, nhưng chia ly của tôi sẽ là chia ly hy vọng, làm cho hội ngộ hạnh phúc hơn. Lúc bắt đầu từ giã sân ga, cũng lại chính là khởi điểm trên đường quay trở lại. Những con tàu ra đi. Sự lạc lối ấy hệ tại chính mình. Vì, đường tàu nào mà không dẫn về bến cũ.

            Cuộc đời con người cũng là một đoàn tàu. Tôi đến từ Thượng Đế, tôi sẽ trở về với Thượng Đế. Ngay khi tôi vào đời thì cũng chính là khởi điểm tôi quay về với người gởi tôi đi, như con tàu lao vào bình minh khi rời bến là chuẩn bị quay về lúc hoàng hôn.

            Xin Thượng Đế cho đời con, sống làm sao để lối đi chính là đường về với Ngài.

 

            Ra đi, là con tàu lên đường với lữ kách. Không lữ khách, chuyến tàu sẽ lạnh lẽo. Chẳng có con tàu nào được sinh ra chỉ để rong chơi trên đường ga phí phạm. Linh hồn của bến ga là vui mừng hân hoan khi con tàu trở lại, là thao thức băn khoăn lúc tàu ra đi. Tâm tư trong trái tim đoàn người lữ hành làm cho con người có mến, có thương. Chứ tự nó, con tàu chỉ là khối sắt không ai để ý. Xin Thượng Đế cũng cho con như thế, con vào đời là sống cho, sống cùng, sống với tha nhân. Từ chối tha nhân, đời con cũng sẽ mất ý nghĩa như con tàu từ chối đoàn lữ hành vậy.

 

            Chuyến tàu không biết vui, chẳng biết buồn, không đau khổ, chẳng hạnh phúc là chuyến

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 64

Page 65: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

tàu chở những người điên. Hành trang chở theo trong cõi làm người của con cũng thế thôi. Có nẵng, có mưa, có dông bão, có mừng vui, đó là đời sống. Xin cho con biết chấp nhận tất cả. Con không muốn chuyến tàu đời sống của con là chuyến tàu chở những tháng ngày không biết suy nghĩ. Có ngày hạnh phúc thì con cũng biết chấp nhận những ngày khổ đau .

 

            Chuyến tàu nặng nề và lặng lẽ là chuyến tàu chở đoàn tù nhân. Chuyến tàu ấy chỉ có một tâm tư là bóng tối, một màu áo là mất tự do. Khi con loại trừ tất cả lời phê bình, không chấp nhận ý kiến người khác, lúc con trở nên độc đoán trong suy tư, thiếu bao dung khi hành động thì cuộc đời cũng thế đó. Chung quanh con không còn sáng kiến. Ai cũng lặng lẽ sợ hãi. Con tàu chở tù nhân là con tàu chở sự thương khó cho mình và cho người. Xin Thượng Đế đừng để đời con là những chuyến tàu như thế. Con muốn chuyến tàu là hân hoan của cuộc sống là mùa xuân của những tiếng ca hạnh phúc.

Lời Của Những Con Tàu Cho Nhau.

          - Này Anh, cuộc sống chúng ta đẹp vì chúng ta đem con tàu chuyển bánh. Ngày xưa em chỉ là một khối sắt lặng lẽ, đi tìm ý sống cho riêng mình. Nhiều khi thấy cô đơn làm sao. Rồi duyên trời đưa chúng ta gặp nhau. Chúng ta làm nên tuyến đường song hành. Chúng ta nối xa về gần. Chúng ta cho con người đem nhớ gặp mong. Em hạnh phúc lắm mỗi khi thấy bánh xe rạo rực chuyển bánh. Vì em biết, em đang là sứ giả của Thượng Đế, đang đem sự sống xoa trên cuộc đời.

            - Cám ơn em, vì cùng chung nhau cuộc đời mà chúng ta mới làm nên tuyến đường cho con tàu. Vắng em, tôi cũng chỉ là một khối sắt cô lẻ, tàu không chạy được. Bởi thế, những gì hạnh phúc của em cung là hạnh phúc của tôi. Không có em, đời tôi cũng âm thầm khó khăn đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Khi em làm sứ giả của Thượng Đế thì tôi cũng song hành. Ngày mà chúng ta bỏ nhau là lúc chúng ta chối từ ơn gọi làm sứ giả đó. Chuyến tàu lỗi nhịp biết bao khi không có tuyến đường. Chắc Thượng Đế cũng buồn khi một trong hai chúng ta làm lỗi nhịp để Thượng Đế không gởi được chuyến tàu tình yêu của Ngài vào cuộc sống. Vì thế, tôi muốn nói với em, tôi muốn có em mãi mãi trong cuộc sống của tôi.

            - Đôi khi con người không dám nói với nhau về sự cần nhau. Ngay trong hôn nhân mà dường như họ cũng muốn kẻ khác cần mình. Hoặc họ thích làm ra vẻ như thế. Khi Anh nói, Anh cũng cần em, em không thấy mình kiêu kỳ. Điều ấy không làm em ngạo nghễ. Em chỉ nhìn thấy ơn gọi và trách nhiệm của mình nhiều hơn. Em muốn sống tha thiết cho tình yêu của chúng ta hơn. Cám ơn Anh cho những lời sự thật. Sự chân thành bao giờ cũng làm người khác hạnh phúc. Và, em cũng muốn Anh là của em mãi mãi.

            Anh ạ, cũng như hôn nhân của con người. Chúng ta mất sự song hành là mất căn tính của tuyến đường. Nhưng song hành của chúng ta là tự do trong hai trái tim. Ngày mà chúng ta muốn đồng hoá nhau, kẻ này muốn kẻ kia phải hoàn toàn nên giống như mình, thì lúc đó không còn là hai con đường song hành làm nên một tuyến đường nữa. Ngày mà phía bên kia luôn cho mình là đúng, bắt kẻ khác phải đứng về phía bên đó mãi, thì tuyến đường mất song hành mà trở thành một thế giới cô độc. Con tàu không về bến đươc, mấy con đường rồi. Chúng ta cũng giống như đời sống hôn nhân của con người, hạn phúc đổ vỡ. Phải vậy không Anh ?

            - Cám ơn em, tôi phải nhìn vào thành công của tôi từ căn tính song hành mà chính em cũng là người làm nên. Trong những lúc băn khoăn làm sao để thành công hơn nữa trong đời sống, tôi dễ bị rơi xuống khoảng trống cô đơn. Tôi ngại em nhìn thất bại của tôi. Có khi tôi tự đay nghiến chính mình. Rồi tôi trách cứ cuộc đời, trong đó tôi cay nghiến cả em. Nhưng em là một

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 65

Page 66: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

mảnh đời trong tôi, nên khi cay nghiến em, tôi cay nghiến chính mình. Cứ vậy, trong vòng tròn lẩn  quẩn ấy, tôi thấy đời nặng nề, mệt mỏi.

            - Làm sao cho con tàu đi nhanh, làm sao để con tàu không lạc lối? Em có thấy những băn khoăn ấy, cũng như hôn nhân, họ băn khoăn về con cái, về thành công trong gia đình không ?

            Con tàu lạc lối vì con tàu không muốn về. Con tàu đi chậm vì con tàu thiếu thiết tha. Con tàu khó về đến ga, không phải vì chúng ta không biết điều khiển con tàu, mà có khi vì chúng ta là tuyến đường hạnh phúc cho con tàu đi.

            Ơn gọi của chúng ta là làm tuyến đường cho con tàu chứ không phải là người điều khiển con tàu. Cũng giống như hôn nhân, cha mẹ là tuyến đường cho con cái, nhưng về bến hay không là tự do mang trách nhiệm của con tàu.

            Chúng ta chỉ là tuyến đường, và ngày nào chúng ta còn có nhau thì chúng ta phải hạnh phúc vì chúng ta đã sống trọn ơn gọi.

Lời Của Sân Ga

            - Thượng Đế xếp đặt những con đường sắt. Ngài gọi cho tàu đi. Ngài khồn khắt khe với cuộc đời. Ngài muốn tất cả hạnh phúc. Con tàu cần tuyến đường. Tuyến đường hãy là tuyến đường, Thượng Đế phân chia như thế. Tôi chỉ là bến ga.

            - Là bến ga, tôi không được phiêu du như con tàu, nay mây ngàn, mai gió núi. Tôi cũng không là tuyến đường song hành có bạn đời tâm sự. Tôi chỉ là bờ đá của một bếp ga. Nhưng tôi yêu cuộc đời tôi. Làm bến ga, tôi bắt gặp những triết lý riêng rất sâu về cuộc đời. Chẳng hạn, khi con tàu xa bến, bến ga chìm vào thinh lặng, vắng vẻ. Lúc ấy, tôi nghe tiếng chân của người lữ hành lỡ chuyến tàu ray rứt trên sân ga mà suy tư về những muộn màng có thể sẩy ra cho đời sống. Điều ấy cho tôi khôn ngoan hơn để thức tỉnh khi Thượng Đế đến. Lúc con tàu về, tôi chung vui làm bến đợi cho đoàn lữ hành chào nhau. Lúc con tàu đi, tôi lặng lẽ chia sẽ nổi bùi ngùi của họ. Tôi yêu đời sống làm bến ga cho cuộc đời chia ly cũng như xum họp, nhộn nhịp cũng như êm vắng, háo hức lên đường cũng như chờ mong khắc khoải.

 

            Lạy Thượng Đế, làm bến ga, con không phân bì với đoàn tàu được đi đây đó. Con không ghen tương với tuyến đường có đôi bạn tâm sự.

            Con biết đoàn tàu đu hay về, thì bước chân lữ hành cũng sẽ đặt dấu ấn trên bến ga là cuộc sống của con. Những dấu chân ấy, chẳng có dấu chân nào mà không được Cha đua vào đời bằng ơn cứu độ yêu thương.

            Nếu đã được Cha yêu thương đưa vào đời, thì có bước chân nào ngang qua sân ga mà khồn để lại dấu yêu thương ấy cho sân ga.

            Bởi thế, lạy Thượng Đế, con không so sánh, không phân bì, con yêu ffời sống làm bến ga như ơn gọi của con, và con sẽ hạn phúc sống an nhiên trong cuộc đời .

 

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 27: Chuyện cây nho

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 66

Page 67: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Có cây nho xinh, lá mịn màng. Người làm vườn chờ nắng lên, tiễn ngày đi, bên vườn nho ấp ủ một mùa sai trái. Ngồi bên luống nho như ngồi bên dòng đời. Người làm vườn nhìn màu lá dập dờn trong nắng như màu hạnh phúc đổ xuống tâm hồn. Bình an và chờ đợi. Thời gian và nôn nao.

            Chúa bảo mỗi người là một cành nho trong vườn nho thiêng liêng Nước Trời. Trên màu trắng vỗ, lá non bóc vỏ mình xanh tươi theo ngày tháng. Lời gọi của Jêrusalem cùng lãnh ơn cứu rỗi, cùng lên phục sinh. Trong vườn nho thiêng liêng, có nhánh nho kể chuyện đời mình:

Cành Nho Kể Chuyện

            Ngày xưa, tôi là một cành nho xinh. Tôi xin kể chuyện những gian nan đời tôi. Trong những ngày tháng ấy, người làm vườn nói với tôi nhiều lắm. Chúng tôi tâm sự với nhau bên những chiều úa nắng, những bình minh. Có hy vọng, có đau đớn, có mệt mỏi, có lừa dối. Tôi xin kể lại những tâm sự ấy như một đoạn lời thiêng liêng.

            Không biết tôi vào đời lúc thời gian đang là xuân, hạ, hay thu. Từ một mầm non nhỏ, tôi chào nắng. Nắng ấm làm tôi nôn nao, rồi sức sống như bùng vỡ trong tôi, bao nhiêu mầm non khác trong da thịt tôi vở vỏ chào nắng theo. Tôi thành một cây nho xinh đẹp, rũ lá xuống vườn nho. Người làm vườn rất vui, nhìn tôi mơ một mùa nho sai trái.

            Rồi một ngày bất ngờ, có cơn gió vô hình từ đâu bay tới, làn gió như nghịch như đùa, nó làm chùm lá đập vào nhau, rách rới xuống đất ẩm. Tôi đâu biết trên đời lại có gió như thế. Lần đầu tiên tôi gặp gió. Tôi thua cuộc sống trong cái thờ ơ không biết chuẩn bị để đề phòng. Người làm vườn thương tôi, đến bên tôi, và người làm vườn ấy dâng một lời kinh:

            - Lạy Chúa, đời sống thiêng liêng của mỗi tâm hồn, mỗi gia đình, mỗi tu viện cũng giống như cành nho. Người ta nói về những chùm nho đẹp, nhìn những cành lá xanh mà ươm mơ. Nhưng gió đến, lá xanh có thể rách, chùm nho càng sai thì càng dễ rơi xuống. Cành nho vững được trước gió là nhờ những sợi dây nho nhỏ không ai để ý, chả ai nói tới, lại mang một trách nhiệm lớn như thế. Gío có thể làm chính những cánh lá đập vào nhau mà rách. Giống như cuộc đời vậy, lúc gió bão cuộc đời xẩy ra thì chính anh em trong nhà, người trong cùng tu viẹn, kẻ trong một Giáo Hội, vợ chồng với nhau có thể xâu xé nhau. Những sợi râu nhỏ kia là hình ảnh của những giấy phút cầu nguyện và xét mình. Nó nhỏ và âm thầm, nhưng thiếu nó, đời sống thiêng liêng sẽ sụp đổ. Chùm nho có đẹp, lá có xinh, nhưng không có những sợi râu bám chặt vào thân rào, gió sẽ làm nó ta tác. Bao nhiêu công trình tông đồ đẹp như mùa nho sai trái, nhưng thiếu cầu nguyện và xét mình, nên chúng trở thành ghen tị, hiềm khích chống đối lẫn nhau. Những sợi râu nhỏ ấy có thể là những tối hồi tâm chung giữa vợ chồng, gia đình đọc kinh chung. Nó có thể là xét kỹ xem đâu là căn tính hướng đi của Tin Mừng mà một người có trách nhiệm trong Giáo Hội phải đặt tiêu chuẩn.

 

 

            Sau lời nguyện của người làm vườn, sau trận phong ba ấy, tôi dè đặt hơn vì biết gió đến bất chợt. Tôi khôn ngoan hơn trong những cái nhìn. Tôi không tự hào lắm về những cánh lá xanh nữa. Tôi biết, không có những sợi râu nhỏ kia, gió sẽ tàn phá chúng tôi. Từ đó, tôi có cái nhìn thiết tha hơn với những gì mà tôi coi là nhỏ bé tầm thường trên giàn nho gia đình tôi. Chắc là trong cuộc sống của loài người cũng thế phải không, biết đâu những đóng góp kín đáo bằng cầu nguyện, hy sinh của những người mà xã hội coi thường tôi cho là nhỏ bé, trước mặt Chúa lại là những viên đá nền tảng cho Giáo Hội?

            Nhờ nắng ấm, nhờ sương hiền của trời, cành nho tôi hôm nay bắt đầu có trái. Ôi! Tôi còn nhớ sáng ấy, người làm vườn vui làm sao. Ông ta cứ loanh quanh bên góc nhỏ, xoa từng màu xanh, săn sóc từng đốm hồng trên chùm lá. Ông nhìn vườn nho, mà tôi biết trong tim ông vui lắm.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 67

Page 68: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ông đang nghĩ tới một năm được mùa. Nhưng bạn ạ, cuộc đời có những gian nan không ngờ!

            Trên cành nho, có một tàn lá rất xinh. Màu vàng của nắng, màu xanh của mình, chùm lá đẹp làm sao! Người ta nhìn vườn nho, cứ dựa vào màu lá mà khen vườn nho. Úa vàng là vườn nho bệnh hoạn, xanh tươi là vườn nho hy vọng. Trong chùm lá ấy, “ẩn mình một cánh là chờ chết.” Cánh là dấu mặt đằng sâu một tổ sâu! Nó chỉ khoe màu xanh mặt trước mà che kín một màu tang tóc phía sau. Từ cánh lá “ẩn mình chờ chết ấy”, vết chân sâu bò dần sang những cánh lá khác, đi tới đâu là rải xuống mầm hoan vu. Sâu không bao giờ chịu xây tổ dưới một cọng lá, sớm muộn rồi nó cũng lan qua, tàn phá những tàn lá chung quanh. Vết chân sâu tiêm vào chùm nho đang giữa mùa chính tới. Người làm vườn đâu có ngờ trái nho chua rồi, nó chỉ còn màu xanh vè đẹp bên ngoài mà thôi. Rồi thời gian cũng đến. Xót nổi buồn từ từ rơi xuống hồn tôi. Thấm thía. Xa vời. Lời rất sâu trong trái tim người làm vươn ấy, vào một ngày ủ dột, dạy tôi lời kinh nguyện:

            - Lạy Chúa, tội lỗi là những sa ngã kín đáo, ai cũng sợ người khác biết. Che dấu là cám dỗ ngọt ngào xúi đẩy nhiều tâm hồn trở thành lừa dối. Cuốc sống chung là một liên hệ hoà hợp, tình trạng thánh thiện hay tội lỗi của người này có ảnh hưởng tới đời sống thiêng liêng của linh hồn kia. Khi một gia đình, một tu viện mà có những người thánh thiện, giữ tâm hồn sạch tội thì hạnh phúc sẽ chan hoà sang nhau. Như những nhánh sông chảy bén rễ vào nau, dòng nước sẽ trong nếu có nhiều nhánh sông trong, dòng nước sẽ đục nếu những nhánh sông đó đục. Tội lỗi của một cá nhân trong gia đình, trong tu viện ấy có thể dấu kín, nhưng sức sống thiêng liêng trong gia đình ấy sẽ bị mất, niềm vui trong tu viện ấy thành nhạt. Xin Chá cho con can đảm để Chúa bắt những con sâu tội lỗi qua bí tích giải tội. Vì những con sâu đó, tội trong con sẽ phát sinh ra những xét đoán thiếu công bình. Khi mất bình an, con sẽ dễ cay nghiệt, dễ óng giận. Điều đó làm cho những chùm nho thiêng liêng thành chua chát, mất vẻ đẹp của linh hồn con, gia đình con, tu viện con.

 

Tâm Sự Người Làm Vườn

            Tôi là người làm vườn. Tôi quý vườn nho của tôi. Từ ngày trồng đến mùa nho chín là một hành trình dài. Dài ngày tháng bằng khoảng đo mặt trời lên xuống. Dài ngày tháng bằng nỗi mong đén mua hái. Dài ngày tháng bằng nỗi sợ có thể bị mất mùa.Thời gian trong tâm hồn làm tôi ngột ngạt. Nếu biết chắc chắn mùa tới, nho sẽ chín, trái sẽ ngọt thì cái dài của ngày tháng chỉ là chờ đợi niềm vui. Nhưng phân vân không biết rồi mùa sẽ thế nào, sẽ ra sao là một khắc khoải lớn lắm. Cứ nhìn tay người làm vườn mà định giá nỗi thao thức trong tim người làm vườn ấy. Không người làm vườn nào mà có bàn tay trắng trẻo. Tôi không ngại mưa nắng sớm hôm. Tôi không sợ xước tay vì gai, vì đá sỏi. Tôi chỉ mong được mùa.

 

            Lạy Chúa, bàn tay của Chúa trên thánh giá trong mỗi nhà thờ nhắc nhở con điều gì? Khi con muốn xuống vườn nho, đi làm với Chúa, con cũng phải hỏi mình về đôi bàn tay. Nếu con sợ bàn tay rám nắng, nếu con không muốn nhặt cỏ, cuốc đất, thì con không phải là người làm vườn, con chỉ xem người khác làm vườn thôi.

            Cuốc đất, nhặt cỏ ấy là tử bỏ sự ươn lười, là chiến thắng sự thiếu nhiệt thành, là phấn đấu không dấn thân nửa chừng, là tha thiết với công việc giáo xứ, là xây dựng cộng đoàn huynh đệ. Muốn giữ cho bàn tay không mệt mỏi có thể là những cám dỗ chỉ muốn đưa ý kiến nhưng ngại hy sinh, muốn ra chỉ thị hơn là thi hành.

            Đôi tay Chúa đã mang đầy thương tích.

            Con đã thấy những người lao động ở vùng kinh tế mới. Trưa nắng quá sức mà họ cứ hì hục rẫy cỏ. Tay họ cháy nắng. Mồ hôi nhễ nhãi. Nhưng khi nói chuyện với họ, băn khoăn sau cùng

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 68

Page 69: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

họ vẫn là: “Rồi, không biết năm nay có được mùa không.” Nhìn nương khoai, tay quệt mồ hôi, nheo mắt trong trời chói nắng, họ không phàn nàn vì phải lao động vất vả, họ chỉ có một băn khoăn:”Rồi, không biết năm nay có được mùa không.”

            Phải chăng đó cũng là băn khoăn của Chúa khi nhìn linh hồn con. Chẳng có điều gì có thể làm mà Chúa không làm cho con để cứu chuộc linh hồn con. Sau cùng, khi bàn tay đã tả tơi trên thập tự thì cũng chỉ còn lại trong tim Chúa một ước  mơ thôi, đó là linh hồn con thuộc về Chúa.

            Nếu con yêu Giáo Hội thì nỗi băn khoiăn ấy cũng phải là của con nữa. Nếu con không thao thức với nhịp sống của Giáo Hội thì con sẽ không tha thiết trong việc tông đồ, điều ấy làm con mất đi năng lực cộng tác với ơn Chúa để thánh hoá chính mình.

            Xin Chúa cho con phải nhắc nhở, thôi thúc tự hỏi chính con về tình trạng linh hồn mình và lòng nhiệt thành với Giáo HoỌi là một vườn nho chung. Trong vườn nho ấy, xin cho con quý bí tích giải tội, có lẽ nào một cánh là cứ giấu ẩn đàng sau những con sâu đo xấu xí .

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 28: Lý tưởng

Tôi đang đi trên  phố nhỏ một tỉnh lỵ miền quê Trung Quốc. Đèn đuờng rải xuống mặt phố những vũng sáng vàng thưa thớt. Mấy quán ăn mở muộn, được phụ sáng bằng chiếc đèn măng-xông treo ngày ở cổng vào. Khách hàng ngồi ăn bình dị, ít nói, bù đắp cho một ngày lao động mỏi mệt, chắc họ là những người quen thuộc trong khu xóm. Đêm nay,  tôi đang đi trên những con đường mà thủa trước đã có một thời điêu linh. Con đường của những bóng người chết trong đầy ải.

            Những mái ngói rêu phong cứ nằm im lặng dọc theo dẫy phố đã hàng trăm năm. Trải qua bao đêm thầm lặng của xã hội chủ nghĩa, những con người lao động bên quán ăn kia cũng biết mỏi chịu đựng. Tỉnh lỵ này cũng đã mộ bia tiếp nối mộ bia chôn đi những mơ ước rung cảm của cuộc sống. Họ là những con người biết hạnh phúc và đau khổ như tôi.

            Không ai để ý tôi cả. Tôi cũng như họ thôi. Đối với họ, tối nay cũng thản nhiên như mọi ngày. Họ đâu ngờ có người đang nhìn họ xa lạ, đang nghĩ về họ, đang nghĩ đến quê hương mà người viễn khách bỏ đi, cùng một bối cảnh như đất nước của họ. Tuy không ai để ý tới, nhưng xa lạ trong vùng đất xã hội chủ nghĩa vẫn làm tôi hồi hộp.

            Một tối không có gió. Êm ả, thanh bình, mà trời vẫn không sao đem hồn ra khỏi nỗi u uẩn được, nó bàng bạc khắp không gian này. Cả tỉnh lỵ không có căn nhà nào mới xây. Chỉ còn tường thành cổ sót lại sau một thời nào đó hoang tàn biến động. Màu xám rêu của tường gạch, ngói cũ làm cả thành phố chìm trong êm ả chịu đựng. Sự tĩnh mịch đêm nay không giống thanh bình của hạn phúc mà nó mang mác một niềm trăn trở nào đó không muốn gọi tên. Đường phố như nói với tôi rằng đừng băn khoăn, cứ để cái yên lặng của tỉnh lỵ này cho nó ngủ, cũng đừng thắc mắc về số phận con người ở đây, cứ để họ tĩnh mịch lìa đời như cha ông của họ từ mấy chục năm qua.

            Tôi không để ý đến thời gian. Ba chúng tôi cứ đi đềy trên những con đường mà đã có một thủa khác hôm nay rất nhiều. Thỉnh thoảng ông già dừng lại, chỉ trỏ những góc phố, có khi là một bờ tường, có khi là một căn nhà, cắt nghĩa về những dấu tích còn sót lại. Người thanh niên đi bên cạnh chăm chú nghe như đang hận trăn trối của một vị thầy sắp qua đời. Trang trọng trên khuôn mặt, thỉnh thoảng anh đứng lại giữa đường, thông dịch cho tôi hiểu. Lúc ấy ông già nhìn tôi như muốn nói với tôi rằng ông đang là nhân chứng sau cùng cho những gì tôi đang nghe, cứ nhìn vào ông mà tìm lại cả lịch sử của thành phố này. Ông như mảnh sành cứng của chiếc bình bị đập tan

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 69

Page 70: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

chôn vùi dưới lòng đất, mà tôi như nhà khảo cổ đang phủ bụi để sống ngược thời gian về quá khứ.

            Ông già điềm tĩnh. Khuôn mặt người thanh niên luôn luôb trạng trọng lắng nghe, có khi căng thẳng. Dừng lại gần một ngã tư, ông nói:

            - Đây là con đường của chúng tôi đã đi qua. Ngày xưa cả hai vợ chồng chúng tôi bị trói tay ra đằng sau điệu đi ở khúc đường này vì vợ chồng chúng tôi là giảng viên giáo lý. Khi cách mạng văn hoá đỏ bùng nổ, tất cả nhà thờ bị đốt phá. Đấy, cái nhà đằng kia kìa, ngày xưa của Giáo Hội đấy, bây giờ là cửa hàng quốc doanh. Còn đây này, nhà của các Cha thừa sai ngoại quốc. Hình như ở đâu đây ngày xưa có cả một trường học cho các em nhi đồng nữa, bây giờ hết dấu tích rồi. Hồi ấy hàng trăm người Công Giáo bị điệu đi cho người ta riễu cợt trên con đường này. Họ trói tay, đáng trống, đầu chúng tôi cuốn khăn trắng, bị dẫn từng tốp một đi khắp phố. Kinh hoàng lắm! Chết cả rồi. Chắc chả còn mấy người sống sót như tôi. Bị đem đi lao động mãi tận mạn Bắc.

            Nói xong, ông trầm ngâm im lặng như đang nhớ tới những con người và những con đường đã hơn nửa thế kỳ trôi qua. Tôi cúi nghe người thanh niên thông dịch lại những gì ông già nói. Mỗi lần nghe xong, hồn tôi như trĩu nặng. Cái nặng của một mùa thương khó thánh giá Đức Kitô đã vác nghiêng ngửa nơi đây mà xã hội bên ngoài không hề biết. Đêm nay, tôi đang đi lại trên những con đường mà vì niềm tin, bao người đã chết. Tôi hình dung tiếng trống khua vang, bỗng người ngã dúi vào nhau. Họ là đàn ông, đàn bà, trẻ thơ. Những người ấy, giờ này đang ở đâu, có còn ai sống sót như ông già đêm nay. Thinh lặng, tôi quý cái tĩnh mịch trang nghiêm của đêm nay. Một đêm không ngờ. Tôi đang đi lại trên những chặng đường của anh hùng đức tin.

            Chổ chúng tôi đang đứng là bức tường, có cổng khoá, cách một sân vuông cỏ, qua bóng cửa sổ, căn nhà có ánh đèn. Tôi bảo người thanh niên hỏi ông già xem đây là đâu mà trên nóc nhà có bóng thánh giá. Khi ông già đang nói thì cánh cửa xê dịch. Một người bước ra. Dường như chúng tôi đã đứng hơi lâu trước cổng làm người nhà để ý. Tôi thấy người thanh niên có vẻ hơi hốt hoảng. Phản ứng tự nhiên, tôi nghĩ ngay đến công an, đến tra vấn, hỏi cung, lấy tay sờ sổ passport.

            Đêm có lẽ đang vào khuya. Họ nói với nhau những gì tôi không hiểu, nghiêm chỉnh. Giọng họ nhỏ. Tôi im lặng theo dõi thôi, hồi hộp.

            ……

            Bây giờ tôi đang ở trong căn nhà mà qua ánh cửa sổ có ánh sáng hắt ra, căn nhà trên nóc có thánh giá, căn nhà mà tôi thắc mắc muốn người thanh niên hỏi ông già xem đây là đâu. Nó là căn nhà nguyện nhỏ nhưng không có bàn thờ. Có lẽ nó là một căn phòng nào đó, dùng để làm gì đó, đã từ lâu rồi. Nhưng hôm nay nó có vẻ như căn nhà nguyện. Vôi lở khắp các mặt tường. Mạng nhện phủ đen mái ngói. Những căn nhà Trung Quốc được xây dựng rất kiên vững vì thế mà có khi cả mấy đời trong dòng họ vẫn sống trong căn nhà hương hoả cha ông để lại. Căn nhà này cũng thế. Những xà gỗ đen xì, to lớn, rắn rỏi, tôi nghĩ không biết bao giờ mới có thể mối mọt được. Xà gỗ to trong căn nhà thấp, nó cho căn phòng dáng vẻ vững chắc, nhưng làm căn phòng nặng nề. Giữa đêm oi bức của mùa không gió, tôi đang sống trong căn nhà của thế kỷ trải qua mưa nắng. Trên tường, treo khung hình thánh Giuse và chị thánh Têresa bằng tre đã bị mọt ăn, bụi bặm. Màu trên tấm hình không còn.

            Tôi không hiểu ngôn ngữ họ đang nói, nhưng tôi biết chắc họ đang nói về Chúa, về niềm tin, về một nỗi gian nan và thống khổ trong quá khứ. Tôi hình như nơi đây đã một thủa biến động, tan tác, bắt bớ tù đầy. Ai đã vào đây với những sợi dây trói người dẫn đi thinh lặng trong đêm. Người trói, kẻ bị trói, giờ này họ ở đâu. Nước mắt cho hạnh phúc nào. Đau khổ nào cho lý tưởng nào. Trong cái trầm mặc, vắng thật vắng của đêm nay, tôi đang đứng trong căn nhà mà đã một thời lịch sử vang động. Trôi qua hết rồi, người năm cũ ở đâu bây giờ. Tượng Chúa còn đó, không thăng trầm theo lịch sử, mà nhìn lịch sử thăng trầm. Trong căn nhà này đã có nước mắt, thù hận, niềm tin, thách đố, tha thứ, lý tưởng. Tôi thấy trong tôi có xót xa, xót xa cho Chúa và cho người

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 70

Page 71: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

theo Chúa, cho người theo Chúa và cả người ghét Chúa. Còn sot lại hôm nay là bóng thánh giá trên mái ngói.

            Tôi đã rừng vào biết bao nhiêu thánh đường nguy nga ở tây phương, có trang trọng nhưng không huyền bí như ở đây, nơi mà tôi thấy một sức chịu đựng đến vô cùng. Cái dũng cảm rất thiêng liêng, không phải dũng cảm thách đố những nhẫn nại. Tôi không thấy thù hận những người đã gây bao khổ đau. Tôi không oán trách những bàn tay tàn phá đã để lại những tu viện mà nay không bóng người. Tôi chỉ thấy xót xa. Người năm cũ đã ra đi tất cả. Còn lại tường vôi và hoang vắng. Đâu là ý nghĩa cuộc sống, họ muốn để lại trên mặt đất? Nhìm hình thánh Têrêsa và thánh Giuse đã phai màu, tôi thấy đời cả hai vị thánh đều thầm lặng, đều can đảm trong nhẫn nại và bao dung. Cái nghèo làm căn nhà điêu tàn. Cái vắng làm căn nhà thấy buồn. Tự nhiên, ai mà không chùng lòng.

            Hôm nay, tôi viết những dòng này vào cuối xuân 97 thì đêm đi trên những con đường tỉnh nhỏ ấy đã 9 năm. Chín năm rồi trong đời linh mục, tôi vẫn thường nhớ về ông gia giảng viên giáo lý, hình ảnh ngôi nhà nguyện và người nữ tu trong đó.

 

            Câu chuyên thế này, khi cách mạng văn hoá đỏ bùng nổ, chủ trương tiêu diệt tôn giáo là một trong những tín điều của đảng cộng sản Trung Quốc bấy giờ. Ngày xưa, nơi đây là tu viện. Lúc hai cô thiếu nữ xin vào tu thì cũng là lúc sóng gió xẩy đến cho Giáo Hội. Các linh mục bị bắt. Giáo đường đóng cửa. Tu viện bị tịch thu, tan tác mỗi người mỗi ngả. Một trong hai cô bấy giờ là một thiếu nữ 16 tuổi. Họ chưa nhập viện tu thì đã phải lưu lạc theo gia đình tìm đất sống. Nửa thế kỷ Giáo Hội bị bắt bớ trầm luân. Ngày tôi vào Trung Quốc thì chính quỳên hơi nới rộng chính sách công giáo, bắt đầu trả lại một phần đất đai khô cằn cho Giáo Hội. Bà già đang sống trong căn nhà ấy, người đã mở cổng mời chúng tôi vào chính là cô thiếu nữ 16 tuổi của gần 50 năm về trước. Bà kể lại rằng lý tưởng đi tu không bao giờ chết trong tâm hồn bà. Sau khi tu viện bị tịch thu, các đệ tử mỗi người một nơi, hai cô cũng theo bố mẹ tản cư. Dù sóng gió, dù khó khăn, lý tưởng ấy cứ thôi thúc âm ỉ trong đời sống. Gần nửa thế kỷ giữ trái tim cho một ánh sao. Đem tuổi thời con gái ấy vào cuộc sống gian nan và giữ trọn ơn gọi. Khi nhà nước trả lại căn nhà cho Giáo Hội, hai người nữ đệ tử của gần 50 năm về trước, những người nữ tu không bao giò có ngày lễ khấn dòng, không bao giờ được mặc tu phục, hôm nay tìm về nhận trách nhiệm trong những ngày cuối đời.

            Sức mạnh nào cho họ nhìn thấy tương lai? Tôi không nghĩ là họ thấy tương lai. Phải có tình yêu hỗ trợ niềm tin, niềm tin phải vẫy gọi tình yêu tha thiết lắm thì người ta mới đi trọn được lý tưởng trong những khúc đời gian truân như thế.

            Ở tuổi đời 16, cái tuổi của những thiếu nữ chưa biết mình muốn gì, cái tuổi chỉ thích mơ “mầu tím hoa sim” ấy, làm sao họ biết đó là ơn Chúa gọi đi tu? Không tu viện, không người linh hướng, giữa xã hội lao lung đầy ải, họ sống trọn đời tu sĩ.

            Hôm nay, giáo dân từ miền lân cận đem gạo cho tu viện. Đã có những thiếu nữ trẻ đến đây cầu nguyện tìm hiểu ơn gọi. Hơn một nửa thế kỷ của mùa đông băng giá. Im lặng. Bây giờ những hạt lúa bắt đầu nẩy mầm chờ ánh sáng, ngoi lên.

            Gĩa từ miền đất mà tôi nghĩ không bao giờ sẽ trở lại nữa, lòng tôi bùi ngùi. Hình ảnh của những con đường đêm đó tôi đã đi không phai mờ trong tôi. Nó là tiếng vọng của niềm tin thánh.

            Đêm tĩnh mịch, hoang vu, người đàn ông đi lại trên những góc phố một thời đã bị bắt bớ khốn khổ chỉ vì là giảng viêng giáo lý. Làm sao những con người ấy lại chọn cho mình một ơn gọi đau thương như thế.

            Xa vùng đất ấy đã gần mười lăm năm rồi mà hình ảnh người thiếu nữ 16 tuổi cam đảm tìm hướng đi, phấn đấu giữ trọn ơn gọi tu sĩ cứ bàng bạc trong tôi. Nhiwuf buổi chiều tĩnh tâm, tôi vẫn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 71

Page 72: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

thường nghĩ tới câu chuyện xa xưa ấy và rồi lại vang âm lên trong tâm thức những hình ảnh: Làm sao người thiếu nữ ấy biết mình có ơn gọi mà nhất quyết đi mãi? Làm cách nào mà tuổi thơ ấy đã trung thành suốt đời trong bao nhiêu bão tố cuồng phong? Còn những người giảng viên giáo lý kia, đàn ông, đàn bà, họ đã sống trọn vẹn ơn gọi tông đồ giáo dân, đẹp như những vì sao toả sáng trong thinh lặng, bình an.

            Cũng một ơn gọi đi tu, hoàn cảnh ngày tôi 16 tuổi và người thiếu nữ 16 tuổi ấy khác nhau quá. Ngày 16 tuổi, tôi chuẩn bị kết thúc những ngày trung học với bút vở sách đèn, với hè nắng hoa phượng tuổi thơ học trò. Còn người thiếu nữ ấy lầm than với bố mẹ, vì đức tin mà khổ ải. Không gian có thể khác, thời gian có thể khác. Mỗi thời đại, có những cái nhìn mới theo hoàn cảnh về ơn gọi . Những cái mới đó có thể là phương pháp huấn luyện, giá trị xã hội, cấu trúc tâm lý, nền tu đức theo thời đại. Nhưng trong những điều khác biệt đó, cái khác biệt nhất, sâu nhất mà tôi phải suy niệm không phải là hoàn cảnh và thay đổi của thời đại mà là sự tha thiết với ơn gọi. Tôi tin rằng đấy là địa chỉ đúng nhất cho lý tưởng.

            Nhiều bạn trẻ muốn đi tu thường có nỗi sợ và băn khoăn tự hỏi là Chúa có gọi mình thật không. Họ lo rằng nếu theo Chúa vài ba năm rồi Chúa không gọi đời sẽ dang dở. Tôi phải tìm một mảnh bằng, một nghề nghiệp cho chắc ăn đã, để “lỡ” Chúa không gọi, tôi có thể kiếm tiền được cho tương lai của tôi chứ!.

            Tìm xem mình có ơn gọi đi tu có là điều khó lắm không? Làm sao hai thiếu nữ ấy biết mình có ơn gọi trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế? Và đi tu như thế để làm gì? Tôi tin rằng Chúa Thánh Thần đã linh hướng họ. Để nghe tiếng Chúa Thánh Thần, tôi nghĩ đến hai điều kiện này. Thứ nhất, giữ trái tim trong sạch, tránh phạm tội để linh hồn nhẹ nhàng, thanh thoát để tìm ánh sao. Thứ hai, với sự bình an của tâm hồn mà lúc nào cũng chìm trong sự cầu nguyện, Chúa sẽ ban sức mạnh cho kẻ muốn theo Chúa nhìn thấy cẻ đẹp và say mê ơn gọi của họ. Tôi tin là Chúa không coi thường ơn gọi tận hiến, để rồi nay gọi, mai bảo thôi.

 

 

            Lạy Chúa, trong vùng đất xa xôi, gian khổ, đã có những vì sao lấp lánh. Khi gọi thì Chúa gọi với tất cả con tim. Có những con tim, khi theo, đã theo với tất cả tâm hồn.

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 29: Các anh tìm gì thế

Yoan Tẩy Giả đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Yêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Yêsu. Đức Yêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” (Yn. 1:35-38)

Lời Nơi Đức Kitô

            Phúc Âm Gioan không mở đầu bằng bài tường thuật về gia phả hay cảnh Giáng Sinh của Đức Kitô. Yoan viết câu thứ nhất trong Phúc Âm của mình như sau: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” (Yn 1:1). Đối với Yoan, LỜI là tất cả. LỜI là Thiên Chúa. Không có gì thành sự ngoài LỜI.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 72

Page 73: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

            Ngược về Cựu Ước, trình thuật trong sách Sách Thế Ký cho thấy Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ bằng lời nói. Ngài bảo hãy có ánh sáng, liền có anh sáng. Ngài bảo đất hãy xanh um thảo vậy xanh tươi, đất liền có rau quả, có giống nẩy mầm. Ngài bảo hãy có đèn trên bầu trời để tách ngày và đêm, các vì sao liền xuất hiện, định dầu ngày đêm, năm tháng (Stk. 1:1-27).

            Trong Tân Ước, bao nhiều phép lạ Đức Kitô làm, từ chữ bệnh trên thân xác, đến đuổi ma quỷ ám nhập, ra lệnh cho sóng gió yên lặng, đều bằng lời nói. Như thế, tha thấy Lời trong Phúc Âm Yoan là tổng thể Thiên Chúa của Cựu Ước trong công cuộc tạo thành vũ trụ đi vào Lời là con người cứu độ lịch sử Đức Kitô trong Tân Ước.

            Lúc khởi đầu đã có ngôi Lời

            Ngôi Lời là Thiên Chúa

            Ngôi Lời đã trở nên người phàm

            Ngôi Lời cư ngụ giữa chúng ta.

            (Yn 1:1-14)

            Đây là cái nhìn thần học riêng của lối viết Yoan. Mở câu đầu tiên trong Tin Mừng, Yoan trực tiếp nói về Lời ngày. Lời của Đức Kitô có sức mạnh. Lời ấy là một lực thay đổi. Lời ấy chính là Ngài.

            Lời là một trong những chủ đề tâm điểm thật đẹp trong những trang sách của Yoan. Ánh sáng, sự sống, tình yêu, bóng tối, sự thật, là những màu ngũ sắc xoay chung quanh Lời. Cao chót vót, Lời nổi bật nên trong bầu trời ngôn ngữ của tác giả Phúc Âm thứ bốn. Vậy, Lời đầu tiên của Đức Kitô trong Phúc Âm này là gì, khi lên tiếng nói, Ngài đã nói ra sao ?

            Xét về lối hành văn, ta thấy Đức Kitô nói lời đầu tiên là câu 38 đoạn 1. Lúc hai môn đệ của Yoan theo Ngài, Đức Kitô quay lại nói: “Cách anh tìm gì thế?” (Yn. 1:38). Như vậy, Lời đầu tiên của Đức Kitô là một câu hỏi.

Những Câu Hỏi.

            Yoan hay dùng lối đặt câu hỏi. Những cuộc gặp gỡ đăc biệt trong Tin Mừng này dấp dáng đầy những thắc mắc. Sau cuộc gặp gỡ với hai môn đệ Yoan Tẩy Gỉa, cuộc đối thoại với một người Pharisiêu, thủ lãnh những người Do Thái tên là Nicôđêmô thắc mắc đêbs độ ông phải hỏi nhiều lần: “Một người già rồi, làm thế nào mã lại có thể sinh ra?” (Yn 3:4). “Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?” (Yn 4:9).

            Buổi nói chuyện bên giếng nước trong địa hạt Samaria với người phụ nữ cũng đầy những thắc mắc: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống sao?” (Yn 4:9) “Thưa ông, ông  không có gầu mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?” (Yn 4:11). Theo lối hành văn của Yoan, tha thấy những biến cố gặp gỡ là những cuộc đối thoại khá dài. Trong hai cuộc đối thoại trên, mới ban đầu, Nicôđêmô và người đàn bà đều không hiểu Đức Kitô nói gì. Nhưng qua những câu hỏi, qua những thắc mắc băn khoăn, họ đã gặp ánh sáng và sự sống.

            Một thí dụ nữa, chuyện người mù từ thủa mới sinh. Cúng với lối viết đối thoại của Yoan, bao nhiêu câu hỏi được đặt ra trong biến cố chữa người mù này. Câu hỏi đã đến từ phía các môn đệ (Yn 9:2), từ phía những người hàng xóm chung quanh… đặt câu hỏi: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” (Yn. 9:36). Và Đức Kitô cũng thế, Ngài nêu vấn đề bằng một câu hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” (Yn 9:35). Liên hệ với các môn đệ cũng là liên hệ chằng chịt giữa những câu hỏi: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ Thầy sao?” (Yn 6:67). “Này anh Simon, anh có mến Thầy không?” (Yn 21:16).

Câu Hỏi Đầu Tiên

            Trở lại chủ đề Lời trong Tin Mừng Yoan, ta thấy Yoan đã để Đức Kitô khai từ bằng một câu

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 73

Page 74: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

hỏi, “Các anh tìm gì thế?”, chứ không bằng một bài giảng về Nước Trời, hay một lời dạy luân lý về những điều phải làm. Lời nói trong ngôn ngữ Yoan có một ý sâu riêng thì khi Lời cất tiếng nói đầu tiên cũng là một cách trình bày ý nhị sâu sắc khác. Vậy, ta thử tìm hiểu, và đặt cho mình một chút suy tư về một câu hỏi.

            Đức Kitô hỏi, ”Các anh tìm GÌ thế?” chứ không hỏi ”Các anh tìm AI thế?”.

            Câu hỏi ấy đúng với tâm trạng của con người trong đời sống bình thường. Trong cuộc sống, con người thường là đi tìm GÌ, chứ đâu có đi tìm AI. Xét một ngày, tha thấy ta đi tìm việc, tìm tiền, tìm nơi ở, tìm sự hiểu biết, tìm sức khoẻ, tìm nơi nào mua đồ rẻ, tìm nơi nào vui, ít khi nào ta đặt câu hỏi tôi đi tìm AI.

            Ngay cả khi ta đi tìm người yêu, tìm bạn hữu, thì cũng chưa chắc là đi tìm AI. Khách thể “AI” mà ta đi tìm đó có khi cũng chỉ giống như một nhu cầu là sự vật, chứ chưa là một con người. Thí dụ, tôi cô đơn, tôi cần có người yêu để giải quyết nhu cầu tình cảm của tôi, trong ý nghĩa ấy, thì “người” mà tôi tìm kia cũng giống như một nhu cầu. Nó tương tự như tôi tìm tiền để giải quyết vấn đề kinh tế, thiếu nó, tôi nghèo khổ.

            Có thể lấy một hình anh cụ thể hơn. Trong gia đình, vợ bên chồng, con cái bên cha mẹ, thì nhu cầu đi tìm sẽ là TÌM GÌ, chứ không còn vấn đề TÌM AI nữa. Vì đã ở bên nhau rồi thì đâu còn vấn đề phải đi tìm nhau nữa! Tất cả cuộc đời của bằng ấy người trong gia đinh là cùng nhau lo tìm thành công, tìm địa vị trong xã hội, tìm tương lai sáng sủa, tìm nhà cửa rộng lớn. Xét mình, ta thấy những điều làm ta bận tâm trong một ngày toàn là những vấn đề trong phạm trù TÌM GÌ, chứ không phải là phạm trù TÌM AI.

            Khi cuộc sống mà tất cả những thứ ta đi tìm chỉ nằm trong phạm trù TÌM GÌ thì đời sống sẽ nhiều đau khổ. Tại sao vợ có thể cô đơn bên chồng? Phái chăng người chồng đang tìm những thứ mà nghĩ rằng sẽ làm vợ mình hạnh phúc, chứ không tìm chính vợ? Làm sao người ta lạc lõng trong gia đình? Tại sao người trong một Giáo Hội không gặp nhau? Đơn giản là họ không đi tìm nhau.

            Có nhau bằng thân xác thì con người cũng chỉ là một sự vật. Hiểu nhau bằng tâm hồn là một cuộc gặp gỡ bắt buộc phải có tìm kiếm. Cuộc sống nhiều xót xa vì người ta không đi tìm nhau, mà chỉ bận tâm đi TÌM GÌ. Nhất là khi hị cùng nhau đi TÌM GÌ thì họ lại càng có cảm tưởng không cần TÌM NHAU nữa. Người ta có thể cùng nhau tìm tiền, nhưng khi gặp tiền rồi thì vì tiền mà giết nhau.

            Cùng nhau đi tìm không có nghĩa là cùng tìm nhau. Mà cuộc sống hệ tại cùng tìm nhau hơn là cùng nhau đi tìm.

            Cùng nhau đi tìm tình yêu, nghĩa là tình yêu đang ở ngoài con người đi tìm, nếu ở ngoài thì biết tìm đến bao giờ mới thấy? Tình yêu ở chỗ nào mà gặp? Nhưng cùng tìm nhau thì tình yêu sẽ nẩy sinh. Tình yêu trong tâm hồn mỗi người, vì thế, ta phải đi tìm nhau thì mới gặp tình yêu.

            Có cùng tìm nhau, có gặp nhau, thì mới có thể cùng nhau đi tìm một cái gì đó được.

            Tìm sự vật, khi gặp rồi người ta biết rõ là đã gặp. Và đã gặp xong, sự vật không thay đổi. Tìm một người thì khó, vì gặp rồi đó mà vẫn xa lạ. Bên cạnh nhau đó mà vẫn có tiếng thở dài. Đời sống hạnh phúc gia đình hệ tại là biết đi tìm nhau. Sự tìm nhau là biết nhau, hiểu nhau, thuộc về nhau. Con người có nhiều đổi thay, vì thế họ vẫn có thể xa nhau dù ở bên nhau. Để giữ hạnh phúc, họ phải nỗ lực tìm nhau nhiều lần, tìm nhau mãi mãi.

Câu Trả Lời

            Theo Phúc Âm tường thuật, tha thấy rõ hai môn đệ đã không đi TÌM GÌ mà là tìm một CON NGƯỜI. Họ đi tìm Đức Kitô.

            Đấy là nhắc nhở cho hạnh phúc của ta hôm nay trong những phạm trù ta đang đi tìm. Ta đi tìm nhau hay tìm sự vật? Trong hôn nhân, rất nhiều khi có cay đắng vì chỉ cùng nhau đi tìm sự vật,

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 74

Page 75: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

rất nhiều khi trống trải vì bên nhau mà không gặp nhau.

            Sau khi nghe Yoan Tẩy Gỉa nói: “Đây Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ của ông:”liền đi theo Đức Kitô” (Yn 1:36). Hai môn đệ ấy mang nặng nỗi khao khát đi tìm một con người, một trái tim.

            Yoan kết thúc câu chuyện các môn đệ đầu tiên của Đức Kitô bằng hình ảnh:” Họ ở lại với Người” (Yn. 1:39). Đi tìm con người Đức Kitô là theo Ngài, thuộc về Ngài, ở với Ngài.

            Phiên dịch một cách khác từ mệnh đề này là hạnh phúc hôn nhân sẽ không có, nếu không thuộc về nhau. Và làm sao gặp nhau nếu không tìm nhau.

            Lạy Chúa,

            Lời của Chúa là một lực làm biến đổi. Chúa đã dùng Lời mà hỏi hai môn đệ kia về điều họ đang kiếm tìm. Câu hỏi ấy là một nhắc nhở hệ trọng cho số mệnh đời họ. Hai môn đệ ấy cũng đã có câu trả lời thật đẹp. Họ đi tìm một con người chứ không tìm sự vật.

            Chúa cũng hỏi con nhiều lần trong cuộc sống, con đang đi tìm gì. Con tìm Chúa hay con chỉ băn khoăn về sự vật. Con cần những giấy phút thinh lặng để tiếp tục nghe những câu hỏi Chúa nhắc trong lòng con.

            Khi bên nhau mà không gặp nhau, là dấu chứng đời họ không cùng đi tìm nhau, mà đang mải mê cùng nhau đi tìm kiếm sự vật. Khi người không gặp người thì mãi mãi sẽ là cô đơn, tất cả những gì tìm kiếm kia cũng sẽ là xa mờ hạnh phúc.

            Trong cuộc sống, xin cho con biết hãy đi tìm con người chứ đừng quên con người mà chỉ tìm sự vật.

            Và, con người con  cần tìm trước nhất là chính Chúa.

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 30: dấu chân xưa

Tìm dấu chân xưa là tìm dấu chân không còn. Trở về biển nhớ, nghìn dấu chân đã đi qua. Sóng xô bờ đã bao lần xoá thật kĩ. Trở về làng cũ, tàu cau đã chết thủa nào. Năm tháng cũ nhạt hương không còn ấn tích. Mưa nắng quanh năm giặt bạc màu ký ức. Đổi thay trong đời như những lớp phù sa đã bao lần cày sâu xuống, lấp kín lên. Tìm dấu chân xưa là tìm dấu chân đã mất.

            Không còn dấu chân cũ mà vẫn cứ tìm vì dấu chân ấy có nhiều thương nhớ. Bến ga chiều nay mưa phùn bay, nhưng người ta trở về tìm dấu chân cũ vì ảnh xưa thì đẹp và hình xưa là hạnh phúc. Tìm vết chân cũ, vì ở tình yêu ấy, đã bao lần ngọt ngào cùng nhau quấn quýt bước chân đi. Không gian thay đổi nhưng hồn quá khứ không muốn đổi thay. Thế giới ấy đi bằng những bước chân đẹp nên nó trong ngắt. Bụi chỉ xoá dấu chân trên đường còn thế giới trong ngắt của linh hồn nó đẹp mãi. Và, vì thế, nhiều người cứ muốn đi tìm.

            Đi tìm dấu chân xưa, vì về ngõ hồn quá khứ có khi dễ hơn lách lối tương lai đi tới. Đời người có khi tương lai khép kín mà quá khứ mở rộng ngõ. Lắm lúc càng đi về phía trước mà lại chỉ thấy đẹp ở phía sau. Vì thế, hôm qua, hôm nay và mãi về sau vẫn sẽ có nhiều kẻ muốn đi tìm kỷ niệm của dấu chân xưa.

            Dấu chân không gian đã mờ nhạt, bụi cát bôi rồi. Đi tìm dấu chân xưa là dấu chân trong hồn mà thôi. Có nhiều bước chân. Có bước chân lên đồi. Có bước chân vào hoàng hôn. Có bước chân ra bình minh. Đi tìm dấu chân xưa là tìm riêng kỷ niệm đẹp. Nhưng khi quá khứ mở ngõ là

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 75

Page 76: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

mở rộng cả đôi cánh. Vì thế, có những dấu chân không đẹp, chẳng muốn tìm mà vẫn gặp. Có dấu chân muốn quên mà cứ nhớ.

            Lạy Chúa, trong hành trình đời sống, Chúa đã nói với con về những bước chân:

            Đừng dõi theo đường phường gian ác

            Đừng tiến tới trong đường lũ ác nhân

            Hãy tránh đi, đừng đi qua đó

            Hãy quay lại và đi đi. (Cách Ngôn 4:14-15)

            Ta dạy con trong đường khôn ngoan

            Và Ta đã hướng dẫn con đi đường ngay chính

            Khi con  đi bước chân con sẽ thênh thang

            Và nếu con chạy, con sẽ chẳng vấp ngã.

            (Cách Ngôn 1:11-12)           

            Dấu chân của một mình ta thôi mà đã là những dấu chân xưa muốn đi tìm rồi. Huống chi, những dấu chân của hai người đi bên nhau chắc hẳn sẽ còn luyến, bởi, vết chân của người này mở ý cho vết chân của người kia đi về. Con tim mình thổn thức vì nó dâng hai nhịp đập của một chiều sóng. Vết chân hôn nhân và vết chân của Đức Kitô với các môn đệ là những vết chân này.

Dấu Chân Thiêng Liêng

          Trong dấu chân xưa của những chuyện tình, chuyện thuỷ chung, còn một thứ dấu chân của thập giá. Đó là dấu chân theo Chúa ở biển hồ Galilêa khi nghe tiếng gọi: Hỹa theo Ta (Mt 4:19). Theo Chúa trong hành trình truyền giáo: Ngài sai từng hai người một (Mc 6:7). Theo Chúa lên cuộc tử nạn: Hãy vác thập giá hằng ngày (Lc 9:23). Những dấu chân thiêng liêng này không sao xoá nhoà được. Những bước chân này đã một lần in dấu là kỷ niệm thiên thu. Bởi, Thiên Chúa quý kỷ niệm. Ngài không bao giờ quên những bước chân ân tình. Một lần gọi là một lần muốn có trang thiên tình sử. Một bước chân đi bên nhau là hy vọng có kẻ mang Tin Mừng.

            Khi chết rồi Đức Kitô vẫn về Galilêa, vẫn muốn đến biển hồ. Gặp gỡ Thây trò ở khúc đường Emmaus không phải là đi tìm dấu chân xưa hay sao. Nhưng dấu chân xác thân không còn. Chỉ còn là dấu chân xưa trong hồn mà thôi. Đó là dấu chân thiêng liêng.

            Cửa tương lai sẽ đóng lại. Thí dụ, ngày Đức Kitô chết. Vết chân trên cái của Ngài chấm dứt. Mỗi bước chân nhân thế cũng vậy. Ngày xuôi tay là bước chân sau cùng chào vĩnh biệt đường trần. Sự chết đến như con đường cụt. Tôi không còn bước nữa. Bây giờ tôi chỉ còn quay lại tìm dấu chân xưa. Và bây giờ dấu chân xưa trở thành vô cùng huyền nhiệm linh thiêng. Tất cả định mệnh hạnh phúc hay đau khổ của tôi trong cõi sống vĩnh hằng hệ tại những dấu chân xưa này. Tôi đã bước đi trong quá khứ thế nào, thì bây giờ bước chân ấy cũng dẫn tôi vào tương lai như vây. Bước chân ngang trái sẽ dẫn tôi tới ngang trái. Bước chân chính trực, chính trực sẽ đem tôi tới đại lộ. Cái huyền nhiệm của dấu chân xưa thiêng liêng là không tìm, tôi cũng sẽ gặp, cũng phải gặp, như lời Kinh Thánh sau đây:

            “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 76

Page 77: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người cho chiên đứng bên phải Người còn dê đứng bên trái…Bấy giờ đức Vua phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thủa tạo thiên lập địa… Rồi Đức Vua phán cùng những người ở bên trái rằng: Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và các thần của nó.” (Mt 25:31-46)

 

            Giờ này, dấu chân xưa thiêng liêng có sức mạnh thần thánh đưa tôi về trời cao hay xuống vực sâu.

            Ai cũng có kinh nghiệm dấu chân xưa trong đời sống trần thế. Ngày thơ tuổi nhỏ. Tấm hình năm cũ. Nó đưa ta về những vùng ký ức xa mờ. Dấu chân xưa oan trái sẽ làm ngày tháng hôm nay của ta ảm đạm. Dấu chân xưa đẹp thì hôm nay cho ta hạnh phúc ngọt ngào.

            Trở lại một bến ga bụi sương, dù năm tháng mù mịt rồi, người xưa đã khuất mà lòng ta cứ gần. Ghé lại bến đò cũ, dòng sông gợi cho ta bao nhớ nhung. Dấu chân xưa trong chuyện mình lúc còn sống là thế. Nhưng không ai biết thao thức của người chết đi tìm dấu chân xưa như thế nào. Đơn giản, là không có ai từ cõi chết về kể chuyện cho ta nghe cả. Phúc Âm có kể chuyện một người chết đi tìm dấu chân xưa như sau:

            Xưa có một nguời giàu, ăn mặc những gấm tía, và hàng mịn; ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có người ăn mày tên là Lazarô, người ta vứt bỏ bên cổng nhà ông, mình đầy lở lói, ước ao có được miếng thừa dưới bàn ông nhà giàu mà ngốn cho no, lại còn bầy chó hoang liếm các ung nhọt người ấy. Nhưng xẩy ra là người ăm mày chết, và được các thiên thần đem lên dự tiệc ngay lòng Abraham. Còn ông nhà giàu cũng chết và được tống táng.

            Trong âm phủ giữa những cực hình, ông nhà giàu ấy ngẩng mặt lên, thấy đằng xa Abraham cùng Lazarô nơi lòng ông. Người ấy mới kêu lên và nói: “Lạy cha Abraham, xin thương xót tôi, và sai Lazarô nhúng đầu ngón tay một chút nước mà thấm dịu lưỡi tôi, vì tôi quằn quại đây trong ngọn lửa này.” Nhưng Abraham nói: “Hỡi con, hãy nhớ lại: suốt đời con đã lãnh cả sự lành phần con, còn Lazarô cũng lãnh, nhưng chỉ là tai với hoạ. Bây giờ Lazarô được an ủi nơi đây, và con phải quằn quại đau đớn. Vả chăng giữa chúng ta và các ngươi, đã cắt ngang định sẵn một vực thẳm, khiến cho tự bên này, ai muốn cũng không thể qua bên các ngươi, và tự bên ấy, người ta không thể quá giang đến được với chúng ta. “ Ông nhà giàu lại nói: “Vậy thì, lạy tổ phụ, xin tổ phụ sai Lazarô đến nhà con, vì con có năm anh em, ngõ hầu Lazarô làm chứng răn dạy chúng, kẻo chúng cũng phải sa vào chốn cực hình này.” Abraham nói: “Chúng đã có Maisen và các tiên tri, chúng hãy nghe lời các ngài.” Người ấy đáp: “Thưa tổ phụ Abraham, không đâu! Song có ai từ cõi chết mà nói với chúng, tất chúng sẽ hối cải.” Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không nghe Maisen và các tiên tri, thì cho dẫu có ai sống lại từ cõi chết, chúng cũng chẳng nghe đâu.” (Lc 16:19-31).

            Hai người trong câu chuyện, Lazarô và nhà phú hộ đều bước những dấu chân trong đời.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 77

Page 78: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Bây giờ dấu chân ấy đưa họ đi mỗi người mỗi ngã. Dấu chân xưa của người nghèo Lazarô đưa ông về Nước Trời với Abraham. Dấu chân xưa của người giàu đưa ông về cõi vắng mênh mông.

            Trong cuộc sống này, ta tìm kỷ niẹm dấu chân xưa mà nhiều khi không gặp. Khi chết rồi vào giờ phán xét, những dấu chân xưa thiêng liêng ấy sẽ tự ý đi tìm ta. Và, dấu chân này sẽ đưa ta về cõi hệ trọng vô biên. Hạnh phúc hay gian nan. Bởi đó, mỗi dấu chân linh hồn đi hôm nay trong cõi đời sẽ là dấu chân thiêng liêng cho ngày mai.

            Khi nhớ về kỷ niệm là ta đi tìm dấu chân xưa. Dấu chân đó có thể là những bước chân trên bến đò, trên con đường nhỏ. Những dấu chân này là dấu chân trong tình cảm, nó sẽ chấm dứt khi ta chết. Còn dấu chân xưa thiêng liêng là đời sống thánh thiện hay tội lỗi, công bình hay gian tham, độ lượng hay hẹp hòi, thì khi cuộc đời chấm dứt, những bước chân này mới khởi đầu.

            Lạy Chúa, khi con đi tìm kỷ niệm cũ, tìm dấu chân xưa trong tình cảm, thì xin Chúa nhắc nhở con đến dấu chân thiêng liêng, để hôm nay con biết đi những bước chân thật đẹp, hầu bước chân này chuẩn bị cho con bước vào hạnh phúc trong Nước Chúa mai sau.

 

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 31: Điệu múa của người mù

Tôi vào đời không có màu sắc. Tôi đi trong biển đêm không giới hạn hoàng hôn hay bình minh. Cuốn lịch của tôi chỉ có một tờ, dài bằng cuộc đời. Tờ lịch mở ra là ngày sinh và bóc đi là ngày chết. Chiều lên hay chiều xuống, rừng thay mùa đổi lá, thửa vườn tôi vẫn không đổi thay. Bốn mùa đời tôi chỉ có vậy, vang vang một cung điệu trầm của bóng tối, ngày lẫn vào đêm.

            Tôi vào đời trong không gian không có hình dáng. Mây về ngang trời hay mây đi xa, mùa thu êm ả hay hoa xuân rạo rực trên đồi, không gian tôi vẫn thế. Tôi không biết gần, không biết xa. Chung quanh tôi có kho cận kề mà như xa tít tắp. Có khi xa lắm mà lại như bên cạnh.

            Tôi dò dẫm cuộc đời trong bước chân rất chậm. Tôi tìm tôi trong cuộc sống bằng tiếng nói của con tim chứ không thể bằng con mắt.

            Bở tôi mù, tôi không bao giờ biết thế nào là ánh sáng, nên ánh sáng của tôi là một thứ ánh sáng không nắm bắt được bằng mắt của xác thân. Cứ mặt trời lên, mặt trăng về là vũ trụ tuần tự lên xuống theo ánh sáng. Tôi phải tìm cho mình một định nghĩa riêng về ánh sáng. Ánh sáng trong trí tuệ mà thôi. Bởi thế, những gì con người nhìn thấy và gọi là ánh sáng thì không phải là ánh sáng của tôi. Không so sánh được với ánh sáng thì bíng tối của tôi cũng khác. Do đấy, bóng tối của tôi cũng khác xa bóng tối được xác định bằng  nhãn quang của con người. Lương tâm tôi xác định bóng tối cho tôi. Với thân phận mù loà,  con mắt của tôi không phải là ngôn ngữ định nghĩa về bóng tối và ánh sáng. Tôi đi tìm ánh sáng và bóng tối trong lương tâm và trí tuệ.

            Từ bóng tối và ánh sáng trong tim, tôi vào đời bằng điệu ca của người mù, điệu ca cũng đến từ con tim nơi tôi suy niệm về bóng tôi và ánh sáng ở đó. Đây là bài ca:

            - Xin thương xót tôi! Xin thương xót tôi!

            Người mù chúng tôi có một điệu ca thôi :

            - Xin thương xót tôi! Xin thương xót tôi!

            Tôi là người mù nên bị xếp chung môt loại với những người mù khác. Mở Phúc Ân để nhìn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 78

Page 79: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

lại những bức ảnh của người mù, người ta sẽ thấy bốn trường hợp Phúc Ân nhất lãm ghi lại cũng là bốn lần chúng tôi hát điệp khúc ấy.

            Trong Tin Mừng Matthêu lần thứ nhất:

            Khi Đức Kitô ra khỏi đó thì có hai người mù theo Ngài mà kêu rằng: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt 9:27).

            Trong Tin Mừng Matthêu lần thứ hai:

            Có hai người mù ngồi ở vệ đàng; nghe biết Đức Kitô đi ngang qua, thì họ kêu rằng: “Lạy con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt 10:29-30).

            Trong Tin Mừng Maccô:

            Con của Timê là Bartimê, một người mù ăn xin, ngồi ở vệ đàng. Nghe biết là Đức Yêsu Nazareth đó, thì hắn lên tiếng kêu rằng: “Lạy con Vua Đavít, xin thương xót tôi!” (Mc 10:46-47).

            Trong Tin Mừng Luca:

            Có người mù nọ đang ngồi ăn xin ở vệ đàng. Nghe có đông người đi ngang qua, hắn dò hỏi cho biết chuyện gì thế. Người ta cho hắn biết là có Yêsu Nazareth ngang qua. Và hắn la lên rằng: “Lạy con Vua Đavít, xin thương xót tôi!” (Lc 18:35-38).

            Những người mù chúng tôi không có bài ca nào khác. Trước chân dung Đức Kitô, chúng tôi chỉ có điệu ca duy nhất. Chúng tôi chỉ lập đi, lập lại mãi:

            - Xin xót thương tôi! Xin xót thương tôi!

           

            Chúng tôi không nhìn thấy khuôn mặt của Đức Kitô. Bao nhiêu người đã chứng kiến dấu lạ Ngài làm và tin Ngài. Đối với kẻ mùa loà như chúng tôi, niềm tin của chúng tôi cũng khác lắm. Vì không bao giờ nhìn thấy, bởi đó, chúng tôi kiếm tìm niềm tin dựa vào lòng thương xót. Chúng tôi không thấy dấu lạ. Chúng tôi luôn tin rằng Ngài có lòng thương xót. Và hễ nghe tin Ngài sắp đi ngang qua là chúng tôi kêu lên:

            - Xin thương xót tôi! Xin thương xót tôi!

            Ngày ngày ngồi ở vệ đường xin ăn, tôi chỉ biết về Đức Kitô bằng cách lắng nghe tiếng người qua lại chuyện trò. Một người mù trong nhóm chúng tôi bị kết tội là do tội lỗi của cha mẹ hắn ta, hoặc có thể tội riêng hắn mà phải mù. Ngài bảo rằng không phải tội của ai cả. Nhưng là để quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện (Yn 9:1-41). Đấy, Ngài lại có lòng thườn xót.

            Ngồi ở vệ đường, tôi nghe kể về Đức Kitô  đã đến với những kẻ khốn cùng như chúng tôi. Bị trách là tại sao vào thăm nhà những người thu thuế tội lỗi, thì Ngài bảo là người đau yếu mới cần thầy thuốc (Mc 2:15-17). Gặp kẻ cùng khốn vì câm điwcs, mù loà, tật nguyền là Ngài xót thương họ ngay (Mt 15:29-31). Bao nhiêu lần Ngài cứu chữa người còng lưng, bất toại trong ngày Sabat (Mt 12:9-14). Ngài không bảo chúng tôi về, ngày mai hãy tới vì Ngài phải coi ngày Sabat trọng hơn sự khốn khổ của chúng tôi. Lòng thương xót của Ngài không bao giờ là tình thương được tính theo thời khoá biểu.

            Ngồi bên vệ đường, tôi suy nghĩ về lòng xót thương. Tôi thấy lòng thương xót nào mà không phải chờ đợi bằng chương trình của những thời khoá biểu thì đấy là lòng thương xót thật. Tôi thấy chỉ vì thương xót chúng tôi mà Ngài mất đi niềm thương xót của các thầy tư tế, các kinh

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 79

Page 80: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

sư.

            Cũng những tháng ngày ngồi bên vệ đường, cũng bằng con tim thôi, tôi thấy lòng thương xót nào mà sẵn sàng chịu thương đau với người mình thương xót thì đấy là lòng xót thương thật. Những ngày thinh lặng bên đợi chờ, cũng chỉ bằng con tim, tôi nhìn thấy chân dung Ngài. Làm sao màu sắc có thể vẽ được lòng thương xót? Tôi chỉ vẽ hình ảnh Ngài bằng điệu ca:

            - Xin thương xot tôi! Xin thương xót tôi !

            Những lời kếu của chúng tôi làm người chung quanh  nhàm chán lắm: “Những kẻ đi trước quát bảo hắn im đi” (Lc 18:39). Đức Kitô không bao giờ chán nghe điệu ca ấy, không bao giờ từ chối bài ca của người mù chúng tôi. Ngài biết từng bước lần mò trong đời sống của kẻ mù loà tội nghiệp như thế nào. Ngài không từ chối tiếng gọi của chúng tôi, vì trong điệu ca, chúng tôi đã gọi đúng tên của Ngài.

            Tên Ngài là Đấng hay xót thương. Và niềm tin của chúng tôi là tin Ngài là Đấng hay thương xót.

           

            Lạy Chúa, đọc trong Phúc Âm nhất lãm, chúng con đã thấy bốn trường hợp nhắc đến người mù là bốn lần có điẹp khúc “xin thương xót tôi”. Hôm nay, lập lại bài ca thương xót trước mỗi lần dâng lễ:

            - Xin Chúa thương xót chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con !

            Là chúng con lập lại bài ca của người mù thủa xưa. Nhắc tới ánh sáng người mù đã nhìn thấy là lập lại lòng thương xót của Chúa. Họ đã nhìn thấy mọt tên gọi đẹp nhất để gọi Chúa: Chúa là Đấng hay thương xót.

            Ngày nào con yêu điệp khúc đó trong đời con là ngày đó con hạnh phúc. Nếu con không biết Chúa là Đấng thương xót con, con sẽ lạc lõng.

            Lạy Chúa, mỗi lần đi lễ, nghe điệp khúc ấy, con muốn Chúa cho con trong niềm tin, cậy, mến nói với Chúa rằng: Con hạnh phúc vì Chúa luôn thương xót con.

 

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 32: Định lại những giá trị

Mỗi ngày, cuộc sống của ta đều liên hệ tới ba mối tương quan: - Với thế giới vật chất chung quanh - Với tha nhân - Và với Chúa Thế giới chung quanh là nhà cửa của ta ở, công việc làm ăn, quần áo, tiền bạc, xe cộ… Liên hệ kế tiếp là ngày nào ta cũng phải tiếp xúc với người này kẻ kia, nhờ tới người gần, kẻ xa. Không ngày nào mà cuộc sống ta không có liên quan tới kẻ khác, người trong gia đình, bạn bè, kẻ quan người lạ. Và liên hệ sau cùng là những thao thức về bình an, hạnh phúc, lương tâm, một thế giới siêu nhiên, đó là liên hệ với Chúa. Không có cách nào tránh được ba liên hệ này. Còn sống là con giằng co trong những ràng buộc đó. Câu Chuyện Hàng Ngày Tối ấy chúng tôi đi chợ. Tôi đang đứng với anh chờ chất đồ lên xe. Trong lúc de xe, chị không nhìn thấy cột đền trong bãi đậu. Điều không nên xẩy ra đã xẩy ra. Chiếc xe giật lùi phía sau đập vào chân cột điện, bể chiếc đèn báo hiệu, móp một vế dài. Chiếc xe dường như mới mua. Đau xót làm sao! Chị xuống xe, bối rối, có lẽ chị cũng biết những gì sắp xẩy đến khi chị nhìn anh. Cái xe đẹp

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 80

Page 81: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

chưa kịp thưởng thức, nay đã bị móp. Anh đặt bịch đồ xuống đất, nói chị những lời nặng lắm. Rồi như chợt nhận ra tôi là khách, anh cố cầm lòng lại. Ai cũng ngại ngùng cả. Một buổi chiều ngột ngạt, mất vui. Nếu bình tâm một giây phút nhìn lại thì ai cũng vậy, gia đình nào cũng thế, và có khi xẩy ra hàng ngày. Ta phản ứng thế nào khi chiếc đĩa nhạc bị trầy, ta nói gì với con khi nó đánh bể chiếc ly pha lê? Bao nhiêu là chuyện tương tự. Nó làm ta bực bội bẳn gắt, mất vui. Nó tô lên một ngày sống những màu xám kỳ quái làm ta cay cú. Dĩ nhiên, giáo dục để tránh lầm lỡ là điều cần. Nhưng vấn đề là ta hay dựa vào lý do giáo dục ấy mà đay nghiễn kẻ lỗi phạm. Bằng chứng là ta cứ tiếc xót mãi khi mất một đồ vật. Cái tiếc xót nó làm ta đay nghiến chứ yếu tố giáo dục không thể làm ta đay nghiến được. Ta đay nghiến người phạm lỗi, và có khi không tha thứ cho cả chính mình, nếu mình là kẻ gây nên. Sự mất mát ấy làm ta mất thú vui. Có thú vui và khoái lạc cũng chưa là hạnh phúc. Hạnh phúc là một sự sung mãn nội tâm. Khoái lạc, thú vui là một sung mãn cảm giác. Là cảm xúc, nên nó ồn ào mãnh liệt. Vì thế, khi một biến cố trái ý xẩy ra bất ngờ là ta nổi nóng không làm chủ được. Bằng chứng là có những lúc ta phản ứng quá mức, rồi sau đó hối hận. Tại sao có hiện tượng đó? Tạo Dựng Thủa Ban Đầu Thiên Chúa đã dựng nên thế giới vật chất và dựng nên con người. Vậy, giũa vật chất và dựng nên con người phải có những tương quan. Để xét những tương quan này, ta hãy nhìn xem cách mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng. 1. Tạo dựng vũ trụ. Để tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa chỉ dùng có ánh sáng, có cỏ cây thì cỏ cây xanh tươi. Cả thế giới huyền bí bao la, Ngài chỉ dùng lời nói mà dựng nên. Thật đơn sơ không ngờ! (Stk 1:1-25). 2. Tạo dựng con người. Để tạo dựng con người, Kinh Thánh kể rằng: “Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta” (Stk 1:26). Nói vậy xong mà vẫn chưa có con người. Thiên Chúa tiến thêm một bước nữa là lấy đất mà nặn nên nó. Qua hai giai đoạn rồi mà con người vẫn chưa hoàn thành. Đất trơ đất. Con người là một sự vật vô tri. Rồi Ngài phải thở hơi và khối đất nó mới thành người (Stk 2:7). Như thế, một cái nhìn đơn giản ta cũng thấy để dựng nên vũ trụ, Thiên Chúa không vất vả như dựng nên con người. Thiên Chúa dựng nên con người cầu kỳ phức tạp hơn vũ trụ nhiều lắm. Sau khi vũ trụ thành hình, từ ngìn xưa đến nay, bốn mùa cứ về rồi đi. Trăng lên cho lúa đồng nên thờ. Chiều cứ gió và sương đêm cứ thong thả cho đất ẩm lên mầm xanh tươi. Vũ trụ chuyển mình qua hàng triệu thế kỷ cứ đẹp mãi. Bướm bay và mây hong nắng. Thiên Chúa hài lòng với công trình tạo dựng. Vũ trụ là lời kinh, là bóng dáng vẻ tốt lành của Chúa. Tuần tự theo thời gian biển không lỗi hẹn, sao đêm không thờ ơ. Vũ trụ tiếp tục đẹp mãi . Trong công trình tạo dựng, chỉ có con người làm sai thánh ý của Chúa. Adam, Evà đã phạm tội. lỗi cung đàn, buông nhịp ngang âm. Thiên đàng thành lỗi phạm. Trong liên hệ với con người, ta thấy Thiên Chúa đưa ta vào ba giai đoạn liên hệ. 1. Tạo dựng. Khi tạo dựng Ađam, Thiên Chúa thở hơi vào khối đất. Đấy là hình ảnh Chúa cho con người một phần sự sống của Chúa. Không như vũ trụ chỉ là sáng tạo ngoài Ngài. Con người có một liên hệ mật thiết là phần hơi thở của Ngài, là mảnh đời của Ngài. Như Kinh Thánh diễn tả: “Ta hãy làm ra con người giống hình ảnh Ta, như hoạ ảnh Ta” (Stk 1:26). 2. Cứu chuộc. Sau khi tạo dựng con người, Thiên Chúa chưa được “nghỉ ngơi”, vì con người phạm tội. Công việc kế tiếp là cứu chuộc. Tái tạo dựng con người khỏi án chết bằng thập giá trên đồi chiều tử nạn cho ta thấy một liên hệ sâu hơn nữa. Trong vườn địa đàng Thiên Chúa chỉ cho một phần hơi thở vào khối đất Ađam. Nhưng trên đồi tử nạn, Ngài chết. Nghĩa là Ngài khồn cho một phần mà là cho hết hơi thở. “Đoạn gục đầu xuống, Ngài phó thác thần khí” (Yn 19:30). Ngài đã cho đến hơi thở sau cùng, cho hết đên độ không còn thở nữa. Cho đến tận cùng của mối liên hệ. 3. Thánh hoá. Liên hệ giữa con người và Thiên Chúa chưa chấm dứt ở đồi thánh giá bên thành Jêrusalem. Sau khi cho hết hơi thở của mình, Thiên Chúa lập bí tích Thánh Thể để ở với con người. Và cho đến mãi mãi, chúng ta có Thiên Chúa ở cùng, như lời Cựu Ước loan báo: Ngôi Lời thành xác phàm và ở giữa chúng tôi (Is: 7:14). Mỗi lần dâng lễ, mỗi lần ngang qua giáo đường là một nhắc nhở thâm thuý câu chuyện liên quan từ vườn địa đàng mịt mùng thời xa xưa đến. Xét như thế, ta thấy mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa đặc biệt quá. So sánh với vũ trụ, thì như là Thiên Chúa bỏ quên, còn với con người, Ngài cứ loay hoay bận tâm hoài. Thấm thía lời thánh vịnh: “Phàm nhân là gì để Người nhớ tới, con người là chi mà Ngài cứ phải bận tâm” (Tv 8:5) Ngài không tạo dựng con người từ hư vô mà bằng sự sống Ngài. Không phải một phần hơi thở của Ngài mà là trọn vẹn con người với cái chết. Không phải là một giai đoạn xong là thôi, nhưng tiếp tục mãi. Bởi đó, con người đáng quý, con người đáng mến, con người quá giá trị. Liên

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 81

Page 82: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Hệ Giữa Con Người Và Vũ Trụ Nếu so sánh và cho Thiên Chúa một chọn lựa giữa con người với vũ trụ. Ngài phải chọn con người. Trên hai cán cân chọn lựa, con người và vũ trụ, cán cân vũ trụ nhẹ tênh. Thiên Chúa không đổ máu chính mình cho vũ trụ, nhưng cho con người. Ngay trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã nói với con người, hãy làm chủ vũ trụ (Stk 1:26). Nghĩa là vũ trụ được tạo dựng cho con người. Nếu đem tất cả vàng bạc của Tokyo mà so với nước Mỹ thì có vào đâu. Nhưng đem tiền bạc của nước Mỹ so với trái đất thì nhỏ bé quá. Nhưng trái đất này là gì so với vũ trụ mênh mông. Ấy vậy mà giữa những của cải đó với một linh hồn. Ngài vẫn chọn linh hồn con người. Lạy Chúa, xét tương quan giữa con người với của cái vật chất, con người với nhau, con người với Chúa, con thấy vũ trụ này đảo ngược mất rồi. Hôm nay, con quý vật chất hơn con người. Người ta có thể làm nhục nhau vì một số tiền nhỏ. Người ta gây hận thù, chia rẽ trong gia tộc, trong xứ đạo vì vài cây vàng. Bình tâm xét kỹ, con thấy mình không hiểu được chính mình trong những thái độ con xử dụng của cái vật chất. Chúa bảo hãy làm chủ của cải, nhưng thật sự của cải đã làm chủ con. Thay vì chiếc xe để chở con đi, nó chỉ là phương tiện phục vụ thì con lại bị nó làm chủ hồn mình với những xót xa nuối tiếc. Tại sao có thể kỳ lạ như vậy? Tình yêu, nhân phẩm, ơn cứu độ, nỗi đau trong tim một con người xương thịt không quý hơn chiếc xe sao. Vật chất không biết vui buồn, nhưng con người có nước mắt. Của cải không có tiuếng nói, nhưng con người biết thổn thức, biết tủi nhục. Lạy Chúa, nếu mỗi tối con biết xét mình về những tương quan và thái độ sống này, định lại những giá trị, hồn con sẽ tự do nhiều lắm, con sẽ làm chủ vật chất chứ không bị khổ sở dằn vặt khi mất một món đồ. Nếu mọi người trong gia đình đều nhìn những liên hệ với nhau, với của cải theo Kinh Thánh, thì gia đình sẽ biết sống một đời sống trên những giá trị thật, biết quý mến con người là trái tim có thao thức chứ không bắt con người phải ở dưới giá trị của xe cộ, nhà cửa là những đồ vật cô tri vô giác. Và, với cái nhìn đặt giá trị theo tiêu chuẩn như Kinh Thánh giữa liên hệ với con người, thái độ đối với vật chất thì tình thương sẽ đến, hoà bình sẽ xuống, tâm hồn tự do hơn và cuộc đời sẽ đẹp hơn.

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 33: Muộn Màng

“Đêm đến, không ai có thể làm việc được nữa” (Yn 9:4).

Nói câu này, Chúa nhắc nhở môn đệ về thời gian. Ngày còn bé, ta mong thời gian chóng tới để mau làm người lớn. Tuổi xế chiều, ta mong thời gian chậm lại để khỏi mau chết. Đâu là mốc thời gian đưa ta lên, đâu là khởi điểm kéo ta xuống? Thời gian không lên tiếng nói. Người ta sống quá thường trong thời gian, vì thế người ta ít để ý về thời gian. Thực tế, giữa ta và thời gian là một tiếp cận cọ sát không ngừng. Một cuộc giằng co không ngơi nghỉ giữa sống và chết. Kinh nghiệm về thời gian thường là những kinh nghiệm nuối tiếc. Muộn màng.

Muộn màng trong thời gian vật lý là muộn màng không thể lấy lại. Người ta thường nhủ lòng mình bằng những lý luận xem ra là hay, nhưng xét kỹ hơn, có lẽ phải đặt lại cái nhìn. Thí dụ, hôm nay tôi không muốn đọc kinh, tôi thường nhủ lòng rằng ngày mai tôi sẽ đọc bù lại gấp đôi. Mỗi ngày tôi sản xuất hai ký bột. Hôm nay không làm thì ngày mai tôi sản xuất bốn ký, gọi là bù lại hai ký hôm qua. Rồi tôi hài lòng về thái độ ấy. Xét về số lượng theo kinh tế sản xuất thì xem ra đúng lắm. Và luận cứ này cho ta an tâm. Nhưng xét theo khía cạnh thời gian thì vẫn có những vướng víu, cần suy nghĩ lại.

Làm sao mà nói có thể “bù” được, mất là mất. Những gì mất ở hôm qua là hôm qua trọn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 82

Page 83: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

vẹn không có. Hôm qua, trên khung cửi ấy không có đường tơ. Những mũi chỉ thêu trên tấm thảm hôm nay là của ngày hôm nay. Ta không thể lấy mũi chỉ ngày hôm nay, quay về may vào tấm thảm thời gian hôm qua.

Khi nói làm “bù” lại những gì hôm qua không làm, đấy chỉ là một cách nói an ủi lương tâm. Hành động làm “bù”, thật ra chỉ là làm “đủ” cái ta phải làm. Ly nước đã đầy thì người ta không thể đổ thêm. Khi đổ thêm được, đấy là dấu chỉ ly nước còn vơi, và phần đổ “thêm” ấy, chẳng phải là thêm, mà chỉ là “đủ” cho ly nước mà thôi. Thí dụ phải yêu và lòng hiếu thảo là một ly nước. Tôi phải sống trọn vện tình yêu, và lòng hiếu thảo ấy như một ly nước đầy. Hôm qua tôi đã không hiếu thảo đủ, hôm nay hối hận, tôi hiếu thảo “thêm”. Nếu hôm nay tôi hiếu thảo trọn vẹn như tôi phải sống, nghĩa là ly nước hiếu thảo hôm nay phải đầy, như thế, tôi hiếu thảo “bù” thêm vào đâu được?

Cứ thường, ta không sống trọn vẹn ly nước cuộc đời ta phải sống. Ngày nào nó cũng vơi. Ta không nhìn thấy cái vơi này. Thí dụ, hôm qua ly nước tình yêu trong gia đình của ta cạn mãi gần đáy: Có thể đó là lòng nhỏ nhen, là gay gắt, là không chung thuỷ. Lúc ấy ta mới giật mình. Nhìn lại tâm hồn, ta nhủ thầm, ngày mai sẽ bù lại bằng yêu thương nhièu hơn. Hôm sau, để “bù” lại, ta có yêu thương thật. Rồi ta thấy mình hân hoan thơi thới.

Thật ra, cái thơi thới hân hoan ấy chỉ là hành động sống đủ điều ta phải sống, chứ không bù thêm gì cả. Những gì đã mất vẫn mất. Nuối tiếc phần đã mất hôm qua làm ta chua xót, rồi sự chua xót ấy xát vào lương tâm làm ta hối hận. Cái đau nhức này là sức mạnh đẩy ta sống “đủ” điều ta phải sống hôm nay. Không có cái hối hận này, có thể ta lại chỉ sống nửa ly nước thôi. Ta không sống đầy ly nước cuộc đời mà ta phải sống. Hằng ngày, ta sống nửa chừng. Hôm trước quá vơi, hôm sau ta “bù” bằng cách sống đầy. Xét kỹ, ly cuộc đời, có thể là ly nước tình yêu, ly nước trách nhiệm, ly nước trí tuệ của mỗi ngày, nếu ta sống trọn vẹn như ta phải sống thì ly nước ấy tự nó đầy rồi, còn chỗ nào mà “bù” mà “thêm” được nữa.

 

Ngày rời làng quê, tôi như cây tre vừa chớm lớn. Ngày trở lại, hình ảnh cũ còn đó, mà sao đất trời đổi thay nhiều quá. Chung quanh không còn những cây tre già che gió. Biết bao người đã khuất bóng, về thế giới bên kia. Ai cũng có những dấu ấn thời gian trong đời sống. Nhìn lại những dấu ấn ấy cũng có lúc cần thiết. Bởi không có sống “bù”, sống “thêm” những gì hôm qua ta đã không sống, nếu không nhing lại dấu ấn quá khứ.

Tuổi thơ ai cũng có những kỷ niệm thật thơ bé. Tôi sán kỷ niệm này vào một chiều cuối hè. Nó ngủ yên lặng trong một trang vở đời sống. Ngày đó, tôi đến chào bác tôi về trường đi học lại. Tuổi thơ mà, trong hè rong chơi với nắng, với ruộng đồng cỏ dại, hết hè, bây giờ lại xa nhà, rồi bài vở thi cử, lòng sao bịn rịn. Những kỷ niệm bùi ngùi về tháng  ngày nhập học, giờ nhìn lại thấy hồn nhiên làm sao. Nhưng kỷ niệm một chiều bên gốc cây đu đủ ở đầu nhà bác tôi, hôm nay nhìn lại không thấy êm ả. Nó ngủ yên trong trang vở cuộc sống đã mấy chục năm qua. Hôm nay, nó bóc đi cái hồn nhiên ngày cũ, thành cái muộn màng.

Cứ sắp hết hè là tôi phải đi chào mọi người trong gia tộc để đi học xa. Các Cha ở nhà trường dạy như thế. Thấy cháu lại sắp đi xa thì cô, dì, chú, bác nào cũng hay cho tiền để làm hành trang lên đường. Còn bé, nhưng tôi đã mơ màng hiểu thế giới của người lớn. Có người cho tôi tiền, nhưng mục đích là cho mẹ tôi hay để quà tặng ấy như món nợ nói thầm cho mẹ tôi biết mà xử thế. Còn riêng bac, bác gọi tôi ra gốc cây đu đủ ở đầu nhà, bác dúi vào túi tôi tờ 20 đồng. Bác khuyên tôi ngoan ngoãn và chịu khó học để sau được ”làm cha”. Bác không cho ai biết là bác cho tôi tiền. Tôi còn nhớ giọng của bác. Nó thành thật làm sao. Bác bảo không có nhiều tiền, khi nào có, bác sẽ cho. Bác làm tôi xúc động. Tôi tin lời bác ngay. Vì ai cũng thấy bác nghèo. Tôi vẫn thấy trưa nắng bác xách giỏ mò cua, tát cá ở những mương nước. Tôi nhớ rõ lắm cái dúi tay kín đáo ấy. Tôi nhớ rõ lắm cái giỏ tre và cái chậu nhôm để

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 83

Page 84: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

tát cá. Tôi nhớ rõ lắm cái nắng của một miền quê. Khi chợt nghe bác nói bác muốn cho tôi nhiều hơn mà bác không có. Lòng tôi chùng xuống. Tôi thấy cái nghèo trong gia đình bác bày ra trước mặt. Những cái ly cũ, cáu vết trà đựng trong chiếc đĩa nhôm không biết từ bao giờ. Mấy cái ghế đã phải dóng thêm nhiều đinh mà vẫn không chắc. Căn nhà xùm xụp tối. Chiếc màn gió ngăn riêng cái chái ngả màu, rách nhiều chỗ. Hình ảnh cuộc đời và căn nhà của bác tôi biết từ lâu, nhưng bấy giờ nó mới thổi mạnh và quất vào tâm thức tôi một thực tại rất cụ thể: Bác nghèo nhưng bác có tình thương đối với tôi. Tâm thức của tuổi thơ rất đơn sơ. Nó bảo tôi trả lại tiền cho bác đi. Tôi muốn ứa nước mắt. Tôi muốn bảo bác rằng: “Thôi, cháu không lấy tiền của bác đâu.” Nhưng tôi không nói được. Tôi không biết làm gì. Bác không cho thời gian để cái trí non dại ấy biết phản ứng. Bác xoa  đầu tôi: “Cháu nhớ chịu khó học nhé.” Rồi đi vào nhà. Dường như bác cũng đọc được sự xúc động của tôi. Hay là bác cũng muốn tránh sự xúc động của chính bác vì thấy mình nghèo. Một tờ lịch rơi xuống vào lúc cuối ngày. Nhưng tờ lịch hôm đó không giống những tờ lịch khác. Có giọt nước mắt rơi theo.

Về nhà trường, những tuần lễ đầu, nhiều tối tôi suy nghĩ vì thấy bác tội nghiệp qua. Bác thương mình mà bác nghèo. Tôi không ngờ kỷ niệm đó theo tôi mãi. Tôi dán tờ giấy hai chục vào cuốn nhật ký linh hồn. Cuốn sách mà Cha linh hướng bảo tôi cố giữ, viết những giù xẩy ra cho linh hồn, viết mỗi ngày một đoạn tâm sự với Chúa. Cuốn sách bé với những cành hoa tôi nắn nót tô mầu ở mỗi đầu trang. Tờ giấy hai chục như  một kỷ niệm trong hành trình tâm hồn của tôi tuổi mới lớn. Về sau này, tôi không còn tâm trạng hối hận, trách cứ mình sao đã không can đảm mà chối từ, dám nhận tiền của bác khi bác nghèo vậy. Tôi giã từ dần dần từng năm trung học. Cái suy nghĩ ngày xư bé ấy theo thời gian thay vào một bình an mới. Cuốn nhật ký linh hồn kia thành những trang sách kỷ niệm tuổi thơi tôi cất vào ngăn kéo của quãng đời thứ nhất.

Rồi đến ngày mặc áo dòng. Bắt đầu tập suy tư như người lớn. Có những ước mơ cho ngày mình làm người lớn. Có những ước mơ cho ngày mình làm người lớn. Khi rở lại cuốn nhật ký nhỏ, tôi ước mong có ngày là linh mục. Ngày đó, tôi sẽ khoe bác tờ giấy hai chục mà tôi đã ủi phẳng phiu giữ kỹ bao nhiêu năm. Nhưng thời gian có những định mệnh của nó. Tuổi trẻ ấy cũng là năm tháng của chiến tranh. Chẳng ngày nào không nghe tiếng súng vọng về. Rồi những gì phải đến đã đén. Sau những ngày lánh nạn, trở lại nhà xứ, tôi thấy đồ đạc vương vãi ngổn ngang khắp cả. Tôi giật mình nghĩ đến cuốn nhật ký. Không còn nữa! Những tấm hình chụp, tất cả những gì tôi viết về tuổi thơ của tôi đã cháy theo chiến tranh. Trên thềm cửa, chung quanh nhà thờ, dưới tháp chuông, chỗ nào cũng có vỏ đạn sáng tinh màu đồng. Những mũi đạn đã bắn đi thật xa rồi. Chỉ còn lại là những tút vỏ nằm im thôi. Đầu đạn đã bay đi những đâu. Có ai ngã xuống. Nào ai biết có những mũi đạn vô hình bắn vào tâm hồn tôi. Tôi không muốn tin là những tấm kỷ niệm, những dòng chữ viết về tuổi thơ tôi bị mất. Nhưng định mệnh không bao giờ lên tiếng, nó im lặng phũ phàng như thời gian. Cái mơ ước có này làm linh mục rồi khoe bác về hai chục đồng đó không còn nữa. Cuốn nhật ký với tờ giấy bác đã ra tro than, thản niên như sự chết. Tôi đứng giữa tro tàn nhìn lại thời gian mà thấy muộn màng mất rồi.

Thời gian bao giờ cũng có những nhiệm mầu khó hiểu. Mười mấy năm kỷ niệm ngủ bình an, ôm mơ mộng mị. Rồi, búng mẹ một tàn bụi rơi xuống đường, thời gian như bước chân quay gót đi. Tôi không thể tìm lại được kỷ niệm đó, ngoài những lúc nghĩ về quá khứ với tiếc nhớ của thời gian ghi dấu trong tâm hồn.

Rồi. Bỗng dưng một ngày tôi bỏ nước ra đi. Bỏ lại tất cả. Chỉ còn hành trang ước mơ là linh mục mang theo trên lối tôi đi. Một hành trình ra đi khó hiểu nhất trong đời. Tôi nghĩ không bao giờ có ngày gặp lại bác tôi nữa. Thời gian đưa đất nước vào những ngày nghèo đói. Tôi không biết bác làm gì để sống. Tuổi đời già yếu theo tan cau khô dần, lá trầu vàng rồi sẽ rụng xuống. Bác có còn xách chiếc giỏ tre đi tát cá ven đường? Đã xa quá rồi, tôi không thể hình dung được những gì xẩy ra ở nơi ấy.

Thời gian đến. Ngày thụ phong linh mục, tôi nhận quà tặng, nhận hoa chú mừng, nhưng tôi cứ nhớ đến hai chục đồng ở gốc cây đu đủ mấy mươi năm về trước. Buổi tối đó âm thầm làm sao. Rất vắng vì không ai biết.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 84

Page 85: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Thời gian, có những muộn màng. Thời gian, có những hiểu biết vuột tầm nhìn. Rồi, một ngày không ngờ, tôi hồi họpp biết bao khi được trở về quê cũ lần đầu tiên. Trong những quà tặng, tôi nghĩ đến bác già yếu. Tôi mua cho bác quà gì đây? Tôi biết mình không thể nhắc lại kỷ niệm mấy mươi năm cũ vì bác già rồi. Đồng tiền đã cháy, chắc bác chả còn nhớ gì. Cài ngày tôi mới vào nhà sau gần 20 năm xa cách. Làm sao nói được. Có những khuôn mặt tôi thấy quen lắm mà  không sao nhớ nổi. Ồn ào. Kẻ ra người vào. Cảm xúc mừng vui của dòng tộc. Con còn nhớ bác này không? Con có biết cô kia không? Trong cái tình cảm ồn ào ấy, tôi vẫn không quên người bác cũ. Tôi nghĩ bác phải già lắm rồi. Không biết ai là người đó trong đám đông hỗn độn này. Tôi đang có một trò chơi đi tìm người.

Tôi đợi cho những ngày đầu tạm trôi đi. Tôi chờ những con sóng tình cảm tích luỹ trong dòng tộc mười mấy năm qua dịu lại, rồi tôi sẽ thăm bác. Tôi sung sướng nghĩ bây giờ tôi có thể giúp bác một số tiền cho những ngày tháng cuối đời này của bác. Tôi sẽ im lặng giữ kỷ niệm cũ. Nhưng định mệnh có những nghiệt ngã riêng. Khi hỏi thăm thì người nhà cho biết bác ấy đã chết rồi. Câu trả lời như câu thông tin bình thường. Nhưng với tôi thì khác, tôi thấy bầu trời mang mây như những sợi tóc bạc ngậm ngùi. Những lá trầu trong liên tưởng của tôi về hình bác đã thực sự rơi tàn theo đất ẩm. Tính nhẩm ra, bác chết trước tháng ngày tôi thụ phong linh mục không bao xa.

Nhìn lại quá khứ đi qua. Tôi gọi những kỷ niệm ấy là muộng màng của thời gian.

 

 

Chúa hay nói về muộn màng của thời gian. Chẳng hạn câu chuyện người giàu có và Lazarô nghèo khổ. Chết rồi, người giàu kia đối diện cuộc sống vĩnh hằng của mình. Ông muốn anh em ông biết cuộc sống đời sau như thế nào để khi còn ở trần thế  biết cách mà sống. Nhưng mọi sự đã xong. Ông muốn Lazarô đến cho mình chút nước để đỡ nóng. Nhưng trễ rồi: “Giữa chúng ta có một vực thẳm lớn, bên này muốn qua bên kia cũng không được.” (Lc 16:26). Rồi câu chuyện hồng thuỷ. Người ta ăn uống chơi bời, cho đến ngày Noe vào tàu mà họ chẳng biết. Họ bị hồng thuỷ cuốn trôi đi tất cả. Biết dòng nước dâng thì quá muộn. Câu chuyện mười cô trinh nữ đi đón chàng rể cũng thế. Năm cô khờ dại đem đèn mà không đem dầu theo. Lúc đi mua dầu thì chàng rể tới (Mt. 25:1-13). Trở lại, cửa đã đóng. Thời gian, ôi! Lại muộn màng nữa rồi.

 

Lạy Chúa, những giây phút con hay phủ lòng rằng con sẽ làm bù ngày mai điều con phải làm hôm nay là con đang dối lòng đấy thôi. Thiệt thòi biết bao. Xin cho con lấy những hối tiếc quá khứ mà cho lòng mình tiếc xót để con sống trọn một ngày con phải sống. Sống đầy ly nước tình yêu, ly nước lòng hiếu thảo, ly nước trí tuệ. Và, những muộn màng trong đời phải nhắc con đừng để muộn màng ngày cuối đời của mình, một thứ muộn màng thiêng liêng liên quan đến hạnh phúc đời đời.

 

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 85

Page 86: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đoản khúc 34: Lời của dòng sông

Cũng có lúc dòng sông cạn. Nhưng chẳng vì thế mà dòng sông lo âu, rồi toan tính giữ nước cho mình.. Từ ngày quá khứ, xuôi nguồn vào tương lai, nước làm thành dòng sông chứ không phải dòng sông làm nên nước. Từ ý nghĩ đó, dòng sông vào đời tự do theo ơn gọi của nó.

Đặt cuộc đời trước dòng sông. Ta xin dòng sông cho cuộc đời một lần nhìn rõ mặt mình trong ý nghĩ ấy.

Vào mùa nước lũ, dòng sông đưa nước xuôi đồng bằng. Mênh mông chân trời khi bình minh rải ánh sáng. Lấp lánh rừng bạc vào mùa trăng thượng tuần huyền ảo. Lấp lánh rừng bạc vào mùa trăng tuần huyền ảo. Thế nhưng, tháng hạ nắng hanh, dòng sông vơi dần. Nước cạn cho phơi bờ cát lở. Trong đời sống, có những khúc sông cuộc đời mà tháng ngày sóng nước chơi vơi. Cũng trong đời sống, không vắng những mùa khô cạn nước. Cuộc sống của ai cũng vậy thôi, hễ có ngày sai mùa trái chín, thì cũng có những ngày khô khan lá rơi. Có những mảnh đời ngheo khổ và cũng có những khúc đường đầy đủ. Lúc vơi bờ cát lở là khi túng thiếu đưa gian nan chín tới, là lúc buồn bã gọi lòng trống trải đi về.

Xin Thượng Đế cho con hiểu rằng nếu dòng sông vì lo âu mùa nắng mà dừng lại, tích nước mùa mưa thì dòng sông hết là dòng sông mất rồi. Nó chỉ là dòng sông khi chảy xuôi nguồn. Ngày nào con băn khoăn bắt dòng sông cuộc đời ngưng trôi chảy trong hồn, ngày đó cuộc đời thành ao tù.

Buồn làm sao những mảnh đời ứ đọng, không có niềm vui xuôi nguồn nhân gian. Dòng sông trở nên hoang vu trong cái ứ đầy của mình.

Xin Thượng Đế cho con biết nhận thì cũng biết cho đi. Chính lúc nghèo túng là lúc con biết rõ tâm hồn mình có độ lượng, bao dung hay không.

 

 

Dòng sông không gian tham. Nó biết nó chỉ là dòng sông khi trời cho nước. Nó không băn khoăn vào mùa nắng hạn. Nó chẳng tự phụ khi dòng nước dâng. Nước làm nên dòng sông. Biết mình tuỳ thuộc vào dòng nước, con sông bình an xuôi dọc thời gian.

Như nước đưa dòng sông thành nguồn, ơn sủng  trời cao đưa con người vào đời. Dòng sông không bao giờ tham lấy nước của dòng sông khác. Nó dâng vui khi nước nguồn đổ tới. nó thong thả khi nguồn nước nghỉ ngơi.

Nếu con người biết những gì mình có trong đời là do ơn sủng trời cao, như dòng sông biết nước đưa mình vào đời chứ không phải tự mình, thì con người sẽ nhận dự sống từ trời bằng bàn tay an nhiên. Con người phải vào đời bình an như dòng sông, không so sánh nhỏ nhen, không nghen tức.

Xin Thượng Đế cho con biết con tuỳ thuộc vào Ngài, con sống bởi ơn sủng của Ngài. Khio con hiểu ơn sủng của Ngài đưa con vào đời như nước làm thành dòng sông thì con hiểu tình yêu là sức mạnh chứ không phải lấy sức mạnh tạo dựng tình yêu.

Vì ngỡ sức mạnh tạo dựng giá trị nên con mới tích luỹ để chiếm đoạt. Có những tích luỹ bằng uy thế, bằng sắc đẹp, bằng địa vị, bằng đam mê. Gía trị đời con là sống như dòng sông, xuôi nguồn mùa nước lớn, thong thả mùa nước khô. Bởi, con biết giá trị cuộc sống là sống trọn ơn gọi trong hoàn cảnh Ngài tặng riêng con.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 86

Page 87: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

 

Dòng sông không ngừng lại nên sự sống của dòng sông chính là từ giã không ngừng. Cuộc đời cũng thế thôi, là trôi chảy.

Con người không chấp nhận biệt ly. Bởi đó, sự bám giữ của con người đã đưa dòng sông cuộc đời mình thành sóng đổ. Một ngày nào rồi cũng giã từ tuổi thơ vào đời. Bờ đê nhỏ. Mái nhà xưa. Rồi cũng bỏ đi xa. Cho dù tuổi thơ có là êm đềm. Rồi lớn lên ta cũng buông cánh theo gió mà ra khơi. Cứ như thế cho đến ngày ta gặp gỡ tình yêu đầu đời. Thoáng hương có mật ong say, có hơi thở ấm. Rồi cũng đến ngày hơi thở thì dài và mật ong thì phai. Sống là chấp nhận chia ly không ngừng. Ngày nào ta bám víu lại không cho dòng sông chảy xuôi là ngày hồn ta quằn quại.

Xin Thượng Đế cho con đừng bị ràng buộc vào những bờ đất. Bởi dòng sông phải buông mờ mà đi. Ngày nào dòng nước dừng lại, lưu luyến một bến bờ nào đó, nó chỉ là tàn phá nhau thôi. Nước thành sóng và bờ tan hoang. Chẳng nói chỉ vật chất, ngay những giá trị tinh thần như tình yêu, tình bạn, lòn  g nhiệt thành, con cũng phải buông cánh cho trôi theo dòng đời. Những giá trị ấy không phải là cùng đích của  cuộc sống, nó phải dẫn con đến cuộc sống cùng đích sau cùng là gặp Chúa. Vì thế, con phải biết lúc nào buông cánh để đời nhẹ nhàng xuôi dòng.

 

Dòng sông luân chuyển không bao giờ ngừng nghỉ, nhưng có ngày chấm dứt. Đó là ngày dòng sông về với biển cả. Nó xuôi nguồn để tới cùng đích. Nó luôn luôn chảy, luôn luôn giã từ để tới nơi không còn từ giã.

Cuộc đời cũng thế thôi. Ta vào đời là xuôi dòng về với trùng khơi. Bởi đó, ta phải chấp nhận sự chết như một chờ mong. Bất cứ ràng buộc nào cũng gây khổ đau vì nó dồn sóng lại trên đường mà đáng lẽ phải êm ả buông rơi. Chết như một định luật tất yếu thì bám víu vào bờ cát trên dòng sông cuộc đời chỉ là cấu chặt vào một hư vô. Người yêu cũng là từ giã. Những thành quách ta xây cũng là giã từ. Bpửi đó, như dòng sông ta phải sẵn lòng nói lời ly biệt.

Xin Thượng Đế cho con can đảm nhìn cuộc đời bao dung để con bao dung với chính mình. Nếu con không bao dung với đời, lòng thèm muốn bảo con giữ chặt lại cho mình, của cải, quyền bính, danh vọng thì con chẳng bao dung với chính mình đâu. Con mất tự do mất rồi.

 

Dòng sông tự nó là chia ly đôi bờ. Những tình yêu phải xa nhau đã chẳng có tiếng thở dài về dòng sông đó sao. Ôi! Những dòng sông xa cách!

Như dòng sông tự nó chia ly, là trắc trở, con người cũng thế, ai cũng là gai nhọn cho nhau. Tự mình ai cũng là nghịch cảnh cho nhau. Bởi trong ta, ai không yếu đuối? Dòng nước làm chia ly, nhưng bên bờ sông cũng có những bến hẹn, bến mong cho con đò một chiều có nhau. Chia ly đôi bờ đã có những gặp gỡ. CUộc đời cũng vậy thôi.

Xin Thượng Đế cho dodừi con là bến hẹn cho người hội ngộ để dòng sông nhìn hạnh phúc gặp nhau trên bến đê.

Người ta nhớ về những bến sông có kỷ niệm ngọt ngào. Tự con có thể là nghịch cảnh ngăn cách người với người, nhưng nhờ bờ sông, tự con cũng có thể là bến hẹn hoà giải gặp gỡ.

Như dòng sông hương hoa biết bao khi nghe tình yêu đi trên bờ đê của mình, thì đời con

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 87

Page 88: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

cũng thế thôi cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn khi là bến cho niềm vui của thế nhân đỗ chân.

 

Khi dòng sông có cây cầu nối xa về gần thì bến sông có tình yêu về trên lối cỏ. Khi cây cầu đưa vắng mặt về sum họp thì bến sông có kỷ niệm hương hoa.

Đời người cũng thế thôi. Và cây cầu ấy chính là Thượng Đế. Xin dòng sông dạy tôi biết không có cầu Thượng Đế thì đời tôi có thể là chia ly cách biệt người với người. Nhưng có Ngài, ôi! Dòng sông đời sống sẽ đẹp biết bao.

Dòng sông đời ai có bến đỗ đem kỷ niệm êm đềm cho người khác, thì bến đỗ ấy cũng được ban tặng lại hạnh phúc do kỷ niệm êm đềm kia để lại. Vì hạnh phúc đậu trên bờ sông nào thì dấu thơm hạnh phúc ấy cũng lưu lại với chính bờ sông đó nữa.

 

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 35: Sao con lại khóc

Trong đời, ai cũng có lúc khóc. Khóc thầm lặng. Khóc cho vơi niềm đau. Kinh cầu tuyệt vọng là kinh cầu trong nước mắt. Kinh cầu mong hy vọng cũng là lời kinh khao khát đẫm lệ.

Vũ trụ dường như đã có dan díu với tiếng khóc trước khi hình thành hay sao mà bây giờ ở đâu cũng thấy có nước mắt. Có tiếng thở dài trên đường, có tiếng thở muộn phiền lúc nghỉ ngơi. Tiếng than bên đời là buòn nhiều hơn vui.

Những trang Kinh Thánh thưở xưa cũng đong dài nhiều dòng nước mắt. Nhưng câu chuyện nước mắt của Mađalena thật đặc biẹt. Bà khóc hai lần, hai lần khác nhau.

Ngày đó, Mađalena khóc bên chân Chúa, nước mắt và hương thơm. Trong buổi chiều ấy, Chúa không nói gì. Chúa cứ để Mađalena khóc. Chúa nhận nước mắt như nhận quà tặng ân tình. CÒn Mađalena muốn đem nước mắt hoà vào hạnh phúc dầu quý cho bay đi những cơn mưa phùn của linh hồn rêu phong năm xưa. Chiều đó, người đàn bà ấy không nòi gì. Thinh lặng và nước mắt thôi.

Thế rồi, cũng người đàn bà ấy, một sáng nọ bà khóc, buổi sáng đến mộ đá tìm xác Chúa. Nhưng tiếng khóc lần này không như tiếng khóc thuở xưa.

“Bà Maria  đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc, vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt xác của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Maria tưởng là người làm vườn, lền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về” (Yn 20:11-15).

Một Mađalena, mà hai khung trời, hai dòng nước mắt khác nhau. Một con tim mà hai nhịp đập, hai thổn thức khác biệt.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 88

Page 89: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

-   Ở nhà Biệt phái: Ngày ở nhà ông Simon Biệt Phái, nước mắt bà Mađalena rơi xuống chân Chúa, nhưng chảy ngược vào tâm hồn. Mađalena khóc thầm lặng không tiếng nói. Bên mộ đá: Hôm nay, bên mộ đá Mađalena oà vỡ khóc thành lời nói. Bà thổn thức báo tin cho Phêrô và Yoan. Bà vội vã hỏi “Người làm vườn”. Bà quả quyết với thiên thần: “Người ta lấy mất Chúa tôi rồi” (Yn 20:13).

-   Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà Ông Simon, Mađalena kín đáo tìm cách vào tận phòng tiệc cho nước mắt rơi trên sàn nhà. Bên mộ đá: Hôm nay, Mađalena đứng ở ngoài mộ mà thôi, tiếng khóc vang bên phía ngoài.

-   Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, nước mắt Mađalena rơi trước mọi người, rơi trên chân Chúa. Bên mộ đá: Hôm nay, nước mắt rơi trong cát bụi.

-   Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, Chúa để Mađalena ngồi cạnh mình lấy tóc cùng nước mắt mà lau chân. Bên mộ đá: Hôm nay, Chúa không cho nước mắt kia chạm tới Ngài.

-   Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, trong tiếng khóc, Mađalena bị người ta kết án. Bên mộ đá: Hôm nay, Mađalena kết án người khác trong tiếng khóc của mình. Không bằng chứng mà Mađalena dám báo tin cho Phêrô bằng cách đổ tội cho người khác rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ” (Yn 20:2).

-   Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, trong dòng nước mắt, Mađalena nhìn rõ Chúa. Bên mộ đá: Hôm nay, cũng là nước mắt, Mađalena nhìn Chúa nhưng ngỡ là ông làm vườn. “Thưa ông, nếu ông đem Người đi thì cho tôi biết ông để Người ở đâu?” (Yn 20:15).

-   Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, Chúa thương dòng nước mắt ấy thiết tha. Bên mộ đá: Hôm nay, Chúa chất vấn: “Bà kia, sao lại khóc?”.

 

Lạy Chúa, cũng một con người được Chúa yêu, mà sao một lần khóc thì Chúa như bùi ngùi, một lần khóc thì Chúa nhìn dòng nước mắt mà hỏi: “Bà kia, sao bà lại khóc?”. Câu trả lời của Chúa như ngạc nhiên  về dòng nước mắt ấy. Câu hoir như từ chối, như nói rằng dòng nước mắt ấy không cần thiết. Tại sao vậy Chúa?

Tiếng khóc nào cũng có ý nghĩa. Nước mắt nào mà không chứa đựng nghẹn ngào. Càng nguyện vọng, nước mắt càng mặn cay, nước mắt ấy phải quý lắm chứ. Vậy tại sao Chúa lại hỏi: “Bà kia, sao bà khóc?”

Chỉ có một lần Chúa khóc, đó là trước cái chết của Lazarô. Cái chết nào mà không mất mát, nghẹn ngào, chính Chúa mà còn khóc. Vậy tại sao hôm nay Chúa lại bảo Mađalena đừng khóc nữa. Nhờ Chúa khóc trước cái chết của Lazarô, nên hôm nay, con phải suy nghĩ về nước

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 89

Page 90: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

mắt, tiếng khóc, nỗi đau của Mađalena trước mộ đá.

Khi Chúa khóc trước cái chết của Lazarô thì người chung quanh nói với nhau rằng: “Kìa, nhìn xem Ngài thương Lazarô dường bao” (Yn 11:36). Như vậy, nước mắt của Chúa hôm Lazarô chết không phải là nước mắt tiêu điều. Cái khóc của Chúa không là tuyệt vọng mà là tình thương.

Còn nước mắt của Mađalena bên mộ Chúa, có thương đó mà cũng có xót xa. Chúa sống lại, nhưng Mađalena phao tin rằng người ta lấy xác Chúa. Bà không nhìn thấy, nhưng bà nghi ngờ và đỗ lỗi cho việc Chúa không còn trong mộ đá là xác Chúa đã bị đánh cắp! Nước mắt chúng con trước cái chết của người thân yêu có lẽ cũng mang dáng dấp cả hai. Có thương nhưng lại thương trong xót xa, và nỗi xót xa ấy nhuốm màu đau tuyệt vọng như của Mađalena. Vì chưa hiểu niềm tin Phục Sinh, nên không thấy xác Chúa thì Mađalena cảm thấy ngày một mất mát lớn lao. Nỗi mất mát ấy là của Mađalena, cho nên thương Chúa mà xót xa cho mình. Xót xa và tuyệt vọng làm Mađalena nghi ngờ và đổ lỗi cho nhiều người.

Vì xót thương trước cái chết của người thương yêu, nhiều khi chúng con cũng không tránh khỏi những phàn nàn, trách nhiều nguyên nhân, cà có khi trách cả Chúa. Xin Chúa cho chúng con hiểu hơn về mầu nhiệm Phục Sinh trong sự chết.

Nước mắt bên mộ đá đã đưa Mađalena vào những vùng mây mờ không chứng cớ. Đấy là nước mắt thiếu ánh sáng Phục Sinh. Trong nước mắt xúc cảm nhạt nhoà, bà không nhìn rõ Chúa đứng ngay bên cạnh. Chính Chúa đó mà bà lại hỏi ông để xác Chúa tôi ở đâu.

Chúng con cũng thế thôi, vào những giờ đau đớn quá, chúng con không bình tâm nhìn thấy Chúa bên cạnh mình nữa. Nước mắt đau đớn làm nhoà cái nhìn về sự sống đời sau. Mađalena đã bừng tỉnh khi Chúa gọi tên bà. Vậy con xin Chúa cũng gọi tên con trong những giờ chán nản tuyệt vọng để hồn con được an ủi.

Chúa khóc trước cái chết của Lazarô chỉ vì thương. Xin cho nước mắt chúng con trước nỗi biệt ly cũng chỉ có một tình cảm ấy mà thôi, là chúng con hãy thương mến nhau. Người chung quanh nhìn trước mắt Chúa mà nói: “kìa Ngài thương Lazarô  biết bao”. Chớ gì nước mắt chúng con hôm nay cũng như vậy, để một người ra đi là đem yêu thương về đầy giữa chúng con, những kẻ ở lại.

Tình thương thì đem chúng con gần lại, còn nỗi tuyệt vọng sẽ làm đời sống chúng con rã rời.Con hiểu, cũng trước cái chết, Chúa đã khóc. Mà cũng trước cái chết, Chúa không muốn Mađalena khóc. Chúa muốn tiếng khóc của tình thương thôi chứ không muốn tiếng khóc tuyệt vọng. Vì Chúa là Phục Sinh.

“Vì sao con lại khóc?” Con mong lời Chúa hỏi Mađalena thưở xưa cũng là lời Chúa hỏi con hôm nay trong nỗi buồn này. Con hiểu lời ấy như một an ủi nhắc con về niềm tin Phục Sinh đằng sau nỗi chia ly vĩnh biệt. Con hiểu vì sao Chúa đặt câu hỏi ấy, vì trước giờ từ biệt Chúa đã căn dặn con: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Yn 14:3). Chúa mong chúng con ở bên Chúa như vậy thì khi người thân yêu của chúng con ra đi là giây phút Chúa chờ đón.

Mađalena chỉ nhìn vào mộ đá, vì thế nước mắt chỉ là trời sương buồn nản phủ xuống hồn. Chúa đã không muốn nước mắt ấy. Xin cho nước mắt của chúng con hôm nay không bám víu vào nỗi mất mát cho vơi niềm đau. Nhưng qua nước mắt, chúng con cho rơi đi những gì thiếu sót chúng con đã đối xử với nhau những ngày còn sống, để nước mắt hôm nay rửa tâm hồn chúng con cho đẹp hơn.

Xin Chúa cho nước mắt của chúng con hôm nay không kéo về những chiều hoàng hôn tuyệt vọng, mà rửa niềm tin chúng con sáng hơn để chúng con thấy người thân yêu đang ở bên Chúa và đang cầu bầu cho chính chúng con. Amen.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 90

Page 91: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 36: Gọi hồn và hồn gọi

Nhiều người tin là có những thầy bùa có thể gọi hồn người chết về nhập vào người sống để nói chuyện. Có người đến xin hồn cho biết những chuyện kín như ai lấy cắp tiền bạc của mình. Có kẻ muốn hỏi hồn ý kiến phải quyết định như thế nào trong những việc hệ trọng. Do đó, mới có chuyện “gọi hồn”.

Người ta chỉ gọi hồn người chết. Trong Phúc Âm cũng có nói đến chuyện “gọi hồn”. Chuyện rất lạ. Người trong Phúc Âm kể không gọi hồn kẻ chếtmà là hồn người sống! Trước khi tìm hiểu chuyện gọi hồn này trong Phúc Âm, ta thử đặt vấn đề: “gọi hồn” hay là “hồn họi”? Người ta đã nói đến “gọi hồn” rồi, có thể có vấn đề “hồn gọi” không?

Không có xác, hồn đi lang thang, người ta gọi là “hồn ma vất vưởng”. Không có hồn, chỉ có xác nằm đấy, người ta bảo là “xác ma không hồn”. Con người là tổng hợp của cả hồn và xác. Thiếu một trong hai thì người ta gọi là “ma”! Hễ có tổng hợp là có liên hệ tương quan. Tin Mừng có nói đến liên hệ này giữa xác hồn. “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì linh hồn thì hăng hái, nhưng thân xác lại yếu đuối” (Mt 26:4).

Thân xác yếu đuối, linh hồn hăng hái. Có khác nhau trong tương quan giữa xác và hồn. Như thế, thân xác có tiếng nói của thân xác. Hồn có ngôn ngữ của hồn. vậy có “gọi hồn” thì cũng có “hồn gọi”. Hai ngôn ngữ khác nhau thì “hồn gọi” rất khác với “gọi hồn”. Một đàng là hồn gọi thân xác theo mình. Một bên là thân xác gọi hồn đến với mình.

Một Con Người: Hai Tiếng Gọi

Nhà văn Tuý Hồng có cuốn tiểu thuyết nhan đề: “Tôi Nhìn Tôi Trên Vách”. Đức Cha Bùi Tuần viết tập sách thiêng liêng, đặt tên là: “Nói Với Chính Mình” tựa đề những tác phẩm trên nói lên một nội dung là có băn khoăn, có thao thức, mà cách nào đó có vấn đề giữa mình với mình.

Trong thư gửi giáo đoàn Roma, Phaolô cũng tự “tôi nhìn tôi trên vách” rồi thú nhận về con người mình:

“Tôi khám phá ra luật này: Khi tôi làm sự thiện thì thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì lề luật Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi tỏng luật của tội là luật vẫn nằm trong chi thể tôi” (Rm 7:21-23).

Nói “tôi nhìn tôi” là nói đến hai nhân vật. Một bên là chủ thể nhìn, một bên là khách thể bị nhìn. Cũng vậy, khi “nói với chính mình” là có người nói, có người nghe. Nhưng ở đây,người nghe cũng là người nói, người nhìn cũng là kẻ bị nhìn. Trong tương quan xác - hồn thì ai theo ai khi nghe tiếng phía bên kia gọi” Ai dừng lại khi thấy phía bên kia nhìn mình?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 91

Page 92: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Hồn Gọi

Hồn gọi là hồn muốn nói với xác. Hồn bất tử. Hồn không thể chết. Đặc tính ấy cho thấy hồn có một giá trị cao hơn xác. Trong đời sống thường nhật, người ta đồng ý là vật chất rất cần thiết, nhưng tinh thần có giá trị đẹp hơn vật chất. Chẳng hạn như lòng chung thuỷ thì đáng ca ngợi hơn nhan sắc. Tình yêu thì quý hơn bạc vàng. Vì thế, mới có những hy sinh cao thượng. Có người chết cho quê hương, có kẻ chết vì lý tưởng. Do đấy, mới có những thiên anh hùng ca.

Lúc đói, ngôn ngữ của xác bảo: Hãy ăn. Tất cả thú vật đều làm thế. Xác càng đói thì tiếng đòi ăn của xác càng mạnh. Ấy vậy mà có lúc đói ta vẫn chống lại, không ăn. Như thế, tiếng nói bảo: “đừng ăn” không thể đến từ xác. Nó phải là tiếng của hồn ta gọi xác ta. Khi xác muốn ăn mà hồn bảo “đừng” là hồn tìm lý do, lý luận và điều khiển xác. Bởi đó, “hồn gọi” là hồn suy luận, phân tích và hướng dẫn xác trước khi để cho sự việc xảy tới.

Ta ít nghe nói đến “hồn gọi”, nhưng trong đời sống hằng ngày, chẳng mấy lúc mà hồn không gọi xác. Khi xác đói, ta xoè tay muốn lấy trộm củ khoai, hồn suy nghĩ rồi bảo: Không! Thiếu tiếng “hồn gọi”, xác chỉ nói ngôn ngữ tự nhiên của đòi hỏi sinh lý thì con người và loài vật giống nhau. Tiếng “hồn gọi” là tiếng lương tâm Thượng Đế in dấu nơi con  người nên bao giờ cũng đúng, nó chỉ đạo cho xác. Và như thế, tiếng “hồn gọi” bao giờ cũng là tiếng gọi đẹp. “Hướng đi của xác thịt là sự chết, còn hướng đi của hồn là sự sống và bình an” (Rm 8:6).

Cũng có những trường hợp lương tâm sai, nhưng là do con người làm sai. Tuy nhiên, dẫu có sai, nó chỉ sai một phần nào, chứ lương tâm không thể mất dạng. Những câu nói tự nhiên hằng ngày như “hãy lắng nghe tiếng lương tâm”, đấy chẳng phải là chứng từ chấp nhận hồn nói với xác hay sao. Và khi chấp nhận như thế, chẳng phải là đã đồng ý cho hồn một sứ mạng hướng dẫn xác hay sao.

Gọi Hồn

Nếu xác có ngôn ngữ riêng thì tiếng xác “gọi hồn” thế nào? Ngay cả những người biết Phúc Âm cũng tin hồn cao hơn cả thể xác. Nguyễn Du, trong Kiều viết rằng: “Xác là thể phách, hồn là tinh anh”. Vì hồn tinh anh nên người ta mới “gọi hồn” người chết về mà vấn ý. Nhưng chuyện “gọi hồn” trong Phúc Âm thì rất lạ. Tin Mừng Matthêu ghi câu chuyện “gọi hồn” người sống như sau:

Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu!” Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, và tích trữ tất cả lúa và của cải của mình vào đó. Lúc đó ta sẽ nhủ lòng: hồn tôi hỡi, mình bây giờ ê chề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12:16-19).

Đã chết đâu mà ông phú hộ ấy gọi hồn về. Làm sao hồn có thể ăn mà lại gọi hồn đến? Có người đem khoanh thịt ra mộ bia rồi lại đem về. Đó là biểu tượng nhớ thương nhiều hơn là tin rằng hồn thực sự ăn. Hồn thuộc thế giới thiêng liêng, làm sao lấy thịt thà, rượu bánh là vật chất mà đãi hồn là thế giới vô hình? Vậy mà ồn phú hộ mời hồn đến “ăn uống vui chơi cho đã.” Cái lầm lẫn của ông ta là cho hồn thứ không thể ăn. Tiếng “gọi hồn” của ông ở đây là một nghịch lý hoang tưởng. Ông ta tin vào hoang tưởng này và kiên quyết “gọi hồn”.

Phúc Âm kết đã kết thúc cái phi lý đó:

“Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc12:20-21).

Liên hệ hồn xác gọi nhau là những tiếng gọi cho những hướng đi khác biệt. Giữa “hồn gọi” và “gọi hồn” có một phân tranh rất rõ. “Anh em là khách lạ vãn lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn” (1Phêrô 2:11).

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 92

Page 93: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Hãy để ý là trong câu chuyện gọi hồn của ông phú hộ, theo mạch văn tường thuật, ta thấy trong căn nhà ấy rất vắng. Không có ai. Không thấy ông nói đến vợ con, không thấy nói đến anh em, không thấy nói đến bạn bè, không thấy nói đến người hàng xóm, chỉ có mình ông ta lẻ loi. Nổi bật lên là một thế giới khép kín lạnh lùng.

Không có ai để mà gọi, chỉ xác của ông gọi hồn ông thôi. Hồn không ăn được thóc chứa trong kho, hồn không uống được ly rượu trên bàn. Ông gọi sai chỗ, ông cho lầm đối tượng. Tại sao vậy? Vì ông quá cô độc không có ai nên mới phải gọi hồn về ăn? Hay tại ông chỉ muốn cho hồn ông ăn thôi nên ông chẳng có ai chung quanh cuộc đời và ông thành cô độc? Hình ảnh chỉ có một mình ông trong căn nhà vắng là bóng hình rất âm u.

Hồn không ăn được mà ông ta cứ gọi hồn, câu chuyện kỳ lạ là ở chỗ ấy.

Đi qua nghĩa trang vào ngày rằm, ta thấy xôi gà, những khoanh thịt trước mộ người chết. Khi chết rồi người ta mới đem đồ ăn cho hồn. Hay nói cách khác, hễ có hồn, có đồ ăn là có bóng hình mộ người chết. Hình ảnh “gọi hồn” này làm cho căn nhà của ông phú hộ phảng phất một chút ma quái của thế giới bên kia. Trong cái sống đã có cái chết. U uẩn. Một nấm mồ.

 

Qua những tháng ngày trăn trở nhìn mình, biết có tiếng “hồn gọi”. Ray rứt khi mình nghe mình và cũng muốn có tiếng “gọi hồn”. Rồi, Phaolô nói với chính mình phải bỏ tiếng “gọi hồn” đi mà nghe tiếng “hồn gọi”:

“Nếu anh em sống theo xác thịt anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em được sống” (Rm 8:13). “Hướng đi của xác thịt là phản nghịch cùng Thiên Chúa, vì xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa” (Rm 8:7)

Trong căn nhà vắng, bóng hình người phú hộ cô độc cất tiếng “gọi hồn”. Nghe như âm vang hồn đã xa rồi. Và quả là thế. Trong ý nghĩa của Phaolô than thuở: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rom 7:20). Thì, lúc này hồn ông phú hộ đang trăn trở lắm với tiếng gọi của thân xác. Hồn ấy muốn đi xa. “Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm. 7:20). Hồn chạy trốn. “Vẫn biết rằng lề luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét tôi lại làm” (Rm 7:14-15). Giằng co. Âm vang của xác “gọi hồn” rất kỳ bí, tàn bạo.

Đời Phaolô đã khổ sở trong tiếng gọi của xác. Có hai tiếng gọi thật đấy, nhưng Phaolô đã nghe tiếng “hồn gọi” chứ không để xác “gọi hồn” theo. “Được cả thế gian mà mất linh hồn thì nào lợi ích gì?” (Mt 16:26).

Ta thấy trong căn nhà ông phú hộ chỉ có một mình ông. Phải chăng sự say mê đi tìm, tích luỹ gạo thóc ấy làm ông cô độc?  Cô độc, không có ai chung quanh, một mình, và sau cùng, xác người phú hộ cất tiếng cười mời hồn đến. “Hồn tôi hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ chơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!“ Sự sai lầm trong tiếng trong tiếng “gọi hồn” của ông đã được Chúa đặt lại thành câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng người, thì nhũng gì người sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12:20-21).

Câu hỏi ấy cũng vẫn là câu hỏi cần thiết cho cuộc sống hôm nay để nhắc nhở chính mình về hạnh phúc đích thực mai sau cho linh hồn.

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 93

Page 94: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đoản khúc 37: Linh mục

“Từ bụi tro Chúa nâng con lên hàng khanh tướng. Rầy vể sau khắp nơi khen con thật vinh phúc.”

Lời ca trên đây vẫn rất ấm trong lòng người. Tiếng nhạc vẫn rạo rực trong giáo đường ngày thụ phong linh mục. Lời đẹp, ý cao sang. Làm sao mà qua lời kinh truyền phép, có Chúa hiện diện nơi bánh miến? Tôi chỉ có thể sống đời linh mục chứ chẳng hiểu được ơn gọi linh mục bằng phân tích của trí tuệ. Ơn gọi linh mục là một huyền nhiệm.

Chức vụ tư tế chỉ ai được chọn mới được lãnh nhận (1Sam 16:1-13, Yn 15:16). “Không ai được tự hãnh huống về vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa kêu gọi, như Aaron thưở xưa” (Heb 5:4). Chẳng có ý muốn trần thế nào ban tặng được thiên chức linh mục. Bởi đó, bài hát đã gọi ơn linh mục là rất quý. Lời ca thật đẹp và cũng thật đúng. Ngày tôi bước lên lãnh nhận thiên chức đó, hồn tôi cũng hân hoan vô lượng. Đức mến gọi tôi tới nhủ rằng tôi là người được chọn. Đức tin bảo rằng lối tôi vào đời rất huyền diệu.

Ngày thụ phong linh mục không phải chỉ là mơ ước trong hồn người lãnh nhận đã kết trái, mà là kết trái của mơ ước nơi bao nhiêu con tim. Những con tim nhìn về tương lai đợi trông mùa hoa thơm quý sẽ nở trên đường linh mục. Lời ca nói đến kẻ được chọn là một hồng ân. Thế nhưng, trong hai lời ca, chỉ có lời ca thứ nhất: “Từ bụi tro Chúa nâng con lên hàng khanh tướng” là lúc nào cũng đúng. Chúa không lấy lại ơn gọi Chúa đã ban tặng.

Lời ca thứ hai: “Rầy về sau khắp nơi khen con thật vinh phúc” không phải lúc nàp cũng đúng. Có linh mục chỉ sau một bình minh không dài, màu áo dòng bạc phai. Và lời ca kia trở thành sầu muộn. Có đời linh mục là tiếng thở dài của người bên cạnh và của chính mình. Giáo dân không còn bảo tôi là người vinh phúc nữa. Nơi họ là nỗi chán. Tôi đi vào chiều tắt nắng.

Ngày Hạnh Phúc Nhất?

Ngày đứng trước bàn thánh có phải là ngày hạnh phúc nhất trong đời một linh mục? Một trời mới, một đất mới mở ra, vì thế, người ta thường bảo ngày thụ phong linh mục là ngày hạnh phúc nhất, đẹp nhất.

Nhưng thời gian trôi. Những bó hoa “Ngày vui nhất” đó tàn theo một chiều ngắn. Căn phòng trở lại êm vắng. Và rồi, cũng với thời gian, căn phòng từ êm vắng có thể trở thành vắng mà không còn êm đềm. Người ta cũng thường lấy ngày cưới của hôn nhân mà so sánh với ngày linh mục. Trong ngày cưới, không phải chỉ có tình yêu giữa hai người yêu nhau, mà tiếng pháo của bao nhiêu thân thương khác chung quanh họ, anh em, bạn bè cũng nổ vang chung vui với họ. Nhưng tiếng pháo cũng sẽ im. Người sẽ xa. Tà áo cưới lãng quên trong bận rộn. Hình kỷ niệm mờ phai dần với tuổi đời. Một ngày nào đó nhìn lại tấm hình xa xưa mà ngỡ như chuyện thần tiên. CÓ khi những khắc khoải muộn phiền trong đời sống hôn nhân làm họ nhìn những kỷ niệm cũ mà mơ hồ như chuyện không thực. Vì thế, họ thường gọi chỉ có ngày hôn lễ là đẹp nhất trong đời.

Ngày hôn nhân hay ngày linh mục cũng có những giống nhau. Lãnh ơn gọi cho một giao ước thì hôn nhân hay linh mục cũng thế. Ngày khởi hành lời đoan hứa thì hôn nhân hay linh mục cũng là khởi hành bằng tình yêu.

Rồi lại cũng ngày nào đó, mười lăm năm sau, hai mươi năm sau, có thể là cánh thư, có thể là tấm thiệp gởi đến chúc mừng. “Cầu chúc tình yêu của hai người nồng nàn như ngày mới cưới nhau.” Họ nhắc nhau nhớ kỷ niệm năm xưa và chúc cho nhau một hành trình thật dài, tình yêu vẫn đẹp như ngày ban đầu. Ngày xưa dấu ái ấy đẹp quá. Họ nhớ mãi ngày mà không có lần thứ hai trong đời. Linh mục cũng vậy thôi: “Xin cho Cha dâng lễ sốt sắng như ngày Cha dâng lễ mở tay.” Một lời chúc mừng mà trong đó vô tình có nuối tiếc.

Vào ngày kỷ niệm thụ phong linh mục, tôi nhận được cánh thiệp chúc mừng. Từ xa có người nhắc nhở cho ngày trọng đại thưở xưa. Cái ngày đẹp ấy còn ghi dấu trong hồn người thân. Và hôm nay, người ấy nguyện xin cho đời linh mục của tôi mãi mãi “đẹp như ngày ban đầu”.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 94

Page 95: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Trong lời chúc ấy có lo âu nếu hôm nay tôi không còn thiết tha như thưở đầu tiên. Lời chúc ấy đến từ cảm nghiệm của cuộc sống thực, vì trong cuộc sống cho thấy với thời gian, cung đàn nào rồi cũng có thể phôi pha.

 

Sau bao năm sống đời linh mục, bao nhiêu lần dâng lễ, mà nay chỉ mong sao cho được như ngày ban đầu thôi. Trong hôn nhân, tình yêu những ngỡ rằng như dòng sông sau bao nhiêu khúc quanh, ngang miền gian khổ mà đi thì nay vận điệu phải là trường ca, ấy thế mà lời cầu chúc cũng chỉ mong sao cho hôn nhân của họ được đẹp ngày đầu thôi.

Những lời chúc mừng ấy là phản xạ rất trung thực của đời sống thực tế hôm nay. Ước mơ được như ngày đầu có nghĩa là sợ rằng đã xa hạnh phúc ban đầu ấy rồi. Ngày xưa dâng lễ sốt sắng, bây giờ phôi pha. Ngày xưa hôn nhân hạnh phúc, bây giờ chán chường.

Linh mục hay hôn nhân mà nhìn những ngày  tương lai không thể hạnh phúc hưn ngày đầu được thì trong hạnh phúc của những ngày đầu ấy đã là hàm số chứa đựng nuối tiếc đang đến rồi.

Ngày hôn lễ chỉ là khởi điểm của những ngày hạnh phúc hơn về sau. Họ không mừng ngày hôn lễ như ngày đích điểm tận cùng đã tới. Ngày ấy chỉ là vết than hồng cho ngọn pháo bông ngày mai. Ngày thụ phong linh mục cũng vậy. Những nghi lễ, chúc mừng chỉ là phụ thuộc cho một hành trình nột tâm mà hôm nay lối ngõ mới chợt mở. Nếu không săn sóc sự thật này, chao đảo dưới chân ngày thụ phong linh mục và hôn nhân sẽ đưa những hoang vắng đến.

Ngày thụ phong linh mục hay hôn lễ là ngày tình yêu lên đường. Tình yêu như những hạt lúa, đi tới đâu làm thửa đất thành ruộng mạ tới đó. Hành trình tình yêu ấy càng dài thì người mang tình yêu ấy càng hạnh phúc.

Lúa vàng không có ở chân bàn thờ trong ngày thụ phong linh mục. Cánh đồng lên màu, mùa gặt chỉ đến sau những ngày lao tác. Ngày thụ phong linh mục là tấm phên cửa sổ mở ra cho thấy những huyền nhiệm hạnh phúc khác đang đến. Huyền nhiệm hạnh phúc ấy là những ngày truyền giáo, có thể là xuôi ngược như Phanxicô, có thể là trong chiêm niệm trầm lắng mà tha thiết như Têrêsa. Đó là những chiều mỏi mệt mà không từ chối ban bí tích giải tội cho một linh hồn đang gõ cửa. Đó là những ngày hối hả mà vẫn tha thiết với bí tích Thánh Thể, sốt sắng cho giờ dâng lễ.

Ngày làm linh mục là ngày dâng lễ thứ nhất. Như thế, sẽ có hàng ngàn thánh lễ sắp xếp theo thời gian. Nhưng thánh lễ nào cũng phải là thánh lễ “mở tay”. Tân linh mục không chỉ dâng lễ “mở tay” một lần. Thánh lễ nào cũng mới. Thánh lễ nào cũng linh thiêng mầu nhiệm. Trên thập giá, tay Đức Kitô lúc nào cũng giang rộng. Mở tay để nắm lấy tay người, và để người nắm tay mình. Đường về nhà Chúa là đường Hiệp Nhất. Khi bàn tay nắm lại là dấu chỉ của thách đố, tranh đấu, chỉ thị, ra lệnh quyền uy. Những thánh lễ không “mở tay” là thánh lễ không có ơn cứu độ.

Nếu linh mục không thể chỉ có một thánh lễ “mở tay”, mà là suốt đời, thì có phải đường hôn nhân cũng là như thế, không thể chỉ có một ngày cưới mà sáng nào cũng là hôn lễ.

 

Lạy Chúa, sáng mai con dâng lễ trong nhà nguyện nhỏ không trang trọng như ngày con dâng lễ “mở tay”. Nhưng giữa con và Chúa vẫn là thánh lễ rất đặc biệt.

Bánh thánh không bao giờ cũ.

Xin cho con chút linh hồn nghệ sĩ để thấy không buổi chiều nào có hai màu mây giống nhau. Mỗi bình minh là một độc đáo. Thì, mỗi thánh lễ là một ơn cứu độ khác biệt quý giá.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 95

Page 96: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Xin cho con ngày thụ phong linh mục cuả con, trước mặt Chúa và trước mơ ước của con sẽ không phải là ngày đẹp nhất để rồi xuống dần. Những ngày con đang sống, những ngày đang tới với con phải là những ngày đẹp hơn và hạnh phúc hơn, vì lòng thương xót của Chúa cứ theo thời gian mà ban xuống cho con cơ mà.

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 38: Hương sắc của gai

Đôi hoa tai lấp lánh hai hạt ngọc nhỏ, sáng màu sao trời, nằm ngoan hiền trong bàn tay người thiếu nữ. Người thiếu nữ biết mình sẽ đẹp hơn nếu đeo đôi hoa tai ấy lên đôi tai mịn màu da tuổi dậy thì. Xoa xoa vành tai, nhưng mỗi lúc đầu gai nhọn châm vào da thịt, nàng lại thấy đau buốt. Nhìn mặt mình trong chiếc gương bạc, nàng thấy mình như một đoá hoa lưu ly. Hẩy nhẹ mớ tóc xoã ngang vai ra sau lưng rồi nhìn vào vành tai còn trống trơn. Ướm thử đôi hoa lên vành tai. Chiếc khuyên vàng nổi trên làn da trắng. Hạt kim cương óng ánh như giọt sương ngũ sắc. Nàng đẹp. Người thiếu nữ mỉm cười. Nhưng làm sao để đeo đôi bông ấy được? Người thiếu nữ nhìn cành gai. Nhọn quá. Mỗi khi định bấm chiếc gai vào vành tai, nàng lại nhăn mặt. Đau đớn.

Nắng gắt hơn mọi ngày. Yêsu ngồi nghỉ, mồ hôi thấm ướt chiếc áo mẹ may cho thưở nào. Ba mươi tuổi đời, tuổi của chàng trai mới bóc lớp vỏ thanh niên để chuyển mình thành cây tre bước ra gánh vác việc làng. Giờ sắp đến. Chung quang nôn nao về một ngày bất định. Những ngày trước mặt sẽ là tang chế. Mặt đất chuyển về đôi chân sắp bước tới một cuộc động đất kinh hoàng. Chân người thanh niên trẻ Yêsu không vững. Cố mà giữ khỏi nghiêng ngả. Mơ hồ đã có máu và nước mắt, mồ hôi và cát. Tâm tư người thanh niên ba mươi tuổi đời ngộp thở cho những quyết định vô cùng táo bạo. Mây đang vần vũ trên bầu trời tâm hồn, lối nghĩ nào cũng là kẹt cứng khô cằn. Âm vọng từ đường xá đi vào, từ con tim thở ra, những âm vọng sắc như dao nhọn. Không còn văn chương và thơ. Không còn trăng mềm và đãi ngộ của đất trời. Đã đến ngõ làng vào Jêrusalem. Tiếng thở chần chừ: Lạy Cha, nếu được xin cất chén đắng này khỏi con.

 

Đường Nước Trời cũng giống như người thiếu nữ và đôi hoa tai. Lối ở phía trước nhan sắc. Nơi đó, mây trời đang chờ đợi hơi sương của đất. Tình trời như đôi hoa tai sẽ làm người con gái thêm đẹp. Tình đát là bàn tay vẫy gọi, là chân đi tới. Nhưng làm sao lãnh nhận tình trời, cũng ngư người thiếu nữ làm sao đeo được đôi bông tai lên tai nếu không đủ can đảm bấm chiếc gai nhọn qua vành tai chờ đợi.

Yêsu đã một thưở mơ tình trời giao hoà cùng tình đất, đã có lúc ngại ngần vì khổ đau. Nhưng Yêsu đã bấm cành gai nhọn. Vòng gai trên đầu Yêsu đã sáng ngời mũ quân vương thắng trận. Muốn có vẻ đẹp phải chấp nhận đớn đau.

 

Người thiếu nữ lại ướm khuyên vàng với vòng tai mình trong ước mơ thèm muốn. Đôi tai vẫn trống trải đợi chờ. Tất cả hệ tại đôi tay can đảm và lòng muốn thiết tha của nàng. Những sợi tóc thánh thiện đang nôn nao đợi, những sợi tóc mai mong manh chờ. Lại nhìn mình trong dáng gương thật trong. Một nỗi cô đơn nào đó thoang thoảng trên khuôn mặt xinh. Vẫn u hoài một thiếu vắng nào đó trên khuôn mặt đẹp. Nàng biết nỗi u hoài ấy, nàng thấy cái thiếu vắng ấy chính là thiếu vắng của đôi hoa tai. Nhưng cành gai nhọn quá. Nàng có thể chần chừ cho giây phút trang

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 96

Page 97: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

điểm. Nhưng thời gian không đợi chờ nàng. Cứ nhìn mình trong gương và cành gai, nhưng không vì thế mà cành gai thông cảm bớt sắc đau.

 

“Lạy Cha, đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha”. Trăng đêm ấy là trăng nhỏ màu. Ánh trăng chênh chếch không dám nhìn thẳng. Giữa những cành ôliu già sần sùi gắng gượng, Yêsu đã phó mình trong tay Cha, hoàn tất cho một yêu thương nhất định. Chỉ có tình yêu mới đẩy tảng đá che mồ mà bước vào. Đất đã lở cho lửa thiêu đốt những lưỡng lự ngái ngủ. Hệ luỵ điêu linh người thanh niên Yêsu đã anh dũng lãnh nhận. Đêm Giêtsimani. Đêm nghiệt ngã. Cành gai nhọn đã trùm lên đầu đau đớn. Đêm linh thiêng. Đau đớn của thập giá và vinh quang của phục sinh là nhan sắc mà mất một mà là mất cả hai. Lời nguyện xin vâng là chuyến đi tìm nhan sắc xuyên qua rừng gai dầy. Đôi hoa tai sẽ nhạt duyên nếu không gắn trên vành tai người con gái. Và cất giấu đôi hoa thì khuôn mặt người thiếu nữ cũng bình thường lặng lẽ mà thôi.

 

Người thiếu nữ nhìn cành gai nhọn trong tay thon nhỏ. Tiếng gọi của cành gai là nhan sắc ở đằng sau. Trong tim người thiếu nữ có bài ca của lới thánh vịnh thênh thang. Người thiếu nữ hiểu rằng không phải nhan sắc trong gương mà mình muốn nhận mũi nhọn của cành gai. Đằng sau nhan sắc là tình yêu mà nàng đang chờ. Đôi hoa tai chỉ là tiếng thơ cho một giọng ngâm rất ấm mà nàng đang rủ Hoàng Tử Bình An của nàng vào thơ. Người thiếu nữ, trước ranh giới, không phải gian nan và nhan sắc nữa mà là giữa bến đau thương và bờ đậu hạnh phúc. Nhan sắc chỉ là bậc thang cho chân đi vào hoàng cung với Người Yêu Muôn Thưở. Bởi đó, lựa chọn đưa đôi hoa lên vành tai bây giờ là lựa chọn thử thách của Thiên Đàng và Sự Chết. Hiểu được chiều sâu của nét đẹp con gái thì đôi hoa tai xàng duyên sắc như thế nào. Tuy thế, sự hiểu biết ấy chẳng làm cho cành gai bớt nhọn và bớt đau thương. Đường về Thượng Trí vẫn chẳng tuỳ thuộc trí hiểu mà là ý chí.

 

Yêsu không xin luật trừ cho vòng gai tử nạn. Cha Ngài cũng im lặng. Trong ý sâu nhất của linh hồn, Yêsu đã hiểu, và giục giã hồi chiêng trống, Yêsu vào tình sử. Trọn vẹn. Có ngại ngùng nhưng không thiếu thiết tha.. Có thách đố nhưng không vắng bóng lòng dũng cảm. Yêsu đi trọn đường trần. Gió bay muôn hướng bũng vãi ánh sáng phục sinh xuống khắp nhân gian. Trầm trầm rừng hương ca tụng một trái tim thanh niên, rất cao sang, rất thánh.

 

Người thiếu nữ ngồi đây, phân vân trên tay cành gai nhọn với đôi hoa tai tuyệt đẹp. Đôi má xuân thì đang thèm muốn. Ngoài kia đời đang chờ tiếng sáo bay lên. Lời mời gọi về đường nhân đức cũng vây, là lựa chọn không thể từ chối từ can đảm mà có chiến thắng vượt qua. Trái tim người thanh niên đang tìm nét đẹp cho êm lòng, cho khơi nguồn sáng tạo trong cuộc đời thiếu nữ. Đức Kitô cũng đang chờ chân bước tới của kẻ muốn theo Ngài làm môn sinh.

Làm sao để người thiếu nữ đeo được đôi hoa tai ấy? Nàng biết có câu trả lời ở bên kia bờ. Nhưng từ bên này qua bờ bên kia có cách biệt bởi dòng sông thương đau của cành gai. Đường về thánh thiện cũng thế thôi. Liệu kẻ theo Đức Kitô có dám chèo qua dòng sông, rẽ gai bước tới?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 97

Page 98: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 39 : Điệu vũ của người mù

Sống là một vũ điệu. Chân nối những bước chân. Ta đưa ta. Ta đưa người. Con người dìu nhau vào đời. Ngày ngưng nghỉ điệu vũ là dấu chứng bệnh hoạn úa chán. Vũ trụ cũng là một luân vũ không ngừng. Lá theo mùa nhịp nhàng với thời gian, xuân, hạ, thu, đông. Nắng theo đêm gọn gàng không lỗi hẹn. Trăng đi rồi trăng nhớ. Sông cạn rồi sông lại về. Vũ trụ không bao giờ ngưng nghỉ, vì sống là tham dự vào vũ điệu đời đời. Ngưng là chết. Trong đặc tính không ngưng nghỉ và không ngừng lại, có điệu vũ của một người mù.

Cuộc Đối Thoại Trước Điệu Vũ Của Người Mù:

Biệt phái: Làm sao anh được sáng mắt?

Người mù: Ông ấy thoa bùn lên mắt tôi, tôi rửa thì tôi được thấy.

Biệt phái: Nó không bởi Thiên Chúa được vì nó không giữ ngày hưu lễ! Anh nghỉ sao về việc ông ta chữa mắt cho anh?

Người mù: Ngài là một tiên tri!

Biệt phái: Hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta biết nó là một đứa tội lỗi!

Người mù: Ông ấy là người tội lỗi ư? Tôi không biết, tôi chỉ biết là tôi mù mà bây giờ tôi thấy được!

Biệt phái: Thế hắn đã mở mắt cho anh thế nào?

Người mù: Thì tôi nói với các anh rồi, dễ chừng các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?

Biệt phái: Có mày làm môn đồ hắn, chúng ta là môn đồ của Maisen.

Người mù: Cũng lạ thật, các ông không biết ông ấy bởi đâu mà ra mà lại mở mắt được cho tôi. Ông ấy không bởi Thiên Chúa đến thì chẳng làm gì được!

Biệt phái: Mày sinh ra trong đống tội mà lại dạy chúng ta ư?

Và họ trục xuất anh ta khỏi hội đường. Bạn thân mến, sau khi người mù ra khỏi hội đường là vũ điệu của anh bắt đầu.

Người Mù Bắt Đầu Điệu Vũ

Đức Kitô: Anh có tin Con Người không?

Người mù: Con Người là ai để tôi tin?

Đức Kitô: Chính kẻ đang nói cùng anh!

Người mù: Tôi tin!

Rồi người mù sấp mình thờ lạy Người. Từ đây, chân người mù và chân Đức Kitô cùng nhau về Jêrusalem. Điệu vũ đã lên tiếng kèn trả lại trần thế cho thế trần. Thênh thang từ dấu chân nhận biết, từ mệnh lệnh ban hành: “Chính Ta là Người đang nói với anh”. Hồn người mù có bài ca phẫn nộ vì ngoan cố sai lầm của Biệt phái. Bài ca phẫn nộ ấy như tiếng trống đẩy anh ta ra khơi. Giờ đây, bão tố đời có đưa tới cũng mặc kệ. Hồn anh ngập niềm tin và lòng dũng cảm. Chân người mù như đôi chân sứ giả lên đường bụi bặm của toan tính đê hèn. Bước đi giữa lòng ganh tị của kẻ chống đối Đức Kitô, anh lên đường theo Ngài.

Chân anh ta nhịp vào cát bụi của lộ hành thương khó về Núi Sọ. Điệu vũ của nhịp chân

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 98

Page 99: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

chỉ là lời phiên dịch điệu vũ niềm tin trước Biệt Phái. Không sỏi đá nào có thể ngưng được lối về Giêrusalem nữa, vì đôi chân tìm sự sống đã gặp vũ điệu của sự sống đời đời. Không còn chọn lựa nào đẹp bằng chọn lựa điệu vũ về thành thánh. Từ đây, chân tìm chân, chân theo chân, chân cùng chân về thập tự để rồi tiếp tục cuộc luân vũ trong phục sinh vĩnh hằng.

Nhạc cảnh đưa người mù vào vũ điệu về Jêrusalem với Đức Kitô đã không bị ngừng lại ở những cung nhạc lỗi giọng thê thảm của các tay nhạc công giở tệ là các kinh sư. Khi gặp Đức Kitô thì không còn nhạc công nào có thể sửa lại được cung điệu của nốt nhạc trong linh hồn người mù nữa.

Bằng sự hiểu biết Kinh Thánh, bằng am tưởng chi tiết các lề luật, những nhạc công Biệt Phái này cũng không sao thuyết phục được người mù. Người mù không cần biết nốt nhạc nào các ông ấy thổi. Anh ta chỉ biết một điều là: “Ông Yêsu ấy đã chữa mắt cho tôi.”

Lý luận bằng danh hiệu là môn đệ của Maisen đi nữa, đe doạ bằng lề luật thế nào đi nữa thì người mù cũng vẫn chỉ một niềm tin vào Đức Kitô thôi. Trước thách đố của Biệt Phái, người mù lấy cung điệu cảu mình. Anh biết bản hùng ca của anh bất hủ bởi anh không viết bằng trí tuệ, không hiểu bằng lề luật mà viết bằng sự gặp gỡ: “Tôi chỉ biết là tôi mù mà bây giờ tôi thấy được”.

Đe doạ đến đời sống, linh hồn người mù cũng vẫn chỉ một cung đàn thôi: “Chính Ông ấy đã chữa mắt cho tôi.”

Nhiều vũ điệu bị  ngưng nghỉ vì nghe sai tiếng kèn của những nhạc công rồi. Trong đời sống hôm nay, luôn luôn có những nhạc công tồi bên lề đường thổi những bản ca lười biếng, bảo người ta sống lương thiện là dại dột, lý tưởng là không thực tế, khiêm nhường là nhu nhược, gian dối là khôn ngoan. Tiếng kèn của bọn nhạc công tồi bao giờ cũng ầm ĩ khua động, bởi, chúng không cần kỹ thuật hoà điệu.

Đường về với Chúa trong cuộc sống của tôi cũng có thể lỗi nhịp vì những tiếng kèn âm vang dữ dội, lung lay bởi những suy tư ngang trái sai lạc. Tôi lung lạc vì chưa gặp ánh sáng của Đức Kitô. Lỗi nhịp chân dừng ở những bến bờ không đáng dừng vì tôi chưa bắt nhịp vũ điệu với Ngài. Tôi hoang mang, bởi, tôi chỉ xem chân Ngài đi, chứ chưa cùng đi với chân Ngài.

Theo chân Chúa là một vũ điệu. Tất cả vũ trụ đang nhịp đi. Vũ điệu của người mù tuyệt vời vì chân anh ta gặp chân Chúa trong cách bước. Tin không thể là giải thích của trí tuệ. Và chẳng giải thích nào thoả mãn được niềm tin. Tin là quấn quýt nhau cùng một lối về. Tin là cất bước chân đi để người khác thấy chân mình đi trong bước chân Đức Kitô bằng điệu vũ của cả cuộc đời.

 

Lạy Chúa, chứng nhân nơi người mù là dùng chân để gặp chính Chúa, người mình làm nhân chứng. Anh ta lấy chân cùng đi với Chúa để làm nhân chứng chứ không phải tự dựa vào sức mình mà lấy chân đi làm chứng nhân.

Khi dựa vào tài trí của mình đi làm chứng nhân thì dễ lầm lạc lắm, dễ cạnh tranh ghen tức lắm, dễ nghĩ đến công trình mình lắm.

Xin cho con biết suy nghĩ về những thái độ nhân chứng của con với Tin Mừng mà Chúa đang mời gọi là: Làm chứng nhân bằng cách nói về Chúa cho người ta nghe, hay là lắng nghe Chúa nói với mình. Lấy chân ra đi làm nhân chứng hay làm chứng nhân bằng đôi chân đi về với Chúa.

 

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 99

Page 100: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 40 : Tìm ý Chúa

Tĩnh tâm là những ngày nhìn lại linh hồn mình, xét xem tôi đang đi về đâu, ý nghĩa cuộc đời, để rồi chìm sâu hơn nữa trong đời sống tìm kiếm ơn thánh. Trong những ngày này, người tĩnh tâm thường đặt câu hỏi làm sao tôi có thể nghe tiếng Chúa nói.

Trong cuộc sống, người ta rất thường phân vân, đâu là tiếng Chúa, đau là tiếng của chính mình. Khi phải quyết định một vấn đề gì đó hệ trọng, họ tới nhà cầu nguyện, mong nghe được tiếng Chúa dạy. Họ cầu nguyện nhưng phân vân, rồi vẫn không biết làm sao quyết định.

Nghe là một nghệ thuật không dễ. Học một ngôn ngữ bao giờ cũng cần có thời gian. Phải nghe nhiều lần mới quen. Nghe trong định nghĩa bình thường là âm thanh vật lý vang lên, rồi truyền qua những làn sóng mà đến các thần kinh của tai. Thần kinh ghi những ký hiệu này, cất trong ngăn kéo của máy tính não bộ. Khi gặp lại âm thanh ấy thì não bộ cho nó một nhận định và một giá trị. Việc nhận định càng dễ nếu bão bộ càng quen âm thanh này. Nghĩa là âm thanh ấy được lập đi lập lại nhiều lần.

Tập nghe để phân biệt âm thanh này với âm thanh khác cũng đã khó. Nhưng nghe âm thanh là tiếng nói của lòng thì bước sang một chiều sâu hơn nữa rồi. Vì tiếng nói của lòng không là âm thanh vật lý, nó thiêng liêng, vô hình. Cũng tiếng cười, nhưng ý của nó có thể không làm vui, mà là mỉa mai, riễu cợt. Hiểu tâm hồn nhau là một tiếng nghe đòi nghệ thuật trong đó có yêu, có hy sinh, có tế nhị, có mình muốn thuộc về người đó. Vì thế mà có khi sống bên nhau chẳng hiểu ngôn ngữ của nhau.

Mẩu đối thoại giữa ba người, Đức Kitô, ông Tôma và Philipphê cho thấy sự lúng túng về loại ngôn ngữ này. Chúa nói: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi” Ông Tôma thưa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?” Đức Kitô đáp: “Thầy là đường, là sự thật, là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” Ông Philipphê đáp: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chũng con mãn nguyện.” Đức Kitô đáp: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Yn 14:1-9).

Chúa nói là Chúa đi đâu thì các ông ấy biết đường rồi. Nhưng tôma lại thưa các ông ấy không biết Chúa đi đâu. Các ông muốn biết Chúa Cha, Chúa Yêsu lại bảo ở với nhau lâu vậy rồi mà chưa biết được ư. Cuộc đối thoại cứ như mỗi người nói một nẻo. Đọc lại mẩu chuyện đối thoại ấy để thấy nghe là một công trình phải luyện tập, phải có thời gian, phải quen nhau nhiều. Nghe người nói với người đã không dễ, bây giờ nghe Chúa nói là tiếng nói vô âm thanh thì làm sao nghe.

Khó, nhưng không có nghĩa là không nghe được. Tiếng nói tình yêu thường là tiếng nói bằng con tim hơn bằng ngôn ngữ. Khi hai người thương nhau, họ nói một thứ ngôn ngữ riêng, không theo định nghĩa của tự điển nữa. Họ nói bằng ánh mắt. Họ hiểu bằng tâm tư. Họ ngỏ ý bằng một chút hờn. Họ muốn người khác bắt ý bằng một chút giận. Đó cũng là một thứ ngôn ngữ không có âm thanh. Như vậy, ngôn ngữ của Chua cũng có thể nghe, cũng có thể hiểu. Một biến cố đau khổ xẩy đến có thể như cái trách của Chúa gởi cho ta một nhắc nhở. Một chút cắn rứt lương tâm có thể so sánh như một  sự dỗi hờn của hai người đang thương nhau.

Trở lại vấn đề nghe là một nghệ thuật phải luyện tập, ta thấy yếu toío quan trọng nhất là phải quen với ngôn ngữ ấy. Vì thế, cứ đợi khi có một vấn đề gì đó rồi mới hỏi Chúa thì e rằng khó hiểu được ngôn ngữ của Ngài. Dụ ngôn người chăn chiên và đàn chiên cho ta hình ảnh khá rõ về nghệ thuật nghe này. Ta có thể chia đàn chiên làm ba loại: Một loại không quen ngôn ngữ của chủ, một loại chỉ nghi ngờ tiếng nói của chủ, một loại nhận ra tiếng chủ ngay.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 100

Page 101: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Không Quen Ngôn Ngữ

Tiếng gọi trong đêm là tiếng gọi gian nan. Không biết ai gọi. Không biết từ đâu đến. Một lúc nào đó bất ngời có tiếng gọi tên mình. Trong đêm tối, con chiên này bừng dậy. Kẻ cắp giấu mặt cho khỏi bị nhìn. Tên trộm nào cũng ưa bóng tối. Bầy chiên đang ngủ ngon, bỗng có tiếng gọi. Hạng chiên không quen ngôn ngữ của người chăn là loại không khi nào gần chủ, không nói chuyện với chủ. Trong đàn chiên, chúng là những con chạy ở cuối đàn. Đúng ra, nó không phải là những con chiên theo chủ mà là chỉ dựa vào đàn chiên để sống nhờ. Bởi đó, trong đêm, khi kẻ trộm giả vờ tiếng người chăn mà gọi thì chúng không thể phân biệt được.

            Một người không có đời sống cầu nguyện nhiều cũng giống như vậy. Trong đêm tối của xã hội, họ không phân biệt được đâu là tiếng nói của sự thật, đâu là ngôn ngữ nguỵ biện đánh lừa lương tâm. Hạng chiên không bao giờ gàn chủ thì khi gặp thử thách trong tiếng gọi giữa đêm khuya chúng sẽ bị kẻ cắp đánh lừa. Một linh hồn thiếu đời sống nội tâm kết hiệp qua cầu nguyện, họ cũng dễ bị lừa như thế trong những phán quyết của tiếng nói lương tâm. Loại lương tâm này khi thấy một lời mời quyến rũ, say mê là hành động ngay, không phân biệt được phải trái.

Nghi Ngờ Tiếng Người Chăn

Loại thứ hai này khá hơn. Những con chiên này phân vân nhiều khi nghe tiếng gọi. Chúng sẽ suy gnhĩ chứ không vội chạy theo, nhưng rất khó mà quyết định. Loại chiên này đôi khi gần chủ nên cũng nghe tiếng chủ, nhưng vì không gần chủ nhiều, nên lúc nghe, lúc không. Có nói chuyện với chủ, nhưng ít thôi. Không quen tiếng chủ lắm nên trong đêm khuya chúng phân vân, lưỡng lự, khó phân biệt nổi. Giống người mới bắt đầu học một ngôn ngữ, hiểu lầm, hiểu không hết ý của người nói là chuyện thường. Nếu con chiên này nghe tiếng gọi trong đêm mà vẫn ở lại trong đàn cũng là cầu may, chứ không có một thái đọ tri thức dứt khoát.

Người lâu lâu mới cầu nguyện, có việc mới chạy tới Chúa cũng giống như vậy. Có nghe tiếng Chúa mà không rõ lắm. Họ phân vân không biết có phải tiếng Chúa hay là mình nói mà thôi. Vì thế, những quyết định của họ rất nửa chừng. Tâm hồn họ không hẳn là muốn ở lại trong tội, nhưng cũng chẳng hân hoan lên đường. Một khi không dứt khoát thì không đủ năng lực hành động, nên đời sống thiêng liêng mệt mỏi.

Nhận Ra Tiếng Chủ

Không tên trộm nào lừa được loại chiên sau cùng này. Tiếng gọi bất chợt vang lên trong đêm. Nó giật mình dậy, nghe xong, nó nhận định rồi tiếp tục giấc ngủ bình an. Nó biết ngay tiếng giả đó là của bóng tối. Loại chiên này ngày nào cũng nói chuyện với chủ, ngày nào cũng nghe âm thanh người dẫn mình đi, nên chúng quá quen rồi. Không tiếng nói nào bắt chước tiếng chủ được. một tiếng gọi vang lên, nó phân biệt ngay đấy là tiếng chủ hay tiếng người lạ.

Ma quỷ cũng như những tên trộm chiên, chúng đợi đêm tối là lúc lương tâm phải lựa chọn những hướng đi mà đến xúi giục ta. Bóng tối có những luận cứ tinh vi, những lý do xem ra rất chính đáng. Người có đời sống kết hiệp với Chúa thì nhận ra ngay đâu là con đường phải đi. Họ có những quyết định chính xác, đúng. Bóng tối khó mà lừa được những tâm hồn này.

Để nghe tiếng Chúa, yếu tố đầu tiên phải lưu tâm là một trái tim sạch tội. Điều này ta cảm nghiệm rõ là sau mỗi lần nhận bí tích hoà giải, ta thấy tâm hồn thanh thản, vui tươi. Vì thế, nếu một tâm hồn muốn hỏi Chúa, muốn nghe tiếng Ngài, linh hồn đó cần phải thanh tẩy linh hồn, đến gặp gỡ Chúa trong bí tích hoà giải trước đã. Gĩư một trái tim sạch tội, rồi sau đó mới hy vọng dễ nhận định tiếng Chúa nói qua lương tâm.

Trước một quyết định quan trong trong đời sống, như ngày truyền chức, ngày nhận một sứ vụ quan trong, Giáo Hội khuyên những người này phải tĩnh tâm. Các tu sĩ thei luật, hàng năm phải tĩnh tâm. Tĩnh tâm là những ngày cầu nguyện đặc biệt hơn, nhiều hơn. Cứ hàng tháng, hàng năm lập đi lập lại nhiều lân tĩnh tâm như thế để tâm hồn ấy quen cách nói chuyện. Khi quen rồi, lúc phải quyết định một điều gì trong đời sống, tâm hồn này dễ vững tâm, bình an. Khi cuộc sống đi

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 101

Page 102: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

sai đường sẽ dễ nhận ra.

Tĩnh tâm là phương pháp sư phạm học nghe ngôn ngữ thiêng liêng , vì thế ai cũng cần. Nhiều người không nhận định rõ nên đến xem mình đã tĩnh tâm bao nhiêu lần để so sánh với người khác và tự do mình một thứ “tốt nghiệp” qua những lần tĩnh tâm ấy.

Có người đi tĩnh tâm để cho biết là gì rồi sau đó thôi không tĩnh tâm nữa.

Tĩnh tâm không phải là chỉ để giải quyết một vấn đề mà là hành trình tập nghe. Tiếng Chúa có sức mạnh. Chẳng ai nghe đủ và nghe hết, bởi đó, không thể có vấn đề tĩnh tâm như mộtvthứ “tốt nghiệp”, một thứ chứng chỉ là tôi đã đi tĩnh tâm rồi, tôi biết rồi, tôi không cần đi nữa.

Chúa dành một thời gian rất dài, 40 ngày trong sa mạc để cầu nguyện. Trong đời sống hoạt động, Chúa tiếp tục tìm nơi thinh lặng để cẩu nguyện. “Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện” (Mt 14:23). “Trong những ngày ấy, Đức Yêsu đi ra núi cầu nguyện, Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6:12). Chúa cũng bảo các tông đồ phải cầu nguyện. “Anh em phải tỉnh thức và cầu nguyện, hầu đủ sức thoát khỏi điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:36)

 

 

Nghe là một nghệ thuật không thể qua một buổi sớm, đến một buổi chiều mà quen. Vấn nạn con không cầu nguyện, chỉ khi cần đến Chúa, con mới đên hỏi Chúa đôi câu. Không quen ngôn ngữ của Chúa nên con cho rằng Chúa không nói.

Lạy Chúa, vấn đề là con phải học nghe, chứ không phải là Chúa có nói hay không?

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 41 : Cỗ áo quan

Sống mà không được ai nhớ tới là sống trong quan tài buồn. Trong quan tài khi chết thì không thương đau vì không biết mình trong quan tài. Sống mà sống trong quan tài buồn thì đau thương bởi vì biết mình đang chết.

Có cha, có mẹ, nên ta vào đời. Mẹ là chuối hương cau, là xôi nếp mật là đường mía lau. Tình cha là sông dài, núi rộng. Cha vất cả mồ hôi. Con như ruộng lúa cha gánh nước nuôi trong những ngày suối cạn. Con như ngọn đèn và cha là người chịu lạnh đậy gió, che mưa cho con. Người con nào không nợ tình của mẹ, chịu ân nghĩa của cha. Mẹ lo lắng từng ngày. Áo rách mẹ khâu thì cha âu sầu lo cho con đường học vấn.

Mẹ đưa con đến trường khi tuổi còn chưa biết khôn, mong con mình sẽ có tương lai mai sau. Những ngày trái nắng, gió mùa làm con đau, mẹ ru con ầu ơ bằng cả linh  hồn. Mẹ nhớ con trê từng mớ rau mẹ ngồi bán. Mẹ nghĩ tới con mà mong bóng người mau thưa, chợ chiều mau tan. Rồi con lớn, con đi xa. Mẹ nhìn con cầu trời độ lượng, phù trì cho con thành nhân, con đạt công danh hạnh phúc.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 102

Page 103: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Dòng sông  xuôi nguồn đưa con vào đời. Bận rộn vì sự nghiệp với người để con xa mẹ. Thời gian trôi đi sao quá lẹ. Thoát chốc mà tóc mẹ bạc theo mùa trăng. Rồi định mệnh đến. Ngày con trở về, ngày đó, con mua cho mẹ cỗ quan tài quý.

Khi mẹ chết rồi, con có nhớ về thời xưa xa xăm cũng chỉ là tìm dấu chân trên cát, là hình ảnh nhạt nhoà dĩ vãng. Mẹ vẫn muốn chờ đợi gặp con, nhưng định mệnh gõ cửa, và linh hồn mẹ phải ra đi. Ngày trở về, con mua cỗ quan tài để trả ơn cho mẹ đã sinh thành. Có khi nào người con nghe cỗ quan tài kể chuyện chưa?

Lời Của Cỗ Quan Tài

Khi chết rồi có người mẹ nào biết cỗ quan tài con mua cho mình là bao nhiêu tiền đâu. Chuyện đời của tôi, một cỗ áo quan, dài lắm. Người bán hòm đã gian dối tính toán trên thân phận tôi. Có ai biết rõ câu chuyện của những cỗ quan tài không? Ngày họ biết, khi nằm vào thì đã muộn rồi. Vậy tôi xin kể về cuộc đời tôi cho bạn nghe, khi bạn còn sống.

Cỗ quan tài bạn  mua cho mẹ dù là gỗ quý đến đâu đi nữa, nó cũng lạnh lẽo lắm. Thân phận tôi lạnh không phải vì gỗ, nhưng lạnh vì người bán hòm và mua hòm. Tôi đã thấy, xấu xa quá là có những người con vì lời khen, tiếng chê của người đời mà họ mua loại gỗ quý. Tôi nghe trong im lặng ý nghĩ của một số người con, họ muốn mua loại quan tài quý để lối xóm khen họ hiếu trung. Nhưng bà mẹ chết rồi, đâu còn biết cái hồm thế nào nữa. Ngày bà ta còn sống, chả đứa con nào nhớ tới. Phải đợi đến ngày Tết, ngày lễ, họ mới mua cho mẹ một món quà  nhỏ. Họ nghĩ rằng đóng cửa cuộc đời, trả ơn mẹ bằng một cỗ quan tài là xong. Tôi là chiếc quan tài nên tôi biết rõ nhiều ý nghĩ thầm kín.

Cũng có khi không vì lời khen, tiếng chê, có những người con chân thành, nhưng người bán  hòm lợi dụng khơi động lòng hiếu thảo của họ mà kiếm tiền. Tôi nằm đó mà nghe người bán hòm khôn khéo lời ngọt ngào. Nếu người con không tiếc tiền vì giàu có quá thì đâu là ý nghĩa của lòng hy sinh? Nếu phải khổ sở mặc cả kỳ kèo vì không đủ tiền thì đâu là hạnh phúc của người chết? Ngay lúc còn sống các bà mẹ đã không vì con mà chịu nghèo khổ hay sao. Đằng nào thì cỗ quan chúng tôi cũng có những ý nghĩa rất sâu.

Ngày kia, hai người con đến mua tôi, một người đến ban sáng, một người đến ban chiều. Dĩ nhiên, sau  cùng chẳng ai  mua tôi cả, nên hôm nay tôi mới kể lại chuyện này cho bạn được.

Người đến ban sáng giàu có lắm, ông ta sờ lên người tôi , khen màu sơn đẹp nhưng chê gỗ xấu. Ông muốn mua loại quan tài không bao giờ mục. Cả đời ông là lo công danh tiền bạc, ông thành công lừng lẫy, nhưng quên mẹ, quên cha. Nếu không mua cho mẹ cỗ quan tài quý vào phút sau cùng cuối đời này, ông sẽ ái ngại. Đọc được hết cuộc đời ông, tôi nói với ông rằng, đời ông cũng giống như lời ông chê tôi thôi, chỉ có nước sơn bên ngoài, còn trái tim là loại gỗ mục. Ngày mẹ còn sống sao không thương nhớ mẹ, bây giờ chọn gỗ quan tài quý, mẹ cũng đã chết rồi, ông chỉ vì nể tiếng đời thôi. Nhưng ông không nghe đựoc tiếng tôi nói.

Ban chiều, có một người con khác cũng đến sờ lên người tôi, nhưng nghèo qua không đủ tiền mua tôi. Tôi nói với người ấy rằng, có bà mẹ nào không hy sinh  cho con mình đâu, chết rồi mẹ không biết trong quan tài nào nữa, có hiếu là hiếu lúc còn sống. Cứ tìm chiếc quan tài, nối kết người sống với người chểt, chúng tôi biết nhiều thế giới bí mật trong lòng người lắm.

Bạn vẫn thấy những chiếc xe tang, vẫn trông những cỗ áo quan, nhưng bạn chưa bao giờ hỏi chuyện những cỗ áo quan chúng tôi. Tất cả cuộc đời sau cùng gói lại trong cỗ áo quan. Mà cuộc đời là gì? Chẳng có triết nhân nào hiểu đủ được ý nghĩa cuộc đời thì làm sao hiểu được ý của cỗ áo quan. Bao nhiêu tư tưởng sâu xa, những chuyện yêu đương đẹp như thần thoại cũng gọi bằng chiếc áo quan. Bao nhiêu khối óc vượt nhân thế, những tính toán siêu vời cùng gói bằng chiếc áo quan. Bạn ạ, mênh mông như cuộc đời, huyền nhiệm như cuộc đời, mà sau cùng cũng im lặng vỏn vẹn trong cỗ áo quan, thì bạn biết cỗ áo bí hiểm như thế nào. Chúng tôi gói trọn tất cả đem về lòng đất. Người chết mới hiểu hết ý của những cỗ áo quan. Mà ngôn ngữ của kẻ chết là ngôn ngữ nhiệm mầu, e rằng bạn không quen với ngôn ngữ này.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 103

Page 104: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ngày mẹ chết, bạn đem về cho mẹ chiếc quan tài quý. Mẹ không biết bạn chuẩn bị cho mẹ chiếc áo quan này từ bao giờ. Có điều mẹ biết chắc bạn không rõ nguồn gốc của chiếc áo quan. Ngày từ khi cây gỗ xẻ xuống, người ta đã trả giá chúng tôi bằng định lượng tiền bạc. Từng nhát đinh cũng đánh giá bằng tính toán lời, lỗ. Từng vết keo dán họ cũng hà tiện. Khi cỗ áo quan chúng tôi thành hòm, tôi bị trăm cặp mắt nhìn tôi. Làm thân áo quan bao giờ cũng lạnh bạn ạ, bởi người ta đối xử với tôi như thế. Và hôm nay, bạn đem tôi về đây. Tất cả các người con chỉ biết về cỗ áo quan tài cho mẹ mình bằng giá tiền mắc hay rẻ mà đánh giá tốt hay xấu. Nhưng nằm vào, các bà mẹ mới thấy tất cả nguồn gốc cuộc đời chúng tôi là cỗ áo quan. Vì bạn không rõ nguồn gốc chiếc quan tài nên bạn khó nghe ý nghĩa cỗ quan tài là lời của chúng tôi thầm thì.

Có những người con bỏ mẹ đi  không phải vì đường sự nghiệp mà ích kỷ cho riêng mình. Ngày người con ra đi, lòng người mẹ đã có cỗ áo quan rồi. Người mẹ gọi chúng tôi là quan tài buồn. Cuộc sống của người mẹ đó là sống trong quan tài vô hình. Bốn bề chệt chội bởi trái tim người mẹ đó khắc khoải. Ngộp thở vì mẹ gọi, con mình không nghe, và muốn  nghe mà con minh không gọi. Chiếc quan tài vô hình đó không có người con nào phải trả tiền mua, nên không người con nào nghĩ tới. Có bao giờ nhìn thấy người sống trong quan tài đâu.

Nói về lòng hiếu thảo, thì bạn ạ, có không biết bao nhiêu quan tài cho các bà mẹ lúc còn sống. Sống mà không được nhờ tới là sống trong lạnh lẽo của mộ sâu. Mộ đó người con chưa đào nên không thấy nó sâu bao nhiêu. Trong trái tim những người mẹ, có khi cả đời là sống dưới mộ sâu lạnh ấy. Chịu đựng. Nó là nghĩa trang không có cổng. Lặng lẽ lắm. Cuộc đời một người mẹ sống mà không được con mình nhớ tới thì âm thầm như đám tang không người đưa.

 

Ai yêu mến cha mình thì đền bù tội lỗi. Ai thảo kính mẹ thì như người thu được kho tàng. Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha người, chớ làm phiền lòng người khi còn sống. Trí khôn người có suy giảm, con cũng hãy nể vì, đừng nhục mạ người khi  con đương sức trai tráng. Của dâng cho cha sẽ không rời vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi và xây dựng đức công chính. Vào ngày bĩ cực, công ciệc con sẽ được nhớ đén, như băng giá khi trời tối, tội con sẽ tan đi. Người lộng ngôn, khinh cha, để mẹ là xúc phạm đến Thượng Đế, kẻ tác tạo nên họ (Huấn Ca 3,3. 12-16).

 

Bạn cứ hỏi cỗ áo quan xem đâu là ý, chúng tôi sẽ cho biết. Có lần tôi nói với người khóc rằng: Người điên không biết nhớ và người say không biết buồn. Đấy là hình ảnh trốn đời khổ sau. Nhưng người chết thì không biết say và cũng chẳng còn  điên. Do đó, xác chết không buồn và chẳng nhớ. Khi chết mới được nhớ thì xác chết không biết ai nhớ mình, nhớ ấy lại trở về với người nhớ mà thôi.

Đừng coi thường cỗ áo quanchúng tôi. Lắng nghe tiếng nói nhiệm mầu của chúng tôi bạn ạ. Bởi, rồi bạn cũng sẽ ra đi trong quan tài đó.

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 42 : Tấm thiệp cưới

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 104

Page 105: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Gởi tấm thiệp cưới báo tin là gởi cả một thay đổi vào dòng đời. Một lần lên xe hoa là bỏ lại cả một bến bờ. Mỗi tấm thiệp là chuyện thật dài của một hồn thơ:

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy.

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi (HÀN MẶC TỬ)

Theo chồng là ngày vui mà sao lời thơ như có vẻ nuối tiếc cuộc chơi. Phải chăng nuối tiếc vì biết có mùa xuân hôn phối đấy, nhưng giã từ đám xuân xanh, đường theo chồng có thật sự sẽ dẫn người gởi thiệp vào xuân hạnh phúc?

Mọi đám cưới đều đưa tin bằng những tấm thiệp. Thiệp cưới nào cũng giống nhau là báo tin vui. Thiệp đơn sơ vậy, nhưng tâm tình người gởi thiệp chưa hẳn là đơn sơ. Có người lên xe hoa, hồn vui như mùi thơm giấy mới của thiệp. Thế nhưng có kẻ bỏ cuộc chơi mà lòng vẫn thương bến xưa. Có người hạnh phúc náo nức bay theo cánh thiệp đưa tin. Thế những cũng có kẻ lên thuyền sang sông mà hồn không trọn theo nước xuôi thuyền. Phức tạp của người đưa thiệp là thế.

Tấm thiệp không thay đổi, sau bao năm tháng, tên hai người in trên đó vẫn cứ bên nhau. Có dôi hôn nhân ngày gởi thiệp, tên viết bên nhau, mà giờ đây mỗi người một cuối đường xa cách. Tiếng pháo nổ trong ngày cưới thật vui, nhưng cũng có những bài ca buồn về xác pháo bay. Tấm thiệp không thay đổi nhưng người sang bến sông có thể đổi thay.

Làm sao để đường theo chồng cứ hạnh phúc. Làm sao để ngưòi gởi thiệp lúc nào cũng như tấm thiệp cưới, tên cứ bên tên và tình yêu cứ bên tình yêu mãi mãi.

 

Nếu để giữ cho tình yêu lúc nào cũng là tin vui như tấm thiệp có là chuyện gian nan thì cũng chẳng phải là điều khó hiểu. Hai ngàn  năm trước, câu chuyện tiệc cưới Cana cho thấy tiệc chưa xong, khách chưa về đã có chuyện gian nan rồi: “Họ thiếu rượu” (Yn 2:3). Chuyện khó khăn trong hôn nhân đã xẩy đến ngay khi ngày cưới chưa qua.

Có thể thiếu rượu vì gởi nhiều thiệp quá. Mỗi tấm thiệp đều có một giá trị. Gía trị từ phía người gởi và cá phía người nhận. Người gởi thiệp đi, gởi với tâm tình gì. Người nhận thiệp, nhận với tâm tình nào. Hôm nay, không đám cưới nào mà không gởi thiệp. Ta hãy đọc lại Phúc Âm tường thuật tiệc cưới Cana để tìm thêm ý nghĩa của những tấm thiệp.

Chung quanh một ngày cưới tôi thấy có nhiều thứ thiệp. Có thiệp gởi đi vì xã giao, thiếu nó là khồn xong. Có người nhận thiệp mà không vui, miễn cưỡng mà đến dự thôi, không đến là không được. Có người đến tiệc cưới vì kẻ khác chứ không vì đôi tân hôn. Thiệp in giống nhau mà tâm tình của những tấm thiệp nhiều khi khác nhau lắm. Từ nhiều tâm tình khác ấy, tôi thấy những người đến dự tiệc cưới cũng có nhiều thái độ khác nhau. Có lời chúc mừng thương đôi bạn trẻ. Có khách so sánh đám cưới này với đám cưới nọ. Có tiếng phê bình cách tổ chức. Khác được mời là quan trọng, đôi tân hôn phải phục vụ khách chứ không phải khách đến để giúp đỡ đôi tân hôn. Vì thế, khác nào cũng muốn được tiếp đón trang trọng. Không phải mọi thiệp gởi đi đều vì tình và mọi người nhận thiệp đều đến vì thương yêu. Trong ngày hạnh phúc mà dường như đã có những vì sao đi lạc.

Đọc lại Phúc Âm về tiệc cưới ở Cana, chúng ta thấy tấm thiệp mang ý nghĩa ở cả hai phia, người gởi và người nhận. Mẹ Maria có mặt trong ngày cưới đó. Nghĩa là Mẹ cũng nhận được tấm thiệp. Chính nhờ tấm thiệp này mà ngày cưới hôm ấy xâỷ ra một biến cố rất lớn. Nếu người gởi thiệp không gởi cho Mẹ Maria thì đám cưới hôm đó sẽ ra sao.

Tuy đôi tân  hôn là trung tâm của ngàu cưới, nhưng Phúc Âm lại không nói gì về đôi tân hôn cả. Phúc Âm nói về sự thiếu thốn của đôi tân hôn.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 105

Page 106: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đối với người Do Thái, không thể quan niệm một tiệc cưới mà không có rượ. Nó tẻ nhạt không còn là tiệc cưới nữa. Vấn đề ấy là nguyên nhân có thể đem niềm vui hay một kỷ niệm buồn cho đôi tân hôn. Tìm hạnh phúc, phải chăng đó cũng chính là chủ đề các đôi hôn nhân hôm nay đang cần. Câu chuyện  thiếu rượu trong tiệc cưới Cana bắt đầu với một người khách, đó là Mẹ Maria, rồi liên quan đến các gia nhân và ông chủ sự.

Một Người Khách

Mẹ Maria được mời như một người khách, nhưng Mẹ đã không đến dự tiệc như một người khách mà như người giúp việc. Làm sao Mẹ biết họ thiếu rượu nếu Mẹ không quan sát? Chắc hẳn Mẹ là tiếng xầm xì, Mẹ thấy nỗi lo âu của những người chạy việc. Mẹ tế nhị quá. Mẹ để ý những chuyện chung quanh ngày cưới của đôi trẻ. Mẹ thương người. Mẹ biết tiệc cưới mà thiếu rượu là một kỷ niệm buồn của ngày hôn nhân. Mẹ muốn tình yêu của họ trọn vẹn. Không ai yêu cầu Mẹ giúp, Mẹ đã đến như một kẻ tự nguyện.

Sau khi Chúa làm phép cho có rượu rồi, ta không thấy nhắc đến Mẹ nữa. Mẹ rút vào thầm lặng. Tình thương của Mẹ bao dung hơn nữa khi ta để ý rằng đây là phép lạ thứ nhất Chúa làm. Nếu Chúa làm nhiều phép lạ tồi thì Mẹ Maria có lý mà xin Chúa can thiệp, điều ấy cũng dễ hiểu thôi. Đâu là phép lạ đầu tiên, điều ấy nói lên nỗi bận tâm đặc biệt của Mẹ với hạnh phúc của đôi hôn nhân.

Hạnh phúc cho đôi hôn nhân nào có những người khách như Mẹ Maria. Và cũng đẹp biết bao nếu khách được mời cũng đến tiệc cưới với tâm tình như của Mẹ.

Trong bóng dáng của Mẹ ở tiệc cưới, hình ảnh Mẹ vừa là ý nghĩa cho người gởi thiệp đi  biết chọn người mà gởi, vừa là ý nghĩa cho người nhận thiệp biết đến dự tiệc với tâm tình nào.

 

Ông Quản Tiệc

Có người quản tiệc, chứng tỏ đám cưới này cũng có chuẩn bị chu đáo.  Họ đặt một người quản tiệc để  lo mọi công việc trong tiệc mừng. Nhưng mỉa mai thay là có quản tiệc mà thiếu rượu. Và câu nói của ông ta “rượu ngon này bởi đâu mà có?” âm vang lên một cung điệu thiếu  trách nhiệm của ông. Rượu hết ông không biết, có rượu  mới ông cũng không hay. Vậy đâu là bổn phận của ông? Có đáng buồn cho đôi tân hôn là họ đã tin cậy và phó thác lầm người?

Trong ý nghĩa đời sống thiêng liêng, ông quản tiệc là hình bóng dấp dáng hàng ngày trong hạnh phúc hôn nhân của nhiều gia đình. Có khi nào thay vì nương nhờ nơi Chúa thì họ lại đi tìm và gởi gắm hạnh phúc gia đình trong tay những thế lực khác? Phải chăng ông quản tiệc là hình ảnh của những thế lực như người đời, của cải, tiếng tăm, quyền thế. Những thế lực mà ta ngỡ rằng sẽ là nguyên nhân an toàn mang lại hạnh phúc.

Các Gia Nhân

Trong tiệc cưới này có những suy nghĩ dường như nghịch lý. Các vai trò chung quanh đôi tân hôn là chủ đề chứ không phải chính đôi tân hôn. Những người giúp việc là những người được chứng kiến phép lạ đầu tiên. Đặc ân đặc biệt này không dành cho gia chủ, mà cho người rất tầm thường. Lý do đơn giản là họ đã kín nước. Trong thái độ kín nước, các gia nhân có hai điểm, thứ nhất là họ đã nghe lời Mẹ Maria chuẩn bị cho họ: “Chúa bảo gì thì làm thế” (Yn 2:5). Đặc điểm khác là họ kín nước đầy tới miệng chum chứ không kín nửa vời. Với tâm tình phục vụ thành thực, Chúa đã dành đặc ân được chứng kiến phép lạ đầu tiên ấy cho họ. Phục vụ là hương thơm. Bất cứ ai phục vụ đều được hương thơm ấy lưu lại với chính họ.

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 106

Page 107: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

Lạy Mẹ Maria, soi mình trong tiệc cưới Cana, chúng con cần gởi thiệp cưới cho Mẹ. Chúng con muốn Mẹ ở trong tiệc cưới của chúng con mỗi ngày. Những tấm thiệp chúng con gời cho người đời rồi sẽ quên. Những chuẩn bị cho hạnh phúc hôn nhân của chúng con nhiều khi rất lầm. Chúng con chuẩn bị sai. Sáu chum bằng đá đựng nước để rửa chân tay thì con đầy mà rượu thì thiếu. Cái phụ thì dư mà cái chính thì không có. Phải chăng đấy cũng là hình ảnh đời sống thiêng liêng trong gia đình chúng con. Rượu ơn thánh trong gia đình cbhúng con còn bao nhiêu? Chúng con không biết rõ. Có khi cạn rồi mà chúng con không hay. Có khi nào chúng con phân vân, bàn tính với nhau về tình trạng rượu thiêng liêng trong hạnh phúc hôn nhân không? Những chum bằng đá đựng nước, những phụ thuộc thì chúng con biết rõ lắm. Nó là nhà cửa, xe cộ, quần áo, nữa trang, sắc đẹp… Phải chăng nhiều đổ vỡ hôn nhân hôm nay là dấu chứng chúng con cần suy niệm kỹ hơn về sự lo âu của chúng con: Chúng con lo âu về những chum đựng nước phụ thuộc hay là rượu ơn thánh?

Những tấm thiệp gởi đi, tấm thiệp gởi Mẹ phải là tấm thiệp tha thiết nhất. Nếu đôi tân hôn Cana không gởi thiệp cho Mẹ thì tiệc cưới ấy thiệt thòi biết bao.

Chúng con muốn Mẹ ở mãi trong gia đình chúng con để nhắc nhở chúng con về tình trạng rượu ơn thánh trong gia đình còn bao nhiêu, nhiều hay hết. Chúng con ưa tìm những chum đá đựng nước và coi như bảo đảm hạnh phúc hôn nhân. Nhiều gia đình đổ vỡ vì lầm lẫn ấy.

Xin Mẹ chuẩn bị cho chúng làm theo ý Chúa như Mẹ chuẩn bị cho các gia  nhân kín nước đầy chum. Và, nhất là chuẩn bị cho chúng con sống theo ý Chúa để chúng con được hạnh phúc sau cùng là gặp gỡ nhau trên quê trời.

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 43 : Tiếng gọi trên cao

Mùa xuân đã về trên cành đào. Dọc theo chiều gió, cành đào thả hương tơ. Gío dúi vào nhau. Gío thả ỡm ờ. Dấp dáng màu hoa xuân trăng hồng vào gió như màu tơ lụa dìu nhau. Vườn đào dạt dào một vùng hương sắc. Gío rung rinh giữa lá và hoa. Gío đong đưa cho ẩn náu giữa hoa và lá tìm nhau. Trên đồi cỏ ngát màu mây, vườn đào vào nắng. Lấm tấm sương ẩm trong sáng mai hồng cho ủ mát những mộng mị êm đềm giấu dưới cánh hoa. Vườn đào đã vào xuân thì.

Bạn ạ, cũng có một vườn đào thiêng liêng mà người yêu tìm nhau như hoa đào tìm lá trong sách Diệu Ca, trong kho Kinh Thánh cổ:

Người yêu của tôi là chùm hoa thảo lý

trong vườn nho Engadi

Em xinh dường bao, em hỡi, em xinh dường bao!

Mắt em  là những bồ câu!

Anh đẹp dường bao,

người yêu của em! Đẹp trai biết mấy!

Xanh um biết mấy, giường của chúng mình.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 107

Page 108: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Xà nhà chúng mình là những hương nam, trần là trắc diệp.

Em là thuỷ tiên cánh đồng Saron,

là huệ trong những lũng sâu.

Như huệ giữa gai góc,

người yếu của tôi giữa lũ con trai.

Dưới bóng cây ấy, tôi ước mong ngồi cho chàng chở che,

và trái ngọt lịm nơi miệng tôi.

Chàng đã đưa tôi vào nhà rượu,

trên tôi bảng hiệu là: Yêu

Hãy lấy mứt nho mà chống đỡ tôi!

hãy lấy táo mà tẩm bổ tôi!

Bởi tôi ốm liệt vì yêu.

Tôi gối đầu lên cánh tay trái chàng

và tay phải chàng xiết ủ tôi

Tôi van xin các cô, nữ tử Jêrusalem hỡi,

nhân danh đàn linh dương cái và nai trong thảo nguyên!

Xin đừng lay thức,  xin đừng thức tỉnh tình yêu

Cho đến khi tình yêu muốn!

(Diệu Ca 1:15;2:1-7)

Trên đường đào giường xuân, nắng ươm chín mật ngọt cho lũ ong say. Thời gian có mùa. Lúa chính có thì. Lũ ong về uống mật. Lũ bướm về bên hoa. Khu vườn đào không thường tình như người viễn khách chợt đi qua. Dừng chân đứng ngó. Sẽ thấy hoa lả lơi. Nắng bận rộn. Ong vội vã. Và cành đào được chiều chuộng sủng ái. Không phải xuân đất trời mà là xuân tình, xuân mộng. Giữa thung lũng trần ai bụi rừng, có đồi cỏ xanh và vườn đào, có yêu thương tìm nhau. Có vui trong trái tim nhỏ của lũ ong. Có thơ buông cánh trên màu bướm. Nhộn nhịp một mùa mới.

Bạn ạ, đấy chỉ là hình ảnh yêu thương thiêng liêng ảu một chuyện tình trong sách Diệu Ca. Cũng có tìm nhau, gọi nhau mà uống mật trong vòng tay của pho Kinh Thánh cổ:

Ước gì miệng kề sát, chàng hôn ta, hôn lấy hôn để!

Vì tình yêu của chàng tốt hơn là rượ.

Vâng, tốt hay hương dầu thơm đã xức nơi chàng.

Tên của chàng, tươi mát nùi dầu,

bởi thế, các nương tử mê mết vì chàng.

Chàng hãy dắt em theo chàng. Ta cùng chạy!

Vua đã đưa trôi vào trong phòng ngài:

“Nhờ chàng, ta hãy hân hoan, hãy vui mừng”.

Còn hơn là tiệc rượu,  ta sẽ gợi lại tình yêu của chàng.

Ai cũng yêu chàng thật là phải lẽ.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 108

Page 109: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

(Diệu Ca 1:14)

Rồi loài chim quý từ đâu bay về. Dừng chân mỏi trên chùm hoa đào. Sương mát là thảo dược tinh kết từ nhuỵ hoa áp vào lòng nhỏ cho cánh chim nghỉ ngơi. Thứ tinh khiết quý hoá của trời, từ cao xuống, thứ tinh khiết hiếm hoi rịn từ cao sang nhất của nụ hoa chỉ một lần nở. Giọt mát ấy cho loài chim ngứa cổ hát vang cung nhạc vô thường. Tiếng hót chỉ có một lần trong đời, vì mùa thời gian năm tới có bến, bày chim có trở lại thì cánh ong đã biệt ly, cánh bướm đã già, và hoa năm cũ đã vào hư vô. Bài ca độc nhất. Tiếng hót thanh tao không ai có thể sao chép lại. Tiếng hót trong ngắt không loài chim nào có thể âm dạng được gần gần như thế. Tiếng hót vang lời thập giá: “Mọi sự đã hoàn tất. Con phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Ôi! Bài ca độc nhất.

Bạn ạ, lời chim hót trong vườn đào là âm  vọng sao bản của một mùa ca hát thiêng liêng mà nhân loại cũng bắt gặp trong sách Diệu Ca. Trong pho Kinh Thánh cổ có viết về một mùa gọi tìm nhau rất thực và rất thánh, rất thiêng liêng và rất thơ:

Tôi thuộc về người yêu của tôi

với tôi, chàng những hăm hở!

Nào, người yêu của em, ta hãy ra đồng,

qua đêm giữa những chùm hoa mỏng!

Sáng sớm, ta hãy dạo các vườn nho

xem hoa có đâm chồi, nụ có nở, lựu có đơm hoa?

Ở đó em sẽ hiến dâng chàng ân ái của em.

Cỏ yêu đã xông mùi thơm phức

Nơi ngõ ra vào của ta, có mọi thứ thời trân,

cả cũ và mới, mà em đã giữ lại cho chàng,

người yêu của em hỡi!

Phải chi chàng với em như anh em ruột,

Đã cùng chung bú vú mẹ em!

Như thế, ngoài đường gặp chàng em sẽ hôn chàng

Mà mọi người sẽ chẳng ai khinh.

Em sẽ dẫn chàng, đem chàng về nhà mẹ em.

Và cho em, chàng sẽ khai tâm.

Em sẽ chuốc chàng, rượu nồng nàn,

cùng với nước lựu tinh nguyên.

Tôi gối đầu trên tay trái chàng,

và tay phải chàng ủ trên tôi.

(Diệu Ca 7:11-14,8:1-3).

Nhộn nhịp mùa hạnh phúc trên cành đào. Ở dưới đất, có con ốc nhỏ nhìn lên. Từ đất thấp, đợi kinh cầu mùa vọng trên cao, con ốc nhỏ tìm đường đi tới. Đường đi hạnh phúc là thế. Đếm từng phiến hạnh phúc rất chậm. Đo dài ngày tháng mong. Con ốc cứ kiên nhẫn nhích từng mẫu đời ngắn tí ti. Cây đào cao vời vợi với bước chân con ốc ngắn quá. Liệu khi con ốc lên tới cành đào thì hoa xuân còn hương cho gió? Mật ngọt còn rịn hay cánh hoa đã theo vĩnh biệt rơi về ngàn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 109

Page 110: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

thu? Bước chân chậm quá, bao giờ mới tới nơi? Liệu khi tới cành đào thì hội xuân có còn?

Có tiếng thở tinh khôn của con rắn độc ác, nó tiêm những sợi buồn trong tim con ốc nhỏ tội nghiệp, nó bảo con ốc thôi đừng mơ đường lên cành đào nữa:

Ngày nào lên tới nơi thì tiệc cũng tàn. Thôi, ở đất thấp mà hà hơi ẩm mốc của thân phận một cõi làm thân ốc!

Nhưng con ốc nhỏ cứ im lặng bò từng phiến chậm. Trái tim nó nhỏ xíu thôi mà mơ ước cả mùa hội lớn. Con rắn độc ác cưa gieo vào hồn nó những tiếng thở dài thất vọng. Con ốc có khi nhỏ lệ, nhủ lòng rằng có khi một tháng nữa mới bò tới cành đào. Khi tới thì hoa đã tàn, hương đã bay, mùa xuân đã qua. Nhưng khi hoa tàn rồi thì tinh tuý của hoa kết nụ thành trái. Bấy giời sẽ là những cành đào trĩu nặng trái đỏ hồng một trời tháng hạ. Không còn hoa, nhưng hoa đã thành trái. Bấy giờ mùa hạnh phúc còn trọn vẹn hơn gấp bội. Với lý tưởng ấy, mùa hạnh phúc ấy ấp ủ trong tim, con ốc lại bò từng phiến chậm, bất chấp lời xúi giục của con rắn già gian ác.

 

Lạy Chúa, chân con chậm trên đường về mùa đào thiêng liêng. Yếu đuối làm con sa ngã hoài. Đường tới nhân đức cứ xa xôi mãu thôi. Nhưng con sẽ bước những bước kiên nhẫn. Cho dù có lời cám dỗ bảo con chẳng bao giờ đạt được, nhưng con đã thấy mùa hồng đào trong vườn thiêng liêng Nước Trời, con không bỏ cuộc, con sẽ tiếp tục đi như con ốc miệt mài bò từng bước chậm.

Xin cho con ấp ủ mãi trong hồn tiếng gọi ở trên cao.

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 44: Lời nguyện cầu của một người conTrước khi vào đoản khúc

Trong đời sống, hạnh phúc thật gần mà cũng thật xa, đau khổ có khi phải thật xa mà cũng thật gần. Có khi hạnh phúc treo trên tầm tay, mà trái tim vẫn không nhìn thấy. Có khi âu lo mờ xa như trăng trên đầu núi, mà con tim cứ khắc khoải băn khoăn. Đau khổ, hạnh phúc, gần hay xa là tuỳ nhịp đập con tim của mình. Có ơn thánh Chúa, con tim sẽ bình an và nhịp đập sẽ là hạnh phúc.

Nhiều khi khó định nghĩa được ơn thánh là gì, vì ơn thánh siêu nhiên không nhìn thấy. Vì vô hình, nên ơn thánh như xa với không thực tế trong cuộc sống thường ngày. Ơn thánh là quà tặng của Chúa, giữa Chúa và ơn thánh là một liên hệ có một là có cả hai. Khi người ta thấy ơn thánh sao mà xa vời đâu đâu ấy, thì người ta cũng thấy Chúa xa vời ở mãi tận đâu ấy. Chúa như không thật, không gần con người, không nghe những khổ đau của con người.

Câu chuyện của bé Quyên cầu nguyện với Chúa, và cha của em, một cựu sỹ quan phi công, đã viết thư cho con mình, đối với tôi, đó là câu chuyện Chúa ở cùng chúng ta. Ơn thánh là điều có thật. Ơn thánh rất cụ thể. Ơn thánh liên hệ trực tiếp tới hạnh phúc của con người. Ơn thánh không trừu tượng xa vời cuộc sống.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 110

Page 111: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Tôi dành đoản khúc 44 và 45 này để nói với bạn về ơn thánh bằng ngôn ngữ của 2 người giáo dân. Hai đoản khúc này nói về thế nào là cầu nguyện, xin ơn, thế nào là sám hối, là tình yêu, thế nào là tội lỗi, hạnh phúc, là giáo dục gia đình, là Chúa ở cùng chúng ta. Như một cánh bướm tự do trong trời xanh sau những tháng ngày ẩm mốc.

Câu chuyện xảy ra năm 1922 ở trại tị nạn Palawan, Philippines, nơi tôi làm tuyên uý. Tôi thấy cả người con lẫn người cha đều có những khổ đau và cũng đều có những hạnh phúc. Có ngày tháng cũ và ngày tháng mới. Có lo âu chán nãn và ánh sáng. Có yếu đuối và sức mạnh. Tôi nói với người cha hãy viết một cánh thư cho con gái như một quà tặng, vì trong đời khó có những quà tặng như thế lắm, và cánh thư ấy cũng sẽ là kỷ niệm cho chính ông. Ông đã viết. Đồng thời, tôi cũng bảo em Quyên viết lại đơn sơ những gì đến từ con tim. Quyên đã viết.

Hôm nay, trong hai đoản khúc này, không phải là ngôn ngữ của những nhà thần học nói về ơn thánh nhưng là của những người giáo dân nói về Chúa, về hạnh phúc và đau khổ, về nước mắt, về tuyệt vọng, về bình an. Tôi xin gởi bạn, cách riêng tới những gia đình có những hoàn cảnh tương tự, những dòng chữ tôi đã cất giữ từ nhiều năm qua.

 

Lời Viết Của Em Quyên

Sau khi tĩnh tâm về, tôi thấy tâm hồn thật thoải mái nhẹ nhàng, tôi thương mến tất cả mọi người chung quanh, bạn bè trong đoàn, tôi thấy ai ai cũng dễ mến chứ không dễ ghét như trước kia tôi thường nghĩ. Đó là tại vì trong lòng tôi đang có sự hiện diện của Chúa và tình yêu.

Gia đình tôi đất Phi này được năm người, Bố, tôi, em và hai người Cậu (em ruột của má tôi). Thời gian đầu sống vui vẻ đầm ấm nhưng cuộc sống tị nạn có những phức tạp, những lo lắng về tương lai, tiền bạc,… Đã làm cho con người dần trở nên ích kỷ và hay bẳn gắt. Và gia đình tôi đã không thoát khỏi điều này, những sự bất đồng ngấm ngầm đã phát xuất ra tự lúc nào giữa Bố và hai Cậu tôi. Sự chịu đựng nào rồi cũng có giới hạn của nó, nó như một trái bom nổ chậm và đến lúc phải nổ tung lên. Một cuộc ẩu đả đã xảy ra trong gia đình tôi, trầm trọng đến nỗi như không còn thể nào hàn gắn lại được. Điều này đã làm cho tôi đau khổ vô cùng và tôi đang đứng trong thế kẹt không có đường lối thoát. Một bên là Bố, một bên là Cậu, tôi phải đối xử làm sao đây? Tôi phải làm thế nào để được lòng cả hai bên? Từ ngày xảy ra câu chuyện, Bố tôi cấm không có chị em tôi quan hệ với hai Cậu, điều này lại đem đến cho tôi sự lo buồn khó xử đến tột cùng. Dĩ nhiên tôi không thể bỏ Bố, nhưng theo Bố rồi bỏ Cậu thì cũng không thể có. Vì thế, chị em tôi vẫn thường lén Bố qua lại thăm Cậu. Và có một lần Bố tôi biết được, ông giận lên và cho tôi một trận đòn chí tử. Tôi có cảm tưởng ông đánh hai chị em tôi như thế để trả thù một điều gì đó đã làm ông tức tối ghê gớm. CHuyện xảy ra làm tôi có một chút bất mãn với Bố tôi. Tôi tự nghĩ “Tại sao bố lại cấm chị em tôi quan hệ với người thân, người có cùng huyết thống?”. Và đầu tôi le lói một ý nghĩ: “Bố tôi quá cố chấp”. Tôi có thể khẳng định được điều này vì sau ngày xảy ra chuyện xích mích, Cậu tôi có đến xin lỗi bố tôi nhưng Bố tôi đều làm lơ và có một lần muốn đuổi Cậu tôi ra khỏi nhà khi Cậu tới xin lỗi. Từ đây, tôi cảm thấy bớt phần kính nể đối với Bố và chị em tôi lén gặp Cậu nhưng cẩn thận hơn không để Bố tôi biết.

Sau khi tĩnh tâm về, tôi cảm thấy thương yêu và thông cảm cho Bố tôi hơn và một sự ước ao đeo đuổi trong đầu tôi khi nghĩ đến chuyện gia đình, đó là làm sao cho Bố tôi đi tĩnh tâm. Khi biết cha sẽ tổ chức thêm một khoá nữa tôi có đi hỏi để xin Bố tôi đi, được biết đã có đông người ghi danh lắm rồi, tôi lo sợ không biết có ghi tên cho Bố được hay không. Và kết quả xảy ra làm tôi bất ngờ vì khi tôi hỏi, Cha lại đồng ý ngay dù số người quá đông và Cha phải loại bớt ra.

Cám ơn Chúa một bước đã qua và còn một bước nữa là thuyết phục làm sao cho Bố tôi đi. Về nhà tôi có nói chuyện và đề nghị mấy lần nhưng Bố tôi đều từ chối, cứ lúc nào vui vui là tôi đề nghị nhưng ý Bố tôi không muốn đi. Điều này lại làm tôi lo lắng vô cùng vì tính Bố tôi khi quyết định một việc gì rồi là không thể thay đổi. Và tôi không biết làm gì hơn ngoài lời cầu nguyện cùng

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 111

Page 112: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Chúa, “nếu Chúa muốn thì xin Chúa hãy sắp đặt cho Bố con dự khoá tĩnh tâm này”. Và điều vô cùng bất ngờ lại xảy đến với tôi lần nữa, đến ngày dự hai tối chuẩn bị trước khi đi tĩnh tâm thì Bố tôi lại đồng ý đi, rất vui mừng nhưng tôi vẫn nơm nớp lo sợ ông đổi ý. Mọi việc điều tốt đẹp cho đến sáng ngày đi tĩnh tâm, trong lúc tôi đang sắp xếp quần áo và đồ dùng cá nhân vào giỏ cho Bố tôi thì Bố tôi nói là “Bố đi vì Bố sợ con buồn thôi chứ thật lòng Bố không muốn đi tí nào”. Tôi lại lo lắng trong lòng và tự nghĩ, “nếu vậy thì không biết Bố đi có được ơn ích gì không?” Đang suy nghĩ miên man thì tôi chợt nghĩ lại, “Bố đã chịu đi là tốt rồi, bây giờ hãy để cho Chúa lo lắng và sắp đặt theo ý Ngài”. Và sáng hôm đó Bố tôi lên đường.

Khi Bố tôi đi rồi, ở nhà tôi vẫn cứ lo lắng, không biết là Bố tôi có cảm nhận gì không, có sốt sắng không. Và điều làm tôi lo nhất là không biết Bố tôi có chịu phép Hoà Giải không vì đã lâu lắm rồi Bố tôi không có xưng tội rước lễ. Với những lo lắng này, tôi không biết làm gì hơn ngoài việc góp lời cầu nguyện xin Chúa ban cho Bố tôi dù chỉ một chút cảm nhận được Tình Yêu của Chúa dành cho con người vĩ đại như thế nào và tình con người đáp lại cho Chúa ra sao mà thôi.

Ba ngày trôi qua trong lo lắng và ngày kết thúc của Bố tôi đã đến. Một lần nữa, Chúa lại cho tôi một bất ngờ, và sự bất ngờ này thật vĩ đại. Tôi cong nhớ rất rõ tối hôm đó hai chị em tôi đang ngồi trong nhà chờ Bố tôi về thì bất ngờ Bố tôi đẩy cửa bước vào, tôi chưa kịp lên tiếng thì Bố tôi đã tiến tới ôm lấy chị em tôi và khóc. Tôi chưa bao giờ thấy Bố tôi khóc nên khi thấy Bố tôi khóc khi đi tĩnh tâm về thì tôi đã đoán biết được điều gì đã xảy ra cho Bố tôi. Quá ngạc nhiên và vui mừng nên chị em tôi cũng không cầm nổi dòng nước mắt, và trong dòng nước mắt Bố tôi đã nói: “Bố xin lỗi hai đứa vì đã đánh hai đứa khi hai đứa qua thăm Cậu”. Từ ngạc nhiên và vui mừng này đến ngạc nhiên và vui mừng khác, quá xúc động trước lời nói này tôi đã khóc nức nở vì vui sướng, tôi thầm cảm tạ Chúa và thầm dâng lên Ngài những giọt nước mắt vui sướng này, sau cùng Bố tôi nói: “Ngày mai con kêu hai Cậu lại nhà chơi cho Bố xin lỗi hai Cậu vì Chúa đã nói Bố phải làm như vậy”. Tối hôm ấy Bố con tôi ngồi nói chuyện đến khuya. Và Bố tôi có kể một đoạn như thế này: “Trong suốt buổi hoà giải Bố vẫn quyết là sẽ không chịu hạ mình để làm hoà với Cậu, Bố có nói với Cha và Cha chỉ nói Bố về cầu nguyện tìm ý Chúa. Và cầu nguyện cho đến lúc làm lễ Bố vẫn chưa thay đổi ý định. Cho đến lúc rước lễ thì Cha nói: “Các con hãy đứng tại chỗ và Cha sẽ mang Mình Thánh Chúa đến cho mỗi người. Thiên Chúa đến làm hoà với ta thế thì khồn có lý do gì ta không đến để làm hoà với người anh em”. Câu này làm cho Bố giật mình và làm Bố phải suy nghĩ, ngay sau đó Bố quyết định và hứa với Chúa về sẽ làm hoà với Cậu. Và Bố chợt thấy tâm hồn thanh thản và bình an lạ thường.

Tôi hẹn Cậu tôi sau thánh lễ chiều ghé vào nhà tôi vì Bố tôi có ý định muốn làm hoà với hai Cậu. Nghe tôi nói vậy, tôi thấy hai Cậu rưng rưng nước mắt. Suốt ngày hôm đó Bố tôi cứ nói với tôi là phải nói như thế nào đây? Sao Bố lo quá. Tôi cũng nói để trấn an Bố tôi nhng thật tâm tôi cũng lo lắng không kém, không biết là có được tốt đẹp hay không? Trong thánh lễ hôm đó tôi hết lòng cầu nguyện cùng Chúa cho mọi việc được tốt đẹp.

Tối hôm đó khi Cậu tôi vừa bước chân vào nhà thì Bố tôi đi ra, cũng có phần ngượng ngập, nhưng bất chợt Bối tôi và hai Cậu ôm chầm lấy nhau khóc. Quá ngỡ ngàng trước sự việc xảy ra quá vui sướng, tôi và em tôi cũng khóc, thế là gia đình tôi, năm người khóc trong vui mừng của sự đoàn tụ. Sau đó chúng tôi ngồi lại bàn, Bố tôi nói lời xin lỗi Cậu và Cậu nói lời xin lỗi Bố. Hai bên hỏi thăm qua lại về đời sống và sinh hoạt hằng ngày trong trại. Lòng ai cũng hoan hỷ và cùng nhau thầm cảm tạ Chúa.

Riêng tôi, tôi không sao diễn tả được sự vui sướng này. Ước mơ của tôi qua bao ngày tháng chừng như không bao giờ được mà nay lại trở thành sự thật. Đôi lúc thấy sự thật mà tôi tưởng như tôi đang mơ, hồn tôi cứ lâng lâng vui sướng. Đến bây giờ tôi nhận biết rằng: “Đối với Thiên Chúa không việc gì mà Ngài không thể làm được. Với Ngài sắt cũng phải mềm”. Thánh Gioan đã định nghĩa rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”, thật đúng như vậy, ở đâu có Chúa ở đó có Tình Yêu, ở đâu có Chúa ở đó có bình an.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 112

Page 113: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 45 :Tâm sự một người cha

Sau khi xảy ra sự bất hoà giữa mấy anh em, tôi quyết định giữ trong lòng sự hận thù, quyết cắn đứt tình huynh đệ, nên nghiêm cấm các con tôi không được tiếp xúc với hai Cậu của chúng, tôi đã dạy các con tôi: “Tao thề sống chỉ mặt, chết chỉ mồ, không đội trời chung với lũ chúng nó. Tao mà thấy đứa nào qua lại với tụi nó tao giết chết.”

Và rồi hậu quả của sự đe răn là một trận đòn chí tử cho con bé út chỉ vì dám cãi lời Bố, tôi cảm thấy thoả mãn phần nào với lòng thù hận đang nung nấu trong tôi, kể từ khi tôi biết chắc rằng các con tôi đã không dám liên hệ gì với các cậu của chúng.

Sau khi được ân sủng của Chúa khi Ngài nói với tôi: “Hỡi con! Cha đã hạ mình xuống để đến với con, vậy mà con lại ngần ngại khi đến với Cha qua người anh em của con.” Tôi đã quyết định và nói với Ngài: “Con hứa với Chúa là khi về đến nhà con sẽ xin lỗi các con trước về những sai xót trong giáo dục con bằng bạo lực mà không biết là mình đang dẫn chúng nó vào con đường thù hận. Sau đó, con nhờ nó mời các Cậu lại để con làm hoà và xin lỗi về những gì con đã cư xử với hai Cậu của nó.”

Qua biến cố, Ngài đã cho tôi nhìn lại con người tôi một cách rõ nét. Trách nhiệm của tôi mà Chúa giao phó cho là giáo dục và nuôi dưỡng chúng nên người, thế nhưng vì lòng hận thù, tôi đã trở thành một người cha độc tài và tàn bạo các con tôi phải cúi đầu tuân lệnh, dù là một lệnh thiếu đạo đức và trái luật Chúa, mà không được quyền có ý kiến.

Đáng lý tôi phải là người hướng dẫn và giáo dục chúng trong ân sủng và ơn thánh Chúa trong việc đạo đức thì tôi lại xem thường điều đó, đáng lý tôi phải khuyến khích và động viên chúng tham gia các sinh hoạt đoàn thể và tham dự thánh lễ, cầu nguyện mỗi ngày thì ngược lại tôi còn la rầy và răn đe khi các con tôi “qua tích cực công việc” của đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể, và nhà xứ, vv….

Từ sau ngày tĩnh tâm trở về tôi thấy tâm hồn bình an một cách kỳ lạ, không nóng giận trước những lỗi lầm thường ngày của các con, biết lắng nghe những ý kiến của con cái, và một điều tôi cảm nghiệm rõ nhất đó là chấp nhận và yêu đời hơn với kiếp sống của kẻ bị từ chối quyền tị nạn, vì tôi nghĩ rằng mọi ngày trong cuộc đời tôi đều là của Chúa ban cho và dĩ nhiên cuộc đời sẽ đáng yêu hơn một khi có ân sủng của Ngài mỗi ngày trong cuộc đời mình. Một điển hình là hôm thứ bảy, trong khi đi rước kiệu hoa cuối tháng Đức Mẹ tôi gặp lại người luật sư của JRS (Jesuit Refugee Service) đã phỏng vấn để làm bổ túc kháng cáo cho tôi lúc mười giờ sáng ngày thứ sáu 29.5, ông ta  cho tôi biết một tin là có khoảng hơm 600 kháng cáo sẽ được sổ ra trong tháng tới, thứ hai này ông ta sẽ vào Cao Ủy để xem nếu có tên tôi trong danh sách kết quả thì ông ta sẽ không làm bổ túc kháng cáo cho tôi nữa, thế mà tôi vẫn dửng dưng trước tin sốt dẻo đó, tôi không hề ngóng trông dù ông ta có hứa sẽ đến nhà tôi vào chiều thứ hai, mà hôm nay đã sau hai ngày vẫn chưa thấy ông ta trở lại. Cuộc sống của tôi lúc này là: “Lạy Chúa xin cho con biết phó thác cuộc đời con trong tay Người và xin Người hãy nhồi nắn theo ý định của Ngài.”

 

- Ba à, con nghĩ Ba cứ thử đi tĩnh tâm một lần cho biết, vì dù sao…

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 113

Page 114: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Tao đã nói mày nhiều lần tao không rảnh! Tao mà bỏ dạy bây giờ thì tụi mày đói hết.

- Con đâu có bảo Ba bỏ dạy, Ba cứ thử xin phép Sister xem sao.

- Tao biết bả không cho. Phải như tuần trước thì tao cũng ráng đi cho mày vui, khi tao nghỉ cả tuần thì sao mày không nói Cha tổ chức tĩnh tâm, đến khi tao đi làm thì mày về hối tao, mệt quá!

- Tại có vài trục trặc nên Cha mới đình, con nghĩ Ba cứ thử lên xin Sister xem, nếu Sister không cho nghỉ thì thôi, vì đây là khoá cuối cùng mà nếu mình không đi được thì không còn cơ hội nào khác nữa đâu.

- Với tao điều đó đâu thành vấn đề, hơn nữa việc đạo đức là của mấy hội đoàn, tao ngoài đoàn thể không liên quan gì!

- Khoá nào cũng có những người ngoài hội đoàn Ba à, Ba cứ đi thử cho biết.

- Thôi được, sáng mai tao sẽ xin phép nếu được thì tao đi cho mày vui, còn không được thì đó không phải tại tao, OK, còn tiền lệ phí, mày nói Cha  làm sao thì nói tao chỉ có thể góp được 100 pesos thôi.

- Được Ba cứ yên tâm để con nói với Cha.

Mặt con bé có vẻ tươi hơn đôi chút kho thấy tôi có vẻ hơi đổi ý, kẻ từ sau khoá 9 tĩnh tâm về nó tìm mọi cách thuyết phục Bố đi tĩnh tâm. Với tôi thì tôi còn lạ gì cái chuyện tĩnh tâm này, có thể chỉ là tĩnh tâm cầu nguyện rồi đọc sách thánh thôi chứ đâu có gì đâu mà con bé úp úp mở mở:

- Ba cứ đi một lần cho biết…

Tôi không thích cái không khí này, và tôi đã một lần tĩnh tâm ở Đại Chủng Viện Thánh Giuse ở đường Cường Để năm 1970, nào là ăn ngủ, sinh hoạt phải theo giờ giấc vv… đó là chưa kể phải nhức đầu về mấy cái chuyện cầu nguyện với suy gẫm cho nên với ba ngày tôi chịu không nổi nên rút lui sớm.

Sở dĩ mà tôi chấp nhận lời  đề nghị của con gái tôi là vì tôi sợ nó buồn nếu tôi từ chối thẳng, chỉ bằng cứ đổ thừa là tại Ba xin phép không được vậy là ổn thoả vì tôi biết Sister sẽ không cho tôi nghỉ mà!

Thế nhưng một điều hoàn toàn trái ngược như tôi dự trù, ngày chiều thứ tư hôm đó tôi nhận được thư xấu ngoại quốc(1) của bà cô ở Mỹ mà đã bị gián đoạn bốn tháng nay rồi, chiều thứ năm lại nhận thư bảo đảm ngoại quốc của thằng bạn mà hơn một năm nay kể từ ngày tôi bị đá (2) nó đã bỏ rơi tôi luôn vì thất vọng! Coi như vấn đề tiền bạc tôi không còn lý do gì để phản đối nữa, con bé hớn hở ra mặt.

- Con nghĩ đây là ý Chúa muốn Ba đi tĩnh tâm đó nên một lúc Ba nhận hai thư … khoẻ !

Sáng hôm sau con bé cứ nhắc lại một cách khéo léo trước khi Bố đi làm:

- Nếu xin phép được Ba nghé phòng IOM (International Organization for Migrants) cho con hay nhé Ba.

- Còn nếu không thì sao?

- Ba khỏi ghé cũng được, vì nếu Ba xin nghỉ được thì con phải đi xin Cha ghi tên cho Ba.

- OK.

Một điều làm cho tôi phải giật mình mà đặt lại vấn đề vì nó hoàn toàn không như ý tôi nghĩ Sister hiệu trưởng trường CADP, một bà sơ nổi tiếng là khó thì hôm nay lại “very generous”.

- OK. How many days do you need? (Anh cần mấy ngày nghỉ)*

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 114

Page 115: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- OK. I will pray for you and every one in this Spiritual Exercises and remember your teacher training at 7:00 PM, room 1. (Được rồi, tôi sẽ cầu nguyện cho các anh trong khoá linh thao, nhớ giờ tu nghiệp giáo chức là 7 giờ tối đấy nhé, ở phòng số một).

Tôi không thể nào quên được nỗi vui sướng và hân hoan trên khuôn mặt Quyên khi con bé nhìn thấy cái gật đầu của tôi.

Con bé nhắc lại Bố trước khi tôi đi dự lớp teacher training:

- Cha dặn là có mặt ở staff-house lúc 7:30. Ba nhớ xin Sister ra sớm nhé Ba.

1. Trong trại tị nạn, các thư được phân loại như sau: Thư nội địa là thư trong nước Philippies. Thư ngoại quốc là thư từ các quốc gia khác trên thế giới. Thư xấu là thư bị trả lại không có ai nhận. Thư bảo đảm là hàm ý nói như có tiền.

2. Bị “đá” là bị rớt thanh lọc, không được quyền tị nạn.

- Cha dặn là có mặt ở staff-house lúc 7:30. Ba nhớ xin Sister ra sớm nhé Ba.

Tôi là tổng thư ký của Hội Cựu Quân Nhân vì thế chúng tôi thường có cuộc họp Ban Chấp Hành vào chiều thứ bảy lúc 3:00, nên con bé nhắc trước khi đi sinh hoạt Thiếu Nhi Thánh Thể:

- Ba nhớ về sớm đi lễ rồi ăn cơm và còn xuống staff-house lúc 7:30, vì hôm nay mà vắng mặt thì Cha gạch tên đó.

- Biết rồi nhắc mãi, tao đâu còn bé.

Tôi trở về dự thánh lễ lúc 5:30 chiều, tắm rửa xong lên đến nhà thờ mới 5:20, các em thiếu nhi đang giăng biểu ngữ chụp hình tặng báo Đường Sống nên tôi đứng ngoài nhà thờ, thì ông hội phó tới tìm tôi:

- Em về văn phòng hội gấp vì có hai an ninh Phi tới gặp Ban Chấp Hành.

Trong Ban Chấp Hành có tôi là người nói được tiếng Anh nên tôi đành phải theo ông ta, tôi hơi lưỡng lự.

- Ông X. đâu? Anh đi tìm ông X. đi tôi phải đi lễ, nếu không có ông X thì tôi đi.

- Nói thật có ông X. ở hội nhưng anh không thích, bỏ lễ một bữa có sao đâu? Bây giờ họ đấu tranh đòi quyền tị nạn là trên hết, lễ nay không đi thì mai đi. Ông ta cũng có lý, bây giờ mình không đấu tranh đòi quyền tị nạn cho mình thì mình còn nhờ ai đây? Chúa đã bỏ để cho mình bị đã như vậy, Chúa không thương mình, vv… cuối cùng tôi di theo ông ta. Khi tôi đến thì đã có sẵn một bàn nhậu gồm bia, xí quách, bánh mì vv…

Tiệc nhậu kéo dài cho đến 6:24 thì một an ninh Phi đề nghị:

- I would like to invite all of you come to my house for eating something. (Tôi muốn mời các anh đến nhà tôi nhậu lai rai).

- I’m terrible sorry I have teacher training class at 7:30. I will do it next time. (Tiếc quá ! Xin lỗi vì tôi có giờ tu nghiệp giáo chức tối nay. Xin để lần khác nhé).

- No next time but right now. I will take you back at 7:30 PM. OK? (Không được! Tụi mình  phải nhậu tối nay. Đừng lo, tôi sẽ đem anh trở lại đúng giờ).

Ông phó hội tiếp:

- Em phải đi, nếu em không đi sợ tụi nó buồn.

- Thôi được, nhưng tôi phải về trước 7:30.

Chiếc xe trycicle lăn bánh với bốn người chúng tôi và một an ninh Phi, còn tôi thì đi với một người khác trên chiếc Yamaha. Tôi rất ngạc nhiên khi họ dẫn chúng tôi theo đường hẻm ra

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 115

Page 116: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

cảng, cuối cùng họ dừng lại một căn nhà mà hoàn toàn là tre rào xung quanh, tôi nghe họ nói với nhau lúc tiếng Phi lúc tiếng Anh:

- Take three enough for them. (Cho bọn này ba em đi).

Người chủ nhà đáp:

- I’m sorry they went out all. (Tiếc quá, các em đi hết mất rồi).

Và rồi hai người An Ninh phi nói với nhau:

- Go to another place (Đi kiếm chỗ khác).

- OK.

Tôi đoán được một phần nào ý định của họ nên hỏi đi lên xe:

- Do you want us take prostitutes? (Đi kiếm mấy ả hả).

- Yah. You don’t want to take it? I want you enjoy one time before my leaving. (Bộ tụi maỳ không muốn à. Tui muốn quý vị “yêu đời” trước khi tui rời nhiệm sở).

- You told me come to your house, didn’t you? I’m sorry we don’t have money. (Anh bảo tụi tôi là đến nhà anh mà! Xin lỗi, tụi tui không có tiền!).

- Oh don’t worry I do. We are free here. (Ba chuyện lẻ tẻ! Tui bao!)

Tôi cảm thấy thậy áy náy vì sự việc diễn tiến ngoài ý muốn của mình, nếu biết trước tôi đã không đi, nhưng dù sao thì cũng lỡ rồi. Nếu không vè kịp giờ tĩnh tâm thì sao? Dù sao tôi cũng có cớ để nói cho con tôi biết là tôi phải đi công tác cho Hội và nếu lần này không đi được thì lần sau đi, tôi tìm mọi cách để an ủi chính mình, nhưng tôi vẫn cảm thấy áy náy vì mình bây giờ có tiền và xin phép được mà không đi thì trả lời sao với Sister… Họ dẫn chúng tôi qua một điểm khác và tình trạng cũng như điểm trước, thấy thế tôi đề nghị.

- It’s better we should go back àn make appointement for next time. I don’t want being absent at 7:30 (Thôi! Về đi, để lần tới mình hẹn hẳn hoi! Bẩy rưỡi tối nay tôi cần có mặt ở nhà) Và họ đồng ý.

Tôi nhìn đồng hồ đã 7:20 nên hối thúc người tài xế chạy nhanh hơn, vì thế khi tôi về đến trại là đúng lúc Cha linh hướng từ trong nhà thờ đi ra, tôi vội càng nhảy xuống xe rồi chạy về nhà, tôi không còn thời giờ để dùng cơm tối và tắm rửa, tôi vào toilet rửa mặt thì con gái tôi hớt hả chạy về.

- Con lên hội tìm Ba mà không thấy, lo  muốn chết, Ba đi đâu về vậy?

- Ba vừa mới ở phố về, đi công chuyện cho Hội.

- Cha xuống staff-house rồi, Ba đi đim con chờ Ba về rồi ăn cơm luôn.

- Con cứ ăn trước đi, Ba không đói.

Thực sự mà nói, tôi bị thôi thúc nhiều về bài Phúc Âm ông Simon tiếp Chúa tại nhà ông, tôi đã thật sự mất ngủ vì sự giải thích của Cha linh hướng: “Lý do tại sao ông Simon không lấy nước cho Chúa rửa chân, không ôm hôn Chúa khi Chúa vào nhà và không mời Chúa ngồi thì chỉ có Chúa biết, chúng ta không cần tìm hiều lý do mà đã xảy ra cách đây 2000 năm, chúng ta hãy xét xem thái độ của chúng ta thế nào khi chúng ta rước Chúa vào linh hồn chúng ta.”

Cuối cùng thì tôi đã có mặt ở Pastoral center, sau giờ cơm trưa tôi đã không tài nào nhắm mắt được, một cảm giác hồi hộp, lo âu, một sự nôn nóng kỳ lạ mong cho mau sớm tới 2 giờ để bước vào khoá tĩnh tâm, thế rồi việc gì đến đã đến, chúng tôi tập trung vào phòng hội khi Cha linh hướng rung chuông. Giờ huấn đức đầu tiên với chủ đề: “Tôi đi tìm tôi” tôi đã  bắt đầu cảm nghiệm được thực sự tôi đã chưa biết ngay chính tôi và bây giờ tôi mới có gịp để nhìn lại mình. Bài trích

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 116

Page 117: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

sách Tiên tri Isaia đã dằn vặt làm tôi không thể ngủ được: “Ta đã chán chê mùi hương, ta sẽ quay mặt đi kho các người cầu nguyện. Hãy cát khỏi mặt ta mọi điều xấu xa, hãy làm điều lành đừng làm điều xấu nữa.”

Trong giấc ngủ chập chờn tôi đã bị rơi vào cơn ác mộng, tôi đã nhìn thấy chính tôi và những tội lỗi tầy trời mà tôi đã phạm, tôi giật mình tỉnh giấc vào lúc 2:15 sáng, tôi ngồi lặng thinh và cầu nguyên, rồi hồi tưởng nhớ lại những gì xảy ra, tôi bị dằng co bởi hai lý luận có thể là ý Chúa cho tôi thấy lại những tội lỗi của tôi để tôi tìm thấy được chính tôi mà quay trở về, cũng có thể là ma quỷ ám ảnh để tôi thấy rằng tội lỗi không thể nào tha thứ được thì thà rằng cứ tiếp tục sống như mình đang sống coi bộ an tâm hơn. Ngày thứ hai của tĩnh tâm bắt đầu giờ kinh sáng, tôi đã không thể nào cầu nguyện được vì lúc này tôi thực sự mất bình an khùng khiếp, một âm vang nào đó đang bảo tôi: “Chúa sẽ không tha thứ cho mày đâu và nhất là con mày sẽ không kính trọng mày nữa khi nói biết Cha của nó là một kẻ tội lỗi, chi  bằng mày cứ sống như vậy sẽ thoải mái hơn và sẽ hạnh phúc hơn, và một tiếng nói khác đang nói với tôi: Hãy chỗi dậy, vì đây là dịp thuận tiện nhất cho người, hãy lên đường và ngươi sẽ được cứu thoát dù tội lỗi ngươi có nặng nề”.

Có thể chắc chắn một điều là: Bài trích sáng tiên tri Isaia đã thôi thúc trong tôi: “Tội lỗi ngươi có đỏ thắm như vải điều cũng trở nên  trắng như len”, rồi bài Phúc Âm Chúa trở lại đền thờ Giêrusalem trong dịp lễ Vượt Qua, Chúa bảo phá đền thờ cũ đi. Tôi đã xúc động và đã cầu nguyện bộc phát:

“ Ôi, đôi mắt của Chúa u buồn và thất vọng biêt bao khi Chúa trở lại ngôi đền thờ trong linh hồn con! Làm sao Chúa có thể tìm thấy ngôi đền thờ của cái thủa ban đầu Chúa trao cho con nữa! Bởi vì bao nhiêu năm nay con đã kể cho Satan và ma quỷ vào ở trong đó và bây giờ linh hồn con đã trở thành nơi buôn bán! Bán buôn những chuyện bất chính, thù ghét anh em mình, lỗi phạm với vợ con, lỗi đức công bằng vv… Những thứ tội lỗi đó đã làm cho đền thờ linh hồn con trở nên dơ bẩn, hôi thối đến nôn mửa. Hôm nay Chúa đã gọi con và con đã bỏ tất cả các công việc ở trại để đến đây với Chúa, con biết lúc mà con nhận được ân sủng của Chúa thì cũng là lúc mà các Thiên Thần Chúa phải chiến đấu cam go hầu dành linh hồn con lại cho Chúa. Con cảm thấy quá mệt mỏi Chúa ơi! Con đã dại dột nghe theo sự lừa gạt của ma quỷ, nghe theo những lời ngọt ngào của nó, vùi đầu trong những cuộc hoan lạc mà tưởng là những hạnh phúc thật. Xin Chúa hãy cho con can đảm để phá đi ngôi đền thờ dơ bẩn, ô uế trong con, xin cho con biết nghe được tiếng Chúa nói với con: Phá đi, phá đi, hãy phá đi ngôi đền thờ này đi.

Lạy Chúa, ước gì con có thể phá ngay được ngôi đền thờ đáng ghét, dơ bẩn trong con, để sau khoá tĩnh tâm này Chúa có thể xây lại một ngôi đền thờ để Chúa ngự vào đó. Amen. “

Có một cái gì đó hơi bất an trong tâm hồn, tôi quyết định gặp Cha linh hướng, để biết rõ hơn về ý Chúa.

Tôi cảm thấy bình an hơn trong thánh lễ hoà giải và khi Cha linh hướng nắm tay tôi lúc tôi lên lãnh bí tích hoà giải, tôi cảm thấy được cả tình yêu bao la vô bờ bến của Chúa đang thấm vào tim, được tác động bởi Thánh Linh tôi cảm thấy một sự hối hận tột đột và tôi đã  bật khíc với sự rung cảm cao nhất của một con tim đã gần ba mươi năm khô khan và chai lì, tôi đã khóc nức nở như một đứa trẻ bị đòn nhưng nhận thức được lỗi lầm của mình, khoảng năm phút sau tôi mới có thể nói với Chúa tất cả những ưu tư, lo âu, dằn vặt và mặc cảm trong lòng mình những vẫn chưa hoàn toàn bình an khi tôi nói với Chúa qua Cha linh hướng.

- Làm sao con có thể hạ mình xuống để xin lỗi hay làm hoà với các em con, điều nay thật khó cho con, con không thể làm được.

Cha nói:

- Con hãy xuống dưới nhà thờ, nhìn lên ánh mắt của Chua và hỏi Chúa xem con phải làm gì bây giờ.

Chúa vẫn lặng thinh và nhìn tôi với một ánh mắt thật cảm thông, tôi đã cố để lòng mình

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 117

Page 118: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

thật lắng đọng nhưng Chúa vẫn lặng thinh, nhưng ánh mắt Chúa có vẻ trìu mến hơn và thiết tha hơn. Tôi đi ra ngoài để có chút gió cho thoải mái và dễ dàng gặp Chúa hơn nhưng rõ là Chúa không nói gì cả. Sau khi rước Mình Thánh Chúa trong lúc tôi đang cầu nguyện thì Cha linh hướng cầu nguyện để hướng dẫn mọi người biết cảm tạ Chúa, bỗng tôi nghe rõ tiếng Chúa nói với tôi qua Cha linh hướng trước khi rước lễ:

- Hỡi con! Cha đã hạ mình xuống để đến với con, sao con lại ngần ngại khi đến với Cha qua anh em con!

Ngay giây phút ấy tôi đã nói Chúa:

- Lạy Chúa, ngay khi về đến nhà, con sẽ xin lỗi các con trước và nói với các con là con hãy đi mời hai Cậu lại để Ba làm hoà cùng hai Cậu.

Tôi đã làm một quyết định trở về với mười điều tâm niệm, và chỉ hai ngày xuống núi, tôi đã thực hiện được toàn vẹn hai điều, còn tám điều khác tôi đang thực hiện, vì những điều này có liên quan đến cả cuộc đời tôi và tôi phải thực hiẹn nó tuỳ ân sủng và tình yêu bao la của Chúa thì mới mong đạt được kết quả. (Ngày 31, tháng 5 năm 1992)

 

Thư Gửi Con

Palawan ngày 2 tháng 6 năm 1992

Con thân mến !

Đây là lá thư đầu tiên và có thể cũng là lá thư sau cùng mà Ba viết cho con, Ba đã quyết định viét dù rằng nó có đến được tay con hay không!

Ba biết là con mong Ba đi cầu nguyện lâu thật lâu để con thực hiện ý định của con, nhưng không ngờ ba lại về quá sớm, vì thế con lại mong cho Ba đi ngủ sớm để công việc của con không gặp trở ngại, có lẽ con chưa tin Ba, có lẽ sự cố chấp và tàn bạo của Ba trong cách giáo dục đã làm cho con khiếp đảm đến nỗi vẫn còn nghi ngờ thái độ hỗi cải của Ba dù rằng Ba đã hứa là sẽ làm một cái gì đó cho con vui dù là thật nhỏ (ý định này chớm nở trong tôi từ sau khi đi tĩnh tâm về.)

Con có biết đâu khi con xách giỏ đồ của đoàn về giặt, Ba đã học được  một sự e ngại và lo âu trong ánh mắt con, Ba nhìn thấy cả sự lúng túng và sợ sệt khi Ba hỏi: “Đồ của ai vậy?” và con đâu biết là ba đã có một quyết định trong đầu là phải làm một cái gì đó dù thật nhỏ thôi khuyến khích con và để cho con tin yêu Ba hơn, vì thế sau khi ăn cơm tối xong là Ba lúi húi lo làm cho con một cây đèn, rồi sau đó Ba đi cầu nguyện, khi trở về đã chín giờ tối Ba đe cây đèn ra thử lại nhưng cái tim bị hư hỏng không xử dụng được, ba vội vàng tìm một cái tim khác thay thế và khi cây đèn được thắp sáng lên thì cũng là lúc cúp điện. Ba đã đem cây đèn ra cho con khi con giặt giỏ đồ đó.

Đêm đó Ba rất băn khoăn và ưu tư, tìm đâu ra dây để cho con phơi số đồ đó, thế rồi cuối cùng Ba cũng đã tìm được câu trả lời, Ba đã dậy thật sớm để chuẩn bị toàn bộ dự tính mà Ba sẽ làm cho con sáng nay. Ba đã nhìn thấy nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt con và cả ánh mắt tin yêu khi con từ nhà thờ trở về và thấy những chiếc khăn của đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể đã được phơi trên những dây phơi xinh xắn và Ba không bao giờ quên cái nụ cười hân hoan của con, “Bây giờ con mới biết Ba của con, Ba của năm 92 chứ không còn là Ba của năm 91”.

Con thân yêu! Ba không thể nào nói với con những gì Ba sẽ làm cho con trong tương lai, thế nhưng Ba sẽ đã nguyện với lòng là Ba sẽ đem lại cho con những nụ cười, những hạnh phúc dù nhỏ nhoi nhất, Ba muốn con hãy tin yêu vào đời như con đang tin yêu vào Ba, Ba muốn chuộc lại những lỗi lầm mà Ba đã đối xử với con trong những thời gian qua. Có một điều mà Ba đang tự hỏi: “Tại sao không phải là một người nào đó động viên hoặc khuyến khích Ba đi tĩnh tâm mà lại là

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 118

Page 119: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

con? Tại sao Chúa không nhờ một người như Cha linh hướng chẳng hạn, mà lại là con? Một người mà dưới quan niệm giáo dục của Ba thì con chỉ là một đứa con nít, một đứa con nít tầm thường chỉ biết cúi đầu vâng phục mà không được quyền ý kiến, dưới mắt Ba, con tầm thường bao nhiêu thì trước mặt Chúa con giá trị bấy nhiêu, vì Chúa đã chọn con để ban ơn cứu chuộc cho Ba, Chúa đã ban ân sủng cho Ba qua sự tác động của con, con là viên gạch mà Ba loại bỏ, khinh để thì lại trở thành viên gạch góc tường nơi bàn tay điêu luyện của Chúa. Bây giờ Ba mới thấy những điều kỳ diệu mà Chúa đã thực hiện, và không có điều gì mà Thiên Chúa không làm được.

Cảm tạ Chùa vì Người đã thương mà ban cho Ba một ân sủng cao quý nhất đó là con và cảm tạ Chúa vì Người đã đoái thương đến gia đình ta.

 

 

 

* Phần đối thoại bằng tiếng Anh được giữ nguyên như người viết. Phần trong ngoặc do tôi dịch thêm vào.

 

 

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 46: Để tự do và hạnh phúc hơn

Bỗng nhác thấy bóng ngựa phóng qua. Nhà đạo sĩ bàng hoàng vì kẻ trên lưng ngựa chính là người bạn thủa xưa cùng nhau tầm thầy học đạo. Cất tiếng gọi, mà bóng ngựa cứ nước kiệu phóng đi như bay.

Băn khoăn về người bạn cũ thủa nào, nhà đạo sĩ lên đường xuôi phương nam tìm ngọn núi có am thất của kẻ đồng môn. Tới nơi, nhân gian cho ông biết am thất không còn ai trông coi. Kẻ trụ trì đã chết rồi. Tính ra, nhà đạo sĩ thấy ngày chết của kẻ đồng môn đúng là đêm có bóng ngựa hiện  về. Ngày xưa hai người có một lời hứa: Ai chết trước sẽ về báo cho kẻ ở lại biết thế giới bên kia thế nào.

Đêm đó, bên am thất, vào lúc ánh trăng bạc hạ tuần mềm mại trên rừng cây, bỗng có bóng người cầm tay nhà đạo sĩ dắt đi. Lại chính hồn người bạn đồng môn hiện về! “Này bạn cũ, xin nói cho tôi biết thế giới bên kia thế nào”. Hồn người chết không trả lời, lẳng lặng kéo nhà đạo sĩ theo mình. Qua khu rừng, rồi một hoang địa. Có tiếng nói từ đâu đó: “Đi về phía đông mươi trượng. Vào đường hâm. Xuống trăm bước. Đi lên. Về phía nam.” Thoát chốc, hồn người bạn đồng môn biến bất ngời như khi hiện đến, đẩy nhà đạo sĩ vào thế giới kỳ quái.

Lạc trong hoang tưởng mộng mị, con đường về thế giới bên kia bắt đầu. Cứ theo tiếng gọi huyền bí dẫn đi, nhà đạo sĩ hỏi tiếng vọng: “Thiên đàng đâu?” Tiếng vọng dẫn ông qua nhà, qua cửa. Ông nghe có tiếng cầu kinh. Trởi đổ mưa. Ngoài cánh đồng có người làm việc. Hoàng hôn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 119

Page 120: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

xuống, bình minh lên. Bé thơ ngồi xem mẹ xay bột bên khuông cửa. Êm ả, thanh bình. Một quang cảnh tương tự như cuộc sống bình thường trên dương thế đang diễn ra. “Đó, ngươi đang đi qua thiên đàng đó.” Nhà đạo sĩ không thấy chi thần tiên người ra nói. Không có vũ công vũ khúc nghê thường, không có yến tiệc linh đình. Kỳ lạ quá. “Thiên đàng có vậy thôi sao? Còn hoả ngục thế nào?” Ông ngạc  nhiên về những hình ảnh thiên đàng mà ông vẫn dạy trong những bài thuyết giảng của ông. Ông ngỡ rằng thiên đàng phải là chốn yến tiệc vui chơi chứ.

Qua thiên đàng rồi, tiếng vọng dẫn ông sang thế giới khác. Chập chờn, nhà đạo sĩ lạc vào một vùng như hoang tưởng. Khắp cả là những toà nhà sang trọng. Người ta ca hát, nhảy múa thâu đêm suốt sáng. Yến tiệc tưng bừng. Chỗ nào cũng là xa hoa, phấn hương. “Có phải đây mới là thiên đàng chứ?” Ông ngạc nhiên không hiểu nơi này là gì mà tưng bừng thế. Nhưng có tiếng bí mật trả lời ông: “Không! Đây là hoả ngục!” Qua sảnh đường, nhà đạo sĩ nhac thấy có người quen, thì ra chính hồn ngượi bạn cũ năm xưa! Người bạn đồng môn ấy đang ngậm miệng, cố nuốt những dòng rượu chảy nhễ nhại. Trên nền cẩm thạch bóng láng, đoàn vũ nữ nhảy múa không ngừng. Nhóm người khác đang chia nhau tiền bạc. Tiền đâu mà nhiều thế. Họ đếm thâu suốt sáng không hết. Chỗ nọ, đoàn nhạc công mồ hôi nhễ nhại oằn oại trên tiếng đàn. Họ ăn chơi không ngơi nghỉ. “Thế này nghĩa là gì? Đâu là thiên đàng? Đâu là hoả ngục?”

 

Được giác ngộ, nhà đạo sĩ thấy những gì hiểu về thiên đàng, hoả ngục của ông xưa kia non nớt quá. Ông vẫn nghĩ rằng thiên đàng là nơi không phải làm việc, chỉ có ăn chơi, tung tăng nhàn nhạ suốt ngày. Hoả ngục là nơi cực hình, không có ăn chơi, chỉ quần quật làm việc. Bây giờ trái ngược lại. Nhưng ông đã hiểu. Cái bi thương hẹ tại là thiên đàng có tự do, hoà ngục là đường một chiều, không có chọn lựa.

Ông thấy người bạn cũ sống trong căn nhà lộng lẫy, không phải làm việc gì, chung quanh là nhạc khúc dập dình. Mới đầu ông nghĩ thế thì hạnh phúc quá. Nhưng hồi lâu, lâu nữa, một ngày, hai ngày, rồi một năm, hai năm, nếu dòng rượu cứ suốt ngày đêm tuôn chảy và người bạn cũ của ông cứ phải oằn oại uống như thế suốt năm này qua năm nọ thì sao? Ông ớn đến lạnh người. Nhìn chung quanh, ông thấy quả là một thế giới kinh khủng. Tópp người đang khiêu vũ kia cứ oằn oại trong điệu nhạc, ngày này qua ngày nọ. Họ không được đi đâu, không phải làm gì, đời họ bây giờ chỉ là khiêu vũ, ngày, đêm. Ông đứng nhìn những khuôn mặt thất thần. “Họ đã ở đây bao lâu? Họ đã phải đếm tiền kia từ thế kỷ nào?” Chung quanh ông không còn là hạnh phúc vì tiếng đàn, vì những khăn bàn bằng lụa quý, những chén ngà chạm vàng nữa. Ông thấy một thế giới cô độc khủng khiếp. Nhìn người bạn cũ, nhà đạo sĩ thấy đôi mắt đỏ ngàu, lờ đờ, nhưng ông ta không nghỉ được, dòng rượu cứ chảy và ông cứ ừng ực mà uống. Một thế giới không còn tự do.

 

Những ngày còn lại cuối đời của nhà đạo sĩ, ông nhìn lại những lời giảng thuyết của ông ngày xưa thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ. Ông thấy những suy tư ấy non yếu quá. Trầm ngân hơn, ông viết cho người môn sinh của mình về thiên đàng và hoả ngục như sau:

Con thân mến, Thiên đàng là nối tiếp hạnh phúc chúng ta sống trên cõi trần. Hoả ngục là xây tiếp những nô lệ nội tâm chúng ta đang xây dựng dở dang lúc chết.

Tội  là đưa một đam mê lên thành lý tưởng để theo. Hạnh phúc là sự hài hoà của mọi thứ say mê.

Tình yêu, tình dục, lòng thèm muốn, ghen tương, nhan sắc, tiền bạc, giận hờn, sức khoẻ, trí tuệ, vật chất, tinh thần… tất cả làm nên con người chúng ta. Hạnh phúc là khi ta quân bình và hài hoà nó. Chẳng hạn như nhan sắc, đó là nghệ thuật, nó đem lại hạnh phúc cho người, cho

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 120

Page 121: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

mình. Nhưng nó phải hài hoà trong nhân đức, thật thà, đoan trang. Khi con người đưa nhan sắc thành lý tưởng cao nhất để theo thì giống như một bức tranh thêu lạc màu, nhan sắc sẽ tiêu diệt những đường chỉ thêu khác. Lúc ấy, lòng thương xót sẽ chết trước cửa nhà người nghèo khó, lòng bao dung chìm dần, niềm tự kiêu dâng lên. Con sẽ dùng mọi tiền bạc cho tấm thân thôi, những tốn phí có thể lỗi công bình, vì con không còn lòng thương xót cho những kẻ phải sống không đúng phẩm giá con người chỉ vì nghèo.

Không có một chút ghen, có lẽ cuộc sống cũng khô lắm. Không có tình dục, con người sẽ đi về đâu. Giận hờn là thế, nó cho người ta những giây phút “đau thương êm ái” Nhưng chúng phải hài hoà.

Con thấy đó, hoả ngục là nơi không còn hài hoà. Kẻ nhảy múa là thấy đêm suốt sáng nhảy múa. Kẻ uống rượu là phải uống triền miên. Khi sống, họ chọn một đam mê rồi đưa lên thành lý tưởng để theo, thì khi chết họ cũng theo lý tưởng đó mà sống. Hoả ngục hệ tại là đó.

Tội làm con người mất hạnh phúc. Nhưng mất hạnh phúc bằng cách nào? Tội là thần tượng hoá một đam mê. Khi một đam mê lên cao thành thần tượng thì nó thống trị mọi suy tư khác. Kẻ ấy, lúc nào cũng bị ám ảnh bởi đam mê đó. Đam mê độc tài này đẩy con người vào hành động không có chọn lựa. Lúc đó, con người mất tự do. Bị đam mê điều khiển thì cuộc sống thành đường một chiều. Trên đường một chiều này, hễ ca múa là thâu đêm suốt sáng ca múa. Hễ say đắm tình dục thì ngụp lặn trong dục tính. Hài hoà bị tan vỡ. “Nô lệ là kẻ để cho bất cứ sự gì đó không trị mình” (2Phêrô 2:19).

 

Khi của cải bị cô lập một mình, xa cách sự độ lượng, lòng thật thà, tâm tình bao dung, thì nó không còn bè bạn, nó trở nên độc tài. Lúc ấy, nó trả thù lại kẻ đã cắt đi những liên hệ mà nó phải có bằng cách nô lệ hoá người làm chủ nó.

Nghi ngờ đi với thành thật và đọ lượng sẽ thành khôn ngoan. Có sức mạnh nhưng thiếu tâm hồn sẽ thành hung bạo. Tình dục đi với lề luật sẽ phong phú tình yêu. Tự bản chất, tất cả nó đã được sinh ra trong những liên hệ hài hoà ấy. Khi ta chọn một mà thôi đời sống sẽ nghiêng đổ.

Nhà đạo sĩ thấy nơi ông đi qua mà tiếng nói nhiệm mầu bảo ông là thiên đàng, có gì đặc biệt đâu. Cũng đồng lúa. Mưa và nắng. Có người tát nước bên dòng sông. Bây giờ hiểu ý xâu xa mà tiếng nói nhiệm mầu dạy ông. Thiên đàng, nơi ông đã đi qua đó, bình thường thôi, có em bé rong chơi, có con diều bay. Ý nghĩa của sự bình thường đó là ở đấy không có cưỡng chế độc đoán. Thiên đàng là sự tự do nội tâm. Hoả ngục là tiếp tục cái thú vui độc đoán lúc còn sống, như người mê rượu sẽ suốt ngày đêm phải uống rượu tiếp, người mê nhảy múa sẽ suốt tháng cứ nhảy múa liên miên, kẻ mê tiền thì khi chết rồi không được làm gì cả, cứ đếm tiền hết năm này qua năm nọ.

Nhà đạo sĩ muốn nói cho người môn sinh của ông về thiên đàng là gì, hoả ngục là gì trong cái nhìn suy tư về tự do và độc đoán của đam mê. Đọc kỹ những gì đã viết, ông thấy những suy tư đó cũng chẳng có gì mới. Kinh Thánh đã nói đến rồi. Nhìn lại nững trang chữ viết, ông lại nhớ tới lời Kinh Thánh: “Nếu họ không tin lời  của Maisen và các tiên tri, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu” (Lc 16:31). Điều ấy làm nhà đạo sĩ ngẫm nghĩ là không biết người môn sinh có chấp nhận những điều ông viết, vì lời Kinh Thánh mà nếu người môn sinh không suy tư thì lời ông viết này có ý nghĩa gì.

Ông trầm ngân, phân vân không biết có nên gởi cho người môn sinh những gì ông viết hay là thôi.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 121

Page 122: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 47: Biết ơn

Trả ơn và biết ơn có giống nhau không?

Sắp chết đuối trên biển, có người cứu tôi sống, ơn mà mạ cho tôi đó là sự sống. Như thế, tôi lấy gì tương xứng để trả ơn? Nếu nói trả ơn là những hành động đáp trả bằng vật chất thì có khi người làm ơn quá giàu, họ chẳng cần đến trả ơn của tôi, là vật chất thì có khi người nhận quá nghèo, chẳng có gì để báo đáp. Lại có khi không thể trả ơn được vì không có gì cân xứng với điều mình đã nhận.

Trả ơn là hành động diễn tả tâm tình của người chịu ơn với người cho ơn. Là hành động diễn tả, nó chỉ là biểu tượng cho một thực tại khác sâu xa hơn. Biểu tượng diễn tả bao giờ cũng nghèo nàn hơn thực tại của điều được diễn tả. Tặng người yêu một cánh hồng. Cánh hồng là biểu tượng diễn tả tình yêu. Cánh hồng sẽ héo khô. Như vậy, cánh hồng chỉ là hình ảnh nghèo nàn khi so với chính tình yêu là thực tại ở đằng su nó.

Trong ý nghĩa hành động trả ơn chỉ là để diễn tả lòng biết ơn, thì quả thật, phương tiện diễn tả bao giờ cũng nghèo nàn hơn thực tại được diễn tả. Tuy nhiên, nói lại cần thiết. Không có hành động diễn tả, làm sao biết được thực tại vô hình cần được diễn tả? Thiên Chúa đã làm người có thân xác để con người hiểu được. Ngài cũng đã diễn tả tình yêu thực  tại vô hình bằng nước mắt, bằng cái chết cụ thể để con người cảm nghiệm: “Chúa đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi” (Gal 2”20). Vì thế, lòng biết ơn cần được diễn tả bằng trả ơn.

Làm ơn khác với cho vay nợ. Cho vay nợ thì đòi lại. Làm ơn thì cho đi nhưng không. Nếu người làm ơn không đòi sự trả ơn, thì trả ơn chỉ cần thiết để minh chứng lòng biết ơn cho chính người chịu ơn. Người chịu  ơn cần phải biểu tỏ lòng biết ơn bằng haànhđộng cụ thể để kiểm soát chính mình. Làm sao có thể nói tôi không giúp đỡ? Trả ơn là hy sinh vì phải cho đi phần nào của mình. Cho đi thường gây nuối tiếc. Hỏi lòng mình nuối tiếc nhiều hay ít khi phải cho đi để biết ơn nhiều hay ít.

Có hai thứ chịu ơn, vật chất và tinh thần. Vật chất thì có thể tính bằng con số và đo bằng mức độ, một lượng vàng, một ngàn đồng vv…. Nhưng, con người là hữu thể gồm cả hai, thân xác và linh hồn. Vật chất gắn bó với tinh thần và ảnh hưởng đến nhau. Bởi đó, những ơn ta nhận cho dù là vật chất đo được bằng con số, cũng chẳng đi được khi ảnh hưởng đến tinh thần. Thí dụ, lúc nghèo, có người giúp tôi mười ngàn để ăn học. Khi học thành tài, tôi có thể trả ơn lại số tiền lớn gấp đôi. Nhưng nếu không ai giúp tôi học hành xong, đời tôi chắc chắn sẽ rẽ sang một lối khác. Món tiền chỉ giúp tôi trong mấy năm ngắn ngủi. Nhưng sự giàu có kiến thức tôi thu nhận được qua việc học hành sẽ ảnh hưởng cả đời tôi. Do đấy, tôi chỉ trả ơn xong những gì đã được giúp, còn lại cả đời tôi nhờ sự giúp đỡ ban đầu ấy mà học hành nên làm sao tôi trả được. Vì thế,  trả ơn có thể là xong nhưng biết ơn phải là mãi mãi.

Có những chịu ơn về tinh thần còn sâu thẳm hơn nữa, khó mà định nghĩa rõ ràng để trả ơn. Chẳng hạn một nâng đỡ lúc đời tôi chung quanh chán chường, cô đơn. Trong lúc lạnh lẽo ấy, tôi cần một lửa ấm tình thương nâng đỡ. Dù lửa ấm nâng đỡ ấy có nhỏ đến đâu đi nữa, cũng nhờ có chút ánh sáng đó mà tôi lần mò ra được căn hầm. Lúc tìm được ánh sang rồi, tôi chẳng thể nói rằng tôi trả ơn lại bằng mười ngọn nến cháy sáng là xong. Một ánh lửa trong đêm tối thì giá trị hơn mặt trời khi có ánh sáng. Những nhận ơn về tinh thần thì làm sao trả được, vì thế phải biết ơn mãi.

Kẻ nghĩ rằng chỉ trả ơn là xong, không cần biết ơn nữa, đó là một tâm hồn nghèo nàn. Không biết ơn chằng làm cho người ban ơn ra thiệt thòi mà chỉ làm cho tâm hồn kẻ chịu ơn ra chật hẹp. Vì họ đã lấy hình ảnh biểu tượng để thay thế cho chính thực tại được biểu tượng.

Ai Là Người Tôi Mang Ơn?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 122

Page 123: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Tôi phải biết ơn người và biết ơn Chúa.

Bắt đầu là mầm sống trong bụng mẹ, ngày đó, tôi đã chịu ơn rồi. Tôi vào đời với tiếng khóc như biểu tượng sự yếu đuối và thiếu thốn của tôi gởi tới mẹ và những người xung quanh. Từng dòng sữa. Từng hơi ấm. Lớn lên, từng bàn tay dắt đi. Từng muỗng cơm. Tất cả đời tôi là những chi phiếu chịu ơn. Thầy cô dạy tôi từng mẫu vần a,b. Rời ngôi làng nhỏ, vào đời, tôi cần tình yêu, tôi cần thông cảm, tôi cần tình bạn. Nếu thiếu vắng chúng, đời tôi sẽ buồn lắm. Ai dệt đời mình bằng những liên hệ chịu ơn, thì biết ơn là con đường người ấy phải đi.

Có túng thiếu mới phải chịu ơn. Nhưng túng thiếu cũng có nhiều cấp bậc. Có thứ thiếu ít, có thứ túng nhiều. Có thứ cần nhưng không đến nỗi cần lắm. Có thứ bắt buộc phải có, đấy là sự cần tuyệt đối. Điều cần tuyệt đối này chính là sự sống. Tôi không thể tự ban cho mình sự sống. Hiển nhiên là khi không muốn chết, tôi vẫn chết. Sự sống của tôi, thứ tôi cần tuyệt đối này đã đến từ chính Chúa. Vậy, chịu ơn Chúa là con đường tôi phải đi.

Nói đến trả  ơn, chỉ có thể trả ơn người, chứ không bao giờ trả ơn Chúa được. Hôm nay tôi nghèo, có người giúp tôi. Một thời gian sau, tôi có thể giàu hơn họ, và tôi có dịp trả ơn. Nhưng với Chúa thì bao giờ tôi cũng nghèo, cũng túng thiếu. Chúa chẳng cần gì để tôi có thể trả ơn. Bởi có gì cảu tôi mà không đến từ Chúa. Do đó, tôi chẳng thể trả ơn mà chỉ có thể biết ơn thôi.

Thế Nào Là Biết Ơn Chúa?

Khi cho em bé một món đồ chơi, em thường vội vàng cầm chặt, sung sướng quý mến nó. Đấy chính là lòng biết ơn. Em không thể trả ơn bằng một vật gì. Tôi cũng không chờ đợi em đáp trả vì em chẳng có gì. Thiên Chúa đối với tôi cũng vậy. Tôi chỉ có thể biết ơn Ngài bằng thái độ yêu quý những gì Ngài ban tặng. Tặng vật lớn nhất là sự sống và tiếng kêu mời làm con của Ngài. Bởi đó, tôi phải yêu quý sự sống của tôi, tôi phải yêu tôi, tôi phải yêu đời. Ghét bỏ chính mình, từ chối tiếng kêu mời không phải là sự vô ơn với kẻ ban tặng sao.

Tất cả những gì hiện hữu, vũ trụ và con người đến từ Thiên Chúa. Vì đến từ Chúa, nên những liên hệ giữa vũ trụ và con người, giữa con người với nhau là một hoà điệu Thiên Chúa xếp đặt để con người tham gia vào chương trình lãnh ơn sủng của Ngài mà trao tặng nhau. Tôi chẳng có gì thì những gì tôi giúp kẻ khác cũng chẳng đến từ tôi, nhưng từ một nguyên nhân xâu xa hơn, những gì tôi nhận lãnh từ người khác cũng có một nguyên nhân như thế.

Vì mọi sự tôi nhận từ tha nhân cũng là ơn Chúa, nên lòng biết ơn của tôi đối với tha nhân cũng phải là biết ơn Chúa. Vì tha nhân đã xử dụng dự tự do của mình để trao tặng tôi, cho nên lòng biết ơn của tôi đối với Chúa cũng phải là biết ơn tha nhân.

Sự sống tôi mỏng manh, nghèo nàn, nên  biết ơn là điều quan trọng, nó phải là lối sống của Kitô hữu. Xã hội là gia đình Thiên Chúa, sự biết ơn tha nhân có căn bản bắt nguồn từ biết ơn Thiên Chúa, nên biết ơn nhau cũng có giá trị trong ý nghĩa đường về cứu độ.

 

Lạy Chúa, từ con chẳng có gì thì xin cho con hãy lộng lượng cho đi. Va xin Chúa nhắc nhở con, để biết ơn Chúa, con cũng phải biết ơn người. Và biết ơn người là biết ơn Chúa.

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 48: Yếu đuối

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 123

Page 124: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ai cũng muốn tránh yếu đuối. Ngoài đời sống xã hội, yếu đuối là những tà áo khác nhau mà người ta phải khoác. Có thể là nghèo túng, có thể là cô thân, cô thế, có thể là thiêu khả năng… Nhiều khi vì yếu đuối mà bị khinh rẻ, vì yếu đuối mà bị thiệt thòi. Yếu đuối trong ý nghĩa thiêng liêng là sa ngã vì cám dỗ. Dù yếu đuối dưới phương diện nào đi nữa thì yếu đuối cũng vẫn là những cánh áo không ai muốn mặc. Đáng buồn. Bởi đó, trốn chạy được bao nhiêu thì trốn. Giấu đi những yếu đuối được phần nào hay phần đó.

Vậy mà Phaolô lại bảo: “Nếu cần phải vinh vang thì tôi chỉ vinh vang về sự yếu đuối của tôi thôi” (2Cor 11:30).

Tôi có thể giấu được phần nào yếu đuối, không để lộ cho kẻ khác biết, nhưng tôi không trốn chạy được yếu đuối. Trên đường đi cuộc đời, chỗ nào cũng có yếu đuối. Yếu đuối gặp trong lúc đi đường. Có khi đường đi dẫn đến yếu đuối.

Tôi có thể tránh được phần nào chứ không tránh hết được yếu đuối. Nỗ lực tránh lầm lỗi là tiếng gọi phải theo. Nhưng bất mãn vì không tránh hết được là tự kiêu.

Yếu đuối là một phần bản tính, tìm sự trọn hảo không bao giờ vấp ngã là tìm sự thất vọng. “Này trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi khi mới là thai nhi trong bụng mẹ” (Tv 51:7). Yếu đuối tự trong bản chất của mình rồi, làm sao tôi có thể huỷ bỏ được nó. Chính vậy, không nhìn nhận mình có yếu đuối sẽ rơi vào vực sâu thất vọng, mất niềm cậy trông. Khi đó, tôi là kẻ không nhìn nhận chính mình. Trong ý nghĩa ấy, điều kiện đầu tiên để tìm sự thánh thiện là biết mình yếu đuối, và nhận mình yếu đuối.

Yếu Đuối Trên Đường Theo Chúa

Tội lỗi là kết quả của yếu đuối. Sự chết là tiền công của tội lỗi (Rom 6:23). Bởi đó, yếu đuối, tội lỗi và sự chết đi với nhau. Như lời thánh vịnh, từ thai nhi trong lòng mẹ tôi đã vương tội rồi, vậy làm sao tôi có thể tự cứu mình thoát khỏi vấp ngã vì yếu lòng.

Yếu đuối làm ta lâm vào lầm lỗi, sa ngã, mất giá trị. Nhưng trên đường đi, yếu đuối cũng có thể là điểm hẹn gặp Đức Kitô. “Con Người đến để tìm cứu những gì đã hư đi.” (Lc 19:10).  Nhiều lần Đức Kitô vào dùng cơm trong nhà những kẻ tội lỗi. Trong yếu đuối, quyền năng của Chúa cũng được thể hiện. Chúa không cần sự yếu đuối như điều kiện để tôi gặp Chúa. Không phải để Chúa thể hiện quyền năng thì Ngài cần tôi phải yếu đuối. Nhưng là trong yếu đuối ấy, những gì đổ Ngài có thể chữa lành.

Thấy tình thương của Chúa trong yếu đuối thì yếu đuối sẽ biến đổi. Mất mát do yếu đuối gây nên là một đau khổ, nhưng cảm nghiệm được Chúa yêu thương là hạnh phúc cho mất mát. Yếu đuối gây khổ đau vì mình đánh mất chính mình. Nhưng cũng trong yếu đuối mà Chúa nâng đỡ thì tôi lại gặp được tôi. Có quăng đi của yếu đuối thì có nhặt lại của ơn sủng. Yếu đuối trên đường theo Chúa là yếu đuối hy vọng.

Bất hạnh lớn nhất của yếu đuối là yếu đuối không có Chúa, chứ không phải là tôi không thể tránh được yếu đuối. Trong yếu đuối, tôi  vẫn có thể yêu cuộc đời. “Có cần đến lương y, hẳn không phải là người lành mạnh, mà là kẻ đau ốm” (Mt 9:12).

Yếu Đuối Để Biết Người

Biết mình yếu đuối có khi chỉ đưa đến thất vọng. Biết yếu đuối của mình có khi chỉ là sống trong mặc cảm. Nó là thế giới bất mãn buồn chán. Yếu đuối là những vết đen của cuộc sống, nên có khi càng nhìn, càng thấy cuộc sống tối. Không muốn nhìn mình yếu đuối, mình vẫn yếu đuối. Tại sao Thầy Thượng Phẩm là đại diện cho loài người giao tiếp với Thiên Chúa để dâng lễ đền tội mà không thoát khỏi yếu đuối tư bề?

“ Chính Ngài cũng lâm phải yếu đuối tư bề để Ngài biết thương xót những kẻ u mê lầm lạc. Và vì yếu đuối, thì Ngài cũng phải dâng lễ đền tội cho mình như Ngài dâng lễ cho dân” (Heb 5:2-3).

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 124

Page 125: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Như thế, có thể tránh được yếu đuối không phải bằng cách trốn yếu đuối mà là đối diện.

Yếu đuối mà có Chúa cùng đi thì yếu đuối thành trông cậy. Biết mình yếu đuối mà cậy trông Chúa thì Chúa sẽ đi với tôi trong những phút yếu đuối.

Chính vì yếu đuối nên khi chưa yếu đuối tôi hay quên rằng tôi là người dễ sa ngã. Trong ánh sáng của cầu nguyện, yếu đuối sẽ nhắc nhở tôi về những giây phút tôi nghĩ mình không dễ sa ngã đó. Nhờ yếu đuối nhắc nhở, tôi xót thương những kẻ yếu đuối như tôi. Yếu đuối trong thái độ như vậy sẽ đưa đến hợp nhất.

Ghen tương xẩy đến là vì ai cũng giấu đi sự yếu đuối của mình và đến với nhau bằng sức mạnh. Không nhìn thấy đau khổ đằng sau nụ cười, vì thế mới có ghen tương. Bởi đó, một trái tim bán nhậy với những yếu đuối ẩn náu của tha nhân sẽ cho hồn mình thanh thản, đồng cảm. Đồng cảm là khởi đầu của mọi sự hiệp nhất. Không còn ghen tức nếu tất cả được  yếu đuối nhắc nhở và rồi đến với nhau bằng sự yếu đuối. “Để khỏi sinh lòng kiêu căng về những ơn lạ ấy, Chúa đã đặt một cái dằm trong da thịt tôi, khác nào để một thủ hạ của Satan tát vả tôi, để tôi mất tự kiêu tự đắc” (2Cor 12:7).

Nếu vì yếu đuối của mình mà cho nhau hiệp nhất thì trong yếu đuối ấy tôi gieo trồng sức mạnh.

Yếu Đuối của Phaolô

Phaolô thự thú:

Ba lần tôi xin Chúa cất tôi khỏi cái dằm khổ cực ấy. Song Chúa phán bảo tôi rằng: “Oưn của Thầy đủ để hộ giúp con. Vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trong sự yếu đuối” Bởi vậy, tôi rất vui mừng và tự hào về những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi (2Cor 12:8-9).

Phaolô bảo rằng nếu phải khoe khoang thì Ngài khoe khoang về những yếu đuối:

“Năm lần tôi bị người Do Thái đánh đòn ba mươi chín roi, ba lần bị đánh đòn, một bị ném đá, ba lần bị đắm tầu, và đã phải qua một ngày một đêm chơi vơi trong biển. Tôi còn hơn họ bởi hành trình thường xuyên, gặp bao nguy hiểm vì sông ngòi, nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì người đồng chủng, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, chốn hoang vu, ngoài biển cả, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn lao đao vất vả, bởi thường phải thức đêm, bởi đói khát, bởi nhịn ăn lắm bận, bởi chịu rét mướt trần truồng” (2Cor 11:21-30).

Lạy Chúa, đó là yếu đuối của Phaolô. Có khi con cũng nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì người mình tin tưởng, bị lao đao vất vả, phải thao thức bởi nghèo đói, bởi lo âu, bởi túng thiếu. Mà sao những yếu đuối ấy chỉ là những tiếng thở dài ngán ngẩm cuộc đời.

Suy niệm về sự yếu đuối, con thấy có nhiều thứ yếu đuối khác nhau. Yếu đuối dại dột là không nhận mình yếu đuối. Yếu đuối thiệt thòi ơn thánh là không dám chấp nhận yếu đuối như Chúa. Chúa yếu đuối mới để người ta đánh đón. Chúa yếu đuối mới bị đóng đinh. Làm sao con có được một mất mát hết sức lớn lao. Phaolô dã không chịu để mất sự yếu đuối ấy: “Lại nữa, tôi vui thoả trong các nỗi yếu đuối, trong lăng nhục, trong quẫn bách, trong bắt bớ và cùng khốn vì Đức Kitô. Bởi khi tôi yếu đuối lại chính là lúc tôi dũng mạnh” (2Cor 12:10)

 

 

Lạy Chúa, khi bị lăng nhục, bị hà hiếp mà lại là lúc dũng mạnh, thì khi mình lăng nhục kẻ khác, làm cho kẻ khác phải yếu đuối, chắc chắn không phải là lúc có dũng mạnh trong trái tim mình.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 125

Page 126: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 49 : Tiếng gọi bên rừng thu

Gởi Người Bạn Trẻ

Tôi xa Việt Nam năm 24 tuổi. Quê hương bỏ lại. Bố đi cải tạo. Một mình mẹ nuôi 7 đứa em. Làm người con trưởng, tôi ra đi với nhiều trăn trở. Mẹ và các em ở lại sống ra sao?

Ở tuổi đó, người thanh niên phải có một hướng đi rõ rồi, nhưng hoàn cảnh thay đổi khắc nghiệt làm hướng đi đời tôi băn khoăn hơn. Băn khoăn lớn nhất là không biết Chúa còn tiếp tục gọi tôi đi tu hay không. Chúa không hiện ra để nói rõ cho tôi biết tôi có ơn gọi hay tôi cần phải đổi hướng đi. Tôi tiếc ơn gọi, nhưng tôi băn khoăn về cuộc sống mới của tôi và gia đình. Thời gian thật dài, thật trống trải. Bấy giờ tôi chỉ tin rằng Chúa không bao giờ im lặng mãi. Tôi tin rằng cứ cầu nguyện rồi Chúa sẽ cho biết.

Cho dến một ngày rất mệt, tôi lấy xe lửa từ Tournai xin đến một viện tu để   tĩnh tâm, tu viện Soleimont.

Một chiều mùa thu, gió se lạnh. Tôi ngồi bên bờ đá, chung quanh vắng lặng. Giữa rừng thu có một cây khô trơ cành đã chết tự thủa nào. Tôi thấy cây khô ấy giống như đời tôi. Xa gia đình, xa tất cả. Tự mặc cho mình cánh áo sâud bi ấy, tôi cho đời người khác là rừng thu đẹp kia, còn tôi là gốc cây khô. Khi mình càng vin cho đời mình những hình ảnh sầu não thì cái nhìn về cuộc đời càng bi quan.

Rồi bất chợt, tôi nghe có tiếng chim hót trên cành. Lắng nghe, tôi thấy tiếng chim như cũng se sẽ hót trong hồn tôi.

Trời vừa xong cơn mưa, lá trên cành đọng nước, nhỏ  giọt, làm bày chim ướt cánh. Chúng con thể đậu được. Nhờ cây khô chết không còn lá nên bày chim mới có thể thong thả dừng chân. Nhờ những cành khô ấy mà khu rừng mới có tiếng hót của bày chim. Không ngờ những cành cây khô giữa rừng thu đẹp kia lại cũng có một ơn gọi riêng trong rừng thu ấy.

Nhìn những cành cây khô, tôi cũng lại nghe như chúng đang muốn nói với tôi về ý nghĩa đời nó. Qua hình ảnh cành cây khô là chỗ dừng chân cho đàn chim cất tiếng hót, tôi thấy Chúa muốn tôi về ơn gọi của mình.

Như con nước nhè nhẹ dâng, tôi thấy lòng mình tự do dần dần. Rồi rừng thu cũng nhè nhẹ sang mùa, không phải sang mùa trên lá, trên cỏ cây mà trong hồn tôi. Tôi thấy dấp dáng một sự thong thả, một thứ hạnh phúc rất đơn sơ, nhẹ thôi, nó là sự bình an.

 

Tôi có ơn gọi đi tu không? Qua tiếng hót của bày chim, qua hình ảnh những cành cây lạc lõng, tôi biết lời cầu xin đã được Chúa đáp trả, cảnh cửa im lìm bắt đầu mở, nắng ấm đã dọi trong hồn lạnh sau một thời gian dài.

Trở vào nhà nguyện, tối một mình bên Nhà Chầu, ánh đèn rất ấm cúng thiết tha. Hình ảnh những cành khô giữa mùa thu lá vàng se lạnh và tiếng hót trong khu rừng thu vắng đẹp như một bài thơ nhẹ đọng xuống linh hồn. Nhẹ nhàng mà có sức mạnh thiêng liêng xoá đi hết những muộn phiền phân vân. Linh hồn tôi bình an lạ thường, và ơn gọi đi tu trở nên mãnh liệt hơn lúc nào hết.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 126

Page 127: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Trong lá thư gởi tôi, em hỏi: “Làm sao Cha biết Cha có ơn gọi đi tu?” Tôi hiểu là em cũng đang băn khoăn như tôi thủa nào. Em muốn theo đuổi ơn gọi nhưng phân vân. Tôi lưỡng lự, không biết viết cho em một lời khuyên, hay trả lời em bằng ngôn ngữ sách tu đức. Sau cùng, tôi chọn cách trả lời em như một người đi trước, viết cho em cảm nghiệm của tôi, nhưng bằng ý từ ngôn ngữ thi ca. Bởi, trong hình ảnh thi ca, em có cả một vùng trời sáng tạo để bước vào. Tôi xin gởi em:

Tiếng Gọi Bên Rừng Thu

Có nhiều bài thơ về mùa thu. Người ta hay nói đến mùa thu như những khung trời mang nhiều chia ly. Nhìn cánh lá rơi, gợi một nỗi cách xa. Gió nhẹ thôi mà lá thu cũng giã từ. Cứ nhìn những cánh lá lặng lẽ ra đi, mùa thu sẽ nói với người lữ khách “mùa thu không trở lại”. Có giã từ, nên những tâm tình trong mùa thu hay mang lời ru: “mùa thu đã chết rồi”. Chia ly là định mệnh, con người cũng thế thì cỏ cây cũng vậy, chẳng nên trách mùa thu là khung trời xa cách, là bóng người phân ly. Đối với tôi, mùa thu có chia ly nhưng bao giờ cũng đẹp. Trời thu bao giờ cũng dịu và nhất là khi có tiếng thu thì mùa thu huyền dịu biết bao.

 

 

Kính lạy Đức Vua, như người hành khất, con đến trước cửa nhà Người trong trời thu gió ẩm sương. Lối cỏ ướt. Đường đi yên tĩnh vắng người qua lại. Có phải mùa thu là tiếng thở cuối mệt mỏi của thời gian báo cho người hành khất tìm chỗ trú thân vì gió đông sắp tới? Gió đông lạnh làm cỏ cây khô cứng, nó là một không gian không còn niềm vui, chỉ có im nìn. Nếu so sánh đời một người chỉ có thể ví trong đời người cũng giống như những tháng ngày u ám, đang dẫn dần người đó đến lối chỉ còn là nặng một cõi lòng. Người hành khất bên rừng thu như thế cũng giống như con đường thiêng liêng mà một  linh hồn đang lạnh vì không thấy hơi ấm của niềm tin, không thấy Thượng Đế đâu trong cuộc sống, đang lo âu tương lai. Bấy giờ gió ẩm của sương là nỗi lạnh thâý linh hồn bơ vơ. Trời mù hơi nước là băn khoăn của con đường thiêng liêng không biết phải quyết định làm sao, đâu là lý tưởng, con đường nào phải theo.

Kính lạy Đức Vua, như người hành khất, con đến trước cửa nhà Người kể lể câu chuyện về một mùa thu ẩm lạnh hơi sương. Như Người biết, khi mùa thu đến là gió có heo may, có những cánh chim giang cánh tìm  nắng ấm và có những chuyển màu huyền nhiệm trên sự sống của cỏ cây. Đường thiêng liêng của linh hồn trong thời gian mùa thu cũng vậy, bối rối và u sầu, muốn bay mà cứ chập chừng, muốn tin mà cứ ngờ vực, muốn đi theo tiếng thôi thúc của linh hồn mà cứ phân vân vì không đủ hơi ấm. Người hành khất trong mùa thu cũng thếm biết mình phải vội vã tránh mùa đông mà không biết phải làm gì, cứ dùng dừng cho thấm cảm hơi gió. Đi lẻ loi bên rừng chiều ẩm hơi nước là lúc người hành khất thèm nghỉ ngơi, là lúc người hành khất mơ tưởng được trú thân và bấy giờ, căn nhà của Đức Vua là nỗi khát khao như thế nào trong hồn con.

Kính lạy Đức Vua, khi rừng thu chuyển màu trên cánh lá, mùa thu đẹp lắm, duyên dáng và tình tứ, nhưng Đức Vua nhìn kìa, buồn làm sao giữa một rừng thu mơ màng thế mà lại lẻ loi một thân cây đã khô chết tự thủa nào. Chung quanh nó là màu vàng của lá, màu hường của nắng, là mùa thu đang về. Nhưng với cành cây khô, không còn dáng lá, nó như một ngôi mộ lạc lõng bên bờ đồi. Đời của một người hành khất có như thế chăng? Khi mà chiều xuống, có tiếng trẻ thơ vui đùa giòn giã trong căn nhà ấm cúng, khi mà có yêu thương của vợ chồng bên chiều ấm lửa thì người hành khất bước lên đường một mình. Trong đường thiêng liêng, đấy có là hình ảnh của con khi con thấy Đức Vua như bỏ rơi con trên cuộc sống, chung quanh ai cũng là mùa thu rực màu mà con là thân cây khô chết lạc lõng một mình giữa không gian.

 

Lời Của Rừng Thu

Con yêu mến, nói về mùa thu, Ta cũng muốn nói với con về Tiếng Thu, tiếng gọi của mùa thu là tiếng gọi rất êm, nhẹ như lá thu bay trong đời. Ta biết cành cây khô trong chiều thu, giữa một trời đất rừng

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 127

Page 128: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

thu đang chuyển màu, mà riêng mình nó chơ vơ không còn vương một cánh lá chắc nó sẽ thấy lạc lõng. Và bất cứ người hành khất nào khi đi ngang qua rừng thu ấy, nhìn thấy lẻ loi một thân cây chết như thế cũng sẽ thấy đó là hình ảnh chính đời mình. Giữa một bìa đồi xanh bao la, vàng mênh mông, giữa một rừng thu vi vu tiếng lá mà chỉ có một thân cây chơ vơ ai mà không thấy le loi, khi người hành khất bước lên đường vào những chiều se lạnh, nhìn qua khuông cửa, thấy trong căn nhà người khác là ấm cúng, người hành khất nào cũng nhìn xuống đời mình như kẻ sinh ra dưới vì sao xấu. Đường thiêng liêng của một linh hồn cũng không khác lắm đâu, lúc qua những con đường đêm tối của niềm tin, họ thấy như Thượng Đế bỏ rơi, họ thấy chung quanh ai cũng là người hạnh phúc, trừ riêng mình họ, cô đơn, đau yếu, nghèo túng, sao mà vất vả gian nan, cầu xin mà như không thấy tiếng vọng đáp trả.

Con yêu dấu, Tiếng Thu nhẹ vì là tiếng rì rào của gió, của lá hoa cỏ cây, nên con phải lắng nghe với trái tim của người hành khất đi tìm thi ca, chứ không phải của trái tim người hành khất đi tìm của ăn.

Trong cuộc đời, ai cũng là hành khất, nhưng có nhiều loại hành khất trong đời lắm. Hành khất đi tìm vẻ đẹp, hành khất  đi xin sự hiểu biết, hành khất tình yêu, hành khất tiền bạc, hành khất xin ăn.

Tiếng Thu chỉ nói với con tim hành khất đi tìm lý tưởng, muốn nghe Tiếng Thu, cần con tim hành khất của kẻ chấp nhận làm hành khất như Đức Kitô. Ngài hành khất tình yêu nơi Chúa Cha. Gởi niềm tin trọn  vẹn nơi Đấng sai Ngài đi. Con phải nhìn lại thái độ làm kẻ hành khất của mình.

Con là hành khất đi tìm vẻ đẹp không?

Bên rừng thu ẩm ướt hơi sương, mưa chiều làm cánh thu ướt lá. Con có nghe bày chim buông lời hát vang khu rừng làm cả chiều thu mênh mông? Con có thấy những cánh chim tinh nghịch muốn bay xa, chờn vời với mùa thu trong chiều ấy?Bao nhiêu lần nó muốn rời cành cây khô, đậu xuống những tàn lá xanh màu, xum xuê, nhưng cơn mưa còn ướt sũng, con có thấy những giọt nước mưa trên tàng lá xanh màu kia rơi xuống làm chúng ướt cánh? Con có thấy chúng lại bay về đậu trên nhánh cây khô? Nếu rừng thu không có cành cây khô ấy cho bày chim nghỉ chân thì khu rừng chiều đó im lìm lắm, không có tiếng chim ca. Những cành cây khô ấy không còn dáng lá mùa thu, nhưng nó là chỗ nghỉ chân cho bày chim. Con không thấy rằng nhờ chính cây khô ấy mà bầy chim ráo cánh và đã hát vang khúc nhạc chiều thu hay sao?

Đường thiêng liêng cũng vậy, con có thể là người hành khất trong đời, nhưng là hành khất đi tìm ân sủng hay đi tìm gì?

Con có thể là thân cây khô giữa một rừng cây xanh tươi, nhưng mỗi con người có một ơn gọi, một lối đi mà con không nên so sánh. Khi thấy mình bơ vơ là lúc con cần lắng nghe tiếng nói nhiệm mầu của rừng thu. Khi gió làm rơi những cánh lá mùa thu, cũng như khi đời gởi tới con những nghi ngờ, hoang mang, con dễ nhìn thấy chia lìa, sầu muộn trong hình ảnh mùa thu chết. Nhưng trong cánh lá rơi con có thấy rực lên huy hoàng của màu sắc kỳ diệu?Lúc “mùa thu chết” cũng là lúc lá thu chuyển mầu sự sống nhiệm lạ cho một sự thay đổi vô cùng sinh động trong mùa xuân. Con hãy nghe Tiếng Thu trong tâm hồn một kẻ nghe mùa thu vi vu trong khúc nhạc của bầy chim. Con hãy nhìn đời mình như bến đỗ cho bầy chim dừng chân hát vang. Chính nhờ cành cây khô mà mùa thu mới có tiếng hát, mùa  thu mới thêm lãng mạn thi ca, thì đấy không phải là cành cây khô ấy đã vẽ nên mùa thu không phải bằng màu sắc mà bằng vẻ đẹp thiêng liêng đó sao.

Con yêu dấu, Ta có thể dùng con trong những công trình trong tay Ta. Miễn sao con là kẻ hành khất đi tìm chính Ta.

Ta muốn con là cành cây khô, là mùa thu không có cánh lá thu. Ta không muốn con làn cho khu đồi đẹp vì dáng lá, mà đời con là chỗ dừng chân cho tiếng thu reo. Nếu con thấy nhờ cành cây khô chiều đó cho bầy chim nghỉ chân hát vang mà mùa thu vào thu ca, thì con thấy đời con là một ẩn số trong công trình sáng tạo của Ta. Nếu con nghe Tiếng Thu trong cung cách ấy thì con đã đến trước cửa nhà Ta rồi, mùa đông có đến con cũng không lo vì nhà Ta đã mở cửa chờ con, và trong mùa đông lạnh con có thể thảnh thơi nghe tiếng mùa thu đang trở lại, mùa thu không chết, thu êm đềm và hạnh phúc.

Ta gởi con: Tiếng Gọi Bên Rừng Thu. Đấy không phải là quà tặng cho con đó sao.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 128

Page 129: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

 

Em thân mến, là người tu sĩ trẻ, em đang băn khoăn không biết Chúa có gọi em thật không. Mỗi người có một con đường riêng em ạ, Chúa có cách trả lời riêng cho em vì Chúa biết rõ em. Em đừng so sánh mình với người khác, hãy tin tình yêu Chúa dành riêng cho em. Chúa đã gởi tôi Tiếng Gọi Bên Rừng Thu, tôi cũng xin gởi lại em như một quà tặng. Có thể Chúa trả lời em bằng tiếng gọi trong mùa đông, bằng nắng của mùa hạ, hoặc biết đâu bằng hương sắc mùa xuân.

Em thân mến, như con con sâu bướm, khi thoát xác bay cao, nó là cánh bướm thật đẹp, khi cánh cửa im lìm mở ra, ngoài kia trời xanh lồng lộng sẽ đẹp lắm. Và tôi tin rằng đời em cũng thế, hãy đi theo ơn gọi, nếu có mệt mỏi của niềm tin mù mờ hãy nghĩ đến cánh bướm, đến hy vọng, đến tiếng Chúa đang gọi rất dìu dặt, rất thơ mộng ở chung quanh bước chân em đang đi.

 

Mùa Chay Và Con Sâu Bướm

Đoản khúc 50: Sâu bướm

Sâu đo trên cành cao. Sâu bò ở đất thấp. Không người làm vườn nào mà không ghét sâu. Một sáng ra vườn, thấy lá non bắt đầu héo, có thể trời hanh nắng quá chăng? Người làm vườn tưới nước mát mà hoa cứ héo thêm. Vết thâm cứ đen trên màu da xanh. Cánh lá rơi dần. Người làm vườn thương cành hoa nhiều hơn. Nhưng định mệnh sâu đem đến là sự chết. Mỗi sáng lá cành cứ héo hơn. Hồn người làm vườn cũng theo đó mà khô thêm.

Vết Sâu Đi

Cái gian nan của vết sâu cắn là thế đó. Cành cây chết dần trong nỗi khát khao sự sống. Người ta ghét sâu, tìm cách giết sâu. Sâu khôn ngoan biết thầm lặng. Vết chân sâu đi rất kín đáo. Tiếng kêu của nó rất vô hình. Và ngay màu sắc của sâu cũng khôn ngoan vô lượng. Có loại sâu vàng, có con màu xanh, có loại pha sắc. Sâu biết đo đường dài mà buông chân, biết thích nghi rất tuyệt vơi với mỗi khu vườn nó sống. Lá cây màu gì thì sắc hình của sâu chiều theo màu ấy. Giống như đam mê chiều theo khao khát của những cám dỗ vậy. Vì thế mà người làm vườn khó mà nhìn thấy sâu. Cũng chả mấy ai nhìn rõ nhu cầu lẫn trong đam mê của mình như thế nào đâu nhỉ.

Sâu không ưa ánh sáng mặt trời. Nó giấu mặt đằng sau cánh lá. Cuộc đời mỗi cánh lá có mặt phải và trái. Sâu thích sống trên mặt trái mà thôi. Chờ bóng tối đên, đợi thờ ơ của con người mà sâu âm thầm gỡ lối ra đi, đưa vết chân sâu vào những vùng lá non xanh khác. Đi tìm sâu phải vất vả mới thấy. Phải quay ngược mặt mình trong những thế nhìn không bình thường. Có khi sau một đêm trăng thôi mà cánh lá nào cũng bị sâu gây thương tích. Sâu sợ mặt trời và có sức mạnh tàn phá trong bóng tối. Có thể gọi đó là loại sâu đêm.

Lại còn sâu ngầm dưới đất. Không biết vết chân sâu đi về đâu. Chỉ thấy sự chết. Sâu này tàn phá đau xót lắm. Cũng giống linh hồn và những ẩn kín của một lương tâm gian dối. Nhìn cánh lá bị xâu cắn, xem hoa trái bị vết sâu đi qua, người làm vườn tiếc làm sao. Trái khô khẳng, hoa mất duyên dáng tươi xinh. Và linh hồn có sâu cũng nhạt nhẽo buồn đời dửng dưng. Bởi đó, người làm vườn muốn có hoa thì phải có những cái nhìn nỗ lực hết sức để mà kiểm soát sâu. Phải đề

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 129

Page 130: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

phòng. Phải gìn giữ ngõ lối cổng rào. Và, cách riêng là phải nhìn vào mặt trái của màu xanh cuộc đời những cánh lá trong khu vườn linh hồn.

 

 

Xám Hối

Xám hối của tâm hồn là đi tìm những vết sâu cắn. Không có xám hối nếu không nhìn vào mặt trái của cuộc sống. Những vết sâu cắn, những đường chân sâu đi trong tâm hồn cũng giống vậy. Chúng ẩn dạng mựt sau. Mặt trước có thể là lời kinh, nhưng sau lời kinh ấy có thể là khoe khoang. Mặt trước là công việc bác ái, nhưng mặt sau có thể là dụng ý riêng tư cho những kế hoạch không  ngay lành.

Có sâu thì sớm muộn gì cây cũng chết. Linh hồn mang vết sâu cắn sẽ không hạnh phúc. Có tiếng cười nhưng không bình an. Có điềm nhiên nhưng vẫn bấp bênh lo sợ. Nó giống như loại sâu đo nằm kín dưới lòng đất tối. Có thể gọi rõ hơn cho những vết chân sâu này một định nghĩa, đó là tội. Tội có sức truyền sinh, từ tội này sinh ra tội khác, cũng giống sâu vậy, sâu không ở riêng một mình, một chỗ. Tội thích bóng tối. Tội muốn được giấu kín. Tội tàn phá.

Người làm vườn chờ mặt trời lên mà tìm vết sâu đi. Xám hối là nhờ ơn Chúa mà tìm ra tội lỗi của mình. Tội là xấu. Không có lý do để biện minh cho tội được. Xám hối là nhìn vào thực tại xấu đó mà tiếc nuối. Nếu người làm vườn không đau lòng khi thấy cánh lá bị héo thì sẽ không có chuyện giết sâu. Và thực sự, lúc ấy cũng chẳng định nghĩa được đó là một người làm vườn nữa. Không có dung hoà giữa sâu và sự sống của luống rau thì linh hồn cũng vậy, không có chung sống giữa tội và bình an vui tươi của tâm hồn.

Người làm vườn phải đau lòng trước sự chết của luống rau. Nỗi đau càng sâu thì sự chán ghét loài sâu mới càng cao. Sự chán ghét này là nền tảng xây hy vọng cho một mùa màng kết trái. Bởi đó, nỗi đau là yếu tố cần thiết. Để cho nỗi đau càng sâu thì người làm vườn càng phải kiếm thêm nỗi đau, phải xúi giục mình đau. Người làm vườn có thể tìm kiếm nỗi đau bằng cách nhìn luống rau xanh tươi mà khêu lên lòng xót xa trong mình trên những luống rau đang bị tàn phá. Và nghe thật kỹ tiếng than im lặng của đọn lá đang héo. Tiếng than như một lời kêu, một lời tố cáo đến từ một tác phẩm của chính mình, mà loài sâu kia là thách đố tàn phá nó.

Đối với linh hồn cũng vậy, nỗi đau cần thiết đến độ ta phải cầu xin cho được niềm đau. Thiếu đau đớn sẽ không có sám hối. Đau đớn là thềm cửa bắt đầu của một thay đổi. Một sự thay đổi trong cuộc sống bao giờ cũng có tiếng gọi nhìn rõ hạnh phúc ở tương lai. Đau đớn vì sợ mất hạnh phúc ấy là đòn bẩy bật ta ra khỏi những ngày cũ kỹ. Đấy là lý do tại sao niềm đau rất quya hoá. Phải có hối hận qúa khứ thì mới có hướng vào tương lai. Niềm đau này chính là hối hận đó. Để có hối hận và tiếc nuối, ta phải nhìn vết sâu cắn trong linh hồn, như người làm vườn nhìn lại tháng ngày nặng vai gánh nước, trầy tay rẫy cỏ. Bây giờ hoang vu.

Sâu Trả Nợ Đời

Ngày còn bé, tôi thích bắt bớm. Bướm đẹp. Nắng hạ hanh giòn với bầu trời trong vắt. Bên góc vườn nhỏ, những chú bướm bé con bay nhởn nhơ. Chúng cho bụi xả, khóm gừng một cái duyên mềm mại thanh bình của buổi trưa hè. Nhưng cánh bướm trên cành phượng, trên giàn thiên lý, chúng đẹp làm sao. Màu sắc con nào cũng rực rỡ. Nhờ có bướm mà cánh phượng mới rực và gian thiên lý mới thêm hương. Bướm rủ nhau đi trẩy hội ở đâu mà vui như thế. Bướm cho không gian thinh lặng của tháng hạ thành êm ả. Bướm gieo tung tăng vào thời gian. Vắng cánh bướm, vũ trụ sẽ mất bao vẻ đẹp.

Ngày xưa, tôi chỉ thích bướm vì bướm có nhiều màu sắc. Tôi đâu biết đời bướm ra sao, đâu có hay mỗi con bướm là một cuộc đời rất ly kỳ. Trước khi thành bướm, nó là một con sâu

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 130

Page 131: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

trông ghê gớm. Nó là những cái trứng rơi trên ẩm mốc. Có một thời mà mỗi con bướm là một kẻ thù của hoa. Nó cắn rách những cánh lá non xanh. Vết chân sâu đi tới đâu là ghẻ lở tới đó. Vết sâu cắn của nó là thương tích cho đọn lá đơn sơ. Tội nghiệp biết bao cho những cánh hoa mỏng manh. Trong thời gian làm sâu này, hình dáng của nó sần sù trông ghê rợn. Nó như một thứ ôn dịch của tối tăm.

Hôm nay, nhìn những cánh bướm bay, tôi không còn đuổi bắt bướm như ngày còn bé chỉ thích màu sắc  của bướm nữa. Hiểu lịch sử ly kỳ của nó, tôi thấy bướm càng đẹp hơn xưa nữa. Nét đẹp kín đáo lắm. Không phải cái đẹp bên ngoài mà thôi nhưng là nét đẹp từ cuộc đời của bướm. Nét đẹp từ tháng ngày làm sâu xấu xa và ngày lột cỏ con người cũ thành cánh bướm lộng lẫy duyên sắc. Tôi gọi những ngày làm sâu của bướm là những ngày tội lỗi. Ngày lột vỏ bỏ đi theo tiếng gọi trong bầu trời là phục sinh trong Chúa Kitô.

Tôi hình dung ngày bướm đẹp cho hoa là ngày bướm làm lại cuộc đời. Bướm nuối tiếc những ngày làm sâu đã cắn nát biết bao cánh lá còn non yếu. Bây giờ, bướm đền bù lại bằng buổi sáng, bằng cả buổi chiều chăm chỉ làm đẹp vườn hoa. Tôi thấy hoa và bướm không thể xa nhau. Hoa thương bướm và bướm mà không có hoa thì bơ vơ lạc lõng như thế nào. Chắc là hối hận lắm những ngày làm sâu cắn nát chùm lá xanh non kia, nên bây giờ cứ rộn rã bay, cứ bên hoa mà quấn quýt.

Hôm nay, tôi nhìn bướm như cánh màu chói chang của một mùa xuân xám hối ăn năn tuyệt đẹp. Những ngày làm sâu tàn phá bao nhiêu thì hôm nay chăm chỉ làm đẹp cuộc đời bấy nhiêu. Mỗi cánh bay tùn tăng là bướm muốn nói lên tiếng nói từ  bỏ quá khứ tội lỗi. Mỗi màu sắc khoe nắng là bướm muốn làm rực lời nói xám hối thiết tha.

Hôm nay, tôi yêu loài bướm vì nó như hình ảnh ước mơ cho tâm hồn. Một thủa linh hồn là loài sâu xấu xa. Tương lai mong là cánh bướm trả nợ cho mình và cho đời. Trả nợ của cánh bướm là cho đời duyên sắc, cho hoa bạn đường. Xám hối của bướm là bay trong trời xanh cho xôn xao hồn tuổi thơ, cho đẹp một khung trời, cho ngỏ ý của những hình ảnh thơ mộng yêu thương. Chớ gì linh hồn tôi cũng trả nợ đời và trả nợ mình như thế.

Chắc là hối hận lắm những ngày làm sâu tối tăm, nên bây giờ cứ bay, cứ theo gió mà buông cánh. Tôi muốn nhìn cánh bướm mà mơ cho linh hồn như thế. Chán những ngày ủ dột không có tự do, hối hận cho những ngày luẩn quẩn trong u buồn của tội luỵ, tôi muốn linh hồn là cánh bướm bay trong nắng rực rỡ tự do và bình an rất ấm của Chúa.

Cất Cánh Bay

Cứ mỗi mùa Chay trở lại là một mùa màu tím trải trên bàn thờ. Nhắc nhở xám hối của màu tím mùa Chay là nhắc nhở của cánh bướm. Không phải là máu tím của hoa sim, tím rồi tan theo cuối ngày. Không phải là màu tím của tà áo im lặng mỏng manh. Xám hối của mùa Chay là nhắc nhớ đau đớn thiệt hại mà linh hồn phải chịu vì tội lỗi là những con sâu làm tổ trong linh hồn. Màu tím buồn nhắc tôi nhớ về tiếng thở đau đớn trên thân hình Đức Kitô phải chịu đóng đinh vì tội của tôi. Màu tím buồn nhắc tôi những ngày sâu lặng lẽ và lặng lời trong một thế giới khuất nẻo, cô tịch.

Chúa cho tôi cánh bướm để nói với tôi về ý nghĩa của xám hối. Xám hối không có nghĩa là nhìn về quá khứ rồi ôm giữ quá khứ. Quá khứ đã qua rồi. Khi người con đi hoang trở về trong Phúc Âm Luca, tôi không thấy người cha hỏi rằng nó đã đi những đâu, tiền bạc ngày xưa đem đi tiêu những gì. Người cha im lặng với quá khứ. Người cha hướng đứa con nhìn về tương lai: “Mau mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu” (Lc 15:22). Vâng, tà áo màu của những cánh bướm.

Tôi cần nhìn vào quá khứ để tìm niềm đau. Tôi cần niềm đau để xám hối được trọn vẹn, để rực lên cánh bướm tuyệt sắc, chứ không phải để nhìn về quá khứ với niềm đau chán nản xót xa. Niềm đau vì tội lỗi là niềm đau Chúa muốn nói với tôi qua cánh bướm. Con người dùng lỗi lầm của quá khứ mà chì chiết nhau, rồi tự đay nghiến chính mình. Cánh bướm nói với tôi về Phục Sinh. Những ngày làm sâu xấu bao nhiêu thì xám hối là rực lên niềm vui, làm đẹp cho đời và cho

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 131

Page 132: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

chính mình bấy nhiêu. Cánh bướm luôn bận rộn với nắng, với gió, với hoa. Bướm sẽ chết trong bầu trời xanh ngắt cho duyên sắc bay trên ngàn cánh hoa. Bớm không bay về quá khứ làm sâu nữa. Quá khứ qua rồi. Buồn chán qua rồi. Khi Madalenna đến tìm Chúa bên mồ, bà khóc than buồn bã. Chúa nói với bà: “Sao con lại khóc?” (Yn 20:15). Chúa đã Phục Sinh. Không còn tiếng khóc nữa.

Ngoài kia cánh bướm đang bay. Cuộc đời ở đâu cũng có những cánh bướm. Trời ở đâu cũng rất trong và rất cao. Mùa hạ luôn nôn nao và sẽ rất mênh mông. Chúa muốn nói với tôi :

Con hãy cất cánh bay. Cha muốn con là cánh bướm hạnh phúc bay trong cuộc đời.

Cô Ðơn Và Sự Tự Do(Những Ðoản Khúc Suy Niệm và Cầu Nguyện

của Linh Mục Nguyễn Tầm Thường, SJ.)

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

51. Mùa xuân im lặng trong đôi guốc

52. Phêrô, môn đệ bị mắng

53. Trang hồi ký của tòa giải tội

54. Luyện tội

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 132

Page 133: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

55. Bước chân đon đả

56. Vắng Chúa

57. Ðôi mắt

58. Chiếc áo

59. Ngày tảo mộ

60. Phêrô lỗi phạm

61. Mũi tên và tiếng hót con sơn ca

62. Thiên Chúa Ba Ngôi

63. Ðường đi một mình

64. Lời nguyện của cây đèn chầu

65. Phêrô chối thầy

66. Những đôi chân đau

67. Áng hương lòng

68. Mình Thánh Chúa

69. Lo âu

70. Tâm hồn và nỗi trống vắng

71. Lối đi của con kiến

72. Phêrô trưởng thành

73. Cô đơn và sự tự do

74. Cánh thư Mađalena

75. Cánh hoa trên gành đá

76. Ðền Thờ Phanxicô - Goa

77. Khi Nào Ngày Bắt Ðầu

78. Ðạo Sĩ Sadhu

80. Lời của Chiếc Dây Thừng

86. Tấm Hình Của Mẹ

91. Nhặt Cá

92. Tạ Ơn là Một Tâm Tình

95. Chúc Mừng

96. Ðể Tự Do và Hạnh Phúc hơn

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 133

Page 134: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Ðoản Khúc 51 -

Mùa Xuân Im Lặng Trong Ðôi Guốc 

Con cái đã quên, không còn ai nhớ đến đôi guốc mộc. Sau đám tang của mẹ, mấy người con gom quần áo của bà đốt hết. Riêng đôi guốc gỗ nằm nơi xó tường nên chả người con nào để ý. Mấy tháng, kể từ ngày bà nằm trên giường bệnh, đôi guốc lúc bị đá vào xó tường này, lúc bị đẩy sang góc tối kia, đến độ người nhà không còn để ý nó là đôi guốc của ai.

Từ ngày theo người mẹ đó về nhà, đôi guốc giã từ những tháng ngày thong thả, mơ mộng trên quầy hàng.

* * *

Thủa xưa, khách vào ra, ngắm nghía, nâng niu, chủ hàng chẳng bao giờ để đôi guốc bám bụi. Ðôi guốc chả phải làm gì, sống như thế thật nhàn hạ. Nhưng nếu nghĩ cho cùng, cũng không thiếu nhàm chán, chả có gì mới mẻ trong cuộc sống cả. Ðôi lúc, đôi guốc nghe như có hai tiếng nói thì thầm trong hồn nó. Một là bảo nó cứ nằm yên ở đây cho nhàn hạ, hai là bảo nó hãy bỏ đây xuống đời tìm cho cuộc sống một ý nghĩa.

- Chả nhẽ cứ tiếp tục là đôi guốc nằm trên quầy hàng như thế này mãi sao?

Nó không phải là đồ trang sức, không phải là bức tranh cho người ta ngắm. Có nhàn hạ, nhưng nằm mãi ở đây thế này nó bắt đầu thấy chán, càng ngày càng thấm thía những suy nghĩ về một cõi sống trên những nẻo đường của cuộc đời. Nhưng mỗi khi nhìn đôi guốc dưới chân các bà mẹ, nó lại nghe tiếng nói khác thì thầm: "Vất vả quá!" Có đôi guốc sứt mẻ. Có đôi guốc mòn xác xơ. Ðiều đó làm nó nghĩ ngợi.

Ðời là một chọn lựa. Cứ tiếp tục suốt đời giam mình ở đây hay bước xuống đường để ra đi đây đó? Sau cùng nó quyết định ra đi.

Một trưa xế nắng kia, có người thiếu phụ vào tìm mua đôi guốc. Chủ hàng đem nó ra giới thiệu. Nhìn dáng người thiếu phụ, đôi guốc biết người đàn bà ấy thật thà, nhưng thấy dáng bà có vẻ nghèo. Những người nghèo thường vất vả. Bước chân của người nghèo là bước chân khổ.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 134

Page 135: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Làm thân guốc cho một người nghèo vất vả lắm. Thật thà mà nghèo chắc cũng chả hạnh phúc. Cuộc sống bây giờ chẳng ai quý người nghèo. Càng suy nghĩ, đôi guốc càng lưỡng lự, cứ sợ người đàn bà ấy chọn mua mình.

Nó phân vân không biết có nên theo chân bà ta hay không. Ðời luôn là phải chọn lựa như thế. Vất vả, nghèo mà thật thà, đặc tính của người muốn mua nó có vậy thôi. Ðôi guốc nghĩ thầm: "Ðến lúc muốn ra đi, lại gặp phải người đàn bà nghèo thế này. Hay ta chờ một người đàn bà khác giàu có. Theo chân người giàu sẽ sung sướng hơn?"

Trong lúc nó phân vân, người đàn bà cầm đôi guốc ngắm nghía, cho xuống chân ướm thử. Một làn hương thơm huyền nhiệm toát ra từ đôi chân bụi đường. Ðôi guốc vô cùng kinh ngạc, làm sao điều ấy có thể xảy ra được. Nó đã được nhiều đôi chân đẹp ướm thử mà chưa bao giờ có hiện tượng lạ lùng như thế. Phải là đôi chân dịu dàng mới toát ra vị thanh tao được chứ. Ðôi chân trần của người đàn bà nhà quê mốc thếch. Làm sao đôi chân lấm lem lại có thể toát ra một hương nhân đức kỳ bí được. Nó không ngờ. Ðiều huyền diệu ấy, tiếng lương tâm đôi guốc bảo cho nó biết rõ là đến từ lòng thật thà, bao dung, vất vả hy sinh của người mẹ kia. Bấy giờ, nó hối hận vì quá vội nghi ngờ đánh giá khi nhìn sự nghèo khó bên ngoài. Lòng hối hận ấy làm nó bừng lên một ước ao mãnh liệt là được theo chân bà. Linh tính cho nó biết nơi dấu chân người mẹ này có một thế giới huyền diệu. Nhưng người mẹ băn khoăn đặt nó vào kệ gỗ vì bà không đủ tiền.

Ðôi guốc gỗ mím môi tiếc xót vì từng bị thử dưới bao đôi chân, chưa thấy bước chân nào kỳ lạ như bước chân của người mẹ này. Giữa lúc nó muốn theo chân người đàn bà để khám phá thế giới linh thiêng kỳ bí đó, bà lại không đủ tiền mua nó. Bà tần ngần đặt đôi guốc lại kệ gỗ.

Người chủ hàng chỉ bán rẻ những đôi guốc bị nứt thôi. Ðôi guốc nghĩ thầm: "Hay là ta đánh đổi đời mình thành đôi guốc nứt?" Nếy vậy, còn gì dáng vẻ, vì cả một đời sẽ mang dấu vết nứt đó. Ðôi guốc suy nghĩ quay quắt về một chuyến đi trong đời.

Người đàn bà lại cầm nó trên tay, tiếc vì không đủ tiền. Ðôi guốc giật mình nghĩ rằng đời không có nhiều cơ hội. Nếu bà không đủ tiền mua nó, bao giờ bà sẽ quay lại? Có thể sẽ không bao giờ. Nếu bà đặt nó trở lại quày hàng, biết đâu nó sẽ vĩnh viễn không bao giờ gặp lại bà? Nó lấy hết can đảm theo tiếng gọi thâm sâu của linh hồn, chấp nhận một thương đau cho khởi đầu một chân trời kỳ bí kia đang chờ đón. Nó quyết định chấp nhận đời mình thành đôi guốc nứt. Tức khắc, ngay khi quết định xong, nó nghe như trong linh thiêng có một trận chiến vô hình. Tiếng nói của Bóng Tối gục xuống. Tiếng nói của Ánh Sáng bừng lên. Cũng trong lúc ấy, như chiều cao thập giá đổ xuống, một vết thương xước ra, chạy dài toàn thân. Nó ngất lịm. Thế là nó thành một đôi guốc nứt.

Người đàn bà giơ lên nhìn kỹ. Bà ồ lên một tiếng thở nhẹ, vui mừng vì một khám phá:

- Ông chủ tiệm ơi, nhìn kỹ đi, đôi guốc có vết nứt đầy này.

Người chủ tiệm tiếc rẻ. Ngần ngừ, ông đành bán tống nó đi.

Lúc tỉnh dậy, đôi guốc đã về đến nhà người đàn bà. Bà xoa xoa vết nứt, tìm mũi đinh đóng lại. Một lần nữa, nó đau buốt thân mình. Nhưng trong mỗi nhát búa, nó thấy mùa xuân đang về trên những nhánh gai. Nó bắt đầu cảm thấy ý nghĩa của nước mắt và hạnh phúc. "Tôi sẽ theo chân bà ta đi đâu bây giờ?" Trời đang vào hạ hanh nắng hay cúc vàng nhuộm xuân. Nó hồi hộp tự hỏi.

Ngày hôm sau, ngay chuyến đi đầu tiên nó đã mệt rã rời. Trời xuống tối, bà vẫn chưa về đến nhà. Quẩy gánh nặng trên vai. Con đường cứ dài thăm thẳm, toàn thân mình đau ê ẩm. Ðường đất miền quê sỏi đá gồ ghề, ngay chân bà cũng trượt té trầy da huống chi đôi guốc. Nó bị nện xuống gập ghềnh. Như vậy mà đã từ bao lâu nay người mẹ này cứ bước chân không, nghĩ đến

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 135

Page 136: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

nỗi đau, nó thấy xót xa cho bà. Nhìn xuống nỗi đau của mình, nó muốn chia sẻ với bà nỗi đau kia. Lạ lùng quá, khi mới chợt có ý nghĩ ấy, nó thấy toàn thân nóng bừng, và trên nỗi đau nó thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh.

Qua một buổi chiều mà đôi guốc đã khám phá bao nhiêu bí mật đời sống dưới bàn chân một người mẹ:

- Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm có thể bay ngược chiều gió.

- Chịu đựng bao giờ cũng cho tâm hồn nét đẹp cao thượng.

- Gánh nặng vì tình yêu luôn luôn đi đôi với sức mạnh.

- Thật thà là mật ngọt nuôi dưỡng bình an.

- Nhẫn nại là những đường may nối dài tình thương.

Quá mệt, đôi guốc ngủ thiêm thiếp lúc nào không hay. Lúc ướt lạnh, nó co người rùng mình thì người mẹ đã đang ở bờ giếng kéo nước đổ vào nồi cám nấu cho heo. Ðôi guốc bàng hoàng không biết trời đang vào khuya hay đã về sáng. Chung quanh chỉ là đêm tối lần mò. Nó lắng nghe bước chân. Người mẹ hết quanh quẩn trong góc bếp lại ra cầu ao. Khuya thế này rồi sao bà không nghỉ ngơi? Ðôi guốc mệt đừ.

* * *

Thời gian thấm thoát thoi đưa. Thoát chốc đã đến ngày đôi guốc mòn quá rồi. Bây giờ nó không còn là hình dạng đôi guốc ngày xưa trong cửa hàng nữa. Xấu xí, lem luốc, nứt nẻ. Nhìn lại quãng đời, đôi guốc không thể biết được nó đã bước bao nhiêu đường dài. Nếu mỗi ngày bà mẹ quẩy gánh 10 cây số, thì 365 ngày một năm, đã trên 3 ngàn cây số rồi. Trời ơi! Ðôi guốc không ngờ nó đã đồng hành với bà trên một dặm đường dài hơn cả đất nước của người đàn bà như thế.

Ðôi guốc không hiểu sao nó có sức chịu đựng trung thành theo chân bà. Nó còn nhớ ngày xưa nằm trên quầy tủ cửa hàng, mới chỉ nghĩ đến ra đi đã ngao ngán quá rồi. Vậy đâu là sức mạnh? Gần đến cuối đời, đôi guốc nhìn lại những bến bờ đã đi qua, nó thấy cộng lại những cây số ngàn ấy, không bước chân nào của bà mẹ không có tình thương. Từ sớm tinh mơ đến tan chợ chiều, bà vất vả cũng vì các con mà thôi. Từ đó, đôi guốc khám phá ra khi nó được chia sẻ đời nó trong tình yêu, tình yêu cho nó sức mạnh. Bất cứ nơi nào có tình yêu thì có sức sống. Bất cứ gỗ đá nào chạm vào tình yêu cũng thành trái tim mềm mại thiết tha. Và nó hiểu, nó không đi tìm mùa xuân vì chính nó đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.

* * *

Thưa mẹ, con còn nhớ một đêm kia, khuya quá khuya, mẹ ngồi bên con, nhìn con trong cơn sốt. Làm sao mẹ có đôi đũa thần của bà tiên quyền phép làm cho con hết cơn đau. Mẹ cứ ngồi bên con vậy thôi. Mẹ không an lòng rời xa con. Me đặt tay lên trán con chờ mong từng giây cho con hết bệnh. Muốn uống một ly sữa, con chỉ cần đưa chiếc ly lên miệng uống là xong. Bây giờ nhìn lại, con thấy đêm đó, khi chợt nghe con muốn một ly sữa, mẹ vội thắp thêm đèn, chiếc đèn dầu con tù mù, lệch kệch ra sau vườn kéo gầu nước, nhóm bếp củi mù than đun nước. Mẹ hối hả không ngại ngùng gõ cửa hàng vào những giờ người ta không muốn thức giấc để mua, hòa cho con một ly sữa.

* * *

Sau khi bà mẹ chết, đôi guốc nằm im lặng nơi góc tường tối. Không người con nào để ý. Nó âm thầm một đời theo chân người mẹ, hy sinh, vất vả, chịu đựng. Lúc người mẹ còn sống, đôi

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 136

Page 137: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

guốc đã âm thầm như thế. Bây giờ bà chết rồi, nó vẫn tiếp tục cái âm thầm của bao tháng ngày về trước. Chẳng lẽ bất cứ điều gì liên quan tới mẹ đều lặng lẽ như thế sao?

Tình yêu của những người mẹ dường như bao giờ cũng âm thầm. Xin những người con hãy khuya động tình yêu âm thầm ấy của mẹ bằng một cánh hoa linh hồn.

Kìa, ngoài kia đất trời đã đang chuyển mình tìm mùa xuân.

Lạy Chúa, con cũng đang đi tìm mùa xuân cho cuộc đời. Chân đi trong đời để tìm mùa xuân nhiều khi rất đau. Và bây giờ con hiểu, con nhớ tới đôi guốc của mẹ con.

 

- Ðoản Khúc 52 -

Phêrô Môn Ðệ Bị Mắng 

Gom nhặt những đoạn Phúc Âm nói về phêrô, ta thấy một mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.

Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin! (Mt 14:31). Lần thứ hai: Ngu tối! (Mt 15:16). Lần thứ ba: Satan! (Mc 8:33).

Không biết sau khi Phêrô được Chúa gọi ở biển hồ (Mt 4:18) bao lâu, mấy tuần, mấy tháng thì chuyện xảy ra. Chuyện đầu tiên được Phúc Âm ghi nhận là Phêrô bị mắng.

 Mắng lần thứ nhất:

Ðêm đó, Chúa hiện đến, đi trên biển. Chưa ai đi trên biển bao giờ. Các môn đệ hoảng hốt la lớn: "Ma! Ma!" Chúa bảo không phải ma, là Chúa. Nghe thì biết vậy chứ làm sao tin được? Các môn đệ bán tín bán nghi, không biết Chúa thật hay ma. Phêrô là kẻ thách đố bóng người đi trên biển ấy:

- Nếu là Chúa thật, truyền cho tôi đi trên mặt nước xem sao!

Bóng người ấy truyền cho Phêrô:

- Hãy đến!

Phêrô liền bước xuống biển, đi. Giả sử không phải Chúa, ma đánh lừa thì cái gì xảy đến cho ông? Chắc chắn ông bị chìm xuống biển ngay. Theo thói thường của kẻ cân nhắc trước sau, ông không nên làm thế. Nên xin một dấu lạ nào khác không nguy hiểm đến mình có phải là khôn ngoan hơn không.

Nghe bóng người ấy nói: "Hãy đến!" Sao ông không dè dặt đặt vấn đề: "Chúa thật hay ma?" Giơ chân đạp thử xem nước cứng không đã. Chả biết lúc đó ông nghĩ thế nào, ông nhảy xuống nước ngay. Theo Tin Mừng thuật, ông đã đi được trên biển. Ði được rồi, lúc ấy ông phải xác quyết đây không phải là ma, là Thầy chứ. Sự thật đã rõ, ông phải chắc ăn chứ. Nhưng chung cuộc cho thấy ông đã chìm. Cách hành xử ấy cho ta cảm tưởng ông hành động ào ào, không suy

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 137

Page 138: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

nghĩ là bao. Thấy mình đang lênh đênh trên nước ông mới giật mình kinh hoàng. Và rất rõ, Chúa mắng: Quân yếu tin.

Sau khi bỏ chài lưới theo Chúa, hình ảnh đầu tiên ghi nhận được mối liên hệ giữa Chúa và Phêrô là trận mắng trên đây. Trận mắng thứ nhất vừa xảy ra, hình ảnh thứ hai lại một trận mắng khác: Ngu tối!

 Mắng lần thứ hai:

Thầy trò đang đi thì gặp nhóm Pharisiêu. Hai bên tranh luận với nhau. Pharisiêu trách sao các môn đệ không rửa tay theo tập tục truyền thống trước khi ăn. Pharisiêu đã nhiều lần dựa vào lề luật tìm cách bắt bẻ các môn đệ. Họ lấy cớ trọng lề luật chứ lòng họ có một ý đồ khác. Chúa không chấp nhận lối giả dối đó. Ngài nói: "Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế" (Mt 15:11). Chúa ám chỉ tâm địa trong lòng xác định tốt xấu chứ không phải hình thức tập tục ăn uống bên ngoài. Các môn đệ hiểu ý Chúa muốn nói gì nên mới nói với Chúa:

- Thưa Thầy, Thầy có biết, Thầy nói vậy làm những người Pharisiêu khó chịu lắm đó.

Các môn đệ hiểu Chúa có ý ám chỉ gì nên mới nói với Chúa như vậy. Nhưng trong nhóm có người hỏi:

- Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn kia cho chúng con!

Không hiểu, mới xin như vậy chứ. Và Chúa đã mắng:

- Ðến bây giờ rồi anh em còn ngu tối vậy sao! (Mt 15:15-16). Người bị mắng đó là Phêrô! Một chi tiết trong lời mắng này, Chúa mắng "đến bây giờ rồi mà còn ngu tối vậy sao". Cụm từ "đến bây giờ rồi" cho ta cảm tưởng là đã hoài công dạy dỗ mà vẫn không khá. Nghĩa là chậm hiểu lắm, cho đến bây giờ rồi mà vẫn còn chậm như thế.

 Mắng lần thứ ba:

Về đức tin, lần thư nhất Chúa mắng quân yếu tin! Lần thứ hai bị mắng trí khôn chậm hiểu. Cả hai lần mắng đều xảy ra công khai. Chúa mắng Phêrô trước mặt mọi người. Bây giờ Chúa mắng tiếp lần thứ ba. Lần này mắng một cách thê thảm. Chúa bảo Phêrô là Satan!

Lần mắng thứ ba này xảy ra trên đường về Jêrusalem. Xét theo thời gian, lúc này vào năm thứ ba, khoảng cuối đời rao giảng của Chúa. Như vậy là Phêrô theo Chúa đã được ba năm. Theo ba năm rồi mà chưa thấy khấm khá gì.

Cuộc đời rao giảng Nước Trời của Chúa rất khác quan niệm người đương thời. Chúa không mua đất lập đền thờ. Không tổ chức bầu ban chấp hành trong cộng đoàn tông đồ. Các môn đệ không có huy hiệu. Họ không có áo đồng phục. Không thấy gì là dấu hiệu sắp có vương quốc.

Theo Chúa gần ba năm rồi, ghe thuyền đã bán, đất đai bỏ lại sau lưng. Ai mà không sốt ruột băn khoăn. Các môn đệ đôi khi cũng nghĩ tới giấc mơ ngày Thầy mình lập vương quốc. Nhưng bao giờ? Theo mãi thế này ư? Có đám đông đã bỏ. Băn khoăn trong giấc mơ ấy, các ông hỏi nhau:

- Ai là người lớn nhất trong vương quốc này?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 138

Page 139: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Bằng chứng là Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến xin Chúa một ghế bên tả, một ghế bên hữu (Mc 10:37). Như vậy họ đã để ý đến các chức tước. Họ hy vọng bổng lộc quyền thế. Theo ngôn ngữ hôm nay thì ai chủ tịch? Ai phó chủ tịch?

Có điều ta thấy, họ chỉ nói riêng với nhau. Không ai dám đến hỏi Chúa. Riêng Phêrô, ông nhìn lại đã theo ba năm rồi mà chưa thấy gì. Ông là người duy nhất dám trực tiếp chất vấn Chúa:

- Thưa Thầy, chúng tôi bỏ mọi sự mà theo Thầy thì được cái gì? (Mt 19:27).

Ðức Kitô trả lời:

- Phàm ai bỏ cha mẹ anh em, vì danh Ta thì được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp" (Mt 19:29).

Câu trả lời thật rõ. Thế là Phêrô chắc ăn! sẽ được gấp bội! Nói cách khác, câu trả lời ấy như lời khuyến khích đừng nản, cứ theo đi!

Vừa trả lời thế được ít bữa, bất ngờ một hôm trên đường chiều, Tin Mừng Máccô tường thuật bằng ngôn ngữ chính xác, lần này Chúa "nói rõ" điều đó. Chúa không dùng dụ ngôn, nhưng nói rõ cho dễ hiểu. Máccô viết: "Rồi Ngài dạy cho các ông biết về Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Ngài nói rõ điều đó không úp mở" (Mc 8:31-32).

Ơ hay! Thầy vừa mới hứa ai theo Thầy sẽ được gấp trăm ngay đời này cơ mà! Sao bây giờ lại có chuyện Thầy bị chết là làm sao? Như vậy chúng tôi mất hết à? Phêrô không thể hiểu. Lần này không thắc mắc, không hỏi Chúa nữa, ông "kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Người" (Mc 8:32).

Máccô tường thuật chính xác trong ngôn ngữ rất ý nghĩa là Phêrô "kéo" Chúa ra và "trách" Chúa! Ta hãy tìm ý nghĩa trong hai động từ "kéo" và "trách" này. Kéo là hành động bắt người khác về phía mình. Trách là hành vi diễn tả người khác sai, mình đúng. Mạnh hơn nữa, động từ trách diễn tả một uy quyền. Ðộng từ kéo diễn tả một thái độ không cho người đối diện tự do chọn lựa. Hai động từ ấy phiên dịch thái độ của Phêrô là ý của ông đúng. Chúa hãy làm theo ý ông.

Trong vai chủ động đó, Phêrô cho rằng suy nghĩ của ông là đúng. Chúa không nên suy nghĩ kiểu đó. Như thế, Phêrô đã đổi hướng con đường Ðức Kitô phải đi sang một hướng khác. Cái ý nghĩa sâu xa của hành động kéo và trách nằm ở chỗ này. Nằm ở chỗ là thay đổi lý tưởng, thay đổi đường đi của Ðức Kitô.

Hành động của Phêrô không phải là lời cám dỗ mà là nhảy vào cuộc một cách tàn bạo. Nó không nhẹ như lúc ma quỷ cám dỗ Chúa trong sa mạc. Lúc đó ma quỷ chỉ cám dỗ chứ không dàm cản ngăn. Phêrô không cám dỗ mà Phêrô cản ngăn. Vì thế, lời mắng của Ðức Kitô là một lời kháng cự rất mạnh: Satan!

Ðọc Phúc Âm đến đây, ta thấy càng ngày Chúa càng mắng Phêrô nặng hơn. Ðến cuối đời còn mắng thêm một lần nữa.

Chuyện xảy ra, lúc các thượng tế, binh lính cùng gậy gộc đến bắt Chúa trong vườn Cây Dầu, Phêrô đã rút gươm. Nhưng Chúa trả lời hành động ấy:

- Hãy xỏ gươm vào vỏ, ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Hay ngươi tưởng Ta không thể cầu cứu với Cha Ta cấp cho Ta ngay mười hai cơ binh thiên thần sao? (Mt 26:52).

Nhìn lại đời Phêrô, Chúa mắng nhiều hơn khen. Dường như chẳng khen lần nào. Có lần Chúa hỏi các môn đệ nghĩ Chúa là ai. Ngày đó Phêrô tuyên tín rất hay: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Nhưng ngay sau đó Chúa nói: "Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy,

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 139

Page 140: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ðấng ngự trên trời" (Mt 16:16-17). Như vậy là Thần Khí Chúa nói, nếu không do Thần Khí mà để tự mình Phêrô thì không biết ông sẽ nói Chúa là ai!

Cũng có lần ông nói lung tung. Lần Chúa biến hình trên núi Tabor. Thấy quyền uy sáng láng, ông vội nói với Chúa:

- Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, Thầy một cái, ông Môisê một cái, và ông Êlia một cái.

Ngay sau câu nói ấy, Máccô viết tiếp, cũng bằng một ngôn ngữ chính xác rất ý nghĩa. Ngài tường thuật chi tiết như sau: "Thực ra ông không biết phải nói gì vì ông kinh hoàng" (Mc 9:6). Như thế, chỉ vì kinh hoàng mà nói, chứ chẳng biết mình nói gì! Nước không có, gạo củi cũng không, tự dưng dựng ba cái lều trên đỉnh núi, lấy gì ăn!

Kẻ theo Ðức Kitô bị mắng nhiều hơn khen. Lần nào Chúa cũng mắng Phêrô trước đám đông. Có hai điều đáng lưu tâm về những lời Kinh Thánh tường thuật con người Phêrô qua một đời bị mắng này:

- Thứ nhất, Phêrô kém như thế tại sao Chúa không sa thải?

- Thứ hai, bị mắng nhiều như thế, tại sao Phêrô không giận mà bỏ Ðức Kitô?

- Ðoản Khúc 53 -

Trang Hồi Ký của Toà Giải Tội 

Ngày 10 tháng 6 năm...

Tôi là một tòa giải tội bằng gỗ. Tôi đứng ở đây lâu lắm rồi. Năm tháng đi qua với dòng đời đổi thay, tôi đứng đây nhìn cuộc đời. Trải qua mấy thế hệ, những người cùng thời với tôi đã từ giã cõi đời từ lâu. Thế hệ này sang thế hệ khác, tôi chứng kiến những đổi thay trong cái họ đạo này. Ðời tôi là vô vàn những trang hồi ký.

Cuộc gặp gỡ nào cũng là một lịch sử. Biến cố nào cũng có ý nghĩa. Dòng chữ tôi đang viết đây là một mẩu ngắn trong dòng thời gian đó. Chuyện hai con chuột nhắt nói với nhau. Câu chuyện của chúng nó có liên quan về tôi.

Con chuột cạnh bờ tường lên tiếng:

- Kỳ này mày có khỏe không?

Con kia trả lời:

- Nhức đầu quá!

Chúng tiếp tục câu chuyện. Tôi là tòa giải tội, tôi lắng nghe. Con cạnh bờ tường nói:

- Tao cũng nhức đầu quá.

- Tại sao vậy?

- Nhà tao ở, suốt đêm lúc nào cũng karao ôkê!

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 140

Page 141: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Khu chung cư của tao thì chúng ồn ào, ôi thôi là ồn ào. Hết đám con nít khóc, lại đến người lớn cãi nhau. Chán mớ đời!

- Thế trước đó mày ở đâu?

- Tao đổi nhà bao nhiêu lần rồi, chỗ nào cũng chỉ được vài hôm.

Con chuột phía bên kia cúi xuống gặm chân. Miếng báo cũ nó tha về đã trải gọn gàng. Nó thở dài rồi lại tiếp tục câu chuyện:

- Cuộc sống hôm nay phức tạp quá, suốt ngày ồn ào. Người lớn cũng vậy, con nít cũng thế, chúng không bao giờ biết thinh lặng. Tao tìm hết nhà này đến nhà kia, chỗ nào cũng rứa. Khó ngủ quá. Tao từng ở ngoài chợ, rồi kho hàng, nhà chùa, rồi nhà thờ, bây giờ thì ở gầm cái tòa giải tội này.

- Mày nghĩ chúng ta sẽ được yên thân nơi này không hay cũng bị mất ngủ?

Tôi chưa viết về sự cố vì sao hai con chuột nhắt này lại gặp nhau ở đây. Bắt đầu là thế này. Ngày xửa ngày xưa ở cái tòa giải tội này, tôi lúc nào cũng bận rộn đón người qua lại. Sáng, chiều, có một cha già, chẳng mấy khi không ngồi ở đây đón tín đồ. Lúc ấy khác bây giờ lắm, nhà thờ vang câu kinh, người lớn, con nít, ôi thôi đủ là hát xướng, vui ơi là vui! Hồi ấy người ta sốt sắng đạo đức, chiều kinh tối, sáng thánh lễ, lúc nào cũng có người ra vào tòa giải tội. Thế rồi từ từ lòng người thay đổi, cha già chết đi. Những người cùng thế hệ tôi cũng vậy. Sau cùng, tôi là chiếc tòa giải tội vắng khách. Mạng nhện giăng đầy. Bụi bắt đầu mờ. Chả thấy ai quét bụi nữa. Tôi là tòa giải tội đứng buồn hiu như một chợ chiều không còn người. Nghĩ mà nhớ những ngày tháng xa xưa. Tôi chả quên được dĩ vãng nhiều kỷ niệm ấy.

Rồi một con chuột già đi ngang qua, thấy yên tĩnh lạ thường, nó dừng lại đôi ngày rồi khám phá ra cái không gian chẳng bóng người qua lại này. Sau cùng, nó vô cùng thích thú chọn nơi đây làm quê hương dưỡng già, ngủ ngon giấc. Yên tĩnh lắm. Con chuột ấy thế mà tinh khôn. Nó chui vào đây ở thảnh thơi cho đến ngày biết sắp qua đời, nó nhường lại khu vực êm ả cho hai con chuột nhắt.

Hai con chuột nhắt nói chuyện lúc nãy mới dọn vào đây đấy. Chúng còn ngỡ ngàng lắm. Thôi, bây giờ tôi kể tiếp về hai con chuột nhắt nói với nhau:

- Ừa, tao nghĩ nơi đây sẽ yên tĩnh và chúng ta sẽ ngủ ngon!

- Sẽ không bị bước chân người quấy phá như ở ngoài đời!

- Ðoản Khúc 58 -

Chiếc Áo 

Sau khi ăn trái táo, Evà thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân (Stk. 3:1-7). Trong hình ảnh này, tội liên hệ tới áo che thân.

* * *

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 141

Page 142: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Những chiếc áo

Nhiều người tạo giá trị đời mình bằng cách sắm sửa quần áo đắt tiền. Nhiều kẻ đánh giá sai một người cũng chỉ vì áo quần người đó che thân.

Nhiều lần Chúa khó chịu vì các thầy tư tế thích trang phục cho mình những áo tua rộng, ngồi chỗ nhất trong hội đường. Có "Áo tua rộng", khuynh hướng tự nhiên là thích "ngồi chỗ nhất trong hội đường" để được chú ý. Bằng ấy năm theo Chúa, chẳng thấy Chúa may cho các môn đệ lấy bộ áo đồng phục. Chúa cứ bảo dấu hiệu người ta nhận ra các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau. Bây giờ thì khác, giáo phái nào cũng có đồng phục. Ðoàn thể nào cũng thích có áo đồng phục. Không có đồng phục, sợ rằng người ta không nhận ra mình là ai.

Bác ái vô hình quá, chứng nhân bằng bác ái khó hơn làm nhân chứng bằng manh áo. Ðối với manh áo, cứ có tiền là sắm được. Cứ mặc lên là xong, người ta nhìn thấy ngay. Có khi càng có đồng phục đẹp, càng nghĩ mình là chứng nhân trung thực. Có khi càng nghèo nhân đức càng cần tấm áo thật đẹp. Chứng nhân bằng bác ái khó lắm.

Cả đời Ðức Kitô, có một lần Phúc Âm nhắc đến áo, lại là lần mất áo. "Chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau" (Mt.27:35).

Chúa lấy nghèo khó, làm nhân chứng lòng thương xót.

Lấy can đảm, cắt nghĩa sự quý trọng chân lý.

Lấy đau khổ, diễn giải lòng trung thành.

Chúa không lấy tấm áo làm biểu hiệu chứng nhân. Biết đâu những tấm áo tôi mặc hôm nay chẳng làm tôi thành nhân chứng mà chỉ là tấm áo ẩn náu, che đi những yếu đuối vì tôi không có khả năng làm chứng nhân.

* * *

Có tội, Ađam - Evà mới tìm áo che thân. Như vậy, áo che thân cũng là áo che tội. Theo câu chuyện thiếu áo che thân của nguyên tổ trong địa đàng thủa xưa, áo và tội liên quan với nhau. Biết đâu, hôm nay cũng có những tấm áo chỉ để làm nổi bật sự quan trọng mà thực sự họ chẳng có. Hoặc để che đi những gì họ có mà chẳng tốt lành.

* * *

Người nghèo thường phải mặc áo rách. Kẻ nghèo hơn nữa thì không có áo. Hình ảnh những nô lệ, không thấy họ mặc áo. Nghèo là sự trần trụi của con người. Ai cũng cần tấm áo để che đi cái trần trụi ấy. Cái áo làm đẹp con người. Thiếu áo, khổ thật. Nó là dấu chỉ của thấp hèn, của túng thiếu. Chả ai muốn nghèo.

Ở quê hương tôi có nhiều người thiếu áo. Có những bà mẹ lam lũ mà không sắm được cho con tấm áo vào ngày đầu năm. Dì tôi ngồi ở hiên nhà nhặt những hạt đậu sâu. Bàn tay đen sậm, cáu ghét vì đồng áng lam lũ. Nắng hầm hập trên mái tôn thấp. Những sợi tóc muốu tiêu vương vãi trên lưng áo im lặng. Tôi nhìn chiếc áo, áo của dì rách quá. Cái áo ấy không bằng chiếc giẻ lau ở đây. Cũng là con người, nhưng hai miền đất, hai hạnh phúc khác nhau. Tôi ở một nơi rất xa nơi dì tôi ở. Sự giàu có ở đây làm tôi khó nhớ tới những manh áo rách nơi đó.

Nếu Evà vì tội phải cần tấm áo che thân, thì mỗi manh áo tôi che trên mình đều có ý nghĩa. Manh áo ấy có nhắc tôi về tội tôi đang giấu giếm? Những tương quan của manh áo này với manh áo nọ trong cuộc đời chắc hẳn cũng có những ý nghĩa. Ðâu là ý nghĩa chiếc áo của những người nghèo như dì tôi đang mặc? Nó liên hệ thế nào với chiếc áo của tôi nơi phương trời này trong thân thể Chúa Kitô, nơi mọi người đều là anh em?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 142

Page 143: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

* * *

Chiếc áo đẹp nhất

Câu chuyện người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca kể rằng: Anh ta còn ở đàng xa, người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh, hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa..." Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ: "Mau mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu..." (Lc. 15:20-22).

Bỏ nhà, anh ta phải đem những áo tốt nhất đi theo. Vậy sao lại còn cái "áo đẹp nhất"? Dựa theo mạch văn của bài tường thuật, ta có thể biết được nguồn gốc của cái áo ấy.

Người cha sai đầy tớ về bắt con bê đã "vỗ béo" ăn mừng. Theo bản văn, không phải bắt con "bê béo" mà con bê đã "vỗ béo". Bê đã "vỗ béo" khác con "bê béo". Vỗ béo là con bê đã được săn sóc cách riêng cho béo. Nó là con bê được nuôi nấng từ lâu cho một mục đích chờ sẵn.

Bắt con bê béo làm tiệc cũng là quý rồi, nhưng việc ấy chỉ nói lên phần đãi ngộ khi người con trở về. Còn con bê "vỗ béo" là đãi ngộ ngay khi người con chưa trở về. Có nghĩa là khi còn trong tội lỗi, người cha đã cưu mang một lòng bao dung thương nhớ con mình. Chưa trở về đã đãi ngộ bằng sửa soạn một con bê. Hai điều đó khác nhau, diễn tả hai ý nghĩa rất khác biệt.

Nếu người cha nuôi con bê cách riêng cho béo, hy vọng là có ngày người con về, thì chiếc áo kia hẳn phải là áo ông may sẵn.

Ra đi, nó không để lại những đôi giầy quý, bỏ lại những cái áo hảo hạng. Lúc ông bảo đầy tớ về lấy áo, người đầy tớ không thắc mắc chiếc áo nào, áo của ai, không thắc mắc áo của người anh hay áo của chính ông chủ, người đầy tớ hiểu đích xác chiếc áo nào. Qua cách truyền lệnh ấy, dường như giữa người đầy tớ và ông cha già đã có những lần nói chuyện về cái áo và mục đích của nó để làm gì. Bởi thế, khi nói lấy chiếc áo đẹp nhất, người đầy tớ không cần hỏi han chi, họ biết ngay áo nào rồi.

* * *

Sau khi bảo đầy tớ về bắt bê đã vỗ béo ăn mừng, Phúc Âm Luca kết luận: "Vì con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy" (Lc. 15:24). Lời kết luận trên đây nói về một cuộc sống mới, về bình minh của phục sinh. Sự phục sinh là chiếc áo mới. Không phải đợi con về mới có chiếc áo mới. Chiếc áo ấy đã may sẵn. Như thế, trong lúc tôi phạm tội, khi tôi trong bóng tối sự chết, Chúa đã gieo mầm phục sinh cho tôi.

Lạy Chúa, nói chiếc "áo đẹp nhất", con muốn hiểu không phải đẹp trong ý nghĩa tơ lụa, mà là ngày tháng nối những ngày tháng, người cha cứ nghĩ đến đứa con. Ông nhớ nó trong những đường may nối những đường may. Con muốn hiểu tình thương của Chúa trong chiều sâu đó.

Ngày xưa, trưa hè vắng, mẹ ngồi vá áo cho con. Ngón tay mẹ đưa những mũi chỉ. Tuổi thơ chỉ thích nô đùa làm rách áo. Nhìn lại tháng ngày thơ bé ấy, bây giờ con biết mỗi mũi chỉ là mỗi tình thương. Với cái chết khổ nạn, Chúa may áo mới cho con. Biết công ơn của mẹ thì nay đã xa, con muốn cầu nguyện báo hiếu cho những ngày tuổi thơ ấy.

* * *

Lạy Chúa, con muốn gìn giữ chiếc áo cứu rỗi Chúa ban cho con. Tiếc làm sao nếu rách chiếc áo linh hồn.

Trong cuộc sống giữa đời thường, xin cho con thông cảm giá lạnh của những người thiếu áo.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 143

Page 144: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Con cũng xin ơn đừng vì tấm áo mà làm hoen ố Giáo Hội, áo tu sĩ, áo trí thức, áo quan tòa, áo đoàn thể, áo chủ tịch. Những tấm áo chức vị ấy, những chiếc áo đồng phục kia có cần thiết để biến con thành nhân chứng? Hay nhiều khi chỉ làm hoen ố những chứng nhân.

 

- Ðoản Khúc 59 -

Ngày Tảo Mộ 

Tôi đến đây thăm ngôi mộ của tôi. Ba năm trước người ta đưa tôi ra nghĩa trang này. Hôm ấy có người khóc. Chung quanh mộ bia tôi có hoa. Bốn năm ngày sau hoa mới tàn. Sau trận mưa, hoa mới rữa. Người coi nghĩa trang hốt hết đổ vào thùng rác. Rồi, thỉnh thoảng mộ tôi vẫn có hoa. Những cánh hoa lẻ tẻ trong lòng một vài người nhớ tôi. Không nhiều.

Hôm nay không còn thế nữa. Tôi đến đây khá sớm. Tôi hồi hộp không biết hôm nay thế nào. Tôi không biết mình sẽ gặp lại những ai. Hôm nay kỷ niệm ba năm ngày người ta chôn tôi. Tôi còn nhớ ba năm trước, cũng vào ngày này, có linh mục mặc áo lễ, có ca đoàn hát. Trước khi đến đây, tôi nôn nao không biết ngày hôm nay có những gì. Tôi hồi hộp.

Bây giờ rõ rồi, không ai đến cả vì đã quá giờ. Bằng giờ này ba năm xưa người ta đứng chung quanh xác mới chết của tôi. Hôm nay không ai đến. Tôi đợi thêm cho tới ngang chiều thì biết rõ những gì tôi hồi hộp chờ đợi không xảy ra. Tôi đợi mãi, bây giờ xế chiều, sắp tối. Sắp tối thì chắc chắn sẽ không có ai ra đây nữa.

Tôi đứng bên cạnh mộ bia của tôi. Tên tôi còn kia. Ngày sinh, ngày chết. Chung quanh vắng quá. Càng về chiều càng vắng.

* * *

Tôi đứng đây một mình trong ngày tảo mộ. Nhớ về kỷ niệm ba năm trước. Ngày đó xác tôi còn tươi. Ngay trong nhà quàn, có người cũng chỉ đứng nhìn rồi rảy nước phép lên mặt tôi chứ không dám đến gần. Mới đó mà đã xa cách. Người ta sợ con người khi chết. Ngay người thân sống với nhau hằng ngày, khi chết người ta cũng sợ. Người ta không sợ con trâu, con bò chết, người ta sợ con người. Không biết vì sao lại thế. Khi có người chết, người ta bảo nhà ấy có đám ma.

Có đám ma. Vâng. Có đám ma.

Người ta sợ nghĩa trang.người ta bảo ngoài nghĩa trang có ma. Sống với nhau mà vừa chết người ta đã sợ xác nhau rồi. Cũng thân xác đó cho nhau say đắm mà sao người ta sợ nó. Người ta bảo nhà có đám ma.

Rất nhiều người sợ đứng trong phòng một mình với xác chết.

Hôm tôi chết, tôi nhìn xác tôi, nhà quàn cố gắng trang sức mà da tôi vẫn xanh, lạnh cứng. Có người đứng nhìn, họ giữ một khoảng cách. Tôi biết họ sợ. Vừa mới nói chuyện, vừa mới ăn cơm chung, vừa mới đi phố, vừa mới gặp nhau thế mà giờ nhìn xác tôi, họ sợ. Tại sao người ta không sợ con vật chết, mà lại sợ xác người?

Chỉ người mới có hồn. Hồn thiêng liêng đi về một cõi vô hình. Không kẻ nào có kinh nghiệm về cõi vô hình như tôi là kẻ chết bây giờ. Hồn ấy có thể vất vưởng điêu linh. Hồn ấy có thể an vui trong cõi hằng sống. Hồn ấy có thể thành ma. Hồn ấy có thể thành thánh. Hồn ấy có thể bình

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 144

Page 145: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

an. Hồn ấy có thể trăn trở khắc khoải. Thế giới này sau khi chết mới thấy rõ. Tùy thuộc lúc còn sống mà hồn ấy quyết định nơi chốn cho mình ra đi khi chết, và hồn ấy sẽ thành hồn gì.

Người ta sợ xác người vì cái hồn đó.

Xác ấy thành hồn thánh hay hồn ma?

Xác ấy an nghỉ hay là oan hồn khắc khoải?

Hồn ấy sẽ về gặp người sống trong thứ hồn nào?

Phải chăng vì thế mà người ta sợ? Phải chăng lúc sinh thời người ta chưa gặp hồn thánh trong xác thân kia nên bây giờ sợ không biết hồn thánh trong xác thân nào.

Bây giờ trời đang vào tối. Càng không ai dám ra nghĩa trang. Vì thế tôi càng biết chắc là kỷ niệm ba năm ngày tôi chết, vắng quá, nơi ngôi mộ của tôi.

Tôi không muốn đứng trong nghĩa trang này như thế mãi làm gì. Tôi đi tìm một vài kỷ niệm cũ của tôi lúc đương thời. Mặt trời xuống phía sau rặng cây rồi. Mây không còn hồng. Một khoảng trời xám phủ xuống nghĩa trang.

Ðầu tiên, tôi trở về ngôi nhà thờ cũ năm xưa. Bậc thềm vẫn như nguyên. Mấy chân nến đồng lâu năm lắm rồi vẫn nằm trong xó tối góc nhà. Cây thánh giá cũ. Tượng chịu nạn một năm mới sử dụng một lần dịp tuần thánh. Chả có gì thay đổi. Chỉ có tôi đã ra đi. Tám giờ tối có thánh lễ. Nhà thờ đông và vui. Tiếng đàn vẫn như xưa. Người vẫn tấp nập. Trong thánh lễ không có lời kinh nào cầu nguyện cho tôi. Ai cũng bận rộn với bao nhiêu công việc, bao nhiêu chương trình.

Tôi gặp một vài khuôn mặt quen ngày xưa. Nhưng hôm nay làm sao họ nhìn thấy tôi được. Tôi nhìn họ thôi. Họ cũng bận rộn như bao nhiêu người. Tôi cố nói với họ: "Hôm nay tôi đi tảo mộ! Hôm nay kỷ niệm ngày chết của tôi!" Tiếng tôi như gió bay trong trời rộng, chả ai nghe thấy gì. Tôi lẽo đẽo theo sau họ. Tôi cố nói mà không ai nghe. Tôi đi như thế một quãng đường rồi tôi chán. Tôi phải trả họ về cho đời sống của họ. Rồi một ngày nào họ cũng giống như tôi thôi.

Tôi đi tìm một vài cánh thư đã viết. Tôi bắt gặp mấy lá thư cũ trong căn nhà của người này. Chúng còn đó, nhưng người ta cũng quên rồi. Mấy tấm hình năm xưa. Một chút dư âm còn lại trên cõi đời. Bây giờ nhìn lại, vậy mà ngày đó tôi mất bao thời giờ cho cánh thư ấy. Tôi muốn được lòng người này, tôi muốn tình cảm của người kia. Bây giờ chả còn gì.

Tôi đi tìm một vài đồ dùng của tôi. Bao nhiêu công trình tôi sưu tầm, sách vở, hình ảnh, nghệ thuật. Vì người sống không cùng ý nghĩ với tôi, nên sau khi chết không ai còn gìn giữ chúng cả, chúng đã tan tác và đang dần dần biến đi. Thế mà lúc sống tôi bận tâm săn sóc từng ly từng tí. Có khi tôi tiếc xót về những thứ này. Bây giờ tôi đứng nhìn những thứ ấy sao xa lạ quá.

Một thời để nhớ, một thời thấy là hư vô.

Một thời thu góp, một thời thấy là hoang vu.

Một thời ôm giữ, một ngày thấy là cách xa.

Tôi cũng đi tìm người ngày xưa không thích tôi. Họ ghen tương chuyện này, chuyện kia, họ thử thách tôi điều này điều nọ. Tôi đứng ngay cạnh họ, họ chả biết gì. Có điều trong thế giới siêu hình người chết thấy nhiều điều người sống không thấy. Tôi thấy họ cũng giả hình nhiều lắm. Họ cũng bon chen nhiều lắm. Sự thành thật thường che đậy bằng những hảo ý tinh vi. Tôi thấy họ cũng thường quá. Vậy mà ngày còn sống tôi cứ băn khoăn về lời phê bình này, lời phê bình kia của họ. Chết rồi mới thấy nhiều cái trên cõi đời quá phù vân.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 145

Page 146: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Tôi cũng đi tìm người ngày xưa tôi không thích. Bây giờ tôi đứng ngay bên cạnh, mà họ cũng chẳng biết gì. Lúc còn sống tôi không thích họ chứ không phải họ không thích tôi. Chết rồi tôi mới biết mình sai. Những người chỉ trích tôi làm tôi bận tâm. Những người tôi không thích thì tôi quên họ. Bây giờ mới thấy mình lầm nhiều. Họ chả là gì trong xã hội quý trọng danh vọng. Trong thế giới siêu hình tôi thấy cuộc đời họ cô đơn. Vậy mà ngày đó tôi không thích họ. Bây giờ tôi nói với họ: "Tôi xin lỗi nhé. Tôi muốn yêu thương và chân thành." Họ chả nghe thấy gì. Tôi lẽo đẽo theo họ một quãng đường rồi tôi thất vọng. Họ chả biết gì. Trong trái tim họ, đôi khi nhớ đến tôi, họ chỉ buồn. Ðó, tôi cũng còn lại một chút dư âm.

Tôi đi lang thang chỗ này chốn kia. Tôi tìm người này người nọ. Tôi đứng bên cạnh bàn ăn và ngửi thấy hương thơm café. Tôi ngồi trong xe và nghe họ nói chuyện. Tôi ở bãi biển nghe họ nhắc về những kỷ niệm, trong đó có bóng hình tôi. Tôi đi tìm và cũng còn một chút dư âm trên cõi đời. Cuộc sống là tiếp tục. Tôi chả còn là bao nữa trong cái dư âm kia.

Hôm nay tôi về tảo mộ sau ba năm. Tôi sẽ trở lại nghĩa trang này hơn hai mươi năm sau xem tôi như thế nào. Ngày đó là kỷ niệm 25 năm. Người ta gọi là silver jubilee. Ngày lễ bạc.

* * *

Lạy Chúa,

Con về nhìn lại ngôi mộ mình sau cái chết. Có những điều ngày xưa phải coi thường, con lại bận tâm, như lời phê bình của người này, kẻ kia, như nỗi sợ này, nỗi lo nọ. Cái bận tâm ấy làm cuộc sống mất bao nhiêu buổi bình minh đẹp, mất bao nhiêu tối trăng mơ màng thơ mộng.

Con đã không biết rong chơi trên cõi đời. Hồn con thiếu tự do vì quá bận rộn với biết bao dự tính. Bây giờ con làm gì với những dự tính đó? Còn người ta, có ai tiếp tục cái dự tính ấy đâu. Có con hay không, cuộc đời vẫn là cuộc đời. Con tưởng ngày con chết sẽ là thiếu vắng. Như dòng sông, vừa múc đi một vốc nước, nó lại đầy ngay chả còn dấu vết gì. Vậy mà ngày con sống, tưởng mình là cần thiết. Con phải dành cho mình lẽ đúng. Con đã không biết rong chơi trên cõi đời để mất biết bao mùa xuân lá xanh non, mất biết bao mùa hạ nắng thênh thang. Ngày còn sống sao lòng con chật chội quá.

Lạy Chúa,

Có biết bao điều con coi thường ngày xưa, bây giờ con tiếc nuối. Như sự thương mến chân thành. Như trái tim không chật hẹp. Như biết quý sự tự do của con tim hơn. Như sự từ bỏ cho cõi lòng thênh thang hơn. Nếu những ngày đó con biết quý nó, đời sống của con đẹp thêm biết bao, có thêm bao nhiêu con suối hiền hòa, có thêm bao nhiêu thung lũng xanh tươi. Bây giờ con biết quá trễ.

Có những kỷ niệm như, nhìn lại ngày đó, con bực bội vì họ chần chừ để hết hạn mới mua chiếc vé tầu, làm con phải trả thêm tiền. Con bực bội mãi vì họ không nghe lời. Thực ra họ cũng bận rộn, luôn luôn bận rộn. Bây giờ con mới thấy tiếc vì những ngày tháng cứ bận rộn là bận rộn, không biết rong chơi. Những thứ bực bội đó làm con mất vui, làm mất những ngày đẹp. Bây giờ nhìn lại nó chả đáng gì.

* * *

Tôi ngang qua nghĩa trang. Nhìn ngôi mộ tôi lần nữa. Có mình tôi tảo mộ tôi. Kẻ sống đã chôn và cho tôi một ngôi mộ rồi. Bây giờ là phần tôi. Một mình tôi với ngôi mộ của tôi.

Chiều nay đứng bên ngôi mộ của riêng mình nghĩ lại cuộc đời năm xưa. Bây giờ, tôi biết rõ cuộc đời rồi, nếu được trở lại kiếp làm người nữa, tôi sẽ sống như thế nào?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 146

Page 147: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 * * *

 (Ngày Tảo Mộ, là bài thứ nhất trong loạt gồm ba đề tài. Tảo mộ lần thứ hai xảy ra 25 năm

sau, tức Ngày Lễ Bạc. Tảo mộ sau cùng xảy ra năm mươi năm sau, tức Ngày Lễ Vàng.

Năm mươi năm sau ngày chết, lúc ấy mọi người cùng sinh thời, quen biết đã chết hết. Nếu hồn bạn trở lại, bạn thấy còn lại dấu tích gì của bạn? Hai đề tài sau sẽ in trong tập suy niệm kế tiếp: Ðường Ði Một Mình.)

- Ðoản Khúc 60 -

Phêrô Lỗi Phạm 

Thảm kịch Phêrô vấp ngã được Phúc Âm tường thuật lại như sau:

Hát thánh vịnh xong, Ðức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu. Ðức Giêsu nói với các ông:

- Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em.

Ông Phêrô liền thưa:

- Dẫu tất cả có vấp ngã đi nữa, con nhất định là không.

Ðức Giêsu nói với ông:

- Thầy bảo thật anh: Hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy ba lần.

Nhưng ông Phêrô lại quả quyết:

- Dẫu co phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy" (Mc 14:26-31).

Ðoạn Kinh Thánh trên đưa thời điểm đau thương của Ðức Kitô vào cuộc đời các tông đồ. Biến cố ấy sắp xảy đến. Thực sự sẽ như thế nào, các môn đệ không thể hình dung được. Họ chỉ thấy bàn bạc một bầu khí u buồn, hoang mang và căng thẳng. Cứ mỗi lúc thời gian ngắn dần, thái độ của Chúa làm các ông thêm biến sắc. Chúa đã nói đến những lời trăn trối. Thầy đã rửa chân vĩnh biệt học trò. Kẻ dạy dỗ đã căn dặn môn sinh ở lại yêu thương nhau. Chúa sắp ra đi. Linh hồn các môn đệ có thể đang dấy lên những thao thức băn khoăn. Thầy sẽ chết sao? Ai phản bội Thầy? Tương lai chúng ta đi về đâu? Bao nhiêu ngày theo Thầy bây giờ như thế sao? Rồi đây nhóm chúng ta còn không? Tất cả vấp ngã nghĩa là gì, tôi cũng vấp ngã à? Vấp ngã ra sao?

Trong cái căng thẳng ấy, mọi người im lặng hoang mang. Người lên tiếng trong đám đông này, tối đó, là Phêrô.

Nhìn Phêrô trong đoạn Kinh Thánh trên đây, ta thấy ông khẳng khái một quyết định dứt khoát là ông biết rõ ông hơn ai hết. Ông hiểu khả năng của ông. Ông biết ý chí ông. Ông làm chủ tình hình. Ông đã nói không là không. Chúa đừng quan tâm. Phiên dịch một cách khác, ta có thể hình dung được tiếng nói của Phêrô với Chúa:

- Không chuyện gì phải lo. Có tôi đây, Thầy biết tôi mà!

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 147

Page 148: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Qua hành động Phêrô, ta có thể nói bằng ngôn ngữ thế tục, Phêrô đã "vô lễ" khi dám đưa tất cả mọi người ra so sánh. Ông khẳng khái là không vấp ngã, cũng quá đủ rồi. Ðó là chuyện của ông. Nhưng ông bảo cho dù "tất cả" vấp ngã, tôi cũng không. Làm sao ông dám hạ thấp mọi người xuống để so sánh với chính mình như vậy?

Sau khi ông so sánh mọi người xong, Ðức Kitô không nói với "các ông" nữa mà nói riêng với ông. Lối hành văn của Máccô chỗ này rất là ý nghĩa trong lối dùng chữ chính xác từng chi tiết như sau:

- Thầy bảo thật anh - (Ám chỉ rõ, riêng cá nhân Phêrô).

- Hôm nay - (Xác định thời gian là hôm nay chứ không phải ngày mai).

- Nội đêm nay - (Chi tiết hơn, hôm nay, nhưng là đêm chứ không phải ngày).

- Gà chưa kịp gáy hai lần - (Biết là đêm rồi, nhưng rõ hơn là lúc gà chưa gáy hai lần).

- Thì chính anh - (Quả quyết rõ là Phêrô, không phải người khác).

- Anh chối Thầy ba lần - (Nói cho biết trước sẽ chối, chi tiết là ba lần).

Ðoạn văn tiên tri trên về Phêrô, đề cập những chi tiết chính xác như chuyện đã xảy ra chứ không phải chuyện tương lai. Ðáng nhẽ Phêrô phải giật mình sợ hãi, nhưng ông không thắc mắc những chi tiết. Vẫn trong cách xử dụng ngôn ngữ tài tình, Máccô nhấn mạnh là Phêrô càng "nói quả quyết" hơn nữa. Phải chết tôi cũng không chối Thầy. Lúc đó, Chúa chỉ còn một cách duy nhất là im lặng, vì hết lời rồi.

Trong cung cách đó, còn gì để nói về con người Phêrô? Chính Chúa đành lặng thinh.

* * *

Thảm kịch đáng thương trên được Phúc Âm tả tiếp:

Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô:

- Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao?

Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông:

- Luc này mà còn ngủ sao?

Từ chiều, từ lúc hát thánh vịnh xong và Thầy trò lên núi Ôliu đến giờ, từ lúc quả quyết không chối Thầy đến giờ chắc mới vài tiếng đồng hồ. Ba lần Chúa đến tìm các ông, các ông vẫn ngủ. Ngôn ngữ chúng ta để ý ở đây mà Máccô cho một chi tiết đặc biệt là các ông ngủ đến độ mắt họ "nặng trĩu" (Mc 14:40). Ngủ đến độ mắt "nặng trĩu" là như thế nào? Có thể đây là chi tiết sẽ cắt nghĩa một sự cố lát nữa đây về con người Phêrô.

Lần thứ ba Chúa đến, lúc mắt họ "nặng trĩu" thì Giuđa và thượng tế cùng giáo mác, gậy gộc của đám cơ binh ụp đến bắt Chúa. Lúc này một "anh hùng" xuất hiện: Ðó lại là Phêrô. Ông rút gươm!

Tin Mừng tường thuật, ông chém đứt tai người đầy tớ (Yn 18:10). Nếu ông anh hùng sao không đượng đầu với bọn lính? Tội lỗi là đám thương tế cùng cơ binh chứ đầy tớ, nó làm gì mà chém nó? Ðứa có khí giới trong tay sao không chém, chém thằng đầy tớ? Và ngay cả nhát chém cũng vậy, chỉ chém đứt được có cái tai. Không chém được vào đầu, vào cổ mà chỉ có cái tai thôi sao.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 148

Page 149: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Chi tiết Máccô cho biết lúc nẫy là các ông ngủ đến độ mắt các ông "nặng trĩu". Phải chăng vì "nặng trĩu" nên đâu còn nhìn thấy gì? Phải chăng vì "nặng trĩu" cho nên vùng mình dậy thấy nguy cơ thì hốt hoảng chém mà thôi? Chém trong đôi mắt ngủ "nặng trĩu!"

* * *

Chúa bị bắt. tất cả bỏ chạy.

* * *

Bây giờ thì rõ, ai ở lại, ai chạy trốn.

Bây giờ thì rõ ai cứu ai.

Vừa trước đây thề chết với Thầy, giờ bỏ chạy.

Vừa trước đây lên tiếng thách đố, giờ cúi mặt.

Vừa trước đây tự tin, giờ mất tất cả.

Vừa trước đây tưởng mình dũng mạnh, giờ yếu đuối quá đỗi.

Vừa trước đây làm chủ tình hình, giờ nhục nhã.

Vừa trước đây tưởng mình cứu Thầy, giờ Thầy cứu mình.

Vừa trước đây tưởng mình là người lãnh đạo anh em, bây giờ người ta biết rõ sự thật.

* * *

Lạy Chúa, cuộc đời sao quá hoang vu.

Con tưởng mình là thánh nhân mà không phải.

Con tưởng mình có kế hoạch nhưng sao quá vụng về.

Con tưởng ý kiến con thông minh mà sao nông cạn.

Con tưởng người khác kém hơn mình nhưng thật sự họ biết suy nghĩ chín chắn.

Con tưởng không có con là chuyện không thành mà thực sự vì con nên mới hỏng chuyện.

* * *

Ôi! nào đâu con có ngờ.

 

- Ðoản Khúc 61 -

Mũi Tên Và Tiếng Hót Con Sơn Ca 

Cành cây.

Trên ngọn cây sầu đông, con sơn ca nhìn xuống cuộc đời bằng bài ca hy lễ. Tiếng hót véo von trước ngưỡng cửa căn nhà nhân loại đang bàng bạc phiền muộn ủ ê. Cuộc đời cần hòa điệu biết bao và con sơn ca vào đời trong tiếng gọi thâm sâu ấy: Ðem âm nhạc vào cõi quạnh hiu.

Mỗi bước chân nó chuyền qua, trên nhánh cây rừng, trên cành trúc sau hè, bên khóm tre, là chuyền trên nỗi chết đang chờ. Bởi cành tre ấy có thể thành mũi tên, nhánh cây rừng kia có thể thành cánh cung giương lên bắn nó.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 149

Page 150: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Trên cành tre ấy, nó vẫn cho đậu xuống những âm giai hòa bình và trên nhánh cây nọ, nó vẫn không ngại ngùng buông lời thanh thót cho rải vào cõi vắng chiều đang xuống.

Biết trên những cành cây đưa bước chân mình đậu hôm nay có thể ngày mai là khung thập tự sầu thương kết thúc đời mình, tiếng con sơn ca vẫn hồn nhiên líu lo với cuộc đời, nó không băn khoăn, không cúi mặt rũ bã để hoàng hôn phủ bóng tiếng ca.

Rừng cây địa đàng thủa xưa xanh ngát màu lá. Hương của gỗ trầm vẫn chưa hết bay khỏi không gian. Thiên Chúa cho con người rừng cây như bài thơ đẹp của vũ trụ để rì rào lời ru cho vũ trụ dài thêm mùa xuân, tiếp thêm mùa thu. Ðức Yêsu đã biết ngày mai con người lấy rừng cây ấy làm thập tự đóng đinh đời mình. Vì quá yêu trần gian, Ðức Yêsu đã đến trong căn nhà nhân loại bất chấp cánh cung có gương lên chờ đợi. Cho dù rừng cây có thành cánh cung, tiếng hát sơn ca trong trái tim Yêsu không bao giờ là tiếng hót phẫn nộ. Vẫn là:

Bình an cho các con! Binh an cho các con!

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

Xin Thượng Ðế cho con tiếng hót của loài chim sơn ca, nhìn xuống cành tre mình đang đậu hôm nay và cất lời ca hòa bình. Xin cho con trái tim con sơn ca bình an nhìn cành cây mình đang dừng chân mà ngày mai có thể thành cánh cung vẫn không chối từ buông lời ca cho bóng chiều bớt hoang sợ.

* * *

Mũi tên.

Rồi cành tre vót nhọn thành mũi tên. Rừng xanh địa đàng bồi hồi khi thân cây bên đồi rớt mất vùng trời mùa xuân thành cây cung lạnh lùng.

Hoa của mùa xuân không còn nữa, nhựa không dâng thành trái. Khung trời sương mai êm ả với bình minh hoa nắng giờ đây có gắt gỏng đi về, nắng rịn mồ hôi và bình minh là chát chúa.

Trên cành trúc sau hè bắt đầu có tiếng gió xạc xào chứ không dặt dìu như thủa xưa. Con sơn ca cúi xuống đời mình nhìn mũi tên nhọn. Tiếng ca bây giờ không là tiếng vỡ lòng ngày đầu tập hót với me, mà là tiếng hót chọn lựa của tự do và lòng mến. Tiếng hót tập tành bằng cung điệu rất đỗi riêng.

Con sơn ca nhìn trời cao, đôi cánh rung theo nhịp vót của mũi tên. Người ta vẫn nghe tiếng lanh lảnh trong đêm tối khi mặt trời chưa kịp lên, người ta vẫn nghe tiếng thiết tha trong đêm tối khi mặt trời đã rơi chìm xuống bên kia đồi chiều. Con sơn ca vẫn hót. Cành tre cứ thành mũi tên. Cành cây cứ thành cánh cung. Và đời con sơn ca cứ là bài hát gieo trên cành tre, rải xuống rừng cây:

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

Tấm áo dài mẹ may cho thủa nào bắt đầu vương bụi vất vả. Ðức Yêsu lau mồ hôi trên vùng trán bằng tà áo ấy. Áo không còn ngây thơ, không còn mộng mơ ngày theo mẹ lên đền thánh dâng lễ nữa. Khi thời giờ đã điểm thì không phải nước thành rượu ngon nữa mà rượu ngon thành giấm chua. Trên cánh đồng Galilêa chiều hôm nao, những thúng bánh mì thơm mùi gạo mới nướng không còn hương bài ca biết ơn. Ðức Yêsu đang đi trên những tấm bánh hóa thành đá cứng có thể ném chết người. Những tấm bánh hóa đá và bước chân trệu trạo mà hoa vẫn nở trên đường đi, hoa trong linh hồn, hoa trong lời ca, hoa rất đỗi thiết tha.

Bình an cho các con! Bình an cho các con!

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 150

Page 151: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Xin Thượng Ðế cho con nghe thấy tiếng hót sơn ca trong những tấm bánh hóa đá và rượu ngon thành giấm chua trước cuộc đời Ðức Yêsu. Trong những lo lắng dật dờ hồn con dễ biến niềm tin thành giấm, tương lai thành đá cứng. Xin cho con như bóng sơn ca hót trong màn đêm của trời chưa sáng và trong màn đêm khi mặt trời đã đi rồi, để đời cứ là một bài ca gieo trên mũi tên và rải xuống rừng cây.

* * *

Săn đuổi.

Cành tre thành mũi tên và thân cây thành cánh cung thì cuộc tìm kiếm bắt đầu.

Cành tre thành gian dối. thân cây thành giấu giếm.

Con sơn ca bị săn đuổi. Bên dòng suối tĩnh mịch, con sơn ca soi đời mình để tìm một giai điệu đẹp nhất cho tiếng hót. Vút lên cao nữa, lanh lảnh lên cao nữa cho tiếng mình rẽ lối gọi rõ vào cuộc đời một tiếng hót vô thường.

Ngửa mặt nhìn trời cao, qua biết bao núi đồi, biết bao thung lũng, qua bao nhiêu rừng gai, bao nhiêu bến chợ chiều, bây giờ mới thành tiếng hót độc đáo của riêng mình, làm sao mà nó im tiếng được.

Gió về bay trong bão lốc, người ta vẫn nghe tiếng nó dạt theo chiều sóng thành bài ca. Mưa hối hả, người ta vẫn nghe tiếng nó nhịp vào tiếng rơi của mưa thành hòa âm. Mưa không đuổi được lời ca bão không giam được tiếng hót.

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

"Hàng ngày ta vẫn ở trong đền thờ". Ðức Yêsu trả lời như thế khi người ta tìm cách bắt Người. Con sơn ca biết khi cành gai nhọn ghim vào tim, bài ca sẽ thành bất tử. Nó đón chờ cành gai vì biết bài ca bây giờ mới thành tuyệt đối.

Vì bài ca nó vào đời, nó muốn để lại bài ca ấy cho đời, và bài ca chỉ để lại bằng cành gai ghim thâu qua con tim. Nó yêu bài ca hơn sự sống, yêu tiếng hót hơn thời gian. Ðức Yêsu vẫn ở tong đền thờ. Cánh cung và mũi tên đã giương bắn, Không cần là tay thiện xạ bắn giỏi vì hàng ngày Ðức Yêsu vẫn ở trong đền thờ. Một bài ca thôi. Một cung đàn thôi. Ðời Ðức Kitô vẫn là:

Bình an cho các con! Bình an cho các con!

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

Lạy Thượng Ðế, có nhiều thứ săn đuổi con trong cuộc sống lắm, săn đuổi của lười biếng, săn đuổi của sợ hãi, săn đuổi của sự chết. Xin cho con biết con vào đời làm gì, sẽ đi về đâu khi hoàng hôn buông xuống để con không nhát đảm, cứ đưa đời mình xuôi dòng về với trùng khơi.

* * *

Sự chết.

Cây cung giương lên tìm con sơn ca bắn tới. Trên ngọn cây sầu đông, tiếng hót con sơn ca theo gió bay về cõi trời mênh mông.

Mũi tên ghim qua lồng ngực và cuộc tập tành trong cung hưởng bản trường ca hoàn tất.

Cuộc đời là bản trường ca thì khi mũi tên bắn qua con tim là lúc nốt nhạc đẹp nhất rung lên kết thúc làm thành trọn vẹn một bài hòa âm. Giã từ trong tiếng hót đi về trời cao thăm thẳm. Con sơn ca rũ cánh gói trọn tiếng gọi thâm sâu nhất của tâm hồn là đem cho núi rừng âm nhạc bằng chính đời mình.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 151

Page 152: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

Trên ngọn cây sầu đông nở mùa hoa nhân ái. Con sơn ca không phẫn nộ nhưng gởi lại bài ca cho chính cành trúc sắc nhọn đã ghim vào tim mình. Phải chăng vì thế trong khúc rẽ rỗng im lặng kia mới chứa ngàn vạn tiếng gió thiên thai. Chỉ có tiếng sáo của loài tre sắc mới hứng đọng được một chút tiếng lanh lảnh vi vút của con sơn ca mà thôi.

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

Lúc Ðức Yêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Rừng cây không bị trừng phạt vì đã đóng đinh Ngài vào tấm thân gỗ. Lá cứ xanh và rừng cây cứ thì thầm với mưa hiền hòa, với nắng thênh thang. Trên cây thập tự, Ðức Yêsu không phẫn nộ với vũ trụ mà tiếp tục tiếng hót bao dung của con sơn ca trong trái tim vô cùng độ lượng: "Xin Cha tha cho tất cả". Từ lời cầu xin ấy, mây cứ thong thả bay, dòng suối cứ thong thả buông tiếng thơ. Và, bài ca tiếp tục xuôi thời gian gởi vào cuộc đời:

Bình an cho các con! Bình an cho các con!

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

* * *

Lạy Thượng Ðế, bao dung là con đường Ðức Yêsu đã đi, là tiếng con sơn ca hót trước giờ chết:

- Con chưa bao dung được với đời thì xin cho con được nghe tiếng bao dung từ Ðức Yêsu.

- Trái tim con chưa bình an được như con sơn ca hót bài ca yêu mến khi nhìn mũi tên nhọn, thì xin cho đời con đừng là mũi tên.

- Con lỗi phạm thì xin cho con phổ được nhạc sám hối trong khúc tre sắc để tiếng hót của con sơn ca đọng lại hồn con đôi chút.

- Và, nếu hồn con không bình an như con sơn ca cứ cất tiếng hót trong bóng đêm, thì xin cho con biết lánh xa bóng đêm.

 

- Ðoản Khúc 65 -

Phêrô Chối Thầy 

Phêrô đang ở dưới sân, một người đầy tớ gái của thượng tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói:

- Cả bác nữa, bác cũng ở với cái ông người Nadarét, ông Giêsu đó chứ gì!

Ông liền chối:

- Tôi chẳng biết, chẳng hay cô muốn nói chi!

* * *

Chối lần thứ nhất:

Nhìn kỹ đoạn văn trên, ta thấy những chi tiết sau:

Một - Chỉ có một, không phải hai.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 152

Page 153: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ðứa tớ - Ðầy tớ, không phải người địa vị.

Gái - Tớ gái, không phải trai.

Như vậy, kẻ Phêrô gặp mặt tối đó là người mang địa vị thấp nhất trong xã hội bấy giờ. Chỉ một đứa, lại là đứa đầy tớ, mà lại là tớ gái! Thế mà Phêrô hoảng sợ. Làm sao lại có thể sợ hãi trước một người không quyền hành, không địa vị gì như thế? Chỉ là một tớ gái!

Cung cách của Phêrô chối nữa, ông chối bằng ngôn ngữ rất đặc biệt:

Tôi chẳng hay chẳng biết chị muốn nói chi!

Chợt nghe câu đó, người nghe xem ra như ông đâu có chối. Ông chối rất nhẹ nhàng. Ông làm bộ như không rõ chuyện gì. Ngôn ngữ hôm nay, người ta bảo là kiểu nói đánh trống lảng.

 Chối lần thứ hai:

Tin Mừng kể tiếp:

Rôì ông bỏ đi ra phía tiền đường. Bấy giờ có tiếng gà gáy. Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó:

- Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy.

Ông Phêrô lại chối.

Qua đoạn văn trên, người đọc thấy sau khi chối lần thứ nhất xong, ông không còn ngồi chỗ đó nữa. Ông đi ra phía ngoài cổng. Như vậy, đối với khoảng cách trong không gian là ông xa Chúa thêm một khúc đường rồi. Chối lần thứ nhất ông còn ở giữa sân, còn gần Chúa. Bây giờ bỏ đi ra ngoài. Cái xa cách không gian ấy diễn tả một khoảng xa hơn trong tâm hồn. Nó là một khoảng tội nặng hơn.

Lúc nẫy ông chỉ đối diện với một đứa tớ gái thôi. Bây giờ đứa tớ gái nói với "những người có mặt". Như thế, ông đối diện với nhiều người. Chối Chúa lúc nẫy trước mặt một người, tội nhẹ hơn trước mặt nhiều người chứ. Hai lần chối không mang mức độ giống nhau. Lần này xa hơn, nặng hơn. Ông chối Chúa công khai hơn.

 Chối lần thứ ba:

Lần thứ ba này Tin Mừng Máccô cho biết những chi tiết cuộc chối bằng ngôn ngữ rất tinh vi, rất chính xác. Chính xác trong chi tiết để diễn đạt cái tang thương của Phêrô. Tin Mừng kể:

Một lát sau những người đứng đó lại nói với ông:

- Ðúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilê!

Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa mà thề:

- Tôi thề là không hề biết người các ông nói đó. (Mc 14:70-71).

Ở đây có bốn điểm chú ý, người đọc cần ghi nhận trong lần chối thứ ba này:

1. Không phải là một người tố cáo nữa mà là "những người có mặt" đều tố cáo. Một người tố cáo, ít nguy hiểm hơn nhiều người.

2. Tố cáo này xác đáng vì đi vào chi tiết lịch sử của Phêrô, họ nhận ra giọng nói của ông là người Galilê, họ biết rõ gốc gác, còn chối vào đâu?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 153

Page 154: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

3. Vì hai lý do trên, lần này Phêrô không chối nhẹ nhàng như lần đầu, ông lấy lời "độc địa mà thề".

4. Câu ông thề là: "Tôi không hề biết con người đó là ai".

Như thế, ông quyết liệt công khai chối bỏ liên hệ với Ðức Kitô để cứu lấy mạng sống. Bây giờ ông không cần biết con người ấy là ai nữa. Ông chỉ biết làm sao thoát thân trong lúc này.

Xét trong ba lần chối, người đọc thấy rõ tiến triển của ba lần khác nhau. Mỗi lần nặng thêm chứ không phải ba lần giống nhau. Ba lần chối như ba nấc thang của một con dốc xuống vực sâu. Mỗi lần là một bực sa xuống sâu hơn, sâu hơn nữa.

Giờ đây nhìn lại đời Phêrô, ta thấy thảm cảnh bi đát của thân phận một con người. Con người này làm được gì? Cả đời ông toàn là lỗi lầm. Cứ mỗi lúc ông lại lỗi nặng hơn. Lầm lỗi ngay khi theo Chúa ba năm trước ở biển hồ Galilê cho đến ba năm sau, giây phút sau cùng trước khi Chúa chết vẫn cứ lầm lỗi.

* * *

Bi kịch trên là thảm cảnh não nề cho đời Phêrô. Bi kịch ấy cũng là thảm cảnh não nề cho Ðức Kitô, một Rabbi mà có một môn đệ kém như thế. Nhưng đàng sau bi kịch này, đâu là mối dây liên hệ của hai người? Ta hãy tìm hiểu.

Chắc chắn Phêrô thương Thầy. Sau khi Chúa bị bắt, các môn đệ khác bỏ chạy. Phêrô cũng thế, nhưng không chạy xa. Không biết Thầy mình ra sao, ông trở lại, lẻn vào dinh thượng tế nghe ngóng. Nếu ông bỏ Ðức Kitô chạy xa thì đâu xảy ra nông nỗi này. Tội nghiệp cho ông vì ông thương Chúa.

Chiều sâu phía bên kia lỗi phạm của Phêrô vẫn có tình thương. Nói về tình thương sâu kín này, ta hãy ngoảnh lại nhìn một chút về chuyện Phêrô bị mắng lần thứ hai xem sao. Lần đó, Chúa mắng Phêrô "ngu tối". Giả sử hôm đó Phêrô lặng im đừng hỏi thì đâu bị mắng. Lời xin của Phêrô: "Thưa Thầy xin giải thích dụ ngôn đó cho chúng con" đã đưa Phêrọ vào tròng. Lời xin ấy nói rằng Phêrô chậm hiểu. Vì lời xin đó, ông bị mắng. Ðàng sau lời xin, cho ta thấy chiều sâu trong trái tim, ông quý lời của Chúa. Không hiểu, ông hỏi chứ không im lặng bỏ qua. Có thể vài môn đệ khác cũng không hiểu. Nhưng đối với Phêrô, ông quý lời của Chúa. Ông không để lời đó trôi đi. Bằng chứng khi có người bỏ Chúa, Chúa hỏi các môn đệ có bỏ Chúa không. Phêrô là người thưa trước tiên: "Thưa Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai, Thầy có Lời ban sự sống" (Yn 6:68). Ta thấy tội nghiệp Phêrô. Ông có yếu đuối, lỗi phạm nhưng luôn có trái tim.

Ðối với Chúa, Chúa phải mang cái bi thảm của một môn đệ chậm hiểu, kém tin, hành động lung tung. Nhưng Chúa không bỏ môn đệ này.trong yếu đuối, người môn đệ này có một tâm hồn.

Phêrô chối Ðức Kitô vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường trốn. Nhưng trước yếu đuối ấy Phêrô đã khóc. Nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông òa khóc nức nở.

Ðời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mạnh, giữa trọn vẹn và dang đở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Ðời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại, có lên cao gặp vực sâu.

Theo sát lời tường thuật của Phúc Âm, ông lầm lỗi và bị mắng nhiều quá. Tuy nhiên, có điều trong trái tim ông, Chúa có một chỗ đặc biệt. Trong tất cả trăn trở ấy, tim ông có một ước mơ. Cho dù yếu đuối, ông vẫn có một ước mơ. Cho dù chơi vơi giữa dòng nước, ông vẫn có một ước mơ. Ông thương Thầy mình.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 154

Page 155: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ðức Kitô không đếm chân ông đã bước được những bước thánh thiện nào. Ngài cũng không chối từ vì ông đã bước sai bao nhiêu bước. Ngài chỉ nhìn vào ước mơ trong trái tim ông. Và ở ước mơ đó, Thầy trò họ gặp nhau.

* * *

Lạy Chúa, Chúa không lầm khi chọn người môn sinh yếu đuối.

Chúa không sa thải lúc người môn sinh lỗi phạm.

Chúa lấy kiên nhẫn dẫn đi.

Chúa là Thầy dạy lấy tình thương chịu đựng.

Chúa nhận thập giá về phía mình để người môn sinh được nâng lên cao.

Chúa không lầm khi gọi Phêrô.

Lúc nào trong tim con có mơ ước theo Chúa, Chúa sẽ không nhìn đến yếu đuối của con, chỉ nhìn vào ước mơ ấy trong tim con thôi.

 

- Ðoản Khúc 66 -

Những Ðôi Chân Ðau 

Ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simon Ítcariốt, ý định nộp Ðức Giêsu. Ðức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Ðức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Người đến chỗ ông Simon Phêrô, ông liền thưa với Người:

- Thầy mà lại rửa chân cho con sao?

Ðức Giêsu trả lời:

- Việc Thầy làm bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.

Ông Phêrô lại thưa:

- Thầy mà lại rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu.

Ðức Giêsu đáp:

- Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh không được chung phần với Thầy.

Ông Simon Phêrô liền thưa:

- Vậy, thưa Thầy xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và cả đầu con nữa.

Ðức Giêsu bảo ông:

- Ai đã tắm rồi không cần phải rửa nữa, toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!

Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói không phải tất cả anh em đều sạch. Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Ðức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói:

- Anh em có hỏi việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là "Thầy" là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật Thầy là Thầy là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa là Thầy, mà

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 155

Page 156: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

còn rửa chân cho anh em, anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em (Yn 13:1-15).

* * *

Phân tích toàn chương 13, ta thấy trong chương này có 3 bài tường thuật:

- Thứ nhất: Chúa rửa chân các môn đệ (câu 1-20).

- Thứ hai: Giuđa phản bội (câu 21-30).

- Thứ ba: Loan báo Phêrô chối Thầy (câu 31-38).

Nhìn chung cả chương 13, sự kiện Chúa rửa chân các môn đệ được đặt trước sự kiện Giuđa phản Thầy và Phêrô chối Thầy. Bước chân của cả hai người này đều đi sai.

Xét riêng bài tường thuật Chúa rửa chân các môn đệ, ta thấy những sự kiện rửa chân được vây bọc chung quanh bằng những hình ảnh như sau:

- Giuđa phản bội, nhắc lần thứ nhất (câu 2)

- Rửa Chân (câu 6)

- Giuđa phản bội, nhắc lần thứ hai (câu 11)

- Gương Phục Vụ (câu 14)

- Giusđa phản bội, nhắc lần thứ ba (câu 18)

Dựa vào toàn mạch văn, sự kiện Chúa rửa chân các môn đệ bị vây bọc chằng chịt ba lần bằng sự phản bội của Giuđa và bàn chân đi sai của Phêrô. Ngay sau đó, nửa chương 13 dành nói về tiệc ly là nhúng miếng bánh trao cho Giuđa. Bầu không khí ở đây toàn là những bước chân đi sai của môn đệ và tình bao dung của Ðức Kitô. Vậy, đâu là chiều sâu trong ý nghĩa Chúa rửa chân các môn đệ?

Chúa rửa chân các môn đệ có là hành vi khiêm nhường để các môn đệ bắt chước, phục vụ nhau không? Chắc chắn là có, vì Phúc Âm nói đến. Nhưng xét theo mạch văn, chỉ vỏn vẹn có câu 14 và 15 nói về vấn đề phục vụ: "Nếu Thầy là Chúa là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em" (Yn 13:14-15).

Hai câu này dễ kéo sự chú ý của người đọc. Nhưng xét theo toàn bài, sự nổi bật này mang tính cách lạc lõng, chưa chắc là tư tưởng chính. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và phêrô cho thấy sự kiện rửa chân không liên quan đến vấn đề Chúa hạ mình phục vụ, nêu gương cho các môn đệ noi theo.

Chúa tiến đến Phêrô, ông co chân lại từ chối. Ông không thể hình dung Thầy lại cúi xuống rửa chân học trò. Ðiều ấy đối với Phêrô là xúc phạm. Trò không thể để Thầy lại rửa chân trò! Chính thế ông kêu lên: "Không đời nào con chịu để Thầy rửa chân cho con đâu" (Yn 13:8). Phêrô nhìn hành động rửa chân là phục vụ. Ông không thấy chiều sâu khác là chân ông cần được thanh tẩy vì chân ông bước sai.

Câu trả lời của Chúa cho thấy việc rửa chân Phêrô mang một chiều kích sâu xa khác, không là phục vụ như Phêrô nghĩ: "Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh không được chung phần với Thầy" (Yn 13:8).

Ðôi chân Phêrô:

Tại sao Ðức Kitô không rửa chân Phêrô, thì ông không được "chung phần" với Ngài?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 156

Page 157: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ðây là chìa khóa mở ý nghĩa đoạn Phúc Âm Chúa rửa chân này vào chiều kích sâu hơn. Phêrô phải được Chúa rửa chân để được thông phần cứu độ. Trong ý nghĩa này, Chúa không rửa chân Phêrô để nêu gương khiêm nhường phục vụ, mà rửa chân để Phêrô được chung phần ơn cứu rỗi. tại sao?

Phêrô đã đi với Chúa một hành trình rất dài, bao nhiêu lần ngang dọc theo biển hồ Galilê, bao nhiêu đêm dưới ánh trăng. Trò đã theo Thầy bước ngang qua những vườn ô liu im lặng. Chân đi bên chân, chân vào sa mạc, chân lên núi. Thầy trò có nhau. Nhưng khi Ðức Kitô tỏ cho Phêrô mầu nhiệm cứu độ, Ngài phải về Jêrusalem chịu tử nạn thì Phêrô không chấp nhận đi cùng bước chân ấy nữa. Ông kéo Chúa ra, lên tiếng trách Ngài (Mc 8:32).

Bây giờ mới rõ những bước chân!

Ôi! Những bước chân đi sai!

Từ giây phút loan báo cuộc tử nạn này, bước chân Phêrô rất khác. Ông bước những bước xiêu vẹo. Ông nghiêng đổ vì đôi chân đau. Ông ngủ li bì trong lúc Chúa cầu nguyện thống khổ như Tin Mừng ghi lại. "Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao?" (Mc 14:37). Lời cầu nguyện của Chúa như thương chính mình, xót xa cho một liên hệ mà những bước chân kia thờ ơ. Phêrô không cầu nguyện dù Chúa đã cảnh giác tỉnh thức kẻo sa chước cám dỗ. Ông sắm sẵn một thanh gươm và vung tay chém (Yn 18:10).

Ông có bước chân riêng của ông!

Ôi! những bước chân đi sai!

Cái nghiêng ngả bi đát nhất trên đôi chân ông là đã chối Chúa. Chối lần thứ nhất xong, bỏ đống lửa đó đi ra phía tiền đường (Mc 14:68). Bước ra phía tiền đường là bước ra phía ngoài, như thế bước chân ấy lại đưa ông xa Chúa hơn một đoạn nữa.

Ông tìm bước chân chạy trốn.

Ôi! những bước chân đi sai!

Trong đời, bước chân tôi cũng nghiêng ngả vậy thôi. Ðường về thánh thiện nhiều gian nan. Lối đến nhân đức lắm bụi sương. Linh hồn hay mệt mỏi hoang vu. Chân đi sẽ đau. Lối đi có thương tích và ngày tháng nhiều khi thất vọng.

Ôi! những bước chân thân phận làm người!

Ðức Kitô biết bước chân những người học trò mình. Bước chân của chúng là đợi trông Thầy có vương quốc vinh quang, với đất đai, với thành quách. Những bước chân ấy sai nhiều lắm. Những bước chân ấy cần phải được thanh tẩy, nếu không làm sao bước theo đường lối của Thầy được. Nó phải được rửa.

Chính Maisen cũng phải bỏ dép mới được bước đến gần Yavê. Thấy lửa bừn cháy trong bụi gai, gai không hề bị thiêu hủy, ông muốn lại gần xem. Thiên Chúa đã gọi ông từ bụi gai mà rằng: "Maisen! chớ lại gần, cởi dép khỏi chân đi vì chỗ ngươi đang đứng là thánh địa đó" (Xh 3:5).

* * *

Lạy Chúa, bước theo Chúa vào tuần thánh, vào tuần tử nạn làm Phêrô nghiêng ngả. Chỉ có những đôi chân thánh mới bước vào chốn thánh được. Các môn đệ chạy trốn. Có kẻ chạy vung áo tìm đường thoát thân. Chống đối đường về Jêrusalem. Vì thế, Chúa mới nói: "Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ không được chung phần với Thầy". Bước chân Phêrô yếu đuối, nếu Chúa không nâng đỡ làm sao ông đi được.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 157

Page 158: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ðôi chân con tê dại vì yếu đuối của tội.

Ê ẩm lười biếng không muốn lên đường.

Ðôi chân con bước vào những vùng hoang dại của ảo ảnh. Nếu Chúa không rửa chân, làm sao con bước vào tuần thương khó Chúa đi qua.

Ðôi chân con đau vì thất vọng trong đời sống. Nếu Chúa không rửa chân cho con, làm sao con còn nghị lực bước đi.

Ðôi chân con tật nguyền vì lầm đường.nếu Chúa không rửa chân con, làm sao con sạch dấu ấn vì đã bước vào lãnh địa tà thần.

Cuộc sống cần bước đi. Bước vào nơi thánh. Bước chân ấy đưa con đến hạnh phúc, nhưng làm sao con bước vững được trên cõi đời này.

Cũng như vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Nếu không lấy yêu thương mà rửa chân cho nhau, làm sao đi với nhau nổi trong hôn nhân.

Lạy Chúa, bước chân con mang nhiều thương khó của cuộc đời, mang nhiều tội lỗi của thân phận con.

Xin Chúa lấy lòng xót thương rửa chân con. Ðôi chân con xa cách, nếu Chúa không lấy tha thứ rửa chân con làm sao con đi về.

 

- Ðoản Khúc 71 -

Lối Ði Của Con Kiến 

Một đàn kiến đông đảo vô cùng, không biết cơ man nào mà kể. Ấy thế mà chết cũng không biết bao nhiêu. Làm sao chúng bị chết? Trong đoàn kiến sống sót, có con kiến suốt đời u uẩn một mùa tang chế trong hồn nó. Ðoản bi ca ấy nó viết về sự sống đi bên cõi chết. Ðoản ca bắt đầu như thế này:

 Phần một: Tiếng lòng u uẩn của con kiến

Tiếng kèn hối hả ban hành. Ðoàn đoàn, lũ lũ bước chân kiến chúng tôi réo gọi nhau lên đường. Một cuộc ra đi tìm đất sống mới. Dấp dáng biển đỏ và sa mạc, thấp thoáng mênh mông nắng đá trong ngày con cái Maisen tìm về đất hứa, chúng tôi cũng vậy. Cuộc ra đi thật ý nghĩa làm sao.

Trên hành trình ấy, sống và chết dựa lưng nhau như đau khổ và hạnh phúc của những chuyện tình. Hạnh phúc đấy, mà đau khổ cũng có thể như con sóng xô bờ, bất chợt đến. Chúng tôi băng qua ghềnh đá cheo leo. Chúng tôi chìm xuống vực sâu hiểm nghèo. Ðêm và ngày đều tắm đẫm bằng thách đố gian nan. Nhưng trong tim, chúng tôi cố giữ cho nhau lời ca và tiếng nhạc. Chúng tôi thổi xuống chân mình gió của tiếng kèn mơ ước. Chúng tôi đẩy gót chân nhau bằng nốt nhạc kiên nhẫn. Vì thế, chân chúng tôi bớt mỏi, lòng chúng tôi bớt ủ ê.

Qua bờ lau, đá cuội, qua rừng gai gian khổ, chúng tôi thấy ý nghĩa một cuộc lên đường đẹp như thế nào. Hành trình đi tìm đất sống, ngàn ngàn, lớp lớp chúng tôi đi tới như rừng sao chuyển mình. Băng qua những vùng tối tăm của rừng gai, trèo lên những khe nứt của đá cheo leo, mù

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 158

Page 159: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

mịt, thế mà không ai trong chúng tôi chết cả. Càng gần thách đố, chúng tôi càng thêm dũng cảm. Càng qua tăm tối, chúng tôi càng giăng mình dưới nhẫn nại.

Cuộc đời có những không ngờ của nó. Có ai ngờ, chúng tôi không chết ở rừng sâu núi đá, chúng tôi bị chết trước cửa đền thờ! Ðền thờ là nơi nhân ái, bao dung, thánh thiện, thế mà là mồ chôn đời chúng tôi.

Ngày đó, chúng tôi bị nghiền nát, không biết cơ may nào mà kể. Cho đến bao giờ loài kiến chúng tôi mới biết những bí ẩn của đền thờ và sự chết ấy.

Tôi viết bài ca này như tiếng thơ băn khoăn của lòng để hỏi cuộc đời về những huyền bí của cửa đền thờ và sự chết ở đó. Chúng tôi băng mình qua gian truân, qua góc tối xó nhà, qua khe nứt tường vôi, qua cheo leo vách ván, qua ẩm mốc chân cột, chúng tôi không chết. Ấy thế mà, thấy bóng lời kinh, thấy hương đạo hạnh, chúng tôi lại chết tức tưởi, chết ngay lối vào giáo đường.

Ðền thờ là gì?

- Tiếng thầm thì u uẩn trong hồn tôi là: Có khi nào cõi thánh là nghĩa trang buồn?

- Có khi nào cổng đền thờ là lối ra mất tâm đạo?

Từ bài ca của tâm, tôi muốn gọi vào cõi đời để hỏi những vì sao trên trời, để hỏi những bóng tối dưới vực sâu, đâu là ranh giới huyền bí giữa sống và chết, vì sao sự chết đã nắm bắt chúng tôi giữa những bậc thềm vào cõi thánh?

 Phần hai: Một lối đi, một con đường.

Hạnh phúc có lối ngã riêng. Ðường vào cõi chết có tên gọi khác. "Hãy vào cửa hẹp vì đường rộng sẽ dẫn đên hư vong." Bầy kiến đến bậc cửa đền thờ, ôi! những bờ đá mênh mông, êm như dòng sông không gợn sóng. Buồn làm sao! định mệnh của những con đường thênh thang. Chúng đâu ngờ con đường thênh thang ấy dẫn vào cõi chết. Nhìn con đường thênh thang, bầy kiến quên rằng mỗi người có một lối đi, mỗi lối đi có một con đường. Và, mỗi con đường dẫn đến một khung trời khác nhau: Sự sống hay cõi chết.

Nhìn thấy thềm đá vào đền thờ rộng mênh mông, phẳng phiu, cứ thế chúng tôi ùa lên mà đi. Cứ mỗi bước chân con người dẫm lên bậc thềm, hàng trăm nhà kiến chúng tôi bi nghiền nát. Nhìn bậc cửa đền thờ mênh mông, bầy kiến chúng tôi quên rằng con đường an toàn của kiến là bờ vách, là góc đá, không phải mặt phẳng của các bậc thềm, không phải con đường thênh thang.

Con kiến viết những tiếng lòng u uẩn trên đây là con kiến đã chọn cho mình một lối đi rất hẹp, nó không bước trên thềm đá rộng của các bậc tam cấp mà cứ men theo kẽ góc mà đi. Con kiến nào bò sát trong góc của bậc thềm là băng qua được sự chết. Người ta cứ bậc thềm rộng mà giẫm chân lên, nên không biết cơ man nào là kiến đã bị giết chết.

Cũng vậy thôi, con đường hẹp sẽ dẫn vào Nước Trời, còn con đường thênh thang sẽ dẫn tới hư vong.

* * *

Con kiến hỏi tại sao, giữa cửa vào đền thờ mà cũng có sự chết. Nó muốn hỏi bóng tối dưới vực sâu, tại sao lối vào cõi thánh mà có u buồn nghĩa trang. Tiếng băn khoăn cõi lòng của nó, cũng có thể là tiếng Chúa vọng lên một âm vang đã lặng lẽ trong hồn con người từ lâu.

Người ta có thể bước vào đền thờ mà lối ấy không dẫn đến cõi tâm của Ðạo.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 159

Page 160: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Người ta có thể từ đền thờ bước ra mà tâm vẫn không có hồn đạo.

Bởi, con đường dẫn tới cõi tâm vẫn là con đường Chúa đã căn dặn: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối này" (Mt. 7:13-14).

Xa giới luật Chúa, thì có bước vào đền thờ vẫn là bước ngoài tâm đạo. Cái chật chội của con đường hẹp là đưa mình vào giới luật. Với con đường hẹp ấy thì đi đâu cũng gặp Ðạo, vì cõi tâm lúc ấy chính là Ðường rồi.

Cứ hỏi lòng mình chứ đừng nhìn bước chân mình đang ở đâu. Có thể trong đền thờ mà hồn Ðạo không có trong tâm. Có thể trong đền thờ mà tính toán chuyện không thánh. Con đường hẹp ở trong cõi lòng.

* * *

Lạy Chúa,

Không phải cứ bước vào đền thờ là tìm thấy Ðạo. Không phải cứ bước ra khỏi đền thờ là có Ðạo.

Qua tiếng u uẩn trong lòng con kiến nhỏ, phải chăng Chúa nhắc nhở con về sự chết nguy hiểm của đường rộng dễ dãi ngay trong đền thờ.

Chúa muốn con hồi tâm, muốn con nhìn lại lối sống hôm nay và vẽ lại cho mình một lối đi.

- Ðoản Khúc 76 -

Ðền Thờ Phanxicô - Goa 

Nghĩ lại câu chuyện 13 năm về trước thật kỳ thú. Ðường vào Macao đã nghẽn lối, thế mà sau cùng tôi vẫn có mặt cùng với nhóm người các cha dòng Don Bosco. Tôi sẽ kể tiếp cách nào tôi vào Macao được và những điều rất ngạc nhiên xẩy ra. Bây giờ tôi đang có mặt ở Goa, nơi lưu giữ xác thánh nhân. Hôm nay ngày 29 tháng 3 năm 2001.

Tôi không còn ở bờ biển Goa nữa. Tôi về thành phố, ở trọ nhà các Cha Dòng Tên. Các Cha rất hiếu khách, tôi xuống bếp bất cứ lúc nào đói, lấy đồ ăn tự nhiên như nhà mình. Từ cửa sổ phòng ăn, nhìn qua bên kia là nhà thờ... một công trình kiến trúc tuyệt vời theo lối Bồ Ðào Nha. Nhà thờ Công Giáo nhưng là thắng cảnh của thành phố nên nhà nước chịu phí tổn đèn điện. Từ chập tối đến mười giờ đêm, cả nhà thờ như một khối cẩm thạch trắng sáng rực. Từ mãi xa cũng nhìn thấy.

Goa còn nổi tiếng về rượu. Chỗ nào cũng có quán bán rượu. Bia và ruợu ở đây không có thuế, rẻ nhất nước. Ai cũng bảo đến Goa tha hồ uống rượu. Thành phố ngăn nắp, không có bò đi lại nghêng ngang. Phố xá sạch sẽ, có nhiều bóng dáng du khách Âu Châu. Tiếp tục thuê chiếc xe

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 160

Page 161: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

gắn máy Honda, ông thầy tôi quen ở Poonatên là Benedicto chở tôi đi khắp nội, ngoại thành của Goa. Từ trung tâm thành phố đi chừng nửa tiếng là tới nơi lưu giữ xác thánh Phanxicô gọi là Old Goa, thành phố Goa cổ.

Thầy Benedicto thật tốt lành, đang học thần học. Tôi hy vọng thầy sẽ là một linh mục tốt. Nước da của Benedicto chỉ ngăm ngăm đen thôi, dòng họ thầy không phải là người thổ dân Ấn, có thể mấy thế hệ trước đã lai gốc Âu Châu. Ngay tên gọi của thầy cũng thế, Benedicto là tên gọi rất Âu Châu chứ không phải tên Ấn Ðộ dài lòng thòng, khó phát âm. Thầy chở tôi đi khắp nơi, cắt nghĩa những thắng cảnh lịch sử của Goa. Thầy dẫn tôi vào gặp Cha giám đốc trung tâm của nhà thờ đang lưu giữ xác thánh Phanxicô. Dĩ nhiên cha cũng là linh mục Dòng Tên. Ðược biết tôi từ Việt Nam đến, không có nhiều thời giờ nên Cha cho tôi dâng lễ ngay sáng đó. Tôi còn giữ mấy dòng chữ Cha viết cho nhân viên coi phòng thánh dọn đồ lễ cho tôi: Father Joseph, Jesuit will say mass at Mausoleum.

Từ cuối nhà thờ đi vào, xác thánh nhân đặt bên cánh phải gần cung thánh, trên cao. Khách hành hương kính viếng có thề quỳ trước hòm đựng xác, có song sắt bảo vệ, không vào trong khu bàn thờ được. Thấy nhân viên bảo vệ dọn lễ mở cửa cho tôi vào dâng lễ bên trong mộ bia, mấy người hành hương cũng theo vào. Sau lễ họ xin chụp hình chung và cám ơi tôi nhiều lắm, họ nói rằng quá may mắn được có cha dâng lễ và được tham dự thánh lễ bên cạnh xác thánh, một đặc ân không ngờ trong chuyến du lịch của họ.

Xác thánh nhân còn nguyên nhưng khô lại như vỏ cây. Dĩ nhiên không còn lành lạnh tất cả. Một cánh tay đã bị chặt đưa về nhà thờ Giêsu ở Roma. Khi người ta cải mộ từ Trung Hoa đem về Roma, đi ngang qua Goa, dân chúng giữ xác lại không chịu cho đem đi. Ngay sau khi chết, Phanxicô Xavier đã làm phép lạ. Cùng lúc hiện ra những chỗ khác nhau cứu người bị bão biển. Lúc bốc xác, xác còn nguyên không bị hư nát. Vì Goa là vùng đất Ngài đã đặt chân tới lúc ban đầu nên dân chúng nhất định giữ lại. Ðối với Dòng Tên ở Roma thì nhất định phải có mặt Phanxicô ở thủ đô của Giáo Hội vì có thể nói Phanxicô Xavier là nhà truyền giáo rửa tội nhiều nhất trong lịch sử truyền giáo. Sau cùng không đem được xác về Roma thì đưa một cánh tay về. Hôm nay ai đến Roma sẽ thấy cánh tay của thánh Phanxicô Xavier được trưng bày tại nhà thờ Giêsu.

Ngày xưa xác thánh nhân được trưng bày cho tín hữu đến tận nơi chạm vào. Nhưng có người cứ muốn lấy xương thánh làm của riêng, để bảo toàn, hôm nay xác thánh nhân được đặt trong lồng kiếng. Vào dịp lễ hàng năm, mồng ba tháng mười hai, hàng trăm ngàn người hành hương đổ về Goa tham dự kiệu thánh. Chung quanh nhà thờ là một công trường mấy mươi mẫu đất, rộng mênh mông để tiếp đón khách hành hương thập phương. Bên cạnh không xa là nhà thờ chính tòa của Goa. Giữa vùng đất của các thần linh Ấn Giáo, về đến Goa ta có cảm tưởng như về Roma của Giáo Hội.

Tôi quỳ bên mộ xác Phanxicô, hình dung con người đầy dũng cảm này trong những ngày đầu tiên trên đất Ấn. Hơn bốn trăm năm về trước, Phanxicô Xavier chỉ là một người đàn ông mới ngoài tam thập, 36 tuổi, đến một vùng đất đầy chướng khí, âm u, muỗi độc, nước độc. Bấy giờ lên đường truyền giáo là vĩnh biệt quê hương, là ra đi không hẹn ngày trở lại. Thật sự là chết đi trong lòng cho một tiếng gọi cao cả. Hôm ở bến tầu Lisbon từ giã những thành phố Âu Châu, không biết Phanxicô có những xúc cản nghẹn ngào nào. Ngài có nhớ thương cha mẹ không, có biết mình ra đi không trở lại không? Thật sự là thế, chuyến tầu định mệnh ấy đem Phanxicô Xavier ra đi, và chàng trai này đã vĩnh biệt quê hương, một chuyến đi không bao giờ về. Bến cũ mênh mông trong tưởng nhớ. Làm sao mà không có lúc bùi ngùi nhớ về gia đình, bạn bè, con đường xưa?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 161

Page 162: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ðối với những con người truyền giáo này Hội Thánh là một gia đình bao trùm cả thế giới, là một vở kịch lịch sử lớn và các ngài muốn dự phần vào. Ðức Thánh Cha thời đó là Phaolô 3 bảo thánh Inhaxiô nên quên dự tính đi Jêrusalem, để ở lại Rôma vì không thiếu gì việc phải làm. Ðó là năm 1539, những tu sĩ Dòng Tên đầu tiên khấn đức vâng lời và tuyên hứa một lời thề đặc biệt là chấp nhận bất cứ sứ mạng nào Ðức Giáo Hoàng trao và sẵn sàng ra đi khắp nơi trên thế giới. Dần dần nhóm trở thành một trong những dòng tu truyền giáo lớn nhất trong Hội Thánh.

Chúa có cách dùng người khá kỳ lạ. Thánh Phaolô đã từng săn đuổi các Kitô hữu. Nhưng bất ngờ, Ngài đột ngột thay đổi hết. Sau khi ngã ngựa và hoán cải, Ngài đi nhiều nơi ở Trung Ðông, Hi Lạp và Rôma để chia sẻ kinh nghiệm về Ðức Kitô. Ngài trở nên khuôn mẫu sau này thánh Phanxicô Xavier và các vị thừa sai khác sẽ theo.

Lịch sử ghi lại Phanxicô Xavier không phải là thừa sai đầu tiên được thánh Inhaxiô cử đến với dân ngoại. Thoạt tiên thánh Phanxicô Xavier đang ở Rôma giảng trong các nhà thờ tại đây. Khi ngài phục hồi sau cơn bệnh, thánh Inhaxiô chỉ định ngài làm thơ kí, vì dòng Tên lúc ấy đang tăng trưởng, và thánh Inhaxiô cần người giúp để quản tự. Nhưng chưa được bao lâu thì năm 1540 vua Gioan nước Bồ Ðào Nha xin thánh Inhaxiô cho 2 tu sĩ Dòng Tên sang Ấn Ðộ, nơi người Bồ Ðào Nha đã đến làm ăn sinh sống và truyền giáo. Lúc bấy giờ mới có mười tu sĩ Dòng Tên thôi. Thánh Inhaxiô chỉ định 2 linh mục đi Ấn Ðộ. Nhưng ngay đúng hôm lên đường đi Lisbon, tầu sắp nhổ neo thì một người bị bệnh nặng. Thánh Inhaxiô gọi Phanxicô Xavier nói với ngài có thể lên đường đi Ấn Ðộ ngay hôm sau. Phanxicô Xavier vâng lời ngay, không hỏi lại một lời nào. Dù biết có thể không bao giờ gặp lại thánh Inhaxiô, không bao giờ nhìn lại Âu Châu, dù biết thời ấy cứ hai người vượt đại dương thì một người chết trên biển, ngài chỉ thưa thật ngắn gọn với thánh Inhaxiô: Vâng, con xin đi!

Chắc là nhớ nhà, những ngày xa quê hương, Phanxicô Xavier có một túi da nhỏ, lúc nào cũng đeo trên ngực. Mỗi lần nhận được thư từ quê nhà, Phanxicô cắt chữ ký bỏ vào túi da ấy và cứ đeo bên mình.

Phanxicô sinh ngày 7.4.1506, tầu nhổ neo rời Lisbon đi Ấn Ðộ ngày 7.4.1541, đúng ngày sinh nhật thứ ba mươi lăm. Ðáng nhẽ chuyến tầu ấy mang hai tu sĩ Dòng Tên, nhưng phút cuối người kia lại ở lại. Từ Roma, Phanxicô và Rodriguez đáp tầu về Lisbon để đi Ấn nhưng về đến nơi, tầu kia nhổ neo rồi. Hai người làm việc tông đồ ở Lisbon trong khi chờ tầu. Lúc có tầu cũng là lúc việc tông đồ đang phát triển. Vì thế mà người kia ở lại để tiếp tục. Sau cùng Phanxicô ra đi một mình. Chia tay nhau ở bến tầu, Phanxicô bước xuống nước. Sợ ra đi không có ngày trở lại, bấy giờ Phanxicô mới nói chuyện bí mật trong một giấc mơ mà người bạn cứ tò mò hỏi mãi.

Tôi trẩy đi xa anh em, chẳng còn ở chung nữa, vì tình nghĩa anh em, tôi chẳng muốn giấu gì, điều mà anh hỏi tôi nhiều lần trong đêm tôi đã kêu to: "Lạy Chúa, xin ban cho con thêm nữa." Ðêm ấy trong một giấc mơ, tôi thấy mình phải chịu nhiều gian nan vì Chúa, nhưng được Chúa ban ơn, tôi chẳng sợ gì. Nên tôi đã xin Chúa ban thêm những sự khó khăn ấy cho tôi.

Trời hôm nay rất trong và mây rất cao, Ấn Ðộ đã vào mùa hanh nắng. Tôi đang ngồi đây bên đền thờ trên đất Ấn hình dung lại những chặng đường xa xưa hơn bốn trăm năm về trước. Sau cuộc hành trình dài mười ba tháng trời, Phanxicô đến Goa ngày 6.5.1542. Tôi muốn hình dung trong tâm trí lúc thánh Inhaxiô gọi Phanxicô Xavier lại bảo ngày mai tầu nhổ neo, người Cha dự định gởi đi bị bệnh, con có thể đi thế được không. Và Phanxicô Xavier đã không hỏi lại lời nào chỉ nói: Vâng, con xin đi. Tôi cũng muốn hình dung giây phút cuối cùng, lúc tầu nhổ neo, người kia ở lại không đi nữa. Tâm trạng Phanxicô lúc đó thế nào, vì trên chuyến tầu ấy, Phanxicô ra đi một mình.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 162

Page 163: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Nguyễn Tầm Thường

Goa 29.3.2001

- Ðoản Khúc 77 -

Khi Nào Ngày Bắt Ðầu 

Lúc nào đêm bắt đầu? Khi nào ngày chấm dứt?

Vị đạo sĩ hỏi người học trò:

- Ðâu là lằn mức giữa đêm và ngày? Lúc nào ngày bắt đầu? Lúc nào đêm chấm dứt?

Người học trò suy nghĩ. Vị đạo sĩ bảo người học trò vẽ lằn mức mặt trời mọc đến đâu là ngày, chia ranh giới lúc nào là hết đêm.

Im lặng, nhíu thêm đôi mày. Thời gian trôi qua. Không ngờ câu trả lời khó vậy. Người thanh niên thầm nhủ: "Ta nhìn bình minh biết bao lần, thức dậy biết bao buổi sáng, mấy mươi năm trong đời chưa một lần phân biệt: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?"

Khi viết dòng này, tôi cũng mới chợt tỉnh câu hỏi của nhà đạo sĩ. Mấy mươi năm làm người, chưa bao giờ nhìn buổi sáng hỏi chân trời lúc nào gọi là ngày, hỏi lòng mình lúc mặt trời mọc đến đâu là hết đêm. Câu hỏi không dễ trả lời.

* * *

Tôi đang ở Kanniyakumari, cực nam của miền đất Ấn Ðộ, cũng gọi là Cape Comorin. Nơi gặp nhau của ba dòng nước lớn, vịnh Bengal, Ấn Ðộ dương và biển Arabian.

Tôi muốn đến đây vì mỏm đá sau cùng của Ấn Ðộ để nhìn ba dòng biển ấy gặp nhau và nhìn mặt trời. Nhiều du khách tìm đến đây cũng vì lý do ấy. Ðứng quay lưng lại lục địa, trước mặt là Ấn Ðộ dương, phía trái là vịnh Bengal, phía phải là biển Arabian. Ðiều đặc biệt nơi đây, khi trăng lên phía Ðông ở vịnh Bangal, mặt trời xuống phía tây bên biển Arabian, cả hai đều tròng trành trên biển đối diện nhau. Ðây là nét đẹp của biển, của trăng, của mặt trời trên trái đất mà du khách gặp mặt cùng một lúc. Sóng nước dạt dào vô cùng tận. Bên đông trăng lên. Bên tây mặt trời xuống. Dang hai cánh tay, ta sẽ hứng cả trăng và trời.

Lung linh, một quả cầu tròn đỏ ối rực xuống biển cả. Du khách đến đây chiêm ngưỡng mặt trời lặn. Tôi có mặt trong đám người đó chiều ngày mồng 5 tháng 4, năm 2001.

* * *

Sau thời gian suy nghĩ, người học trò không sao vẽ được lằn mức giữa ngày và đêm. Anh đánh bạo trả lời tôn sư:

- Thưa Thầy, lúc mặt trời cho con đủ ánh sáng phân biệt được con chó khác con mèo, đó là ngày.

Vị đạo sĩ lắc đầu, hỏi người học trò:

- Phân biệt con chó khác con mèo, nhưng đủ ánh sáng để phân biệt cành trúc khác cành tre không?

Người học trò im lặng chưa biết nói gì. Tôn sư anh ta lắc đầu nói tiếp:

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 163

Page 164: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Ðấy không phải tiêu chuẩn phân biệt ngày và đêm con ạ. Ðủ ánh sáng phân biệt con chó với con mèo, nhưng bao nhiêu ánh sáng mới đủ phân biệt cây trúc với cây tre? Vả lại gần bao nhiêu thì rõ để gọi là chó, xa bao nhiêu là tối để có thể lẫn là mèo.

Sau cùng, người học trò tự thú:

- Thưa Thầy, từ lúc Thầy đặt câu hỏi con mới để ý khi mặt trời mọc. Con không vẽ ranh giới được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm kết thúc. Con thức giấc mỗi sáng mà không biết lúc nào gọi là ngày, lúc nào hết đêm.

- Con ạ, cuộc đời nhân gian đêm nhiều hơn ánh sáng. Người ta không tỉnh thức nên sống trong đêm tối mà cứ ngỡ ban ngày. Người ta thức dậy mỗi ngày mà không biết ngày bắt đầu lúc nào, làm sao gọi là thức dậy?

Người học trò im lặng trong ý nghĩ riêng tư, hỏi nhà đạo sĩ:

- Thưa Thầy, người ta không quả quyết được lúc nào đêm chấm dứt. Có phải ý Thầy muốn nói, như thế, thức dậy cũng chưa chắc là hết bóng đêm không?

- Ðúng thế, con ạ. Thầy muốn dạy con hai điều. Ðiều thứ nhất, con đã phí phạm biết bao bình minh, mấy mươi năm trong đời nhìn mặt trời mà không biết đâu là ngày, đâu là đêm. Ðiều thứ hai, ngày tháng còn lại của con, con phải trả lời câu hỏi của Thầy: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?

Bao nhiêu năm thiền niệm trên ngọn núi này, ngày ngày Thầy nhìn mặt trời mọc trên biển tìm câu trả lời. Thầy thức giấc nửa đêm trăn trở vì câu hỏi ấy. Thầy ra ghềnh đá chờ ánh mặt trời, Thầy lấy hết tâm trí nhìn bóng tối lui dần mà không vẽ nổi lằn ranh biên giới lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Cho đến một ngày kia...

Nói đến đó nhà đạo sĩ im lặng. Mắt ông ngời sáng, nhìn xa xôi về phía chân trời. Người học trò lắng nghe.

* * *

Bạn thân mến, có khi nào bạn nhìn mặt trời buổi sáng với câu hỏi của nhà đạo sĩ kia chưa? Mặt trời chưa mọc mà hừng sáng, ta chưa gọi là ngày được, vẫn còn bóng tối, ta bảo đó là hừng đông. Hừng đông là đã có chút áng sáng nên cũng không thể gọi là đêm được nữa. Từ cái mềm mại như ngọn chuối non đến mầu xanh biếc của tàu chuối già, từ cái xanh nhẹ của ngọn mạ đến màu già dặn của lúa, đâu là lằn mức phân biệt? Mặt trời lên dần, vũ trụ ngái ngủ trở mình. Ta chưa gọi là ngày cho đến khi cái ngái ngủ kia thành thức tỉnh. Ánh sáng làm cho cái mềm ẻo của thời gian mơ hồ thành ngày. Nhưng đâu là biên cương giữa ngày và đêm?

Ta thấy trong cuộc đời dường như cũng thế. Ðâu là tiếp nối giữa hạnh phúc và đổ vỡ? Bao nhiêu hạnh phúc hôn nhân lúc ban đầu đẹp vậy mà ít năm sau, ta nghe những chuyện buồn, ta ngỡ ngàng thở dài nghe bạn bè cho hay tin, họ ly dị rồi. Ðời mỗi người cũng thế. Có khi mình đang đặt sai về những giá trị cuộc sống mà chẳng biết. Ðến khi hối tiếc, đã quá muộn màng. Ðâu là biên giới của sắp sa ngã và sa ngã?

Không phân biệt được lúc nào ngày bắt đầu, khi nào đêm chấm dứt, làm sao phân biệt được lúc nào ngày chấm dứt và đêm sắp bắt đầu? Thứ đêm và ngày trong ý nghĩa thiêng liêng. Làm sao phân biệt được khi nào hạnh phúc đang phai mờ và đổ vỡ đang đến? Làm sao phân biệt lúc nào giá trị thiêng liêng đang chấm dứt và giá trị trần thế đang lấn chiếm?

Có khi ngày đang hết, đêm xuống dần mà không hay. Ta chần chừ, tưởng đời mình còn dài, trước ngưỡng cửa hoàng hôn mà cứ gọi là ngày.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 164

Page 165: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Có khi trước bóng đêm mà ta thản nhiên không phải ngày còn dài mà chỉ vì không phân được khi nào đêm bắt đầu.

Ðường thiêng liêng của linh hồn hay những chuyện tình cũng thế thôi. Họ không biết lúc nào vào bóng đêm, vì không biết tâm tình mình đang đi về đâu. Hòang hôn mà ta cứ tưởng là ngày.

* * *

Ðợi người học trò thật yên tĩnh, nhà đạo sĩ nói với môn sinh ông ta:

- Con ạ, thật sự không thể vẽ lằn mức được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt!

Người học trò như ngạc nhiên, chăm chú lắng nghe. Tôn sư ôn tồn xác định lần nữa câu nói của ông bằng cách cắt nghĩa cho người học trò:

- Không thể phân biệt được biên giới giữa đêm và ngày cũng như không phân biệt được bao nhiêu của cải là hạnh phúc, thiếu bao nhiêu là chưa đủ!

Ngập ngừng đôi giây, vị đạo sĩ nói như lời tâm sự thân tình với học trò mình:

- Thách đố bởi câu hỏi khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Thầy mải mê đi tìm trong văn chương triết học, trong thần bí niệm tu, cho đến một ngày biết mình không còn sống bao lâu mà vẫn không tìm được câu trả lời. Lúc đó Thầy buồn khôn tả, biết mình nhỏ bé trước biển cả và mặt trời. Thầy cúi đầu xin Thượng Ðế cho Thầy được chết bình an. Thầy xin Thượng Ðế cất đi câu hỏi đã dằn vặt Thầy. Thầy không còn cách nào trả lời câu hỏi ấy. Trong văn chương triết học, Thầy đã thất vọng, trong thần bí niệm tu, Thầy đã ráng sức cả đời. Càng suy nghĩ càng thấy mình nhỏ bé, sau cùng, Thầy chỉ còn biết xin Thượng Ðế thương xót, đừng hỏi nữa cho tâm hồn Thầy thảnh thơi.

Khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?

Không trả lời được con ạ. Ðâu ngờ, chính lúc Thầy xin Thượng Ðế cất câu hỏi ấy đi, Ngài lại trả lời cho Thầy. Một ánh sáng êm dịu vô ngần nhẹ nhàng đậu xuống linh hồn Thầy, cho Thầy một trí hiểu đơn sơ, một niềm vui kín đáo, một năng lực sống trọn vẹn vì một khám phá: Ðời quá đẹp.

Nói tới đó, nhà đạo sĩ như phiêu du vào một vùng trời rất đỗi bình an. Người học trò chăm chú kỹ hơn, lắng nghe.

- Con ạ, Thượng Ðế nói trong linh hồn Thầy rằng, lúc nào Thầy nhìn con, thấy bóng dáng Thượng Ðế trong con, lúc nào Thầy nhìn ai cũng chỉ thấy là bạn hữu, đó là ngày! Lúc nào Thầy nhìn người tức giận, ghét bỏ, tham lam, thù hận đấy là đêm!

Ánh sáng phân biệt đêm và ngày là lòng từ ái nhân hậu.

Ði giữa ban ngày trong trái tim trĩu nặng, vẫn là đêm, con ạ. Ngày và đêm không thể phân biệt bằng ánh sáng vật lý, chỉ có lòng từ ái bao dung.

Ông nhìn người học trò rất đỗi nhân ái mến yêu. Từ từ nhắm mắt. Im lặng, linh thiêng và bình an, ông lặng lẽ xuôi hồn về thế giới bên kia.

Ông đã chết.

Ông về với ánh sáng, nơi chỉ có ngày, không còn đêm nữa. Ông ra đi, để lại cho người học trò câu trả lời lúc nào là đêm, lúc nào ngày bắt đầu.

* * *

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 165

Page 166: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Người học trò vĩnh viễn xa tôn sư. Vị đạo sĩ chết bình an sau khi để lại cho người học trò ánh sáng mà ông đã kiếm tìm.

Ngày đó anh ta vui mừng vì được câu trả lời không phải vất vả tìm kiếm cả một đời như tôn sư anh. Xa Thầy, người học trò cắp sách vào đời. Chả bao lâu sau khi tôn sư chết, một chiều nọ nhìn mặt trời xuống biển, một sáng kia thấy mặt trời mọc trên đầu núi, nhìn lại câu trả lời của Thầy, anh bất giác nhận thấy đấy chỉ là tìm kiếm của riêng Thầy.

- Ðâu là câu trả lời của riêng ta?

Anh tự hỏi vậy. Nếu lòng nhân ái bao dung là ánh sáng phân biệt đêm và ngày, ta có lòng nhân ái không? Câu chuyện hạnh phúc riêng linh hồn ta, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?

Nhìn ánh bình minh sắp lên, trên triền núi đá sương đêm đang mờ mờ tan. Lúc nào ngày tâm linh bắt đầu, lúc nào đêm thiêng liêng chấm dứt?

Nghĩ đến câu trả lời của tôn sư: "Ánh sáng phân biệt đêm và ngày là lòng từ ái nhân hậu hay óan thù nhỏ nhen. Ði giữa ban ngày trong trái tim trĩu nặng, vẫn là đêm, con ạ. Ngày và đêm không thể phân biệt bằng ánh sáng vật lý, chỉ có lòng từ ái bao dung." Anh ta phân vân hỏi lòng:

- Ðó là câu trả lời của Thầy. Thầy đã đem một đời tìm câu trả lời ấy. Còn câu chuyện hạnh phúc riêng linh hồn ta, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?

Anh tưởng rằng Thầy đã trả lời giùm. Không thể phân biệt được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt bằng ánh mặt trời, mà bằng bao dung của con tim. Ngày ấy anh chợt vui vì câu trả lời không cần tìm kiếm. Nhưng nỗi nhẹ nhàng của tấm lòng lịm tắt ngay. Thầy hiểu thế trong trái tim và cuộc sống của Thầy. Còn chính ta, lòng ta có bao dung và ngày có bắt đầu? Câu trả lời của Thầy chỉ là gợi ý cho trí hiểu, còn chính ta, đời ta là ngày bắt đầu hay ngày đang chấm dứt? Ta phải tìm câu trả lời cho riêng ta.

Anh lại trăn trở, câu hỏi ấy không đơn giản, và biết mình sẽ phải đem theo cả đời để trả lời câu hỏi ấy.

Vị đạo sĩ đã bỏ những ngày thách đố chính mình ngồi nhìn hoàng hôn, bỏ những ngày dõi theo ánh bình minh. Ông quay về tìm ánh sáng trong cõi lòng. Tìm được rồi, ông bình an bỏ luôn cõi đời bước vào ngày ngàn thu vĩnh cửu. Nơi chỉ còn ánh sáng không còn đêm.

Rồi tôi cũng từ giã vùng biển Comorin. Trên chuyến xe đò về hướng Bắc tôi sẽ bỏ lại biển cả và mặt trời. Tôi biết ngày mai, rồi tiếp tục ngày mai nữa, thế kỷ nữa và nhiều thế kỷ nữa du khách sẽ kéo nhau ra mỏm đá này nhìn mặt trời. Trong trái tim mỗi đời người, trong chuyện tình cuộc sống của họ, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?

Ngày mai tôi lên đường. Ðến lúc tôi phải bỏ lại biển cả và mặt trời, bỏ lại ghềnh đá và dòng nước, giữ lại trong tâm tư thôi vì nếu không, làm sao tiếp tục cuộc hành trình.

 (Trích Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục)

- Ðoản Khúc 78 -

Ðạo Sĩ Sadhu 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 166

Page 167: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Trong kho tàng văn chương tu đức Ấn Giáo có chuyện kể như sau: Ở một làng nọ, có vị đạo sĩ, Sadhu, tu thân lâu ngày, gần đạt đến bậc thánh nhân. Dân chúng ngưỡng mộ, quý mến nhà đạo sĩ, đến thỉnh ý, tầm thầy học đạo.

Một ngày kia, thấy vị đạo sĩ rách rưới, kẻ qua đường biếu nhà đạo sĩ manh vải che mình. Những lúc Sadhu ngồi thiền niệm, bày chuột tưởng tượng gỗ, rúc vào tấm vải gặm nhấm. Tội nghiệp, có kẻ qua đường thấy thế, biếu Sadhu con mèo bắt chuột. Dân trong làng thương tình, thay nhau đem sữa nuôi con mèo. Rồi ngày nọ, có kẻ hành hương từ phương xa, nghe tiếng thơm nhân đức, đến viếng nhà đạo sĩ. Người đàn bà giàu có ấy tặng đạo sĩ Sadhu con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Ðể nuôi con bò, người ta làm cho nó cái chuồng. Từ dạo đó, con bò có chuồng, vị đạo sĩ không có nhà. Thấy thế không ổn, dân trong làng làm cho nhà đạo sĩ chiếc chòi lá.

Từ ngày ấy, nhà đạo sĩ không còn nhiều thời giờ tu niệm như xưa, bận rộn nuôi con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Nuôi con mèo để đuổi lũ chuột. Phải lo sửa sang căn nhà. Dân trong làng không muốn nhà đạo sĩ mất thời giờ săn sóc con bò, họ gởi một người đàn bà đến cắt cỏ nuôi con bò, săn sóc con mèo thay cho nhà đạo sĩ có giờ thiền tu.

Nhà đạo sĩ đã có tấm vải che thân, có con mèo đuổi chuột, có con bò cho sữa, có căn nhà để ở, có người đàn bà săn sóc cuộc đời mình. Chẳng bao lâu, nhà đạo sĩ không còn thời gian tĩnh mịch nữa, ông đầy đủ hết rồi.

Ðâu là con đường tu đạo? Ông lấy người đàn bà làm vợ, thế là chấm dứt cuộc đời hạnh tu.

* * *

Tôi viết những dòng này chiều ngày mồng một tháng Giêng năm 2001, tức ngày đầu năm, thiên niên kỷ thứ ba. Tôi đến Ấn Ðộ lúc 11 giờ 30 đêm ngày 29.12.2000. Bước xuống phi trường Bombay tôi thấy ngay cái nghèo của đất nước này. Ở Bombay trọn ngày 30, hôm sau lấy xe lửa đi Poona, tiếng Anh viết là Pune, một thành phố cách Bombay bốn tiếng theo đường xe lửa về hướng đông nam. Tôi sẽ ở thành phố này hai tháng. Chiều nay, vậy là tôi đã ở Ấn Ðộ được ba ngày.

Tôi dự tính sẽ ở Ấn nửa năm. Tôi viết những dòng này, chiều nay, vì nỗi trống trải, một nỗi buồn nhớ nhà. Ðất Ấn quá xa lạ, viết để mong tìm trong dòng chữ một chút lãng quên.

Từ phi trường Singapore, một trong những phi trường hiện đại nhất thế giới, những gian hàng điện tử trưng bày sản phẩm mới nhất, văn minh nhất thời đại, chỉ sau bốn tiếng rưỡi đồng hồ, tôi đến một thế giới quá khác xa, bụi bặm, nghèo đói, dơ dáy. Cảm giác đầu tiên của tôi là muốn quay về Mỹ. Tôi đã đi nhiều nơi, thích nghi với nhiều hoàn cảnh. Những ngày ở Philippines, qua những khu nhà tồi tàn, chứng kiến đám dân nghèo sống bằng núi rác của thành phố thải ra. Nhưng mới ba ngày ở đây, tôi biết nơi đây còn nhiều cảnh nghèo hơn Việt Nam và Philippines.

Ra được khỏi phi trường, đã nửa đêm, tôi kéo chiếc va ly nhỏ theo người đón, đi bộ một quãng dài, đón chiếc xe ba bánh, một loại như Lambretta ở Việt Nam. Ðường phố bụi bặm, vỉa hè tồi tàn. Về đến nhà dòng, thất vọng biết bao với chỗ ngủ đêm nay. Tôi đã từng ngủ trọ qua đêm tại nhiều nhà dòng ở Việt Nam. Tôi chưa thấy phòng khách nào ở Việt Nam nghèo nàn như thế. Một lần nữa, như tôi viết ở trên, tôi chỉ muốn quay về Mỹ.

Trong tôi lẫn lộn nhiều cảm xúc. Mệt mỏi của một hành trình xa. Chán cái nghèo nơi đây. Nhớ nhà. Nhớ những tình cảm của người quen. Tôi đã hành hương thăm căn phòng Cha sở họ Ars ở Pháp. Hôm nay, những căn phòng này tồi tàn hơn. Trên đường bay từ Mỹ qua đây, tôi dừng lại Việt Nam mấy ngày. Ở nơi ấy, tôi thấy Việt Nam nghèo, nhưng trong tôi lúc này nổi lên mơ hồ một cảm xúc trăn trở. Trăn trở vì trong cái nghèo có gương mù, thưa kiện nhau về tiền

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 167

Page 168: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

giữa những người được coi là mẫu mực trong Giáo Hội. Trăn trở vì giáo xứ nghèo tiếp tục rách nát. Chỉ chờ xin ngoại quốc. Thiếu nâng đỡ nhau giữa các họ đạo trong một địa phận, tội nghiệp cho những linh mục vất vả suốt đời ở đó. Xin tiền không còn nói là mình kém, nó trở thành như mình có quyền nhân danh cái nghèo. Cũng như hối lộ không còn là điều làm người ta ngại ngùng mà như một thủ tục bình thường. Chứng kiến cái nghèo ở đây, tôi thấy tâm tình mình lẫn lộn hoang mang. Cái nghèo cơ sở vật chất của Giáo Hội Việt Nam đang biến đổi, sẽ hết nghèo. Nhưng đàng sau cái nghèo nhà cửa đang biến đổi kia, còn nét đẹp nghèo trong tinh thần hay đang bị ám ảnh về tiền bạc.

Tối đầu tiên ở Bombay, rất nóng, chiếc quạt trần tróc sơn, bụi cáu đen, kêu cành cạnh như muốn rơi xuống. Tường vôi loang lổ, vàng ố đen đủi như những bức tường xây từ thời Pháp thuộc ở Việt Nam. Trần nhà thấm nước mốc rêu. Chiếc giường gỗ cũ kỹ. Tấm khăn trải giường, chắc chắn lâu lắm rồi. Tôi sợ không sạch, cúi xuống ngửi, không có mùi hôi. Chỉ cũ thôi.

Hôm sau, 30 tháng 12, trọn một ngày chứng kiến những cảnh chen chúc ở sân ga, khạc nhổ, dơ dáy, bụi bặm. Rời Bombay ngày 31 đi Poona, chiều nay, ngày đầu năm vắng vẻ, nhớ về Mỹ với căn phòng sạch sẽ thật nhiều. Nhớ những cú điện thoại tiện nghi. Nhớ tình bạn. Nhớ những khoảng trời tự do cá nhân. Nhớ nhân phẩm và quyền làm người được tôn trọng. Một buổi chiều quá vắng trong sân tu viện. Trong nỗi nhớ nhà, chán cái nghèo ở đây, tôi tìm vào thư viện và đọc được câu chuyện nhà đạo sĩ Sadhu ở trên.

Câu truyện trên nằm trong cuốn sách nhỏ, cũ kỹ, bụi cũng bám ở gáy sách. Nó nằm im lặng trong kệ tủ. Nó đâu biết chiều ngày đầu năm có người khách lạ từ đâu tới mở trang sách đó. Truyện vô danh, không tác giả, chỉ đề là "an Indian story".

Ðất này nghèo, sao lại có những câu chuyện đề cao cái nghèo như thế? Có phải tác giả đề cao cái nghèo, hay con người tu đạo ấy viết câu truyện trên như chính kinh nghiệm bản thân nói tới tự do của đường vào tâm linh? Có phải họ lấy cái nghèo vật chất để nói cái giàu tâm linh, lấy cái giàu của cải để cảnh tỉnh cái mất tự do tâm hồn?

Câu chuyện bắt đầu chỉ là miếng vải che thân, rồi dần dần nhu cầu sinh ra nhu cầu, sau cùng nhà đạo sĩ mất lý tưởng hạnh tu. Làm thế nào nhà đạo sĩ Sadhu bỏ cuộc, đánh mất hành trình tu giới của mình? Của lễ, tặng vật kia êm ả quá đỗi. Nó như làn gió nhẹ mơ màng, dật dờ như dòng nước không tiếng động. Thế mà đánh đổ nhà đạo sĩ. Sự đổi mới ở đất nước tôi đang mang dáng dấp có nhà Sadhu nào sắp ngã không?

Của lễ dâng cúng không là tội. Nhưng người đạo sĩ có thể bị hủ hóa không ngờ. Lòng bao dung của tín đồ cũng phải khôn ngoan biết bao, chính họ có thể đưa con người hướng dẫn tôn giáo của họ vào tà đạo bằng của lễ ngẫu tượng.

Người ta làm chủ của cải, rồi một ngày bị của cải lấy mất tự do mà họ không ngờ. Ðể lòng mình làm chủ hay bị của cải làm chủ vẫn luôn luôn là một giằng co khốn khổ. Nó vẫn là con đường hạnh tu. Thật khó để mình chiếm hữu của cải chứ không để của cải chiếm hữu mình. Nhu cầu này sinh ra nhu cầu khác. Ta không biết đâu là bến bờ. Phương tiện nào đưa ta đạt đến mục đích, khó mà nhìn thấy.

Sống đơn giản đưa Shadu vào đời sống tu hạnh. Mất đơn giản, ông mất lý tưởng. Trong Giáo Hội, tất cả các đại thánh đều có đời sống đơn giản. Không phải trong Giáo Hội Công Giáo mà thôi, tất cả thánh nhân trong tôn giáo khác cũng vậy.

Không ngờ Sadhu đánh mất lý tưởng. Tội nghiệp ông. Tôi nghĩ, nhà đạo sĩ nào viết câu chuyện ấy, đã đạt tới bậc tỉnh ngộ rất cao như lời dạy "hãy tỉnh thức và cầu nguyện." Sau biến cố tháng tư năm 1975, hạn chế sinh hoạt tôn giáo đã đưa các tu sĩ phải học chung với nhau. Nhờ

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 168

Page 169: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

vậy, biết nhau, làm việc chung với nhau, xóa bớt cạnh tranh cục bộ. Bây giờ tấm áo che rách đang được khoác lên. Nhu cầu đang sinh nhu cầu. Sự làm việc chung ấy sẽ tiếp tục hay dần dần lại trở về cạnh tranh cục bộ với cơ sở và thế giới riêng tư. Gần mười năm trước tôi về thăm quê hương lần đầu. Vị linh mục bảo miễn sao dạy được giáo lý. Ðiều cần là giữ đức tin. Nhà thờ chỉ mong cái microphon để làm lễ. Lần này trở về, ngài hỏi ở Mỹ có cái microphon không dây nào cỡ độ năm trăm đô la không.

Ðất Ấn vẫn nổi danh với những huyền bí và những nhà đạo sĩ hạnh tu. Tôi không biết những ngày ở đây sẽ tìm được hoa trái cho đời sống tâm linh không, chứ nói về thú vui, tôi có cảm tưởng sẽ chẳng có gì vui. Ngày đầu năm, nhớ về đất Mỹ với "của cải" của mình, nhớ về Việt Nam với những diễn biến mới đang xẩy ra, trong Giáo Hội cũng như đất nước. Con đường hạnh tu của Giáo Hội đang đẹp, sẽ đẹp, hay biết đâu miếng vải che thân của khách qua đường thương tình Giáo Hội và đất nước ấy đang rét, choàng lên cho ấm, và rồi từ đấy hủ hóa, đánh mất vẻ đẹp của mình.

Ngày 5 tháng 1 năm 2001.

Tôi đã ở nhà dòng này được gần một tuần. Vẫn chưa quen. Nơi tôi đang trọ học là một nhà dòng lớn, gần hai trăm thầy với hai phân khoa triết và thần học. Tiêu chuẩn ăn của họ chỉ như tiêu chuẩn Cao Ủy phát cho thuyền nhân trong trại tỵ nạn ngày xưa. Tôi không thể ngờ mỗi ngày chưa đầy một đô la cho một thầy, trong đó tính luôn tiền gas, điện nấu ăn, tiền lương trả đầu bếp, tiền chuyên chở, tiền dụng cụ nhà bếp, bát đĩa (1US$ = 46.10 rúppi. Mỗi thầy 42 rúppi tiền ăn một ngày). Việt Nam nghèo, nhưng mỗi năm Việt kiều gởi hàng tỷ đô la về giúp, nên nhà dòng ở Việt Nam không đến nỗi nghèo như ở đây. Tôi chỉ nói một cách tương đối.

Dân nghèo bên bãi rác lấy thùng giấy, bao nhựa trùm thành như những cái ống cống cắt đôi, sống bên lề đường rất nhiều. Chung quanh nồng nên mùi khai xú uế, xác thú vật chết, bụi đường, khói xe. Ði bộ qua những nơi đó, tôi có cảm tưởng sẽ mang bịnh vì bao nhiêu thứ như vậy trôi vào phổi mình. Bây giờ tôi hiểu hơn, tại sao Mẹ Têrêsa đã chọn Ấn Ðộ. Lớp dân nghèo ở đây, họ nghèo đến độ đi qua những khu như thế tôi ngại không dám nhìn họ, vì làm sao dám nghĩ Thiên Chúa cũng hiện diện trong họ.

Dường như các thầy trong nhà dòng này đa số đến từ thành phần cũng bình thường. Quần áo họ mặc, giầy dép họ đi, tôi có để đánh giá phần nào. Không hỏi ban giáo sư, nhưng sống giữa họ, nói chuyện với họ, quan sát đồ dùng của họ, tôi biết đường hướng giáo dục ở đây đang chuẩn bị cho các linh mục tương lai này biết sống đồng hành với dân nghèo của họ. Các cha giáo cũng vậy, ăn chung cùng phần thức ăn, chung cùng bàn. Tôi chưa quen đồ ăn ở đây vì nhiều cà ri quá. Bữa cơm chiều nọ, không hiểu vì sao có một rổ cơm và duy nhất một món khoai tây nhão trộn vàng cà ri. Một cha già người ngoại quốc qua truyền giáo từ thập niên năm mươi ngồi cùng bàn với tôi nói: There is not much to eat today. Sự thường bao giờ cũng có hai món ăn. Nói về ăn uống, họ không thiếu, cơm dư, nhưng đồ ăn chỉ đủ và không ngon miệng thôi. Thí dụ sau cơm bao giờ cũng có chuối tráng miệng. Mấy hôm đầu tôi tưởng giống chuối bên đây nhỏ hơn ở Việt Nam nhưng đi chợ mới biết chuối ở chợ lớn hơn, lành lạnh hơn chuối ăn trong nhà dòng. Họ thật sự sống tinh thần nghèo. Ngay cả điện nước, các đồ dùng khác cũng thế. Cái microphon trong nhà thờ này cũ rồi, tôi nghĩ chỉ vài chục đô la thôi.

Cứ mười hai năm, Hindu, Ấn Giáo lại có một "năm thánh". Năm 2001 này là "năm thánh" đó. Ước chừng bẩy mươi triệu người sẽ về sông Ganga miền Bắc Ấn Ðộ để tắm gội tội lỗi trong sáu tuần. Ðêm ngày những chuyến lửa đầy tràn người trên mui tiếp tục đổ về sông Hằng. Báo chí ngày nào cũng đầy rẫy hình ảnh người ta chìm mình trong dòng sông, giơ tay cầu nguyện. Tìm con đường thanh tẩy thôi mà họ tha thiết như thế sao.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 169

Page 170: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Trở về câu chuyện im lặng trong trang sách bám bụi tôi viết cách đây mấy ngày. Bài học đầu tiên tôi xin cám ơn đất Ấn đã có những người con đi tìm con đường tỉnh ngộ như tác giả câu truyện đạo sĩ Sadhu trên đây.

Phải chăng nước dòng sông Hằng và những mảnh đời đi tìm con đường thanh tẩy đã kết tinh thành những áng văn chương Sadhu. Hay nhờ những áng văn chương tu đức đó nhắc nhở mà dòng sông Hằng vẫn luôn có người đi tìm con đường thanh tẩy?

Nguyễn Tầm Thường

Những ngày đầu tiên ở Ấn Ðộ

 (Trích Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục)

 

- Ðoản Khúc 80 -

Lời Của Chiếc Dây Thừng 

Tôi là chiếc dây thừng.

Tôi thắt cổ Giuđa. Tôi nghe rõ tiếng khò khè nơi cuống họng nhân vật này.

Nhớ lại đi, ngày Ðức Kitô vào đền thờ Jêrusalem, tôi cũng là chiếc dây thừng.

Ngài lấy giây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ. Tôi nghe rõ những gì xảy ra ở đền thờ ngày hôm đó. Chuyện không đơn giản như nhiều người nghĩ.

Mọi người cứ nghĩ như thế là xong, cứ nghĩ Ðức Kitô ra khỏi đền thờ là xong. Ai là người buôn bán trong đền thờ? Còn ai nữa, nếu không được phép của các thầy tư tế. Ai lọt được vào đền thờ, nếu không có thế lực bảo chứng? Còn chỗ nào kiếm tiền tốt nhất trong những ngày đại lễ, nếu không là đền thờ?

Tiền bạc là thế lực âm thầm mà cuồn cuộn như dòng sông. Tôi là chiếc dây thừng trong ngày đó. Tôi nghe rõ những gì xảy ra:

- Nhóm tư tế ít thế lực ghen tức với nhóm thày cả có đông tín đồ.

- Nhóm tư tế quyên tiền gây quỹ được ít, nói xấu nhóm đổi tiền.

- Các tiền tiêu ngoài chợ phải đổi thành tiền riêng mới được bỏ vào hòm thánh. Vì thế, nhóm đổi tiền cho công việc của mình mới là chính đáng.

- Nhóm bán chiên cừu tố cáo nhóm đổi tiền là giả hình.

- Nhóm tư tế phục vụ bàn thánh bất mãn vì đền thánh chỉ là đền thánh, gây chiến với nhóm chủ trương phải kinh tài.

- Nhóm nào cũng cho mình mới là đáng tin, họ cạnh tranh nhau.

- Nhóm tín đồ từ vùng Galilê chủ trương vai trò ngôn sứ là công bố Lời Thánh, tư tế phải trở về bục giảng. Tín đồ chống đối tư tế.

Giữa lúc xôi đậu như thế Ðức Kitô xuất hiện.

Ngài chẳng thuộc nhóm nào.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 170

Page 171: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Vì không thuộc nhóm nào nên càng dễ chết.

* * *

Tôi là chiếc dây thừng.

Tôi nghe nhiều bí mật của cuộc đời. Tôi theo những người nghèo không có tiền. Họ dắt con bê từ mấy mùa mưa nắng, cắt cỏ chăn nuôi. Họ vất vả kiếm nước cho nó uống dọc đường dài. Nắng sa mạc hiếm cỏ. Những của lễ như thế, quý lắm. Tôi là chiếc dây thừng, tôi biết rõ lắm về lòng chân thành. Họ nuôi chúng cả năm trời.

Tôi cũng là chiếc dây thừng người ta vừa mua tôi về cột vào con bê bệnh. Rất nhiều con vật bệnh hoạn, họ mua về tắm rửa, đem vào đền thờ bán vội cho những người lười không muốn vất vả dắt chiên theo đường dài. Nhiều kẻ hành hương mua lầm của lễ. Họ dâng hiến Giavê những chiên cừu bệnh hoạn. Trong đền thờ ngày đó, đủ thứ của lễ, trong sạch có, què quặt có, lười biếng có, thánh thiện có.

Tôi là chiếc dây thừng, tôi biết rõ về của lễ. Những ai múc nước, đem cỏ, dắt của lễ theo thì biết rõ của lễ của mình trong sạch. Còn những người đến đền thờ mới mua, ôi, nhiều của lễ quá bệnh hoạn. Làm thân dây thừng, tôi khám phá nhiều chân lý về cuộc đời và của lễ. Tôi thấy rất nhiều của lễ được bao bọc bằng lòng lười biếng. Những của lễ trong sạch bao giờ cũng phải trả một giá về sự thanh tẩy, lòng cố gắng và nhiệt thành.

* * *

Không phải Ðức Kitô vào đền thờ đơn giản đâu. Ngài cũng thấy quyết định này có thể đưa Ngài đến cái chết. Quả thật, sau này, cái chết của Ngài đã chứng minh điều đó. Cái chiều nắng quái kinh hồn đó, lũ người này có mặt trên đường Núi Sọ. Làm sao mà họ không reo mừng, nhớ lại cái ngày bị đuổi khỏi đền thờ, mất chỗ làm ăn.

- Thưa Thầy, chuyện Thầy tính làm nguy hiểm quá.

Phêrô, người môn đệ thân cận lại can ngăn Thầy mình như mọi khi.

- Thưa Thầy, con đã thăm dò tình hình. Có cả một ủy ban gây quỹ. Bao nhiêu năm nay, truyền thống này như lời kinh rồi.

Những ngọn ô liu không gió, đứng im lặng, không thản nhiên vô tư, nhưng chúng cũng không biết phải phản ứng thế nào. Thỉnh thoảng dăm ba chiếc lá già lìa đời. Một chút xào xạc bước chân con chồn nhỏ chạy qua. Ðức Kitô nhìn người môn đệ thân cận. Không trả lời. Trong tâm tư Ðức Kitô cũng biết, đó là sự thật. Người môn đệ này thương mình. Ðã qua mấy đêm rồi, Thầy trò nói với nhau về đền thờ.

Ðức Kitô hỏi người môn đệ:

- Bây giờ phải làm sao?

Người môn đệ ấy trả lời:

- Thưa Thầy, cứ kệ họ.

Ðức Kitô nói tiếp:

- Nhưng đây là đền thờ.

Người môn đệ đáp trả:

- Mình cứ lên đền thờ tế lễ theo luật là đủ rồi.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 171

Page 172: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ðức Kitô không nói gì thêm, nhìn bầu trời đêm không ánh sao. Những tàng ôliu không gió phẳng lì như những tấm chiếu dán trên khung trời. Phêrô tựa lưng, ngả đầu vào thân già của cây ôliu đã gẫy, cũng thinh lặng.

Tôi là chiếc dây thừng trong ngày kinh hoàng đó. Lúc Ðức Kitô cầm tôi quật xuống chiếc bàn của thầy tư tế đang đổi tiền, không ai ngờ, họ hét lên. Toàn thể kinh hoàng. Họ không thể ngờ, có người điên mới dám hành động như vậy. Nhưng điên làm sao được, họ biết rõ người này là ai.

Họ không tin sự việc có thể xảy ra. Nơi này, người ta đã được phép buôn bán từ xa xưa rồi. Ai là người dám thay đổi cục diện. Nhưng �ức Kitô nói:

"Ðừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán." Khi Người lật nhào bàn ghế, đổ tung hòm tiền thì người ta biết đây không phải chuyện nói cho qua.

Các kẻ thuê đất, các hội trưởng nhốn nháo chạy báo tin cho các thầy thượng phẩm. Không phải họ xách bàn chạy dễ dàng đâu. Tôi là chiếc dây thừng. Tôi bị bọn họ chặt tôi đứt nhiều khúc. Thân tôi bị giật xé cũng đau đớn tan tác.

- Giết nó đi. Ðóng đinh nó đi.

Tiếng kèn báo động như tù và rú trên tháp canh. Ðám đông xúm lại hét to:

- Ai cho ông có quyền làm như thế?

Họ không dám đến gần Ðức Kitô. Tôi là chiếc dây thừng trong tay Ngài. Họ nhìn tôi chằm chằm.

* * *

Làm thân dây thừng, tôi ở trong tay Chúa, cũng như thắt cổ Giuđa. Tôi dắt những con chiên trong sạch từ vườn nhà, vượt qua đồi, qua suối lên đền thờ. Tôi cũng bị người ta mua vội thắt vào cổ con bê bệnh hoạn bán cho nhau làm của lễ. Họ lấy của lễ lừa dối nhau, họ lầm lẫn về của dâng cúng. Tôi nghe những tay lưu manh đứng rình mò trong đền thờ. Tôi nghe bày thú tranh nhau ăn, cắn nhau đổ máu dính lên người tôi. Chúng là tiếng sủa thương đau của nhiều loài thú khác nhau. Những vết máu dính lên người tôi cũng chẳng khác gì những vết thương mà con người mang trong hồn do chính họ tạo nên bởi đam mê tội lụy. Nơi nào có súc vật mà không có mùi hôi. Vậy mà tôi thấy những con buôn ngồi thản nhiên hít thở hàng ngày. Tôi thấy không biết bao nhiêu ý nghĩ về con đường lên đền thờ.

Khi thầy tư tế bán của lễ thì thiên thần đứng khóc.

Khi tín đồ mua của lễ thì quỷ dữ đứng cười.

Khi linh hồn không được thanh tẩy thì của lễ là lười biếng.

Khi của lễ thành buôn bán thì tình nghĩa anh em, bạn hữu chỉ là tính toán.

Khi tâm hồn không siêu thoát thì của lễ thành cạnh tranh.

Khi của lễ là đơn vị kinh tế thì lòng thật thà thành rình mò.

Khi lười biếng che đậy thì của lễ thành trình diễn.

Làm thân dây thừng tôi mới hiểu hơn về con đường tu đức thiêng liêng. Tôi chỉ kể chuyện đời tôi hai nghìn năm trước. Hai nghìn năm trước, kể chuyện đời mình cho hai nghìn năm sau. Thời gian nào cũng có những của lễ, có những chiếc dây thừng.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 172

Page 173: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Chuyện đời tôi hai nghìn năm trước đã qua. Tháng ngày còn lại, tâm sự tôi đang dang dở. Hôm nay, tôi cũng vẫn là chiếc dây thừng. Nhưng Ðức Kitô không có mặt ở đây, nên tôi không rõ có gì đang xảy ra ở đền thờ không.

 (Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình, xuất bản mùa Giáng Sinh 2005)

 

- Ðoản Khúc 86 -

Tấm Hình Của Mẹ 

- Con ạ! Anh em chúng con chỉ có mấy đứa. Ðất khách quê người, con để ít giờ cuối tuần mà thăm nhau. Con đừng đi làm ngày Chúa Nhật nữa.

Lời khuyên không làm đứa con gái xuôi lòng.

Sống xa cộng đoàn người Việt, mãi vùng xứ lạnh Bắc Âu. Tâm tư bà thường nhớ về quê cũ. Mảnh vườn xưa. Dăm ba tầu chuối trưa hè. Nhưng con bà đã gần như người Âu. Ðối với bà, tiếng chuông nhà thờ còn là nỗi nhớ người, nhớ cảnh. Nhưng những đứa con lớn lên ở đây, chúng không có kỷ niệm những tối trăng sao vằng vặc, tiếng ếch kêu trong đêm mưa. Bởi đó, những lời khuyên như trên của bà chỉ là ước mơ hững hờ.

Ngày bà chết. Người con gái năm xưa để tấm hình bà trên tủ thờ tổ tiên. Người con gái năm xưa ấy bây giờ đã có một lũ con. Chúng lớn mau không ngờ. Nếu bà còn sống, nay chúng là lũ cháu của bà. Giống như bài luận văn ngày cũ: Cứ tối tối ngoại quây quần kể chuyện cổ tích cho các cháu nghe. Người con gái năm xưa ấy kể:

- Mỗi lần nhìn tấm hình của mẹ. Lòng tôi se sắt một tiếng thương và một nỗi nhớ.

Ðã bao năm về trước, bà đã một lần nói với đứa con gái lớn: "Con ạ! Anh em chúng con chỉ có mấy đứa. Ðất khách quê người, con để ít giờ cuối tuần mà thăm nhau. Con đừng đi làm ngày Chúa Nhật nữa". Ðứa con gái không nghe lời.

Lời khuyên có vẻ dễ dàng, nhưng đời có những chuyện chưa kịp nghĩ tới. Lời bà khuyên con gái, không ngờ một ngày kia trở về với chính bà.

Câu chuyện là bà có cửa tiệm bán quần áo, chung với một người đồng hương. Sau những ngày làm ăn, nghi ngờ nhau. Bà đánh dấu mực vào cổ áo. Hôm sau người partner đến bán đi, không muốn chia lời, người này lấy áo mới thay vào. Giả bộ cứ như là đến phiên mình bán, không bán được bao nhiêu.

Hai bên đưa nhau ra tòa, hết tình hết nghĩa, cửa tiệm bán quần áo không còn.

Bà kiếm một việc mới: Bán chợ phiên ngày Chúa Nhật. Thế là lời khuyên con gái năm xưa trở thành lời khuyên chính mình. Chỉ cần một buổi chợ phiên Chúa Nhật, bà kiếm mấy trăm đô la. Câu chuyện "bình an" cho đến một ngày. Người con gái năm xưa, có chuyện giữa mẹ con, nói với bà:

- Ngày xưa mẹ bảo con đừng đi làm ngày Chúa Nhật, bây giờ thì...

Người con gái không nói hết câu. Nhưng ý phải hiểu: "Bây giờ thấy tiền thì mẹ cũng làm ngày Chúa Nhật như con thôi".

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 173

Page 174: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ði làm ngày Chúa Nhật có tội hay không?

Ðôi lúc bà cũng phân vân. Nhưng nỗi trăn trở nhất trong tâm hồn bà là tấm ảnh người mẹ sau khi chết. Bà biết nếu ngày nào bà chết trước người con gái. Con bà sẽ để hình bà trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh chồng bà. Mỗi lần đến thăm nhà đứa con gái, bà âm thầm nhìn lên tấm ảnh đen trắng, chồng bà. Tấm ảnh đứa con đã để trên bàn thờ tổ tiên. Ảnh bố nó. Bà lại như thở nhẹ một nghĩ ngợi, chắc nó cũng để hình bà ở góc kia, trên điện thờ ngày bà chết. Bà kín đáo nhìn tấm ảnh vô hình của bà. Bà hình dung ánh mắt bà trong tấm ảnh đang nhìn xuống.

Vào một đêm không ngờ. Ðêm đen của đất trời, nhưng sáng trong linh hồn. Trong đêm đó, thinh lặng, các con yên ngủ, trước tượng Chúa. Người mẹ đau khổ lâm râm cầu nguyện:

- Lạy Chúa,

Xin giúp con, con đã một lần khuyên con gái đừng đi làm ngày Chúa Nhật, dành thời gian cho anh em, cho chồng, cho các con. Nhưng nay thì con lại đi làm. Ngày con chết đi, mỗi khi nhìn ảnh con trên điện thờ, chắc con của con sẽ đau khổ vì có người mẹ như thế, chỉ biết khuyên con mà không dám sống lời mình khuyên. Nhìn ảnh con chắc nó cũng thương một người mẹ. Nhưng chắc nó cũng đau vì có người mẹ như thế. Con muốn ngày nào con chết đi, nhìn ảnh con trên bàn thờ vào những ngày giỗ kỵ, nó dám nói với các con của nó là: Các con nhìn cuộc đời ngoại của các con, ngày còn sống, ngoại chúng con dám sống cuộc đời can đảm như thế.

Lạy Chúa, cuộc đời con còn được bao lâu. Con muốn để lại tấm ảnh thờ không phải chỉ cho đứa con gái mà còn cho các cháu của con nữa.

Ðêm đó tĩnh mịch. Căn phòng ngủ im như tờ. Se sẽ tiếng thở của lòng người mẹ thương con, thương cháu. Bà im lặng khấn vái trước tượng Chúa, cầu nguyện cho tương lai con cháu. Một đêm rất đỗi không ngờ. Im lặng trong lòng bà thôi, mà lời kinh thấu đến trời cao.

Rồi một ngày, bà bỏ chợ phiên. Bà bỏ những sáng Chúa Nhật đi buôn.

Người con gái bà sau này kể tiếp.

- Một hôm tôi hỏi mẹ. Tại sao mẹ không đi làm ngày Chúa Nhật nữa? Mỗi buổi chợ phiên mẹ kiếm mấy trăm đô la cơ mà! Mẹ tôi không trả lời. Tôi tiếc là bà bỏ mất mấy trăm đô la.

Hôm nay mẹ tôi không còn. Chỉ còn tấm hình bà trên bàn thờ tổ tiên.

Một tối thinh lặng. Các con tôi đã ngủ. Một mình ngồi nhìn ảnh mẹ. Bây giờ làm mẹ mới hiểu những đoạn đời mà một người mẹ đi qua. Người ta bảo có qua cầu mới hay. Nhìn các con tôi ngủ, chúng đang lớn dần. Lo cho con, bấy giờ mới thấm thía những ngày mẹ tôi lo cho tôi. Ảnh mẹ trên bàn thờ tổ tiên. Hương khói không có. Trong căn nhà tôi ra vào hàng ngày. Ảnh mẹ tôi âm thầm treo đó. Im lặng. Nhưng đêm nay. Nhớ về kỷ niệm năm xưa. Tôi nhìn mẹ lại hỏi: "Tại sao mẹ không đi làm ngày Chúa Nhật nữa? Mỗi buổi chợ phiên mẹ kiếm mấy trăm đô la cơ mà!"

Và hôm nay, lạ thật, trong ánh mắt chịu đựng của mẹ. Mẹ tôi trong tấm hình kia âm thầm trả lời.

- Mẹ biết có ngày con đặt ảnh mẹ trên bàn thờ cạnh hình ba con. Con sẽ đau khổ khi đến ngày giỗ mẹ. Con nhìn ảnh thấy mẹ rồi nói: "Ngày xưa bà này bảo tôi đừng đi làm ngày Chúa Nhật, thấy tiền thì bà cũng như tôi". Con thương mẹ, nhưng nghĩ đến lời khuyên và lối sống của mẹ như thế. Con sẽ khổ đau, không vui.

Bỗng quá lạ. Tôi thấy tấm ảnh mẹ tôi như sáng lên. Âm thầm mà mạnh mẽ vô cùng. Các con tôi vẫn ngủ. Chúng không biết hôm nay ngày giỗ ngoại chúng. Tôi một mình ngồi trước ảnh mẹ. Ảnh mẹ lại như nói với tôi:

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 174

Page 175: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Mẹ biết có ngày con đặt ảnh mẹ trên bàn thờ cạnh hình ba con. Ðến ngày giỗ kỵ. Nếu con có thắp nén hương cho mẹ, con sẽ vui vì mẹ đã dám sống những gì mẹ khuyên con. Biết đâu con cái của con khó dạy, con có thể nói với chúng rằng: Nhìn ảnh ngoại chúng con đây. Ngày còn sống, ngoại đã dám sống một đời can đảm như thế.

Tôi chợt ứa nước mắt. Hình ảnh năm xưa hiện về. Mẹ tôi đã can đảm bỏ làm ngày Chúa Nhật chỉ vì lời khuyên cho tôi. Nghĩ tới đó, tôi òa khóc hơn nữa. Mẹ tôi không chỉ muốn giáo dục tôi mà cả với các con của tôi.

Các con tôi vẫn ngủ. Chúng không biết tối nay, ngày giỗ ngoại chúng. Mẹ tôi đã có tấm ảnh để lại cho tôi. Mẹ tôi đã đi con đường của riêng mẹ. Còn tôi, khi chết, tôi có bức hình nào để lại cho các con tôi không.

 (Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình, xuất bản mùa Giáng Sinh 2005)

- Ðoản Khúc 91 -

Nhặt Cá 

Trong mẻ lưới cuộc đời, tôi bắt được nhiều thứ cá. Tôi buông lưới kéo lên. Rác rưởi, cá, đất sỏi, vỏ dừa. Người ngư phủ nào cũng cần ngồi nhặt cá. Ðời tôi quá bận rộn, tôi không có giờ. Tôi cần gấp gáp thả lưới. Tôi chỉ muốn kéo lên. Ðổ cá đó, xuống chợ đời tiếp tục thả. Vì đời quá nhiều người thả lưới. Tôi sợ sẽ đi về đâu cuối ngày khi chung quanh tôi có kẻ thả lưới suốt đêm.

Tôi phải hối hả. Tôi cần gấp gáp. Tôi không có giờ ngồi bên bờ nhặt cá. Tôi để đó, lẫn lộn những gì kéo lên từ cuộc đời.

"Con thương, má phải về trễ đêm nay. Thức ăn má để trong tủ. Con hấp nóng rồi mấy chị em ăn trước nhé."

Tôi vẫn thường để lại những lời yêu thương như thế. Rồi con tôi lớn dần. Chúng lớn không ngờ. Những đêm về trễ, tôi nhìn con ngủ. Cúi xuống hôn con. Mẹ ước ao có giờ cho con, nhưng mẹ quá bận rộn. Lòng tôi chùng xuống một chút se sắt. Con ngủ, con không biết mẹ mình sau một ngày thả lưới quá mệt, đang hôn con trong khoảnh thời gian, mà đối với con chẳng ý nghĩa gì, vì con đang ngủ. Tôi gắn tên cửa tủ lạnh, tôi gài trên tay cầm phôn những lời căn dặn yêu thương. "Con thương, má phải về trễ đêm nay. Thức ăn má để trong tủ. Con hấp nóng rồi mấy chị em ăn trước nhé."

Rồi con tôi cứ lớn lên, không ngờ.

* * *

Chồng tôi cũng thế. Anh phải thả lưới cuộc đời. Như tâm sự của anh viết trong ánh mắt, một lần tôi đọc. Tôi thấy trong ánh mắt anh, như nói trong tâm trạng băn khoăn. Cũng chùng xuống một chút se sắt như tôi đối với con.

Em yêu dấu. Ngày sinh nhật em. Em yêu dấu. Ngày chúng ta thành hôn. Em yêu dấu. Ðáng nhẽ anh phải đưa em đi nghỉ hè, đáng nhẽ... Nhưng anh quá bận. Cuối tuần này vắng anh nhé. Công việc quá nhiều. Một project đang dang dở. Em yêu dấu.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 175

Page 176: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ai cũng bận rộn, hối hả thả lưới cuộc đời. Tôi chỉ hơi buồn mỗi khi vắng anh như thế. Có buồn, nhưng tôi im lặng chịu đựng vì tôi cũng bận rộn như anh. Cuộc đời là những rượt bắt không ngừng. Chung quanh tôi là những bàn chân hối hả.

* * *

"Con của ba! Ba tặng con món quà ngày sinh nhật."

Ðã có lần chúng tôi nói với nhau. Mình chẳng có thời giờ cho con. Thôi thì bù trừ cho chúng, chúng muốn gì em cứ mua. Chúng tôi mua quà cho con như một yêu thương đền bù. Chúng tôi lấy đồ chơi thay cho nụ hôn ôm con, lúc chúng còn bé. Chúng tôi lấy tiền bạc, quà tặng thay cho những bữa cơm chiều vắng bố, vắng mẹ, khi chúng đã lớn. Chúng tôi cũng đối xử với nhau như thế. Anh vội vã tạt vào shop mua cho tôi chiếc ví da, thay vì những phút phải đi bên nhau tâm sự. Thời gian cứ trôi xuôi lạnh lùng. Tôi cứ thả lưới và nặng nề kéo lên.

Người ngư phủ ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ. Sau mỗi mẻ lưới kéo lên, ông ngồi kiên nhẫn, chậm rãi vứt cá xấu đi.

Tôi không giống người ngư phủ. Tôi có nghe mùi tanh của một loài cá ươn. Tôi biết có rác, có đỉa, có củi mục trong mẻ cá vừa kéo. Nhưng tôi không có giờ.

* * *

Năm tháng qua đi không ngờ. Con tôi bây giờ cũng như bày cá đến tuổi lớn. Chúng dần dần bỏ bến ao, tìm đường ra sông cái. Vào đại học rồi đi xa. �ôi khi tôi thẫn thờ lần về quá khứ. Những tấm ảnh con tôi lúc lên năm, lên ba. Chỉ nhớ và thương.

Rồi một ngày chồng tôi cũng như tôi, không biết những tấm hình năm xưa chụp chung bây giờ ở đâu. Trong mẻ lưới cuộc đời, anh cũng chẳng có giờ ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu quăng đi. Ðến một ngày tôi linh cảm bơ vơ một nỗi lo âu, mệt mỏi và chán nản. Ðó là ngày tôi vô tình nghe mẩu đối thoại:

- I love you.

- I love you too.

Chồng tôi bảo em không nên lo. Không phải chuyện tình cảm. Chỉ là công việc làm ăn của anh. Anh tiếp tục thả lưới và cứ hì hục kéo lên. Tất cả, cá tốt lẫn cá xấu. Tôi không biết rõ mình. Nhưng trong tôi dường như thấy một chút hoang vu nào đó đi về. Nỗi hoang vu khó định nghĩa. Về phía mẻ lưới của tôi, lần cuối tôi nói với người đàn ông không phải chồng tôi:

- Anh gởi cho em về hộp thư này.

Tôi không muốn chuyện gì xảy ra cho gia đình. Tôi muốn gìn giữ hạnh phúc. Không muốn chồng tôi hiểu lầm. Tôi có hộp thư riêng, một P.O. Box. Tất cả chỉ là công việc làm ăn. Những gì tôi lý luận cũng giống chồng tôi. Và tôi tiếp tục thả lưới. Tiếp tục kéo lên tất cả. Chúng tôi giống nhau là không ai có giờ ngồi bên bờ nhặt cá xấu vứt đi. Mơ hồ lãng đãng, tôi không phân biệt được cá nào lành. Tôi yêu mầu sắc của những con cá độc. Tôi không hiểu tình yêu hôn nhân chúng tôi có tiếng thở dài từ bao giờ. Chỉ biết hôm nay, tiếng thở dài quá mệt mỏi.

* * *

Thời gian cứ trôi, rồi đến một ngày. Những con cá ươn sình lên mùi hôi. Rác chung với cá. Mảnh chai, vỏ dừa. Những con đỉa và những càng cua gẫy nát. Tốt và xấu lẫn lộn. Những con cá lành bị nhiễm độc.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 176

Page 177: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Khi chiều tàn mệt mỏi. Lúc hoàng hôn rủ nắng xuôi mùa. Những cơn mưa lộp độp kéo về, cũng là lúc chúng tôi mất nhau.

Chồng tôi ra đi với người ấy.

Tôi quay về tấm lưới cuộc đời xuôi theo loài cá khác.

Nhìn lại những bến bờ. Lời Kinh Thánh như một nốt nhạc than trầm:

"Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Ðến ngày tận thế cũng xảy ra như vậy. Các thiên thần cũng sẽ xuất hiện, và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng (Mt. 13: 47-50).

Hạnh phúc không chỉ giống như chiếc lưới thả xuống biển rồi kéo lên tất cả. Hạnh phúc hệ tại ngồi bên bờ, nhặt cá xấu vứt đi. Tôi để con tôi vào đời giống tôi. Chúng đã lớn lên, học nơi tôi những mẻ lưới hối hả. Tôi đã từng dạy chúng phải nhanh chân kẻo thua trễ người ta. Tôi không chỉ cho chúng ngồi bên bờ, sau mỗi mẻ lưới, nhìn kỹ, nhặt cá xấu vất đi.

Chúng đang thả lưới. Ðời đang hối hả. Con tôi có sẽ tự ngồi bên bờ lựa cá tốt cho vào giỏ, cá xấu thì vất đi? Hay chúng cũng sẽ như tôi, hối hả kéo lưới, tiếp tục gắn trên cửa tủ lời nhắn với các con của chúng: "Con ơi, má thương con thật nhiều. Má phải về trễ đêm nay."

Người ta bận rộn thả lưới

Chẳng mấy ai có giờ ngồi bên bờ xem mẻ lưới đời mình.

Biết đâu ngày nào, người chồng của con gái tôi cũng có những lời tương tự với nó: Em yêu dấu. Ngày sinh nhật em. Em yêu dấu. Ngày chúng ta thành hôn. Em yêu dấu. Ðáng nhẽ anh phải đưa em đi nghỉ hè, đáng nhẽ... Nhưng anh quá bận. Cuối tuần này vắng anh nhé. Công việc quá nhiều. Một project anh đang dang dở.

* * *

Bạn thân mến,

Ðoản khúc trên đây thật buồn. Nhưng dường như đang xảy ra. Bạn cứ ngồi bên bờ, với Chúa trong những ngày tĩnh tâm, bạn sẽ thấy những gì bạn đang không thấy. Và rồi, biết đâu bạn lại chẳng hạnh phúc nuối tiếc vì đã không sớm ngồi bên bờ cuộc đời nhặt cá.

 (Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình, xuất bản mùa Giáng Sinh 2005)

 

- Ðoản Khúc 92 -

Tạ Ơn Là Một Tâm Tình 

Mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, Thanksgiving, người ta hay nhắc đến chuyện người phung cùi trở lại cám ơn Ðức Kitô trong Phúc Âm Luca.

Trên đường lên Jêrusalem, Ðức Giêsu đi ngang qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilêa. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phung cùi đón gặp Người. Họ dừng lại đàng xa, và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi." Thấy vậy, Ðức

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 177

Page 178: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Giêsu bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế." Ðang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được khỏi liền quay trở lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. Ðức Giêsu mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?" (Lc. 17: 11-19).

Tôi nghĩ câu chuyện tạ ơn của người phung cùi không dừng lại ở đây. Không dừng lại ở lời tạ ơn Chúa mà thôi. Nó gọi ta đến một đường cong sâu hơn và xa xôi hơn. Tạ ơn là tâm tình đòi hỏi một tấm lòng. Tâm tình này là bản phiên dịch của một nội tâm. Chính bản phiên dịch nội tâm này nói trung thực cho ta biết mình là ai.

Tôi muốn nhìn vào nội tâm người phung cùi, để đi tìm chiều kích lời tạ ơn của anh ta với Ðức Kitô. Nó đến từ một đường cong sâu xa nào?

Bối cảnh văn hóa, tôn giáo, lịch sử.

Người Do Thái trong thời Chúa Giêsu không chấp nhận những người phung cùi sống trong làng. Họ phải sống cô lập ngoài sa mạc, xa xôi ngoài cánh đồng. Khi gặp Ðức Giêsu, họ cũng đứng "từ đàng xa" chứ không dám lại gần. Họ bị coi là những kẻ tội lỗi, bị Thiên Chúa giáng án phạt. Hiểu như thế mới thấy nỗi cô đơn của kẻ mang bệnh tật này. Trong thời đại ấy, người Do Thái cũng không chấp nhận chung sống với người ngoại giáo. Họ đối nghịch đến độ thù hận nhau.

Cộng đoàn những người cùi.

Theo mạch văn của đoạn Kinh Thánh, Chúa hỏi: "Còn chín người kia đâu." Như vậy chín người kia cộng với anh cùi đến tạ ơn Chúa, tất cả mười người. Tại sao có mặt người cùi ngoại giáo trong cộng đoàn những người cùi Do Thái? Tại sao những người cùi Do Thái lại để người cùi xứ Samaria theo mình nhập bọn? Ðoạn Kinh Thánh trên tường thuật là "một người trong bọn họ." Cụm từ "một người trong bọn họ." Cho thấy chín người Do Thái Giáo và một người Samaria đã sống chung, đi chung một con đường, là một cộng đoàn.

Chuyện này dường như cũng không xa lạ giữa hoàn cảnh xã hội hôm nay. Trong những hành trình gian khổ, dường như người ta vượt qua mọi biên giới để sống với nhau. Có những tình nghĩa vợ chồng, khi nghèo khó, họ sống đời đùm bọc nhau. Cùng nhau đẩy chiếc xe đạp chở ngô khoai. Cùng nhau chèo một con đò, buôn thúng bán bưng nuôi con. Rồi có thể họ mất nhau khi mỗi người có một địa vị, một công ty riêng. Lúc lâm nạn, người ta vượt qua biên giới chủng tộc, tôn giáo, để cứu nhau. Rồi người ta xây nên những thành trì, những bức tường tôn giáo khi người ta có đền thờ riêng.

Tại sao trong cộng đoàn mười người cùi này lại có một người ngoại giáo. Tại sao họ chung sống với nhau?

Khổ đau dường như có một giá trị rất sâu trong câu chuyện này. Rất nhiều trường hợp, khi hết yếu đuối, hết nghèo khó, họ xa nhau. Trên đường đi tạ ơn này, chín người kia đi về một phía, người Samaria đi về một phía. Không còn một cộng đoàn những người cùi khác tôn giáo.

Với chín người cùi, họ có thể liên kết lại để cô lập người cùi Samaria. Nhưng ở đây, họ chung sống, chấp nhận người cùi khác tôn giáo này. Dường như trong cô đơn tận cùng vì bị xã hội chối bỏ, họ được đốt cháy hết những địa vị, tên gọi, và khi được bóc trần đến phẩm giá sau cùng, họ thấy họ giống nhau ở một tên gọi duy nhất là làm người.

Giá trị cùng đích sau hết vẫn là: Làm người.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 178

Page 179: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Dường như tôn giáo cũng rất cần luôn luôn được thanh tẩy để khỏi bám bụi. Những giá trị ngoài nhân đức như đền thờ, tổ chức, ảnh hưởng, rất có thể đưa con người xa cách nhau.

Mọi tôn giáo đều tìm cách dạy con người ý nghĩa của cô đơn, đau khổ. Nhưng ý nghĩa đẹp nhất của đau khổ và cô đơn lại là vượt qua mọi tôn giáo để đùm bọc nhau cho con người bớt cô đơn và đỡ khổ đau.

Rồi tình yêu cũng thế. Tình yêu cũng cần thanh tẩy. Những giá trị ngoài nhân đức như nhan sắc, địa vị, vàng bạc, rất có thể sẽ đưa con người xa cách nhau. Trong đời sống, ai cũng cần chịu ơn nhau.

Phải nghèo một chút để biết xin.

Phải yếu một chút để biết nương tựa.

Nhìn lại, người cùi xứ Samaria, trong "bọn họ", anh ta là thiểu số, anh chỉ có một thân, một mình.

Tôi nghĩ anh ta trở lại tạ ơn Thiên Chúa vì đời anh quen tâm tình tạ ơn rồi. Ngay những ngày sống chung với chín người kia, biết mình thiểu số mà được chấp nhận, anh ta đã sống lòng biết ơn đó. Tạ ơn là một bản phiên dịch nội tâm của anh.

Câu chuyện cộng đoàn mười người cùi được chữa lành rất đẹp vì họ đã sống với nhau. Nếu sau khi được chữa lành, tất cả đều trở lại tạ ơn Thiên Chúa thì câu chuyện kết thúc quá lý tưởng. Tại sao chín người kia không trở lại?

Rất có thể chín người kia không quen tâm tình tạ ơn. Rất có thể họ chấp nhận người cùi Samaria như là cho ơn hơn là lãnh nhận.

* * *

Tôi thụ phong linh mục năm 1989. Cũng năm này tôi được gởi qua trại Palawan, Philippines giúp đồng bào tỵ nạn. Những ngày đó, chúng tôi đã có những kỷ niệm đẹp, tôi đã viết bài "Palawan Mùa Phật Ðản", năm 1992, đăng trong báo Ðường Sống.

Năm 1995 tôi rời trại tỵ nạn. Tôi xa khúc đường trong trại, một bên có hương trầm nhà Chùa, một bên có tiếng chuông nhà Chúa. Rồi một hôm, mười năm sau, kỷ niệm lại về như nghe tiếng mõ tụng kinh quen thuộc ngày nào đó, bên Chùa. Ðó là vào ngày 28 tháng 12 năm 2004. Sau lễ Giáng Sinh, tôi đang giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn các Sơ Ðaminh Việt Nam ở Houston. Tôi nhận được một lời nhắn trong chiếc phôn cầm tay:

Dạ, kính linh mục Nguyễn Trọng Tước.

Ðây tôi là Thích Thông Ðạt từ San Jose gọi chúc mừng trong mùa Giáng Sinh với New Year. Chúc mừng linh mục dồi dào sức khỏe. Happy Merry Christmas. Happy New Year. Dạ, kính linh mục. Khi nhận được message xin cho gặp số phôn 408-926-1998. Kính chúc mừng linh mục trong mùa Chúa Giáng Sinh cũng như đầu năm mới.

Kính linh mục.

Tôi hết sức ngạc nhiên. Một Thầy bên Chùa đã mười năm xa cách. Từ ngày Thầy rời trại tỵ nạn Palawan, bằng ấy năm không hề gặp lại nhau. Mười năm không liên lạc. Bỗng dưng Thầy tìm phôn gọi tôi, vì Thầy muốn chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Những kỷ niệm xa xưa.

Kính Thầy Thông Ðạt,

Những ngày ở trại tỵ nan, những ngày ấy chúng ta có nhiều kỷ niệm quá nhỉ. Vào mùa Phật Ðản và Giáng Sinh, năm nào chúng ta cũng có những món nợ. Chúng ta cho nhau mượn cái

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 179

Page 180: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

trống, mấy sợi giây đèn. Các em Thiếu Nhi cho nhau mượn mấy mét vải, cái đầu lân để làm văn nghệ. Chúng ta đã nợ nhau tình thương mến.

Thời gian đã xa xôi quá, như đang xóa nhòa dần đi. Bỗng dưng mười năm sau, Thầy tìm điện thoại, gọi chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Mười năm là thời gian dài lắm đó Thầy ạ. Thế là tôi lại "nợ" Thầy.

Thánh Phaolô đã căn dặn các tín hữu của ngài: "Các con hãy nợ nhau tình thương mến" (Rom. 13: 8). Bây giờ chúng ta đã xa những ngày tỵ nạn cho nhau mượn cái bát, tô cơm. Thầy Thông Ðạt có thể nay đã có chùa riêng, có đoàn Phật Tử đông đảo. Chả ai phải mượn ai. Chùa của Thầy chăng rợp hoa đèn ngày lễ. Chả ai cần ai. Thầy gọi điện không là để mượn gì cả, cũng chẳng hỏi tôi có mượn cái đầu múa lân không, chỉ để chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Thầy gọi điện vì nhớ về khung trời tỵ nạn có những kỷ niệm bên bờ đời sống. Tình thương mến.

Có những cặp vợ chồng nay mỗi người là một giám đốc. Chẳng ai phải nhờ ai. Có những anh em, không ai phải cậy ai. Xa những ngày nghèo túng rồi. Không ai phải dựa ai. Ðầy đủ. Mà sao cứ như có nỗi vắng trong lòng.

Hay là người ta thiếu nhau món nợ tình thương mến?

 (Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình, xuất bản mùa Giáng Sinh 2005)

 

- Ðoản Khúc 95 -

Chúc Mừng 

Có nhiều lời chúc mừng.

Có nhiều dịp chúc mừng.

Có nhiều người được chúc mừng.

Người ta chúc mừng nhau. Bằng lời nói. Bằng thư từ. Trong những lời chúc mừng, lời chúc mừng về tình yêu, về những gì liên quan đến hạnh phúc, đến giá trị thiêng liêng là lời chúc mừng bi đát nhất.

Chẳng hạn:

Kỷ niệm 25 năm thành hôn của anh chị, chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau.

Hoặc như:

Kỷ niệm 10 năm linh mục của Cha. Chúng con kính chúc Cha những ngày tràn đầy hồng ơn Chúa. Tâm tình Cha sốt mến như ngày Cha dâng thánh lễ mở tay.

Những lời chúc rất chân thành. Càng chân thành bao nhiêu, càng thấm thía và bi đát bấy nhiêu. Thực tế, những lời chúc này xảy ra hàng ngày, ở chỗ này, chỗ kia. Nó đến từ trái tim người cầu chúc là mong ước. Và biết đâu, từ trái tim người được cầu chúc cũng tha thiết xin được như thế. Sự bi thương nằm ở đó. Lời cầu chúc này đến từ một thực tế. Nó diễn tả cái thực trạng hàng ngày. Nó là tấm gương phản chiếu trung thực lòng khao khát của người cầu chúc, nó là ước vọng của người được cầu chúc.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 180

Page 181: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Bi thương hơn nữa là đời cứ tiếp đời, lời chúc tiếp tục lời chúc đi theo thời gian.

* * *

Kỷ niệm 25 năm thành hôn

Chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau. Chúc như thế, nghĩa là, tình yêu của anh chị hôm nay mệt mỏi lắm rồi. Nó xói mòn lắm rồi, nên tôi chúc cho anh chị được như ngày đầu. Nói cách khác, tình yêu ấy cứ mỗi ngày một nhạt đi, cứ mỗi ngày một hết như thủa ban đầu. Chúc như thế, không là thành thực xót xa sao. Nếu tình yêu của người nào đó, sau 25 năm cưới nhau, bây giờ nồng nàn hơn, thì chúc như thế mang ý nghĩa gì? Nó vô duyên và vụng về biết mấy. Nhưng hôm nay, họ cứ chúc mừng nhau như vậy. Họ dựa vào kinh nghiệm thực tế mà làm nên lời chúc. Nếu vậy, mỗi lời chúc không là một lời đau thương sao?

* * *

Kỷ niệm 25 năm linh mục

Sau 25 là linh mục. Tôi rửa tội biết bao nhiêu người. Tôi săn sóc biết bao bệnh nhân, xức dầu Thánh cho biết bao nhiêu người trong giờ hấp hối. Trong 25 năm tôi dâng biết bao thánh lễ. Biết bao lần Mình Máu Thánh Chúa hóa thân trên tay tôi. Tôi cử hành biết bao bí tích. Như thế, sau 25 năm đôi tay tôi đã xây dựng biết bao ân sủng. Một phần tư thế kỷ sống sống đời linh mục, tôi xây dựng biết bao nhân đức. Tại sao người ta lại chúc mừng trong ngày kỷ niệm đẹp như thế bằng lời chúc bi thương?

Họ mong cho tôi dâng thánh lễ sốt sắng như ngày đầu, nghĩa là thánh lễ tôi dâng hôm nay không còn chuẩn bị như ngày mở tay. Nghĩa là hôm nay tôi dâng thánh lễ nhàm chán như chuyện phải làm. Tôi hết náo nức rồi.

* * *

Vì sao có những lời chúc như thế. Cũng là do thực tế mà thôi. Nó cũng đến từ một nhận thức trong sinh hoạt bình thường. Nó do kinh nghiệm, do quan sát, do thấy như vậy. Tôi gọi đó là những lời chúc bi thương. Vì nó thật nên nó bi thương. Những lời chúc ấy đến từ cảm nghiệm.

Những lời chúc như thế, là linh mục, hay tình yêu hôn nhân, nó là tiếng chuông cầu thương khó. Trước lời chúc đó, tình yêu phải nhìn lại tình yêu. Hôn nhân phải hỏi lại hôn nhân. Linh mục phải nhìn lại linh mục. Tu sĩ khấn Dòng phải hỏi lại lý tưởng. Những lời chúc ấy đến từ ước vọng. Nó vừa là tiếng lòng mong mỏi, cũng vừa là tiếng lòng đợi trông.

Thủa ban đầu có nhau lưu luyến ấy, nếu bây giờ nhạt phai, nó phải có nguyên nhân.

Nếu thánh lễ mở tay là náo nức, bây giờ chỉ còn là bổn phận, nó phải có nguyên do.

Những ngày đầu của tình yêu hôn nhân, tháng ngày ấy mới là ngưỡng cửa bước vào vườn hạnh phúc. Ðàng sau đó là một chân trời khám phá. Thì càng đi càng say chứ. Nhưng thực tế, cứ có những tiếng thở dài. Nhiều đôi hôn nhân càng đi càng mỏi.

Những ngày đầu của linh mục cũng thế. Mới lên đường mà thấy lòng rộng mở, thì càng cao, đường phải càng đẹp, càng đi lâu tâm hồn càng say mê đi tới chứ. Nhưng thực tế, không thiếu những cử hành phụng vụ chỉ là cánh cửa sổ cũ kỹ muốn đóng sập xuống cho chóng xong.

Từ những kinh nghiệm được xác định đó, lời cầu chúc ra đời. Ði tìm nguyên do, đi hỏi nguyên nhân. Kinh Thánh bảo: "Khi mọi người ngủ thì kẻ thù đến gieo cỏ lùng, rồi bỏ đi" (Mt.13: 25). Thời gian nào mà không có phấn bụi bay. Khoảnh khắc nào mà không có sương mù. Hạnh phúc rất mong manh. Tấm gương cần phủi bụi mỗi ngày. Cỏ lùng cần nhổ khi còn là mầm non. Chúa muốn nói với tôi về một tỉnh thức.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 181

Page 182: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

* * *

Là linh mục, xin Chúa cho con trước lời chúc đó là tiếng lòng cảnh tỉnh.

Con muốn sống làm sao mỗi ngày đẹp hơn.

Con muốn sống làm sao với ân sủng để mỗi ngày có thêm thiết tha đi tới chứ không ao ước quay về.

Tình yêu mà cứ mỗi thời gian đi tới, lại cứ cầu chúc nhau tìm về bến cũ, thì con đò sẽ lặng lẽ biết bao. Hôn nhân mà mỗi bình minh lên, lại cứ phải mong cho nhau như ngày xa xưa cũ thì còn đâu chân trời khám phá. Chả có sáng tạo, hôn nhân mà cứ phải nương nhờ ngày xưa thì bước đi tới nặng nề làm sao.

Lạy Chúa, con muốn nói với Chúa về một lời chúc.

Ðừng để đời linh mục con, có những lời cầu chúc như thế.

Xin cho con sửa lại lời cầu chúc bi thương.

Ngày con dâng lễ mở tay, chỉ là mở tay thôi, mỗi ngày bàn tay con phải vươn cao hơn, nhiều nhân đức hơn, chứa đựng nhiều ơn trời hơn.

Ngày đầu bước vào đời linh mục, có ngỡ ngàng, thì mỗi ngày, mỗi sáng sáng phải ngỡ ngàng hơn vì khám phá ra quá nhiều ơn sủng Cha ban.

Mỗi thời điểm về gần ánh sáng, con phải thấy hân hoan hơn, thấy mình thấm nhuần ánh sáng hơn.

Con phải quên đi những ngày đầu chập chững.

Con phải sống sao những ngày đầu chỉ là ơn sủng còn non màu mạ, mỗi thời gian đi tới là chứa chan màu vàng của lúa đơm bông.

Như cánh bướm, vì vườn hoa càng rực rỡ thì càng buông cánh vào càng duyên dáng hơn.

"Ơn sủng Cha ban thì hằng hà sa số,

Lớp lớp thời gian Cha không ngừng đổ rót.

Ðể lãnh xin, con chỉ có bàn tay bé nhỏ,

Vậy sao hồn con cứ trống và tim con còn vơi?" (Tagore)

Lạy Cha, lỗi ở con mà thôi.

Con ước muốn sửa lại lời cầu chúc trên kia.

Con muốn mỗi ngày cánh buồm đong gió ra đi là càng thênh thang, chứ đừng có lời cầu chúc tầm thường mong sao được như ngày xưa bên bến hồ nhỏ bé.

Lời cầu chúc đời ban tặng con đến từ nhận xét.

Con không thể thay đổi cái nhìn của đời được, vì con thế nào thì đời nhận xét như thế.

Lời cầu chúc đến từ cảm nghiệm.

Con không van xin đời thay đổi cảm nghiệm được, con chỉ có thể thay thế chanh chua bằng mật ong, vì đời cảm nghiệm thế nào, đời mong mỏi như vậy.

Lời cầu chúc đến từ ước mơ.

Con không cho đời hạnh phúc được nếu mơ ước kia không là sự thật.

Lời cầu chúc đến từ lòng thành thật.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 182

Page 183: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Con có đau thương vì lời chúc thì cũng hãy thành thật nhận lời chúc như câu kinh.

Lời cầu chúc đến như tiếng than thở.

Con hãy quý những thở than đó vì nó là tiếng lòng nhắc nhở con về một tiếng gọi.

Lời cầu chúc đến từ thực tế.

Con không thể lặng thinh mà không hỏi lòng mình: Tại sao thế?

Lời cầu chúc có thể còn tiếp tục mãi.

Con không thể lặng thinh mà không hỏi Chúa:

- Vậy sáng mai con dâng thánh lễ ra sao.

* * *

Ôi! Lạy Chúa,

Mỗi lời chúc đều nói với con về một ý nghĩa.

Mỗi lời chúc đều nói với con về chính con.

Mỗi lời chúc đều nói với con về liên hệ giữa con và Chúa. Amen.

 Lm Nguyễn Tầm Thường SJ

 (Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình, xuất bản mùa Giáng Sinh 2005)

 

Ðể Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn 

Bỗng nhác thấy bóng ngựa phóng qua. Kẻ trên lưng ngựa chính là người bạn thủa xưa cùng nhau tầm thầy học đạo. Cất tiếng gọi, mà bóng ngựa cứ nước kiệu phóng đi như bay. Băn khoăn về người bạn cũ thủa nào. Nhà đạo sĩ lên đường xuôi phương nam tìm ngọn núi có am thất của kẻ đồng môn. Tới nơi, nhân gian cho ông biết am thất không còn ai trông coi. Kẻ trụ trì đã chết rồi. Tính ra, đúng ngày mà có bóng ngựa đi qua.

Ngày xưa hai người có một lời hứa: Ai chết trước sẽ về báo cho kẻ ở lại biết thế giới bên kia thế nào. Phải chăng bóng ngựa là hồn người bạn cũ?

Ðêm đó, bên rừng am thất, bỗng có người cầm tay nhà đạo sĩ dắt đi. Quay nhìn, chính hồn người bạn cũ hiện về!

- Này, bạn cũ, xin nói cho tôi biết thế giới bên kia thế nào.

Hồn người chết lẳng lặng kéo nhà đạo sĩ theo mình. Qua khu rừng, rồi một hoang địa. Có tiếng nói từ đâu đó:

- Ði về phía đông mươi trượng, vào đường hầm. Ði xuống trăm bước. Ði lên. Về phía nam.

Thoát chốc, hồn người bạn cũ biến mất, bất ngờ như khi hiện đến.

Mơ hồ như trong giấc ngủ mộng mị. Con đường về thế giới bên kia bắt đầu. Hồn nhà đạo sĩ theo tiếng gọi huyền bí dẫn đi. Qua nhà, qua cửa. Ông nghe có tiếng cầu kinh. Trời đổ mưa.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 183

Page 184: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ngoài cánh đồng có người làm việc. Hoàng hôn lên, bình minh xuống. Bé thơ ngồi xem mẹ xay bột bên khuông cửa. Êm ả, một đời sống thanh bình. Ông hỏi tiếng vọng:

- Thiên đàng đâu?

Một quang cảnh tương tự như cuộc sống bình thường chung quanh ông trên dương thế đang diễn ra. "Ðó, ông đang đi qua thiên đàng đó." Nhà đạo sĩ không thấy chi thần tiên như người ta nói, không có các vũ công vũ khúc nghê thường. Không có yến tiệc linh đình. Một sinh hoạt như cuộc

sống trên dương thế của ông thôi. Kì lạ quá. "Thiên đàng có vậy thôi sao? Còn hỏa ngục thế nào?" Ông ngạc nhiên về những hình ảnh thiên đàng, hỏa ngục mà ông vẫn dạy trong những bài thuyết giảng của mình.

Qua thiên đàng rồi, tiếng vọng dẫn ông sang một thế giới khác. Chập chờn, ông lạc vào một vùng như hoang tưởng. Chung quanh ông là những tòa nhà sang trọng. Có những toán người ca hát nhẩy múa thâu đêm suốt sáng. Yến tiệc bày biện tưng bừng. Chỗ nào ông cũng thấy xa hoa, phấn hương. "Có phải đây mới là thiên đàng chăng?" Ông ngạc nhiên không hiểu nơi này là gì mà hạnh phúc phúc thế. Nhưng có tiếng bí mật trả lời ông: "Không! đây là hỏa ngục!" Qua sảnh đường, ông nhác thấy có người quen, chính hồn người bạn cũ năm xưa! Ông ta đang ngậm miệng cố nuốt những dòng rượu chảy nhễ nhãi. Chung quanh sàn nhà cẩm thạch, đoàn vũ nữ nhẩy múa. Nhóm người khác đang chia nhau tiền bạc. Tiền đâu mà nhiều thế. Họ đếm thâu đêm suốt sáng không hết. Chỗ nọ, đoàn nhạc công mồ hôi nhễ nhãi oằn oại trên tiếng đàn. Họ ăn chơi không ngơi nghỉ. "Thế này nghĩa là gì? Ðâu là thiên đàng? Ðâu là hỏa ngục?"

* * *

Ðược giác ngộ, nhà đạo sĩ mới thấy những gì hiểu về thiên đàng, hỏa ngục của ông xưa kia non nớt quá. Ông vẫn nghĩ rằng thiên đàng là nơi không phải làm việc, chỉ có ăn chơi, tung tăng nhàn hạ suốt ngày. Hỏa ngục là nơi cực hình, không có ăn chơi, chỉ quần quật làm việc. Bây giờ trái ngược lại. Nhưng ông đã hiểu. Cái bi thương hệ tại là thiên đàng có tự do, hỏa ngục là đường một chiều, không có chọn lựa.

Ông thấy người bạn cũ sống trong căn nhà lộng lẫy, không phải làm việc gì, chung quanh là nhạc khúc dập dình. Mới đầu ông nghĩ thế thì hạnh phúc quá. Nhưng hồi lâu, lâu nữa, một ngày, hai ngày, rồi một năm, hai năm, nếu dòng rượu cứ suốt ngày đêm tuôn chảy và người bạn cũ của ông cứ phải oằn oại uống như thế suốt năm này qua năm nọ thì sao? Ông ớn đến lạnh người. Nhìn chung quanh, ông thấy quả là một thế giới kinh hoàng. Tốp người đang khiêu vũ kia cứ oằn oại trong điệu nhạc, ngày này qua ngày nọ. Họ không được đi đâu, không phải làm gì, đời họ bây giờ chỉ là khiêu vũ, ngày, đêm. Ông đứng nhìn những khuôn mặt thất thần. "Họ đã ở đây bao lâu? Họ đã phải đếm tiền thế kia từ thế kỉ nào?" Chung quanh ông không còn là hạnh phúc vì tiếng đàn, vì những khăn bàn bằng lụa quý, những chén ngà chạm vàng nữa. Ông thấy một thế giới cô độc khủng khiếp. Nhìn người bạn cũ, ông thấy đôi mắt đỏ ngàu, lờ đờ. Môi miệng sưng lên, nhưng ông ta không nghỉ được, dòng rượu cứ chảy và ông cứ ừng ực mà uống.

* * *

Những ngày còn lại cuối đời của nhà đạo sĩ, ông nhìn lại những lời giảng thuyết của ông ngày xưa thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ. Ông thấy những suy tư ấy non yếu quá. Trầm ngâm hơn, ông viết cho người môn sinh của mình về thiên đàng và hỏa ngục như sau:

Con thân mến,

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 184

Page 185: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Thiên đàng là nối tiếp hạnh phúc chúng ta sống trên cõi trần. Hỏa ngục là xây tiếp những nô lệ nội tâm chúng ta đang xây dở dang.

Con đừng cầu xin Thượng Ðế cho con bất hạnh đời này để được hạnh phúc đời sau. Con phải nỗ lực vươn lên mà loại bớt bất hạnh. Thượng Ðế không muốn con người đau khổ. Ðến trong trần gian, Ðức Kitô cho người đói ăn, người què đi, người mù nhìn thấy, người phung hủi được sạch, người chết sống lại. Ðau khổ, tự nó là điều xấu. Ngài không muốn. Con hãy xin Thượng Ðế cho con hạnh phúc đời này, như hình ảnh báo trước một hạnh phúc thật bao trùm đời sau. Và hãy hết sức làm đẹp thế giới con đang sống chung quanh bằng con đường xây dựng hòa bình, công chính, yêu thương để con người cảm thấy vị ngọt hạnh phúc mai sau sẽ dạt dào thế nào.

Con đừng vì lười biếng không nỗ lực xây dựng cuộc sống hạnh phúc hôm nay rồi tự an ủi hứa thiên đàng là hạnh phúc tương lai.

Hỏa ngục không là hình phạt Thượng Ðế sắm sẵn như một nhà tù xây nên rồi chờ xem ai lỗi phạm thì bắt vào. Hỏa ngục cũng giống thiên đàng, cuộc sống ấy là kéo dài những dở dang của con người trong cuộc sống hôm nay. Nếu dang dở ấy là hạnh phúc thì con sẽ hạnh phúc tiếp đời sau, đó là thiên đàng. Nếu dang dở ấy là bất hạnh thì đời sau là bất hạnh tiếp cái dang dở ấy, đấy là hỏa ngục. Con hoàn toàn lựa chọn cho mình. Căn nhà hạnh phúc con đang xây dở thì khi chết rồi, con sẽ tiếp tục xây hạnh phúc ấy. Con xây ngục thất, thì khi chết rồi con sẽ phải tiếp tục xây cái ngục tù dở dang của bất hạnh đó.

Tội là con đưa một đam mê lên thành lí tưởng để theo. Hạnh phúc là sự hài hòa của mọi thứ say mê.

Tình yêu, tình dục, lòng thèm muốn, ghen tương, nhan sắc, tiền bạc, giận hờn, sức khỏe, trí tuệ, vật chất, tinh thần... tất cả làm nên con người chúng ta. Hạnh phúc là khi ta quân bình và hài hòa nó. Chẳng hạn như nhan sắc, đó là nghệ thuật, nó đem hạnh phúc cho người, cho mình. Nhưng nó phải hài hòa trong nhân đức, thật thà, đoan trang. Khi con người để nhan sắc thành lí tưởng cao nhất để theo thì giống như một bức tranh thêu, nhan sắc sẽ tiêu diệt những đường chỉ thêu khác. Lúc ấy lòng thương xót sẽ chết trước cửa nhà người nghèo khó, lòng bao dung chìm dần, niềm tự kiêu dâng lên. Con sẽ dùng mọi tiền bạc cho tấm thân thôi, những tốn phí có thể lỗi công bình, vì con không còn lòng thương xót cho những kẻ phải sống không đúng phẩm giá con người chỉ vì nghèo. Không có một chút ghen, có lẽ cuộc sống cũng khô khan lắm. Không có tình dục, con người sẽ đi về đâu. Giận hờn cũng thế, nó cho người ta những giây phút "đau thương êm ái." Nhưng chúng phải hài hòa.

Con thấy đó, hỏa ngục là nơi không còn hài hòa. Kẻ nhẩy múa là thâu đêm suốt sáng nhẩy múa. Kẻ uống rượu là phải uống triền miên. Khi sống, họ chọn một đam mê rồi đưa lên thành lí tưởng để theo, thì khi chết họ cũng theo lí tưởng đó mà sống. Hỏa ngục hệ tại là đó.

Tội làm con người mất hạnh phúc. Nhưng mất hạnh phúc bằng cách nào? Tội là thần tượng một đam mê. Khi một đam mê lên cao thành thần tượng thì nó thống trị mọi suy tư khác. Kẻ ấy lúc nào cũng bị ám ảnh bởi đam mê đó. Ðam mê độc tài này đẩy con người vào hành động. Lúc ấy, con người mất tự do. Bị đam mê điều khiển thì cuộc sống thành đường một chiều. Trên đường một chiều này, hễ ca múa là thâu đêm suốt sáng ca múa. Hễ say đắm tình dục thì ngụp lặn trong dục tính. Hài hòa bị tan vỡ. "Nô lệ là kẻ để cho bất cứ sự gì đó thống trị mình" (2 Phêrô 2:19).

Hạnh phúc, đau khổ là những định nghĩa đơn sơ thôi. Thiên đàng và hỏa ngục ở khắp nơi trên cõi thế này. Bởi đó, con không cần mong người sau hiện về nói cho biết. Chính Kinh Thánh cũng chẳng cho ai từ cõi chết về để nói về thiên đàng, hỏa ngục. Ðây là thế giới riêng tư của mỗi

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 185

Page 186: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

người, thì làm sao con biết thiên đàng của kẻ khác được? và con cũng đâu cần điều ấy, phải vậy không? Cúi hỏi tâm hồn mình, nhìn xem có đam mê nào con đang đưa lên thống trị suy tư, hành động trong đời sống của con. Nơi đó con sẽ thấy thiên đàng hay hỏa ngục.

* * *

Khi của cải bị cô lập một mình, xa cách sự độ lượng, lòng thật thà, tâm tình bao dung, thì nó không còn bè bạn. Nó trở nên độc tài. Nó trả thù lại kẻ đã cắt đi những liên hệ mà nó phải có. Nghi ngờ đi với thành thật và độ lượng sẽ thành khôn ngoan. Có sức mạnh nhưng thiếu tâm hồn sẽ thành hung bạo. Tình dục đi với lề luật sẽ phong phú tình yêu. Tự bản chất, tất cả nó đã được sinh ra trong những liên hệ hài hòa ấy. Khi ta chọn một mà thôi đời sống sẽ nghiêng đổ.

Nhà đạo sĩ thấy nơi ông đi qua mà tiếng nói nhiệm mầu bảo ông là thiên đàng, có gì đặc biệt đâu. Cũng đồng lúa. Có mưa và nắng. Có người tát nước bên dòng sông. Chính trong cái bình thường ấy mà ông đã đi tìm định nghĩa thiên đàng như một thế giới xa lạ, rực rỡ xa hoa. Ông không nhìn thấy thiên đàng hay hỏa ngục ngay dưới chân mình. Trong cuộc đời, bao người đã đi hết miền đất này tới miền đất kia tìm thiên đàng hạ giới. Nhưng họ cứ tìm mãi mà đời cứ mênh mông, không gặp.

Bây giờ ông hiểu í sâu xa mà tiếng nói nhiệm mầu dạy ông. Thiên đàng là sự tự do nội tâm. Ông đã viết xong lời cuối, muốn gởi người môn sinh. Ông muốn nhắc cho người môn sinh hỏa ngục là tiếp tục cái thú vui độc đoán lúc còn sống, như người mê rượu sẽ suốt ngày đêm phải uống rượu tiếp, người mê nhẩy múa sẽ suốt tháng cứ nhẩy múa liên miên, kẻ mê tiền thì khi chết rồi không được làm gì cả cứ đếm tiền hết năm này qua năm nọ. Ðọc lại những gì đã viết, ông chả thấy có gì mới cả. Kinh Thánh đã nói đến rồi. "Nếu họ không tin lời của Môsê và các tiên tri, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu" (Lc. 16:31). Rồi, ông lặng lẽ cất đi những gì đã viết, không gởi cho người môn sinh nữa.

 Lm Nguyễn Tầm Thường SJ

 (Trích tập suy niệm Mùa Chay và Con Sâu Bướm)

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 186

Page 187: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đường Đi Một MìnhVÀO TẬP ĐƯỜNG ĐI MỘT MÌNH

Có những con đường phải đi một mình.

Có những con đường không thể một mình đi.

                             Có những con người.

                             Có những con đường.

Hai con lừa xuống núi.

Một con yếu quá, xin con kia chở giúp.

Con kia không chịu.

Nửa đường, con lừa nọ đuối sức, rồi chết.

Bao nhiêu gánh nặng của con lừa chết, người quản gia chất hết lên lưng con lừa kia.

Bấy giờ nó hiểu về những con đường đi một mình.

                             Có những con người.

                             Có những con đường.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 187

Page 188: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Người lữ hành thứ nhất ngã trong cơn bão tuyết.

Người thứ hai đi ngang qua. Cúi nhìn, bỏ đi.

Người thứ ba vác kẻ xấu số, cố chống tuyết ôm nhau đi.

Gần đến ngôi làng. Người ta thấy xác của người thứ hai chết bên đường.

Tuyết ngừng thổi, cũng là lúc người thứ ba cõng được người lữ thành thứ nhất đến nơi.

Trong cái chết hoang vu kia, có tiếng than thở của tuyết:

-           Chúng tôi là thần tuyết. Cái chết không bí ẩn vì giá lạnh, nhưng nằm kín trong tim con người. Nếu gã lữ hành thứ hai vác kẻ xấu số, đời ông ta đã không xấu số.

Người lữ hành thứ ba, bấy giờ mới biết nhờ vác kẻ xấu số ngã bên đường, mà sức nóng của họ truyền sang nhau, cả hai sống sót đến được ngôi làng.

Bấy giờ ông hiểu có những con đường không thể một mình đi.

                             Có những con đường.

                             Có những con người.

Tôi đọc những câu chuyện này trên đường đời. Kẻ đi trước tôi đã hiểu về những con đường nên họ viết ra những câu chuyện đó. Rồi họ chọn cho họ một con đường. Con đường của riêng họ.

Khi nói con đường riêng của mỗi người thì dù mình đi chung với người khác, nó vẫn là con đường riêng. Nó không riêng lẻ trong bóng người trên đường. Mà là riêng lẻ trong bóng hồn quyết định. Trong ý nghĩa đó tôi cũng gọi là đường đi một mình.

Đường đi một mình vì có những quãng đời chỉ mình mình đi.

Đường đi một mình vì có những quãng đời không ai muốn đi với mình, mình vẫn phải đi.

Đường đi một mình vì có những quãng đời một mình chấp nhận không thể đi một mình.

Đường đi một mình vì có những quãng đời người khác đi chung với mình, nhưng mỗi người vẫn có đường đời của riêng nhau.

                             Có những con người.

                             Có những con đường.

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 76: ƠN GỌI

- Thưa Cha, làm sao Cha biết Cha có ơn gọi đi tu?

Một lần, một người bạn trẻ đang tìm hiểu ơn gọi đã hỏi về ơn gọi của tôi.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 188

Page 189: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Băn khoăn về ơn gọi đi tu là băn khoăn về một chuyện rất đẹp. Bạn đang băn khoăn về tâm tình của hai người. Một người gọi và một người đang chờ muốn được gọi.

Đó là tâm tình của hai tâm hồn, hai trái tim nói chuyện với nhau. Người gọi là Chúa và người nghe là bạn.

Ơn gọi là chuyện riêng tư, khi bạn hỏi làm sao tôi biết mình có ơn gọi đi tu. Tôi không biết trả lời bạn sao cho dễ dàng. Trả lời theo ngôn ngữ những sách tu đức, thì tôi không chắc mình biết những điều mình học. Trả lời bằng chuyện đời mình đã đi qua thì tôi lúng túng vì đó là chuyện riêng và không biết bắt đầu thế nào. Trả lời bằng những gì mình đã đi qua thì nó có những vụng về của nó, vì nó riêng tư, nhưng những gì mình đã đi qua thì mình biết rõ hơn.

Vì là chuyện Chúa gọi, nên chuyện ta đang nói với nhau liên hệ tới ơn thánh. Bạn đang đi trên con đường rất đẹp. Nơi nào có ơn thánh, nơi nào có tiếng Chúa là nơi ấy có vẻ đẹp. Một khi bạn băn khoăn không biết Chúa có gọi bạn đi tu không tức là bạn đã ít nhiều đang nghe tiếng Chúa rồi, ít nhiều bạn đang đi vào đường đẹp đó rồi.

Khi trả lời bạn Chúa gọi tôi thế nào. Bạn nhắc nhở tôi về ơn gọi của chính tôi. Bởi thế, trả lời bạn cũng là nhắc cho tôi tiếp tục sống ơn gọi ấy. Cám ơn bạn.

 Bạn có cho rằng khi tiếng Chúa thì thầm gọi đã là quà tặng hay chưa, hoặc bạn phải đợi tới khi đi tu rồi bạn mới cho đó là quà tặng. Với tôi, khi rất mơ hồ nghe tiếng gọi, có thể một chiều nào bâng khuâng với tháp chuông, hình ảnh nóc giáo đường, tôi cho đó đã là quà tặng rồi. Điều đó quan trọng đối với tôi vì câu trả lời cho bạn, tôi dựa trên luận cứ này. Nghĩa là hễ cứ có bóng hình Chúa là có ân sủng rồi.

Muốn nói quà tặng là một ơn thánh, thì để lãnh nhận, tôi cần tâm hồn yêu mến vẻ đẹp. Tiếng gọi là một ơn thánh, thì để nghe, tôi cần một cõi lòng thanh tịnh. Tôi cần chính ơn Chúa để nghe tiếng Chúa. Tôi muốn nói những điều ấy với bạn để bắt đầu trả lời câu hỏi của bạn.

Khi bạn phân vân không biết Chúa gọi bạn thế nào đây. Đầu tiên, bạn dùng trí tuệ để phân tích, rồi bạn có thể xin ý kiến người chung quanh. Điều đó rất đúng. Tôi cũng trải qua con đường đó. Tuy nhiên, có một tâm tư tôi muốn nói với bạn:

- Cầu nguyện tha thiết và ngay lành trong tin tưởng.

Cần chính ơn Chúa để nghe tiếng Chúa thì bạn phải phó thác và đơn sơ khi tìm nghe tiếng Chúa. Như tôi đã nói với bạn, tôi ngại khi trả lời bạn vì nó là câu chuyện riêng tư của riêng mình.

Sự phó thác và đơn sơ như nghịch lý với thông minh của trí tuệ. Khi gặp một điều khó khăn, bạn muốn dùng trí tuệ để giải quyết vấn đề. Một người thông minh lại càng muốn giải quyết bằng trí tuệ của mình hơn. Lúc đó, rất có thể bạn nghĩ phó thác cho Chúa, điều ấy tiêu cực quá.Còn tin tưởng là không tính toán theo trần thế, như một bé thơ, điều ấy có vẻ ngây ngô quá. Sống trong xã hội bạn phải tính toán nhiều. Cạnh tranh với cuộc sống, bạn phải cân nhắc, so đo, dè dặt. Người ta gọi đó là khôn ngoan.

Rất có thể bạn cũng áp dụng những nguyên tắc đó vào  ơn gọi đi tu. Hoặc có khi bạn cũng so đo, dè dặt khi nghe tiếng Chúa mà không biết rằng mình đang tính toán với Chúa. Hơi khó để nói cho bạn điều tôi muốn nói, vậy bạn cho tôi nói bằng một kinh nghiệm của riêng tôi.

Vào năm đó, 1983 tôi đã đi hết năm năm thần học, sắp được thụ phong linh mục.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 189

Page 190: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Bấy giờ Chúa lại gọi tôi vào một con đường khác: Con đường tu Dòng.

Qua lần này, tôi hiểu hơn thế nào là phó thác, tính toán và ơn gọi. Tân linh mục thường là 26 hay 27 tuổi. Năm tôi  học xong thần học đã là 32. Thay vì thụ phong linh mục, lúc này, tôi cảm thấy đời sống tu dòng thích hợp với tôi hơn.

Tôi mong ngày thụ phong linh mục vì đã chờ đợi bao năm rồi. Bây giờ tới đích lại hoãn lại hay sao ? Hoãn lại biết tới ngày nào? Biết nói sao với Đức Cha nếu bỏ địa phận ra đi. Cái băn khoăn lớn nữa là nhà dòng có nhận mình không. Vì thế, bắt đầu phải “tính toán”.

- Một là cứ “âm thầm” liên lạc với nhà dòng, khi họ nhận mình rồi, bấy giờ báo cho Đức Cha biết. Trình bày trước, nếu nhà dòng không nhận, biết chỗ đâu quay về? Đức Cha đã biết ý định mình muốn ra đi như thế, liệu Đức Cha có nghi ngờ ơn gọi của mình không ? Liệu biết đâu ngài mang thành kiến rồi đối xử tệ với mình thì sao đây? Những ý nghĩa ấy làm tôi ái ngại.

- Hai là cứ thụ phong linh mục trước đã, rồi vào dòng sau cũng được. Điều này còn chắc hơn nữa vì mình đã là linh mục rồi, có thể nhà dòng quý mến mình hơn. Tôi hỏi ý kiến và có người cũng góp ý với tôi như vậy. Họ bảo phải khôn ngoan mà tính toán.

Xem ra con đường nào cũng có vẻ hợp lý.

Nhưng suy niệm trước Nhà Chầu của Chúa, tôi thấy có dáng dấp của sự thiếu siêu thoát.

Điều làm tôi băn khoăn hơn nữa là bấy giờ tôi vẫn mang student visa. Tôi tỵ nạn bên Âu Châu. Từ Âu Châu qua Mỹ, tôi mất quyền tỵ nạn, không có thường trú nhân. Nếu thụ phong linh mục, sẽ có thường trú nhân ngay, điều này lợi lắm vì tôi có thể làm giấy bảo lãnh gia đình qua Mỹ. Là người con duy nhất ở nước ngoài, người anh cả của bẩy đứa em, điều đó thôi thúc tôi rất nhiều. Trăn trở ấy cứ bảo tôi thụ phong linh mục đi đã. Những chiều thinh lặng trước Nhà Chầu, tôi thấy Chúa không bằng lòng với cả hai cách tính toán trên.

Những cuối tuần sinh viên đi nghỉ, nhà trường vắng, tôi ở trong phòng với những tính toán. Đã nhiều lần tôi lấy ý kiến người khác để xoa dịu lương tâm mình, nhưng trước Nhà Chầu của Chúa, Chúa vẫn có một tiếng nói riêng. Chúa nói phải siêu nhiên và phó thác.

Bây giờ, tôi muốn nói với bạn về “tiếng nói riêng” này của Chúa là gì. Trong những giờ cầu nguyện, tôi nghe như Chúa nói rằng: “Con hãy dùng trí thông minh mà tính toán trong cuộc đời, nhưng chuyện ơn gọi đi tu, con đừng tính toán”.

Lúc ấy,. nhìn về tương lai thật mù mờ. Làm sao tôi dám gọi niềm tin mà phó thác. Tôi muốn tính toán sao cho đời mình khỏi lỡ dở. Tôi nghe văng vẳng cung điệu đó là, với Chúa, tôi phải lắng nghe tiếng gọi bằng con tim chân thành. Nếu tôi tính toán, đời linh mục của tôi sẽ không trong sáng. Nhưng còn gia đình tôi thì sao. Giữa lúc biết bao người đang qua Mỹ theo diện đoàn tụ dành cho người Việt Nam. Tôi cần tấm thẻ xanh thường trú nhân.

Ơn gọi đi tu là một tự do tuyệt vời, tự do của cả hai trái tim, nơi người gọi và nơi người nghe. Tuyệt đối không thể có tính toán trần thế, vì ơn gọi này không thuộc về trần thế, làm việc giữa trần thế, nhưng không đến từ trần thế.

Tôi phải tìm hiểu ơn gọi trong sự tin tưởng. Trong những ngày đó, cám dỗ của tôi là cứ giấu Đức Cha đi. Mình tự tính toán như thế là đủ rồi. Tôi không muốn nói với bạn là bề trên luôn luôn không thể sai lầm. Có khi bề trên sai lầm.

Điều tôi muốn nói với bạn là sự chân thành và nghe tiếng gọi từ nơi Nhà Chầu vắng.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 190

Page 191: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Tôi tin điều này và có những trường hợp tôi phải tin một cách mãnh liệt, một trong những trường hợp đó là để Chúa hành động trong ơn gọi linh mục của mình. Riêng trong trường hợp của tôi, tôi biết có khi bề trên cũng sai lầm, nhưng ở đây, qua những giờ phút tính toán, tôi thấy Chúa muốn tôi hành động qua Đức Cha. Phải cho ngài biết.

Biết vậy, nhưng tôi phải chiến đấu lắm mới dám trình bày tất cả cho cả Đức Cha địa phận và nhà dòng biết. Tôi đã qua những quyết định thật khó khăn. Chắc bạn muốn biết, vậy Đức Cha nghĩ gì và rồi tôi tiếp tục ơn gọi ra sao ?

Sau khi trình bày xong, Đức Giám Mục địa phận im lặng rồi nói: “Nếu nhà dòng không nhận, thầy vẫn có thể ở trong địa phận của tôi. Nhưng thầy sẽ không được chịu chức. Thầy sẽ đi giúp xứ, bao lâu tôi không biết, cho đến khi tôi gọi”.

Chợt nghe, lòng tôi cũng se sắt, đã xong năm năm thần học rồi, bây giờ lại biết đến bao giờ. Thụ phong linh mục, tôi sẽ có thường trú nhân, tôi nghĩ đến gia đình.

Đối với ơn gọi, ta phải quy phục trước thánh giá bạn ạ.

Những tháng ngày sau đó, tôi chưa biết nhà dòng có nhận tôi không, nhưng tôi thấy mình không có chút gì gian dối trong ơn gọi. Có hơi buồn và trăn trở nhưng tôi thấy mình đi đúng hướng. Khó khăn thì không hết nhưng có bình an. Tôi mơ hồ hiểu bình an mà Chúa nói với các môn đệ không như bình an của thế gian. Tôi cũng mơ hồ cảm thấy một nỗi niềm nào đó có thể là xót xa xẩy ra về vấn đề bảo lãnh gia đình.

Cũng những tháng ngày sau đó, Đức Cha thương tôi hơn. Có lần ngang qua tiểu bang, phải đợi máy bay ngoài phi trường, ngài lấy taxi vào chủng viện thăm tôi, điều mà chưa bao giờ xảy ra trước đó. Cái thăm rất chân tình không phải để “câu người” nhưng là như người cha giúp đứa con của mình tìm thánh ý Chúa. Tôi nói với Đức Cha:

- Con muốn tìm hiểu thánh ý Chúa, con trình bày hết và xin Đức Cha giúp con. Con rất ngại khi nhìn về mấy năm ăn học mà địa phận đã trả cho con.

Đức Cha ôn tồn nói:

- Thầy không phải lo gì cả, thầy cứ tìm hiểu thánh ý Chúa đi. Ở đâu cũng là phục vụ cho Giáo Hội.

Năm 32 tuổi tôi mới vào dòng. Lại một con đường mới. Nhà dòng cũng chưa biết tôi thế nào. Nhà dòng cũng cần thời gian để thử thách tôi thêm. Trước khi vào dòng, tôi đã nhìn thấy thời gian dài đằng đẵng ấy, Cha Bề Trên Dòng cho biết ít nhất phải đợi thêm sáu năm nữa. Tôi đã học xong chương trình thần học của địa phận là năm năm. Tôi có thể thụ phong  linh mục và có thường trú nhân ngay. Bây giờ phải đợi thêm sáu năm nữa, tiếp tục đời sinh viên, mà còn dài hơn chính chương trình thần học tôi vừa học xong. Thời gian quá dài làm tôi ngán ngẩm. Có những ngày dài tôi rất ái ngại, hơi hoang vu.

Tôi cũng tự hỏi sau những năm dài ấy mới thụ phong linh mục, lúc đó mới có thường trú nhân, có thể tôi mất cơ hội bảo lãnh gia đình qua Mỹ. Điều ấy làm tôi lo lắng và buồn nhất. Tôi cảm thấy mơ hồ một điều gì đó sẽ xảy ra. Tôi biết thế.

Và như điều lo xa, điều ấy đã xẩy ra.

Tôi đã mất cơ hội bảo lãnh gia đình.

Thời gian chờ đợi quá lâu. Sau năm năm thần học của địa phận, tôi chờ thêm sáu năm nữa theo chương trình trong dòng. Tất cả sau mười một năm, thụ phong linh mục xong, có thường trú nhân, nhưng phải đợi năm năm để lấy quốc tịch. Thụ phong linh mục

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 191

Page 192: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

xong, tôi đi làm mục vụ bên trại tỵ nạn. Ngày trở về Mỹ, chương trình bảo lãnh đoàn tụ không còn. Điều dự đoán đã xảy ra như vậy. Tôi chấp nhận con đường của riêng tôi.

Tôi không bảo lãnh gia đình qua Mỹ được, tôi nhìn đó như là cả gia đình được tham dự vào ơn gọi của tôi. Tôi quý ơn gọi này.

Nhìn lại những bến bờ, tôi nhờ sáu năm chậm lại này mà gặp gỡ biết bao chuẩn bị tốt làm hành trang cho con đường linh mục của tôi trong tương lai. Lại cũng nhờ thêm sáu năm nữa làm việc mục vụ bên trại tỵ nạn mà tôi chìm sâu hơn vào ơn gọi linh mục. Thanh thoát sau những năm đầu đời mục vụ, rồi mơ hồ lãng đãng, không hẳn sương, không hẳn khói, nhưng nó không là bình minh rất sáng. Những mùa hè về Mỹ giúp tĩnh tâm, có dịp ghé qua những nơi cộng đoàn Công Giáo Việt Nam đông đúc. Khi được mời dâng lễ cưới, họ gởi tôi phong thơ tạ ơn. Ở những cộng đoàn như thế, lòng quý mến của giáo dân Việt với linh mục còn cao quý lắm. Từ đó, có những so sánh, thiếu tâm tình cao thượng của con diều yêu trời mây. Để sống đời linh mục mà không phải chống lại một lười biếng, dễ dãi nào đó, tôi rất nghi ngờ về lối sống thoải mái này.

Tôi không muốn gọi những tháng ngày vất vả tìm hiểu đó là cách Chúa “thử thách”. Tôi muốn gọi đó là con đường Chúa thanh tẩy. Chúa biết những gì tôi cần hơn để chuẩn bị cho đời sống linh mục của tôi. Chúa có cách chuẩn bị riêng cho bạn. Bạn hãy chân thành và tin tưởng Chúa trong lúc tìm hiểu ơn gọi của bạn. Bạn cũng hãy nhìn về phía trước, nếu đó là ơn gọi, bạn phải bảo vệ ơn gọi đó thế nào. Những gì xảy ra khi bạn theo ơn gọi đó.

Ơn gọi là ánh trăng. Cần một hồ nước êm ả.

Ơn gọi là áng màu của mây, phải đón gió để nó trôi đi.

Ơn gọi là quà tặng, hãy nhận bằng tâm hồn yêu mến vẻ đẹp.

Ơn gọi đi tu là vẻ đẹp của ánh sáng trong đêm, bạn đừng để bụi đường toan tính trần thế làm mờ ánh lấp lánh của ngàn sao.

Như tôi đã nói với bạn. Chúa gọi mỗi người một cách riêng tư. Vì riêng tư nên chúng ta đáp trả riêng tư. Vì riêng tư nên nguy cơ có thể xảy đến với bạn không có nghĩa là nguy cơ cho tôi. Tôi quyết định theo tiếng gọi của tôi, nên tôi không được đưa tiêu chuẩn đó vào quyết định của bạn.

Bạn có cho những quyết định của tôi trong cách tìm hiểu ơn gọi như thế là không biết “tính toán” không? Cuộc đời hôm nay họ bảo phải “khôn ngoan” mà sống. Phải “thực tế” mà hành động. Sau cùng, rất có thể họ chối từ niềm trông cậy và phó thác, họ không còn thành thật nữa. Và rồi sự “khôn ngoan” trần thế đi quá sâu vào những công việc siêu nhiên.

Bạn đồng ý hay không vẫn là suy tư của riêng bạn.

Khi bạn tìm hiểu về ơn gọi và bạn hỏi tôi về ơn gọi của riêng tôi, thì tôi phải trả lời bằng kinh nghiệm của riêng mình. Như thế, bạn biết đó, câu trả lời cho bạn, nó chân thành đến từ một trái tim. Và cũng chân thành, tôi xin nói với bạn, hôm nay, tôi rất quý đời sống linh mục của tôi. Tôi hạnh phúc trong ơn gọi. Tôi thấy đời ơn gọi linh mục quá đẹp. Không có gì thay đổi hoặc đánh mất được ơn gọi này. Ngày thơ tuổi nhỏ tôi viết Tình Thơ Thập Giá và Mùa Hoa Trên Thánh Gía Gỗ. Dù ngày xưa tuổi nhỏ, tôi đã mơ hồ thấy rằng thập giá vẫn có tình thơ. Dù chỉ là thánh giá gỗ vẫn nở mùa hoa. Cô đơn của thập giá, tuổi nhỏ, tôi gọi là cô đơn của thi ca. Lời kinh đời linh mục, tôi viết về buổi chiều lẻ loi là lẻ loi thi vị của văn chương. Trải qua một phần đời linh mục, tôi có thể nói, linh mục không thể cô đơn hiểu theo nghĩa là héo hắt, sầu muộn. Lẻ loi của lời kinh linh mục là một huyền nhiệm linh

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 192

Page 193: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

thiêng. Là vẻ đẹp của một đường đi.

Đời linh mục vẫn là một huyền nhiệm tiếp tục gọi tôi vào khám phá. Hạnh phúc vì được khám phá và từ khám phá họ bắt gặp hạnh phúc. Phải chăng đấy chỉ là hai bờ đê của một dòng sông mà nhiều người chọn đi. Có những dòng sông họ phải quyết định ra khơi một mình.

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 77: CON CẦN CHÚA

Tôi chối từ Thiên Chúa,

Thiên Chúa vẫn hiện diện. Vì Ngài là Thiên Chúa.

Thiên Chúa không cần tôi chứng minh có Thiên Chúa.

Thiên Chúa cũng không cần kẻ khác chứng minh cho tôi biết về Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa thì không cần chứng minh.

Như mặt trời không cần ai chứng minh về ánh sáng cho người mù.

Như người dưới căn hầm, mặt trời không hiện diện với đôi mắt ấy mà thôi, mặt trời vẫn hiện diện với vũ trụ.

Từ đó,

Lạy Thượng Đế, xin cho con biết kêu lên: Con biết con cần Ngài.

Trong các kinh Tiền Tụng của thánh lễ, lời Tiền Tụng Chung IV là kinh rất ít khi giáo dân nghe linh mục đọc. Hầu hết các thánh lễ chỉ dùng  Kinh Tạ Ơn II. Lời Tiền Tụng Chung IV đọc như sau:

Lạy Cha chí thánh

là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,

chúng con tạ ơn Cha mọi nơi, mọi lúc,

thật là chính đáng, phải đạo

và sinh ơn cứu độ cho chúng con.

Thật ra,

Cha không cần chúng con ca tụng,

nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả,

vì những lời ca tụng của chúng con

chẳng thêm gì cho Cha

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 193

Page 194: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời,

nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Vì thế hiệp với các thiên thần và các thánh

và đồng thanh tung hô rằng:

Thánh! Thánh! Chí Thánh.

Qua lời Kinh Tiền Tụng này, Giáo Hội chỉ rõ cho ta biết bản chất Thiên Chúa như thế nào.

Một thần linh là Thượng Đế nên lời ca tụng của người phàm. Vì là Thượng Đế nên lời ca tụng của phàm nhân chúng ta chẳng thêm gì cho Ngài.

Trong ngôn ngữ con người, chúng ta hay nói, hãy ca tụng Chúa để Thiên Chúa được vinh danh, là lời nói có thể làm hiểu sai lạc về bản chất Thiên Chúa. Chính Sách Lễ Rôma của Giáo Hội đã xác định như trên.

Vậy chúng ta chỉ còn một cách hiểu chính xác theo Sách Lễ Rôma là:

Được tạ ơn Chúa là hồng ân cao cả cho chính tôi.

Lời ca tụng của chúng tôi không thêm gì cho Chúa,

nhưng đem lại cho chúng tôi ơn cứu độ.

Từ Lời Tiền Tụng trên, chúng ta hãy xin cho mình lời nguyện là:

- Lạy Thượng Đế, con biết con cần Ngài.

Nhiều người nghĩ rằng mình làm “vinh danh” Chúa bằng lời ca tụng của mình, nên khi bất mãn với Giáo Hội thì ngừng ca tụng Chúa.

Có người nghĩ rằng Chúa cần mình, nên khi “bất mãn” với Chúa thì không ca tụng để Thiên Chúa bị thiệt thòi.

Có ai cứ nhắm mắt lại để mặt trời bớt ánh sáng không.

Có ai xuống hầm tối cho mặt trời thiệt thòi không.

Khi chúng ta hiểu rõ lời ca tụng của chúng ta không thêm gì cho Chúa nhưng lại thêm cho chính mình. Khi chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không cần ai ca tụng, nhưng ca tụng Chúa lại là hồng ân cho chính mình thì chúng ta phải nghiêm chỉnh đặt vấn đề về những lời ca tụng của chúng ta.

Thái độ thứ nhất: Ao ước được ca tụng.

Lạy Chúa từ bi và nhân hậu,

Người thanh niên giàu đó trong Phúc Âm đến hỏi Chúa đâu là con đường siêu thoát. Chúa cho anh ta một hồng ân là đến theo Chúa. Anh không muốn từ chối. Nhưng lòng anh quá nặng nề, sau cùng anh cúi mặt bước đi buồn rầu. Rất tội nghiệp cho anh. Tại sao Chúa không năn nỉ anh? Hình ảnh siêu bạo ở đây là Chúa không năn nỉ. Phải chăng vì theo Chúa là một hồng ân đem lại ơn cứu độ cho chính anh. Hôm nay, rất nhiều cha mẹ phải “năn nỉ” con cái đi lễ. Rất nhiều linh mục “năn nỉ” giáo dân đến nhà thờ. Trong các thánh lễ, có rất nhiều thứ “năn nỉ”. Năn nỉ đóng tiền. Năn nỉ làm việc tông đồ. Bởi đâu, lạy Chúa, chúng con có những não trạng như thế. Phải chăng chúng con đã không hiểu rằng những lời ca tụng kia là cần thiết cho chính chúng con.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 194

Page 195: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Thái độ thứ hai: Khiêm tốn trong lời ca tụng.

Vì Chúa là thần linh không cần lời ca tụng của phàm nhân, nên con phải xin Chúa cho con được ca tụng. Lời của phàm nhân tội lỗi, tâm trí phàm nhân u mê, sao chúng con dám ca tụng thần linh. Bởi đó, được ca tụng Chúa là hồng ân, nên chúng con phải khiêm tốn trong mọi cộng việc tông đồ. Biết đâu có linh mục hôm nay rất tự hào về những công trình của mình. Từ đó, cũng biết đâu, nhiều tín hữu thấy mình quan trọng trong lời ca tụng, và việc dâng cúng. Tất cả chúng con đều lầm lẫn. Xin Chúa từ bi và nhân hậu thương xót chúng con.

Thái độ thứ ba: Chờ đợi được ca tụng.

Lạy Chúa từ bi và nhân hậu,

Vì lời ca tụng Chúa mang ơn cứu cho chính chúng con, nên chúng con phải khiêm tốn, ao ước và chờ đợi được ca tụng. Nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa gọi các môn đệ theo Chúa. Chúa truyền cho các ông làm việc này, việc kia. Đấy là hồng ơn cao cả chứ không phải Chúa thiếu thốn. Cái thiếu thốn của chúng con là thiếu Chúa. Cái nghèo của chúng con là không được Chúa sai đi. Khi hiểu thế, chúng con phải hạnh phúc biết bao khi được Chúa kêu mời.

Lạy Chúa từ bi nhân hậu,

Xin cho con biết lắng nghe Chúa sai bảo thật tha thiết, chờ đợi như kẻ cắp rình mồi. Vì con nghèo lắm nếu Chúa không sai con đi. Nếu không được ca tụng Chúa con lấy đâu hồng ân cho hạnh phúc của con.

Bạn thân mến,

Công việc mục vụ của tôi là đi giúp tĩnh tâm. Có người hỏi tôi, Phúc Âm thì lần nào đọc cũng giống nhau. Đọc mãi Cha có chán không.

Lời Phúc Âm chỉ có vậy, nhưng tuỳ cách nghe mà lời đó khác.

Một lần kia, vì lối nói của tôi, phút đầu khai mạc làm một người bất mãn. Họ không muốn đi tĩnh tâm. Nhưng vì bị “năn nỉ” quá, sau cùng có mặt trong cuối tuần linh thao. Một cuối tuần đếnretreat house – nhà tĩnh tâm như thế, ít ra cũng hết một trăm năm mươi đô la một đầu người. Hầu hết những người ngại đi tĩnh tâm là không có thời giờ, và tiếc tiền. Hầu hết cha mẹ nói với con cái, linh mục nói với giáo dân là “hy sinh” dâng cho Chúa một cuối tuần tĩnh tâm để ca tụng Chúa. Đối với tôi đấy không phải là hy sinh. Hy sinh là chịu thiệt về mình cho người khác phần lợi. Vì cách nói của tôi làm họ bực bội.

- Thưa Cha, nếu không hy sinh, con không đến đây chiều nay được. Còn biết bao công việc ở nhà nếu không hy sinh làm sao bỏ được.

Họ bực với tôi, bực luôn với những ai đã “năn nỉ” họ đi. Tôi không ngờ buổi tối khai mạc mà bầu khí không êm ả chút nào, tôi cố gắng đưa mọi người vào giờ kinh tối, rồi đi ngủ. Qua một ngày thinh lặng, tối hôm sau, trước giờ kinh tối:

- Thưa cha, con xin có đôi lời.

Người này cất tiếng. Rồi tiếp:

- Tôi xin lỗi anh chị em những gì tôi nói tối qua. Sau một ngày thinh lặng, tôi thấy có một cái gì đang xảy ra nơi tâm hồn tôi. Tôi chưa có bình an, chưa thấy Chúa đâu, nhưng có một chút gì đó làm tôi suy nghĩ.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 195

Page 196: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Nhìn bóng đèn trên trần nhà. Tâm sự với mọi người:

- Có tôi hay không, thì chiều nay bóng đèn này vẫn sáng. Đâu phải thiếu tôi mà bóng đèn bớt sáng đâu.

Rồi quay nhìn ra sân tối:

- Tôi cũng xin lỗi những ai tôi xúc phạm, những ai đã khuyến khích tôi đi khoá linh thao này. Nếu tôi bỏ lò sưởi ra sân đứng thì tôi lạnh, chứ đâu phải thiếu tôi, tôi làm cho lò sưởi bớt sức nóng đâu. Thiên Chúa là như vậy. Tôi đến thì tôi ấm, tôi xa Ngài, tôi lạnh, Thiên Chúa cho tôi sức ấm chứ tôi làm sao cho Ngài thêm lửa nóng được.

Bạn thân mến,

Sau cùng, người này đã có những ngày tĩnh tâm - nghỉ ngơi với Chúa rất đẹp.

Chớ gì chúng ta hiểu rõ và thưa với Chúa: Lạy Chúa, con biết con cần Chúa.

Riêng với bạn đang đọc dòng này, không cùng tôn giáo với tôi. Tôi cầu chúc bạn hãy nói:

- Lạy Thượng Đế, lạy Trời Phật, con biết con cần Ngài. Bởi đó, là con đường đi rất đẹp của một phàm nhân.Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 78: ĐÊM TÌM DẦU

Những đêm chôn dầu vượt biên đã chấm dứt.

Hôm nay nhà nước Việt Nam không gọi những người vượt biên năm xưa phải chạy khốn khổ là phản động nữa, mà là “cánh tay nối dài của quê hương”.

Cuộc đời cứ như chong chóng. Dừng lại cơn gió lốc. Tôi muốn hỏi lòng mình, quê hương nào? Nối cánh tay về đâu?

Tôi viết những dòng này sáng ngày 20 tháng Tư năm 2005. Ngày 30 tháng Tư năm nay khác hơn mọi năm vì đánh dấu 30 năm vượt biên tìm quê hương.

Tìm dầu. Chôn dầu. Giấu dầu. Tỵ nạn. Vượt biên. Tự do. Ngục tù. Sống và chết. Ra đi. Quay về. Quê hương. Giữa những danh từ này. Đâu là chân lý. Chân lý là sự thật tiêu chuẩn cho cuộc đời, nó phải vĩnh cửu, không thể quay theo gió được. Có nhiều thứ quê hương. Quê hương lưu đầy. Quê hương sinh ra và lớn lên. Quê hương chạy chốn. Quê hương vĩnh cửu.

Chân lý là câu chuyện kể thế này:

Có năm người khờ dại, đem đèn mà không đem theo chai dầu.

Khi chàng rể đến. Năm cô khôn ngoan, đem đèn, đem theo cả dầu, ra đón chàng rể.

Năm cô đem đèn mà không có dầu, vay mượn, nhưng người ta không cho.

Khi những người kia đi mua dầu thì chàng rể vào tiệc cưới. Cửa đóng lại.

Thánh sử Matthêu kết thúc bằng hàng chữ sau: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 196

Page 197: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25: 1-13).

Kinh Thánh gọi câu chuyện thiếu dầu, tìm dầu, không có dầu trên đây là quê hương Nước Trời. Kinh Thánh không nói với những người có dầu hãy chia bớt cho người kia. Kinh Thánh không khuyên người ta làm việc bác ái. Nhưng bảo: “Hãy canh thức, vì không biết ngày nào giờ nào.”

Tại sao không chia sớt cho nhau?

Cuộc đời có những suy tư, đứng trên bờ giếng ta thấy khác, xuống lòng giếng sâu ta thấy khác. Chẳng hạn người ta cứ than phiền người Việt Nam không đúng giờ. Đi lễ trễ.

Tháng 10 năm 2004 tôi giúp tĩnh tâm cộng đoàn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, ở vùng Dallas,Texas. Trong thánh lễ Chúa Nhật hôm đó, tôi tâm sự với cộng đoàn:

- Kính thưa anh chị em,

Sáng nay thánh lễ Chúa Nhật, tôi đứng trên đây mới thấy rõ. Nhiều anh chị em đi lễ trễ quá. Tôi thấy nhiều anh chị em đi rất lững thững. Đã qua phần công bố Lời Chúa rồi.

Tôi chỉ là cha khách thôi, cứ thường, theo sự khôn ngoan ngoài đời, tôi chẳng nên nói. Đến cộng đoàn nào cũng cứ khen cha xứ tài khéo. Khen ban mục vụ hăng say. Khen tinh thần cộng đoàn sốt sắng. Như thế cha quản nhiệm cũng thích mình. Mình ra đi ai cũng thích. Tôi chỉ là cha khách. Kệ giáo xứ người ta.

Nhưng sáng nay, tôi xin tâm sự với anh chị em đôi điều. Nhiều anh chị em đi lễ sáng nay quá trễ.

Tôi thấy cộng đoàn ngồi im. Dường như họ đang chờ đợi một cái gì khó nói sắp xảy ra. Tôi cũng không biết cha xứ chủ tế ngồi đó nghĩ gì, thấy vui vì tôi nhắc điều chính cha cũng đã nhắc, hay là thấy đau vì cha khách chê giáo dân của mình. Tôi nói với họ:

- Nếu tôi không nói những điều khó nói, nhưng cần nói, tôi chỉ là người làm thuê. Tôi không thương Giáo Hội, tôi không kính trọng anh chị em. Tôi không xây dựng. Những gì tôi nói đến từ tấm lòng. Chúng ta cần những gợi ý giúp chúng ta suy tư. Vì thế tôi xin nói. Chúng ta nghe quá thường là người Việt Nam không đúng giờ. Nói đến người Việt Nam, chúng ta bảo là giờ giây thung, giờ cao su. Đối với tôi, tôi thấy người Việt Nam rất đúng giờ. Tôi thấy những biến cố lịch sử đã chứng minh rõ lắm. Tôi xin hỏi anh chị em:

- Có ai trễ giờ ngày họ vượt biên không ?

Cả nhà thờ ngồi im. Hằng trăm ngàn người vượt biên, không ai trễ giờ. Lịch sử minh chứng điều đó. Như vậy tại sao có thể nói trễ giờ là đặc tính của người Việt Nam? Lạ thật, hàng trăm ngàn người mà không ai trễ giờ. Họ đến trước giờ vượt biên. Họ nằm chờ, có khi cả mấy ngày trước chuyến ghe khởi hành.

Anh chị em không trễ giờ ngày vượt biên, tại sao anh chị em đi lễ trễ? Anh chị em không trễ giờ ngày vượt biên tại sao anh chị em đi dự tiệc cưới trễ?

Cả nhà thờ ngồi im. Tôi không trách họ. Tôi chỉ gợi ý cho họ suy tư thôi. Tôi muốn họ không đứng trên bờ giếng tìm nguyên nhân, hãy xuống sâu dưới lòng giếng. Hãy trở về thâm sâu trong trái tim mình để tìm nguyên cớ. Tôi chỉ muốn nói với họ, đi trễ không phải là đặc tính của người Việt Nam. Người Việt Nam chỉ đi trễ tuỳ cái họ muốn trễ. Tôi nói thêm với họ một câu, như để trả lời thay cho sự cắt nghĩa. Người Việt Nam có câu: “Cha chung không ai khóc”. Phải chăng xuống giếng sâu trong tâm hồn ta bắt gặp những suy tư rất khác?

Anh chị em không trễ giờ trong ngày vượt biên, vì nó có nguyên nhân của nó. Anh chị em đi lễ trễ, nó cũng có nguyên nhân của nó. Lý do đơn giản và tôi thấy rõ là vì anh chị em thiếu lòng tha

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 197

Page 198: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

thiết. Nhưng tại sao anh chị em không tha thiết với thánh lễ thì tôi không trả lời được. Câu trả lời nó nằm sâu trong trái tim mỗi người.

Câu chuyện mười cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể cũng lạ thật. Phúc Âm gọi đó là câu chuyện về quê hương Nước Trời. Năm cô mang đèn mà không mang theo dầu. Họ không dám bỏ đèn. Ra đi cũng có đèn. Nhiều người không dám bỏ nhà thờ. Nhiều người không dám bỏ đạo, họ xách theo cái đèn. Ai cũng thấy họ có đèn. Họ không có dầu.

Trước ngày vượt biên, họ tìm dầu, chôn dầu, giấu dầu. Cuộc hành trình rất cam go.

Trước ngưỡng cửa sự chết. Không ai vay mượn công đức của người khác được. Dầu tôi có nhiều hay ít, tôi vào sự chết với số dầu đó. Ánh sáng trong đường hầm sau cái chết tuỳ ngọn đèn của tôi. Không ai thắp đèn thay tôi. Không ai xách dầu dùm tôi được.

Tại sao không chia sớt dầu cho nhau ?

Bây giờ tôi hiểu. Phúc Âm gọi đó là câu chuyện Nước Trời. Không phải để người khác lên trời thay mình hay thuê người khác xuống ngục tối thay ta. Nhân đức là bình dầu không vay mượn được. Vì thế Kinh Thánh không thể chỉ cho ta cách vay mượn mà chỉ có thể dạy ta “hãy tỉnh thức”.

Đó là câu chuyện đường tôi phải đi một mình.

Lạy Chúa,

Ba mươi năm vượt biên là con số rất lớn cho một đời người.

Trước ngày vượt biên, con tìm dầu, chôn dầu, giấu dầu. Cuộc hành trình rất cam go. Cánh tay nối dài mãi chưa tới quê hương. Ba mươi năm nhìn lại. Bến bờ còn lại của những ngày tháng ngắn ngủi trong đời. Con sẽ vượt biên nữa. Chuyến vượt biên này là chuyến định mệnh đời con. Vượt qua cuộc sống, vào cái chết.

Vào cái chết rồi, có người có đèn mà không có dầu. Lúc ấy, chắc buồn biết bao.

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 79: ANH CẢ

“Về gần đến nhà, khi nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì” (Lc 15:25).

Đó là phản ứng đầu tiên của người anh trong câu chuyện “đứa con hoang đàng” hay là “người cha nhân hậu” của Phúc Âm thánh Luca.

Tại sao không vội vã vào ngay?

Có thể anh ta đoán được chuyện gì đang xảy ra. Chuyện người em đã về.

Anh ta không muốn vào nhà vì biết đâu người em đã về thật. Anh gọi người đầy tớ ra hỏi cho chắc. Không ngờ, người đầy tớ báo tin. Trong lời báo tin này có ba sự kiện:

- Em cậu đã về !

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 198

Page 199: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Cha cậu đã giết con bê béo !

- Vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ! (Lc. 15:27).

Nghe xong, anh “nổi giận”, không chịu vào nhà. Thế là hết! Ba yếu tố vừa kể trên làm anh ta đau đớn. Anh không muốn đứa em về. Không muốn người cha thịt con bê béo. Không muốn người cha nhìn đứa em mạnh khoẻ. Anh chối từ bữa tiệc. Chối từ bữa tiệc cũng là không muốn gặp mọi người hiện diện ở đó. Nếu vào nhà, gặp đứa em, anh ta làm sao chạy ra? Nếu vào nhà, bà con láng giềng chúc mừng em anh ta đã về, anh biết phản ứng làm sao? Anh không vội vã vào nhà. Anh đã tính toán khá kỹ.

Tại sao không truyền lệnh mà năn nỉ?

Có thể người đầy tớ phải vào báo cho chủ biết nên người cha mới ra gặp anh ta. Hoàn cảnh người cha rất khó xử. Nếu anh ta không vào, ông trả lời thế nào với đứa con thứ khi nó hỏi:

- Anh con đâu?

Nếu người con trưởng không vào, ông biết nói thế nào với bà con láng giềng về sự vắng mặt rất ý nghĩa này. Nếu những người giúp việc nói chuyện với nhau, họ phản ứng thế nào, vì họ không ngờ chuyện lại xảy ra như thế. Ai cũng nghĩ là một ngày vui. Rồi câu chuyện đến tai bà con lối xóm, những người dự tiệc. Bây giờ, đề tài trong bữa tiệc này chuyển hướng về đâu?

Ngày hôm nay, có bố mẹ cũng không sao sắp xếp được cho các con ngồi chung với nhau một tiệc vui. Có những anh em thề không nhìn mặt nhau. Họ nói:

- Nếu có vợ chồng chúng nó, không có con!

Vì sao người cha trong câu chuyện này không truyền lệnh mà lại năn nỉ? Ông rơi vào tình cảnh đó. Ông ở một hoàn cảnh rất thương tâm.

Phản ứng của người con thứ

Cho đến lúc này ta không nắm chắc tâm tư người con thứ và cuộc trở về của nó.

Nếu người con thứ biết anh nó đang nổi giận ngoài kia. Liệu bữa tiệc có tiếp tục vui?

Chi tiết cho hay là nó về vì đói. Luca nói rõ: Nó ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng. Nhưng không ai cho.

Điều cần lưu ý ở đây là chữ “dân”. Nó đi chăn heo cho một người “dân” trong vùng. Không phải chăn heo cho một ông chủ. Người dân này lại đang trong nạn đói “khủng khiếp”. Heo của nhà giàu, chắc ăn thức ăn khác của nhà nghèo. Đã nghèo mà lại trong nạn đói khủng khiếp. Như vậy còn gì mà ăn? Ấy thế mà nó vẫn chưa chịu về, vẫn xin đồ ăn của “heo-nhà-nghèo-trong-nạn-đói”. Giả sử người ta cho nó thứ đồ ăn đó, nó đâu có về. Bằng chứng là nó chỉ về khi người ta không cho nó. Nếu không về lấy gì ăn?

Sau cái ôm hôn, sự gặp gỡ cha có làm nó mủi lòng thật tâm trở về hay không? Phúc Âm không nói rõ. Dù nó thật tâm hay không thì người cha vẫn có bữa tiệc. Chúng ta không nắm chắc được tấm lòng người con thứ sau vòng tay của cha. Có thể nó sám hối ngày tháng cũ khi cảm thấy cha thương mình. Cũng có thể chưa. Cũng có thể lên mặt với người anh khi thấy anh nó hành xử như vậy. Luca viết đoạn văn này tuyệt với với những nét “thiền niệm” quá sâu. Luca để băn khoăn đặt ra là, nếu biết người anh nổi  giận vì cuộc trở về của mình, phản ứng nó sẽ ra sao? Và điều gì xảy ra trong bữa tiệc?

Nguyên nhân của những nguyên nhân

Dựa vào bản tường thuật, sau khi chia gia tài, đứa con thứ “ít ngày sau, thu góp tất cả, rồi

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 199

Page 200: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

trẩy đi phương xa” (Lc. 15:13). Nó ở lại ít ngày, và thu góp “tất cả” rồi mới trẩy đi phương xa. Như thế, khi ra đi nó không thể bỏ cái áo “đẹp nhất” ở lại. Ngày nó về, người cha bảo các đầy tớ mau mau đem áo “đẹp nhất” ra đây mặc cho cậu.

- Áo đó ở đâu?

Khi được sai đi lấy áo, người đầy tớ không hỏi áo nào. Người đầy tớ biết rõ “cái áo”. Có một liên hệ hiểu ngầm nào đó giữa người cha, chiếc áo và người đầy tớ. Họ biết rõ về câu chuyện cái áo.

- Bắt con bê đã “vỗ” béo để làm thịt.

Không phải con bê béo, nhưng là con bê đã “vỗ” béo. Như thế ta thấy rõ cái áo từ đâu ra. Cái áo phải là chiếc ông may sẵn. Vì con bê đã được “vỗ” béo. Bắt con bê mà từ trước tới nay vẫn săn sóc đặc biệt cho nó béo. Săn sóc đặc biệt con bê cho béo để làm gì? Bản tường thuật cho thấy rõ. Ông thịt con bê đó trong ngày người con thứ trở về. Như vậy, trước khi nó về, người cha may áo mới chờ đợi, săn sóc con bê cho bữa tiệc. Tất cả những chuyện này, đầy tớ là người lo chuẩn bị. Cho nên khi công việc xảy ra, mọi chuyện đâu vào đó. Khổ một điều, tất cả chuyện này, người con cả cũng biết.

Người con cả thấy đầy tớ săn sóc con bê cho béo. Anh ta thấy may sẵn áo mới chờ ngày. Từ ngày đó, lòng anh không yên tâm. Những ngày sống của anh là giận kín trong lòng. Hồn anh là tháng năm rất âm u. Nhìn con bê, nghĩ đến bữa tiệc có ngày xảy ra. Anh sợ ngày đó. Anh lo một ngày nào đó đữa em sẽ về. Không ngờ, hôm nay nó về thật.

Dang dở ngàn trước cho đến ngàn sau

Người anh cả. Câu chuyện dang dở từ đây.

“Gọi người đầy tớ ra mà hỏi”.

Bình thường khi thấy gia đình như thế, người ta phải vội vã chạy về xem có chuyện gì mà vui vậy. Nhưng anh dè dặt, vì… nếu là tiệc cho đứa em thì sao? Nếu chạy vào mà đúng là đứa em về thì… trời ơi! Anh ta gọi người giúp việc ra hỏi, sự thận trọng đó là đúng.

Đời anh là những tháng ngày dang dở. Từ khi người con thứ bỏ nhà đi thì người cha cũng mất luôn người con trưởng, vì tấm lòng nó chật chội quá. Nó ở trong nhà, mà tấm lòng chỉ là một quán trọ tính toán giữa chợ. Căn nhà không có trái tim bao dung, buồn làm sao. Anh sống những ngày ảm đạm của một tấm lòng khoắc khoải. Nếu ngày nào đó có tiếng đàn ca thì sao, buồn quá. Anh lo cho ngày đó, anh sợ tiếng đàn vui.

Cuộc đời như vậy lặng lẽ quá nhỉ.

- Chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê con.

Thì ra thế! Thời gian những người đầy tớ “vỗ” con bê cho béo, cũng là những tháng ngày nó bị dằn vặt đau đớn. Nó thầm mong một con dê con. Ấy vậy mà bây giờ cha dám giết cả một con bê béo vì thằng em. Lòng ghen tức làm nó khổ.

Trong lúc “nổi giận” không chịu vào nhà, nó nói gì? Bản tường thuật cho thấy nỗi đau ray rứt linh hồn anh ta sâu lắm.

- Thằng con của cha đó, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng! (Lc. 15:30).

Anh ta lại nhắc đến con bê. Con bê béo này là hình ảnh xót xa liên hệ đến con dê, vì một con dê con anh cũng không có. Rồi vì con bê ấy thúc đẩy anh dùng cụm từ này: “Thằng con của cha đó”. Anh ta nói với cha mình như vậy. Thế thì, anh ta là con ai? Đứa nào ngoại hôn? Cụm từ“thằng

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 200

Page 201: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

con của cha đó” là nỗi đau vô vàn đối với một người cha có con như vậy. Làm sao một người con có thể nói với cha mình như thế.

Đời người con cả trong câu chuyện này quá dang dở. Anh ta sống, nhưng không còn là anh ta sống nữa. Bên cạnh cha là bổn phận ngày tháng dài lê thê. Anh chưa hề trái lệnh. Chính vì chưa trái lệnh nên mới càng đau. Chưa trái lệnh mà không được một con dê con, nên cái lê thê mới dài, dài của những ngày tìm mà không gặp cái mình tìm. Lòng ghen tức, nỗi cay nghiệt, xót xa trăn trở sống trong anh ta. Thấy cha may áo chờ, biết đâu có ngày người con thứ về. Từ ngày nó bỏ đi, thì lòng người con cả rối bời, chỉ sợ ngày em nó về. Nhìn gia nhân săn sóc con bê cho béo, anh đau đớn. Nhìn con bê, nghĩ đến cái áo, anh không một ngày vui. Cuộc sống anh ta khổ quá.

Tại sao người cha không cho?

Ông còn gì đâu mà cho !  “Tất cả những gì của cha đều là của con!” Như thế, có nghĩa là nó có thể giết bất cứ con dê nào nó muốn, vì tất cả là của nó! Trời ơi! Vậy mà nó không biết. Tại sao nó không hiểu điều này! Đời anh ta sao dang dở quá vậy? Anh ta sống bên gia nghiệp lớn như thế mà cứ nghèo, ao ước một con dê con cũng không được. Giữa những cơn nghèo ấy, giữa những tháng ngày khao khát ấy, thì cừu cứ từng bầy, chiên cứ từng đàn ngày ngày đi về trước đời anh. Tại sao sống bên vàng bạc lại túng thiếu, bên cánh đồng mà không đủ thóc. Tại sao suối đầy nước mà ruộng mình cứ nắng hạn. Đời anh dang dở quá. “Tất cả của cha là của con”. Câu này mang ý nghĩa là nó muốn giết con dê nào thì giết.”Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn thì anh em không còn lệ thuộc lề luật nữa” (Gal. 5:18). “Nếu gia nghiệp dành cho những kẻ lệ thuộc lề luật thì đức tin thành vô nghĩa và Lời Thiên Chúa bị huỷ bỏ” (Rom. 4:11).

Mà đời người cũng bi thương khôn cùng. Con sống bên mình mà không biết tâm tư của mình. Cha con cứ xa nhau.

Người con thứ chỉ xúc phạm cha một câu: “Xin chia phần tài sản con được hưởng”.Người con trưởng xúc phạm đến cha nhiều quá.

Không thấy người con thứ xúc phạm  đến anh nó. Nhưng người con trưởng xúc phạm cả em nó. Tại sao nó đương nhiên kết luận em nó nuốt hết của cải với “bọn điếm”.

Người con thứ ra đi, cha nó thương vì có nhớ. Hoặc vì nhớ nên thương.

Người con trưởng ở nhà, nên không thể nhớ. Không nhớ, nhưng cha có thương không? Điều này chắc chắn có. Vì: “Tất cả những gì của cha đều là của con”.

Cái bất hạnh của người con trưởng là không nhận ra tình thương của cha. Trong tình yêu, khi không nhận ra thì cũng không nhận được.

Nếu người con trưởng không nhận ra, không nhận được tình thương của mình, thì tình thương của người cha lại trở về với ông ta mà thôi. Cho mà không có người nhận, đó là cô đơn.

Cuộc đời người cha trong câu chuyện này cũng quá dở dang. Một nỗi cô đơn của kẻ cho mà không có người nhận. Của kẻ gầm mà quá xa.

Cha anh ta ra năn nỉ:

- Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm

thấy (Lc. 15:32).

Lời người cha nói: “Em con đây”, vừa êm ái vừa tha thiết. Nhưng với người con trưởng có là “em con đây” hay vẫn là “thằng con của cha đó”.

Câu chuyện thật là dang dở ở đoạn kết. Sau khi người cha nói với anh ta như vậy, Luca chấm dứt câu chuyện. Đọc xong rồi, người đọc băn khoăn:

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 201

Page 202: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Vậy sau cùng, người con trưởng có vào nhà không?

Luca không cho người đọc biết quyết định của anh ta.

Tôi giả sử: Nếu anh vào thì mọi chuyện quá đẹp.

Nếu anh ta không vào. Bao nhiêu vấn nạn được đặt ra. Liệu bữa tiệc có tiếp tục? Tiếp tục thế nào? Chiều đến, từ xa vẫn nghe “tiếng đàn ca nhảy múa”. Các người dự tiệc sẽ hỏi gia chủ:

- Thưa ông, thế cậu hai đâu?

Người cha biết trả lời khách làm sao. Nếu chiều về, người con thứ vẫn không thấy mặt anh mình trong bữa tiệc. Người cha sẽ nói gì với nó khi ông biết rõ anh nó đang “nổi giận”, và không chịu vào nhà.

Câu  chuyện thật dang dở. Liệu  bữa tiệc có dở dang không?

Tại sao Luca, khi viết chuyện này không cho đoạn kết? Tại sao lại bỏ lửng câu chuyện ngang chừng? Đọc xong, người đọc không biết người con cả có vào nhà hay tiếp tục ở ngoài.

Đọc xong, ta thấy một trời bơ vơ.

Tâm trạng người cha thế nào? Nó không vào, ông trả lời khách sao đây? Ông tìm cách nào để cắt nghĩa cho người con thứ về sự kiện anh nó nổi giận không chịu vào nhà? Tâm trạng người con thứ nữa, nó có điên tiết, anh em đánh nhau ngay bữa tiệc? Lối xóm phản ứng ra sao? Câu chuyện trong bữa tiệc chuyển đề về đâu? Tất cả rối bời.

Gỉa sử Luca cho người con trưởng hối hận rồi nghe cha vào nhà, câu chuyện có toàn bích hơn không? Vì sao Luca không viết rõ?

Đọc xong, băn khoăn không biết hỏi ai.

Một trời bơ vơ.

Phải chăng vì tác giả biết có ngày người ta sẽ băn khoăn đặt câu hỏi. Phải chăng Luca muốn cho cái dang dở ấy hết dở dang khi người ta tự thắc mắc với chính lòng mình:

- Nếu tôi là người anh cả tôi sẽ vào hay không? Nếu tôi là người con thứ, tôi phản ứng thế nào?

Đây cũng là đường đi một mình, vì chỉ tôi biết rõ lòng tôi. Chỉ tiêng tôi có câu trả lời cho tôi.

Luca phải để cho câu chuyện dở dang, vì dở dang này chỉ chấm dứt trong tim người đọc chứ không thể hết dở dang bằng ngòi bút.Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 80: LỜI CHIẾC GIÂY THỪNG

Tôi là chiếc dây thừng.

Tôi thắt cổ Giuđa. Tôi nghe rõ tiếng khò khè nơi cuống họng nhân vật này.

Nhớ lại đi, ngày Đức Kitô vào đền thờ Jêrusalem, tôi cũng là chiếc giây thừng.

Ngài lấy giây làm roi xua đuổi tất cả bọn họ. Tôi nghe rõ những gì xảy ra ở đền thờ

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 202

Page 203: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

ngày hôm đó. Chuyện không đơn giản như nhiều người nghĩ.

Mọi người cứ nghĩ như thế là xong, cứ nghĩ Đức Kitô ra khỏi đền thờ là xong. Ai là người buôn bán trong đền thờ? Còn ai nữa, nếu không được phép của các thầy tư tế. Ai lọt được vào đền thờ, nếu không có thế lực bảo chứng? Còn chỗ nào kiếm tiền tốt nhất trong những ngày đại lễ, nếu không là đền thờ?

Tiền bạc là thế lực âm thầm mà cuồn cuộn như dòng sông. Tôi là chiếc giây thừng trong ngày đó. Tôi nghe rõ những gì xảy ra:

- Nhóm tư tế ít thế lực ghen tức với nhóm thày cả có đông tín đồ.

- Nhóm tư tế quyên tiền gây quỹ được ít, nói xấu nhóm đổi tiền.

- Các tiền tiêu ngoài chợ phải đổi thành tiền riêng mới được bỏ vào hòm thánh. Vì thế, nhóm đổi tiền cho công việc của mình mới chính đáng.

- Nhóm bán chiên cừu tố cáo nhóm đổi tiền giả hình.

- Nhóm tư tế phục vụ bàn thánh bất mãn vì đền thánh chỉ là đền thánh, gây chiến với nhóm chủ trương phải kinh tài.

- Nhóm tín đồ từ vùng Galilê chủ trương vai trò ngôn sứ là công bố Lời Thánh, tư tế phải trở về bục giảng. Tín đồ chống đối tư tế.

Nhóm nào cũng cho mình mới là đáng tin, họ cạnh tranh nhau. Giữa lúc xôi đậu như thế, Đức Kitô xuất hiện.

Ngài chẳng thuộc nhóm nào.

Vì không thuộc nhóm nào nên càng dễ chết.

Tôi là chiếc giây thừng.

Tôi nghe nhiều bí mật của cuộc đời. Tôi xin kể về những lễ vật. Tôi theo những người nghèo không có tiền. Họ không thể lên đền thờ mới mua của lễ. Ở đó mắc hơn. Họ dắt con bê từ mấy mùa cắt cỏ chăn nuôi. Họ vất vả kiếm nước cho nó uống dọc đường. Nắng sa mạc hiếm cỏ. Những của lễ như thế, quý lắm. Tôi là chiếc giây thừng, tôi biết rõ lắm về lòng chân thành. Họ nuôi chúng cả năm trời.

Tôi cũng là chiếc giây thừng người ta vừa mua tôi về cột vào con bê bệnh. Rất nhiều con vật bệnh hoạn, họ mua về tắm rửa, đem vào đền thờ bán vội cho những người lười không muốn vất vả dắt chiên theo đường dài. Nhiều kẻ hành hương mua lầm của lễ. Họ dâng hiến Giavê những chiên cừu bệnh hoạn. Trong đền thờ ngày đó, đủ thứ của lễ, trong sạch có, què quặt có, lười biếng có, thánh thiện có.

Tôi là chiếc giây thừng, tôi biết rõ về của lễ. Những ai múc nước, đem cỏ, dắt của lễ theo thì biết rõ của lễ của mình trong sạch. Còn những người đến đền thờ mới mua, ôi, nhiều của lễ quá bệnh hoạn. Họ mua lầm. Làm thân giây thừng, tôi khám phá nhiều chân lý về cuộc đời và của lễ. Tôi thấy rất nhiều của lễ được bao bọc bằng lòng lười biếng. Những của lễ trong sạch bao giờ cũng phải trả một giá về sự thanh tẩy, lòng cố gắng và nhiệt thành.

Không phải Đức Kitô vào đền thờ đơn giản đâu. Ngài cũng thấy quyết định này có thể đưa Ngài đến cái chết. Qủa thật, sau này, cái chết của Ngài đã chứng minh điều đó. Cái chiều nắng quái kinh hồn đó, lũ người này có mặt trên đường Núi Sọ. Làm sao mà họ không reo mừng, nhớ lại cái ngày bị đuổi khỏi đền thờ, mất chỗ làm ăn.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 203

Page 204: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Thưa Thầy, chuyện Thầy tính làm nguy hiểm quá.

Phêrô, người môn đệ thân cận lại can ngăn Thầy mình như mọi khi.

- Thưa Thầy, con đã thăm dò tình hình. Có cả một uỷ ban gây quỹ. Bao nhiêu năm nay, truyền thống này như lời kinh rồi.

Những ngọn ô liu không gió, đứng im lặng, không thản nhiên vô tư, nhưng chúng cũng không biết phải phản ứng thế nào. Thỉnh thoảng dăm ba chiếc lá già lìa đời. Một chút xào xạc bước chân con chồn nhỏ chạy qua. Đức Kitô nhìn người môn đệ thân cận. Không trả lời. Trong tâm tư Đức Kitô cũng biết, đó là sự thật. Người môn đệ này thương mình. Đã qua mấy đêm rồi, Thầy trò nói với nhau về đền thờ.

Đức Kitô hỏi người môn đệ:

- Bây giờ phải làm sao?

Người môn đệ ấy trả lời:

- Thưa Thầy, cứ kệ họ.

Đức Kitô nói tiếp:

- Nhưng đây là đền thờ.

Người môn đệ đáp trả:

- Mình cứ lên đền thờ tế lễ theo luật là đủ rồi.

Đức Kitô không nói gì thêm, nhìn bầu trời đêm không ánh sao. Những tàng ôliu không gió phẳng lì như những tấm chiếu dán trên khung trời. Phêrô tựa lưng, ngả đầu bào thân già của cây ôliu đã gẫy, cũng thinh lặng. Tâm trạng Phêrô, một mảnh đời mệt mỏi, muốn tránh né những đụng chạm liên hệ xã hội.

Tôi là chiếc giây thừng trong ngày kinh hoàng đó. Lúc Đức Kitô cầm tôi quật xuống chiếc bàn của thầy tư tế đang đổi tiền, không ai ngờ, họ hét lên. Toàn thể kinh hoàng. Họ không thể ngờ, có người điên mới dám hành động như vậy. Nhưng điên làm sao được, họ biết rõ người này là ai.

Họ không tin sự việc có thể xảy ra. Nơi này, người ta đã được phép buôn bán từ xa xưa rồi. Có cả một thế lực truyền thống. Ai là người dám thay đổi cục diện. Nhưng Đức Kitô nói:

“Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán.” Khi Người lật nhào bàn ghế, đổ tung hòm tiền thì người ta biết đây không phải chuyện nói cho qua.

Các kẻ thuê đất, các hội trưởng nhốn nháo chạy báo tin cho các thấy thượng phẩm. Không phải họ xách bàn chạy dễ dàng đây. Tôi là chiếc giây thừng. Tôi bị bọn họ chặt tôi đứt nhiều khúc. Thân tôi bị xé cũng đau đớn tan tác.

- Giết nó đi. Đóng đinh nó đi.

Tiếng kèn báo động như tù và rú trên tháp canh. Đám đông xúm lại hét to:

- Ai cho ông có quyền làm như thế?

Họ không dám đến gần Đức Kitô. Tôi là chiếc giây thừng trong tay Ngài. Họ nhìn tôi chằm chằm.

Làm thân giây thừng, tôi ở trong tay Chúa, cũng như thắt cổ Giuđa. Tôi dắt những

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 204

Page 205: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

con chiên trong sạch từ vườn nhà, vượt qua đồi, qua suối lên đền thờ. Tôi cũng bị người ta mua vội thắt cổ vào cổ con bê bệnh hoạn bán cho nhau làm của lễ. Họ lấy của lễ lừa dối nhau, họ lầm lẫn về của dâng cúng. Tôi nghe những tay lưu manh đứng rình mò trong đền thờ. Tôi nghe bày thú tranh nhau ăn, cắn nhau đổ máu dính lên người tôi. Chúng là tiếng sủa thương đau của nhiều loài thú khác nhau. Những vết máu dính lên người tôi cũng chẳng khác gì những vết thương mà con người mang hồn do chính họ tạo nên bởi đam mê tội luỵ.

Nơi nào có súc vật mà không có mùi hôi? Vậy mà tôi thấy những con buôn ngồi thản nhiên hít thở hàng ngày. Tôi thấy không biết bao nhiêu ý nghĩ về con đường lên đền thờ.

Khi thầy tư tế bán của lễ thì thiên thần đứng khóc.

Khi tín đồ mua lầm của lễ thì quỷ dữ đứng cười.

Khi linh hồn không được thanh tẩy thì của lễ là lười biếng.

Khi của lễ thành buôn bán thì tình nghĩa anh em, bạn hữu chỉ là tính toán.

Khi tâm hồn không siêu thoát thì của lễ thành cạnh tranh.

Khi của lễ là đơn vị kinh tế thì lòng thật thà thành rình mò.

Khi lười biếng che đậy thì của lễ thành trình diễn.

Làm thân giây thừng tôi mới hiểu hơn về con đường tu đức thiêng liêng. Tôi chỉ kể chuyện đời tôi hai nghìn năm trước. Từ hai nghìn năm trước, kể chuyện đời mình cho hai nghìn năm sau. Thời gian nào cũng có những của lễ, có những chiếc giây thừng.

Chuyện đời tôi hai nghìn năm trước đã qua. Tháng ngày còn lại, tâm sự tôi đang dang dở. Hôm nay, tôi cũng vẫn là chiếc giây thừng. Nhưng Đức Kitô không có mặt ở đây, nên tôi không rõ có gì đang xảy ra ở đền thờ không.Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 81: LỐI ĐI CỦA ƠN SỦNG

Không có ơn sủng ta không biết lối nào đi. Giuđa đã đi, nhưng đi thắt cổ tự tử chết.

“Ai đi trong tăm tối không biết mình đi đâu.” (Jn. 12:35)

Đi trong ơn sủng thì ơn sủng thành một đường đi.

Người ta thường lẫn lộn lấy ơn sủng làm lối đi, và – đi, rồi bắt ơn sủng làm lối cho mình.

Trong Tuần Thánh, ta suy niệm Đường Thánh Gía. Lên Núi Sọ là một lối đi. “Lạy Cha, nếu được, xin cất chén đắng này khỏi con” (Mt. 26:39). Đức Kitô cầu xin như thế, nhưng chén đắng đã không được cất nhắc. Ngài không đi con đường khác rồi tìm ơn sủng làm lối cho mình. Ngài làm theo ý Chúa Cha để đi trong ơn sủng. Đức Kitô lấy ơn sủng làm lối lên Đường Thánh Gía. Và chính ơn sủng này làm thành lối riêng Ngài đi.

Như thế, ơn sủng không cất nhắc khó khăn, nhưng biến đổi bước chân ta, để ta đi được trong khó khăn đó. Trong một vài trường hợp, ơn sủng có cất nhắc những khó khăn, ta gọi đó là phép lạ. Ơn sủng không làm phép lạ cho đêm nay hết mưa. Gío cứ lạnh. Ơn sủng không làm cho lá rừng

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 205

Page 206: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

thôi ướt. Lối đi của ơn sủng là đưa những đêm mưa ấy thành thi ca trong lòng người. Tâm hồn thi ca, nhờ đêm mưa mà có những nốt nhạc tuyệt vời về mưa rừng. Nhờ đêm mưa mà tâm tư mới có giây phút hỏi lòng: “Chiều mưa biên giới anh đi về đâu”. Khi hiểu lối đi của ơn sủng như thế, ta không trách tại sao đêm nay trời cứ rỉ rả. Ta không buồn tại sao đêm nay trời cứ lạnh. Lối đi của ơn sủng là biến đổi hồn ta. Để khi mưa, ta viết những bài thơ có se sắt cõi lòng. Để khi nắng, ta viết những bài thơ về ánh bình minh. Khi đi theo ơn sủng, mùa đông lạnh, ta đốt lò sưởi đọc lại những tờ thư cũ, xem lại tấm hình năm xưa. Lúc nắng hạ về, ta nhìn con diều bay, ta ra dòng sông thả ước mơ xuống. Ta nhận ơn sủng để đi trong đời chứ không đi trong đời rồi bắt ơn sủng đi theo. Khi hiểu thế, lối đi nào trong cuộc sống, dường như cũng có nhiều hương hoa.

Thế nhưng, có những nghịch cảnh khổ đau thì sao?

Bà nói với tôi:

- Cha không ở trong hoàn cảnh con, Cha không thể hiểu được nỗi đau.

Nói về đau khổ, tôi luôn kính trọng những nỗi đau. Cho dù có những nỗi đau dư thừa. Cho dù dư thừa đó, nhưng khi người ta chưa biết nó dư thừa, người ta không hiểu rõ, thì nó vẫn là nỗi đau. Huống chi là những nỗi đau có thật.

Ai là cha mẹ không muốn con mình hạnh phúc, hạnh phúc của con cũng là hạnh phúc của mình. Giữa những ước mơ rất hiền hoà ấy, đây là câu chuyện riêng bà. Con bà chưa học xong trung học đã mang thai. Bà tâm sự với tôi:

- Cha không thể hiểu được nỗi đau của con. Bây giờ con trốn đi đâu được, cả giáo xứ xầm xì về gia đình con. Có con hư, bố mẹ nào không đau đớn. Bây giờ làm sao con dám đến nhà thờ. Chỉ có nước chết đi thôi.

Những nỗi đau ấy, nó rất thật. Chân ai gặp nó, sẽ rất khốn cùng. Trong gian nan như thế, đâu là lối đi của ơn thánh? Ơn thánh không cất nhắc khó khăn. Ơn thánh không làm cho sự sống trong bào thai ấy biến đi. Trước những khổ tâm như thế, Đức Kitô cũng khổ đau. Ngài khóc.

Rồi bà kể cho tôi.

Một đêm nọ. Tuyết thinh lặng rơi. Đèn đường sáng lù mù không bóng người. Trời về khuya lắm mà bà trằn trọc. Giữa lúc nửa tỉnh, nửa mơ, có tiếng gõ cửa. Ai gõ cửa giờ này? Hé nhìn qua tấm phiên che. Bà thấy một cháu gái bụng mang thai, trời lạnh đứng nép ngoài cửa tránh gió tuyết. Tội nghiệp, cháu đi đâu giờ này? Lỡ đường hay sao?

- Bác ơi…

Chưa nói nửa lời, cháu đã khóc. Linh tính hiểu rằng với mớ quần áo kia, cháu có thể phải đi vì chửa hoang. Bà thấy ứa nước mắt. Cuộc đời sao quá nhiều gian truân. Một thân bơ vơ. Vừa bước vào, cánh cửa chưa khép kín, bóng người con gái biến nhẹ như một làn sương. Và bàng hoàng, không biết chuyện gì đang xảy ra. Người hay ma? Bóng người biến đâu? Hình ảnh chuyển biến đứt quãng, chắp nối như cố dán lại cho thành câu chuyện. Chắp vá những mảnh vỡ của một tấm gương. Đường phản chiếu dị kỳ hoang mang. Chỗ nào cũng là bóng người nhìn mình.

Đó chỉ là giấc mơ.

Tỉnh trí lại, nỗi đau lại về, dầy vò bà trong đêm tối. Thực tại, con bà đang mang thai. Đã bao đêm bà không ngủ, dầy vò bằng những cơn ác mộng. Đêm nay cũng vậy, tiếng thở dài và nặng nề trong đêm.

Thực tế không trốn chạy được . Làm sao giải quyết bào thai kia. Có lúc bà ước ao bào thai ấy chết đi. Đi xa mà sinh đẻ cho khuất mắt. Những lúc nỗi đau dằn vặt, bà nguyền rủa con. Bà muốn

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 206

Page 207: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

tống khứ nó. Nó là oan kiên cho danh dự gia đình.

Giữa đêm, bà bước sang phòng người con gái. Con bà đang ngủ, cũng độ tuổi người con gái bà thấy trong giấc mộng:

- Tại sao trong giấc mộng mẹ thương đứa con gái đó, bơ vơ đường đời một mình, mẹ muốn đem vào nhà, mà đây là con của mẹ, mẹ lại muốn đuổi đi?

Từ trong tâm gọi cho trí, rồi trí gọi cho tâm. Bà thấy mơ hồ một ánh sáng khá lạ chợt đến. Trí đang cắt nghĩa cho tâm hiểu nỗi đau. Và nỗi đau của tâm đang gọi trí nâng đỡ cho nhẹ bớt gánh nặng. Bà đứng im lặng giữa căn phòng hoang vu. Thứ hoang vu trong tâm hồn. Chiếc đồng hồ tí tách trên trường rõ mồn một. Nhờ đó, che bớt tiếng thở của người con gái, dường như cũng nặng nề trong giấc ngủ kia. Bà đứng bên cạnh giường, con không hay biết gì. Nước mắt bà chảy. Đau nhói trong tim. Bà nghe trong linh hồn vang lên lời than thở:

- Tại sao trong giấc mộng mẹ thương đứa con gái đó, bơ vơ đường đời một mình, mẹ muốn đem vào nhà, mà đây là con của mẹ, mẹ lại muốn đuổi đi?

Tiếng ấy đến từ tâm trí nào mà bà thấy như nát ruột gan. Nước mắt tiếp tục chảy. Nếu bỏ nhà đi, con đi đâu? Ai săn sóc con? Đôi chân bà như quỵ xuống, quỳ cạnh giường nhìn con ngủ. Bà không nói mà như linh hồn bà đang nói thay bà:

- Con ơi, thôi con cứ ở lại nhà, mẹ sẽ săn sóc con. Đường đời bơ vơ lắm con ạ.

Bà không nói thành lời, đó chỉ là tiếng lòng, mà nghe như có một nguồn sinh lực nào đó rất lạ đến với bà. Nỗi đau còn đó, khó khăn còn đó, nhưng bà cảm thấy một mơ hồ xót xa đang đến. Một thứ ánh sáng nhẹ, kín đáo và rất có thể sẽ cứu bà. Đó là lòng xót thương. Bà gọi chồng dậy, kể giấc mơ kia, rồi hai người sang phòng con, nhìn con ngủ:

- Lạy Chúa, Chúa hiểu nỗi đau khổ của chúng con không. Nhưng đây là con của chúng con. Con sẽ săn sóc cháu…

Bà gạt nước mắt nói như tâm sự với Chúa:

- …săn sóc với trái tim người mẹ. Vì lỡ dại của cháu chứ Chúa không gởi chúng con những gian nan này.

Bà kể với tôi rằng, Chúa như khóc với bà. Từ đêm đó, bà thấy một ánh sáng mới, lòng thương xót của Chúa xoá bớt đi nhục nhã vì dư luận, nỗi chịu đựng của Chúa như một năng lực đến với bà.

Câu chuyện chưa dừng lại ở đây.

Sau khi xảy ra chuyện cháu mang thai. Bà rút khỏi sinh hoạt trong nhóm gia đình. Bà mắc cỡ vì con, bà so sánh gia đình mình với gia đình người ta. Thế nhưng ơn sủng có lối đi riêng. Và lạ lùng thật, khi đi trong ơn sủng thì ơn sủng làm thành đường đi cho mình. Thay vì rỉ tai xầm xì, mấy anh chị em trong nhóm này vây lấy bà, thương bà. Vây lấy cháu, thương cháu. Cái tình thương ấy nâng đỡ bà, nâng đỡ cháu. Những chuyện bất ngờ đã đến. Nhóm người này nói với tôi:

- Bây giờ cháu là viên ngọc quý của chúng con. Cháu đem kinh nghiệm ấy nói cho những đứa khác trong nhóm gia đình chúng con. Nó thấy bây giờ mới khó khăn, không phải tình yêu mà chỉ là dại dột.

- Thưa cha, chúng con nói thì chúng nó không nghe. Nhưng bây giờ cháu nói thì tất cả đứa khác lắng nghe.

Họ đã kể với tôi.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 207

Page 208: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Lối đi của ơn sủng là transform, là biến đổi, là tìm những ngõ ngách để chữa lành. Khi cây hồng bị gẫy thì lối đi của ơn sủng là làm cho nó mọc ra nhiều nhánh khác để nó trổ sinh nhiều hoa hơn. Ơn sủng không cất nhắc khó khăn. Khi Phaolô cầu xin để Chúa cất nhắc những yếu đuối, Chúa không cất, Chúa bảo ơn thánh của ta đủ cho ngươi (2 Cor. 12:9). Từ ngày biến cố xảy ra, nhóm gia đình này họ thương và nâng đỡ nhau. Ơn sủng làm họ gần nhau hơn. Trong lầm lỡ vụng đại của con người. Ơn sủng Chúa đến chữa lành thương đau, transform, biến đổi để qua thương đau họ có nhau, cần nhau và gần nhau.

Đi trong ơn sủng thì ơn sủng thành một hướng đi.

Người ta thường lẫn lộn lấy ơn sủng làm lối đi, và – đi, rồi bắt ơn sủng làm lối cho mình.

Đi trong ơn sủng là tìm vào ơn sủng mà đi. Là đến để ơn sủng Chúa chữa lành. Còn bắt ơn sủng đi theo mình là từ chối mọi khó khăn. Ơn sủng phải cất nhắc họ khỏi mọi gian nan. Điều này là nghịch lý của cuộc sống. Làm sao ta đòi ơn sủng cất nhắc ta khỏi mọi khó khăn như bệnh tật, như sự chết?

Không có ơn sủng, người ta sẽ đau đớn dằn vặt chính mình. Nỗi đau này thường đến có khi không hẳn do chính mình, mà do người chung quanh. Bà mẹ đau vì con thì ít mà vì những bà mẹ khác xầm xì thì nhiều. Khi không đi trong ơn sủng, họ không lấy nỗi đau người khác làm của mình nên đem chuyện gia đình người khác phơi nắng. Bởi đó, họ xa nhau, có khi thù hận nhau.

Lối đi của ơn sủng là chữa lành. Khi một cộng đoàn Kitô hữu mà không chữa được những vết thương cho nhau, nhất là vì cộng đoàn mà nỗi đau của cá nhân nọ, của gia đình kia càng đau đớn thì ta biết rõ họ không đi trong ơn sủng. Đấy không phải là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh Phaolô nói về dấu chỉ của những gì thuộc về ơn sủng như sau. Hoa quả của Thần Khí phải là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, hiền hoà (Gal. 5:22).

Ai đi trong tâm tối không biết mình đi đâu. (Jn. 12:35).

Đi trong ơn sủng thì ơn sủng thành một đường đi.

Không có ơn sủng ta không biết lối nào đi. Thì cũng vậy, không đi trong ơn sủng ta sẽ không biết đi lối nào. Giuđa đã đi, nhưng đi thắt cổ tự tử chết.

Lạy Chúa,

Xin cho con hiểu đi trong ơn sủng là để ơn sủng biến đổi, thì đời con có khi là những đường vòng, có khi lắm núi đồi hơn. Nhưng đường đi bao giờ cũng đẹp, cũng tới bến, tới bờ. Còn bắt ơn sủng đi theo đường của mình thì con quằn quại, đường đi chẳng thấy bến, lối đi chẳng thấy bờ. Cứ thấy bơ vơ và chán chường mà thôi.

Xin cho con đi trong ơn sủng chứ đừng bắt ơn sủng đi trong lối đi của con.

Xin ơn sủng nhắc cho con biết gió đông về con có bài ca của bếp lửa tí tách. Có khoảng đời nhìn tuyết rơi bên song cửa. Lặng lẽ của cánh khô lá nói về sức cuộc mình chịu đựng chờ mùa xuân của tàng cây. Xin cho con biết cái ngắn ngủi đời một cánh ve không là bài ca than van mà là tràn ngập cung nhạc quý báu với thời gian.

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 208

Page 209: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

ĐOẢN KHÚC 82: NGÀY LỄ BẠC

Tôi chết được 25 năm rồi. Hôm nay tôi trở lại tảo mộ lần thứ hai. Tôi gọi là Ngày Lễ Bạc.

Sau khi chết được ba năm. Tôi tảo mộ lần thứ nhất. Lần đó tôi kể trong trong tập sách Cô Đơn và Sự Tự Do, đoản khúc số 59. Ngày đó mộ tôi không có hoa. Không có ai đến mộ tôi cả. Tôi đứng đó hồi hộp suốt buổi chiều. Mây xuống thấp, xám một hoàng hôn. Rồi trời tắt nắng phía sau hàng cây. Tôi còn nhớ rõ hôm ấy trời không gió. Nghĩa trang im lìm. Sau ba năm tôi chết, vẫn còn ít người nhớ và cầu nguyện cho tôi. Nhưng không ai ra nhìn mộ tôi.

Tôi biết nếu trở lại vào năm sau thì cũng thế. Thản nhiên như một cánh chuồn chuồn đậu hờ hững trên một bờ giậu thưa nào đó. Không có gì hồi hộp nữa nên tôi không trở lại. Đợi 25 năm sau. Một kỷ niệm đặc biệt hơn. Ngày Lễ Bạc.

Tôi đang đứng trong nghĩa trang, chỗ tôi đứng lần thứ nhất cách đây 20 năm về trước.

Trên tôi vẫn còn. Tên được khắc vào mộ đá. Nhưng rêu lắm rồi, dơ bẩn nữa. Mộ đá không còn sạch như ba năm sau khi tôi chết. Bây giờ sần sùi, mốc rêu xanh. Ngày xưa không có cây cổ thụ ở chỗ này. Họ trồng bao giờ thế? Cả cái nghĩa trang này bây giờ cũng khác. Ngôi mộ cạnh tôi không còn. Họ bốc đem đi hồi nào mà bây giờ có một cái tên lạ hoắc.

Trên cành cây già, một loại côn trùng nào đó rỉ rả tiếng kêu cuối mùa. Hôm nay cũng không có gió như lần trước. Những chiếc lá lặng lẽ. Nghĩa trang cũng yên tĩnh như ngày xưa.

Tôi đến gần mộ, nhìn xác tôi dưới đất sâu. Chiếc quan tài gỗ mục từ bao giờ? Đất sập kín lẫn với xương. Đất dưới đó ẩm ướt. Có bùn sền sệt. Nước quanh năm. Tôi không còn hình hài gì cả. Có những con trùng trườn qua trườn lại trên khúc xương. Người ta bảo trắng như xương. Thật không phải thế, xương lấm dơ đen, rỗ những vết bọ ăn, bùn cắn chặt vào những kẽ nứt. Bọ ăn làm các xương không còn nhẵn nhụi. Chiếc sọ đầu còn nguyên vẹn hơn cả. Hai cuồng mắt rất to. Tôi nhìn xuống, chiếc sọ cũng giống như trăm nghìn chiếc sọ khác. Tôi không thể phân biệt được. Ngày còn sống, tôi băn khoăn về làn da. Nhìn kìa! Chỉ tuần lễ sau khi chết. Nó rữa ra. Ngày còn sống, tôi chải chuốt mái tóc. Tôi tìm cách nhuộm cho người ta thấy mình trẻ. Tôi băn khoăn về cái nhìn. Tôi muốn chinh phục. Bây giờ cái sọ trọc, rỗng, nhúc nhích loại giun nào trong đó? Tôi đứng nhìn tôi, tôi nhìn sang tất cả những xác chung quanh và tôi sợ. Tôi thấy xa lạ với chính mình. Hình hài thân xác tôi đấy ư? Tôi đang mừng 25 năm, Lễ Bạc sao? Còn đâu những lúc băn khoăn mùi nước hoa nào, Chanel 5 hay 8?

Tôi biết chắc là không có ai đến mộ tôi 25 năm sau. Tôi biết là không có hoa ở mộ. Tôi không hồi hộp gì cả, tôi không chờ đợi gì cả khi trở về đây. Kỷ niệm 25 năm ngày tôi chết là của riêng tôi. Hôm nay tôi có thì giờ nhìn ngắm tôi và những gì xảy ra nơi đây.

Ở một góc kia, người ta đang khóc. Một đám tang đang chôn. Có linh mục mặc áo lễ. Lại cũng có ca đoàn hát. Sao mà giống tôi 25 năm về trước thế. Hoa chung quanh mộ, rồi mấy hôm nữa hoa sẽ rữa, người được thuê làm vệ sinh lại hốt đổ vào thùng rác.

Có những mộ bia không còn hình dạng. Họ ra đi trước tôi lâu rồi. Có người mới chôn vài năm nay, có người mười năm, có người hai mươi năm, có người cả trăm năm. Ghê nhất là những người mới chôn. Ngôi mộ này của một người đàn bà. Chết đã tháng nay. Áo quần còn mới, nhưng xác rữa rồi, lúc nhúc dòi bọ. Chiếc quan tài còn cứng, xác trong đó phồng căng, sình rữa. Tóc bết lại. Áo nhung và thịt kết dính chặt lại. Những con dòi trắng cắn loang lổ nhiều vùng vải lỗ chỗ. Đấy cũng là hình hài tôi 25 năm về trước.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 209

Page 210: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ngày còn sống tất cả những người đang nằm đây xum xuê từng ngọn tóc, mà bây giờ thế ư?

Tôi đi tìm xem ai là người trí thức. Không thấy ai cả. Chết được vài ngày, tất cả sọ người đều nồng nặc hôi thối.

Tôi đi tìm xem ai là người nổi tiếng. Tất cả chỉ là những mảnh xương dính bùn đen đủi và toàn dòi bọ ở trong.

Tôi đi tìm xem ai là người giầu có. Không thấy ai cả. Tất cả đều trần trụi không còn manh áo che thân. Tôi không thấy kim cương, vàng bạc. Tôi tưởng người thân chôn theo, nhưng không, người ta giữ lại hết. Người ta chỉ chôn xác thôi.

Tôi đi tìm xem ai là người lúc sống họ lên tiếng phải  xây dựng Giáo Hội thế này, phải cải tổ Giáo Hội thế kia. Không thấy ai cả. Lúc đương thời, họ sống chết, ăn thua đủ với nhau chỉ vì “bảo vệ đức tin.”. Trong cái nghĩa trang này thân xác nào cũng hôi tanh.

Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.

Cái sọ kia ngày xưa đã bao nhiêu suy nghĩ. Những giấc mơ ấy bay về đâu? Còn dưới đó không? Trái tim ôm ấp bao nhiêu tình cảm. Cái mùi tanh hôi nồng lên khi nó rữa ra.

Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.

Tôi nghe chung quanh tôi, trăm nghìn tiếng động xèo xèo. Nhiều xác mới chôn đang rữa. Tiếng những con bộ ăn vào xương. Những xác chết đang xảy ra giống tôi 25 năm về trước.

Ở phía kia, đám tang đã xong. Nhiều người đứng xa mộ để có thể ra về sớm hơn. Họ còn nhiều việc phải làm. Họ rất bận rộn. Họ không muốn ở đây lâu. Chiều xuống tối rất mau. Người ta phải về. Xác mới chôn nằm đó. Vài ngày nữa sẽ có ai đó tiếc thương đem hoa ra mộ. Rồi ba năm sau không còn ai. Rồi 25 năm sau nếu trở về đây cũng sẽ giống tôi bây giờ. Lần lượt ra đi theo con đường đó. Giống nhau.

Bỏ nghĩa trang, tôi đi tìm lại con đường tôi đi năm xưa. Phần lớn còn đó những chỗ này mới hơn thì chỗ kia cũ kỹ đi. Nhiều toà nhà bỏ trống hoang phế. Tôi không còn gặp mấy người quen. Một vài người tôi tìm mãi mới thấy. Vì họ thay đổi quá nhiều rồi. Họ chậm chạm, đau yếu. Họ lẩn thẩn. Cái thế giới 25 năm về trước không còn. Đất trời còn đó. Mặt trăng vẫn thế. Cả gió biển và mầu xanh của sóng nữa. Nhưng con người và thế giới lúc họ trẻ hết rồi. Đời họ bây giờ ai cũng lầm lũi. Tôi đứng nhìn họ mà không muốn hỏi chuyện vì bắt họ nhớ lại những ngày quá xa. Bây giờ họ chỉ muốn thầm lặng sống qua ngày thôi. Vài người sót lại trong viện dưỡng lão, lặng lẽ. Người tôi quen ngày xưa, chết hầu hết rồi.

Những tờ thư cũ, tấm hình năm xsưa sau khi tôi chết, có vài người giữ nó ít năm. Đến lúc họ chết thì kẻ sau dọn phòng không biết tôi là ai. Tất cả vào thùng rác sau khi người đó chết ít ngày. Bây giờ tôi không còn dấu vết là bao.

Tôi đi tìm những chữ nghĩa ngày xưa tôi học. Vất vả toan tính. Ngày ấy nuôi bao nhiêu mộng mị ở miếng bằng ra trường. Bám vào tên tuổi muốn xã hội tặng ban. Cần treo tấm bằng ở nơi làm việc. Chụp chung tấm hình với nhân vật tiếng tăm. Bây giờ chả còn gì.

Đã 25 năm rồi, tất cả đồ dùng của tôi đã biến mất. Chiếc xe ngày xưa tôi đau buồn vì trầy vết sơn. Ngày ấy không dám cho người khác mượn, tôi lau chùi thật bóng. Bây giờ là bụi rác ở đâu? Tôi đứng đây nhìn lại cuộc đời. Tất cả qua đi như con gió thoảng mà sao ngày ấy lòng tôi bồn chồn, lo lắng, tiếc nuối những thứ này thế.

Tôi đi tìm những công trình tôi để lại. Người để công trình này, người để công trình kia. Tôi để lại những bài diễn văn. Ai còn nhớ? Họ quên ngay khi tôi rời cái mai-cô-phôn cơ mà. Ngay khi ra khỏi

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 210

Page 211: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

phòng họp, ngay mấy phút sau. Vậy mà hôm nay tôi đi tìm nó như một công trình để lại sao? Giật mình. Tôi thấy mình quá ngớ ngẩn. Vậy tôi đi tìm gì hôm nay? Còn gì không? Ngay cả những người tôi quen biết cũng không còn, thì tôi còn gì? Ai mà giữ những kỷ niệm của tôi khi họ không biết tôi là ai?

Tôi không ngờ ngày lễ bạc này buồn tẻ hơn ngày tảo mộ lần thứ nhất. Ngày ấy sau có ba năm tôi chết. Đứng một mình ngoài nghĩa trang, không có ai ra mộ tôi như hôm người ta chôn tôi. Nhưng ngày ấy trở về tôi còn nhìn thấy nhiều bóng hình tôi quen. Tôi còn gặp vài tờ như tôi viết cho họ. Có kẻ còn giữ tấm hình tôi. Lần này hoang vu quá. Trống trải. Ngày 25 năm Lễ Bạc mà vắng thật vắng.

Bây giờ tôi hiểu, Ngày Lễ Bạc là của chính mình. Một mình mình thôi.

Nhiều điều chết rồi mới thấy rõ. Lúc sống sao tôi không nhìn thấy. Chẳng hạn như tôi băn khoăn làm sao để lại công danh cho đời. Đời chả cần gì tôi. Cần hay không, tiếng kêu của một cánh ve trong chiều hè trống trải mênh mông? Chẳng hạn như tôi lo lắng ngày mai ra sao, tôi phải tích góp bao nhiêu cho đủ? Bây giờ thấy quá rõ rồi, ngày mai, tức là bây giờ tôi đang đứng đây. Trong nghĩa trang người ta không không còn nhan sắc, người ta không cần chỗ ở.

Nếu bây giờ sống lại kiếp người, tôi sẽ rong chơi, tôi sẽ ca hát với suối xanh, tôi sẽ với mây trời cho trái tim tôi bao dung. Nhưng trễ quá rồi.

Tất cả những gì nhìn thấy đều không mang theo được khi tôi chết. Son phấn. Sự nghiệp. Cũng không phải tất cả những gì thuộc tinh thần là mang theo được đâu. Những điều thuộc tinh thần như tình yêu, lòng thù ghét, niềm kiêu hãnh, sự ghen tị, giận dữ, bao dung cũng tuỳ đó. Chỉ những gì tinh thần mà thuộc về Đức Kitô mới tồn tại.

Như vậy cuộc đời người ta phải bỏ lại tới 98 phần trăm. Chỉ có hai phần trăm mang theo là tình yêu Chúa và bao dung với người đời.

Lúc sống, tôi quá vất vả cho 98 phần trăm cái không mang theo được. Hôm nay nhìn lại trong ngày kỷ niệm 25 năm tôi chết. Trở về tìm lại những bến bờ đã đi qua. Chả còn gì. Nếu tôi được sống lại, tôi sẽ sống  như thế nào?

Hỏi mình vậy thôi, chứ tôi biết, quá trễ rồi.

Đường tôi đi, bây giờ lại vẫn chỉ một mình, mình đi. Tôi lại nhủ lòng: Đường đi một mình.

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 83: NGÀY LỄ VÀNG

Kỷ niệm của hôn nhân hay đời tu mà được 50 năm người ta gọi là Lễ Kim Khánh. Vì đời người ngắn ngủi nên không mấy người có cơ hội mừng lễ vàng. Tôi cũng vậy, tôi không có cơ hội mừng lễ vàng khi tôi sống. Tôi trở về kỷ niệm 50 năm ngày tôi chết. Lần này tôi tảo

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 211

Page 212: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

mộ lần thứ ba. Tôi gọi là ngày kim khánh của tôi

Người ta đưa tôi ra nghĩa trang 50 năm rồi. Thấm thoát thế mà tôi đã chết nửa thế kỷ. Hai lần trước tôi tìm thấy mộ người ta chôn tôi. Lần này trở về nghĩa trang tôi không còn mộ nữa. Tôi thơ thẩn cả chiều nay. Tôi hoàn toàn mất dấu vết trên cõi đời rồi sao?

Nghĩa trang ngày xưa người ta chôn tôi không còn nữa. Tất cả người thân rỡ mộ đi chôn nơi khác. Tôi là người không có thân nhân. Cuộc đời đâu có gì trường cửu. Người ta có thể thay đổi bất cứ gì người ta muốn. Mỗi chính thể một vận mệnh. Mỗi chính sách một sáng kiến riêng. Không ai nhận mộ thì người ta đỡ đưa vào một nơi. Nhưng người ta làm cho có lệ. Họ để lẫn lộn, tôi không còn tìm ra tôi nữa. Bây giờ tôi không biết mình còn xương cốt không. Tất cả sọ người đều giống nhau. Thế là tôi mất tên tuổi một kiếp người.

Không còn nghĩa trang để tìm tôi. Không còn ngôi mộ để nhìn mình. Tôi đi về đâu?

Tất cả những người tôi quen không còn ai sống sót. Chiếc xe lăn của người tôi quen biết sau cùng đã thành sét rỉ lâu lắm rồi. Những người sống với tôi thời ấy đều chết cả. Mới ngày nào ăn cơm với nhau, cùng đi chơi biển với nhau, cùng dạo phố. Thế mà bây giờ im quá. Tôi đi qua phố. Tôi bước qua nhà. Từng con đường. Không gặp một ai. Căn nhà xưa tôi ở, bây giờ ai đó làm chủ, lạ lắm. Nhiều căn nhà không còn nữa.

Tất cả kỷ niệm liên quan tới tôi không còn gì. Những tấm hình tôi chụp trên những thành phố tôi đi qua, nay ở đâu? Không còn một chút gì. Tất cả những người tôi gặp hôm nay như người từ hành tinh khác đến chiếm trái đất của tôi ngày xưa. Tôi không biết một ai. Hoàn toàn không biết một ai. Người ta không thể tưởng tượng nổi nếu tôi hỏi họ xem có ai biết kỷ niệm của tôi ở đâu.

Đi tìm ngôi mộ mình mà không thấy. Đứng phân vân, rồi tôi nghĩ mình là linh mục, tôi có thể trở về nhà thờ.

Nhà thờ cũng không có ai biết tôi. Đây có phải là nhà thờ ngày xưa tôi sống không?

- Thưa ngài, không phải, chúng tôi mới dựng lại nhà thờ này. Cái cũ đập rồi.

Tôi bàng hoàng không tin như thế. Mới có nửa thế kỷ mà thay đổi như thế sao? Có thể tôi lầm. Tôi đi tìm chỗ khác.

Công trình trường cửu nhất là nhà thờ mà cũng không còn sao? Tôi đi tìm sổ rửa tội. Đấy là nơi chữ ký tôi sẽ nằm vĩnh viễn trong Giáo Hội. Cũng không còn. Cơn hoả hoạn đã cháy hết. Những gì là trường cửu như thế mà cũng không lưu được dấu vết một lần tôi làm người trên cõi đời này sao? Cuộc tảo mộ lần thứ ba này vắng vẻ hơn hai lần trước nhiều. Ngày lễ vàng, kỷ niệm 50 năm tôi chết. Không còn dấu vết.

Tôi đứng bơ vơ nhìn dòng đời trôi. Chả ai biết mình. Mình chả biết ai. Nhớ lại mới ngày nào đây mà giờ sao khác biệt lạnh lùng thế. Ngày ấy tôi làm chủ biết bao nhiêu thứ. Nửa nông trại. Một dẫy nhà cho thuê. Tôi lao đao trong đời cho bao nhiêu chuyện. Bây giờ là hư vô. Hai bàn tay tôi trần trụi đứng nhìn dòng đời. Đời không thuộc về tôi nữa.

Nhớ lại những ngày đó, bấy giờ mọi sự sao như trường tồn vĩnh cửu. Chúng có sức thu hút mê hoặc. Tôi bị ràng buộc khổ sở vào bao nhiêu điều. Tôi không có thời gian nhìn hoàng hôn buông nắng. Bận rộn không thấy nắng đưa mây xuống chân đồi. Tôi không nghe bài ca con hoạ mi hót lúc gió xuân. Tôi không thấy những chùm hoa dại đong đưa giữa trời đất vui niềm vui tự do.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 212

Page 213: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ngày đó mất lòng nhau cũng chỉ vì những thứ ràng buộc ấy. Tôi mất bao hạnh phúc của cánh bướm thong thả buông chơi bên sườn đồi.

Ngày đó sao tôi sống khổ sở vì những cạnh tranh. Tôi mất bao thanh thản của tâm hồn. Tôi mất bao êm ả như cánh én êm đềm báo tin mai vàng đang nở.

Ngày đó sao sống đau đớn vì những bực mình. Tôi mất bao tối nhìn trăng buông ánh sáng xuống thung lũng.

Ngày đó sao sống lo âu vì không tin tưởng được nhau.

Tôi mất bao bến bờ đẹp của biển lúc sương khuya, rất mênh mông.

Ngày đó tôi lo tương lai sống ra sao. Tôi mất bao nhiêu cõi trời thênh thang. Tôi không nghe có tiếng khóc bên đời. Trái tim tôi chật hẹp vì quá nhiều tiếng thở dài. Bao giờ cũng thấy nỗi đau của mình là lớn nhất.

Tôi đứng đây nhìn lại cuộc sống của mình nửa thế kỷ về trước. Tôi hỏi lòng tôi: Những bon chen kia đâu rồi? Những điều làm tôi giận giữ kia đâu rồi? Những thứ tôi yêu mến kia đâu rồi? Những thành công của tôi đâu rồi? Những lo âu của tôi đâu rồi? Chả còn gì.

Mọi sự đã hết. Bây giờ tôi đi về đâu ?

Tôi không còn nghĩa trang về thăm mộ.

Tôi không còn người quen về nhìn xem họ còn giữ kỷ niệm nào của tôi không.

Vậy bây giờ tôi đi về đâu?

Tôi chỉ còn một cõi đi về vĩnh cửu phía bên kia. Tôi sẽ không bao giờ trở lại đây một lần nữa. Hôm nay là lần cuối cùng.

Phía bên kia là chốn nào?

Ngày còn sống, tôi đã vẽ đường về chốn bên kia cho tôi. Hôm nay tôi cần tấm bản đồ đó. Ngày ấy tôi vẽ rõ đường thi hôm nay tôi thong thả, am tâm đi về. Ngày ấy tôi vẽ cong co thì hôm nay tôi bối rối hoang mang.

Tôi đi về đâu phía bên kia?

Hôm nay không có ai đi với tôi.

Đường tôi đi một mình.

Lần tảo mộ thứ hai. Ngày silver jubilee, tôi nhìn lại đời mình, nếu lấy con số 100 cho chẵn, tôi thấy 98 phần trăm những gì tôi nhìn, tôi chiếm hữu đều không đem đi được. Chỉ có hai phần trăm là:

- Tình yêu Chúa và trái tim bao dung với anh em.

Chỉ có hai phần trăm ấy đem theo được thôi. Nhà thờ cũng bỏ lại. Bản đồ ngày xưa tôi vẽ có rõ không hay chằng chịt không biết lối nào đi.

Bây giờ là định mệnh.

Không còn chốn nào trần gian mà về.

- Gỉa sử tôi được làm người trở lại, tôi sẽ sống thế nào?

Tôi lại giả sử vậy thôi, trễ quá rồi.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 213

Page 214: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

“Người ta chỉ gặt hái những gì họ đã gieo vãi. Nếu họ gieo vãi nơi thửa ruộng xác thịt, họ sẽ

gặt hái được mùa màng băng hoại; nhưng nếu hạt giống gieo xuống của họ là thần trí thì họ sẽ gặt

được sự sống trường sinh” (Ga. 6:8).

Bây giờ, tôi đi lối riêng của tôi, lối về mùa màng đã gieo vãi lúc còn sống. Mộ tôi không còn. Chết rồi tôi mới tha thiết nuối tiếc thời gian. Chẳng còn lý do gì để được phép nấn ná về thăm lại chốn xưa. Hạnh phúc hay thở dài. Bất cứ đi về đâu thì bây giờ tôi cũng phải nói lời vĩnh biệt.

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 84: CHỌN MỘT CON ĐƯỜNG

Không ai đi theo tôi ngày tôi chết. Họ đến huyệt chôn tôi rồi về. Đời của mỗi người là một con đường. Đã có những đêm hát nhạc Trịnh Công Sơn. Đêm cho một người hát rong trong cõi đời. Bây giờ thì Trịnh Công Sơn đi rồi, ông bảo ông có cõi riêng để đi về. Ông đã về. Ông bảo đời như cánh vạc bay. Cánh vạc bay ngang buổi chiều, có thể lẻ bóng, lặng lẽ, nó nhẹ nhàng vào đêm. Người nào nhìn bóng nó bay, chỉ thấy nó như nói với chính mình rằng. Cõi riêng một lối đi về.

Tôi cũng có một lối riêng để đi. Hay quá nhỉ, bạn thử nghĩ. Vợ chồng thương yêu như cánh vạc bay chung. Mà họ cũng không chết thay được cho nhau. Rồi, mỗi ai, cũng có riêng một cõi đi thôi.

Nhạc Trịnh Công Sơn hát rong trong cõi đời là:

- Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui.

Chọn lấy niềm vui mà sống. Đấy, chọn một lối riêng để đi. Là linh mục, tôi nghe có những tâm hồn than thở là đời không có niềm vui. Họ không có niềm vui không phải vì không có, nhưng họ không muốn chọn niềm vui. Hoặc chưa thấy đấy thôi.

- Thưa Cha, con sẽ không tha thứ cho họ, nếu họ không xin lỗi con.

Đấy, họ chọn cho mình một lối đi. Cánh vạc họ bay trong đời không như tiếng đàn êm nhẹ trong chiều thong thả. Đời họ dằn lên tiếng đập cánh oằn oại đau thương. Nếu cuối chiềuhoàng hôn, trước cõi bóng ngả về thế giới bên kia mà cứ oằn lên đau đớn như thế thì đời thương tâm quá nhỉ.

Không tha thứ thì trời vẫn xanh, gió vẫn cao, mây cứ bay, và cánh hạc họ ẫn trôi về cuối trời của riêng họ. Vì, đời mỗi người là một chuyến đi riêng cơ mà. Không tha thứ thì ở ngoài kia hoa vẫn nở, ong vẫn làm mật, và đời vẫn ngọt. Nó chỉ đắng trong hồn mình thôi. Hay quá nhỉ, bạn thử nghĩ, mỗi ngày tôi có thể chọn một lối đến, chọn một đường đi.

Chuyện Phúc Âm kể có năm cô trinh nữ khôn ngoan đem dầu theo với đèn. Năm cô khờ dại đem đèn mà không đem theo dầu. Nửa đêm chàng rể đến. Các cô khờ dại không có

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 214

Page 215: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

dầu thắp đèn, mượn dầu, nhưng năm cô kia không cho. Thế là một đêm tối, rất tối đã đến trong cuộc đời. Đúng rồi, không ai cho nhau vay mượn nhân đức được. Tôi không thể mượn nhân đức yêu thương của người khác làm áo mặc cho lòng ganh ghét của mình. Tôi không thể đến trước mặt Thượng Đế bằng trái tim cao thượng của người khác. Trong cõi đi về, tôi không bay bằng cánh vạc của người khác được, nhưng, chỉ là của riêng tôi.

Mỗi ngày, tôi chọn niềm vui cho riêng tôi. Tôi không chọn dùm ai được và cũng chẳng ai chọn dùm cho tôi. Ngọn đèn của tôi trong lương tâm chỉ có dầu nhân đức của riêng tôi mới thắp sáng được mà thôi. Đấy cũng là sự công bằng của Thượng Đế, nếu không vậy, kẻ giàu sang sẽ mua hết nhân đức, kẻ có quyền sẽ chiếm hết hạnh phúc trên cõi đời.

Ông ta đã chọn cho riêng ông một đường đi. Tôi gặp ông một mùa đông chưa tan hết giá lạnh. Ông hỏi:

- Trước khi dâng thánh lễ chiều nay con có thể nói đôi lời với gia đình con được không?

Tôi chưa trả lời. Như sợ tôi từ chối. Ông nói thêm:

- Trước mỗi thánh lễ, người ta đọc: “Tôi cáo mình cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Con cáo mình cùng Thiên Chúa nhiều lần rồi. Nhưng chưa bao giờ cáo mình với gia đình. Nếu được cáo mình với gia đình thì thánh lễ con dâng chiều nay sẽ trọn vẹn hơn.

Tôi chưa gặp ai có ý lạ như thế.

Người ta chỉ cáo mình cùng Thiên Chúa chứ mấy khi cáo mình cùng anh chị em. Câu chuyện xảy ra vào năm 2002. Sau ba ngày linh thao, chúng tôi kết thúc bằng thánh lễ Chúa Nhật trước khi chia tay. Trời mùa đông còn lạnh. Sương mù trắng xoá. Cây khô cành còn đang chịu đựng màu xám của trời. Trong căn nhà nguyện nhỏ, ông đã chọn một đường đi. Trước thánh lễ tôi nói với mọi người:

- Anh chị em thân mến, chúng ta chỉ cáo mình cùng Thiên Chúa, chứ có khi nào cáo mình cùng anh chị em như lời kinh vẫn đọc? Lúc này, trước thánh lễ có người hỏi tôi họ có thể nói đôi ba lời với gia đình được không, để thánh lễ bế mạc chiều nay của họ trọn vẹn như lời kinh.

Lời nói đầu lễ này như một thông báo. Gần ba mươi người đang ngồi chung quanh bàn thờ. Ai? Ai là người sẽ nói với ai? Nói gì? Im lặng chờ đợi. Không ngờ có người đứng dậy. Vợ ông không ngờ, chẳng có ai ngờ. Đối với ông, giây phút ấy không phải là không ngờ. Nhưng không phải vì tế mà nhẹ nhàng, dễ dàng. Rời chỗ ngồi, ông đến đứng trước gia đình. Cái gì sắp xảy ra? Người ta sợ những cái không ngờ. Trước mặt vợ, ông đứng đó không nói nên lời. Im lặng. Người chịu đựng sức nặng của giây phút này có lẽ lại là vợ ông.

“Tôi cáo mình cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”.  Nó như quả chuông rất nặng. Tiếng chuông chưa đổ thành lời. Người ta đổ mồ hôi. Trong lòng mọi người, lời kinh cáo mình hôm nay không như lời kinh của người mê ngủ lật dờ trong mọi sáng Chúa Nhật. Lời kinh như lưỡi gươm sẽ làm chảy máu người đâm hay bị đâm?

Thời gian chờ đợi nào mà không nặng nề. Nhưng cái nặng ở đây nó mới khó khăn. Nó phải có để chuẩn bị cho người ta đón nhận sức đẩy của quả chuông kia. Người không có thời gian chuẩn bị sức đẩy chính là vợ ông. Có thể vợ ông cũng đến thánh lễ  Chúa Nhật hôm nay như mọi ngày khác trong đời. Không ngờ hôm nay bà ở đấu trường.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 215

Page 216: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Khi ông đến trước mặt gia đình, đứng đó.  “Tôi cáo mình cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Thời gian chờ đợi này là lúc ông lấy hết sức đẩy quả chuông kia. Nó quá nặng. Chờ đợi tiếng chuông cũng nặng nề khủng khiếp. Ông có thời gian lấy sức, ông đã chuẩn bị, nhưng bà, như người bất chợt ra đấu trường không có gì chắn đỡ. Nên khi ông cúi xuống ôm người bạn đời:

- Anh xin lỗi em.

Thì vợ ông oà khóc.

Trong đời sống dường như người ta cũng nặng nề chờ đợi những câu nói như thế, lâu lắm rồi.

Ở những nỗi xúc động người ta một là câm nín kìm hãm, hai là oà vỡ. Tâm hồn không dửng dưng được.

Như ta thấy quả chuông đồng. Tự nó không đổ thành tiếng. Càng nặng càng khó đổ. Nó phải có một sức lay khủng khiếp. Nhưng khi nó đổ thành tiếng, người ta phải thức giấc.

Không ai còn để ý cái lạnh của trời. Người ta đi tìm hứng cái ấm của lòng. Nước mắt vợ chồng họ dường như rơi nhiều hơn. Tiếng sè sè của cái lò sưởi cũ, chả còn ai để ý.

Vợ ông vẫn khóc, ông vòng qua trước người con gái lớn. Khi tiếng chuông đã vang lên được rồi thì những quả chuông khác dễ đổ theo hơn.

- Bản chất con là thành thật, vì công việc làm ăn, ba bắt con gian dối. Ba biết con không vui. Ba xin lỗi con.

Ông cúi xuống ôm đứa con trong vòng tay. Bàn tay mềm mại của người con gái xoa trên vai ông. Họ lại khóc. Tiếng sè sè của chiếc máy sưởi cũ làm nhoè bớt nỗi xúc động của ai đó cũng không cầm được nước mắt của lòng mình.

Ở ngoài kia lá đập vào vuông kính cửa sổ. Mưa buông cánh lạnh theo hơi nước mùa đông. Trong cõi đời lạ thật. Có những chặng đường rất vất vả mà người ta vẫn bình an. Có những chặng đường chẳng vất vả, rất giầu sang, nhan sắc như Salômôn mà chẳng an bình, lương tâm cứ nổi sóng.

Ông có một cơ sở làm ăn, nó là một motel. Không thông thạo ngoại ngữ như con cái lớn lên ở xứ người được. Ông là “master mind” đứng đàng sau, bày cho con cách làm ăn bằng những đường vòng quanh co giấy tờ về tiền bạc. Mỗi lần như thế, đứa con không vui. Biết không là đường thẳng lương tâm. Biết con không vui mà mình vẫn làm. Đứa con không vui nhưng đây là bố của tôi. Trong đời có những cơn gió bay cát bụi ngược chiều, rối rắm. Trong thánh lễ chiều nay. Ông chọn một đường đi. Ông cáo mình với gia đình. Ông muốn đổ rác trong gia đình.

Không ai đi dùm đường mình được. Đường chỉ đi một mình. Nhưng con đường này rất lạ. Khi mình đi trong niềm vui thì chung quanh đều có tiếng ca. Người chung quanh nghe được tiếng ca, dù tiếng ca không là của họ. Và trong tiếng ca họ nghe được, họ có sức mạnh để lên đường, con đường của riêng họ. Và họ cũng sẽ có những tiếng ca.

Một người thanh niên chào tôi ra về:

- Hình ảnh của anh ấy cũng là hình ảnh người chồng, người cha mà con muốn mang theo cho chính mình mai sau.

Mấy năm sau, tôi lại trở lại vùng đất này. Mùa đông lạnh hơn. Trời mù sương hơn. Vợ chồng anh chị đã lấy motel của họ làm nơi tĩnh tâm cho người Việt ở rải rác trong vùng.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 216

Page 217: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Nhiều nước mắt rơi hơn. Có những tiếng chuông khác đổ thành lời.

Dòng ca của người hát rong Trịnh Công Sơn để lại trong đời, sau khi ông tìm cõi riêng để đi về, tôi vẫn nghe thoang thoảng là: Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui.

Trên đường tôi đi, tôi cũng vẫn bắt gặp nhiều người, họ cũng chọn một con đường riêng cho họ đi.

Trong tiếng ca hạnh phúc, dù là tiếng ca một mình, nó lan vào vũ trụ. Tiếng ca chỉ riêng mình đi mà nó làm cho nhiều bước chân lên đường. Ông đã chọn một đường đi. Lạ quá, chỉ một cánh bướm mà sao cả khóm hoa xôn xao. Chỉ một lời xin lỗi mà có khi nôn nao cả một đời người. Mỗi ngày tôi cũng có thể chọn một niềm vui. Một con đường.Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 85: THÁNH THỂ

 

Thánh Thể và lòng mến: Đức Ái

Người đàn ông trạc ngoài năm mươi. Mọi người trong nhà thờ ra về gần hết thì ông ta bước vào. Tôi ra trễ, dường như ông ta muốn gặp tôi.

- Thưa cha, mai cha có làm lễ không?

Tôi ân cần hỏi ông:

- Ông có việc gì thế?

- Nếu mai cha làm lễ, xin cho con một thông báo.

Ông mới nói tới đó. Chưa biết ông muốn thông báo điều gì. Nhưng như vậy là ông không gặp tôi như điều tôi đang nghĩ. Tôi đến giúp tĩnh tâm mùa Vọng ở cộng đoàn này. Thường thường có nhiều người muốn gặp cha giảng tĩnh tâm có chuyện thiêng liêng muốn bàn. Ông ta không ở trong trường hợp này. Ông gặp tôi chỉ vì muốn có một thông báo. Nhưng thông báo là chuyện ngoài quyền hạn của cha khách như tôi:

- Thưa ông, tôi là cha khách đến đây giúp tĩnh tâm. Nếu có thông báo, ông cần liên lạc với cha quản nhiệm.

- Con không biết điều đó, con chỉ có một thông báo, nếu  cha làm lễ ngày mai, xin cha cho con một thông báo.

Tôi biết mình không thể tự thông báo điều này điều nọ, dùm kẻ này kẻ kia. Nhưng tôi cũng hỏi ông. Câu chuyện làm tôi nghĩ ngợi.

- Thưa cha con có restaurant bên kia đường. Con biết anh chị em Công Giáo đi lễ là điều tốt. Nhưng thưa cha, họ cứ đậu xe vào parking của con, con mất khách…

Ông nói tới đó, tôi hiểu ngay rồi. Một tiếng thở phiền lòng.

- Con đã nói năm lần rồi. Chỗ gia đình làm ăn. Họ cứ đậu xe rồi đi xem lễ, con mất khách…

Sau khi cửa nhà thờ đóng. Tôi về phòng nhà xứ, một mình ngồi suy nghĩ đến câu chuyện của

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 217

Page 218: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

người đàn ông. Tôi đang về đây giảng tĩnh tâm. Ngày Chúa Nhật dân Chúa đi lễ bên này đường thì phía bên kia đường có người phàn nàn. Tôi đọc lại đoạn Tin Mừng tường thuật các thánh lễ ngày xưa:

Các tín hữu hợp nhất với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, ngày ngày chuyên cần đến nhà thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ. (TDCV. 2:42).

Sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại thánh lễ ban đầu của Giáo Hội sơ khai bằng một đoạn văn ngắn. Trong đoạn văn này có một đặc tính rất lạ. Đặc tính ấy không ngắn, dài như những bước chân vất vả của một người làm thuê:

- Họ được toàn dân thương mến.

Điều đó có nghĩa là cứ sau những nghi thức bẻ bánh như thế, người chung quanh xóm giềng thương nhóm tín hữu  này. Và rồi “Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”. Nghĩa là sau các thánh lễ như thế, dân chúng thương nhóm tín hữu này rồi họ xin nhập đạo.

Kết quả của bí tích Thánh Thể là mức độ tăng trưởng về tình yêu.

Nhà xứ vắng lặng. Tôi ngồi xem lại bài giảng cho ngày mai. Tôi cứ hình dung, đã bao ngày tháng rồi. Khi bên đây có thánh lễ thì phía bên kia đường có người đau khổ. Parking nhà hàng của họ. Ngày Chúa Nhật họ làm ăn. Mất chỗ đậu xe của khách. Rồi tôi nghĩ, làm sao tôi có thể nhân danh những gì tôn giáo của tôi để lỗi đức công bình với người khác. Có thể vì đi trễ không muốn mất lễ, không muốn đậu xe ở xa. Có thể vì lười biếng. Làm sao người ta có thể “bảo vệ” những thực hành tôn giáo của mình bằng cách xúc phạm đến người khác. Ông ta nói với tôi rất lịch sự, không bực tức, nhưng biết đâu, cứ mỗi khi bên đây có thánh lễ, nhìn parking, ông không dằn lòng được, lại nguyền rủa.

“Và được toàn dân thương mến”. Kết quả của thánh lễ ban đầu là như thế. Các tín hữu lúc sơ khai đã sống như vậy. Tôi đọc lại lời tường thuật ấy rồi nghĩ đến người đàn ông Việt Namcó cửa tiệm bên kia đường:

- Có khi nào vì các nghi lễ mà tôi làm cho nhiều người phải xa Chúa không ?

Đức tin cần một địa chỉ để về, đó là bác ái. Không có đức ái, đức tin không biết lối nào đi. Biết đâu có người nhân danh đức tin mà làm cho người khác khốn khổ. Họ chỉ nhìn đức tin, mà không có tấm lòng nên đức tin thành hố sâu ngăn cách người với người. Kẻ khác không thấy niềm vui, và rồi chỉ gặp nơi đức tin của họ là một hố sâu.

Thánh lễ: Đây là mầu nhiệm đức tin.

Nhưng đức tin được thánh Phaolô cắt nghĩa: “Gỉa sử tôi có đức tin đến nỗi chuyển núi rời non mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì” (1 Cor. 13:2).

Thánh Thể và lòng mến: Trưởng Thành

Có người băn khoăn khi đón nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một câu hỏi:

- Tôi như thế nào thì không được rước lễ?

Họ nhìn bí tích tình yêu với một chọn lựa nguyên tắc hơn là mức độ trưởng thành. Sợ lề luật hơn là thúc đẩy bởi lòng mến. Khi nói tội như thế nào, nghĩa là họ vẽ lằn mức. Họ nhìn tội là những đơn vị đo lường. Nếu bảo tội nặng bằng này, không được rước lễ. Vậy tôi bớt đi một chút, có được rước lễ chăng? Bớt bằng nào thì vừa đủ để rước lễ?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 218

Page 219: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Vị đạo sĩ đưa khúc mía cho người học trò. Khúc mía rất ngọt. Người học trò đưa lên miệng lấy răng cắn vào vỏ mía. Vừa cắn vào, đau buốt óc, anh không thể cắn nổi vì răng anh đau. Càng cố cắn, càng khốn nạn cho mình. Đây là cách hiểu lời Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô:“Ai nấy hãy tự xét mình rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa là tự chuốc lấy án phạt cho mình” (1 Cor. 11:22). Khúc mía vẫn ngọt. Anh từ chối khúc mía? Hay khúc mía từ chối anh? Vị đạo sĩ hỏi người học trò:

- Khúc mía có ra hình phạt cho con không?

Anh im lặng hỏi lòng mình:

- Có ai đem đĩa cơm thịt nướng rất thơm bón cho xác chết trong nhà quàng không? Nhét đến đâu xác vẫn cứ nằm đó. Mắt nhắm và môi cứ lạnh. Càng nhét vào miệng, ta càng thấy rợn người. Anh hiểu xác chết không có khả năng để ăn chứ không phải đĩa cơm từ chối. Tôi làm linh hồn tôi chết, nó không còn khả năng thích hợp đón nhận sự thánh thiện. Bản chất của bình an không đi với gian dối. Niềm vui không đi với lỗi phạm. “Anh em không thể vừa uống chén của Chúa và chén của ma quỷ được” (1 Cor. 10:21).

Giáo lý trả lời, có tội trọng thì không được rước lễ.

Dễ hiểu. Vấn đề là:

Thánh Phaolô viết cho giáo dân đoàn Côrintô: “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con. Nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi loại bỏ tất cả những gì là trẻ con” (1 Cor. 13:11). Giả sử bạn nghe tiếng nhỏ to: “Bận rộn thế này mà ngày mai lại phải vác mặt đến nhà ông ấy”. Họ không  muốn những vì lý do xã giao phải đến. Rồi ngày mai người đó phải đến nhà bạn. Rồi lại cũng xã giao cười cười, nói nói, nhưng lòng dạ chán lắm. Bạn có vui trong cuộc gặp gỡ không?

Đừng hỏi có căn được khúc mía không. Mía bao giờ cũng ngọt, cũng thơm ngon. Tuỳ khả năng của mình.

Lạy Chúa,

Có tình yêu thì Thánh Thể mới là hoa trái. Và hoa trái của Thánh Thể là tình yêu.

Có những thánh lễ, có những bí tích tình yêu như thế mà sao tâm hồn người tham dự thì như có nỗi chán chường. Trong ngôn ngữ, chúng con diễn tả là “phải” đi lễ. Trong khi các tín hữu sơ khai thì diễn tả “được” tham dự. Đối với thánh lễ lúc ban đầu, sách Tông Đồ Công Vụ tường thuật là họ tham dự với lòng “vui vẻ”. Hôm nay, nhiều khi chúng con tham dự với lòng nặng nề. Khi chúng con nói “phải” đi lễ chứ không nói “được” là tâm hồn chúng con không nặng nề đó sao. Nếu con không tha thiết với Thánh Thể thì con rước Thánh Thể để làm gì?

Thánh Thể và lòng mến: Cung Kính

Tôi cần nhìn lại lối sống tín ngưỡng của mình nhiều lắm. Có những cách sống đã quá quen thuộc, tôi tưởng chừng như mình đang sống đức tin, nhưng có lẽ tôi chỉ quằn quại với niềm tin mà thôi, vì tâm hồn không an vui, không hạnh phúc, và những người chung quanh tôi cũng không hạnh phúc, không an vui.

Khi niềm tin trở thành quằn quại thì nghi thức tôn giáo là gánh nặng.

- Chúa nói: “Ta đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” (Mt.20:28). Như vậy, niềm tin là một giếng nước. Mà để kéo gầu ấy, tại sao ta không mong đợi hân hoan?

- Chúa nói: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt. 11:29). Như vậy đến với Chúa là một giải thoát. Tại sao ta thiếu thiết tha khi

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 219

Page 220: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

cử hành phụng vụ?

- Thấy bệnh tật, Chúa chữa lành, thấy đói, Chúa cho ăn (Mt. 14: 14-21). Như vậy, niềm tin là cánh tay với vào vườn hoa trái. Tại sao ta thấy nặng nề?

Có người nói: “Tôi bận quá, không thể đi tĩnh tâm được”. “Tôi mỏi mệt lắm, không thể phục vụ Chúa được”. Trong khi đó, vì bận rộn nên mới cần tĩnh tâm, để Chúa dắt đi, nghỉ ngơi. Trong khi đó, vì ta mỏi mệt, và gánh đời quá nặng, Chúa mới đến để phục vụ. Có một suy nghĩ nào đó dường như không ổn. Nếu suy nghĩ không ổn thì rất có thể suy nghĩ ấy sẽ đưa đến một lối sống khắc khoải.

Thánh Inhaxiô, sau khi thụ phong linh mục, ngài không dâng lễ mở tay ngay. Ngài đợi một năm sau. Và rồi cứ mỗi lần dâng lễ ngài lại khóc. Còn Mẹ Têrêsa Calcutta thì treo trong phòng áo lễ của nhà dòng tấm bảng:

Xin linh mục của Chúa,

Cha dâng lễ này như thánh lễ mở tay

như thánh lễ sau cùng, như thánh lễ chỉ dâng

duy nhất một lần trong đời mà thôi.

Nói về bí tích Thánh Thểm về những nghi thức cử hành. Hôm nay người ta nghe thấy những lời “khen”, tiếng “chê”. Đi lễ cha kia làm lẹ lắm. Và dường như cũng có những linh mục, vô tư nhận mình làm lễ lẹ lắm, nhiều người thích. Họ nói với người tham dự: “Chúa ở cùng anh chị em”. Nhưng thật sự đấy chẳng phải là lời cầu chúc, vì tuy đang mở sách, chưa thấy lời nguyện thánh lễ hôm nay ở trang nào. Tâm trí đang vội vã đi tìm. Có những thánh lễ mà giây phút cực trọng là truyền phép Thánh Thể, linh mục đọc quá vội vàng. Chưa xong đã bái gối, chưa bái gối xong đã hốt hả đứng dậy. Rất liếng thoắng. Tôi cũng thấy nhiều thừa tác viên thánh thể, sau khi cho chịu lễ, họ rước Máu Thánh còn lại trong chén thánh như uống một ngụm Coca. Họ “bốc”, họ “đổ” Bánh Thánh như đổ một hũ đậu phụng. Họ thiếu cung kính vì thiếu tấm lòng. Họ đến từ một cộng đoàn mà chính cha quản nhiệm không đầy đủ bổn phận huấn luyện họ cung kính Thánh Thể Chúa. Làm sao huấn luyện  nếu chính cha quản nhiệm thiếu tấm lòng. Đi giúp mục vụ nhiều nơi, tôi rất cảm kích khi có những linh mục đến nhà thờ sớm, không tiếp ai trước thánh lễ. Họ dành giây phút đó để chuẩn bị thánh lễ. Và cũng có những thừa tác viên Thánh Thể được huấn luyện rất cung kính khi thi hành nhiệm vụ thánh.

Lạy Chúa,

Con cần hiểu bí tích Thánh Thể là kết quả của tình yêu Chúa chết cho con người được sống. Làm sao con có thể cử hành cho chóng qua như một cuộc gặp gỡ mà con không muốn gặp. Làm sao con cảm nghiệm được khi con chỉ gặp để cho qua.

Con cần phải hiểu những gì con đang làm, con đang sống, tôn giáo con đang theo. Con phải hiểu thông báo của người đàn ông kia là thông báo của thiên thần báo mộng trước cửa đền thờ linh hồn mỗi khi con bước vào:

- Đức tin không có đức ái, sẽ không biết lối nào đi.

Con phải hiểu Thánh Thể Chúa là tình yêu vô cùng sâu thẳm.

- Xin cho con lòng yêu mến trưởng thành.

Con phải hiểu Thánh Thể Chúa là mầu nhiệm cực thánh.

- Xin cho con cử hành với tâm hồn hết sức kính cẩn, thiết tha.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 220

Page 221: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 86: TẤM HÌNH CỦA MẸ

- Con ạ! Anh em chúng con chỉ có mấy đứa. Đất khách quê người, con để ít giờ cuối tuần mà thăm nhau. Con đừng đi làm ngày Chúa Nhật nữa.

Lời khuyên không làm đứa con gái xuôi lòng.

Sống xa cộng đoàn người Việt, mãi vùng xứ lạnh Bắc Âu. Tâm tư bà thường nhớ về quê cũ. Mảnh vườn xưa. Dăm ba tầu chuối trưa hè. Nhưng con bà đã gần như người Âu. Đối với bà, tiếng chuông nhà thờ còn là nỗi nhớ người, nhớ cảnh. Nhưng những đứa con lớn lên ở đây, chúng không có kỷ niệm những tối trăng cao vằng vặc, tiếng ếch kêu trong đêm mưa. Bởi đó, những lời khuyên như trên của bà chỉ là ước mơ hững hờ.

Ngày bà chết. Người con gái để tấm hình bà trên tủ thờ tổ tiên. Người con gái năm xưa ấy bây giờ đã có một lũ con. Chúng lớn mau không ngờ. Nếu bà còn sống, nay chúng là lũ cháu của bà. Giống như bài luận văn ngày cũ: Cứ tối tối ngoại quây quần kể chuyện cổ tích cho các cháu nghe. Người con gái năm xưa ấy kể:

- Mỗi lần nhìn tấm hình của mẹ. Lòng tôi se sắt một tiếng thương và một nỗi nhớ.

Trở về câu chuyện năm xưa. Đã bao năm về trước, ngày còn sống, ngày bà đã một lần nói với đứa con gái lớn: “Con ạ! Anh em chúng con chỉ có mấy đứa. Đất khách quê người, con để ít giờ cuối tuần mà thăm nhau. Con đừng đi làm ngày Chúa Nhật nữa”.

Lời khuyên có vẻ dễ dàng, nhưng đời có những chuyện chưa kịp nghĩ tới. Lời bà khuyên con gái, không ngờ một ngày kia trở về với chính bà.

Câu chuyện bắt đầu từ cửa tiệm bán quần áo. Bà chung với một người đồng hương. Sau những ngày làm ăn, nghi  ngờ nhau. Bà đánh dấu mực vào cổ áo. Hôm sau người partner đến bán đi,  không muốn chia lời, người này lấy áo mới thay vào. Gỉa bộ cứ như là đến phiên mình bán, không bán được bao nhiêu.

Hai bên đưa nhau ra toà, hết tình hết nghĩa, cửa tiệm bán quần áo không còn.

Bà kiếm một việc mới: Bán chợ phiên ngày Chúa Nhật. Thế là lời khuyên con gái năm xưa trở thành lời khuyên chính mình. Chỉ cần một buổi chợ phiên Chúa Nhật, bà kiếm mấy trăm đô la. Câu chuyện “bình an” cho đến một ngày. Người con gái năm xưa, có chuyện giữa mẹ con, nói với bà:

- Ngày xưa mẹ bảo con đừng đi làm ngày Chúa Nhật, bây giờ thì

Người con gái không nói hết câu. Nhưng ý phải hiểu: “Bây giờ thấy tiền thì mẹ cũng

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 221

Page 222: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

làm ngày Chúa Nhật như con thôi”.

Đi làm ngày Chúa Nhật có tội hay không?

Đôi lúc bà cũng phân vân. Nhưng nỗi trăn trở nhất trong tâm hồn bà là tấm ảnh người mẹ sau khi chết. Bà biết nếu ngày nào bà chết trước người con gái. Con bà sẽ để hình bà trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh chồng bà.

Mỗi lần đến thăm nhà đứa con gái, bà âm thầm nhìn lên tấm ảnh đen trắng, chồng bà. Tấm ảnh đứa con đã để trên bàn thờ tổ tiên. Ảnh bố nó. Bà lại như thở nhẹ một nghĩ ngợi, chắc nó cũng để hình bà ở góc kia, trên điện thờ ngày bà chết. Bà kín đáo nhìn tấm ảnh vô hình của bà. Bà hình dung ánh mắt bà trong tấm ảnh đang nhìn xuống.

Vào một đêm không ngờ. Đêm đen của đất trời, nhưng sáng trong linh hồn. Trong đêm đó, thinh lặng, các con yên ngủ, trước tượng Chúa. Người mẹ đau khổ lâm râm cầu nguyện:

- Lạy Chúa,

Xin giúp con, con đã một lần khuyên con gái đừng đi làm ngày Chúa Nhật, dành thời gian cho anh em, cho chồng, cho các con. Nhưng nay thì con lại đi làm. Ngày con chết đi, mỗi khi nhìn ảnh con trên điện thờ, chắc con của con sẽ đau khổ vì có người mẹ như thế, chỉ biết khuyên con mà không dám sống lời mình khuyên. Nhìn ảnh con chắc nó cũng thương một người mẹ. Nhưng chắc nó cũng đau vì có người mẹ như thế. Con muốn ngày nào con chết đi, nhìn ảnh con trên bàn thờ vào những ngày giỗ kỵ, nó dám nói với các con của nó là: Các con nhìn cuộc đời ngoại của các con, ngày còn sống, ngoại chúng con dám sống cuộc đời can đảm như thế.

Lạy Chúa, cuộc đời con còn được bao lâu. Con muốn để lại tấm ảnh thờ không phải chỉ cho đứa con gái mà còn cho các cháu cảu con nữa.

Đêm đó tĩnh mịch. Căn phòng ngủ im như thờ. Se sẽ tiếng thở của lòng người mẹ thương con, thương cháu. Bà im lặng khấn vái trước tượng Chúa, cầu nguyện cho tương lai con cháu. Một đêm rất đỗi không ngờ. Im lặng trong lòng bà thôi, mà lời kinh thấu đến trời cao.

Rồi một ngày, bà bỏ chợ phiên. Bà bỏ những sáng Chúa Nhật đi buôn.

Người con gái bà sau này kể tiếp.

- Một hôn tôi hỏi mẹ. Tại sao mẹ không đi làm ngày Chúa Nhật nữa? Mỗi buổi chợ phiên mẹ kiếm mấy trăm đô la cơ mà! Mẹ tôi không trả lời. Tôi liếc là bà bỏ mất mấy trăm đô la.

Hôm nay mẹ tôi không còn. Chỉ còn tấm hình bà trên bà thờ tổ tiên.

Một tối thinh lặng. Các con tôi đã ngủ. Một mình ngồi nhìn ảnh mẹ. Bây giờ làm mẹ mới hiểu những đoạn đời mà một người mẹ đi qua. Người ta bảo có qua cầu mới hay. Nhìn các con tôi ngủ, chúng đang lớn dần. Lo cho con, bấy giờ mới thấm thía những ngày mẹ tôi lo cho tôi. Ảnh mẹ trên bàn thờ tổ tiên. Hương khói không có. Trong căn nhà tôi ra vào hàng ngày. Ảnh mẹ tôi âm thầm treo đó. Im lặng. Nhưng đêm nay. Nhớ về kỷ niệm năm xưa. Tôi nhìn mẹ lại hỏi: “Tại sao mẹ không đi làm ngày Chúa Nhật nữa? Mỗi buổi chợ phiên mẹ kiếm mấy trăm đô la cơ mà!”

Và hôm nay, lạ thật, trong ánh mắt chịu đựng của mẹ. Mẹ tôi trong tấm ảnh kia âm thầm trả lời.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 222

Page 223: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Mẹ biết có ngày con đặt ảnh mẹ trên bàn thờ cạnh hình ba con. Con sẽ đau khổ khi đến ngày giỗ mẹ. Con nhìn ảnh thấy mẹ rồi nói: “Ngày xưa bà này bảo tôi đừng đi làm ngày  ChúaNhật, thấy tiền thì bà cũng như tôi”. Con thương mẹ, nhưng nghĩ đến lời khuyên và lối sống của mẹ như thế. Con sẽ khổ đau, không vui.

Bỗng quá lạ. Tôi thấy tấm ảnh mẹ tôi như sáng lên. Âm thầm mà mạnh mẽ vô cùng. Các con tôi vẫn ngủ. Chúng không biết hôm nay ngày giỗ ngoại chúng. Tôi một mình ngồi trước ảnh mẹ. Ảnh mẹ lại như nói với tôi:

- Mẹ biết có ngày con đặt ảnh mẹ trên bàn thờ cạnh hình ba con. Đến ngày giỗ kỵ. Nếu con có thắp nén hương cho mẹ, con sẽ vui vì mẹ đã dám sống những gì mẹ khuyên con. Biết đâu con cái của con khó dạy, con có thể nói với chúng rằng: Nhìn ảnh ngoại chúng con đây. Ngày còn sống, ngoại đã dám sống một đời can đảm như thế.

Tôi chợt ứa nước mắt. Hình ảnh xưa hiện về. Mẹ tôi đã can đảm bỏ làm ngày Chúa Nhật chỉ vì lời khuyên cho tôi. Nghĩ tới đó, tôi gục khóc hơn nữa. Mẹ tôi không chỉ muốn giáo dục tôi mà cả với các con của tôi.

Các con tôi vẫn ngủ. Chúng không biết tối nay, ngày giỗ ngoại chúng. Mẹ tôi đã có tấm ảnh để lại cho tôi. Mẹ tôi đã đi con đường của riêng mẹ. Còn tôi, khi chết, tôi có bức hình nào để lại cho các con tôi không.Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 87: NHÂN QUẢ

Không hiểu rõ hệ lụy nhân quả, nhân quả sẽ là một hệ lụy. Không phải vì không biết mà không có hệ lụy. Chính vì không biết nên hệ lụy mới đớn đau.

Giả sử tôi không biết con tôi đang ở phía sau. Người cha de xe, cán chết con. Ông ta không biết con mình nên mới de xe. Xét về ý ngay lành, ông ta không mắc tội trước lương tâm và Thượng Đế. Nhưng không vì không biết mà không có hệ lụy. Đứa bé vẫn chết. Lương tâm ông vẫn đau đớn.

Hậu quả nào cũng có nguyên nhân. Nguyên nhân nào cũng có hậu quả.

Không cần suy tư thần học. Người bình dân cũng biết “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”.

Karma - Luyện tội

Nhà Phật tin vào đầu thai. Có kiếp luân hồi. Ai ở lành, kiếp sau được thoát tục. Ai làm ác, kiếp sau bị nghiệp báo. Khi hồn kiếp sau không thoát tục được thì bị nghiệp báo hành hạ. Xã hội nào cũng có luật công bình.

Công Giáo tin vào lửa luyện tội. Thiên đàng là nơi không có vướng mắc tội kiên. Chết rồi còn vướng mắc, thì cần thanh tẩy. Luyện ngục là nơi thanh tẩy để được vào thiên đàng. Vì thế, luyện tội là ơn huệ do lòng Chúa xót thương. Mức độ thanh tẩy có nhiều tình trạng khác nhau. Cũng như tuỳ ác độc người ta sống mà Phật Giáo bảo phải đầu thai làm kiếp gì, tầng thứ mấy của ngục tối. Tôn giáo nào cũng nói đến nhân quả.

Tội và hậu quả của tội

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 223

Page 224: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Người Công Giáo có bí tích giải tội để xin ơn tha thứ. Nhưng nhiều người không hiểu rõ, không hiểu cách phong phú về bí tích này. Họ cần phải phân biệt tội và hậu quả của tội. Tội được tha, nhưng hậu quả vẫn còn. Phạm tội là gieo nhân. Hậu quả của tội là gặt hái từ nhân gieo đó. Thánh Phaolô nói rõ về nhân quả này:  “Tiền công của tội là sự chết” (Rom. 6:23). Thánh Giacôbê cũng cùng một xác định như thế. Ngài viết:  “Tội khi đã phạm rồi thì sinh ra cái chết” (Giacôbê 1:15).  Khi một người phạm tội, là gieo nhân đó, thì tội sẽ trả công cho người đó là sự chết.

Bí tích giải tội tha thứ tội ta phạm. Nhưng bí tích giải tội không cất cái “quả” do nhân kia gây ra. Thí dụ: Tôi nói xấu một người. Bao nhiêu người nghe tôi nói, có thành kiến về người đó. Gây ác cảm với người đó. Từ chối không cho người đó công ăn việc làm. Không tin tưởng người đó. Tôi biết mình phạm tội. Tôi đi xưng tội. Tội tôi được tha. Nhưng bí tích giải tội không có năng lực biến đổi hết ý nghĩ xấu trong tâm trí tất cả những người kia. Họ ở khắp nơi như dòng nước chảy thấm xuống ruộng đồng rồi. Họ vẫn ác cảm với người tôi vu khống chuyện xấu mà họ không có. Cái vết thương kia là “quả” do “nhân” tôi gieo, bí tích giải tội không chạy đến từng người và đính chính dùm tôi được. Đó là karma. Đó là nhân quả. Đó là nghiệp báo.

Thí dụ: Một người con không học hành, chửi bới bố mẹ. Gây đau khổ cả gia đình. Sau nhiều năm hoang đàng, nay sám hối. Bố mẹ tha thứ, cả dòng họ mừng vui. Nhưng sau nhiều năm không học, cho dù hôm nay sám hối, vẫn không trường nào cho anh mảnh bằng. Không ai cho anh kiến thức. Hậu quả vẫn còn đó.

Sau năm 1975. Hoàn cảnh đất nước bấy giờ ai cũng nghèo túng. Chồng đi cải tạo. Một mình bà nuôi lũ con chưa đến tuổi khôn. Chỉ vì cãi vã, tức người hàng xóm. Một người bỏ thuốc độc giết con heo nái, cả bày heo con chết theo. Tất cả sự sống của gia đình người ta trông chờ vào mấy con heo… Đàn heo chết. Gia đình suy sụp, con cái nheo nhóc bệnh tật, nợ nần không ngóc lên nổi. Tôi phạm tội ác. Tôi đi xưng tội. Chúa tha tội.

Lương tâm tôi đền tội chưa khi bà mẹ kia phải chia các con đi ở đợ cho dân trong làng kiếm miếng ăn. Nếu tôi xưng tội và “đền tội” bằng chục kinh Kính Mừng thì đâu là ý nghĩa đền tội? Bí tích giải tội không làm cho bày heo sống lại. Mất bày heo, con cái họ bệnh tật không thuốc chữa. Bà mẹ đau đớn vì tiếc của rồi phát điên. Hệ lụy này ai mang? Tôi đi xưng tội, nhưng bà hàng xóm kia vấn nghèo khổ, vì không lấy lại được bày heo. Các con bà nheo nhóc không có cơm ăn. Bí tích giải tội không giải quyết hệ lụy nhân quả này. Vậy ai mang?

- Karma - Luyện tội.

Nhiều người nghĩ rằng đi xưng tội, hết tội là lên thiên đàng. Suy nghĩ như vậy có đúng không? Nếu Chúa giầu lòng thương xót, tha tội cho tôi. Vậy sự công bằng của Chúa ở đâu với người mà tôi gây nỗi đau khổ kia? Năm 2000 vừa qua là Năm Thánh. Năm Thánh được lãnh Ơn Toàn Xá. Để lãnh ơn này, một trong các điều kiện là xưng tội. Như vậy Ơn Toàn Xá không tha tội. Tội được tha rồi sao còn cần Ơn Toàn Xá? Như thế ta thấy rõ vấn đề không phải xưng tội xong là hết.

Người đàn ông trầm tư cả buổi chiều. Ông suy nghĩ rất nhiều.

Thinh lặng bao giờ cũng là một hố sâu, dưới đáy là tấm gương phản chiếu khuôn mặt của mình. Không thánh nhân, không hiền triết nào giác ngộ ngoài bờ giếng thinh lặng đó. Ông tự hỏi lòng:

- Tôi đã xưng tội rồi, đọc kinh đền tội rồi, sao trong lòng con tôi, vẫn còn sự sợ hãi?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 224

Page 225: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Câu chuyện xảy ra là, khi ông đi làm về, mở khoá cửa bước vào. Cháu bé đang chơi ở chân cầu thang, bỏ chạy lên lầu. Nó sợ.

Có thể nhiều lần khi đi làm về, nghe tiếng bố mở cửa nó đã chạy như thế. Nhưng chiều nay, trong những ngày linh thao. Ông cúi xuống vực giếng sâu ấy, và tiếng nói nhiệm màu của thinh lặng hỏi hồn ông:

- Tại sao con tôi vẫn sợ tôi?

Ông nhớ lại cái đêm say rượu bước vào nhà. Ông mửa tháo ở phòng khách. Chẳng mấy tuần ông đi nhậu với bạn bè rồi về nhà gây gỗ. Một đêm kinh hoàng. Vợ ông chịu không nổi. Tức nước vỡ bờ. Đêm đó vợ chồng chửi nhau, đánh nhau hung bạo. Ông đã đập cái tủ kính bằng chiếc ghế sắt. Mảnh thủy tinh bắn tung toé trên nền gạch. Ông không biết con ông hoảng sợ khóc thét lên, chạy quýnh quáng ra garage, rồi lên lầu đóng cửa khóc nức nở một mình. Tội nghiệp, một thiên thần nhỏ không biết tránh giông bão nơi nào.

Bên cái hố sâu thinh lặng. Ông tiếp tục nhiều vào tấm gương kia, tự hỏi:

Mỗi khi con tôi ngủ, thần kinh trên mặt nhăn lại, như đang trong cơn ác mộng. Trong cơn sốt, mồ hôi vã ra, kêu la sợ hãi, chân đạp. Con tôi không ngủ bình an như một thiên thần.

Sự thinh lặng bắt đầu trả lời ông. Nhưng trước khi cho ông câu trả lời, tấm gương kia sáng lên một tia lửa tâm linh, ông tiếp tục nhìn vào:

- Ai gieo gió sẽ gặp bão. Tôi là người cha, nỡ lòng nào tôi gieo nỗi sợ trong hồn con tôi. Nó vô tội. Vì tội  tôi mà con không có giấc ngủ như thiên thần. Nếu con cứ sợ hãi, mỗi giấc mơ là ác mộng như thế, tâm lý con sẽ lớn lên như thế nào. Bệnh hoạn chăng, nhút nhát chăng.

Nhà tĩnh tâm là mặt hồ thinh lặng. Trên mặt nước ấy, nếu ai muốn khám phá đời mình, nó có phép mầu cho người ta thấy nhiều điều kỳ diệu. Ông tìm một chỗ vắng vẻ. Mặt nước lay động, phản ánh lên mầu trong tấm gương. Người đàn ông với khung trời của riêng ông, ông đang mở cửa con đường tâm linh. Ông tiếp tục bước vào, tư vấn lần nữa:

- Tôi đã xưng tội rồi, đọc kinh đền tội rồi, Chúa tha tội rồi, sao con tôi vẫn sợ?

Ông bắt đầu hiểu hệ lụy nhân quả - karma. Nếu ông cứ để con ông sống trong nỗi sợ như thế, con ông sẽ ra sao.

Gặp tôi trong giờ linh hướng. Ông nói:

- Thưa Cha, con về.

Ý ông muốn nói là sau những ngày linh thao này, khi về nhà.

- Thưa Cha, khi về con sẽ gọi cháu ra. Con chữa cho vết thương trong cháu không còn nữa thì mới gọi là đền tội. Con mới được chữa lành.

Giả sử là người cha, chúng ta sẽ nói gì với con?

Ông nói với tôi:

- Con phải ôm cháu rồi nói: “Con trai của bố, hôm qua đi làm về, nghe tiếng mở cửa, con chạy lên lâu phải không? Bố biết con còn sợ bố lắm. Từ nay con đừng sợ bố nữa nhé. Bố không làm con sợ nữa đâu. Hôm bố đập đủ kính này, con chạy vào phòng khóc. Tội nghiệp con. Mai bố đi làm về, nghe tiếng mở cửa, con chạy ra hung bố nhé. Bố thương con”.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 225

Page 226: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Nêu ông ôm con trong vòng tay nói như thế. Trái tim bé thơ của cháu sẽ vui biết bao. Tuổi thơ cần những lời trấn an cho nó cảm giác an toàn. Có thể một mùa xuân sẽ mang cánh bướm về đậu với hồn cháu.

Không phải chỉ tuổi thơ mà có khi càng vào đời, càng lắm vết thương. Ông tâm sự:

- Vợ chồng con cũng thế. Đã bao lần xưng tội, mà vết thương không lành.

Cuộc đời hôn nhân của ông không nhiều năm tháng hạnh phúc. Ông luôn chửi bà là đồ ngu. Không có ai ngu như bà. Bà nói gì cũng bị ông gạt đi. Khi một người nói gì cũng bị cho là sai, nó là vết thương rất đau. Bà không thoát ra được, đối với bà, chiếc hòm hôn nhân đã đóng đinh bằng bí tích hôn phối trong nhà thờ. Bà cay đắng chịu đựng.

Trong nỗi đau bà tìm cách trả thù. Bà không chửi ông, nhưng chửi ai đẻ ra ông. Phải dùng ngôn ngữ nào đau như ông chửi bà. Càng trả thù nhau, vết thương theo năm tháng càng sâu. Ông nói với tôi:

- Cứ thế, rồi chúng con đi xưng tội khi có dịp lễ lớn. Chúa tha tội, nhưng hậu quả vẫn còn. Rồi đâu lại vào đấy. Chỉ ngày nào con nhổ những cái đinh con gây cho đời bà. Và bà cũng phải dùng những lời hiền dịu nhổ những cái gai khỏi đời con, bấy giờ chúng con mới được chữa lành.

Tôi còn nhớ ánh mắt ưu tư của ông cuối tuần tĩnh tâm đó. Ông vừa khám phá ra con đường mới từ lâu ông lạc lối. Cái nhân quả kia là hệ lụy ta không thể tránh khỏi. Đời này, hay đời sau, ta phải đền trả, phải thanh tẩy. Nhà Phật nói đến karma - Người theo Chúa nói đến luyện tội. Ông hỏi tôi, còn những chuyện đau khổ ta gây ra, mà hay người đó chết rồi thì sao? Làm cách nào gỡ đời mình khỏi cái hệ lụy chỉ vì tôi bỏ thuốc độc giết bày heo kia?

Chúa không để chúng ta tuyệt vọng. Nhưng tôi nói với ông. Chúng ta sẽ nói tới đề tài này dịp khác. Bây giờ ông bắt đầu băn khoăn hệ lụy của những nhân quả là quý lắm rồi. Nhiều người nghĩ rằng mình không biết thì không có tội. Họ không bao giờ băn khoăn học hỏi. Tôi nói với ông:

- Có người hỏi tôi: Mình không biết việc đó có tội, mình làm thì có tội không?

Tôi bảo họ:

- Đúng thế, không có tội. Nhưng tôi xin hỏi ông. Giả sử ông đang làm vườn, ông vứt cục đá vào gốc cây. Cháu bé đang ngồi sau đống gạch, ông không nhìn thấy. Cháu bị trúng đá. Đứt thần kinh. Cháu tê liệt, suốt đời phải thở bằng ống dưỡng khí. Nhìn cháu nằm trong bệnh viện suốt đời như thế ông có bình an không? Vấn đề là những hệ luỵ mình làm. Chứ không phải không biết thì không có tội. Tội thì dễ tha, nhưng vấn đề là dù được tha tội mà hệ lụy vẫn còn.

Nghe tôi nói thế. Tôi biết ông đang trở về hố sâu thinh lặng tâm hồn ông.

Ông nói với tôi:

- Khi mình chữa vết thương trong hồn người khác lành thì chính hồn mình được lành.

Tôi hiểu ý ông muốn nói, ông nhìn cháu bé khi ngủ, mỉm cười như một thiên thần, cháu không còn hốt hoảng với ác mộng nữa, bấy giờ tâm hồn ông là một người cha mới an vui. Từ đó, ông hiểu ông sẽ làm gì những vết thương đau trong đời sống vợ chồng ông. Đúng vậy, khi mình chữa vết thương của người khác thì nó lại lành chính vết thương của mình.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 226

Page 227: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Khi một người đi tìm sự hiểu biết. Khi một người nhận thức được nhân quả - karma của những hệ lụy, đời họ sẽ hạnh phúc nhiều lắm. Vì đó là khởi điểm của một bình minh mới.

Phụ chú:

-     Quý bạn đọc có thể tìm hiểu thêm những cái nhìn phong phú về đề tài quan trọng: BÍ TÍCH HOÀ GIẢI, trong CD giảng thuyết. Để hiểu rằng không thể nói “linh hồn ai nấy giữ!” Đây là bí tích của gia đình chứ không chỉ cá nhân như nhiều người thường nghĩ.

-     Đề tài Luyện Tội được trình bày trong cuốn Cô Đơn và Sự Tự Do, trang 29.

-     Hậu quả gây ra như lỗi đức công bình với người đã chết. Làm sao đền trả? Đề tài này cần được hiểu kỹ hơn về vấn đề các Ơn Xá.

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 88: NHỮNG LÀN KHÓI

Một trong những lời căn dặn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trước khi chết là: Tiếng chuông và những làn khói.

Nhiều người đến Roma để chứng kiến giây phút lịch sử. Chờ công bố Giáo Hoàng mới. Nếu không vỗ tay khi làn khói bay lên, lỡ là khói trắng, họ mất cơ hội là những người đầu tiên reo mừng vì chứng kiến làn khói lịch sử. Nếu vỗ tay mừng mà là khói đen thì giây phút lịch sử ấy lầm lỡ quá.

Media, truyền thông khắp thế giới quay ống kính vào làn khói. Không biết bao nhiêu nghìn phóng viên quốc tế chỉ chờ giây phút lịch sử ấy để mình là người đầu tiên loan tin về một làn khói. Không biết mấy trăm triệu người theo dõi truyền hình về một làn khói.

Người ta bực mình về một làn khói. Không đen, không trắng.

Thế kỷ này, người ta chứng kiến, người ta sống một trời lịch sử về những làn khói.

Con người hôm nay đang khủng hoảng về những giá trị   không rõ trắng, rõ đen. Trước khi vĩnh biệt trần gian. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để lại tiếng chuông trước những làn khói.

Khói ở công trường Rôma không nhiều, hai mươi sáu năm nay mới lại xảy ra. Khói ở cuối sân nhà thờ thì nhiều.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 227

Page 228: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Nhóm quyên tiền giúp người nghèo.

- Nhóm quyên tiền bảo trì đền thờ.

- Giáo dân tổ chức raising fund.

- Tu sĩ tổ chức raising fund.

Nhóm nào cũng muốn khói mình bay cao, bay xa. Nhóm nào cũng muốn mọi người chú ý đến ống khói của mình. Lúc này cuối sân đền thờ rất nhiều thứ khói.

- Có khi giáo dân trách linh mục về raising fund. Cuộc đời họ là chạy theo nhu cầu đểraising fund rồi, ít được học về Chúa, khi đến nhà thờ, họ xin các ngài hãy nói cho họ về Chúa.

- Có khi giáo dân lại xin các ngài raising fund. Họ rủ các ngài vào nhóm raising fund. Họ tập cho các ngài raising fund. Họ dựa vào các ngài mà raising fund.

- Có khi linh mục muốn raising fund nhiều hơn giáo dân.

Cuối sân giáo đường hôm nay, khói bay muôn hướng.

Rồi từ những làn khói bay. Có người cay mắt. Có tiếng kêu. Có người mắt cay mà không kêu. Có người kêu mà khói vẫn bay. Từ những làn khói, có người bỏ cuối nhà thờ đi chỗ khác. Thì cũng từ những làn khói, có những người bỏ nhà thờ từ lâu, nay lại tìm đến. Đó là kỳ diệu của những làn khói. Có làn khói làm người đi xa. Có làn khói đem kẻ khác lại gần.

 

LỜI KINH VÀ NHỮNG LÀN KHÓI

        Cha Nguyễn Văn Quang, một linh mục người Việt  Nam, coi một họ đạo lớn người Mỹ ởGreeley, gần Denver, Colorado. Một ngày chúng tôi lên núi  Rocky Mountains. Trong câu chuyện đời sống linh mục. Chúng tôi nói chuyện với nhau.

- Mình là linh mục mà 60 phần trăm thời gian phải lo  administration mất rồi. Có cuối tuần mất hàng tiếng đồng hồ chỉ ký checks cho nhân viên. Thế này thì hỏng, phải xét lại.

Linh mục được huấn luyện để nói về Chúa. Vai trò quan trọng của linh mục là sứ ngôn. Công bố Lời Chúa. Chúng tôi không được huấn luyện để  raising fund. Nếu có linh mục kémraising fund, xin giáo dân đừng trách, đừng đòi buộc và so sánh. Khi có những linh mục raising fund giỏi, giáo dân ca tụng. Họ nhờ, họ xin các linh mục  đó raising fund. Ca tụng linh mục nàyraising fund giỏi, chê linh mục kia kém, từ đó, giáo dân đưa dần làn khói, rất tiếc, không đen, không trắng vào cuối giáo đường, và có thể làm cay mắt nhiều tâm hồn.

Linh mục mà phải lo administration, phải lo đối phó với nhóm này, nhóm kia, phải raising fund, phải lo trả lời phỏng vấn, phải lo nhiều thứ quá, làm sao có thời giờ soạn bài giảng, làm sao có thời giờ đọc văn kiện Giáo Hội, làm sao có thời giờ nhận định xem khói đang bay về đâu, khói luân lý, khói đức tin, khói văn hoá, khói xu hướng, khói trong Giáo Hội, khói ngoài cuộc đời.

Trong những cuộc raising fund, làm cách nào để tránh được khói cạnh tranh?

Khi linh mục có mặt trong các chương trình này, dù tốt đến đâu, nếu có sự cạnh tranh, sẽ có “triệu người vui, và triệu người buồn”. Khói sẽ làm kẻ này đến nhà thờ, khói cũng làm kẻ khác bỏ đi. Nếu một việc mà như thế, một mục tử có nên làm không? Hay là trở về với bục giảng, để an ủi kẻ này bị khói làm cay mắt đừng bỏ nhà thờ đi, và cảnh tỉnh

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 228

Page 229: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

kẻ kia đừng lấy khói làm ai cay mắt.

Đức tin không có lòng xót thương, nó không có địa chỉ để về.

Muốn giết lòng xót thương, có lẽ không khó. Cứ khen cha kia tổ chức giỏi, chê cha này giảng dài. Khen ông chủ tịch cũ, nhờ ông mà cộng đoàn mua được miếng đất. Hỏi ông chủ tịch mới, khi nào hội đồng mục vụ mới xây tượng đài? Nói Rollo hay thế sao kỳ này họ không mời? Cứ so sánh, khen và chê, sẽ thấy sinh hoạt xứ đạo ngộp thở, nhiều tâm hồn khốn khổ và lòng xót thương có thể sẽ chết tự bao giờ.

Khi một đoàn thể Công giáo tiến hành mà chỉ mong đoàn thể mình thành công hơn đoàn thể kia, thì đâu là Công Giáo tiến hành? Khi một dòng tu mà chỉ muốn dòng mình phát triển. Thành công của Phúc Âm là gì? Đối với việc tông đồ, làm sao có thể cổ võ kẻ khác bỏ tiền vào quỹ người nghèo do mình lập nên, đừng bỏ tiền vào quỹ kia? Nếu thế, đâu là lý chứng biện minh cho lòng bác ái và hành động như vậy? Nếu không, cứ khuyến khích người ta bỏ tiền vào quỹ kẻ khác, thì đâu là quỹ do mình lập nên? Đó là thách thức của lời kinh và những làn khói.

HỌC THUYẾT PHAOLÔ:

Được làm khác với nên làm

Trong cộng đoàn Côrintô đã xảy ra những chuyện được làm nhưng không nên làm. Phaolô viết:

“Được phép làm mọi sự” nhưng không phải mọi sự đều có ích. “Được phép làm mọi sự”

nhưng không phải mọi sự đều có tính cách xây dựng. Đừng ai tìm lợi ích riêng nhưng hãy tìm lợi ích

chung. Tất cả những gì bán ngoài chợ anh em cứ việc ăn. Nhưng nếu có người bảo: “Đây là của

cúng” thì đừng ăn. Tôi không có ý nói lương tâm anh em, nhưng vì lương tâm người khác”  (1 Cor. 10:23-33).

                                      (Xem chú thích câu 29, bản dịch Nhóm Phiên Dịch Các Gìơ Kinh Phụng

Vụ).

Phaolô cẩn thận cắt nghĩa là ăn của cúng không sao, nhưng nếu vì gương xấu cho người khác thì đừng ăn. Phaolô viết:

“Không phải của ăn làm chúng ta gần Thiên Chúa. Không ăn những thứ đó, chúng ta chẳng

thiệt, mà có ăn cũng chẳng lợi gì. Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho người

yếu đuối sa ngã” (1 Cor. 8:8-9).

Trường hợp cụ thể xảy ra ở cộng đoàn Côrintô là vấn đề ăn thịt cúng. Nếu dựa vào hiểu biết của mình, cứ làm, không cần biết gương mù có thể gây ra, nghĩa là biết ăn của cúng không có tội, cứ ăn, còn ai nghĩ thế nào kệ họ, Phaolô viết rất rõ về thái độ đó như sau:

“Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà Đức Kitô

đã chịu chết để  cứu chuộc. Như vậy, phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của

họ là phạm đến Đức Kitô. Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao

giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã”  (1 Cor. 8:11-13).

Không phải chỉ gởi cho cộng đoàn Côrintô. Trong thơ gởi cộng đoàn Rôma, chúng ta cũng gặp những căn dặn tương tự:

“Nếu vì bạn ăn một thức ăn, mà bạn làm phiền lòng người anh em, thì bạn không còn sống

theo đức ái nữa. Đừng vì chuyện ăn uống mà làm cho người anh em của bạn phải hư mất, vì Đức Ki-

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 229

Page 230: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

tô đã chết cho người ấy.

Vậy đừng để cho thiên hạ chê bai điều mà anh chị em cho là tốt. Vì nước Thiên Chúa không

phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Ai

phục vụ Đức Kitô như thế, thì đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng. Vậy chúng ta hãy

theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau. Đừng vì một thức ăn mà phá hủy

công trình Thiên Chúa. Đã hẳn, mọi thức ăn đều thanh sạch; nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là

điều xấu” (Rom.14:15-20).

Trong hoàn cảnh xã hội hôm nay. Các vấn đề raising fund cần thận trọng. Nhưng tìm đâu tiêu chuẩn thận trọng? Có nên tìm hiểu thêm trong học thuyết này của Phaolô như một tiếng chuông không?

NHỮNG NGUY CƠ

Trong hoàn cảnh đặc biệt của người Công Giáo Việt  Nam hải ngoại, raising fund là chuyện rất thường. Có khi cần. Nhiều người muốn đóng góp để xây dựng. Vấn đề là để được tốt, phải nói đến những nguy cơ để bảo vệ điều tốt kia.

1. Nguy cơ thứ nhất: Power

Đằng sau công việc từ thiện. Tiền bạc ngấm ngần cho người ta  power. Power ở đây mang nhiều mầu sắc :

- Power thứ nhất là chứng tỏ tài năng. Ai raising fund được nhiều, càng chứng tỏ nhiềupower. Nhóm nào raising fund được nhiều càng chứng tỏ uy tín. Vì xã hội khen như thế. Đây là tiêu chuẩn xã hội, chứ chưa hẳn là đúng vì có những giá trị thành hình là do sự lầm lẫn của kẻ khác. Có người thành công trong  raising fund, rồi cho là mình có tài năng. Có kẻ thấy người khácraising fund giỏi rồi cho rằng người đó có uy tín. Nếu khen nhóm này đóng tiền nhiều để khuyến khích cái tự ái của nhóm kia thì đấy có là do tài năng và uy tín không? Nếu vì sự dễ tin của những tâm hồn chân thành mà dẫn họ vào những con đường vòng quanh mập mờ thì đấy có là nhân đức không? Giáo Hội đã có từng thời kỳ nhân danh ân xá để kiếm tiền, và đấy là một trong những nguyên nhân lớn trong cuộc ly giáo do Luther khởi xướng. Có đường lối thật, có đường lối sai. Phúc Âm gọi những tài năng giỏi, đường lối sai đó là những ngôi mộ tôi vôi.

- Power thứ hai là được có quyền chi tiền cho ai. Thứ power này êm dịu, kín đáo vô cùng. Nó kín đáo lẻn vào lòng người, nhưng nó lại tỏ lộ trong thái độ sống. Người ta kín đáo che đậy, nhưng nó lại êm dịu như ánh trăng chiếu ra, không giấu được.

- Power thứ ba là được người chịu ơn ca tụng. Ai cũng bảo mình không muốn kẻ khác cám ơn. Nhưng ít người chỉ raising fund mà lại không muốn “đích thân” mình về Việt Nam trao tiền thì mới chắc chắn. Có hai thứ “đích thân”. Một là đến từ lòng nhiệt thành. Hai là kín đáo đến từ thứ power này.

Những power này, nó thầm kín, nhưng người ta dễ nhận ra. Những thứ power trên đây không loại bỏ ai, giáo dân cũng như tu sĩ.

Khi không ai cắt cử mình vào công việc raising fund mà cứ có động lực thúc đẩy, thì cần cẩn thận vì có thể đàng sau động lực bác ái, đang bị những  power trên đây thúc đẩy. Và đối với người dâng cúng tiền bạc cũng nên khôn ngoan nhận định những động lực này.

Tiêu chuẩn để canh chừng chính hồn mình, hoặc để khám phá ra các thứ  power trên đây, thánh Phaolô đã viết cho cộng đoàn Galát:

“Hoa trái của Chúa Thánh Thần là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm,

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 230

Page 231: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Galát 5: 22-23). Như thế, khi công việc dẫn tới những gì ngược với hoa trái trên đây, đấy là dấu chỉ cần thức tỉnh về những làn khói.

2. Nguy cơ thứ hai: Power

Đằng sau công việc từ thiện. Tiền ngấm ngầm lấy mất  power của người ta. Nguy cơ thứ nhất, tiền cho người ta power có chất độc, nguy cơ thứ hai, trong power nó cho, nó lấy mất powernhân đức mình có. Power bị mất ở đây cũng mang nhiều mầu sắc.

- Power bị mất là không còn thời giờ cho đời thong thả, vì quá khắc khoải làm sao công trình của mình thành công. Với linh mục, thêm những mất mát khác, thiếu thốn thời giờ thăm bệnh nhân, soạn bài giảng, học hỏi thêm. Và làm mình “chia trí”. Tại sao Đức Kitô quả quyết tiền bạc ở đâu thì lòng dạ ở đó. Nếu linh mục rơi vào tình trạng này thì lời giảng của linh mục mất nhiều power. Đây là mất mát rất lớn.

- Power bị mất là có thể mất lương tâm trong sáng. Tiền dễ đi tới gian lận. Lỗi đức công bình. Cắt nghĩa quá rộng cho lương tâm của mình vào vấn đề xử dụng quỹ bác ái. Ngày còn là các chú tiểu chủng viện Têrêsa, Long Xuyên. Cha Giáo Vũ Sửu, bây giờ ngài vẫn còn sống, nhưng cha già yếu rồi, ngày đó, hơn ba mươi năm về trước, miền Tây thường lụt lội, ngài nhờ chúng tôi đi uỷ lạo người nghèo bị lũ lụt. Tôi nhìn những thùng xà bông. Nhiều như thế kia, nghĩ làm công tác xong, thế nào cha chẳng cho mỗi đứa một bánh xà bông. Vậy mà ngài không cho một bánh nào. Lúc đó, đứa nào mà không buồn. Nhưng ngài dạy chúng tôi, dù một bánh xà phòng, phải giữ tấm lòng trong sạch. Tôi vô vàn biết ơn những linh mục rất nhân đức trong đời tôi.

- Power bị mất là không còn trái tim bao dung. Họ sẽ cạnh tranh với kẻ khác, gây gương mù. Có thể đi đến phá đám nhau. Gây chia rẽ cộng đoàn vì cần các đoàn thể khác ủng hộ mình. Người ta có thể gây chia rẽ và kiếm được trăm ngàn dễ dàng. Nhưng không dễ dàng dù chỉ trăm ngàn để chữa được vết thương đã chia rẽ. Trái tim bao dung và sự hiệp nhất có là tiêu chuẩn thành công theo cách thế của Nước Trời không? Việc làm của họ không còn siêu thoát. Giáo dân cũng vậy, tu sĩ cũng thế. Không nói đến tiền bạc, cách đây hơn hai mươi năm, vào năm 1984 cha Julian Elizalde, S.J. người Tây Ban Nha, hiện nay còn sống, đang làm việc ở Rôma, một mình lái xe khắp các tiểu bang nước Mỹ lo tĩnh tâm cho giới trẻ Việt Nam. Tôi còn làm thày, xin theo ngài để học hỏi. Một chuyến hai cha con lái xe xuyên bang, ngài tâm sự:

- Có cha Việt Nam bảo giới trẻ nằm trong tay ông cha người Tây! Họ sợ tôi ảnh hưởng. Là pastor tốt thì phải lo cho giáo dân, đáng lẽ họ nên nhờ tôi đến giúp họ, họ lại cho rằng cho tôi đến giảng là một ân huệ.

Tôi còn nhớ mãi lời này. Xã hội này phải cạnh tranh mới sinh tồn. Cạnh tranh lẻn chui vào cả vấn đề thánh thiện của tôn giáo. Có những cộng đoàn giáo dân rất thiệt thòi chỉ vì pastor của họ như thế.

NHỮNG LÀN KHÓI HOANG MANG

Khi giáo dân hoang mang về những làn khói, không biết đen hay trắng, giáo đường sẽ là nơi rất buồn. Thánh Phaolô bảo ăn của cúng không sao. Nhưng nếu gây gương mù thì đừng ăn. Nhiều giáo dẫn thắc mắc, tại sao linh mục cứ phải bỏ thời giờ vào những việc mà giáo dân làm được, hay vì họ thiếu khả năng? Mỗi người tự chọn cho mình một chọn lựa. Nhưng đây là nguyên tắc không thể thay thế: Dù tu sĩ hay giáo dân khi tham dự vào các raising fund thì công việc này phải là những làn khói trắng vô cùng rõ ràng, không thể xám.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 231

Page 232: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ơn gọi của người hướng dẫn tâm linh là phân biệt cho người ta khỏi lầm lẫn về những làn khói. Phân biệt cho người khác không lầm lẫn những làn khói đã khó. Chính mình làm làn khói  thì phải rất trắng để người khác không thể lầm lẫn.

Mê ngủ nơi thiền sinh thì khác nơi thiền sư.

Tín đồ lầm lẫn, họ mong các vị linh hướng giúp họ phân biệt khói trắng hay đen. Khi người hướng dẫn tâm linh lầm lẫn, mong ai phân biệt dùm mình.

Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II trước khi chết, Ngài thay đổi một nghi thức rất lạ. Để báo Tin mừng cho thế giới là có Giáo Hoàng mới, đền thánh Rôma không được để khói bay mà thôi. Trải qua nghìn năm lịch sử, thế mà bây giờ Ngài thêm vào: Khói trắng cũng phải có tiếng chuông kèm theo.

Công việc raising fund nhiều khi không rõ đen mà cũng không rõ trắng.

Khói bay ở sân nhà thờ hôm nay nhiều khi không rõ trắng, không rõ đen.

Đức Hồng Y Thuận đã phân biệt CHÚA và Công Việc của Chúa.

Để tránh nhầm lẫn, mong ai phân biệt giùm mình?

- Phải có tiếng chuông !

Đối với giáo dân, làm sao linh mục giúp họ nhận ra tiếng chuông?

Đối với linh mục, đâu là tiếng chuông cho chính mình?

- Phải có tiếng chuông !

Đó là lời căn dặn của một con người đã làm xoay chiều lịch sử hôm nay.

Xin Đức Thánh Cha cầu bầu cho chúng con. Vì cuối sân giáo đường hôm nay có nhiều làn khói khác nhau.

Phụ Chú

Cần một tiếng chuông. Chính đời Đức Giáo Hoàng là một tiếng chuông rồi. Có một phụ chú. Có thể chỉ là trùng hợp thôi, nhưng là trùng hợp rất đáng suy nghĩ. Ngôn ngữ Phúc Âm Gioan ở đây là tiếng chuông rất lạ, cho thấy kẻ đánh mất lý tưởng, phản bội Chúa và anh em mình là kẻ giữ túi tiền, chi tiền, quản lý tiền, là kẻ quan tâm đến người nghèo.

“Một trong các môn đệ của Đức Giêsu là Giuđa Ítcarốt, kẻ đã nộp Người liền nói: “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo”. Y nói thế không phải vì y lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: Y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Jn. 12:4-6).

- Power nào đã lẻn vào con người Giuđa ?

- Power nào Giuđa đã đánh mất?

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 232

Page 233: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 89: HẠT GẠO VÀ TẤM BÁNH

Không nói những ngày lầm lũi lên rừng phá rẫy. Không nói những ngày cả lũ con cuốc đất phát gai. Không nói những ngày ấy, chỉ nói từ khi hạt lúa gieo xuống cũng đủ thấy người nông phu vất vả thế nào. Lo âu trời hanh nằng chết lúa, lo âu giông bão đến. Bao nhiêu là thứ lo mới có hạt lúa cho sự sống.

Làm mãi mới thành ruộng. Lên vùng kinh tế mới là những người nghèo. Những người nghèo quý từng hạt lúa, quý từng củ khoai. Họ là những người chân lấm tay bùn với sự sống.

Câu chuyện hạt lúa và người nông phu.

Lúc sắp chia tay, hạt lúa bùi ngùi nhìn những bàn tay thân yêu săn sóc mình rồi nó ứa lệ nói lời vĩnh biệt. Lúc chín mùa, bác nông phu chả mấy ngày mà không quanh quẩn bên ruộng lúa. Lúc mà mầu vàng ươm lên thật ươm, những nhánh lúa thấy bác nông phu hân hoan vui ra mặt. “Thế nào năm nay cũng được mùa”. Chả mấy lúc mà bác không nói một mình như vậy. Nhưng hạt lúa trĩu nặng trên nhánh lúa già nhìn bác thấy thật tội nghiệp. Chúng hứa với nhay là sẽ tặng bác một mùa lúa hạnh phúc, đó là những bữa cơm ngon.

Những giấc mơ đẹp thường không xảy đến với những người nghèo.

Những hạt lúa của người nghèo cũng thế, giấc mơ của chúng chả mấy khi lành lặn.

Giữa lúc những hạt lúa muốn biến đời chúng thành chén cơm tặng gia đình bác thì câu chuyện xảy đến, nên giấc mơ kia không thành…

Câu chuyện xảy đến thế này:

Bác nống phu gánh lúa về, đập, quạt, phơi khô rồi đóng bao. Nhưng hạt lúa vui thật vui là đã thoát bao nhiêu hiểm nguy mưa gió để có ngày về tới sân nhà bác. Chúng không còn sợ sâu đồng phá hoại, không còn sợ nắng mưa làm khô héo. Một thời gian thật dài lo lắng đã đi quá mới có ngày hôm nay. Chúng đang chờ một buổi chiều nào đó cả gia đình quây quần bên mâm cơm, những hạt lúa ấy chuyển mình thành hạt cơm thật thơm, thật ngon, trả ơn cho những ngày họ vất vả săn sóc chúng. Chúng là sự sống của họ. Không có những hạt cơm, người ta đói, người ta khổ lắm.

Tâm tư hạt thóc nói với bác nông phu:

- Tôi đã được về đây với cả mùa lúa của chúng tôi. Chúc mừng bác đã có một mùa gặt thật hân hoan. Chúng tôi sẽ biến hình thành những hạt cơm dâng bác sự sống. Bác đã quý chúng tôi. Chúng tôi thương bác. Những lúc trời mang giông bão, chúng tôi thấy cả gia đình bác âu sầu, lo lắng, chúng tôi đồng lòng nhất trí ráng sức mà chống chọi. Vặn vẹo thân mình đau đớn, chúng tôi nâng đỡ tinh thần cho nhau mà can đảm chịu đựng. Ôi, bác ơi, ghê nhất là đám sâu lúa, chúng rúc rỉa vào thân cắn cho chúng tôi gẫy đổ. Chúng tôi xót xa vô cùng. Chúng tôi hết sức mà phấn đấu.

Lời bác nông phu:

- Tôi vô cùng cám ơn Đất Trời đã cho chúng tôi mùa lúa này. Gia đình tôi nghèo, không có mùa gặt, chúng tôi khổ lắm. Những người giàu thì chả nói làm gì. Gạo thóc là chuyện thường tình, không có họ cũng chả lo. Gia đình tôi mà không có hạt cơm thì con cái

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 233

Page 234: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

nheo nhóc. Chúng tôi chỉ có giấc mơ nhỏ thôi là có hạt cơm mà ăn. Cha mẹ chúng tôi cũng nghèo. Đến lượt chúng tôi cũng thế. Chúng tôi quý lắm, chả dám để rơi những hạt cơm thừa bỏ đi.

Giữa lúc những hạt cơm đang sung sướng chờ ngày trả ơn người nông phu thì câu chuyện xảy đến, thế là giấc mơ kia không thành…

Câu chuyện gian truân bắt đầu.

Người khách hàng cân xong đống thóc, móc tiền trả. Những bao thóc nặng nghiêng vai bác nông phu lần lượt chất lên xe. Chiếc xe lam cũ kỹ phật   máy nổ ầm ầm, lắc lư chuyển bánh. Khói đen xịt bẩn cổng ngõ nhà bác. Cả bụi hoa giành giành đang vô tư bong nắng cũng vất vướng khốn khổ. Hương lộ của ngôi làng nhỏ  bụi bay mù mịt. Chiếc xe gục gặc bỏ lại bác nông phu đứng nhìn, mang theo những bao thóc ra đi. Những hạt thóc bàng hoàng, ứa lệ nói lời vĩnh biệt chia ly không ngờ.

Đi một ngày dài, rồi xe cũng tới nơi chốn chúng phải tới. Họ chuyền những bao thóc vào kho. Trong kho chứa hàng, tối thăm thẳm, những bao thóc lạ lẫm gặp nhau. Bây giờ chúng không còn hương trời thong thả của sân nắng phơi lúa nữa. Không còn bầu trời trong xanh và ngõ trúc với lũ gà con dáo dác chạy quanh. Có những bao thóc nằm nghiêm ngả trên chuyến xe hàng mấy ngày trời mới về tới đây. Có những bao thóc nằm đó lâu rồi. Tất cả cùng chung một số phận. Im lìm chờ đợi, không biết tương lai đi về đâu.

Trong cái âm u xa lạ, chúng dần biết nhau, khám phá ra những chân trời phiêu bạt của nhau. Trong đó có cả những tâm tình mà hạt thóc nào cũng giống nhau, đó là liên hệ giữa chúng và những người nông phu nghèo đã cấy trồng ra chúng. Từ những câu chuyện của những hạt thóc, người ta nghe được:

- Thế chị từ đâu đến đây?

- Tôi ở xa lắm, mãi miền trung đất đá.

- Ở đấy năm nay thế nào?

- Gian khổ lắm chị ơi, năm nay trời hạn hán. Hiu hắt. Cảnh vật tiêu điều. Chúng tôi sống sót được đến hôm nay là trải qua những tháng ngày khốn khổ. Trời nắng thế mà ông chủ chúng tôi đi vét từng gầu nước giữ cho chúng tôi sống. Chúng tôi xơ xác trong cái nghèo của một cánh đồng miền quê. Chúng tôi thương ông chủ như thương chính đời mình. Chúng tôi cho nhau sự sống. Sự sống của những nhánh lúa chúng tôi cũng là sự sống của ông chủ. Có những buổi chiều chúng tôi nghe ông chủ ngồi bên bờ đê lo âu : “Lạy Trời, xin thương chúng con. Trời cảnh năm nay cơ cực quá. Mùa màng mất hết chúng con lấy gì sống. Có khi năm nay chúng con lại đói mất thôi”.

Những hạt thóc thăm hỏi nhau. Hạt thóc nào cũng có những câu chuyện đời mình. Xuôi ngược từ vùng đất này, đất nọ, bây giờ người ta gom chúng về kho chứa hàng này. Hạt thóc nào trong tâm tư cũng nhớ người đã cấy trồng ra chúng. Tiếp câu chuyện của những hạt thóc, chúng lại hỏi thăm nhau:

- Thế còn chị thì sao?

- Chúng tôi về đến sân nhà ông chủ vào đầu tháng hạ. Cả ngõ quê thơm mùi rạ mới. Những hạt lúa đầu mùa được xay ra. Những hạt gạo trắng ngần chúng tôi chuyển mình thành hạt cơm. Bữa cơm chiều hôm đó ai cũng hân hoan. Nồi cơm bốc hương gạo thơm. Chúng tôi vui mừng đã trả ơn cho những tháng ngày ông chủ vất vả. Tôi đang chờ sắp đến phiên tôi được đổ vào cối xay thì có người đến mua chúng tôi. Họ đóng bao rồi chở chúng

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 234

Page 235: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

tôi đến đây. Chúng tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì. Chúng tôi ở đây lâu rồi. Không ai đến thăm hỏi chúng tôi. Không biết ông chủ chúng tôi bây giờ ra sao. Chắc là ông thương tiếc chúng tôi lắm. Gia đình ông bây giờ thế nào, chúng tôi không biết. Phần chúng tôi, chúng tôi đang băn khoăn chờ một định mệnh mới sắp xảy đến cho chúng tôi.

Rồi cái ngày định mệnh mới ấy đã đến.

Ầm ầm tiếng động cơ chuyển mình náo động kho hàng. Những sợi xích sắt siết vào nhau ghê rợn. Những bao thóc hoang mang hỏi nhau   bây giờ chúng bị phân tán đi đâu. Linh cảm cho chúng thấy một chuyến đi mang nhiều ly biệt đau đớn. Khi những dây cáp cột chúng thành từng khối lớn đem ra bờ sông thì chúng biết đây là chuyến đi mang nhiều đớn đau. Chúng không còn được ở bên nhau mà nói chuyện về quê hương của chúng, về những bàn chân lấm tay bùn đã cấy trồng ra chúng. Từ bến tầu ấy, chúng rời bỏ quê hương.

Ở nơi này khác xa với quê hương chúng. Tất cả khối thóc bị đổ xô vào một guồng máy khổng lồ. Chúng bị cuốn hút rối loạn vào nhau. Ào ào. Ầm ầm. Như một dòng sông thăm thẳm nuốt trọn chúng vào một vực tối mênh mông. Tất cả với tốc độ khủng khiếp. Những dòng điện cực mạnh lao vào nhau xé toang lớp vỏ trấu, chúng biến hình thành những hạt gạo trắng như một kẻ bị trấn lột nhanh với tốc độ quay cuồng không biết mình là ai.

Chung quanh chúng là những công nhân vô hồn, những nhân viên kiểm soát lạnh lùng. Chúng bị phân chia đồng đều, cân nhắc cẩn thật đóng vào bao. Những chiếc bao lạnh như mộ bia, cái nào cũng giống nhau không còn dấu vết tình cảm riêng tư. Những chiếc bao rất lạ không như những chiếc bao ở quê hương chúng. Ở quê hương chúng, những chiếc bao  truyền nối lại từ bố mẹ đến con cái, bác nông phu săn sóc, chỗ nào rách bác khâu vá, chúng đậm nét tình người. Ở đây, bao nào cũng giống nhau, sực mùi ẩm của kho chứa hàng và chất hoá học.

Bị đóng vào bao rồi chúng mới tức tưởi khám phá ra chính mình. Chúng bị bóc hết nguồn gốc và con người thật của mình. Trong thầm lặng câm nín, nghe như có tiếng khóc đau thương không cất lời được. “Hãy trả tôi về quê hương tôi. Hãy trả lại nguồn cội chúng tôi. Xin trả lại giá trị bằng mồ hôi của người đã thương yêu chúng tôi. Trả chúng tôi về với sự thật”.

Những chiếc bao đã đóng dấu sẵn chờ đợi chúng: Product of Thailand. Produit du Taiwan. Sản phẩm của Thailand. Gạo xuất cảng từ Taiwan. Từ bến tàu này qua bến tàu khác, bây giờ những hạt gạo ấy nằm im lìm trên quầy hàng ở Cali, San Francisco, New York… Người nghèo bao giờ cũng khổ và những gì dính líu tới người nghèo cũng thiệt thòi. Ngay những hạt gạo của người nghèo cũng không được gọi tên do người cấy trồng ra nó. Những hạt gạo ngậm ngùi nghĩ tới vất vả của bác nông phu mà bây giờ chúng bị tán đi. Đất nước chúng hẩm hiu, nên người ta phải sang tên đổi chủ. “Không ! chúng tôi là hạt gạo từ quê hương chúng tôi. Những bàn tay vất vả kia đã săn sóc chúng tôi, hãy trả cho chúng tôi tên gọi của chúng tôi, Việt Nam”.

Tính ra thời gian tôi ở nước ngoài cũng đã ba mươi năm. Thời gian tiếp tục đẩy cán cân về phía bên này, rút ngắn phía bên kia. Chả mấy lúc nữa, thời gian ở nước ngoài sẽ nhiều hơn, cán cân phía bên này sẽ dần dần dài thêm. Cứ như thế, nếu dựa vào tiêu chuẩn ở đâu nuôi mình nhiều, bầu trời nào cho mình nhiều hơi thở, nơi đó là quê hương thì tôi đang nhoà dần quê hương ở phía bên kia biển. Có người trở về chỉ để xem lại một dấu vết xa xưa. Nhiều người không còn liên hệ gia đình, họ chẳng còn muốn trở lại Việt  Nam. Vì trở lại để làm gì?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 235

Page 236: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Tôi trở lại, ruộng vườn vẫn xơ xác như xưa. Tầu cau, lá chuối vẫn nhẫn nại với đời sống của anh, của em, của gia đình. Thong thả, trời tháng tư vẫn oi bức trên con đường làng từ thủa xa xôi, cậu bé học trò miền quê. Ngày ấy, mùa lúa về, tôi tung tăng trên bờ đê với tuổi thơ hồn nhiên. Những hạt thóc trĩu nặng tình xóm làng. Ai cũng vui mùa lúa chín. Những bát cơm trắng. Gạo mới thơm hương, mềm và ngon. Hôm nay, tôi muốn tìm những kỷ niệm ấy nhưng không còn. Quê cũ vẫn là đất, là đường đi đó, nhưng người xưa khuất bóng nhiều rồi. Dân chúng bỏ làng ra đi tìm đất sống. Mảnh vườn xưa, cánh đồng cũ không ôm nổi lũ con, nên lũ con đành từ biệt xóm làng ra đi. Hôm nay tôi về đây đã là linh mục, tôi hỏi thăm những bác nông phu một thủa giống như ông tôi, bà tôi. Trong bữa cơm gia đình họ, tôi hỏi thăm:

- Nhớ ngày xưa tôi còn ở quê, ngày đó chúng ta trồng lúa thơm ngon lắm cơ mà. Sao bây giờ cơm gạo thô chứng như thế này.

- Dạ, thưa Cha, bây giờ chúng con phải cấy thứ lúa một năm hai vụ thì mới đủ ăn. Người đông mà đất chỉ có vậy. Đất bây giờ lại xấu quá. Cấy thứ gạo chỉ để xuất cảng thôi, không dám ăn.

Đã lâu rồi, ba mươi năm rồi còn gì. Tôi xa tuổi thơ. Những ngày đất có cánh cò bay chỉ là chuyện kể trong quá khứ thôi. Hôm nay không còn bóng con chim sẻ nhặt thóc rơi bên góc vườn. Một con cua đồng cũng khó tìm chỗ trú. Họ thả thuốc sâu giết hết. Bà ngoại tôi đã mất bốn mươi năm rồi còn gì. Xa quê hương, những hạt cơm bên Mỹ trắng nuột, mềm dẻo chứ không cứng như ở đây. Tôi đâu biết thế. Tôi đâu ăn những hạt gạo cứng này mà hiểu thân phận họ. Rồi lại ra đi. Trên chuyến bay, tôi ngó xuống cánh đồng thầm lặng bên dưới:

- Cấy thứ gạo tốt chỉ để xuất cảng thôi, không dám ăn.

Lạy Chúa,

Có những người nghèo họ không dám ăn sản phẩm chính tay họ làm ra. Ngày như ở quê hương con. Những hạt cơm con ăn ở hải ngoại có thể đến từ cánh đồng Việt  Nam, từ ruộng lúa Campuchia, đến từ những con người lầm than. Biết đâu đến từ chính anh em họ hàng của con.

Xin Chúa cho một ngày nào đó những hạt gạo kia không còn phải bùi ngùi vĩnh biệt người trồng ra nó. Và những người nghèo được hưởng dùng chính lai tác tay họ làm ra.

Khi con dâng lễ, con nâng lên tấm bánh. Nơi đó bánh đã thành thân xác của Chúa. Tấm bánh được nghiền nát bởi trăm nghìn hạt gạo. Những hạt gạo ấy có thể đến từ vùng đất quê rất nghèo. Mồ hôi và sức lao tác vất vả của những người nghèo ấy đã chung phần làm nên tấm Bánh Thánh, làm nên Thân Thể Chúa. Mỗi tấm bánh là một liên hệ giữa người với người. Mỗi tấm bánh nhắc nhở con về một thân phận làm người của những người nghèo. Xin cho con, mỗi khi dâng lễ, con nhớ đến nhiều thân phận của nhiều kiếp làm người khác nhau hơn trên mặt địa cầu này.

 

 

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 236

Page 237: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 90: MỘT LỐI ĐI

Tôi đến thủ đô nước Nga, sau những ngày không ngờ. Đến vùng đât, một thời vang bóng quyền uy. Tôi muốn đi tìm những viên ngọc lạ. Máy bay từ Bruxelles hạ cánh xuống phi trường Mátcơva. Nhìn qua cửa sổ, tôi biết mình đang xuống một vùng đất rất xa lạ, không quen biết một ai. Tôi biết mình đang đi tìm những chuyện rất có thể không ngờ xảy ra…

Điện Cẩm Linh, Mátcơva rất đẹp. Toàn thể khu trung tâm quyền lực vang bóng một thời là các đền thờ. Những đền thờ Chính Thống Giáo cao vút trên bầu trời xanh lơ. Tôi không ngờ có nhiều thánh giá như thế. Những thánh giá nạm vàng vô cùng rực rỡ. Phá hết những thánh giá này, không còn điện Cẩm Linh nữa. Ai đến trung tâm nước Nga bây giờ cũng là đến để chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật ấy. Giữa những thánh giá vàng xây cất từ thời các Nga Hoàng, giữa các đền thờ bằng mosaic tỷ mỉ vô vàn công trình nghệ thuật kia, tôi gặp một thánh giá rất thầm lặng. Trong những chuyện không ngờ, có một chuyện, tôi không ngờ nó lại đến độ không ngờ như thế…

Anh dẫn tôi thăm các cộng đoàn người Việt đi lao động Liên Xô. Rất nhiều người Việt không giấy tờ, không dám đi đường. Họ phải lẩn trốn. Người Việt tại Mátcơva lên đến hàng trăm ngàn người. Công an lảng vảng chung quanh các chung cư Người Việt để khám giấy, ăn tiền hối lộ. Những người dẫn đường đưa tôi đi kín đáo, dè dặt. Tôi cẩm thấy một bầu khí buồn nản, nặng nề. Vẫn còn u ám một thời ngộp thở. Trong ngôi nhà thờ duy nhất được mở cửa trong thời Sô Viết cũ. Anh nói với tôi:

- Đây là ngôi nhà thờ của ngoại giao đoàn Pháp.

Hôm nay, ngôi nhà thờ đã được tân trang lại rất nhiều. Không lớn. Khoảng vài trăm người là đầy chỗ. Anh nhìn chung quanh. Trong nhà thờ hơi tối. Chỉ có tôi và anh:

- Thỉnh thoảng con vẫn đến đây. Nhất là những lúc con nhớ về bố con.

Anh tâm sự với tôi như vậy. Tôi không biết anh bao nhiêu tuổi. Chắc vào lớp tuổi ngoài bốn mươi chăng ? Anh nói tiếp:

- Bố con có đạo, Cha ạ.

Tôi chỉ gặp anh trên đất Nga này. Anh là người lo sắp xếp cho tôi đến ban bí tích cho đồng bào Công Giáo đã lâu không có dịp xưng tội. Tôi xin tiếp câu chuyện anh đang tâm sự.

- Ngày xưa con được gởi qua học ở Liên Sô. Lúc ấy con là một thanh niên. Một sinh viên trẻ.

Kể tới đó. Tôi hình dung mấy mươi năm về trước. Một nước Nga còn là một Liên Sô vĩ đại cầm đầu cả khối Cộng Sản quốc tế. Tôi hình dung một siêu cường quốc với những rừng cờ búa liềm, những đoàn xe tăng, những tên lửa cực kỳ thông minh bắn rơi không biết bao nhiêu máy bay Mỹ. Và, người thanh niên đang đứng trước mặt tôi là ai mà được sang đây du học. Tôi vừa khâm phục, vừa thắc mắc. Anh ta là ai? Ai đề cử anh sang đây?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 237

Page 238: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Lúc ấy ông cụ thân sinh con giữ một vai trò lớn trong nhà nước. Ông gởi con qua đây du học.

Kể tới đó, tôi thoáng nhìn anh, nhận xét về một con người. Một người Cộng Sản? Con của một đảng viên? Dáng anh bình dị, ăn nói nhẹ nhàng. Anh là một người hiền từ.

- Lúc ấy con còn trẻ. Hoạ huần bố con qua Mátcơva họp. Bố con nhờ con chở bố tới ngôi nhà thờ này. Lúc ấy cả Mátcơva có ngôi nhà thờ này mở cửa mà thôi. Nhà thờ của bộ ngoại giao Pháp. Con đã không chở.

Nói tới đó, anh như nhớ về một thời rất xa. Và quả thế, nó đã xa xôi lắm rồi. Đã mấy mươi năm. Lúc Nga Sô còn đóng kín, bao trùm khắp đất nước những bước chân thầm lặng. Những con người đến đây là những bộ óc, lý tưởng cách mạng chất ngất. Những cuộc họp tối mật. Những chỉ thị của cấp lãnh đạo. Anh là con của một trong những người ấy sao?

- Con là thanh niên, một du học sinh trẻ. Con đã không chở bố con đến đây.

Tôi hơi suốt ruột. Cũng tò mò. Một đảng viên cao cấp có đạo sao? Tôi không chờ anh tiếp câu chuyện, tôi hỏi:

- Thế ông cụ có đến không?

- Có Cha ạ. Bố vẫn đến. Con biết.

Bây giờ đến lượt tôi. Câu trả lời nhẹ nhàng của ah đưa tôi về hình ảnh cũng đã rất xa xưa đó. Ông cụ không còn nữa. Kể đến thân phận ông cụ. Giọng anh nghẹn ngào, mang nỗi buồn nhẹ và xót xa. Cái xót xa đến từ một ước mơ không còn của kẻ thân sinh ra mình. Đến lượt tôi tìm trong trí tưởng tượng ngày xưa ấy với dáng một người đàn ông kín đáo đến đây.

Năm vừa qua anh về Việt Nam bốc mộ ông cụ. Anh đưa tôi xem tấm hình bốc mộ ấy. Anh kể:

- Bố con chết mà trên tay cầm cây thánh giá.

Theo tôi hiểu, ngày bố chết anh vẫn đang du học bên Liên Sô này. An chỉ biết cây thánh giá trên ngực ông cụ khi đào mộ, rỡ quan tài ra. Xác chết lâu ngày, không còn thịt, bộ xương sườn, xương lồng ngực không còn gì chống đỡ nên xẹp xuống. Cây thánh giá cầm trên tay, trên lồng ngực cũng xẹp xuống theo, chân cây thánh như rơi đâm xiên qua những cành xương ngực cắm xuống khoảng trống của con tim. Ngày về đào mộ anh mới nhìn thấy cây thánh giá âm thầm dưới lòng đất bằng ấy năm trời. Nếu không rỡ quan tài ra, chắc chẳng bao giờ anh biết bố mình chết như thế. Lúc đầu câu chuyện anh có nói, những ngày tháng đó anh là một du học sinh trẻ, một người được gởi đến một trong những trung tâm văn hoá và quyền lực thế giới do địa vị của bố mình. Anh không cần biết tôn giáo. Anh lớn lên trong bầu không khí như thế. “Con đã không chở bố con tới đây”. Tôi hiểu phần nào tâm trạng anh lúc này. Lúc tuổi đời đã có chút băn khoăn về những cuộc ra đi không trở lại. Ngày ấy, bố anh là một đảng viên cao cấp. Chỉ khi được đề cử đi họp ở đây mới có cơ hội tham quan ghé vào chốn này. Một khoảnh thời gian rất hiếm hoi.

Qua câu chuyện của anh, tôi hiểu, vì chức vụ, ngày ở quê hương ông cụ không đến nhà thờ. Bây giờ thương bố. Anh im lặng nhìn chung quanh giáo đường. Anh nói:

- Có những lúc buồn, con đến ngồi đây một mình. Nhớ về ngày xưa còn bố. Con thấy như bố con vẫn còn quanh quất đâu đây. Một người đàn ông gầy gò, mặc bộ đồ xám đậm, cứ tìm cách náu vào những cột, những tượng thánh trong nhà thờ này.

Anh cũng là người tiễn tôi ra phi trường ngày tôi trở về Mỹ. Máy bay lấy hết sức cất mình lên. Tôi lên cao. Tất cả ở dưới kia nhỏ dần. Anh cũng nhỏ dần, ở dưới kia, anh âm thầm trên một con đường. Tôi nhìn qua vuông cửa sổ nhỏ của máy bay. Không thấy gì. Cuộc từ giã có thể không bao

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 238

Page 239: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

giờ gặp lại nhau. Mỗi người một con đường. Anh có đang tìm một nơi nào đó để ẩn náu không? Náu bão tố để giữ niềm tin? Sau những phi tượng trong ngôi nhà thờ cũ? Náu ơn sủng để giữ lương tâm. Trong tấm hình cải mộ của bố anh? Hay anh đang ẩn náu bằng chính cuộc đời?

Cũng giống bố anh, mỗi người đều có một con đường, một lối đi, một chổ ẩn náu.

Tôi viết những dòng này cũng để ghi nhớ nhân chuyến đi sau cùng ra khỏi cuộc đời,

ngày 20.1.2005, của chị Anne Hàm Tiếu, em gái Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê

Nguyễn Văn Thuận.

Đức Hồng Y đã đến thăm đồng bào Việt lao động ở đây, chuyến đi xa sau cùng

trước khi biết mình bị bệnh. Anh quý Đức Hồng Y cách đặc biệt. Theo anh kể, bố anh

đã gặp Đức Hồng Y khi Ngài ra khỏi tù ở Hà Nội. Qua liên hệ này, chị Hàm Tiếu đã liên

lạc và chịu phí tổn cho tôi trong chuyến đi mục vụ này.

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 91: NHẶT CÁ

Trong mẻ lưới cuộc đời, tôi bắt được nhiều thứ cá. Tôi buông lưới kéo lên. Rác rưởi, cá, đất sỏi, vỏ dừa. Người ngư phủ nào cũng cần ngồi nhặt cá. Đời tôi quá bận rộn, tôi không có thời giờ. Tôi cần gấp gáp thả lưới. Tôi chỉ muốn kéo lên. Đổ cá đó, xuống chợ đời tiếp tục thả. Vì đời quá nhiều người thả lưới. Tôi sợ sẽ đi về đâu cuối ngày khi chung quanh tôi có kẻ thả lưới suốt đêm.

Tôi phải hối hả. Tôi cần gấp gáp. Tôi không có giờ ngồi bên bờ nhặt cá. Tôi để đó, lẫn lộn những gì kéo lên từ cuộc đời.

“Con thương, má phải về trễ đêm nay. Thức ăn má để trong tủ. Con hấp nóng rồi mấy chị em

ăn trước nhé”.

Tôi vẫn thường để lại những lời yêu thương như thế. Rồi con tôi lớn dần. Chúng lớn không ngờ. Những đêm về trễ, tôi nhìn con ngủ. Cúi xuống  hôn con. Mẹ ước ao có giờ cho con, nhưng mẹ quá bận rộn. Lòng tôi chùng xuống một chút se sắt. Con ngủ, con không biết mẹ mình sau một ngày thả lưới quá mệt, đang hôn con trong khoảnh thời gian, mà đối với con chẳng ý nghĩa gì, vì con đang ngủ. Tôi gắn tên cửa tủ lạnh, tôi gài trên tay cầm phộn những lời căn dặn yêu thương. “Con thương, má phải về trễ đêm nay. Thức ăn má để trong tủ. Con hấp nóng rồi mấy chị em ăn trước nhé”.

Rồi con tôi cứ lớn lên, không ngờ.

Chồng tôi cũng thế. Anh phải thả lưới cuộc đời. Như tâm sự của anh viết trong ánh mắt, một lần tôi đọc. Tôi thấy trong ánh mắt anh, như nói trong tâm trạng băn khoăn. Cũng chùng xuống một chút se sắt như tôi đối với con.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 239

Page 240: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Em yêu dấu. Ngày sinh nhật em. Em yêu dấu. Ngày chúng ta thành hôn. Em yêu dấu. Đáng nhẽ anh phải đưa em đi nghỉ hè, đáng nhẽ. Nhưng anh quá bận. Cuối tuần này vắng anh nhé. Công việc quá nhiều. Một project đang dang dở. Em yêu dấu.

Ai cũng bận rộn, hối hả thả lưới cuộc đời. Tôi chỉ hơi buồn mỗi khi vắng anh như thế. Có buồn, nhưng tôi im lặng chịu đựng vì tôi cũng bận rộn như anh. Cuộc đời là những rượt bắt không ngừng. Chung quanh tôi là những bàn chân hối hả.

“Con của ba! Ba tặng con món quà ngày sinh nhật”.

Đã có lần chúng tôi nói với nhau. Mình chẳng có thời giờ cho con. Thôi thì bù trừ cho chúng, chúng muốn gì em cứ mua. Chúng tôi mua quà cho con như một yêu thương đền bù. Chúng tôi lấy đồ chơi thay cho nụ hôn ôm con, lúc chúng còn bé. Chúng tôi lấy tiền bạc, quà tặng thau cho những bữa cơm chiều vắng bố, vắng mẹ, khi chúng đã lớn. Chúng tôi cũng đối xử với nhau như thế. Anh vội vã tạt vào shop mua cho tôi chiếc ví da, thay vì những phút phải đi bên nhau tâm sự. Thời gian cứ trôi xuôi lạnh lùng. Tôi cứ thả lưới và nặng nề kéo lên.

Người ngư phủ ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ. Sau mỗi mẻ lưới kéo, ông ngồi kiên nhẫn, chậm rãi vứt cá xấu đi.

Tôi không giống người ngư phủ. Tôi có nghe mùi tanh của một loài cá ươn. Tôi biết có rác, có đỉa, có củi mục trong mẻ cá vừa kéo. Nhưng tôi không có thời giờ.

Năm tháng qua đi không ngờ. Con tôi bây giờ cũng như bày cá đến tuổi lớn. Chúng dần dần bỏ đến ao, tìm đường ra sông cái. Vào đại học rồi đi xa. Đôi khi tôi thẫn thờ lần về quá khứ. Những tấm ảnh con tôi lúc lên năm, lên ba. Chỉ nhớ và thương.

Rồi một ngày chồng tôi cũng như tôi, không biết những tấm hình năm xưa chụp chung bây giờ ở đâu. Trong mẻ lưới cuộc đời, anh cũng chẳng có giờ ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu quăng đi. Đến một ngày tôi linh cảm bơ vơ một nỗi lo âu, mệt mỏi và chán nản. Đó là ngày tôi vô tình nghe mẩu đối thoại:

- I love you.

- I love you too.

Chồng tôi bảo em không nên lo. Không phải chuyện tình cảm. Chỉ là công việc làm ăn của anh. Anh tiếp tục thả lưới và cứ hì hục kéo lên. Tất cả, cá tốt lẫn cá xấu. Tôi không biết rõ mình. Nhưng trong tôi dường như thấy một chút hoang vu nào đó đi về. Nỗi hoang vu khó định nghĩa. Về phía mẻ lưới của tôi, lần cuối tôi nói với người đàn ông không phải chồng tôi:

- Anh gởi cho em về hộp thư này.

Tôi không muốn chuyện gì xảy ra cho gia đình. Tôi muốn gìn giữ hạnh phúc. Không muốn chồng tôi hiểu lầm. Tôi có hộp thư riêng, một P.O.Box. Tất cả chỉ là công việc làm ăn. Những gì tôi lý luận cũng giống chồng tôi. Và tôi tiếp tục thả lưới. Tiếp tục kéo lên tất cả. Chúng tôi giống nhau là không ai có giờ ngồi bên bờ nhặt cá xấu vứt đi. Mơ hồ lãng đãng, tôi không phân biệt được cá nào lành. Tôi yêu mầu sắc của những con cá độc. Tôi không hiểu tình yêu hôn nhân chúng tôi có tiếng thở dài từ bao giờ. Chỉ biết hôm nay, tiếng thở dài quá mệt mỏi.

Thời gian cứ trôi, rồi đến một ngày. Những con cá ươn sình lên mùi hôi. Rác chung với cá. Mảnh chai, vỏ dừa. Những con đỉa và những càng cua gẫy nát. Tốt và xấu lẫn lộn. Những con cá lành bị nhiễm độc.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 240

Page 241: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Khi chiều tàn mệt mỏi. Lúc hoàng hôn rủ nắng xuôi mùa. Nhưng cơn mưa lộp độp kéo về, cũng là lúc chúng tôi mất nhau.

Chồng tôi ra đi với người ấy.

Tôi quay về tấm lưới cuộc đời, xuôi theo loài cá khác.

Nhìn lại những bến bờ. Lời Kinh Thánh như một nốt nhạc than trầm:

Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ   cá. Khi lưới đầy,

người ta kéo lên bãi, rồi ngồi chặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế

cũng xảy ra như vậy. Các thiên thần cũng sẽ xuất hiện, và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người

công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng  (Mt. 13:47-50).

Hạnh phúc không chỉ giống như chiếc lưới thả xuống biển rồi kéo lên tất cả. Hạnh phúc hệ tại ngồi bên bờ, nhặt cá xấu vứt đi. Tôi để con tôi vào đời giống tôi. Chúng đã lớn lên, học nơi tôi những mẻ lưới hối hả. Tôi đã từng dạy chúng phải nhanh chân kẻo thua trễ người ta. Tôi không chỉ cho chúng ngồi bên bờ, sau mỗi mẻ lưới, nhìn kỹ, nhặt cá xấu vất đi.

Chúng đang thả lưới. Đời đang hối hả. Con tôi có sẽ tự ngồi bên bờ lựa cá tốt cho vào giỏ, cá xấu thì vất đi? Hay chúng sẽ như tôi, hối hả kéo lưới, tiếp tục gắn trên cửa tủ lời nhắn với các con của chúng: “Con ơi, má thương con thật nhiều. Má phải về trễ đêm nay”.

Người ta bận rộn thả lưới.

Chẳng mấy ai có giờ ngồi bên bờ xem mẻ lưới đời mình.

Biết đâu ngày nào,  người chồng của con gái tôi cũng có những lời tương tự với nó: Em yêu dấu. Ngày sinh nhật em. Em yêu dấu. Ngày chúng ta thành hôn. Em yêu dấu. Đáng nhẽ anh phải đưa em đi nghỉ hè, đáng nhẽ.. Nhưng anh quá bận. Cuối tuần này vắng anh nhé. Công việc quá nhiều. Một Project anh đang dang dở.

Bạn thân mến,

Đoản khúc trên đây thật buồn. Nhưng dường như đang xảy ra. Người ta chỉ hối hả thả lưới. Ai cũng sợ ngồi bên bờ mất thời gian. Bạn cứ ngồi bên bờ, với Chúa trong những ngày tĩnh tâm, bạn sẽ thấy những gì bạn đang không thấy. Và rồi, biết đâu bạn lại chẳng hạnh phúc nối tiếc vì đã không sớm ngồi bên bờ cuộc đời, thong thả nhìn những mẻ lưới đời trôi.

 Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 92: TẤM BÁNH NHỎ

Chỉ là tấm bánh nhỏ thôi

Trong đó có bầu trời

Có biển khơi.

Chỉ là tấm bánh nhỏ

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 241

Page 242: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Chứa cả một chiều gió

Một vùng đồi núi bao la.

Là tấm bánh nhỏ

Mà ở đó có bài trường ca vũ trụ.

Mà ở đó có hoa xuân - nắng hạ

       đông tàn -  cuối nẻo hừng thu.

Chỉ là tấm bánh nhỏ

Sao quá đỗi bao la.

Tôi gặp ở đó nắng trên ngàn –

       về trở gió cho rừng thu thay lá.

Tôi gặp ở đó nghìn triệu bài ca –

       Gió đông về cho tuyết phủ trắng xoá thời gian.

Tôi gặp ở đó –

       từ hừng đông bình minh vũ trụ thành hình.

Tôi gặp ở đó những mùa xuân.

Ôi! Sao quá đỗi, quá xinh.

Tôi gặp ở đó những mùa hạ.

Ôi! sao quá đỗi, quá tình.

Chỉ là chiếc bánh nhỏ

Mà ở đó có một biển cả.

Có ngàn ngàn triệu triệu con sông –

       cứ muôn đời cứ mãi mãi thiết tha.

Chỉ là tấm bánh nhỏ

Mà ở đó

Muôn nghìn triệu những vì sao.

Những vì sao lấp lánh ở rất cao.

Đêm nay con ngồi trước nhà chầu Chúa

Trước mặt là tấm bánh nhỏ

Từ triệu năm của nghìn xưa thế giới

Từ triệu năm của nghìn sau diệu vợi

Vỏn vẹn trong lòng tấm bánh nhỏ

Tâm tư con làm sao hiểu thấu

Những nhiệm mầu

Những cao sâu

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 242

Page 243: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Tâm tư con làm sao hiểu thấu

Cuộc đời con sẽ xuôi tay về đâu

Tất cả vỏn vẹn trong lòng tấm bánh nhỏ

Ở đó

Trong hình hài tấm bánh nhỏ

Là Chúa

Là mầu nhiệm nhập thể Chúa xuống thế làm người

Con không ngồi trầm tư với chiếc bánh nhỏ

Ở đó

Con nói chuyện với cả sông dài từ nghìn xưa

Cựu Ước vọng lại

Con nghe chuyện tình sử cứu độ thập giá

       từ nghìn sau Tân Ước đi tới

Đêm nay thinh lặng mà sao quá đỗi chơi vơi

Chúa ơi,

Vắng vẻ mà sao bản hoà tấu quá đỗi thênh thang

Qúa đỗi mênh mang

Chỉ là tấm bánh nhỏ

Ôi! Lậy Chúa,

Làm sao con tin thật được Chúa đang ở đó?

Với con.

LÀM SAO NGHE ĐƯỢC TIẾNG CHÚA

Đây là câu hỏi khó chấm dứt vì bao giờ mới có câu trả lời trọn vẹn được. Chúa là vô biên, Chúa ở khắp nơi, Chúa là chủ thời gian, nên tiếng Chúa cũng sẽ mãi vang trong không gian, thời gian và mọi hoàn cảnh. Chúa nhắc nhở qua biến cố. Chúa nói qua lương tâm. Dáng Chúa trong mây trời, hình Chúa trong sắc hoa. Chúa ẩn bên dòng nước. Trong sa mạc. Trong lời dạy của Giáo Hội.

- Nhưng làm sao Cha biết có ơn gọi đi tu? Vì con cũng muốn biết con có ơn gọi đi tu hay không.

Khi bạn đặt những câu hỏi như thế, bạn rất chân thành. Đôi khi là khắc khoải của sự tìm kiếm. Nếu tôi tin là tôi “nghe” được tiếng Chúa gọi, tôi phải trả lời bạn. Nếu không, tôi nói sao về những điều mình xác tín.

Bạn thân mến, đã đôi ba lần tôi cố trả lời những thao thức của bạn:

- TÌM Ý CHÚA, đề tài này trong cuốn Mùa Chay và Con Sâu Bướm. Tôi đưa một vài nguyên tắc chuẩn bị cho việc lắng nghe.

- TIẾNG GỌI BÊN RỪNG THU, bài suy niệm cũng trong cuốn sách trên, tôi viết dưới hình thức thi ca, một kinh nghiệm thiêng liêng qua cầu nguyện, tĩnh tâm và dấu chỉ tiếng Chúa là sự bình an trong tâm hồn.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 243

Page 244: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- ƠN GỌI, đoản khúc 76 trong cuốn này, bạn vừa đọc ở phần đầu tập sách. Tôi nói đến nhận định tiếng Chúa qua cầu nguyện, tin tưởng. Ơn thánh không cất nhắc khó khăn nhưng cho niềm xác tín.

- TẤM BÁNH NHỎ. Đoản khúc bạn đang đọc đây. Bây giờ là lần tứ tư. Tôi giữ im tiếng gọi này 27 năm qua. Chuyện xảy ra vào mùa hè năm 1979.

Sau câu chuyện trong TIẾNG GỌI BÊN RỪNG THU, tôi tin tưởng vào ơn gọi linh mục của mình. Tôi lấy lại được niềm xác tín.

Sự yếu đuối của con người là một trường ca. Bóng tối trên đường là một cánh đồng. Ngày nào còn hơi thở ta còn vấn đề. Nhưng rồi, tôi thấy đời luôn luôn thi vị. Tất cả cho dù xót xa, hay hạnh phúc, đều là niềm khám phá về cuộc sống. Có thể tôi chưa thấy những con đường thật là tăm tối chăng. Nên tôi chưa thấy những vết thương đau như nhiều người để tuyệt vọng nói rằng, xót xa của cuộc sống không có gì để khám phá.

Tôi đã viết ở đoản khúc ƠN GỌI rằng:

Khi bạn hỏi làm sao tôi biết Chúa gọi, là chuyện riêng tư. Tôi không biết trả lời bạn ra sao cho dễ dàng. Nếu trả lời theo ngôn ngữ những sách tu đức, thì tôi không chắc mình biết những điều mình học. Nếu trả lời bằng chuyện đời mình đã đi qua thì tôi lúng túng vì đó là chuyện riêng và không biết bắt đầu thế nào. Trả lời bằng những gì mình đã đi qua thì nó có những vụng về của nó, vì nó riêng tư, nhưng những gì mình đã đi qua thì mình biết rõ hơn.

Chúa nói bằng ngôn ngữ? Ngôn ngữ của Chúa nói với chúng ta rất riêng. “Người chăn chiên gọi tên từng con một mà đưa chúng ra ngoài” (Jn. 10:3).

Câu chuyện TIẾNG GỌI BÊN RỪNG THU, là một cuộc tĩnh tâm xảy ra ở Âu Châu. Xác định ơn gọi mình, rồi tôi qua Mỹ. Qua Mỹ, tôi lại phân vân về ơn gọi. Làm sao biết Chúa gọi? Nếu đấy chỉ là ý tưởng của mình thì sao?

Vào những ngày này, thập niên 1978-1980, Việt Nam đang đói, nhiều người phải ăn bo bo. Với bẩy đứa em còn lại với mẹ. Một người mẹ quê sống vào tiền  lương lính của chồng. Làm sao nuôi các con? Bố là “ngụy”. Trách nhiệm người con cả đã vượt biên ra đi? Nếu Chúa hiện ra nói rõ, tôi có ơn gọi đi tu. Tôi sẽ an tâm. Nhưng Chúa không hiện ra. Chúa nói qua tâm hồn. Mà tâm hồn mình, lấy gì làm bảo chứng? Vào tu, rồi vài năm Chúa không gọi, tôi không dang dở học hành sao?

Tại sao tôi không kiếm mảnh bằng kỹ sư? Nếu Chúa gọi, vừa là linh mục vừa là kỹ thông thái, không phải lý tưởng sao. Từng đêm suy nghĩ. Lý lẽ rất đúng. Cần một mảnh bằng. Thương mẹ bên kia biển, hết sóng gió nào mẹ đang trải qua. Có những hoàng hôn rất ảm đạm của người vợ lính sau chiến tranh. Có những ánh đèn nhà nguyện leo lét. Nhưng trước Thánh Thể Chúa trong nhà nguyện với ánh đèn ấy, tôi không bình an khi quyết định ra đi kiếm mảnh bằng.

Nếu Chúa gọi, trở lại tu đâu có sao? Con đường ấy chắc chắn hơn vì đã nắm trong tay một mảnh đời. Bây giờ theo tiếng gọi, có đúng không? Sóng gió nào đang xô dạt bên kia biển nơi quê mẹ và các em. Cuộc đời của bố. Một bóng chiều. Nếu Chúa không gọi thì sao? Liệu đời mình có dang dở?

Nhớ lại kinh nghiệm những ngày TIẾNG GỌI BÊN RỪNG THU. Chỉ còn con đường cuối là xin lòng thương xót Chúa nói rõ hơn.

Mùa hè năm 1979

Cả năm học, mong đến hè đi làm kiếm tiền gởi về giúp mẹ và các em. Về xứ đạo. Xin đi làm. Với student visa, không được phép. Bấy giờ tôi mới biết luật lệ xứ sở này. Bao nhiều trong mỗi mùa hè, tan nhẹ.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 244

Page 245: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Tôi về một họ đạo vùng lúa mì Kansas. Một tiểu bang toàn cánh đồng, không sông ngòi, không núi đồi. Trời mùa hè, tám giờ tối đường đèn vẫn chưa lên. Một thứ ánh mặt trời chiều, cho dù mặt trời đã lặn sau những cánh đồng lúa mì, bầu trời vẫn sáng. Tiểu bang Kansas rất flat. Xứ đạo miền quê. Chỗ nào cũng là những con đường xuyên cánh đồng. Nếu đứng bên ruộng lúa, hương lúa mì vào ngày mùa sẽ thơm nức. Cánh đồng chạy dài mãi về phía bên kia. Rất thanh bình và êm ả. Nhưng tiếng lúa rì rào, những con đường làng kia chỉ thanh bình với người dân bản xứ. Nó có thể là nỗi rất chán cho những người biết đây không có ai là thân nhân của mình. Một vùng quê tỉnh lẻ.

Cha già Bill Vogel nay đã chết rồi.

Mùa hè năm học đầu tiên về xứ Mỹ. Cái gì cũng lạ. Không nói được sinh ngữ. Đó là những tháng ngày dài. Cha già nhờ tôi đưa Mình Thánh cho những người chưa phải vào nursing home, nhưng không đi lễ được. Chưa biết lái xe. Xứ đạo nhỏ. Chịu khó đi một vòng là xong hết. Mặt trời lặn. Nắng chiều hoàng hôn và những side walk. Tôi đem Mình Thánh Chúa, bước đi trên những side walk của buổi chiều hoàng hôn này.

Chính buổi chiều này mà tôi muốn trả lời bạn bằng những dòng sau đây.

Không biết tôi đi trên đường như thế đã được bao lâu. Lúc tôi đem hộp Mình Thánh trong túi áo ra nhìn, tôi không biết mình đã bước những bước chân vô hồn qua bao lối ngõ. Tôi đi qua phố. Qua nhà. Qua những con đường. Chỗ nào cũng không thấy niềm vui. Bây giờ, thỉnh thoảng gặp những người Việt mới qua, họ nhớ nhà. Thậm chí có người muốn quay về. Đấy là bây giờ chỗ nào cũng có cộng đoàn Việt Nam đông đảo. Huống hồ ba mươi năm trước, một mình tôi trong ngôi làng nhỏ ấy, một tỉnh lẻ miền quê xa xôi của Bắc Mỹ. Đối với người bản xứ, đó là một chiều thanh bình, con họ đong đưa bên chiếc ghế xích đu. Vườn cỏ xanh mướt. Quê làng tôi không như thế. Chỗ nào cũng là xình, cống rãnh. Ở đây vườn nhà sạch mướt. Hoa hồng rất to. Hàng rào trắng đẹp hơn biết bao lần chiếc cửa nhà tôi. Nhưng tôi không thấy đẹp.

- Sao cuộc đời có những bất công vậy Chúa?

- Tại sao có đất nước sinh ra may mắn, có quê hương đói khổ lầm than?

Chúa không trả lời.

Tôi mở chiếc hộp nhỏ. Bánh Thánh trong chiếc hộp chẳng có gì đặc biệt. Chỉ là tấm bánh nhỏ vô hồn. Tôi có thể búng nhẹ, chúng rơi xuống lề đường, không ai nhặt.

- Đây là Mình Thánh Chúa?

- Đây là Thiên Chúa?

- Có thật Thiên Chúa hiện diện trong tấm bánh này?

Những câu hỏi như thế quen rồi. Ai cũng trả lời được. Tôi có tin không? Tôi phải tin chứ: Tôi trả lời là tôi tin. Nhưng sao lời tin quá tầm thường. Tôi không có một cảm xúc băn khoăn. Nó là niềm tin tôi thuộc lòng như vậy. Làm sao có chuyện Thiên Chúa thật sự hiện diện ở đây? Nó mơ hồ. Thiên Chúa là ai?

Tôi đi qua phố. Qua nhà. Tôi nghĩ đến quê, không biết mẹ và các em ra sao. Tôi nhớ nhà. Tôi thương bố. Tôi thấy mình lang thang, đời sẽ đưa tôi về đâu.

Nhìn tấm Bánh Thánh, tôi cứ hỏi: “Có tin không?” Tôi đều trả lời: Tin. Nhưng linh cảm cho tôi biết có gì không ổn. Cho đến một lúc, tôi tự hỏi mình, hay Chúa hỏi tôi, tôi không rõ, nhưng khi câu hỏi đến từ chiều sâu:

                                      Do you REALLY believe?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 245

Page 246: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Tôi thấy không dễ trả lời. Vì dường như sau tiếng THẬT SỰ tin không, sẽ có chuyện gì đó không lành xảy ra. Tôi lưỡng lự, thận trọng hơn. Nói là tin thì tôi tin. Nhưng THẬT SỰ tin? Tôi thấy như có chuyện không đơn giản.

Nếu thực sự tin, thì đây là AI?

Có phải Thiên Chúa thật không?

Nếu là Thiên Chúa thì sao?

Bầu trời tháng hè, như tôi đã nói, tám giờ tối vẫn có thể chơi banh. Trời sáng lắm. Nhưng vào giờ này không còn một bóng mây. Trời rất cao. Cái cao mênh mông ấy vừa làm cho trời bát ngát bao la, uy hùng, nhưng cũng đồng thời làm ta rơi vào vùng không gian xám rất nặng nề. Càng mênh mông, càng cao, thì vùng xám im lặng ấy càng làm ta chìm xuống trong cuộc đời. Tôi nhìn tấm bánh trên tay cứ hỏi mình:

- Có thật đây là Thiên Chúa không?

Không có câu trả lời rõ. Nếu là Thiên Chúa, thì bầu trời mênh mông vô cùng tận kia đang trong bàn tay tôi. Người là Thiên Chúa, là CREATOR. Tôi thấy lãng đãng một điều gì đó rất huyền bí.

Tôi không được phép đi làm hè. Tôi đang nghĩ đến vài trăm đô. Nếu tôi chỉ được một chân làm hè cũng đã vui rồi. Huống chi dám so sánh với những người bản xứ kia, kìa căn nhà của họ, kìa vườn cỏ xanh và đám hoa hồng. Họ giầu có quá. Tôi nhìn lên bầu trời. Có thật đây là CREATOR? Có thật đây là Thiên Chúa, Đấng dựng nên bầu trời kia?

Căn nhà kia là gì so với thành phố này? Thành phố này là gì so với New York? Nếu đem Tokyo, London, New York góp lại, sẽ có bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu? Thoáng qua là một con toán. Tôi lại nhìn lên bầu trời. Cao quá. Rộng quá. Tấm bánh trên tay tôi có thật là Thiên Chúa không ?

Nếu đem ba thành phố ấy so với trái đất này, nó có là chi. Trái đất này giầu có quá, bao nhiêu châu báu. Nhưng so với vũ trụ thì sao? Tôi lại nhìn bầu trời, quá đỗi mênh mông. Vô cùng tận. Nó đi về đâu cuối chân trời kia? Không gian là gì? Vũ trụ là gì? Ai là CREATOR?

- Có thật đây là ĐẤNG TẠO HOÁ?

- Do you REALLY believe?

Dường như tôi thấy hơi rộn người. Nếu THẬT SỰ tin, tôi trả lời làm sao vấn đề là NGƯỜI ĐÓ đang nằm im trong bàn tay tôi?

Tôi không dám trả lời ngay. Vì sau câu trả lời REALLY tin kia, một loạt thách thức sẽ ập đến và tôi sẽ phải đối diện. Tôi linh cảm một bàng hoàng không im lặng như tấm  bánh kia đâu. Im lặng của tấm bánh không là im lặng quê mùa. Một im lặng bùng vỡ không gì đỡ nổi. Tôi hỏi lòng tôi:

- Do you REALLY believe?

Tôi im lặng.

Lúc đó tôi hỏi lòng tôi bằng câu hỏi tiếng Anh này.

Tôi phải đem Mình Thánh cho những người già đang đợi tôi. Tôi cất chiếc hộp vào túi áo. Bước đi.

Tôi lại đi qua đường. Qua cổng. Qua nhà. Trong tôi bây giờ hỗn độn. Bừng bừng một loạt những thách thức về câu hỏi kia. Gió mùa hè Kansas, ai ở tiểu bang này thì biết, hừng hực cho dù vào ban đêm. Trời tối hơn. Những chiếc vòi tưới cỏ xịt nước ướt từng khúc đường side walk.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 246

Page 247: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Lúc tôi vào nhà, ông ngồi trên xe lăn đã sẵn sàng nhận Mình Thánh. Bà cụ đứng bên xe, cạnh ông. Tôi không nói được tiếng Anh nhiều, không dễ dàng nói chuyện. Ông hiểu điều đó. Qua những ngập ngừng của tôi, ông bà biết một người ngoại quốc, họ cảm thông. Tôi biết ông bà muốn nói nhiều hơn. Căn nhà nhỏ, hai ông bà sống với nhau tuổi già. Tôi rất ngại khi phải nói. Họ đọc được ngại ngùng của tôi. Ông chỉ nói một câu ngắn. Nhưng bàn tay ông nói thay lời. Bàn tay một người già, gầy, hơi lạnh. Ông thấy tôi sắp từ giã, bàn tau già nua kia, cố cầm chặt tay tôi. Ông nhìn tôi thiết tha, rồi nói như với cả tấm lòng:

- We need you.

Tôi từ giã, bước ra cổng. Ba tiếng kia vọng lên. Ánh mắt và cái giữ tay rất chặt. Tôi hiểu ngay, Chúa cần có người mang Mình Thánh cho ông. Rất nhiều tâm hồn đang cần các bí tích. Không có tôi thì người khác. Nhưng câu chuyện ơn gọi kia. Câu chuyện linh mục. Tôi không  thể nói không có tôi thì người khác là linh mục cũng được. Nếu Chúa gọi tôi là linh mục thì sao? Ơn gọi là câu chuyện một con người chứ không là công việc của một con người.

Lúc về đến city hall, sắp qua con đường Broadway, tôi thấy người ta xếp hàng chờ vào xem ciné. Không ai trong hàng người kia biết tôi vừa kiệu Mình Thánh Chúa qua đường, qua nhà, qua phố. Tôi đã từng tham dự kiệu Mình Thánh ở nhà thờ, ở quê xưa. Nhưng chiều nay tôi đang kiệu Mình Thánh ngang qua cuộc đời. Kiệu Mình Thánh ở nhà thờ, có nến, có hoa, có trang trí kiệu, có nhiều thứ lắm. Còn tôi, chiều nay kiệu Mình Thánh chẳng ai biết. Trong số những người xếp hàng chờ ciné kia đâu ai biết tôi là ai. Họ không biết những gì đang xảy ra. Họ không biết Thiên Chúa đang trong túi áo tôi.

Làm sao tôi có  thể vì mấy trăm đô la, làm sao tôi có thể đi kiếm mảnh bằng mà phân vân với ơn gọi làm linh mục được. Là linh mục, khi cử hành thánh lễ, Thiên Chúa hiện diện trong bàn tay tôi. Hôm nay, người ta nói nhiều về nhân tính con người của linh mục. Họ không đề cao linh mục là Alter Christus nữa. Nhưng thật sự linh mục, ngoài nhân tính tội lỗi và yếu đuối kia. Ơn gọi linh mục vẫn là một huyền  nhiệm không trả lời được.

Ơn gọi linh mục vẫn là một chiều sâu ngoài tầm hiểu biết của con người.

Làm sao Thiên Chúa thực sự trong tấm bánh nhỏ qua thánh lễ linh mục cử hành? Một CREATOR của trời và đất, của vũ trụ.

Nếu hiểu được phần nào chiều kích này, linh mục không thể đánh mất được ơn gọi của mình. Nó quá cao cả. Không vì một lý do nào để mất ơn gọi này được. Họ phải bảo vệ với tất cả kinh nghiệm và niềm vui. Và họ không thể không khiêm nhường mà lo lắng vì làm sao Thiên Chúa lại cho họ ơn gọi như thế.

Trong căn phòng nhà xứ, một mình tôi về đến nhà. Tôi vừa đi kiệu Thánh Thể. Ơn gọi linh mục lại như hồng ân sáng lên trong cơn mù tăm tối của phân vân. Một cảm giác giống như ngày tôi ở tu viện Solei Mont bên Bỉ, với TIẾNG GỌI BÊN RỪNG THU. Tôi thấy yêu cuộc đời linh mục. Tôi ao ước Chúa gọi tôi vào ơn gọi này.

Bình an Cha ban không giống như bình an của con người. Chúa nói vậy với các môn đệ. Và Chúa còn nói thêm: Anh em đừng xao xuyến, đừng sợ. (Jn. 14:27). Điều này ảnh hưởng đến suy nghĩ và việc mục vụ của tôi sau này. Tôi hiểu là ơn thánh Chúa không cất nhắc hết khó khăn, nhưng Chúa cho ta niềm vui, bình an, tin tưởng, sức sống. Điều này không có gì lạ. Ta đã gặp thấy trong thơ thánh Phaolô. Ba lần thánh Phaolô xin Chúa cất nhắc những khó khăn, Chúa không cất nhắc (2 Cor. 12:7-8).

Bạn thân mến,

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 247

Page 248: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Làm sao nghe được tiếng Chúa?

Tôi trả lời bạn, câu trả lời có cách học hỏi tu đức trong bài TÌM Ý CHÚA. Khi bạn hỏi làm sao tôi biết mình có ơn gọi đi tu. Câu hỏi lại là riêng tư, tôi không thể trả lời bằng những gì tôi không đi qua. Bài suy niệm TIẾNG GỌI BÊN RỪNGTHU là như một trả lời riêng tư đó.

- Làm sao Cha biết mình có ơn gọi đi tu?

Người bạn trẻ thân mến,

Trong đoản khúc ƠN GỌI tôi trả lời thêm cho câu hỏi này. Năm nay, năm 2005 là năm Thánh Thể. Liên quan đến Thánh Thể và tiếng Chúa, tôi cố trả lời bạn thêm về tiếng gọi này. Như tôi đã nhiều lần quả quyết, Chúa ban bình an cho ai Chúa gọi. Chúa gọi riêng tư thì bạn cũng sẽ nghe được trong cách riêng tư của đời mình. Đời là những khám phá. Có gian nan nhưng cũng rất nhiều thi vị, bởi khám phá làm con người trở nên chính mình nhiều hơn.

Với mùa hè ở Kansas năm 1979 đó, tôi xác định ơn gọi linh mục của mình. Tôi hân hoan đi hết chương trình thần học của địa phận và sẵn sàng tin tưởng chờ thêm sáu  năm nữa tôi trả lời bạn ở đoản khúc ƠN GỌI phần đầu tập sách này. Tấm Bánh Nhỏ đã đưa tôi vào cách trả lời qua cảm nghiệm của thinh lặng hơn là âm thanh.

Lắng nghe tiếng gọi là một khám phá.

Và khám phá, thật sự làm con người trở nên chính mình nhiều hơn.

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 93:NHỮNG HÒN ĐÁ MỀM

Theo luật Maisen, người đàn bà này phải ném đã chết, còn Thầy, Thầy nghĩ sao? (Jn. 8:2-11).

Sau khi bắt người đàn bà, họ đem đến hỏi Đức Kitô câu hỏi trên. Bài tường thuật cho biết họ hỏi như thế có ý gài bẫy Ngài. Như vậy, việc đưa người đàn bà này đến với Đức Kitô mang một màu sắc rất bi đát. Bà là nạn nhân của một âm mưu sâu độc rất đen tối. Người ta dùng người đàn bà để lấy cớ gài bẫy Đức Kitô.

Vì tìm cách gài bẫy Đức Kitô, nên ai dám quả quyết bà này không bị gài bẫy? Làm sao họ biết người đàn bà này phạm tội ngoại tình? Ai là người tòng phạm, sao không thấy nói tới? Vì để tìm cách gài bẫy Đức Kitô, nên rất có thể bà chỉ là cớ cho một âm mưu. Câu chuyện thật phức tạp.

Ba nhân vật chính được đề cập đến ở đây là người đàn bà, các biệt phái, và Đức Kitô. Không thấy nói đến người tòng phạm với bà.

Mấu chốt câu chuyện là làm sao “gài bẫy” được Đức Kitô. Một nhóm người Do Thái đã hằn học với Đức Kitô nhiều vấn đề. Họ tìm cách loại trừ Ngài từ lâu. Rất nhiều lần họ tìm cách gài bẫy Ngài bằng lề luật. Hôm nay cũng là một trong các lần đó.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 248

Page 249: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Câu chuyện nổi bật là lúc nhóm người này đem bà ta tới trước mặt Đức Kitô thách thức: Ném đá hay không ?

Ta có thể hình dung một cuộc họp kín giữa họ với nhau. Vì là một âm mưu gài bẫy, bắt buộc họ phải bàn với nhau cung cách đặt câu hỏi. Kẻ góp ý này, người bàn cách kia. Trả lời cách nào Đức Kitô cũng rơi vào hố họ đặt ra. Những sáng kiến ác ý và nhẫn tâm. Một vùng trời dầy đen bóng đem hiểm độc.

Vấn đề là phải “gài bẫy” Đức Kitô.

Trong tấn bi hùng kịch này xảy ra một bất ngờ khó hiểu.

Không phải nhóm người Do Thái này ngỡ ngàng vì câu trả lời của Đức Kitô: “Ai trong các người vô tội hãy ném đá người này đi”. Điều đáng ta suy nghĩ là thái độ thay đổi những hòn đá cứng của nhóm người này.

Tại sao lại im lặng bỏ đi?

Dĩ nhiên là họ nhận thấy mình có tội. Sự nhận thức này đến từ đâu? Và từ nay về sau luật ném đá còn ứng dụng được nữa hay không? Họ im lặng bỏ đi, có đồng nghĩa là từ nay về sau nhóm người này không còn hăng say thi hành luật nữa không?

Ta không biết rõ vấn đề, sau khi Đức Kitô nói vậy, việc thi hành luật này thế nào. Nhưng với nhóm người này, trong ngôi làng nhỏ đó đã có sự thay đổi. Thay đổi thế nào, thành tâm suy nghĩ hay sẽ âm mưu tinh vi hơn. Ta không rõ. Cái thay đổi rõ là một mạng người đã không chết vì thái độ rút lui của họ.

Nhóm người này bỏ đi, không ai ném đá bà ta nữa. Nếu họ là những người như Philatô cứ theo luật thì nó phải chết, họ có thể ném đá người đàn bà này chứ. Họ cũng có thể bất chấp lời Đức Kitô, họ chỉ cần luật thi hành luật. Họ cũng có thể cứ ném đá để chứng tỏ mình trong sạch.

Vấn đề là họ rút lui.

Nhóm người này đang kình nghịch với Đức Kitô, thì có gì mà phải ngại ngùng vì câu nói đó của Đức Kitô? Cứ theo luật thì nó phải chết.

Vấn đề là họ rút lui.

Cái rút lui ở đây có phải vì không ai thấy mình sạch tội? Vấn đề nữa là tại sao  một người rút lui rồi người khác cũng rút lui?

Họ rút lui vì nhận thấy mình có tội. Đây là sự sám hối hay chỉ là một sự nhục nhã? Đoạn văn không nói rõ. Họ rút lui vì biết mình có tội. Họ không dám ném đá người khác khi biết mình có tội. Tôi nghĩ then chốt của câu chuyện nằm ở chỗ này. Then chốt là họ chùng tay lại khi nghĩ đến tội của mình. Cho dù là vì nhục nhã mà rút lui, thì vấn đề vẫn còn đó. Vấn đề là họ rút lui chứ không ném đá.

Những hòn đá cứng giết người đã trở thành mềm.

Đoạn tường thuật nói cung cách của họ lúc ban đầu rất hung hãn. Họ tìm cách gài bẫy Ngài. Nhưng lại kết thúc lần lượt bỏ đi.

Vấn đề vẫn hệ tại là dù lý do nào đi nữa, sám hối biết tội mình hay bị nhục thì những hòn đá cứng kia cũng vẫn đã trở thành mềm. Vấn đề vẫn là họ rút lui. Vấn đề là một mạng người được cứu thoát.

Trong đời sống, cho dù một lý do nào đi nữa, siêu nhiên hay không siêu nhiên ta cũng phải dừng tay lại trước những hòn đá muốn ném người anh em. Phải vậy chăng?

Đọc Phúc Âm, có thể nhiều người không ưa thái độ của Pharisiêu. Nhưng hình ảnh họ im

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 249

Page 250: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

lặng bỏ đi hôm nay trở thành vấn đề. Những hòn đá cứng của họ đã không giết người. Tại sao xảy ra như vậy?

Người đàn bà đáng thương là chuyện đương nhiên.

Đức Kitô là ngôn sứ thì nhân từ cũng là chuyện đương nhiên.

Vấn đề là những người Biệt Phái kia sao lại bỏ đi?

Vấn đề thật nhức nhối, nhức nhối hơn nữa là nếu cạnh sắc của những hòn đá cứng đó, hôm nay, đang nằm trên chính tay mình. Ném hay rút lui?

Chất không Biệt Phái của nhiều người, hôm nay phải đặt vấn đề thế nào với chất Biệt Phái của người đã rút lui cho một mạng người được sống? Chất không Biệt Phái của nhiều người, đã làm họ nhiều lần khó chịu với thái độ Biệt Phái trong Thánh Kinh. Nhưng đoạn Tin Mừng này thật nhức nhối, chất Biệt Phái nào làm họ rút lui và một mạng người thoát chết?

Nếu hôm nay, hòn đá trên tay mình. Ném hay rút lui?

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 94: NHỮNG LỜI CHÚC MỪNG

Có nhiều lời chúc mừng.

Có nhiều dịp chúc mừng.

Có nhiều người được chúc mừng.

Người ta chúc mừng nhau. Bằng lời nói. Bằng thư từ. Trong những lời chúc mừng, lời chúc mừng về tình yêu, về những gì liên quan đến hạnh phúc, đến giá trị thiêng liêng là lời chúc mừng nhiều khi rất bi đát.

Chẳng hạn:

Kỷ niệm 25 năm thành hôn của anh chị, chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau.

Hoặc như:

Kỷ niệm 10 năm linh mục của Cha. Chúng con kính chúc Cha những ngày tràn đầy hồng ơn Chúa. Tâm tình sốt mến như ngày Cha dâng thánh lễ mở tay.

Những lời chúc rất chân thành. Càng chân thành bao nhiêu, càng thấm thía và bi đát bấy nhiêu. Thực tế, những lời chúc này xảy ra hằng ngày, ở chỗ này, chỗ kia. Nó đến từ trái tim người cầu chúc là mong ước. Và biết đâu, từ trái tim người được cầu chúc cũng tha thiết xin được như thế. Sự bi thương nằm ở đó. Lời cầu chúc này đến từ một thực tế. Nó diễn tả cái thực trạng hàng ngày. Nó là tấm gương phản chiếu trung thực lòng khao khát của người cầu chúc, nó là ước vọng của người được cầu chúc.

Bi thương hơn nữa là đời cứ tiếp tục đời, lời chúc tiếp tục lời chúc đi theo thời gian.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 250

Page 251: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Kỷ niệm 25 năm thành hôn

Chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau. Chúc như thế, nghĩa là, tình yêu của anh chị hôm nay mệt mỏi lắm rồi. Nó xói mòn lắm rồi, nên tôi chúc cho anh chị được như ngày đầu. Nói cách khác, tình yêu ấy cứ mỗi ngày một nhạt đi, cứ mỗi ngày một  hết như thủa ban đầu. Chúc như thế, không là thành thực xót xa sao. Nếu tình yêu của người nào đó, sau 25 năm cưới nhau, bây giờ nồng nàn hơn, thì chúc như thế mang ý nghĩa gì? Nó vô duyên và vụng về biết mấy. Nhưng hôm nay, họ cứ chúc mừng nhau như vậy. Họ dựa vào kinh nghiệm thực tế mà làm nên lời chúc. Nếu vậy, mỗi lời chúc không là một lời đau thương sao?

Kỷ niệm 25 năm linh mục

Sau 25 là linh mục. Tôi rửa tội biết bao nhiêu người. Tôi săn sóc biết bao bệnh nhân, xức dầu Thánh cho biết bao nhiêu người trong giờ hấp hối. Trong 25 năm tôi dâng biết bao thánh lễ. Biết bao lần Bánh Thánh hoá thân trên tay tôi. Tôi cử hành biết bao bí tích. Như thế, sau 25 năm đôi tay tôi đã xây dựng biết bao ân sủng. Một phần tư thế kỷ sống đời sống linh mục, tôi xây dựng biết bao nhân đức. Tại sao người ta lại chúc mừng trong ngày kỷ niệm đẹp như thế bằng lời chúc bi thương? Ước mong được như ngày đầu !

Họ mong cho tôi dâng thánh lễ sốt sắng như ngày đầu, nghĩa là thánh lễ tôi dânng hôm nay không còn chuẩn bị như ngày mở tay. Nghĩa là hôm nay tôi dâng thánh lễ nhàm chán như chuyện phải làm. Tôi hết náo nức rồi.

Vì sao có lời chúc như thế?

Cũng là do thực tế mà thôi. Nó cũng đến từ một nhận thức trong sinh hoạt bình thường. Nó do kinh nghiệm, do quan sát, do thấy như vậy. Tôi gọi đó là những lời chúc bi thương. Vì nó thật nên nó bi thương. Những lời lúc ấy đến từ cảm nghiệm.

Những lời chúc như thế, là linh mục, hay tình yêu hôn nhân, nó là tiếng chuông cần thương khó. Trước lời chúc đó, tình yêu phải nhìn lại tình yêu. Hôn nhân phải hỏi lại hôn nhân. Linh mục phải nhìn lại linh mục. Tu sĩ khấn Dòng phải hỏi lại lý tưởng. Những lời  chúc ấy đến từ ước vọng. Nó vừa là tiếng lòng mong mỏi, cũng vừa là tiếng lòng đợi trông.

Thủa ban đầu có nhau lưu luyến ấy, nếu bây giờ nhạt phai, nó phải có nguyên nhân.

Nếu thánh lễ mở tay là náo nức, bây giờ chỉ còn là bổn phận, nó phải có nguyên do.

Những ngày đầu của tình yêu hôn nhân, tháng ngày ấy mới là ngưỡng cửa bước vào vườn hạnh phúc. Đàng sau đó là một chân trời khám phá. Thì càng đi càng say chứ. Nhưng thực tế, cứ có những tiếng thở dài. Nhiều đôi hôn nhân càng đi càng mỏi.

Những ngày đầu của linh mục cũng thế. Mới lên đường ta thấy lòng rộng mở, thì càng cao, đường phải càng đẹp, càng đi lâu tâm hồn càng say mê đi tới chứ. Nhưng thực tế, không thiếu những cử hành phụng vụ chỉ là cánh cửa sổ cũ kỹ muốn đóng sập xuống cho chóng xong.

Từ những kinh nghiệm được xác định đó, lời cầu chúc ra đời. Đi tìm nguyên do, đi hỏi nguyên nhân. Kinh Thánh báo: “Khi mọi người ngủ thì kẻ thù đến gieo cỏ lùng, rồi bỏ đi” (Mt. 13:25). Thời gian nào mà không có phấn bụi bay. Khoảnh khắc nào mà không có sương mù. Hạnh phúc rất cần nhổ khi còn là mầm non. Chúa muốn nói với tôi về một tỉnh thức.

Là linh mục, xin Chúa cho con trước lời chúc đó là tiếng lòng cảnh tỉnh.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 251

Page 252: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Con muốn sống làm sao mỗi ngày đẹp hơn.

Con muốn sống làm sao với ân sủng để mỗi ngày có thêm thiết tha đi tới chứ không ao ước quay về.

Tình yêu mà cứ mỗi thời gian đi tới, lại cứ cầu chúc nhau tìm về bến cũ, thì con đò sẽ lặng lẽ biết bao. Hôn nhân mà mỗi bình minh lên, lại cứ phải mong cho nhau như ngày xa xưa cũ thì còn đâu chân trời khám phá. Chả có sáng tạo, hôn nhân mà cứ phải nương nhờ ngày xưa thì bước đi tới nặng nề làm sao.

Lạy Chúa, con muốn nói với Chúa về một lời chúc.

Đừng để đời linh mục con, có những lời cầu chúc như thế.

Xin cho con sửa lại lời cầu chúc bi thương.

Ngày con dâng lễ mở tay, chỉ là mở tay thôi, mỗi ngày bàn tay con phải vươn cao hơn, nhiều nhân đức hơn, chứa đựng nhiều ơn trời hơn.

Ngày đầu bước vào đời linh mục, có ngỡ ngàng, thì mỗi ngày, mỗi sáng phải ngỡ ngàng hơn vì khám phá ra quá nhiều ơn sủng Cha ban.

Mỗi thời điểm về gần ánh sáng, con phải thấy hân hoan hơn, thấy mình thấm nhuần ánh sáng hơn.

Con phải quên đi những ngày đầu chập chững.

Con phải sống sao những ngày đầu chỉ là ơn sủng còn non màu mạ, mỗi thời gian đi tới là chứa chan màu vàng của lúa đơm bông.

Như cánh bướm, vì vườn hoa càng rực rỡ thì càng buông cánh vào càng duyên dáng hơn.

Ơn sủng Cha ban thì hằng hà sa số,

Lớp lớp thời gian Cha không ngừng đổ rót.

Để lãnh xin, con chỉ có bàn tay bé nhỏ.

Vậy sao hồn con cứ trống và tim con còn vơi?

                                                (Tagore)

Lạy Cha, lỗi ở con mà thôi.

Con ước muốn sửa lại lời cầu chúc trên kia.

Con muốn mỗi ngày cánh buồm đong gió ra đi là càng thênh thang, chứ đừng có lời cầu chúc tầm thường mong sao được như ngày xưa bên bến hồ nhỏ bé.

Lời cầu chúc đời ban tặng con đến từ nhận xét.

Con không thể thay đổi cái nhìn của đời được, vì con thế nào thì đời nhận xét như thế.

          Lời cầu chúc đến từ cảm nghiệm.

Con không van xin đời thay đổi cảm nghiệm được, con chỉ có thể thay thế chanh chua bằng mật ong, vì đời cảm nghiệm thế nào, đời mong mỏi như vậy.

Lời cầu chúc đến từ ước mơ.

Con không cho đời hạnh phúc được nếu mơ ước kia không là sự thật.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 252

Page 253: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Lời cầu chúc đến từ lòng thành thật.

Con có đau thương vì lời cầu chúc thì cũng hãy thành thật nhận lời chúc như câu kinh.

Lời cầu chúc đến như tiếng than thở.

Con hãy quý những thở than đó vì nó là tiếng lòng nhắc nhở con về một tiếng gọi.

Lời cầu chúc đến từ thực tế

Con không thể lặng thinh mà không hỏi lòng mình: Tại sao thế?

Lời cầu chúc đến từ thực tế

Con không thể lặng thinh mà không hỏi lòng mình: Tại sao thế?

Lời cầu chúc có thể còn tiếp tục mãi.

Con không thể lặng thinh mà không hỏi Chúa:

- Vậy sáng mai con dâng thánh lễ ra sao.

Ôi! Lạy Chúa,

Mỗi lời chúc đều nói với con về một ý nghĩa.

Mỗi lời chúc đều nói với con về chính con.

Mỗi lời chúc đều nói với con về liên hệ giữa con và Chúa. Amen

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 95:LÀ THÂN DÃ TRÀNG

Như con dã tràng xe cát biển Đông,

sóng nước mênh mông xô dạt công trình.

Con nhìn mình chẳng có công chi

mà dâng Ngài trong thánh lễ hôm nay.

Tác giả bài thánh ca, Phanxicô sau khi nhìn con dã tràng xe cát biển Đông, nhìn mình tự thú:

- Con nhìn mình ngày tháng tiêu hao.

Rồi cất lời nguyện:

- Con dâng lên Ngài kiếp sống, ước mong sẽ bình yên. Có Chúa trong con, hy vọng một đời, tình yêu đã lên buồn đau sẽ quên.

Cứ nhìn con dã tràng. Cặm cụi, rồi sóng nước đưa nhẹ, nhẹ như nỗi buồn tênh. Công trình của nó chẳng còn gì. Con nhìn mình chẳng có công chi mà dâng Ngài trong thánh lễ hôm nay. Hay là tôi dâng lên Ngài kiếp sống, để đời sẽ bình yên. Để rồi có Chúa trong con, cho đời có hy vọng, cho buồn đau sẽ quên.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 253

Page 254: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Lúc đạo sĩ Sadhu Sundar Singh còn là cậu bé, ăn cắp tiền của cha cho người nghèo. Nhà đạo sĩ hạnh tu này tự thuật trong cuốn Visdom of the Sadhu rằng với số tiền nhỏ vậy chắc là cha không biết. Ai ngờ cha cậu biết số tiền đã mất.

Trước khi ăn cắp tiền, cậu lý luận, tôi không ăn cắp cho tôi. Mẹ đã chẳng luôn luôn dạy rằng con hãy có lòng thương xót kẻ nghèo đó sao. Vả lại số tiền nhỏ vậy có thấm vào đâu với tiền bạc của cha mình. Biết đâu bà cụ kia chết lạnh. Lòng thương người, cái lập luận kia đưa cậu bé quyết định ăn cắp. Sáng hôm sau cha cậu hỏi các đầy tớ.

- Tôi mất 5 rúppi. Có ai lấy số tiền này không?

Các đầy tớ đều chối. Cả cậu cũng chối. Một ngày đóng lại khi mặt trời tắt. Câu chuyện dang dở, không biết ai là thủ phạm. Trong bóng  đêm, trằn trọc giấc ngủ không lành. Cậu thấy tiếng cha hỏi:

- Sao con dám ăn cắp tiền của cha, là cha của con. Sao con dám trong giấu diếm cãi lệnh cha. Sao đến lúc cha hỏi mà con vẫn chối, con nói dối cha.

Cậu nhớ đến sách Phật dạy về karma. Kiếp người đầu thai theo nhân quả. Cái nghiệp chướng của lúc sinh thời. Hậu quả của tội lỗi. Cậu nghĩ:

- Làm sao tôi trốn thoát cái karma này. Làm sao tôi có thể bác ái giúp người mà chính tâm hồn tôi không an bình. Cái nghiệp chướng này tôi đang cưu mang. Sự bác ái kia có ích gì khi tôi không cứu được tôi.

Thao thức mãi, cậu đành đánh thức cha dậy giữa đêm thú tội với cha. Nhà Sadhu này kể tiếp:

- Cha tôi ôm tôi vào cánh tay ông nói: “Cha luôn tin tưởng con. Hôm nay càng chứng tỏ tin tưởng của cha là đúng. Con hãy đi ngủ đi, bình an…”.

Như con dã tràng xe cát biển Đông,

sóng nước mênh mông xô dạt công trình.

Con nhìn mình chẳng có công chi

mà dâng Ngài trong thánh lễ hôm nay.

Con dâng lên Ngài kiếp sống, ước mong sẽ bình yên.

Có Chúa trong con hy vọng một đời,

tình yêu đã lên buồn đau sẽ quên.

Nói về những công trình để dâng Chúa. Tôi thấy mơ hồ một chút lợn cợn trong nhiều công trình dâng Chúa hôm nay. Dường như trong sinh hoạt tôn giáo đang có những thao thức về các công trình. Từ ngày đất nước mở cửa, nhiều chương trình được nhắc đến, như xây cất, như giúp người nghèo, như mở trạm xá, như nâng đỡ ơn gọi… Những công trình tốt và cần thiết này dường như có chỗ bắt đầu vương bụi. Có nhiều đoàn thể, nhiều nhóm như cạnh tranh nhau.

Nói về karma, nhân quả thì Phúc Âm cũng bảo là “Ngươi ở trong ngục tối ấy đến khi đền trả xong đồng xu cuối cùng” (Mt. 5:20). Vấn đề không phải là “xưng tội” mà là đền trả xong.

Cậu bé đi ngủ an bình khi tấm lòng không còn tâm trí. Điều đáng nói ở đây là nhà đạo sĩ Sadhu này biết là mình không ăn cắp cho mình. Nếu các công trình bác ái hôm nay, vì bác ái với người nghèo mà lỗi bác ái với nhau, thì thực sự lời hát về thân dã tràng kia quá mênh mông:

Như con dã tràng xe cát biển Đông,

sóng nước mênh mông xô dạt công trình.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 254

Page 255: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Con nhìn mình chẳng có công chi

mà dâng Ngài trong thánh lễ hôm nay.

Nếu là linh mục thì lời bài hát này càng mang ý nghĩa một lời của tiên tri hơn.

Bén nhậy với những công trình. Không phải chỉ Phúc Âm mới bảo hãy đi tìm Nước Thiên Chúa trước. Tu đức phương Đông rất đỗi tâm linh. Những ngày ở thư viện thần học Puna, Ấn Độ, tôi đọc được câu chuyện dụ ngôn sau đây:

Ngày kia, vị thiền sư gọi các chú bé đến:

- Các con ơi, mình nghèo quá, các con nhìn kìa.

Vị thiền sư chỉ lên trần nhà, mưa dột.

- Vì nghèo, chúng ta không có tiền sửa chùa cho Đức Phật có chỗ xứng đáng ngự.

Giọng nói nghẹn ngào của vị thiền sư đưa các chú tiểu vào đăm đăm, tội nghiệp Đức Phật.

- Chiều nay xuống chợ, mỗi con cố ăn cắp chút ít, vài quả chanh, mấy củ khoai. Về đây chúng ta bán đi lấy tiền dâng Phật, sửa chùa cho ngài có chỗ ngự. Nhưng chúng ta là nhà tu hành, đừng lấy nhiều. Ăn cắp sao cho khéo kẻo mang tiếng.

Trên đường về, có chú bé phải đi lẻ loi, các bạn chế riễu vì không lấy được gì. Tối về, các chú đổ ra trước thánh điện những gì ăn cắp được ở chợ. Sau cùng, chú bé kia sợ hãi, các bạn đồng môn nhìn chú. Đợi không còn ai, chú phải bước ra trước Thầy thú tội:

- Thưa Thầy, con không lấy được gì cả. Cứ mỗi lần con thò tay định lấy củ khoai, con lại thấy ánh mắt Đức Phật bảo con hãy giữ tấm lòng trong sạch. Cả buổi chiều con rình mò, cứ hễ giơ tay, con lại nghe tiếng nói kia: “Hãy giữ tấm lòng trong sạch”.

Nói đến đó cậu bé thấy mình chẳng có gì, nước mắt lưng tròng, mong Thầy thông cảm, đừng phạt. Còn các bạn đồng môn nhìn cậu, chờ phản ứng của Thầy. Vị thiền sư ngồi trên bục, bước xuống, gọi cậu bé lại, nói với tất cả:

- Các con của Thầy, sau những bài học đạo. hôm nay là bài thi đầu tiên, hành đạo. Thầy mới thử lòng chúng con. Tất cả chúng con đều rớt hết, chỉ có mình bạn các con đây thôi.

Ôm hôn cậu bé trong tay. Dường như trong ánh mắt nhà thiền sư đang rướm lệ. Ít nhất mình cũng đào tạo được một học trò.

Như con dã tràng xe cát biển Đông,

sóng nước mênh mông xô dạt công trình.

Con nhìn mình chẳng có công chi

mà dâng Ngài trong thánh lễ hôm nay.

Lạy Chúa,

Xin cho con trái tim để hiểu lời ca của con dã tràng, để biết thế nào là của lễ và thế nào là một tấm lòng.

Cậu bé đã chọn riêng cậu một tấm lòng và một của lễ. Cậu đã chọn cho riêng cậu, đường đi một mình.

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 255

Page 256: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 96 : NIỀM TIN CỦA THẦY SADHU

 

Ấn Độ có nhiều thầy tu khổ hạnh. Nói đến Ấn Độ, nhiều người nghĩ ngay đến những con đường tâm linh, đến những nhà thiền tu trên rặng Hy Mã Lạp Sơn, hay bên dòng Sông Hằng yên lặng.

Sundar Singh là một thanh niên Ấn trẻ, sau những ngày đi tìm con đường tu niệm, ông viết về niềm tin Kitô Giáo của đời ông. Ông kể về cảnh con chim mẹ bón mồi cho con trong tổ.

Lũ chim con bé tí, chưa mở mắt. Chúng nằm im che gió trong cái tổ tối âm thầm. Chú chim non bé bỏng quá. Sự sống của nó như sợi tơ mong manh. Làn da bụng quá mỏng đến độ ta có thể nhìn thấy tất cả mạch máu đỏ li ti. Dường như chỉ búng nhẹ một cái là nó tắt thở. Nó nằm thoi thóp như sắp chết. Sự sống khi mới bắt đầu sao giống như cuối đời sắp chết quá.

Nó chỉ biết chờ đợi, không có một năng lực tự vệ nào cả. Nó hoàn toàn lệ thuộc vào bên ngoài. Tự nó chẳng có gì. Con chim mẹ tìm mồi cho nó.

Nhà đạo sĩ Sadhu nhìn lũ chim con trong tổ. Cái bé bỏng ấy đưa ông vào con đường mà rất có thể ông đã tầm tu bao ngày chưa tìm ra. Người thanh niên trẻ này cứ nhìn cảnh con chim con bé tí chỉ biết nằm chờ mẹ bón mồi. Nó hoàn toàn yếu đuối. Nếu mẹ nó không bón mồi, nó sẽ chết. Rồi, câu chuyện đường vào tâm linh của ông mờ mờ thành đường bay.

 

Trong đời, có nhiều người đã bao lần nhìn cảnh chin mẹ tìm mồi bón cho con. Bao lần ta nhìn cái mỏng manh của thân phận con người. Nhưng trong ta không có ý thiền niệm bao la, vi vu trong trời rộng như nhà đạo sĩ Sadhu này.

Ông kể lại đời ông, ngày xưa còn trẻ, ông đốt Kinh Thánh. Ông dị ứng với niềm tin Kitô Giáo. Nhưng rồi, một ngày…

Con chim nhỏ nghe tiếng động là biết mẹ về. Chúng ta thấy, lũ chim con sẽ kêo líp chíp cho dù không nhìn thấy mẹ. Chúng đang im ả, mà nghe cánh chim mẹ bay về là tất cả

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 256

Page 257: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

chúng ngẩng đầu thi nhau kêu. Miệng há to, tranh nhau kêu. Trời chung quanh chúng nó vẫn tối đen. Thế giới chung quanh chúng nó vẫn mù mịt không ánh sáng, không mầu sắc.

Nhà tu khổ hạnh cứ ngày ngày nhìn con chim nhỏ há miệng đón mồi.

Rồi một giờ linh thiêng nọ, ông bừng tỉnh hỏi lòng:

- Lạ quá, tại sao con chim nhỏ chưa mở mắt, chưa nhìn thấy gì, sao dám ăn?

Bạn thân mến.

Nếu con chim nhỏ không chịu ăn, nếu nó lý luận rằng nó chỉ ăn khi nó chứng minh được miếng mồi này có hợp với nó hay không thì đời nó ra sao?

Nó cứ nhắm mắt mà vẫn ăn.

Nó cũng không đòi chứng minh miếng mồi có thuốc độc hay không.

Nó không đợi cho đến khi mở mắt, biết nhìn, biết lý luận, biết phân biệt rồi mới ăn.

Hôm nay, có những cha mẹ không kiếm mồi cho con. Họ lý luận để con lớn, mở mắt, biết nhìn rồi tự do lựa chọn của ăn thiêng liêng là con đường tôn giáo cho chính nó.

Giữa trời và đất. Giữa sông và biển. Loài chim vẫn cất tiếng trong trẻo giữa cuộc đời. Chúng đang nói với ta về một bài ca vô cùng siêu bạo. Bài ca nói về niềm tin.

Cái nhỏ bé của nó đang nói với chúng ta về một trường ca hùng vĩ. Nhưng trái tim chúng ta không trong sáng đủ để thấy chiều sâu về bài ca đó. Không phải bất giác một phút vô minh mà nhà tu Sadhu kia nghe thấy trong hình ảnh nhỏ bé tầm thường ấy chiều sâu cao cả của niềm tin. Ông đã trầm tư bao ngày đi tìm. Ông dành trái tim cho một tiếng gọi trên cao. Chính trong chiều cao ấy, trái tim ông thành trong sáng, và hồn ông bắt gặp ánh sáng ông đang khát khao.

Giả sử con chim kia cứ đòi chứng minh miếng mồi có hợp với sức khỏe của mình hay không mới ăn thì đời nó ra sao?

Giả sử con chim bé bỏng kia cứ đợi đến khi chứng minh được tình thương của mẹ, mới tin đúng là mẹ nó thì đời nó ra sao?

Nhà đạo six Sadhu nhìn con chim mù loà mà cứ tin là mẹ nó. Ông tự hỏi lòng, tại sao không nhìn thấy mà nó vẫn tin.

Bạn thân mến,

Con chim nhỏ không nhìn thấy mẹ mình mà vẫn tin. Không biết đây có là mẹ mình không, không biết miếng mồi này có hợp không mà nó vẫn ăn.

Hôm nay, trong chiều kích tục hoá đời sống tâm linh, con người có khuynh hướng buông thả mình trong những lý luận rất ngây ngô.

Họ muốn nhìn thấy Thượng Đế rồi mới tin.

Họ muốn để con cái họ nhìn thấy rồi tự do chấp nhận niềm tin cho chính chúng nó.

Phải chăng loài chim luôn luôn có tiếng hót thanh cao vì niềm tin của chúng là niềm tin đến bằng tình yêu và trái tim trong sáng. Con chim nhỏ chỉ biết kêu xin không lý luận. Và con chim mẹ biết con mình mỏng manh như thế, nó chở che con nó bằng tình thương kiếm mồi. Trên đôi cánh vất vả, nó hạnh phúc đưa con nó vào đời, tiếp nối bài ca.

Tiếng hót nào của loài chim cũng thanh thoát vì nó biết thân phận mỏng manh của

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 257

Page 258: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

nó là phải ăn rồi mới mở mắt nhìn vũ trụ được. Con người hôm nay ngược lại, đòi nhìn thấy Thượng Đế rồi mới ăn. Bởi đó, tiếng hát của con người thường là niềm đau thân phận.

Chớ gì Thiên Chúa hãy cho chúng con biết lãnh nhận để ăn, rồi chúng con mới mở mắt để lý luận. Lý luận là điều cần thiết, nhưng xin đừng để chúng con lý luận trước, vì không ăn, không mở mắt làm sao lý luận.

Sundar Singh tầm thầy học đạo từ lúc mười sáu tuổi. Ông sinh năm 1889 và chết năm 1929. Ông là một trong những khuôn mặt Sadhu nổi tiếng của Ấn Độ. Friedrich Heiler viết về ông như sau: “Nơi tâm hồn Sundar Singh, Kitô Giáo và Ấn Giáo gặp nhau. Kitô Giáo như bông hoa rộ nở mà cái cành của nó là Ấn Giáo”. Robert Ellsberg, tác giả cuốn tự điển về các thánh, All Saints, viết về nhà Sadhu này: “Sundar Singh là một trong những nhà tu đức có sức thu hút các tâm hồn của thế kỷ này. Nền tu đức Kitô Giáo của ông đâm chồi từ Ấn Giáo và thách thức người phương Tây vượt qua ý tưởng thần học mà nếm thử chính Phúc Âm”.

Nhà Sadhu này kể tiếp, một ngày kia ông lang thang trong núi. Ngồi bên bờ đá, thấy lũ chim con kêu như khóc vì đói. Càng cảm thấy con chim mẹ đến, chúng càng kêu to.

Bạn thân mến,

Lũ chim con không nhìn thấy mẹ, chưa mở mắt sao biết là mẹ mình?

Trong cuộc sống, chúng ta có nhìn thấy Thiên Chúa không?

Thánh Phaolô nói, Ngài thấy Thiên Chúa lờ mờ như trong tấm gương. Khi chết rồi mới mặt giáp mặt (1 Cor. 13:12).

Chính cái lờ mờ như trong tấm gương mà thánh Phaolô đã tự thú đó đang nói với chúng ta về Ngài. Cái lờ mờ đó là khao khát miếng ăn của con chim mẹ tìm mồi cho con. Cho dù lũ chim con không nhìn thấy miếng mồi. Cái lờ mờ đó là lũ chim con   biết mình chết nếu không ăn mà chỉ chờ cho đến khi nhìn thấy mẹ mới ăn. Cái lờ mờ đó là sự yếu đuối của chính chúng nó.

Điều mà nhà đạo sĩ Sadhu nhìn thấy ở đây là trong mắt còn nhắm nghiền kia của lũ chim con. Nó chỉ thấy bóng tối trong cái nhìn con mắt. Nhưng biết là mẹ mình qua cái linh cảm, cái đập cánh, cái săn sóc, cái hơi của con chim mẹ, cái lờ mờ.

Hôm nay, nếu cũng ngồi bên gềnh đá thinh lặng, ta sẽ cảm thấy cái hơi kia, cái đập cánh kia của Thiên Chúa trong lương tâm của mình. Trong tình yêu, trong băn khoăn về thân phận con người, trong đau khổ và hạnh phúc. Trong nghèo đói của tha nhân. Trong khắc khoải của tội lỗi. Trong thanh thoát của tâm hồn.

Nhà đạo sĩ nghe tiếng lũ chim con nói với ông:

- Thưa ngài, chúng tôi không lý luận rằng chúng tôi sẽ không cởi mở đôi mỏ cho đến khi nhìn thấy rõ ràng rằng đấy là mẹ chúng tôi, và phải biết rõ bà đang cho chúng tôi loại thức ăn nào, có thích hợp không. Chúng tôi không lý luận rằng, biết đâu thức ăn không hợp với chúng tôi, biết đâu đấy không phải mẹ chúng tôi.

Nhà đạo sĩ nghe tiếng lòng bày chim nhỏ nói như thế với ông. Nhà đạo sĩ tâm sự:

- Nếu chúng lý luận, nếu chúng chờ khi nhìn rõ mẹ mình, biết là thức ăn nào mới ăn, chúng sẽ không bao giờ thấy sự thật. Chúng chết.

Bạn thân mến.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 258

Page 259: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Người ta nghĩ cần lý luận để tìm sự thật. Nhưng có bao giờ họ lý luận rằng có những sự hiểu biết nằm ngoài lý luận không? Bởi, nếu họ biết lý luận thì cũng phải lý luận như thế.

Sau khi nghe tiếng trong tâm hồn qua bày chim con, nhà Sadhu khổ hạnh bước ra khỏi cánh rừng. Ông thấy bày chim con sẽ chết đói nếu cứ lý luận như thế không chịu ăn. Chắc chắn, ông đang nói với chính ông về con đường tâm linh ông đang tìm. Lũ chim không nghi ngờ về sự hiện hữu của mẹ nó. Chúng ăn, rồi ít ngày sau, chúng mở mắt. Một niềm vui oà ngập. Bấy giờ chúng mới nhìn thấy mẹ. Rồi chúng tung cánh bay vào trời, vào cuộc đời. Chúng thấy vũ trụ quá đẹp, quá xinh. Và thế giới có những bài ca.

Đấy là một ngày tâm linh của nhà đạo sĩ. Ông tự hỏi lòng:

- Loài người nghĩ rằng họ vĩ đại trên trái đất này, sao họ không bằng lũ chim nhỏ trong tổ rơm kia. Tại sao con người cứ đặt câu hỏi về hiện hữu của Thượng Đế và tình thương của Ngài. Chính Ngài đã thẳng nói: “Phúc cho ai không thấy mà tin” đó sao.

Trong ngày dó, nhà đạo sĩ viết cho chính ông như sau: “Bất cứ khi nào tôi mở tâm hồn cho Thượng Đế, tôi nhận những miếng mồi thiêng liêng, tôi ăn mỗi ngày một chút, tôi lớn dần, tôi giống Ngài hơn, cho đến một ngày tôi đạt được sự trưởng thành thiêng liêng. Và khi đôi mắt tâm hồn  nhìn thấy sự hiện hữu của Thượng Đế, bấy giờ tôi sẽ bắt gặp một hạnh phúc vô tận và cũng không thể diễn tả được”.

Bạn thân mến,

Tâm tình của nhà đạo sĩ cũng giống như lời tôi vừa trích trong thư Thánh Phaolô. Rồi đến một ngày, tôi sẽ thấy Thiên Chúa.

Chung quanh ta, ngay trong mùa đông lạnh, cây khô cành, ta vẫn nghe tiếng hót của loài chim kia. Bài ca chúng thật đẹp, tiếng hót trong mùa đông mà cứ trong vắt. Chúng hạnh phúc vì nhìn thấy trời bao la.

Chớ gì chúng ta cảm thấy Thiên Chúa như bày chim biết mình sống không phải là nhìn thấy mẹ, nhưng là qua hơi ấm, qua sự sống mẹ ban cho mình.

Nếu bạn lên rừng, bạn sẽ thấy ngay cả trong đêm vắng vẫn có cánh chim bay.

Nếu bạn lên rừng, bạn sẽ thấy vẫn có lời ca ngay cả trong đêm dài rất đen.

Bài ca của chúng thật đẹp, bởi chúng ăn rồi mới mở mắt nhìn thấy vẻ đẹp của cuộc đời.

Chớ gì bạn tìm cho mình một khoảng trống thinh lặng lắng nghe bài ca của loài chim nhỏ. Và biết đâu, trong những đêm dài rất đen của cuộc đời, bạn vẫn nghe thấy văng vẳng bài ca thật đẹp.

Chúng ăn, rồi chúng mở mắt nhìn vũ trụ và vào đời cất tiếng ca. Nhà đạo sĩ đã nghe được bài ca trong khoảng trống thinh lặng của hồn ông.

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 97: TẠ ƠN LÀ MỘT TÂM TÌNH

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 259

Page 260: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, Thanksgiving, người ta hay nhắc đến chuyện người phong cùi trở lại cám ơn Đức Kitô trong Phúc Âm Luca.

Trên đường Jêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilêa. Lúc Người vào một làng kia, thì có  mười người phong cùi đón gặp Người. Họ dừng lại đàng xa, và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng xót thương tôi”. Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được khỏi liền quay trở lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lạ là người Samari. Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc. 17:11-19).

Tôi nghĩ câu chuyện tạ ơn của người phung cùi không dừng lại ở đây. Không dừng lại ở lời tạ Chúa mà thôi. Nó gọi ta đến đây một đường cong sâu hơn và xa xôi hơn. Tạ ơn là tâm tình đòi hỏi một tấm lòng. Tâm tình này là bản phiên dịch của một nội tâm. Chính bản phiên dịch nội tâm này nói trung thực cho ta biết mình là ai.

Tôi muốn nhìn vào nội tâm người phung cùi, để đi tìm chiều kích lời tạ ơn của anh ta với Đức Kitô. Nó đến từ một đường cong sâu xa nào?

Bối cảnh văn hoá, tôn giáo, lịch sử.

Người Do Thái trong thời Chúa Giêsu không chấp nhận những người phung cùi sống trong làng. Họ phải sống cô lập ngoài sa mạc, xa xôi ngoài cánh đồng. Khi gặp Đức Giêsu, họ cũng đứng “từ đàng xa” chứ không dám lại gần. Họ bị coi là những kẻ tội lỗi, bị Thiên Chúa giáng án phạt. Hiểu như thế mới thấy nỗi cô đơn của kẻ mang bệnh tật này. Trong thời đại ấy người Do Thái cũng không chấp nhận chung sống với người ngoại giáo. Họ đối nghịch đến độ thù hận nhau.

Cộng đoàn những người cùi.

Theo mạch văn của đoạn Kinh Thánh. Chúa hỏi: “Còn chín người kia đâu”. Như vậy chín người kia cộng với anh cùi đến tạ ơn Chúa, tất cả mười người. Tại sao có mặt người cùi ngoại giáo trong cộng đoàn những người cùi Do Thái? Tại sao những người cùi Do Thái lại để người cùi xứ Samaria theo mình nhập bọn? Đoạn Kinh Thánh trên tường thuật là “một người trong bọn họ”. Cụm từ “một người trong bọn họ”. Cho thấy chín người Do Thái Giáo và một người Samaria đã sống chung, đi chung một con đường, là một cộng đoàn.

Chuyện này dường như cũng không xa lạ giữa hoàn cảnh xã hội hôm nay. Trong những hành trình gian khổ, dường như người ta vượt qua mọi biên giới để sống với nhau. Có những tình nghĩa vợ chồng, khi nghèo khó, họ sống đời đùm bọc nhau. Cùng nhau  đẩy chiếc xe đạp chở ngô khoai. Cùng nhau chèo một con đò, buôn thúng bán bưng nuôi con. Rồi có thể họ mất nhau khi mỗi người có một địa vị, một công ty riêng. Lúc lâm nạn, người ta vượt qua biên giới chủng tộc, tôn giáo, để cứu nhau. Rồi người ta xây nên những thành trì, những bức tường tôn giáo khi người ta có đền thờ riêng.

Tại sao trong cộng đoàn mười người cùi này lại có một người ngoại giáo. Tại sao họ chung sống với nhau?

Khổ đau dường như có một giá trị rất sau trong câu chuyện này. Rất nhiều trường hợp, khi hết yếu đuối, hết nghèo khó, họ xa nhau. Trên đường đi tạ ơn này, chín người kia đi về một phía, người Samaria đi về một phía. Không còn một cộng đoàn những người cùi khác tôn giáo.

Với chín người cùi, họ có thể liên kết lại để cô lập người cùi Samaria. Nhưng ở đây, họ chung sống, chấp nhận người cùi khác tôn giáo này. Dường như trong cô đơn tận cùng vì bị xã hội chối bỏ,

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 260

Page 261: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

họ được đốt cháy hết những địa vị, tên gọi, và khi được bóc trần đến phẩm giá sau cùng, họ thấy họ giống nhau ở một tên gọi duy nhất là làm người.

Giá trị cùng đích sau hết vẫn là: Làm người.

Dường như tôn giáo cũng rất cần luôn luôn được thanh tẩy khỏi bám bụi. Những giá trị ngoài nhân đức như đền thờ, tổ chức, ảnh hưởng, rất có thể đưa con người xa cách nhau.

Mọi tôn giáo đều tìm cách dạy con người ý nghĩa của cô đơn, đau khổ. Nhưng ý nghĩa đẹp nhất của đau khổ và cô đơn lại là vượt qua mọi tôn giáo để đùm bọc nhau cho con người bớt cô đơn và đỡ khổ đau.

Rồi tình yêu cũng thế. Tình yêu cũng cần thanh tẩy. Những giá trị ngoài nhân đức như nhan sắc, địa vị, vàng bạc, rất có thể sẽ đưa con người xa cách nhau. Trong đời sống, ai cũng cần chịu ơn nhau.

Phải nghèo một chút để biết xin.

Phải yếu một chút để biết nương tựa.

Nhìn lại, người cùi xứ Samaria, trong “bọn họ”, anh ta là thiểu số, anh chỉ có một thân, một mình.

Tôi nghĩ anh ta trở lại tạ ơn Tiên Chúa vì đời anh quen tâm tình tạ ơn rồi. Ngay những ngày sống chung với chín người kia, biết mình thiểu số mà được chấp nhận, anh ta đã sống lòng biết ơn đó. Tạ ơn là một bản phiên dịch nội tâm của anh.

Câu chuyện cộng đoàn mười người cùi được chữa lành rất đẹp vì họ đã sống với nhau. Nếu sau khi được chữa lành, tất cả đều trở lại tạ ơn Thiên Chúa thì câu chuyện kết thúc quá lý tưởng. Tại sao chín người kia không trở lại?

Rất có thể chín người kia không quen tâm tình tạ ơn. Rất có thể họ chấp nhận người cùi Samaria như là cho ơn hơn là lãnh nhận.

Tôi thụ phong linh mục năm 1989. Cũng năm này tôi được gởi qua trại Palawan, Philippines giúp đồng bào tỵ nạn. Những ngày đó, chúng tôi đã có những kỷ niệm đẹp, tôi đã viết bài “Palawan Mùa Phật Đản”, năm 1992, đăng trong báo Đường Sống.

Năm 1995 tôi rời trại tỵ nạn. Tôi xa khúc đường trong trại, một bên có hương trầm nhà Chúa, một bên có tiếng chuông nhà Chúa. Rồi một hôm, mười năm sau, kỷ niệm lại về như nghe tiếng mõ tụng kinh quen thuộc ngày nào đó, bên Chúa. Đó là vào ngày 28 tháng 12 năm 2004. Sau lễ Giáng Sinh, tôi  đang giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn các Sơ Đaminh Việt Nam ở Houston. Tôi nhận được một lời nhắn trong chiếc phôn cầm tay:

Dạ, kính linh mục Nguyễn Trọng Tước.

Đây tôi là Thích Thông Đạt từ San Jose gọi chúc mừng trong mùa Giáng Sinh với New Year. Chúc mừng linh mục dồi dào sức khoẻ. Happy Merry Christmas. Happy New Year. Dạ, kính linh mục. Khi nhận được message xin cho gặp số phôn 408-926-1998. Kính chúc mừng linh mục trong mùa Chúa Giáng Sinh cũng như  đầu năm mới.

Kính linh mục.

Tôi hết sức ngạc nhiên. Một Thầy bên Chùa đã mười năm xa cách. Từ ngày Thầy rời trại tỵ nạn Palawan, bằng ấy năm không hề gặp lại nhau. Mười năm không liên lạc. Bỗng dưng Thầy tìm phôn gọi tôi, vì Thầy muốn chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Những kỷ niệm xa xưa.

Kính Thầy Thông Đạt,

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 261

Page 262: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Những ngày ở trại tỵ nạn, những ngày ấy chúng ta có nhiều kỷ niệm quá nhỉ. Vào mùa Phật Đản và Giáng Sinh, năm nào chúng ta cũng có những món nợ. Chúng ta cho nhau mượn cái trống, mấy sợi dây đèn. Các em Thiếu Nhi cho nhau mượn mấy mét vải, cái đầu lân để làm văn nghệ. Chúng ta đã mượn nhau tình thương mến.

Thời gian đã xa xôi quá, như đang xoá nhoà dần đi. Bỗng dưng mười năm sau, Thầy tìm điện thoại, gọi chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Mười năm là thời gian dài lắm đó Thầy ạ. Thế là tôi lại “nợ” Thầy.

Thánh Phaolô đã căn dặn các tín hữu của ngài: “Các con hãy nợ nhau tình thương mến” (Rom. 13:8). Bây giờ chúng ta đã xa những ngày tỵ nạn cho nhau mượn cái bát, tô cơm. Thầy Thông Đạt có thể nay đã có chùa riêng, có đoàn Phật Tử đông đảo. Chả ai phải mượn ai. Chùa của Thầy chăng rợp hoa đèn ngày lễ. Chả ai cần ai. Thầy gọi điện không là để mượn gì cả, cũng chẳng hỏi tôi có mượn cái đầu múa lân không, chỉ để chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Thầy gọi điện vì nhớ về khung trời tỵ nạn có những kỷ niệm bên bờ đời sống. Tình thương mến.

Có những cặp vợ chồng nay mỗi người là một giám đốc. Chẳng ai phải nhờ ai. Có những anh em, không ai phải cậy ai. Xa những ngày nghèo túng rồi. Không ai phải dựa ai. Đầy đủ. Mà sao cứ như có nỗi vắng trong lòng.

Hay là người ta thiếu nhau món nợ tình thương mến?

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 98: SẦU RIÊNG

                                                         

Khi đau buồn một mình, người ta gọi đó là sầu riêng. Sầu riêng là cô lẻ của một bóng hình. Nó ảm đạm và vàng úa

Tôi là trái sầu riêng. Người ta gọi tôi như  thế. Tôi xin kể đôi lời về tâm sự của trái sầu riêng. Tôi hiểu rất thấm thía thế nào là sầu riêng vì tên gọi của tôi là vậy.

Tôi sinh ra là một trái xanh giữa cuộc đời. Nơi tôi không có nỗi sầu.

Rồi một ngày có một bờ môi đặt lên da thịt tôi. Bờ  môi nhè nhẹ tìm đường, lần mò mút trên da thịt tôi. Một cảm giác thơm tho dâng lên từ tâm hồn. Chất ngọt rịn ra thấm trên đôi môi ấy. Tôi là một nỗi vui riêng.

Cũng ngày định mệnh đó, một bờ môi khác cúi xuống. Nhưng chuyện không ngờ xảy đến. Một bờ môi gằn gằn. Toàn thân tôi nhày nhụa. Ở bờ môi kia không rịn ra hương ngọt. Tôi là một nỗi nồng tanh.

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 262

Page 263: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Bạn thân mến,

Như thế đó. Hai bờ môi, hai cảm xúc khác nhau. Tôi ngỡ ngàng vì tôi vẫn là tôi. Tôi chỉ là một loài trái xanh giữa rừng xanh cuộc đời. Tự nơi tôi không là nỗi vui riêng, chẳng là nỗi sầu chung. Tất cả là do bờ môi con người.

Tình yêu cũng vậy, tự tình yêu, nó không là nỗi sầu, không là niềm vui.

Nó tuỳ thuộc ở trái tim nuôi nấng nó.

Hạnh phúc với người này có thể là đau khổ với người kia. Ngọt ngào với bờ môi này có thể là cay đắng với bờ nuôi nọ. Cũng như đau khổ, có thể là  “hoa trái đau thương lừng hương” với tâm hồn này, là bất hạnh với cõi lòng kia. Có phải chăng tất cả hệ tại ở mỗi tấm lòng không?

 

Có những chiều tôi nghe lời ca văng vẳng từ giáo đường:

Dẫu rằng đời con lầm than

sức hèn con ngã nhiều phen,

nhưng con luôn trông đến ngày tàn phai mùa đông,

ánh vàng sự rỗi reo mừng.

Lời ca lúc chiều về, tiếng hát nhẹ nhàng gởi vào cõi đời, tôi thấy êm đềm làm sao. Cho dù đời con lầm than, con vẫn cậy trông có một ngày mùa đông sẽ tàn phai. Cho dù sức hèn lắm có ngã nhiều phen, nhưng tâm hồn lời ca này vẫn nhìn thấy một ngày kia, sự cứu rỗi đẹp như những ánh vàng nhảy múa rực rỡ. Cũng là cuộc đời mà sao có người nhìn đời đẹp như thế.

Rồi cũng trong lời ca ấy. Có những lúc như rưng rưng, gởi một tấm lòng rất thiết tha:“Hoa trái đau thương lừng hương”. Trong đau thương mà tâm hồn lời thơ lại nếm thấy hương ngọt thơm lừng. Tâm hồn lời ca rủ đời đi tìm “ngọt trong sầu than”, đi tìm “mạnh mẽ trong nguy nan”. Ở đời làm sao tránh hết đau thương. Nó là mảnh vườn nhân thế mà. Bước vào vườn là vướng vai góc khổ lụy. Ở đời làm sao tránh hết nguy nan. Sinh ra là chào cuộc đời bằng tiếng khóc mà. Nhưng lạ quá, lời ca cứ nhẹ ru đời, rủ đời đi tìm sức mạnh trong nguy nan. Tôi nghe lời ca mà thấy cuộc đời có nhiều kỳ diệu. Và tâm tư tôi, thoang thoảng một tấm lòng của lời người nhạc sĩ ấy. Tôi vẫn lấp lại đôi lúc chiều buông:

Ban ơn cho con biết tìm ngọt trong sầu than,

biết tìm mạnh trong nguy nan,

biết có xuân trên đông tàn.

                                      (Hùng Lân: Mẹ Là Mùa Xuân Ánh Sáng).

 

Trở lại câu chuyện của trái sầu riêng. Lúc tôi gặp hai bờ môi, hai cõi lòng khác nhau tôi vừa kể trên. Tôi chỉ là một trái xanh trong vườn xanh cuộc đời. Nhưng tâm trạng con người khác nhau nên tôi là hương thơm cho người này mà không là hương thơm cho người kia. Lạ quá nhỉ.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 263

Page 264: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Trong hôn nhân, nỗi sầu riêng là nỗi sầu dư thừa. Đời tôi không mang một chút gì sầu riêng. Tôi chỉ là một trái xanh trong vườn xanh cuộc đời. Tôi bị gọi tên là sầu riêng nên tôi biết rõ cái tên gọi dư thừa này thế nào thì sầu riêng trong hôn nhân cũng dư thừa như thế.

Nếu đã là hôn nhân sao lại có sầu riêng?

Họ đi chung một con đường, chèo chung một con đò sao lại có nỗi sầu riêng?

Sầu riêng là tâm trạng của tâm hồn không có ai tâm sự.

Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Giếtsêmani. Người nói với các ông: “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện”. Rồi Người đem các ông, Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức”. Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đât mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. Người nói: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn”. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: “Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao?”

Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ (Jn. 14:32-40).

Đó là nỗi sầu riêng. Gần mà xa quá đỗi. Cõi lòng vắng lạnh trong phút cuối mùa hương khói. Như cây nhang gắng gượng vào phút cuối đời, lãng đãng làn khói tàn hơi. Nó là vắng vẻ của buổi chiều lá rụng. Khi bên nhau mà không có nhau thì nỗi sầu trở thành của riêng nhau. Như tiếng mõ tụng kinh da diết trong sân chùa của chuyện tình Lan và Điệp.

Nỗi vắng của Đức Kitô là: “Si-mon, anh ngủ à? Anh không nổi với Thầy một giờ sao”.

Phêrô có thức được một giờ hay cả đêm thì cũng không cứu được Đức Kitô. Ngài phải chết. Vậy Đức Kitô kêu tiếng gọi ấy làm gì?

Không ai có năng lực hoá giải được khổ đau. Tôi không cứu được con tôi khỏi tù. Cũng như bà mẹ sinh con. Không ai sinh dùm bà được. Bà phải đi một mình. Nhưng khi biết được có kẻ muốn đi với mình thì khác lắm. Nó là năng lực mầu nhiệm vì ơn thánh không phải là để cất nhắc hết nghịch cảnh, nhưng biến đổi tâm hồn kẻ mang nghịch cảnh thế nào thì đau khổ cũng thế. Cùng nhau đau khổ không có năng lực cất hết những khó khăn của đời nhau, nhưng có năng lực làm cho nhau bớt khổ đau. Đau khổ thành sầu riêng khi không ai muốn đau khổ với mình. Khi đau khổ mà phải sầu riêng thì nó hắt hủi. Không ai sinh con dùm bà mẹ được. Nhưng nếu có lời:

- Anh đi cùng em. Em luôn có anh bên đường.

Trong giờ sinh con ấy, nàng có đau nhưng không có khổ. Cái khổ làm người ta đau chứ chưa hẳn cái đau làm người ta khổ.

Đức Kitô không sợ đau, nhưng Đức Kitô biết “tâm hồn Thầy buồn đến chết được”. Nỗi buồn đó của Đức Kitô, nó là sầu riêng. Vì,  Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ.

Đau của Đức Kitô ở đây là không ai biết mình đau. Nó là bơ vơ. Trong tình yêu mà đau một mình thì không còn là tình yêu. Người ta chỉ có thể vì tình yêu mà đau một mình chứ không thể trong tình yêu mà lại phải một mình đau.

Bài thơ đầu anh viết tặng em

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 264

Page 265: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Là bài thơ anh viết về đôi dép

Vật tầm thường cũng trở nên rất đẹp

Khi lòng ta da diết một nỗi nhớ

 

Hai chiếc dép kia gặp gỡ tự bao giờ

Mà yêu quá chẳng rời nhau nửa bước

Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược

Lên thảm nhưng xuống cát bụi cùng nhau

 

Cùng bước cùng mòn không kẻ thấp người cao

Cùng chia sẻ sức người chà đạp

Dẫu vinh nhục không đi cùng người khác

Số phận chiếc này phụ thuộc ở chiếc kia

 

Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi

Mọi thay thế sẽ trở thành khập khiễng

Giống nhau lắm nhưng người đi sẽ biết

Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu

 

Cũng như mình trong những phút vắng nhau

Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía

Dẫu bên cạnh đã có người thay thế

Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh

 

Đôi dép vô tư khắng khít bước song hành

Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối

Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội

Lối đi nào cũng có mặt có đôi

Không thiếu nhau trên những bước đường đời

Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải, trái

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 265

Page 266: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Anh yêu em bởi những điều ngược lại

Gắn bó đời nhau bởi một bước đi chung

 

Hai mảnh đời thầm lặng bước song song

Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc

Chỉ còn một là không còn gì hết

(Không rõ tác giả)

Tiếng thở dài của hôn nhân là không ai khổ chung với mình. Khổ của hôn nhân là phải sầu riêng, khi đáng lẽ mục đích của hôn nhân là có ai phải sầu riêng thì ta nhận đó là nỗi sầu chung.

Lạ lùng của tình yêu là khi sầu chung thì người ta thấy “hoa trái đau thương lừng hương”.Và rồi lời ca rủ đời đi tìm “ngọt trong sầu than”, đi tìm “mạnh mẽ trong nguy nan”. Và rồi họ thấy“có xuân trên đông tàn”.

Lạy Mẹ Maria, có những chiều con nghe lời ca văng vẳng từ giáo đường:  “Dẫu rằng đời con lầm than sức hèn con ngã nhiều phen, nhưng con luôn trông đến ngày tàn phai mùa đông, ánh vàng sự rỗi reo mừng”.

Mẹ là Mùa Xuân Ánh Sáng.

Mẹ đã tìm thấy ngọt trong sầu than trên đường Ai Cập vì thánh Giuse chung khổ với Mẹ. Thánh Giuse đã gặp mạnh mẽ trong nguy nan vì Mẹ thương thánh Cả trong những ngày không tìm được chỗ trọ cho Mẹ sinh con. Thánh Giuse không mang mặc cảm bị Mẹ Maria trách là không đủ khả năng tìm cho Mẹ một chỗ hạ sinh. Hôm nay, nhiều nỗi sầu riêng vì trong gia đình có khi vợ coi thường chồng vì mình kiếm nhiều tiền hơn chồng. Trong mọi hoàn cảnh Mẹ thương thánh Giuse. Nơi Mẹ Maria và thánh Cả Giuse không có sầu riêng. Đau khổ và thiếu thốn thì có. Trong bóng đêm đường sang Ai Cập, cả hai cùng dìu nhau đi. Cô cực trong ngày tìm chỗ trú, cả hai chẳng ai trách ai. Và ngay từ đầu chưa về chung sống, thánh Giuse đã kính trọng mẹ như thế nào.

Con hiểu khi nỗi sầu riêng mà là của riêng thì tình yêu thành đau đớn.

Không thiếu nhau trên những bước đường đời.

Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải, trái.

Anh yêu em bởi những điều ngược lại.

Phép lạ của tình yêu là như đôi dép, khác lắm, một bên là phải, một bên là trái, chỉ một điều giống nhau là bởi một bước đi chung.

Phép lạ của tình yêu là khi nỗi sầu riêng gặp nhau, không làm cho nỗi sầu đó thành đau đớn hơn, mà đau đớn chung ấy lại đưa họ đến tình yêu.

Anh yêu em bởi những điều ngược lại.

Gắn bó đời nhau bởi một bước đi chung.

 

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 266

Page 267: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Vâng, Lạy Chúa, bởi một bước đi chung.

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 99: CỦA DÂNG CHO CHA, CỦA BIẾU CHO MẸ

Ai yêu mến cha mình thì đền bù tội lỗi.

  Ai thảo kính mẹ thì như người thu được kho tàng.

Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Trí khôn người có suy giảm, con cũng hãy nể vì, đừng nhục mạ người khi con đương sức trai tráng.

  Của dâng cho cha sẽ không rơi vào quên lãng.

  Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi và xây dựng đức công chính.

Vào ngày bĩ cực, công việc con sẽ được nhớ đến, như băng giá khi trời tối, tội con sẽ tan đi. Người lộng ngôn, khinh cha, để mẹ là xúc phạm đến Thượng Đế, kẻ tác tạo nên họ. (Huấn ca 3,3. 12-16).

Tôi trình bày đoạn văn trên thành hai câu một, để chúng ta thấy tác giả viết như một bài thi ca, đối xứng ý và  lời. Hai câu đầu nói về con người: Ai yêu mến. Ai thảo kính.

                                                          AI   AI

                                              YÊU MẾN   THẢO KÍNH

                                                      CHA   MẸ

                                   ĐỀN BÙ TỘI LỖI   THU ĐƯỢC KHO TÀNG

                                                                                   

Câu kế tiếp cắt nghĩa và căn dặn bổn phận làm con, cách cư xử với cha:

Hỡi kẻ làm con:

Hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi.

Chớ làm phiền lòng người khi người còn sống.

Trí khôn người có suy giảm:

Con cũng hãy nể vì.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 267

Page 268: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đừng nhục mạ người khi con đương sức trai tráng.

Rồi lại đến lời thi ca.

Hai câu này nói về của lễ: Của dâng. Của biếu.

                                           CỦA DÂNG   CỦA BIẾU

                                             CHO CHA   CHO MẸ

             KHÔNG RƠI VÀO QUÊN LÃNG   XÂY DỰNG ĐỨC CÔNG CHÍNH

Sau hai lời thi ca lại là câu cắt nghĩa:

Vào ngày bĩ cực:

Công việc con sẽ được nhớ đến,

Như băng giá khi trời tối, tội con sẽ tan đi.

Người lộng ngôn,

Khinh cha, dể mẹ

Là xúc phạm đến Thượng Đế,

Kẻ tác tạo nên họ.

Đoạn văn viết chi tiết, phong phú về ý và ngôn từ. Đối xứng cách trình bày.

Yêu mến cha, tôi đền bù được tội lỗi.

Thảo kính mẹ, tôi thu được một kho tàng.

Sau khi căn dặn cách đối xử, tác giả hứa những phần thưởng, và sau cùng là lời trừng phạt. Ai khinh cha, dể mẹ là xúc phạm đến Thượng  Đế.

Trong đời sống, ta không dám khinh cha dể mẹ. Ta không nói lời lộng ngôn. Ta không xúc phạm đến Thượng Đế. Nhưng của lễ nào ta biếu cho mẹ, ta dâng cho cha?

Thời gian có huyền nhiệm của thời gian. Có những tháng ngày tâm hồn ta chùng xuống vì thời gian đi quá lẹ, quá xa. Nhìn lại, bất chợt ta buâng khuâng tiếc nuối. Nếu cha tôi còn sống thì… Nếu mẹ tôi còn sống thì…

Tôi viết dòng này gởi người bạn trẻ.

Ở lứa tuổi của tôi, ngày tháng không còn thong thả, không còn nhìn đời lững thững nữa. Cứ thường, người ta quý thời gian là khi người ta đã có vết thương về thời gian. Bạn còn trẻ, còn cha, còn mẹ. Tôi viết riêng cho bạn. Tôi mong bạn chưa bị thời gian để trong tâm hồn nỗi muộn màng, hối tiếc.

Bố tôi bị stroke, tai biến mạch máu não tám năm nay. Tôi về thăm, bố không còn nhận ra tôi nữa. Ông cụ bại liệt nằm đó. Mẹ tôi phải săn sóc 24/24. Là linh mục với công việc mục vụ bận rộn ở đây. Tôi không biết ngày bố chết có về được không. Công việc giúp các khoá linh thao bắt tôi làm chương trình cả năm trước. Cộng đoàn đã lên chương trình cả năm, đến ngày tĩnh tâm, nếu bố chết, làm sao tôi từ chối, bỏ chương trình của họ mà về.

Có về thì người chết cũng đã chết. Tôi không làm được gì. Bởi đó, tôi chuẩn bị tinh thần đó cho mẹ tôi. Nếu bố chết, mỗi em một phận sự lo tang lễ cho bố. Tôi nói với mẹ là tôi không về. Về cũng chẳng làm được gì. Nhiều lần tôi nói vậy. Mẹ tôi chỉ nghe. Mẹ biết tôi là linh mục, còn bao công việc chung. Mẹ im lặng.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 268

Page 269: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đêm đó, tôi ngồi nhìn ánh đèn thành phố.

Trên sân thượng của căn nhà ở đường Cách Mạng Tháng Tám, Sài Gòn.

Ngày mai lên máy bay. Không biết ngày nào mới lại về thăm mẹ. Tôi nhớ đời sống của mẹ tôi. Tôi hình dung ngày đêm, những lúc vắng các cháu, mẹ tôi quanh quẩn bên cha tôi. Căn nhà có hai ông bà. Ông nằm đó không nói. Vắng tôi. Tôi phải lên Sài Gòn qua đêm để mai ra  phi trường. Đêm sau cùng. Tâm tư của một thời thanh niên yêu Sài Gòn, với những con đường và mưa đổ bất chợt. Tâm trạng của người quay về ôn kỷ niệm xưa mà sao Sài Gòn quá xa trong tâm thức. Tôi đang ngồi một mình trên sân thượng   thì bà chủ nhà đến.

- Mai Cha đi xa rồi.

Người đàn bà ngoài sáu mươi. Bà mới mất mẹ. Bà hỏi thăm gia đình tôi. Tình trạng bệnh tật của bố tôi. Bất chợt bà hỏi:

- Có mệnh hệ nào, ông cố qua đời, Cha có về không?

Câu hỏi này chính tôi đã chuẩn bị cho tôi từ lâu. Tôi cho bà biết tôi không về. Vì công việc mục vụ tôi không thu xếp được. Bà im lặng không nói. Cái im lặng giống mẹ tôi.

Dưới đường xe cộ ồn ào. Sài Gòn vào mùa nóng, khí trời rất hanh, quá oi bức. Bụi đường và khói xe. Tôi ngồi trên sân thượng, nhìn phố xá, nhìn những con đường như lời chào của người sắp đi xa, tâm trạng không vui gì. Những khoảng trống thinh lặng. Không có câu chuyện nào tiếp nối giữa tôi và người đàn  bà đang để tang mẹ. Có lẽ tâm trạng bà cũng không vui. Tôi cắt nghĩa thêm cho bà về câu trả lời của tôi lúc nãy:

- Tôi không về, vì về cũng chẳng làm gì được. Mọi cái tôi đã chuẩn bị.

Im lặng. Vẫn cái im lặng trong tâm hồn của một người phụ nữ. Giống mẹ tôi. Sau cùng bà nói:

- Cha cho phép con khuyên Cha một điều được không?

Ngôn ngữ bà dùng ở đây rất đặc biệt. Bà nói bà muốn khuyên tôi. Tôi thưa bà là tôi sẵn sàng nghe.

- Thưa Cha, con khuyên Cha, nếu ông cố chết, Cha phải về để tang. Cha là con trưởng trong gia đình. Không phải về thì cũng chẳng làm gì được, nhưng vì mẹ Cha. Cha về cho người sống chứ không phải cho người chết. Cha nói với mẹ Cha là ngày bố chết Cha không về. Cha có biết tấm lòng người mẹ thế nào không. Con vừa mất mẹ. Mất mẹ là cái tang lớn nhất. Năm nay đã ngoài sáu mươi. Mà ngày mẹ chết con vẫn thấy bơ vơ. Con cũng là mẹ, con có kinh nghiệm cả hai, kinh nghiệm của người con mất mẹ, và kinh nghiệm của người làm mẹ. Cha nói Cha không về. Mẹ Cha kính trọng nhiệm vụ của người con linh mục. Nhưng mẹ Cha sẽ buồn. Lời nói của Cha làm mẹ Cha nghĩ rồi đến ngày bà chết, Cha cũng không về. Người mẹ nào không thương con, muốn gần con. Cha có biết Cha nói thế, mẹ Cha đang sống những ngày nghĩ đến cái chết của ông cố, Cha không về, cái chết của mình, Cha cũng không về. Nó buồn lắm. Con là người mẹ con biết tâm hồn những bà mẹ. Cha phải về để thọ tang.

Trời lúc đó mấy giờ khuya rồi, tôi không rõ. Bà nói tới đó rồi im. Dưới đường xe cộ vẫn ồn ào náo nhiệt. Trên sân thượng tôi im lặng. Phố xá dưới kia không hồn.

Tôi không ngờ trong lối suy nghĩ của tôi từ trước đến nay quá nhiều lý trí. Bấy giờ tôi mới thấy cái im lặng của mẹ tôi khi tôi căn dặn các em phải làm gì khi bố chết. Bấy giờ

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 269

Page 270: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

tôi mới hiểu cái thinh lặng của mẹ tôi khi tôi an ủi bà là tôi không về. Một sự im lặng tôi thấy đau trong tim. Người đàn bà khuyên tôi, ấp úng, nước mắt lưng tròng. Tôi cũng đưa tay dúi mắt. Tôi thương mẹ tôi quá đỗi. Tôi muốn nói với bà. Mẹ ơi, con sẽ về.

Này người bạn trẻ còn cha mẹ.

Kinh nghiệm chỉ mua bằng thời gian. Mà trẻ thì làm gì có nhiều thời gian để mua. Tôi gởi bạn những dòng này không như lời khuyên luân lý, giáo điều. Tôi muốn gởi bạn như tâm tình mà có quý bạn tôi mới viết. Tôi cám ơn người đàn bà đã khuyên tôi. Thời gian có thể làm hồn ta hạnh phúc hay mang thương tích. Chớ gì chúng ta biết lắng nghe sự huyền nhiệm của thời gian.

Trên đường đời, chúng ta phải lắng nghe những người chung quanh nhiều lắm. Trong những lắng nghe, tại sao ta không lắng nghe chính mẹ mình, lúc mẹ còn sống?

Nhiều khi mẹ nói bằng im lặng của lòng mẹ.

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

Đường Đi Một Mình

ĐOẢN KHÚC 100 : NHỮNG MỐC ĐƯỜNG

Ngày 10 tháng 6 năm 2004.

Hôm nay kỷ niệm 15 năm linh mục.

Thấm thoát thế mà 15 năm rồi.

Sáng nay tôi đang trong những ngày giúp tĩnh tâm linh thao tại một miền quê nước Đức. Một ngôi làng nhỏ vùng Neuenkirchen do Cha Huỳnh Công Hạnh, dòng Ngôi Lời tổ chức.

Hôm nay, ngày kỷ niệm đánh dấu một mốc thời gian trong đời.

Tôi đang trên đường đi.

Tôi thích đời là những đường đi.

Thỉnh thoảng người ta dừng lại ở những mốc đường.

Tôi chọn bài suy niệm cho giờ kinh sáng, mốc đường ngày hôm nay trong Phúc Âm Mátthêu:

“Nước Trời giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt. 13:45).

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 270

Page 271: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Mười lăm năm trước, ngày dâng lễ mở tay, tôi tâm sự với cộng đoàn trong thánh lễ đầu đời của tôi về một lối đi:

Tôi không chọn đi trên đường có hoa thơm cỏ đẹp.

Tôi muốn làm nở hoa bất cứ con đường nào tôi đi tới.

Đây là một mơ ước giản dị. Một đường đi bình thường. Bởi tôi biết, chọn đi trên đường có hoa thơm cỏ lạ sẽ khó lắm. Bao giờ mới tìm thấy đường đó mà đi? Đời người ngắn ngủi, tìm mãi không thấy thì sao? Có người bất mãn với cuộc đời vì tìm mà không thấy. Có người đánh mất biết bao thời gian đáng lẽ để sống thì lại cứ đi tìm. Có người nuôi mơ ước quá cao, nhất định cứ đi tìm.

Tôi chọn một con đường đơn giản là: “Thôi, ta cứ trồng hoa bất cứ con đường nào ta đi tới”. Ước mơ ấy đơn giản, ta cứ trồng hoa nơi nào ta đi tới thì dễ hơn là vất vả đi tìm nơi có hoa. Hạt ở trong tay ta. Nhiều, ít, mình cứ gieo. Như thế, ta không bất mãn. Vun trồng hạnh phúc thì không phiêu lưu bằng thứ hạnh phúc cứ đi tìm.

Lạy Chúa,

Mười lăm năm trước, con đã tìm cho con một đường đi là như thế. Con hạnh phúc trên đường đi. Tất cả trong bàn tay mình, muốn trồng loại hoa nào, tùy con thôi. Tha hồ mà vui với mầu sắc. Đường đời thong thả. Mười năm nữa con sẽ mừng ngày Ngân Khánh Linh Mục. Ngày đó con ở đâu?

Mười lăm năm trước, con đâu biết sáng nay, một buổi sáng ở một làng quê bên nước Đức xa xôi, êm ả. Cử hành lễ mười lăm năm thụ phong linh mục trong hầm nhà nguyện nhỏ, ấm cúng. Với một nhóm người tĩnh tâm, nhiều thinh lặng hơn âm thanh. Chỉ con và đường mình đi.

Mười năm nữa, ngày đó, con cũng sẽ lập lại lối đi của con ngày thụ phong linh mục, với Chúa:

Con không chọn đi trên đường có hoa thơm cỏ đẹp.

Con muốn làm nở hoa bất cứ con đường nào con đi tới.

Vâng, dù hoa đó không đẹp như những hoa thơm cỏ lạ. Nhưng con biết, hạt giống trong tay con. Mười năm nữa, còn không, hay con đã yên nghỉ ở một nghĩa trang xa xôi nào đó. Nghĩa trang đó chắc không có hoa. Nhưng ngày con sống, con đã mơ ước muốn trồng hoa trên đường đi, thì dù nghĩa trang không hoa, chắc Chúa sẽ đưa con về bằng con đường cỏ hoa. Chỉ khác một điều, không phải hoa con trồng mà với lòng thương xót, Chúa trồng cho con, hoa thiêng liêng.

Đường đi một mình trong ý nghĩa nào đi nữa thì cũng vẫn là một bước tới phía trước là một giã từ ở phía sau.

Lạy Chúa,

Hay nói cách khác, Chúa bảo con cần bỏ lại phía sau mới bước tới phía trước được. Nó là một mốc của đường đi.

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 271

Page 272: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Đường Đi Một Mình

PHỤ TRANG

Trong  tập sách, tôi nhắc tới tĩnh tâm LINH THAO.

LINH THAO LÀ GÌ?

LINH là linh hồn, THAO là thao luyện, là tập dượt. Muốn cho thân xác khỏe mạnh ta tập THỂ THAO. Body Excercises. Đi Total Fitness. Để làm gì?

- Để khỏe mạnh, sống yêu đời.

- Để “burn” đi “fatness” cho dễ coi, để bớt cholesterol, thải những chất độc trong cơ thể.

Muốn cho linh hồn khỏe mạnh, người ta LINH THAO. Spiritual Excercises. Đi Retreat House. Để làm gì?

- Để bớt nhăn nhó với đời và đời bớt nhăn nhó với ta.

- Để thiên đàng vào trong ta chứ ta không tìm vào thiên đàng

TẠI SAO LẠI LINH THAO?

Thấy mình sống lo lắng, gia đình chán nản, phân hoá nội tâm… Nhận định tiếng nói thần lành, thần dữ. Làm sao để sống tự do và hạnh phúc hơn. Như người đau, muốn khỏi bệnh, phải diệt hết vi trùng gây bệnh, phải biết cách ngăn chặn vi trùng và phải biết phản công.

LINH THAO BẮT NGUỒN TỪ ĐÂU?

Gần 500 năm về trước, thánh Ignatio đã “sáng chế” ra phương pháp thao luyện linh hồn gọi là LINH THAO. Linh thao trọn vẹn là 30 ngày. Thánh nhân chia 30 ngày thành 4 tuần lễ với những thao luyện khác nhau. Ignatio “sáng chế” như thế nào? Hành trình nào đưa thánh nhân tìm ra phương pháp này? Tại sao lại 30 ngày? Chuyện còn dài, ta để dịp khác. Vào restaurant, ta order thức ăn rồi thưởng thức đã. Chuyện làm cách nào ông chủ xây được quán ăn. Ta để dịp khác.

Ngày nay LINH THAO được thực hiện dưới hình thức 30 ngày, 8 ngày, 5 ngày, và 3 ngày. Trung bình hằng năm có khoảng 50 khoá linh thao cho các cộng đoàn Công Giáo Việt tại Mỹ và Canada. Vì do thánh Ignatio nên còn gọi là Ignatian Retreat, tức tĩnh tâm theo phương pháp Ignatio, hoặc là Silent Retreat vì phải thinh lặng, hay Directed Retreat. Gọi là Directed Retreat, vì thánh Ignatio không giảng chung mà hướng dẫn từng người. Cứ nhìn em bé học đàn. Từng em cần hướng dẫn khác nhau.

LINH THAO DÀNH CHO AI?

LINH THAO dành cho mọi người, bất cứ ai muốn linh hồn mình được thao luyện đều có thể linh thao. Bất cứ ai muốn “good looking” cần body excercises. Cũng như bất cứ ai muốn đề phòng bị stroke cần “burn” đi cholesterol. Dĩ nhiên phải hiểu là người đó có sức khoẻ, tâm lý tốt.

CÓ THỂ LINH THAO MẤY NGÀY?

Thể thao giúp thân xác khỏe mạnh. Linh hồn cũng vậy, linh thao giúp linh hồn nhìn rõ cuộc đời để sống đúng và yêu đời. Vì thế bạn có thể linh thao 3 ngày, 8 ngày, 30 ngày.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 272

Page 273: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

Ingatio rất tinh tường khi thấy giáo dân khó làm linh thao 30 ngày trọn vẹn ở nhà tĩnh tâm. Ngài lấy 30 ngày trải dài nhiều tháng, làm linh thao trong đời sống hằng ngày. Chương trình này tạm gọi là Linh Thao ngoài đời.

LINH THAO MẤY LẦN TRONG ĐỜI?

Ngày hôm qua bạn ăn, hôm nay lại đói. Mấy ngày trước bạn đổ xăng vào xe, hôm nay đã hết. Chiếc áo bạn giặt hôm nào, nay lại dơ. Vì thế bạn ăn tiếp, đổ thêm xăng, giặt áo lại và sạc cái bình điện đã yếu. Linh hồn cũng vậy, bạn không thể LINH THAO một lần là xong. Không phải LINH THAO một lần cho biết, nhưng LINH THAO để sống, cũng như chẳng có ai ăn cơm một lần cho biết rồi thôi không ăn nữa, nhưng là tiếp tục ăn để sống. Ít nhất, bạn nên LINH THAO một năm một lần.

Đến đây, bạn biêt LINH THAO là gì rồi. Đó là thao luyện linh hồn, nên LINH THAO:

- Không phải là một phong trào.

- Không phải là một đoàn thể.

- Từng cá nhân, từng vợ chồng, từng gia đình, từng nhóm người đều có thể tổ chức các khoá tĩnh tâm LINH THAO. Bạn đã biết linh thao trên lý thuyết. Vấn đề không phải là nhìn “menu” trong quán ăn rồi về. Vấn đề là ăn.

LINH THAO – Không là phong trào. Nhưng có những phong trào muốn dùng linh đạo của thánh Ignatio để giúp đời sống thiêng liêng của họ. Chẳng hạn Cursillo. Thủ bản LEADER’S MANUAL của Cursillo, trang 57, chương 7: The Role Of The Cursillo Leader, phần hậu Cursillo, In The Postcursillo nói rõ các Cursillistas hàng năm nên tĩnh tâm Ignatian Spiritual Excercises. Hoặc phong trào Christian Life Community, Việt Nam ngày xưa gọi là Hiệp Hội Thánh Mẫu, nay gọi là Đồng Hành. Họ dựa trên nền tảng linh đạo này của thánh Ignatio. Bạn có thể vào website DONGHANH.ORG để biết về lịch trình các khoá linh thao hằng năm.

LỜI HƯỚNG DẪN

Muốn làm linh thao một cách hữu ích, trước khi đi bạn cần biết:

THINH LẶNG là điều cần thiết. Bạn phải giữ THINH LẶNG trong khoá. LINH THAO không phải là khoá sinh hoạt hội thảo, ồn ào.

Tại sao thinh lặng? – “Lạy Chúa, xin Chúa phán một Lời linh hồn con sẽ lành mạnh”. Bạn tuyên xưng lời này quá nhiều lần rồi. Sự lành mạnh đến từ Chúa nói tôi nghe, chứ không phải tôi nói Chúa nghe. Làm sao “nghe” nếu cứ nói?

Thay đổi lối suy nghĩ. – Không phải làm linh thao là hy sinh thời giờ cho Chúa mà cho chính bạn! Bạn đến hay không thì Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa! Có bạn hay không mặt trời vẫn mọc. Kẻ khôn ngoan là người đi tìm ánh sáng, đừng bắt ánh sáng cần mình.

Thời gian bao lâu? – Khoá ngắn, bắt đầu tối thứ Năm đến chiều Chúa Nhật.

Linh thao là thời gian nghe thiên thần kể chuyện.

Chúc bạn những ngày:

VACATION WITH THE LORD

NGHE THIÊN THẦN KỂ CHUYỆN THẬT TUYỆT VỜI

Người ta ngại đi linh thao vì không có thì giờ và tốn tiền. Họ ngại vì không biết chuyện thiên thần kể có dzui không mà đi?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 273

Page 274: 4 Cuon Sach Cua Nguyen Tam Thuong

- Một năm xưng tội một lần thôi có được không? Thiên thần kể chuyện thế này. Một hôm có người hỏi thùng rác trong bếp: “Phiền quá, lại phải đem mày đi đổ. Tốn thời giờ. Tốn tiền. Một năm đổ mày một lần được không?”

Thùng rác trả lời:

- Tùy!

Thiên thần tuổi thơ trên thiên đàng cũng nghịch lắm. Nếu Chúa sai mấy thiên thần tuổi thơ này kể chuyện, các thiên thần sẽ nói:

- Đó, chuyện thiên thần kể đại loại là như thế, có dzui không? Tùy!

Cũng như có lần có người nói:

- Vợ chồng tôi đâu có vấn đề gì mà “phải” đi tĩnh tâm.

Các thiên thần trả lời: “Có vấn đề thì đi gặp luật sư”.

Rồi mấy thiên thần bé thơ này lại khúc khích cười. Tuổi thơ mà. Tiếng cười dễ thương trước những câu hỏi của con người.

Thiền Niệm hay Linh Thao

Zen hay không Zen

là kẻ nghe thấy gì sau tiếng cười ấy.

 

 

 

 

Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.

NGUYỄN TẦM THƯỜNG Page 274