5 chuyên đề 2 văn hóa ứng xử và đạo đức nghề nghiệp
TRANSCRIPT
Chuyên đề 2
VĂN HÓA ỨNG XỬ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Người biên soạn
PGS.TS. Nguyễn Đình Hòa
I. MỤC TIÊU
Môn học trang bị những kiến thức và kỹ năng cơ bản về văn hóa ứng xử và
đạo đức nghề nghiệp của Kiểm toán viên (KTV) Kiểm toán Nhà nước (KTNN),
giúp cho KTV KTNN vận dụng và thực hiện trong thực thi công vụ.
II. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHUYÊN ĐỀ
- Tổng quan về văn hóa ứng xử, đạo đức và đạo đức nghề nghiệp kiểm toán
viên Nhà nước.
- Mối quan hệ giữa Đạo đức, nhân cách với tôn giáo và pháp luật.
- Yêu cầu và nội dung văn hóa ứng xử của KTV Nhà nước, con đường hình
thành văn hóa ứng xử của KTV.
- Yêu cầu và nội dung đạo đức nghề nghiệp của KTV.
- Sự cần thiết phải ban hành quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp KTV
KTNN Việt Nam.
- Nội dung Quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp của KTV KTNN Việt Nam.
III. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
1. Tổng quan về văn hóa ứng xử, đạo đức và đạo đức nghề nghiệp kiểm
toán viên Nhà nước.
1.1. Khái niệm về văn hóa ứng xử
1.1.1. Khái niệm về văn hóa
Văn hóa có nhiều cách tiếp cận khác nhau, được hiểu theo cả nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Hiểu theo nghĩa hẹp văn hoá thiên về mặt giá trị tinh thần (hay văn
hoá phi vật thể) bao gồm các giá trị về lối sống, truyền thống, đạo đức, tôn giáo,
thẩm mỹ là hình thái ý thức trong kiến trúc thượng tầng của xã hội. Với nghĩa
rộng văn hoá là sự tổng hợp sáng tạo giá trị tinh thần và cả về giá trị vật chất
(văn hoá vật thể) trong quá trình phát triển của xã hội. Trong nhiều cách tiếp cận
khác nhau, chúng tôi thiên về cách tiếp cận hệ thống, theo cách tiếp cận này thì
48
mọi hiện tượng sự kiện thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với
nhau, tạo thành một chỉnh thể có tính chất hệ thống. Theo quan điểm này có hai
định nghĩa tiêu biểu và theo chúng tôi đó là những định nghĩa mà chúng ta có
thể chia sẻ và tiếp cận trong trong chuyên đề này. Đó là định nghĩa của
UNESCO và của Giáo sư Trần Ngọc Thêm. Theo UNESCO "Văn hóa phản ánh
và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống của mỗi cá
nhân và các cộng đồng đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong
hiện tại, qua hàng bao thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị truyền
thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc từ khẳng định bản sắc
riêng của mình". Còn tác giả Trần Ngọc Thêm trong giáo trình "Cơ sở văn hóa
Việt Nam" dùng chung cho các trường đại học đã định nghĩa "Văn hóa là một hệ
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ
qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội".
Tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại
tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội.
Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội
hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác
xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội
được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của
con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra
1.1.2. Khái niệm về văn hóa giao tiếp ứng xử
Để hiểu được khái niệm về văn hóa giao tiếp, trước hết chúng ta cần hiểu
được khái niệm giao tiếp. Giao tiếp là một dạng hoạt động của con người. Có
khá nhiều khái niệm hay định nghĩa về giao tiếp, mỗi định nghĩa đều có mặt hợp
lý của nó và đa số tác giả cho rằng, nên hiểu giao tiếp theo nghĩa hẹp sẽ có tác
dụng và hiệu quả thực tiễn hơn trong giáo dục cũng như trong đời sống. Theo
đó, Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con
người, qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý và được biểu hiện ở các quá trình
thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại với nhau.
Như vậy, để cho giao tiếp có hiệu quả nghĩa là làm sao cho quá trình trao
đổi thông tin, sự hiểu biết, rung cảm và tác động qua lại với nhau được diễn ra
tốt đẹp, gây ấn tượng đòi hỏi sự giao tiếp phải có văn hóa.
49
Do vậy: Văn hoá giao tiếp ứng xử là một phạm trù rất rộng bao gồm thái
độ,cử chỉ, lời nói, hành vi thể hiện lịch sự, chân tình và cả trang phục phù hợp.
Trong xã hội ngày càng văn minh, hiện đại thì những quy tắc, những phong cách
giao tiếp lịch sự, văn minh ấy càng quan trọng và cần được thể hiện. Những việc
tưởng chừng như đơn giản ấy, thực ra lại rất quan trọng và mang lại một giá trị
to lớn.
1.2. Khái niệm đạo đức và đạo đức nghề nghiệp
1.2.1. Khái niệm về đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao
cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong
quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội.
Đạo đức được hiểu theo các nghĩa sau đây:
- Nghĩa hẹp: Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự
giác trong quan hệ giữa con người với con người, con người với cộng đồng xã
hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình.
- Nghĩa rộng: Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều
chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và
quan hệ với tự nhiên.
- Còn theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà
Nẵng 2002: “Đạo đức là những nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, qui
định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”, “là phẩm
chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những chuẩn mực đạo đức mà có”.
- Quan niệm phổ thông: “Đạo đức là những phép tắc, căn cứ vào chế độ kinh
tế, chế độ chính trị mà đặt ra, quy định quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân
và xã hội cốt để bảo vệ chế độ kinh tế, chế độ xã hội”.
Qua đó chúng ta thấy rằng, dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì: Đạo đức là
hệ thống các quy tắc, chuẩn mực ứng xử được xã hội thừa nhận, quy định hành vi
quan hệ giữa con người với con người, con người đối với xã hội, đối với tự nhiên
và đối với bản thân mình nữa phù hợp với hình thái kinh tế - xã hội.
Cùng quan điểm, ở những góc độ khác nhau của đời sống, cách nhìn nhận
đạo đức cũng khác nhau.
50
Đạo đức xã hội có chức năng giáo dục, điều chỉnh và nhận thức. Từ nhận thức
về các quy luật, bản chất, khái niệm đạo đức để nhận thức lại đạo đức của mình.
Đạo đức chỉ xuất hiện nơi nào có mối quan hệ (quan hệ giữa cá nhân-cá
nhân, cá nhân-tập thể,...), hành vi điều chỉnh các mối quan hệ luôn tự giác, mối
quan hệ của đạo đức là mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan của con người
nhưng đạo đức bản thân có ý nghĩa nhân sinh quan. Đó cũng chính là quy luật
của đạo đức và nội dung của đạo đức do tồn tại xã hội quyết định.
Bản chất của đạo đức xã hội là một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là
sự điều chỉnh mối quan hệ xã hội, là biện pháp giải quyết và khắc phục các mâu
thuẫn xã hội làm cho xã hội phát triển, tiến bộ.
1.2.2. Khái niệm về đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức cụ thể
trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp xuất hiện có tên gọi khoa
học về cách sử dụng nghề nghiệp của con người (Déon: bổn phận cần phải làm,
logos: học thuyết - Déontologic được nhà triết học Anh Jeremy Bentham (1748-
1832) sử dụng có ý nghĩa là nghĩa vụ luận, đạo đức nghề nghiệp).
Đạo đức nghề nghiệp là những yêu cầu đạo đức đặc biệt, có liên quan đến
việc tiến hành một hoạt động nghề nghiệp nào đó. Là tổng hợp của các quy tắc,
các nguyên tắc chuẩn mực của một lĩnh vực nghề nghiệp trong đời sống, nhờ đó
mà mọi thành viên của lĩnh vực nghề nghiệp đó tự giác điều chỉnh hành vi của
mình cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của nó trong mối quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể với xã hội,...
Tuân theo các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện cho việc
nâng cao chất lượng lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Phẩm chất đạo đức cá nhân trong xã hội đều có nét chung, nhưng đạo đức
trong lĩnh vực nghề nghiệp có những đặc thù và yêu cầu riêng biệt.
1.2.3. Tiêu chí đánh giá đạo đức và đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức có cấu trúc của nó. Các thành tố của đạo đức là: ý thức đạo đức,
hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức. Xã hội sẽ đánh giá đạo đức theo những tiêu
chí sau đây:
- Ý thức đạo đức: Con người không thể sống bên ngoài các mối quan hệ xã
hội. Cốt lõi của những mối quan hệ đó là tương quan của những quyền lợi cá
nhân và những quyền lợi cộng đồng. Để tồn tại, con người phải dựa vào nhau
51
trên cơ sở những lợi ích cá nhân phải phù hợp với những lợi ích của cộng đồng.
Những nguyên tắc ấy bảo đảm cho sự phù hợp của những quyền lợi ấy khi đã
trở thành tình cảm, quan điểm, quan niệm sống chính là ý thức đạo đức. Xã hội
và từng thành viên trong xã hội sẽ đánh giá đạo đức của mỗi người qua thái độ,
quan điểm và quan niệm sống, nghĩa là đánh giá qua nhân sinh quan của một cá
nhân. Một con người có đạo đức tốt là con người có quan điểm, quan niệm sống
đúng đắn và tiến bộ phù hợp với những giá trị và chuẩn mực đạo đức được xã
hội thừa nhận.
- Hành vi đạo đức: Mọi hành vi được thực hiện do thôi thúc của một động
cơ nào đó. Khi hành vi được thực hiện, đó là sự thôi thúc của ý thức đạo đức và
được gọi là hành vi đạo đức. Hành vi đó thể hiện ý thức đạo đức và văn hoá đạo
đức của cá nhân.
Hành vi đạo đức tác động trực tiếp đến con người và gắn liền với ý thức
đạo đức. Khi xem xét văn hoá đạo đức chúng ta không thể chỉ xem xét ý thức
đạo đức mà phải xem xét cùng với những hành vi đạo đức. Nghĩa là xã hội sẽ
đánh giá đạo đức qua hành vi qua hành động của mỗi người. Một con người có
đạo đức là con người có những hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã
hội.
- Quan hệ đạo đức:
Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người và
con người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức. Con người sống trong một xã
hội nhất định không thể không có các mối quan hệ mà phải có các mối quan hệ
và giao tiếp với nhau. Như Mác đã nói “ Con người là mối tổng hòa các mối
quan hệ xã hội”.
Quan hệ đạo đức là một dạng quan hệ xã hội, là yếu tố tạo nên tín hiệu thực
của bản chất xã hội của con người. Các quan hệ đạo đức không chỉ hình thành
nên giữa các cá nhân, mà còn giữa cá nhân với xã hội, với những mặt riêng biệt
của xã hội (chẳng hạn: với lao động, với văn hoá tinh thần) trong chừng mực
những mặt này liên quan đến các lợi ích chứa đựng trong các mối quan hệ này.
Quan hệ đạo đức được hình thành và phát triển như những qui luật tất yếu
của xã hội, nó xác định những nhu cầu khách quan của xã hội, nó “tiềm ẩn”
trong các quan hệ xã hội.
Quan hệ đạo đức tồn tại một cách khách quan và luôn luôn biến đổi qua các
thời đại lịch sử và chính nó là một trong những cơ sở để hình thành nên ý thức
52
đạo đức. Những quan hệ này thường được hình thức hoá bằng những nghi thức
xã hội, những phong tục, tập quán. Con người có đạo đức là con người biết xử lý
tốt các mối quan hệ này.
Tóm lại, ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức là các yếu tố
tạo nên cấu trúc đạo đức. Mỗi yếu tố không tồn tại độc lập, mà liên hệ tác động
qua lại lẫn nhau, tạo nên sự vận động, phát triển và chuyển hóa bên trong của
hệ thống đạo đức. Đạo đức xã hội và đạo đức của mỗi cá nhân sẽ được đánh giá
trên các tiêu chí này.
1.3. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp kiểm toán viên KTNN Việt Nam
1.3.1. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp KTV KTNN Việt Nam
Đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên KTNN cũng là đạo đức của cán
bộ công nhân viên nhà nước nói chung, trong đó có gắn với đặc điểm của ngành
kiểm toán Nhà nước.
Đạo đức nghề nghiệp kiểm toán viên KTNN là những quy tắc quy định, hướng dẫn ứng xử nghề nghiệp của KTV, để đảm bảo hoạt động kiểm toán một cách trung thực, khách quan, phục vụ cho lợi ích của KTNN và của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp của KTV là một trong những nguyên tắc cơ bản và có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng kiểm toán và uy tín của KTNN.
Trong xã hội những người hành nghề đều dựa vào đặc thù và nguyên tắc
chuẩn mực đạo đức cơ bản để bảo vệ uy tín và chất lượng hoạt động của nghề
nghiệp để làm nền tảng xây dựng đạo đức nhằm đảm bảo cho nghề nghiệp và
sản phẩm của ngành nghề được xã hội trọng dụng, tôn vinh. Chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp kiểm toán cũng vậy, nó có đặc thù riêng so với các ngành nghề
khác trong xã hội. Để làm rõ đặc điểm và những sự khác biệt của đạo đức nghề
nghiệp KTV Nhà nước trước hết chúng ta hãy tìm hiểu đạo đức nghề nghiệp của
một số nghề nghiệp tiêu biểu sau đây.
1.3.2. Đạo đức nghề nghiệp của một số nghề nghiệp: Luật sư, Nhà báo, Nhà
giáo...
- Đạo đức nghề nghiệp Luật sư
Nghề luật sư là một nghề có truyền thống cao quý, gắn liền với số phận
pháp lý của con người. Thông qua hoạt động của mình, luật sư thực hiện chức
năng xã hội cao cả : Bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công
dân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; bảo vệ pháp chế xã
53
hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư quy định những chuẩn
mực về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, là thước đo phẩm chất đạo đức và trách
nhiệm nghề nghiệp của luật sư. Mỗi luật sư phải lấy Quy tắc Đạo đức và Ứng xử
nghề nghiệp này làm khuôn mẫu cho sự tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín
nghề nghiệp, thanh danh của luật sư, xứng đáng với sự tôn vinh của xã hội.
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam
Được ban hành kèm theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20 tháng 7
năm 2011 của Hội đồng luật sư toàn quốc được thể hiện như sau:
Quy tắc 1. Bảo vệ công lý và nhà nước pháp quyền
Luật sư có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Bằng hoạt động nghề nghiệp
của mình, luật sư góp phần bảo vệ công lý và xây dựng nhà nước pháp quyền
theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Quy tắc 2. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan
Luật sư phải độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, không vì lợi
ích vật chất, tinh thần hoặc bất kỳ áp lực nào khác để làm trái pháp luật và đạo
đức nghề nghiệp.
Quy tắc 3. Bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng
Luật sư có nghĩa vụ bảo đảm chất lượng dịch vụ pháp lý cung cấp cho
khách hàng, tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên
môn, các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của
khách hàng theo quy định của pháp luật, Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề
nghiệp luật sư.
Quy tắc 4. Thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí
Trợ giúp pháp lý miễn phí là lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của
luật sư. Luật sư có nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người
nghèo và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật, Điều lệ Liên đoàn
Luật sư Việt Nam bằng sự tận tâm, vô tư và trách nhiệm nghề nghiệp như các vụ
việc có nhận thù lao.
Quy tắc 5. Xứng đáng với sự tin cậy của xã hội
Luật sư có nghĩa vụ phát huy truyền thống tốt đẹp của nghề luật sư, thường
xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, giữ gìn phẩm chất và uy tín nghề
54
nghiệp; thái độ ứng xử đúng mực, có văn hóa trong hành nghề và lối sống để
luôn tạo được và xứng đáng với sự tin cậy, tôn trọng của xã hội đối với luật sư
và nghề luật sư.
- Đạo đức nghề nghiệp Nhà giáo
Nhà giáo trong bất kể thể chế xã hội nào cũng luôn có vai trò, vị trí hết sức
quan trọng. Họ là những người sau cùng thể hiện, khẳng định năng lực tập thể
của cả xã hội trong việc khám phá, phát minh và tìm ra giải pháp cho thế hệ
tương lai. Tự cổ chí kim, vai trò, vị trí ấy không hề thay đổi.
Từ xưa đến nay, nhân dân ta luôn luôn tôn vinh người thầy giáo và quý
trọng nghề dạy học. Không phải ai cũng có thể làm được công việc đó bởi nó
yêu cầu cao không chỉ về tri thức mà còn cả đạo đức, phẩm hạnh. Thầy không
chỉ dạy chữ mà còn dạy “đạo” - Đạo làm người; thông qua dạy kiến thức để giáo
dục đạo đức cho con người. Thầy Khổng Tử xưa cũng giáo dục học trò của mình
bằng cách ấy và bao thế hệ học trò Nho gia đều vận dụng cách ấy mà truyền tải
“đạo” của mình. Ngày nay, quan hệ thầy trò có nhiều thay đổi. Vị thế, vai trò
của nhà giáo trong xã hội cũng có sự thay đổi. Điều đó bị tác động của những
mặt trái kinh tế thị trường và cả do những áp lực xã hội lên giáo dục trước yêu
cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển. Nhưng
sự thay đổi ở đây chỉ là ở hình thức. Nhà giáo trong xã hội hiện đại không còn là
người thầy duy nhất trong cuộc đời mỗi con người như thầy xưa mà là những
người thầy được đào tạo chuyên sâu một lĩnh vực, là thầy cô giáo bộ môn. Cũng
không vì thế mà vị thế, vai trò của nhà giáo bị mất đi và mà tình cảm thầy - trò
bị ảnh hưởng. Ngày nay, cả xã hội quan tâm đến giáo dục. Bên cạnh những chủ
trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước thì vấn đề nhà giáo luôn được đề
cập đến khi người ta nhắc đến giáo dục. Đó là minh chứng cho vị thế, vai trò của
nhà giáo trong xã hội hiện đại. Dù xã hội có nhiều biến động, Nhà giáo vẫn là
những người được tôn vinh, kính trọng, nghề giáo vẫn là nghề cao quý trong
những nghề cao quý. Chỉ có điều, những người thầy giáo, cô giáo có làm tốt vai
trò, trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp đó hay không mà thôi.
Đạo đức nghề nghiệp nhà giáo được thể hiện như sau:
1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà
giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và
trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người
55
học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng.
2. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn
vị, nhà trường, của ngành.
3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng
lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham
nhũng, lãng phí.
3. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường
xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp giáo dục.
- Đạo đức nghề làm báo
Nghề báo là một nghề đặc biệt, được ví như một thứ “quyền lực thứ tư”
trong xã hội, nếu không có đạo đức nghề nghiệp và tính chuyên nghiệp chắc
chắn sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ cho xã hội.
Làm báo là một nghề có trách nhiệm rất nặng nề đối với xã hội, cũng như
đối với con người bởi nhà báo là người đưa thông tin đến cho công chúng, tạo ra
dư luận xã hội, từ đó định hướng nhận thức của công chúng. Đặc điểm nghề
nghiệp có những nét đặc thù như vậy, nên nhà báo, trong hoạt động nghề
nghiệp, không chỉ bị chi phối bởi luật báo chí và những điều luật khác liên quan
đến báo chí mà còn tuân thủ những chuẩn mực khác rất quan trọng, không nằm
trong các điều luật, đó là đạo đức nghề nghiệp của người làm báo hay đạo đức
báo chí.
Chính vì quan trọng như vậy ngày 13 tháng 8 năm 2005, Hội Nhà báo Việt
Nam đã ban hành “Quy định về đạo đức nghề nghiệp” đối với người làm báo
Việt Nam với 9 nội dung như sau:
1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân.
3. Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật.
4. Sống lành mạnh, trong sáng, không lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và
làm trái pháp luật.
56
5. Gương mẫu chấp hành pháp luật, làm tròn nghĩa vụ công dân, làm tốt
trách nhiệm xã hội.
6. Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp
thông tin.
7. Tôn trọng, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động nghề
nghiệp.
8. Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, nghiệp vụ,
khiêm tốn cầu tiến bộ.
9. Giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc các
nền văn hóa khác.
1.3.3. Đạo đức nghề nghiệp kiểm toán khác với đạo đức của những ngành
nghề khác
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán cũng vậy, nó có đặc thù riêng
so với các ngành nghề khác trong xã hội. Có thể nói chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp kiểm toán khác với đạo đức nghề nghiệp của những nghề nghiệp khác ở
những điểm chính sau đây:
Thứ nhất, một trong những điểm khác biệt mang tính căn bản nhất trong
đạo đức nghề nghiệp kiểm toán và ngành nghề khác là ở tính độc lập.
Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản nhất của kiểm toán viên. Tính độc
lập trong kiểm toán là việc có một quan điểm vô tư, khách quan khi thực hiện
nhiệm vụ kiểm toán bắt đầu từ khâu khảo sát lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện
kiểm toán, đánh giá kết quả lập báo cáo và công bố báo cáo kiểm toán.Tính độc
lập nhất định phải được xem như một trong những phẩm chất đạo đức quan
trọng nhất của kiểm toán viên. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp yêu cầu Kiểm
toán viên phải thực sự không bị chi phối hoặc bị tác động bởi bất kỳ lợi ích vật
chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan và độc lập
nghề nghiệp của mình.
Thứ hai, Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi Kiểm toán viên không
được nhận làm kiểm toán cho các đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế hoặc
quyền lợi kinh tế như góp vốn, cho vay hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc là cổ
đông chi phối của khách hàng, hoặc có ký hợp đồng gia công, dịch vụ, đại lý
tiêu thụ hàng hoá.
57
Thứ ba, Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán bắt buộc Kiểm toán viên
không được nhận làm kiểm toán ở những đơn vị mà bản thân có quan hệ gia đình
ruột thịt (như có bố, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột) là người trong bộ máy
quản lý, điều hành (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Kế toán trưởng, các trưởng,
phó phòng và những người tương đương) trong đơn vị khách hàng.
Thứ tư, Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán yêu cầu Kiểm toán viên
hành nghề không được vừa làm dịch vụ kế toán, như ghi sổ kế toán, lập báo cáo
tài chính, kiểm toán nội bộ, định giá tài sản, tư vấn quản lý, tư vấn tài chính,
thuế, vừa làm dịch vụ kiểm toán cho cùng một khách hàng.
Trong những năm gần đây, việc nhiều công ty bị phá sản do lỗi của công ty
kiểm toán không còn xa lạ. Sở dĩ có tình trạng này là một nguyên nhân hết sức
quan trọng, không giải quyết được các xung đột lợi ích trong quá trình hành
nghề, một vấn đề thuộc lĩnh vực đạo đức của người hành nghề kiểm toán nói
chung. Để khôi phục lòng tin của công chúng, IFAC cũng như hội nghề nghiệp
kiểm toán ở nhiều quốc gia trên thế giới đã hiệu đính chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp và đưa ra nhiều biện pháp nhằm tăng cường giám sát việc tuân thủ đạo
đức nghề nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều quốc gia cũng đã có những thay đổi về luật
pháp để điều chỉnh hoạt động kiểm toán nhằm bảo vệ cho lợi ích của công
chúng và nền kinh tế.
Nếu chuẩn mực kiểm toán là những quy định và hướng dẫn về các nguyên
tắc và thủ tục kiểm toán làm cơ sở để kiểm toán viên thực hiện công việc và là
cơ sở để kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, thì chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp kiểm toán là những quy tắc để hướng dẫn cho các thành viên ứng xử và
hoạt động một cách trung thực, phục vụ cho lợi ích của nghề nghiệp và xã hội.
Nói cách khác, chính các quy định về đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp nâng cao
chất lượng hoạt động kiểm toán của KTNN.
1.4. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật và chức năng của chúng
1.4.1. Mối quan hệ biện chứng
Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau và
có chức năng chung là điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nhằm bảo toàn và phát
triển xã hội. Tuy nhiên giữa chúng có những điểm khác nhau.
Đạo đức và pháp luật phù hợp với nhau khi ý chí của giai cấp thống trị phù
hợp với lợi ích xã hội và cộng đồng dân cư. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì
đạo đức và pháp luật thường có mâu thuẫn với nhau vì đạo đức phản ánh quan hệ
58
lợi ích của quần chúng nhân dân lao động còn pháp luật bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị mà lợi ích của hai giai cấp đối kháng luôn mâu thuẫn với nhau.
Pháp luật thường được thực hiện thông qua nhà nước, do nhà nước soạn
thảo, phổ biến và thi hành trong toàn xã hội. Còn đạo đức được bảo đảm do
lương tâm con người do sự phê phán của dư luận xã hội.
1.4.2. Chức năng của đạo đức và pháp luật
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm
cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và
cộng đồng.
- Chức năng điều chỉnh hành vi.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm
cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và
cộng đồng.
Loài người sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi, trong đó có
chính trị, pháp luật và đạo đức…
+ Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia
bằng các biện pháp đặc trưng như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực…
+ Pháp luật và đạo đức điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân
với cộng đồng bằng các biện pháp đặc trưng là pháp luật và dư luận xã hội,
lương tâm. Sự điều chỉnh này, có thể thuận chiều, có thể ngược chiều.
+ Điều chỉnh hành vi của đạo đức và pháp luật khác nhau ở mức độ đòi hỏi
và phương thức điều chỉnh.
Pháp luật thể hiện là ý chí của giai cấp thống trị buộc mọi người phải tuân
theo. Những chuẩn mực của pháp luật được thực hiện bằng ngăn cấm và cưỡng
bức (quyền lực Nhà nước cùng với lực lượng vũ trang bao gồm quân đội, cảnh
sát và lực lượng đặc biệt toà án, nhà tù…). Pháp luật là đạo đức tối thiểu của
mỗi cá nhân sống trong cộng đồng.
Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân. Phương
thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức
bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn mực khuyến khích.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và lương
tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở thành đặc trưng riêng
59
để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức khác, các hiện tượng xã hội khác
và làm thành cái không thể thay thế của đạo đức.
+ Mục đích điều chỉnh: bảo đảm sự tồn tại và phát triển xã hội bằng tạo nên
quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân theo nguyên tắc hài hòa lợi ích cộng đồng
và cá nhân (và khi cần phải ưu tiên lợi ích cộng đồng).
+ Đối tượng điều chỉnh: Hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan
hệ cá nhân với cộng đồng (gián tiếp).
+ Cách thức điều chỉnh được biểu hiện: Lựa chọn giá trị đạo đức; xác định
chương trình của hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định phương án cho hành vi
bưỏi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng,
tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi bởi dư luận xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hình thức chủ yếu.
+ Xã hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi khuyến khích cái thiện, phê
phán mạnh mẽ cái ác.
+ Bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi trên cơ sở những
chuẩn mực đạo đức xã hội.
- Chức năng giáo dục.
Con người vươn lên để đạt “chân - thiện - mỹ”. Con người là sản phẩm của
lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức
nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy.
Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ thống ấy tác
động đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do
con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách
quan hoá tác động, chi phối con người.
Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá
nhân chịu sự tác động. Ở đây, môi trường đạo đức: tác động đến đạo đức cá
nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức để
chuyển hoá đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức là
hiện thực hoá nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp
đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và xã hội
được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức.
60
Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, cách
thức tổ chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong
quá trình giáo dục.
- Giáo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức:
Nhân đạo hóa các quan hệ xã hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các
quan hệ xã hội; sự hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó…
sẽ giúp chủ thể lựa chọn, đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá đúng tư
cách của người khác hay của cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng thông qua
mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hình thức và các bước đi
của quá trình giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân và cả cộng đồng tạo ra các hành vi
và thực tiễn đạo đức đúng.
Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt “giáo dục
lẫn nhau trong cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng;
mặt khác, là sự “tự giáo dục” và rèn luyện ở các cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cá
nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
- Chức năng nhận thức.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức
thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội.
Sự phản ánh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình
thái ý thức khác.
Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con người. Nếu
xét dưới góc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần, được quy định bởi tồn
tại xã hội. Nhưng xét dưới góc độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức đạo
đức) không tách rời thực tiễn - hành động của con người. Do vậy, đạo đức là hiện
tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện thực.
- Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm:
+ Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số
trường hợp có sự hòa quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức. (Khác
những khoa học và ứng dụng nghiên cứu thành tựu khoa học có khoảng cách về
không gian và thời gian).
+ Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại (hướng ra ngoài) và
hướng nội (tự nhận thức - hướng vào chính mình, chính chủ thể).
61
Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mức, giá trị, đời sống đạo đức của xã hội
làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ, hạnh
phúc và ý nghĩa cuộc sống…, những “cách thức và phương tiện” tạo ra các giá
trị đạo đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển hóa đạo đức
của xã hội như là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân như là cái riêng.
Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình - chủ thể đạo đức -
làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối
chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với những chuẩn mực giá trị
chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ thể hình thành phát triển
thành các quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo hay chủ động, hy sinh hay
hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái ác…
Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là to lớn. Dư
luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn lương
tâm là sự phê bình. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức của mình -
giá trị mà xã hội mong muốn.
Từ nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng
để ho thành trách nhiệm đó. Trong cuộc sống có vô số những trách nhiệm như
vậy. Nó luôn đặt ra trong quan hệ phong phú giữa chủ thể đạo đức với xã hội,
gia đình, bạn bè, đồng chí, đồng đội, tập thể, dân tộc, gia cấp, tổ quốc.
Nhận thức đạo đức (đạo đức phản ánh hiện thực) ở hai trình độ: trình độ
thông thường và trình độ lý luận.
Nhận thức đạo đức ở trình độ thông thường là ý thức thông thường, những
giá trị riêng lẻ. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử lý
kịp thời các mối quan hệ trong cuộc sống và sự phát triển bình thường của xã
hội. Mọi cá nhân đều có thể và cần phải phản ánh đạo đức ở trình độ này.
Nhận thức đạo đức ở trình độ lý luận là những nhận thức có tính nguyên tắc
được chỉ đạo bởi những giá trị đạo đức có tính tổng quát. Trình độ này đáp ứng
những đòi hỏi của sự phát triển đạo đức và tiến bộ xã hội. Đây là yếu tố không
thể thiếu được trong hệ tư tưởng và hành vi của các giai cấp cầm quyền.
Nhận thức đạo đức đưa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức. Các cá nhân,
nhờ tri thức đạo đức, ý thức đạo đức xã hội đã nhận thức (trở thành đạo đức cá
nhân). Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xã hội trở
thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức (hiện thực hóa
đạo đức).
62
Loài người sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi, trong đó có
chính trị, pháp quyền và đạo đức…
Phạm vi điều chỉnh
Phạm vi đạo đức có nội dung bao quát và rộng hơn pháp luật. Luật pháp
điều chỉnh một số mặt của đời sống xã hội, đạo đức xâm nhập vào tất cả các
hoạt động xã hội, trong mọi quan hệ kể cả đối với chính bản thân mỗi người.
Trong thực tế có những hiện tượng pháp luật trừng trị nhưng đạo đức không
lên án và có hiện tượng đạo đức lên án nhưng pháp luật không trừng trị.
Luật pháp căn cứ vào kết quả hành vi còn đạo đức căn cứ vào động cơ hành vi.
Để đảm bảo cho luật pháp được chấp hành nhà nước áp dụng chủ yếu các
hình thức cưỡng bức hình phạt, còn đạo đức thì được bảo đảm bằng giáo dục,
thuyết phục, ủng hộ hoặc lên án của dư luật xã hội và sự kiểm soát của lương
tâm con người.
1.5. Mối quan hệ giữa đạo đức và tôn giáo
1.5.1.Quan hệ giữa đạo đức và tôn giáo
Như chúng ta đã biết, Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô
hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua
lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới
bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ
lịch sử, hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn
giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của
từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
Rất khó có thể đưa ra được một định nghĩa về tôn giáo có thể bao hàm mọi
quan niệm của con người về tôn giáo nhưng có thể thấy rõ rằng khi nói đến tôn
giáo là nói đến mối quan hệ giữa hai thế giới thực và hư, của hai tính thiêng và
tục và giữa chúng không có sự tách bạch.
Đi vào mặt từ ngữ, giữa tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác biệt. Có lúc, tín
ngưỡng được cho là thuật ngữ rộng hơn tôn giáo, bao trùm lên tôn giáo nhưng
cũng có khi tín ngưỡng lại được coi là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành nên
tôn giáo.Trong thời gian gần đây, trên một số sách báo hoặc trong quần chúng tự
phát hình thành nên sự phân biệt cấp độ các hình thái tôn giáo, coi tín ngưỡng và
tôn giáo như hai cấp độ thấp cao.Ở nước ta, trong thực tế thuật ngữ “tín ngưỡng”
dùng để chỉ niềm tin tôn giáo. Các nhà nghiên cứu đều cơ bản nhất trí với nhau
63
rằng yếu tố quyết định của một tôn giáo là đức tin hay niềm tin. Theo các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì các hình thái tôn giáo ra đời từ thuở sơ
khai cho đến nay đều được gọi thống nhất là tôn giáo.
Đối với con người, Niềm tin tôn giáo thay đổi theo tuổi tác, theo sức khoẻ
hoặc theo những thăng trầm của cuộc sống. Con người tạo ra thần thánh không
chỉ để tin, không chỉ vì cảm nhận sự bất lực, kém cỏi của bản thân mà còn xuất
phát từ nhu cầu muốn được bất tử trong một thế giới vĩnh hằng. Vì vậy không
nên nhầm lẫn hoặc đánh đồng giữa tôn giáo với những ý thức hệ, những chủ
nghĩa, những lý tưởng... trong cuộc sống đời thường.
- Tôn giáo và đạo đức đều hướng con người tới những lý tưởng sống thiện,
nhân đạo, tránh cái ác. Tuy nhiên chúng khác nhau về bản chất.
- Về mặt lịch sử, đạo đức xuất hiện cùng với sự xuất hiện xã hội loài người,
trước rất lâu so với sự ra đời của các tôn giáo. Như vậy, đã có một giai đoạn lịch
sử rất dài, đạo đức tồn tại không có tôn giáo. Điều đó cho thấy đạo đức không
thể bắt nguồn từ tôn giáo và nó tồn tại như một đời sống tinh thần khác với niềm
tin tôn giáo.
- Đạo đức phản ánh chân thực những nhu cầu khách quan, hiện thực còn
tôn giáo lại phản ánh thế giới một cách hư ảo với những khát vọng tự giải thoát
trong thế giới tinh thần mà hiện thực tỏ ra hoàn toàn bất lực.
- Đạo đức và tôn giáo đều thấy được nỗi đau khổ của con người và hướng
tới việc phấn đấu làm giảm nỗi đau khổ ấy để con người đi đến hạnh phúc.
Nhưng đạo đức xem nỗi đau khổ của con người trong tính lịch sử hiện thực của
nó và tin tưởng chắc rằng chính con người là động lực duy nhất giải thoát con
người khỏi nỗi đau khổ và tự xây dựng hạnh phúc của mình trong đời sống hiện
thực thông qua hoạt động lao động của mình. Còn tôn giáo tin rằng, chỉ có
những lực lượng siêu nhiên, thần linh, thượng đế mới có khả năng cứu vớt con
người ra khỏi nỗi đau khổ và điều đó chỉ có thể xảy ra trong thế giới khác, thế
giới sau cái chết (phủ nhận vai trò của con người trong việc sáng tạo ra giá trị
đạo đức của mình).
- Nho giáo - một học thuyết chính trị, đạo đức ra đời từ Trung Quốc, trải
qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển nhưng vẫn còn đó như sự thách thức với
thời gian. Nho giáo về sau đã khác nhiều so với lúc mới xuất hiện, nhưng nó vẫn
có điểm chung - đó là một học thuyết chính trị, đạo đức của giai cấp phong kiến
Trung Quốc, chủ trương dùng "lễ trị", "đức trị" để quản lý xã hội.
64
Nho giáo là học thuyết rất chú trọng đến đạo đức con người, trong đó có
đạo đức trong ứng xử với chính bản thân mình. Với nguyên tắc đạo đức này,
Nho giáo coi trọng sự nghiêm khắc trong việc tu thân, tích đức.
Đến đời Tống, Phạm Trọng Yêm cho rằng, người khổ trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ là người có nhân. Khác với những người bất nhân, người quân tử,
nhân đức là người luôn vui vẻ sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù đó là vinh
hoa hay đói nghèo, túng thiếu. Họ không bị phú quý, danh lợi, giàu sang làm
lung lạc.
Người quân tử phải rèn luyện được 5 đức cơ bản: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín. Đây cũng là tư tưởng xuyên suốt đạo làm người của Nho giáo nói riêng, hệ
thống tư tưởng Nho giáo nói chung. Người quân tử, theo Nho giáo, phải biết giữ
đức nhân của mình, có thể vì nhân mà sát thân chứ không thể vì thân mà hại
nhân.
- Đạo đức Phật giáo phụ thuộc toàn bộ vào hệ thống giáo nghĩa của Phật
giáo, nó đảm trách vai trò điều chỉnh sự hài hòa giữa Tăng nhân và nội bộ giáo
đoàn, giữa tín đồ và Tăng nhân, nhằm để tổng hợp các hành vi, quy tắc, tiêu
chuẩn và ý chí đạo đức, quan niệm luân lý của các mối quan hệ quần chúng xã
hội, quốc gia với giáo đoàn Phật giáo. Đạo đức Phật giáo tuy thể hiện rộng rãi
trong giáo nghĩa và lý luận Phật giáo, nhưng có thể nói sự thể hiện đạo đức Phật
giáo tương đối tập trung trong giới luật Phật giáo.
Ra đời ở Ấn Độ, trải qua gần 20 thế kỷ tồn tại và phát triển cùng với dân
tộc, Phật giáo đã để lại những dấn ấn sâu sắc và trở thành dòng tư tưởng thực sự
ăn sâu vào đạo đức, lối sống của con người Việt Nam. Với triết lý từ bi, hỷ xả,
khuyến khích con người hướng thiện, Phật giáo đã dễ dàng đi vào lòng người,
có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức, hướng con người đến lối sống vị tha,
bình đẳng, bác ái. Thực tế đã chứng minh, Phật giáo phù hợp với đạo đức, lẽ
sống của con người Việt Nam, và nó đã có những đóng góp tích cực cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ngày nay trong bối cảnh phức tạp của tình
hình chính trị - văn hoá thế giới, những giá trị tích cực của tôn giáo này lại một
lần nữa được kiểm chứng.
Là một trong những thành tố tạo nên nền văn hoá dân tộc trong suốt hàng
nghìn năm, Phật giáo ngày nay vẫn lưu giữ những giá trị tích cực có thể góp
phần xây dựng đạo đức lối sống cho con người Việt Nam. Tính hướng thiện của
Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo; tư tưởng bình
65
đẳng, hoà bình của Phật giáo phù hợp với xu hướng hoà đồng liên kết giữa các
dân tộc trên thế giới trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay; lòng từ bi, bác ái góp
phần cứu giúp người hoạn nạn, giữ vững tinh thần là lành đùm lá rách của dân
tộc, triết lý vô thường, vô ngã giúp con người giảm bớt cái tôi vị kỷ…. Những
giá trị tích cực đó của Phật giáo càng được nhân lên với những hành động cụ
thể, như kẻ đói được cho ăn, kẻ rách được cho mặc, người ốm đau bệnh tật được
chăm sóc,…. Giáo lý nhà Phật khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy
chữ hiếu làm đầu: “hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật”, “muôn việc ở
thế gian không gì hơn công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ”.
Có thể nói rằng, đạo đức Phật giáo là một hệ đạo đức xuất thế, giá trị đạo
đức Phật giáo thiên về nội tâm, phản tỉnh hơn là xử lý các quan hệ bề ngoài cho
nên Phật giáo phát huy tối đa tính tự chủ cá nhân trong việc thực hành các quy
tắc đạo đức. Sự phán xét của đạo đức là nghiệp báo, nghiệp quả, nó điều chỉnh
đạo đức của mỗi người theo quy luật nhân - quả tự tại. Điều đặc biệt hơn, Phật
giáo là tôn giáo có khuynh hướng vô thần, không thừa nhận sự sáng tạo của một
đấng siêu nhiên nào, mọi giá trị luân lý, đạo đức đều diễn ra trong thế giới nhân
sinh chứ không phải do một thế lực nào chi phối. Đây là điểm ưu trội của Phật
giáo so với các tôn giáo khác.
Phật giáo với các chuẩn tắc đạo đức nhân văn cao cả về đời sống con người
có vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội với vô số những quan hệ ngang bằng
và trên dưới. Đặc biệt trong xã hội ngày nay, khi nền kinh tế thị trường phát
triển với những đặc tính của nó đã làm cho không ít người cuốn lao theo vòng
xoáy của đồng tiền mà lãng quên đi các quy tắc xử sự đạo đức thì, Phật giáo với
những khung chuẩn giá trị đạo đức của mình có thể được xem như là một chiếc
gương trong sáng về giá trị nhân sinh để mỗi người soi mình vào đó và nhận
chân được giá trị đích thực trong quảng đời vô cùng ngắn ngủi của mình trong
thế giới này.
Thập thiện:
Không sát sinh(tôn trọng sự sống của muôn loài); Không trộm cắp; Không
tà dâm; Không nói dối; Không nói lời thêu dệt ; Không nói lời hai chiều; Không
ác khẩu; Không tham lam; Không thù hận; Không si mê
Tứ ân: Ân tam bảo (phật, pháp, tăng); Ân người giúp đỡ ; Ân cha mẹ;
Ân quốc gia
1.6. Mối quan hệ giữa đạo đức và nhân cách
66
Theo từ điển tiếng Việt: Nhân cách là tư cách và phẩm chất của con người.
Theo quan điểm tâm lý học: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm thuộc tính tâm
lý của cá nhân biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người.
Có tác giả thì cho rằng: Nhân cách là sản phẩm, cá tính mang tính bản chất
của con người với tính cách cá nhân là chủ thể trong quan hệ nhân quả với lịch
sử, với xã hội; nhân cách là tinh hoa, là cốt cách của con người, là tiêu điểm của
đạo đức và lối sống khi con người thực thi trách phận và thụ hưởng cuộc sống.
Trong đời sống xã hội, nhân cách mỗi người đều được những người xung
quanh nhận xét đánh giá dựa theo những chuẩn mực về đạo đức và tài năng
được xã hội chấp nhận.
Nhân cách của con người được đặc trưng bởi hai mặt là đức và tài. Đức và
tài quyện lại với nhau tạo thành một nhân cách hoàn chỉnh phát triển hài hòa.
Bác Hồ đã từng nói “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà
không có tài như ông bụt ngồi trong chùa không giúp gì được ai”. Trong mối
quan hệ đó, đức là cốt lõi trong nhân cách: Đức là động cơ thúc đẩy sự phát triển
tài năng, thể hiện người có đạo đức tốt luôn luôn khắc phục mọi khó khăn, tìm
mọi cách thức và phương pháp, phương tiện để hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao, mang lại lợi ích cho xã hội cũng tức là tạo cho mình năng lực để đáp ứng
yêu cầu của xã hội.
Nói tới đạo đức là nói tới những quy định cụ thể, đôi khi là những ràng
buộc ngặt nghèo mà xã hội muốn cá nhân phải tuân theo để tạo ra một đời sống
ổn định. Trong khi đó việc xây dựng nhân cách như trên đã nói, liên quan đến
những nguyên tắc bao quát chi phối đời sống tinh thần một con người, do đó
thoáng đãng, cởi mở, không đi vào xét nét mà vẫn giữ được sự chặt chẽ. Ví dụ
một trong những mối quan hệ ai cũng phải xử lý cho thích đáng là quan hệ nam
nữ. Nếu dừng lại ở góc độ đạo đức, người ta chỉ cần đối chiếu hành động của
đương sự với những quy định đạo đức đang được cộng đồng chấp nhận để "cho
điểm". Trong khi đó, có thể có một cách khảo sát khác, ấy là tìm ra trong cách
ứng xử của đương sự những ý tưởng rộng lớn hơn như quan niệm về tự do,
quyền quyết định của mỗi người với số phận của chính mình, lòng tin ở sự thay
đổi v.v... Với cách khảo sát này, người ta có khả năng đi vào thực chất của các
hành động, và trong một số trường hợp, mở đường cho việc xây dựng những
tiêu chuẩn đạo đức mới. Và đấy chính là xét con người theo nhân cách.
67
Một đặc tính cần lưu ý của nhân cách: nó không phải thứ nhất thành bất
biến, hoặc “khi một lần lấy bằng rồi sử dụng suốt đời". Mà nó có bồi có lở, có
đến có đi, có thể hoàn thiện dần dần song cũng có thể xói mòn rồi bị đánh mất.
Lại có không ít trường hợp sách vở bảo người ta nên đi theo hướng này mà đời
sống lại thầm thì khuyên là nên làm như thế kia mới có lợi, và rồi cả hai yếu tố
trái ngược ấy sẽ cùng có mặt trong cách sống cách nghĩ của con người cụ thể
làm nên một nhân cách mâu thuẫn. Nhìn chung cả chiều dài lịch sử, có thể thấy
hầu như chỉ các xã hội cổ điển mới có nhân cách thuần nhất, còn hiện trạng nhân
cách mâu thuẫn, rạn vỡ rất tiêu biểu cho xã hội hiện đại, nó gắn liền với quá
trình tha hóa phân thân thường được nhắc nhở trong các công trình nghiên cứu
xã hội học cũng như tâm lý học.
1.7. Những nội dung cơ bản của đạo đức và và văn hóa ứng xử
1.7.1. Nội dung cơ bản của đạo đức
Những nội dung chủ yếu của chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay như sau:
Đối với cán bộ, đảng viên, CCVC:
- Sống có lý tưởng, vì nước, vì nhân dân, vì xã hội
+ Suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng
+ Hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân
+ Có nghị lực vượt qua khó khăn. Quyết tâm đổi mới, giữ vững định
hướng XHCN.
+ Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, trách nhiệm với công việc
+ Say mê, tâm huyết, sáng tạo trong công việc
+ Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng
+ Tiết kiệm trong công việc và cuộc sống
+ Vì lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân, có trách nhiệm với cộng đồng
xã hội.
- Trung thực, trong sáng, giản dị, khiêm tốn
+ Có đời sống trong sạch, lành mạnh, mẫu mực để mọi người noi theo
+ Sống và làm việc có nề nếp, khoa học
+ Chân thành, tôn trọng, giúp đỡ mọi người
68
- Tôn trọng luật pháp, kỷ cương
+ Chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước
+Chấp hành nghiêm điều lệ, quy định của tổ chức và địa phương nơi cư trú
+ Chấp hành các quy định, hương ước, quy ước của các tổ chức hội,
đoàn…; gia đình đạt tiêu chuẩn “gia đình văn hóa”.
- Đoàn kết, thân ái
+ Đoàn kết với đồng nghiệp, đồng chí
+ Đoàn kết, thân ái với bạn bè, gia đình, người thân
+ Đoàn kết với nhân dân.
- Suốt đời phấn đấu, rèn luyện học tập
+ Không ngừng phấn đấu trưởng thành tiến bộ
+ Rèn luyện nâng cao sức khỏe, ý chí
+ Tích cực học tập nâng cao trình độ kiến thức mọi mặt
1.7.2. Nội dung cơ bản của về văn hóa ứng xử
Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước
sự tác động của người khác với mình trong một tình huống nhất định được thể
hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả
tốt trong mối quan hệ giữa con người với nhau. Xét trên bình diện nhân cách thì
bản chất của ứng xử chính là những đặc điểm tính cách của cá nhân được thể
hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với những người
chung quanh.
Khi nói đến văn hóa ứng xử, người ta thường tìm về cội nguồn của những
giá trị văn hóa truyền thống. Bởi vì, "Văn hóa" là những giá trị vật chất và tinh
thần của một dân tộc, là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, là biểu hiện của văn
minh. "Ứng xử" là sự thể hiện thái độ, hành động thích hợp trước những việc có
quan hệ giữa mình với người khác. Văn hóa ứng xử là cách đối nhân xử thế
thích hợp giữa người với người trong cuộc sống. Việc ứng xử có văn hóa không
chỉ tạo nên nét đẹp cho từng cá nhân, mà còn phản ánh bản sắc văn hóa của một
cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc.
Hành vi ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con
người, được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của con
69
người đối với bản thân, với những người chung quanh, trong công việc và môi
trường hoạt động hằng ngày.
Rõ ràng, không phải ngẫu nhiên mà văn hoá ứng xử trong giao tiếp là một
trong những vấn đề cơ bản được quy định trong Quy chế văn hoá công sở do
Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg và cũng
là một trong những nội dung được đề cập đến của chương trình cải cách hành
chính. Đặc biệt, mới đây, khi Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực (ngày
1/1/2010), thì vấn đề văn hóa giao tiếp của cán bộ công chức cũng được đề cập
một cách rõ ràng, toàn diện hơn ở mục 13 với 3 điều (từ điều 15 đến điều
17). Luật quy định: “Trong giao tiếp ở công sở, cán bộ, công chức phải có thái
độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng,
mạch lạc. Cán bộ, công chức phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công bằng,
vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá, thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ.
Khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức phải mang phù hiệu, thẻ công chức; có
tác phong lịch sự, giữ gìn uy tín cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng nghiệp.
Khi giao tiếp với dân, cán bộ, công chức phải gần gũi với nhân dân, có tác
phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; không được hách dịch, cửa
quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thi hành công vụ…”
1.8. Con đường hình thành văn hóa ứng xử, đạo đức và đạo đức nghề
nghiệp của KTV KTNN.
1.8.1. Môi trường văn hóa xã hội
Nhân cách, đạo đức và văn hóa ứng xử của con người nói chung và của
Kiểm toán viên Nhà nước nói riêng đều có đặc tính chung là quá trình hình
thành và phát triển đều thông qua môi trường văn hóa xã hội, môi trường hoạt
động kiểm toán, quá trình giao lưu tiếp xúc với xã hội và mối quan hệ với tập
thể, tổ chức của KTNN cũng như quá trình giáo dục, bồi dưỡng của KTNN và
tự rèn luyện của mỗi một KTV.
Nhân tố văn hóa xã hội cơ bản có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát
triển nhân cách con người là tồn tại xã hội, hoàn cảnh sống mang tính lịch sử cụ
thể mà cá nhân đó sống. C.Mác đã nói: “Nếu như con người bẩm sinh đã là sinh
vật có tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính của mình.
1.8.2. Môi trường văn hóa công sở
70
Công sở là nơi làm việc của các cơ quan hành chính Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội.
Công sở là một bộ phận hợp thành tất yếu của thiết chế bộ máy quản lý Nhà
nước là nơi diễn ra hoạt động của nhà nước, là bộ mặt của cơ quan nhà nước và
thực hiện các giao dịch hành chính.
Là nơi phục vụ công dân: giao tiếp, giải quyết công việc của dân, là hình ảnh
nhìn thấy được của chính quyền, Nhà nước trong quá trình hoạt động của mình.
Công sở là nơi thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, với các cơ quan hữu
quan, đồng cấp và cấp trên; cơ sở hạ tầng, trang thiết bị hiện đại nơi công sở chỉ
đóng vai trò hỗ trợ trong quá trình làm việc, giao tiếp, yếu tố quan trọng hơn cả
chính là yếu tố con người. Con người sẽ quyết định văn hóa công sở, quyết định
sự thành bại cũng như dấu ấn ghi lại của tổ chức trong suốt quá trình tổ chức đó
hoạt động.Văn hóa công sở có tác động và hình thành nhân cách, văn hóa ứng
xử và đạo đức của cán bộ công chức nói chung và kiểm toán viên nói riêng.
Văn hóa công sở là là tổng hòa những giá trị hữu hình và vô hình bao gồm
trình độ nhận thức, phương pháp tổ chức, quản lý, môi trường - cảnh quan,
phương tiện làm việc, đạo đức nghề nghiệp và phong cách giao tiếp ứng xử của
CBCC nhằm xây dựng một công sở văn minh, lịch sự, hoạt động đúng pháp luật
và hiệu quả cao.
Cách ứng xử văn hóa chốn công sở thực tế mang lại rất nhiều lợi ích. Văn
hóa ứng xử nói chung và văn hóa ứng xử nơi công sở nói riêng chính là thước
đo sự văn minh của mỗi CBCC hay nói khác đi nó phản ánh sự nhận thức cũng
như ý thức của mỗi cá nhân trong môi trường làm việc nơi công sở. Con người
tác động đến việc hình thành văn hóa công sở đồng thời văn hóa công sở với
những giá trị bền vững được kế thừa và tiếp thu có chọn lọc từ quá khứ đến hiện
tại, tương lai; từ môi trường bên trong đến bên ngoài công sở sẽ có tác động trở
lại góp phần hoàn thiện nhân cách, phẩm chất, đạo đức cho CBCC. Xây dựng
văn hóa công sở chính là xây dựng một môi trường làm việc hiện đại, chuyên
nghiệp, thân thiện và hiệu quả. Từ đó tạo bầu không khí cởi mở giúp CBCC
hứng khởi làm việc đưa chất lượng và hiệu quả công việc lên cao.
Giao tiếp, ứng xử văn hoá nơi công sở hiện nay có ý nghĩa và tầm quan
trọng đặc biệt, nó thể hiện đến chất lượng, hiệu quả khi xử lý và giải quyết mọi
công việc, xây dựng lề lối làm việc khoa học của đội ngũ cán bộ, công chức,
71
nhằm góp phần vào quá trình cải cách hành chính mà Nghị quyết Trung ương 5
(khoá X) đã đề ra.
1.8.3. Giáo dục và rèn luyện
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân
cách, bởi vì nó được thực hiện theo định hướng thống nhất vì mục đích nhân
cách lí tưởng mà xã hội đang yêu cầu.
Tuy nhiên hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó được
hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và trưởng thành của mỗi cá nhân đó
trong một môi trường gia đình và xã hội nhất định.
Giáo dục gia đình được tiến hành sớm nhất từ khi đứa trẻ cất tiếng khóc
chào đời, tạo nên những phẩm chất nhân cách đầu tiên rất quan trọng làm nền
tảng cho giáo dục nhà trường.
Giáo dục xã hội thông qua các đoàn thể, các tổ chức nhà nước với thể chế
chính trị, pháp luật, văn hóa đạo đức, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển
nhân cách toàn diện theo sự phát triển của xã hội.
Giáo dục nhà trường có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong việc thực
hiện mục đích, nội dung giáo dục bằng các phương pháp khoa học có tác động
mạnh nhất giúp cho học sinh hình thành năng lực ngăn ngừa, đấu tranh với
những ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường hoặc di truyền bẩm sinh.
Để trở thành người cán bộ, đảng viên có nhân cách có đạo đức cao đẹp có
văn hóa giao tiếp ứng xử văn minh lịch sự mỗi cán bộ công chức viên chức, phải
không ngừng học tập để nâng cao bản lĩnh chính trị, không ngừng tích luỹ kinh
nghiệm trong thực tiễn, nói đi đôi với làm, luôn tự tu dưỡng, rèn luyện về phẩm
chất đạo đức, lối sống, không ngừng hoàn thiện nhân cách người cán bộ, công
chức để xứng đáng là “công bộc” của nhân dân.
2. Yêu cầu và nội dung văn hóa ứng xử và nội dung đạo đức nghề
nghiệp kiểm toán viên Nhà nước
2.1. Yêu cầu về văn hóa ứng xử
Trong văn hóa giao tiếp ứng xử đòi hỏi phải đảm bảo 2 yếu tố cơ bản nhất
là văn minh, lịch sự và đúng mực khi giao tiếp.
- Văn minh, lịch sự
- Đúng mực
72
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng trọn đời
mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại muôn
vàn tình thân yêu cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân là tài sản vô giá và tấm
gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống
của dân tộc, của nhân loại và thời đại trong đó là mẫu mực về văn hóa giao tiếp
ứng xử. Một trong những nội dung “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” là học văn hóa giao tiếp ứng xử mẫu mực của người.
Văn hóa giao tiếp của Hồ Chí Minh thể hiện một phong thái đặc biệt, đầy
nhân văn, nhân bản của con người. Người luôn bình dị, lạc quan, yêu đời, xử lý
một cách khéo léo tinh tế và tài tình các tình huống giao tiếp xẩy ra có lợi cho
Nước cho dân. Người luôn luôn có một phong cách và kỹ năng giao tiếp giản dị,
gần gũi, ân cần, cởi mở, tế nhị, uyên thâm và rất chu đáo với tất cả mọi người.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc sinh thời đã nói về Bác Hồ “Chủ tịch Hồ Chí
Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, sáng
chói mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu”.
Do đó cán bộ KTV trong giao tiếp và ứng xử, phải có thái độ lịch sự, tôn
trọng. Ngôn ngữ giao tiếp phải rõ ràng, mạch lạc; không nói tục, nói tiếng lóng,
quát nạt; giao tiếp và ứng xử với nhân dân, phải nhã nhặn, lắng nghe ý kiến, giải
thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể về các quy định liên quan đến giải quyết công
việc, không được có thái độ hách dịch, nhũng nhiễu, gây khó khăn, phiền hà khi
thực hiện nhiệm vụ. Đối với đồng nghiệp, phải có thái độ trung thực, thân thiện,
hợp tác.
Đó là những chuẩn mực chung nhất trong giao tiếp, ứng xử đồng thời là
cung bậc tối thiểu cần có về đạo đức công chức.
2.2. Nội dung đạo đức nghề nghiệp Kiểm toán viên Nhà nước
- Tính độc lập
- Tính liêm chính và khách quan, công minh
- Năng lực chuyên môn và tính thận trọng
- Tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán
- Tư cách nghề nghiệp
- Có thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp
- Tính bảo mật
- Trách nhiệm đối với đồng nghiệp
- Các yêu cầu khác
73
3. Sự cần thiết phải ban hành quy tắc ứng xử
Đạo đức nghề nghiệp và văn hóa ứng xử là yêu cầu bắt buộc đối với kiểm
toán viên nói chung và KTV nhà nước nói riêng.
Bởi vì văn hóa ứng xử trong hoạt động kiểm toán và trong quan hệ xã hội
của Kiểm toán viên Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín cá nhân và uy tín
xã hội của cơ quan Kiểm toán Nhà nước cũng như chất lượng kiểm toán. Vì vậy,
trong quá trình thực hiện hoạt động kiểm toán, Kiểm toán viên cần tuyệt đối tuân
thủ các quy định tại Luật Kiểm toán nhà nước, Quy chế tổ chức và hoạt động của
đoàn kiểm toán; tuân thủ đầy đủ các quy định về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
của Kiểm toán viên Nhà nước, độc lập, khách quan, chính trực. Đặc biệt là tuân
thủ các quy định trong Quy tắc ứng xử của Kiểm toán viên Nhà nước.
Các quy định về đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề kiểm toán được
hình thành do mối liên hệ giữa nghề nghiệp và môi trường xã hội. Các quy định
đạo đức nghề nghiệp thường được tìm thấy trong chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp và các quy định của luật pháp.
3.1. Do đặc điểm nghề nghiệp
Xuất phát từ đặc điểm nghề nghiệp là kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm
toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động, tức là kiểm toán những kết quả của đơn vị
được kiểm toán, các mặt trên qua một quá trình hoạt động, chứ không phải
những việc chưa làm hay chưa thực hiện. Điều đó có nghĩa là khi kiểm toán,
kiểm toán viên thực hiện nhiệm vụ kiểm toán phải thẩm tra, xem xét, phân tích
để tìm ra các căn cứ làm náy sinh ra các kết quả của đơn vị được kiểm toán đã
đạt được để tìm ra nguyên nhân và bằng chứng để so sánh với các văn bản pháp
luật và các chuẩn mực kiểm toán để rút ra kết luận một cách chính xác, trung
thực, khách quan, để báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền. Đó là một công việc
cực kì phức tạp đòi hỏi phải có chuyên môn sâu, đặc thù và phải xử lý rất nhiều
những mối quan hệ liên quan đến lợi ích Nhà nước, lợi ích đơn vị được kiểm
toán, uy tín của cơ quan kiểm toán nói chung và danh dự của người kiểm toán
viên nói riêng. Xử lý được một cách thấu tình đạt lý, minh bạch không những
đòi hỏi người kiểm toán viên phải có đủ năng lực về chuyên môn mà còn phải
có đạo đức nghề nghiệp trong sáng.
Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên. Tính độc lập
trong kiểm toán là việc có một quan điểm vô tư khi thực hiện các cuộc khảo sát
kiểm toán, đánh giá kết quả và công bố báo cáo kiểm toán.Tính độc lập nhất
74
định phải được xem như một trong những phẩm chất chủ yếu của kiểm toán
viên.Tính độc lập của kiểm toán viên còn được thể hiện phải làm việc xa cơ
quan đơn vị và sự giám sát của đơn vị do đó độc lập trong việc lên chương trình
kiểm toán; độc lập điều tra và độc lập làm báo cáo. Độc lập trong việc lên
chương trình có nghĩa là kiểm toán viên được tự do sắp xếp công việc theo cách
mà họ thấy là thích hợp. Điều cơ bản không chỉ là kiểm toán viên phải giữ thái
độ độc lập khi thực thi trách nhiệm của mình mà còn cả những người sử dụng
các báo cáo tài chính phải có niềm tin vào tính độc lập đó. Trong quá trình kiểm
toán, kiểm toán viên phải thực sự không bị chi phối hoặc tác động bởi bất kì lợi
ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan và
độc lập nghề nghịêp của mình.Các kiểm toán viên không chỉ cố gắng giữ vị trí
độc lập đối với các đơn vị được Kiểm toán và các bên liên quan khác mà cần
phải khách quan với các vấn đề xem xét. Nó không chỉ quan trọng đối với các
kiểm toán viên có vị trí độc lập và công bằng mà các bên thứ ba cũng xem xét
họ như vậy.
3.2. Xuất phát từ thực trạng hoạt động của KTNN Việt Nam
Trong thực thi công vụ kiểm toán trong thời gian qua tinh thần trách nhiệm,
lòng tự trọng nghề nghiệp của một số cán bộ, KTV chưa cao, trong đó tập trung
ở một bộ phận KTV trẻ; còn có hiện tượng ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm,
máy móc; còn tình trạng phát ngôn, ứng xử, thái độ làm việc có nơi, có lúc chưa
chuẩn mực, thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, lạm dụng
quyền hạn trong thực thi công vụ kiểm toán, gây ảnh hưởng đến hiệu quả, chất
lượng công tác và uy tín của KTNN, cá biệt đã gây phản ứng từ đơn vị được
kiểm toán.
Kiểm toán viên tiến hành công vụ trong môi trường xã hội và môi trường
công tác có nhiều cám dỗ đòi hỏi KTV phải có bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp
vững vàng và trong sáng.
Do đó việc phải ban hành quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp của KTV
KTNN là yêu cầu bức thiết.
4. Nhiệm vụ, quyền hạn và tiêu chuẩn cụ thể của từng ngạch kiểm toán
viên Nhà nước
Theo Nghị quyết Số: 1002/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 03 tháng 03 năm
2006 của UBTVQH khóa 11 nhiệm vụ và quyền hạn của các ngạch KTV Nhà
nước được quy định như sau:
75
4.1. Kiểm toán viên dự bị
4.1.1. Khái niệm
Kiểm toán viên dự bị là công chức nhà nước nhưng chưa đủ thời gian năm
năm công tác liên tục theo chuyên ngành được đào tạo hoặc chưa đủ thời gian ba
năm làm nghiệp vụ kiểm toán ở Kiểm toán Nhà nước, được Tổng Kiểm toán
Nhà nước bổ nhiệm vào ngạch kiểm toán viên dự bị, thực hiện nhiệm vụ trợ
giúp nghiệp vụ kiểm toán trong hoạt động kiểm toán;
4.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán viên dự bị
1. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo quy định tại khoản 2
Điều 49 của Luật Kiểm toán Nhà nước;
2. Trợ giúp nghiệp vụ kiểm toán trong hoạt động kiểm toán;
3. Thực hiện một số nghiệp vụ kiểm toán đơn giản.
4.1.3.Tiêu chuẩn của Kiểm toán viên dự bị
Kiểm toán viên dự bị phải có các tiêu chuẩn của cán bộ, công chức theo
quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và các tiêu chuẩn sau đây:
1. Đáp ứng các tiêu chuẩn chung của kiểm toán viên nhà nước theo quy
định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 29 của Luật Kiểm toán nhà nước;
2. Có kiến thức cơ bản về nhà nước, pháp luật;
3. Nắm vững Luật Kiểm toán nhà nước và nắm được quy trình kiểm toán,
chuẩn mực, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán thuộc lĩnh vực kiểm
toán được phân công; nắm được quy chế hoạt động của Đoàn kiểm toán, Tổ
kiểm toán;
4. Được cấp chứng chỉ Kiểm toán viên dự bị;
5. Ngoại ngữ, tin học trình độ B hoặc tương đương.
4.2. Kiểm toán viên
4.2.1. Khái niệm
Kiểm toán viên là công chức nhà nước có chuyên môn về nghiệp vụ kiểm
toán, được Tổng Kiểm toán Nhà nước bổ nhiệm vào ngạch kiểm toán viên theo
quy định của pháp luật, thực hiện nghiệp vụ kiểm toán tương đối phức tạp;
4.2.2.Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán viên nhà nước
1. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo quy định của Luật
Kiểm toán nhà nước;
76
2. Tham gia xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm toán của Tổ kiểm toán,
Đoàn kiểm toán;
3. Thực hiện nghiệp vụ kiểm toán tương đối phức tạp; tham gia lập biên
bản kiểm toán và báo cáo kiểm toán; kiểm tra việc thực hiện kết luận và kiến
nghị kiểm toán trong báo cáo kiểm toán;
4. Tham gia xây dựng các văn bản về chuyên môn, nghiệp vụ thuộc lĩnh
vực kiểm toán được phân công;
5. Hướng dẫn nghiệp vụ đối với Kiểm toán viên dự bị.
4.2.3. Tiêu chuẩn của Kiểm toán viên nhà nước
Kiểm toán viên phải có các tiêu chuẩn của cán bộ, công chức ở ngạch
tương đương theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và các tiêu chuẩn
sau đây:
1. Đáp ứng các tiêu chuẩn chung của Kiểm toán viên nhà nước theo quy
định tại Điều 29 của Luật Kiểm toán nhà nước;
2. Nắm được đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật về
Kiểm toán Nhà nước; có kiến thức về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội;
3. Nắm vững các quy định của pháp luật thuộc lĩnh vực kiểm toán được
phân công;
4. Có kỹ năng khảo sát, thu thập, phân tích, đánh giá bằng chứng kiểm toán;
5. Phải có chứng chỉ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên và chứng chỉ
ngạch kiểm toán viên;
6. Ngoại ngữ, tin học trình độ B hoặc tương đương;
7. Có thời gian làm việc liên tục từ năm năm trở lên theo chuyên ngành
được đào tạo hoặc có đủ thời gian làm nghiệp vụ kiểm toán ở Kiểm toán Nhà
nước từ ba năm trở lên.
4.3. Kiểm toán viên chính
4.3.1. Khái niệm
Kiểm toán viên chính là công chức nhà nước có chuyên môn về nghiệp vụ
kiểm toán, được Tổng Kiểm toán Nhà nước bổ nhiệm vào ngạch kiểm toán viên
chính theo quy định của pháp luật, tổ chức triển khai kế hoạch kiểm toán và thực
hiện các nghiệp vụ kiểm toán phức tạp;
4.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán viên chính
77
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo quy định của Luật
Kiểm toán nhà nước;
-Xây dựng kế hoạch kiểm toán chi tiết của Tổ kiểm toán và tham gia xây
dựng kế hoạch kiểm toán của Đoàn kiểm toán;
- Triển khai thực hiện kế hoạch kiểm toán trong phạm vi trách nhiệm được
phân công; thực hiện nghiệp vụ kiểm toán phức tạp; lập biên bản kiểm toán, báo
cáo kiểm toán;
- Tham gia thẩm định các báo cáo kiểm toán hoặc tái thẩm định báo cáo
kiểm toán theo kiến nghị của đơn vị được kiểm toán; đề xuất xử lý các kiến nghị
về báo cáo kiểm toán;
- Tham gia tổng kết, đánh giá về công tác kiểm toán;
- Tham gia xây dựng các văn bản về chuyên môn, nghiệp vụ thuộc lĩnh vực
kiểm toán được phân công;
- Tham gia xây dựng nội dung, chương trình và tài liệu đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ đội ngũ Kiểm toán viên nhà nước thuộc lĩnh vực kiểm toán được
phân công;
- Hướng dẫn nghiệp vụ kiểm toán đối với Kiểm toán viên ở các ngạch dưới.
4.3.3. Tiêu chuẩn của Kiểm toán viên chính
Kiểm toán viên chính phải có các tiêu chuẩn của cán bộ, công chức ở ngạch
tương đương theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và các tiêu chuẩn
sau đây:
- Nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về kiểm toán nhà nước; hiểu biết về quản lý nhà nước, về kinh tế - xã hội;
nắm vững định hướng phát triển của Kiểm toán Nhà nước;
- Hiểu rõ đối tượng kiểm toán thuộc lĩnh vực kiểm toán được phân công;
nắm được đặc điểm của một số đối tượng kiểm toán khác;
- Nắm vững và vận dụng thành thạo các quy định của pháp luật về kiểm
toán nhà nước thuộc lĩnh vực kiểm toán được phân công; hiểu rõ quy định của
pháp luật về một số lĩnh vực kiểm toán khác;
- Hiểu biết các thông lệ và chuẩn mực kiểm toán quốc tế;
- Có khả năng tham gia xây dựng chiến lược phát triển ngành, kế hoạch
kiểm toán dài hạn, trung hạn và hàng năm; có khả năng tham gia phân tích, đánh
giá, tổng hợp, lập báo cáo kiểm toán;
78
- Có khả năng chủ trì nghiên cứu đề tài khoa học cấp cơ sở hoặc tham gia
nghiên cứu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp nhà nước về lĩnh vực kiểm toán;
- Phải có chứng chỉ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính và chứng
chỉ ngạch Kiểm toán viên chính;
- Ngoại ngữ, tin học trình độ B hoặc tương đương;
- Có thâm niên tối thiểu ở ngạch Kiểm toán viên là 7 năm hoặc ở ngạch
tương đương là 9 năm.
4.4. Kiểm toán viên cao cấp
4.4.1. Khái niệm
Kiểm toán viên cao cấp là công chức nhà nước có chuyên môn sâu về
nghiệp vụ kiểm toán, được Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm vào ngạch
kiểm toán viên cao cấp theo đề nghị của Tổng Kiểm toán Nhà nước và theo quy
định của pháp luật, thực hiện xây dựng các đề án, kế hoạch kiểm toán hàng năm,
kế hoạch kiểm toán trung hạn và dài hạn của Kiểm toán Nhà nước; hướng dẫn
các cuộc kiểm toán có độ phức tạp cao, liên quan đến nhiều đối tượng trong
nhiều lĩnh vực.
4.4.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán viên cao cấp
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo quy định của Luật
Kiểm toán nhà nước;
- Khi được phân công, Kiểm toán viên cao cấp thực hiện các nhiệm vụ và
quyền hạn sau:
+ Chủ trì xây dựng kế hoạch kiểm toán của các Đoàn kiểm toán;
+Thực hiện các cuộc kiểm toán phức tạp, có liên quan đến nhiều đối tượng,
nhiều lĩnh vực; chỉ đạo phân tích, đánh giá, lập báo cáo kiểm toán;
+ Chủ trì thẩm định các báo cáo kiểm toán quan trọng hoặc tái thẩm định
các báo cáo kiểm toán theo kiến nghị của đơn vị được kiểm toán và đề xuất biện
pháp xử lý các kiến nghị về báo cáo kiểm toán;
+ Chủ trì tổng kết, đánh giá về công tác kiểm toán;
+ Chủ trì nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản
liên quan đến các lĩnh vực hoạt động kiểm toán, các chuẩn mực kiểm toán;
+ Xây dựng nội dung, chương trình và biên soạn tài liệu đào tạo, bồi dưỡng
và tham gia đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Kiểm toán viên nhà nước;
79
- Triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào hoạt động kiểm toán;
- Hướng dẫn nghiệp vụ kiểm toán đối với kiểm toán viên ở các ngạch dưới.
4.4.3.Tiêu chuẩn của Kiểm toán viên cao cấp
Kiểm toán viên cao cấp phải có các tiêu chuẩn của cán bộ, công chức ở
ngạch tương đương theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và các tiêu
chuẩn sau đây:
- Nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ và có khả năng triển
khai vận dụng vào hoạt động kiểm toán nhà nước; nắm vững các quy định của
pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội liên quan đến các lĩnh vực kiểm toán;
- Nắm vững đặc điểm của các đối tượng kiểm toán ở từng lĩnh vực;
- Nắm vững và có khả năng chỉ đạo áp dụng các quy trình, chuẩn mực,
phương pháp chuyên môn nghiệp vụ ở các lĩnh vực kiểm toán vào hoạt động
kiểm toán;
- Hiểu biết về thông lệ, các chuẩn mực kiểm toán quốc tế và có khả năng
đề xuất ứng dụng vào hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước;
- Có khả năng xây dựng chiến lược phát triển ngành, kế hoạch kiểm toán
dài hạn, trung hạn và khả năng về tổng kết, nghiên cứu lý luận chuyên môn
nghiệp vụ kiểm toán; có khả năng xây dựng chuẩn mực kiểm toán và kiến nghị
sửa đổi, bổ sung các chuẩn mực kiểm toán;
- Có khả năng chủ trì nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ, cấp nhà nước về
lĩnh vực kiểm toán nhà nước;
- Có trình độ lý luận chính trị cao cấp hoặc tương đương;
- Phải có chứng chỉ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp và chứng
chỉ ngạch Kiểm toán viên cao cấp;
- Ngoại ngữ, tin học phải đạt trình độ C hoặc tương đương.
5. Nội dung quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp của KTV KTNN
Việt Nam
5.1.Quy tắc ứng xử của KTV Nhà nước
Đối với Kiểm toán viên KTNN đã có Quy định về quy tắc ứng xử của Kiểm
toán viên (Ban hành kèm theo Quyết định số 62/QĐ-KTNN ngày 01 tháng 02
80
năm 2013 của Tổng Kiểm toán Nhà nước). Theo đó quy tắc ứng xử của KTV
được quy định cụ thể như sau:
5.1.1. Ứng xử của kiểm toán viên Nhà nước trong thực hiện hoạt động kiểm
toán
- Thực hiện các quy định của pháp luật
Kiểm toán viên nhà nước phải tuân thủ và thực hiện chức trách, nhiệm vụ,
công vụ của cán bộ, công chức, bao gồm những việc phải làm hoặc không được
làm theo quy định của Luật Cán bộ, công chức, Luật Kiểm toán Nhà nước, Bộ
luật Lao động, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng,
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan khác. Kiểm toán viên nhà nước là đảng viên phải tuân thủ Quy định
những điều đảng viên không được làm.
- Ứng xử trong thực hiện nhiệm vụ kiểm toán
+ Kiểm toán viên nhà nước phải thực hiện đầy đủ và đúng các quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm toán viên nhà nước quy định tại
Luật Kiểm toán nhà nước, Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn kiểm toán
nhà nước và các văn bản khác có liên quan.
+ Tuân thủ đầy đủ các quy định về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của
Kiểm toán viên nhà nước, cụ thể:
* Độc lập, khách quan và chính trực
Khi tiến hành kiểm toán chỉ tuân theo pháp luật, các chuẩn mực và quy
trình kiểm toán. Các ý kiến xác nhận, đánh giá, kết luận, kiến nghị kiểm toán
phải khách quan, dựa trên cơ sở bằng chứng được thu thập và tập hợp theo các
chuẩn mực kiểm toán. Không để cho các định kiến cá nhân lấn át tính khách
quan; không quan liêu, thiếu trách nhiệm, bao che, báo cáo sai sự thật, lạm
quyền, nhũng nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ;
Báo cáo kịp thời với người ra quyết định kiểm toán và đề nghị rút tên khỏi
đoàn kiểm toán khi có quan hệ với đơn vị được kiểm toán như: Góp vốn, mua cổ
phần hoặc có quan hệ khác về lợi ích kinh tế; đã từng làm lãnh đạo, kế toán
trưởng hay phụ trách kế toán trong thời hạn 05 (năm) năm, kể từ khi chuyển
công tác; hoặc có bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ,
mẹ vợ, vợ hoặc chồng, con, anh, chị, em ruột là người đứng đầu, kế toán trưởng
hoặc người phụ trách kế toán;
81
Thẳng thắn, trung thực, có lương tâm trách nhiệm nghề nghiệp, bảo vệ và
tôn trọng lợi ích của Nhà nước, của nhân dân và của đơn vị được kiểm toán; có
quan điểm vô tư, không để các lợi ích vật chất và quyền lợi cá nhân chi phối;
không làm các công việc ảnh hưởng tới nhân cách hoặc tổn hại kết quả thực hiện
công vụ của mình và làm ảnh hưởng đến uy tín của Kiểm toán Nhà nước.
* Kiểm toán viên nhà nước phải không ngừng học tập và rèn luyện để nâng
cao trình độ, năng lực và kỹ năng chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
được giao và hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất.
* Kiểm toán viên nhà nước phải thực hiện công việc với sự thận trọng và
bảo đảm các quy định về bảo mật, cụ thể:
Thực hiện nhiệm vụ với trách nhiệm nghề nghiệp cao, sử dụng các phương
pháp chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với phạm vi và nội dung kiểm toán. Thận
trọng trước mọi tình huống, không đưa ra những đánh giá hoặc kết luận khi chưa
có cơ sở bằng chứng tin cậy. Trước khi đưa ra ý kiến nhận xét đánh giá phải
kiểm tra, xem xét lại tính trung thực, hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ làm việc; tính
đầy đủ, chính xác, thích hợp của các bằng chứng và kết quả tính toán. Khi sử
dụng kết quả của cộng tác viên, kiểm toán viên độc lập, kiểm toán viên nội bộ,
các kết luận thanh tra phải xem xét, kiểm tra, sử dụng có chọn lọc và chịu trách
nhiệm về tính xác thực của các số liệu, tài liệu, bằng chứng liên quan đến kết
luận kiểm toán;
Có trách nhiệm giữ bí mật quốc gia, bí mật nghề nghiệp của đơn vị được
kiểm toán; bảo vệ các thông tin thu thập được từ các đơn vị kiểm toán và các
thông tin nội bộ của Kiểm toán Nhà nước.
Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, Kiểm toán viên nhà nước phải đeo thẻ
và sử dụng trang phục kiểm toán viên theo quy định của Kiểm toán Nhà nước;
thẻ và trang phục kiểm toán viên phải được giữ gìn cẩn thận, không được đem
cho, cho mượn, bán hoặc làm quà tặng.
5.1.2. Ứng xử trong quan hệ với đơn vị được kiểm toán
- Khi giao tiếp với đơn vị được kiểm toán phải có thái độ ứng xử văn hoá, lắng
nghe, tôn trọng, lịch thiệp, thiện chí; ngôn ngữ giao tiếp phải rõ ràng, mạch lạc.
- Kiểm toán viên nhà nước phải rèn luyện và sử dụng các kỹ năng giao tiếp
như kỹ năng nghe, đọc, nói và kỹ năng trình bày, diễn giải phù hợp với từng mối
82
quan hệ; rèn luyện khả năng tự kiềm chế, kiểm soát bản thân, tránh nổi nóng
hoặc tranh luận to tiếng với người giao tiếp.
- Không được lợi dụng danh nghĩa Kiểm toán Nhà nước để thực hiện hành
vi trái pháp luật như: Nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần
nhằm vụ lợi; không sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đơn vị được kiểm
toán; không dùng phương tiện, tài sản của đơn vị được kiểm toán vì nhu cầu cá
nhân; không gợi ý, đề nghị được ưu đãi hoặc thiên vị cho những người quen
thân trong quan hệ với đơn vị kiểm toán và quan hệ khác.
- Không được cản trở, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động bình thường
của đơn vị được kiểm toán; không tiết lộ thông tin về tình hình và kết luận kiểm
toán khi chưa được công bố chính thức; tôn trọng các quy định nội bộ của đơn vị
được kiểm toán.
5.1.3. Ứng xử trong quan hệ nội bộ Kiểm toán Nhà nước
- Đối với Kiểm toán viên nhà nước
+ Ứng xử với cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý:
Phải tôn trọng lãnh đạo, người quản lý. Chấp hành quyết định của cấp trên.
Khi có căn cứ cho rằng quyết định của cấp trên trái pháp luật thì phải kịp thời
báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định
vẫn quyết định việc thi hành thì phải chấp hành nhưng yêu cầu phải có ý kiến
bằng văn bản và không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành đó, đồng
thời báo cáo với cấp trên trực tiếp của người ra quyết định.
Thực hiện việc bảo lưu kết quả kiểm toán theo quy định của pháp luật và
của Kiểm toán Nhà nước.
Không lợi dụng việc góp ý, phê bình làm tổn hại uy tín của cán bộ lãnh đạo,
quản lý.
+ Ứng xử với đồng nghiệp:
Trong quan hệ với đồng nghiệp, Kiểm toán viên nhà nước phải trung thực,
có thái độ thân thiện, cởi mở, chào hỏi khi gặp nhau; tôn trọng, bảo vệ danh dự
và giữ uy tín của đồng nghiệp; không gây ồn ào, mất trật tự trong cơ quan hoặc
to tiếng khi giao tiếp; trong quá trình thực hiện kiểm toán phải phối hợp và giúp
đỡ đồng nghiệp để công việc hoàn thành đúng tiến độ và hiệu quả tốt nhất;
không gây bè phái chia rẽ mất đoàn kết nội bộ hoặc lợi dụng góp ý, phê bình
83
làm tổn hại đến uy tín của đồng nghiệp. Không quấy rối, gây phiền hà hoặc coi
thường đồng nghiệp trong cơ quan.
+ Ứng xử khác
Không tố cáo mang tính bịa đặt; viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên; cùng
người khác tham gia viết, ký tên trong một đơn tố cáo; tổ chức, tham gia kích
động, xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo; cố ý gửi hoặc
phát tán đơn khiếu nại, tố cáo đến những nơi không có thẩm quyền giải quyết.
- Đối với Kiểm toán viên Nhà nước là lãnh đạo, quản lý
+ Phải xây dựng, giữ gìn sự đoàn kết, đạo đức và văn hóa công sở trong cơ
quan, đơn vị, trong Đoàn, Tổ kiểm toán; nắm bắt kịp thời tâm lý của cán bộ,
kiểm toán viên thuộc thẩm quyền quản lý để có cách thức điều hành phù hợp với
từng đối tượng nhằm phát huy hết khả năng, kinh nghiệm, tính sáng tạo, chủ
động trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm toán; tạo điều kiện phát huy dân chủ
trong công tác và phát huy sáng kiến của các Kiểm toán viên; tôn trọng và tạo
niềm tin cho Kiểm toán viên khi giao nhiệm vụ và chỉ đạo thực hiện kiểm toán;
bảo vệ danh dự của Kiểm toán viên khi bị phản ánh, khiếu nại, tố cáo không
đúng sự thật.
+ Tránh thái độ bề trên, hách dịch đối với cấp dưới, áp đặt ý kiến theo cảm
tính cá nhân của mình làm ảnh hưởng việc thực hiện nhiệm vụ, kết quả quản lý
điều hành và kết quả kiểm toán.
+ Đảm bảo cho các Kiểm toán viên không bị thiên vị, phân biệt về giới
tính, tình trạng hôn nhân, quan hệ gia đình, khuyết tật, tôn giáo, dân tộc trong
quá trình quản lý, phân công nhiệm vụ, đánh giá cán bộ và đề bạt thăng chức.
Không đe dọa, trù dập, trả thù người góp ý, phê bình.
+ Phải đưa ra ý kiến chỉ đạo, kết luận cụ thể các vấn đề trong điều hành,
quản lý hoạt động kiểm toán, tránh tình trạng chung chung gây khó khăn cho
cấp dưới thực hiện; không được trốn tránh, đùn đẩy trách nhiệm khi thực hiện
nhiệm vụ, công vụ do mình thực hiện làm ảnh hưởng đến hoạt động của đơn vị
hoặc quyền lợi chính đáng, danh dự của đồng nghiệp, cấp dưới.
+ Không được che dấu, bưng bít và làm sai lệch nội dung phản ánh của cấp
dưới, của cơ quan, tổ chức khác hoặc của công dân về những việc liên quan đến
chức năng, nhiệm vụ do đơn vị mình được giao thực hiện không đúng quy định
của pháp luật.
84
5.1.4. Ứng xử trong mối quan hệ với cơ quan, tổ chức có liên quan, cơ
quan thông tin báo chí và với tổ chức, cá nhân nước ngoài
- Chỉ cung cấp những thông tin tài liệu về kiểm toán với các cơ quan, tổ
chức có liên quan một cách trung thực, đúng đắn khi có kết luận chính thức của
Kiểm toán Nhà nước và được lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước giao nhiệm vụ theo
quy định của pháp luật.
- Thực hiện đúng quy định tại Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho
báo chí của Kiểm toán Nhà nước.
- Thực hiện đúng quy định của pháp luật và cơ quan khi quan hệ với các tổ
chức, cá nhân người nước ngoài.
- Không cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những thông tin, tài
liệu bí mật của Đảng, Nhà nước hoặc những thông tin chưa được phép công bố;
không tàng trữ, tuyên truyền, phát tán hoặc xúi giục người khác tuyên truyền,
phát tán thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm trái
với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; không viết bài, cho đăng tải
tin, bài sai sự thật, vu cáo, bịa đặt hoặc quy kết về tội danh, mức án trước khi xét
xử; không đăng tải ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định; không sáng tác, sản
xuất, tàng trữ, phát tán các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật không lành
mạnh, mang tính kích động gây ảnh hưởng xấu trong xã hội; không phát tán bài
viết, hồi ký không đúng sự thật.
5.1.5. Ứng xử trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng và thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí
- Trong hoạt động của tổ kiểm toán và đoàn kiểm toán
+ Kiểm toán viên phải nêu cao ý thức trách nhiệm trong công tác phòng,
chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong hoạt động của tổ
kiểm toán, đoàn kiểm toán. Kiểm toán viên nhà nước không được đưa, nhận hối
lộ, môi giới làm thủ tục hành chính hoặc lợi dụng vị trí công tác để môi giới
hưởng thù lao dưới mọi hình thức trái quy định; không đưa, nhận hoa hồng hoặc
môi giới đưa, nhận hoa hồng trái quy định; phải trung thực trong việc báo cáo,
lập hồ sơ, kê khai lý lịch, lịch sử bản thân, kê khai tài sản, thu nhập; không mở
tài khoản ở nước ngoài trái quy định hoặc tham gia hoạt động rửa tiền.
+ Từ khâu lập kế hoạch kiểm toán đến tổ chức thực hiện kiểm toán, tổ kiểm
toán, đoàn kiểm toán phải luôn quán triệt việc tiết kiệm, chống lãng phí thời gian
85
và chi phí hoạt động kiểm toán. Kiểm toán viên nhà nước chỉ được sử dụng tài
sản công với mục đích hợp pháp và chính đáng; phải tuân thủ quy định của
Kiểm toán Nhà nước về tạm ứng, thanh toán công tác phí và các khoản khác;
nghiêm cấm việc thanh toán trùng lặp công tác phí từ nhiều nguồn khác nhau
hoặc lợi dụng thanh toán công tác phí để thu lợi bất chính.
- Trong kiểm toán đối với đơn vị được kiểm toán
Khi phát hiện có dấu hiệu tham nhũng, sử dụng không tiết kiệm hay lãng
phí tiền, tài sản nhà nước trong cơ quan, tổ chức, đơn vị được kiểm toán thì
kiểm toán viên phải báo ngay với người lãnh đạo cấp trên của mình, đồng thời
tiến hành các thủ tục thẩm tra, xác minh theo thẩm quyền và tuân theo quy định
của pháp luật và của Kiểm toán Nhà nước. Trong trường hợp người lãnh đạo cấp
trên trực tiếp của mình không có quyết định chỉ đạo kiểm toán để làm rõ các dấu
hiệu về tham nhũng, lãng phí tiền và tài sản nhà nước của đơn vị được kiểm toán
hoặc không báo cáo với cấp trên của người đó thì kiểm toán viên phải báo cáo
trực tiếp với người ra quyết định kiểm toán.
5.1.6. Ứng xử của Kiểm toán viên Nhà nước trong quan hệ xã hội khác
- Ứng xử ở nơi công cộng và các hoạt động xã hội
+ Kiểm toán viên nhà nước khi tham gia các hoạt động xã hội phải thể hiện
nếp sống văn minh, lịch sự trong giao tiếp, ứng xử để mọi người tin yêu; chủ
động, tích cực tham gia tuyên truyền, phổ biến về hoạt động kiểm toán, về
phòng, chống tham nhũng, các văn bản pháp luật khác.
+ Không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn, mạo danh để tạo thanh thế khi
tham gia các hoạt động trong xã hội; không được tham gia, tiếp tay hoặc bao che
cho các hành vi vi phạm pháp luật; kịp thời thông báo ngay cho cơ quan, tổ chức,
đơn vị có thẩm quyền biết các thông tin về những hành vi vi phạm pháp luật.
+ Không được vi phạm các quy định về nội quy và quy tắc, các chuẩn mực
về thuần phong mỹ tục tại nơi công cộng để đảm bảo sự văn minh, tiến bộ của
xã hội; các quy định về đạo đức công dân đã được pháp luật quy định hoặc đã
được cộng đồng dân cư thống nhất thực hiện.
- Ứng xử trong gia đình
+ Tích cực tuyên truyền, giáo dục, vận động người thân trong gia đình chấp
hành nghiêm túc, đúng đắn chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
86
+ Không để cho bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố chồng, mẹ chồng, bố
vợ, mẹ vợ, vợ hoặc chồng, con, anh, chị, em ruột lợi dụng danh nghĩa của bản
thân để vụ lợi cho gia đình.
+ Không có hành vi bạo lực trong gia đình, vi phạm chính sách dân số và
kế hoạch hóa gia đình, sống chung với người khác như vợ chồng; bản thân hoặc
không để con kết hôn với người nước ngoài trái quy định.
+ Không được tổ chức việc cưới hỏi, việc tang, các ngày lễ, tết, sinh nhật, kỷ
niệm ngày cưới, mừng thọ, mừng nhà mới, lên chức, lên cấp, chuyển công tác và
các việc khác của bản thân và gia đình xa hoa, lãng phí hoặc nhằm trục lợi.
- Ứng xử trong mối quan hệ khác
+ Không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều
hành các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
trường học tư nhân và tổ chức nghiên cứu khoa học tư nhân.
+ Không làm tư vấn, môi giới cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh,
dịch vụ và các tổ chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài về các công
việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác, những công việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của mình và các công việc khác mà việc tư vấn, môi giới
đó có khả năng gây phương hại đến lợi ích quốc gia, đến Kiểm toán Nhà nước.
+ Không tổ chức, tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức; cho vay trái quy
định của pháp luật; không sử dụng các chất ma túy, uống rượu, bia đến mức bê
tha và các tệ nạn xã hội khác làm ảnh hưởng tới nhân.
5.2. Chuẩn mực đạo đức của KTV KTNN Việt Nam
5.2.1. Khái niệm về chuẩn mực đạo đức KTV KTNN Việt Nam
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp KTV KTNN là những quy tắc để hướng
dẫn cho kiểm toán viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực phục vụ cho
lợi ích chung của KTNN và xã hội. Nói cách khác, đạo đức nghề nghiệp KTV là
những chỉ dẫn để các KTV luôn duy trì thái độ nghề nghiệp đúng đắn.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên KTNN có vai trò rất
quan trọng. Nó là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động kiểm toán.
Một kiểm toán viên cần phải có đạo đức và KTNN cần phải là một cộng đồng
các kiểm toán viên có đạo đức. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường thì nhu cầu
đối với nghề kiểm toán đáng tin cậy và được công nhận trở nên lớn hơn bao giờ
hết. Hơn nữa, những người chịu trách nhiệm lập báo cáo tài chính nếu không có
87
đạo đức thì dễ có thể làm cho thông tin báo cáo kiểm toán tài chính không tin
tưởng dẫn đến hậu quả là sự mất lòng tin trong công chúng. Trong bối cảnh đó,
nếu không có hoạt động kiểm toán để xác định tính tin cậy của các hệ thống
thông tin tài chính thì sẽ gây cản trở lớn. Do vậy, những đòi hỏi về đạo đức nghề
nghiệp đối với kiểm toán viên Nhà nước phải được xác định rõ ràng và được
công bố để cho công chúng nói chung biết, qua đó họ có thể đòi hỏi các hành vi
đạo đức của kiểm toán viên Nhà nước cũng như đánh giá các cam kết của
KTNN.
Thông qua các chuẩn mực đã phát triển một cách thích hợp, có thể đánh giá
trình độ và chất lượng của hoạt động kiểm toán. Đồng thời các chuẩn mực cũng
là cơ sở cho việc giáo dục và đào tạo nhằm đạt được chuyên môn hoàn hảo.
Như vậy chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có vai trò rất quan trọng trong
các cuộc kiểm toán nên nó phải được xây dựng một cách chặt chẽ, hợp lý để làm
sao cho kiểm toán viên áp dụng một cách thuận lợi mà không phạm sai lầm hay
bị chồng chéo bởi các điều lệ khác.
Như chúng ta đã biết Hệ thống chuẩn mực Kiểm toán Nhà nước gồm tổng
thể những quy định về nguyên tắc hoạt động, điều kiện và yêu cầu về đạo đức
nghề nghiệp, năng lực đối với Kiểm toán viên nhà nước; quy định về nghiệp vụ
kiểm toán và xử lý các mối quan hệ phát sinh trong hoạt động kiểm toán mà
Kiểm toán viên nhà nước phải tuân thủ khi tiến hành hoạt động kiểm toán; là cơ
sở để kiểm tra, đánh giá chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của Kiểm
toán viên nhà nước. Như vậy trong hệ thống các chuẩn mực của KTNN, không
có tên gọi riêng về các chuẩn mực đạo đức nhưng nó nằm rải rác trong Nhóm
các chuẩn mực chung.
Vừa qua Bộ tài chính đã ban hành Thông tư 214/2012 ban hành 37 chuẩn
mực kiểm toán mới theo đề nghị của Chủ tịch Hội Kiểm toán viên hành nghề
Việt Nam (VACPA) và Vụ trưởng Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01/01/2014 trong đó có Chuẩn mực số 200 - Mục tiêu tổng
thể của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện kiểm toán theo
chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Theo chúng tôi chuẩn mực đạo đức KTV Nhà
nước có thể vận dụng chuẩn mực 200 quy định rõ về đạo đức nghề nghiệp có
liên quan.
Theo đó Chuẩn mực và các quy định về đạo đức nghề nghiệp có liên
quan đến kiểm toán báo cáo tài chính (hướng dẫn đoạn 14 Chuẩn mực này)
88
A1. Kiểm toán viên phải tuân thủ chuẩn mực và các quy định về đạo đức
nghề nghiệp có liên quan, bao gồm cả tính độc lập, liên quan đến kiểm toán báo
cáo tài chính. Các yêu cầu của Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp liên quan đến
kiểm toán báo cáo tài chính được quy định tại Phần A và Phần B của Chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam (sau đây gọi là “Chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp”).
A2. Phần A của Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định các nguyên tắc
cơ bản về đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên khi tiến hành cuộc kiểm
toán báo cáo tài chính, đồng thời hướng dẫn áp dụng các nguyên tắc đó. Các
nguyên tắc cơ bản mà kiểm toán viên phải tuân thủ theo yêu cầu của Chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp là:
(a) Độc lập;
(b) Chính trực;
(c) Khách quan;
(d) Năng lực chuyên môn và tính thận trọng;
(e) Tính bảo mật;
(f) Tư cách nghề nghiệp;
(g) Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn.
Theo đó các nội dung cụ thể được giải thích rõ như sau:
Độc lập: Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên.
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải thực sự không bị chi phối
hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến
sự trung thực, khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình.
Kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán cho các đơn vị mà mình có
quan hệ kinh tế hoặc quyền lợi kinh tế như góp vốn cổ phần, cho vay hoặc vay
vốn từ khách hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách hàng, hoặc có ký kết hợp
đồng gia công, dịch vụ, đại lý tiêu thụ hàng hoá,...
Kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán ở những đơn vị mà bản thân
có quan hệ họ hàng thân thuộc (như bố, mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em ruột)
với những người trong bộ máy quản lý (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các
trưởng, phó phòng và những người tương đương) trong đơn vị được kiểm toán.
89
Kiểm toán viên không được vừa làm dịch vụ kế toán (như trực tiếp ghi
chép, giữ sổ kế toán và lập báo cáo tài chính) vừa làm dịch vụ kiểm toán cho
cùng một khách hàng.
Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự hạn chế về tính độc lập thì kiểm toán
viên phải tìm cách loại bỏ sự hạn chế này. Nếu không loại bỏ được thì kiểm toán
viên phải nêu rõ điều này trong báo cáo kiểm toán.
Chính trực: Kiểm toán viên phải thẳng thắn, trung thực và có chính kiến
rõ ràng.
Khách quan: Kiểm toán viên phải công bằng, tôn trọng sự thật và không
được thành kiến, thiên vị.
Năng lực chuyên môn và tính thận trọng: Kiểm toán viên phải thực hiện
công việc kiểm toán với đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết, với sự thận
trọng cao nhất và tinh thần làm việc chuyên cần. Kiểm toán viên có nhiệm vụ
duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn, trong môi
trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc.
Tính bí mật: Kiểm toán viên phải bảo mật các thông tin có được trong quá
trình kiểm toán, không được tiết lộ bất cứ một thông tin nào khi chưa được phép
của người có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của
pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình.
Tư cách nghề nghiệp: Kiểm toán viên phải trau dồi và bảo vệ uy tín nghề
nghiệp, không được gây ra những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp.
Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn: Kiểm toán viên phải thực hiện công
việc kiểm toán theo những kỹ thuật và chuẩn mực chuyên môn đã qui định trong
chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt
Nam chấp nhận) và các quy định pháp luật hiện hành.
Kiểm toán viên phải tuân thủ chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hoặc
chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt Nam chấp nhận. Các chuẩn mực kiểm
toán này qui định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng
các nguyên tắc và thủ tục cơ bản liên quan đến kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp trong
quá trình lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán và phải luôn ý thức rằng có thể
tồn tại những tình huống dẫn đến những sai sót trọng yếu trong các báo cáo tài
chính. Ví dụ: Khi nhận được bản giải trình của Giám đốc đơn vị, kiểm toán viên
90
không được thừa nhận ngay các giải trình đó đã là đúng, mà phải tìm được
những bằng chứng cần thiết chứng minh cho giải trình đó.
91
5.3. LUẬT ĐẠO ĐỨC INTOSAI CHO CÁC KIỂM TOÁN VIÊN TRONG
LĨNH VỰC CÔNG
Chương 1: Lời giới thiệu
Khái niệm, bối cảnh và mục đích của Luật đạo đức
1. INTOSAI cho rằng cần thiết phải đưa ra Luật đạo đức mang tính quốc tế
cho các kiểm tọán viên thuộc khu vực công.
2. Luật đạo đức là văn bản có tính chất toàn diện nêu ra các tiêu chuẩn về
đạo đức và các nguyên tắc hướng dẫn công việc hàng ngày của các kiểm toán
viên. Tính độc lập, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm toán viên thuộc khu vực
công đòi hỏi các yêu cầu cao về mặt đạo đức đổi với Cơ quan kiểm toán tối cao
(SAI) và các nhân viên của các cơ quan đó. Luật đạo đức cho các kiểm toán
viên thuộc khu vực công nên tính đến yêu cầu về đạo đức của các công chức nhà
nước nói chung và các yêu cầu riêng biệt cho các kiểm toán viên, bao gồm các
nghĩa vụ về chuyên mồn nghề nghiệp mới nhất.
3. Với bản tuyên bố Lima về các chỉ dẫn kiểm toán làm nền tảng, Luật đạo
đức INTOSAI được xem như phần bổ sung cần thiết, củng cố cho văn bản các
chuẩn mực kiểm toán INTOSAI do Ủy ban các chuẩn mực kiểm toán INTOSAI
đưa ra vào tháng 6-1992.
4. Luật đạo đức của INTOSAI được hướng dẫn trực tiếp cho kiểm toán
viên, người lãnh đạo cơ quan kiểm toán, các cán bộ điều hành và tất cả các cá
nhân trong cơ quan kiểm toán tối cao hoặc thay mặt cho cơ quan kiểm toán tối
cao tham gia vào công tác kiểm toán. Tuy nhiên, cũng không nên hiểu Luật có
bất kỳ tác động nào tối cơ cấu tổ chức của cơ quan kiểm toán tối cao. Do có
những khác biệt về văn hoá, ngôn ngữ, hệ thông xã hội và pháp lý nên trách
nhiệm của từng cơ quan kiểm toán tối cao là phải xây dựng Luật đạo đức riêng
phù hợp với hoàn cảnh của từng nước. Hơn nữa, những luật về đạo đức của từng
nước này sẽ chỉ rõ các khái niệm về đạo đức. Luật về đạo đức INTOSAI được
coi như là nền tảng để xây dựng luật về đạo đức của mỗi nước. Mỗi SAI có
trách nhiệm đảm bảo rằng tất cả các kiểm toán viên tự tìm hiểu về các tiêu
chuẩn và nguyên tắc trong Luật đạo đức của mỗi nước và hành động một cách
phù hợp.
92
5. Các hành vi của kiểm toán viên phải đúng đắn trong mọi thời điểm và
trong mọi hoàn cảnh. Bất kỳ khuyết điểm nào về chuyên môn hoặc các hành vi
không đúng đắn trong cuộc sống riêng của họ sẽ ảnh hưởng đến phẩm chất
trung thực của các kiểm toán viên, ảnh hưởng đến cơ quan kiểm toán tôi cao mà
họ đại diện, làm cho chất lượng và giá trị công việc kiểm toán nhà nước kém đi
và sẽ làm tăng mối nghi ngờ về tính tin cậy và năng lực của chính cơ quan kiểm
toán đó. Việc áp dụng và thông qua Luật đạo đức cho các kiểm toán viên thuộc
khu vực công sẽ làm tăng sự tin tưởng và tin cậy đối với kiểm toán viên và công
việc của họ.
6. Một điều rất quan trọng là mọi người nhìn nhận cơ quan kiểm toán tối
cao với sự tin cậy, đáng tin và tín nhiệm. Kiểm toán viên làm tăng sự nhìn nhận
này lên do thông qua và áp dụng các yêu cầu về khái niệm đạo đức thể hiện
trong các từ Trung thực, Độc lập và Khách quan, Bảo mật và Khả năng thực
hiện công việc.
Sự tin cậy, đáng tin và tín nhiệm
7. Các cơ quan hành pháp và lập pháp, công chúng và các đơn vị được
kiểm toán mong muốn công việc kiểm toán của cơ quan kiểm toán tối cao
không bị khiển trách, không bị nghi ngờ và cần được tôn trọng và tin cậy.
8. Các kiểm toán viên nên tự cư xử với thái độ có thể tăng cường sự hợp tác
và những mối quan hệ tốt giữa các kiểm toán viên và trong tổ chức nghề nghiệp.
Sự ủng hộ của tổ chức nghề nghiệp thông qua các thành viên của nó và sự hợp
tác của họ với tổ chức khác là những nhân tố rất quan trọng về phẩm chất nghề
nghiệp. Sự tin tưởng và tôn trọng của công chúng mà một kiểm toán viên được
hưởng là kết quả của quá trình tích luỹ những thành tựu của tất cả kiểm toán
viên, trong quá khứ và hiện tại. Do đó, vì lợi ích của các kiểm toán viên cũng
như công chúng, kiểm toán viên phải đối xử công bằng và bình đẳng với các
kiểm toán viên đồng nghiệp.
9. Cơ quan lập pháp và/hoặc hành pháp, công chúng và các đơn vị được
kiểm toán cần được đảm bảo về tính trung thực và công bằng trong tất cả công
việc của cơ quan kiểm toán tối cao. Do vậy, điều quan trọng là cần phải có Luật
về đạo đức của mỗi nước hoặc văn bản tương tự bao trùm việc cung cấp các
dịch vụ này.
10. Trong tất cả các lĩnh vực của xã hội cần có sự tín nhiệm. Do vậy, điều
93
cốt yếu là các báo cáo và ý kiến của cơ quan kiểm toán tối cao được coi như là
hoàn toàn chính xác và đáng tin cậy bởi các bên thứ ba có đủ khả năng.
11. Tất cả các công việc do cơ quan kiểm toán tối cao thực hiện phải chịu
sự kiểm tra của cơ quan lập pháp và/hoặc hành pháp, của công chúng đối với
tính đúng đắn, và sự kiểm tra đối chiếu với Luật về đạo đức của mỗi nước.
Chương 2: Tính trung thực
12. Tính trung thực là phẩm chất cốt lõi của Luật về đạo đức. Các kiểm
toán viên có nghĩa vụ phải đạt đến một chuẩn mực cao về hành vi (ví dụ như
phải trung thực và lương thiện) trong quá trình làm việc và trong quan hệ của họ
với các nhân viên của đơn vị kiểm toán. Để có sự tin cậy từ phía công chúng,
các kiểm toán viên không được để bị nghi ngờ và không được để bị chỉ trích về
hành vi của mình.
13. Phẩm chất liêm chính có thể được đánh giá theo nghĩa đúng đắn và
công bằng. Phẩm chất này đòi hỏi các kiểm toán viên phải tuân thủ cả về hình
thức và tinh thần các chuẩn mực đạo đức và các chuẩn mực kiểm toán. Phẩm
chất trung thực cũng đòi hỏi các kiểm toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc
khách quan và độc lập, duy trì các chuẩn mực tốt nhất về hành vi nghề nghiệp,
đưa ra các quyết định vì lợi ích của công chúng và áp dụng phẩm chất trung
thực tuyệt đối trong khi thực hiện công việc và xử lý các nguồn lực của cơ quan
kiểm toán tối cao.
Chương 3: Tính độc lập, khách quan và công bằng
14. Tính độc lập đối với đơn vị được kiểm toán và các đơn vị liên quan
khác là không thể thiếu được đối vói các kiểm toán viên. Điều này có nghĩa là
các kiểm toán viên cần có những cách cư xử làm sao không làm giảm đến tính
độc lập đó.
15. Các kiểm toán viên không chỉ cố gắng giữ tính độc lập đối với các đơn
vị kiểm toán và các bên liên quan khác mà cần phải khách quan đối với các vấn
đề và lĩnh vực được xem xét.
16. Điều rất cần thiết là các kiểm toán viên cần phải độc lập và công bằng
không chỉ về nội dung mà cả hình thức.
17. Trong tất cả các vấn đề liên quan đến công việc kiểm toán, tính độc lập
của các kiểm toán viên không nên bị ảnh hưởng bởi các lợi ích cá nhân hoặc lợi
ích bên ngoài. Tính độc lập có thể bị tác động, ví dụ như bởi áp lực hoặc thế lực
94
bên ngoài đối với kiểm toán viên; các định kiến của kiểm toán viên về các cá
nhân, đơn vị, chương trình hoặc dự án được kiểm toán; hoặc bởi các vấn đề liên
quan đến tài chính hoặc cá nhân có thể gây nên các mâu thuẫn về lợi ích. Các
kiểm toán viên có nghĩa vụ phải tự kiềm chế tham gia vào những vấn đề mà
trong đó họ được hưởng lợi.
18. Có yêu cầu về tính khách quan và công bằng trong tất cả các công việc do
kiểm toán viên thực hiện, đặc biệt các báo cáo cần chính xác và khách quan. Do
vậy các kết luận trong các báo cáo và ý kiến nên dựa chủ yếu vào các bằng chứng
được thu thập theo các chuẩn mực kiểm toần của cơ quan kiểm toán tối cao.
19. Các kiểm toán viên nên sử dụng các thông tin do đối tượng kiểm toán
hoặc các đơn vị khác cung cấp. Các thông tin này được kiểm toán viên tính đến
một cách khách quan khi họ đưa ra các ý kiến. Kiểm toán viên cũng nên thu
thập các thông tin về quan điểm và ý kiến của đơn vị được kiểm toán và các đơn
vị khác. Tuy vậy, các kết luận riêng của kiểm toán không nên bị tác động bởi
các ý kiến như vậy.
Trung lập về chính trị
20. Điều quan trọng là phải duy trì cả hai yếu tố trung lập về chính trị trong
thực tế cũng như trong nhận thức của các cơ quan kiểm toán tối cao. Do vậy
điều quan trọng đối với các kiểm toán viên là phải duy trì tính độc lập đối với
ảnh hưởng chính trị nhằm mục đích thực hiện công việc kiểm toán của họ một
cách công bằng. Điều này liên quan đến các kiểm toán viên vì công việc của cơ
quan kiểm toán tối cao liên quan chặt chẽ tới các cơ quan lập pháp, hành pháp
hoặc các cơ quan khác thuộc Chính phủ được ủy quyền bởi pháp luật để xem xét
các báo cáo của cơ quan kiểm toán tối cao.
21. Điều quan trọng là nếu kiểm toán viên có tham gia hoặc liên quan đến
các hoạt động chính trị thì phải lưu ý rằng việc tham gia như vậy có thể ảnh
hưởng đến khả năng thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn một cách khách quan.
Nếu kiểm toán viên được phép tham gia các hoạt động chính trị, họ phải nhận
thức rằng những hoạt động này có thể dẫn tới các mâu thuẫn về nghề nghiệp.
Mâu thuẫn về lợi ích
22. Khi các kiểm toán viên được phép tư vấn hoặc cung cấp các dịch vụ
khác ngoài việc kiểm toán cho một đối tượng kiểm toán thì cần thiết phải lưu ý
xem các dịch vụ này có dẫn tới sự mâu thuẫn về lợi ích hay không. Cụ thể là
kiểm toán viên nên đảm bảo rằng việc tư vấn và các dịch vụ như vậy không bao
95
gồm các trách nhiệm hoặc quyền hạn quản lý, điều mà luôn cần phải gắn với
ban lãnh đạo của đơn vị được kiểm toán.
23. Các kiểm toán viên nên bảo vệ tính độc lập và tránh bất kỳ sự mâu
thuẫn về lợi ích nào bằng cách từ chối nhận quà biếu và tiền thưởng được coi
như là nhân tố ảnh hưởng tới tính độc lập và trung thực của kiểm toán viên.
24. Cần phải tránh các mối quan hệ với ban quản lý và nhân viên ở đơn vị
được kiểm toán và các đơn vị khác có thể gây ảnh hưởng, làm ảnh hưỏng hoặc
tác động đến khả năng của kiểm toán viên hoạt động một cách độc lập.
25. Các kiểm toán viên không nên sử dụng chức vụ chính thức của mình để
đạt mục đích riêng và nên tránh các mối quan hệ làm nảy sinh nguy cơ tham nhũng
hoặc gây ra mối nghi ngờ về tính trung thực và khách quan của kiểm toán viên.
26. Các kiểm toán viên không nên sử dụng các thông tin nhận được trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ làm phương tiện để mưu cầu lợi ích cá nhân cho
bản thân họ hoặc cho người khác. Tương tự như vậy các kiểm toán viên không
nên để lộ thông tin mang đến những mặt lợi không đúng hoặc không hợp lý cho
các cá nhân hoặc tổ chức khác, cũng như không sử dụng thông tin như vậy làm
hại người khác.
Chương 4: Bí mật nghề nghiệp
27. Các kiểm toán viên không được tiết lộ thông tin thu thập được trong
quá trình kiểm toán cho các bên thứ ba cả bằng hình thức nói và viết, ngoại trừ
các mục đích phù hợp với quy định của cơ quan kiểm toán tối cao hoặc các
nghĩa vụ đã được thừa nhận khác như một phần của quy trình thường xuyên của
cơ quan kiểm toán tối cao hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan.
Chương 5: Khả năng thực hiên công việc
28. Các kiểm toán viên có trách nhiệm tự thực hiện công việc vào tất cả
mọi thời điểm theo cách thức chuyên nghiệp và áp dụng các chuẩn mực chuyên
môn cao trong quá trình thực hiện công việc nhằm giúp họ thực hiện nhiệm vụ
một cách thành thạo và công bằng.
29. Các kiểm toán viên không được thực hiện công việc mà họ không có
khả năng thực hiện.
30. Các kiểm toán viên cần hiểu biết và tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán,
kế toán, quản lý tài chính, các chính sách, các quy trình và thông lệ được áp
dụng. Tương tự như vậy kiểm toán viên phải hiểu sâu sắc về các chuẩn mực và
96
nguyên tắc liên quan đến luật pháp, thể chế, tổ chức bao trùm hoạt động của đối
tượng kiểm toán.
Phát triển nghề nghiệp
31. Các kiểm toán viên cần có sự cẩn trọng cao về nghề nghiệp trong quá
trình thực hiện và kiểm soát công tác kiểm toán và trong quá trình chuẩn bị báo
cáo liên quan.
32. Các kiểm toán viên nên sử dụng các phương pháp và thông lệ có chất
lượng cao nhất trong quá trình kiểm toán. Trong khi thực hiện kiểm toán và đưa
ra báo cáo, kiểm toán viên có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc cơ bản và các
chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận.
33. Các kiểm toán viên cần có nghĩa vụ thường xuyên cập nhật và nâng cao
các kỹ năng để hoàn thành các trách nhiệm chuyên môn của họ.
Lời chú giải
Các thuật ngữ sử dụng trong Luật về đạo đức này có cùng cách hiểu hoặc
định nghĩa như đã được sử dụng trong các chuẩn mực kiểm toán của INTOSAI.
IV. BÀI TẬP, TÌNH HUỐNG THẢO LUẬN, THỰC HÀNH
1. Khi tiến hành kiểm toán BCTC tại một DNNN, kiểm toán viên Nam Anh
đã gặp các tình huống sau:
a. Hai tháng trước ngày kết thúc niên độ, nhân viên kế toán tổng hợp của
DNNN X đã nghỉ việc và cho đến ngày lập BCTC, DNNN X vẫn chưa tìm
được người thay thế. Do đó, những nghiệp vụ phát sinh của DNNN X trong hai
tháng cuối niên độ chưa được ghi vào sổ sách. Vì Nam Anh đã từng một lần
kiểm toán BCTC tại DNNN X, nên đã nhờ kiểm toán viên Nam Anh lập BCTC
và sau đó Nam Anh lại được phân công kiểm toán BCTC cho năm hiện hành.
b. Khi được biết Nam Anh đang kiểm toán tại DNNNX, Ngọc - một học
viên cao học đang nghiên cứu một chuyên đề “các nghiệp vụ tài chính của
DNNN ” đã đề nghị Nam Anh cung cấp thông tin hoặc cho nhận xét về những
hoạt động tài chính của DNNN, Ngọc hứa sẽ bảo mật các thông tin mà Nam
Anh cung cấp.
c. Sau khi kiểm kê hàng tồn kho cuối năm của DNNN, người quản lý phân
xưởng đã tặng kiểm toán viên Nam Anh một chiếc xe đạp thể thao do DNNN X
sản xuất.
97
Yêu cầu: Trong từng tình huống trên, học viên hãy cho biết nếu nhận lời thì
kiểm toán viên Nam Anh có vi phạm đạo đức nghề nghiệp không? Giải thích.
2. Hãy cho biết trong các tình huống dưới đây kiểm toán viên đã làm theo
hoặc vi phạm tiêu chuẩn nghề nghiệp nào?
a. Kiểm toán viên đã cung cấp thông tin của công ty khách hàng được kiểm
toán cho một người bạn thân
b. Nghi ngờ có sai phạm chế độ kế toán dẫn đến sai lệch số liệu khoản phải
thu kiểm toán viên đã tiến hành kiểm tra toàn bộ số liệu, chứng từ có liên quan
thay vì thực hiện kiểm tra chọn mẫu.
c. Do mâu thuẫn với một người quen cũ đang làm kế toán tại đơn vị được
kiểm toán, kiểm toán viên đã đưa ra nhận xét không đúng về phần việc mà
người quen anh ta phụ trách trên báo cáo kiểm toán
3. Hãy xử lý các tình huống sau đây:
a. Bạn nói xấu, bôi nhọ sếp của mình và sếp của bạn phát hiện ra điều đó.
Bạn bị bắt quả tang có thái độ thô lỗ với sếp. Trong khi viết thư tán gẫu, trêu đùa
người bạn thân của mình, bạn vô tình click vào nút “Reply All” trong email. Sếp
của bạn vô tình nghe được những lời bạn bình luận xúc phạm đến ông ấy ở
trong nhà hàng hoặc ở trong hiệu photocopy.
b. Bạn đánh mất tài liệu quan trọng liên quan đến kết quả kiểm toán, tồi tệ
hơn nữa là bạn đánh mất USB hoặc máy tính xách tay. Bạn xoá toàn bộ thông
tin quan trọng, bạn vứt hết những giấy tờ vào sọt rác mà không huỷ chúng trước.
c. Bạn vừa có một cuộc khẩu chiến với đồng nghiệp tại đơn vị được kiểm
toán. Bạn “tuôn” ra những lời lẽ không hay, bạn chửi rủa, và gào thét tên của
đồng nghiệp đó. Cho dù mọi người đều công nhận rằng anh ta là một kẻ ngốc,
và đáng bị bạn chửi rủa như vậy thì những hành động thô lỗ của bạn là không
thể chấp nhận được.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh- Trung tâm KH về tín ngưỡng
và tôn giáo: Tập bài giảng : Lý luận về tôn giáo và chính sách của Đảng và nhà
nước ta(Hệ cao cấp lý luận chính trị).
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình- Tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB
Chính trị Quốc gia, 2005.
98
3. Hồ Chí Minh Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia- 1995.
4. Trần Ngọc Thêm : Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. NXB TP Hồ Chí
Minh 2001.
5. Luật Kiểm toán Nhà nước, năm 2005.
6. Quy định về quy tắc ứng xử của Kiểm toán viên Nhà nước (Ban hành kèm
theo Quyết định số 62/QĐ-KTNN ngày 01 tháng 02 năm 2013 của Tổng Kiểm
toán Nhà nước).
7. Nghị quyết số: 1002/2006/NQ-UBTVQH11 Quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn và tiêu chuẩn cụ thể của từng ngạch kiểm toán viên nhà nước.
8. Luật cán bộ công chức, năm 2008.
9. Luật viên chức, năm 2010.
99