4 quoc tan la.pdf

5
Quc Tân La” hay “nước Tân La” ? Đinh Văn Tuấn Trong bài phú chNôm Cư trần lạc đạo phú [6] (CTLĐP) tương truyền là ca vua Trn Nhân Tông, Hi thứ 5 có đoạn: “Thin ngõ năm câu, nm nhãng trong quê Hà Hu. Kinh xem ba biến, ngồi ngơi mé quc Tân LaTrong đó, quc Tân La” chNôm ca các truyn bản được khc in là 國新羅, ttrước đến nay, ba chnày đã được hu hết các hc gi, nhà nghiên cứu Hán Nôm đều phiên Nôm đồng nht là “quc Tân La” [3,.6,7,11], cho đến nay chưa có ai hoài nghi cách phiên Nôm này. V2 chTân La 新羅 chc chn không thành vấn đề gì vì Tân La 新羅, trong Hán văn chỉ nước Tân La thng nht (668 - 935) là mt thời đại Pht giáo hưng thịnh nht ở bán đảo Triu Tiên ngày xưa, trong kinh sách Pht giáo, Tân La mang mt khái niệm tượng trưng cho mt cõi Pht, thế gii Cc Lc. 1 Nhưng chỉ riêng chquc trước Tân La 新羅, theo chúng tôi dường như có một điều bt n về cách đọc Nôm. Chlà mt chHán có âm Hán Vit là quc vi nghĩa chỉ lãnh th, nhà nước và trong CTLĐP, có lngười đầu tiên xác định âm đọc là “quc” chính là hc giả Đào Duy Anh, trong sách ChNôm: Ngun gc – Cu to - Din biến (1975) [3] tác gixác định: “Trong snhng từ xưa còn nên knhng từ đơn mượn chHán (âm Hán Việt) để biu hin nhng khái nim mà đời sau người ta chdùng nhng tViệt để biu hin thôi…Quc là nước (Ngi nghe mi quc Tân La)” sau đó đến Hc giHoàng Xuân Hãn trong Văn Nôm và chữ Nôm đời Trn Lê [7] vẫn đọc quc vì cho là mt tc: “...ngồi ngơi mé (mái) quc Tân La: lòng ta êm lặng như đang nghgia cnh chùa chin nuc Tân la.” hay mi gn đây, PGS,TS Hoàng ThNgtrong sách Thin Tông bn hnh (2006)[6] cũng phiên Nôm không khác gì các tin bi. Ngay trong CTLĐP, cũng đã có chdùng tiếng Hán Việt như một tVit Hi th1: Nguyt bc vng thanh” hoc Quc âm thi tp [10] ca Nguy n Trãi: “Đêm thanh hp nguyt nghiêng chén” (Ngôn chí, bài 10) nhưng với chquc , chúng tôi đã thtìm hiu xem stht trong ti ếng Vit thi Trn trvsau, có trường hp nào tiếng “quốc” được dùng như một tchay mt từ xét như từ vng tiếng Vit? Qua kho sát, thăm dò các tài liu chNôm và quc ng, thật đáng ngc nhiên li không thy mt chng cnào xác nhn có hiện tượng dùng tiếng “quốc” như một từ đơn hay là mt tghép theo đúng trật ttiếng Việt như kiểu “quc Tân la”. Tuy vy, chúng tôi vn tìm thy mt hiện tượng bất thường vào thế kXVII, nơi một văn bản chquc ngthi kđầu đó là bản Kinh Lạy Cha có niên đại vào năm 1632, theo sách Các nhà truyn giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu ca giáo hi Công giáo Vit Nam (Quyn 1) ca Giáo sư Roland Jacques, [17] phn 4 – By bn phụ trương - Phụ trương I: Nguyên văn bản tho Áo Môn. [C- Kinh Ly Cha] (tr. 247) đã ghi “coác Cia” còn phn Phtrương VII, Tiến trình Kinh Lạy Cha có đưa ra bản 1 VTân La xem ngun tài liu tinternet: 1/.http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di_k%E1%BB%B3_nh%C3%A0_n%C6%B0%E1%BB%9Bc_B%E1%BA%AF c-Nam , 2/. http://old.thuvienhoasen.org/phatgiaodaihan-tranquangthuan-03.htm ,

Upload: dinh-van-tuan

Post on 02-Jan-2016

59 views

Category:

Documents


5 download

TRANSCRIPT

“Quốc Tân La” hay “nước Tân La” ? Đinh Văn Tuấn Trong bài phú chữ Nôm Cư trần lạc đạo phú [6] (CTLĐP) tương truyền là của vua Trần Nhân Tông, ở Hội thứ 5 có đoạn: “Thiền ngõ năm câu, nằm nhãng trong quê Hà Hữu. Kinh xem ba biến, ngồi ngơi mé quốc Tân La” Trong đó, “quốc Tân La” chữ Nôm của các truyền bản được khắc in là 國新羅, từ trước đến nay, ba chữ này đã được hầu hết các học giả, nhà nghiên cứu Hán Nôm đều phiên Nôm đồng nhất là “quốc Tân La” [3,.6,7,11], cho đến nay chưa có ai hoài nghi cách phiên Nôm này. Về 2 chữ Tân La 新羅 chắc chắn không thành vấn đề gì vì Tân La 新羅, trong Hán văn chỉ nước Tân La thống nhất (668 - 935) là một thời đại Phật giáo hưng thịnh nhất ở bán đảo Triều Tiên ngày xưa, ở trong kinh sách Phật giáo, Tân La mang một khái niệm tượng trưng cho một cõi Phật, thế giới Cực Lạc.1 Nhưng chỉ riêng chữ quốc 國 trước Tân La 新羅, theo chúng tôi dường như có một điều bất ổn về cách đọc Nôm. Chữ 國 là một chữ Hán có âm Hán Việt là quốc với nghĩa chỉ lãnh thổ, nhà nước và trong CTLĐP, có lẽ người đầu tiên xác định âm đọc là “quốc” chính là học giả Đào Duy Anh, trong sách Chữ Nôm: Nguồn gốc – Cấu tạo - Diễn biến (1975) [3] tác giả xác định: “Trong số những từ xưa còn nên kể những từ đơn mượn ở chữ Hán (âm Hán Việt) để biểu hiện những khái niệm mà đời sau người ta chỉ dùng những từ Việt để biểu hiện thôi…Quốc là nước (Ngồi nghe mới quốc Tân La)” sau đó đến Học giả Hoàng Xuân Hãn trong Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần Lê [7] vẫn đọc 國 là quốc vì cho là một từ cổ: “...ngồi ngơi mé (mái) quốc Tân La: lòng ta êm lặng như đang nghỉ giữa cảnh chùa chiền nuớc Tân la.” hay mới gần đây, PGS,TS Hoàng Thị Ngọ trong sách Thiền Tông bản hạnh (2006)[6] cũng phiên Nôm không khác gì các tiền bối. Ngay trong CTLĐP, cũng đã có chỗ dùng tiếng Hán Việt như một từ Việt ở Hội thứ1: “Nguyệt bạc vừng thanh” hoặc ở Quốc âm thi tập [10] của Nguyễn Trãi: “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Ngôn chí, bài 10) nhưng với chữ quốc 國, chúng tôi đã thử tìm hiểu xem sự thật trong tiếng Việt thời Trần trở về sau, có trường hợp nào tiếng “quốc” được dùng như một từ cổ hay một từ xét như từ vựng tiếng Việt? Qua khảo sát, thăm dò các tài liệu chữ Nôm và quốc ngữ, thật đáng ngạc nhiên lại không thấy một chứng cứ nào xác nhận có hiện tượng dùng tiếng “quốc” như một từ đơn hay là một từ ghép theo đúng trật tự tiếng Việt như kiểu “quốc Tân la”. Tuy vậy, chúng tôi vẫn tìm thấy một hiện tượng bất thường vào thế kỷ XVII, nơi một văn bản chữ quốc ngữ thời kỳ đầu đó là bản Kinh Lạy Cha có niên đại vào năm 1632, theo sách Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của giáo hội Công giáo Việt Nam (Quyển 1) của Giáo sư Roland Jacques, [17] ở phần 4 – Bảy bản phụ trương - Phụ trương I: Nguyên văn bản thảo Áo Môn. [C- Kinh Lạy Cha] (tr. 247) đã ghi “coác Cia” còn ở phần Phụ trương VII, Tiến trình Kinh Lạy Cha có đưa ra bản

1 Về Tân La xem nguồn tài liệu từ internet:

1/.http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di_k%E1%BB%B3_nh%C3%A0_n%C6%B0%E1%BB%9Bc_B%E1%BA%AF

c-Nam, 2/. http://old.thuvienhoasen.org/phatgiaodaihan-tranquangthuan-03.htm,

KLC năm 1700-1750 cũng ghi: “cuốc cha trị đến”, ngoài ra trong một tài liệu Kinh Lạy Cha của người Công Giáo Việt Nam vào năm 1778 cũng ghi nhận “cuoc cha tri den...”[12] và trong Quảng tập viêm văn (1898) của Edmond Nordemann [5], trong sách này có bản Kinh Lạy Cha (Chương X: Đạo Gia tô - Kinh Thiên Chúa) đã ghi: “...quốc Cha trị đến”. Cách dùng tiếng “quốc” như trên có phải là một bằng chứng cho việc khẳng định “quốc” là một từ cổ gốc Hán dùng theo ngữ pháp Việt? Theo ý chúng tôi, đây chỉ là một hiện tượng xảy ra trong thời kỳ chữ quốc ngữ phôi thai, các nhà truyền giáo ngoại quốc dù đã học tiếng Việt khá giỏi họ cũng chẳng thể nào phân biệt rõ ràng khi nào dùng quốc khi nào dùng nước như người Việt bản xứ nên khi chuyển dịch sang tiếng Việt họ đã hiểu quốc và nước là từ đồng nghĩa và muốn dùng từ nào cũng được theo dụng ý của minh. Chúng tôi xin dẫn ra một bằng chứng từ trong sách Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của giáo hội Công giáo Việt Nam (sđd) ở phần cước chú của Bản văn tiếng Việt - Một tài liệu ngôn ngữ học đối chiếu Nhật-Hoa-Việt biên soạn tại Áo môn (Macao) năm 1632: “Codex (bộ văn bản viết tay) 7968 trong Thư viện Quốc gia tại Lisboa. Bộ văn bản này...có Kinh Lạy Cha bằng chữ Latinh, chữ Nôm và chữ Việt viết bằng mẫu tự Latinh, đây là một bản thảo đưọc biên soạn giữa 1739 và 1754: thật vậy lời tựa của văn bản ấy nói rõ rằng phần tiếng Việt chỉ nhằm mục đích giải thích văn bản Latinh và không được đọc nguyên văn như thế” (tr.225) [phần in đậm do chúng tôi nhấn mạnh]. Rõ ràng các dịch giả Kinh Lạy Cha đã hiểu: QUỐC = NƯỚC, do tiếng Việt bấy giờ biểu đạt 2 ý niệm nhà nước và chất lỏng thiên nhiên cùng một tiếng “nước” nên khi chuyển dịch người ngoại quốc đã cẩn thận, cố ý dùng “quốc” (nhà nước) để tránh hiểu lầm về “nước” (chất lỏng). Trong sách Phép giảng tám ngày của Alexandre de Rhodes [2], Ngày thứ sáu, có 2 lần tác giả đã viết: “… vì cŏấc tlên blời” (tr.177), “…sự cŏấc tlên blời” (tr.182) đây chỉ là một lầm lẫn như đã giải thích ở trên vì thật ra chính trong Phép giảng tám ngày A.Rhodes đã từng viết là nước An nam, nước Ngô, nước thiên hạ... Các tài liệu quốc ngữ vào thời kỳ này vẫn dùng phổ biến tiếng “nước” chỉ nhà nước, đất nước, theo Lm Ðỗ Quang Chính trong Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 [4] cho biết tài liệu viết tay vào năm 1659 mà Bento Thiện viết có tiêu đề “Lịch sử nước Annam” cùng thư Bento Thiện gửi cho Fillipo Marino đã từng viết là nước này, nước Annam..., hay trong bài Một bức thư cuối thế kỷ XVII, triều đình Lê Trịnh gửi vua nước Pha Lan Sa [15], Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã cho biết bức thư này viết vào khoảng những năm 1683-1686, ở phần bản dịch chữ Quốc ngữ cũng đã ghi: “...Nay nước An nam này với nước Đại Pháp…”. Khi tìm hiểu các truyền bản chữ Nôm thuộc hàng sớm nhất từ đời Trần đến Lê sơ thì kết quả cho thấy tiếng Việt bấy giờ chỉ có tiếng nước (đất nước, nhà nước) chứ không hề có dạng nào theo kiểu quốc như “quốc Đại Việt”, “quốc nhà”… sau đây là một số từ nước qua thơ Nôm xưa: Đời Trần: - Trần Trùng Quang tiễn Nguyễn Biểu đi sứ [18]: “Việc nước một mai công ngõ vẹn” - Triều thần can vua đừng giữ Vương Tường[8]: “Hán Hồ đôi nước cách đề phong” - Vương tường oán triều đình: “Vực nước ví còn tài Vệ, Hoắc” 1

1 Theo cụ Hoàng Xuân Hãn thì những bài thơ Đưòng luật Vương Tường trên ra đời vào khoảng thời Trần. [8]

Đời Lê sơ: - Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi) [19]: “Nước chẳng còn có Sử Ngư” (Mạn thuật kỳ 14) “Còn có một lòng âu việc nước” (Thuật hứng, 23)… Tóm lại, thực sự chưa có một bằng chứng xác đáng nào chứng minh từ thời Trần cho đến nay, trong tiếng Việt, đã từng dùng tiếng QUỐC như một từ vựng tiếng Việt. Do đó theo ý chúng tôi, ở bài phú của vua Trần, thì chữ 國 trong 國新羅 nên đọc là NƯỚC thay vì là QUỐC, chữ 國 với âm đọc “nước” là một chữ Nôm mượn Hán đọc theo nghĩa và 國新羅 sẽ là NƯỚC Tân La, đọc như thế sẽ rất hợp vì ứng đối với câu trên là QUÊ Hà Hữu 圭何有1 (“quê” nôm đối với “nước” nôm, “Hà Hữu” Hán đối với “Tân La” Hán). NƯỚC Tân La rất thuận theo ngữ pháp Việt chứ không trở nên khác thường nếu đọc là QUỐC Tân La.. Để ghi âm tiếng NƯỚC (đất nước, nhà nước) vua Trần Nhân Tông đã đã dùng chữ Hán國(đọc nghĩa) nhưng với tiếng NƯỚC (chất lỏng tự nhiên) thì lại dùng chữ 渃2(giả tá) như ở Hội thứ nhất (CTLĐP): “chơi nước biếc ẩn non xanh”, chắc hẳn là có dụng ý để phân biệt ngữ nghĩa. Trong hầu hết các văn bản chữ Nôm còn lại đa số chỉ thấy dùng chữ 渃 để ghi âm nước cho cả 2 nghĩa (nhà nước, chất lỏng). Các bộ tự điển chữ Nôm từ tự vị An nam – La tinh của P. Béhaine (1772 - 1773) [16], Đại Nam quốc âm tự vị (1896) [10] của Huỳnh Tịnh Của, Bảng tra chữ Nôm [20] do Viện Ngôn Ngữ Học biên soạn, cho đến các bộ tự điển chữ Nôm hiện đại như Tự điển chữ Nôm [14] do Nguyễn Quang Hồng chủ biên (2006) và Tự điển chữ Nôm trích dẫn (2009) [13] nhiều tác giả hợp soạn do Viện Việt Học ấn hành đều không thấy ghi nhận dạng chữ 國 như một từ Việt cổ gốc Hán và cũng không có tự dạng 國 ghi âm “nước”, nhưng chỉ riêng Đại từ điển chữ Nôm (1998) [21], của cụ Vũ Văn Kính là có ghi nhận tự dạng 國, 国 ghi âm“nước”, đặc biệt là trong Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII – Các tác phẩm chữ nôm của Maiorica [22] của cụ Vũ Văn Kính đã ghi nhận Maiorica từng sử dụng chữ 國 đọc theo nghĩa là “nước”. Đây chính là một bằng chứng quan trọng để chứng minh cho cách đọc 國新

羅 là NƯỚC Tân La. Nếu như phát hiện trên đây về cách đọc chữ 國 là NƯỚC là đúng thì rất mong các nhà nghiên cứu Hán Nôm trả lại cho âm đọc thực sự của 國新羅 mà vua Trần Nhân Tông đã viết trong CTLĐP là NƯỚC Tân La chứ không phải là QUỐC Tân La, bổ sung chữ Nôm nước 國 vào tự điển chữ Nôm và về mặt ngữ âm lịch sử, do trước thời Trần cũng không còn một truyền bản chữ Nôm nào nên đây rất có thể là một chứng tích cho tiếng “nước” chỉ đất nước, nhà nước đã có mặt sớm nhất từ thời Trần (1225 - 1400). Biên Hòa ngày 05 tháng 7 năm 2011

1 Quê hà hữu lấy ý trong câu: “vô hà hữu chi hương”(cõi không ở đâu cả hay chỗ hư không tịch mịch) trong Thiên Tiêu Dao Du của sách Nam Hoa Kinh -Trang Tử 2Đa số các tự điển, sách nghiên cứu chữ Nôm đều cho 渃 là chữ Nôm hài thanh:(thủy+nhược) nhưng theo chung tôi, 渃 chỉ là một chữ Nôm mượn Hán, kiểu giả tá vì chữ 渃 ,xưa quen thuộc với các nhà nho Việt, chẳng hạn trong Tự Đức Thánh chẽ tự học giải nghĩa ca do vua Tự Đức biên soạn đã từng ghi: “渃: sông Nhược” và theo Khang Hy tự điển: “日灼切,音弱”: nhật chước thiết, âm nhược.

Tài liệu tham khảo

1. Alexandro de Rhodes (1651), Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm et Latinvm, bản dịch tiếng Việt của Thanh Lãng,

Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Nxb Khoa học Xã hội, 1991.

2. Alexandro de Rhodes (1651), Cathechismus (Phép giảng tám ngày), Tủ Sách Đại Kết tái bản theo bản Việt ngữ của Tinh

Việt Văn Đoàn, 1993

3. Đào Duy Anh, Chữ Nôm: Nguồn gốc – Cấu tạo – Diễn biến. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1975.

4. Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, NXB Ra khơi, Sài gòn 1972

5. Edmond Nordemann, Quảng tập viêm văn, bản in Hà Nội 1898 (nguồn Thư viện Quốc Gia VN)

6. Hoàng Thị Ngọ, Thiền tông bản hạnh, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & Nxb Văn học, H., 2009.

7. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập III, Nxb Giáo Dục, 1998

8. Hoàng Xuân Hãn, Nghiêm Toản, Thi văn Việt nam , NXB Sông Nhị Hà Nội, 1951

9. Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên (dịch và giới thiệu), Tự vị Annam - Latinh (1772 – 1773), NXB Thành Phố Hồ Chí

Minh, 1999

10. Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc âm tự vị, Tom I-II Sài Gòn 1895-1896, Nxb Trẻ, tái bản 1998

11. Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông, NXB TP.Hồ Chí Minh, 2000

12. Lorenzo Hervás, Saggio pratico delle lingue: con prolegomeni, e una raccolta di orazioni dominicali in piu di ... (1787)

Published 1787 Per Gregorio Biasini,

Nguồn:http://books.google.com/books?id=oigQAAAAIAAJ&pg=RA8-PA126#v=onepage&q&f=false , (xin cảm ơn anh Nguyễn Vinh Quang đã chỉ dẫn tài liệu này)

13. Nguyễn Hữu Vinh, Ðặng Thế Kiệt, Nguyễn Doãn Vượng, Lê Văn Ðặng, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Ngọc Bích, Trần

Uyên Thi, Tự điển chữ Nôm trích dẫn, Viện Việt Học ấn hành, 2009.

14. Nguyễn Quang Hồng (chủ biên), Tự điển chữ Nôm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2006

15. Nguyễn Tài Cẩn, Một bức thư cuối thế kỷ XVII, triều đình Lê Trịnh gửi vua nước Pha Lan Sa, Tạp chí Hán Nôm số 3 (28)

/1996

16. P.J. Pigneaux, Dictionarium Anamitico - Latinum, (bản thảo viết tay) (1772-1773).

17. Roland Jacques, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của giáo hội Công giáo Việt Nam (Quyển 1),

(http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=139&ict=38)

18. Viện Văn học (biên soạn), thơ văn Lý Trần (tập 3), Nxb KHXH, Hà Nội, 1978

19. Viện Ngôn Ngữ Học (biên soạn), Bảng tra chữ Nôm, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976

20. Viện Sử học (dịch và phiên âm), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học Xã hội, 1976

21. Vũ Văn Kính, Đại tự điển chữ Nôm, NXB Văn Nghệ, 1999

22. Vũ Văn Kính, Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII – Các tác phẩm chữ nôm của Maiorica, NXB TP Hồ Chí Minh, 1992

(Đăng trên Tạp Chí Ngôn Ngữ số 1 năm 2012)