50 phán quyẾt trỌng tài quỐc tẾ chỌn lỌc · pdf filehợp đồng...

212
1 TRUNG TÂM TRNG TÀI QUC TVIT NAM (VIAC) 50 PHÁN QUYT TRNG TÀI QUC TCHN LC (http://viac.vn/an-pham/50-phan-quyet-trong-tai-quoc-te-chon- loc-a178.html)

Upload: hakiet

Post on 05-Feb-2018

218 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIAC)

50 PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI QUỐC TẾ CHỌN LỌC

(http://viac.vn/an-pham/50-phan-quyet-trong-tai-quoc-te-chon-

loc-a178.html)

2

PHÁN QUYẾT SỐ 1

TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN

TÍNH ĐỘC LẬP CỦA ĐIỀU KHOẢN TRỌNG TÀI

Các bên:

Nguyên đơn : Người bán Đức

Bị đơn : Người mua Rumani

Các vấn đề được đề cập:

− Điều khoản trọng tài

− Ảnh hưởng của điều khoản bảo lưu tới hiệu lực của hợp đồng và của điều khoản trọng tài

Tóm tắt vụ việc:

HỢP TÁC LÀM PHIM

Nguyên đơn và Bị đơn đã ký một Thoả thuận (hợp đồng) trong đó có chứa một điều khoản bảo lưu với nội dung như sau "Thoả thuận này sẽ có giá trị sau khi thư tín dụng được mở".

Bị đơn, sau khi có được bảo lãnh của Chính phủ để mở thư tín dụng, đã yêu cầu Nguyên đơn giao hàng ngay trước khi thư tín dụng được mở. Nguyên đơn đã thực hiện việc giao hàng theo yêu cầu này của Bị đơn.

Sau khi đã thực hiện toàn bộ các nghĩa vụ trong hợp đồng mà chỉ được thanh toán một phần tiền hàng, Nguyên đơn đã khởi kiện ra trọng tài yêu cầu Bị đơn thanh toán nốt số tiền còn lại.

Bị đơn không chấp nhận thẩm quyền của trọng tài với lập luận rằng vì điều khoản bảo lưu (việc mở thư tín dụng) đã không được thực hiện nên hợp đồng coi như chưa có hiệu lực và điều khoản trọng tài, vì thế, cũng không có hiệu lực.

Phán quyết của trọng tài:

Vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất trong vụ kiện này là khi điều kiện bảo lưu quy định trong hợp đồng chính không được thoả mãn, hợp đồng trở nên vô hiệu thì sự vô hiệu của hợp đồng có kéo theo sự vô hiệu của điều khoản trọng tài hay không.

Trên thực tế thoả thuận về trọng tài thông thường được thể hiện đơn giản dưới hình thức một điều khoản trọng tài và đưa vào hợp đồng thương mại (như hợp đồng mua

3

bán hàng hoá, mua bán bản quyền, vận chuyển...). Thực tế, điều khoản trọng tài có thể được hiểu là "một hợp đồng trong một hợp đồng".

Chúng ta không nên lẫn lộn điều khoản trọng tài với hợp đồng chính mà nó dẫn chiếu tới. Bởi đây là hai loại thoả thuận có đối tượng pháp lý hoàn toàn khác nhau: Điều khoản trọng tài xác định thủ tục tố tụng sẽ được áp dụng trong trường hợp có tranh chấp phát sinh giữa các bên còn Hợp đồng chính quy định nghĩa vụ và quyền lợi của các bên. Thông thường điều khoản trọng tài có một mức độ độc lập nhất định đối với hợp đồng chính. Điều khoản này không bị tác động bởi những lý do vô hiệu của hợp đồng chính. Nói một cách khác, việc vô hiệu của hợp đồng chính không thể ảnh hưởng tới tiến trình tố tụng bằng trọng tài.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là hợp đồng chính không có ảnh hưởng gì tới điều khoản trọng tài. Có những lý do vô hiệu có tác động tới cả hai thoả thuận trên như vi phạm nguyên tắc tự nguyện khi ký kết hoặc sự không có năng lực trong ký kết hợp đồng của các bên.

Về mặt pháp lý, Điều 343 Luật dân sự của Rumani (luật được chọn để điều chỉnh hợp đồng) có quy định: "Hiệu lực của điều khoản trọng tài độc lập với hiệu lực của hợp đồng chứa đựng nó".

Thực tế, vấn đề hợp đồng chính trong vụ việc này có hiệu lực hay không cũng còn phải xem xét lại bởi theo thoả thuận mới giữa hai bên (Bị đơn yêu cầu và Nguyên đơn chấp nhận yêu cầu đó), việc giao hàng được tiến hành trước khi thư tín dụng được mở, tức là điều khoản bảo lưu không còn nữa. Tuy nhiên, trong vụ việc này uỷ ban trọng tài chỉ có nhiệm vụ xem xét xem điều khoản trọng tài trong hợp đồng có hiệu lực hay không. Với lập luận rằng "vì thoả thuận trọng tài là một thoả thuận độc lập nên dù hợp đồng chính bị tác động bởi điều khoản bảo lưu, thoả thuận này vẫn không hề bị ảnh hưởng bởi điều khoản bảo lưu nói trên", trọng tài quyết định mình có thẩm quyền giải quyết và bác yêu cầu của Bị đơn.

4

PHÁN QUYẾT SỐ 2

TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA HỆ THỐNG THIẾT BỊ HPA

Các bên:

Nguyên đơn : Người mua Đông Phi

Bị đơn : Người cung cấp Mỹ

Các vấn đề được đề cập:

− Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp hàng hóa không phù hợp quy cách phẩm chất

− Trách nhiệm hạn chế thiệt hại trong hợp đồng

− Điều khoản giải quyết tranh chấp bằng thương lượng

Tóm tắt vụ việc:

Để phục vụ cho việc vận hành một trạm vệ tinh mặt đất tại Đông Phi, tháng 4 năm 1978, Nguyên đơn, một công ty Đông Phi, đã ký một hợp đồng mua, vận chuyển và lắp đặt một bộ khuyếch đại sóng cực ngắn (sau đây gọi tắt là "HPA") với Bị đơn, một nhà cung cấp Mỹ. Hợp đồng quy định luật áp dụng là luật của bang California và mọi tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng tài của Phòng Thương mại và Công nghiệp Quốc tế tại Geneva.

Nguyên đơn ký “Bản Chấp Nhận” đối với hệ thống "HPA" tại nhà máy của Bị đơn tại Mỹ vào tháng 6 năm 1979, sau đó tại công trường tại nước Đông Phi.

Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, hệ thống "HPA" luôn gặp trục trặc và vào tháng 1 năm 1980, ngừng hoạt động. Kể từ đó, mặc dù hai bên đã vài lần cố gắng sửa chữa tại Đông Phi, hệ thống HPA vẫn không thể hoạt động bình thường.

Nguyên nhân của việc hệ thống HPA liên tục bị hỏng là do việc lắp đặt không đúng thiết bị. Cụ thể, hệ thống cung cấp điện mà HPA yêu cầu không phù hợp với hệ thống điện sẵn có tại hiện trường.

Cuối cùng vào tháng 4 năm 1981, các bên quyết định gửi hệ thống HPA trở lại nhà máy của Bị đơn tại Mỹ. Tháng 5 năm 1981 Bị đơn đề nghị được sửa hệ thống HPA nhưng Nguyên đơn không chấp nhận. Hai bên cũng đã tiến hành thương lượng nhiều lần về việc sửa chữa này nhưng không đạt kết quả. Ngày 25 tháng 11 năm 1981, Nguyên đơn đã huỷ bỏ “Bản Chấp Nhận” hệ thống HPA mà mình đã ký trước đây và mua một hệ thống HPA từ một nhà sản xuất khác để thay thế cho hệ thống HPA của Bị đơn.

Nguyên đơn đã khởi kiện ra trọng tài yêu cầu Bị đơn:

− Hoàn lại số tiền đã thanh toán theo hợp đồng,

5

− Bồi thường khoản chênh lệch giữa giá mua của hệ thống HPA cũ và hệ thống HPA thay thế,

− Bồi thường những thiệt hại ngẫu nhiên và những thiệt hại nhân quả kéo theo.

Phán quyết của trọng tài:

Vấn đề chủ yếu mà trọng tài cần xác định trong vụ việc này là liệu đây có phải là một trường hợp cung cấp hàng không đúng phẩm chất, qui cách theo hợp đồng hay không.

Nguyên đơn khiếu nại đòi huỷ bỏ Bản Chấp nhận đối với hệ thống HPA, đối tượng của hợp đồng. Lý do Nguyên đơn (người mua) nêu ra là tính không phù hợp của hàng hoá được giao với hàng hoá miêu tả trong hợp đồng.

Uỷ ban trọng tài lập luận như sau:

Theo điều 2608 của Luật Thương Mại California, người mua có thể huỷ bỏ Hợp đồng của mình đối với một lô hàng hoặc một đơn vị hàng hoá khi lô hàng đó được giao không đúng với quy cách phẩm chất quy định, gây thiệt hại lớn cho người mua trong những trường hợp sau:

- Sự không phù hợp về quy cách phẩm chất đó có thể được khắc phục nhưng lại không được khắc phục một cách hợp lý.

- Người mua đã chấp nhận hàng hoá được giao mà không biết rằng chất lượng và quy cách hàng hoá không phù hợp với hợp đồng do lỗi về chất lượng và quy cách này rất khó phát hiện khi nhận hàng giao hoặc do người bán đã có bảo đảm trước về chất lượng hàng hoá.

Vấn đề cần làm rõ là liệu việc hệ thống HPA không hoạt động được tại hiện trường có được coi là sự không phù hợp của hệ thống HPA với các quy cách phẩm chất quy định tại hợp đồng hay không. Và ngay cả trong trường hợp không phù hợp với hợp đồng thì liệu đây có phải là một trường hợp được phép huỷ hợp đồng như qui định tại Điều 2608 hay không.

Theo các quy định của hợp đồng, nghĩa vụ hợp đồng của Bị đơn đối với hệ thống HPA không chỉ đơn thuần là bán và giao hàng mà còn phải lắp đặt hệ thống HPA tại hiện trường. Mục A của hợp đồng qui định "Người bán có nghĩa vụ giao, lắp đặt và kiểm tra tại hiện trường bộ khuyếch đại và quản lý, giám sát cũng như đốc thúc công việc cần phải thực hiện".

Uỷ ban trọng tài cho rằng nghĩa vụ lắp đặt tại hiện trường kéo theo trách nhiệm phải bảo đảm rằng hệ thống HPA sẽ được xây lắp theo đúng quy cách phẩm chất cần thiết phù hợp với điều kiện thực tế tại công trường cho dù điều đó không được quy định cụ thể trong phần B "Quy cách phẩm chất" của hợp đồng. Bởi vậy, vì không thiết kế được hệ thống HPA với những quy cách phẩm chất cần thiết để vận hành được tại hiện trường, Bị đơn đã không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.

6

Một vấn đề nữa là liệu Nguyên đơn có phải chia sẻ trách nhiệm với Bị đơn hay không, vì trong thời gian đàm phán Nguyên đơn đã biết rằng hệ thống HPA phải phù hợp với hệ thống phân phối điện tại hiện trường và như thế mới có thể dễ dàng đáp ứng được mọi quy cách phẩm chất quy định tại phần B của hợp đồng.

Uỷ ban trọng tài thấy không cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này, vì trên thực tế, vào tháng 12 năm 1978, cụ thể là trong thời gian thiết kế và xây dựng hệ thống HPA, ngay trước thời điểm chuyển giao, ông B, nhân viên điều hành chịu trách nhiệm về phần sản xuất hệ thống HPA của Bị đơn, đã nhận được thông báo từ một trong các kỹ sư của mình tại hiện trường là tâm điểm được sử dụng là tâm điểm khác với tâm điểm được thiết kế cho hệ thống HPA.

Uỷ ban trọng tài kết luận rằng việc hệ thống HPA không thể vận hành trong các điều kiện thực tế tại hiện trường cấu thành lỗi "không phù hợp" và tạo thành lỗi trong hợp đồng của Bị đơn. Xét trên khía cạnh này, những quy định của điều 2608 của luật thương mại California đã được đáp ứng. Uỷ ban trọng tài cũng cho rằng những điều kiện pháp lý nêu tại điều 2608 của luật thương mại California về huỷ bỏ Chấp nhận cũng được thỏa mãn.

Uỷ ban trọng tài kết luận rằng, Nguyên đơn được quyền huỷ bỏ Chấp nhận hệ thống HPA, được hoàn trả lại tiền đã thanh toán và bồi thường khoản chênh lệch giá do phải mua một hệ thống HPA khác để thay thế. Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về các thiệt hại ngẫu nhiên và nhân quả kéo theo do Nguyên đơn đã không đưa ra được các chứng cứ chứng minh cho các thiệt hại này.

7

PHÁN QUYẾT SỐ 3

TRANH CHẤP VỀ TÍNH VÔ HIỆU CỦA HỢP ĐỒNG ĐỔI HÀNG

Các bên:

Nguyên đơn : Hai doanh nghiệp Nam Tư

Bị đơn : Một công ty Thụy Sĩ

Các vấn đề được đề cập:

− Luật áp dụng đối với Hợp đồng

− Tính vô hiệu của hợp đồng: do trái với tập quán, vi phạm chính sách chung

− Hậu quả của tính vô hiệu

Tóm tắt vụ việc:

Quan hệ phát sinh từ giao dịch giữa các bên đã được thiết lập thông qua việc đổi hàng hoá xuất khẩu từ Nam Tư để lấy hàng hoá nhập khẩu khác. Thực chất chỉ Hợp đồng nhập khẩu là có thực, còn Hợp đồng xuất khẩu là không có thực vì mục đích của việc thiết lập quan hệ này là nhằm thu được nguồn tài chính cần thiết và thực hiện việc quy đổi ngoại tệ để thanh toán hàng hoá nhập khẩu. Trên thực tế, hàng hoá xuất khẩu đã được giao tại Nam Tư và được thanh toán bằng Franc Thuỵ Sỹ. Các Nguyên đơn (trong đó có một doanh nghiệp đã phá sản) yêu cầu huỷ bỏ giao dịch và đòi bồi thường thiệt hại.

Phán quyết của trọng tài:

1. Luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa các bên:

Theo Nguyên đơn, luật Nam Tư sẽ là luật áp dụng, còn Bị đơn cho rằng luật Thuỵ Sỹ sẽ là luật áp dụng.

Theo đoạn 3 và 5, Điều 13 của Quy tắc Trọng tài Quốc tế ICC, các bên được tự do quyết định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp các bên không có bất kỳ thoả thuận nào về luật áp dụng thì Uỷ ban trọng tài sẽ chỉ định luật áp dụng theo nguyên tắc mà Uỷ ban trọng tài cho là thích hợp. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp Uỷ ban trọng tài phải tính đến các điều khoản của hợp đồng và các tập quán thương mại.

Qui định này cũng được nêu trong Điều VII của Công ước Geneva về Trọng tài Thương mại Quốc tế ký ngày 21 tháng 4 năm 1961 và trong Điều 33 đoạn 1 và 3 Quy tắc Trọng tài Quốc tế UNCITRAL.

Về vấn đề này, hầu hết các học thuyết hiện nay về thẩm quyền của trọng tài và các án lệ trọng tài quốc tế đều thừa nhận rằng trong việc xác định luật áp dụng, Uỷ ban

8

trọng tài có thể bỏ qua các qui tắc luật xung đột và áp dụng trực tiếp các qui tắc luật thực chất. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các trọng tài viên được tự do lựa chọn luật áp dụng, được ưu tiên áp dụng luật này hay luật khác. Việc lựa chọn luật của các trọng tài viên phải dựa trên các yếu tố khách quan như các điều khoản của hợp đồng liên quan, các tập quán thương mại.

Ngoài ra, Trọng tài cũng phải căn cứ vào các qui tắc nêu trong bản dự thảo nguyên tắc về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế, một công trình nghiên cứu của Uỷ ban Thực tiễn Thương mại Quốc tế của ICC đưa ra tại Hội nghị Stockholm ngày 9 tháng 10 năm 1981.

Theo Điều 3 Công ước về Luật áp dụng đối với Hợp đồng Mua bán Hàng hoá Quốc tế ký tại La Haye ngày 15 tháng 6 năm 1955, hợp đồng mua bán được điều chỉnh bởi luật quốc gia của nước mà người bán có trụ sở thường trú tại thời điểm nhận được đơn đặt hàng. Tuy nhiên, hợp đồng mua bán sẽ được điều chỉnh bởi luật quốc gia của nước mà bên mua có trụ sở chính, nếu như đó là nơi mà người bán nhận đơn đặt hàng.

Các qui định tư pháp quốc tế của Thuỵ Sỹ, Pháp và Nam Tư vào thời điểm này cũng có những quy tắc tương tự trong việc xác định luật áp dụng cho các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán: Vấn đề đầu tiên là phải xác định những điểm quan trọng nhất khi thực hiện hợp đồng. Tiếp theo cần xác định lãnh thổ có mối quan hệ chặt chẽ nhất với việc thực hiện hợp đồng, hoặc theo như ý kiến của Toà án liên bang Thuỵ Sỹ, thì phải định ra "trung tâm" của Hợp đồng. Các yếu tố này sẽ là cơ sở chủ yếu để xác định luật áp dụng đối với hợp đồng. Đây cũng là giải pháp đưa ra trong Công ước Châu Âu về Luật áp dụng đối với Nghĩa vụ hợp đồng được các nước thành viên ký kết tại Rome, ngày 19 tháng 6 năm 1980.

Uỷ ban trọng tài cho rằng trong vụ việc này Nguyên đơn phải chịu sự điều chỉnh của luật Nam Tư đối với việc quản lý xuất nhập khẩu. Luật này bao gồm các quy định chung về phạt tiền và thậm chí bị phạt tù theo như văn bản sửa đổi luật này và được áp dụng cho bất cứ hợp đồng xuất nhập khẩu nào ở Nam Tư.

Ngoài ra, căn cứ vào các điều khoản ghi trong các chứng từ hợp đồng và thực tiễn thực hiện hợp đồng, Uỷ ban trọng tài cho rằng luật áp dụng đối với quan hệ hợp đồng là luật Nam Tư.

2. Sự vô hiệu của hợp đồng xuất khẩu:

Trên thực tế, không hề có bất kỳ thông tin chi tiết nào về Hợp đồng xuất khẩu và các trọng tài viên đã đi đến kết luận rằng hợp đồng này là không có thực và các bên đã vi phạm qui định về quy đổi ngoại tệ.

Uỷ ban trọng tài cho rằng:

"Về mặt nguyên tắc, những thoả thuận trái với qui định bắt buộc của luật hoặc trái với chính sách chung, trái đạo đức và tập quán là không hợp lệ và vô hiệu. Điều này được qui định trong Điều 879 Luật Dân sự Áo, được áp dụng tại Croatia và

9

Slovakia năm 1974, cũng như được qui định trong Luật về Nghĩa vụ hợp đồng có hiệu lực từ năm 1978 của Nam Tư. Nguyên tắc này cũng được tất cả các nước và các hệ thống pháp luật khác công nhận. Đây có thể coi là một yếu tố của luật hợp đồng được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi".

Trong vụ việc này, các bên đã ký kết một hợp đồng không có thực, vi phạm luật Nam Tư và thông qua việc dùng nhà xuất khẩu không có thực để thu được một khoản tín dụng cũng không có thực. Vì vậy, tại thời điểm giao kết hợp đồng đã có vi phạm luật, cũng như vi phạm đạo đức và trái với tập quán.

Ngoài ra, Điều 7 Hợp đồng xuất nhập khẩu ký kết giữa các bên qui định: "Toàn bộ các điều khoản nêu trên của hợp đồng này là không thể tách rời và các bên phải có nghĩa vụ thực hiện đúng theo hợp đồng".

Từ các lập luận trên, Uỷ ban trọng tài đi đến kết luận rằng: Hợp đồng xuất khẩu là không hợp lệ và vô hiệu.

Hệ quả của sự vô hiệu nói trên là hai hợp đồng nhập khẩu hàng hoá cũng không hợp lệ và vô hiệu vì Điều 7 của hợp đồng gốc qui định về tính thống nhất của các điều khoản trong hợp đồng (tức là sự thống nhất giữa các Hợp đồng nhập khẩu và xuất khẩu).

3. Hậu quả của việc hợp đồng vô hiệu:

Theo luật Nam Tư, Hợp đồng vô hiệu dẫn tới việc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu của các bên, có nghĩa là mỗi bên phải hoàn lại những lợi ích mà họ đã nhận được từ hợp đồng, không đền bù thiệt hại, trừ khi có lợi ích bị vi phạm. Kết luận của Uỷ ban trọng tài là hợp đồng nhập khẩu không hợp lệ và vô hiệu, hậu quả là một trong các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu mà không có bất cứ bồi thường nào trừ khi lợi ích bị vi phạm.

Vấn đề tiếp theo là việc xác định khoản tiền mà Bị đơn phải hoàn trả.

Bị đơn sẽ phải hoàn trả khoản tiền tín dụng do Nguyên đơn mở là 5.398.986,51 Franc Thuỵ Sỹ.

Các Nguyên đơn còn thực hiện một số chi phí khác nhưng không mang lại lợi nhuận cho Bị đơn, vì vậy Bị đơn không phải hoàn trả các chi phí này.

Bị đơn phải hoàn trả khoản tiền bằng Franc Thuỵ Sỹ. Khoản tiền này trước đây do một trong các Nguyên đơn thanh toán cho Bị đon tại Thuỵ Sỹ vì vậy các lợi ích bị vi phạm phải được tính theo tỷ giá áp dụng cho lãi suất áp dụng cho thanh toán quá hạn ở Thuỵ Sỹ, tức là 5% theo Điều 104 Luật nghĩa vụ hợp đồng của Thuỵ Sỹ.

Như vậy các Nguyên đơn được quyền đòi Bị đơn bồi thường khoản lãi trên số tiền đã thanh toán cho Bị đơn tính từ ngày thực hiện việc thanh toán với lãi suất là 5%.

Phán quyết của Uỷ ban trọng tài như sau:

− Hợp đồng gốc và ba hợp đồng liên quan là không hợp lệ và vô hiệu do vi phạm

10

luật Nam Tư và trái với đạo đức và tập quán.

− Các Nguyên đơn phải tự chịu các chi phí gửi trả lại hàng hoá nhập khẩu mà Bị đơn đã giao cho họ tại nơi đăng ký trụ sở của Bị đơn.

− Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn khoản tiền ứng trước 5.398.986,51 Franc Thuỵ Sỹ vào tài khoản theo thư tín dụng tại ngân hàng X.

− Nguyên đơn có quyền hưởng lãi suất theo tỷ lệ 5% tính từ ngày đã trả tiền cho tới ngày Bị đơn thực hiện việc bồi hoàn.

− Mỗi bên phải thanh toán một nửa thù lao và phí trọng tài do Uỷ ban trọng tài quyết định.

11

PHÁN QUYẾT SỐ 4

TRANH CHẤP VỀ VIỆC KHÔNG GIAO HÀNG DO BẤT KHẢ KHÁNG

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GỖ

Các bên:

Nguyên đơn : Bên mua Syri

Bị đơn : Bên bán Ghana

Các vấn đề được đề cập:

− Việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn

− Trường hợp bất khả kháng

− Việc Nguyên đơn từ chối hợp đồng

− Các thiệt hại (giá chênh lệch, mất lợi nhuận, các chi phí ngân hàng)

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 15 tháng 8 năm 1979, Nguyên đơn đã ký hợp đồng mua của Bị đơn 5000 m3 gỗ dán và 5000 m3 gỗ khối theo những điều kiện sau:

a. Chuyến hàng đầu tiên gồm 3000 m3 gỗ dán và 1000 m3 gỗ khối sẽ được giao trong vòng hai tháng kể từ ngày mở thư tín dụng,

b. Chuyến hàng thứ hai gồm 2000 m3 gỗ dán và 2000 m3 gỗ khối sẽ được giao sau chuyến thứ nhất một tháng,

c. Chuyến hàng thứ ba gồm 2000 m3 gỗ khối sẽ được giao sau chuyến thứ hai một tháng.

− Thanh toán bằng L/C có xác nhận và không huỷ ngang;

− Bảo đảm thực hiện hợp đồng trị giá 5% tổng trị giá hợp đồng do Bị đơn cấp "ngay sau khi L/C tương ứng được mở ";

− Điều khoản về phạt do giao chậm;

− Điều khoản về trọng tài quốc tế ICC;

− Điều khoản về bất khả kháng trong đó nêu rõ:

+ Trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng, bên bán có trách nhiệm thông báo với bên mua ngay sau khi sự kiện này xảy ra,

+ Sự biến động của tiền tệ cũng như việc tăng giá sẽ không được coi là bất khả kháng.

Sau khi hợp đồng được ký kết, Bảo đảm thực hiện hợp đồng được Bị đơn gửi tới

12

Nguyên đơn ngày 22 tháng 11 năm 1979. Tương ứng theo đó, chuyến hàng cuối cùng phải được giao muộn nhất là ngày 22 tháng 3 năm 1980. Ngày 26 tháng 11 năm 1979, hai thư tín dụng có thời hạn tới ngày 22 tháng 2 năm 1980, một cho lô gỗ dán và một cho lô gỗ khối mà người thụ hưởng là Bị đơn, đã được xác nhận. Về phần mình, Nguyên đơn cũng đã ký hợp đồng bảo hiểm cho hàng hoá và chỉ định công ty giám định để kiểm tra chất lượng hàng hoá được giao.

Ngày 14 tháng 12 năm 1979, Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn bằng Telex rằng do mưa lớn, thiếu nhiên liệu và một số lý do khác, họ không thể giao hàng theo đúng lịch định. Ngày 16 tháng 12 năm 1979 chuyến hàng đầu tiên chỉ có 218,671 m3 gỗ dán và 415,904 m3 gỗ khối đã rời Ghana đi Syri.

Sau đó, Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn hẹn sẽ gửi chuyến hàng thứ hai gồm 2500 m3 gỗ dán và 1500 m3 gỗ khối vào cuối tháng 1 năm 1980. Nguyên đơn đồng ý đề nghị này của Bị đơn. Tuy nhiên trên thực tế điều này đã không được thực hiện. Nguyên đơn sau đó đã phải nhắc nhở Bị đơn vài lần, đề nghị được thông báo chi tiết về chuyến hàng giao ngày 7 tháng 3 năm 1980, đồng thời xin gia hạn thư tín dụng cũng như chấp nhận gia hạn thời hạn giao hàng cho tới ngày 31 tháng 5 năm 1980.

Bị đơn đã không hề có động thái gì và thực tế đã không tiến hành giao chuyến hàng thứ hai. Ngày 2 tháng 5 năm 1980, hai bên đã đồng ý gặp nhau để bàn bạc về việc thực hiện hợp đồng. Ngày 7 tháng 5 năm 1980, viện cớ rằng mình đã phải chịu những tổn thất do giá dầu tăng, Bị đơn đề nghị tăng giá lên 40%. Nguyên đơn không chấp nhận yêu cầu này. Bị đơn muốn huỷ bỏ hợp đồng với lý do bất khả kháng và đòi được thanh toán tiền hàng cho chuyến hàng đầu tiên đã giao.

Cho đến thời điểm này Nguyên đơn đã có được lệnh phong toả Bảo đảm thực hiện hợp đồng cùng hai thư tín dụng theo quyết định của toà sơ thẩm Damascus.

Ngày 25 tháng 8 năm 1981, Nguyên đơn đưa sự việc ra Toà trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC). Theo các điều khoản dẫn chiếu, vụ việc được xét xử tại Paris và áp dụng Luật Trọng tài Quốc tế Pháp.

Nguyên đơn đòi được bồi thường:

− Khoản chênh lệch về giá là 656.070,35 USD

− Một khoản lợi nhuận bị thất thu là 468.301,10 USD

− Chi phí ngân hàng là 620.719 Pounds Syri

− Chi phí bảo hiểm

− Thuế nhập khẩu

− Tỷ lệ lãi suất là 9% cho tổng số tiền này.

Bị đơn kháng cáo đòi:

− Được thanh toán số tiền là 306.988,42 USD cho chuyến hàng đầu tiên

13

với tỷ lệ lãi suất là 15% một năm,

− Tuyên bố Nguyên đơn không có quyền được hưởng số tiền Bảo đảm thực hiện hợp đồng và những thiệt hại phát sinh do việc huỷ bỏ hợp đồng.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn:

Khi thời hạn giao hàng trong hợp đồng đã hết, Nguyên đơn đã gia hạn thư tín dụng cho tới ngày 31 tháng 5 năm 1980 cũng đồng thời là gia hạn thêm cho việc giao hàng tới ngày đó. Việc làm này đã được cả hai bên thừa nhận.

Mặc dù vậy, Bị đơn vẫn không thực hiện được việc giao hàng trong thời gian được gia hạn này. Bản thân điều này đã cấu thành lỗi vi phạm hợp đồng của Bị đơn. Những gì xảy ra sau ngày 31 tháng 5 năm 1980 không được tính tới vì các bên không có một thoả thuận thêm nào về việc gia hạn thời hạn giao hàng.

2. Bất khả kháng:

Sau khi xem xét giải trình của Bị đơn về trường hợp bất khả kháng và điều khoản về Bất khả kháng trong hợp đồng, “Uỷ ban trọng tài không thể chấp nhận lý do không thực hiện hợp đồng mà Bị đơn đưa ra là bất khả kháng” vì trên thực tế, cho tới ngày 31 tháng 5 năm 1980 (ngày hết hạn của thư tín dụng sau khi đã được gia hạn thêm) Bị đơn đã không hề đề cập một cách cụ thể bằng Telex về bất khả kháng, vấn đề này chỉ được đưa ra trong cuộc thương thảo cuối tháng 7 cùng năm tại Damascus. Điều này cho phép Uỷ ban trọng tài kết luận là Bị đơn thực tế đã có khả năng giao hàng song muốn tăng giá lên cao hơn nên đã không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng.

3. Việc từ chối hợp đồng của Nguyên đơn:

Bị đơn cho rằng chính Nguyên đơn đã từ chối hợp đồng với lý do Nguyên đơn đã:

− Làm cho việc nhận tiền bằng L/C không thực hiện được

− Không thanh toán cho Bị đơn chuyến hàng đầu tiên

− Thực tế đã huỷ bỏ L/C không huỷ ngang

Uỷ ban trọng tài đã xác định như sau:

Bị đơn nói rằng họ đã không được thanh toán do không Nguyên đơn không gửi cho họ bản gốc của giấy chứng nhận kiểm tra hàng hoá. Trên thực tế, giấy chứng nhận kiểm tra hàng hoá mà các bên cung cấp cho Uỷ ban trọng tài cũng khác nhau.

Uỷ ban trọng tài cho rằng:

Bị đơn chưa bao giờ phàn nàn với Nguyên đơn, dưới bất kỳ hình thức nào, về

14

giấy chứng nhận kiểm tra hàng. Hơn nữa, sau khi Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn rằng họ đã chỉ định được công ty giám định, thì Bị đơn có trách nhiệm phải yêu cầu công ty giám định đó cấp giấy chứng nhận ngay sau khi hàng được kiểm tra. Vì đã không làm được điều này, Bị đơn đã tự gây khó khăn cho việc nhận tiền bằng L/C.

Hơn nữa, do bản chất của L/C là xác nhận không huỷ ngang nên Nguyên đơn đã không thể huỷ bỏ thư tín dụng. Bị đơn có nghĩa vụ phải xuất trình đúng hạn đầy đủ bộ chứng từ, nếu thiếu, họ phải tìm mọi cách để có được chứng từ bị thiếu đúng thời hạn song thực tế họ đã không làm được điều đó. Và dù giả thiết rằng bộ chứng từ đã được xuất trình đầy đủ và đúng hạn mà ngân hàng vẫn từ chối thanh toán thì đó lại là vấn đề nội bộ giữa Ngân hàng mở thư tín dụng và Ngân hàng xác nhận.

Cuối cùng, từ tất cả các chứng từ mà hai bên đưa ra đã cho thấy, Bị đơn đã chỉ đưa ra đề nghị “thanh toán trực tiếp” lần đầu tiên tại cuộc họp cuối tháng 7 năm 1980 tại Damascus. Trước đó Bị đơn gần như đã hoàn toàn im lặng cho tới ngày 7 tháng 5 năm 1980 và sau đó chỉ quan tâm tới việc nâng giá hợp đồng. Trong suốt thời gian đó họ không hề chứng minh được việc Nguyên đơn đã từ chối hợp đồng.

Từ các căn cứ trên, Uỷ ban trọng tài bác lập luận của Bị đơn.

2. Thiệt hại:

a. Phần chênh lệch giá cả:

Nguyên đơn đòi Bị đơn bồi thường khoản tiền chênh lệch là 656.070,35 USD do giá tăng. Uỷ ban trọng tài cho rằng theo thông lệ quốc tế, trong trường hợp hàng hoá không được giao thì tổn thất được tính là số chênh lệch giữa giá trong hợp đồng và giá thị trường tại thời điểm hàng hoá lẽ ra phải được giao tại nơi có nhu cầu về mặt hàng đó.

Trong trường hợp cụ thể này, thời hạn giao hàng đã được gia hạn đến ngày 31 tháng 5 năm 1980 nên giá thị trường cũng sẽ được tính tại thời điểm đó.

Tuy nhiên, Uỷ ban trọng tài bác bỏ yêu cầu của Nguyên đơn đòi được thanh toán phần chênh lệch giá do:

− Nguyên đơn đã không chứng minh được sự tăng giá vào ngày 31 tháng 5 năm 1980,

− Qua xem xét Uỷ ban trọng tài được biết rằng giá gỗ dán và gỗ khối tại thời điểm ngày 31 tháng 5 năm 1980 thực tế thấp hơn giá hợp đồng.

(vì vây, giả sử vì không mua được hàng của Bị đơn mà Nguyên đơn phải mua hàng khác để thay thế thì việc này cũng không gây ra thiệt hại gì cho Nguyên đơn)

b. Lợi nhuận bị thất thu:

Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về khoản lợi nhuận bị mất dự tính là 10% tổng giá trị 468.301,10 USD hàng hoá không được giao. Theo luật thương mại

15

thông thường, để đánh giá thiệt hại của việc không giao hàng, người ta lấy sự chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá thị trường tại thời điểm mà lẽ ra hàng hoá phải được giao. Thông lệ này được dựa trên một giả thiết rằng vì hàng hoá không được giao, người mua có thể giảm bớt thiệt hại bằng cách mua một lượng hàng hoá thay thế trên thị trường chợ đen. Nếu vì không mua hàng hoá chợ đen để thay thế, người mua phải chịu thêm những tổn thất khác (như mất lợi nhuận...) thì người bán sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại này.

“Trong trường hợp đang xét, Nguyên đơn đã không mua, hay ít nhất cũng không chứng tỏ được việc mình đã mua gỗ thay thế trong ngày giao hàng. Nếu đã mua thì họ đã có thể bán lại gỗ cho "các tổ chức thương mại nội địa Siri" và bảo toàn 10% lợi nhuận của mình. Do vậy, bản thân phía Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm về việc đã không làm như vậy”.

Hơn nữa, Nguyên đơn với tư cách là một thương nhân, họ có thể thu được lãi hoặc chịu lỗ khi bán lại hàng hoá, không phải bao giờ cũng lãi cả. 10% lợi nhuận ở đây chỉ là lợi nhuận “vẽ” ra chứ không phản ánh đúng việc xác định giá cả thương mại dựa trên cung cầu trên thị trường. Bởi vậy, yêu cầu bồi thường này bị bác bỏ.

c. Các phí ngân hàng, bảo hiểm của Nguyên đơn, thuế:

Về khoản phí ngân hàng trị giá 618.013,44 Pound Syri, Uỷ ban trọng tài phán xử như sau:

− Phí ngân hàng : Do Bị đơn đã vi phạm hợp đồng, Nguyên đơn có quyền được hoàn trả khoản phí ngân hàng kể từ ngày ký hợp đồng cho tới ngày xảy ra vi phạm.

− Phí bảo hiểm: Do Bị đơn không phản bác lại gì về số tiền bảo hiểm, Nguyên đơn có quyền được bồi hoàn lại chi phí này.

− Bảo hiểm phụ: Khiếu nại này của Nguyên đơn bị bác bỏ do Nguyên đơn không đưa ra được bằng chứng nào về việc tàu chở hàng thuộc loại đặc biệt và hãng bảo hiểm có đòi một khoản phí phụ này.

− Thuế nhập khẩu: Khiếu nại này của Nguyên đơn bị bác. Ở hầu hết các nước, trong đó có Anh, có một qui tắc được đặt ra là nếu hàng hoá không được nhập khẩu thì không phải trả thuế và nếu như thuế nhập khẩu phải trả trước, thì chúng sẽ được hoàn lại cho người đã nộp nếu như sau này hàng hoá không nhập khẩu. Như vậy, Bị đơn không thể biết trước được rằng liệu có đúng là thuế nhập khẩu đã không được hoàn lại cho Nguyên đơn như họ viện dẫn hay không.

16

PHÁN QUYẾT SỐ 5

TRANH CHẤP VỀ CÁCH THỨC KIỂM TRA

CHẤT LƯỢNG HÀNG HOÁ

Các bên:

Nguyên đơn : Người bán Thuỵ Sỹ

Bị đơn : Người mua Hà Lan

Các vấn đề được đề cập:

− Huỷ hợp đồng

− Các tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất hàng hoá khác nhau

− Hậu quả của việc hiểu nhầm

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn và Bị đơn đã đồng ý ký ba hợp đồng bán cùng một loại hàng hoá với các quy cách phẩm chất đã được quy định chi tiết.

Hàng được gửi đi từ một công ty Canađa và được giao theo điều kiện C.I.F cảng Rotterdam. Cả ba hợp đồng được lập bằng tiếng Pháp với những điều kiện giống hệt nhau, loại trừ điều khoản về số lượng. Điều khoản trọng tài quy định rằng tranh chấp sẽ được giải quyết theo Quy tắc trọng tài của Phòng Thương Mại Quốc tế. Tuy nhiên chỉ có hai hợp đồng đầu tiên được ký và thực hiện, hợp đồng thứ ba vẫn chưa được ký và trước khi hàng được gửi đi từ Canađa, Bị đơn đã huỷ hợp đồng với lý do hàng được giao theo hai hợp đồng đầu không đúng với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng.

Nhà máy ở Canađa đã gửi một kỹ sư sang Hà Lan để kiểm tra mẫu hàng trong một phòng thí nghiệm độc lập. Kết quả kiểm tra gây ra nhiều tranh cãi: khi tiến hành phân tích theo phương pháp của Bắc Mỹ thì mẫu hàng được kiểm tra hoàn toàn phù hợp với những quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng, nhưng khi tiến hành theo phương pháp của Châu Âu thì lại không phù hợp.

Các bên đã kiện ra trọng tài theo đó:

− Nguyên đơn yêu cầu được bồi thường 55.000 USD (bao gồm cả 37.000 USD trả cho nhà máy ở Canađa) đối với việc huỷ hợp đồng thứ ba.

− Bị đơn khiếu nại đòi 181.645 florins Hà Lan cho những thiệt hại liên quan tới hai hợp đồng ban đầu.

Phán quyết của trọng tài:

Trong vụ kiện này có rất nhiều tranh chấp được nêu ra như về thẩm quyền của

17

trọng tài, luật áp dụng đối với hợp đồng, vai trò của người kỹ sư được nhà máy ở Canađa cử sang tiến hành phân tích hàng hoá… Tuy nhiên, ở đây có ba vấn đề cần xem xét:

− Thứ nhất, liệu người mua có mặc nhiên được quyền huỷ một hợp đồng khi phỏng đoán rằng hàng được giao theo hợp đồng thứ ba có thể sẽ không phù hợp với các quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng hay không?

− Thứ hai, quyền được thông tin và nghĩa vụ phải tìm hiểu thông tin (về phương pháp kiểm tra chất lượng hàng hoá) một cách đầy đủ của các bên trước khi tiến hành ký hợp đồng được hiểu và áp dụng như thế nào?

− Thứ ba, việc hiểu không rõ về tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất của hàng hoá dẫn tới hậu quả là hàng giao không đúng như người mua nghĩ và trông đợi có cho phép người mua được quyền đòi bồi thường về lô hàng đó hay không?

1. Về quyền đơn phương huỷ hợp đồng của Bị đơn:

Theo quan điểm của Uỷ ban trọng tài, đây là một trường hợp liên quan đến một nhóm hợp đồng thương mại và do đó, nếu kết luận cuối cùng là hàng hoá được giao theo hai hợp đồng đầu không phù hợp với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng, và nếu Bị đơn tin chắc rằng hàng hoá theo hợp đồng thứ ba sẽ có phẩm chất y như số hàng đã được giao theo hai hợp đồng trước đó, thì Bị đơn sẽ có quyền từ chối hợp đồng thứ ba.

Theo Điều 48 của Luật thống nhất về Mua bán Hàng động sản Quốc tế, người mua có thể áp dụng quyền được huỷ hợp đồng thậm chí trước cả thời gian được ấn định cho việc giao hàng nếu có bằng chứng rõ ràng rằng hàng hoá được giao sẽ không phù hợp với các quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng. Theo luật Thuỵ Sỹ, nếu mọi bằng chứng đều cho thấy là hàng hoá sẽ bị hư hỏng tại thời điểm giao hàng, người mua không được phép đợi tới lúc đó mới tiến hành các thủ tục pháp lý để từ chối nhận hàng.

Trong trường hợp cụ thể này, Bị đơn đã tuyên bố rằng họ sẽ không tiếp tục nhận hàng hoá trừ khi số hàng này có quy cách phẩm chất phù hợp với phương pháp đánh giá do Bị đơn đưa ra. Tuy nhiên Nguyên đơn và nhà cung cấp (nhà máy ở Canađa) hiện đang sử dụng phương pháp của Bắc Mỹ, đã không chấp nhận điều kiện này. Như vậy, nếu giả thiết về sự không phù hợp của hàng hoá được chứng minh, Bị đơn có quyền từ chối hợp đồng thứ ba.

2. Về việc hiểu lầm:

Thực chất, cả hai bên đều đã hết sức thiện chí trong việc giải quyết tranh chấp giữa họ. Về phần mình, Nguyên đơn đã ngay lập tức tuyên bố sẵn sàng gửi mẫu do hai bên cùng lấy tới kiểm tra tại một phòng thí nghiệm độc lập do hai bên cùng lựa chọn và sẽ chấp nhận việc huỷ hợp đồng thứ ba nếu những phân tích này cho thấy rằng những lý do mà Bị đơn đưa ra là có cơ sở. Nguyên đơn cũng đã ngay lập tức thông báo về những

18

vấn đề về phẩm chất và gửi mẫu cho nhà máy ở Canađa, đồng thời yêu cầu nhà máy cử đến một kỹ sư.

Như thế có thể thấy nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tranh chấp trên là sự hiểu lầm.

"Theo kết luận chính của kỹ sư sau chuyến công tác tại Hà Lan, hàng được gửi đi không phải là hàng mà người mua Hà Lan nghĩ rằng mình đã mua". Đó là do khi chào hàng người bán Thuỵ Sỹ đã không hề đề cập tới phương pháp phân tích phẩm chất còn người mua Hà Lan thì lại cho rằng, vì hàng được một công ty Châu Âu chào bán nên phương pháp phân tích của Châu Âu sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, Nguyên đơn lập luận rằng "Từ trước tới nay, phương pháp được áp dụng để phân tích là phương pháp của nước xuất xứ hàng hoá hoặc phương pháp được toàn thế giới công nhận, như phương pháp của Bắc Mỹ chẳng hạn”.

Sự khác biệt cơ bản giữa phương pháp Bắc Mỹ và phương pháp Châu Âu là ở cách biểu thị độ hoà tan của bột bằng số (chỉ số hoà tan) mà tranh chấp chủ yếu của hợp đồng này là về độ hoà tan của bột (đối tượng của hợp đồng). Chính bởi vậy phương pháp phân tích cần phải được xác định rõ để có thể xác định được độ hoà tan của bột.

Tuy nhiên chỉ mãi tới khi Bị đơn khiếu nại về phẩm chất của hàng thì mâu thuẫn về phương pháp sử dụng để phân tích chất lượng hàng hoá mới phát sinh. Và cũng chỉ tới khi đó, người bán mới thông báo về phương pháp kiểm tra mà theo họ đã được quốc tế công nhận, đó là phương pháp Bắc Mỹ.

Nhà máy tại Canađa đã đồng ý cử kỹ sư sang Hà Lan với điều kiện là các bên phải thống nhất về phương pháp kiểm tra. Trên thực tế, nếu sử dụng phương pháp Bắc Mỹ để kiểm tra thì hàng hoá giao theo hai hợp đồng đầu tiên có chất lượng hoàn toàn phù hợp với miêu tả chất lượng trong hợp đồng. Tuy nhiên nếu sử dụng phương pháp Châu Âu thì hàng đã giao không đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng theo thoả thuận.

Nguyên đơn lẽ ra đã phải biết rằng việc hiểu lầm trong việc miêu tả hàng hóa hoàn toàn có thể xảy ra trên thị trường Châu Âu. Thực tế, người bán Thụy Sỹ và người mua Hà Lan chưa hề có một thoả thuận nào về phương pháp Bắc Mỹ cả. Người bán, tức Nguyên đơn, lẽ ra phải nêu rõ là những miêu tả về hàng hoá trong hợp đồng phải được hiểu theo phương pháp Bắc Mỹ như người cung cấp Canađa đã nêu rất rõ điều này trong hợp đồng ký với Người bán. Về phần mình, Bị đơn cũng đã biết rất rõ rằng hàng có xuất xứ từ Canađa vì họ đã từng liên hệ với nguời cung cấp, nhà máy ở Canađa. Vì vậy, việc hiều lầm này cũng có nguyên nhân một phần từ sự cẩu thả của Bị đơn vì lẽ ra Bị đơn đã phải hỏi rõ về những chỉ số được sử dụng để miêu tả bột.

Mối quan hệ qua lại giữa quyền được cung cấp đủ thông tin và nghĩa vụ phải tự hỏi thông tin một cách cụ thể chính là vấn đề cơ bản của tranh chấp này.

Xét cho cùng, Bị đơn và Nguyên đơn cùng phải chia sẻ trách nhiệm về hậu quả

19

do lỗi cẩu thả gây nên. Tuy nhiên xét vì phương pháp Bắc Mỹ được sử dụng rộng rãi hơn so với những phương pháp khác nên lỗi do cẩu thả trong việc cung cấp thông tin của Nguyên đơn được xét nhẹ hơn so với Bị đơn.

Theo luật Thuỵ Sỹ, bên có lỗi có quyền được yêu cầu huỷ hợp đồng ngay cả khi lỗi đó là do sự cẩu thả mà mình gây ra. Lỗi của một (các) bên trong hợp đồng sẽ được coi là nghiêm trọng khi nó dẫn đến nhầm lẫn cơ bản về phẩm chất khiến hàng hoá thuộc hẳn về một loại khác của hàng hoá đó. Trong trường hợp đang xét, cách đo độ hoà tan của bột có thể dẫn tới hậu quả là hàng hoá được giao là một loại khác so với loại hàng hoá mà Bị đơn muốn mua.

Bên có lỗi có thể yêu cầu huỷ hợp đồng với điều kiện phải trả tiền bồi thường. Trách nhiệm này được đặt ra với giả định trước là lỗi phát sinh từ chính sự cẩu thả của bên đó, trong trường hợp cụ thể này, lỗi của người mua là đã không hỏi đầy đủ thông tin về hàng hoá. Còn lối của người bán là đã không cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hoá.

Về mặt nguyên tắc, luật Thuỵ Sỹ quy định rằng bên có lỗi không phải bồi thường cho bên đối tác của mình nếu như đối tác này đã biết về lỗi trên. Tuy nhiên những án lệ trước đó có xét đến việc giảm bồi thường trong trường hợp hai bên cùng có lỗi. Xét lỗi riêng của từng bên trong vụ kiện này, Uỷ ban trọng tài đã quyết định rằng số tiền bồi thường sẽ được chia làm 5 phần, Bị đơn chịu 3/5 về lỗi hiểu nhầm và Nguyên đơn chịu 2/5.

3. Về đơn kiện lại của Bị đơn yêu cầu được bồi thưòng thiệt hại do sự không phù hợp của hàng hoá được giao theo hai hợp đồng trước:

Theo Uỷ ban trọng tài, hai hợp đồng ban đầu không thể được coi là vô hiệu nữa vì chúng đã được xác nhận và việc thanh toán cũng đã được thực hiện sau khi lỗi được phát hiện, hơn nữa không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng hai bên đã có những thương lượng về vấn đề này. Do đó đơn kiện lại của Bị đơn là không có cơ sở.

Uỷ ban trọng tài kết luận:

− Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn một khoản tiền bồi thường trị giá 37.000 USD (trong tổng số 55.000 USD mà Nguyên đơn yêu cầu) cho việc huỷ hợp đồng thứ ba.

− Bác khiếu nại đòi bồi thường của Bị đơn về sự không phù hợp của hàng hoá được giao theo hai hợp đồng trước.

− Nguyên đơn phải trả 2/5 và Bị đơn trả 3/5 phí trọng tài.

Bình luận và lưu ý:

Trong thực tế kinh doanh, việc các bên gặp gỡ trực tiếp để tiến hành đàm phán và ký hợp đồng không phải lúc nào cũng thực hiện được. Để ký kết một hợp đồng hoặc thực hiện một thương vụ, các bên thường chỉ trao đổi rất nhanh thông tin dưới hình thức

20

văn bản (đơn chào hàng, đơn đặt hàng, hợp đồng, tài liệu kỹ thuật...) qua Telex, Fax, thư tín hoặc thậm chí có trường hợp không có văn bản đầy đủ. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ thì không có vấn đề gì đáng nêu ra, tuy nhiên nếu có bất cứ một khó khăn nào phát sinh thì những thiếu sót, lỗi lầm hoặc sơ hở dù nhỏ mấy cũng có hậu quả nghiêm trọng khó lường. Chính bởi vậy, trước khi tiến hành ký kết bất cứ hợp đồng nào, việc soạn thảo chặt chẽ các văn bản hoặc hợp đồng mua bán, những phụ lục kèm theo như tài liệu kỹ thuật hay miêu tả về hàng hoá... phải được đặc biệt coi trọng. Mọi chi tiết chưa rõ ràng cần phải được làm sáng tỏ ngay để tránh những thiệt hại đáng tiếc không nên có như chúng ta đã thấy qua ví dụ nêu trên.

21

PHÁN QUYẾT SỐ 6

TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG KHÔNG ĐÚNG CHẤT LƯỢNG

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GIẦY NỮ

Các bên:

Nguyên đơn : Người mua Bỉ

Bị đơn : Người bán Bỉ

Các vấn đề được đề cập:

− Bất khả kháng

− Nghĩa vụ làm giảm nhẹ thiệt hại

− Thiệt hại do mất uy tín

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn và Bị đơn ký một hợp đồng bán hàng theo đó Bị đơn sẽ cung cấp cho Nguyên đơn 150.000 đôi giầy phụ nữ trong thời hạn bốn tháng. Cùng ngày hôm đó, Bị đơn ký một hợp đồng với các điều khoản y hệt (trừ điều khoản về giá) với một công ty thương mại quốc doanh của Rumani (sau đây gọi là bên C) qua đó C cam kết sẽ cung cấp cùng một số lượng giầy cho Bị đơn.

Sau đó, Nguyên đơn đã không nhận được hàng đúng quy cách phẩm chất và đúng thời hạn như quy định trong hợp đồng, do đó đã tiến hành khởi kiện ra trọng tài yêu cầu được bồi thường thiệt hại. Về phần mình, Bị đơn khiếu nại lại người cung cấp của mình là bên C, do lỗi giao hàng chậm.

Phán quyết của trọng tài:

Trong thương mại quốc tế có rất nhiều lý do khiến cho một trong các bên ký kết hợp đồng không thể thực hiện được đầy đủ những nghĩa vụ của mình, một trong những lý do mà các bên thường viện dẫn nhằm giảm nhẹ lỗi của mình là "bất khả kháng". Tuy nhiên để xác định liệu lý do mà các bên đưa ra có thuộc vào trường hợp bất khả kháng hay không hoàn toàn không đơn giản. Trong vụ kiện cụ thể này, Bị đơn coi việc không thể giao hàng đúng qui cách và đúng thời hạn do lỗi của nhà cung cấp của mình (bên C) là sự kiện bất khả kháng.

Một vấn đề khác được đề cập trong vụ việc này là nghĩa vụ làm giảm thiệt hại của các bên khi có một sự cố xảy ra ảnh hưởng tới việc thực hiện hợp đồng.

Việc không thể thực hiện đúng hợp đồng kéo theo rất nhiều hậu quả. Thiệt hại ở đây có thể là vật chất và cũng có thể là phi vật chất. Trong vụ kiện này, ngoài thiệt hại thực tế có thể tính toán do lỗi của Bị đơn (bên bán), Nguyên đơn còn đòi bồi thường

22

thiệt hại về uy tín thương mại của mình.

1. Về bất khả kháng:

Bị đơn cho rằng, vì hợp đồng ký giữa Nguyên đơn và Bị đơn quy định rằng giầy phải đúng là loại giầy do công ty C cung cấp nên việc C đã không thể giao hàng đúng quy cách và thời hạn quy định trong hợp đồng là một trở ngại không thể vượt qua đối với Bị đơn (thực chất là Bị đơn muốn xếp nguyên nhân này vào trường hợp Bất khả kháng), và bởi vậy cho phép Bị đơn được miễn mọi trách nhiệm của mình đối với Nguyên đơn.

Về vấn đề này, Nguyên đơn cho rằng, xét trên cơ sở trách nhiệm của người uỷ thác (trong trường hợp này là trách nhiệm đối với hành vi của người được uỷ thác), Bị đơn phải chịu trách nhiệm về lỗi của người cung cấp của mình (công ty C). Mặt khác, Nguyên đơn lập luận thêm rằng theo thông lệ, lỗi của người cung cấp không thể được coi là một yếu tố bất khả kháng đối với người bán hàng.

Xét lập luận này của Nguyên đơn, Uỷ ban trọng tài cho rằng nguyên tắc về trách nhiệm của bên uỷ thác (Bị đơn) theo hợp đồng đối với hành động của bên được uỷ thác (Bên C) không có liên quan gì tới trường hợp này vì tuân thủ theo hợp đồng ký giữa Nguyên đơn và Bị đơn, Bị đơn đã không chọn bất cứ nhà cung cấp nào khác để thay thế C. Hơn nữa, sẽ là cứng nhắc và không chính xác nếu cho rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào lỗi của người cung cấp cũng không thể được coi là trường hợp bất khả kháng đối với người bán hàng.

Tuy nhiên, trong trường hợp này, Bị đơn đã không chứng minh được rằng lỗi của người cung cấp (Bên C) là không thể lường trước được và không thể khắc phục được. Bị đơn đã không đưa ra được bằng chứng rằng việc giao hàng chậm của nhà máy C là không thể lường trước được vì trên thực tế việc giao hàng muộn của một nhà cung cấp là một biến cố bất ngờ có thể dự đoán được.

Hơn nữa, Bị đơn cũng không chứng minh được là lẽ ra họ cũng đã phải lường trước hoặc tìm cách làm giảm bớt những hậu quả do việc giao hàng chậm từ phía C gây ra. Nghĩa vụ của Bị đơn trong trường hợp này là nghĩa vụ về kết quả1 (tức là nghĩa vụ đảm bảo mang lại kết quả mà các bên đã thoả thuận - cụ thể trong trường hợp này là việc giao hàng, khác với nghĩa vụ về phương thức2 - tức nghĩa vụ đảm bảo sử dụng mọi khả năng, mọi phương thức, phương tiện có thể và hợp lý để hướng tới việc đạt được kết quả nhưng không phải đảm bảo sẽ mang lại kết quả như mong muốn) và nghĩa vụ này buộc Bị đơn phải có trách nhiệm giao hàng cho Nguyên đơn trừ trường hợp Nguyên đơn đã huỷ bỏ đơn đặt hàng mà không có lý do.

Tóm lại, việc không giao hàng đúng quy cách và đúng thời hạn của C không

1 Tạm dịch từ thuật ngữ tiếng Pháp Obligation de rêsultat 2 Tạm dịch từ thuật ngữ tiếng Pháp Obligation de moyen

23

được coi là sự kiện bất khả kháng đối với Bị đơn và bởi vậy, Bị đơn phải chịu trách nhiệm về lỗi trên đối với Nguyên đơn.

2. Về nghĩa vụ phải hạn chế thiệt hại:

Bị đơn lập luận rằng, xét đến nghĩa vụ thực hiện mọi biện pháp có thể để hạn chế và giảm bớt thiệt hại của các bên, lẽ ra Nguyên đơn đã có đủ thời gian để dàn xếp sao cho có thể giao cho khách hàng của mình hàng hoá tương tự như đối tượng hợp đồng được ký giữa hai bên .

Trên thực tế, loại giầy là đối tượng của hợp đồng có tính thời vụ và chỉ có thể được bán và giao cho khách hàng của Nguyên đơn muộn nhất là vào đầu mùa đông. Trong khi đó cho tới thời điểm giữa tháng 9, Bị đơn vẫn làm cho Nguyên đơn tin rằng Bị đơn có khả năng giao hàng cho Nguyên đơn, mặc dù có muộn hơn so với thoả thuận nhưng trước thời hạn cuối cùng cho phép. Việc không thể thực hiện được cam kết này được biết khi đã quá muộn để có thể mua được hàng thay thế từ các nguồn khác. Thực tế cho thấy, xét tới tính chất thay đổi thời trang, các nhà cung cấp thường giữ rất ít loại giầy này trong kho dự trữ. Hơn nữa Bị đơn đã không hề để cho Nguyên đơn biết những nguồn mà Nguyên đơn có thể, vào cuối tháng 9 năm đó, mua bổ sung được hàng tương tự với loại được miêu tả trong hợp đồng.

Vì vậy, trong trường hợp này sẽ là không thoả đáng nếu miễn cho Bị đơn tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.

3. Về thiệt hại do mất uy tín:

Xét tới thực tế là trong số 127.000 đôi giày được Nguyên đơn đặt mua của Bị đơn, có tới 45.509 đôi, nghĩa là khoảng 38% đã không được giao đúng quy cách và thời hạn quy định, chúng ta có thể thấy rằng Nguyên đơn khó có thể chấp nhận số phần trăm hàng lớn như vậy không được thực hiện đúng hợp đồng. Mặt khác xét tới tính chất thời vụ của loại hàng hoá này, Nguyên đơn cũng chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng của mình trong một chừng mực nhất định bằng cách lấy hàng từ những nguồn khác.

Nếu coi rằng uy tín thương mại của một thương nhân sẽ bị ảnh hưởng khi họ không thể thoả mãn được phần lớn các đơn hàng đã ký với khách hàng và xem xét toàn bộ các khía cạnh của vụ việc này, đặc biệt là sự suy giảm về lợi nhuận và số liệu kinh doanh của Nguyên đơn với những khách hàng đã từng có đơn đặt hàng với Nguyên đơn về loại giầy phụ nữ nói trên trong hai năm từ 1980 đến 1982 so với những năm trước đó, Uỷ ban trọng tài thấy rằng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về uy tín của Nguyên đơn là hoàn toàn có căn cứ. Do đó, Uỷ ban trọng tài đã quyết định là Nguyên đơn phải được bồi thường cho thiệt hại về uy tín thương mại.

24

PHÁN QUYẾT SỐ 7

TRANH CHẤP TRONG 3 HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG

Các bên:

Nguyên đơn : Người Bán

Bị đơn : Người Mua

Các vấn đề được đề cập:

− Luật áp dụng

− Điều 13(3) và (5) của Quy tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (I.C.C)

− Công ước Hague 1955 về luật áp dụng cho buôn bán hàng hoá quốc tế

− Tập quán trong thương mại quốc tế

Tóm tắt vụ việc:

Bị đơn ký ba hợp đồng với Nguyên đơn mua cùng một loại sản phẩm theo những quy cách phẩm chất đã quy định trong hợp đồng. Theo hợp đồng, Bị đơn đã thanh toán 90% giá trị mỗi hợp đồng khi nhận được đầy đủ bộ chứng từ gửi hàng.

Hàng được giao theo hợp đồng thứ nhất và thứ ba đạt đúng với quy cách phẩm chất quy định, tuy nhiên các bên đã có tranh cãi về phẩm chất hàng giao theo hợp đồng thứ hai trước khi hàng được giao lên tàu. Khi tiến hành giám định lô hàng lần thứ hai tại cảng đến, người ta phát hiện rằng hàng không đạt quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng. Cuối cùng sau khi đã gia công lại để hàng dễ bán hơn, Bị đơn đã phải bán lại lô hàng trên cho bên thứ ba với một khoản lỗ khá lớn.

Lấy lý do lô hàng giao theo hợp đồng thứ hai không đạt quy cách phẩm chất quy định tại hợp đồng, Bị đơn từ chối thanh toán 10% trị giá còn lại của các hợp đồng. Nguyên đơn đã khởi kiện trước trọng tài đòi được thanh toán số tiền 10% trên. Về phần mình, Bị đơn kiện lại yêu cầu khoản 10% đó phải được dùng để thay thế vào khoản tiền lẽ ra Nguyên đơn phải bồi thường cho Bị đơn cho khoản tiền lỗ trực tiếp, chi phí tài chính, thất thu lợi nhuận và lãi suất do lô hàng thứ hai được giao không đúng chất lượng.

Phán quyết của trọng tài:

Trong giao dịch thương mại, việc hàng hoá được giao không đúng quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng xảy ra khá thường xuyên và điều đó thường kéo theo những thiệt hại không nhỏ cho người mua hàng. Về mặt pháp lý, người mua có quyền yêu cầu người bán bồi thường cho mình những thiệt hại phát sinh từ việc giao hàng không đúng như quy cách trong hợp đồng. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là liệu

25

người mua có quyền bảo vệ quyền lợi chính đáng đó của mình bằng cách tự khấu trừ một phần trên giá trị hợp đồng hay không.

Một vấn đề khác liên quan đến điều khoản về luật áp dụng trong hợp đồng. Các bên khi ký kết hợp đồng thường rất hay bỏ qua điều khoản tưởng như không quan trọng này. Thế nhưng khi tranh chấp phát sinh, điều khoản này lại là vấn đề được đem ra xem xét trước tiên và nó có một ảnh hưởng khá lớn tới kết quả của việc giải quyết tranh chấp.

1. Về luật áp dụng:

Hợp đồng được ký giữa các bên không có điều khoản về luật áp dụng. Tuy nhiên, theo hợp đồng này thì luật áp dụng sẽ được xác định theo quyết định của các trọng tài viên phù hợp với Điều 13(3) của Quy tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC). Theo Điều này, các trọng tài viên sẽ áp dụng hệ thống luật thực chất được xác định theo qui phạm luật xung đột mà họ cho là phù hợp để giải quyết tranh chấp.

Hợp đồng được ký kết giữa các bên thuộc các quốc tịch khác nhau dưới dạng F.O.B nên rủi ro được chuyển cho Người mua trên lãnh thổ của Người bán. Do đó nước của Người bán được coi là nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng.

Quốc gia của Nguyên đơn và Bị đơn đều đã phê chuẩn Công ước Hague ngày 11 tháng 6 năm 1955 về Luật áp dụng cho Mua bán hàng hoá quốc tế, Điều 3 Công ước này quy định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp phát sinh là luật của nước nơi Người Bán có trụ sở hiện tại. Mặt khác, xu hướng chung khi có xung đột về luật áp dụng thì luật của quốc gia nơi đặt trụ sở của người có nghĩa vụ chính phát sinh từ hợp đồng sẽ được chọn. Người có quyền trong hợp đồng mua bán hàng hoá này là người bán hàng.

Căn cứ vào các cơ sở trên, Uỷ ban trọng tài xét thấy luật của nước Nguyên đơn là luật thích hợp nhất để điều chỉnh hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn.

Ngoài ra, Điều 13 Công ước Hague cũng quy định thêm rằng "Trong mọi trường hợp, Uỷ ban trọng tài phải xem xét tới các quy định trong hợp đồng và những tập quán thương mại có liên quan". Vậy căn cứ pháp lý để Uỷ ban trọng tài xét xử tranh chấp này sẽ là luật của nước Nguyên đơn và các tập quán thương mại có liên quan tới nội dung tranh chấp của Hợp đồng.

2. Về đơn kiện lại của Bị đơn:

Trên cơ sở luật của nước của người bán và các tập quán thương mại quốc tế sử dụng rộng rãi trong mua bán hàng hoá quốc tế, Uỷ ban trọng tài cho rằng nguồn tập quán thương mại tốt nhất chính là các điều khoản của Công ước của Liên Hợp Quốc về buôn bán hàng hoá quốc tế ngày 11 tháng 4 năm 1980, sau này thường được gọi tắt là "Công ước Viên", cho dù cả quốc gia của Nguyên đơn và Bị đơn đều chưa là thành viên của Công ước này. Nếu giả thiết rằng các bên đã là thành viên của Công ước này thì Công ước sẽ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng với tư cách là luật chứ không phải là tập quán thương mại.

26

Công ước Viên tại thời điểm đó có hiệu lực đối với 17 nước, hoàn toàn có thể phản ánh những tập quán thương mại được thừa nhận rộng rãi, liên quan tới vấn đề không phù hợp của hàng hoá trong buôn bán hàng hoá quốc tế. Điều 38(1) của Công ước quy định rằng "Người Mua có nghĩa vụ kiểm tra hàng hoá hoặc cho kiểm tra hàng hoá một cách nhanh chóng". Sau đó Người Mua phải thông báo cho Người Bán về việc không phù hợp của hàng hoá trong một thời hạn hợp lý kể từ khi phát hiện ra hư hỏng. Nếu không làm như vậy, Người Mua sẽ mất quyền được khiếu nại về việc không phù hợp nói trên. Điều 39(1) quy định cụ thể về vấn đề này như sau:

"Trong mọi trường hợp, Người Mua sẽ mất quyền được khiếu nại về hàng giao không phù hợp với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng nếu Người Mua không gửi thông báo về việc này cho Người Bán trong một thời hạn là hai năm kể từ ngày hàng được giao cho Người Mua, trừ khi hàng hoá được bảo hành trong thời gian dài hơn hai năm."

Trong trường hợp đang xét, Nguyên đơn (Người bán) đã cho kiểm tra hàng hoá trong một thời hạn hợp lý (hàng được kiểm tra thậm chí trước khi đến cảng), Bị đơn (Người mua) cũng đã gửi thông báo về việc hư hỏng trong một thời gian hợp lý, nghĩa là tám ngày kể từ khi báo cáo kiểm tra hàng của chuyên gia giám định được lập. Uỷ ban trọng tài thấy rằng, Bị đơn đã tuân thủ đúng những yêu cầu nêu trên của Công ước Viên. Về điểm này, Uỷ ban trọng tài không căn cứ vào luật của nước Nguyên đơn vì luật này quy định một thời gian quá ngắn cho việc thông báo tổn thất của Người mua đến Người bán, công bằng mà xét thì qui định của luật này là một ngoại lệ so với tập quán thương mại được thừa nhận rộng rãi.

Trong trường hợp này, việc áp dụng tập quán thương mại hoặc luật quốc gia là do Uỷ ban trọng tài quyết định. Và Uỷ ban đã quyết định áp dụng Công ước Viên với tư cách là một tập quán thương mại.

Về phần Người Bán, trong mọi trường hợp, Người Bán cũng bị coi là bị mất quyền khiếu nại về các vi phạm đối với các yêu cầu nêu tại Điều 38 và 39 Công ước Viên vì điều 40 có quy định rằng "Người Bán không thể căn cứ vào Điều 38 và 39 nếu việc không phù hợp của hàng hoá có liên quan tới những thực tế mà Người Bán đã biết hoặc không thể không biết và đã không nêu ra". Thực tế, từ tất cả những chứng cứ và tài liệu của vụ kiện này, Uỷ ban trọng tài thấy rằng Nguyên đơn đã biết và không thể không biết về việc hàng giao theo hợp đồng thứ hai không đúng với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng.

Theo qui định tại ĐIều 70 Bộ luật tố tụng dân sự mới của Pháp, uỷ ban trọng tài chỉ không chấp nhận xét đơn kiện lại của Bị đơn cùng lúc với đơn kiện của Nguyên đơn khi việc xem xét giải quyết đơn kiện lại làm cho tố tụng giải quyết đơn kiện chính kéo dài quá lâu. Trong trường hợp này, uỷ ban trong tài thấy rằng việc xem xét giải quyết đơn kiện và đơn kiện lại cùng lúc là hợp lý.

Uỷ ban trọng tài chấp nhận đồng thời các yêu cầu của Nguyên đơn và đơn kiện

27

lại của Bị đơn. Do đó hai khoản tiền này bù cho nhau, Bị đơn không phải hoàn trả cho Nguyên đơn số tiền mà Nguyên đơn yêu cầu còn Nguyên đơn cũng không phải bồi thường cho Bị đơn những chi phí mà Bị đơn đã phải gánh chịu.

28

PHÁN QUYẾT SỐ 8

TRANH CHẤP VỀ VIỆC TỪ CHỐI NHẬN HÀNG

TRONG HỢP ĐỒNG BÁN NGUYÊN LIỆU

Các bên:

Nguyên đơn : Một doanh nghiệp Nhà nước của một quốc gia đang

phát triển (doanh nghiệp X)

Bị đơn : Công ty nước ngoài Y

Các vấn đề được đề cập:

− Việc giải thể của Bị đơn trong quá trình tố tụng

− Bất khả kháng

− Tính toán thiệt hại (theo thông lệ)

Tóm tắt vụ việc:

Để phản ứng lại biện pháp của chính phủ một quốc gia đang phát triển quốc hữu hoá các công ty nước ngoài khai thác các nguyên liệu thô trên lãnh thổ quốc gia đó và giao các tài sản của các công ty này cho một doanh nghiệp nhà nước có chức năng chuyên kinh doanh các sản phẩm cùng loại, các công ty nước ngoài nói trên tuyên bố rằng họ sẽ tịch thu các nguyên liệu thô đó trong trường hợp chúng được bán trên thị trường thế giới.

Sau khi biện pháp quốc hữu hoá được áp dụng, doanh nghiệp nhà nước có chức năng khai thác và kinh doanh các nguyên liệu tự nhiên đã ký kết một số hợp đồng mua bán hàng hoá với các bạn hàng từ nhiều quốc gia trên thế giới. Một vài trong số các bạn hàng này đã từ chối thực hiện nghĩa vụ nhận hàng này với lý do là lời đe doạ tịch thu của các công ty có tài sản bị quốc hữu hoá nói trên đã tạo nên một sự kiện bất khả kháng giải phóng họ khỏi nghĩa vụ nhận hàng.

Căn cứ vào điều khoản trọng tài trong các hợp đồng mua bán hàng hoá, doanh nghiệp nhà nước đã kiện các đối tác này ra trước Toà trọng tài ICC đòi được bồi thường cho những thiệt hại đã phải chịu. Các trọng tài viên của ICC đưa ra các phán quyết cho doanh nghiệp nhà nước thắng kiện sau khi bác bỏ lý do bất khả kháng mà các Bị đơn đưa ra.

Dưới đây là một phán quyết của các trọng tài đưa ra cụ thể cho một trong các Bị đơn là công ty Y. Đối với công ty Y, trước khi có thể đưa ra các phán quyết, các trọng tài viên phải giải quyết một khó khăn về thủ tục tố tụng không kém phần quan trọng là việc công ty Y bị giải thể.

Thông thường, khi một pháp nhân giải thể thì cũng có nghĩa là pháp nhân đó

29

không còn tồn tại trên thực tế và do đó không phải gánh chịu bất cứ nghĩa vụ nào trong tương lai. Theo tinh thần nêu trên, nếu như một pháp nhân là Bị đơn trong quá trình tố tụng thì khi pháp nhân đó giải thể thì họ cũng không phải gánh chịu bất cứ nghĩa vụ nào mà trong tương lai do các phán quyết của các cơ quan tài phán, nếu vậy thì ở đây là Bị đơn có thể lợi dụng điểm này để trốn tránh trách nhiệm trong quá trình tố tụng. Vì vậy, phần lớn pháp luật quốc gia và các án lệ của các toà trọng tài ICC đều chỉ ra rằng: Trong trường hợp Bị đơn là một pháp nhân tuyên bố giải thể, thì không có nghĩa rằng họ sẽ được giải phóng khỏi toàn bộ nghĩa vụ phát sinh từ các hoạt động trong quá khứ và từ các phán quyết của cơ quan tài phán trong tương lai, mà thay vào đó họ vẫn phải duy trì tư cách tố tụng của mình cho đến khi quá trình tố tụng thực sự chấm dứt, đại diện cho Bị đơn trong trường hợp này sẽ là người có trách nhiệm thanh lý doanh nghiệp. Như vậy, việc phá sản hoặc giải thể một công ty không ảnh hưởng trực tiếp đến việc công ty này còn đủ tư cách pháp nhân để trở thành bị đơn hoặc nguyên đơn trong một vụ kiện khi mà vụ kiện này đã bắt đầu từ trước khi việc phá sản hoặc giải thể xảy ra.

Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc chậm trễ thực hiện nghĩa vụ nhận hàng của Bên mua thường sẽ gây ra những thiệt hại không nhỏ cho Bên bán, vì Bên bán sẽ phải chịu thêm những chi phí phát sinh như: chi phí kho bãi, bốc dỡ hàng, trả lãi ngân hàng... Ngoài ra Bên mua thường nại ra những lý do có tính chất "Bất khả kháng" nhằm né tránh các trách nhiệm sẽ phát sinh từ việc không thực hiện hoặc thực hiện chậm trễ nghĩa vụ nhận hàng - trong trường hợp này cần đi sâu vào những dấu hiệu mà một sự kiện Bất khả kháng cần phải có, đó là hai dấu hiệu: Không thể dự liệu trước rằng sự kiện đó sẽ xảy ra trong tương lai và hậu quả mà nó gây ra là không thể tránh được.

Một vấn đề khác có liên quan là việc tính toán tổng số thiệt hại phải bồi thường trong trường hợp không có một điều khoản nào trong Hợp đồng đang có tranh chấp đề cập tới việc ấn định mức độ thiệt hại xảy ra, giải pháp phổ biến ở đây là dựa vào những phương pháp tính toán đã trở thành thông lệ quốc tế để xác định thiệt hại hoặc những phương pháp đã được chấp nhận trong những hợp đồng tương tự.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về việc Bị đơn giải thể:

Trước khi các trọng tài viên tiến hành phiên họp xét xử thì Bị đơn tuyên bố giải thể và sau đó bị xoá tên khỏi sổ Đăng ký kinh doanh, do vậy vấn đề ở đây là các trọng tài viên phải xác định xem liệu Bị đơn có còn được xem là một bên trong quá trình tố tụng hay không. Các trọng tài viên đã đưa ra phán quyết khẳng định địa vị tố tụng của Bị đơn với các lập luận như sau:

- Quá trình tố tụng trọng tài đã được bắt đầu tiến hành trước khi có sự xoá tên chính thức của công ty X khỏi sổ Đăng ký kinh doanh, do vậy địa vị pháp lý hiện tại của Bị đơn không ảnh hưởng gì tới hiệu lực của quá trình tố tụng đang được tiến hành trước Toà trọng tài ICC; do vậy không có thay đổi gì đối với địa vị tố tụng của các bên trên

30

thực tế.

- Bị đơn đã nộp Bản Giải trình biện hộ của mình trước khi chính thức xoá tên khỏi sổ Đăng ký kinh doanh, nên Bản giải trình này cần được coi là có hiệu lực và cần phải xem xét.

- Sau khi xảy ra sự kiện xoá tên Bị đơn khỏi sổ Đăng ký kinh doanh, văn bản công nhận thẩm quyền của trọng tài đã được người chịu trách nhiệm thanh lý công ty Bị đơn ký.

2. Về sự kiện bất khả kháng:

Sau khi khẳng định địa vị tố tụng của Bị đơn, các trọng tài viên ICC tiến hành xem xét giải quyết những nội dung chính của vụ kiện. Về sự kiện bất khả kháng mà Bị đơn viện dẫn, các trọng tài viên đã bác bỏ vì những lý do sau:

Một sự kiện bất khả kháng, theo nghĩa hẹp, là một sự kiện được xác định bởi hai yếu tố: Không thể lường trước (có nghĩa là trước khi sự kiện đó xảy ra đã không có bất cứ lý do đặc biệt nào để cho rằng sự kiện đó sẽ xảy ra) và không thể tránh được (có nghĩa là sự kiện đó làm cho Bị đơn hoàn toàn không thể khắc phục được để có thể thực hiện hợp đồng).

Trong trường hợp cụ thể này, hợp đồng được ký kết vào ngày (...) và tại thời điểm đó các rắc rối xảy ra sau khi có việc quốc hữu hoá nói trên đã bắt đầu xuất hiện, do vậy sự kiện bất khả kháng được viện dẫn bởi Bị đơn không bao gồm yếu tố “không thể thấy trước” mà pháp luật đòi hỏi.

Hơn nữa Nguyên đơn đã chứng minh thông qua việc đệ trình trước toà những hợp đồng được đề cập khác của Nguyên đơn tương tự như hợp đồng mà Nguyên đơn đã ký với Bị đơn, trong đó chứng tỏ rằng vào cùng một giai đoạn này, những người mua khác đã thực hiện nghĩa vụ nhận hàng hoá mà họ đã mua như thường lệ.

Do vậy, Bị đơn không thể viện dẫn rằng đã xảy ra một sự kiện bất khả kháng làm cho Bị đơn không thể thực hiện hợp đồng đã ký.

3. Về tính toán thiệt hại:

Hợp đồng không qui định cụ thể cách thức tính thiệt hại trong trường hợp có vi phạm hợp đồng. Ngoài ra, Nguyên đơn cũng không cung cấp những chứng cứ chính xác về tổng số thiệt hại xảy ra, mà chỉ đánh giá thiệt hại trên cơ sở những phương pháp đánh giá mang tính chủ quan.

Trên cơ sở những thông tin có được từ những tài liệu do Nguyên đơn đưa ra trọng tài đã cho rằng khoản tiền phạt (...) USD cho một đơn vị hàng hoá là nguyên liệu thô không được cung cấp hoặc tiếp nhận là phù hợp với thông lệ trong những trường hợp tương tự.

Theo các Điều 3 và 8 của hợp đồng mua bán hàng hoá đã ký ngày (...), số lượng

31

hàng hoá giao nhận hàng tháng là (...) tấn cho một năm hoặc (...) tấn cho một tháng.

Trên cơ sở tổ chức và tầm quan trọng quốc tế của Nguyên đơn (doanh nghiệp nhà nước), uỷ ban trọng tài cho rằng sẽ là công bằng nếu như giới hạn số lượng hàng hoá phải được giao nhận là (...) tấn và Bị đơn sẽ phải gánh chịu một khoản tiền phạt theo thông lệ là (...) USD cho một đơn vị hàng hoá của nguyên liệu tự nhiên.

32

PHÁN QUYẾT SỐ 9

TRANH CHẤP VỀ VIỆC TĂNG GIÁ HÀNG

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP

Các bên:

Nguyên đơn : Người mua Ai Cập

Bị đơn : Người bán Nam Tư

Các vấn đề được đề cập:

− Luật áp dụng cho Hợp đồng;

− Giá hàng trên thị trường có thay đổi;

− Mua hàng thay thế;

− Tính toán lãi suất.

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 20 tháng 8 năm 1987, các bên đã ký kết bản hợp đồng mua bán 80.000 tấn thép thanh với giá trung bình là 190,00 USD/tấn. Hàng được giao theo hợp đồng trong vòng ngày 15 tháng 12 năm 1987 đến ngày 15 tháng 12 năm 1988 tại cảng Nam Tư.

Nguyên đơn có “Quyền mua đặc biệt”, quyền này cho phép Nguyên đơn tăng số lượng hàng mua lên đến 160.000 tấn với cùng giá cả và điều kiện như trên và phải tuyên bố thực hiện quyền đó chậm nhất là vào ngày 15 tháng 12 năm 1987 và mở L/C cho chuyến hàng đầu tiên chậm nhất vào ngày 31 tháng 12 năm 1987.

Ngày 26 tháng 11 năm 1987, Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn rằng họ sẽ thực hiện “Quyền mua đặc biệt” này và sẽ mở L/C trong khoản từ 15 đến 31 tháng 12 năm 1987. Do việc tăng giá thép trên thị trường thế giới, ngày 9 tháng 12 năm 1987, Bị đơn đề nghị tổ chức một cuộc họp vào tháng đó để thảo luận về mức giá áp dụng cho số lượng hàng mua thêm. Tại cuộc họp ngày 28 tháng 12 năm 1987, Bị đơn đề nghị mức giá 215USD/tấn cho số lượng hàng bổ sung, nhưng Nguyên đơn không chấp nhận và cương quyết giữ mức giá đã thoả thuận.

Trong văn thư đề ngày 31 tháng 12 năm 1987, Nguyên đơn nhấn mạnh rằng Bị đơn đã vi phạm hợp đồng và nếu cho đến ngày 6 tháng 1 năm 1988 Bị đơn vẫn không chấp thuận, thì Nguyên đơn sẽ buộc Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ các thiệt hại bất kỳ do việc vi phạm hợp đồng gây ra. Thời hạn này sau đó đã được Nguyên đơn kéo dài tới ngày 25 tháng 1 năm 1988.

Ngày 26 tháng 1 năm 1988, Nguyên đơn đã mua 80.000 tấn thép thanh cùng loại của một công ty Rumani với giá 216 USD/tấn. Nguyên đơn viện cớ rằng chi phí vận

33

chuyển đường biển từ Rumani tới Ai Cập thấp hơn từ 2 đến 2,5 USD/tấn so với từ Nam Tư tới Ai Cập.

Nguyên đơn đã khởi kiện theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng, đưa ra trọng tài Phòng Thương mại Quốc tế (tại Paris - Pháp) đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại do chênh lệch giá.

Phán quyết của trọng tài:

1. Luật áp dụng:

Uỷ ban trọng tài quyết định rằng luật Nam Tư là luật áp dụng cho hợp đồng vì các lý do sau:

Vấn đề đầu tiên và đồng thời cũng là vấn đề trung tâm cần phải giải quyết trong vụ việc này là việc xác định luật nào được áp dụng để xem xét hợp đồng. Trong trường hợp này, trọng tài xác định rằng Công ước Viên của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (ký ngày 11 tháng 4 năm 1980) không thể được áp dụng. Công ước này có hiệu lực ở Ai Cập, Nam Tư, cũng như tại Pháp, nhưng theo điều 100(2) của Công ước này chỉ áp dụng cho những hợp đồng mua bán được ký kết sau ngày Công ước có hiệu lực (ngày1 tháng 1 năm 1988) trong khi đó hợp đồng mua bán đang xét lại được ký vào ngày 20 tháng 8 năm 1987.

Việc xác định luật áp dụng cần phải được xem xét trên cơ sở các qui định của luật tư pháp quốc tế.

Theo luật tư pháp quốc tế của Ai Cập, nếu các bên trong hợp đồng mua bán có trụ sở ở nhiều nước khác nhau thì luật được áp dụng là luật của nước nơi ký kết hợp đồng, trừ khi các bên có thoả thuận khác (Điều 19 của Luật dân sự 1949).

Theo Luật tư pháp quốc tế của Nam Tư, luật áp dụng là luật của nước nơi mà bên bán có trụ sở chính tại thời điểm mà họ (hoặc bên khác) nhận được đề nghị chào hàng, nếu các bên không có thoả thuận về luật áp dụng.

Pháp là một trong các thành viên của Công ước Hague về luật áp dụng trong mua bán hàng hoá quốc tế (ngày 15 tháng 6 năm 1955). Điều 3(2) của Công ước này qui định nếu các bên không thoả thuận khác, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật của quốc gia nơi bên bán có địa chỉ thường trú tại thời điểm mà họ nhận được đơn đặt hàng.

Vì trụ sở chính và địa chỉ thường trú của Người bán tại thời điểm tranh chấp là Nam Tư và vì hợp đồng mua bán được ký ở Nam Tư nên theo toàn bộ qui tắc áp dụng về tư pháp quốc tế, thì luật Nam Tư sẽ là luật áp dụng.

2. Trở ngại của Hợp đồng:

Đoạn 1 và 2 của Điều 133 luật Nam Tư năm 1978 trích như sau:

(1) Trong trường hợp có những biến cố xảy ra sau khi ký kết hợp đồng mà những biến cố này làm cho việc thực hiện hợp đồng của một trong các bên gặp khó khăn hoặc

34

mục đích của hợp đồng không thể đạt được và hợp đồng không còn đáp ứng được mong muốn của các bên cũng như việc tiếp tục giữ nguyên hợp đồng sẽ là không công bằng thì bên gặp khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng hoặc không đạt được mục đích của hợp đồng do có thay đổi hoàn cảnh (do có biến cố) có thể yêu cầu hủy bỏ hợp đồng.

(2) Không thể yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng nếu bên viện dẫn biến cố (sự thay đổi hoàn cảnh) đã lường trước được biến cố này tại thời điểm ký kết hợp đồng hoặc đã có thể vượt qua hoặc khắc phục nó.

Bên cạnh Điều 133 của Luật nghĩa vụ, Qui tắc số 56 (hiện vẫn đang có hiệu lực thi hành tại Nam Tư) liệt kê "các sự kiện kinh tế, chẳng hạn như sự đột biến, và sự tăng hoặc giảm mạnh về giá cả" là một trong những nguyên nhân cản trở việc thực hiện hợp đồng.

Vì vậy, Uỷ ban trọng tài phải xem xét liệu việc giá thép tăng từ 190 USD lên 215 USD/tấn có phải là tăng đột biến giá hay không và nếu vậy, liệu Bị đơn có tính đến tình huống này tại thời điểm hợp đồng được ký kết không.

Theo kinh nghiệm cho thấy, giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới, mà đặc biệt là thép, luôn biến động. Tại thời điểm ký hợp đồng, giá thép đã bắt đầu tăng nhẹ và có xu hướng tiếp tục tăng trong khoảng thời gian từ khi ký kết hợp đồng đến khi thực hiện "quyền mua đặc biệt", thậm chí có thể tăng hơn nữa vào cuối năm 1988.

Trong trường hợp này, giá thép trên thị trường thế giới tăng từ 190 USD lên 215 USD (tức là khoảng 13,6%). Theo đánh giá của uỷ ban trọng tài, việc bán thép theo giá thoả thuận (giá bán theo “quyền mua đặc biệt”) thay vì giá hiện tại trên thị trường với mức "thiệt" 13,6% hoàn toàn nằm trong phạm vi rủi ro về giá cả theo tập quán.

Hơn nữa, việc tăng giá cũng có thể dự đoán được. Một người bán hàng bình thường cần phải dự liệu được rằng giá thép có thể tăng hơn so với tình hình thực tế, thậm chí mức tăng còn có thể cao hơn nhiều so với mức tăng trong vụ việc đang xét. Việc xem xét liệu Bị đơn - người bán có hợp lý không khi chấp thuận "quyền mua đặc biệt" với cùng một mức giá trong thời gian tương đối dài như vậy không thuộc thẩm quyền của Uỷ ban trọng tài. Về mặt nguyên tắc, Bị đơn - người bán vẫn có thể khuyến khích người mua khi họ ký hợp đồng đầu tiên bằng cách đưa là điều khoản "quyền mua đặc biệt" mà vẫn bảo lưu quyền được viện dẫn Điều 133 Luật nghĩa vụ nếu giá cả tiếp tục tăng mạnh. Trên thực tế, Bị đơn đã không đưa ra bảo lưu này và vì vậy không thể viện dẫn lý do tăng giá thép để từ chối "quyền mua đặc biệt" của Nguyên đơn.

3. Mua hàng thay thế và tính toán lãi suất:

Bị đơn giữ ý kiến của mình rằng việc mua 80.000 tấn thép từ một công ty Rumania của Nguyên đơn không thể coi là việc mua hàng thay thế, vì Bị đơn không được thông báo trước về ý định mua hàng cụ thể của Nguyên đơn, và hơn nữa, vì Bị đơn đã chào giá thép là 215 USD/tấn và thấp hơn giá mà Nguyên đơn mua của công ty Rumania, thêm vào đó, thép của Bị đơn có chất lượng tốt hơn.

35

Trước tiên, ở đây cần làm rõ sự tác động qua lại về mặt pháp lý giữa Điều 262 và 525 Luật nghĩa vụ của Nam Tư. Điều 262 cho phép các bên của hợp đồng quyền đòi bồi thường những thiệt hại xảy đến với họ phát sinh từ việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc chậm trễ các nghĩa vụ của bên kia. Điều 525, đề cập đến việc mua hàng thay thế, coi việc mua hàng thay thế là giải pháp giảm thiệt hại cho một bên tham gia hợp đồng nếu bên đó đưa ra được các chứng cứ về thiệt hại mà họ phải gánh chịu.

Cả hai bên đều không phản đối thực tế là giá thép trên thị trường thế giới (cùng loại hàng giao) đã tăng ít nhất tới 215 USD/tấn tại thời điểm thực hiện “quyền mua đặc biệt”. Tuy nhiên, Bị đơn cho rằng với các biểu hiện của sự tăng giá này, Nguyên đơn lẽ ra phải mua thép của Bị đơn, việc Nguyên đơn trên thực tế đã mua thép từ Rumani với giá cao hơn giá Bị đơn chào bán là hết sức vô lý.

Trong bản giải trình cuối cùng Nguyên đơn khẳng định rằng họ đã thực sự mua được giá rẻ hơn, họ đã trả 216,50 USD/ tấn nhưng tiết kiệm được 2 - 2,5 USD/ tấn cước phí vận chuyển. Thiệt hại của họ vì vậy thấp hơn so với sự chênh lệch giá trên thị trường thế giới. Số lượng thiệt hại chỉ là sự chênh lệch giữa 190 USD và 214 USD/ tấn là 24 USD/tấn.

Bị đơn cho rằng Nguyên đơn phải trả khoản thuế nhập khẩu hàng của Rumani cao hơn hàng của Nam Tư, tuy nhiên điều này hoàn toàn không liên quan vì Nguyên đơn không hề đòi bồi thường bất kỳ khoản thiệt hại bổ sung nào phát sinh từ việc mua hàng thay thế. Thắc mắc của Bị đơn liên quan đến việc liệu thép mua của công ty Rumani có chất lượng thấp hơn so với loại thép mà Bị đơn cung cấp không cũng không có liên quan gì trong vụ việc này. Đối với Nguyên đơn thì chất lượng thép là tương đương.

Về nghĩa vụ phải thông báo của Nguyên đơn như lập luận của Bị đơn, uỷ ban trọng tài cho rằng việc Nguyên đơn không thông báo cho Bị đơn biết về việc mua hàng thay thế không vi phạm Điều 525.

Từ các lập luận nêu trên, trong tài đi đến kết luận rằng trong trường hợp này Nguyên đơn hoàn toàn có quyền yêu cầu Bị đơn bồi thường khoản chênh lệch giá do phải mua thép của một bên thứ ba thay thế cho số thép đáng lẽ đã mua của Bị đơn theo quyền mua đặc biệt. Tuy nhiên, Nguyên đơn chỉ có thể đòi bồi thường khoản thiệt hại thực tế mà họ phải chịu. ậ đay, khoản thiệt hại được tính là mức chênh lệch giữa giá mua đặc biệt (190 USD/tấn) và giá mua thực tế mà Nguyên đơn đã phải trả cho công ty Nam Tư (216,5 USD/tấn) sau khi đã trừ đi khoản tiền mà Nguyên đơn tiết kiệm được từ việc vận chuyển (khoảng 2,5 USD/tấn). Như vậy Bị đơn sẽ phải bồi thường cho Nguyên đơn một khoản tiền là 80.000 x 24 USD = 1.920.000 USD

Và Uỷ ban trọng tài sau đó đã tính toán khoản lãi suất như sau:

Theo Điều 277 của Luật nghĩa vụ Nam Tư, lãi suất được tính cho bên chủ nợ đối với một khoản thiệt hại kể từ ngày mà bên nợ bắt đầu không thực hiện nghĩa vụ. Bị đơn không thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở chỗ từ chối giao hàng theo giá đã thoả thuận buộc

36

Nguyên đơn phải mua hàng thay thế. Việc không thực hiện của Bị đơn bắt đầu từ ngày mà họ phải giao hàng nhưng đã không giao. Theo hợp đồng mua bán, 80.000 tấn thép của “quyền mua đặc biệt” phải được giao theo 5 lần giao hàng từng phần với khối lượng tương tự trong khoảng tháng 1 và tháng 5 năm 1988. Do vậy Bị đơn đã nợ quá hạn 1/5 của tổng số hàng vào ngày 1 tháng 2; ngày 1 tháng 3; ngày 1 tháng 4; ngày 1 tháng 5 và ngày 1 tháng 6 năm 1988. Lãi suất có thể được tính theo tổng số nợ quá hạn bắt đầu từ ngày giao hàng của chuyến hàng thứ ba.

Như đề cập ở trên, mức lãi suất từ khoảng 6,25 - 8,25%. Không thể dự đoán trước được về lãi suất sẽ tăng như thế nào vì có khoảng thời gian chậm trễ giữa việc đưa ra phán xử của Uỷ ban trọng tài và việc thực hiện tự nguyện hoặc cưỡng chế thực hiện nên phán quyết của Uỷ ban trọng tài cũng phải ấn định mức lãi suất trong tương lai, ví dụ: cho tới khi Bị đơn thực hiện tự nguyện hoặc cưỡng chế thực hiện phán quyết. Trên cơ sở xem xét đến trị giá tăng trưởng trung bình, Uỷ ban trọng tài cho rằng mức lãi suất 7,25% là phù hợp.

37

PHÁN QUYẾT SỐ 10

TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN TRANG THIẾT BỊ

Các bên:

Nguyên đơn : Người bán Mỹ

Bị đơn : Người mua Ấn Độ

Các vấn đề được đề cập:

− Thẩm quyền

− Khước từ và bị hạn chế quyền tham gia tố tụng trọng tài

− Phạm vi áp dụng của điều khoản trọng tài

− Luật thực chất áp dụng

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn là một công ty tại New York hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, bán và thực hiện các dịch vụ đối với một số loại trang thiết bị và các hoạt động kèm theo khác. Bị đơn là một công ty Ấn Độ hoạt động trong lĩnh vực bán các sản phẩm được sản xuất bằng các trang thiết bị của Nguyên đơn tại Ấn Độ.

Theo hợp đồng, Nguyên đơn thoả thuận bán và cung cấp cho Bị đơn thiết bị và thực hiện các dịch vụ cho một nhà máy mới tại Ấn Độ; Luật của bang New York sẽ điều chỉnh quyền và nghĩa vụ các bên. Điều khoản trọng tài qui định như sau:

"Bất cứ tranh chấp nào phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này mà các bên không có khả năng giải quyết thông qua đàm phán thương lượng thì sẽ được giải quyết chung thẩm theo qui tắc trọng tài ICC. Như qui định trong Qui tắc này, mỗi bên sẽ chọn một trọng tài viên, và Toà Trọng tài của ICC sẽ chọn trọng tài viên thứ ba. Tố tụng trọng tài sẽ được thực hiện vào thời gian và tại địa điểm do Toà Trọng tài quyết định. Phán quyết trọng tài có thể được cho thi hành tại bất kỳ một toà án có thẩm quyền nào".

Khi tranh chấp giữa các bên xảy ra, Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài ICC yêu cầu Bị đơn thanh toán các khoản tiền trong đó có khoản trả lãi suất quá hạn mà Bị đơn chưa thanh toán.

Bị đơn phát đơn kiện Nguyên đơn lên toà án tối cao Bombay với mong muốn có được tuyên bố về việc Nguyên đơn đưa tranh chấp ra giải quyết tại Toà án trọng tài là vượt quá phạm vi của điều khoản trọng tài.

Về phần mình Nguyên đơn cho rằng việc đưa vụ tranh chấp ra toà án trọng tài là tuân theo những quy định tại Đoạn 3 Luật 1961 của Ấn Độ về việc công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài mà những quy định đó tương đương với Điều

38

II (3) của Công ước New York 1958.

Quyết định của Toà án tối cao Bombay nhấn mạnh vì Nguyên đơn đã đưa vụ kiện lên trọng tài ra Toà án này đình chỉ không xem xét vụ kiện mà Bị đơn đưa ra.

Trước uỷ ban trọng tài, Bị đơn lập luận rằng các trọng tài viên thiếu thẩm quyền và yêu cầu Trọng tài giải quyết các vấn đề sau đây:

− Liệu các trọng tài viên có thẩm quyền quyết định phạm vi và hiệu lực của thoả thuận trọng tài hoặc có quyền xem xét và giải quyết đơn kiện của Nguyên đơn hay không?

− Liệu Nguyên đơn có khước từ quyền tham gia vào tố tụng trọng tài của mình (nếu có) hay không?

− Liệu Nguyên đơn có bị hạn chế tham gia vào tố tụng trọng tài hay không?

− Nếu các trọng tài viên có quyền quyết định về phạm vi và hiệu lực của thoả thuận trọng tài và Nguyên đơn không từ chối cũng không bị hạn chế tham gia vào tố tụng trọng tài, thì quyền khởi kiện ra trọng tài của Nguyên đơn có thuộc phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài trong hợp đồng hay không? Nếu đúng vậy, thì đó là những khiếu nại nào? Nếu không, thì đó là những khiếu nại nào? Nếu không có khiếu nại thì không có trình tự giải quyết nào được đưa ra. Nếu những khiếu nại được đưa ra trọng tài xem xét thì những vấn đề sau cần được xác định:

+ Liệu Nguyên đơn có được quyền mở rộng phạm vi thẩm quyền đưa ra trọng tài hoặc bổ sung thêm khiếu nại hay không?

+ Luật nào là luật áp dụng?

Phán quyết của trọng tài:

1. Về quyền xác định thẩm quyền xét xử:

Bị đơn lập luận rằng: các trọng tài viên không có quyền xác định phạm vi hay hiệu lực của điều khoản trọng tài của Hợp đồng và không có quyền xem xét, ra quyết định đối với những khiếu nại của Nguyên đơn. Bị đơn cũng cho rằng trọng tài không thể quyết định việc các tranh chấp liên quan có thuộc phạm vi điều chỉnh của thoả thuận trọng tài hay không. Lý do mà Bị đơn đưa ra là làm như vậy thì cũng có nghĩa là trọng tài quyết định luôn hiệu lực pháp lý của điều khoản trọng tài đối với các tranh chấp liên quan và do đó, quyết định luôn thẩm quyền của chính mình.

Uỷ ban trọng tài cho rằng lập luận này của Bị đơn là hoàn toàn không thể chấp nhận được bởi trên thực tế các bên đều thừa nhận rằng giữa họ có tồn tại một hợp đồng có hiệu lực có chứa một điều khoản trọng tài nên trọng tài không có nghĩa vụ xác định xem đây có phải là một hợp đồng vô hiệu hay bất hợp pháp hay không. Còn việc xác định xem một tranh chấp có thuộc phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài hay không là một vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài vì Điều 8(3) và (4) Qui

39

tắc tố tụng ICC qui định "mọi quyết định liên quan đến thẩm quyền của các trọng tài viên sẽ do chính các trọng tài viên quyết định". Nói cách khác, các trọng tài viên có "thẩm quyền về thẩm quyền"3 (quyền quyết định rằng mình có thẩm quyền giải quyết hay không)

2. Khước từ và bị hạn chế quyền tham gia tố tụng trọng tài:

Bị đơn cho rằng Nguyên đơn đã khước từ quyền của mình đưa vụ kiện ra trọng tài và đã bị hạn chế tham dự tố tụng trọng tài với lý do Nguyên đơn đã kiện ngân hàng bảo lãnh của Bị đơn ra Toà án tối cao Calcuta yêu cầu thanh toán khoản lãi suất định kỳ mà thủ tục trọng tài này cũng đang giải quyết; và trước đó, Nguyên đơn đã kiện tại Toà án tối cao Calcuta đòi chính Ngân hàng đó thanh toán khoản tiền liên quan tới kỳ phiếu thứ năm của Hợp đồng.

Bị đơn cho rằng:

− Không thể có hai cơ quan tài phán cùng có thẩm quyền xét xử, ra quyết định về cùng một vấn đề.

− Phán quyết của Toà án Ấn Độ không thể bị loại bỏ. Do đó, trọng tài sẽ không có thẩm quyền nữa.

− Việc Nguyên đơn khởi kiện về cùng một vấn đề tại toà án Ấn Độ mâu thuẫn với yêu cầu của chính Nguyên đơn rằng các bên có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp bằng con đường trọng tài và do vậy Nguyên đơn đã khước từ quyền tham gia tố tụng trọng tài của mình và trong trường hợp này thì Nguyên đơn đã bị hạn chế tham gia vào tố tụng trọng tài.

Trong giải trình của mình Nguyên đơn cho rằng việc đưa những vụ kiện trên ra toà án là nhằm bảo đảm tính an toàn của thoả thuận bảo lãnh, một thoả thuận độc lập với hợp đồng mua bán đang xét. Bị đơn trong các vụ kiện này là Ngân hàng Ấn Độ, họ không phải là một bên trong Hợp đồng mua bán và không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài của Hợp đồng. Nguyên đơn đã có một thoả thuận bảo lãnh với Ngân hàng và đó là cơ sở để đưa vụ kiện ra toà án Ấn Độ.

Uỷ ban trọng tài thấy rằng lập luận của Nguyên đơn là hoàn toàn hợp lý và đi đến kết luận các vụ kiện tại toà án Ấn Độ là những vụ kiện độc lập với vụ kiện đưa ra trước trọng tài và không làm ảnh hưởng đến thẩm quyền của các trọng tài viên.

Theo quan điểm của các trọng tài viên, vụ kiện trước Toà án Ấn Độ do Nguyên đơn đưa ra không liên quan đến các vấn đề về việc khước từ hay bị hạn chế tham gia tố tụng trong tài của Nguyên đơn.

3. Phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài:

Tiếp theo, uỷ ban trọng tài phải quyết định về việc liệu đơn kiện của Nguyên đơn 3 Tạm dịch từ thuật ngữ tiếng Pháp 'compétence de compétence'

40

ra trọng tài này có nằm trong phạm vi áp dụng điều khoản trọng tài trong Hợp đồng hay không.

Bị đơn cho rằng những khiếu nại của Nguyên đơn trong vụ việc này chủ yếu là về các lãi suất thường kỳ phát sinh từ hoặc liên quan đến các kỳ phiếu và đây là những thoả thuận riêng biệt và độc lập với thoả thuận của Hợp đồng, do đó không thuộc điều khoản trọng tài của Hợp đồng.

Để trả lời câu hỏi này uỷ ban trọng tài phải xem xét xem những kỳ phiếu nói trên khi được thực hiện sẽ được coi là hình thức thanh toán đầy đủ hoặc thanh toán có điều kiện hay không bởi về mặt nguyên tắc, một kỳ phiếu không thể được coi là hình thức thanh toán trừ khi nó là một bộ phận của Hợp đồng liên quan.

Trên cơ sở xem xét hợp đồng giữa các bên uỷ ban trọng tài thấy rằng các bên chưa bao giờ có ý định coi các kỳ phiếu là hình thức thanh toán toàn bộ các nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng. Tuy nhiên hợp đồng giữa các bên nêu rõ rằng các kỳ phiếu là chứng cứ cho các nghĩa vụ thanh toán thực hiện theo hợp đồng. Các kỳ phiếu này là các thanh toán có điều kiện: chúng sẽ hoàn toàn không có giá trị nếu Ngân hàng Ấn Độ không cấp phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Cần phải coi các kỳ phiếu này là một phần không thể tách rời của hợp đồng và không thể tồn tại độc lập với hợp đồng. Như vậy, tranh chấp liên quan đến các kỳ phiếu cũng thuộc phạm vi áp dụng của điều khoản trọng tài.

Uỷ ban trọng tài cũng nhấn mạnh thêm rằng ngay cả khi các kỳ phiếu nói trên tồn tại độc lập, tách biệt với hợp đồng thì theo uỷ ban trọng tài phạm vi áp dụng điều khoản về trọng tài cũng vẫn đủ rộng để bao hàm cả những tranh chấp phát sinh giữa các bên từ các kỳ phiếu đó.

1. Luật áp dụng:

Bị đơn cho rằng luật áp dụng là luật của Ấn Độ. Họ biện hộ rằng hệ thống luật mà hợp đồng và việc thực hiện hợp đồng có mối liên hệ chặt chẽ và thực tế nhất chính là luật Ấn Độ.

Trong trường hợp các bên không có thoả thuận hoặc không nêu lên một cách rõ ràng về vấn đề luật áp dụng, thì các trọng tài viên đồng ý rằng luận điểm của Bị đơn có thể có giá trị.

Tuy nhiên, điều khoản về luật áp dụng trong hợp đồng đã quy định cụ thể rằng quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng này sẽ được điều chỉnh trên mọi phương diện bởi luật của bang New York Mỹ. Trong trường hợp này, thoả thuận về luật áp dụng đã được nêu rõ trong hợp đồng, và do đó việc lựa chọn luật áp dụng không cần phải đặt ra.

2. Phán quyết:

Các trọng tài viên đã đưa ra quyết định của mình về các vấn đề trên như sau:

Trong vụ tranh chấp này, các trọng tài viên có đủ thẩm quyền xem xét và quyết

41

định. Nguyên đơn không khước từ, cũng không bị hạn chế quyền tham gia tố tụng trọng tài.

Phạm vi khiếu nại nằm trong điều khoản trọng tài và luật áp dụng là luật của bang New York - Hoa Kỳ.

42

PHÁN QUYẾT SỐ 11

TRANH CHẤP VỀ VIỆC GIAO HÀNG CHẬM

TRONG HỢP ĐỒNG GIA CÔNG GĂNG TAY

Các bên:

Nguyên đơn : Bên gia công Trung Quốc

Bị đơn : Bên thuê gia công Hồng Kông

Các vấn đề được đề cập:

− Giao hàng theo lô và giao hàng chậm

− Từ chối thực hiện nghĩa vụ cung cấp nguyên liệu gia công do bên kia vi phạm hợp đồng

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 26 tháng 2 năm 1988, Nguyên đơn và Bị đơn ký một hợp đồng gia công găng tay cao su y tế ở Shenzhen bằng cao su nhập khẩu. Điều 1 của hợp đồng qui định Bị đơn phải cung cấp 500 tấn cao su 60% ly tâm tự nhiên loại một (first class 60% natural centrifugal latex) không tính phí trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 1988 đến tháng 1 năm 1989. Điều 2 Hợp đồng qui định Nguyên đơn phải chuyển cho Bị đơn 30.000.000 găng tay cao su y tế đóng trong các thùng hàng vào khoảng giữa tháng 5 năm 1988 và tháng 3 năm 1989. Phí gia công là 29 USD cho một tấn găng tay, tổng số là 870.000 USD, bốc hàng ở Shanghai. Phí vận chuyển do Bị đơn chịu, kể cả phí vận chuyển từ nhà máy đến cảng Shanghai. Thanh toán bằng thư tín dụng giáp lưng (back-to-back L/C). Mỗi lần giao hàng Nguyên đơn phát hành một thư tín dụng và thư tín dụng này chỉ có hiệu lực khi Bị đơn phát hành trở lại một thư tín dụng trả tiền ngay (time letter of credit). Điều 11 Hợp đồng qui định bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường 20% tổng trị giá các sản phẩm đã gia công hoặc 20% trị giá các sản phẩm chưa được gia công cộng với các thiệt hại về nguyên vật liệu hoặc thiệt hại về nhân công cho bên kia. Khoản bồi thường sẽ phải trả một lần.

Sau khi hợp đồng được ký kết, Bị đơn đã cung cấp 175,89 tấn cao su thành bốn lần trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1988. Sau khi nhận được nguyên vật liệu, Nguyên đơn đã tiến hành sản xuất.

Do Bị đơn muốn thay đổi phương thức đóng gói và vì các lý do khác, Nguyên đơn đã hoãn thời gian giao hàng trước khi có sự chấp thuận của Bị đơn. Trong thời gian từ tháng 7 đến ngày 4 tháng 11 năm 1988 Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn tổng cộng là 8.000.000 găng cao su, tính cả 1.000.000 găng chuyển ngày 4 tháng 11 năm 1988 mà Bị đơn đã từ chối khi số hàng này đến Hồng Kông và bị trả lại cho Nguyên đơn ngày 5 tháng 5 năm 1989.

43

Từ tháng 5 năm 1988, Bị đơn đã ngừng cung cấp cao su cho Nguyên đơn và từ chối phát hành thư tín dụng cho số găng đã gia công đó.

Sau một thời gian dài đàm phán không thành công, ngày 23 tháng 8 năm 1989 Nguyên đơn đã khởi kiện Bị đơn ra trọng tài với những lập luận như sau:

− Lô găng cao su thứ tám do Nguyên đơn xếp lên tàu đã được chuyển đến Hồng Kông sau khi đã được đại diện của Bị đơn ở Shanghai chấp nhận qua điện thoại. Do đó việc Bị đơn từ chối không nhận hàng ở Hồng Kông vì lý do hàng bị giao chậm hơn so với ngày giao hàng ghi trong thư tín dụng là không hợp lý. Trên thực tế, Bị đơn đã từ chối nhận số hàng này để tránh tổn thất vì mặt hàng này trên thị trường đang bị mất giá. Bị đơn phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và phải bồi thường thiệt hại cho Nguyên đơn.

− Nguyên đơn phải chịu các tổn thất về kinh tế vì phải lưu kho số găng này do Bị đơn không nhận hàng và không phát hành thư tín dụng.

− Sau tháng 5 năm 1988 Bị đơn đơn phương ngừng cung cấp cao su theo hợp đồng. Do đó nhà máy của Nguyên đơn phải ngừng sản xuất, gây thiệt hại nặng nề cho Nguyên đơn.

− Ngày 29 tháng 7 năm 1988 Nguyên đơn đã phát hành thư tín dụng chấp thuận (time letter of credit) với trị giá 191.880 USD nhưng Bị đơn chỉ phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay(back-to-back sight letter of credit) theo từng lô hàng. Ngày 24 tháng 6 và ngày 25 tháng 7 năm 1988 Bị đơn chỉ phát hành hai thư tín dụng với tổng trị giá 243.920 USD trong đó có 116.000 USD phí gia công, các thư tín dụng này còn thiếu tổng cộng là 121.960 USD trong đó có 58.000 USD phí gia công. Sau đó Nguyên đơn liên tục nhắc nhở Bị đơn mở thư tín dụng nhưng Bị đơn đã không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và Bị đơn còn sử dụng các phương thức không hợp thức khác để rút 95.940 USD còn lại trong thư tín dụng chấp thuận của Nguyên đơn mà không thông báo gì cho Nguyên đơn. Vì vậy Nguyên đơn còn phải chịu thêm nhiều thiệt hại kinh tế khác.

Vì những lý do nêu trên, Nguyên đơn yêu cầu:

− Bị đơn bồi thường cho Nguyên đơn tiền thiệt hại 306.666 USD, tức 20% khoản tiền còn lại chưa trả, phù hợp với hợp đồng;

− Bị đơn phải trả 102.950 USD cho 3.550.000 găng đã gia công;

− Bị đơn phải trả lại 95.940 USD bị rút một cách bất hợp pháp từ thư tín dụng chấp thuận của Nguyên đơn, cộng với 17.269,20 USD tiền lãi (tính theo lãi suất 1,2%/tháng).

− Bị đơn phải hoàn trả tiền cước vận chuyển nội địa mà Nguyên đơn đã trả nhân danh Bị đơn: 6.057,6 Rmb + 5.600 Rmb = 11.657 Rmb, tức là 3.142,21 USD (tỷ lệ qui đổi: 1USD = 3,71 Rmb); và hoàn trả lại tiền phí vận chuyển đường biển và phí lưu hàng tại cảng 40.780 HK$ (5.228USD);

44

− Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn phí lưu kho, cộng với tiền lãi là 1.325,03 Rmb (357,15USD);

− Phí luật sư 18.800 Rmb (5.067,38 USD) do Bị đơn chịu;

− Phí trọng tài do bên thua kiện chịu.

Bị đơn giải trình như sau:

− Thư tín dụng chấp thuận do Nguyên đơn phát hành chỉ có hiệu lực khi Bị đơn phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay, vì vậy Bị đơn có quyền quyết định có nên tiếp tục cung cấp cao su và phát hành tín dụng giáp lưng cho găng cao su đã gia công phù hợp với việc thực hiện hợp đồng hàng tháng của Nguyên đơn. Nếu Bị đơn không cung cấp cao su và phát hành tín dụng giáp lưng thì Nguyên đơn có quyền quyết định có tiếp tục gia công găng cao su, giao hàng và phát hành thư tín dụng giáp lưng hay không. Bị đơn đã cung cấp 175,89 tấn cao su phù hợp với hợp đồng, nhưng Nguyên đơn lại không giao hàng đúng thời hạn giao hàng qui định trong hợp đồng. Nguyên đơn đã giao chậm tất cả là 8.000.000 găng cao su, kể cả 1.000.000 đôi trong lần giao hàng cuối cùng, số hàng được xếp lên tàu ngày 4 tháng 11 năm 1988 mà không được phép của đại diện của Bị đơn ở Shanghai, và đã vượt quá thời gian xếp hàng trong thư tín dụng. Nguyên đơn phải tự chịu trách nhiệm cho việc Bị đơn từ chối số hàng giao chậm. Để tránh những thiệt hại tiếp theo căn cứ vào quá trình thực hiện hợp đồng trước đó của Nguyên đơn, Bị đơn tạm ngừng cung cấp cao su và phát hành các thư tín dụng giáp lưng để chấp nhận số găng đã gia công đó.

− Do Nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng, ba container cao su mà Bị đơn đã chuyển cho Nguyên đơn đã không được thu hồi. Sau khi đàm phán với ngân hàng, Bị đơn rút lại 95.940 USD coi như tiền thanh toán cho số cao su nói trên. Vì Nguyên đơn đã nhận số cao su trong ba container hàng này nên Bị đơn được quyền đòi tiền cao su.

Phán quyết của trọng tài:

1. Nguyên đơn đã không có đủ chứng cứ chứng minh cho lập luận rằng việc Bị đơn từ chối hàng ở Hồng Kông là không có căn cứ và rằng đây là một vi phạm hợp đồng. Nguyên đơn không chứng minh được rằng Bị đơn đã chấp nhận việc gửi lô hàng thứ tám với 1.000.000 găng cao su bốc lên tàu ngày 4 tháng 11 năm 1988. Uỷ ban trọng tài lưu ý rằng các bên đã chấp thuận hoãn việc gửi lô hàng đầu tiên. Do đó, thời gian giao hàng tiếp theo cũng được sửa đổi và Bị đơn đã không phản đối những lần giao hàng muộn ngoại trừ đối với lô hàng thứ tám mặc dù việc Nguyên đơn giao hàng sau khi thư tín dụng đã hết hạn là vi phạm thoả thuận của các bên về thời gian giao hàng. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại liên quan đến lô hàng thứ tám.

2. Bị đơn lập luận rằng lý do khiến Bị đơn ngừng cung cấp cao su và phát hành thư tín dụng đối ứng trả tiền ngay (opposite sight letter of credit) là để tránh những tổn thất khác do việc giao muộn lô hàng thứ tám gây ra. Lập luận này của Bị đơn là không

45

thể chấp nhận được.

Uỷ ban trọng tài cho rằng

Việc Nguyên đơn giao muộn lô hàng thứ tám không phải là một vi phạm nghiêm trọng đối với hợp đồng và do đó không giải phóng các bên khỏi các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng.

Nếu số lượng hàng gửi được tính theo ngày gửi hàng trước khi sửa đổi, như Bị đơn đề nghị, thì Bị đơn phải giao lô cao su mới muộn nhất là vào cuối tháng 8 năm 1988. Bị đơn không thể coi việc giao hàng hồi tháng 11 là sự hoàn thành nghĩa vụ mà lẽ ra phải được hoàn thành từ tháng 8. Do đó, Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải trả tiền bồi thường thiệt hại là 112.810 USD (tức 29USD/1 tấn hàng x (30.000.000 - 7.000.000 - 1.000.000 - 2.550.000) x 20%) và bồi thường cho 2.550.000 găng cao su đã gia công.

Hợp đồng qui định thư tín dụng chấp thuận do Nguyên đơn phát hành chỉ có hiệu lực khi Bị đơn phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay. Việc Bị đơn đơn phương rút 95.940 USD còn lại, trong đó có 31.980 USD tiền phải trả cho lô hàng thứ tám trong thời gian thư tín dụng do Nguyên đơn mở đang có hiệu lực trong khi Bị đơn không phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay trị giá 121.960 USD là không đúng. Từ thực tế là Nguyên đơn đã gia công 3.550.000 găng cao su, trong đó có 1.000.000 găng giao chậm nên Nguyên đơn phải tự mình chịu trách nhiệm về lô hàng giao chậm này, Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 73.950 USD cho 2.550.000 găng còn lại do Bị đơn đã không phát hành thư tín dụng giáp lưng thanh toán ngay. Vì số găng này không chuyển cho Bị đơn nữa nên yêu cầu đòi 95.940 USD của Nguyên đơn không được chấp thuận.

Phù hợp với điều khoản về vận chuyển của hợp đồng, Uỷ ban trọng tài chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về 8.142,21 USD phí vận chuyển nội địa mà Nguyên đơn đã trả cho Bị đơn. Tuy nhiên, khoản tiền 1.884, 09 USD của lô hàng thứ tám gồm 1.000.000 găng phải được khấu trừ và phần thanh toán thực tế phải trả là 1.258,12 USD. Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về 5.228 USD tiền cước vận chuyển đi và về và tiền phí lưu kho hàng hoá ở cảng cho lô hàng thứ tám này.

Uỷ ban trọng tài chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường 357,15 USD tiền lưu kho và tiền lãi phát sinh mà Nguyên đơn đã phải trả nhân danh Bị đơn.

1. Phí luật sư của Nguyên đơn là 18.800 Rmb phải do Nguyên đơn chịu.

2. Phí trọng tài sẽ do cả hai bên chịu: Nguyên đơn chịu 30%, phần 70% còn lại do Bị đơn chịu.

Phán quyết:

1. Bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại cho lô găng cao su thứ tám do thiếu chứng cứ thực tế và chứng cứ về pháp luật;

2. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn tiền thiệt hại 112.810 USD vì đã

46

không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của mình, và 73.950 USD tiền phí gia công 2.550.000 găng;

3. Bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi trả 95.940 USD mà Bị đơn đã rút lại, cộng với tiền lãi 11.512, 8%;

4. Bị đơn phải hoàn trả 1.258, 12 USD phí vận chuyển nội địa cho Nguyên đơn;

5. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn tiền lưu kho 357,15 USD mà Nguyên đơn đã trả thay cho Bị đơn cộng với tiền lãi;

6. Phí trọng tài sẽ do cả hai bên chịu: Nguyên đơn chịu 30%, phần 70% còn lại do Bị đơn chịu.

47

PHÁN QUYẾT SỐ 12

TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG THIẾU

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUẦN ÁO TRẺ EM

Các bên:

Nguyên đơn : Người mua Cuba

Bị đơn : Người bán Trung Quốc

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 25 tháng 12 năm 1986, Nguyên đơn và Bị đơn ký kết một hợp đồng mua bán theo đó Bị đơn phải cung cấp 19.500 tá quần áo trẻ em sợi hỗn hợp với số lượng và giá cả khác nhau. Tổng trị giá hợp đồng là 404.415 USD, FOB cảng Trung Quốc, đóng vào hộp giấy, gửi hàng đi vào quý 1 và quý 2 năm 1987. Tháng 6 năm 1987 Bị đơn giao 900 hộp giấy chứa hàng hoá theo hợp đồng. Số hàng này đã được bốc lên tàu của Cuba và đã rời đi cảng Havana, Cuba.

Theo Nguyên đơn, khi hàng đến cảng Havana Nguyên đơn đã xác nhận rằng bề ngoài của số thùng giấy là không có vấn đề gì nhưng có một số thùng có trọng lượng không đủ. Nguyên đơn đã vận chuyển số hàng nói trên vào kho. Cơ quan giám định sở tại đã xác nhận thiếu 606 quần/áo trong 19 thùng hàng được giám định (trong số 300 thùng) so với NQ 9114, B/L52, hoá đơn SUL 30047 được giao. Kết quả giám định 61 thùng hàng theo NQIOO58-4, B/L53, hoá đơn SUL 30048 xác định thiếu 1.845 quần/áo.

Nguyên đơn hy vọng sẽ đạt được một thoả thuận thông qua đàm phán với Bị đơn, nhưng Bị đơn đã không chấp nhận đàm phán. Căn cứ vào Điều 42 Các điều kiện chung về giao hàng, Nguyên đơn cho rằng Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho số hàng thiếu và yêu cầu Bị đơn bồi thường cho các thiệt hại về kinh tế như sau:

1. Khoản tiền 4.245,01 USD thanh toán cho số hàng giao thiếu, bao gồm: 606 quần/áo, tương đương với 50,5 tá theo NQ9114 với giá 22,29 USD/tá, là 1.125,65 USD; 1.854 quần/áo, tương đương với 154,5 tá theo NQ10058-4 với giá 20,19 USD/tá, là 3.119,36 USD;

2. Phí giám định 180 USD;

3. Phí trọng tài.

Trong văn bản trả lời, Bị đơn giải trình như sau:

1. Theo các qui định tại Điều 14 Các điều kiện chung về giao hàng, số lượng và khối lượng của hàng hoá được xác định theo vận đơn đường biển. Sau khi hàng đã được bốc lên tàu, Bị đơn nhận vận đơn sạch do thuyền trưởng phát hành xác nhận hàng hoá hợp lệ và phù hợp với số lượng ghi trong hoá đơn và bản chứng nhận số thùng hàng với các chi tiết ghi trên vận đơn. Ngoài

48

ra, từ các tài liệu do Nguyên đơn trình, 71 thùng (30-40% trong tổng số 120 thùng) thiếu về số lượng, và hầu hết là thiếu loại quần áo cỡ 36 hoặc 48. Nếu tình trạng này nghiêm trọng đến mức như Nguyên đơn biện luận thì chắc chắn có nhiều thùng hàng rỗng hoặc đã bị mở và nếu thế thì thuyền trưởng chắc chắn đã không ký vận đơn sạch. Hơn nữa, Nguyên đơn cũng đã xác nhận rằng khi được chuyển đến, các thùng hàng vẫn hợp lệ, Nguyên đơn đã không trình được chứng nhận giám định hàng hoá để chứng minh hàng bị thiếu về khối lượng và trong thùng có nhiều thứ khác không phải là hàng hoá. Do đó cần phải bác yêu cầu của Nguyên đơn liên quan đến việc giao thiếu hàng.

2. Điều 15 Các điều kiện chung về giao hàng qui định: “Đơn vị khối lượng và đơn vị đo của bản giám định và xác nhận hàng hoá cung cấp phụ thuộc vào các tài liệu của bên bán”. Xác nhận về số thùng hàng do Bị đơn cung cấp chứng minh rằng số hàng được giao phù hợp với các qui định của hợp đồng và cần phải dựa vào bản xác nhận này để xác định số hàng đã giao.

3. Hợp đồng được ký theo điều kiện FOB. Theo các qui định trong INCOTERMS, một khi hàng hoá đã được chuyển qua lan can tàu tại cảng bốc hàng, mọi rủi ro về mất mát hoặc tổn thất đối với hàng hoá cũng được chuyển cho bên mua. Vì vậy, yêu cầu của Nguyên đơn là không có cơ sở.

Phán quyết của trọng tài:

Theo Điều 14 Các điều kiện chung về giao hàng, số lượng hàng do Bị đơn giao được xác định theo vận đơn đường biển. Trong các thùng hàng thuộc vận đơn số 52 và 53, số hàng được ghi lần lượt là 300 và 600 thùng. Mặc dù trên vận đơn đường biển có ghi tổng trọng lượng của hàng hoá, nhưng không ghi số hàng trong từng thùng hoặc khối lượng của mỗi thùng hàng. Theo chứng nhận giám định của Cục giám định hàng hoá Cuba, tất cả các thùng hàng đều hợp lệ. Có tổng số 2.460 quần/áo thiếu trong 71 thùng.

Bị đơn đã trình chứng nhận về hàng hoá được đóng vào thùng khi số hàng này còn ở trong nhà máy, nhưng hàng đã không được bốc trực tiếp lên tàu sau khi rời nhà máy mà được vận chuyển bằng nhiều phương tiện, rồi cuối cùng mới được bốc lên tàu. Do đó, không loại trừ khả năng việc thiếu hàng xảy ra trước khi số hàng này được bốc lên tàu. Uỷ ban trọng tài cho rằng Điều 42 Các điều kiện chung về giao hàng đã qui định rõ quyền của các bên được khiếu nại về việc thiếu hàng hoá và do đó Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng này.

Phán quyết:

1. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 4.425,01 USD là khoản tiền đã trả cho số hàng thiếu, và 180 USD phí giám định.

2. Phí trọng tài sẽ do Bị đơn chịu.

49

PHÁN QUYẾT SỐ 13

TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG MÁY ĐÓNG GÓI

Các bên:

Nguyên đơn : Người mua Trung Quốc

Bị đơn : Người bán Hồng Kông

Các vấn đề được đề cập:

− Mua hàng tại triển lãm

− Giao thiếu hàng và bất cẩn trong việc đóng gói hàng

− Lắp đặt và sửa chữa máy

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 17 tháng 1 năm 1985 Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng số 5009 theo đó Bị đơn bán cho Nguyên đơn một máy đóng gói với giá 80.000 USD. Máy này sẽ được chuyển đến Wuhan theo hai đợt giao hàng. Bộ phận chính của máy được bán sau khi được trưng bày triển lãm tại Wuhan và được giao vào tháng 2 năm 1985. Đợt giao hàng thứ hai gồm các bộ phận phụ của máy sẽ được tiến hành vào ngày 15 tháng 4 năm 1985.

Sau khi hợp đồng được ký kết, Nguyên đơn đã phát hành thư tín dụng cho lần giao hàng đầu tiên trị giá 65.750 USD theo đúng hợp đồng. Nguyên đơn đã giao chuyến hàng đầu tiên đúng thời hạn. Ngày 20 tháng 3 năm 1985 Cục Giám định Hàng hoá Xuất nhập khẩu Hubei, Trung Quốc, cấp chứng nhận giám định theo đó thùng hàng thì hoàn chỉnh, nhưng thiếu mất một gương kiểm tra vật liệu và hai thước nén lá nhôm. Ngoài ra, hai ổ cuốn hàn nóng bị han gỉ toàn bộ. Các bộ phận khác của máy cũng bị han gỉ một số phần. Trong thân máy có một vài giọt nước. Bản chứng nhận giám định cũng cho thấy đã giao thiếu một số bộ phận của máy. Gỉ sắt và nước trong máy là do không cẩn thận khi đóng thùng máy sau triển lãm.

Các bộ phận phụ của máy đóng gói được Bị đơn giao vào tháng 10 năm 1985, sáu tháng sau khi hợp đồng được ký kết.

Ngày 28 tháng 3 năm 1985, căn cứ vào chứng nhận giám định của Cục giám định hàng hoá XNK Hubei, Trung Quốc, Nguyên đơn gửi văn thư cho Bị đơn yêu cầu giao các bộ phận còn thiếu, đổi ống cuốn hàn nóng và bồi thường các thiệt hại về kinh tế.

Sau đó Bị đơn giao gương kiểm tra vật liệu và gửi các kỹ sư đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn để sửa chữa máy trong các ngày 23 và ngày 25 tháng 4 năm 1985. Sau khi lắp đặt xong, do còn thiếu một số bộ phận nên chỉ một phần của máy là có thể hoạt động được. Do có khiếm khuyết tại hai bộ phận là A5 và A6 nên toàn bộ máy không thể hoạt động bình thường.

50

Ngày 8 tháng 10 năm 1985, sau khi tất cả các bộ phận đã được chuyển đến Wuhan, các bên đã ký một thoả thuận theo đó Bị đơn bảo đảm sẽ gửi kỹ sư đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn để lắp đặt, sửa chữa máy và đào tạo công nhân. 80% giá bán sẽ được thanh toán cho Bị đơn sau khi đã trừ khoản tiền phạt do giao chậm và thiệt hại về kinh tế. Thoả thuận đã không được thực hiện đúng hạn do các bên có bất đồng quan điểm.

Sau khi đã trao đổi giữa các bên, Nguyên đơn trả 7.125 USD, 50% trị giá lô hàng thứ hai cho Bị đơn ngày 24 tháng 2 năm 1986. Từ ngày 11 đến ngày 23 tháng 4 năm 1986, các kỹ sư của Bị đơn đã đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn để sửa chữa lần thứ hai. Sau đó các bên ký một văn bản liên quan đến việc sửa chữa máy lần thứ hai, văn bản này ghi nhận rằng máy không thể hoạt động được do máy in, bộ phận chọn phế thải, ổ cuốn đồng bộ và nhiệt độ trước khi hoạt động không đạt tiêu chuẩn. Sau đó, Nguyên đơn thường xuyên liên hệ với Bị đơn nhưng không nhận được trả lời rõ ràng.

Ngày 15 tháng 11 năm 1986, Nguyên đơn khởi kiện ra trọng tài kiện Bị đơn không những vi phạm hợp đồng do giao hàng lần thứ hai chậm, giao hàng thiếu, máy bị han gỉ cũng như trì hoãn trong việc sửa chữa máy làm cho máy không thể hoạt động được sau hai lần sửa chữa. Vấn đề nghiêm trọng này cùng với thực trạng của máy khiến cho Nguyên đơn phải chịu tổn thất lớn về kinh tế. Do đó Nguyên đơn yêu cầu trả lại máy và các bộ phận phụ của máy cho Bị đơn và đòi Bị đơn hoàn trả 72.785 USD và lãi ngân hàng, bồi thường cho Nguyên đơn các thiệt hại do đóng thuế hải quan và thuế công thương hỗn hợp. Ngoài ra Nguyên đơn đòi Bị đơn phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và bồi thường tất cả các thiệt hại và các tổn thất kinh tế khác mà Nguyên đơn phải gánh chịu.

Bị đơn giải trình như sau:

Yêu cầu của Nguyên đơn trả lại máy do máy có vấn đề nghiêm trọng là không thể chấp nhận được. Lần sửa máy đầu tiên vào tháng 4 năm 1985 chỉ mang tính sơ bộ vì các bộ phận phụ của máy chưa được chuyển đến. Vào giai đoạn đó máy vẫn hoạt động bình thường. Đến lần sửa máy cuối cùng vào ngày 25 tháng 4 năm 1985, vì điện áp không ổn định mà một bộ ổn nhiệt bị cháy và gây ra sự cố cho bộ phận A5 và A6, do đó không thể sửa máy được. Bị đơn không cung cấp được cho Nguyên đơn các bộ phận còn thiếu do nhà máy ở Đức không cung cấp các bộ phận đó cho Bị đơn. Hai ổ cuốn hàn nóng không thể chỉnh đến độ thăng bằng thích hợp, và các kỹ sư của Bị đơn không quen với các khuôn đúc thay thế. Ngoài ra, nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn đã từ chối không cho phép Bị đơn sửa máy.

Sau khi Bị đơn giao lô hàng thứ hai theo hợp đồng vào tháng 9 năm 1985, Nguyên đơn từ chối thanh toán tiền hàng cho Bị đơn. Sau khi trao đổi, các bên chấp thuận là Bị đơn sẽ tiến hành sửa chữa vào tháng 4 tháng 1986 khi Nguyên đơn đã thanh toán một phần tiền hàng. Việc sửa chữa lần thứ hai không thực hiện được đúng thời hạn là do Nguyên đơn từ chối trả tiền hàng nên Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm.

51

Bị đơn không thể sửa chữa máy đến mức có thể hoạt động bình thường. Bị đơn chỉ yêu cầu uỷ ban trọng tài ra một phán quyết tạm thời cho phép Bị đơn gửi các kỹ sư của mình đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn trong thời gian nhanh nhất có thể để sửa chữa máy và yêu cầu nhà máy hợp tác với mình trong việc sửa chữa máy.

Theo yêu cầu của Bị đơn, Uỷ ban trọng tài ra một phán quyết tạm thời về việc tái sửa chữa máy đóng gói, để tránh tăng thiệt hại và đánh giá chất lượng và chức năng của máy. Bị đơn phải cử đến các kỹ sư có năng lực chuyên môn và đã tham gia khoá đào tạo đặc biệt ở Đức, cung cấp các bộ phận cần thiết cho nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn hoàn thành việc tái sửa chữa máy đóng gói trước ngày 15 tháng 7 năm 1988 và đạt tiêu chuẩn chất lượng của máy xuất xưởng hoặc tiêu chuẩn khác do các bên thoả thuận. Khi việc sửa chữa hoàn thành, các bên phải trình một bản báo cáo chung về kết quả sửa chữa. Tuy nhiên, Bị đơn đã không cử kỹ sư đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn cũng như không nộp báo cáo cho Uỷ ban trọng tài.

Phán quyết của trọng tài:

Vì chất lượng của máy đóng gói là đối tượng của tranh chấp, và bản thân máy này đã được Bị đơn triển lãm tại Wuhan và Nguyên đơn cũng mua máy này tại triển lãm nên Uỷ ban trọng tài quyết định bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi trả lại máy. Tuy nhiên, Bị đơn đã không đóng gói máy đúng qui cách làm một số bộ phận của máy bị han gỉ nghiêm trọng. Bị đơn cũng không giao các bộ phận còn thiếu và cũng không thành công trong việc sửa chữa máy mặc dù đã hai lần cử kỹ sư đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn. Máy đóng gói không đạt các tiêu chuẩn để đóng gói dược phẩm.

Theo yêu cầu của Bị đơn, Uỷ ban trọng tài đã ban hành một phán quyết tạm thời yêu cầu Bị đơn tái sửa chữa máy với các bộ phận phụ cần thiết, nhưng Bị đơn không cử bất kỳ kỹ sư nào đến nhà máy để sửa chữa cũng như không trình báo cáo về việc thi hành phán quyết của Uỷ ban trọng tài. Uỷ ban trọng tài đã gửi văn thư cho Bị đơn yêu cầu Bị đơn nộp báo cáo thi hành phán quyết. Bị đơn đã không trả lời. Điều này cho thấy Bị đơn không hề có ý định tái sửa chữa máy phù hợp với các yêu cầu đóng gói dược phẩm, vì vậy Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc này.

Từ các ý kiến và tình tiết ghi trong bản báo cáo kết quả sửa chữa lần hai do cả Nguyên đơn và Bị đơn ký ngày 23 tháng 4 năm 1986 và trên cơ sở xem xét các thiệt hại mà Nguyên đơn phải chịu, Uỷ ban trọng tài quyết định rằng việc giảm 35% giá máy đóng gói là hợp lý.

Bị đơn đã giao lô hàng thứ hai chậm 6 tháng nên bị phạt 5% trị giá số hàng giao chậm theo các qui định của hợp đồng.

Khoản tiền 7.125 USD mà Nguyên đơn chưa trả cho Bị đơn được khấu trừ vào khoản tiền mà Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn. Vì khoản tiền này đáng lý phải trả khi Bị đơn đã sửa được máy đến mức độ cần thiết và khi đã hết thời hạn bảo hành, nên không được tính lãi cho khoản tiền này.

52

Phán quyết:

Uỷ ban trọng tài quyết định như sau:

− Giá của máy đóng gói theo Hợp đồng số 5009 ký kết giữa Nguyên đơn và Bị đơn phải được giảm xuống 35%, tức là 28.000USD (80.000 USD x 35%) để giải quyết các nghĩa vụ theo hợp đồng giữa các bên. Bị đơn phải hoàn trả khoản tiền này cho Nguyên đơn cộng với tiền lãi tính từ ngày 4 tháng 4 năm 1986 đến ngày thanh toán thực tế với lãi suất là 8%/năm.

− Bị đơn phải trả một khoản tiền phạt là 4.000USD do giao chậm lô hàng thứ hai.

− Khoản tiền 7.125USD Nguyên đơn chưa thanh toán cho Bị đơn sẽ được khấu trừ vào khoản tiền Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn.

− Bác các yêu cầu khác của Nguyên đơn.

− Phí trọng tài sẽ do cả hai bên chịu. Nguyên đơn chịu 20% và Bị đơn chịu 80% phí trọng tài.

53

PHÁN QUYẾT SỐ 14

TRANH CHẤP VỀ TIỀN TẠM ỨNG

TRONG HỢP ĐỒNG LÀM PHIM

Các bên:

Nguyên đơn : Một công ty Hồng Kông - Macao

Bị đơn : Một cơ quan văn hoá nghệ thuật Trung Quốc

Các vấn đề được đề cập:

− Hợp đồng vô hiệu do chủ thể không có thẩm quyền và năng lực ký kết

− Nghĩa vụ thông báo và giảm thiểu thiệt hại

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn (Bên A) và Bị đơn (Bên B) ký một hợp đồng sản xuất phim tựa đề “Hai Deng Fa Shi” ngày 13 tháng 4 năm 1985. Phần hợp đồng liên quan đến phương thức hợp tác giữa hai bên quy định Bên A chịu mọi chi phí cho việc làm phim với tổng dự toán khoảng 800.000USD. Bên A chịu trách nhiệm cung cấp các thiết bị quay phim, xe thùng chở đạo cụ và mời một đạo diễn và một thợ chụp ảnh từ Hồng Kông và Macao. Bên B chịu trách nhiệm viết kịch bản, thuê đạo diễn, diễn viên và đoàn phục vụ làm phim, thuê địa điểm, xin cấp các loại giấy phép và hoàn thành mọi thủ tục cần thiết và những công việc hàng ngày khác.

Hợp đồng cũng quy định sau khi ký kết hợp đồng, Bên A phải chuyển 120.000 USD (bao gồm cả 50.000 USD tiền tạm ứng phải chuyển ngay trong ngày ký kết hợp đồng). Bên B phải xin được các giấy phép cần thiết của Chính quyền nhân dân tỉnh Henan và Phòng tuyên truyền tỉnh Henan và phải thực hiện tất cả các thủ tục để có được bảo lãnh của Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh tại Zheng Zhou trong vòng 15 ngày. Sau khi các thủ tục này hoàn thành, bên A phải chuyển ngay khoản tiền 70.000USD còn lại vào tài khoản của bên B. Trong vòng năm ngày kể từ khi khởi quay (dự tính là vào tháng 5 năm 1985), bên A phải chuyển 180.000USD vào tài khoản của bên B. Phần đầu tư còn lại sẽ được thanh toán thành nhiều lần để bảo đảm cho các chi phí làm phim.

Ngày 13 tháng 4 năm 1985, ngày ký kết hợp đồng, Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn 50.000 USD tiền tạm ứng thông qua Ngân hàng Macao Nantong. Ngày 3 tháng 5 năm 1985, Bị đơn ký một văn bản với một công ty sản xuất phim ở Guangzhou để cùng sản xuất phim Hai Deng Fa Shi.

Ngày 8 tháng 5 năm 1985, Nguyên đơn nhận được từ Bị đơn văn bản trả lời cho phép công ty Hồng Kông - Ma Cao được vận chuyển các thiết bị để làm phim do Chính quyền nhân dân tỉnh Henan cấp ngày 26 tháng 4 năm 1985, một “Bản hướng dẫn chấp thuận báo cáo của Cơ quan văn hoá và nghệ thuật và Công ty Hồng Kông - Ma Cao” do

54

Phòng tuyên truyền tỉnh Henan cấp và “Bảo lãnh không huỷ ngang cho Hợp đồng” số ZT 535406 do Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh tại Zheng Zhou cấp. Tuy nhiên, ngày cấp bảo lãnh lại là ngày 10 tháng 6 năm 1985.

Ngày 31 tháng 7 năm 1985 Bị đơn gửi văn thư cho Nguyên đơn giục Nguyên đơn chuyển cho mình phần 70.000USD còn lại trong khoản đầu tư đầu tiên 120.000USD và nói rằng nếu Nguyên đơn không chuyển tiền trong vòng 10 ngày thì coi như đã vi phạm hợp đồng. Nguyên đơn không trả lời việc này bằng văn bản.

Ngày 4 tháng 10 năm 1985 Nguyên đơn và một công ty sản xuất phim ký một bản dự thảo với tên gọi “Các sửa đổi đối với hợp đồng sản xuất phim màu màn ảnh rộng Hai Deng Fa Shi-Dự án hợp tác giữa công ty Hồng Kông - Ma Cao và Cơ quan Văn hoá và Nghệ thuật”. Bản dự thảo này ghi rõ:

1. Hợp đồng ký bởi các bên là vô hiệu và thay vào đó bộ phim được thực hiện giữa Nguyên đơn và công ty sản xuất phim;

2. Công ty sản xuất phim chịu trách nhiệm xin tất cả các giấy phép và phê chuẩn và thực hiện tất cả các thủ tục cần thiết và nộp báo cáo cho Bộ Tuyên truyền;

3. Khoản tạm ứng 50.000 USD đã được chuyển cho Bị đơn sẽ được chuyển lại cho công ty sản xuất phim, v.v...

Bản dự thảo cũng qui định dự thảo sẽ được chính thức ký kết khi đã xin được tất cả các giấy phép và đã thông qua tất cả các thủ tục cần thiết. Bản dự thảo sẽ tự động chấm dứt nếu không xin được tất cả các giấy phép và phê chuẩn cần thiết trong thời hạn hai tháng. Vì công ty sản xuất phim đã không xin được tất cả các giấy phép và phê chuẩn cần thiết nên sau đó bản dự thảo tự động chấm dứt.

Ngày 7 tháng 8, ngày 8 tháng 9, ngày 27 tháng 9 và ngày 2 tháng 12 năm 1987 Nguyên đơn gửi văn thư cho Bị đơn đòi hoàn trả 50.000USD. Bị đơn không trả khoản tiền tạm ứng này. Do đó Nguyên đơn đã kiện ra Uỷ ban trọng tài.

Nguyên đơn lý luận như sau:

1. Việc không thực hiện được hợp đồng là do Bị đơn không xin được các giấy phép và phê chuẩn cần thiết. Bản hướng dẫn mà Bị đơn cung cấp cho Nguyên đơn được cấp trước thời điểm ký kết hợp đồng. Đây rõ ràng là một sự giả mạo. Văn bản trả lời của Chính quyền nhân dân tỉnh Henan chỉ cho phép công ty đưa các thiết bị ảnh liên quan vào Trung Quốc chứ không phải là giấy phép cho dự án liên doanh làm phim. Các giấy phép và phê chuẩn không phù hợp với các qui định của hợp đồng.

2. Hợp đồng đã vô hiệu và Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc này vì các nguyên nhân sau đây: Bị đơn là một doanh nghiệp thuộc sở hữu tập thể và, theo các luật và qui định của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và của Bộ Phát thanh, Truyền hình và Điện ảnh, Bị đơn không phải là chủ thể có

55

năng lực ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài cho các dự án liên kết làm phim. Việc liên kết làm phim với Nguyên đơn vượt quá thẩm quyền của Bị đơn, vì vậy hợp đồng ký kết giữa các bên liên quan đến dự án liên doanh làm phim Hai Deng Fa Shi là bất hợp pháp và vô hiệu.

3. Vì hợp đồng vô hiệu nên Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn 50.000USD tiền đặt cọc và, vì Uỷ ban Kế hoạch và Hội đồng Văn hoá của Thành phố Kaifeng đã bảo lãnh cho Bị đơn (theo ngoại tệ và nhân dân tệ) nên họ phải chịu trách nhiệm chung và riêng rẽ.

Do đó, Nguyên đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài ra phán quyết rằng:

1. Hợp đồng ký kết giữa Nguyên đơn và Bị đơn là vô hiệu;

2. Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn 50.000USD tiền tạm ứng cộng với tiền lãi tính từ ngày tạm ứng đến ngày nộp đơn khởi kiện.

3. Phí trọng tài, phí luật sư và những thiệt hại khác về kinh tế sẽ do Bị đơn chịu.

Bị đơn giải trình như sau:

1. Hợp đồng này có hiệu lực và trách nhiệm đối với việc không thực hiện hợp đồng gắn liền với việc vi phạm hợp đồng của Nguyên đơn. Hợp đồng này là một thoả thuận bằng văn bản giữa các bên đạt được thông qua thương lượng và đáp ứng tất cả các yêu cầu của các luật liên quan. Vào thời điểm ký kết hợp đồng, có rất nhiều hợp đồng liên kết hợp tác giữa Trung Quốc với nước ngoài và không có qui định thống nhất về vấn đề này. Hợp đồng qui định một cách rõ ràng rằng Bị đơn sẽ được coi là đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình nếu Bị đơn xin được các giấy phép của Chính quyền nhân dân tỉnh Henan, Phòng Tuyên truyền tỉnh Henan và bảo lãnh của Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh Zheng Zhou. Bị đơn đã có được các giấy tờ này và đã nhanh chóng chuyển cho Nguyên đơn. Theo hợp đồng, Nguyên đơn đáng lẽ phải tiếp tục chuyển tiền. Tuy nhiên, Nguyên đơn đã không chỉ liên tục trì hoãn việc chuyển tiền mà còn ký một văn bản dự thảo với công ty sản xuất phim để sửa đổi hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn mà không có sự chấp thuận của Bị đơn. Hành vi này là một sự vi phạm hợp đồng.

2. Thậm chí nếu hợp đồng vô hiệu thì trách nhiệm vẫn thuộc về Nguyên đơn. Vì hợp đồng được ký bởi cả hai bên nên suy ra là nếu hợp đồng vô hiệu thì cả hai bên cùng có lỗi. Tháng 10 tháng 1985 khi Nguyên đơn ký dự thảo với công ty sản xuất phim, rõ ràng Nguyên đơn đã biết là hợp đồng vô hiệu nhưng đã không thông báo gì cho Bị đơn. Tuy nhiên, cho đến thời điểm đó thì Bị đơn đã sử dụng hết số tiền tạm ứng 50.000USD vào các hoạt động về ảnh, ngoài ra Bị đơn đã phải chi ra rất nhiều tiền của và công sức. Vì vậy Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm chính cho các thiệt hại về kinh tế.

56

Vì vậy Bị đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài bác các yêu cầu của Nguyên đơn.

Uỷ ban trọng tài cho rằng:

Mặc dù hợp đồng về dự án liên kết sản xuất phim Hai Deng Fa Shi đã được các bên chính thức ký kết và xác nhận ngày 14 tháng 4 năm 1985, hợp đồng này là vô hiệu vì Bên B (Bị đơn) không phải là chủ thể có thẩm quyền ký một hợp đồng với đối tác nước ngoài để làm phim và các nội dung của hợp đồng vượt quá thẩm quyền của Bị đơn, vi phạm các luật và qui chế liên quan của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Trách nhiệm chính trong việc hợp đồng vô hiệu thuộc về Bị đơn. Tuy nhiên Nguyên đơn đã không kiểm tra cẩn thận năng lực pháp lý và thẩm quyền của Bị đơn trước khi ký kết hợp đồng, vì vậy Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm cho sự không cẩn trọng của chính mình.

Ngày 4 tháng 10 năm 1985 khi Nguyên đơn ký một văn bản dự thảo với công ty sản xuất phim, Nguyên đơn đã biết rằng hợp đồng ký kết với Bị đơn là vô hiệu. Nguyên đơn đáng lẽ phải thông báo với Bị đơn về việc này để hạn chế thiệt hại. Chỉ đến tháng 11 năm 1988 Nguyên đơn mới yêu cầu luật sư của mình thông báo cho Bị đơn biết. Tuy nhiên, đến lúc này Bị đơn đã thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình và do đó phải chịu một số thiệt hại nhất định về kinh tế. Vì Nguyên đơn đã không thực hiện các biện pháp cần thiết để hạn chế thiệt hại nên Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm theo các quy định của pháp luật Trung Quốc.

Kết quả điều tra của Uỷ ban trọng tài cho thấy trong khoản tiền tạm ứng 50.000USD (tương đương với 140.950 Rmb) mà Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn, 98.000 Rmb đã được Bị đơn chi cho hệ thống thiết bị và các phụ liệu chụp ảnh ngày 4 tháng 4 năm 1986; 22.000Rmb đã được đại diện của Nguyên đơn lấy lại vào ngày 8 tháng 6 năm 1985 với lý do thù lao làm phim; và 20.950 Rbm còn lại cùng với mấy nghìn Rbm mà Bị đơn tự bỏ ra đã được sử dụng để chi cho các chi phí khác nhau trong quá trình chuẩn bị làm phim, bao gồm cả chi phí phòng ở và lương cho nhân viên. Như vậy, toàn bộ số tiền 50.000USD tạm ứng mà Nguyên đơn giao cho Bị đơn đã được sử dụng hết.

Việc điều tra của Uỷ ban trọng tài cũng cho thấy giấy bảo lãnh mà Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh Zheng Zhou cấp đã không có hiệu lực vì Nguyên đơn không chuyển khoản tiền thù lao 120.000USD đầu tiên vào tài khoản của Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh Keifeng. Giấy bảo lãnh do Uỷ ban Kế hoạch Keifeng và Hội đồng Văn hoá Keifeng cũng không có hiệu lực vì Nguyên đơn không chuyển 60.000USD vào tài khoản của Uỷ ban Kế hoạch Keifeng như yêu cầu của người bảo lãnh. Do đó, Nguyên đơn không thể đòi hỏi Uỷ ban Kế hoạch Keifeng và Hội đồng Văn hoá Keifeng chịu trách nhiệm chung trong việc hoàn lại tiền bằng ngoại tệ hay nhân dân tệ.

Do đó Uỷ ban trọng tài quyết định rằng những thiệt hại duy nhất mà Nguyên đơn có thể đòi trong trường hợp này là hệ thống thiết bị và phụ liệu ảnh DXC - M3PK mà Bị đơn sẽ phải hoàn lại cho Nguyên đơn. Uỷ ban trọng tài bác các yêu cầu còn lại.

57

Phán quyết của trọng tài:

Uỷ ban trọng tài quyết định như sau:

− Hợp đồng ký ngày 13 tháng 4 năm 1985 giữa các bên về dự án làm phim màn ảnh rộng là vô hiệu;

− Trong vòng 60 ngày Bị đơn phải hoàn trả lại cho Nguyên đơn các thiết bị và phụ liệu ảnh DXC - M3PK mua ngày 2 tháng 4 năm 1986. Các chi phí đóng gói, vận chuyển và bảo hiểm cho việc trả lại thiết bị sẽ do Bị đơn chịu;

− Bác các yêu cầu khác của Nguyên đơn;

− Phí trọng tài mỗi bên chịu một nửa.

58

PHÁN QUYẾT SỐ 15

TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG

CUA ĐÔNG LẠNH VÀ TÔM MUỐI

Các bên:

Nguyên đơn : Người mua Mỹ

Bị đơn : Người bán Trung Quốc

Các vấn đề được đề cập:

- Giá trị của giấy chứng nhận giám định

- Giá trị lời tuyên bố miệng về chất lượng hàng hoá khi nhận hàng

- Thiệt hại một phần hay toàn bộ

Tóm tắt vụ việc:

Bị đơn bán cho Nguyên đơn 12 MT cua đông lạnh (1.200 thùng, mỗi thùng 10 kg) với giá 2.560 USD/MT, giá CIF Los Angeles, tổng trị giá là 30.720 USD; và 39.04 MT tôm muối (1.952 thùng, mỗi thùng 20 kg) với giá 1.150 USD/MT, giá CIF Los Angeles, tổng trị giá là 44.896 USD.

Ngày 9 tháng 6 năm 1985, Bị đơn giao 12 MT cua đông lạnh và 34 MT tôm muối tại Fuzhou. Hàng được vận chuyển qua Hồng Kông để tới Los Angeles. Theo Nguyên đơn, số hàng này đến Los Angeles ngày 9 tháng 7 năm 1985 và được chuyển vào kho bảo quản ngày 16 tháng 7 năm 1985.

Sau khi thông báo cho các khách hàng, từ ngày 20 tháng 7 năm 1985 Nguyên đơn bắt đầu giao hàng cho khách của mình. Ngày 25 tháng 7 năm 1985, một số khách hàng trả lại cua đông lạnh với lý do cua đã bị hỏng.

Ngày 8 tháng 8 năm 1985, Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã tiến hành một cuộc thanh tra y tế thường lệ tại nhà kho. Đối tượng của cuộc thanh tra là tất cả thực phẩm được bảo quản tại đó bao gồm cả cua đông lạnh và tôm muối, đối tượng trong vụ tranh chấp này. Kết quả thanh tra là 14 loại hàng hoá khác nhau đã bị tịch thu chờ giải quyết. Cua đông lạnh không ở trong số hàng hoá bị tịch thu nhưng 480 thùng tôm muối (20 kg/thùng) đã bị tịch thu. Báo cáo thanh tra xác minh 480 thùng tôm muối đó được vận chuyển từ Trung Quốc nhưng không nói rõ chính xác tên nhà cung cấp tại Trung Quốc.

Ngày 29 tháng 7 năm 1985, Nguyên đơn đã yêu cầu Công ty Toplis & Harding (Toplis & Harding) ở Mĩ giám định cua đông lạnh và tôm muối trong các nhà kho hải quan và kho lạnh liên bang vào ngày 30 tháng 7 năm 1985. Đến ngày 1 tháng 11 năm 1985, Toplis & Harding mới cấp giấy chứng nhận giám định trong đó nêu:

“Bao bì ngoài của 1.200 thùng cua đông lạnh ở tình trạng tốt. Tuy nhiên, khi mở

59

các thùng hàng này thì ngoài số hàng vẫn còn tốt, có một số hàng đã bị đổi màu. Hơn nữa, khi bửa đôi một số cua để kiểm tra thì một số đã bị hỏng. Chúng tôi đã cố gắng xác định số lượng cua bị hỏng nhưng không được. Phương pháp nitrate để thử các thùng cua đông lạnh đã cho kết quả âm tính. Bao bì ngoài của 1.952 thùng tôm muối vẫn tốt và không bị ảnh hưởng của không khí ẩm. Sau khi mở một số thùng tôm muối thì cũng thấy có những thùng đã bị hỏng. Tôm đã bị hỏng vào thời điểm xếp lên tàu. Chúng tôi đã có kết quả âm tính khi dùng phương pháp nitrate để kiểm tra. Trước đó, sau khi hàng hoá được thử vi khuẩn như Nguyên đơn yêu cầu, chúng tôi đã đề nghị trước tiên nên bán số hàng này để giảm thiểu thiệt hại. Chúng tôi cho rằng hàng hoá bị hỏng không liên quan tới quá trình vận chuyển mà xảy ra khi đóng gói.”

Ngày 12 tháng 9 năm 1985, Nguyên đơn yêu cầu Michelson Laboratories ở Mĩ đề nghị giám định cua đông lạnh và tôm muối. Ngày 25 tháng 9 năm 1985, Michelson Laboratories cấp giấy:

“.... hai loại hàng hoá nói trên đã được giám định. Cua và tôm đã bị bốc mùi do bị hỏng. Số hàng này đã được kiểm tra theo chuẩn quốc tế, nghĩa là kiểm tra 5.900 con tôm muối và 11.000 con cua. Cua và tôm không có tỷ lệ vi khuẩn cao. Có thể vi khuẩn đã ngừng phát triển do hàng đã bị hỏng. Vì vậy, không thể tiến hành thử vi khuẩn.”

Ngày 8 tháng 8 năm 1985, một tháng sau khi hàng đến Los Angeles, Nguyên đơn đã gửi telex cho Bị đơn thông báo rằng chất lượng cua đông lạnh và tôm muối quá tồi và đề nghị trả lại hàng. Ngày 12, ngày 22 và ngày 25 tháng 8 năm 1985, Nguyên đơn lại fax cho Bị đơn và đề nghị trả lại hàng do vấn đề chất lượng. Ngày 21 và ngày 29 tháng 8 năm 1985, Bị đơn trả lời chất lượng hàng hoàn toàn tốt khi giao hàng tại Fuzhou và hàng đã được kiểm định bởi Cục kiểm định hàng hoá Trung Quốc (“CCIB”) tại Fuzhou. Bị đơn nói rõ nếu có vấn đề gì về chất lượng xảy ra thì đó là do quá trình vận chuyển và Nguyên đơn nên đòi bồi thường từ công ty bảo hiểm. Nguyên đơn không tán thành ý kiến này. Sau đó, theo Nguyên đơn, hàng hoá đã bị huỷ toàn bộ.

Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn trả lại số tiền đã thanh toán nhưng không được Bị đơn chấp thuận. Sau nhiều lần thương lượng, ngày 12 tháng 4 năm 1986 Bị đơn đã đồng ý bồi thường 7.337 USD cho 319 thùng tôm muối với điều kiện là Nguyên đơn đưa ra được bằng chứng do cơ quan có thẩm quyền cấp chứng minh 319 thùng tôm muối đó đúng là 319 thùng tôm muối do Bị đơn giao ngày 10 tháng 6 năm 1985. Đồng thời, Bị đơn yêu cầu tiếp tục thương lượng và trong trường hợp thương lượng thất bại thì sẽ đưa vấn đề ra trọng tài. Các bên đã không đạt được thoả thuận nào và ngày 12 tháng 5 năm 1986, Nguyên đơn nộp đơn kiện ra Uỷ ban trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế Trung Quốc, yêu cầu Bị đơn trả lại số tiền đã thanh toán mua cua đông lạnh và tôm muối 75.616 USD, cộng thêm số tiền lãi tính từ ngày 15 tháng 7 năm 1985 cho tới ngày Bị đơn trả lại tiền.

Bị đơn lập luận như sau:

- Nguyên đơn không có đủ tư cách để khiếu kiện bởi người mua theo hợp đồng là

60

XX Trading Corporation, một công ty thương mại Mĩ chứ không phải Nguyên đơn (C.R. Food, Inc). Hợp đồng được ký bởi XX chứ không phải là Nguyên đơn.

Nguyên đơn không có quan hệ hợp đồng với Bị đơn và Bị đơn không hề giao hàng hoá cho Nguyên đơn. Hàng hoá, đối tượng của vụ tranh chấp, không phải do Bị đơn cung cấp và hàng hoá do Cơ quan kiểm định Hoa Kỳ kiểm tra cũng không phải do Bị đơn cung cấp. Ngay cả khi nếu số hàng hoá đó do Bị đơn cung cấp thì khi hàng tới Los Angeles, XX đã sắp xếp cho Toplis & Harding kiểm định hàng hoá mà không báo trước cho Bị đơn, Bị đơn không chấp thuận cho Toplis & Harding tiến hành kiểm định hàng hoá.

Kết quả kiểm định của Toplis & Harding liên quan đến qui trình lấy mẫu và giám định hàng hoá, ngày cấp giấy chứng nhận giám định, phần nội dung giấy chứng nhận liên quan đến nơi bảo quản hàng hoá, chất lượng hàng, số lượng khách mua hàng và số hàng bán ra, ngày và số lượng hàng bị khách trả lại hoàn toàn mẫu thuẫn với chứng cứ do XX đưa ra và trình bày của người đại diện XX tại phiên xét xử. Ví dụ: giấy chứng nhận kiểm định nói 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã được kiểm định, nhưng người đại diện của XX nói với Uỷ ban trọng tài là vào ngày 25 tháng 7 năm 1985, hàng đã được bán hết cho các khách hàng. Người đại diện của XX đính chính rằng ngày 25 tháng 7 năm 1985, một số khách hàng đã trả lại tôm đông lạnh. Nhưng người đại diện không thể nói rõ số lượng hàng thực tế đã bán và bị trả lại và xác nhận là anh ta không biết điều đó vì anh ta không có mặt. Tuy nhiên, bản kê khai ngày 25 tháng 10 năm 1985 của kho bảo quản mà người đại diện trình lên Uỷ ban trọng tài cho thấy rõ ràng 1.201 thùng cua đông lạnh Trung Quốc đã được đưa vào trong kho ngày 16 tháng 7 năm 1985, 200 thùng đã được bán ngày 15 tháng 8, 200 thùng bán ngày 16 tháng 8 và 200 thùng đã chuyển cho Nguyên đơn ngày 16 tháng 8. Ngày 19 tháng 8, khách hàng đã trả lại 200 thùng. Ngày 22 tháng 8, 200 thùng đã được chuyển cho Nguyên đơn. Ngày 16 tháng 9, khách hàng đã trả lại 140 thùng. Ngày 23 tháng 9, 50 thùng đã được chuyển cho Nguyên đơn. Với lịch mua bán và trả lại như trên, "Toplis and Harding không thể giám định được tất cả 1.200 thùng cua đông lạnh.”

Trong giấy chứng nhận giám định, Toplis & Harding ghi 1.952 thùng tôm muối đã được kiểm tra. Tuy nhiên, XX đã fax cho Bị đơn thông báo 1.163 thùng tôm đã bị tịch thu. Vì vậy, Bị đơn đặt câu hỏi làm thế nào mà Toplis & Harding lại có thể kiểm tra được đến 1.952 thùng tôm muối còn lại, Toplis & Harding đã kiểm tra bao nhiêu thùng tôm muối, kiểm tra ở đâu và vào khi nào.

Tóm lại, giấy chứng nhận kiểm định do Toplis & Harding cấp và XX trình lên Uỷ ban trọng tài không đúng với sự thật và vì vậy, không có giá trị pháp lý.

- Hợp đồng quy định khiếu kiện về chất lượng, số lượng và trọng lượng của hàng hoá phải được đưa ra trong vòng 30 ngày sau khi hàng đến cảng. Sau khi Nguyên đơn thông báo cho Bị đơn về chất lượng hàng hoá qua điện thoại ngày 20 tháng 8 năm 1985, Nguyên đơn lại fax cho Bị đơn để phủ nhận thông báo đó. Bị đơn từ chối nhận hai bản fax và vì vậy, khiếu kiện của Nguyên đơn về chất lượng hàng hoá nên bị bác vì đưa ra

61

sau thời hạn quy định.

- Hợp đồng quy định chất lượng và trọng lượng hàng hoá phải được kiểm định bởi cơ quan kiểm định hàng hoá tại cảng xếp hàng. Cua đông lạnh và tôm muối được xếp lên tàu tại Fuzhou, Trung Quốc và đã được Cục kiểm định hàng hoá (CCIB) tỉnh Fujian cấp giấy chứng nhận kiểm định.

Nguyên đơn khiếu kiện rằng ngày 31 tháng 8 năm 1985, 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã được đưa đến bãi rác để huỷ. Nhưng ngày 12 tháng 9, Michelson Laboratories ở Mĩ xác nhận là đã nhận được mẫu cua đông lạnh và tôm muối để kiểm định. Bản kê khai kho ngày 25 tháng 10 cho thấy rõ ràng một số thùng cua đông lạnh đã được bảo quản trong kho cho đến ngày 23 tháng 9. Thậm chí, năm 1986, Nguyên đơn đã yêu cầu Bị đơn trả lại hàng. Những sự việc đó cho thấy sự không chính xác trong việc Nguyên đơn đã huỷ hàng hoá, ngày và số lượng hàng hóa bị hủy. Nguyên đơn chỉ tuyên bố 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã bị huỷ và đưa vào bãi rác ngày 31 tháng 8 năm 1985 mà không có bên thứ ba độc lập làm chứng. Vì vậy đây không thể coi như chứng cứ về việc hàng bi hủy.

Căn cứ vào những sự kiện trên, Bị đơn cho rằng nên bác khiếu kiện của Nguyên đơn.

Nguyên đơn bác lập luận của Bị đơn như sau:

1. Người đứng đầu XX ở Mĩ có hai công ty với tên tiếng Anh là XX Food, Inc và XX Trading Co. Sau đó, hai công ty này đã sáp nhập với nhau và lấy tên là XX Food, Inc. Tài sản và nghĩa vụ pháp lý của XX Trading Co. đều chuyển cho XX Food, Inc và vì vậy, XX Food, Inc là một bên trong vụ kiện này.

2. Việc mua bán cua đông lạnh và tôm muối được thực hiện qua điện thoại chứ không qua ký kết hợp đồng. Việc giao hàng được thực hiện dựa trên thư tín dụng thanh toán. Hai bản hợp đồng Bị đơn trình lên Uỷ ban trọng tài không có chữ ký của Nguyên đơn hay Bị đơn. Hơn nữa, số lượng cả cua đông lạnh và tôm muối là 150 MT, không liên quan gì đến việc mua bán 12 MT cua đông lạnh và 39.04 MT tôm muối hiện tại. Không có căn cứ để Bị đơn trích dẫn các điều khoản liên quan đến thời hạn khiếu kiện và và các điều khoản kiểm định hàng hoá để bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại.

Nguyên đơn không bác các lập luận khác của Bị đơn.

Ý kiến của Uỷ ban trọng tài:

1. XX Food, Inc và XX Trading, Co đã sáp nhập và giữ lại tên XX Food, Inc. Vì vậy, Nguyên đơn có đủ tư cách pháp lý để khiếu kiện.

2. Nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan kiểm định kiểm tra cua đông lạnh và tôm muối. Nguyên đơn đã không thông báo trước việc kiểm định hàng hoá cho Bị đơn hoặc được sự đồng ý của Bị đơn trước khi Nguyên đơn đơn phương mời Toplis & Harding kiểm định hàng hoá. Sau ba tháng tiến hành việc kiểm định, cơ quan kiểm định

62

mới cấp giấy chứng nhận. Tuy nhiên, nội dung của giấy chứng nhận mâu thuẫn với các văn bản Nguyên đơn đưa ra và sự trình bày của Nguyên đơn trong phiên xét xử. Nguyên đơn không có đủ chứng cứ để chứng minh hàng hoá đã kiểm định là hàng do Bị đơn giao. Vì vậy, Bị đơn đã đúng khi từ chối chấp nhận giấy chứng nhận kiểm định.

3. Các bản hợp đồng Bị đơn trình lên Uỷ ban trọng tài không có chữ ký của cả Nguyên đơn lẫn Bị đơn. Nội dung của các bản hợp đồng cũng không thống nhất với nội dung vụ kiện. Vì vậy, Bị đơn không có quyền viện dẫn thời hạn khiếu kiện để bác khiếu kiện của Nguyên đơn.

4. Bị đơn đã tuyên bố điều khoản kiểm định hàng hoá của hai hợp đồng trên quy định giấy chứng nhận kiểm định của Cục kiểm định hàng hoá (CCIB) là về chất lượng hàng hoá. Cua đông lạnh và tôm muối đã được kiểm định bởi Cục kiểm định hàng hoá (CCIB) ở Fuzhou, do đó, không thể bác được chất lượng hàng hoá. Tuy nhiên, hai hợp đồng trên không có giá trị pháp lý vì không bên nào ký và số lượng hàng không thống nhất với nội dung vụ việc. Hơn nữa, Bị đơn không đưa ra giấy chứng nhận kiểm định chính thức do Cục kiểm định hàng hoá (CCIB) cấp. Tuyên bố của Bị đơn về chất lượng cua đông lạnh và tôm muối không có đủ chứng cứ.

5. Nguyên đơn không đưa ra bằng chứng chứng minh toàn bộ hàng hoá đã bị huỷ vào ngày 31 tháng 8 năm 1985. Ngược lại, một số bằng chứng đưa ra mâu thuẫn với trình bày bằng lời và bằng văn bản của Nguyên đơn. Tóm lại, không thể khẳng định 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã bị huỷ vào ngày 31 tháng 8 năm 1985.

Uỷ ban trọng tài kết luận:

1. Nguyên đơn đã không đưa ra đủ chứng cứ để chứng minh tất cả 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối có vấn đề về chất lượng hay hàng hoá đã bị huỷ. Vì vậy, bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi Bị đơn trả lại tiền hàng và tiền lãi kèm theo.

2. Bị đơn thừa nhận kết quả kiểm định y tế của Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) và tự nguyện bồi thường 7.337 USD cho 319 thùng tôm muối vi phạm Luật thực phẩm của Mĩ. Theo các báo cáo của Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA), 480 thùng tôm muối, chứ không phải là 319 thùng, không đạt tiêu chuẩn y tế và Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 11.040 USD cộng với tiền lãi, chứ không phải là 7.337 USD.

3. Ngoài các khoản bồi thường nói trên, Bị đơn không phải bồi thường cho Nguyên đơn bất kỳ một khoản tiền nào.

Phán quyết:

1. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 11.040 USD cộng với tiền lãi tính từ ngày 1 tháng 9 năm 1985 cho đến ngày Bị đơn trả tiền, với lãi suất 7%/năm.

2. Bác các khiếu kiện khác của Nguyên đơn.

63

3. Cả hai bên đều phải trả phí trọng tài, Bị đơn trả 80% phí trọng tài và Nguyên đơn trả 20% phí trọng tài.

64

PHÁN QUYẾT SỐ 16

TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGŨ CỐC

Các bên:

Nguyên đơn : Người bán Singapore

Bị đơn : Người mua Việt nam

Các vấn đề được đề cập:

− Về chủ thể chính của hợp đồng mua bán giao kết thông qua người đại diện

− Hàng khuyến mãi và nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu đối với hàng khuyến mãi

− Tạm ứng hàng cho bên thứ ba trên cơ sở yêu cầu và thoả thuận của bên bán

Tóm tắt vụ việc:

Công ty X (công ty được Nguyên đơn uỷ quyền làm đại diện) ký với Bị đơn hai hợp đồng mua bán theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn: bột ngũ cốc dinh dưỡng và cà phê Coffeemix trị giá 30.925,47 USD (Hợp đồng thứ nhất) và bột ngũ cốc dinh dưỡng, chè xanh cao cấp... trị giá 8.917,45 USD (Hợp đồng thứ hai). Trên hai hợp đồng này ghi tên các bên ký kết là tên Nguyên đơn & Công ty X và tên Bị đơn. Điều kiện giao hàng CIF tại cảng TP Hồ Chí Minh không chậm hơn ngày 30 tháng 3 năm 1999 (đối với Hợp đồng thứ nhất) và ngày 15 tháng 9 năm 1999 (đối với Hợp đồng thứ hai); Thanh toán bằng TTR, Bị đơn phải chuyển 100% trị giá hoá đơn trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận được chứng từ vận tải gốc; người hưởng lợi là Nguyên đơn.

Thực hiện Hợp đồng, Nguyên đơn đã chuyển số hàng thuộc Hợp đồng thứ nhất cho Bị đơn vào ngày 13 tháng 3 năm 1999 và số hàng thuộc Hợp đồng thứ hai tới Bị đơn ngày 17 tháng 3 năm 1999. Các hoá đơn vận tải gốc của hai hợp đồng này cũng đã được Nguyên đơn gửi cho Bị đơn. Nhưng Bị đơn không thanh toán tiền hàng cho Nguyên đơn. Ngày 1 tháng 12 năm 1999 Nguyên đơn gửi văn thư cho Bị đơn để nhắc nhở việc thanh toán tiền hàng theo hai hoá đơn nói trên. Tất cả các văn bản này Bị đơn đều đã nhận được. Nhưng Bị đơn vẫn không thanh toán số tiền hàng này cho Nguyên đơn.

Ngày 29 tháng 5 năm 2000, Nguyên đơn chính thức kiện Bị đơn ra Trung tâm Trọng tài đòi Bị đơn phải trả các khoản tiền sau:

− Tổng số tiền hàng của hai hợp đồng: 39.842,91 USD.

− Tiền lãi của tiền hàng theo hoá đơn vận tải của hợp đồng thứ nhất đề ngày 12

65

tháng 3 năm 1999 tính cho giai đoạn từ ngày 12 tháng 3 năm 1999 đến ngày ban hành phán quyết với lãi suất 11,7%.

− Tiền lãi của tiền hàng theo hoá đơn vận tải của hợp đồng thứ hai đề ngày 26 tháng 3 năm 1999 tính cho giai đoạn từ ngày 26 tháng 3 năm 1999 đến ngày ban hành phán quyết với lãi suất 11,7%.

− Phí trọng tài

− Phí dịch thuật: 5.000 USD

− Phí liên lạc : 400 USD

Trong Văn thư phản bác đơn kiện Bị đơn trình bày như sau:

Bị đơn không ký bất cứ Hợp đồng nào với Nguyên đơn nên Nguyên đơn không có tư cách pháp lý để kiện bị đơn. Tuy nhiên Bị đơn thừa nhận có ký kết hai hợp đồng nói trên với Công ty X.

Về số tiền hàng: Theo thoả thuận giữa Công ty X và Bị đơn, trong tổng số 39.842,91 USD tiền hàng của hai hợp đồng đã ký kết có 11.194,92 USD là tiền một phần lô hàng theo hợp đồng thứ nhất do Công ty X khuyến mại cho Bị đơn. Thực tế khi nhập khẩu số hàng khuyến mãi này Bị đơn đã phải nộp 101.066.059 VND là tiền thuế nhập khẩu mà theo Bị đơn Công ty X có trách nhiệm phải hoàn lại cho Bị đơn.

Theo thoả thuận và yêu cầu của Công ty X, Bị đơn đã xuất tạm ứng một phần trong tổng số hàng theo hai hợp đồng trên cho Công ty Y với trị giá 287.320.000VND, Bị đơn chưa được thanh toán số tiền này. Theo Bị đơn, Công ty X phải chịu trách nhiệm yêu cầu Công ty Y thanh toán cho Bị đơn và Bị đơn đã có văn thư gửi đến Công ty X về việc này.

Sau khi tính toán, Công ty X còn thiếu của Bị đơn là 6.278,80USD. Tuy nhiên, Bị đơn không yêu cầu Nguyên đơn hay Công ty X trả mình các khoản tiền nêu trên, mà yêu cầu Uỷ ban trọng tài bác hồ sơ kiện của Nguyên đơn, với lý do là Nguyên đơn không đủ yếu tố pháp lý là chủ thể để kiện Bị đơn.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về tư cách pháp lý của Nguyên đơn:

Uỷ ban trọng tài bác lý lẽ của Bị đơn cho rằng Nguyên đơn không có tư cách pháp lý để khởi kiện vì các lý do sau đây:

Thứ nhất, trong cả hai hợp đồng đã ký, tên Người mua là Bị đơn và tên Người bán là Nguyên đơn & Công ty X. Như vậy, Người bán gồm hai công ty (Nguyên đơn và Công ty X). Nguyên đơn là một Công ty được thành lập hợp pháp theo luật của Singapore. Công ty X là công ty được thành lập hợp pháp theo luật Singapore, có văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy phép của Bộ Thương mại Việt Nam. Nguyên đơn đã uỷ quyền cho Công ty X (mà cụ thể là cho ông A-Trưởng chi

66

nhánh Văn phòng đại diện của Công ty X tại Thành phố Hồ Chí Minh) ký kết các hợp đồng thương mại với các đối tác Việt Nam. Như vậy, trong cả hai hợp đồng nói trên Nguyên đơn là bên bán hợp pháp.

Thứ hai, trên thực tế Bị đơn đã nhiều lần tiến hành kinh doanh với Nguyên đơn & Công ty X. Vì vậy không có lý do gì để Bị đơn từ chối tư cách người bán của Nguyên đơn trong hai hợp đồng này.

2. Về luật áp dụng cho tranh chấp:

Trong cả hai hợp đồng, các bên đều không quy định luật điều chỉnh hợp đồng. Trong một văn thư gửi Uỷ ban trọng tài, Nguyên đơn đã dẫn chiếu đến Điều 233 Luật Thương mại nước CHXHCN Việt Nam năm 1997 và Quyết định số 39/1998/QĐ-NHNN ngày 17 tháng 1 năm 1999 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Điều đó thể hiện ý muốn của Nguyên đơn áp dụng pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, tại phiên họp xét xử, trong khi Nguyên đơn vẫn giữ quan điểm chọn pháp luật Việt Nam để áp dụng cho việc xét xử thì Bị đơn lại không có ý kiến cụ thể gì về việc này. Trong trường hợp này các bên coi như không thống nhất được với nhau về luật áp dụng. Căn cứ vào các hoàn cảnh thực tế của vụ việc: hợp đồng được ký kết và thực hiện tại Việt Nam, tranh chấp phát sinh được giải quyết tại Việt Nam, Uỷ ban trọng tài quyết định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp liên quan đến hai hợp đồng này là Pháp luật Việt Nam.

3. Về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của Bị đơn:

Điều 3 của cả hai hợp đồng đều quy định rằng : Người mua - Bị đơn, phải chuyển trả tiền cho Người bán - Nguyên đơn, bằng TTR, 100% trị giá hoá đơn trong vòng 10 ngày, kể từ khi nhận được các chứng từ vận tải gốc.

Thực tế Nguyên đơn đã chuyển đầy đủ hàng và vận đơn gốc cho Bị đơn. Ngoài ra, ngày 1 tháng 12 năm 1999 (hơn tám tháng kể từ thời hạn cuối cùng Bị đơn phải thanh toán tiền hàng) Nguyên đơn đã gửi thư nhắc nhở Bị đơn thanh toán và trong thư này, Nguyên đơn đã gia hạn thời hạn thanh toán cho Bị đơn thêm 15 ngày, tức là đến ngày 15 tháng 12 năm 1999.

Như vậy, Nguyên đơn đã thực hiện cả hai hợp đồng (điều 7) một cách có thiện chí, còn Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền hàng: nhận hàng mà không trả tiền. Do đó, Bị đơn phải có trách nhiệm trả cho Nguyên đơn toàn bộ trị giá hai lô hàng đã giao là 39.842,92 USD.

4. Về tiền hàng khuyến mãi, tiền thuế nhập khẩu hàng khuyến mãi:

Sau nhiều lần trì hoãn việc trình chứng cứ về phần hàng khuyến mãi theo giải trình của mình, Bị đơn cuối cùng chỉ cung cấp được cho Uỷ ban Trọng tài một bản phôtô giấy ký nhận tiền có chữ ký mà Bị đơn khẳng định là chữ ký của ông Trưởng văn phòng đại diện chi nhánh Công ty X tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trên bản phôtô này chỉ ghi số tiền và có một chữ ký, không nói rõ tên người ký và cũng không

67

nói rõ là nhận tiền về việc gì, theo hợp đồng hay hoá đơn nào. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài không thừa nhận giá trị pháp lý của bản phôtô chữ ký mà Bị đơn gọi là bằng chứng này và bác bỏ điểm này trong Bản giải trình của Bị đơn.

Về việc hoàn thuế nhập khẩu Bị đơn yêu cầu công ty X phải thực hiện, Uỷ ban trọng tài cho rằng, theo quy định của pháp luật Việt Nam (Luật Thuế xuất nhập khẩu ngày 26 tháng 12 năm 1991, Luật sửa đổi bổ sung Luật Thuế xuất nhập khẩu ngày 5 tháng 7 năm 1993, Nghị định số 54/CP ngày 28 tháng 8 năm 1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất nhập khẩu nói trên) thì nghĩa vụ đóng thuế xuất nhập khẩu cho hàng hoá đã nhập vào Việt Nam là nghĩa vụ của tổ chức có hàng nhập khẩu - ở đây là nghĩa vụ của Bị đơn, trừ khi Bị đơn có bằng chứng chứng minh rằng giữa các bên đã có sự thoả thuận rằng đây là hàng khuyến mãi và Nguyên đơn - người Bán hàng - đồng ý hoàn trả thuế nhập khẩu lô hàng khuyến mãi cho Bị đơn. Thực tế, Bị đơn đã không cung cấp được bằng chứng về điều này cho Uỷ ban trọng tài, do đó, Uỷ ban trọng tài đã bác lập luận của Bị đơn khi yêu cầu Nguyên đơn phải trả 101.066.059 VND là tiền thuế cho lô hàng khuyến mãi nêu trên.

5. Về việc xuất hàng tạm ứng cho Công ty Y:

Bị đơn không cung cấp được bằng chứng về yêu cầu của Công ty X bán phần hàng trị giá 287.320.000 VND cho Công ty Y. Do đó, Uỷ ban trọng tài bác bỏ lập luận liên quan đến vấn đề này của Bị đơn. Uỷ ban trọng tài cũng bác bỏ đề nghị của Bị đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài phải điều tra Công ty Y đã nhận hàng xuất tạm ứng. Uỷ ban trọng tài cho rằng vì Công ty Y không phải là một bên ký kết hai hợp đồng nêu trên, cho nên việc điều tra những gì liên quan đến Công ty này không thuộc thẩm quyền của Uỷ ban trọng tài. Muốn kiện Y, Bị đơn phải khởi kiện Y trước cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

6. Về các khoản tiền bồi thường khác do Nguyên đơn nêu ra:

- Về khoản tiền lãi phải trả trên số tiền hàng chưa thanh toán:

Yêu cầu thanh toán tiền lãi trên số tiền 39.842,92 USD là số tiền Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn là hợp pháp. Cách thức tính tiền lãi mà Nguyên đơn đưa ra căn cứ vào Điều 233 Luật Thương mại Việt Nam 1997 và các quy định của Quyết định số 39/1998/QĐ-NHNN ngày 17 tháng 1 năm 1998 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Uỷ ban trọng tài chấp nhận.

Nếu chỉ căn cứ vào hai hợp đồng nói trên thì Người mua - Bị đơn bị coi là vi phạm Hợp đồng thứ nhất kể từ khi đã hết thời hạn 10 ngày sau khi nhận được vận đơn gốc, tức là kể từ ngày 24 tháng 3 năm 1999, ngày cuối cùng Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn. Tương tự như vậy, đối với Hợp đồng thứ hai Bị đơn bị coi là vi phạm Hợp đồng kể từ ngày 7 tháng 4 năm 1999. Tuy nhiên, trong Văn thư Nguyên đơn gửi cho Bị đơn, sau khi nhắc nhở nghĩa vụ trả tiền đối với Bị đơn, Nguyên đơn đã gia hạn thời gian thanh toán cho Bị đơn thêm 15 ngày, kể từ ngày 1 tháng 12 năm 1999, tức là gia hạn

68

thanh toán đến hết ngày 15 tháng 12 năm 1999. Việc làm này thể hiện thiện chí của Nguyên đơn tự nguyện cho gia hạn thêm một thời gian hợp lý để Bị đơn thực hiện nghĩa vụ của mình, phù hợp với Điều 224 Luật Thương mại Việt Nam năm 1997. Do đó, thời hạn chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán của Bị đơn sẽ được tính chung cho cả hai hợp đồng đã được ký kết, tức là từ ngày 16 tháng 12 năm 1999.

Trên cơ sở đó, Uỷ ban trọng tài tính lại khoản tiền lãi mà Bị đơn phải trả trên số tiền hàng chưa thanh toán là (39.842,92 USD x 11,7% x 432) : 360 = 5.593,94 USD đối với cả hai Hợp đồng.

- Về số tiền 5.000 USD là các chi phí phải trả cho việc thuê tư vấn pháp lý:

Nguyên đơn không có các bằng chứng hợp lệ để chứng minh khoản thù lao cho luật sư, cũng như về khoản 400 USD chi cho phí liên lạc và 5000 USD cho phí dịch thuật mà Nguyên đơn đòi. Do đó Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu đòi các khoản chi phí này của Nguyên đơn.

- Bị đơn phải trả phí trọng tài 1.246 USD.

Bình luận và lưu ý:

Hiện nay việc ký kết hợp đồng thông qua người/tổ chức đại diện là một hiện tượng khá phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, khi xảy ra tranh chấp một bên có thể viện lý do về chủ thể hợp đồng để từ chối tư cách chủ thể khởi kiện của đối tác. Vì vậy với hình thức giao kết này, các bên cần xác định rõ trong hợp đồng các chủ thể chính của hợp đồng và đại diện được uỷ quyền để giao kết hợp đồng. Chỉ các chủ thể của hợp đồng mới có các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng và có quyền khởi kiện hay tham gia tố tụng khi có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đó. Người đại diện chỉ là người được ủy quyền giao kết hợp đồng đó theo hợp đồng uỷ quyền.

Khi đòi thanh toán tiền hàng, nếu bên bán ấn định một thời hạn thanh toán mới thì Uỷ ban trọng tài sẽ suy đoán là bên bán gia hạn thanh toán cho bên mua và như vậy bên bán sẽ không thể đòi tiền lãi suất trên số tiền hàng chưa thanh toán cho khoảng thời gian trước thời hạn thanh toán mới. Do đó, nếu không muốn gia hạn thêm thì bên bán chỉ nên nhắc nhở đối tác thanh toán tiền hàng chứ không nên ấn định một thời hạn thanh toán mới hoặc nếu có ấn định thời hạn mới (ví dụ, nhằm coi đó như một điều kiện về thời gian để tiến hành khởi kiện) thì phải đòi ngay tiền lãi suất trên số tiền hàng chưa thanh toán kể từ thời hạn thanh toán cũ đến thời hạn thanh toán mới.

Trong tố tụng trọng tài, đối với bất kỳ khiếu kiện nào liên quan đến một khoản nợ, bên yêu cầu cần có đầy đủ chứng cứ chứng minh cho khoản nợ đó. Trong vụ việc này, Bị đơn đã trình bày về phần hàng khuyến mại với trị giá lớn nhưng lại không đưa ra được bất kỳ chứng cứ hợp pháp nào làm căn cứ cho yêu cầu của mình. Tương tự như vậy, Nguyên đơn cũng không chứng minh được các phí liên quan đến hoạt động tư vấn pháp lý, dịch thuật và liên lạc mà Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn phải bồi thường. Đối với những yêu cầu như vậy, chắc chắn Uỷ ban trọng tài sẽ không có cách lựa chọn nào khác

69

là từ chối.

Trong một vụ việc, Uỷ ban trọng tài chỉ giải quyết và xem xét các vấn đề có liên quan trực tiếp đến vấn đề tranh chấp. Vì vậy, không nên đưa ra các yêu cầu đối với hoặc có liên quan đến một bên thứ ba không có quan hệ trực tiếp đến giao dịch bị tranh chấp. Có một số trường hợp Uỷ ban trọng tài buộc phải xem xét đến một giao dịch khác có liên quan trực tiếp đến giao dịch đang bị tranh chấp (Ví dụ: hợp đồng bán lại, hợp đồng mua bán sản phẩm được sản xuất từ các hàng hoá là đối tượng của giao dịch đang bị tranh chấp). Tuy nhiên, đối với vụ việc này, giao dịch thiết lập giữa Bị đơn (và có thể cả Công ty X) với Công ty Y không được coi là có mối quan hệ hữu cơ với giao dịch bị tranh chấp nên Uỷ ban trọng tài từ chối không xem xét.

70

PHÁN QUYẾT SỐ 17

TRANH CHẤP DO TỪ CHỐI NHẬN HÀNG

TRONG HỢP ĐỒNG BÁN GIẤY GÓI KẸO

Các bên:

Nguyên đơn : Người bán Singapore

Bên đơn : Người mua Việt Nam

Các vấn đề được đề cập:

− Việc từ chối nhận hàng của Bị đơn

− Số tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi bồi thường

− Việc giao hàng chậm của Nguyên đơn

− Số tiền thiệt hại do Bị đơn kiện lại đòi bồi thường

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn và Bị đơn đã ký hợp đồng ngày 29 tháng 6 năm 1994, theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn giấy gói kẹo có in nhãn và tên cụ thể theo điều kiện CIF Hải phòng: giao hàng từng đợt. Mở L/C và giao hàng đợt một: theo Annex 1. Mở L/C và giao hàng đợt hai và các đợt khác: Bị đơn sẽ thông báo cho Nguyên đơn bằng Telex hoặc Fax. Thời gian giao hàng là 20 ngày sau khi mở L/C

Thực hiện hợp đồng, hai bên đã tiến hành giao hàng, trả tiền đợt một và đợt hai. Sau hai đợt giao hàng, ngày 11 tháng 2 năm 1995 Nguyên đơn fax cho Bị đơn là đã sản xuất xong lô hàng trị giá 77.705USD và yêu cầu Bị đơn mở L/C để giao hàng tiếp. Ngày 17 tháng 5 năm 1995, Bị đơn telex đồng ý nhận lô hàng đó làm hai lần: lần đầu vào giữa tháng 6 năm 1995 còn lần hai thì sau lần đầu. Nhưng ngày 19 tháng 6 năm 1995, Bị đơn lại điện cho Nguyên đơn từ chối nhận lô hàng nêu trên với lý do là kẹo không bán được trên thị trường Hà Nội, số lượng kẹo đã sản xuất của Bị đơn rất lớn, dây chuyền sản xuất kẹo ngừng hoạt động nên không thể nhập khẩu giấy gói kẹo nữa. Vì vậy, lô hàng của Nguyên đơn vẫn nằm lại trong kho.

Ngày 31 tháng 12 năm 1996, Nguyên đơn khởi kiện đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại gồm:

− 83.185 USD trị giá lô hàng đã được sản xuất xong chờ để giao nhưng bị từ chối nhận

− 39.989 USD trị giá số nguyên liệu dự trữ trong kho nhằm thực hiện hợp đồng

− 20.000 USD chi phí chung như chi phí pháp lý, chi phí cho mất thời gian.

Sau khi nhận được đơn kiện, Bị đơn kiện lại Nguyên đơn về việc Nguyên đơn

71

giao hàng chậm đợt một và đợt hai. Thời hạn giao hàng đợt một chậm nhất ngày 22 tháng 8 năm 1994 nhưng Nguyên đơn đã không thực hiện đúng. Lô hàng cuối cùng của đợt một đến Hải phòng ngày 9 tháng 11 năm 1994, hơn nữa, hàng bị giao thiếu là 5.820 USD. Nguyên đơn giải thích rằng theo thoả thuận sau khi mở L/C mới cho sản xuất hàng nên xin cáo lỗi về sự chậm trễ và giao hàng thiếu.

Thời hạn giao hàng đợt hai chậm nhất ngày 25 tháng 2 năm 1995 nhưng mãi đến ngày 7 tháng 4 năm 1995 hàng mới về đến Hải Phòng, đồng thời hàng bị giao thiếu trị giá 11.641 USD và giao không đồng bộ. Bị đơn đòi Nguyên đơn bồi thường do hàng giao chậm gây thiệt hại cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cụ thể là:

− Đợt một: 398.862. 000 VND theo Biên bản xác định tổn thất được lập giữa Bị đơn và Xí nghiệp sản xuất kẹo trực thuộc Bị đơn.

− Đợt hai: 502.585.000 VND theo Biên bản xác định tổn thất được lập giữa Bị đơn và Xí nghiệp sản xuất kẹo.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về việc từ chối nhận hàng của Bị đơn:

Để thực hiện hợp đồng mua bán, thực tế hai bên đã ký Annex 1 và Annex 2. Trên cơ sở các Annex này hai bên đã mở L/C và giao hàng hai đợt. Như vậy, các Annex do hai bên ký là căn cứ để các bên mở L/C và giao hàng từng đợt. Vì thế, để tiến hành mở L/C và giao hàng đợt ba, hai bên phải ký kết Annex 3. Tuy hai bên chưa ký Annex 3, nhưng bằng fax ngày 11 tháng 4 năm 1995, Nguyên đơn đã đề nghị giao lô hàng đợt ba với trị giá là 77.705 USD, và bằng telex ngày 17 tháng 5 năm 1995, Bị đơn đã đồng ý mua lô hàng này và nhận hàng giao hai lần. Như vậy, có thể kết luận là giữa các bên đã có thoả thuận mua lô hàng thứ ba. Từ đó, Bị đơn phải có nghĩa vụ mở L/C và nhận lô hàng này.

Việc Bị đơn từ chối nhận lô hàng đợt ba bằng telex ngày 19 tháng 6 năm 1995 là vi phạm thoả thuận mua bán đợt ba giữa hai bên. Lý do mà Bị đơn nêu ra để từ chối nhận hàng không được Uỷ ban trọng tài chấp nhận là căn cứ miễn trách nhiệm bởi vì kẹo không bán được trên thị trường Hà Nội, số lượng kẹo do Bị đơn sản xuất ra còn rất lớn, dây chuyền sản xuất kẹo ngừng hoạt động không phải là trường hợp bất khả kháng và cũng không phải do lỗi của Nguyên đơn gây nên. Từ đó, Bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh cho Nguyên đơn.

2. Về số tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi

- Về 83.185 USD là giá trị lô hàng bị từ chối nhận:

Về nguyên tắc, khi từ chối nhận hàng gây thiệt hại cho Nguyên đơn thì Nguyên đơn có quyền đòi bồi thường. Muốn được bồi thường thiệt hại thì Nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại và xuất trình các chứng từ làm bằng chứng. Trong trường hợp này, Nguyên đơn không chứng minh thiệt hại thực tế phát sinh, không cung cấp các chứng từ

72

làm bằng chứng cho thiệt hại mà coi trị giá lô hàng bị từ chối nhận là thiệt hại để đòi Bị đơn bồi thường.

Thông thường khi người mua từ chối nhận hàng, người bán có quyền và phải bán lô hàng đó cho người khác, nếu giá cao hơn giá hợp đồng ký với người mua thì người bán được hưởng, nếu giá thấp hơn thì có quyền đòi người mua bồi thường chênh lệch cộng với các chi phát sinh như chi phí lưu kho, chi phí liên quan đến bán lại lô hàng chứ không có quyền đòi bồi thường toàn bộ trị giá lô hàng. Nhưng trong trường hợp này giấy gói kẹo được sản xuất ra đã mang nhãn, tên cụ thể nên Nguyên đơn không thể bán cho ai khác, bởi không ai có thể sử dụng được, trừ Bị đơn. Vì thế, Nguyên đơn có quyền đòi Bị đơn trả tiền toàn bộ trị giá lô hàng với điều kiện là Nguyên đơn phải giao lô hàng đó cho Bị đơn. Vì lô hàng còn đang nằm trong kho của Nguyên đơn nên Uỷ ban trọng tài quyết định buộc Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn trị giá lô hàng là 77.705 USD chứ không phải là 83.185 USD như Nguyên đơn đòi, đồng thời buộc Nguyên đơn phải giao lô hàng ứng với 77.705 USD theo điều kiện CIF Hải Phòng cho Bị đơn. trừ khi Bị đơn không muốn nhận lô hàng này nữa.

- Về 39.989 USD là trị giá số nguyên liệu dự trữ trong kho:

Theo bản fax ngày 15 tháng 9 năm 1996 của Nguyên đơn gửi cho Bị đơn thì số nguyên liệu có trị giá 39.989 USD đã được Nguyên đơn dùng vào sản xuất ra thành phẩm có trị giá là 77.705 USD để giao cho Nguyên đơn nhưng chưa giao được. Như vậy, trị giá của số nguyên liệu này đã nằm trong trị giá của lô hàng bị từ chối nhận, do đó Nguyên đơn không có căn cứ hợp lý để đòi bồi thường số tiền này. Từ đó, Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu đòi bồi thường 39.989 USD của Nguyên đơn.

- Về chi phí chung 20.000 USD:

Chi phí pháp lý cho vụ kiện như chi phí tư vấn pháp lý, chi phí thuê luật sư, Nguyên đơn có quyền đòi Bị đơn bồi thường nhưng Nguyên đơn đã không xuất trình các chứng từ chứng minh, cũng không chỉ ra được chi phí cụ thể là bao nhiêu trong số 20.000 USD.

Chi phí do mất thời gian là chi phí gì, gồm bao nhiêu, Nguyên đơn không chứng minh được trong hồ sơ kiện cũng như tại phiên xét xử.

Từ hai lý do nêu trên, Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu đòi bồi thường chi phí chung 20.000 USD của Nguyên đơn.

3. Về việc giao hàng chậm của Nguyên đơn:

Theo L/C mở cho Annex 1, Nguyên đơn phải giao hàng chậm nhất ngày 22 tháng 8 năm 1994. Thực tế theo các vận đơn, Nguyên đơn đã giao hàng vào các ngày 9 tháng 9, ngày 16 tháng 9, ngày 3 tháng 10 và ngày 18 tháng 10 năm 1994. Như vậy, Nguyên đơn đã giao chậm cả lô hàng theo Annex (giao chậm đợt một), hơn nữa còn giao thiếu hàng trị giá 5.820 USD. Tại phiên họp xét xử, Nguyên đơn trình bày nguyên nhân giao hàng chậm là do Bị đơn đề nghị tăng lượng hàng. Uỷ ban trọng tài không chấp nhận

73

nguyên nhân này là căn cứ miễn trách cho việc giao hàng chậm, bởi vì Nguyên đơn không có văn bản đồng ý tăng số lượng và hai bên cũng không sửa đổi số lượng của Annex 1. Vì vậy, Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc giao hàng chậm gây ra.

Theo qui định của Annex 2 và L/C, Nguyên đơn phải giao hàng chậm nhất ngày 25 tháng 2 năm 1995. Thực tế Nguyên đơn giao lô đầu vào ngày 9 tháng 2 năm 1995 trị giá 20.628 USD, lô thứ hai vào ngày 19 tháng 3 năm 1995 trị giá 8.395 USD. Như vậy, Nguyên đơn đã giao chậm lô thứ hai (thuộc đợt hai) là 24 ngày, giao thiếu hàng trị giá 11.641 USD. Giao chậm và giao thiếu hàng nhưng không chứng minh được là đã có căn cứ miễn trách thì Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại phát sinh.

4. Về số tiền thiệt hại do Bị đơn đòi Nguyên đơn bồi thường:

− Về 398.862.000 VND do giao chậm và giao thiếu hàng đợt một:

Căn cứ vào các tài liệu, kế hoạch sản xuất, hợp đồng bán kẹo cho khách hàng nội địa, Uỷ ban trọng tài xác định được rằng việc giao chậm và giao hàng thiếu của Nguyên đơn chỉ làm cho Bị đơn ngừng sản xuất trong 6 ngày, không sản xuất được 11.720 kg kẹo để giao đủ cho khách hàng nội địa. Từ đó, Uỷ ban trọng tài tính số tiền thiệt hại thực tế, hợp lý mà Bị đơn đang phải chịu là 57.380.200 VND và quyết định buộc Nguyên đơn phải bồi thường số tiền này cho Bị đơn.

− Về 502.585.000 VND do giao chậm và giao thiếu hàng đợt hai:

Căn cứ vào các tài liệu, kế hoạch sản xuất, hợp đồng bán kẹo, các chứng từ do các bên xuất trình, Uỷ ban trọng tài xác định rằng việc giao hàng chậm và giao thiếu hàng của Nguyên đơn làm cho Bị đơn không thực hiện được kế hoạch sản xuất và tiêu thụ trong thời gian 30 ngày, không sản xuất được 47.620 kg kẹo để giao cho khách hàng nội địa. Từ đó, Uỷ ban trọng tài tính được số tiền thiệt hại thực tế mà Bị đơn phải chịu là 227.197.000 VND. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định buộc Nguyên đơn phải bồi thường cho Bị đơn 227.197.000 VND và bác các yêu cầu còn lại của Bị đơn.

Bình luận và lưu ý:

Từ vụ kiện nêu trên có thể rút ra các kết luận sau đây:

Khi vi phạm hợp đồng, bên vi phạm luôn nêu ra các lý do để thoái thác trách nhiệm, kể cả lý do chủ quan và khách quan. Do vậy, bên bị vi phạm phải căn cứ vào hợp đồng và luật áp dụng cho hợp đồng để bác những lý do đòi miễn trách không xác đáng. Chỉ khi nào việc vi phạm hợp đồng do chính những căn cứ miễn trách được qui định trong hợp đồng hoặc trong luật gây nên thì bên vi phạm mới được miễn trách nhiệm.

Khi đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại thì Nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại, phải cung cấp tài liệu, chứng từ chứng minh cho số thiệt hại đó. Những thiệt hại đòi bồi thuờng phải có thực và xác định được. Nếu không có chứng từ làm bằng chứng cho thiệt hại thì yêu cầu đòi bồi thường sẽ bị bác. Trong vụ kiện này, Nguyên đơn đòi bồi thường

74

20.000 USD chi phí chung nhưng không có căn cứ, không có chứng từ chứng minh nên đã bị Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu. Mặt khác, chỉ đòi bồi thường những thiệt hại thực tế hợp lý, không nên kê khai những thiệt hại ước lượng, không thực tế, bởi vì Bị đơn cũng như Uỷ ban trọng tài luôn luôn không thừa nhận những thiệt hại gián tiếp, không có thực, không hợp lý. Trong trường hợp nêu trên, Bị đơn đòi bồi thường 901.447.000 VND nhưng chỉ được Uỷ ban trọng tài chấp nhận 284.577.200 VND. Như vậy, Bị đơn đòi bồi thường số tiền quá lớn, không thực tế và không hợp lý, kết quả là không được đáp ứng hết mà còn phải tự chịu phần phí trọng tài tương ứng với số tiền không được đáp ứng.

75

PHÁN QUYẾT SỐ 18

TRANH CHẤP DO TỪ CHỐI THANH TOÁN

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN CÀ PHÊ

Các bên:

Nguyên đơn : Người bán Singapore

Bị đơn : Người mua Việt nam

Các vấn đề được đề cập:

− Nghĩa vụ trả tiền hàng của Bị đơn

− Số tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi bồi thường

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 10 tháng 6 năm 1997 giữa Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng 9623/INUT.97, theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn 9.937 Kg cà phê và bột kem theo điều kiện CIF HCMC, thanh toán bằng TTR trong vòng bảy ngày sau khi người mua nhận được chứng từ vận tải gốc, người hưởng lợi là người bán (Nguyên đơn).

Thực hiện hợp đồng, Nguyên đơn đã giao hàng cho Bị đơn ngày 21 tháng 6 năm 1997. Sau khi giao hàng, Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn Vận đơn gốc và Hoá đơn thương mại số 059/97 đề ngày 21 tháng 6 năm 1997 đòi tiền hàng, nhưng cuối cùng Nguyên đơn vẫn không nhận được tiền hàng. Việc Bị đơn không thanh toán tiền hàng cho Nguyên đơn làm cho Nguyên đơn phải chịu nhiều thiệt hại.

Qua nhiều lần đòi mà không được trả tiền, Nguyên đơn đã khởi kiện Bị đơn ra trọng tài đòi Bị đơn phải trả các khoản tiền sau:

− Tiền hàng

− Tiền lãi của tiền hàng

− Phí tư vấn pháp lý, phí dịch thuật, phí liên lạc điện thoại và fax.

Trong văn thư phản bác đơn kiện Bị đơn trình bày như sau:

Ngày 10 tháng 6 năm 1997 Bị đơn đã ký Hợp đồng số 9623/INUT.97 với Nguyên đơn để nhập khẩu uỷ thác cho Cửa hàng A. Theo Biên bản thoả thuận số 9623/INUT.97 ngày 10 tháng 6 năm 1997 giữa ba bên (Bị đơn, Nguyên đơn và Cửa hàng A) thì trách nhiệm thanh toán tiền hàng cho Nguyên đơn là Cửa hàng A, cho nên Nguyên đơn không có quyền kiện Bị đơn trả tiền hàng.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về nghĩa vụ trả tiền của Bị đơn:

76

Theo Hợp đồng số 9623/INUT.97 ngày 10/6/1997, việc thanh toán tiền hàng được thực hiện bằng TTR trong vòng 7 ngày kể từ ngày Bị đơn (người mua) nhận được chứng từ vận tải gốc, người hưởng lợi là Nguyên đơn. Song cho đến ngày Uỷ ban trọng tài xét xử vụ kiện Nguyên đơn vẫn chưa nhận được tiền hàng, mặc dù Bị đơn đã nhận được chứng từ vận tải gốc và hoá đơn thương mại từ cuối tháng 6 năm 1997. Rõ ràng là Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền hàng.

Uỷ ban trọng tài không thừa nhận Biên bản thoả thuận ba bên số 9623/INUT.97 ngày 10 tháng 6 năm 1997 là cơ sở để Bị đơn từ chối nghĩa vụ thanh toán theo Hợp đồng số 9623/INUT.97 ngày 10 tháng 6 năm 1997, bởi vì:

Thứ nhất, trong Biên bản thoả thuận ba bên không có điểm nào qui định rằng Biên bản thoả thuận này là một bộ phận không thể tách rời của Hợp đồng số 9623/INUT.97. Trong Hợp đồng số 9623/INUT.97 cũng không có điều nào qui định rằng Biên bản thoả thuận ba bên này được bổ sung cho Hợp đồng và là một bộ phận không thể thiếu của Hợp đồng.

Thứ hai, việc qui định rằng Bị đơn chỉ vì và nhân danh Cửa hàng A (ở mục 1 Biên bản thoả thuận ba bên) tự bản thân nó đã mâu thuẫn với bản chất của một hợp đồng uỷ thác. Điều 99 Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 qui định: “uỷ thác mua bán hàng là hành vi thương mại, theo đó, bên được uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận phí uỷ thác”. Như vậy, bản chất của hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá là bên nhận uỷ thác, để được hưởng phí uỷ thác, thì phải nhân danh bản thân mình thực hiện các công việc đã được uỷ thác với người thứ ba, chứ không phải nhân danh người uỷ thác. Với lập luận của Bị đơn, rõ ràng, bằng Biên bản thoả thuận ba bên ký ngày 10 tháng 6 năm 1997, Bị đơn, một mặt muốn nhận phí uỷ thác, nhưng mặt khác lại không muốn nhận trách nhiệm về mình qua việc nhân danh mình được thực hiện hợp đồng với người thứ ba (tức là với Nguyên đơn trong Hợp đồng mua bán số 9623/INUT.97).

Thứ ba, Điều 4 Hợp đồng số 9623/INUT.97 qui định việc thanh toán được thực hiện bằng phương thức TTR, chuyển trả cho người hưởng lợi là Nguyên đơn, có tài khoản ở Ngân hàng Hongkong và Shanghai - Chi nhánh tại Singapore. Biên bản thoả thuận ba bên lại qui định Cửa hàng A chịu trách nhiệm trả tiền cho Nguyên đơn - đối tác ở Singapore. Điều này không thể thực hiện được, vì cửa hàng A không được làm việc đó theo quy định của pháp luật.

Từ đó, Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải trả toàn bộ tiền hàng cho Nguyên đơn.

2. Về các khoản tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi:

Vi phạm nghĩa vụ trả tiền hàng gây thiệt hại cho Nguyên đơn thì Bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường.

− Về tiền lãi suất của tiền hàng: Uỷ ban trọng tài chấp nhận yêu cầu đòi tiền lãi

77

suất của Nguyên đơn. Tuy nhiên, mốc thời gian tính lãi suất Uỷ ban trọng tài chỉ thừa nhận từ ngày 16 tháng 12 năm 1999, bởi vì ngày 1 tháng 12 năm 1999 Nguyên đơn gửi cho Bị đơn thư yêu cầu thanh toán, trong đó yêu cầu Bị đơn phải thanh toán tiền hàng cho Nguyên đơn trong vòng 15 ngày kể từ ngày gửi thư yêu cầu, thời hạn trả chậm nhất là ngày 15 tháng 12 năm 1999, vì vậy Nguyên đơn được coi là đã tự nguyện gia hạn thời hạn trả tiền hàng đến ngày 15 tháng 12 năm 1999.

− Về phí tư vấn pháp lý, phí dịch thuật, phí liên lạc điện thoại và fax: Uỷ ban trọng tài bác các phí này, bởi vì Nguyên đơn chỉ liệt kê nhưng không cung cấp được các bằng chứng hợp lệ chứng minh cho các khoản phí.

Bình luận và lưu ý:

Bị đơn là người mua có nghĩa vụ trả tiền hàng cho Nguyên đơn là người bán. Trong vụ kiện này Bị đơn không trực tiếp thực hiện nghĩa vụ trả tiền mà lại chỉ định người thứ ba (Cửa hàng A) thay mình trả tiền cho Nguyên đơn và đã được Nguyên đơn đồng ý. Bằng chứng là Biên bản thoả thuận ba bên số 9623/INUT.97 ngày 10 tháng 6 năm 1997. Như vậy, thực chất là Bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả tiền thông qua người thứ ba, và do đó Bị đơn vẫn phải chịu trách nhiệm về việc làm của người thứ ba. Nếu người thứ ba thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ trả tiền thì Bị đơn hết trách nhiệm, ngược lại nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện sai nghĩa vụ trả tiền thì Bị đơn vẫn phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn. Do vậy, Nguyên đơn kiện Bị đơn đòi trả tiền hàng khi người thứ ba (Cửa hàng A) không trả là hoàn toàn đúng. Bị đơn không có quyền dựa vào Biên bản thoả thuận ba bên về việc qui định người thứ ba (Cửa hàng A) có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả tiền để thoát trách nhiệm trước Nguyên đơn. Muốn không chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn thì Bị đơn phải có văn bản chuyển nghĩa vụ trả tiền (thế nghĩa vụ) từ Bị đơn sang người thứ ba, có sự đồng ý của Nguyên đơn.

Khi đòi thực hiện nghĩa vụ trả tiền (khi đã hết thời hạn mà chưa trả) thì không nên gia hạn, bởi vì làm như thế thì toà án, Uỷ ban trọng tài có thể suy đoán là chủ nợ gia hạn thời hạn trả tiền và do đó không cho hưởng tiền lãi suất trong khoảng thời gian được coi là gia hạn đó. Hoặc là, vẫn có thể đưa ra mốc thời gian cho việc trả tiền sau khi đã hết thời hạn trả, nhưng đòi ngay thêm tiền lãi suất kể từ ngày hết thời hạn trả đó.

Khi đòi tiền bồi thường thiệt hại là các khoản chi phí và để chắc chắn được Uỷ ban trọng tài chấp nhận, thì phải cung cấp đầy đủ chứng từ hợp lệ chứng minh cho các khoản chi phí đó. Nếu không cung cấp bằng chứng chứng minh thiệt hại thì Uỷ ban trọng tài có thể bác yêu cầu, và như thế quyền lợi của mình không được bảo vệ.

78

PHÁN QUYẾT SỐ 19

TRANH CHẤP DO KHÔNG GIAO HÀNG

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN XI MĂNG

Các bên:

Nguyên đơn : Người mua Việt Nam

Bị đơn : Người bán Ấn Độ

Các vấn đề được đề cập:

− Việc không giao hàng của Bị đơn và vấn đề bất khả kháng

− Các khoản thiệt hại do Nguyên đơn yêu cầu

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn ký hợp đồng số 09/95 ngày 20 tháng 9 năm 1995 mua của Bị đơn 20.000 MT ± 4% Xi măng Kumgang với giá 55USD/MT CNF.FO cảng Nha Trang, giao hàng vào tháng 12 năm 1995, thanh toán bằng L/C không huỷ ngang, trả tiền ngay, L/C phải được mở trước ngày 30 tháng 9 năm 1995.

Hợp đồng qui định “Nếu bất kỳ bên nào không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng vì các trường hợp bất khả kháng như bão, động đất, lũ lụt, hoả hoạn, núi lửa phun, chiến tranh, đình công, bạo động của quần chúng, lệnh cấm của chính phủ, nhà máy sản xuất bị đóng cửa thì được miễn trách” (Điều 14).

Theo Điều 15 Hợp đồng, “Nếu chậm giao hàng do những nguyên nhân khác với Điều 14 thì 10 ngày chậm đầu tiên không phải nộp phạt. Sau đó phạt 0,7% trị giá lô hàng cho mỗi tuần chậm trễ cho đến khi đạt tới tối đa là 3% trị giá lô hàng giao chậm.”

Trên thực tế, Nguyên đơn đã mở L/C vào ngày 25 tháng 9 năm 1995 cho Bị đơn hưởng lợi.

Ngày 29 tháng 9 năm 1995 Nguyên đơn đã ký hợp đồng bán lại lô xi măng cho người mua nội địa.

Cuối tháng 11 và cả tháng 12 năm 1995 Nguyên đơn nhiều lần giục Bị đơn giao hàng, Bị đơn vài lần điện cam kết sẽ giao hàng nhưng rồi vẫn chưa giao.

Ngày 20 tháng 12 năm 1995 Nguyên đơn nhận được từ Bị đơn giấy chứng nhận bất khả kháng do bộ phận thương mại thuộc Đại sứ quán của nước người cung cấp đóng tại thủ đô Ấn Độ cấp ngày 25 tháng 11 năm 1995 cho Bị đơn theo Hợp đồng mua bán số 02/95 được ký kết giữa Bị đơn và người cung cấp. Hợp đồng số 02/95 này được ký ngày 4 tháng 7 năm 1995 với số lượng 60.000 MT xi măng Kumgang.

Nguyên đơn không thừa nhận Bị đơn gặp bất khả kháng, tiếp tục yêu cầu Bị đơn

79

giao hàng, nhưng đến ngày 15 tháng 6 năm 1996 Bị đơn vẫn không giao hàng.

Ngày 20 tháng 6 năm 1996 Bị đơn gửi cho Nguyên đơn hai bản photo giấy chứng nhận bất khả kháng do bộ phận thương mại thuộc Đại sứ quán của nước người cung cấp đóng tại nước sở tại cấp ngày 21 tháng 1 năm 1996 cho Bị đơn và một bản photo giấy chứng nhận bất khả kháng của Uỷ ban xúc tiến thương mại quốc tế của nước người cung cấp đề ngày 5 tháng 5 năm 1996. Cả ba giấy chứng nhận này do người cung cấp gửi cho Bị đơn, Bị đơn photo gửi cho Nguyên đơn. Trong các bản photo giấy chứng nhận bất khả kháng đó đều ghi: ở nước người cung cấp bị mưa lớn và lũ lụt, đường sá bị sụt lún nặng, không chở nguyên liệu vào nhà máy được, nhà máy bị hư hỏng nặng phải ngừng sản xuất. Hiện tượng này được coi là bất khả kháng. Nhà máy đang cố gắng khắc phục hậu quả để trở lại hoạt động bình thường và sẽ thông báo lịch giao hàng cụ thể.

Nguyên đơn không chấp nhận lý do mà Bị đơn đưa ra là bất khả kháng đối với Bị đơn và đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại do không giao hàng. Sau nhiều lần đòi mà không được bồi thường, Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài đòi bồi thường 199.100 USD, gồm các khoản:

− 70.000 USD tiền phạt đã phải trả cho người mua nội địa.

− 56.700 USD lãi suất ngân hàng tiền ký quỹ mở L/C từ ngày 20 tháng 9 năm 1995 đến ngày 20 tháng 6 năm 1996 (300.000 USD x 2,1%/tháng x 9 tháng).

− Phạt do chậm giao hàng theo Điều 15 Hợp đồng là 1.080.000 USD x 3% = 32.400 USD.

− Lãi không thu được 2 USD/1MT là 2 USD x 20.000 MT = 40.000 USD.

Bị đơn biện luận rằng Bị đơn ký hợp đồng mua xi măng của nhà cung cấp thuộc nước thứ ba nhưng vì nhà cung cấp gặp bất khả kháng (nhà máy ngừng sản xuất) không giao được hàng cho Bị đơn nên Bị đơn không giao được hàng cho Nguyên đơn. Do đó Bị đơn cũng được coi là gặp bất khả kháng và được miễn trách. Giấy chứng nhận bất khả kháng do Đại sứ quán và Uỷ ban xúc tiến thương mại quốc tế của nước người cung cấp được coi là bằng chứng về bất khả kháng của Bị đơn.

Tại phiên họp xét xử Bị đơn không xuất trình được bằng chứng về thời gian, địa điểm xảy ra lũ lụt ở nước người cung cấp, trong khi đó Nguyên đơn xuất trình được bằng chứng chứng minh địa điểm xảy ra lũ lụt, thời gian xảy ra lũ lụt là tháng 8 năm 1995. Sau khi lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp, Nguyên đơn đã điện hỏi Bị đơn là có xi măng không, nếu có thì mới ký hợp đồng, nếu không thì không ký. Bị đơn thừa nhận là đã điện hỏi người cung cấp về xi măng, người cung cấp điện trả lời là mặc dù đang gặp nhiều khó khăn do lũ lụt nhưng sẽ có xi măng giao và do đó Bị đơn đã ký Hợp đồng số 09/95 ngày 20 tháng 9 năm 1995 với Nguyên đơn. Tuy vậy, Bị đơn vẫn yêu cầu được miễn trách vì:

− Người cung cấp gặp bất khả kháng thật sự cho nên Bị đơn cũng được coi là gặp bất khả kháng, bởi Điều 14 Hợp đồng quy định nhà máy sản xuất bị đóng cửa cũng

80

là một trường hợp bất khả kháng.

− Không phải là Bị đơn không giao hàng mà là chưa giao hàng vì người cung cấp còn đang khắc phục khó khăn để có hàng giao.

Phán quyết của trọng tài:

1. Việc Bị đơn không giao hàng và vấn đề bất khả kháng do Bị đơn nêu ra:

Căn cứ vào bằng chứng của vụ kiện, vào ý kiến trình bày của hai bên tại phiên họp xét xử, Uỷ ban trọng tài phân tích như sau:

Thứ nhất, Bị đơn không giao hàng là vi phạm hợp đồng do hai bên đã ký kết.

Thứ hai, lý do mà Bị đơn nêu ra không được công nhận là bất khả kháng bởi vì:

− Lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp vào tháng 8 năm 1995 là bất khả kháng đối với người cung cấp hàng cho Bị đơn theo Hợp đồng 02/95, vì Hợp đồng này ký ngày 4 tháng 7 năm 1995 mà lũ lụt xảy ra vào tháng 8 năm 1995 làm cho người cung cấp không giao được hàng cho Bị đơn. Bị đơn không trực tiếp gặp bất khả kháng vì lũ lụt không xảy ra ở nước của Bị đơn.

− Bị đơn (Công ty Ấn Độ) đã biết lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp (nước thứ ba) nhưng không tính toán kỹ, tin vào sự thông báo không có bảo đảm của người cung cấp, vẫn ký hợp đồng bán lại lô hàng cho Nguyên đơn (Công ty Việt Nam) vào ngày 20 tháng 9 năm 1995, thì phải có nghĩa vụ giao hàng theo đúng hợp đồng. Không giao được hàng cho Nguyên đơn, Bị đơn phải tự chịu trách nhiệm. Bị đơn biết lũ lụt xảy ra và hậu quả của nó trước khi ký hợp đồng thì rõ ràng lũ lụt này không phải là bất khả kháng, căn cứ miễn trách nhiệm cho Bị đơn về việc không giao hàng, bởi vì bất khả kháng phải là hiện tượng không lường trước được (không dự kiến được) vào lúc ký hợp đồng và không thể khắc phục được khi nó xảy ra.

− Lập luận của Bị đơn về việc "nhà máy sản xuất bị đóng cửa” là một trường hợp bất khả kháng là không có căn cứ, không hợp lý, bởi lẽ:

+ Nhà máy sản xuất bị đóng cửa là hậu quả của lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp, mà lũ lụt đó không được công nhận là bất khả kháng, căn cứ miễn trách cho Bị đơn như đã phân tích.

+ Bị đơn đã biết nhà máy sản xuất bị đóng cửa trước khi ký hợp đồng bán hàng cho Nguyên đơn, cho nên việc nhà máy bị đóng cửa trong trường hợp này không được thừa nhận là bất khả kháng đối với Bị đơn.

Ba là, ý kiến của Bị đơn về việc Bị đơn chưa giao hàng chứ không phải là không giao hàng là không có căn cứ hợp lý, bởi vì thời hạn giao hàng là tháng 12 năm 1995, mà đến 15 tháng 6 năm 1996 hàng vẫn chưa được giao thì hoàn toàn có thể kết luận là Bị đơn không giao hàng. Lý do là không thể bắt Nguyên đơn (người mua) chờ đợi việc giao hàng quá lâu sau khi kết thúc thời hạn giao hàng. Nếu làm như thế thì Nguyên đơn

81

không đạt được mục đích của hợp đồng và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bình thường của Nguyên đơn. Mặt khác, sau khi kết thúc thời hạn giao hàng mà hàng vẫn chưa được giao thì người mua chỉ chờ đợi hàng trong một thời gian hợp lý chứ không thể chờ đợi vô thời hạn được, trừ khi Hợp đồng có quy định khác.

Từ sự phân tích đó, Uỷ ban trọng tài kết luận Bị đơn phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn về việc không giao hàng.

2. Về 199.100 USD là số tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi:

− Về tiền phạt đã phải trả cho người mua nội địa 70.000 USD:

Vì Hợp đồng không quy định nộp phạt nên Bị đơn phải bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc không giao hàng. Vì Bị đơn không giao hàng nên Nguyên đơn không có hàng giao cho người mua nội địa, do vậy tiền phạt phải trả cho người mua nội địa được coi là khoản thiệt hại phát sinh cho Nguyên đơn, Nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ bằng chứng về khoản thiệt hại này, do đó Uỷ ban trọng tài thừa nhận khoản tiền 70.000 USD.

− Về 56.700 USD là tiền lãi ngân hàngtrên số tiền ký quỹ mở L/C:

Tiền lãi ngân hàng trên số tiền ký quỹ mở L/C cũng được coi là một khoản thiệt hại của Nguyên đơn, vì nếu không ký quỹ số tiền này để mở L/C thì Nguyên đơn có thể gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi. Nguyên đơn ký quỹ mở L/C để nhận được hàng từ Bị đơn, nhưng Bị đơn không giao hàng, do đó Bị đơn phải bồi thường tiền lãi 56.700 USD đó cho Nguyên đơn.

− Về 32.400 USD tiền phạt do chậm giao hàng:

Nguyên đơn không có quyền đòi Bị đơn khoản tiền phạt bởi vì Điều 15 của Hợp đồng quy định tiền do chậm giao hàng, còn thực tế Bị đơn không giao hàng, chứ không phải là chậm giao hàng. Mặt khác, Nguyên đơn đã đòi bồi thường thiệt hại do Bị đơn không giao hàng thì không được đòi tiền phạt do chậm giao hàng.

− Lãi không thu được:

Nguyên đơn đòi Bị đơn bồi thường tiền lãi 40.000 USD nhưng không cung cấp đầy đủ bằng chứng để chứng minh mức lãi nên Uỷ ban trọng tài không thừa nhận. Mặt khác, tiền lãi trên số tiền ký quỹ để mở L/C mà Nguyên đơn đã đòi được coi là phần lợi mất hưởng do không giao hàng.

Kết luận, Uỷ ban trọng tài chỉ chấp nhận cho Nguyên đơn 126.000 USD, bao gồm tiền phạt mà Nguyên đơn đã phải trả cho người mua nội địa và tiền lãi trên số tiền ký quỹ mở L/C, đồng thời bác bỏ các yêu cầu khác của Nguyên đơn.

Bình luận và lưu ý:

Thứ nhất, không nên tin vào thông báo không có bảo đảm của khách hàng để ký kết hợp đồng, cần phải nhận định, phân tích, tính toán kỹ các hiện tượng xảy ra trước khi ký hợp đồng.

82

Thứ hai, các hiện tượng tự nhiên như bão, động đất, lũ lụt, v..v.. là bất khả kháng, căn cứ miễn trách cho người này nhưng chưa chắc là bất khả kháng, căn cứ miễn trách cho người khác. Muốn được thừa nhận là bất khả kháng để miễn trách thì phải chứng minh hiện tượng tự nhiên đó là hiện tượng mà các bên không lường trước được vào lúc ký hợp đồng và bên gặp phải đã không thể khắc phục được. Đồng thời phải chứng minh hiện tượng tự nhiên đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vi phạm hợp đồng.

Thứ ba, cung cấp giấy chứng nhận bất khả kháng lần đầu phải là bản chính, không được cung cấp bản photo. Nội dung giấy chứng nhận bất khả kháng phải bao gồm các mục như tên hiện tượng bất khả kháng, thời gian phát sinh và tồn tại, địa điểm phát sinh, hậu quả và tác động ảnh hưởng của hiện tượng này đối với việc thực hiện hợp đồng. Dù cơ quan cấp giấy chứng nhận bất khả kháng là cơ quan có thẩm quyền nhưng nội dung giấy chứng nhận bất khả kháng không ghi thời gian, địa điểm xảy ra thì hiện tượng ghi trong giấy không được thừa nhận là bất khả kháng để được miễn trách.

Thứ tư, khi đi kiện phải nghiên cứu kỹ hợp đồng, luật áp dụng cho hợp đồng, chỉ đòi tiền phạt, tiền thiệt hại áp dụng cho từng trường hợp vi phạm cụ thể, không được đòi Bị đơn chịu trách nhiệm đối với những căn cứ mà Bị đơn không vi phạm.

Thứ năm, muốn đòi bồi thường lãi không thu được (lợi mất hưởng) thì phải cung cấp đầy đủ bằng chứng xác thực để chứng minh, bởi vì nếu thiếu bằng chứng thì sẽ bị toà án hoặc Uỷ ban trọng tài bác.

83

PHÁN QUYẾT SỐ 20

TRANH CHẤP DO GIAO HÀNG CÓ KHUYẾT TẬT

Các bên:

Nguyên đơn : Người mua Việt Nam

Bị đơn : Người bán Hàn Quốc

Các vấn đề được đề cập:

− Hàng hoá được giao có khuyết tật không?

− Thay thế hàng hay trả lại hàng, đòi lại tiền

− Tính toán thiệt hại

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 3 tháng 8 năm 1997 Nguyên đơn và Bị đơn đã ký hợp đồng mua bán quốc tế số 0014/97, theo đó Nguyên đơn mua của Bị đơn hai máy thêu trị giá 136.000 USD theo điều kiện CIF cảng Thành phố Hồ Chí Minh, bảo hành 12 tháng sau khi hoàn thành lắp đặt.

Thực hiện hợp đồng, ngày 16 tháng 8 năm 1997 Bị đơn đã giao hai máy thêu cho Nguyên đơn, máy đã được lắp đặt và đưa vào sử dụng. Trong quá trình sử dụng, máy có nhiều hỏng hóc, Bị đơn đã cử chuyên gia sang Việt Nam sửa chữa nhưng không thành công. Bị đơn cam kết sẽ sửa chữa xong vào ngày 4 tháng 4 năm 1998 và sẽ bồi thường 29.202 USD cho 40 ngày máy ngừng hoạt động nhưng sau đó Bị đơn chỉ bồi thường 4.302 USD và không tiếp tục sửa chữa máy nữa.

Nguyên đơn đã trưng cầu SGS Việt Nam giám định tình trạng hai máy thêu. Biên bản giám định ngày 1 tháng 9 năm 1998 của SGS ghi "hai máy không thể sản xuất ra sản phẩm theo yêu cầu của Nguyên đơn".

Do máy ngừng hoạt động, Nguyên đơn đòi Bị đơn đổi hai máy mới và bồi thường thiệt hại phát sinh cho Nguyên đơn.

Trong Văn thư gửi Nguyên đơn ngày 12 tháng 2 năm 1999, Bị đơn cho rằng:

− Nguyên đơn đã đơn phương mời SGS Việt Nam làm giám định nên kết quả không ràng buộc Bị đơn.

− Ngày 15 tháng 10 năm 1998 nhân viên của Bị đơn đến thăm phân xưởng của Nguyên đơn thì thấy một trong hai máy vẫn hoạt động.

Vì vậy, Bị đơn đề nghị cho trưng cầu giám định bởi một công ty giám định quốc tế, đồng thời Bị đơn chấp nhận đề nghị của Nguyên đơn về việc đổi hai máy.

Ngày 18 tháng 4 năm 1999 Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn việc tái giám định

84

sẽ được tiến hành từ ngày 22 đến ngày 28 tháng 4 năm 1999 bởi Vinacontrol có sự chứng kiến của luật sư A của nước Nguyên đơn. Nguyên đơn không phản đối.

Ngày 28 tháng 4 năm 1999 Vinacontrol cấp Biên bản giám định số 095/1999G, trong đó kết luận máy bị hỏng hóc, tình trạng lắp ráp, căn chỉnh hai máy chưa hoàn tất, vào thời điểm giám định, cả hai máy đều không thể vận hành được. Ngày 4 tháng 5 năm 1999 Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài, đòi:

− Trả lại hai máy thêu, lấy lại tiền

− Bồi thường thiệt hại, gồm:

+ Chi phí nhân công trong thời gian máy ngừng hoạt động

+ Lãi suất trên số tiền hàng 136.000USD kể từ ngày thanh toán đến ngày trọng tài xét xử

+ Chi phí giám định trả cho SGS Việt Nam

+ Thiệt hại do mất khách hàng, thiệt hại mất doanh thu, thiệt hại tinh thần.

Phán quyết của trọng tài:

1. Việc giao hàng có khuyết tật:

Việc Bị đơn giao hai máy có khuyết tật máy bị hư hỏng trong thời hạn bảo hành và sau đó không vận hành được đã được chứng minh bởi các bằng chứng sau:

Thứ nhất, Bị đơn đã cam kết sửa chữa xong hai máy vào ngày 4 tháng 4 năm 1998 và sẽ bồi thường 29.292 USD cho 40 ngày máy không hoạt động được, thực tế đã bồi thường 4.302 USD.

Thứ hai, Bị đơn đã đề nghị và trực tiếp chỉ định Vinacontrol giám định lại hai máy, kết quả giám định trong Biên bản giám định ngày 28 tháng 4 năm 1999 là máy hỏng hóc, hai máy không vận hành được và Bị đơn không hề phản đối kết quả này, tức thừa nhận máy hỏng hóc.

Thứ ba, Bị đơn đã chấp nhận đề nghị đổi máy hỏng hóc bằng hai máy đúng phẩm chất. Việc này chứng tỏ Bị đơn đã công nhận hai máy kém phẩm chất, không sử dụng được.

Từ đó, trọng tài kết luận Bị đơn giao hai máy có khuyết tật và phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn về việc này.

2. Về yêu cầu trả lại hai máy, đòi lại tiền hàng của Nguyên đơn:

Khi phát hiện hai máy thêu có khuyết tật, bị hỏng hóc trong thời hạn bảo hành, Nguyên đơn đã yêu cầu Bị đơn thay thế hai máy này bằng hai máy có phẩm chất đúng như quy định của hợp đồng và Bị đơn đã chấp nhận yêu cầu này của Nguyên đơn. Như vậy, phương án thay thế hai máy là phương án phù hợp với ý chí của hai bên. Mặt khác,

85

phương án trả lại hai máy, lấy lại tiền hàng thông thường được áp dụng khi người mua không thể thay thế được máy khác. Phương án thay thế hai máy có khuyết tật phù hợp với Pháp luật Việt Nam (điều 223 Luật Thương mại Việt Nam 1997, điều 439, 440, 441 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995) và pháp luật của các nước. Vì vậy, trọng tài không chấp nhận yêu cầu trả lại hai máy, đòi lại tiền hàng của Nguyên đơn, mà quyết định buộc Bị đơn phải thay thế hai máy mới phù hợp với quy định của Hợp đồng cho Nguyên đơn và phải chịu các chi phí thay thế.

3. Về tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi bồi thường:

Giao hàng có khuyết tật thiệt hại cho Nguyên đơn thì Bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường. Trọng tài thừa nhận các thiệt hại sau đây và buộc Bị đơn phải bồi thường:

− Chi phí nhân công trong thời gian hai máy ngừng hoạt đồng, vì máy ngừng hoạt động, công nhân không có việc làm, Nguyên đon vẫn phải trả lương cho số công nhân này.

− Lãi suất của 136.000 USD tính cho thời gian kể từ ngày máy ngừng hoạt động cho đến ngày trọng tài xét xử. Trọng tài coi đây là khoản thiệt hại do đọng vốn vì không sử dụng được máy. Thời gian kể từ ngày thanh toán cho đến ngày máy không vận hành được không tính lãi suất.

− Chi phí giám định trả cho SGS Việt Nam. Vì khuyết tật của máy phát sinh trong thời gian bảo hành, làm cho máy móc không hoạt động được, buộc Nguyên đơn phải mời SGS làm giám định, kết quả là máy có khuyết tật, không vận hành được. Bị đơn phải thay thế máy, cho nên Bị đơn phải bồi thường chi phí giám định cho Nguyên đơn.

Trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại do mất khách hàng, thiệt hại mất doanh thu, thiệt hại tinh thần, bởi vì đây không phải là thiệt hại tài sản trực tiếp thực tế, không phải do máy móc có khuyết tật trực tiếp gây ra.

Bình luận và lưu ý:

Khi bán máy móc thiết bị có thời hạn bảo hành thì theo pháp luật, người bán phải chịu trách nhiệm về khuyết tật của máy móc thiết bị được phát hiện trong thời hạn đó, với điều kiện khuyết tật, hư hỏng không phải do lỗi của người sử dụng gây ra. Khi có khiếu nại của người mua về vấn đề này, người bán trước hết bằng chi phí của mình phải sửa chữa khuyết tật, thay thế các linh kiện, bộ phận để làm cho máy móc thiết bị hoạt động bình thường. Nếu không sửa chữa được khuyết tật, thì người bán buộc phải thay thế máy móc thiết bị hoặc nhận lại máy móc thiết bị, trả lại tiền. Trong trường hợp người bán có thể thay thế máy móc thiết bị có khuyết tật bằng máy móc thiết bị có phẩm chất đúng như quy định của hợp đồng và đồng ý phương án này, thì rõ ràng phải tạo điều kiện cho người bán thực hiện. Vì vậy, việc trọng tài không chấp nhận yêu cầu của Bị đơn đòi trả lại hai máy, lấy lại tiền hàng mà quyết định buộc Bị đơn phải thay thế hai

86

máy là phù hợp với pháp luật và phù hợp với thực tế.

Việc máy móc không vận hành được, phải thay thế làm phát sinh thiệt hại cho người mua, thì người bán phải có trách nhiệm bồi thường. Tất nhiên, những thiệt hại đó phải phát sinh trong thời gian máy không hoạt động được và trong thời gian thay thế, đồng thời, đó là những thiệt hại tài sản trực tiếp do việc máy không vận hành được và việc thay thế máy gây ra. Từ đó, những chi phí đã chi ra khi chưa nhận máy, trong khi nhận máy, trong thời gian máy vận hành được (ví dụ, phí mở L/C, phí dỡ máy khỏi tàu ở cảng đến v.v...) sẽ không được bồi thường vì đây không phải là thiệt hại trực tiếp của việc máy không vận hành được và của việc thay thế máy. Nếu người bán chấp nhận trả lại tiền hàng, lấy lại máy có khuyết tật thì lúc đó người mua mới có quyền đòi bồi thường tất cả các chi phí đã chi ra để mua máy nhưng cuối cùng lại không có máy (tức áp dụng chế tài huỷ hợp đồng).

Theo pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dân sự, cũng như hợp đồng thương mại là trách nhiệm tài sản, tức là trách nhiệm vật chất. Bên vi phạm hợp đồng không chịu trách nhiệm tinh thần. Vì vậy, khi đòi bên vi phạm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thì không được đòi bồi thường thiệt hại tinh thần, nếu có đòi thì toà án, trọng tài cũng bác.

87

PHÁN QUYẾT SỐ 21

TRANH CHẤP VỀ VIỆC CHUYỂN NGHĨA VỤ

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GẠO

Các bên:

Nguyên đơn : Người bán Việt Nam

Bị đơn : Người mua Hồng Kông

Các vấn đề được đề cập:

− Thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba hay chuyển nghĩa vụ

− Tiền lãi của số tiền chậm trả

Tóm tắt vụ việc:

Bị đơn (công ty Hồng Kông) ký hợp đồng mua của Nguyên đơn (Công ty Việt nam) 5000MT gạo trắng loại 5% tấm với giá 340USD/MT FOB cảng Sài Gòn hoặc Cần Thơ, thanh toán bằng L/C không huỷ ngang, giao hàng trong vòng 25 ngày kể từ ngày bên bán nhận được thông báo L/C. Bị đơn uỷ thác cho Nguyên đơn thuê tàu chở hàng và tiền cước thanh toán bằng TTR.

Một công ty Macao (người mua lại lô hàng đó của Bị đơn) do Bị đơn chỉ định đã thay Bị đơn mở L/C tại Ngân hàng thương mại Macao cho Nguyên đơn hưởng lợi. Sau khi nhận được thông báo L/C, Nguyên đơn đã thuê tàu và ngày 20 tháng 8 năm 1995 đã giao xong 5000 MT gạo trị giá 1.700.000 USD.

Hàng đã được dỡ và lưu kho cảng, nhưng một phần hàng đã bị ẩm từ trong hầm tàu và bị hư hỏng. Người mua Macao không chấp nhận bộ chứng từ để đi nhận hàng với lý do bộ chứng từ không hợp lệ.

Ngày 25 tháng 10 năm 1995 Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn rằng người mua lại lô gạo (người thứ ba) sẽ chấp nhận bộ chứng từ dù không hợp lệ và thanh toán trước cho Nguyên đơn 1.200.000 USD để lấy bộ chứng từ đi nhận hàng và khiếu nại công ty bảo hiểm bồi thường tổn thất. Nếu công ty Macao đòi được tiền bảo hiểm thì sẽ thanh toán tiếp cho Nguyên đơn, nếu số tiền bảo hiểm thực trả ít hơn 500.000 USD thì công ty Macao sẽ thương lượng với Nguyên đơn để giải quyết. Bị đơn cho rằng nếu vì Nguyên đơn không đồng ý với phương án giải quyết này mà hàng để lâu trong kho cảng tiếp tục bị tổn thất thì Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm cho những tổn thất đó.

Nguyên đơn thông báo bằng fax cho Bị đơn đồng ý nhận thanh toán trước 1.200.000 USD, nhưng yêu cầu rằng phần tiền hàng còn lại (500.000 USD) phải được thanh toán trong vòng 10 ngày sau lần thanh toán thứ nhất.

Trên thực tế, Nguyên đơn đã nhận được 1.200.000USD, sau đó tiếp tục đòi người

88

mua lại (công ty Macao) trả tiếp 500.000USD, nhưng không được giải quyết, Nguyên đơn quay lại đòi Bị đơn (người ký hợp đồng mua bán với Nguyên đơn).

Bị đơn cho rằng Nguyên đơn đã chấp nhận L/C mở theo yêu cầu của công ty Macao (người thứ ba) thì cũng có nghĩa là Nguyên đơn đã chấp nhận việc chuyển nghĩa vụ trả tiền từ Bị đơn sang người thứ ba cho nên Bị đơn không chịu trách nhiệm về việc người thứ ba trả thiếu tiền hàng cho Nguyên đơn. Ngoài ra, Nguyên đơn đã đồng ý nhận 1.200.000USD trả trước theo đề xuất của người thứ ba, vì vậy số tiền còn lại Nguyên đơn phải đòi người thứ ba trả tiếp, nếu đòi không được thì đi kiện người thứ ba chứ không thể đòi Bị đơn; một khi nghĩa vụ của Bị đơn đã chuyển hoàn toàn sang cho người thứ ba thì Bị đơn không phải chịu trách nhiệm về việc trả tiền hàng theo Hợp đồng.

Nguyên đơn sau đó vẫn tiếp tục đòi cả Bị đơn lẫn công ty Macao phần tiền hàng còn lại nhưng không đạt kết quả. Do đó, Nguyên đơn đã kiện ra trọng tài đòi Bị đơn trả

- 500.000 USD tiền hàng

- tiền lãi thanh toán chậm 40 ngày đối với số tiền 1.200.000 USD và tiền lãi thanh toán chậm 500.000USD cho đến ngày thanh toán thực tế.

Bị đơn trình bày trong bản giải trình rằng việc gạo bị ẩm ướt dẫn đến việc phải đi đòi bảo hiểm thực tế là do chính Nguyên đơn đã cẩu thả trong việc thuê tàu. Vì thế Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm đối với việc này. Ngoài ra, Bị đơn trên thực tế vẫn có thiện chí đốc thúc công ty Macao trả phần tiền còn lại cho Nguyên đơn nhưng công ty này chưa thể trả được vì công ty bảo hiểm chưa thanh toán tiền bảo hiểm. Về trách nhiệm của mình, Bị đơn nhắc lại lập luận rằng Nguyên đơn chấp nhận lấy trước 1.200.000USD từ người thứ ba thì Bị đơn coi như hết nghĩa vụ trả tiền hàng, nghĩa vụ này đã được chuyển cho người thứ ba.

Phán quyết của trọng tài:

1.Về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền hàng (thông qua người thứ ba hay là chuyển nghĩa vụ sang người thứ ba?):

Uỷ ban trọng tài quyết định rằng trong trường hợp này Bị đơn không được giải phóng khỏi nghĩa vụ trả tiền hàng theo Hợp đồng và do đó, vẫn có trách nhiệm trả phần tiền hàng còn lại cho Nguyên đơn với lý do:

Về nguyên tắc, trong Hợp đồng mua bán hàng hoá, người mua có nghĩa vụ trả tiền hàng. Người mua có thể tự thực hiện nghĩa vụ, hoặc uỷ quyền cho người thứ ba thay mình trả tiền (tức là thực hiện nghĩa vụ trả tiền thông qua người thứ ba) hoặc chuyển hoàn toàn nghĩa vụ này sang cho một người thứ ba với sự chấp thuận minh thị của người bán (gọi là thế nghĩa vụ).

Trong trường hợp này, việc người thứ ba (công ty Macao) trả tiền thay cho Bị đơn chỉ có thể coi như việc uỷ quyền trả tiền thông thường chứ không thể coi như thế nghĩa vụ vì giữa ba bên (Nguyên đơn, Bị đơn và công ty Macao chưa hề có thoả thuận

89

gì rõ ràng về việc thế nghĩa vụ). Việc công ty Macao (người thứ ba) mở L/C trả tiền, thwjc tế đã trả 1.200.000 USD cũng như việc Nguyên đơn chấp nhận L/C và nhận tiền không thể là căn cứ để xác định rằng trong trường hợp này đã có thế nghĩa vụ giữa Bị đơn và công ty Macao.

Theo qui định về uỷ quyền, người uỷ quyền vẫn phải trực tiếp chịu trách nhiệm đối với hành vi của người được uỷ quyền. Do đó, trong vụ việc này, Bị đơn phải có trách nhiệm đối với việc trả tiền hàng của công ty Macao.

Công ty Macao đã thay Bị đơn trả cho Nguyên đơn 1.200.000 USD trong tổng số 1.700.000 USD tiền hàng. Do đó, Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc chưa trả 500.000 USD cho Nguyên đơn.

Uỷ ban trọng tài bác lập luận của Bị đơn về lỗi của Nguyên đơn liên quan tới sự kiện thuê tàu và về việc tiền bảo hiểm chưa được thanh toán để trì hoãn trả 500.000 USD với lý do:

− Sau khi thuê tàu, bốc hàng lên tàu và lấy được vận đơn hoàn hảo đã xếp hàng thì Nguyên đơn đã thực hiện xong việc nhận uỷ thác thuê tàu và giao hàng, vì thế Nguyên đơn không phải chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng ở cảng đến.

− Việc đòi công ty bảo hiểm bồi thường tổn thất là quan hệ pháp lý (hợp đồng bảo hiểm) độc lập với nghĩa vụ trả tiền hàng, do vậy, Bị đơn không thể coi việc thanh toán tiền bảo hiểm của công ty bảo hiểm là một điều kiện để trả tiền hàng.

2. Về tiền lãi:

− Uỷ ban trọng tài bác tiền lãi do chậm thanh toán 40 ngày đối với khoản tiền 1.200.000 USD vì:

Việc chậm thanh toán 1.200.000 USD là do lỗi của Nguyên đơn đã để có những sai sót về chứng từ. Thời gian chậm thanh toán đó là thời gian các bên thoả thuận thương lượng về cách giải quyết những bất hợp lệ trong chứng từ, về số tiền mà Bị đơn có thể trả để lấy vận đơn đi nhận hàng.

− Về tiền lãi do chậm thanh toán 500.000 USD:

Người thứ ba đã đề xuất trả trước 1.200.000 USD, số 500.000 USD còn lại sẽ thanh toán khi đòi được công ty bảo hiểm bồi thường. Nguyên đơn đồng ý nhận trước 1.200.000 USD, còn lại 500.000 USD phải được thanh toán trong vòng mười ngày kể từ ngày thanh toán 1.200.000 USD. Bị đơn biết việc này nhưng không có ý kiến gì. Như vậy, rõ ràng giữa Nguyên đơn và Bị đơn (cũng như người thứ ba) chưa thống nhất được thời hạn thanh toán 500.000 USD. Hơn nữa, trong các lần đòi Bị đơn thanh toán 500.000 USD Nguyên đơn không nêu ra thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán, không chỉ định tài khoản. Từ đó Uỷ ban trọng tài xác định không có đủ căn cứ hợp pháp để bắt Bị đơn trả tiền lãi của 500.000 USD.

90

Bình luận và lưu ý:

Trong một quan hệ pháp lý, nếu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba (uỷ quyền cho người thứ ba thực hiện nghĩa vụ của mình) thì vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện của người thứ ba đó. Nếu người thứ ba không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thì người có nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện hoặc phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước người có quyền.

Nếu người có nghĩa vụ chuyển nghĩa vụ cho người thứ ba thì người thứ ba này trở thành người có nghĩa vụ trước người có quyền còn người có nghĩa vụ ban đầu thì hoàn toàn được giải phóng nghĩa vụ nói trên. Do đó, nếu người thứ ba vi phạm nghĩa vụ thì người có quyền đòi người thứ ba chịu trách nhiệm, chứ không được đòi người có nghĩa vụ ban đầu. Theo qui định, việc chuyển nghĩa vụ phải có sự chấp thuận của cả ba bên: người có nghĩa vụ, người thứ ba và người có quyền. Thông thường, việc chuyển nghĩa vụ nên được thực hiện thông qua hình thức văn bản để tránh những tranh chấp có thể phát sinh sau này liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên.

91

PHÁN QUYẾT SỐ 22

TRANH CHẤP VỀ VIỆC GIAO HÀNG SAI QUY CÁCH

TRONG HỢP ĐỒNG MUA THÉP PHẾ LIỆU

Các bên:

Nguyên đơn : Người mua Việt Nam

Bị đơn : Người bán Nhật Bản

Các vấn đề được đề cập:

− Thẩm quyền xét xử của trọng tài

− Giao hàng sai quy cách theo thoả thuận với người uỷ thác nhập khẩu (người thứ ba) sau khi hợp đồng xuất nhập khẩu đã được ký có bị coi là vi phạm hợp đồng không?

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn ký hợp đồng mua của Bị đơn 4000 MT thép phế liệu. Hợp đồng quy định số lượng và phẩm chất thép phế liệu thực tế sẽ căn cứ vào biên bản giám định của NKKK (công ty giám định Nhật bản) tại cảng xếp hàng và biên bản giám định của Vinacontrol (công ty giám định Việt nam) tại cảng dỡ hàng. Trong trường hợp dung sai vượt quá ± 5% so với tỷ lệ kích cỡ đã quy định trong hợp đồng theo biên bản giám định của Vinacontrol và NKKK (như điều 1 Hợp đồng đã ghi) thì phần hàng có tỷ lệ vượt quá đó được trả theo giá 50 USD/MT.

Bị đơn đã tiến hành giao cho Nguyên đơn 4.018 MT thép phế liệu. Biên bản giám định của Vinacontrol tại cảng dỡ hàng kết luận:

− Độ dày lớn hơn 40mm: 570 MT

− Độ dày từ 20mm đến 40mm

+ Chiều dài từ 2.000mm đến 3.000mm: 925 MT

+ Chiều dài lớn hơn 3.000mm: 180 MT

− Độ dày từ 6mm đến 19mm: 1.220 MT

− Chiều rộng nhỏ hơn 100mm: 1.123 MT

Như vậy, so với qui định về phẩm chất hàng hoá theo Hợp đồng thì một phần khối lượng thép được giao không đúng loại quy định hoặc vượt quá tỷ lệ quy định của hợp đồng, cụ thể:

− Độ dày lớn hơn 40mm (hợp đồng không cho phép): 570 MT

− Độ dày từ 20mm đến 40mm

92

+ Chiều dài từ 2.000mm đến 3.000mm: 325 MT

+ Chiều dài lớn hơn 3.000mm (hợp đồng không cho phép): 180 MT

− Chiều rộng nhỏ hơn 100mm (hợp đồng không cho phép): 1.123 MT

Tổng cộng số lượng hàng sai tỷ lệ kích cỡ là 2.198 MT

Trong khi đó, dung sai cho phép theo hợp đồng là 5%: 4.018,581 × 5% = 200,929 MT

Theo quy định của hợp đồng số thép này được tính theo giá 50USD/MT thay cho giá hợp đồng 137 USD/MT.

Số lượng thép Bị đơn giao đúng theo quy định của hợp đồng là:

4.018 MT - 1.997,071 MT = 2.020,929 MT

Số tiền mà Nguyên đơn phải trả theo kết quả giám định thực tế của Vinacontrol là: 1.997,071 MT × 50 USD/MT = 99.853,55 USD

2.020,929 MT × 137 USD/MT = 276.876,27 USD

Cộng = 376.720,82 USD

Vì Nguyên đơn đã trả cho Bị đơn tổng số tiền hàng là 561.152 USD nên Bị đơn phải hoàn trả lại cho Nguyên đơn số tiền:

561.152 USD - 376.720,82 USD = 184.431,18 USD

Vì bị đơn từ chối không hoàn lại số tiền nói trên nên Nguyên đơn đã kiện Bị đơn ra trọng tài đòi số tiền này.

Trong Bản giải trình, Bị đơn trình bày như sau:

Hợp đồng mua bán thép giữa Nguyên đơn và Bị đơn thực chất là trên cơ sở uỷ thác nhập khẩu của Công ty X Việt Nam cho Nguyên đơn. Và vì Công ty X mới thực chất là người có nhu cầu mua số thép phế liệu nói trên để cán lại nên trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng, Bị đơn đã thương lượng trực tiếp với Công ty X và giao hàng theo hướng dẫn của Công ty X.

Trên thực tế, số thép được giao mà Nguyên đơn coi là “không đúng tiêu chuẩn” lại đắt hơn loại hàng quy định trong hợp đồng, cho nên Công ty X đã quyết định nhận lô hàng này trên cơ sở thoả thuận giữa Công ty X và Bị đơn. Vì thế, Nguyên đơn không có lý do gì để khiếu nại về việc này.

Về phần mình, Nguyên đơn lập luận:

Nguyên đơn không hề biết việc thương lượng và thoả thuận giữa Bị đơn và Công ty X, đồng thời Nguyên đơn không nhận được bất kỳ một thông báo nào của Bị đơn và Công ty X.

Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn là căn cứ vào Hợp đồng mua bán ký kết giữa

93

Nguyên đơn và Bị đơn. Hợp đồng này không liên quan gì đến công ty X như trình bày của Bị đơn.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về thẩm quyền xét xử của trọng tài:

Điều khoản trọng tài trong Hợp đồng quy định: trong trường hợp hai bên không giải quyết được tranh chấp bằng thương lượng thì sự việc được đưa ra Trung tâm trọng tài quốc tế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, quyết định của trọng tài là cuối cùng đối với hai bên.

Theo qui định về tổ chức hiện nay, bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chỉ có duy nhất một Trung tâm trọng tài quốc tế đó là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, vì vậy Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có thẩm quyền xét xử tranh chấp này.

Mặt khác, sau khi có thông báo về đơn kiện của Nguyên đơn, Bị đơn gửi văn thư cho Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam trình bày quan điểm của mình về đơn kiện. Như vậy, Bị đơn và Nguyên đơn đã chấp nhận thẩm quyền xét xử của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong vụ việc này.

2. Về hàng được giao sai tỷ lệ kích cỡ so với quy định của hợp đồng:

Biên bản giám định tại cảng bốc hàng của NKKK kết luận số thép được giao có tiêu chuẩn phù hợp với qui định của hợp đồng với tỷ lệ sai lệch trong phạm vi dung sai cho phép. Trong khi đó, biên bản giám định ở cảng dỡ hàng do Vinacontrol cấp lại có kết luận khác (2.198 MT được giao sai kích cỡ). Bị đơn không có phản đối gì về biên bản giám định này (trong bản giải trình gửi cho trọng tài, Bị đơn còn thừa nhận là lô hàng này “thiếu tiêu chuẩn”). Như vậy, dù biên bản giám định có đánh giá khác nhau về chất lượng hàng hoá nhưng có thể kết luận là Nguyên đơn và Bị đơn đều thừa nhận việc giao hàng sai qui cách. Giao hàng sai tỷ lệ kích cỡ thì Bị đơn phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn.

Uỷ ban trọng tài không chấp nhận lý do có liên quan đến công ty X mà Bị đơn nêu trong bản giải trình bởi việc Bị đơn giao hàng là theo hợp đồng ký kết với Nguyên đơn chứ không phải với công ty X. Công ty X không phải là một bên của hợp đồng nên không có tư cách để tiến hành thương lượng với Bị đơn về việc thực hiện Hợp đồng. Vì vậy, mọi thoả thuận giữa Bị đơn và người thứ ba không có giá trị ràng buộc đối với Nguyên đơn và càng không có giá trị sửa đổi bổ sung điều khoản của hợp đồng về kích cỡ của hàng hoá.

Nguyên đơn đã xuất trình cho trọng tài hai văn thư của Bị đơn trong đó Bị đơn từ

94

chối hoàn trả lại một phần tiền hàng với lý do nhà cung cấp số thép đó cho Bị đơn đã từ chối trả tiền bồi thường. Số tiền mà Nguyên đơn đòi là quá lớn và để tránh nguy cơ phá sản, Bị đơn không thể trả tiền cho Nguyên đơn được. Lý do này không thể chấp nhận được bởi Bị đơn đã tham gia ký kết hợp đồng thì phải có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Khó khăn về tài chính không thể được coi là một nguyên nhân để miễn cho Bị đơn khỏi trách nhiệm trước Nguyên đơn.

3. Về số tiền phải hoàn trả:

Cách tính số tiền hoàn trả của Nguyên đơn hoàn toàn phù hợp với qui định tại Hợp đồng. Vì vậy, trọng tài quyết định buộc Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn (người nhập khẩu) 184.405,12 USD.

Bình luận và lưu ý:

Trong hoạt động xuất nhập khẩu, uỷ thác xuất nhập khẩu là một việc làm phổ biến, đặc biệt trong các trường hợp đơn vị có nhu cầu nhập khẩu/xuất khẩu hàng hoá không được phép nhập khẩu/xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, cần lưu ý là trong uỷ thác nhập khẩu/xuất khẩu, người nhận uỷ thác là người trực tiếp ký hợp đồng xuất nhập khẩu (hợp đồng mua bán với đối tác nước ngoài) và là một bên của hợp đồng này. Người uỷ thác không phải là một bên của hợp đồng nên không có quyền tham gia vào việc điều chỉnh hay sửa đổi hợp đồng. Do đó, nếu có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng xuất nhập khẩu, các bên không thể viện dẫn đến người uỷ thác nhập khẩu để làm căn cứ miễn trách cho mình.

Khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc biệt trong trường hợp có uỷ thác xuất nhập khẩu, nên xác định và ghi rõ tên của các bên trong hợp đồng để tránh những tranh chấp không đáng có sau này liên quan đến chủ thể của hợp đồng.

95

PHÁN QUYẾT SỐ 23

TRANH CHẤP DO KHÔNG MỞ THƯ TÍN DỤNG (L/C)

ĐỂ THANH TOÁN TIỀN HÀNG

Các bên:

Nguyên đơn : Người bán Hồng Kông

Bị đơn : Người mua Việt Nam

Các vấn đề được đề cập:

− Không đưa vào hợp đồng các điều khoản giống như trong hợp đồng mẫu

− Ký hợp đồng bằng tiếng nước ngoài

− Đơn phương sửa đổi hợp đồng

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn, một công ty Hồng Kông, đàm phán ký kết hợp đồng với Bị đơn, một doanh nghiệp Việt Nam. Sau khi thống nhất được với nhau hàng hoá và giá cả, Bị đơn đã chuyển cho Nguyên đơn một hợp đồng mẫu mà Bị đơn đã ký với bạn hàng nước ngoài trước đây để Nguyên đơn tham khảo soạn thảo các điều khoản của hợp đồng.

Sau đó, Nguyên đơn và Bị đơn đã chính thức ký hợp đồng mua bán (ngày 6 tháng 12 năm 1992), theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn 10.000 MT ± 5% UREA với giá 215 USD/MT CFR cảng Quy Nhơn, L/C phải được mở chậm nhất ngày 15 tháng 12 năm 1996, quá hạn này mà chưa mở bên mua phải nộp phạt 3% trị giá hợp đồng, tiền phạt này phải được trả trong vòng 3 ngày kể từ ngày hết hạn mở L/C, người bán phải giao hàng trong vòng 30 ngày kể từ ngày mở L/C.

Ngày 8 tháng 12 năm 1996, Bị đơn đã gửi cho Nguyên đơn bản dự thảo giấy yêu cầu mở L/C với một số điểm khác biệt so với các điều khoản của hợp đồng đã ký và đề nghị nếu Nguyên đơn chấp nhận thì Bị đơn sẽ mở L/C.

Ngày 10 tháng 12 năm 1996, Nguyên đơn gửi trả Bị đơn bản dự thảo giấy yêu cầu mở L/C, trong đó chỉ đồng ý ba điểm sửa đổi, từ chối việc sửa đổi bốn điểm khác. Bị đơn lại tiếp tục đàm phán đề nghị Nguyên đơn chấp nhận bốn điểm sửa đổi còn lại. Đến ngày 14 tháng 12 năm 1996, Nguyên đơn trả lời dứt khoát là không đồng ý với bốn điểm sửa đổi đó.

Đến ngày 20 tháng 12 năm 1996, Bị đơn vẫn chưa mở L/C nên Nguyên đơn điện khiếu nại đòi Bị đơn nộp phạt ngày 3% trị giá hợp đồng với số tiền 64.500 USD theo đúng quy định của hợp đồng.

Bị đơn từ chối yêu cầu này của Nguyên đơn với lý do là Nguyên đơn không đưa

96

vào hợp đồng những điều khoản giống như trong hợp đồng mẫu mà Bị đơn đã chuyển cho công ty trước khi chính thức ký kết hợp đồng và không thiện chí trong việc đàm phán để tiếp tục hợp đồng.

Sau nhiều lần thương lượng (trong đó Nguyên đơn đã đồng ý giảm một phần tiền bồi thường) nhưng không đạt kết quả, Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài đòi nộp phạt 64.500 USD.

Phán quyết của trọng tài:

Trong bản giải trình, Bị đơn trình bày rằng Bị đơn chỉ đồng ý ký kết hợp đồng với điều kiện hợp đồng đó tuân thủ hợp đồng mẫu mà Bị đơn chuyển cho Nguyên đơn. Việc trên thực tế Bị đơn đã ký vào hợp đồng với những điều khoản khác là do Bị đơn không thạo tiếng Anh (mà hợp đồng lại được ký bằng tiếng Anh).

Uỷ ban trọng tài cho rằng các điều khoản trong hợp đồng là do các bên thoả thuận với nhau. Trong vụ việc này, việc Nguyên đơn đưa hay không đưa vào hợp đồng những điều khoản giống như hợp đồng mẫu do Bị đơn chuyển cho đó là quyền của Nguyên đơn. Bị đơn có quyền chấp nhận hoặc từ chối Hợp đồng do Nguyên đơn soạn thảo. Trước khi ký hợp đồng cần phải đọc kỹ nội dung hợp đồng, nếu không đồng ý thì Bị đơn có quyền không ký. Một khi đã ký vào bản hợp đồng thì các bên phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng đó. Vì thế lý do "không thạo tiếng Anh" không phải là một căn cứ hợp pháp cho việc không mở L/C (không thực hiện hợp đồng). Sau khi hợp đồng đã được ký, mọi thay đổi, bổ sung hợp đồng phải được làm bằng văn bản, có chữ ký của hai bên. Một bên không thể bằng đề nghị đơn phương của mình mà sửa đổi hợp đồng ban đầu. Do đó, Bị đơn không thể viện dẫn lý do nêu trên để từ chối mở L/C. Trên thực tế Bị đơn không mở L/C đúng hạn thì phải có nghĩa vụ mở L/C đúng hạn theo quy định của hợp đồng. Không mở L/C đúng hạn, Bị đơn phải nộp phạt theo đúng quy định của hợp đồng.

Từ những điều phân tích trên, trọng tài ra phán quyết buộc Bị đơn phải nộp phạt cho công ty Hồng Kông 64.500 USD.

Bình luận và lưu ý:

Khi chính thức ký kết các hợp đồng, các bên được suy đoán là đã tự nguyện chấp thuận tất cả các điều khoản trong hợp đồng đó và có nghĩa vụ thực hiện đúng các qui định trong hợp đồng đó. Vì thế, khi ký kết các bên phải cẩn trọng xác định chính xác các nội dung của hợp đồng. Nếu hợp đồng được ký bằng tiếng nước ngoài thì các bên phải có chuyên gia trong lĩnh vực này để đảm bảo hợp đồng ký kết phản ánh đúng ý chí của mình. Một khi hợp đồng đã ký kết, việc sửa đổi phải được sự thống nhất của các bên. Một bên không thể tự mình đơn phương sửa đổi hợp đồng.

97

PHÁN QUYẾT SỐ 24

TRANH CHẤP VỀ VIỆC CHẬM TRẢ TIỀN HÀNG

TRONG HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU QUA UỶ THÁC

Các bên:

Nguyên đơn : Văn phòng đại diện của công ty A (người bán)

Bị đơn : Hai doanh nghiệp Việt Nam (Doanh nghiệp C và Doanh nghiệp D)

Các vấn đề được đề cập:

− Nghĩa vụ trả tiền hàng trong hợp đồng nhập khẩu có liên quan đến uỷ thác nhập khẩu

− Xác định căn cứ khởi kiện

Tóm tắt vụ việc:

Công ty A nước ngoài ký hợp đồng xuất khẩu hàng cho doanh nghiệp C Việt Nam, thanh toán sau khi bán được hàng thu được tiền tại Việt Nam. Doanh nghiệp C Việt Nam nhập uỷ thác hàng đó cho doanh nghiệp D Việt Nam. Hợp đồng qui định tiền thu được từ việc bán hàng cho khách hàng nội địa sẽ được sử dụng để thanh toán tiền hàng cho người bán.

Trên thực tế, doanh nghiệp C và D đã bán gần hết số lượng hàng nhập khẩu mà vẫn không thanh toán tiền cho công ty A nước ngoài. Để giải quyết việc này, Văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đặt tại Việt Nam, doanh nghiệp C và doanh nghiệp D Việt Nam ký Biên bản thoả thuận ba bên với nội dung sau:

− Số tiền đã thu được sau khi bán hàng, doanh nghiệp C và doanh nghiệp D Việt Nam phải trả cho công ty A nước ngoài 10 lần trong vòng 10 tháng, mỗi tháng 35.466,00 USD bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 10 năm 1998.

− Số tiền hàng bán chịu sau khi thu hồi được từ khách hàng địa phương thì doanh nghiệp C và D Việt Nam phải chuyển trả ngay lập tức cho công ty A nước ngoài.

− Trong trường hợp có vi phạm đối với Biên bản này, các bên có quyền kiện ra trọng tài Việt Nam.

Sau đó, do doanh nghiệp C và doanh nghiệp D tiếp tục không tuân thủ các nội dung của Biên bản ba bên, Văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đã khởi kiện ra trọng tài Việt Nam trên cơ sở Biên bản ba bên ngày 4 tháng 12 năm 1997 đòi doanh nghiệp C và doanh nghiệp D trả toàn bộ tiền hàng là 434.604,00 USD.

Doanh nghiệp C giải trình như sau:

98

Doanh nghiệp D là đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu về các khoản nợ với công ty A nước ngoài, còn doanh nghiệp C chỉ là nhà nhập khẩu, giúp làm thủ tục thanh toán đối ngoại. Công ty A nước ngoài đã tham gia trực tiếp bán hàng trong nội địa Việt Nam cùng với doanh nghiệp D, doanh nghiệp C không tham gia bán hàng nên chỉ chịu trách nhiệm giới hạn trong vai trò của một nhà nhập khẩu uỷ thác.

Trong số tiền đòi nợ công ty A nước ngoài chưa trừ đi số tiền hàng đã bán nhưng chưa thu được là 47.368,00 USD và trị giá hàng tồn kho là 32.576,00 USD.

Doanh nghiệp D lập luận:

Giám đốc doanh nghiệp D bị khởi tố với tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa đã bỏ trốn, tài sản của doanh nghiệp D đã bị cơ quan có thẩm quyền kê biên nên đề nghị trọng tài tạm hoãn giải quyết vụ kiện.

− Nếu dựa vào hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với doanh nghiệp C thì doanh nghiệp D nhận thấy không có căn cứ để giám đốc nhân danh doanh nghiệp D ký Biên bản thoả thuận ba bên ngày 4 tháng 12 năm 1997.

Tại phiên họp xét xử của trọng tài, trưởng văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đã xuất trình cho trọng tài Giấy uỷ quyền của Công ty A, uỷ quyền cho ông giải quyết mọi vấn đề và yêu cầu trọng tài điều chấp nhận thẩm quyền của ông tại phiên họp

Phán quyết của trọng tài:

1. Nghĩa vụ trả tiền hàng cho người xuất khẩu:

Trên thực tế, doanh nghiệp Việt Nam D muốn nhập hàng của công ty A nước ngoài để bán trên thị trường Việt Nam, nhưng doanh nghiệp D khi đó không có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp, cho nên đã uỷ thác nhập khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam C. Doanh nghiệp C đã ký hợp đồng nhập khẩu với công ty A nước ngoài.

Hàng về Việt Nam doanh nghiệp C đã nhận hàng và giao hàng đó cho doanh nghiệp D. Như vậy, công ty A nước ngoài đã thực hiện xong nghĩa vụ giao hàng cho nên có quyền đòi doanh nghiệp C trả tiền hàng. Doanh nghiệp C là người trực tiếp ký hợp đồng nhập khẩu với công ty A nên phải có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng cho công ty A. Còn doanh nghiệp D là người ký hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với doanh nghiệp C thì doanh nghiệp D phải trả tiền hàng cho doanh nghiệp C. Doanh nghiệp D không có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng trực tiếp cho công ty A nước ngoài, trừ khi có thoả thuận hợp pháp khác.

Lập luận của doanh nghiệp C rằng vai trò của người nhận uỷ thác chỉ giới hạn ở hoạt động đối ngoại cho doanh nghiệp nhờ uỷ thác là không thể chấp nhận được vì điều này trái với nguyên tắc của uỷ thác. Trong uỷ thác, để được nhận phí uỷ thác người nhận uỷ thác phải nhân danh mình thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu và do đó phải chịu trách nhiệm thực hiện tất cả các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng xuất nhập khẩu.

99

2. Giá trị pháp lý của Biên bản thoả thuận ba bên:

Uỷ ban trọng tài cho rằng Biên bản thoả thuận ký ngày 4 tháng 12 năm 1997 giữa Văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đặt tại Việt Nam với doanh nghiệp Việt Nam C và doanh nghiệp Việt Nam D theo pháp luật Việt Nam là không có hiệu lực vì các lý do sau:

− Văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đặt tại Việt Nam không có thẩm quyền ký kết hợp đồng thương mại cũng như các thoả thuận nhằm thực hiện hợp đồng thương mại với các doanh nghiệp Việt Nam (điều 18 Thông tư 03/tín dụng ngân hàng - PC ngày 10 tháng 2 năm 1994, điều 42 Luật Thương mại Việt Nam 1997). Từ đó, văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài không được làm chủ thể để ký Biên bản thoả thuận nhằm thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu do chính Công ty A đã ký. Chỉ có công ty A nước ngoài mới là chủ thể hợp pháp ký kết các văn bản bổ sung hoặc các biên bản nhằm thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu đã ký với doanh nghiệp C Việt Nam. Thay mặt cho công ty A là giám đốc hoặc người được giám đốc uỷ quyền bằng giấy uỷ quyền. Trọng tài đã xem xét giấy uỷ quyền của giám đốc công ty A uỷ quyền cho Trưởng Văn phòng đại diện tại Việt Nam nhưng không thấy có sự uỷ quyền nào liên quan tới việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu do công ty A đã ký với doanh nghiệp C, cũng không có sự uỷ quyền về việc ký Biên bản thoả thuận với doanh nghiệp C và doanh nghiệp D.

− Doanh nghiệp Việt Nam D không có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp nên đã phải uỷ thác nhập khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam C, vì vậy doanh nghiệp D không có thẩm quyền nhân danh mình ký kết biên bản thoả thuận nhằm thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu do doanh nghiệp C đã ký. Từ đó, doanh nghiệp D nhân danh mình ký Biên bản thoả thuận ngày 4 tháng 12 năm 1997 là không hợp pháp.

Nguyên đơn căn cứ vào Biên bản thoả thuận ba bên ngày 4 tháng 12 năm 1997 để khởi kiện doanh nghiệp C và doanh nghiệp D ra trọng tài đòi hai doanh nghiệp này trả tiền hàng, nhưng trọng tài kết luận Biên bản thoả thuận này không có hiệu lực, vì vậy trọng tài quyết định bác đơn kiện cho Nguyên đơn.

Bình luận và lưu ý:

Trong vụ kiện này, Nguyên đơn đã khởi kiện trên cơ sở Biên bản thoả thuận ba bên ngày 4 tháng 12 năm 1997. Biên bản này được ký kết bởi các chủ thể không có thẩm quyền theo qui định của pháp luật để ký kết nên trọng tài ra quyết định như trên là đúng đắn.

Tuy nhiên, nếu Nguyên đơn là công ty A nước ngoài (chứ không phải là Văn phòng đại diện của công ty A này) còn đơn khởi kiện căn cứ vào hợp đồng xuất nhập khẩu ký với doanh nghiệp C (chứ không phải là căn cứ vào Biên bản thoả thuận ngày 4 tháng 12 năm 1997) kết luận của trọng tài để giải quyết vụ việc chắc chắn sẽ khác. Vì thế, khi khởi kiện, nguyên đơn cần đặc biệt lưu ý đến tư cách khởi kiện của mình cũng

100

như các căn cứ khởi kiện. Việc xác định chủ thể và căn cứ sai có thể dẫn đến một kết quả giải quyết hoàn toàn trái với mong muốn của người khởi kiện.

101

Phán quyết số 25

TRANH CHẤP DO KHÔNG MỞ THƯ TÍN DỤNG THANH TOÁN

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP

Các bên:

Nguyên đơn : Người bán Áo

Bị đơn : Người mua Việt Nam

Các vấn đề được đề cập:

− Về việc không mở L/C của Bị đơn

− Về sai sót ngày tháng trong Telex gia hạn của Nguyên đơn

− Về tiền phạt

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 26 tháng 6 năm 1999 giữa Nguyên đơn và Bị đơn đã ký Hợp đồng mua bán số 06/99 theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn 1500 MT thép tấm cán nóng theo điều kiện C.I.F FO cảng Hải Phòng với tổng trị giá hợp đồng là 370.880 USD, giao hàng vào tháng 7 năm 1999, thanh toán bằng L/C không huỷ ngang có xác nhận, ngày mở chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm 1999. Điều 7 Hợp đồng quy định rằng trong trường hợp chậm trễ giao hàng hoặc nhận được L/C chậm hơn 15 ngày so với ngày hợp đồng quy định thì bên bán/bên mua có quyền huỷ hợp đồng, bên vi phạm phải trả một khoản tiền phạt là 5% tổng trị giá hợp đồng cho bên kia.

Ngày 30 tháng 6 năm 1999 là ngày cuối cùng để mở L/C, do sợ không thu xếp kịp việc mở L/C đúng hạn theo quy định của hợp đồng nên Bị đơn đã gửi văn thư cho Nguyên đơn trình bày khó khăn khách quan của Bị đơn và đề nghị xin huỷ Hợp đồng số 06/99 đã được ký giữa hai bên. Khó khăn khách quan được Bị đơn trình bày là Bị đơn chưa trả hết tiền nợ cho ngân hàng nên ngân hàng không mở L/C theo đề nghị của Bị đơn.

Ngày 3 tháng 7 năm 1999, tức ba ngày sau khi hết thời hạn mở L/C, Nguyên đơn đã telex cho Bị đơn, theo đó, Nguyên đơn đồng ý gia hạn ngày mở L/C đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7th 1999). Nếu Nguyên đơn không nhận được L/C trong thời gian đó, có nghĩa là Bị đơn đã không thực hiện Hợp đồng. Trong trường hợp này Bị đơn phải nộp cho Nguyên đơn tiền phạt là 18.544 USD theo qui định của Điều 7 Hợp đồng. Bị đơn đã nhận được bản Telex này. 20 phút sau khi Telex cho Bị đơn, Nguyên đơn phát hiện ra có sự sai sót về ngày tháng, nên đã sửa tháng 6 (June) thành tháng 7 (July) và telex lại ngay cho Bị đơn. Nhưng sau này Bị đơn nói là không nhận được bản Telex sửa đổi này của Nguyên đơn.

102

Đến ngày 9 tháng 8 năm 1999, Nguyên đơn vẫn không nhận được L/C cũng như không nhận được tiền phạt từ phía Bị đơn. Do vậy, Nguyên đơn đã kiện Bị đơn ra trọng tài đòi nộp phạt 18.544 USD.

Phản bác lại đơn kiện, Bị đơn trình bày như sau:

− Ngày 30 tháng 6 năm 1999 Bị đơn đã trình bày khó khăn khách quan và đề nghị xin huỷ hợp đồng. Ngày 3 tháng 7 năm 1999 Nguyên đơn không trả lời về việc huỷ Hợp đồng mà lại thông báo đồng ý gia hạn thêm thời gian cho việc mở L/C, nhưng lại ghi đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7th 1999) tức gia hạn lùi về quá khứ, như vậy Nguyên đơn có ý đồ thúc ép Bị đơn.

− Việc Bị đơn xin huỷ hợp đồng đã được thông báo cho Nguyên đơn trong một thời hạn hợp lý, cho nên việc làm này không gây thiệt hại nào cho Nguyên đơn. Mặt khác lô hàng này đã có sẵn và đã chào bán cho các công ty khác sau đó mới chào bán cho Bị đơn, cho nên việc Bị đơn không kịp mở L/C trong thời hạn quy định của Hợp đồng và xin huỷ hợp đồng trong thời hạn này không cấu thành một sự vi phạm chủ yếu đối với Hợp đồng đã ký.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về việc không mở L/C của Bị đơn:

Hợp đồng số 06/99 giữa Nguyên đơn và Bị đơn đã có hiệu lực cho nên Bị đơn phải có nghĩa vụ mở L/C chậm nhất ngày 30 tháng 6 năm 1999. Đến ngày 9 tháng 8 năm 1999 Bị đơn vẫn chưa mở L/C và theo quy định của Điều 7 Hợp đồng Bị đơn bị coi là không mở L/C, tức là Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.

Bị đơn nêu lý do của việc không mở L/C là vì Bị đơn gặp khó khăn về tài chính, chưa trả hết nợ cho Ngân hàng nên Ngân hàng không cho mở L/C. Lý do này không được Uỷ ban trọng tài công nhận là chính đáng, không phải là căn cứ miễn trách cho việc không mở L/C, bởi vì Điều 8 của Hợp đồng cũng như Luật Thương mại Việt Nam, luật hợp đồng của các nước đều không qui định việc gặp khó khăn về tài chính là một căn cứ miễn trách cho việc không thực hiện hợp đồng.

Ngày 30 tháng 6 năm 1999 Bị đơn gửi văn thư cho Nguyên đơn đề nghị xin hủy hợp đồng vì khó khăn về tài chính, nhưng Nguyên đơn không có trả lời gì về vấn đề này. Sự im lặng của Nguyên đơn không phải là đồng ý huỷ hợp đồng, do vậy Bị đơn cũng như Nguyên đơn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Sau khi hợp đồng đã được ký và có hiệu lực, các bên không thống nhất huỷ hợp đồng mà Bị đơn không mở L/C thì rõ ràng Bị đơn đã vi phạm hợp đồng (không thực hiện hợp đồng).

Vi phạm hợp đồng nhưng không có căn cứ miễn trách nhiệm thì Bị đơn phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn.

2. Về sai sót ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C của Nguyên đơn:

103

Ngày 3 tháng 7 năm 1999 Nguyên đơn telex thông báo cho Bị đơn chấp nhận gia hạn ngày mở L/C, nhưng lại ghi là đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7th 1999). Về vấn đề này Uỷ ban trọng tài xác định rằng:

Khi nhận được Telex ngày 3 tháng 7 năm 1999 của Nguyên đơn thông báo gia hạn ngày mở L/C đến trước ngày 7 tháng 6 năm 1999, tức gia hạn lùi về quá khứ, nhưng Bị đơn không hề có phản ứng gì, không điện hỏi Nguyên đơn tại sao lại như vậy, cũng không đề xuất thời gian cụ thể cho việc gia hạn mở L/C. Như vậy việc gia hạn mở L/C của Nguyên đơn không làm cho Bị đơn quan tâm. Từ đó sự sai sót về ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C của Nguyên đơn hoặc là ý đồ gia hạn L/C lùi về quá khứ của Nguyên đơn không hề ảnh hưởng đến ý chí thực của Bị đơn về việc xin huỷ hợp đồng, bởi vì Bị đơn đã đề nghị xin huỷ hợp đồng vào ngày 30 tháng 6 năm 1999. Mặt khác sự sai sót về ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C hoặc ý đồ gia hạn lùi về quá khứ của Nguyên đơn không phải là nguyên nhân của việc không mở L/C, mà nguyên nhân đích thực của việc không mở L/C là do Bị đơn gặp khó khăn về tài chính, như đã đề cập ở mục 1 nêu trên. Vì vậy Bị đơn không được miễn trách nhiệm do không mở L/C.

3. Về số tiền phạt 18.544 USD:

Theo Điều 7 Hợp đồng Bị đơn có trách nhiệm nộp phạt 5% trị giá hợp đồng cho Nguyên đơn, cụ thể là:

5% x 370.880 USD = 18.544 USD

Bị đơn lập luận rằng việc Bị đơn xin huỷ hợp đồng, không mở L/C không hề gây thiệt hại nào cho Nguyên đơn. Lập luận này không được Uỷ ban trọng tài công nhận, bởi vì Nguyên đơn chỉ đòi tiền phạt theo quy định của hợp đồng chứ không đòi bồi thường thiệt hại. Hơn nữa, khi đã qui định tiền phạt do không thực hiện hợp đồng thì bên không thực hiện phải nộp tiền phạt đó, cho dù không gây thiệt hại cho bên kia. Từ đó Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải nộp cho Nguyên đơn 18.544 USD tiền phạt.

Bình luận và lưu ý:

Hợp đồng ký ngày 26 tháng 6 năm 1999 mà thời hạn mở L/C chậm nhất ngày 30 tháng 6 năm 1999, như vậy chỉ có bốn ngày để mở L/C, rõ ràng thời hạn này là quá ngắn đối với Bị đơn (người mua). Nếu Bị đơn có sẵn tiền, có uy tín với ngân hàng thì mới có thể thực hiện được. Nếu không thì dễ rơi vào tình trạng mở L/C chậm, hoặc không mở được L/C và phải chịu trách nhiệm. Do đó khi thoả thuận về thời hạn mở L/C người mua phải cân nhắc kỹ, tính toán cho phù hợp.

Sau khi hợp đồng đã được ký, một bên muốn huỷ hợp đồng thì phải đề nghị với bên kia và bên kia trả lời đồng ý thì đề nghị huỷ hợp đồng mới có giá trị và bên đề nghị huỷ mới không phải thực hiện hợp đồng nữa. Nếu bên được đề nghị im lặng, không phát biểu gì thì đề nghị huỷ hợp đồng không có hiệu lực, bên đề nghị huỷ vẫn phải tiếp tục

104

thực hiện hợp đồng. Không có luật nào quy định khi gửi đề nghị huỷ hợp đồng cho bên kia trong thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thì đó là đề nghị hợp lý, bắt bên kia phải tuân theo và bên đề nghị không phải thực hiện hợp đồng nữa.

Khi hợp đồng có quy định tiền phạt cho việc không thực hiện hợp đồng và không có quy định thêm gì khác thì bên không thực hiện hợp đồng phải nộp tiền phạt cho bên kia, không phụ thuộc vào việc bên kia có bị thiệt hại hay không, bị thiệt hại nhiều hay ít. Nếu muốn căn cứ vào việc có thiệt hại mới nộp phạt thì phải qui định trong hợp đồng. Vì trong hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn chỉ quy định phạt 5% do không thực hiện hợp đồng nên trọng tài không xét tới bên Nguyên có bị thiệt hại hay không và buộc Bị đơn thanh toán cho Nguyên đơn 18.544 USD tiền phạt

105

PHÁN QUYẾT SỐ 26

TRANH CHẤP VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG

Các bên:

Nguyên đơn : Một ngân hàng Pháp

Bị đơn : Một công ty Ma-rốc

Các vấn đề được đề cập:

− Bảo đảm thực hiện hợp đồng

− Bảo đảm độc lập

− Bảo đảm phụ thuộc

− Giám định kỹ thuật

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 20 tháng 9 năm 1982 một công ty xây dựng Pháp đã ký hợp đồng với một công ty Ma-rốc theo đó công ty Pháp sẽ xây dựng một khu liên hợp tại Ma-rốc với tổng trị giá công trình là 211.200.000 Frăng Pháp (FF) và 60.264.000 Dirhams. Hợp đồng này có điều khoản chọn trọng tài ICC.

Công ty xây dựng còn chấp nhận yêu cầu một Ngân hàng Pháp phát hành bảo đảm thực hiện hợp đồng với trị giá 20% tổng trị giá hợp đồng. Ngày 9 tháng 11 năm 1982, Ngân hàng Pháp, Nguyên đơn trong vụ việc này, đã phát hành một thư bảo đảm thực hiện với trị giá tối đa là 54.575.438,16 FF, tức là 20% trị giá hợp đồng. Ngân hàng tuyên bố trong giấy bảo đảm rằng:

"Bằng việc khước từ quyền tranh luận và quyết định của mình, chúng tôi chấp nhận trả toàn bộ hoặc một phần trong khoản tiền nói trên trên cơ sở yêu cầu bằng văn bản của quý công ty (Bị đơn), kèm theo một bản báo cáo chuyên môn được lập bởi một chuyên gia của Trung tâm giám định kỹ thuật quốc tế của Phòng Thương mại Quốc tế".

Hai bên thoả thuận với nhau là khoản tiền bảo đảm sẽ giảm xuống tương ứng với tiến độ hoàn thành công trình. Theo văn thư ngày 9 tháng 11 năm 1984, mọi tranh chấp liên quan đến việc bảo đảm sẽ được đưa ra ICC.

Năm 1984, giữa nhà thầu Pháp và chủ dự án Ma-rốc đã xảy ra tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng và hai bên đã đưa tranh chấp này ra ICC giải quyết ngày 10 tháng 9 năm 1985. Tố tụng trọng tài trong tranh chấp vẫn đang được tiến hành.

Ngày 10 tháng 10 năm 1985, công ty Ma-rốc yêu cầu Trung tâm giám định kỹ thuật quốc tế chỉ định một chuyên gia như yêu cầu trong thư bảo đảm năm 1984 của Ngân hàng Pháp. Ngày 12 tháng 11 năm 1985, Trung tâm đã chỉ định một chuyên gia người Thuỵ Sỹ, và chuyên gia này đã trình báo cáo vào tháng 4 năm 1986 trong đó có

106

nêu rõ phần công việc chưa thực hiện của nhà thầu Pháp tương ứng với khoản bảo đảm thực hiện là khoảng 16.902.000 FF và 13.076.000 Dirhams.

Ngày 21 tháng 4 năm 1986, công ty Ma-rốc yêu cầu Ngân hàng Pháp trả khoản tiền mà chuyên gia đã ấn định. Ngày 2 tháng 5 năm 1986, Ngân hàng từ chối trả tiền và ngày 22 tháng 5 năm 1986 đã khởi kiện ra trọng tài ICC.

Ngân hàng Pháp lập luận rằng bảo đảm cấp cho công ty Ma-rốc chỉ là một bảo đảm phụ thuộc và do đó nó phụ thuộc vào kết quả của trọng tài trong tranh chấp giữa công ty Pháp và công ty Ma-rốc. Ngân hàng cũng cho rằng ngay cả nếu bảo đảm này là bảo đảm chứng từ chỉ dựa trên yêu cầu duy nhất là báo cáo giám định thì báo cáo này cũng không hợp pháp vì việc lập báo cáo có gian lận. Cuối cùng, Nguyên đơn cho rằng do có các khó khăn trong việc giải thích báo cáo, bảo đảm này không thể được tự động thanh toán.

Phía công ty Ma-rốc lại lập luận rằng báo cáo đã được lập theo đúng qui định và đáp ứng được các yêu cầu nêu trong thư bảo đảm, và rằng thư bảo đảm có giá trị độc lập. Công ty này cũng kiện lại đòi được thanh toán khoản tiền mà chuyên gia đã ấn định (16.902.000 FF và khoản tiền tương đương với FF của 13.076.000 Dirhams), tiền lãi trên khoản tiền đó, phí trọng tài và phí cho báo cáo giám định và 1.500.000 FF để bù đắp cho các thiệt hại kinh tế đã phải gánh chịu.

Phán quyết của trọng tài:

A. Về khiếu kiện chính:

1. Bảo đảm độc lập hay Bảo đảm phụ thuộc?

Các thuật ngữ dùng trong thư bảo đảm không rõ ràng. Thực tế, một mặt Ngân hàng sử dụng các từ như bảo đảm thực hiện đúng của ngân hàng, bảo đảm liên đới, và khước từ quyền tranh luận và quyết định là đặc trưng của bảo đảm phụ thuộc. Mặt khác, Ngân hàng lại hứa sẽ thanh toán "trên cơ sở yêu cầu bằng văn bản của quý công ty (Bị đơn), kèm theo một báo cáo của chuyên gia”.

Ngân hàng đưa ra ba điểm mà theo Ngân hàng thì có thể xác định tính chất phụ thuộc của bảo đảm đó. Thứ nhất, Ngân hàng viện dẫn rằng Ngân hàng đã hứa sẽ trả “toàn bộ hoặc một phần” khoản tiền nêu trong thư bảo đảm vì việc trả này phụ thuộc vào việc thanh toán khoản tiền chính mà công ty xây dựng có thể phải trả. Thứ hai, trị giá của bảo đảm này sẽ giảm tương ứng với tiến độ hoàn thành công trình. Và thứ ba, Ngân hàng cho rằng sự tồn tại của một điều khoản trọng tài nhằm giải quyết những khó khăn trong việc giải thích và thực hiện bảo đảm cho thấy bản thân bảo đảm đó không thể thực hiện một cách tự động được.

Tuy nhiên, theo uỷ ban trọng tài ba khía cạnh này không đủ để xác định tính phụ thuộc hay tính độc lập của bảo đảm. Về điểm thứ nhất, hứa trả toàn bộ hay một phần là xuất phát từ thực tế công ty Ma-rốc có thể yêu cầu một khoản tiền nhỏ hơn tổng trị giá

107

khoản bảo đảm. Về điểm thứ hai, việc trị giá bảo đảm giảm tương ứng với tiến độ hoàn thành công việc hoàn toàn không có mối liên hệ gì với tính độc lập hay phụ thuộc của bảo đảm. Về điểm thứ ba, việc đưa một điều khoản trọng tài vào hợp đồng để giải quyết các khó khăn trong việc giải thích hay thực hiện bảo đảm không có nghĩa là bảo đảm đó không độc lập. Ngược lại, nếu như hiệu lực của bảo đảm phụ thuộc vào kết quả trọng tài giữa công ty Ma-rốc và công ty Pháp thì đã không phải qui định cho nó một thủ tục trọng tài thứ hai. Việc trị giá bảo đảm giảm tương ứng với tiến độ hoàn thành công việc cũng đủ để có thể làm phát sinh những khó khăn cần đến trọng tài.

Mặt khác, có một số thuật ngữ sử dụng trong bảo đảm lại thể hiện tính độc lập của bảo đảm này như hứa trả “trên cơ sở yêu cầu".

Như vậy, trong trường hợp này người ta thấy có sự mâu thuẫn giữa các từ “bảo đảm hoàn thành” và “bảo đảm liên đới” với hứa trả “trên cơ sở yêu cầu”. Uỷ ban trọng tài, do buộc phải lựa chọn giữa các từ ngữ mâu thuẫn này, và lấy làm tiếc là một ngân hàng mà lại để có tình trạng mâu thuẫn như vậy.

Sau khi xem xét, Uỷ ban trọng tài cho rằng đây là một bảo đảm ngân hàng dạng chứng từ, độc lập với nghĩa vụ chính và chỉ phụ thuộc vào yêu cầu xuất trình tài liệu. Thực tế, khi từ chối trả tiền vào ngày 2 tháng 5 năm 1986, Ngân hàng đã không nêu lý do là các nghĩa vụ của mình phụ thuộc vào kết quả giải quyết tranh chấp giữa công ty Ma-rốc và công ty Pháp mà chỉ khẳng định rằng bảo đảm này “không thể thực hiện được”.

Quyết đinh này của trọng tài căn cứ vào một số chi tiết sau đây:

Nếu đây không phải là một bảo đảm độc lập (tức là Ngân hàng chỉ bị ràng buộc với bảo đảm này sau khi tranh chấp giữa công ty Ma-rốc và công ty xây dựng Pháp đã được giải quyết) thì không thể giải thích tại sao lại có yêu cầu công ty Ma-rốc trình một báo cáo của chuyên gia để được nhận tiền bảo đảm từ phía Ngân hàng. Yêu cầu về bản báo cáo thực chất để tránh các yêu cầu đòi thanh toán bảo đảm vô căn cứ, chứ không đơn thuần chỉ là một bằng chứng “chính xác” về thiệt hại của công ty Ma-rốc mà Ngân hàng lập luận.

Thực tế, sự không rõ ràng trong các thuật ngữ được sử dụng cũng xuất phát từ thực tế đây là một giải pháp thoả hiệp giữa:

− Một bảo đảm phụ thuộc theo nghĩa hẹp mà Ngân hàng đã gợi ý trong văn thư đề ngày 10 tháng 10 năm 1984; phương thức này đã bị loại bỏ,

− Một bảo đảm độc lập theo gợi ý đầu tiên của Công ty Ma-rốc; phương thức này cũng bị loại bỏ.

Tuy nhiên, Ngân hàng vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ bảo đảm phụ thuộc (caution/surety) theo nghĩa thông thường của thuật ngữ này, tức là cùng nghĩa với thuật ngữ bảo đảm (guarantee) theo nghĩa rộng, chứ không phải là theo nghĩa pháp lý đặc trưng của nó. Do đó, Ngân hàng không thể lập luận rằng văn thư ngày 9 tháng 11 năm

108

1984 đã thiết lập một bảo đảm phụ thuộc.

Uỷ ban trọng tài, cho rằng ngân hàng trong trường hợp này đã lập một bảo đảm chứng từ cho công ty Ma-rốc hưởng lợi, đã quyết định rằng báo cáo do chuyên gia Thuỵ Sỹ lập là điều kiện cần và đủ, do chính Ngân hàng đặt ra, để thực hiện bảo đảm.

2. Về vấn đề gian lận hay không đúng qui định trong việc lập báo cáo:

Báo cáo giám định không hề nhằm tạo điều kiện thuận lợi hay thúc đẩy việc giải quyết tranh chấp giữa công ty Ma-rốc và công ty Pháp; báo cáo này là nhằm tránh những yêu cầu trả tiền không có căn cứ của công ty Ma-rốc, thông qua việc nhờ một chuyên gia có thẩm quyền và trung lập xác định trị giá yêu cầu của công ty Ma-rốc đối với công ty xây dựng Pháp, và dẫn tới việc thanh toán tự động khoản bảo đảm.

Báo cáo này không có mối liên hệ pháp lý với tố tụng trọng tài liên quan đến công ty xây dựng Pháp, bao gồm cả các trọng tài viên và các bên. Chuyên gia đã được chỉ định theo các yêu cầu trong thư bảo đảm và theo các qui tắc về giám định kỹ thuật nêu trong thư đó. Hơn nữa, không chỉ Ngân hàng mà cả công ty xây dựng Pháp đều được thông báo về việc chỉ định chuyên gia đó, chuyên gia này cũng đã đến gặp và nghe họ trình bày, đã đi thăm công trình thực địa và, theo yêu cầu của công ty Pháp, đã đến thăm một nơi khác tương tự. Vì thế trong việc lập báo cáo này không có gì là bất bình thường hay gian lận như đã từng thấy trong các vụ việc có liên quan đến bảo đảm ngân hàng. Vì vậy báo cáo này được chấp nhận.

3. Về vấn đề liệu các khó khăn trong việc giải thích báo cáo có làm cho bảo đảm trở thành không thể thực hiện được hay không:

Đây là lý do chính để Ngân hàng từ chối trả tiền bảo đảm với lập luận rằng những nhận xét của chuyên gia là không chính xác và rằng chuyên gia đã có sai lầm nghiêm trọng trong việc giải thích các điều khoản của hợp đồng, và rằng các kết luận trong báo cáo của chuyên gia chỉ mang tính giả thiết.

Trong vấn đề này cần xem lại những phân tích về bản chất của bảo đảm. Về mặt nguyên tắc, việc trình một báo cáo được lập bởi một chuyên gia được chỉ định theo đúng thoả thuận của các bên phải được coi là đủ để thực thi một bảo đảm của ngân hàng, dĩ nhiên với điều kiện là các kết luận của chuyên gia không trái với các viện dẫn của công ty Ma-rốc. Về mặt hình thức, nếu chuyên gia kết luận là không tồn tại quyền được hoàn trả thì yêu cầu của công ty Ma-rốc cũng không thể được đáp ứng. Ngược lại, sau khi đã nghiên cứu kỹ lưỡng, chuyên gia đã xác định chính xác trị giá các yêu cầu có thể của công ty Ma-rốc, và công ty Ma-rốc đã nêu khoản tiền này trong yêu cầu của mình.

Hơn nữa, kết luận mà chuyên gia đưa ra không phải là các giả thiết; chuyên gia đã phân loại các đánh giá và nhận xét thành ba loại khác nhau và cũng nhấn mạnh rằng các đánh giá của mình có thể thay đổi nếu tình hình thay đổi. Vì vậy, báo cáo của chuyên gia là hoàn toàn rõ ràng và minh bạch, các kết luận trong đó không hề mang tính giả thiết như lập luận của Nguyên đơn.

109

B. Về đơn kiện lại:

Từ các phân tích nêu trên có thể thấy Bị đơn, công ty Ma-rốc, có quyền yêu cầu thực hiện bảo đảm và hơn nữa, Nguyên đơn, Ngân hàng Pháp, phải bồi thường cho những thiệt hại phát sinh trực tiếp từ việc từ chối không thực hiện bảo đảm. Về vấn đề này, Bị đơn đã có căn cứ khi yêu cầu các khoản tiền sau đây ngoài khoản tiền do chuyên gia xác định:

− Tiền lãi trên số tiền nêu trên, bắt đầu tính từ ngày có thông báo yêu cầu trả tiền bảo đảm chính thức bằng thư bảo đảm ngày 21 tháng 4 năm 1986; tiền lãi này được tính toán theo luật của Pháp với lãi suất 9,5%/năm.

− Tiền bồi thường cho những thiệt hại vật chất và hệ quả của cùng nguyên nhân mà Bị đơn phải chịu, độc lập với việc trì hoãn thực hiện khoản bảo đảm.

Uỷ ban trọng tài xác định tổng số tiền thiệt hại phát sinh là 1.300.000 FF.

Bị đơn không có cơ sở để yêu cầu Nguyên đơn thanh toán các chi phí cho báo cáo giám định bởi chính công ty phải chịu chi phí này nếu công ty muốn được trả bảo hiểm.

Về phí trọng tài (phí hành chính cho ICC và thù lao cho các trọng tài viên), Uỷ ban trọng tài xác định các chi phí này sẽ được thanh toán theo tỷ lệ sau đây:

− Ngân hàng Pháp, Nguyên đơn chịu 3/4

− Công ty Ma-rốc, Bị đơn chịu 1/4.

110

PHÁN QUYẾT SỐ 27

TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN THƯ TÍN DỤNG

KHÔNG HUỶ NGANG

Các bên:

Nguyên đơn : Công ty Tây Ban Nha

Bị đơn : Ngân hàng Cô-oét

Các vấn đề được đề cập:

− Từ chối nhận hàng

− Định nghĩa và cách hiểu "Thư tín dụng không huỷ ngang"

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn, với tư cách là bên nhận uỷ thác cho một công ty Tây Ban Nha khác, đã bán một lô sản phẩm lương thực cho một Công ty Cô-oét. Về phần mình, vào ngày 1 tháng 7 năm 1978, Công ty Cô-oét đã mở tại ngân hàng của mình một thư tín dụng không huỷ ngang và chuyển nhượng được trị giá 76.244 đô la Mỹ cho công ty uỷ thác Tây Ban Nha thụ hưởng qua một ngân hàng Tây Ban Nha.

Hàng sẽ được giao thành hai chuyến, mỗi chuyến cách nhau 20 ngày muộn nhất là vào ngày 20 tháng 9 năm 1978. Tiền hàng cũng được thanh toán làm hai lần. Hàng giao theo giá C&F và áp dụng Quy tắc và Thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của ICC (bản sửa đổi năm 1974).

Có hai điều kiện được quy định cho thư tín dụng. Thứ nhất, Ngân hàng Tây Ban Nha sẽ tiến hành thanh toán khi nhận được một bộ đầy đủ vận đơn đường biển đã xếp hàng hoàn hảo. Thứ hai, Ngân hàng Tây Ban Nha sẽ phải đợi giấy phép do Ngân hàng Cô-oét (Bị đơn) cấp. Giấy phép này sẽ được cấp sau khi có thông báo của Công ty Cô-oét (Người mua) rằng họ đã nhận được hàng và hàng đã được cơ quan y tế Cô-oét tại cảng chấp nhận. Ngày 30 tháng 9 năm 1978, Ngân hàng Cô-oét đã sửa đổi lại điều kiện 2 rằng Ngân hàng sẽ cấp giấy phép trong vòng 75 ngày kể từ ngày nhận được vận đơn đường biển "với điều kiện là hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng và được cơ quan Y tế của chính phủ Cô-oét chấp nhận" mà không có ý kiến chấp nhận của người được hưởng lợi (Nguyên đơn).

Ngày 25 tháng 11 năm 1978, Ngân hàng Tây Ban Nha đã gửi bộ chứng từ của chuyến hàng thứ hai cho Bị đơn (Ngân hàng Cô-oét) và đã bị Bị đơn từ chối với lý do thời gian giữa hai chuyến giao hàng đã vượt quá 20 ngày. Ngân hàng Tây Ban Nha đã không chấp nhận điều này.

Do vậy Ngân hàng Cô-oét đã thuyết phục người mua Cô-oét chấp nhận điều

111

không đúng nguyên tắc trên, nhưng đồng thời Công ty Cô-oét vẫn đợi sự chấp nhận lô hàng của Bộ Y tế Cô-oét, cơ quan mà công ty Cô-oét nộp đơn xin kiểm tra hàng.

Hai ngày sau, ngày 13 tháng 2 năm 1979, Bị đơn thông báo rằng người mua Cô-oét đã từ chối hàng vì Cơ quan Y tế tại cảng đã cấp một giấy chứng nhận rằng hàng sẽ hết hạn sử dụng trong hai tháng nữa.

Ngân hàng Tây Ban Nha đã lập luận rằng giấy chứng nhận của Cơ quan y tế đã không bác bỏ hàng. Bị đơn vẫn giữ nguyên quan điểm của mình và lập luận rằng: lô hàng vẫn chưa được nhận bởi người mua (Công ty Cô-oét) và điều này được khẳng định sau đó bằng tuyên bố "theo thông lệ, hàng thực phẩm phải đủ độ tin cậy để lưu kho trong vòng 12 tháng".

Trong đơn kiện gửi trọng tài Nguyên đơn tuyên bố rằng việc Bị đơn từ chối bộ chứng từ là không hợp thức và yêu cầu được thanh toán khoản tiền 38.122 đô la Mỹ cộng lãi suất hàng năm 13% tính từ ngày 5 tháng 1 năm 1979.

Phán quyết của trọng tài:

Trước hết Uỷ ban trọng tài cho rằng lý do duy nhất mà hàng chưa thuộc quyền sở hữu của người mua Cô-oét, người mở thư tín dụng, là do họ đã từ chối lô hàng đó khi hàng đã đến nơi và giấy chứng nhận y tế cũng đã được cấp.

Vấn đề cần giải quyết là việc xác định rằng trong tình huống này liệu điều kiện "hàng hoá đã được nhận bởi người mở thư tín dụng" đã được thoả mãn hay chưa.

Uỷ ban trọng tài định nghĩa bản chất của thư tín dụng không huỷ ngang và cách mà người ta phải hiểu nó như sau:

− Một thư tín dụng không thể huỷ ngang là một sự cam kết chắc chắn của ngân hàng mở thư tín dụng rằng ngân hàng sẽ thanh toán nếu các điều kiện của thư tín dụng được thoả mãn, nếu thư tín dụng đó dùng để thanh toán (Điều 3 Quy tắc và Thực hành thống nhất tín dụng chứng từ).

− Bản chất của thư tín dụng không huỷ ngang là người hưởng lợi chắc chắn sẽ được thanh toán nếu xuất trình đúng bộ chứng từ.

− Một đặc tính cơ bản của tín dụng chứng từ là tính hình thức của nó. Các chứng từ được xuất trình chỉ có thể là đúng hoặc không đúng. Sự mập mờ ở đây không được chấp nhận.

− Một tín dụng chứng từ không được hiểu theo bất cứ 1 luật quốc gia nào mà các bên không có thoả thuận mà phải được hiểu theo các thông lệ được áp dụng cho đối tượng này trong thương mại quốc tế.

− Một đặc tính nữa của thư tín dụng là việc thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các bên. Chỉ cần các điều kiện trong thư tín dụng được thoả mãn và người hưởng lợi xuất trình đúng bộ chứng từ

112

thì việc thanh toán sẽ được thực hiện.

Bị đơn lập luận rằng trong trường hợp này, hàng giao không được người mở thư tín dụng chấp nhận, điều kiện "hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng" đã không được thoả mãn. Nói một cách khác việc thư tín dụng có được thanh toán hay không phụ thuộc vào thiện chí của người mở thư tín dụng. Việc hiểu điều kiện "hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng" như vậy mâu thuẫn với mục đích của thư tín dụng chứng từ theo đó việc thanh toán không được phụ thuộc vào thiện ý của người mở thư tín dụng, vì điều đó có nghĩa là tín dụng chứng từ không hề an toàn cho người hưởng lợi.

Bởi vậy Uỷ ban trọng tài cho rằng điều kiện "hàng được nhận bởi người mở thư tín dụng" cũng cần phải được hiểu ở cả nghĩa là người mở thư tín dụng đã có thể nhận được hàng nếu anh ta muốn (vì trên thực tế hàng đã đến nơi và người mua đã có đủ các điều kiện để nhận hàng). Như thế điều kiện này mới có ý nghĩa và chấp nhận được trong thương mại quốc tế.

Như vậy rõ ràng Bị đơn đã sai khi từ chối thanh toán Nguyên đơn.

Bởi vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định Nguyên đơn được hưởng số tiền là 38.122 USD.

Sau khi đưa ra phán quyết về khiếu nại chính, Uỷ ban trọng tài xét tiếp đến mức lãi suất hàng năm 13% tính từ tháng 2 năm 1979.

Nguyên đơn yêu cầu mức lãi suất là 13%/năm tính từ ngày 1 tháng 12 năm 1979. Bị đơn không phản đối yêu cầu này vì việc thanh toán đã không được thực hiện vào ngày đã định và mức lãi suất mà Nguyên đơn yêu cầu trong thời hạn nêu trên cũng không có gì là vô lý trong thương mại quốc tế. Vì thế, Uỷ ban trọng tài đã đồng ý với mức lãi suất nêu trên.

113

PHÁN QUYẾT SỐ 28

TRANH CHẤP VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG

VÔ ĐIỀU KIỆN

Các bên:

Nguyên đơn : Người cung cấp Mỹ

Bị đơn : Người mua Mỹ

Các vấn đề được đề cập:

− Tranh chấp có thể được giải quyết bằng trọng tài không

− Bảo đảm thực hiện vô điều kiện

− Vi phạm nghiêm trọng hợp đồng

− Tiếp tục thực hiện hợp đồng dù đang có tranh chấp

Tóm tắt vụ việc:

Bằng Hợp đồng mua bán ngày 12 tháng 7 năm 1982, Nguyên đơn cam kết cung cấp cho Bị đơn một số tủ văn phòng và tủ đựng quần áo. Sau đó, Bị đơn sẽ cung cấp số hàng hoá này cho một công ty Arập Xê-út (Khách hàng). Hợp đồng qui định tranh chấp phát sinh sẽ được giải quyết bằng trọng tài ICC tại Oa-sing-tơn.

Theo hợp đồng, trong vòng 15 ngày kể từ ngày ký hợp đồng Nguyên đơn phải cung cấp:

“Một bảo đảm thực hiện hợp đồng vô điều kiện và không hủy ngang có thể được [Bị đơn] chấp nhận, do một Ngân hàng Mỹ phát hành và xác nhận cho [Bị đơn] hưởng lợi với trị giá là 10% giá bán ... như là một bảo đảm cho Thoả thuận này” (sau đây gọi tắt là “L/C bảo đảm thực hiện”).

Một mẫu giấy bảo đảm được đính kèm với hợp đồng.

Theo hợp đồng, Bị đơn phải thanh toán bằng:

“Một thư tín dụng không huỷ ngang, có thể chuyển nhượng và tuần hoàn với trị giá tăng 25% tổng giá bán, thanh toán trong vòng 67 ngày kể từ ngày giao các chứng từ xác nhận việc nhận hàng. Thư tín dụng phải được mở cho Nguyên đơn hưởng lợi trong vòng 15 kể từ ngày nhận được chấp thuận của khách hàng” (sau đây gọi là “L/C thanh toán”).

Do một số khó khăn từ phía Nguyên đơn nên cho đến ngày 20 tháng 9 năm 1982 L/C Bảo đảm thực hiện cho Bị đơn hưởng lợi mới được mở và Bảo đảm này có qui định rằng thư chỉ có hiệu lực khi Bị đơn mở L/C thanh toán. Ngày 27 tháng 9 năm 1982, Bị đơn gửi telex cho Nguyên đơn thông báo L/C bảo đảm thực hiện không thể chấp nhận

114

được vì không đáp ứng qui định “vô điều kiện”. Telex này nêu rằng Nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng và rằng “nếu Nguyên đơn cung cấp một bảo đảm có thể chấp nhận được thì hai bên sẽ bàn bạc về khả năng tiếp tục thực hiện hợp đồng”. Nguyên đơn trả lời bằng văn thư ngày 29 tháng 9 năm 1982 rằng “vì điều kiện duy nhất của chúng tôi hoàn toàn thuộc quyết định của quý công ty, tức quyết định mở L/C thanh toán, nên thực tế L/C bảo đảm thực hiện này là vô điều kiện đối với quý công ty”. Bị đơn trả lời bằng telex ngày 4 tháng 10 năm 1982 rằng điều kiện mà Nguyên đơn nêu ra khiến cho L/C bảo đảm này trở thành có điều kiện. Bị đơn kết luận rằng “mặc dù chúng tôi đã cho quý công ty hơn 60 ngày để cấp một bảo đảm có thể chấp nhận được nhưng quý công ty đã không làm được việc này. Trong trường hợp này chúng tôi không còn lựa chọn nào khác là huỷ hợp đồng với quý công ty do lỗi của quý công ty. Chúng tôi sẽ mua hàng từ một bên thứ ba.”

Nguyên đơn đã khởi kiện ra trọng tài ngày 22 tháng 11 năm 1982 khẳng định rằng Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, thể hiện qua việc từ chối mở L/C thanh toán cho Nguyên đơn hưởng lợi và không thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng trong khi chờ đợi kết quả trọng tài, đồng thời đòi bồi thường các thiệt hại phát sinh từ các vi phạm này.

Trọng tài phải giải quyết những vấn đề sau đây: (1) Tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài hay không, (2) Bị đơn có vi phạm hợp đồng không khi đơn phương chấm dứt hợp đồng, và (3) nếu có thì Nguyên đơn có thiệt hại gì. Trọng tài quyết định rằng tranh chấp có thể được giải quyết bằng trọng tài và việc Bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng không phải là một vi phạm hợp đồng, do đó Nguyên đơn không được bồi thường cho các thiệt hại là hệ quả của việc chấm dứt này.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về khả năng có thể giải quyết tranh chấp bằng trọng tài:

Điều khoản trọng tài trong hợp đồng qui định áp dụng cho “tất cả các tranh chấp phát sinh theo hay có liên quan đến, hoặc về bất kỳ vi phạm nào đối với Hợp đồng này...”. Đây chính là một tranh chấp như vậy.

Bị đơn lập luận rằng điều khoản này không thể được áp dụng bởi hợp đồng qui định rằng “Thoả thuận này có hiệu lực phụ thuộc vào văn bản chấp thuận của Khách hàng”. Thực tế đã không có một chấp thuận như vậy, và do đó điều khoản trọng tài chưa từng bao giờ có hiệu lực.

Uỷ ban trọng tài cho rằng lập luận này không thuyết phục bởi cũng giống như một số qui định khác trong hợp đồng (ví dụ, qui định Nguyên đơn phải hợp tác hỗ trợ với Bị đơn trong việc đạt được chấp thuận từ phía Khách hàng, hay Nguyên đơn phải thông báo chi tiết về giảm giá hàng trong vòng 30 ngày kể từ khi ký hợp đồng, và nghĩa vụ mở L/C bảo đảm thực hiện của Nguyên đơn), điều khoản trọng tài được ký kết với ý định là sẽ có hiệu lực từ thời điểm hợp đồng được ký kết và trước khi có văn bản chấp

115

thuận của Khách hàng, dù nhiều qui định khác trong hợp đồng chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm có văn bản chấp thuận.

Không hề có cơ sở nào để kết luận rằng các bên có ý định đưa ra giải quyết tại toà án các tranh chấp phát sinh trước khi có chấp thuận của Khách hàng và chỉ đưa ra trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh sau thời điểm đó. Thực tế, Bị đơn đã đúng khi lập luận rằng các nghĩa vụ hợp đồng của các bên chưa bao giờ có hiệu lực, nhưng Bị đơn cũng không thể bác bỏ vụ việc này bởi nếu thế nghĩa vụ mở L/C bảo đảm thực hiện của Nguyên đơn cũng không thể phát sinh và như vậy Bị đơn chẳng có căn cứ nào để chấm dứt hợp đồng.

2. Bảo đảm thực hiện vô điều kiện (unconditional performance guarantee):

Uỷ ban trọng tài cho rằng Nguyên đơn đã không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tức không mở L/C bảo đảm thực hiện vô điều kiện, không huỷ ngang và có thể được Bị đơn chấp nhận. Điều này được lý giải như sau:

Thứ nhất, thuật ngữ “vô điều kiện” được định nghĩa một cách thông thường là “không bị hạn chế hay ảnh hưởng bởi bất kỳ điều kiện nào” (Từ điển Black's Law tr. 1367 - xuất bản lần thứ 5, năm 1979). Theo định nghĩa này, L/C bảo đảm thực hiện của Nguyên đơn không thể được coi là “vô điều kiện”, vì nó bị hạn chế bởi điều kiện là bảo đảm sẽ không có hiệu lực cho đến khi Bị đơn mở L/C thanh toán.

Cách hiểu của Nguyên đơn cũng có thể được chấp nhận nếu Nguyên đơn dẫn được ra các chứng cứ có sức thuyết phục về thông lệ thương mại quốc tế hoặc về ý định thực của các bên. Nhưng Nguyên đơn đã không đưa ra được chứng cứ nào như vậy.

Trong khi các chứng cứ hiện có cho thấy Nguyên đơn tin rằng điều khoản mà mình đưa vào thư bảo đảm là được phép, Uỷ ban trọng tài lại cho rằng thực tế hai bên chưa hề có thoả thuận nào về việc này. Khả năng về điều khoản này đã được các đại diện của Nguyên đơn và Bị đơn bàn bạc trước khi ký kết hợp đồng nhưng chưa đạt được một sự thống nhất nào, và, ngay cả khi được coi như là đã được các bên nhất trí, khả năng này cũng bị vô hiệu hoá bởi điều khoản thống nhất cuối cùng (điều khoản về "vô điều kiện") được đưa vào hợp đồng ký sau đó. Hợp đồng, có đính kèm một bản thư bảo đảm thực hiện, không ủng hộ lập luận của Nguyên đơn.

Sau khi ký kết hợp đồng, Nguyên đơn và Bị đơn cũng đã có gặp gỡ để thảo luận về việc sửa đổi hợp đồng nhưng không đi đến một thoả thuận nào. Vì thế không hề có một sửa đổi nào đối với hợp đồng cho phép một bảo đảm có điều kiện.

Từ các lập luận nêu trên, uỷ ban trọng tài đồng ý với lập luận của Bị đơn rằng Nguyên đơn đã thực hiện không đúng hợp đồng và thoả thuận giữa họ với nhau chưa hề được sửa đổi.

Thứ hai, Hợp đồng nêu một cách rõ ràng rằng Nguyên đơn phải mở một thư bảo đảm thực hiện vô điều kiện “có thể được Bị đơn chấp nhận”. Khi L/C bảo đảm thực hiện được phát hành, Bị đơn đã thông báo cho Nguyên đơn rằng L/C bảo đảm này

116

không thể chấp nhận được. Quan điểm này của Bị đơn không phải là không có căn cứ. Bị đơn đã cho Nguyên đơn cơ hội để sửa lại khiếm khuyết này và lập một thư bảo đảm khác có thể chấp nhận được nhưng Nguyên đơn đã không làm được việc này. Do đó có thể kết luận rằng Nguyên đơn đã không cung cấp được một thư bảo đảm thực hiện đáp ứng được yêu cầu của hợp đồng.

3. Về vi phạm nghiêm trọng hợp đồng và việc tiếp tục thực hiện hợp đồng:

Uỷ ban trọng tài cho rằng với vi phạm này của Nguyên đơn, Bị đơn có quyền chấm dứt hợp đồng. Nguyên đơn cho rằng việc chấm dứt này là không được phép, bởi (a) vi phạm này không nghiêm trọng, và (b) điều khoản trọng tài qui định Bị đơn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng dù đang có tranh chấp. Uỷ ban trọng tài bác lập luận này của Nguyên đơn vì những lý do sau đây:

Một là, Uỷ ban trọng tài cho rằng đây là một vi phạm nghiêm trọng đối với hợp đồng trên cơ sở chứng cứ do Bị đơn trình liên quan đến tầm quan trọng của việc có một thư bảo đảm thực hiện có giá trị, Điều 241(a) Luật Hợp đồng năm 1981.

Hai là, điều khoản trọng tài qui định giải quyết bằng trọng tài "tất cả các tranh chấp phát sinh theo hay có liên quan đến, hoặc về bất kỳ vi phạm nào đối với Hợp đồng này...” nhưng chỉ qui định nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng khi tố tụng trọng tài đang được tiến hành trong trường hợp các tranh chấp “phát sinh theo” hợp đồng. Vì đây là tranh chấp liên quan đến vi phạm hợp đồng, một dạng tranh chấp mà khi pđược loại trừ khỏi yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng nên Bị đơn không có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng. Vì Nguyên đơn hoàn toàn không có ý định cung cấp một thư bảo đảm thực hiện mà Bị đơn có thể chấp nhận được, và với tính chất nghiêm trọng của vi phạm nên Bị đơn hoàn toàn có lý khi tìm một người cung cấp khác thay thế để Bị đơn có thể thực hiện được các nghĩa vụ của Bị đơn đối với các khách hàng của mình.

117

PHÁN QUYẾT SỐ 29

TRANH CHẤP TÌNH TRẠNG AN TOÀN CỦA CẦU BẾN

Các bên:

Nguyên đơn : Công ty gửi hàng

Các Bị đơn : Công ty vận tải hàng hải

Công ty khai thác cầu cảng

Các vấn đề được đề cập:

− Hợp đồng thuê tàu định hạn

− Các thiệt hại phải chịu do bão

− Cầu bến an toàn

− Trách nhiệm

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 15 tháng 5 năm 1970 Nguyên đơn và Công ty vận tải hàng hải, Bị đơn thứ nhất, ký kết một hợp đồng thuê tàu định hạn để vận chuyển một lượng amoni-sun phát dạng rời từ Hopewell và Norfolk, Mỹ đến Manzanillo, Mexico.

Theo các chỉ dẫn của Công ty khai thác cầu cảng, Bị đơn thứ hai, tàu ghé mạn đông cầu cảng Fiscal trong cảng Manazanillo để dỡ hàng ngày 11 tháng 3 năm 1972. Tàu đã cập được cầu cảng nhưng phần đuôi tàu lại hơi nhô ra so với chiều dài của cầu cảng. Sau khi đã cập cầu cảng, thuyền trưởng nhận thấy thành cầu thiếu các đệm chắn chống va đập và đã phàn nàn về điều này với đại lý của tàu. Trong thời gian neo tại cầu cảng, tàu đã phải chịu một cơn bão lớn và đã phải sử dụng tất cả các dây neo tàu và đệm chắn mà tàu được trang bị nhưng vẫn không tránh khỏi một số thiệt hại về vật chất đối với tàu.

Trong thời gian đó, thuyền trưởng đã cố gắng liên hệ qua điện thoại với đại lý của công ty thuê tàu ở New York để yêu cầu một cầu cảng khác nhưng không thể liên lạc được. Tàu vẫn ở cầu cảng Fiscal và bắt đầu dỡ hàng cho đến chiều ngày 15 tháng 3 năm 1972 mới nhận được chỉ thị của đại lý của người thuê tàu yêu cầu tàu di chuyển đến khu thả neo.

Trong thông báo ngày 14 tháng 3 năm 1972 thuyền trưởng đã nêu rằng khi cập cầu cảng ngày 11 tháng 3 năm 1972, thuyền trưởng đã kiểm tra và thấy rằng cầu cảng này không an toàn để dỡ hàng. Trong một tuyên bố sau đó ngày 30 tháng 3 năm 1972, thuyền trưởng nhấn mạnh rằng có thể có một cơn bão lớn sẽ xảy ra do có những cơn gió dữ dội trước đó.

Nguyên đơn đòi 200.130 USD cho các thiệt hại mà tàu đã phải chịu do bão khi

118

đang neo tại cầu cảng Fiscal.

Phán quyết của trọng tài:

Uỷ ban trọng tài kết luận rằng mạn đông của cầu cảng Fiscal trong cảng Manzanillo là một cầu cảng an toàn và rằng dù tàu có phải chịu những thiệt hại về vật chất thì đấy là do lỗi của thuyền trưởng đã không thực hiện các bước cần thiết để bảo vệ tàu bằng cách di chuyển tàu tới khu thả neo.

Uỷ ban trọng tài cũng nhắc lại lập luận của Nguyên đơn rằng cầu tàu này không an toàn theo nghĩa của Điều 6 Hợp đồng thuê tàu, theo đó “hàng hoá ... được bốc lên tàu và/hoặc dỡ xuống ở bất kỳ một vũng đậu tàu, cầu cảng hay bất kỳ một địa điểm nào mà bên thuê tàu hay đại lý của bên thuê tàu chỉ định, với điều kiện tàu có thể nổi một cách an toàn ngay cả khi nước ròng”. Uỷ ban cũng chỉ ra rằng mặc dù thuyền trưởng đã thể hiện mối lo ngại về tình hình đang xấu dần nhưng đã không thực hiện bất kỳ một khiếu nại chính thức nào cũng như yêu cầu hoa tiêu hay tàu kéo trợ giúp khi bão trở nên dữ dội. Mặc dù sau đó có một số phản đối của thuyền trưởng nhưng không hề có một yêu cầu chính thức nào về việc di chuyển tàu đến khu thả neo cho đến tận ngày 14 tháng 3 năm 1972.

Uỷ ban trọng tài cho rằng đáng lẽ thuyền trưởng phải hành động nhanh hơn và kiên quyết hơn trong việc di chuyển tàu khi bão tăng dần, và rằng các thông tin về cảng và cầu tàu trong các chỉ thị về cách thức di chuyển đáng lẽ phải lưu ý thuyền trưởng về các điều kiện có thể gặp phải tại cảng. Có thể thuyền trưởng cho rằng để di chuyển tàu thì cần phải được phép. Đây là một suy nghĩ sai, do dó không thể là căn cứ miễn trách cho việc thuyền trưởng đã không di chuyển tàu ra khỏi cầu cảng trước khi tàu bị thiệt hại.

Uỷ ban trọng tài kết luận cầu cảng Fiscal ở Manzinillo là một cầu cảng an toàn nhưng có thể trở nên nguy hiểm do các điều kiện thời tiết. Uỷ ban cũng lưu ý thêm rằng hiện tượng những cơn bão ngoài khơi có thể gây ra bão trong cảng không phải là bất bình thường đối với các cảng và cầu tàu dọc bờ biển phía tây khu vực Trung và Nam Mỹ. Uỷ ban kết luận rằng “Kỹ năng điều khiển tàu tốt đòi hỏi các thuyền trưởng phải nhận thức được khi nào thời tiết thay đổi cần phải rời cầu cảng đến khu thả neo. Các điều kiện thời tiết tạm thời nhưng không phải là không dự tính được không làm một cầu tàu trở thành cầu cảng mất an toàn”.

Bình luận và lưu ý:

Bản thân cầu cảng là an toàn. Trong điều kiện thời tiết đang xấu dần (do bão) lẽ ra thuyền trưởng phải quyết đoán và cho tàu di dời. Song trường hợp này thuyền trưởng đã e ngại không dám quyết định vì vậy Bị đơn được miễn trách nhiệm đối với những thiệt hại vật chất mà tàu phải chịu.

119

PHÁN QUYẾT SỐ 30

TRANH CHẤP VỀ THỜI GIAN GIA HẠN DỠ HÀNG

Các bên:

Nguyên đơn : Công ty vận tải hàng hải

Bị đơn : Công ty thuê tàu

Các vấn đề được đề cập:

− Hợp đồng thuê tàu chuyến

− Thời hạn dỡ hàng/Thời hạn gia hạn dỡ hàng

− Điều khoản lõng hàng

− Các khiếu kiện về việc thực hiện hợp đồng

− Bảo đảm bơm nước dằn tàu

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 27 tháng 5 năm 1983 Nguyên đơn, chủ sở hữu tàu, ký với Bị đơn, bên thuê tàu, một hợp đồng thuê tàu chuyến theo mẫu Asbatankvoy chở tối thiểu 117.000 tấn dầu thô từ Ecuador đến bờ biển phía tây nước Mỹ.

Tàu đã nhận 111.500 tấn dầu thô tại Balao, Ecuador và đi đến Vịnh Mỹ ngày 24 tháng 6 năm 1983. Bị đơn chỉ thị tàu phải lõng hàng cho nhẹ bớt tại khu vực thả neo phục vụ dỡ hàng xuống sà lan ở South West Pass, sông Missisippi để có thể vào được bến cuối là Capline Terminal, St James, Louisiana với mớn nước qui định là 38 feet.

Tàu đến khu vực thả neo dỡ hàng ngày 28 tháng 7 năm 1983, sau khi dỡ 43.000 tấn dầu thô xuống sà lan Freeport Chief, đêm ngày 29 tháng 7 năm 1983 tàu tiếp tục hành trình đến Capline Terminal. Sáng ngày 30 tháng 7 năm 1983 tàu phải thả neo tại Dockside Anchorage theo lệnh cấm qua lại của Cảnh sát biển Hoa Kỳ do có một tàu khác bị mắc cạn trong kênh đào gần Beltmont Crossing. Sáng ngày 31 tháng 7 năm 1983 tàu tiếp tục đi đến Capline Terminal nhưng một lần nữa bị buộc phải dừng lại vì các lệnh cấm ở Beltmont Crossing do cùng nguyên nhân nêu trên.

Cuối cùng tàu đến Capline Terminal ngày 1 tháng 8 năm 1983, bắt đầu dỡ 68.500 tấn dầu thô còn lại trên tàu từ 23h30 cùng ngày. Việc dỡ hàng hoàn thành vào 14h05 ngày 3 tháng 8 năm 1983 và tàu rời bến lúc 22h30 ngày 3 tháng 8 năm 1983 sau khi đã bơm nước dằn tàu.

Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn trả 53.250 USD tiền bồi thường do tàu bị lưu giữ quá thời hạn (thời gian gia hạn dỡ hàng) còn Bị đơn thì cho rằng Bị đơn không chịu bất kỳ trách nhiệm gì cho thời gian dỡ hàng chậm này. Tranh chấp xoay quanh câu hỏi khoảng thời gian tàu bị chậm lại trên đường đến nơi dỡ hàng và thời gian tàu bơm nước ở St

120

James có được tính vào thời gian dỡ hàng chậm hay không.

Phán quyết của trọng tài:

Các bên đều đồng ý rằng khoảng thời gian qui định cho việc dỡ hàng đã hết khi tàu ở khu thả neo để dỡ hàng xuống sà lan, và từ sau đó là thời gian gia hạn dỡ hàng của tàu. Nguyên đơn cho rằng toàn bộ thời gian sau đó cho đến khi tàu hoàn thành việc dỡ hàng tại Capline Terminal, bao gồm cả thời gian tàu di chuyển từ khu thả neo dỡ hàng xuống sà lan đến nơi dỡ hàng cuối cùng, phải được tính là thời gian gia hạn dỡ hàng. Lập luận mà Nguyên đơn đưa ra là trong trường hợp này học thuyết “một khi đã bị phạt vì dỡ hàng chậm thì mọi khoảng thời gian sau đó đều được tính vào thời gian dỡ hàng chậm” (once on demurrage always on demurrage) phải được áp dụng vì ở đây không hề có một loại trừ rõ ràng nào trong việc tính thời hạn dỡ hàng. Nguyên đơn cho rằng các qui định tại Điều khoản số 6, Điều khoản về Thông báo Sẵn sàng chỉ cho phép có các loại trừ đối với thời gian dỡ hàng đã thoả thuận chứ không áp dụng đối với thời gian gia hạn dỡ hàng.

Trong khi đó Bị đơn lập luận rằng mặc dù câu cuối cùng của Điều khoản số 6 trong Hợp đồng chỉ qui định các trường hợp loại trừ trong việc tính thời gian dỡ hàng nhưng việc đưa vào Hợp đồng thuê tàu Điều khoản Arco - Lõng hàng (Arco Lighterage Clause) đã mở rộng phạm vi áp dụng các loại trừ này cho việc tính toán thời gian dỡ hàng và/hoặc thời gian gia hạn dỡ hàng trong trường hợp trước khi dỡ hàng chính thức có thực hiện việc dỡ hàng xuống sà lan cho nhẹ bớt tàu. Điều khoản Arco- Lõng hàng qui định thời gian tàu di chuyển không được tính vào thời gian dỡ hàng hay thời gian gia hạn dỡ hàng (nếu được gia hạn thời gian dỡ hàng).

Về phần tranh chấp liên quan tới thời gian tàu bơm nước dằn tàu, Nguyên đơn bác bỏ lập luận của Bị đơn cho rằng tàu không có khả năng duy trì lan can tàu ở mức 100psi hoặc không có khả năng dỡ toàn bộ số hàng trong vòng 24 tiếng. Nguyên đơn cho rằng cột cầu cảng không đủ khả năng để đáp ứng yêu cầu của tàu. Bị đơn đã trừ đi 22 giờ 11 phút trong khoảng thời gian gia hạn dỡ hàng do tàu không bảo đảm được khả năng về nước dằn tàu. Báo cáo cho thấy trên thực tế tàu mất tổng cộng 55 giờ 45 phút để dỡ hàng ở khu thả neo và tại bến cuối và trong thời gian dỡ hàng ở Capline Terminal, áp lực bơm của tàu chưa bao giờ vượt quá 70psi và thường là ở mức thấp hơn.

Ý kiến của đa số trọng tài viên cho rằng yêu cầu của Nguyên đơn về tiền bồi thường thời gian gia hạn dỡ hàng là không thể chấp nhận được. Uỷ ban trọng tài kết luận thời gian tàu di chuyển không được tính vào thời gian dùng để dỡ hàng ngay cả khi tàu đang trong thời gian gia hạn dỡ hàng. Uỷ ban trọng tài nhấn mạnh rằng thời gian di chuyển tàu không thể được tính vào thời gian dỡ hàng cũng như thời gian gia hạn dỡ hàng và hoạt động dỡ hàng xuống sà lan trong vụ việc này là một phần và có liên quan trực tiếp đến việc tàu ghé vào St James theo các chỉ thị về dỡ hàng của Bị đơn. Những cản trở khiến tàu bị chậm trễ khi di chuyển từ khu thả neo đến nơi dỡ hàng chính thức là một sự kiện nhất thời, không thể dự tính trước và đã được sửa chữa nhanh chóng.

121

Uỷ ban trọng tài cho rằng không thể chứng minh được là Bị đơn đã không ấn định một địa điểm dỡ hàng an toàn và có thể ra vào được, mặc dù để đến được địa điểm này tàu cũng gặp phải một vài khó khăn. Rõ ràng là tàu dỡ hàng xuống sà lan với sự nhận thức đầy đủ là sau đó tàu phải tiếp tục đến St James để dỡ hàng tại Capline. Do đó, khi Bị đơn đưa ra các yêu cầu về dỡ hàng ngày 25 tháng 7 năm 1983, nơi dỡ hàng ở Capline hoàn toàn có thể ra vào được và lúc đó không có con tàu nào bị mắc cạn ở Belmont Crossing.

Về khiếu nại của Bị đơn rằng tàu không đáp ứng bảo đảm nước dằn tàu theo hợp đồng vận chuyển, Uỷ ban trọng tài cho rằng Nguyên đơn có trách nhiệm phải chứng minh rằng tàu đạt được mức 100 psi tại lan can. Thực tế Nguyên đơn đã không chứng minh được điều này.

Từ các lập luận nêu trên, Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường do tàu bị lưu giữ quá hạn.

Ý kiến bảo lưu

Một thành viên của Uỷ ban trọng tài có ý kiến bảo lưu cho rằng: “Học thuyết một khi đã bị phạt vì dỡ hàng chậm thì mọi khoảng thời gian sau đó đều được tính vào thời gian dỡ hàng chậm" được áp dụng rất rộng rãi và nó rất có ý nghĩa trong thương mại. Các khấu trừ đối với thời gian gia hạn dỡ hàng chỉ có thể thực hiện khi được nêu rõ trong hợp đồng vận chuyển và vì trong vụ việc này, đối tượng khấu trừ duy nhất có thể được chấp nhận, tức khoảng thời gian từ khi dỡ hàng xuống sà lan cho đến khi đến cảng dỡ hàng theo qui định, không được qui định trong hợp đồng nên lập luận của Nguyên đơn là có thể chấp nhận được”.

Theo trọng tài viên này, trong vụ việc này thậm chí cũng không cần phải dựa trên học thuyết này mà chỉ cần dựa trên các chứng cứ mà Bị đơn trình cũng có thể bác bỏ lập luận của Bị đơn. Trọng tài viên này cho rằng quyết định của Bị đơn chỉ dẫn tàu đi vào Capline với mớn nước 38 feet là một vi phạm đối với Điều khoản Arco - Lõng hàng và do đó Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho những trì hoãn trên đường đi. Theo trọng tài viên này thì Uỷ ban trọng tài đáng lẽ phải thấy rằng Bị đơn có nghĩa vụ giảm mức mớn nước qui định để tàu có thể cập cảng ở St James hoặc phải chỉ định một cảng và địa điểm dỡ hàng khác mà tàu có thể cập vào với mức mớn nước của mình.

Về thời gian bơm nước dằn tàu, trọng tài viên này hoàn toàn không đồng ý với quan điểm cho rằng việc bảo đảm khả năng của tàu là một bảo đảm thực hiện tuyệt đối và theo ông thì bảo đảm này không bao giờ áp dụng cho việc vận chuyển đường biển liên hợp và dỡ hàng tại địa điểm lựa chọn.

Theo trọng tài viên này Nguyên đơn phải được hưởng tiền bồi thường cho thời gian gia hạn dỡ hàng là 87.175 USD.

Bình luận và lưu ý:

122

Học thuyết “một khi đã bị phạt vì bốc, dỡ hàng chậm thì luôn luôn bị phạt, không có miễn trừ” là một học thuyết rất phổ biến trong luật hàng hải Anh - Mỹ, nhất là khi áp dụng trong các hợp đồng thuê tàu chuyến. Luật Anh- Mỹ cho rằng một khi đã bị phạt có nghĩa là người thuê đã vi phạm hợp đồng thuê tàu và khi đã vi phạm hợp đồng rồi thì không được hưởng miễn trừ nữa. Điều này phải được cân nhắc kỹ lưỡng khi chấp nhận nguồn luật áp dụng cho hợp đồng thuê tàu, đặc biệt trong các hợp đồng nhập khẩu hàng rời theo điều kiện CIF hoặc CFR, tức là một loại hợp đồng mua bán mà khâu thuê tàu do người bán đảm nhận. Người bán rất dễ chấp nhận luật Anh áp dụng cho hợp đồng thuê tàu - hợp đồng mà người mua không kiểm soát được vì INCOTERMS 2000 qui định người bán không có nghĩa vụ phải cung cấp một bản hợp đồng thuê tàu cho người mua như trong INCOTERMS 1990. Người mua Việt Nam cần lưu ý vấn đề này khi ký kết hợp đồng nhập khẩu CIF hay CFR.

123

PHÁN QUYẾT SỐ 31

TRANH CHẤP VỀ THỜI GIAN ĐỢI CẦU BẾN

Các bên:

Nguyên đơn : Chủ tàu

Bị đơn : Công ty thuê tàu

Các vấn đề được đề cập:

− Thời gian chờ đợi cầu bến

− Cầu bến chưa sẵn sàng

− Rủi ro hàng hải

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn và Bị đơn ký kết một hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Nguyên đơn có nghĩa vụ chở hàng đến Le Havre.

Ngày 29 tháng 7 tàu đến nơi nhưng phải thả neo lúc 13h 42 phía ngoài cảng do nước ròng. Vào thời điểm đó cầu cảng cũng không ở trong tình trạng sẵn sàng do đang có một tàu khác tại cầu cảng. Tàu phải đợi mức nước triều cường tiếp theo.

Các bên đồng ý rằng trong mọi trường hợp, ngay cả khi cầu cảng không bận, thì tàu cũng không thể vào cảng trước 20h30, tức là 6 giờ 48 phút kể từ khi thả neo do phải đợi triều cường.

Thực tế thì mãi đến 19h00 ngày 4 tháng 8 cầu cảng mới trống, nhưng phải đến 23h54 cùng ngày khi có triều cường tàu mới nhổ neo để vào cầu.

Tranh chấp liên quan đến khoảng thời gian 6 giờ 48 phút mà tàu phải chờ để vào cầu cảng.

Nguyên đơn cho rằng thời gian chờ đợi bắt đầu từ khi tàu đến nơi thả neo do đó Bị đơn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khoảng thời gian này. Trong khi đó, Bị đơn cho rằng việc chờ đợi là do nước ròng nên tàu không thể tiếp cận cầu cảng, vì vậy Bị đơn không phải chịu bất kỳ trách nhiệm gì.

Phán quyết của trọng tài:

Uỷ ban trọng tài đã ra phán quyết chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn và đã trích dẫn lại lý do trong Phán quyết số 371 ngày 15 tháng 10 năm 1980 của Phòng Trọng tài Hàng hải Paris:

"Chủ tàu chỉ phải chịu mọi rủi ro liên quan đến việc di chuyển thực tế của tàu phát sinh khi cầu cảng nơi tàu phải cập ở trong tình trạng sẵn sàng”

124

Theo quan điểm của Bị đơn, chủ tàu phải chịu trách nhiệm cho cả hai lần tàu không thể vào cầu cảng do điều kiện nước ròng. Lần thứ nhất là khi tàu mới đến vì về mặt lý thuyết, tàu không thể cập cầu cảng được ngay cả nếu lúc đó cầu cảng ở tình trạng sẵn sàng. Lần thứ hai là khi cầu cảng đã sẵn sàng nhưng tàu vẫn không vào được cầu cảng.

Uỷ ban trọng tài bác lập luận của Bị đơn với lý do không thể bắt chủ tàu chịu trách nhiệm hai lần nói trên khi những rủi ro đó là hậu quả trực tiếp của việc Bị đơn không thực hiện nghĩa vụ bảo đảm cầu cảng ở trạng thái sẵn sàng làm hàng khi tàu đến.

Bình luận và lưu ý:

Một chuyên gia của Phòng Trọng tài Hàng hải Paris đã bình luận vụ việc này như sau:

Đây là một phán quyết có tính nguyên tắc bởi các bên muốn sử dụng cách giải quyết của Uỷ ban trọng tài trong vụ việc này để giải quyết một số tranh chấp khác có trị giá kinh tế lớn hơn.

Rõ ràng là có thể có một số rủi ro khác ngoài thuỷ triều có thể khiến tàu chậm trễ trong việc cập cầu, dù đó là sự kiện tự nhiên hay là hậu quả của hành động của con người, và có thể khiến tàu bị chậm không chỉ vài giờ mà còn có thể là vài ngày hay vài tuần.

Một số ý kiến khác cho rằng sẽ là công bằng hơn nếu những rủi ro tồn tại vượt khỏi tầm kiểm soát của chủ tàu sau khi tàu đến là thuộc trách nhiệm của chủ tàu hơn là thuộc trách nhiệm của người thuê tàu khi cầu cảng sau đó đã sẵn sàng làm hàng. Tuy vậy, quan niệm này vấp phải một trở ngại không thể vượt qua là không ai được quyền xác định hậu quả của một lượng lớn các rủi ro hàng hải khi mà bản thân tàu không hề trực tiếp đương đầu với một rủi ro nào.

Một trận gió mạnh, sương mù hay một cuộc đình công có thể là một trở ngại không thể vượt qua đối với một số tàu nhưng lại không phải như vậy đối với những tàu khác. Đúng là chính thuyền trưởng chứ không phải ai khác là người phải quyết định có đối mặt với những rủi ro đó hay không. Tuy nhiên, đây không phải là một tiêu chí chính xác bởi quyết định là một chuyện còn có đạt được hay không lại là một chuyện khác.

Uỷ ban trọng tài được yêu cầu phải đưa ra một nguyên tắc chung có thể áp dụng trong mọi trường hợp. Do đó Uỷ ban trọng tài cho rằng cần phải khẳng định nguyên tắc: các hậu quả của các rủi ro hàng hải chỉ có thể được tính khi chúng là những sự kiện thực tế và phải được bỏ qua nếu ngược lại.

Khi tàu đã trở thành tàu đến (arrived ship) nghĩa là tàu đã ở trạng thái sẵn sàng làm hàng. Nếu vì một lý do nào đó (trừ bất khả kháng) mà cầu cảng không sẵn sàng thì tàu vẫn có quyền tính các khoảng thời gian chờ đợi. Trong trường hợp này, khi tàu đến, cầu cảng chưa sẵn sàng làm hàng, do đó tàu được quyền tính thời gian chờ đợi không

125

phụ thuộc vào việc khi đó bản thân tàu có thể cập cảng hay không.

126

PHÁN QUYẾT SỐ 32

TRANH CHẤP VỀ KHẢ NĂNG ĐI BIỂN CỦA TÀU

Các bên:

Nguyên đơn : Công ty thuê chở hàng Australia

Bị đơn : Công ty vận tải đường biển Trung Quốc

Các vấn đề được đề cập:

− Hợp đồng thuê tàu chuyến

− Các khiếu kiện về hàng hoá

− Khả năng đi biển

− Sự mẫn cán hợp lý

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn, chủ hàng đồng thời là người nhận hàng, ký với Bị đơn, chủ sở hữu tàu, hợp đồng vận chuyển 5.100 MT cát ziricon từ Bunbary, Australia đến Burnside, Louisiana. Vận đơn phát hành ngày 9 tháng 2 năm 1982 xác nhận hàng hoá đã được chuyển vào hầm số 1 tầng trên (Hầm 1A), hầm trên số 2 (Hầm 2A) và hầm số 4. Khi tàu đến Burnside ngày 31 tháng 3 năm 1982, hàng hóa trong Hầm 1A đã bị hư hại. Một công ty giám định kết luận rằng nước đã vào hầm này từ nắp hầm tàu và từ khoang dằn tàu trên. Báo cáo giám định cho thấy lượng cát ziricon trong hầm này đã bị ướt nghiêm trọng ở một số chỗ và các mẫu cát lấy từ khoang này để kiểm tra clorua đã cho phản ứng âm tính.

Khoang dằn tàu tiếp giáp với Hầm 1A chứa một lượng nước ngọt lấy từ sông Mississipi trước khi tàu đến Burnside. Đại diện của Nguyên đơn cho biết đã thấy nước tràn vào từ một khe nứt trên vách ngăn phía trước và tiếp giáp với khoang dằn bên sườn tàu Số 1.

Số hàng bị hư hại ở Hầm 1A được chuyển xuống sà lan. Tính sơ bộ có 990.881 tấn non (1 tấn non ≈ 907,2kg) bị hư hại. Sau đó Nguyên đơn đã phải bán số cát ziricon ướt này cho một công ty với giá là 99.088 USD, tức 100 USD/1 tấn non.

Nguyên đơn yêu cầu bồi thường 45.996 USD tiền thiệt hại theo giá thị trường cho số cát bị ướt do Bị đơn đã không thực hiện sự mẫn cán hợp lý để làm cho tàu có khả năng đi biển. Bị đơn thì cho rằng Nguyên đơn đã không chứng minh được các tổn thất mà Bị đơn phải chịu trách nhiệm vì vết nứt ở mối hàn trên ngăn tiếp giáp là một ẩn tì (latent defect) . Hơn nữa, theo Bị đơn, khiếu kiện đòi bồi thường này là quá đáng và tiền bồi thường chỉ giới hạn ở giá bán cộng với tiền cước vận chuyển đến bờ (freight landed value) của số cát tại Burnside.

127

Phán quyết của trọng tài:

Đa số trọng tài viên cho rằng Bị đơn phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại phát sinh từ số cát bị ướt. Theo Luật vận chuyển hàng hoá bằng đường biển và Qui tắc Hagues, Nguyên đơn đã cung cấp bằng chứng hợp thức về việc Bị đơn đã nhận hàng trong tình trạng tốt và sau đó đã giao hàng trong tình trạng bị tổn thất. Cần lưu ý rằng Bị đơn đã phát hành một vận đơn sạch tại Burnside và các chứng từ tài liệu liên quan đều cho thấy hàng hoá ở điều kiện hoàn toàn tốt khi bốc lên tàu. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài kết luận hàng hoá trong Hầm 1A đã bị hư hại do nước tràn từ khoang dằn tàu tiếp giáp.

Ở đây Nguyên đơn đã đưa ra một tình trạng thực tế (prima facie) và Bị đơn có nghĩa vụ chứng minh rằng các tổn thất đối với hàng hoá không phải vì sự bất cẩn của Bị đơn dẫn tới tình trạng không có khả năng đi biển mà vì những rủi ro ngẫu nhiên.

Bị đơn cho rằng tổn thất là do một ẩn tì không thể phát hiện được dù đã có sự mẫn cán hợp lý và do đó Bị đơn phải được miễn trách theo Điều 4 khoản 2 Qui tắc Hagues. Uỷ ban trọng tài xác định tàu này được đóng tại Nam Tư năm 1962 và có rất ít thông tin về việc đóng lại tàu, bảo dưỡng hoặc sửa chữa để chứng minh là đã có sự mẫn cán hợp lý trong việc bảo đảm tàu có khả năng đi biển. Hoá đơn tháng 9 năm 1981 của một xưởng sửa chữa tàu chỉ cho thấy đây là một việc sửa chữa thông thường chứ bản thân hoá đơn này cũng như kiểm tra phân hạng tiến hành gần thời gian này đều không chứng minh được là đã có bất kỳ một cuộc kiểm tra chi tiết về các mối hàn.

Uỷ ban trọng tài thấy rằng chứng cứ của Bị đơn không đủ để chứng minh Bị đơn được miễn trách do ẩn tì không thể phát hiện được dù đã có sự mẫn cán hợp lý.

Về số tiền bồi thường thiệt hại, Uỷ ban trọng tài cho rằng số hàng hoá thiệt hại được tính là số hàng đã dỡ xuống sà lan ở Burnside. Điểm đáng lưu ý ở đây là các nỗ lực của Nguyên đơn trong việc giảm thiểu thiệt hại. Uỷ ban trọng tài xác định rằng việc tách rời cát khô và cát ướt là một thao tác rất khó khăn, hơn nữa loại cát này có đặc tính thấm nước rất mạnh. Ngoài ra, Nguyên đơn cũng đã rất cố gắng trong việc chào bán số hàng này cho các khách hàng khác nhau và số hàng bị hư hại đã được bán với giá hạ. Do đó, đây có thể coi là chứng cứ chứng minh Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giảm thiểu thiệt hại của mình.

Về các chứng cứ liên quan đến cách thức đã được sử dụng để tính toán thiệt hại, Uỷ ban trọng tài cho rằng trong luật hàng hải, Nguyên đơn có trách nhiệm chứng minh số tiền thiệt hại và cách thức tính thông thường là khoản chênh lệch giữa giá thị trường của hàng hoá được vận chuyển an toàn đến cảng đích và giá thị trường của hàng hoá đã bị hư hại. Uỷ ban trọng tài cũng thừa nhận rằng có thể thay thế cách thức tính toán thiệt hại này bằng một cách thức khác nếu vì những lý do đặc biệt, việc sử dụng cách thức này là không chính xác hoặc không thể thực hiện. Uỷ ban trọng tài cho rằng trong trường hợp này không thể xác định được một cơ cấu giá nào vì giá có thể thay đổi theo cung cầu vào thời điểm bán hàng trong tương lai và do đó cách thức lựa chọn logic sẽ là sử dụng giá trị của hàng khi giao tại cảng đích cộng với tất cả các chi phí và trừ đi giá

128

bán thực tế của số hàng như được nêu trong các tính toán của Bị đơn.

Ý kiến bảo lưu

Trong ý kiến bảo lưu của mình, trọng tài viên thiểu số không đồng ý với lập luận của uỷ ban trọng tài rằng Bị đơn đã không chứng minh được rằng ẩn tì này không thể phát hiện được dù có sự mẫn cán hợp lý trong việc làm cho tàu có khả năng đi biển. Trọng tài viên này nhất trí rằng Nguyên đơn chỉ phải trình bày về thiệt hại còn nghĩa vụ chứng minh thiệt hại không phải do thiếu mẫn cán thuộc về trách nhiệm của Bị đơn nhưng phản đối kết luận của đa số trọng tài viên cho rằng những sửa chữa thực hiện vào tháng 8 năm 1981 là những sửa chữa chung chung và ông không cho là chủ tàu có trách nhiệm chứng minh rằng các mối hàn của một hầm chứa đã được kiểm tra.

Trọng tài viên này cho rằng việc yêu cầu chủ tàu cung cấp một bằng chứng khó khăn như vậy với những chi tiết nhỏ nhất về các mối hàn của các tấm ngăn khoang tàu như vậy chỉ dựa trên những căn cứ rất hạn chế và đã bỏ qua những cân nhắc thương mại cơ bản. Điều này thể hiện một sự cứng nhắc khi giải quyết vấn đề về khiếm khuyết ẩn tì vốn là một vấn đề tương đối đơn giản và hiển nhiên. Yêu cầu một chủ tàu cung cấp một chứng cứ nghiêm nhặt như vậy không chỉ không công bằng mà làm phương hại đến tư duy cơ bản trong vận tải hàng hải quốc tế và thách thức nghiêm trọng đối với các khái niệm nền tảng về nghĩa vụ chứng minh vốn đã được thực hiện và chấp nhận trong ngành công nghiệp này từ nhiều năm nay. Trọng tài viên này cho rằng không một tàu biển nào mà các khoang dằn tàu của nó lại được thử nghiệm và các mối hàn được kiểm tra chi tiết vào bất kỳ thời điểm nào giữa các cuộc kiểm tra phân hạng dù chủ tàu có thận trọng đến đâu chăng nữa.

Trọng tài viên này kết luận rằng về mặt pháp luật cũng như trong việc ký kết các hợp đồng thuê tàu, các tàu không phải mặc nhiên chịu trách nhiệm về việc tàu không đủ khả năng đi biển sau khi tàu đã rời cảng bốc hàng trừ trường hợp thiếu mẫn cán hợp lý trong việc phát hiện ra một ẩn tì.

Với quan điểm cho rằng vết nứt trong khoang tàu là một ẩn tì không thể phát hiện được dù đã có sự mẫn cán hợp lý và rằng Bị đơn đã thực hiện sự mẫn cán hợp lý đó, trọng tài viên này kết luận Bị đơn không phải chịu trách nhiệm đối với các tổn thất về hàng hoá.

Bình luận và lưu ý:

Nếu hàng hoá bị hư hỏng khi tàu đã rời cảng bốc hàng thì không nên khiếu nại chủ tàu về lỗi “tàu không đủ khả năng đi biển” vì trách nhiệm bảo đảm khả năng đi biển cho tàu chỉ là nghĩa vụ của chủ tàu trước khi bắt đầu hành trình. Điều này có nghĩa là chủ hàng phải xem xét xem hàng hoá bị hư hỏng trong lúc tàu đang trên hành trình là do nội tì hay ẩn tì. Nếu là do nội tì, tức một khiếm khuyết bên trong của trang thiết bị trên tàu thì chủ tàu khó lòng khước từ trách nhiệm. Ngược lại nếu là do ẩn tì (latent defects) thì chủ tàu được miễn trách nhiệm vì một khi đã là ẩn tì thì với con mắt thông

129

thường và phương tiện thông thường khó có thể phát hiện.

Tuy nhiên khi phát hiện hàng bị hư hỏng trong hành trình cũng cần phải lưu ý xem hư hỏng là do lỗi gì gây ra, nếu là lỗi hàng vận (navigation mistake) thì chủ tàu được miễn trách nhiệm, ngược lại nếu là lỗi thương mại (ví dụ chất xếp tồi) thì chủ tàu khó có thể khước từ trách nhiệm được.

130

PHÁN QUYẾT SỐ 33

TRANH CHẤP DO HÀNG HOÁ KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN

TẠI CẢNG DỠ HÀNG

Các bên:

Nguyên đơn : Chủ tàu

Bị đơn : Bên thuê tàu

Các vấn đề được đề cập:

− Khiếm khuyết nội tì của hàng hoá và các thiệt hại đối với hàng hoá

− Hàng hoá không được chấp nhận tại cảng dỡ hàng theo quyết định của Cơ quan kiểm dịch do không đạt tiêu chuẩn

− Vi phạm nghĩa vụ chính, nghĩa vụ dỡ hàng của bên thuê tàu

− Tiền phạt do giữ tàu quá hạn

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn ký với Bị đơn một hợp đồng vận chuyển hạt lúa mì dạng rời. Khi tàu đến cảng dỡ hàng theo qui định trong hợp đồng, do các thủ tục hành chính tàu phải dỡ hàng chậm và việc dỡ hàng được thực hiện sau khi thời gian gia hạn dỡ hàng đã bắt đầu. Tàu phải dừng việc dỡ hàng khi vẫn còn 2000 tấn lúa mì trên tàu theo quyết định của một cơ quan thuộc Bộ Y tế nước sở tại cấm tiêu thụ số lúa mì này vì ba lý do: trong hàng hoá có lẫn gỉ sắt từ tàu, hàng có chứa phostoxin (một loại thuốc trừ sâu được sử dụng tại nước xuất xứ của hàng hoá), hàng có lẫn các hạt cỏ độc (cỏ kiềm) với số lượng vượt quá mức cho phép.

Sau đó tàu bị bắt giữ theo yêu cầu của người nhận hàng, bên cầm vận đơn. Chủ tàu không thể xin huỷ lệnh bắt giữ này vì không có khả năng cung cấp bảo lãnh có trị giá tương đương với trị giá của hàng hoá.

17 tháng sau tàu mới được thả theo quyết định của Toà án cảng theo đó tàu không phải chịu trách nhiệm về tình trạng của số hàng hoá này. Người nhận hàng đã kháng cáo quyết định này lên Toà phúc thẩm.

Tàu vẫn bị cấm không được rời khỏi cảng vì lý do số lúa mì còn lại trên tàu thuộc về người nhận hàng. Mười tháng sau chủ tàu và người nhận hàng đạt được một thoả thuận theo đó chủ tàu mua lại số lúa mì trên tàu và có quyền tự do xử lý số hàng này còn người nhận hàng vẫn bảo lưu quyền kiện chủ tàu theo thủ tục tố tụng tại Toà phúc thẩm.

Lúc này tàu phải thuê một tàu kéo khác đưa về quốc gia mà tàu mang cờ (và cũng là nơi xuất xứ của hàng hoá, một nước thuộc Liên minh Châu Âu) do không đủ khả năng đi biển vì chứng nhận xếp hạng của tàu đã hết hạn và do không có đủ thuỷ thủ

131

đoàn.

Nguyên đơn kiện đòi tiền bồi thường do giữ tàu quá hạn (khoảng ba năm) và các chi phí khác (như phí thuê tàu kéo, nhiên liệu, phí bốc dỡ hàng,..) và tiền bồi thường cho thiệt hại thương mại của tàu (với trị giá bằng tiền bồi thường một năm giữ tàu quá hạn).

Bị đơn yêu cầu huỷ hợp đồng vận chuyển do Nguyên đơn đã không cung cấp tàu phù hợp và đã cố tình che dấu tình trạng tàu bằng cách sơn phủ lên lớp gỉ trên thành khoang tàu, Bị đơn coi đây là một vi phạm nghiêm trọng đối với hợp đồng. Bị đơn lập luận rằng nghĩa vụ dỡ hàng của mình đã chấm dứt do có sự kiện bất khả kháng là quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và do tàu không ở trong tư thế sẵn sàng (vì bị bắt giữ).

Phán quyết của trọng tài:

Uỷ ban trọng tài cho rằng gỉ sắt trên tàu là hiển nhiên đối với một con tàu 22 tuổi và yêu cầu huỷ hợp đồng vận chuyển do tàu không có khả năng đi biển của Bị đơn là không có căn cứ vì lẽ ra Bị đơn phải từ chối tàu trước khi xếp hàng, sau khi đã yêu cầu bên thứ ba giám định tàu. Ngoài ra các chứng cứ cũng cho thấy bên giám định đã không cẩn trọng khi kiểm tra tàu.

Uỷ ban trọng tài cũng bác lập luận của Bị đơn cho rằng Nguyên đơn đã gian lận khi cho sơn phủ lớp gỉ sắt trên thành khoang tàu, bởi một việc làm như vậy không thể đánh lừa các chuyên gia được. Tuy nhiên, Uỷ ban trọng tài cũng tuyên bố việc Bị đơn không từ chối tàu không phải là lỗi hợp đồng và không hề làm giảm nghĩa vụ cơ bản của Nguyên đơn là cung cấp một con tàu đáp ứng các điều kiện đủ khả năng đi biển.

Uỷ ban trọng tài lưu ý rằng trong vụ việc này, các bên không yêu cầu Uỷ ban trọng tài xác định các thiệt hại đối với hàng hoá do tàu gây ra (bởi đây là đối tượng giải quyết của một tố tụng tư pháp do người nhận hàng khởi kiện ra trước toà án có thẩm quyền) và các khiếm khuyết nội tì của hàng hoá (là đối tượng của hợp đồng mua bán với các điều khoản trọng tài tại Phòng Trọng tài Hàng hải Paris).

Tuy nhiên, Uỷ ban trọng tài cho rằng quyết định không cho phép dỡ hàng của cơ quan chức trách không được coi là một sự kiện bất khả kháng mà nó xuất phát từ hai lý do, một thuộc lỗi của tàu và một thuộc về bản thân hàng hoá. Nguyên đơn đáng lẽ phải bảo đảm tàu không làm hư hại hàng hoá và người thuê tàu đáng lẽ phải bảo đảm hàng hóa không chứa các thành phần độc hại.

Từ lập luận này, Uỷ ban trọng tài quyết định mỗi bên phải chịu trách nhiệm một nửa đối với các hậu quả của việc không được dỡ hàng.

Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải bồi thường cho thời gian dỡ hàng quá hạn đến thời điểm có quyết định cấm dỡ hàng của nhà chức trách theo mức qui định tại hợp đồng.

Uỷ ban trọng tài nhắc lại rằng tiền bồi thường cho thời gian dỡ hàng quá hạn

132

được coi như “phần cước bổ sung”, được so sánh như một hợp đồng cho thuê khi đối tượng cho thuê không thuộc quyền sử dụng của người cho thuê. Vì vậy Bị đơn phải bồi thường cho thời gian tàu bị bắt giữ với mức bồi thường thấp bằng một nửa mức thông thường cho khoảng thời gian kể từ khi có quyết định cấm dỡ hàng đến khi tàu mua lại số hàng hoá đó từ người nhận hàng (hành động mua này làm chấm dứt việc thực hiện hợp đồng vận chuyển và tất cả các nghĩa vụ của Bị đơn liên quan đến hàng hoá). Khoảng thời gian này được tính là 890 ngày.

Ngoài ra, mặc dù không chấp nhận lập luận của Bị đơn cho rằng một con tàu bị bắt giữ thì không còn thuộc quyền sử dụng của người thuê tàu, Uỷ ban trọng tài cho rằng khoảng thời gian bắt giữ quá dài trong trường hợp này (hơn 500 ngày) là kết quả của việc chủ tàu không có đủ khả năng tài chính để bảo lãnh cho hàng hoá mà về nguyên tắc khi nhận hàng tàu phải chịu trách nhiệm đối với số hàng đó.

Uỷ ban trọng tài kết luận rằng khoảng thời gian tạm giữ này có nguyên nhân trực tiếp một phần từ lỗi của Nguyên đơn, vì vậy khoản tiền bồi thường cho thời gian giữ tàu quá hạn phải giảm tương ứng như giải quyết ở trên.

Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về chi phí khác với lý do tiền bồi thường cho thời gian gia hạn dỡ hàng và tiền bồi thường do giữ tàu quá lâu đã bao gồm các chi phí phụ này.

133

PHÁN QUYẾT SỐ 34

TRANH CHẤP VỀ VIỆC HUỶ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN

DO KHÔNG XẾP HÀNG

Các bên:

Nguyên đơn : Chủ tàu Việt Nam

Bị đơn : Người thuê tàu Hồng Kông

Các vấn đề được đề cập:

− Bốc hàng chậm hay không thực hiện nghĩa vụ bốc hàng

− Huỷ hợp đồng

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn ký kết với Bị đơn một hợp đồng chở 5.200 tấn gỗ tròn từ Rangoon, Burma đến Huangpu, Trung Quốc. Bị đơn cam kết trả khoán 140.000 USD cước vận chuyển cho ngân hàng do Nguyên đơn chỉ định trong vòng ba ngày làm việc kể từ khi hoàn thành việc xếp hàng lên tàu và ký vào vận đơn. Tàu phải đến cảng bốc hàng và phải ở tình trạng sẵn sàng để xếp hàng vào khoảng thời gian giữa ngày 5 tháng 2 và ngày 15 tháng 2 năm 1992.

Nguyên đơn đưa tàu đến Rangoon thứ sáu ngày 12 tháng 2 năm 1992 và gửi Thông báo sẵn sàng bốc hàng vào hồi 17h10 cùng ngày. Như vậy theo các qui định về thời gian bốc hàng trong hợp đồng thì thời gian bốc hàng sẽ bắt đầu tính từ 13h00 ngày thứ bảy.

Nhưng Nguyên đơn không hề nhận được tín hiệu gì về việc giao hàng từ phía Bị đơn. Nguyên đơn đã liên tục liên hệ với Bị đơn thông qua người môi giới thuê tàu để xác định xem hàng hoá đã sẵn sàng chưa và vì Bị đơn không trả lời nên Nguyên đơn đã phải xác minh điều này qua cảng Rangoon thông qua đại lý của mình. Sau khi xác minh Nguyên đơn biết được rằng Bị đơn không thể bốc số hàng ghi trong hợp đồng vận chuyển và Bị đơn đang gặp khó khăn lớn trong việc đáp ứng các yêu cầu về giấy tờ thủ tục theo các qui chế về xuất khẩu gỗ.

Trước sự im lặng của Bị đơn, Nguyên đơn đã đợi cho đến hết thời hạn bốc hàng và ngày 27 tháng 2 năm 1992 Nguyên đơn đã gửi một telex cho Bị đơn thông báo rằng nếu Nguyên đơn không nhận được trả lời của Bị đơn xác nhận sẽ bốc hàng lên tàu trong ngày hôm đó thì Nguyên đơn sẽ coi là Bị đơn không thể bốc hàng, từ chối hợp đồng giữa hai bên và do đó vi phạm hợp đồng và Nguyên đơn sẽ điều tàu đi nơi khác. Bị đơn vẫn không trả lời và ngày hôm sau Nguyên đơn gửi một telex khẳng định Nguyên đơn coi hành vi của Bị đơn là vi phạm hợp đồng và tuyên bố Nguyên đơn có quyền tự do điều tàu đi nơi khác. Thực tế ngày 12 tháng 3 năm 1992 Nguyên đơn đã ký một hợp

134

đồng chở phân urê từ Lhokseumawe, Indonesia đến Tp Hồ Chí Minh.

Nguyên đơn đòi 72.354 USD tiền bồi thường gồm 140.000 USD cước khống trừ đi các chi phí phải chi khi hưởng khoản cước đó cùng với tiền bồi thường do giữ tàu quá hạn là 7.000 USD tại cảng bốc hàng Rangoon tính đến ngày chấm dứt hợp đồng.

Bị đơn phủ nhận việc mình đã vi phạm hợp đồng và lập luận rằng trên thực tế chính Nguyên đơn mới là người phá vỡ hợp đồng bằng việc điều tàu đi nơi khác trong khi Bị đơn chưa bao giờ tuyên bố sẽ không thực hiện hợp đồng. Bị đơn kiện lại đòi bồi thường thiệt hại bao gồm tiền cước thực tế đã phải chi trả để vận chuyển số hàng ghi trong hợp đồng đến miền nam Trung Quốc vào khoảng giữa các tháng 4 và tháng 10 năm 1992.

Phán quyết của trọng tài:

Uỷ ban trọng tài đã so sánh vụ việc này với vụ việc gây xôn xao dư luận có tên “Jupiter” vào những năm 60 trong đó nhà khai thác dầu có tên “Jupiter” đã ký hợp đồng thuê rất nhiều tàu chở dầu nhưng lại không phát lệnh bốc hàng ngoại trừ đối với các tàu đậu bên ngoài các cảng dầu trong Vịnh Persic. Các chủ tàu đã phải chọn lựa hoặc đưa tàu đi nơi khác và chịu mọi rủi ro hoặc là chờ đợi không biết đến bao giờ. Cuối cùng người ta đã không bao giờ còn thấy Jupiter xuất hiện nữa và những chủ tàu đã phải chịu thiệt hại do sự cẩn trọng quá mức của mình.

Uỷ ban trọng tài cho rằng trên thực tế Nguyên đơn không có quyền hiểu sự im lặng của Bị đơn là sự từ chối thực hiện hợp đồng và do đó các thông báo do Nguyên đơn gửi ngày 28 và 29 tháng 2 là không có hiệu lực. Tuy nhiên Uỷ ban trọng tài cũng cho rằng cho đến ngày 29 tháng 2, khi Nguyên đơn coi hợp đồng vận chuyển là đã chấm dứt, Bị đơn hoàn toàn không còn khả năng kiếm hàng hoá và bốc hàng lên tàu trước khi việc trì hoãn của Bị đơn phá vỡ quan hệ hợp đồng vận chuyển.

Trên cơ sở các chứng cứ trình ra trước Uỷ ban trọng tài, Bị đơn không thể chứng minh khả năng thực hiện hợp đồng, tức là bốc hàng lên tàu trước khi việc trì hoãn trở thành một vi phạm nghiêm trọng đối với hợp đồng, cụ thể đến tận tháng 10 năm 1992 Bị đơn vẫn còn tiếp tục bốc hàng lên các tàu và Bị đơn đã không đưa ra được bằng chứng nào chứng minh lập luận rằng trước đó họ đã cố gắng kiếm tàu để bốc hàng. Hơn nữa Bị đơn cũng không chứng minh được rằng mình đã có đầy đủ các tài liệu và giấy phép xuất khẩu theo luật Burma tại thời điểm bốc hàng theo hợp đồng vận chuyển với Nguyên đơn để có thể bốc hàng lên tàu. Do đó, Uỷ ban trọng tài chấp thuận yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại và tiền phạt do giữ tàu quá lâu trước khi hợp đồng vận chuyển bị chấm dứt.

Bình luận và lưu ý:

Trong những trường hợp tương tự chủ tàu cần phải tuyên bố ràng buộc người thuê rằng mọi sự im lặng của người thuê có giá trị tương tự như là một sự xác nhận rằng

135

người thuê đã không có hàng và đã vi phạm hợp đồng, chỉ trong trường hợp đó chủ tàu mới có quyền điều tàu đi chở lô hàng khác và đòi thiệt hại thực tế phát sinh (chênh lệch giữa cước thực thu và cước lẽ ra phải thu).

136

PHÁN QUYẾT SỐ 35

TRANH CHẤP VỀ NGHĨA VỤ VẬN CHUYỂN

TRONG HỢP ĐỒNG C&F

Các bên:

Nguyên đơn : Một công ty Bỉ

Bị đơn : Một công ty Bỉ là thành viên

của một tập đoàn Nhật Bản

Các vấn đề được đề cập:

− Bán C&F: Thời điểm chuyển giao rủi ro, Lỗi của người vận chuyển

− Thiệt hại: Đánh giá thiệt hại, Nghĩa vụ giảm thiểu thiệt hại

− Thời điểm bắt đầu tính lãi

− Đồng tiền trong tài khoản và Đồng tiền thanh toán

− Bán hàng để xuất khẩu

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn ký kết một hợp đồng mua của Bị đơn 500 tấn thép theo các điều kiện C&F Karachi. Hợp đồng quy định bốc hàng lên tàu khởi hành từ “bất kỳ cảng nào của Châu Âu” và theo “bất kỳ đường biển nào” theo lựa chọn của Bị đơn, người bán. Tuy nhiên, khoảng một tháng sau khi hợp đồng được ký kết, Nguyên đơn gửi cho Bị đơn yêu cầu của người mua lại Pakistan theo đó “hàng phải được chở bằng tàu theo tuyến thông thường” đến thẳng Karachi. Bị đơn đã chuyển các yêu cầu mới này đến người trung gian vận chuyển của mình và nêu rõ “tuyến đường yêu cầu: tàu chở hàng theo tuyến thông thường, đi trực tiếp đến Karachi”.

Không may là chiếc tàu được người trung gian vận chuyển của Bị đơn thuê đã không tới được Karachi. Chuyến tàu này xuất phát từ Anvers với số thép bán cho Nguyên đơn, dừng lại ở Rotterdam vài ngày rồi đến Dunkerque để dỡ khoảng 12.000 tấn đường chở trên tàu. Tuy nhiên, tàu này đã không thể rời cảng Dunkerque vì bị các chủ nợ của chủ tàu tịch thu để bán đấu giá sau khi tất cả hàng hoá trên tàu bao gồm cả số hàng bán cho Nguyên đơn đã được dỡ xuống và lưu kho theo quyết định của Chánh án Toà Thương mại Dunkerque.

Do không nhận được số thép nói trên nên người mua Pakistan của Nguyên đơn đã quyết định huỷ hợp đồng với Nguyên đơn. Nguyên đơn thông báo với Bị đơn rằng Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho mọi thiệt hại vì tàu đã không đi tuyến trực tiếp từ Anves đến Karachi và nói rõ rằng để giảm thiểu thiệt hại Nguyên đơn sẽ cố gắng thu xếp với người mua Pakistan. Việc dàn xếp này đã kết thúc bằng việc Nguyên đơn bồi thường

137

cho người mua Pakistan. Và cũng để giảm thiệt hại, Nguyên đơn đã bán lại lô hàng nói trên với sự chấp thuận của Bị đơn, Bị đơn cũng tự nguyện mua lại 3/5 số hàng này.

Nguyên đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài buộc Bị đơn bồi thường toàn bộ thiệt hại mà Nguyên đơn đã phải gánh chịu, bao gồm:

− Khoản chênh lệnh giữa giá của hợp đồng với giá mà Nguyên đơn thu được sau khi phải bán lại lô hàng tại Dunkerque,

− Khoản tiền đã bồi thường cho người mua Pakistan,

− Các chi phí đã chi tại Dunkerque,

− Các chi phí vận chuyển hàng cho những người mua mới,

− Các chi phí đi lại đến Karachi.

Nguyên đơn cũng yêu cầu rằng những thiệt hại tính bằng Đô-la và Frăng Pháp phải được qui đổi sang Frăng Bỉ theo tỷ giá qui đổi hiện hành vào thời điểm thanh toán hoặc vào ngày Nguyên đơn phải thực hiện các chi phí đó do hợp đồng không được thực hiện.

Bị đơn đã bác bỏ yêu cầu của Nguyên đơn và lập luận rằng trong các hợp đồng mua bán C&F mọi rủi ro xảy ra sau khi bốc hàng lên tàu thuộc trách nhiệm của người mua và hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn không qui định Bị đơn phải thuê một chuyến tàu đi thẳng đến Karachi. Hơn nữa, Bị đơn cho rằng Nguyên đơn chỉ có quyền đòi các thiệt hại là khoản chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá bán cho người mua Pakistan. Bị đơn cũng cho rằng việc qui đổi các khoản tiền tính bằng Đô-la và Frăng Pháp chỉ phải thực hiện vào thời điểm thi hành phán quyết.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về việc xác định Bị đơn có lỗi hay không theo các thông lệ điều chỉnh hợp đồng mua bán theo C&F:

Các bên đã thừa nhận rằng khi mua bán theo C&F nghĩa vụ của người bán cũng giống như các nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán CIF và chỉ khác một điểm là người bán không có nghĩa vụ bảo hiểm cho hàng hoá.

Cụ thể hơn, người bán C&F có nghĩa vụ vận chuyển hoặc nhờ một chủ thể khác vận chuyển hàng hoá theo các điều kiện vận chuyển đã thoả thuận giữa người bán và người mua với chi phí do người bán chịu, tuy nhiên mọi rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hải lại thuộc về trách nhiệm của người mua tính từ khi xếp hàng lên tàu.

Các học thuyết cũng như án lệ đều thừa nhận rằng khi các bên không đưa vào hợp đồng những quy định cụ thể liên quan đến điều kiện vận chuyển thì người bán có nghĩa vụ vận chuyển hàng hoá theo các điều kiện theo thông lệ tại cảng xếp hàng trên tàu có chất lượng phù hợp với tính chất của hàng hoá đó.

Pháp luật cũng cho phép các bên thoả thuận về các yêu cầu cụ thể khác liên quan

138

đến cách thức và điều kiện vận chuyển mà người bán có nghĩa vụ tuân thủ.

Theo Nguyên đơn thì hai bên đã thoả thuận thông qua các sửa đổi đối với hợp đồng rằng bên bán phải thuê tàu theo chuyến thông thường đi thẳng tới Karachi. Bên bán đã không thực hiện nghĩa vụ này, gây ra việc dỡ hàng và các thiệt hại liên quan.

Bị đơn lại lập luận ngược lại rằng Bị đơn đã thực hiện chính xác các nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng C&F và không hề vi phạm hợp đồng. Thứ nhất, hợp đồng chưa hề được sửa đổi bởi một thoả thuận chung nào và những hướng dẫn mà Nguyên đơn đưa ra sau đó về việc tàu phải đi theo tuyến thông thường và đến thẳng Karachi chỉ là một mong muốn mà Bị đơn sẽ cố gắng thực hiện nhưng việc không thực hiện được mong muốn này thì cũng không thể coi đó là một sự vi phạm hợp đồng. Thứ hai, ngay cả khi đây là một nghĩa vụ bắt buộc thì Bị đơn cũng đã hoàn thành nghĩa vụ này thông qua việc chuyển cho đại lý vận chuyển uỷ thác của mình những hướng dẫn của Nguyên đơn và đã yêu cầu phải ký hợp đồng vận chuyển hàng hóa với tàu chuyến thông thường đi thẳng tới Karachi.

Cuối cùng Bị đơn lập luận rằng thông qua việc chấp nhận không bảo lưu các giấy tờ và nhất là sự công nhận của mình, Nguyên đơn đã chấp nhận việc thực hiện các nghĩa vụ của bên bán theo các nguyên tắc của mua bán C&F, những rủi ro xảy ra sau khi xếp hàng, mà đặc biệt là việc người vận chuyển không thực hiện nghĩa vụ mà anh ta phải tuân thủ thuộc về trách nhiệm của bên mua.

Như vậy điều quan trọng là phải xác định xem Bị đơn trên thực tế đã chấp nhận thực sự các sửa đổi đối với hợp đồng ban đầu hay chưa.

Từ các yếu tố có trong hồ sơ và đặc biệt là các thuật ngữ mà Nguyên đơn đã sử dụng “hàng hoá phải được xếp” trong telex ngày .... cũng như các thuật ngữ mà Bị đơn sử dụng trong telex gửi người trung gian vận chuyển: “tuyến đường yêu cầu”, cũng như yêu cầu giải thích mà người trung gian vận chuyển gửi cho Bị đơn ngày... rằng “tàu không thực hiện hành trình thẳng Anvers/Karachi như đã thoả thuận”, có thể kết luận rằng bên bán và bên mua đã thoả thuận với nhau sửa đổi hợp đồng ban đầu và qui định thêm hai điều kiện đối với việc vận chuyển hàng hoá, việc này đã được bên bán chấp thuận nên bên bán có trách nhiệm thực hiện.

Các kết quả của chuyên gia cũng như các tài liệu trong hồ sơ đã chứng minh một cách rõ ràng là tàu không phải là tàu theo tuyến thông thường. Hơn nữa sau khi rời Anvers tàu đã dừng lại ở Rotterdam và Dunkerque...

Về vấn đề này, không một yếu tố tâm lý nào có thể khẳng định rằng trong suy nghĩ của người vận chuyển, hướng dẫn “đi thẳng tới Karachi” đơn giản chỉ có nghĩa là hàng hoá không được bốc sang tàu khác trước khi tàu đến Karachi. Đây cũng không thể là cách hiểu của các bên vì trong trường hợp cụ thể này các bên cũng đã có một quy định “cấm chuyển hàng qua tàu khác” trong hợp đồng.

Trên thực tế người vận chuyển mà Bị đơn đã ký hợp đồng vận chuyển thông qua

139

người trung gian vận chuyển của mình không khai thác tuyến thông thường và cũng không đi thẳng tới Karachi như anh ta đã thoả thuận.

Vấn đề thứ hai cần xác định ở đây là người bán C&F có phải chịu trách nhiệm về việc này trước người mua hay không.

Đúng là trong hợp đồng mua bán C&F rủi ro được chuyển cho người mua kể từ khi hàng hoá được xếp lên tàu và kể từ thời điểm đó người mua phải chịu những hậu quả thiệt hại do lỗi của người vận chuyển khi thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hoá đúng như lập luận của Bị đơn. Tuy nhiên việc này sẽ khác nếu thiệt hại là hậu quả từ lỗi vi phạm hợp đồng của bên bán, đặc biệt là khi bên bán đã không thực hiện nghĩa vụ cẩn trọng và cần mẫn thích đáng đối với bên mua khi ký kết hợp đồng vận chuyển. Bị đơn không thể từ chối trách nhiệm bằng cách lập luận rằng mình đã liên hệ với một nhà trung gian chuyên nghiệp có uy tín.

Hơn nữa, không thể phủ nhận rằng người bán C&F, Bị đơn, phải chịu trách nhiệm không chỉ cho chính hành vi của mình mà còn phải chịu trách nhiệm cho hành vi của người trung gian vận chuyển mà Bị đơn đã uỷ quyền ký hợp đồng vận chuyển hàng hoá.

Từ các hoàn cảnh thực tế có thể thấy Bị đơn đã không thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết.

Về phần người trung gian vận chuyển, Uỷ ban trọng tài không có bất kỳ thông tin gì về các bước mà chủ thể này đã thực hiện để ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá với tàu theo tuyến thông thường đi thẳng tới Karachi và cũng không có chi tiết nào thể hiện là khi ký kết hợp đồng với người vận chuyển, người trung gian vận chuyển đã đưa vào hợp đồng yêu cầu tàu theo tuyến thông thường và đi thẳng tới Karachi và rằng người trung gian vận chuyển đã giám sát việc thực hiện các điều kiện này, trong khi đó người bán C&F có nghĩa vụ, và do đó người trung gian vận chuyển cũng có nghĩa vụ, thực hiện các bảo đảm cần thiết để hoàn thành các nghĩa vụ đã cam kết.

Uỷ ban trọng tài cũng bác lập luận của Bị đơn liên quan việc Nguyên đơn chấp nhận các tài liệu mà không có bất kỳ bảo lưu nào. Rõ ràng là Nguyên đơn chỉ chấp thuận những gì được ghi trong các tài liệu đó, nhưng trái với thực tế, trong các tài liệu này lại ghi đây là tàu theo tuyến thông thường và đi thẳng tới Karachi.

Từ các phân tích trên đây, Uỷ ban trọng tài kết luận rằng Bị đơn phải bồi thường các thiệt hại mà Nguyên đơn đã phải chịu do hành trình bị gián đoạn và hàng hoá không được vận chuyển đến Karachi.

2. Tính toán thiệt hại:

Theo Bị đơn thì khoản thiệt hại mà Nguyên đơn có thể được bồi thường chỉ hạn chế ở khoản chênh lệch giữa giá mà Nguyên đơn đã trả cho Bị đơn (457.000USD) và giá mà Nguyên đơn đã bán lại hàng hoá cho người mua Pakistan (461.866,02USD) tức là 4.866,02USD, những phần thiệt hại khác mà Nguyên đơn yêu cầu xuất phát từ một

140

nguyên nhân khác với nguyên nhân được viện dẫn.

Lập luận này của Bị đơn là không thể chấp nhận được.

Do không tôn trọng các qui định của hợp đồng và có lỗi trong việc hàng hoá phải chịu những rủi ro mà bên mua đã cố tránh, áp dụng các Điều 1150 và 1151 Bộ luật Dân sự, bên bán phải chịu toàn bộ các thiệt hại có thể lường trước là hậu quả trực tiếp và ngay tức thì của việc không thực hiện hợp đồng.

Trong các hoàn cảnh cụ thể của trường hợp này, có tính đến các yêu cầu của bên mua về tuyến đường trực tiếp của hàng hoá, những thiệt hại có thể lường trước là hậu quả trực tiếp và ngay tức thì của việc không thực hiện hợp đồng không chỉ bao gồm thiệt hại lợi nhuận bị mất do không chuyển được hàng hoá đến người mua Pakistan, mà còn bao gồm cả các thiệt hại từ việc Nguyên đơn phải bồi thường cho các chi phí mà người mua Pakistan đã phải bỏ ra vô ích và từ việc hàng hóa đã buộc phải bốc dỡ tại Dunkerque cũng như những giảm giá mà Nguyên đơn đã phải thực hiện ra khi bán lại lô hàng với sự chấp thuận của Bị đơn để tránh tăng thiệt hại.

Nguyên đơn đòi trước tiên là khoản chênh lệch giữa giá mà đáng lẽ Nguyên đơn bán cho khách hàng Pakistan và giá thực tế bán lại tại Dunkerque cộng với các giảm giá. Yêu cầu này là chính đáng vì các lý do đã trình bày trên.

Tuy nhiên từ các tài liệu trong hồ sơ cho thấy giá mà Nguyên đơn bán cho người mua Pakistan không đến 461.866,02 USD mà là 459.015,67 USD vì Nguyên đơn đã chấp nhận giảm giá 2.850,35 USD.

Giá bán tại Dunkerque là 340.867,03 USD. Vì vậy khoản thiệt hại trong phần này là 118.148,64 USD.

Về thiệt hại mà Nguyên đơn phải bồi thường cho người mua Pakistan sau khi đã thoả thuận hoà hữu, thiệt hại này bao gồm tiền lãi trên số tiền mở thư tín dụng để trả tiền hàng tính trong khoảng thời gian từ ngày 4 tháng 7 năm 1985 đến ngày 1 tháng 10 năm 1985, tức là 23.892,19 USD và các chi phí mà người mua Pakistan đã phải bỏ ra để hoàn thiện các giấy tờ tín dụng, phí xin cấp phép nhập khẩu, phí bảo hiểm và tiền lãi trên tổng số phí nói trên, tức là 21.225,54 USD.

Tổng số thiệt hại là 45.117,73 USD là hoàn toàn chính đáng.

Nguyên đơn cũng có lý khi yêu cầu hoàn trả các chi phí mà Nguyên đơn đã phải thực hiện để cử một đại diện đến Karachi để dàn xếp các yêu sách của người mua Pakistan, tức là 93.378 Frăng Bỉ.

Các chi phí ở Dunkerque cũng hoàn toàn chính đáng, bao gồm các chi phí trả cho cơ quan tạm giữ hàng hoá đã thực hiện việc dỡ hàng và bán đấu giá và các chi phí khác liên quan với tổng số là 122.340,16 Frăng Pháp, cũng như các chi phí chuyển hàng hoá cho những người mua mới là 50.414,17 Frăng Pháp và 186.668 Frăng Bỉ.

Về ngày qui đổi các thiệt hại tính bằng đồng Frăng Pháp và Đô-la sang đồng

141

Frăng Bỉ, Uỷ ban trọng tài cũng giải quyết tương tự như trên.

Tính chất của việc bồi thường thiệt hại cho việc không thực hiện hợp đồng là Nguyên đơn phải được đưa về tình trạng mà Nguyên đơn đáng lẽ sẽ ở trong tình trạng đó nếu Bị đơn thực hiện đúng các nghĩa vụ mà mình đã cam kết.

Để đạt được mục tiêu này không thể qui đổi sang đồng Frăng Bỉ các ngoại tệ theo tỷ lệ qui đổi vào ngày ký kết hợp đồng và cũng không phải là vào ngày Bị đơn thanh toán cho Nguyên đơn các khoản bồi thường thiệt hại. Ngược lại cần qui đổi theo tỷ lệ qui đổi áp dụng vào ngày mà Nguyên đơn, công ty Bỉ, chịu các thiệt hại mà Bị đơn phải bồi thường.

Những khoản tiền lãi trên số tiền bồi thường thiệt hại mà Nguyên đơn được hưởng sẽ do Bị đơn chịu tính từ ngày 21 tháng 10 năm 1985, ngày mà Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn bồi thường, trừ các chi phí mà Nguyên đơn thực hiện sau ngày này - tiền lãi trên các chi phí này chỉ được tính bắt đầu từ ngày chi thực tế.

Ý kiến bảo lưu

Mặc dù các kết luận trong phán quyết về lỗi của người bán trong hợp đồng vận chuyển là không thể tranh cãi, phân tích trong phán quyết về mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng mua bán C&F vẫn còn vài điểm không chính xác. Như các trọng tài viên đã nhấn mạnh, đối với việc ký kết hợp đồng vận chuyển thì các nghĩa vụ của người bán C&F cũng giống như các nghĩa vụ của người bán CIF. Tuy nhiên, sẽ là không chính xác khi khẳng định rằng “người bán C&F có nghĩa vụ vận chuyển hoặc nhờ một chủ thể khác vận chuyển hàng hoá theo các điều kiện vận chuyển đã thoả thuận giữa người bán và người mua với chi phí do người bán chịu, tuy nhiên mọi rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hải lại thuộc về trách nhiệm của người mua tính từ khi xếp hàng lên tàu”.

Đúng là trong các hợp đồng mua bán C&F và CIF, người mua phải chịu trách nhiệm đối với mọi rủi ro kể từ thời điểm xếp hàng lên tàu, nhưng người bán cũng không có nghĩa vụ nhờ một chủ thể khác vận chuyển và càng không có nghĩa vụ tự mình vận chuyển. Thực tế thì nghĩa vụ của người bán trong trường hợp này chỉ giới hạn trong việc ký một hợp đồng vận chuyển hàng hoá với chi phí vận chuyển do người bán chịu, với những điều kiện thông thường, theo tuyến đường thông thường bằng một tàu đi biển dạng thường được sử dụng để chuyên chở loại hàng hoá là đối tượng của hợp đồng. Điều A(2) INCOTERMS qui định rất rõ về việc này. Điều 39 Luật Pháp ngày 3 tháng 1 năm 1969 cũng phản ánh tương tự như vậy các thông lệ quốc tế trong lĩnh vực này: “trong hợp đồng mua bán CIF, người bán có nghĩa vụ ký hợp đồng vận chuyển và xếp hàng hoá lên tàu cũng như bảo đảm hàng hoá chống lại những rủi ro trong quá trình vận chuyển”.

Như vậy người bán coi như đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình liên quan đến việc vận chuyển kể từ thời điểm các điều kiện của hợp đồng vận chuyển mà người này ký kết không gặp sự phản kháng gì từ phía người mua cũng như không trái với các

142

thông lệ quốc tế cũng như những qui định cá biệt trong hợp đồng mua bán. Ngược lại, nếu người bán ký hợp đồng vận chuyển với những điều kiện bất bình thường, mà việc thực hiện hợp đồng đó dẫn tới thiệt hại cho người mua thì phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại đó.

Thực tế, việc vận chuyển bản thân nó không phải là nghĩa vụ của người bán và người vận chuyển không phải là “nhân viên” của người bán, trái với ý nêu trong phán quyết khi phán quyết cho rằng “người bán có nghĩa vụ vận chuyển hoặc nhờ người khác vận chuyển”.

Tuy nhiên Uỷ ban trọng tài không hẳn đã nhầm khi khẳng định rằng “các hậu quả của việc người vận chuyển thực hiện không đúng hợp đồng vận chuyển hàng hoá... thuộc về trách nhiệm của người mua”. Kết luận này cũng đúng cả trong trường hợp người vận chuyển thực hiện một nghĩa vụ của người mua vì lợi ích của người mua.

Về các yêu cầu của người mua liên quan đến việc vận chuyển, có thể khẳng định rằng các yêu cầu này là hoàn toàn hợp lý. Trên thực tế, đúng là trong các hợp đồng mua bán C&F và CIF, người mua chỉ là một bên thứ ba của hợp đồng vận chuyển, nhưng người mua cũng không hoàn toàn thờ ơ với các điều kiện của hợp đồng vận chuyển vì người mua là người phải chịu các hậu quả trực tiếp của việc thực hiện hợp đồng vận chuyển và các rủi ro gắn liền với việc vận chuyển đó. Đây là lý do tại sao trong các hợp đồng mua bán C&F và CIF thường qui định rất cụ thể các điều kiện vận chuyển: tuyến thông thường hay không, trách nhiệm của người vận chuyển đến đâu, phương thức vận chuyển và dỡ hàng, tốc độ của tàu, khả năng đi biển v..v

Trong trường hợp này, rõ ràng là người bán đã có lỗi khi ký một hợp đồng vận chuyển không tuân thủ thoả thuận giữa hai bên. Tuy nhiên lỗi này không phải là nguyên nhân gây ra toàn bộ thiệt hại mà người mua yêu cầu được bồi thường. Có thể thấy là phán quyết của các trọng tài viên đã không chấp nhận quan điểm này. Theo lập luận của các trọng tài viên thì nếu lỗi của người bán là nguyên nhân gây ra thiệt hại thì nó chính là nguyên nhân duy nhất bởi, như Uỷ ban trọng tài đã nhấn mạnh, đây là một thiệt hại có thể dự đoán được và có tính trực tiếp.

Nhưng liệu có dám chắc là thiệt hại sẽ không xảy ra trong trường hợp công ty vận tải khai thác tuyến đi thẳng Anvers/Karachi hay không. Liệu tàu có thể bị bắt giữ khi tàu ghé cảng vì lý do kỹ thuật không? Đây là câu hỏi mà chỉ các trọng tài viên mới có quyền quyết định. Lý thuyết về rủi ro, được thể hiện trong các thông lệ mua bán quốc tế và nhất là trong INCOTERMS, cũng dẫn đến các kết luận tương tự. Kể từ thời điểm người bán C&F hay CIF không xếp hàng lên một con tàu đáp ứng các điều kiện yêu cầu trong hợp đồng mua bán thì rủi ro chưa được chuyển cho người mua.

Về tiền lãi trên số tiền bồi thường thiệt hại:

Người ta có thể ngạc nhiên tại sao Uỷ ban trọng tài có thể quyết định cho người mua được hưởng tiền lãi trên số tiền bồi thường dễ dàng đến thế. Thực tế, đã thành

143

nguyên tắc, trái với tiền lãi do quá hạn, tiền lãi trên số tiền bồi thường thiệt hại chỉ được tính nếu người có nghĩa vụ đã cố tình trì hoãn việc thanh toán một cách thiếu thiện chí gây ra một thiệt hại riêng rẽ do trì hoãn (Điều 1153 Bộ luật Dân sự). Thế nhưng ở đây rõ ràng là các trọng tài viên đã không quan tâm nhiều lắm đến “sự thiếu thiện chí” của người bán. Trong phán quyết này, mối quan ngại hàng đầu của các trọng tài viên là làm sao bồi thường đầy đủ cho nạn nhân của một lỗi hợp đồng và được xem xét trực tiếp trên các tình tiết có yếu tố kinh tế. Đây thực ra cũng là một cách tiếp cận hay trong việc xác định thiệt hại. Tuy nhiên, nếu như các trọng tài viên có cách tiếp cận như vậy thì tại sao không quyết định là tiền lãi trên số tiền phải bồi thường phải được tính ngay từ ngày bắt đầu tồn tại khoản thiệt hại phải bồi thường. Cũng theo nguyên tắc này thì không thể tính số tiền lãi trên số tiền bồi thường thiệt hại bắt đầu ngày ra phán quyết, mà lãi phải bắt đầu tính từ khi phải chịu thiệt hại.

144

PHÁN QUYẾT SỐ 36

TRANH CHẤP TRONG VỤ TÀU CHỞ GẠO

Các bên:

Nguyên đơn : Công ty thuê tàu Việt Nam

Bị đơn : Công ty vận tải Singapore

Các vấn đề được đề cập:

− Không giao hàng/làm mất hàng

− Điều khoản miễn trách

− Quyền khởi kiện trong tranh chấp liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá bán theo điều kiện C&F

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 27 tháng 11 năm 1997, Nguyên đơn (một công ty Việt Nam) ký một hợp đồng mua bán với công ty Angiêri (Người mua) theo đó Nguyên đơn bán cho Người mua 10.000 MT gạo trắng hạt dài ± 5% theo điều kiện C&F một cảng Angiêri do Người mua lựa chọn. Điều 18 quy định trị giá mỗi lần giao hàng sẽ đóng góp vào việc trả khoản nợ mà Chính phủ Việt Nam nợ Chính phủ Angiêri theo một Thoả thuận chính phủ năm 1995 giữa hai nước này. Phương thức thanh toán qui định trong hợp đồng là Nguyên đơn trình cho ngân hàng của mình (ngân hàng Việt Nam) các chứng từ chứng minh quyền sở hữu đối với hàng hoá, sau đó các chứng từ này được ngân hàng Việt Nam chuyển cho ngân hàng Angiêri, nếu Người mua không có phản đối gì thì Nguyên đơn sẽ được ngân hàng Việt Nam thanh toán tiền hàng theo hợp đồng mua bán sau khi có “thoả thuận cuối cùng” giữa ngân hàng Việt Nam và ngân hàng Angiêri.

Thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán nói trên, ngày 5 tháng 1 năm 1998 Nguyên đơn ký kết hợp đồng vận chuyển với Bị đơn (một công ty vận tải đường biển Singapore). Thực chất Bị đơn không có tàu mà phải ký một hợp đồng thuê tàu trước đó với một chủ sở hữu tàu. Theo các điều khoản của hợp đồng vận chuyển, Bị đơn phải xếp 10.000 MT gạo đóng bao tại một cầu cảng an toàn ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, để vận chuyển đến và dỡ hàng tại Oran, Angiêri.

Hợp đồng vận chuyển qui định Bị đơn chỉ phải chịu trách nhiệm đối với các mất mát hoặc thiệt hại đối với hàng hoá nếu các mất mát hoặc thiệt hại này do chủ tàu hoặc người quản lý không thực hiện sự mẫn cán hợp lý để tàu đủ khả năng đi biển và bảo đảm tàu được trang bị đầy đủ, có đủ nhân lực và được cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu hoặc do hành vi hoặc lỗi của chủ tàu hoặc người quản lý của chủ tàu. Bị đơn không chịu trách nhiệm đối với các mất mát hoặc thiệt hại phát sinh từ bất kỳ nguyên nhân bất kỳ nào khác kể cả do lỗi của Thuyền trưởng hoặc đoàn thuỷ thủ và một số người khác do

145

Bị đơn (chủ tàu) thuê lên tàu hoặc trên bờ mà thông thường chủ tàu phải chịu trách nhiệm cho những hành động của họ hoặc do tình trạng không đủ khả năng đi biển của tàu khi bốc hàng hoặc khi bắt đầu hành trình hoặc tại bất kỳ thời điểm nào. Điều 18 Hợp đồng vận chuyển quy định “Sau khi hoàn thành việc xếp hàng tàu đi thẳng tới Angiêri với tốc độ có tính kinh tế và an toàn mà không được phép đổi hướng ...”. Điều 22 hợp đồng này quy định “100% cước vận chuyển phải được thanh toán trong vòng 5 ngày làm việc của ngân hàng trừ đi tiền hoa hồng vận chuyển kể từ khi Thuyền trưởng phát hành vận đơn ”.

Hợp đồng qui định mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển sẽ được đưa ra Trọng tài Hồng Kông giải quyết theo luật Anh.

Tàu vào cảng thành phố Hồ Chí Minh ngày 12 tháng 1 năm 1998, hoàn thành việc xếp hàng và rời cảng ngày 20 tháng 1 năm 1998. Vận đơn dạng congenbill do Thuyền trưởng phát hành và ký ngày 20 tháng 1 năm 1998 xác nhận tàu đã xếp 10.024 MT gạo Việt Nam loại trắng, hạt dài. Nguyên đơn đã thanh toán đủ 360.864 USD cước vào giữa tháng 1 năm 1998 trước thời hạn qui định tại hợp đồng vận chuyển.

Thông thường với chặng đường từ thành phố Hồ Chí Minh đến Angiêri tàu phải đi mất khoảng từ 3 đến 4 tuần. Sau hai tháng tàu vẫn chưa đến Angiêri, Nguyên đơn đã tiến hành điều tra xem tàu đang ở đâu. Theo các thông tin mà Nguyên đơn nhận được, tàu đã không thể quá cảnh qua Kênh Suez do Bị đơn không và/hoặc không đủ khả năng trả các lệ phí qui định tại Kênh Suez do có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thuê tàu giữa Bị đơn và chủ sở hữu tàu. Sau một thời gian bặt tin, ngày 16 tháng 7 năm 1998 tàu đến Gibralta, bị bắt giữ ở đây theo yêu cầu của ngân hàng nhận cầm cố của chủ tàu và bị bán với giá 1.400.000 USD. Số hàng hoá trên tàu đã bị dỡ xuống trước khi tàu đến Gibralta nhưng các chi tiết về việc dỡ và bán hàng không xác định được.

Căn cứ vào điều khoản trọng tài trong hợp đồng vận chuyển, Nguyên đơn khởi kiện đòi Bị đơn bồi thường 3.200.000 USD là trị giá số hàng theo Điều 4 Hợp đồng mua bán. Nguyên đơn đòi Bị đơn hoàn trả 288.820,80 USD là một phần tiền cước vận chuyển. Ngoài ra Nguyên đơn còn đòi Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho mọi khiếu kiện hoặc bản án mà một bên thứ ba tiến hành chống lại Nguyên đơn phát sinh từ hoặc có liên quan đến sự mất mát/không giao hàng. Nguyên đơn cũng đòi bồi thường tiền lãi và các chi phí khác.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về tư cách khởi kiện của Nguyên đơn:

Trên cơ sở các chứng cứ do Nguyên đơn cung cấp, Nguyên đơn là Người bán trong hợp đồng mua bán với Người mua Angiêri và là người thuê tàu trong hợp đồng vận chuyển. Việc thanh toán cho số gạo theo hợp đồng mua bán sẽ được thực hiện sau khi hàng được giao cho người mua và trị giá của lô hàng sẽ được dùng vào việc trả nợ của Chính phủ Việt Nam cho Chính phủ Angiêri. Do đó, Uỷ ban trọng tài quyết định

146

rằng Nguyên đơn vẫn là người giữ vận đơn gốc và là chủ sở hữu của số hàng hoá tại thời điểm số hàng này bị mất. Vì vậy Nguyên đơn có quyền kiện đòi thiệt hại do mất hàng hoá.

2. Về trách nhiệm đối với thiệt hại:

Các kết quả điều tra do Nguyên đơn cung cấp cho thấy số hàng hoá chưa từng được chở đến Angiêri và giao cho Người mua.

Theo Điều 13 Hợp đồng vận chuyển, Bị đơn có nghĩa vụ đưa tàu đến thành phố Hồ Chí Minh, xếp hàng theo các điều kiện ghi trong hợp đồng vận chuyển và giao số hàng đó đến Oral, Angiêri. Điều 18 Hợp đồng qui định Bị đơn có nghĩa vụ cho tàu đi thẳng tới Angiêri không chậm trễ hay đổi hướng. Mặc dù không có chi tiết chính xác về việc hàng hoá trên tàu bị mất như thế nào nhưng có thể kết luận là Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng vận chuyển, mà cụ thể là vi phạm Điều 13 và Điều 18 do đã không đi đến Angiêri và giao hàng tại đây.

Đồng thời, Uỷ ban trọng tài đã yêu cầu Nguyên đơn giải trình theo Điều 2 Hợp đồng vận chuyển (qui định về trách nhiệm của bên vận chuyển). Nguyên đơn đã trả lời bằng bản fax ngày 16 tháng 11 năm 1999 cho rằng Bị đơn hoàn toàn không nhắc gì đến Điều 2 Hợp đồng vận chuyển trong giải trình của mình. Bản sao của bản fax này cũng đã được chuyển đến Bị đơn. Theo Điều 2, Bị đơn có thể được miễn trách nếu chứng minh được rằng việc mất hàng hoá không xuất phát từ sự thiếu mẫn cán hợp lý để làm cho tàu có đủ khả năng đi biển và bảo đảm tàu có trang thiết bị đầy đủ, có đủ nhân lực và được cung cấp đủ nguyên nhiên liệu hoặc xuất phát từ hành vi hoặc lỗi cá nhân của Bị đơn. Uỷ ban trọng tài chấp nhận lập luận của Nguyên đơn cho rằng Điều 2 “chủ yếu là một điều khoản miễn trách, nghĩa vụ chứng minh về quyền hưởng miễn trách thuộc về Bị đơn. Để được miễn trách Bị đơn phải chứng minh là việc mất mát hoặc thiệt hại của hàng hoá không phải do lỗi thiếu mẫn cán cần thiết của Bị đơn...”. Thực tế Bị đơn đã không trình bất kỳ chứng cứ nào về hoàn cảnh mất hàng. Do đó, Uỷ ban trọng tài kết luận Bị đơn không được quyền miễn trách theo Điều 2 Hợp đồng vận chuyển và phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn do không chuyển và giao hàng theo các điều khoản của Hợp đồng vận chuyển.

3.Về thiệt hại:

Nguyên đơn đã lập luận trên cơ sở Hợp đồng vận chuyển rằng:

“Biện pháp thông thường để tính thiệt hại do không giao hàng là trị giá của hàng hoá tại thời điểm và địa điểm mà đáng lẽ hàng phải được giao, trừ đi các chi phí mà đáng lẽ Nguyên đơn đã phải chi ra để có được số hàng đó tại cảng đích nhưng do hàng không được giao nên Nguyên đơn đã không phải chi. Trong trường hợp có thể bán được hàng hoá trên thị trường thì thiệt hại sẽ được tính theo giá trị thị trường không phụ thuộc vào việc Nguyên đơn đã bán hàng theo giá thị trường thông thường ... hay cao hơn giá thị trường. Giá của hàng hoá mà Nguyên đơn đã mua hoặc bán có thể coi là

147

bằng chứng về giá thị trường...”

Về nguyên tắc, Nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh các thiệt hại mà mình đã phải chịu và do đó nghĩa vụ đưa ra chứng cứ về giá thị trường làm căn cứ cho các thiệt hại muốn được bồi thường thuộc trách nhiệm của Nguyên đơn. Tuy nhiên trong vụ việc hiện tại, giá của hàng hoá có điểm khác biệt do số hàng hoá này có liên quan đến việc trả nợ của Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Angiêri. Từ Hợp đồng mua bán có thể kết luận là Nguyên đơn sẽ được Ngân hàng Việt Nam trả 320 USD cho mỗi tấn gạo được giao ở Angiêri. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài cho rằng phương thức tính thiệt hại hợp lý nhất là phương thức nêu trong Điều 4 Hợp đồng mua bán, tức là 320 USD/MT. Số lượng hàng hoá 10.000 MT được chứng minh bằng vận đơn đường biển và do đó, Nguyên đơn được quyền hưởng 3.200.000 USD là trị giá số hàng của họ.

Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi hoàn trả 288.820,80 USD tiền cước vận chuyển mà Nguyên đơn đã trả cho Bị đơn vì lý do giá nêu trong Hợp đồng mua bán đã bao gồm cả cước và bảo hiểm và do đó tiền bồi thường thiệt hại 3.200.000 USD đã bao gồm tiền cước mà Nguyên đơn phải trả.

4.Về trách nhiệm đối với khiếu kiện của một bên thứ ba:

Trong đơn kiện Nguyên đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài tuyên bố Bị đơn phải chịu trách nhiệm đối với mọi khiếu kiện phát sinh từ hoặc có liên quan đến việc không giao hàng/mất hàng mà một bên thứ ba có thể tiến hành chống lại Nguyên đơn. Trong văn bản ngày 8/3/2000, Nguyên đơn cho rằng Nguyên đơn “có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường cho Người mua một khoản tiền cao hơn giá hàng 3,2 triệu USD do vi phạm hợp đồng mua bán”. Tuy nhiên không một bằng chứng nào được đưa ra trước Uỷ ban trọng tài cho thấy đã từng có một khiếu kiện như vậy mặc dù đã quá hai năm kể từ khi xảy ra việc mất hàng.

Uỷ ban trọng tài thừa nhận rằng về nguyên tắc, Nguyên đơn được quyền bồi hoàn trong trường hợp có một khiếu kiện được một bên thứ ba đưa ra sau này chống lại Nguyên đơn, mặc dù việc Nguyên đơn có được Bị đơn hoàn trả lại những khoản tiền mà Nguyên đơn phải bồi thường cho bên thứ ba hay không chỉ có thể xác định khi và nếu một khiếu kiện như vậy phát sinh. Do đó, Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải bồi hoàn cho Nguyên đơn mọi khoản tiền mà Nguyên đơn phải bồi thường cho một bên thứ ba xuất phát từ việc Bị đơn không giao hàng.

5. Về tiền lãi:

Uỷ ban trọng tài chấp nhận rằng Nguyên đơn có quyền hưởng tiền lãi trên số thiệt hại của mình. Nếu việc vận chuyển diễn ra suôn sẻ tàu sẽ đến cảng của Angiêri khoảng 4 tuần sau khi rời cảng bốc hàng, tức là vào khoảng ngày 20 tháng 2 năm 1998. Uỷ ban trọng tài cho rằng Nguyên đơn sẽ phải mất thêm khoảng 8 ngày dỡ hàng và để hoàn thành các giấy tờ cần thiết giữa Chính phủ Việt Nam và Angiêri, do đó Nguyên đơn chỉ có thể được trả tiền lãi tính từ ngày 1 tháng 4 năm 1998 chứ không phải là từ ngày 1

148

tháng 3 năm 1998 như Nguyên đơn yêu cầu. Uỷ ban trọng tài cho rằng lãi suất 10% mà Nguyên đơn yêu cầu là cao nên chỉ chấp nhận lãi suất 9,5% trên số tiền hàng. Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu về tiền lãi trên các chi phí.

6. Các chi phí:

Vì khiếu kiện chính của Nguyên đơn đã được chấp nhận nên Nguyên đơn có quyền được bồi hoàn các chi phí bao gồm chi phí cho Uỷ ban trọng tài và các chi phí cho luật sư mà Nguyên đơn đã bỏ ra để theo đuổi vụ kiện này.

149

PHÁN QUYẾT SỐ 37

TRANH CHẤP VỀ THÙ LAO TRONG HỢP ĐỒNG

KHẢO SÁT THIẾT KẾ

Các bên:

Nguyên đơn : Kiến trúc sư người Mỹ

Bị đơn : Công ty thuê thiết kế Arập Xê-út

Các vấn đề được đề cập:

− Luật áp dụng cho tranh chấp

− Lựa chọn luật trực tiếp

− Lex mercatoria

− Các tập quán thương mại

Tóm tắt vụ việc:

Năm 1976 Nguyên đơn và Bị đơn ký kết với nhau hai thoả thuận (Thoả thuận Dịch vụ giai đoạn I và Thoả thuận Dịch vụ giai đoạn II) theo đó Nguyên đơn thực hiện các công việc chuẩn bị các bản vẽ và các tài liệu xây dựng liên quan khác cũng như liên hệ với các nhà thầu xây dựng chính cho một dự án xây dựng ở Jeddah, Arập Xê-út. Các bên thoả thuận đưa các tranh chấp có thể phát sinh ra trước trọng tài ICC tại Geneva để giải quyết. Trong các thoả thuận này không đề cập gì đến việc chọn luật áp dụng.

Khi tranh chấp phát sinh giữa các bên về mức phí khảo sát thiết kế, Nguyên đơn khởi kiện ra trọng tài. Bị đơn kiện lại với lý do mình đã phải trả cho Nguyên đơn mức phí quá cao.

Phán quyết này được tuyên năm 1985 giải quyết vấn đề luật áp dụng cho tranh chấp.

Nguyên đơn thì cho rằng luật áp dụng cho tranh chấp phải là Luật của bang Georgia, Mỹ bởi tất cả các công việc chính qui định trong các thoả thuận đều được thực hiện tại bang này. Nguyên đơn cũng cho rằng có thể lựa chọn luật của Thuỵ Sỹ, luật của nơi có chủ thể xét xử (lex fori), hay lex mercatoria cũng có thể được áp dụng. Cuối cùng, Nguyên đơn còn dựa vào “các qui tắc luật quốc tế tương tự qui định về các dịch vụ kỹ thuật theo đó nếu không có thoả thuận ngược lại, mối quan hệ giữa các bên sẽ được điều chỉnh bởi luật của nơi cư trú của kỹ thuật viên chứ không phải là luật nơi cư trú của người thuê dịch vụ kỹ thuật”.

Bị đơn thì lại cho rằng cần áp dụng luật của Arập Xê-út bởi các nghĩa vụ của Nguyên đơn được thực hiện một phần tại bang Georgia, một phần tại Arập Xê-út, trong khi đó tất cả các nghĩa vụ về phía Bị đơn lại được thực hiện tại Arập Xê-út. Hơn nữa,

150

theo Thoả thuận Dịch vụ giai đoạn II, tất cả các nghĩa vụ của Nguyên đơn sẽ được thực hiện tại Arập Xê-út. Về các tập quán thương mại, Bị đơn cho rằng không tồn tại bất kỳ một tập quán nào qui định trực tiếp về các dịch vụ kiến trúc do một kiến trúc sư Mỹ cho một dự án tại Arập Xê-út. Cuối cùng, Bị đơn cho rằng cả luật Thuỵ Sỹ lẫn lex mercatoria đều không thể được áp dụng.

Phán quyết của trọng tài:

Uỷ ban trọng tài quyết định trong trường hợp này phải áp dụng luật bang Georgia vì các lý do sau đây:

1. Rõ ràng là các bên đã không lựa chọn luật. 2. Căn cứ vào chứng cứ được trình ra trước Uỷ ban trọng tài thì vấn đề luật điều chỉnh không hề được các bên bàn bạc đến khi ký kết hợp đồng, và rõ ràng là các bên cũng không đạt được một thoả thuận ngầm hay hiểu ngầm nào về vấn đề này. Do không có bất kỳ chứng cứ nào về một thoả thuận hay một ý định thực tế nào của các bên, Uỷ ban trọng tài cho rằng không thể tuyên bố là các bên đã chọn luật thực chất của Thuỵ Sỹ hay lex mercatoria. Uỷ ban trọng tài cho rằng để lựa chọn luật áp dụng thì cần có một thoả thuận của các bên về vấn đề này và trong vụ việc đang xem xét thì không có một thoả thuận như vậy.

3. Dựa vào các chứng cứ do các bên trình ra liên quan đến các dịch vụ mà Nguyên đơn phải cung cấp cho Bị đơn theo thoả thuận thì rõ ràng là phần lớn các công việc được thực hiện tại bang Georgia. Một vài chuyến công tác để điều tra thực tế và để liên hệ của các đại diện của Bị đơn đến Arập Xê-út không thể làm cho trung tâm công việc chính được chuyển từ bang Georgia sang Arập Xê-út. Uỷ ban trọng tài cho rằng trọng tâm và phần công việc cơ bản của Nguyên đơn (được trả phí là 5.135.997 đồng Rial Saudi) được tiến hành và thực hiện tại bang Georgia, Mỹ.

Uỷ ban trọng tài cho rằng trong vụ việc này không nhất thiết phải xác định một qui tắc luật xung đột cụ thể nào để xác định luật áp dụng cho hợp đồng bởi hầu hết các qui tắc luật này qui định luật được áp dụng là luật của nơi tiến hành phần công việc chủ yếu, mà theo quan điểm của Uỷ ban trọng tài thì không còn gì nghi ngờ rằng phần công việc cơ bản và chủ yếu theo thoả thuận đã được thực hiện tại bang Georgia.

Uỷ ban trọng tài cũng lưu ý rằng quyết định áp dụng luật của bang Georgia cũng phù hợp với các qui tắc luật quốc tế liên quan đến cung cấp dịch vụ kỹ thuật.

Uỷ ban trọng tài cho rằng không cần phải xem xét trường hợp giả định là luật nào sẽ được áp dụng nếu Giai đoạn dịch vụ II đã được tiến hành. Rõ ràng là các bên có lựa chọn ký hai thoả thuận riêng rẽ liên quan đến công việc của Nguyên đơn trong dự án này và rõ ràng là Giai đoạn Dịch vụ II chưa bắt đầu và ít nhất là trong tố tụng trọng tài này các bên chưa hề viện dẫn đến sự tồn tại của bất kỳ nghĩa vụ hay trách nhiệm nào phát sinh từ Thoả thuận Dịch vụ Giai đoạn II. Theo Uỷ ban trọng tài thì không nhất thiết là hai thoả thuận dịch vụ này phải được điều chỉnh bởi cùng một luật. Do vậy, luật điều

151

chỉnh Thoả thuận Dịch vụ Giai đoạn II không thể là cơ sở chắc chắn để xác định luật điều chỉnh Thoả thuận Dịch vụ giai đoạn I mà Uỷ ban trọng tài đang phải quyết định. Theo nhiều qui tắc xung đột luật thì việc xác định luật áp dụng chủ yếu dựa vào các tình tiết thực tế và công việc cơ bản theo các hợp đồng đã được thực hiện. Trong trường hợp cụ thể này thì phần công việc Giai đoạn Dịch vụ II chưa được thực hiện, nên Uỷ ban trọng tài chỉ cần xem xét các tình tiết thực tế của vụ việc chứ không xem xét đến phần công việc trong tương lai, phần sẽ được điều chỉnh bởi một thoả thuận riêng rẽ khác mà chưa được thực hiện.

Bình luận và lưu ý:

Một hợp đồng ký kết giữa các chủ thể thuộc các quốc gia khác nhau có thể được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống pháp luật khác nhau (ví dụ: luật quốc gia của mỗi bên ký kết, luật nơi thực hiện hợp đồng, luật nơi có tài sản là đối tượng của hợp đồng, luật của quốc gia có truyền thống lâu đời về lĩnh vực đó, tập quán thương mại trong lĩnh vực đó, v..v..). Vì vậy, để tránh những mâu thuẫn có thể xảy ra liên quan đến vấn đề này, khi giao kết các hợp đồng dạng này các bên nên cùng thống nhất lựa chọn một luật áp dụng cho hợp đồng.

Khi các bên không chọn luật áp dụng cho hợp đồng, nếu có tranh chấp đưa ra trọng tài thì trọng tài sẽ là người có quyền quyết định việc này trên cơ sở xem xét các hoàn cảnh cụ thể của vụ việc. Thông thường, luật áp dụng sẽ là luật của quốc gia có quan hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng (ví dụ trong trường hợp này là quốc gia nơi thực hiện phần công việc chủ yếu của hợp đồng) hay tập quán quốc tế trong lĩnh vực liên quan nếu không thể xác định được quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng.

152

PHÁN QUYẾT SỐ 38

TRANH CHẤP VỀ SỬA ĐỔI GIÁ

TRONG HỢP ĐỒNG THẦU PHỤ XÂY DỰNG

Các bên:

Nguyên đơn : Nhà thầu phụ Italia

Bị đơn : Nhà thầu chính Libi

Các vấn đề được đề cập:

− Sửa đổi giá quy định trong hợp đồng

− Đơn phương ngừng công việc ở công trường đang xây dựng

− Nghĩa vụ hợp tác thiện chí

− Áp dụng mọi biện pháp nhằm giảm thiệt hại

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn là một liên doanh được thành lập theo luật Italia với mục đích thực hiện công việc xây dựng dân dụng tại Libi. Bị đơn là một công ty cổ phần hoạt động theo luật Libi trong lĩnh vực xây dựng và xây dựng dân dụng tại Libi. Bị đơn được chọn để thực hiện một số công việc xây dựng cho Chủ Công trình Libi. Ngày 22 tháng 10 năm 1978, một hợp đồng thầu phụ được ký giữa Nguyên đơn và Bị đơn, theo đó Nguyên đơn được thầu lại một số công việc. Các bên đã quy định một giá khoán ấn định trong hợp đồng và giá của công trình “sẽ là giá cố định trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng và không thể bị sửa đổi”. Hợp đồng chịu sự điều chỉnh của luật Libi và thời hạn thực hiện hợp đồng ấn định là 24 tháng, thời hạn bàn giao công trình là ngày 15 tháng 10 năm 1980.

Ngay từ khi bắt đầu công việc xây dựng đã gặp phải khó khăn do có một vài chậm trễ về thủ tục hành chính và do có khan hiếm về nguyên vật liệu. Sau khi cân nhắc các khó khăn này, Bị đơn yêu cầu Chủ công trình cho lùi thời gian bàn giao công trình lại 8 tháng so với dự tính ban đầu. Và Bị đơn cũng đã yêu cầu Chủ Công trình tăng giá công trình lên 30%, với lý do là giá gỗ, xi măng và cát đã tăng nhiều kể từ khi hợp đồng được ký kết.

Tới ngày 1 tháng 5 năm 1980, chỉ khoảng 10% tổng giá trị công việc được hoàn thành, điều này chứng tỏ công việc đã gặp phải rất nhiều khó khăn.

Các bên đã gặp đại diện của Chủ công trình nhiều lần để tìm ra giải pháp giải quyết những khó khăn liên quan đến việc hoàn thành công trình. Và cuối cùng Nguyên đơn và Bị đơn đã ký kết một văn bản sửa đổi đối với hợp đồng thầu phụ vào ngày 28 tháng 10 năm 1980, với các điều khoản sửa đổi cơ bản như sau:

153

− Thời hạn bàn giao công trình được dời tới ngày 15 tháng 6 năm 1982, tức là 20 tháng kể từ ngày 15 tháng 10 năm 1980;

− Bị đơn chấp nhận về nguyên tắc sửa đổi giá của hợp đồng, với điều kiện là được sự đồng ý của Chủ Công trình;

− Bị đơn chấp nhận tạo điều kiện về tài chính cho Nguyên đơn để có thể tiếp tục công việc.

Trong thoả thuận khác được ký cùng ngày, Bị đơn cam kết đưa ra một “trả lời chính thức” trong vòng hai tháng về việc tăng giá hợp đồng, vấn đề mà các bên đã thỏa thuận được với nhau về mặt nguyên tắc.

Thực tế đến tận năm 1981 việc sửa đổi giá này vẫn không được thực hiện. Do đó Nguyên đơn đã có văn bản gửi Bị đơn nhắc lại việc sửa đổi giá công trình và Bị đơn đã gửi tới Chủ Công trình đề nghị tăng giá hợp đồng lên 45%. Trong khi đó, Nguyên đơn vẫn tiếp tục thực hiện công việc.

Tháng 12 năm 1981, Nguyên đơn và Bị đơn ký một thoả thuận quyết định tăng giá hợp đồng và việc thanh toán sẽ được thực hiện chậm nhất vào ngày 31 tháng 12 năm 1981. Thỏa thuận này kéo theo một số sửa đổi khác đối với hợp đồng vào tháng 1 năm 1982. Tuy nhiên, Bị đơn đã không hề ấn định khoản tiền sửa đổi là bao nhiêu cũng như thanh toán bất cứ một khoản tiền nào cho Nguyên đơn theo như thoả thuận về sửa đổi giá của hợp đồng vì thực tế, chủ công trình chưa từng chấp nhận sửa đổi giá của hợp đồng. Mặc dù vậy, Nguyên đơn vẫn tiếp tục các hoạt động của mình tại công trường vì Bị đơn trả lời rằng tình trạng nói trên chỉ là do quan liêu giấy tờ mà thôi.

Tháng 7 năm 1982, Nguyên đơn tiến hành rút nhân lực của mình khỏi công trường, không tiếp tục thực hiện các công việc trên công trường của mình với lý do Bị đơn chậm trễ trong việc thực hiện các nghĩa vụ đã ký kết trong bản sửa đổi hợp đồng tháng 1 năm 1982. Đến thời điểm này, Nguyên đơn mới chỉ hoàn thành gần 20% giá trị công trình.

Sau khi cố gắng hoà giải nhưng không có kết quả, tháng 7 năm 1983, Bị đơn gửi công văn cho Nguyên đơn thông báo huỷ bỏ hợp đồng thầu phụ do lỗi của Nguyên đơn. Sau đó, Nguyên đơn đã trình lên Toà án trọng tài ICC yêu cầu giải quyết việc huỷ bỏ hợp đồng do lỗi nghiêm trọng của Bị đơn và yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại mà Nguyên đơn phải chịu.

Phán quyết của trọng tài:

Toà án trọng tài quyết định luật áp dụng giải quyết tranh chấp này là luật Libi, trong trường hợp luật Libi không điều chỉnh hoặc không đầy đủ thì sẽ áp dụng lex mercatoria (thông lệ thương mại) và các nguyên tắc chung.

Toà án trọng tài cho rằng các bên đã thống nhất về những thay đổi đối với hợp đồng sau khi phát sinh những khó khăn đầu tiên, vì vậy thấy không cần thiết phải xem

154

xét mức độ thiệt hại mà Nguyên đơn phải gánh chịu, trọng tài chỉ xem xét những vấn đề sau:

Vấn đề thứ nhất cần được xem xét là việc bất ngờ rút khỏi công trường vào tháng 6 và 7 năm 1982. Hành vi này là một căn cứ xác định lỗi của Nguyên đơn trong việc dừng thực hiện hợp đồng thầu phụ, trừ khi Nguyên đơn viện dẫn được họ thực hiện hành vi đó là do lỗi của Bị đơn.

Nguyên đơn khẳng định rằng Nguyên đơn có quyền rút khỏi công trường vào tháng 6 và 7 và huỷ bỏ hợp đồng thầu phụ vì Bị đơn không chấp hành các nghĩa vụ đã ký kết trong các văn bản sửa đổi về việc tăng giá của hợp đồng và thanh toán khoản tiền nợ.

Để bào chữa, một mặt Bị đơn lập luận rằng việc sửa đổi giá hợp đồng chỉ được thực hiện với điều kiện là phải được Chủ công trình chấp thuận, mà thực tế Chủ công trình chưa bao giờ chấp thuận, mặt khác Bị đơn cho rằng luật Libi loại trừ nguyên tắc sửa đổi giá đã được ấn định, vì vậy bất cứ thoả thuận nào về việc sửa đổi sẽ không có hiệu lực.

Về vấn đề thứ nhất, Uỷ ban trọng tài nhận thấy rằng đúng là thoả thuận ngày 28 tháng 10 năm 1980 thể hiện sự thống nhất của Bị đơn về nguyên tắc sửa đổi giá của hợp đồng được thực hiện với điều kiện có sự chấp thuận của Chủ công trình, nhưng trong các thoả thuận sửa đổi sau đó không hề nhắc đến điều kiện này. Hơn nữa, trong bản sửa đổi hợp đồng ngày 14 tháng 1 năm 1982 xác định nguyên tắc sửa đổi giá hợp đồng có nêu rõ rằng nguyên tắc này “đã được Chủ công trình thông qua”.

Ngoài ra, vì hợp đồng thầu chính giữa Chủ công trình và Bị đơn hoàn toàn độc lập với hợp đồng thầu phụ giữa Bị đơn và Nguyên đơn và trong các thỏa thuận sửa đổi hợp đồng Bị đơn đã cam kết tăng giá hợp đồng vô điều kiện, nhất trí thanh toán trong thời hạn xác định nên việc Chủ công trình có đồng ý với việc tăng giá hay không cũng không có ý nghĩa gì.

Về luận điểm thứ hai của Bị đơn, Điều 657 Luật dân sự Libi loại trừ trên nguyên tắc việc sửa đổi giá hợp đồng đã được ấn định, song Mục 4 của Điều này qui định về quyền tăng giá hoặc ngừng hợp đồng khi có những sự kiện không thể lường trước và ngoại lệ phát sinh sau khi hợp đồng được ký kết.

Về điểm này, Uỷ ban trọng tài cho rằng luật Libi cũng giống như luật quốc gia của Đức và luật của Thuỵ Sỹ hoặc thậm chí cũng như lex mercatoria, đưa ra thuyết về sự kiện không lường trước phát sinh và trong những trường hợp như vậy sẽ áp dụng nguyên tắc cao hơn, đó là nguyên tắc thiện chí.

Uỷ ban trọng tài cũng cho rằng luật Libi cũng như luật Thuỵ Sỹ và luật Đức, không chỉ quy định các bên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình phù hợp với nguyên tắc thiện chí (như qui định tại Điều 148 Chương 1 Luật dân sự Libi), mà còn cấm lạm dụng luật (như qui định tại Điều 5 Luật dân sự Libi).

155

Như vậy, trái với những điểm bào chữa của Bị đơn, luật Libi không cấm việc sửa đổi giá đã được ấn định khi có những sự kiện không lường trước và bất thường xảy ra và trong những trường hợp như vậy cho phép tăng giá hợp đồng hoặc ngừng hợp đồng và lý luận này cũng được hệ thống pháp luật khác như luật Đức và Thuỵ Sỹ thừa nhận.

Điều đó có nghĩa là sửa đổi giá của hợp đồng trong một thời hạn ấn định và thanh toán khoản tiền chênh lệch do tăng giá là hợp pháp và vì vậy những sửa đổi này là hoàn toàn có hiệu lực.

Bị đơn cho rằng thoả thuận giữa các bên là không đầy đủ vì nó không đề cập yếu tố quan trọng của hợp đồng, đó là khoản tăng giá của hợp đồng. Còn Nguyên đơn lại cho rằng những khoản tăng đó đã được nêu ra ở trong bức thư do Bị đơn gửi cho Chủ công trình ngày 4 tháng 6 năm 1981 và một bản sao được gửi cho Nguyên đơn theo đó Bị đơn yêu cầu chủ công trình tăng 45% giá hợp đồng.

Trọng tài cho rằng không cần thiết phải xác định xem bức thư nói trên có phải là thoả thuận giữa các bên về khoản giá tăng hay không, bởi từ các tài liệu đưa ra trong vụ kiện này và đặc biệt là thông báo về tăng chi phí vật liệu, công việc, vận tải và các chi phí dịch vụ khác thì hoàn toàn có thể xác định khoản tăng giá một cách khách quan chỉ trên cơ sở các số liệu sẵn có mà không cần quyết định chủ quan của một bên nào cả.

Ngoài ra, Điều 7 văn bản sửa đổi ngày 4 tháng 1 năm 1982 đề cập đến nghĩa vụ xác định khoản tăng giá của Bị đơn trong thời hạn nhất định. Đây là nghĩa vụ phải thực hiện trong hợp đồng. Như vậy, việc không tiến hành các bước thích hợp để xác định việc tăng giá được coi như là một sự vi phạm nghĩa vụ từ phía Bị đơn và do đó Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc này.

Từ các phân tích nêu trên, Uỷ ban trọng tài chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường của Nguyên đơn.

Về khoản thiệt hại, tức khoản bồi thường cho Nguyên đơn, khoản tiền này sẽ được xác định theo nguyên tắc tại Điều 224 Luật dân sự Libi. Theo đó, việc xác định mức độ thiệt hại sẽ căn cứ vào hoàn cảnh và mức độ nghiêm trọng của lỗi của Bị đơn vì trong vụ kiện này rõ ràng rằng Bị đơn đã không thực hiện nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, Bị đơn không cố ý gây thiệt hại cho Nguyên đơn mà họ còn cố gắng hợp tác với hy vọng hoàn thành công việc. Thực tế, Bị đơn đã nhất trí với Nguyên đơn về những khoản tiền ứng trước quan trọng mà không cần bất cứ nghĩa vụ hợp đồng nào và đó chính là bằng chứng rõ ràng về thái độ thiện chí, và nếu có áp dụng chế tài thì sẽ là chế tài không quá nghiêm khắc. Từ xem xét các yếu tố nói trên, uỷ ban trọng tài đã xác định khoản tiền hợp lý mà Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn.

156

PHÁN QUYẾT SỐ 39

TRANH CHẤP DO KHÔNG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ

TRONG HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG

Các bên:

Nguyên đơn : Nhà thầu Đan Mạch

Bị đơn : Nhà thầu lại Ai Cập

Các vấn đề được đề cập:

− Nơi tiến hành tố tụng trọng tài

− Trật tự công cộng

− Các nội dung của điều khoản trọng tài

− Các quá trình tố tụng tiến hành song song

− Trì hoãn thực hiện hợp đồng

− Chấm dứt hợp đồng

− Tính toán các thiệt hại

− Người thuê tự mình hoàn thành nốt công việc

− Sửa đổi đơn kiện

− Lãi suất

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 26 tháng 3 năm 1983 Nguyên đơn ký hợp đồng với chủ dự án người Ai Cập xây dựng một lò mổ gia súc ở Ai Cập. Ngày 9 tháng 3 năm 1983, Nguyên đơn ký hợp đồng thầu lại với Bị đơn, một công ty Ai Cập khác. Hợp đồng này, sau đó được sửa đổi, có chứa một điều khoản trọng tài. Công ty Ai Cập thoả thuận sẽ xây mười khu nhà và các công trình phụ khác.

Sau khi phát sinh tranh chấp về việc Bị đơn trì hoãn thực hiện công việc, vào cuối tháng 1 năm 1985 Nguyên đơn đã thực hiện thêm phần công việc của mình theo qui định tại Thoả thuận sửa đổi ngày 19 tháng 9 năm 1984 và hoàn thành luôn phần công việc còn dở dang của Bị đơn. Theo yêu cầu của Nguyên đơn, thanh tra chất lượng đã lập báo cáo xác định mức độ công việc đã được thực hiện cho đến ngày 31 tháng 1 năm 1985.

Ngày 7 tháng 5 năm 1985 công ty Đan Mạch khởi kiện ra trọng tài ICC tại Zurich, Thuỵ Sỹ đòi Bị đơn bồi thường 555.000 EGP (ngày 30 tháng 4 năm 1987 khoản tiền này được sửa đổi thêm 230.097 EGP) và 7.262.997 Dkr. Ngày 10 tháng 9 năm 1985

157

ICC chỉ định một trọng tài viên duy nhất. Trọng tài viên này xác định Zurich là nơi tiến hành tố tụng trọng tài. Bị đơn từ chối ký vào bản Công nhận thẩm quyền xét xử của Trọng tài viên (Terms of Reference), phản đối thẩm quyền xét xử của trọng tài viên và không chính thức tham gia tố tụng. Tuy nhiên, trọng tài viên đã nhận được một số văn thư của ông A và ông B, tự xưng là cố vấn pháp lý của Bị đơn.

Trọng tài viên giải quyết vấn đề thẩm quyền xét xử đương nhiên (ex officio) của chính mình và quyết định rằng mình có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Về nội dung tranh chấp, trọng tài viên quyết định rằng công ty Đan Mạch được quyền hưởng thù lao cho phần công việc mà công ty này đã thực hiện một cách đúng đắn.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về thẩm quyền xét xử của trọng tài:

Vì Zurich là nơi tiến hành tố tụng trọng tài nên quá trình tố tụng được điều chỉnh bởi Qui tắc tố tụng ICC và Qui tắc tố tụng dân sự Thụy Sỹ. Các qui định trong Qui tắc tố tụng dân sự Thụy Sỹ liên quan đến trọng tài đã được sửa đổi ngày 1 tháng 7 năm 1985 (thay thế Qui tắc Zurich trước đây bằng Giao ước liên vùng Thụy Sỹ về tố tụng trọng tài). Tuy nhiên, vì vụ việc này được bắt đầu trước ngày 1 tháng 7 năm 1985 nên quá trình tố tụng của nó vẫn do Qui tắc Zurich trước đây điều chỉnh. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi theo luật cũ thì về mặt hình thức trọng tài viên phải ra một phán quyết riêng về thẩm quyền xét xử với rất nhiều hình thức kháng cáo, khác với qui định về kháng cáo đối với phán quyết về nội dung tranh chấp.

Theo Điều 241 Qui tắc tố tụng dân sự Zurich và Điều 8(3) Qui tắc tố tụng ICC, trọng tài viên có quyền tự quyết định về thẩm quyền xét xử của mình4.

Điều khoản trọng tài mà Nguyên đơn viện dẫn được nêu trong Điều 14 Thoả thuận giữa các bên ngày 9 tháng 3 năm 1983 qui định như sau:

“Mọi tranh chấp hay mâu thuẫn không thể giải quyết một cách hoà hữu giữa các bên phải được giải quyết và xác định bởi trọng tài theo Qui tắc Hoà giải và Trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế, Zurich, Thụy Sỹ phù hợp với Luật của vùng Zurich, Thụy Sỹ”.

Tự bản thân điều khoản này cũng có điểm không chính xác khi qui định “Phòng

4 Điều 241 Qui tắc tố tụng dân sự Zurich ngày 13/6/1976 qui định: "Uỷ ban trọng tài có quyền quyết định về thẩm quyền xét xử của chính mình theo Phần III thậm chí ngay cả khi có phản đối về giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài". Điều 8(3) Qui tắc tố tụng ICC 1975 qui định: "Nếu một trong các bên có một hoặc nhiều khiếu nại về sự tồn tại hay giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài, và nếu Uỷ ban trọng tài cho rằng sự tồn tại của thoả thuận này là đương nhiên, Uỷ ban trọng tài có thể quyết định vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng mà không làm phương hại đến tính có thể chấp nhận được cũng như nội dung của một hoặc các khiếu nại đó. Trong trường hợp như vậy thì quyết định về thẩm quyền xét xử của trọng tài viên phải do chính trọng tài viên đó đưa ra."

158

Thương mại Quốc tế, Zurich, Thụy Sỹ”: Phòng Thương mại Quốc tế có trụ sở ở Paris và không có Phòng Thương mại Quốc tế nào ở Thuỵ Sỹ.

Để sửa chữa sai sót trong điều khoản này cần xem xét các cơ sở của nó. Hợp đồng thầu lại ngày 9 tháng 3 năm 1983 giữa Nguyên đơn và Bị đơn có mối liên hệ trực tiếp tới hợp đồng chính giữa Nguyên đơn và Chủ dự án người Ai Cập ngày 26 tháng 3 năm 1983, hợp đồng sau là một phần “không thể tách rời” của hợp đồng trước và, do đó, được cả hai bên biết. Trong Phụ lục F của hợp đồng thầu chính cũng có một điều khoản trọng tài. Điều khoản này qui định tố tụng trọng tài tại Zurich và áp dụng luật Thuỵ Sỹ nhưng được tiến hành bởi một uỷ ban trọng tài ad hoc gồm ba thành viên với qui định rất cụ thể việc chỉ định trọng tài viên. Điều 14 Thoả thuận (hợp đồng thầu lại) giữa các bên lại có nội dung hoàn toàn khác khi qui định “tố tụng trọng tài theo Qui tắc Hoà giải và Trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế, Zurich”. Thuật ngữ “Qui tắc Hoà giải và Trọng tài” thường được sử dụng để chỉ Qui tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (có trụ sở tại Paris) mà tổ chức trọng tài của Phòng đã được biết đến trên toàn thế giới. Trong khi đó Qui tắc của Phòng Thương mại Zurich địa phương có tên gọi “Qui tắc trung gian và trọng tài”. Trong hoàn cảnh như vậy buộc phải kết luận rằng nghĩa thực của điều khoản có thể được áp dụng ở đây là một tố tụng trọng tài ở Zurich theo Qui tắc tố tụng ICC và luật áp dụng cho nội dung tranh chấp là luật Thụy Sỹ. Kết luận này phù hợp với ít nhất là một quyết định của Toà án Thụy Sỹ và rất nhiều phán quyết trong các vụ kiện của ICC. Quá trình tố tụng đã được tiến hành trong vụ việc này (đơn kiện của Nguyên đơn ra Toà án trọng tài ICC và việc Toà án trọng tài ICC chỉ định một trọng tài viên để tiến hành tố tụng tại Zurich) hoàn toàn phù hợp với điều khoản này.

Bị đơn lập luận rằng điều khoản trọng tài này là sai lầm và vi phạm trật tự công cộng Ai Cập do trọng tài viên không được chỉ định ngay trong điều khoản này như yêu cầu trong luật Ai cập. Lập luận này không được thể hiện trực tiếp trong các bản giải trình của Bị đơn gửi trọng tài viên mà lại được nêu một cách gián tiếp trong bản sao đơn kiện của Bị đơn ra Toà án Ai Cập trong đó Bị đơn cho rằng điều khoản trọng tài trong vụ việc này không có giá trị pháp lý vì nó không tuân thủ Điều 502(3) Bộ luật tố tụng Dân sự Ai Cập, theo đó các trọng tài viên phải được chỉ định đích danh trong thoả thuận trọng tài hoặc trong một thoả thuận riêng biệt.

Rõ ràng là trong vụ kiện này điều khoản trọng tài đã không trực tiếp chỉ định trọng tài viên mà chỉ qui định rằng trọng tài viên sẽ do ICC chỉ định theo Qui tắc tố tụng ICC. Tuy nhiên, điều này không thể khiến cho điều khoản trọng tài trở thành vô hiệu. Điều khoản trọng tài không phải do luật Ai Cập điều chỉnh mà do luật của nước nơi tiến hành tố tụng trọng tài (lex fori) điều chỉnh. Điều 22 Bộ luật Dân sự Ai Cập quy định luật áp dụng cho tố tụng trọng tài là luật của nước nơi tiến hành tố tụng. Theo luật áp dụng cho vụ kiện này (Qui tắc tố tụng ICC và Bộ luật tố tụng Dân sự Zurich bản năm 1976) thì thoả thuận trọng tài này vẫn có giá trị mặc dù trong đó các bên không chỉ định các trọng tài viên.

Ngoài ra, trong một bản án tuyên ngày 26 tháng 4 năm 1982 Tòa Phá án Ai Cập

159

cũng cho rằng Điều 502(3) Bộ luật tố tụng Dân sự Ai Cập không áp dụng trong trường hợp một thoả thuận qui định tiến hành tố tụng trọng tài tại Anh và hơn nữa, việc một luật nước ngoài có quy định khác với Điều 502(3) Bộ luật này không bị coi là vi phạm trật tự công cộng. Đây có thể coi như một án lệ có thể được áp dụng trong vụ việc này.

Từ các lý do nêu trên, trọng tài kết luận lập luận của Bị đơn rằng điều khoản trọng tài không có giá trị pháp lý do không tuân thủ Điều 502(3) là không có căn cứ.

Trong bản Telex ngày 20 tháng 11 năm 1985, ông A, nhân danh Bị đơn, đã thông báo cho trọng tài viên biết rằng Bị đơn đã khởi kiện ra toà án Ai Cập để toà tuyên bố điều khoản trọng tài vô hiệu và yêu cầu toà án ra quyết định đình chỉ tố tụng trọng tài cho đến khi toà án ra quyết định chính thức về vấn đề này. Trong bản Telex ngày 29 tháng 1 năm 1987, ông B, nhân danh Bị đơn, đã dẫn một Lệnh của Toà yêu cầu hoãn tố tụng trọng tài cho đến khi có quyết định khác của toà án.

Thực tế trọng tài viên chưa từng nhận được một lệnh nào của toà án Ai Cập dù là trực tiếp hay thông qua các bên. Tuy vậy, điều này cũng không quan trọng lắm. Như trọng tài viên đã nêu rõ trong bản Telex ngày 21 tháng 11 năm 1985 gửi cho ông A (Nguyên đơn cũng được gửi một bản sao của Telex này), tố tụng tư pháp tại Toà án ở Ai Cập không có tác động đến tố tụng trọng tài cũng như đến trọng tài viên. Chúng cũng không có bất kỳ ảnh hưởng gì đến thẩm quyền xét xử của trọng tài viên trong vụ việc hiện tại.

Dựa vào các căn cứ nêu trên, có thể kết luận rằng có tồn tại giữa các bên một thoả thuận trọng tài theo ICC ở Zurich và do đó, trọng tài viên có thẩm quyền xét xử. Kết luận này được ghi nhận trong một phán quyết riêng rẽ chính thức.

2. Về nội dung của tranh chấp:

Đã chứng minh được rằng Bị đơn đã trì hoãn công việc vào các ngày 8 và ngày 16 tháng 1 năm 1985 theo nghĩa tại Điều 7 của bản hợp đồng sửa đổi ngày 19 tháng 9 năm 1984, và không cần thiết phải xem xét chi tiết hơn phạm vi của các trì hoãn này của Bị đơn.

Theo các tài liệu được trình trước uỷ ban trọng tài thì không có một chỉ dẫn nào có thể chứng minh rằng các trì hoãn này là do các nguyên nhân ngoài khả năng kiểm soát của Bị đơn. Theo luật Thuỵ Sỹ, Bị đơn có nghĩa vụ chứng minh có các hoàn cảnh như vậy bởi theo luật Thụy Sỹ thì các lỗi như vậy được suy đoán là vi phạm hợp đồng nếu không có chứng minh ngược lại. Điều 97 Luật nghĩa vụ Thụy Sỹ qui định nếu một nghĩa vụ không được thực hiện hoàn toàn hoặc không được thực hiện đúng thì người có nghĩa vụ phải bồi thường cho các thiệt hại gây ra bởi việc này nếu không chứng minh được là mình không có lỗi. Trong vụ việc này, Bị đơn đã không đưa ra được bất kỳ một bằng chứng nào như vậy.

Điều 107 Luật nghĩa vụ Thuỵ Sỹ qui định chung rằng trong một hợp đồng song vụ khi một bên không thực hiện hợp đồng thì bên kia có thể gia hạn một thời gian để

160

thực hiện hoặc, nếu hợp đồng vẫn không được thực hiện trong thời gian gia hạn này, không yêu cầu thực hiện hợp đồng nữa và đòi bồi thường thiệt hại. Những thiệt hại này có thể bao gồm các chi phí nhờ một bên thứ ba hoặc chính bên có quyền thực hiện nghĩa vụ thay cho bên không thực hiện nghĩa vụ. Đối với những “hợp đồng công việc” (trong đó có các hợp đồng xây dựng), Điều 366 Luật nghĩa vụ qui định cụ thể rằng trong quá trình thực hiện công việc nếu thấy rõ rằng công việc sẽ không được thực hiện theo các nội dung thoả thuận do lỗi của bên có nghĩa vụ thực hiện công việc, bên thuê thực hiện công việc có thể ấn định cho bên có nghĩa vụ một thời hạn hợp lý mà người đó phải thực hiện công việc, nếu không phần công việc chưa được thực hiện sẽ được giao phó cho một người thứ ba với chi phí và trách nhiệm đối với rủi ro thuộc về người có nghĩa vụ.

Điều 7 Thoả thuận sửa đổi ngày 17 tháng 9 năm 1984 qui định:

"Thứ hai: khi [Bị đơn] không tuân thủ lịch trình, kế hoạch về vật liệu hay nhân lực, vào cuối mỗi tháng một người quản lý của phía [Bị đơn] và một người quản lý từ phía [Nguyên đơn] kiểm tra thực địa và xác minh các trì hoãn.

Nếu có trì hoãn và các trì hoãn này là do [Bị đơn] hoặc người cung cấp của [Bị đơn] trực tiếp gây ra và không vì các lý do vượt quá khả năng kiểm soát của [Bị đơn] thì [Bị đơn] phải sửa chữa lỗi trì hoãn đó trong thời hạn bảy ngày kể từ khi gặp gỡ, nếu không [Nguyên đơn] có quyền, sau bảy ngày kể từ ngày thông báo bằng văn bản, thực hiện công việc bị trì hoãn và đòi các chi phí trong lần nghiệm thu tạm thời đầu tiên phù hợp với tổng số tiền ghi trong hoá đơn gửi cho [Nguyên đơn] cho việc thực hiện phần công việc bị trì hoãn.

Thứ ba, trong trường hợp [Bị đơn] không tuân thủ lịch trình, kế hoạch về vật liệu hay nhân lực, trong cùng các điều kiện như đã được nêu tại Điều 7(2), [Nguyên đơn] có quyền nhận phần công việc đã hoàn thành và từ chối trả bất kỳ chi phí nào trong những lần thanh toán tiếp theo.

Qui định tại Điều 7 này không trái với các qui định pháp lý không mang tính bắt buộc nói trên của pháp luật Thụy Sỹ. Thủ tục mà các bên thoả thuận chỉ là một hình thức biến đổi cho phù hợp các nguyên tắc của pháp luật Thụy Sỹ vào một hoàn cảnh hợp đồng cụ thể. Theo nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng (nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng Thụy Sỹ), các bên được tự do thực hiện các thoả thuận như vậy. Trường hợp này có thể và phải được điều chỉnh theo Điều 7 Thoả thuận sửa đổi mà không cần đi sâu vào các qui định của luật Thụy Sỹ. Cụ thể, vấn đề liệu Thoả thuận giữa các bên là một thoả thuận liên doanh/hợp tác kinh doanh (như nêu trong Thoả thuận) hay là một hợp đồng công việc (nếu là một hợp đồng công việc thì sẽ phù hợp hơn với nội dung của nó) vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải.

Bị đơn có quan điểm, tuy không rõ ràng lắm, rằng việc Nguyên đơn bằng hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không đưa ra trọng tài hay toà án trước là không thể được. Quan điểm này là sai lầm. Trái với luật Pháp (và có thể là cả luật Ai Cập), luật Thụy Sỹ cho phép một bên chấm dứt một thoả thuận (hay thay đổi thoả thuận theo cách

161

biến nghĩa vụ của bên phải thực hiện công việc thành nghĩa vụ bồi thường thiệt hại bằng tuyên bố đơn phương trong trường hợp bên kia có lỗi) chỉ bằng tuyên bố của riêng mình (nếu đã đáp ứng các điều kiện) và không cần yêu cầu toà án ra quyết định chấm dứt hay huỷ thoả thuận đó. Do đó, Điều 7 Thoả thuận sửa đổi, qui định về một hành vi đơn phương như vậy, hoàn toàn không trái với pháp luật Thuỵ Sỹ.

Từ các phân tích nêu trên có thể thấy rằng Nguyên đơn có quyền được viện dẫn Điều 7(3) Thoả thuận sửa đổi ngày 16 tháng 1 năm 1985 và từ chối việc thực hiện tiếp hợp đồng từ phía Bị đơn kể từ ngày 31 tháng 1 năm 1985 và nhờ một người thứ ba hoặc tự mình thực hiện tiếp công việc xây dựng mà đáng lẽ Bị đơn phải làm. Do đó, Nguyên đơn có quyền đòi hoàn trả các chi phí đã phải chi ra một cách hợp lý để hoàn thành công việc trừ đi khoản tiền mà Nguyên đơn được nhận từ Chủ công trình người Ai Cập.

Khi phải đưa ra các chi tiết cụ thể về các chi phí, hệ thống kế toán của Nguyên đơn không cho phép xác định chi phí cụ thể của những hạng mục công việc còn phải thực hiện theo báo cáo của Thanh tra chất lượng. Mặt khác, rõ ràng là các chi phí mà Nguyên đơn khai là phải chi ra để hoàn thành phần công việc chưa được thực hiện cao hơn hẳn so với khoản tiền thoả thuận để thực hiện công việc. Do đó cần phải kiểm tra lại tính hợp lý của các chi phí đã bỏ ra.

Để thực hiện việc này, trọng tài viên đã chỉ định ông X, một Thanh tra chất lượng độc lập, làm chuyên gia trong vụ việc. Chuyên gia này có nhiệm vụ đưa ra một bản dự toán các chi phí để hoàn thành các hạng mục nêu tại cột 3 của báo cáo (của Thanh tra chất lượng đầu tiên) nếu được thực hiện bởi nhà thầu lại người Ai Cập và bản dự toán chi phí nếu được thực hiện bởi một nhà thầu dân sự quốc tế. Trong bản báo cáo ngày 27 tháng 3 năm 1987, chuyên gia đã giải thích rằng mình đã định giá cho phần công việc còn lại trên cơ sở bốn nguồn giá khác nhau: ví dụ, một nhà thầu Ai Cập nói chung, một nhà thầu Hàn Quốc tại Ai Cập, một nhà thầu dân sự Ai Cập lớn, và một nhà thầu Nhật bản có liên doanh với người sở tại tại Ai Cập. Trong mỗi trường hợp chuyên gia đã bỏ qua giá nhân lực/nguyên vật liệu thấp nhất và cao nhất mà tính giá trung bình giữa hai mức này, qui đổi giá tổng đó sang giá tính theo đơn vị hạng mục đang xem xét. Báo cáo kết luận rằng chi phí hợp lý để hoàn thành công việc còn lại là 1.425.500 EGP nếu được thực hiện bởi nhà thầu dân sự Ai Cập và 1.275.400 EGP cộng với 5.817.700 DKr nếu được thực hiện bởi một nhà thầu dân sự quốc tế (để thuận lợi trong cách tính, tất cả các chi phí không tính bằng tiền Ai Cập đều được chuyển đổi sang DKr với tỷ lệ qui đổi áp dụng vào giữa năm 1985). Trọng tài viên cho rằng phương pháp mà chuyên gia sử dụng là một phương pháp đúng và kết quả đạt được là đáng tin cậy.

Vấn đề cuối cùng là liệu Bị đơn có phải bồi thường toàn bộ chi phí bổ sung mà Nguyên đơn phải chi để tự mình hoàn thành công việc thay vì nhờ một người thứ ba. Trọng tài viên cho rằng việc làm của Nguyên đơn là hợp lý trong các hoàn cảnh cụ thể liên quan nhưng không phải là giải pháp duy nhất. Việc trì hoãn xảy ra khá nghiêm trọng đối với việc thực hiện toàn bộ dự án nói chung theo lịch trình chặt chẽ của Chủ dự án người Ai Cập. Rõ ràng là việc tham gia của một nhà thầu thứ ba vào dự án sẽ làm

162

mất thời gian hơn và có nguy cơ không đáp ứng thời hạn của Chủ dự án. Như vậy, Nguyên đơn đã hành động một cách trung thực và thiện chí khi tự mình làm thay phần công việc mà Bị đơn đã không làm. Do đó, Nguyên đơn có quyền đòi hoàn trả đầy đủ các chi phí nêu trên.

Cần phải lưu ý rằng Đơn kiện ban đầu chỉ đề cập đến một số tiền là 555.000 EGP, thấp hơn số tiền đòi hiện tại. Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận rằng số tiền đòi hiện tại đã được đưa vào phần tính toán các tổn thất giải trình trong bản trình bày đầu tiên của Nguyên đơn ngày 30 tháng 7 năm 1986 theo yêu cầu của trọng tài viên. Trong đơn kiện Nguyên đơn đã bảo lưu quyền tăng trị giá vụ kiện. Vì vậy tổng trị giá vụ kiện là có thể chấp nhận được.

Lãi suất tiền gửi qui định theo pháp luật của Thuỵ Sỹ là 5% (Điều 104 Luật nghĩa vụ Thụy Sỹ). Lãi suất cao hơn (7% cho đồng DKr và 6% cho đồng EGP) mà Nguyên đơn yêu cầu là không chính đáng.

163

PHÁN QUYẾT SỐ 40

TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG ĐẠI DIỆN BÁN HÀNG

Các bên:

Nguyên đơn : Công ty đại diện bán hàng Mỹ

Bị đơn : Công ty Tây Ban Nha

Các vấn đề được đề cập:

− Uỷ quyền thực tế

− Sửa đổi hợp đồng

− Thoả thuận bằng hình thức văn bản theo pháp luật Thuỵ Sỹ

− Phê chuẩn giao dịch hợp pháp bằng hành vi sau đó

Tóm tắt vụ việc:

Một công ty Mỹ và một công ty Tây Ban Nha ký kết một Thoả thuận đại diện bán hàng (Thoả thuận) vào năm 1982 trong đó có qui định các khu vực và lãnh thổ mà công ty Mỹ được chào bán các sản phẩm hàng hoá của công ty Tây Ban Nha và hưởng hoa hồng từ các hợp đồng mua bán này. Thoả thuận qui định mọi sửa đổi đối với Thoả thuận phải được lập thành văn bản. Hai bên thoả thuận sẽ đưa các tranh chấp trong tương lai ra giải quyết tranh chấp tại trọng tài ICC ở Geneva và luật áp dụng cho hợp đồng là luật Thuỵ Sỹ.

Sau đó giữa họ đã phát sinh tranh chấp liên quan đến việc liệu công ty Mỹ có quyền được hưởng hoa hồng từ việc bán hàng cho khách hàng tại Lebanon, một quốc gia nằm ngoài các khu vực lãnh thổ được nêu trong Thoả thuận hay không. Vấn đề mấu chốt cần xác định trong tranh chấp này là liệu giữa các bên có tồn tại thoả thuận bổ sung danh sách lãnh thổ qui định trong Thoả thuận ban đầu hay không. Công ty Tây Ban Nha thì cho là không vì Thoả thuận yêu cầu các thoả thuận mới phải được lập thành văn bản và thực tế đã không có một sửa đổi bằng văn bản nào. Ngoài ra, những bản telex và văn thư là bằng chứng duy nhất của việc này lại được ký bởi người không được uỷ nhiệm đại diện cho công ty Tây Ban Nha.

Ngược lại, phía công ty Mỹ cho rằng thực tế đã có sửa đổi có giá trị pháp lý đối với Thoả thuận liên quan đến việc bổ sung vào danh sách lãnh thổ được phép thực hiện dịch vụ thoả thuận và công ty Mỹ phải được hưởng hoa hồng đối với tất cả các hợp đồng thực hiện với khách hàng Lebanon.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về việc chủ thể ký kết không có tư cách pháp lý đại diện cho công ty Tây Ban Nha:

164

Bị đơn phản đối giá trị pháp lý của các bản Telex và văn thư mà Nguyên đơn coi là bằng chứng của việc sửa đổi Thoả thuận với lý do ông X, người ký vào các văn bản đó, không được uỷ quyền làm đại diện cho Bị đơn. Bị đơn thừa nhận là về mặt pháp luật, ông X là đại diện cho Bị đơn với tư cách là giám đốc phụ trách xuất khẩu nhưng Bị đơn lại lý luận rằng trên thực tế ông X chưa từng đại diện cho Công ty.

Uỷ ban trọng tài đã bác lý lẽ này của Bị đơn với các lý do sau:

Thứ nhất, chỉ một căn cứ là ông X được Bị đơn uỷ quyền theo pháp luật cũng đủ để xác định rằng Bị đơn bị ràng buộc bởi chữ ký của người này cho dù ông X có được uỷ quyền trên thực tế hay không. Nếu Bị đơn không có ý định tự ràng buộc trách nhiệm với chữ ký riêng hay chữ ký chung với người khác của ông X thì Bị đơn phải nhấn mạnh điều này trước khi ký kết Thoả thuận Đại diện bán hàng.

Thứ hai, theo qui định của Điều 37 Luật nghĩa vụ Thuỵ Sỹ, luật điều chỉnh hợp đồng, thì trừ khi một bên đã thông báo một cách hợp thức về việc huỷ bỏ đại diện thì có thể tin một cách trung thực rằng việc uỷ quyền đại diện vẫn có giá trị pháp lý. Qui định pháp lý này được áp dụng cho vụ việc đang xem xét mặc dù Bị đơn cho rằng tên của ông X chưa bao giờ được đưa vào đăng ký kinh doanh như là một người phụ trách điều hành của công ty mình. Thực tế là ông X đã cùng ký vào một hợp đồng nhân danh Bị đơn với chấp thuận minh thị của chính công ty này.

2. Về việc có hay không có các sửa đổi đối với Thoả thuận:

Điều 2 của Thoả thuận qui định rằng mọi sửa đổi đối với Thoả thuận phải được “lập thành văn bản bởi một trong số các giám đốc điều hành”. Trên thực tế, liên quan đến 3 hợp đồng mua bán với khách hàng Lebanon, giám đốc điều hành của hai bên (ông X phía Bị đơn và ông Y phía Nguyên đơn) đã trao đổi với nhau một số bản telex và fax, thậm chí ông X đại diện của Bị đơn còn gửi cho Nguyên đơn các hoá đơn giao hàng theo ba hợp đồng với khách hàng Lebanon.

Điều 12 Luật nghĩa vụ Thuỵ Sỹ quy định: “Nếu luật yêu cầu rằng một thoả thuận phải được lập thành văn bản, qui định này cũng áp dụng cho các thay đổi đối với thoả thuận đó, trừ các qui định bổ sung hoặc phụ trợ không trái với thoả thuận đó”.

Như vậy, trong vụ việc này, để trả lời cho câu hỏi trên thực tế giữa các bên có tồn tại một sửa đổi hợp thức hay không, chúng ta phải làm rõ ba vấn đề sau đây:

− Thứ nhất, các bản telex và fax được trao đổi giữa ông X và ông Y lần lượt là đại diện cho Bị đơn và Nguyên đơn, có chữ ký của ông X nhưng thiếu chữ ký của ông Y, có được coi là “những văn bản” hợp thức hay không?

− Thứ hai, ba hợp đồng ký với khách hàng Lebanon có được coi là “các qui định bổ sung hoặc phụ trợ không trái với Thoả thuận” theo Điều 12 Luật nghĩa vụ hay không?

− Thứ ba, việc Bị đơn giao kết và thực hiện các hợp đồng với khách hàng

165

Lebanon đồng thời gửi các hoá đơn bán hàng theo các hợp đồng này cho Nguyên đơn có thể được coi là “một sự chấp thuận bằng hành vi” sửa đổi Thoả thuận hay không?

Về vấn đề thứ nhất:

Điều 14(1) và (2) Luật nghĩa vụ Thuỵ Sỹ qui định: Để tự ràng buộc mình với văn bản, một bên phải hoặc là trực tiếp ký hoặc là ký thông qua các phương thức kỹ thuật khác nhưng chỉ trong các giao dịch được tập quán chấp nhận.

Hiện nay, việc liên lạc thông qua các phương thức kỹ thuật, mà nhiều nhất là telex, đã trở nên rất phổ biến trong các giao dịch kinh doanh. Tốc độ của các giao dịch hiện đại và khoảng cách giữa các chủ thể tham gia giao dịch cần một sự liên lạc trao đổi nhanh chóng các lời đề nghị giao kết và trả lời, việc này chỉ có thể thực hiện được thông qua telex hoặc telecopier (sao chụp từ xa). Do đó, không phải là bất bình thường khi trong vụ việc này, các bên đã thiết lập các qui định đặc biệt cho một số giao dịch nhất định thông qua telex.

Theo qui định, các bản giao dịch này phải có đầy đủ chữ ký của hai bên. Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc ông Y không ký không làm thay đổi bản chất của vấn đề vì rõ ràng là yêu cầu về một thoả thuận bằng văn bản và được ký chủ yếu nhằm bảo vệ bên không muốn bị ràng buộc (tức Bị đơn) mà chữ ký bị thiếu lại là chữ ký của Nguyên đơn.

Tuy nhiên, sau đó đáng ra họ phải xác nhận lại thoả thuận của mình bằng cách trao đổi các tài liệu bằng văn bản phù hợp với Điều 2 Thoả thuận. Nhưng thực tế đã không có văn bản xác nhận lại nào giữa hai bên.

Như vậy, về nguyên tắc, các bản telex và fax do hai bên trao đổi với nhau không đáp ứng được các yêu cầu về hình thức để được coi là “sửa đổi bằng văn bản” đối với Thoả thuận.

Về vấn đề thứ hai:

Cần phải ghi nhận rằng Thoả thuận Đại diện không phải là một hợp đồng đơn giản theo đó mỗi bên có thể theo đuổi lợi ích riêng của mình, mà những lợi ích này thường là đối lập với lợi ích của đối tác. Ngược lại Thoả thuận đại diện là một hợp đồng hợp tác theo đó các bên cùng theo đuổi một mục đích chung: đạt được nhiều hợp đồng bán hàng với các khách hàng do Bên Đại diện giới thiệu cho Bên được đại diện. Vì thế trong hợp đồng này tồn tại nghĩa vụ hợp tác giữa Nguyên đơn và Bị đơn, một nghĩa vụ giống như nghĩa vụ ràng buộc các cổ đông trong một công ty với nhau hoặc giữa người đại diện và người được đại diện. Nghĩa vụ hợp tác này buộc Bị đơn ít ra cũng phải có những bảo lưu đối với Nguyên đơn để Nguyên đơn có thể tiến hành một số hành vi mà Nguyên đơn không được uỷ quyền.

Như vậy, việc Nguyên đơn giới thiệu cho Bị đơn khách hàng nước Lebanon cũng có thể được coi như một trường hợp “bảo lưu” và có thể chấp nhận được. Nói một cách khác, các hợp đồng với khách hàng Lebanon có thể được xem là “các qui định bổ sung

166

hay phụ trợ không trái với Thoả thuận” và có giá trị pháp lý mặc dù không được thực hiện bằng hình thức văn bản với điều kiện là Bị đơn cũng chấp thuận điều này.

Về vấn đề thứ ba:

Như trên đã xem xét, bản thân các bản telex và fax trong vụ việc này không tạo thành một thoả thuận minh thị về việc Bị đơn chấp thuận sẽ trả tiền hoa hồng. Tuy nhiên thực tế các hoá đơn giao hàng của ba giao dịch bán hàng có liên quan đã được gửi kèm theo văn thư này và người ta sẽ không thể giải thích tại sao những hoá đơn này lại được ông X gửi cho Nguyên đơn nếu không phải là để phục vụ cho việc tính toán, ví dụ, tiền hoa hồng. Từ hành vi này có thể suy ra ý định trả tiền hoa hồng cho Nguyên đơn cho ba giao dịch này của Bị đơn dù khách hàng có các trụ sở đăng ký ngoài “lãnh thổ được phép thực hiện dịch vụ”.

Luật Thuỵ Sỹ thừa nhận nguyên tắc phê chuẩn các giao dịch hợp pháp bằng hành vi cuối cùng, ngay cả trong trường hợp các giao dịch này vốn không hợp pháp về mặt hình thức, và thậm chí ngay cả khi chúng có lỗi lớn. Điều 31 Luật nghĩa vụ qui định về vấn đề này như sau:

"Một thoả thuận bị vô hiệu do nhầm lẫn hoặc do gian lận, hay một thoả thuận được thiết lập do bị đe doạ được coi như đã được phê chuẩn trong trường hợp bên không muốn bị ràng buộc bởi thoả thuận đó không thông báo cho bên kia quyết định không duy trì thoả thuận của mình, hay không đòi lại tiền mà mình đã trả".

Theo án lệ của Thuỵ Sỹ (ví dụ, Journal des Tribunaux năm 1959, 486) bên không muốn bị ràng buộc bởi một thoả thuận chỉ cần tuyên bố phản đối trong thời hạn là một năm. Do đó, theo Luật Thuỵ Sỹ một thoả thuận được giao kết với lỗi nghiêm trọng vẫn có thể được coi là có hiệu lực chỉ vì lý do không có bên nào phản đối thoả thuận đó. Luật nghĩa vụ Thuỵ Sỹ cho phép việc phê chuẩn các thoả thuận vô hiệu hay thậm chí bất hợp pháp đơn giản chỉ bằng một hành vi ngầm hiểu có giá trị như một sự phê chuẩn.

Về ba giao dịch đã thực hiện này, Bị đơn đã chấp nhận khách hàng mà không đưa ra bất kỳ điều kiện bảo lưu gì đối với Nguyên đơn, đã giao hàng và nhận tiền. Đây rõ ràng là một trường hợp phê chuẩn bằng hành vi và, theo nghĩa này, dù rằng xét từ góc độ hình thức các bản telex và các tài liệu khác được trao đổi giữa các bên chưa đáp ứng điều kiện sửa đổi bằng văn bản đối với Thoả thuận, Thoả thuận này trên thực tế đã được sửa đổi trong phạm vi ba giao dịch có liên quan thông qua thái độ ủng hộ của Bị đơn đối với khách hàng và đối với Nguyên đơn.

Tuy nhiên, từ các bản Telex được trao đổi giữa các bên thì cũng không thể suy ra là họ đã từng có ý định mở rộng Thoả thuận của họ sang Lebanon. Nói cách khác, Bị đơn chưa bao giờ chấp thuận sẽ trả tiền hoa hồng cho Nguyên đơn cho tất cả các giao dịch mà Nguyên đơn có thể tiến hành với một khách hàng Lebanon bất kỳ.

Vì vậy, có thể kết luận rằng giữa các bên đã có sửa đổi về phạm vi lãnh thổ “được phép thực hiện dịch vụ” đối với Thoả thuận nhưng chỉ giới hạn ở ba hợp đồng đã

167

ký kết với khách hàng Lebanon.

Vì vậy, Uỷ ban trọng tài đã bác lý lẽ của cả hai bên.

Bình luận và lưu ý:

Ngày nay hiện tượng giao kết hợp đồng hay thoả thuận thông qua các phương thức kỹ thuật như telex, fax, thư điện tử v..v đã trở nên khá phổ biến. Pháp luật nhiều nước cũng đã thừa nhận các hình thức này. Tuy nhiên, quy định của các nước về giá trị pháp lý của các hình thức này vẫn còn nhiều khác biệt, đặc biệt là vấn đề có nên coi các hình thức này tương đương với hình thức văn bản hay không. Vì thế, để bảo đảm giá trị và tính an toàn pháp lý cho các giao dịch của mình, khi tiến hành giao dịch thông qua telex, fax hay các phương thức kỹ thuật khác, các bên cần xác nhận lại bằng văn thư chính thức tuân thủ các hình thức yêu cầu như chữ ký, dấu... Văn bản xác nhận thể hiện một cách xác thực ý chí của các bên và có giá trị chứng cứ quan trọng trong các trường hợp có tranh chấp phát sinh liên quan đến giao dịch này.

Khi có nghi ngờ hay phản đối gì về giá trị pháp lý của giao dịch mà mình đã ký kết thì cần nêu/tuyên bố phản đối trong thời hạn do luật quy định, nếu luật không quy định thời hạn thì phải trong thời hạn hợp lý. Sự im lặng hay việc tiếp tục thực hiện giao dịch, theo pháp luật của nhiều nước, được coi như một “sự phê chuẩn” đối với giao dịch đó và là một hình thức hợp pháp hoá giao dịch đó ngay cả khi giao dịch ban đầu có khiếm khuyết hay thậm chí trái pháp luật. Mặc dù nguyên tắc “Im lặng không có nghĩa là đồng ý” được thừa nhận một cách rộng rãi trong nhiều hệ thống pháp luật, nguyên tắc này cũng không ngăn cản các quốc gia đặt sự ổn định của quan hệ pháp luật lên vị trí ưu tiên hơn trong một số trường hợp nhất định.

168

PHÁN QUYẾT SỐ 41

TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG PHÂN PHỐI Ô TÔ

Các bên:

Nguyên đơn : Nhà phân phối Libăng

Bị đơn : Nhà sản xuất ôtô Tây Âu

Các vấn đề được đề cập:

- Thoả thuận làm đại lý phân phối

- Chấm dứt hợp đồng

- Lạm dụng quyền

- Thiệt hại

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn, một công ty Libăng, và Bị đơn, một công ty Tây Âu chuyên sản xuất ôtô, đã ký một hợp đồng, theo đó Nguyên đơn sẽ là nhà phân phối cho Bị đơn tại Libăng. Hợp đồng quy định rằng Nguyên đơn không chỉ bán ôtô mà còn thực hiện dịch vụ hậu mãi và cung cấp các phụ tùng thay thế. Do đó Nguyên đơn phải xây dựng một ga-ra ôtô kèm theo một nhà kho. Dựa trên Điều 19 của Hợp đồng về quyền chấm dứt hợp đồng, Bị đơn tuyên bố chấm dứt hợp đồng sau ba tháng, và một trong các lý do được viện dẫn là Nguyên đơn đã không xây dựng ga-ra kèm theo nhà kho.

Theo điều khoản trọng tài ICC nêu trong hợp đồng, Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn theo trình tự trọng tài tại Paris, Pháp. Nguyên đơn cho rằng Bị đơn không được quyền chấm dứt hợp đồng như Điều 19 của Hợp đồng quy định, và đòi bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi nhuận bị tổn thất khoảng một triệu bảng Libăng.

Phán quyết của trọng tài:

1. Luật áp dụng:

Các quy phạm xung đột luật:

Luật sư của cả hai bên đã tuyên bố tại toà án trọng tài rằng trong trường hợp này các trọng tài viên có quyền quyết định luật áp dụng đối với hợp đồng theo các quy tắc luật xung đột của Pháp. Các trọng tài viên, tuy không bắt buộc phải tuân theo các quy tắc luật xung đột của nước nơi tiến hành thủ tục trọng tài, nhưng phải tuân theo thoả thuận này của các bên về áp dụng quy phạm xung đột pháp luật. Theo quy tắc xung đột luật của Pháp liên quan đến hợp đồng, luật áp dụng cho hợp đồng trong trường hợp này cần được xác định dựa trên ý định (đương nhiên hoặc ngầm định) của các bên đối với việc xác định luật áp dụng, và dựa vào việc kiểm tra các tình tiết.

169

Xét trong trường hợp này, các bên không có thoả thuận về luật điều chỉnh hợp đồng. Do vậy, việc áp dụng theo cách thức lựa chọn luật áp dụng của Toà án tối cao Pháp là thích hợp, có nghĩa là trong trường hợp không có thoả thuận về luật điều chỉnh hợp đồng, thì phải phân tích các khía cạnh kinh tế của việc thực hiện hợp đồng để thấy được thoả thuận của các bên và trên cơ sở đó xác định luật áp dụng.

Luật điều chỉnh hợp đồng:

Các trọng tài viên cho rằng nếu hợp đồng được lập với mục đích duy nhất liên quan đến việc bán ôtô thì luật của nước Bị đơn chắc chắn sẽ là luật áp dụng và điều này phù hợp với ý chí của các bên. Hợp đồng đã được Bị đơn ký tại nước họ sau khi Nguyên đơn ký tại Beyrouth (Libăng). Hơn nữa, điểm quan trọng đặc biệt là việc giao hàng phải được thực hiện tại nơi bốc hàng (tại một cảng ở nước Bị đơn), theo Điều 7 của Hợp đồng. Điều này cho thấy rằng mọi hoạt động giao dịch diễn ra tại nước Bị đơn.

Tuy nhiên, các trọng tài viên thấy rằng đối tượng của hợp đồng rộng hơn, đó còn là việc phân phối sản phẩm của Bị đơn ở Libăng. Mặc dù Nguyên đơn phải gánh chịu rủi ro của việc bán được ít hàng, vì thù lao của Nguyên đơn là chênh lệch giữa giá bán và giá mua nhưng Nguyên đơn vẫn có các nghĩa vụ bảo đảm việc phân phối các sản phẩm của Bị đơn ở Libăng. Về phần mình, Bị đơn phải góp ý kiến về việc này song cũng có quyền đòi hỏi Nguyên đơn thực hiện nghĩa vụ. Điều này có thể thấy qua các cuộc kiểm tra định kỳ như được quy định trong hợp đồng. Do đó, việc bán hàng chỉ là một phần của toàn bộ quan hệ pháp lý giữa Nguyên đơn và Bị đơn mà việc thực hiện được tiến hành tại Libăng. Hơn nữa, tranh chấp đang xem xét phát sinh từ việc thực hiện nghĩa vụ của Nguyên đơn tại Libăng.

Các trọng tài viên kết luận:

Xét trong vụ việc này, hợp đồng phải được coi như thực hiện chủ yếu tại Libăng; và do hợp đồng không quy định điều khoản liên quan đến việc lựa chọn luật điều chỉnh nên việc chọn luật Libăng là luật điều chỉnh không thể bị phản đối.

2. Các khiếu kiện có thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài hay không:

Về việc đơn kiện của Nguyên đơn là có hội đủ điều kiện để có thể được xem xét hay không, các trọng tài viên đã dẫn chiếu hai Điều khoản của Bộ Luật nghĩa vụ của Libăng. Theo Điều 124: một người gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường cho những thiệt hại đó nếu người đó đã vượt quá giới hạn quyền của mình do thiếu thiện chí. Theo Điều 248 liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng, một người chấm dứt hợp đồng phải bồi thường thiệt hại nếu người đó lạm dụng quyền chấm dứt hợp đồng, nói cách khác có nghĩa là nếu những gì mà người đó làm trái với tinh thần của Luật hoặc của hợp đồng. Hai qui định này của luật Libăng giúp cho các trọng tài viên có thể xác định liệu Bị đơn có sử dụng quyền chấm dứt hợp đồng theo Điều 19 là vượt quá hay lạm dụng theo như hai quy định trên. Do đó, Uỷ ban trọng tài quyết định những khiếu kiện này có thể được xem xét (tức các trọng tài viên có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện này).

170

3. Lạm dụng quyền chấm dứt hợp đồng:

Tranh chấp giữa các bên về khối lượng hàng bán, việc bảo quản phụ tùng thay thế và dịch vụ hậu mãi, Bị đơn đã khiếu nại với lý do Nguyên đơn không xây dựng ga-ra kèm theo nhà kho. Tuy nhiên, các trọng tài viên nhận thấy rằng nhà sản xuất ôtô đã hoãn việc giao hàng là liên quan đến khối lượng hàng bán không đủ, và do đó viện dẫn này không có cơ sở.

Liên quan đến việc không xây dựng ga-ra kèm theo nhà kho, trọng tài viên cho rằng Bị đơn đã không dành cho Nguyên đơn một cơ hội để giải thích tình trạng của mình trước khi đưa ra thông báo về việc chấm dứt hợp đồng. Trên thực tế đúng là Nguyên đơn đã hoàn tất kế hoạch xây dựng, và việc xây dựng chỉ đợi cho đến khi mùa mưa ở Libăng kết thúc.

Các trọng tài viên kết luận rằng Bị đơn đã sử dụng quyền chấm dứt hợp đồng trái với tinh thần của hợp đồng như được qui định trong Điều 248 của Bộ Luật nghĩa vụ Libăng.

4. Thiệt hại:

Nhà phân phối Libăng đã khiếu kiện đòi tổng bồi thường thiệt hại tương đương với hai năm lợi nhuận bị tổn thất, dựa trên cơ sở lợi nhuận thu được trong năm trước, hoặc dựa trên cơ sở trung bình cộng lợi nhuận của ba năm qua.

Theo uỷ ban trọng tài, mặc dù trên thực tế số lượng hàng bán ra trong năm trước có tăng lên nhưng điều này không thể sử dụng để xác định thiệt hại vì thị trường mua bán ô tô luôn luôn biến động về cung cầu. Do đó các trọng tài viên đã chọn phương pháp thứ hai do Nguyên đơn đưa ra. Họ đã tính lợi nhuận ròng trung bình thu được trong ba năm qua là khoảng 150.000 bảng Libăng một năm. Mặc dù Nguyên đơn đã tính toán thiệt hại của mình trên cơ sở lợi nhuận hai năm bị tổn thất, các trọng tài viên đã quyết định cho Nguyên đơn chỉ được hưởng một năm đền bù tổn thất do bản thân Nguyên đơn cũng thừa nhận về phần mình có gặp phải một số khó khăn.

171

PHÁN QUYẾT SỐ 42

TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG PHÂN PHỐI THIẾT BỊ

Các bên:

Nguyên đơn : Nhà xuất khẩu Mĩ

Bị đơn : Nhà phân phối Ac-hen-ti-na

Các vấn đề được đề cập:

- Hợp đồng phân phối hàng hoá

- Phán quyết bộ phận

- Chọn luật thực chất và hợp đồng không đàm phán (adhesion contract)

- Chấm dứt hợp đồng

- Rút lại quyết định chấm dứt hợp đồng

- Quan hệ trước khi ký kết hợp đồng

- Giảm thiểu thiệt hại

Tóm tắt vụ việc:

Trong Hợp đồng phân phối hàng hoá quốc tế (sau đây gọi là Hợp đồng) ký ngày 8 tháng 8 năm 1979, Nguyên đơn đã chỉ định Bị đơn làm nhà phân phối thiết bị của mình ở Ac-hen-ti-na.

Điều 15 của Hợp đồng quy định khi có tranh chấp hoặc bất đồng xảy ra giữa các bên mà không thể dàn xếp thông qua thương lượng thì các bên sẽ đưa ra trọng tài theo các quy tắc của Phòng thương mại quốc tế (ICC). Nơi xét xử trọng tài (như đã sửa đổi ngày 31 tháng 8 năm 1979) là Trinidad và Tobago, West Indies.

Hợp đồng sẽ tự động chấm dứt sau hai năm nhưng có thể gia hạn Hợp đồng bằng một văn bản thoả thuận giữa hai bên. Hợp đồng đã hết hạn vào ngày 8 tháng 8 năm 1981.

Tuy nhiên, Nguyên đơn và Bị đơn đã ký các thoả thuận gia hạn hợp đồng ngắn hạn và vì vậy, cả hai bên tiếp tục thực hiện Hợp đồng.

Ngày 9 tháng 3 năm 1983, Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn là Nguyên đơn đang trong quá trình soạn thảo một Hợp đồng phân phối hàng hoá quốc tế mới và chỉ còn vài tháng nữa Hợp đồng mới này sẽ hoàn thành. Do đó, Nguyên đơn quyết định gia hạn Hợp đồng đang thực hiện thêm hai tháng tính từ thời điểm Nguyên đơn đưa Hợp đồng mới cho Bị đơn để Bị đơn có đủ thời gian để xem xét Hợp đồng mới này. Nhưng sau đó Nguyên đơn đã không gửi bản hợp đồng mới này.

Trong thời gian này ở Ac-hen-ti-na, sau cuộc tuyển cử, một đảng chính trị khác lên nắm quyền. Chính phủ mới dự định sẽ ban hành các chính sách hoàn toàn mới liên

172

quan đến tye lệ nội địa hoá của hàng hoá. Vì vậy, Nguyên đơn và Bị đơn đã tiến hành một số cuộc thương lượng về vấn đề này và đây dần dần trở thành vấn đề chính đối với Nguyên đơn. Tháng 11 năm 1983, Nguyên đơn nhận thấy các quy định thương mại đối với hoạt động của Nguyên đơn ở Ac-hen-ti-na đã thay đổi và buộc Nguyên đơn phải có sản xuất thực tế ở Ac-hen-ti-na. Vì vậy, Nguyên đơn muốn chỉ định một công ty khác làm đối tác và nhà phân phối.

Ngày 2 tháng 12 năm 1983, Nguyên đơn đã gửi telex cho Bị đơn chính thức thông báo từ ngày 1 tháng 2 năm 1984 kết thúc bản hợp đồng đã được gia hạn liên tiếp. Cũng trong bản telex đó, Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn là Nguyên đơn sẽ chọn một công ty Ac-hen-ti-na khác làm nhà phân phối.

Bị đơn phản đối bản telex của Nguyên đơn và thông báo cho Nguyên đơn nếu Nguyên đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng, Bị đơn sẽ kiện ra toà án của Ac-hen-ti-na. Nguyên đơn đề nghị nên cố gắng đàm phán và giải quyết một cách hữu nghị những thay đổi trong quan hệ thương mại giữa hai bên, đồng thời yêu cầu Bị đơn đến California để làm việc với Nguyên đơn. Sau đó, ngày 11 tháng 1 năm 1984 Nguyên đơn gửi một bản telex cho Bị đơn để huỷ bỏ bản telex thông báo chấm dứt hợp đồng ngày 2 tháng 12 năm 1983 nhằm "tạo điều kiện cho hai công ty đàm phán một bản hợp đồng liên quan đến việc tiếp tục các hoạt động của Nguyên đơn ở Ac-hen-ti-na". Tháng 2 năm 1984 Nguyên đơn và Bị đơn đã gặp nhau tại California, nhưng không giải quyết được bất đồng giữa hai bên.

Hai bên đã tiến hành một loạt các cuộc gặp, trao đổi qua thư và telex sau đó. Nhiều cách giải quyết đã được đưa ra nhằm rút dần các hoạt động hiện tại của Nguyên đơn ở Ac-hen-ti-na, nhưng Bị đơn đã bác các đề nghị của Nguyên đơn và yêu cầu bồi thường do Nguyên đơn đã đơn phương vi phạm Hợp đồng.

Trong bản telex ngày 29 tháng 3 năm 1984, Nguyên đơn chính thức đề nghị gia hạn Hợp đồng thêm hai năm với các điều khoản và điều kiện tương tự như bản Hợp đồng gốc kể từ ngày Bị đơn chấp thuận sự gia hạn. Nhưng trong bản telex ngày 4 tháng 4 năm 1984, Bị đơn đã bác đề nghị của Nguyên đơn và cho rằng Nguyên đơn đã tự ý chấm dứt quan hệ giữa hai bên vào ngày 2 tháng 12 năm 1983.

Ngày 16 tháng 5 năm 1984 Bị đơn đã ký hợp đồng phân phối độc quyền với một công ty Pháp, đối thủ cạnh tranh của Nguyên đơn. Đổi lại, Nguyên đơn đã ký hợp đồng phân phối độc quyền với một công ty Ac-hen-ti-na khác vào tháng 4 năm 1985.

Tháng 8 năm 1984 Nguyên đơn nộp yêu cầu xét xử trọng tài cho ICC, và muốn có một phán quyết trọng tài "tuyên bố Hợp đồng đã được chấm dứt hợp lệ" và "cấm Bị đơn khởi kiện ở Ac-hen-ti-na".

Bị đơn đã kiện lại đòi bồi thường thiệt hại 19.000.000 USD liên quan đến các thiệt hại về:

- Dự trữ phụ tùng thiết bị

173

- Thiết bị thuộc sở hữu của Bị đơn và thiết bị cho người khác thuê

- Các hợp đồng cho thuê thiết bị

- Hợp đồng bảo dưỡng thiết bị

- Tổn thất liên quan đến việc bán phụ tùng nâng cấp thiết bị đã được lắp đặt

- Tổn thất hợp đồng trong quá trình thực hiện

- Lợi nhuận bị giảm do mất thị phần trong tương lai

- Chi phí đi lại

Ngày 26 tháng 11 năm 1985, các bên và các trọng tài viên đã ký Văn bản về thẩm quyền của trọng tài. Các vấn đề sẽ được giải quyết bằng trọng tài là:

Khiếu kiện của Nguyên đơn:

(1) - Bản telex Nguyên đơn gửi cho Bị đơn ngày 2 tháng 12 năm 1983 trong đó Nguyên đơn thông báo cho Bị đơn ý định (hoặc quyết định) chấm dứt Hợp đồng từ ngày 1 tháng 2 năm 1984 có phải là chấm dứt bất hợp pháp (vi phạm nghiêm trọng) Hợp đồng và những bản gia hạn hợp đồng mà hai bên đã thoả thuận không?

(2) - Giả sử rằng bản telex ngày 2 tháng 12 năm 1983 đã vi phạm nghiêm trọng Hợp đồng thì liệu bản telex ngày 11 tháng 1 năm 1984 của Nguyên đơn (Bị đơn đã trả lời bản telex này bằng bản telex ngày 19 tháng 1 năm 1984) có được coi là rút lại hợp pháp yêu cầu chấm dứt hợp đồng nói trên không?

(3) - Đề nghị của Nguyên đơn ngày 29 tháng 3 năm 1984 (gia hạn Hợp đồng thêm hai năm với các điều khoản và điều kiện giống như Hợp đồng gốc) cùng với bản telex ngày 4 tháng 4 năm 1984 của Bị đơn (trong đó Bị đơn phản đối đề nghị của Nguyên đơn với lý do đề nghị đó được đưa ra một cách thiếu thiện chí) có chấm dứt quan hệ thương mại giữa hai bên và giải phóng Nguyên đơn khỏi các trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Bị đơn không?

(4) - Việc Nguyên đơn ký kết hợp đồng với một công ty Ac-hen-ti-na khác hoặc Bị đơn ký kết hợp đồng với một công ty Pháp, hoặc các hoạt động hay ký kết hợp đồng của Nguyên đơn và Bị đơn với các công ty khác có phải là sự vi phạm nghĩa vụ của một bên với bên kia trong hợp đồng hay không?

Khiếu kiện lại của Bị đơn:

(5) - Bị đơn có quyền đòi Nguyên đơn bồi thường các thiệt hại và tổn thất không ?

(6) - Nếu cho rằng Bị đơn sẽ được bồi thường, liệu Bị đơn có quyền nhận toàn bộ số tiền yêu cầu không? Hoặc liệu số tiền bồi thường đó có phải điều chỉnh theo những lời bào chữa của Nguyên đơn hay không?

Phí trọng tài:

(7) - Bên nào sẽ chịu phí trọng tài và các chi phí pháp lý? Nếu cả hai bên đều phải

174

chịu phí trọng tài và các chi phí pháp lý thì tỷ lệ phân chia cho các bên sẽ như thế nào?

Trong bản biện hộ ngày 16 tháng 1 năm 1986, Bị đơn đã điều chỉnh lại số tiền đòi bồi thường là 27.500.000 USD.

Phán quyết của trọng tài:

1. Quyền của Uỷ ban trọng tài được ban hành phán quyết bộ phận:

Điều 21 Quy tắc thủ tục của ICC phân biệt giữa phán quyết bộ phận và phán quyết cuối cùng. Rõ ràng, Uỷ ban trọng tài có thể đưa ra quyết định sơ bộ về các nghĩa vụ trước khi giải quyết các vấn đề khác đòi hỏi thời gian lâu hơn. Trong một số trường hợp, việc ban hành phán quyết bộ phận có thể đẩy nhanh thủ tục tố tụng do đã giới hạn được các vấn đề cần giải quyết nhưng không tước đi quyền của các bên được trình bày các chứng cứ và lập luận về tất cả các vấn đề có liên quan.

Trong vụ này, Nguyên đơn khiếu kiện là Nguyên đơn đã chấm dứt hợp lệ Hợp đồng và vì vậy, không phải chịu trách nhiệm với Bị đơn. Nhưng khiếu kiện đòi bồi thường thiệt hại của Bị đơn lại dựa trên sự tồn tại của trách nhiệm đó. Các trọng tài viên tin rằng hoàn toàn có thể quyết định vấn đề trách nhiệm của Nguyên đơn đối với Bị đơn trước khi đi vào phân tích số tiền Bị đơn đòi bồi thường trong đơn kiện lại.

Điều này có nghĩa là bốn vấn đề đầu tiên trong Văn bản xác định thẩm quyền của trọng tài nên được giải quyết trước khi xem xét ba vấn đề còn lại về khiếu kiện lại của Bị đơn và phí trọng tài.

Mặc dù, Bị đơn phản đối ban hành phán quyết bộ phận, các trọng tài viên cho rằng sự phản đối của Bị đơn là không hợp lý. Uỷ ban trọng tài cũng lưu ý Luật trọng tài của Trinidad và Tobago, nơi tiến hành tố tụng trọng tài, quy định các trọng tài viên có thể tuỳ ý ban hành phán quyết tạm thời (Bản phụ lục thứ nhất, Điều 10).

2. Áp dụng luật thực chất:

Điều 16 của Hợp đồng quy định Hợp đồng được giải thích và điều chỉnh bởi luật của bang California Mỹ. Tuy nhiên, để xác định luật áp dụng cho vụ tranh chấp này, Bị đơn yêu cầu phải coi Hợp đồng là hợp đồng không đàm phán nhưng Nguyên đơn không đồng ý như vậy. Bị đơn còn lập luận rằng Uỷ ban trọng tài không nên quá coi trọng điều khoản chọn luật áp dụng trong Hợp đồng, vì các điều khoản của luật California không có lợi cho Bị đơn bằng các điều khoản của luật Ac-hen-ti-na, luật mà lẽ ra đương nhiên điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa hai bên bởi đây là luật của nơi thực hiện hợp đồng.

Tuy nhiên, Nguyên đơn luôn nhấn mạnh rằng luật thực chất của bang California được áp dụng khi thực hiện Hợp đồng hoặc khi có vi phạm Hợp đồng vì luật này đã được chính các bên trong Hợp đồng lựa chọn và Hợp đồng này không thể coi là một hợp đồng không đàm phán.

Quan điểm thống nhất của các trọng tài viên là: luật điều chỉnh hợp đồng (tức luật

175

áp dụng để xác định liệu Hợp đồng phân phối hàng hoá quốc tế có phải là hợp đồng không đàm phán không và liệu điều khoản lựa chọn luật trong Hợp đồng có hiệu lực không) trong vụ việc này sẽ là luật California, luật do các bên lựa chọn, nếu việc lựa chọn này là có giá trị.

Thực tế, theo cả luật California và luật Ac-hen-ti-na, Nguyên đơn và Bị đơn đều được coi là các đối tác thương mại. Khi tham gia ký kết hợp đồng cũng như khi cùng nhau giải quyết các bất đồng, cả hai bên đã hành động với tư cách là đối tác thương mại của nhau. Các chứng cứ cho thấy rằng cả hai bên đều có đủ năng lực pháp lý để tiến hành các hành vi thương mại của mình.

Chắc chắn, Bị đơn không thể coi mình là người tiêu dùng (người sử dụng dịch vụ). "Một công ty danh tiếng nhất trên thị trường" Ac-hen-ti-na không thể được coi là "người tiêu dùng". Hơn nữa, hợp đồng không thể coi là một hợp đồng mẫu được in cố định do Nguyên đơn soạn thảo và được đưa cho Bị đơn để xem xét trên cơ sở "chấp thuận hoặc không chấp thuận toàn bộ hợp đồng" (tức chấp thuận hoặc không chấp thuận chứ không có quyền sửa đổi các điều khoản trong hợp đồng - đây là tính chất đặc trưng của hợp đồng không đàm phán).

Trên thực tế, vụ việc không đơn giản như vậy. Bị đơn không lập luận rằng Nguyên đơn có sự độc quyền, hoặc rằng tất cả các nhà sản xuất trong lĩnh vực cụ thể này đã sử dụng mẫu hợp đồng chuẩn thống nhất. Bị đơn thậm chí không lập luận rằng mình đã buộc phải chấp nhận mẫu hợp đồng chuẩn do Nguyên đơn đưa ra. Tất nhiên, các trọng tài viên không cho rằng ở đây có sự công bằng tuyệt đối giữa hai bên hoặc luôn dễ dàng để vạch ra ranh giới rõ ràng giữa miễn cưỡng chấp thuận và thiếu tự nguyện. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Uỷ ban trọng tài nhận thấy rằng khi hợp đồng đã có hiệu lực các bên không có sự phản đối điều khoản chọn luật áp dụng trong hợp đồng cũng như toàn bộ Hợp đồng.

Hơn nữa, các chứng cứ cho thấy rằng Bị đơn đã có cơ hội để thảo luận và thương lượng các điều khoản Hợp đồng. Việc nơi xét xử trọng tài đã chuyển từ Luân-đôn về Trinidad theo yêu cầu của Bị đơn đã cho thấy rõ ràng là ở một chừng mực nhất định, các điều kiện của hợp đồng đã được các bên thương lượng một cách có hiệu quả.

Ngoài ra, Bị đơn đã không chứng minh được rằng sự lựa chọn luật California sẽ mang lại những kết quả pháp lý không công bằng. Bằng chứng là Bị đơn tiếp tục dựa vào các án lệ của California khi mà điều này có lợi hơn cho khiếu kiện của Bị đơn. Vì vậy, các trọng tài viên không cho rằng Bị đơn đã phải chấp thuận một điều khoản lựa chọn luật vô lý vì lý do đây là hợp đồng không đàm phán nên Bị đơn thực tế đã không được lựa chọn gì.

Uỷ ban trọng tài kết luận: theo luật California mà cả hai bên viện dẫn trong vụ kiện này, Hợp đồng phân phối hàng hoá quốc tế ký kết giữa các bên là một hợp đồng chuẩn quốc tế chứ không phải là một hợp đồng không đàm phán.

Không tính đến vấn đề hợp đồng không đàm phán, Uỷ ban trọng tài cho rằng điều

176

khoản lựa chọn luật California có hiệu lực không những chỉ theo luật California mà còn theo Luật xung đột, Luật tư pháp quốc tế Argentina và luật Trinidad và Tobago.

Mục 16 của Hợp đồng quy định: "Hợp đồng này được giải thích và sẽ được điều chỉnh bởi luật của bang California, Mĩ."

Uỷ ban trọng tài trong vụ Công ty TNHH Empresa de Viacao Aerea Rio Grandense (Vairig Airlines) kiện Công ty Boeing hợp đồng đã đi đến quyết định rằng: một khi các bên đã có thoả thuận lựa chọn luật của một quốc gia để áp dụng cho hợp đồng thì có nghĩa là các bên đã chọn luật thực chất của quốc gia đó trừ hai ngoại lệ sau: (1) khi quốc gia được chọn không có mối quan hệ gì lớn với hợp đồng đó hoặc với các bên trong hợp đồng, hoặc (2) khi việc áp dụng luật của nước đó sẽ đi ngược lại chính sách cơ bản của chính nước này.

Trong vụ này, rõ ràng là Hợp đồng có quan hệ thực tế với ít nhất một trong các bên trong hợp đồng và không bên nào khiếu kiện rằng luật thực chất California đi ngược lại chính sách cơ bản hoặc nguyên tắc của các luật có thể được áp dụng cho hợp đồng, thậm chí ngay cả khi luật Ac-hen-ti-na là luật áp dụng. Ít nhất, Uỷ ban trọng tài không thấy Bị đơn đưa ra những lập luận về điều này. Thực tế, luật được chọn có quy định sự bảo hộ hợp lý cho nhà phân phối.

Như vậy, vụ việc này không rơi vào bất kỳ ngoại lệ nào trong số hai ngoại lệ để không áp dụng luật thực chất California.

3. Chấm dứt bất hợp pháp hợp đồng:

Để quyết định xem liệu Nguyên đơn có vi phạm nghiêm trọng hợp đồng với Bị đơn hay không khi Nguyên đơn thông báo chấm dứt hợp đồng phân phối hàng hoá bằng telex ngày 2 tháng 12 năm 1983, Uỷ ban trọng tài phải phân tích quan hệ pháp lý giữa các bên vào thời điểm đó, đặc biệt theo thư Nguyên đơn gửi Bị đơn ngày 9 tháng 3 năm 1983.

Theo Uỷ ban trọng tài, Hợp đồng phân phối hàng hoá gốc giữa các bên ký ngày 8 tháng 8 năm 1979 đã hết hạn sau hai năm, vào ngày 8 tháng 8 năm 1981. Sau đó, Hợp đồng đã được gia hạn năm lần trong những khoảng thời gian ngắn hơn, lần gia hạn cuối cùng là thêm hai tháng và kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1983. Uỷ ban trọng tài cho rằng trong tất cả các lần gia hạn hợp đồng thì ngoài thời hạn hợp đồng, tất cả các điều khoản của hợp đồng gốc đều được giữ lại. Trong số những điều khoản của hợp đồng được giữ lại đó có (1) điều khoản quy định Hợp đồng sẽ tự động chấm dứt khi thời hạn hợp đồng kết thúc, tuỳ thuộc vào khoảng thời gian gia hạn được lập bằng văn bản thoả thuận giữa hai bên (Đoạn 2.a, Hợp đồng), và (2) các điều khoản quy định một bên có thể chấm dứt hợp đồng bằng một bản thông báo trước 30 ngày cho bên kia nếu bên kia vi phạm hợp đồng (một trong bốn trường hợp vi phạm nêu trong Hợp đồng) (Đoạn 2.b, Hợp đồng). Uỷ ban trọng tài xét thấy Nguyên đơn không kiện việc chấm dứt hợp đồng phân phối do Bị đơn vi phạm hợp đồng, nên việc chấm dứt hợp đồng của Nguyên đơn không thể dựa trên Đoạn 2.b.

177

Trong năm 1982 và 1983, Bị đơn đã đồng ý gia hạn hợp đồng ngắn hạn và tìm kiếm từ Nguyên đơn sự bảo đảm cho một quan hệ lâu dài. Cuối cùng, khi Bị đơn đến văn phòng của Nguyên đơn ở California và theo yêu cầu của Bị đơn, Nguyên đơn đã đưa cho Bị đơn một văn bản đề ngày 9 tháng 3 năm 1983, đây là chi tiết rất quan trọng trong vụ này. Theo văn bản đó, Nguyên đơn sẽ gia hạn hợp đồng thêm hai tháng sau khi Nguyên đơn đưa cho Bị đơn bản Hợp đồng phân phối quốc tế mới mà Nguyên đơn nói rằng đang trong quá trình chuẩn bị để nâng cấp quan hệ phân phối quốc tế lên một cơ sở pháp lý mới.

Vì vậy, với thời hạn hai tháng gia hạn hợp đồng lần cuối cùng kết thúc vào 30 tháng 4 năm 1983, Nguyên đơn đã gia hạn hợp đồng trong một khoảng thời gian không hạn định, hợp đồng được gia hạn thêm hai tháng sau một thời điểm không xác định, tức là khi Bị đơn nhận được bản hợp đồng phân phối quốc tế mới. Dù có quan điểm khác nhau về cách diễn đạt trên, các bên hoàn toàn chấp thuận rằng văn thư ngày 9 tháng 3 năm 1983 là cơ sở của việc gia hạn hợp đồng. Tuy nhiên, các bên không thống nhất quan điểm về hiệu lực pháp lý của nội dung văn thư này liên quan đến việc cung cấp bản hợp đồng mới của Nguyên đơn và thời gian trả lời hai tháng dành cho Bị đơn.

Mặt khác, mặc dù trong văn thư nói trên Nguyên đơn có đưa ra các mốc thời gian liên quan đến quan hệ tương lai của các bên, Uỷ ban trọng tài không cho rằng với văn thư ngày 9 tháng 3 năm 1983 Nguyên đơn đã cam kết không chấm dứt hợp đồng hiện tại nếu không đưa trước bản hợp đồng phân phối quốc tế mới để Bị đơn xem xét. Trước hết, quan hệ pháp lý giữa các bên ngày 9 tháng 3 năm 1983 về cơ bản là trên cơ sở hợp đồng không thời hạn, mà theo luật California các bên có quyền chấm dứt hợp đồng không thời hạn, miễn là hợp đồng đã thực hiện được một khoảng thời gian hợp lý và bên muốn chấm dứt hợp đồng phải thông báo về việc này cho bên kia trước một khoảng thời gian hợp lý. Hơn nữa, theo luật California một bên có quyền chấm dứt hợp đồng mà không cần phải đưa ra lý do trừ khi các bên có thoả thuận khác.

Trên cơ sở những lần gia hạn hợp đồng ngắn hạn và theo án lệ của California, Uỷ ban trọng tài cho rằng Nguyên đơn vào ngày 9 tháng 3 năm 1983 đã gia hạn Hợp đồng vô thời hạn. Theo lập luận này, Nguyên đơn có quyền chấm dứt hợp đồng này trên cơ sở thông báo trước hai tháng cho Bị đơn về quyết định chấm dứt hợp đồng.

Tuy nhiên, trong vụ việc này, hợp đồng không chỉ đơn giản được gia hạn một khoảng thời gian không hạn định, mà về hình thức, hợp đồng gia hạn để có thời gian chuẩn bị cho một hợp đồng phân phối mới giữa các bên. Và đây là một chi tiết hết sức quan trọng trong vụ việc này. Tuy nhiên, các bên cần biết rằng các điều kiện thực hiện của hợp đồng không thời hạn về cơ bản dễ bị thay đổi. Trong vụ này, Bị đơn đã biết Nguyên đơn rất cần đối tác ở Ac-hen-ti-na; vào cuối năm 1983, Bị đơn cũng biết được các điều kiện hạn chế mới mà Nguyên đơn đặt ra cho Bị đơn với tư cách là một đối tác giúp Nguyên đơn thâm nhập thị trường. Ngoài ra, các điều khoản mới của hợp đồng phân phối hàng hoá mới trong đó đặc biệt là các điều khoản liên quan đến các điều kiện thực hiện hợp đồng, thời hạn,... đã không được xác định rõ. Điều này cho thấy giữa các

178

bên chưa hề đạt được một thoả thuận nào về các điều kiện này cũng như chưa hề bàn bạc cụ thể trước ngày 9 tháng 3 năm 1983 hoặc vào bất kỳ thời điểm nào trước khi thông báo chấm dứt hợp đồng vào tháng 12.

Sự không rõ ràng này, thể hiện trong khái niệm mơ hồ về "giai đoạn thứ hai" phát triển thị trường Ac-hen-ti-na, không thể bị bỏ qua khi xác định tầm quan trọng và tác động pháp lý của hợp đồng phân phối mới. Theo luật California, các hợp đồng chờ chấp thuận của các bên không phải là các hợp đồng có giá trị thi hành. "Nếu một hợp đồng không đủ rõ ràng để toà án có thể giải thích chính xác hoặc nếu một điều khoản chính của hợp đồng tương lai bị bảo lưu thì hợp đồng này không làm phát sinh các nghĩa vụ pháp lý đối với các bên" (Phán quyết trọng tài trong vụ Công ty cho thuê Thiết bị Transamerica kiện Ngân hàng Union, vụ Công ty White Point kiện Herrington)

Từ các căn cứ nêu trên, Uỷ ban trọng tài kết luận Nguyên đơn không bị mất quyền chấm dứt hợp đồng cho dù Nguyên đơn không đưa bản hợp đồng mới cho Bị đơn. Nếu Uỷ ban trọng tài quyết định khác thì Nguyên đơn, để giải quyết những khó khăn do có thay đổi hoàn cảnh trong quá trình thực hiện hợp đồng vô thời hạn, sẽ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đưa vào bản hợp đồng mới những điều khoản mà Bị đơn không thể chấp nhận được.

Tuy nhiên, đây chưa phải là kết luận cuối cùng của uỷ ban trọng tài về vấn đề này. Uỷ ban trọng tài thấy rằng tuyên bố rõ ràng của Nguyên đơn trong văn thư ngày 9 tháng 3 năm 1983 về bản hợp đồng mới cùng với một loạt các tuyên bố rõ ràng hoặc ngụ ý của Nguyên đơn trong năm 1982 và 1983 về quan hệ tương lai giữa Nguyên đơn và Bị đơn đã khiến Bị đơn hy vọng về triển vọng một quan hệ lâu dài. Trong hoàn cảnh này, quyền tự do đơn phương chấm dứt quan hệ hợp đồng của Nguyên đơn không còn ở mức độ tuyệt đối như trước khi các tuyên bố trên chưa được đưa ra. Uỷ ban trọng tài thấy việc Nguyên đơn chấm dứt hợp đồng là quá bất ngờ. Nguyên nhân chủ yếu của việc chấm dứt hợp đồng từ phía Nguyên đơn là những thay đổi trong chính sách kinh tế của đảng chính trị mới thắng cử ở Ac-hen-ti-na ngày 30 tháng 10 năm 1983. Nhưng rõ ràng là vào thời điểm tháng 11 hoặc 12 năm 1983 các chính sách mới của đảng thắng cử chưa thể thành hiện thực và vì thế động cơ thúc ép Nguyên đơn chấm dứt ngay hợp đồng chưa tồn tại.

Nguyên đơn lập luận rằng vào năm 1983 Bị đơn đã đưa ra rất nhiều các bằng chứng về sự bấp bênh trong quan hệ hiện tại và tương lai với Nguyên đơn. Thực tế hồ sơ vụ kiện cũng phản ánh sự bấp bênh đó và cũng có nhiều lời khai của các nhân chứng của cả hai bên về điều này. Các cuộc đàm phán của Bị đơn trong suốt thời gian này với công ty của Pháp, một đối thủ cạnh tranh của Nguyên đơn chính là bằng chứng của sự bấp bênh trong quan hệ giữa Bị đơn và Nguyên đơn. Tuy nhiên hồ sơ vụ kiện cũng cho thấy trong suốt thời gian đó Nguyên đơn vẫn khích lệ bằng văn bản và bằng lời với Bị đơn về triển vọng tiếp tục hợp tác giữa hai bên. Như vậy, ở đây có cả những yếu tố khẳng định và phủ định việc bản thân Bị đơn nhận thức được về khả năng Nguyên đơn sẽ chấm dứt hợp đồng. Uỷ ban trọng tài nhận định rằng vào ngày 9 tháng 3 năm 1983 và sau đó, các

179

yếu tố phủ định có vẻ có ưu thế hơn (nói một cách khác, lý do để Bị đơn tin tưởng là Nguyên đơn vẫn tiếp tục hợp đồng với mình chiếm ưu thế hơn), do đó bác lập luận của Nguyên đơn rằng trong trường hợp này không cần phải thông báo trước cho Bị đơn về việc chấm dứt hợp đồng vì Bị đơn đã biết rõ về khả năng này

Luật áp dụng để giải quyết vấn đề này là luật California. Như đã đề cập ở trên, mặc dù về nguyên tắc luật California không bắt buộc các bên phải thực hiện các nghĩa vụ nêu tại các hợp đồng chưa được các bên chấp thuận chính thức, nhưng luật này cũng đồng thời qui định nghĩa vụ hành động của các bên phải một cách thiện chí cho dù hợp đồng chưa chính thức ký kết. Trong vụ này, nghĩa vụ thiện chí của Nguyên đơn đối với Bị đơn đòi hỏi Nguyên đơn phải thông báo chấm dứt hợp đồng trước một khoảng thời gian nhiều hơn là Nguyên đơn đã làm trên thực tế.

Tóm lại, vì những lý do nói trên, Uỷ ban trọng tài cho rằng thông báo hai tháng trước khi chấm dứt hợp đồng là quá ngắn và vì vậy, hợp đồng đã bị chấm dứt một cách đột ngột. Do đó, việc chấm dứt hợp đồng và các hợp đồng đã gia hạn của Nguyên đơn là trái pháp luật.

4. Rút lại quyết định chấm dứt hợp đồng:

Luật thương mại California Mục 2-611(1) quy định trước khi kết thúc thời hạn thực hiện nghĩa vụ của bên muốn chấm dứt hợp đồng, bên muốn chấm dứt hợp đồng có thể rút lại quyết định chấm dứt hợp đồng của mình, với điều kiện là bên kia không phản đối việc tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc không coi quyết định chấm dứt hợp đồng đó là quyết định cuối cùng. Các toà án California, trong một số vụ việc, đã cho rằng bên quyết định chấm dứt hợp đồng sẽ không bị coi là vi phạm hợp đồng nữa nếu sau đó bên này rút lại quyết định huỷ bỏ hợp đồng. Vì vậy, Nguyên đơn lập luận là với bản telex ngày 11 tháng 1 năm 1984, Nguyên đơn không còn bị coi là đã vi phạm hợp đồng do đơn phương chấm dứt hợp đồng nữa.

Tuy nhiên, cũng trong các án lệ nói trên, các toà án cũng nhấn mạnh là để rút lại quyết định chấm dứt hợp đồng một cách rõ ràng, bên muốn rút lại quyết định phải thể hiện ý định rõ ràng và không được đưa vào hợp đồng cũ các điều kiện mới. Bên đó phải khôi phục lại quan hệ pháp lý như trước khi nó bị vi phạm hợp đồng. Bản telex ngày 11 tháng 1 năm 1984 của Nguyên đơn thực tế không đề cập đến việc khôi phục hợp đồng phân phối; ngược lại, nó lại được chú thích là "Đàm phán để giải quyết quan hệ hiện tại giữa Nguyên đơn và Bị đơn". Uỷ ban trọng tài nhận thấy bản telex này giống một lời đề nghị đàm phán nhằm rút dần quan hệ với Bị đơn hơn là để khôi phục lại quan hệ trước đó.

Như tuyên bố của Toà án tối cao California trong vụ Taylor, bên bị thiệt hại có thể lựa chọn nhiều cách giải quyết. Bên đó có thể coi việc chấm dứt hợp đồng là một sự vi phạm hợp đồng trước thời hạn và ngay lập tức đòi bồi thường cho sự vi phạm hợp đồng đó, ... hoặc bên đó có thể coi yêu cầu chấm dứt hợp đồng đơn giản chỉ là một sự đe doạ không mấy giá trị... . Theo ý kiến của uỷ ban trọng tài, văn bản trả lời ngày 19 tháng 1

180

năm 1984 của Bị đơn không thể coi là Bị đơn đã quyết định bỏ qua vi phạm này của Nguyên đơn. Bị đơn chỉ bày tỏ rõ nguyện vọng muốn đến California để tìm ra một giải pháp bảo vệ các quyền lợi của mình và để hai bên khỏi phải dẫn nhau ra toà.

Vì những lý do nêu trên, các trọng tài viên quyết định rằng bản telex ngày 11 tháng 1 năm 1984 của Nguyên đơn không được coi là sự sửa đổi hợp pháp vi phạm của Nguyên đơn do đơn phương chấm dứt hợp đồng.

5. Chấm dứt quan hệ thương mại:

Uỷ ban trọng tài cho rằng trong bản telex ngày 29 tháng 3 năm 1984 Nguyên đơn chính thức đề nghị Bị đơn gia hạn hợp đồng với các điều khoản và điều kiện tương tự như hợp đồng gốc thêm hai năm kể từ ngày Bị đơn chấp thuận. Đây là một đề nghị hợp lý và có thiện ý để tiếp tục thực hiện hợp đồng theo bản hợp đồng gốc.

Bị đơn không tiếp tục chấp thuận các điều khoản của hợp đồng gốc vì thời hạn của hợp đồng được Nguyên đơn đề nghị là hai năm chứ không phải là năm hay mười năm và hơn nữa, trong đó có những điều khoản đã làm tổn hại quan hệ giữa hai bên trong một năm rưỡi trước đó. Tuy nhiên, sau khi nhận được lời đề nghị, lẽ ra Bị đơn phải trình bày rõ tất cả các lý do phản đối các điều khoản đó, kể cả điều khoản về thời hạn hợp đồng vì như vậy sẽ buộc người đưa ra lời đề nghị phải xem xét sửa đổi đề nghị của mình. Nhưng Bị đơn đã đương nhiên coi lời đề nghị đó là hoàn toàn không thể chấp nhận và không có thiện ý, và vì lý do này Bị đơn đã bác lời đề nghị thông qua bản telex 2379 ngày 4 tháng 4 năm 1984. Theo quan điểm của các trọng tài viên, sự bác bỏ như vậy không có đủ cơ sở.

Tuy nhiên điều này cũng không giảm bớt trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Bị đơn từ phía Nguyên đơn. Uỷ ban trọng tài đã quyết định rằng Nguyên đơn đột ngột thông báo chấm dứt quan hệ hợp đồng cho Bị đơn ngày 2 tháng 12 năm 1983. Vì vậy, Bị đơn có quyền đòi bồi thường cho những tổn thất phát sinh mà bên đó có thể chứng minh được, nhưng chỉ xét những tổn thất phải gánh chịu cho đến khi Bị đơn vô lý bác đề nghị gia hạn hợp đồng của Nguyên đơn.

Nói cách khác, theo chương 2 của Bộ luật dân sự California (từ mục 1485 đến mục 1505 và đặc biệt là mục 1492), khi một bên trì hoãn thực hiện nghĩa vụ hoặc vi phạm hợp đồng bằng cách chấm dứt đột ngột hợp đồng, bên đó phải bồi thường tổn thất cho bên kia theo luật định.

Uỷ ban trọng tài thấy rằng phù hợp với mục 1492 của Bộ luật dân sự California việc trì hoãn thực hiện hợp đồng buộc một bên có thể phải bồi thường toàn bộ và đầy đủ các thiệt hại cho bên kia. Trong hợp đồng này, thời không phải là vấn đề cốt lõi đối với nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng: một hợp đồng mà đã có hiệu lực hơn bốn năm và trở thành một hợp đồng vô thời hạn thì thời gian không còn là vấn đề quan trọng đối với hợp đồng.

Điều này hoàn toàn phù hợp với quy tắc luật California về giảm thiểu thiệt hại.

181

Theo qui tắc này, Bị đơn phải giảm thiểu thiệt hại phát sinh từ việc Nguyên đơn đột ngột chấm dứt hợp đồng. Ít nhất, đề nghị của Nguyên đơn ngày 29 tháng 3 năm 1984 về gia hạn hợp đồng thêm hai năm đã tạo cho Bị đơn một cơ hội thích hợp để giảm thiểu thiệt hại. Uỷ ban trọng tài tin rằng sẽ không công bằng khi một bên từ chối cho bên kia cơ hội để sửa chữa sai lầm.

Các trọng tài viên không quyết định làm thế nào để đánh giá hoặc giảm thiểu thiệt hại gây ra bởi sự chấm dứt hợp đồng sai trái. Điều đó sẽ được giải quyết trong phán quyết cuối cùng khi Uỷ ban trọng tài dựa trên tất cả những chứng cứ để ra quyết định về vấn đề thứ năm và điểm thứ sáu trong số các vấn đề cần quyết định.

6. Ký kết hợp đồng với các đối thủ cạnh tranh (tiềm tàng):

Uỷ ban trọng tài đã tuyên bố luật California thừa nhận một nghĩa vụ ngầm định về thiện chí và công bằng khi giao kết hợp đồng và không làm tổn hại đến quyền lợi của bên kia nhằm đạt được lợi ích từ hợp đồng.

Từ các tài liệu và chứng cứ do các bên trình bày, các trọng tài viên nhận thấy Nguyên đơn và Bị đơn đã tiến hành giao dịch buôn bán và đàm phán không chính thức với các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của bên kia. Nói một cách công bằng, không bên nào đã cư xử một cách thiện chí khi thực hiện các cuộc đàm phán và giao dịch đó.

Có thể thấy cả hai bên đều vi phạm nghĩa vụ về thiện chí. Nhưng Uỷ ban trọng tài không có ý định xem xét sự công bằng giữa các bên trong những giao dịch đó bởi vì không bên nào có các chứng cứ thuyết phục Uỷ ban trọng tài rằng việc làm sai trái của bên kia nghiêm trọng đến mức phải bồi thường.

Trong phán quyết bộ phận ban hành năm 1986, các trọng tài viên đã quyết định các vấn đề trên như sau:

- Thông báo chấm dứt hợp đồng của Nguyên đơn quá bất ngờ và vì thế bị coi là chấm dứt Hợp đồng bất hợp pháp.

- Bản telex ngày 11 tháng 1 năm 1982 của Nguyên đơn không có giá trị rút lại việc chấm dứt hợp đồng bất hợp pháp nói trên.

- Đề nghị ngày 24 tháng 3 năm 1984 của Nguyên đơn (gia hạn Hợp đồng với các điều khoản và điều kiện tương tự với Hợp đồng gốc) cùng với bản telex ngày 4 tháng 4 năm 1984 của Bị đơn (bác đề nghị của Nguyên đơn), chấm dứt quan hệ thương mại giữa hai bên, nhưng không làm cho Nguyên đơn thoát khỏi trách nhiệm phải bồi thường cho Bị đơn các thiệt hại và tổn thất phát sinh.

- Không có đủ chứng cứ chứng minh các bên ký kết hợp đồng với đối thủ cạnh tranh (tiềm tàng) của bên kia.

- Các vấn đề còn lại sẽ được quyết định trong phán quyết cuối cùng.

182

PHÁN QUYẾT SỐ 43

TRANH CHẤP VỀ THANH TOÁN TRONG

HỢP ĐỒNG LI-XĂNG

Các bên:

Nguyên đơn : Công ty Pháp

Bị đơn : Công ty Mỹ

Các vấn đề được đề cập:

- Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế

- Hợp đồng tự động bị huỷ bỏ

- Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại

- Đồng tiền thanh toán

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn (công ty Pháp) ký một Hợp đồng với Bị đơn (công ty Mỹ) theo đó Nguyên đơn nhượng quyền sử dụng tên và nhãn hiệu hàng hoá của mình trong ba năm cho Bị đơn, để sử dụng trên những sản phẩm do công ty này sản xuất và được tiêu thụ trong phạm vi lãnh thổ Mỹ. Thông thường theo phương thức hoạt động này, Bị đơn phải trả (sáu tháng một lần) các khoản phí tương đương với một số phần trăm nhất định của doanh thu và một khoản bảo đảm tối thiểu trong mọi trường hợp. Về điều này, Hợp đồng qui định rằng việc không thanh toán các khoản phí vào các ngày đáo hạn tương ứng sẽ dẫn đến việc Hợp đồng tự động bị huỷ bỏ và việc không tuân thủ một trong những điều khoản của hợp đồng bởi một trong các bên cũng dẫn đến những hậu quả tương tự, mà không làm ảnh hưởng đến quyền được bồi thường thiệt hại của bên kia.

Thực tế, Bị đơn chỉ thanh toán một khoản tiền bảo đảm tối thiểu theo hợp đồng trong năm đầu tiên và đã quyết định chấm dứt hợp đồng. Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài tại Bruxelles, Bỉ, yêu cầu Bị đơn thanh toán khoản bảo đảm tối thiểu còn lại vào ngày đáo hạn theo quy định của hợp đồng trong khoảng thời gian hai năm.

Phán quyết của trọng tài:

Trọng tài viên bác yêu cầu trên của Nguyên đơn với các lý do sau:

− Trên thực tế, khiếu nại này là trái với ý chí của các bên được biểu hiện trong hợp đồng và trái với tập quán và thực tiễn nói chung trong hoạt động thương mại và đặc biệt là trong quan hệ thương mại quốc tế;

- Các điều khoản hợp đồng nói trên là hoàn toàn rõ ràng và cụ thể và các điều khoản hợp đồng không bao gồm điều khoản hạn chế hay bảo lưu nào dù nhỏ nhất về

183

tính hợp pháp và tự động của việc huỷ bỏ hợp đồng.

Từ các lý do trên, trọng tài quyết định Nguyên đơn không có quyền và căn cứ để khiếu nại đòi được trả những khoản phí theo hợp đồng sẽ đến hạn sau ngày huỷ bỏ hợp đồng.

Tuy nhiên, Trọng tài viên cho rằng Nguyên đơn có quyền nhận được khoản đền bù thiệt hại do vi phạm hợp đồng, với điều kiện đã cố gắng hết sức mình nhằm giới hạn mức độ thiệt hại của vi phạm hợp đồng gây ra vì lý do:

− Điều 10 của hợp đồng có quy định rõ ràng điều khoản bảo lưu về quyền được bồi thường này;

− Khoản bồi thường được xác định là khoản bảo đảm tối thiểu đến ngày X, bởi vì Bị đơn đã có thư thông báo dự kiến khả năng tiếp tục quan hệ hợp đồng trong một khoảng thời gian xác định và do đó Nguyên đơn đã không tìm cách để đặt các quan hệ hợp đồng mới với một hoặc nhiều công ty khác ở Mỹ để thay thế cho quan hệ hợp đồng với Bị đơn. Triển vọng về đàm phán và bàn bạc với Bị đơn không còn kể từ ngày X. Kể từ ngày X, Nguyên đơn lẽ ra phải nỗ lực thiết lập những quan hệ mới nhằm bù đắp những thiệt hại gây ra do chấm dứt hợp đồng với Bị đơn; Nguyên đơn đã không đưa ra một bằng cớ nào dù nhỏ nhất về các nỗ lực này. Do đó, hoàn toàn hợp lý và công bằng khi cho rằng nếu như Nguyên đơn đã tiến hành những nỗ lực như vậy thì Nguyên đơn đã có thể giảm một nửa những thiệt hại gây ra do sự chấm dứt hợp đồng nói trên với Bị đơn.

Cuối cùng, vấn đề cần phải bàn bạc đồng tiền nào sẽ được chọn là đồng tiền thanh toán. Về vấn đề này, trọng tài viên đã tuyên bố như sau:

Xét rằng trong hợp đồng do hai bên ký kết, đồng đôla đã được sử dụng như đồng tiền thanh toán do vậy cũng phải là đồng tiền được sử dụng trong phán quyết, và thậm chí là đồng tiền sử dụng để bồi thường bởi vì khoản này nhằm đền bù những tổn thất trên thị trường Mỹ.

184

PHÁN QUYẾT SỐ 44

TRANH CHẤP VỀ VIỆC LỰA CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG LI-XĂNG

Các bên:

Nguyên đơn : Nhà sản xuất Mỹ

Bị đơn : Người cho phép sử dụng bằng sáng chế Italia

Các vấn đề được đề cập:

- Luật áp dụng thực chất

- Lex mercatoria

- Điều 13 Quy tắc của ICC

- Luật của nơi có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng

- Công ước Rôme 1980

- Áp dụng phối hợp các quy tắc luật xung đột

Tóm tắt vụ việc:

Bị đơn, người sở hữu bằng sáng chế và Nguyên đơn, nhà sản xuất Mỹ, đã ký một hợp đồng cho phép Nguyên đơn độc quyền sản xuất và bán các thiết bị ở Mỹ và Canađa dựa trên các bằng sáng chế và công nghệ của Bị đơn. Tranh chấp phát sinh khi Nguyên đơn tuyên bố Hợp đồng bị vi phạm và khởi kiện Bị đơn đòi bồi thường những thiệt hại phát sinh. Bị đơn không thừa nhận việc vi phạm hợp đồng với lý do là Nguyên đơn không trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế khi chấm dứt hợp đồng. Bị đơn cũng kiện lại đòi bồi thường thiệt hại.

Các bên đã đưa tranh chấp ra trọng tài ICC. Văn bản xác định thẩm quyền của trọng tài quy định Uỷ ban trọng tài sẽ xác định luật thực chất áp dụng cho hợp đồng. Bị đơn yêu cầu áp dụng lex mercatoria, bao gồm các nguyên tắc chung của luật và tập quán; trong khi đó, Nguyên đơn yêu cầu áp dụng luật của Mỹ và đặc biệt là luật bang Massachusetts, đồng thời dẫn chiếu lex mercatoria nếu cần thiết. Do các bên không thoả thuận được với nhau, Uỷ ban trọng tài đã phải giải quyết vấn đề này bằng một phán quyết tạm thời.

Trong phán quyết tạm thời, Uỷ ban trọng tài đã quyết định áp dụng luật của Mĩ và luật bang Massachusett bởi đó là luật của nơi có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng.

Phán quyết của trọng tài:

Mục IX Văn bản xác định thẩm quyền của trọng tài quy định Uỷ ban trọng tài sẽ

185

quyết định luật áp dụng thực chất cho vụ tranh chấp bằng một phán quyết tạm thời, giống như Điều 32 Công ước trọng tài liên bang Thuỵ Sỹ. Trong khi đó, đoạn 3 Điều 13 Quy tắc ICC quy định nếu các bên không chỉ ra được luật áp dụng thì Uỷ ban trọng tài sẽ xác định luật áp dụng bằng các quy tắc luật xung đột, và đoạn 5 Điều 13 quy định trong mọi trường hợp, Uỷ ban trọng tài phải xem xét cả các điều khoản hợp đồng và những tập quán thương mại liên quan.

Quy tắc ICC không buộc Uỷ ban trọng tài phải chọn quy tắc luật của nơi tiến hành tố tụng trọng tài, trong vụ này là các quy tắc luật xung đột của Thuỵ Sỹ.

Theo thông lệ xét xử trọng tài hiện nay của ICC, để xác định luật áp dụng cho vụ tranh chấp, uỷ ban trọng tài ICC có thể sử dụng phương pháp áp dụng tổng hợp các quy tắc luật xung đột của tất cả các quốc gia có liên quan đến tranh chấp.

Trong vụ này, các quốc gia liên quan đến tranh chấp là:

− Thuỵ Sỹ, nơi tiến hành thủ tục tố tụng trọng tài

− Hoa Kỳ nói chung và bang Massachusetts nói riêng, nước Nguyên đơn mang quốc tịch

− Italia, nước Bị đơn mang quốc tịch.

Nếu Quy tắc luật xung đột của Mĩ được dùng để xác định luật áp dụng thì phải xem xét một số nhân tố sau khi xác định nơi có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng:

− Nơi ký kết hợp đồng

− Nơi đàm phán hợp đồng

− Nơi thực hiện hợp đồng

− Địa điểm của đối tượng thực hiện chính của hợp đồng

− Nơi cư trú cố định, nơi cư trú thường xuyên, quốc tịch và nơi tiến hành hoạt động kinh doanh của các bên.

Theo Quy tắc luật xung đột của Italia, luật áp dụng là luật của nơi ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, Italia đã phê chuẩn và thi hành Công ước EEC ngày 19 tháng 6 năm 1980 về luật áp dụng cho các nghĩa vụ hợp đồng. Công ước này công nhận nguyên tắc về luật của "nơi có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng". Điều 4(2) Công ước EEC quy định nơi có "mối liên hệ mật thiết nhất" là nước cư trú thường xuyên của bên phải thực hiện "nghĩa vụ chính của hợp đồng". Tuy nhiên, Điều 4(5) Công ước EEC quy định Điều 4(2) không áp dụng khi xét trên mọi khía cạnh, hợp đồng có mối liên hệ mật thiết nhất với một nước khác, không phải nơi cư trú thường xuyên của bên phải thực hiện nghĩa vụ chính của hợp đồng.

Quy tắc luật xung đột của Thuỵ Sỹ cũng thừa nhận việc áp dụng luật của nơi mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng. Toà án Liên bang Thuỵ Sỹ đã cho rằng luật áp dụng là luật của nơi cư trú cố định hoặc nơi cư trú thường xuyên của người phải thực hiện

186

nghĩa vụ chính của hợp đồng và trong hợp đồng này, về nguyên tắc thì nghĩa vụ chính là nghĩa vụ của bên phải thanh toán tiền mua quyền sử dụng sáng chế.

Bởi Hợp đồng này được xem là một thoả thuận cho phép sử dụng sáng chế và bí quyết sản xuất nên Nguyên đơn được quyền sử dụng ở Mĩ và Canađa các sáng chế tại Mĩ của Bị đơn và bí quyết sản xuất liên quan đến sáng chế này.

Mặc dù người phải thực hiện nghĩa vụ chính của Hợp đồng cư trú ở Italia, Hợp đồng lại có mối liên hệ mật thiết nhất với Mĩ, đặc biệt với bang Massachusetts vì Mĩ là nơi thực hiện và địa điểm của đối tượng thực hiện chính của hợp đồng (sáng chế).

Uỷ ban trọng tài cho rằng theo Quy tắc luật xung đột của Mĩ thì luật áp dụng cho vụ tranh chấp sẽ là luật Mĩ nói chung và luật bang Massachusetts nói riêng.

Trên cơ sở Công ước EEC và theo Quy tắc luật xung đột của Italia thì kết quả xác định luật áp dụng cũng tương tự .

Theo Quy tắc luật xung đột của Thuỵ Sỹ, Toà án Liên bang Thuỵ Sỹ đã xác định luật áp dụng cho Hợp đồng là luật của nơi cư trú cố định của người cho phép sử dụng bằng sáng chế bởi vì Toà án cho rằng đây là bên thực hiện nghĩa vụ chính của Hợp đồng. Cách xác định này cũng đã được Luật Liên bang mới của Thuỵ Sỹ về luật tư pháp quốc tế công nhận. Tuy nhiên, cách xác định này đã bị chỉ trích, bởi luật của nơi cư trú của người được quyền sử dụng sáng chế có thể bao gồm một số nguyên tắc bắt buộc phải tuân thủ. Trong các vụ việc trước đó, Toà án Liên bang Thuỵ Sỹ cũng đã áp dụng luật của nơi thực hiện nghĩa vụ chính của hợp đồng.

Trong vụ này, xem xét mọi khía cạnh thì thấy giải pháp chọn luật Mĩ và luật bang Massachusetts là luật áp dụng chắc chắn được Quy tắc luật xung đột của Thuỵ Sỹ thừa nhận. Vì vậy, dựa vào Điều 13(3) Quy tắc ICC, Uỷ ban trọng tài quyết định áp dụng luật của Mĩ và luật bang Massachusetts.

Mặt khác, Điều 13(5) Quy tắc ICC buộc Uỷ ban trọng tài phải xem xét cả các tập quán thương mại liên quan. Nguồn của lex mercatoria cũng là các tập quán thương mại và về cơ bản, lex mercatoria thường được áp dụng trong thương mại quốc tế.

Vì vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định như sau:

1. Luật của Mĩ nói chung và luật bang Massachusetts nói riêng là luật áp dụng cho vụ tranh chấp và nếu cần thiết sẽ áp dụng cả lex merctoria.

2. Các chi phí, kể cả phí liên quan tới phán quyết tạm thời này sẽ được xác định trong phán quyết cuối cùng.

187

PHÁN QUYẾT SỐ 45

TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG LI -XĂNG

VỀ MỘT HỢP CHẤT DƯỢC PHẨM

Các bên:

Nguyên đơn : Công ty sử dụng sáng chế

Bị đơn : Công ty cho phép sử dụng sáng chế Mỹ

Các vấn đề được đề cập:

- Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế

- Bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ do lỗi của chủ sở hữu sáng chế và hậu quả (chấm dứt Hợp đồng sử dụng sáng chế)

- Quyền đòi bồi thường của người được phép sử dụng sáng chế

Tóm tắt vụ việc:

Bị đơn (một công ty Mĩ) nộp đơn xin cấp bằng sáng chế số XX001 tại Pháp năm 1972 cho hợp chất XX1, phương pháp để sản xuất ra hợp chất này và các ứng dụng hợp chất này để sản xuất thuốc chữa bệnh. Đến năm 1976 thì Bị đơn chính thức được cấp bằng sáng chế.

Nguyên đơn (một công ty Pháp) và Bị đơn đã ký một Hợp đồng về quyền lựa chọn, theo đó Nguyên đơn trả cho Bị đơn thứ nhất 100.000 USD và được đặc quyền lựa chọn thực hiện một số quyền về sáng chế nhằm khai thác XX1 ở Pháp và một số nước khác.

Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế được Nguyên đơn và Bị đơn ký năm 1979, theo đó Bị đơn cấp cho Nguyên đơn giấy phép độc quyền sử dụng bằng sáng chế số XX001 để thiết kế sản phẩm (dưới các dạng khác nhau) từ hợp chất XX1 phù hợp với các chỉ dẫn của Bị đơn, sử dụng và bán sản phẩm đó ở Pháp và một giấy phép bán độc quyền (semi-exclusive) sử dụng và bán sản phẩm đó ở một số nước khác.

Theo Hợp đồng, Nguyên đơn cam kết chấp nhận chịu mọi chi phí tiến hành các nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng theo quy định để được đăng ký kinh doanh sản phẩm nói trên.

Hợp đồng quy định Hợp đồng sẽ có hiệu lực từ ngày ký cho đến ngày Bằng sáng chế số XX001 hết thời hạn bảo hộ. Theo luật của Pháp, thời hạn bảo hộ của một bằng sáng chế là 20 năm kể từ ngày nộp đơn xin cấp, vì vậy, thời hạn bảo hộ của bằng sáng chế số XX001 đến năm 1992 mới kết thúc.

Năm 1979, Nguyên đơn và Bị đơn cũng đã ký một hợp đồng cung cấp, theo đó Bị đơn thứ nhất đồng ý cung cấp cho Nguyên đơn hợp chất XX1 với một số điều kiện nhất định về chất lượng, giá cả, thanh toán, v.v... Hợp đồng cung cấp quy định Hợp đồng này sẽ

188

còn hiệu lực chừng nào Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế vẫn còn hiệu lực.

Năm 1985, Nguyên đơn biết được rằng Bằng sáng chế số XX001 đã hết thời hạn bảo hộ từ năm 1980 do chủ sở hữu bằng sáng chế, Bị đơn, không đóng phí hàng năm theo quy định của Luật sáng chế Pháp.

Nguyên đơn đã kiện ra trọng tài đòi Bị đơn bồi thường:

- Số tiền Nguyên đơn đã thanh toán cho Bị đơn là 200.000 USD do Bị đơn vi phạm Hợp đồng, không đóng phí bảo hộ dẫn tới chấm dứt Hợp đồng (vì Hợp đồng có hiệu lực cho đến khi kết thúc thời hạn bảo hộ của bằng sáng chế) mà không hề thông báo gì cho Nguyên đơn.

- Các chi phí cho các cuộc thử nghiệm và nghiên cứu mà Nguyên đơn đã tiến hành trong suốt 6 năm (theo Nguyên đơn, việc nghiên cứu này kéo dài mà không đạt kết quả do Bị đơn cố tình cung cấp các thông tin sai lệch và mẫu không chính xác của hợp chất XX1)

- Một khoản tiền bồi thường cho các thiệt hại phát sinh, kể cả lợi nhuận bị tổn thất.

- Tiền lãi của các khoản tiền nói trên.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về đơn phản đối thẩm quyền của trọng tài:

Bị đơn nộp đơn phản đối thẩm quyền của trọng tài và cho rằng vụ việc cần phải do một toà án dân sự Pháp xét xử hoặc ít nhất tố tụng trọng tài cũng phải hoãn lại cho đến khi vấn đề thẩm quyền của trọng tài được xác định chính xác. Đơn phản đối của Bị đơn dựa trên các căn cứ sau đây:

(i) Uỷ ban trọng tài đã vượt quá giới hạn thẩm quyền của mình khi ra quyết định yêu cầu các bên trình các tài liệu về việc bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ;

(ii) Quyết định nói trên của Uỷ ban trọng tài làm nảy sinh trong tố tụng trọng tài một vấn đề mới liên quan trực tiếp đến "thời hạn bảo hộ của bằng sáng chế", một vấn đề thuộc trật tự công cộng và chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của các toà án dân sự Pháp;

(iii) Ngoài ra, đề xuất sửa đổi nội dung bản tranh tụng của Bị đơn có viện dẫn đến bằng sáng chế bổ sung số YY002 (theo Bị đơn, bằng sáng chế YY002 cũng có nội dung bao hàm hợp chất XX1, vì thế dù bằng sáng chế XX001 có hết thời hạn bảo hộ thì Nguyên đơn vẫn không bị ảnh hưởng vì lý do bằng YY001 vẫn còn thời hạn bảo hộ tại Pháp). Vì giữa hai bên chưa có thoả thuận trọng tài đối với bằng sáng chế này nên trọng tài không có thẩm quyền xét xử.

Căn cứ vào nguyên tắc về quyền xác định thẩm quyền xét xử của chính mình (Điều 8(3) Qui tắc ICC), uỷ ban trọng tài đã quyết định bác đơn yêu cầu của Bị đơn và xác định rằng trọng tài có thẩm quyền trong vụ việc này với những lý do sau đây:

189

- Trong vụ việc này các bên đều thừa nhận rằng bằng sáng chế số XX001 cho hợp chất XX1 đã hết hiệu lực từ năm 1980. Như vậy ở đây không có tranh chấp về thời hạn của bằng sáng chế và uỷ ban trọng tài không có trách nhiệm giải quyết vấn đề này. Do đó, uỷ ban trọng tài có thẩm quyền xét xử trong vụ việc này dù thời hạn của bằng sáng chế có phải là vấn đề thuộc trật tự công cộng và nằm trong phạm vi đặc quyền xét xử của các toà án dân sự Pháp hay không.

- Các chứng cứ mà trọng tài yêu cầu (nhằm xác định xem việc bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ là do lỗi của Bị đơn hay chỉ là hệ quả của sự bất cần hoặc một sự kiện khác vượt quá tầm kiểm soát của Bị đơn) liên quan đến khiếu kiện của Nguyên đơn về hành vi gian lận của Bị đơn. Mà khiếu kiện này nằm trong phạm vi thẩm quyền xét xử của trọng tài. Vì thế, trọng tài hoàn toàn có thẩm quyền yêu cầu các bên trình bày các chứng cứ này.

- Theo Điều 16 Qui tắc ICC, các bên trong tố tụng trọng tài chỉ có thể đưa ra các khiếu kiện mới hoặc bổ sung thêm các chi tiết cho khiếu kiện của mình nếu thoả mãn một trong hai điều kiện sau đây: thứ nhất, các bổ sung hoặc khiếu kiện mới này vẫn thuộc phạm vi của Văn bản về thẩm quyền xét xử của trọng tài; thứ hai, các bổ sung hoặc khiếu kiện mới này được tất cả các bên chấp thuận và được thông báo tới Toà Trọng tài ICC. Trong vụ việc này, bổ sung khiếu kiện của Bị đơn có liên quan đến YY001, bằng sáng chế không được qui định trong Văn bản thẩm quyền của uỷ ban trọng tài cũng không được các bên cùng chấp thuận. Ngoài ra, uỷ ban trọng tài cũng nhấn mạnh rằng tranh chấp giữa các bên không chỉ liên quan đến hợp chất XX1 mà quan trọng hơn là về những vi phạm hợp đồng. Vì vậy, trọng tài bác bổ sung khiếu nại mới này của Bị đơn và tuyên bố vẫn có thẩm quyền trong vụ việc này.

2. Về việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn:

Về nguyên nhân của việc hết hạn bảo hộ của bằng sáng chế, sau khi xem xét các chứng cứ, uỷ ban trọng tài kết luận: bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ là do Bị đơn không đóng phí bảo hộ 90 USD/năm mặc dù đã nhận được đầy đủ các thông báo nộp phí.

Nguyên đơn cho rằng việc Bị đơn cố tình không đóng phí bảo hộ đã làm cho bằng sáng chế XX001 cho hợp chất XX1 hết thời hạn bảo hộ ở Pháp trước thời hạn dự kiến (năm 1992) và hệ quả là làm cho Hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn tự động hết hiệu lực (do hiệu lực của Hợp đồng phụ thuộc vào thời hạn bảo hộ của bằng sáng chế). Do đó, Bị đơn đã vi phạm nghiêm trọng Hợp đồng.

Để chứng minh cho lập luận của mình, luật sư của Nguyên đơn viện dẫn trước Uỷ ban trọng tài quyết định của Toà Phúc thẩm Paris trong vụ Fridor vs. Exhenry (Paris, ngày 3 tháng 3 năm 1953). Trong vụ đó, người sở hữu bằng sáng chế không đóng phí hàng năm nên đã làm chấm dứt thời hạn bảo hộ của bằng sáng chế. Toà án cho rằng việc đóng phí hàng năm là trách nhiệm của chủ sở hữu sáng chế và nếu chủ sở hữu không

190

làm như vậy, anh ta có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người sử dụng sáng chế.

Bị đơn lập luận: việc bằng sáng chế hợp chất XX1 hết thời hạn bảo hộ không ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi của Nguyên đơn theo Hợp đồng sử dụng sáng chế, thậm chí Nguyên đơn tiếp tục hưởng lợi theo Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế, đặc biệt từ bằng sáng chế số YY002. Bị đơn cho rằng người cho phép sử dụng sáng chế chỉ có nghĩa vụ chuyển cho người sử dụng sáng chế thông tin đầy đủ về sáng chế và những cải tiến đã được phát hiện và bảo hộ trước khi ký hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế.

(Trước khi giải quyết vấn đề này, Uỷ ban trọng tài nhắc lại rằng trong giai đoạn bắt đầu tố tụng trọng tài, Uỷ ban trọng tài đã quyết định là bằng sáng chế số YY002 không được đưa vào nội dung bản tranh tụng của các Bị đơn theo quy định tại Quy tắc ICC. Tuy nhiên, trong bản tranh tụng, luật sư của các Bị đơn vẫn đưa ra các lập luận dựa trên sự tồn tại của bằng sáng chế này. Do vậy, Uỷ ban trọng tài xem xét và quyết định về lập luận này của các Bị đơn)

Cũng trong vụ Frior, Toà án đã bác lập luận của người cho phép sử dụng bằng sáng chế rằng trên thực tế, người sử dụng bằng sáng chế vẫn tiếp tục giữ độc quyền sau khi bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ. Toà án kết luận nghĩa vụ cung cấp cho người sử dụng bằng sáng chế những kinh nghiệm và công nghệ liên quan không phải là một nhân tố độc lập có thể duy trì bằng sáng chế sau khi đối tượng chính của bằng sáng chế không còn nữa. Tuy nhiên, Toà án cho rằng các yếu tố thực tế sau khi thời hạn bảo hộ của bằng sáng chế cũng cần phải được lưu ý xem xét để xác định thiệt hại thực tế mà người sử dụng sáng chế đã phải chịu.

Do đó, trong vụ việc này, đối tượng của Hợp đồng đã không còn và bằng sáng chế YY001 không thể thay thế đương nhiên cho XX001. Hợp đồng sử dụng sáng chế đã chấm dứt, do vậy ngay cả khi Bị đơn thực sự có mang lại cho Nguyên đơn những lợi ích nhất định hay các tư vấn về kỹ thuật sau khi thời hạn bảo hộ bằng sáng chế đã kết thúc thì Bị đơn vẫn phải chịu trách nhiệm vì đã làm hợp đồng chấm dứt và phải bồi thường cho Nguyên đơn.

Uỷ ban trọng tài kết luận:

Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế đã chấm dứt khi bằng sáng chế hợp chất XX1 hết thời hạn bảo hộ. Vì Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho việc bằng sáng chế chấm dứt thời gian bảo hộ trước thời hạn nên Bị đơn cũng chịu trách nhiệm đối với việc Hợp đồng chấm dứt trước thời hạn.

Uỷ ban trọng tài cũng thấy rằng hành vi của Bị đơn dẫn đến bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ và việc các Bị đơn không thông báo sự kiện này cho Nguyên đơn suốt 5 năm là một lỗi rất nặng, do đó Nguyên đơn có quyền đòi bồi thường tổn thất lợi nhuận mà đáng lẽ Nguyên đơn có thể được hưởng theo Hợp đồng này tính đến năm 1992. Uỷ ban trọng tài quyết định các Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn số lợi nhuận bị tổn thất là 37.365.173 FF.

191

PHÁN QUYẾT SỐ 46

TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG LI - XĂNG

VỀ CHAI ĐỰNG ĐỒ UỐNG NHẸ

Các bên:

Nguyên đơn : Chủ sở hữu bằng sáng chế Italia

Bị đơn : Người sử dụng bằng sáng chế Italia

Các vấn đề được đề cập:

- Quyết định của cơ quan hành chính gia hạn miễn phí thời hạn bảo hộ bằng sáng chế

- Thẩm quyền xét xử của trọng tài

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn là chủ sở hữu sáng chế đã đăng ký ở Italia, có quyền sở hữu đầy đủ và được hưởng các lợi ích từ các sáng chế và ứng dụng sáng chế trong sản xuất chai nhựa polyethylene dùng để đựng đồ uống nhẹ có ga.

Năm 1979, Nguyên đơn và công ty X ký Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế chai đựng đồ uống nhẹ (chai SDK).

Ở Italia, loại chai SKD được cấp bằng sáng chế số .... Bằng sáng chế này được nêu trong Phụ lục A của Hợp đồng. Nguyên đơn cũng là chủ sở hữu của năm bằng sáng chế khác ở Italia (xem Phụ lục B của Hợp đồng) liên quan đến các loại chai SKD đặc biệt hoặc phương pháp sản xuất hoặc thiết bị sản xuất ra các loại chai này.

Năm 1984, với sự đồng ý của Nguyên đơn, công ty X đã chuyển nhượng Hợp đồng cho công ty con của mình, Bị đơn.

Năm 1985, Bị đơn gửi cho Nguyên đơn bản telex đề cập tới một Sắc lệnh của Chính phủ Italia ngày 22 tháng 6 năm 1979 đăng trong Công báo ngày 7 tháng 8 năm 1979 (sau đây gọi là Sắc lệnh).

Điều 4 của Sắc lệnh quy định tăng thời hạn bảo hộ của các bằng sáng chế ở Italia từ 15 năm lên 20 năm và Điều 84 quy định "những người được cho phép sử dụng sáng chế và những người đã đầu tư có hiệu quả và nghiêm túc để sử dụng sáng chế có quyền nhận một giấy phép không độc quyền bắt buộc (a non exclusive compulsory license) để sử dụng sáng chế miễn phí trong thời gian gia hạn thêm với điều kiện thời hạn bảo hộ của sáng chế sắp hết. Nếu bằng sáng chế chưa hết thời hạn bảo hộ thì không áp dụng quyền này."

Viện dẫn các điều khoản nói trên, Bị đơn đã thông báo cho Nguyên đơn rằng họ sẽ ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế vào cuối năm 1985 bởi vì tính đến năm 1985 sáng chế đã đăng ký được 15 năm. Nguyên đơn phản đối và cho rằng Bị đơn

192

không có quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế.

Qua bản telex ngày 3 tháng 7 năm 1986, Bị đơn đã yêu cầu Nguyên đơn cấp một giấy phép không độc quyền sử dụng bằng sáng chế miễn phí (a non exclusive free license) cho đến ngày 16 tháng 12 năm 1990. Bị đơn còn nhấn mạnh "nếu yêu cầu chính thức này không được chấp nhận trong vòng 15 ngày kể từ ngày hôm nay, Bị đơn có quyền nộp đơn cho Văn phòng sáng chế Italia để chính thức xin cấp giấy phép bắt buộc (a compulsory license) phù hợp với các điều khoản liên quan của Luật sáng chế Italia."

Theo yêu cầu của Bị đơn, Bộ Công nghiệp Italia ban hành một Quyết định cấp cho Bị đơn một giấy phép bắt buộc không độc quyền (a non exclusive compulsory license) sử dụng sáng chế miễn phí trong vòng 5 năm từ ngày 16 tháng 12 năm 1985 đến ngày 15 tháng 12 năm 1990.

Do Bị đơn từ chối thanh toán tiền mua quyền sử dụng sáng chế nên Nguyên đơn đã kiện ra trọng tài đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại hợp đồng và trả tất cả mọi khoản thanh toán theo Hợp đồng cho đến ngày bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ, đó là ngày 16 tháng 12 năm 1990.

Phán quyết của trọng tài:

(Phán quyết trình bày dưới đây chỉ giải quyết vấn đề khả năng thụ lý khiếu kiện của Nguyên đơn)

Bị đơn phản đối thẩm quyền xét xử của trọng tài với các lý do sau đây:

Thứ nhất, Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia đã hoàn toàn giải quyết được khiếu kiện của Nguyên đơn. Vì vậy, cần chấm dứt vụ kiện. Theo Bị đơn Điều 84 của Sắc lệnh đã trao cho Bộ Công nghiệp Italia quyền cấp giấy phép sử dụng sáng chế miễn phí. Không có Toà án hay trọng tài nào có thể thay thế Bộ Công nghiệp Italia thực hiện quyền lực hành chính này.

Thứ hai, nếu Bị đơn có giấy phép sử dụng bằng sáng chế miễn phí có hiệu lực pháp lý, thì Bị đơn hoàn toàn không vi phạm hợp đồng; nếu không thì Hợp đồng đương nhiên bị vi phạm. Điều này có nghĩa là vấn đề xác định vi phạm hợp đồng cũng đồng thời là việc xác định quyền của Bị đơn theo Điều 84 của Sắc lệnh. Quyền sử dụng sáng chế của Bị đơn căn cứ trên cơ sở Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia chứ không căn cứ trên Hợp đồng. Nói cách khác, tranh chấp đưa ra Uỷ ban trọng tài không liên quan đến các quyền của Bị đơn phát sinh từ Hợp đồng hay giải thích hợp đồng như quy định trong điều khoản trọng tài của Hợp đồng. Vì vậy trọng tài không có thẩm quyền.

Ngoài ra, Bị đơn còn cho rằng Uỷ ban trọng tài không thể phủ nhận Quyết định ngày 16 tháng 5 băn 1988 của Bộ Công nghiệp Italia. Uỷ ban trọng tài cần xem xét Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia và sau khi khẳng định giấy phép của Bộ Công nghiệp Italia cho phép sử dụng sáng chế miễn phí thì phải tuyên bố Bị đơn không vi phạm hợp đồng. Theo Bị đơn, nếu sự việc chỉ trong giới hạn như vậy thì tranh chấp có

193

thể đưa ra xét xử trọng tài.

Về phần mình, Nguyên đơn lập luận như sau:

Vấn đề duy nhất Uỷ ban trọng tài phải quyết định là trong phạm vi của Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia, Bị đơn có phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn nữa hay không. Theo Nguyên đơn, vấn đề này không được quyết định bởi Bộ Công nghiệp Italia vì cơ quan này chỉ quyết định xem liệu Bị đơn có quyền nhận giấy phép theo Điều 84 của Sắc lệnh không. Bộ Công nghiệp Italia không đưa ra bất cứ giải thích Hợp đồng nào bởi việc đó thuộc thẩm quyền của Uỷ ban trọng tài. Vì vậy, Nguyên đơn cho rằng Uỷ ban trọng tài phải thực hiện quyền giải thích hợp đồng.

Theo Nguyên đơn, Quyết định của Bộ Công nghiệp không miễn cho Bị đơn các nghĩa vụ hợp đồng phải trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn.

Hơn nữa, Nguyên đơn còn cho rằng Bị đơn đã lẫn lộn giữa quyền sử dụng sáng chế miễn phí mà Bị đơn có được theo Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia và khiếu kiện của Nguyên đơn đòi tiền bản quyền theo hợp đồng. Đối với Nguyên đơn, Uỷ ban trọng tài phải xem xét việc Quyết định của Bộ Công nghiệp có tác động như thế nào đến vụ tranh chấp. Bản thân Quyết định của Bộ Công nghiệp phải được giải thích và áp dụng theo Hợp đồng.

Uỷ ban trọng tài có ý kiến như sau:

Vấn đề chính được đưa ra trước Uỷ ban trọng tài là liệu Bị đơn có quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế theo Hợp đồng không và liệu Bị đơn có phải trả tiền bồi thường thiệt hại vi phạm hợp đồng không.

Theo điều khoản trọng tài trong Hợp đồng "bất kỳ tranh chấp nào liên quan tới giải thích hoặc thực hiện Hợp đồng này và bất kỳ vấn đề nào nảy sinh từ Hợp đồng mà các bên không thể giải quyết trong một thời hạn hợp lý, sẽ được đưa ra trọng tài theo các quy tắc của Phòng thương mại quốc tế." Việc trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế qui định tại Hợp đồng và việc vi phạm hợp đồng do không trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế là các vấn đề liên quan đến việc thực hiện hợp đồng.

Uỷ ban trọng tài không chấp nhận quan điểm của Bị đơn cho rằng tranh chấp không thể đưa ra trọng tài vì "vấn đề về vi phạm hợp đồng trùng với vấn đề xác định quyền của Bị đơn theo Điều 84 của Sắc lệnh". Bị đơn từ chối thẩm quyền của trọng tài dựa trên một căn cứ duy nhất là Quyết định ngày 16 tháng 5 năm 1988 của Bộ Công nghiệp Italia đã cho Bị đơn quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế. Nguyên đơn đã bác quan điểm này trước Uỷ ban trọng tài. Nguyên đơn nhấn mạnh vấn đề cần xem xét ở đây là liệu trong phạm vi Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia, Bị đơn có nghĩa vụ tiếp tục trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn theo Hợp đồng nữa hay không. Vấn đề này liên quan tới giải thích Hợp đồng và theo quy định của điều khoản trọng tài trong Hợp đồng, Uỷ ban trọng tài được phép giải thích Hợp đồng.

194

Hơn nữa, do Nguyên đơn nói rõ là Nguyên đơn không phản đối Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia, Uỷ ban trọng tài không được các bên yêu cầu phải quyết định xem liệu Bị đơn có quyền được nhận giấy phép sử dụng sáng chế miễn phí trong phạm vi Điều 84 của Sắc lệnh không, một vấn đề vượt ra ngoài phạm vi thẩm quyền của Uỷ ban trọng tài. Quyết định ngày 16 tháng 5 năm 1988 là một trong những nhân tố pháp lý Uỷ ban trọng tài cần xem xét khi xác định quyền của Bị đơn không phải trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế theo Hợp đồng nhưng sự tồn tại của Quyết định này không tước đi quyền giải thích Hợp đồng và xác định tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng của Uỷ ban trọng tài. Thực tế, Bị đơn không hoàn toàn phản đối quan điểm này, bởi Bị đơn đã thừa nhận rằng Uỷ ban trọng tài có thể xem xét Quyết định của Bộ Công nghiệp và sau khi đã khẳng định giấy phép cho Bị đơn quyền sử dụng sáng chế miễn phí thì tuyên bố là Bị đơn không vi phạm Hợp đồng. Điều này cho thấy việc Bị đơn khước từ đưa tranh chấp ra trọng tài trên thực tế là sự khước từ một trong những giải pháp mà Uỷ ban trọng tài có thể đề xuất với Bị đơn. Nếu Uỷ ban trọng tài có thẩm quyền quyết định Bị đơn không vi phạm Hợp đồng, Uỷ ban trọng tài cũng có thẩm quyền đưa ra quyết định về các vi phạm hợp đồng khác.

Vì các lý do nêu trên, Uỷ ban trọng tài quyết định tranh chấp có thể đưa ra trọng tài và Uỷ ban trọng tài có thẩm quyền quyết định xem liệu Bị đơn có quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế theo Hợp đồng không và nếu ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế thì Bị đơn có vi phạm Hợp đồng không.

195

PHÁN QUYẾT SỐ 47

TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN THẾ QUYỀN TRONG

HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÍN DỤNG

Các bên:

Nguyên đơn : Ngân hàng (A)

Bị đơn : Người cung cấp bảo lãnh (B)

Các vấn đề được đề cập:

- Quyền khởi kiện của người được bảo hiểm

- Thế quyền

Tóm tắt vụ việc:

Ngân hàng A, Nguyên đơn, cho một công ty vay tiền để xây dựng nhà máy. Việc cho vay này được thực hiện trên cơ sở bảo lãnh trả của B, Bị đơn. Hợp đồng vay qui định luật áp dụng là luật Pháp.

Sau đó A ký một hợp đồng bảo hiểm tín dụng với COFACE (Công ty bảo hiểm ngoại thương Pháp) theo đó COFACE cam kết sẽ thanh toán cho A tiền bảo hiểm là x% trị giá khoản vay khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm (tức là khi khoản vay không được trả đúng hạn và người bảo lãnh B từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình).

Trên thực tế, B đã từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình khi đến hạn. COFACE, vì thế, đã trả cho Ngân hàng A một khoản tiền là x% trị giá khoản vay theo đúng hợp đồng bảo hiểm tín dụng.

Ngân hàng A đã kiện B ra trọng tài yêu cầu B trả khoản tiền vay mà B đã đứng ra bảo lãnh.

Phán quyết của trọng tài:

(Phán quyết trọng tài trình bày dưới đây chỉ giải quyết vấn đề về quyền khởi kiện của Nguyên đơn)

Khi tố tụng trọng tài mới bắt đầu, Bị đơn, trên cơ sở tư vấn của người vay, đã đưa ra lập luận rằng Nguyên đơn không có quyền khởi kiện trong vụ việc này vì Nguyên đơn thực tế đã được COFACE thanh toán tiền bảo hiểm cho khoản vay. Nhưng trong quá trình tố tụng sau đó Bị đơn không hề nhắc lại lập luận này. Trong các bản giải trình và biện hộ của mình, Bị đơn chỉ nêu rằng Nguyên đơn không có quyền kiện đòi toàn bộ khoản vay được Bị đơn bảo lãnh mà chỉ có quyền kiện đòi phần tiền không được COFACE thanh toán bảo hiểm.

Tuy nhiên, căn cứ vào các sự kiện được viện dẫn và các chứng cứ do các bên đưa ra, uỷ ban trọng tài thấy rằng cần thiết phải giải quyết vấn đề: Nguyên đơn có quyền khởi kiện đòi Bị đơn thanh toán toàn bộ khoản vay hay không khi Nguyên đơn đã được

196

COFACE thanh toán tiền bảo hiểm là x% khoản vay được bảo lãnh, tính cả vốn lẫn lãi? (Liệu ở đây quyền khởi kiện của Nguyên đơn có bị chuyển sang cho COFACE theo nguyên tắc thế quyền trong bảo hiểm hay không?)

Điều L.121-12 Bộ luật bảo hiểm Pháp qui định: người bảo hiểm, sau khi đã trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm, được thay thế người được bảo hiểm trong việc đòi và khởi kiện (gọi là thế quyền) đối với khoản nợ tương đương với khoản tiền bảo hiểm mà người bảo hiểm đã thanh toán cho người được bảo hiểm. Qui định về thế quyền này là một trong các qui tắc cơ bản của luật về bảo hiểm và đã được khẳng định trong nhiều phán quyết của Toà Phá án Pháp.

Trong vụ việc này, hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa Ngân hàng A và COFACE. COFACE là một công ty nhà nước hoạt động với mục đích hỗ trợ các nhà xuất khẩu thông qua việc cung cấp các bảo đảm tín dụng cho các khoản vay trung hạn trong một số giao dịch có tầm quan trọng nhất định. COFACE bảo hiểm cho các nhà xuất khẩu đối với các rủi ro xảy ra khi nhà xuất khẩu không thu được tiền từ đối tác của mình. Thực tế, COFACE không bảo hiểm toàn bộ rủi ro mà chỉ bảo hiểm một số phần trăm nhất định của rủi ro. Điều này phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm buộc người được bảo hiểm phải có sự cẩn trọng tối thiểu khi tiến hành các giao dịch và có trách nhiệm giảm thiểu thiệt hại khi có rủi ro xảy ra. Hợp đồng mà COFACE ký với Ngân hàng A thể hiện đầy đủ các qui tắc hoạt động nói trên của COFACE và được xác định là một Hợp đồng bảo hiểm tín dụng.

Theo khoản 3 Điều L.111-1 Bộ luật bảo hiểm, các hợp đồng bảo hiểm tín dụng không thuộc phạm vi áp dụng của Điều L.112-12 qui định về việc thế quyền của người bảo hiểm đối với người được bảo hiểm. Như vậy, trong vụ việc này, việc thế quyền không được áp dụng một cách đương nhiên theo qui định tại Điều L.112-12. Để xác định có tồn tại thế quyền trong vụ việc này hay không, và nếu có thì thế quyền cần phải được hiểu như thế nào, trọng tài phải dựa trên các căn cứ khác sẽ được xem xét lần lượt dưới đây.

Thứ nhất, Điều XV Hợp đồng qui định: bất kỳ việc thanh toán tiền bảo hiểm nào do COFACE thực hiện đều dẫn tới hệ quả là COFACE được thay thế người được bảo hiểm trong việc thực hiện quyền đòi và khởi kiện đòi khoản tiền vay được bảo hiểm, các khoản lãi và các khoản tiền khác có liên quan đến khoản vay chính. Như vậy, trong trường hợp này, thế quyền giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm sau khi tiền bảo hiểm đã được thanh toán là hoàn toàn rõ ràng: khoản tiền bảo hiểm đã được thanh toán trước khi tố tụng trọng tài này bắt đầu, COFACE là người thụ hưởng duy nhất của x% khoản tiền nợ phát sinh từ hợp đồng cho vay của Ngân hàng và Ngân hàng A chỉ còn quyền khởi kiện đối với y% còn lại của khoản nợ này.

Thứ hai, Bộ luật bảo hiểm cũng như các điều khoản trong Hợp đồng bảo hiểm có những qui định cho thấy việc thế quyền không phải là tuyệt đối (tức là ngay cả khi có thế quyền, người bảo hiểm lẫn người được bảo hiểm vẫn có những quyền và nghĩa vụ liên quan chặt chẽ với nhau). Điều A.432-5 Bộ luật bảo hiểm qui định mọi khoản tiền

197

thu được (từ phía người có nghĩa vụ trả tiền) sau khi tiền bảo hiểm đã được thanh toán phải được phân chia cho người bảo hiểm và người được bảo hiểm theo tỷ lệ bảo hiểm qui định trong hợp đồng; tuy nhiên điều khoản này không xác định rõ trong số hai chủ thể này, ai là người có quyền đòi (hoặc kiện đòi) khoản nợ đó. Điều XII Các Điều kiện chung của Hợp đồng qui định “COFACE phải chịu các chi phí xét xử, với tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ bảo hiểm, trong các thủ tục tố tụng được tiến hành để tránh hoặc hạn chế những thiệt hại phát sinh từ rủi ro được bảo hiểm”. Điều XIII Các Điều kiện chung qui định rằng việc thanh toán tiền bảo hiểm phụ thuộc vào việc thực hiện các quyền gắn liền với khoản nợ được bảo hiểm của Người được bảo hiểm. Qui định này phù hợp với Điều 21 của Hợp đồng theo đó “Người được bảo hiểm (dù đã thế quyền cho Người bảo hiểm) vẫn có trách nhiệm tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết đề đòi lại khoản nợ của mình và cam kết tuân thủ các chỉ dẫn của COFACE liên quan đến vấn đề này. Việc thanh toán tiền bảo hiểm không giải phóng Người được bảo hiểm khỏi các nghĩa vụ đã nêu trong Hợp đồng bảo hiểm”. Từ các điều khoản này có thể thấy người được bảo hiểm sau khi đã nhận tiền bảo hiểm vẫn có quyền và tư cách khởi kiện đòi trả nợ.

Thứ ba, theo một án lệ của Toà Phá án Pháp trong phán quyết ban hành ngày 17 tháng 12 năm 1985, không một qui định nào trong hệ thống pháp luật hiện nay buộc người thế quyền phải tự mình thực hiện các quyền mà anh ta có và người thế quyền có thể để cho người được thế quyền thực hiện các quyền này. Việc thanh toán tiền bảo hiểm không giải phóng người vay nợ (người phải thanh toán khoản nợ được bảo hiểm) khỏi nghĩa vụ của mình. Như vậy, trong vụ việc này, COFACE hoàn toàn có thể để cho Ngân hàng thay mình kiện đòi toàn bộ khoản nợ. Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi tiền nợ trong trường hợp này là một khoản vay trung hạn và Ngân hàng rõ ràng là có lợi thế hơn COFACE trong việc quản lý và theo dõi hồ sơ của việc vay nợ.

Thứ tư, Điều 10 Hợp đồng bảo hiểm có qui định “Khi COFACE không muốn tự mình tiến hành khởi kiện chống lại người có nghĩa vụ trả nợ, Người được bảo hiểm cam kết thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết và hợp lý để bảo vệ các quyền lợi của mình và đảm bảo việc thanh toán khoản tiền được bảo hiểm với sự chấp thuận và theo các chỉ dẫn của COFACE”. Với điều khoản này, có thể nói rằng trước khi tố tụng trọng tài được bắt đầu, COFACE đã uỷ quyền một cách minh bạch cho Ngân hàng tiến hành khởi kiện ra trọng tài theo đúng qui định tại hợp đồng để thu hồi lại toàn bộ khoản nợ. Tuy nhiên, COFACE vẫn bảo lưu quyền được đưa ra những chỉ dẫn cần thiết cho Ngân hàng A và quyền được thông báo về tiến trình tố tụng trọng tài. Như vậy, việc Ngân hàng A thay thế cho COFACE khởi kiện đòi Bị đơn toàn bộ khoản nợ là hoàn toàn phù hợp với thoả thuận uỷ nhiệm khiếu kiện giữa Ngân hàng và COFACE.

Thứ năm, về mặt nguyên tắc, khi có tranh chấp phát sinh giữa Người được bảo hiểm (ở đây là Ngân hàng A) và đối tác của họ (người vay nợ), Người bảo hiểm (COFACE) sẽ phải ngừng việc thanh toán tiền bảo hiểm cho đến khi tranh chấp liên quan được giải quyết xong (theo thủ tục giải quyết tranh chấp qui định tại hợp đồng vay nợ) và Người được bảo hiểm được thừa nhận là người thụ hưởng của khoản tiền vay đó

198

(Phán quyết ngày 9 tháng 11 năm 1988, Toà Phúc thẩm Paris). Tuy nhiên, Người bảo hiểm vẫn có thể thanh toán một phần tiền bảo hiểm với điều kiện Người được bảo hiểm cam kết sẽ trả lại cho Người bảo hiểm khoản tiền bảo hiểm đã nhận nếu cơ quan xét xử (trọng tài hoặc toà án) ra quyết định bác bỏ yêu cầu của Người được bảo hiểm đối với khoản nợ bị tranh chấp. Do đó, trong vụ việc này, việc COFACE đã thanh toán tiền bảo hiểm cho Ngân hàng không vi phạm nguyên tắc ngừng thanh toán vì có tố tụng giải quyết tranh chấp.

Từ các căn cứ nêu trên, uỷ ban trọng tài kết luận: trong vụ việc này, Nguyên đơn hoàn toàn có tư cách pháp lý và có quyền lợi để khởi kiện đòi Bị đơn toàn bộ khoản vay, lãi và các khoản tiền khác liên quan đến khoản vay đó.

199

PHÁN QUYẾT SỐ 48

TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

THANH TOÁN TIỀN HÀNG

Các bên:

Nguyên đơn : Một ngân hàng Bỉ (X)

Một công ty Pháp (Y)

Bị đơn : Hãng bảo hiểm (Z)

Các vấn đề được đề cập:

- Quyền khởi kiện

- Luật áp dụng cho hợp đồng

- Bảo hiểm thông thường hay bảo hiểm tín dụng?

- Sự kiện bảo hiểm và tính không lường trước được của hợp đồng bảo hiểm

- Tình trạng phá sản của một bên trong tố tụng trọng tài

Tóm tắt vụ việc:

Công ty Y ký hợp đồng bán nguyên vật liệu cho một người mua châu Phi. Hai bên thoả thuận tiền hàng phải được thanh toán bằng tín dụng chứng từ không huỷ ngang, có xác nhận, trong đó quy định trả 90% giá trị lô hàng sau mỗi lần giao hàng, 10% còn lại sẽ thanh toán khi bên bán xuất trình "Các thư giải phóng hàng" mà người mua phải phát hành 60 ngày sau khi chuyến hàng cuối cùng về đến điểm giao hàng. Việc mua bán này được thực hiện bằng nguồn tài chính của ngân hàng Bỉ (X).

Một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết giữa X, Y và hãng bảo hiểm Z theo đó Z cam kết trả cho người bán khoản bảo hiểm trong trường hợp người mua không thanh toán 10% giá trị lô hàng khi các chứng từ lấy hàng đã được xuất trình. Thời gian bảo hiểm kéo dài từ ngày 1 tháng 11 năm 1988 đến ngày 31 tháng 3 năm 1989 và thời hạn đòi thanh toán tiền bảo hiểm là 510 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm. Theo bản Phụ lục của Hợp đồng, ngân hàng X, người sẽ trực tiếp trả phí bảo hiểm, sẽ được hưởng tiền bảo hiểm.

Ngày 2/2/1989, công ty Y thông báo cho hãng bảo hiểm Z rằng việc dỡ hàng của chuyến tàu cuối cùng đã thực hiện vào ngày 26/11/1988 mà công ty này vẫn chưa nhận được " Các thư giải phóng hàng" đáng ra đã phải được ký phát chậm nhất là vào ngày 25/1/1989 tức là 60 ngày sau khi dỡ lô hàng cuối cùng để người bán có thể nhận được khoản thanh toán 10% còn lại. Công ty Y cũng thông báo cho hãng bảo hiểm Z rằng họ đã và đang tiến hành xác minh việc không thanh toán này tại nước của người mua và qua ngân hàng đã xác nhận tín dụng chứng từ nói trên. Hãng bảo hiểm Z trả lời rằng họ

200

đã ghi nhận việc "Các thư giải phóng hàng" vẫn chưa được ký phát và họ chờ đợi kết quả tiếp theo của vụ việc.

Sau đó, hãng Z nhận thấy rằng công ty Y đã thoả thuận với khách hàng của mình kéo dài thêm thời hạn tín dụng đến ngày 31/5/1989 mà không có sự đồng ý của hãng Z và thời hạn của hợp đồng bảo hiểm vì thế cũng bị ảnh hưởng. Trên cơ sở các căn cứ chấm dứt bảo hiểm, hãng Z cho rằng mình được giải phóng khỏi trách nhiệm bảo hiểm.

Ngân hàng X (với tư cách là người kiện chính) và Công ty Y (với tư cách là người kiện phụ trợ5) đã kiện ra trọng tài yêu cầu Hãng Z trả tiền bảo hiểm như thoả thuận.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về tư cách khởi kiện của công ty Y:

Trong bản giải trình gửi cho trọng tài, các bên bị đơn đã đề nghị trọng tài xem xét tính hợp pháp của quyền khởi kiện của bên nguyên thứ hai. Trọng tài cho rằng yêu cầu này là hợp lý và chấp nhận xem xét giải quyết.

Phụ lục của hợp đồng bảo hiểm ký ngày 30 tháng 11 năm 1988 quy định : "theo đề nghị của người được bảo hiểm, quyền hưởng bảo hiểm khi sự cố xảy ra sẽ được chuyển cho ngân hàng X" ; Phụ lục này đã được cả Y, Z và X ký.

Công ty Y không lập luận rằng các bên đã thoả thuận một phụ lục mới thay đổi nội dung bản phụ lục ký ngày 30 tháng 11 năm 1988, cũng không khẳng định mình được ngân hàng chấp thuận cho lấy lại quyền nhận tiền bảo hiểm. Trong khi đó khiếu kiện của ngân hàng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là đòi hãng Z trả bảo hiểm đã quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Công ty Y cũng không đưa ra được một chứng cứ pháp lý nào chứng minh cho lập luận về tư cách "nguyên đơn bổ trợ" mà Nguyên đơn đã đưa ra bởi vì chính Ông ...., cán bộ phụ trách thủ tục phá sản của công ty Y, đại diện công ty này, đã viết rằng khoản tiền bồi thường trị giá ... phải được trả cho ngân hàng X, đơn vị đã cấp tín dụng cho khoản tiền 10% còn lại của hợp đồng bán hàng.

Do đó, trọng tài kết luận rằng công ty Y không có quyền khởi kiện và vì vậy bác đơn kiện của công ty Y.

2. Về bản chất của hợp đồng bảo hiểm:

Các bên có quan điểm khác nhau về bản chất của Hợp đồng bảo hiểm mà các bên đã ký kết. Đối với các Nguyên đơn, đó là một hợp đồng bảo hiểm thông thường và được điều chỉnh bởi Bộ luật Bảo hiểm Pháp, trong khi đó Bị đơn lại coi đây là một Bảo hiểm tín dụng :

Hợp đồng bảo hiểm, phần Mở đầu của Các Điều kiện chung qui định : "hợp đồng bảo hiểm này được điều chỉnh bởi Luật của quốc gia thuộc Cộng đồng chung Châu Âu được nêu trong phần Các Điều kiện đặc biệt". Trong Các Điều kiện đặc biệt này có một 5 Tạm dịch từ thuật ngữ tiếng Pháp "demandeur à titre subsidiaire"

201

điều khoản trọng tài trong đó qui định một cách chung chung là luật của Pháp sẽ là luật áp dụng cho hợp đồng. Không một quy định nào trong các Điều kiện chung hay Điều kiện đặc biệt dẫn chiếu cụ thể đến Bộ luật Bảo hiểm hay một quy định pháp quy khác của hệ thống luật Pháp.

Tuy nhiên, khoản cuối của Điều 1 phần Các Điều kiện chung có quy định: "Các văn bản sau đây là bộ phận không tách rời của Hợp đồng bảo hiểm : bản hợp đồng này, các phụ lục của Các Điều kiện chung, các Điều kiện đặc biệt và bản hỏi đáp đã được người đề nghị bảo hiểm điền và ký tên trong đó có gắn kèm hợp đồng thương mại".

Tại trang 10 của bản hỏi đáp do hãng Z lập và công ty Y ký tên có đoạn lưu ý người ký rằng việc khai không chính xác "tuỳ từng trường hợp có thể dẫn đến những hình thức phạt quy định trong các Điều L.113-8 và L.113-9 Bộ luật Bảo hiểm". Chứng cứ này do các bên Nguyên đơn đưa ra và được uỷ ban trọng tài chấp nhận.

Do bản hỏi đáp này là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm nên rõ ràng là hợp đồng này thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật Bảo hiểm mà Bị đơn buộc phải tuân thủ. Do đó, không nhất thiết phải xem xét thêm vấn đề liệu các bên trong hợp đồng có thoả thuận ký kết một hợp đồng bảo hiểm tín dụng theo định nghĩa của Jean Bastin (mà cả hai bên đương sự cùng viện dẫn) hay không. (Jean Bastin định nghĩa như sau: bảo hiểm tín dụng là "một hệ thống bảo hiểm cho phép các chủ nợ có thể thu hồi được các khoản nợ, thông qua khoản tiền bảo hiểm, trong trường hợp những người có nghĩa vụ trả nợ đã nêu đang trong tình trạng mất khả năng thanh toán và do đó không thể thanh toán được khoản nợ").

Theo điều II của Các điều kiện chung của Hợp đồng bảo hiểm, tất cả các thiệt hại phát sinh trực tiếp hay gián tiếp từ: "sự mất khả năngtài chính của người được bảo hiểm hay của người mua/người bán của người được bảo hiểm" không thuộc phạm vi được bảo hiểm. (Theo qui định của hợp đồng bảo hiểm, việc thanh toán bảo hiểm sẽ được thực hiện nếu bên bán không được thanh toán số tiền hàng 10% còn lại do lỗi của người mua hàng không thực hiện nghĩa vụ ký phát các chứng từ lấy hàng). Điều này trái với định nghĩa của Jean Bastin về bảo hiểm tín dụng nên có thể kết luận bản hợp đồng ký kết giữa Nguyên đơn và Bị đơn năm 1988 không phải là một bảo hiểm tín dụng. Và vì thế không cần phải xem xét lập luận của Bị đơn rằng trong trường hợp này tồn tại sự mất khả năng thanh toán và rằng đây là trường hợp được loại trừ khỏi việc bảo hiểm.

Trọng tài kết luận rằng Hợp đồng bảo hiểm này được điều chỉnh bởi Bộ luật Bảo hiểm và tất cả các điều kiện chung và điều kiện đặc biệt quy định trong Hợp đồng đó.

3. Về nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm:

Bị đơn lập luận rằng mình không có bất cứ một nghĩa vụ nào đối với bên Nguyên đơn vì lý do trên thực tế phí baỏ hiểm chỉ được thanh toán vào ngày 8/2/1989, tức là sau khi xảy ra sự kiện bảo hiểm (tiền hàng không được thanh toán do người mua Châu Phi không ký phát các chứng từ cần thiết để người bán nhận tiền hàng) vào ngày 26/1/1989.

202

Nguyên đơn thừa nhận rằng đúng là theo Điều V của Các Điều kiện chung của Hợp đồng bảo hiểm, Hợp đồng này ‘chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm thanh toán phí bảo hiểm’. Tuy nhiên, phần Các Điều kiện đặc biệt lại quy định rằng "dù cho ngày có hiệu lực theo qui định tại Các Điều kiện đặc biệt này là ngày nào, việc bảo hiểm chỉ được thực hiện nếu bên được bảo hiểm đã trả phí bảo hiểm. Nếu phí bảo hiểm không được trả, người bảo hiểm có quyền huỷ hợp đồng mà vẫn bảo lưu quyền đòi phí bảo hiểm".

Theo uỷ ban trọng tài, các Nguyên đơn đã rất có lý khi dẫn chiếu đến điều khoản này của Các Điều kiện đặc biệt, bởi vì Hợp đồng bảo hiểm quy định rõ rằng ‘trong trường hợp có sự bất đồng trong cách hiểu’, thì Các Điều kiện đặc biệt sẽ có hiệu lực ưu tiên hơn tất cả các quy định khác của Hợp đồng. Như vậy, Các Điều kiện đặc biệt sẽ là cơ sở để trọng tài xem xét giải quyết bất đồng này của các bên.

Uỷ ban trọng tài thừa nhận đây là một điều khoản không mấy rõ ràng. Tuy nhiên điều khoản này không thể được hiểu là cho phép người được bảo hiểm chỉ trả tiền phí bảo hiểm sau khi đã xảy ra sự kiện được bảo hiểm; điều khoản này chỉ có thể được hiểu một cách thiện chí và trung thực, phù hợp với ý chí của các bên, là có thể trả phí bảo hiểm sau ngày hợp đồng có hiệu lực, tức là sau ngày 10 tháng 11 năm 1988, thời điểm bắt đầu thời hạn bảo hiểm, nhưng phải trước ngày xảy ra sự kiện được bảo hiểm. Bản chất của hợp đồng bảo hiểm là tính không thể dự đoán trước. Điều này cũng được Nguyên đơn thừa nhận. Nếu các Nguyên đơn được phép thanh toán phí bảo hiểm sau khi sự kiện được bảo hiểm đã xảy ra thì rõ ràng là hợp đồng bảo hiểm mất đi tính chất "không thể dự đoán trước được" này.

Do vậy, trọng tài cho rằng : phí bảo hiểm được thanh toán vào ngày 7/2/1989, sau khi thời hạn 2 tháng để người mua ký phát các chứng từ lấy hàng đã kết thúc (vào ngày 25/1/1989), tức là sau thời điểm xuất hiện sự kiện được bảo hiểm, do đó Bị đơn không có nghĩa vụ thực hiện việc bảo hiểm, và khiếu kiện của các Nguyên đơn là không có căn cứ.

4. Về trách nhiệm nộp phí trọng tài:

Khi đơn kiện bị bác thì phí trọng tài và các phí khác đương nhiên sẽ do các nguyên đơn trả. Tuy nhiên, việc Y đang trong giai đoạn tiền phá sản đặt ra một vấn đề đặc biệt mà trọng tài xử lý như sau :

Các Nguyên đơn hoàn toàn không có cơ sở khởi kiện yêu cầu Bị đơn thanh toán tiền bảo hiểm, do đó, phải chịu trách nhiệm trả toàn bộ phí trọng tài. Tuy nhiên, vì Nguyên đơn Y đang trong giai đoạn tiến hành thủ tục phá sản nên uỷ ban trọng tài không thể buộc các Nguyên đơn trả các phí xét xử (Phán quyết của Toà Dân sự Toà Phá án ngày 8 tháng 3 năm 1988 trong vụ Công ty Thinet kiện Labrely, Tạp chí Trọng tài năm 1989, trang 473).

Do đó, uỷ ban trọng tài quyết định các Nguyên đơn (X và Y) phải chịu trách nhiệm chung và liên đới đối với toàn bộ phí trọng tài nhưng không ra quyết định buộc các Nguyên đơn phải trả ngay khoản phí này.

203

ý kiến bảo lưu:

1. Về quyền khởi kiện của Công ty Y:

Đây là một trường hợp ít gặp trong thực tiễn xét xử: trong số hai nguyên đơn, một người hành động với tư cách là nguyên đơn phụ trợ trong khi nguyên đơn chính lại đưa ra một khiếu kiện hoàn toàn không có cơ sở.

Thực tế trong vụ việc này, chính Công ty Y và Ngân hàng X cũng lưỡng lự về quyền khởi kiện đòi người bảo hiểm thanh toán tiền bảo hiểm mà hai chủ thể này tin là họ có quyền được hưởng sau khi người mua không thanh toán tiền hàng.

Ngân hàng, người được bảo hiểm và người bảo hiểm trên thực tế đều nhất trí rằng trong trường hợp có sự cố, tiền bồi thường sẽ được trả trực tiếp cho ngân hàng. Điều này thể hiện sự cẩn trọng hợp lý của bên cấp tài chính, người đã ứng trước số tiền mà bên mua phải trả cho bên bán. Qui định này thường đi đôi với việc chuyển cho ngân hàng quyền thụ hưởng đối với tín dụng chứng từ mà người mua phát hành để thanh toán tiền hàng. Nhưng, trong một trường hợp như thế này, việc chuyển dịch đó có dẫn tới việc chuyển dịch luôn quyền khởi kiện không ? Liệu đây có thể được coi là một hình thức thế quyền (tương đối hoặc tuyệt đối), một trường hợp ký kết hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba hay một uỷ nhiệm thanh toán (giữa Y và X) như qui định tại Điều 1277 Bộ luật Dân sự Pháp không?

Do còn phân vân về điều này nên ngân hàng và người được bảo hiểm đã cùng khởi kiện, để cho trọng tài quyết định xem việc khởi kiện của ai là hợp lý, đơn kiện của ngân hàng với tư cách là bên khởi kiện chính hay đơn của người Công ty Y với tư cách là bên khởi kiện phụ trợ. Trọng tài rõ ràng đã chọn phương án đầu tiên, bởi vì họ cho rằng giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm không còn mối quan hệ hợp đồng nữa.

Cách giải quyết này của uỷ ban trọng tài gây nhiều tranh cãi bởi việc ký kết một hợp đồng bảo hiểm cho bên thứ ba hưởng lợi vốn được coi như là một hình thức ký kết hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba (Xem H.L. và J. Mazeaud, F. Chabas Giáo trình Luật dân sự, Tập 2: Nghĩa vụ, trang 907), tức là người ký hợp đồng bảo hiểm vẫn được coi là một bên trong hợp đồng dù không được nhận tiền bảo hiểm, và do đó người ký bảo hiểm vẫn có quyền kiện người bảo hiểm nếu có tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm. Nhưng đúng là sự khác nhau giữa hình thức thế quyền và ký hợp đồng vì quyền lợi của người thứ ba là rất nhỏ, thế quyền tồn tại khi "khi bên thứ ba tham gia vào việc ký kết hợp đồng vì lợi ích của mình và chấp nhận việc hưởng lợi bắt đầu từ thời điểm ký kết đó" (Giáo trình luật Dân sự đã dẫn, trang 1270). Điều này đã xảy ra trong vụ việc đang xét bởi chính ngân hàng đã tham gia vào việc ký kết hợp đồng bảo hiểm cùng với công ty Y và hãng bảo hiểm Z đồng thời cam kết sẽ tự mình trả phí bảo hiểm. Do đó, người được bảo hiểm ban đầu đã mất hoàn toàn mọi quyền khởi kiện đối với người bảo hiểm.

2. Hợp đồng bảo hiểm thông thường hay Bảo hiểm tín dụng?

204

Trong khoản 3, Điều L.111-1 của Bộ luật Bảo hiểm có quy định rằng ba đề mục đầu tiên của quyển I Bộ luật Bảo hiểm, liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, không áp dụng cho các giao dịch về bảo hiểm tín dụng.

Để quyết định rằng hợp đồng bảo hiểm đang xem xét này không phải là một hợp đồng bảo hiểm tín dụng, trong khi nó rất giống như vậy, trọng tài đã phải tiến hành hai bước:

Thứ nhất, xác định xem luật nào trong bản thân hệ thống pháp luật nội địa của Pháp có thể áp dụng cho hợp đồng đang xét (điều này có vẻ hơi lạ vì thông thường việc lựa chọn luật áp dụng chỉ được tiến hành khi có xung đột pháp luật giữa hai hay nhiều nước). Trọng tài đã quyết định rằng bản hợp đồng này được điều chỉnh bởi Bộ luật Bảo hiểm bởi vì các bên muốn như vậy chứ không xác định bản chất của hợp đồng trên cơ sở các đặc điểm của hoạt động bảo hiểm mà các bên thoả thuận. Mong muốn này của các bên được thể hiện thông qua việc dẫn chiếu đến hai điều khoản của Bộ luật Bảo hiểm trong bản hỏi đáp mẫu và là một bộ phận không tách rời của hợp đồng bảo hiểm, hoàn toàn giống như từ việc một số điều khoản của Bộ luật dân sự Pháp được nêu lên trong một bản hợp đồng quốc tế, một trọng tài có thể suy đoán là các bên muốn dùng luật của Pháp để điều chỉnh hợp đồng đó. Việc làm này của trọng tài nhằm xác định ý chí của các bên là hoàn toàn đúng đắn, nhưng liệu trong một hệ thống pháp luật nội địa các bên vẫn có quyền tự do lựa chọn áp dụng luật này hay luật khác để áp dụng cho hợp đồng của mình giống như trong một hợp đồng quốc tế không? Trong hệ thống pháp luật nội địa, quan hệ hợp đồng do các bên thiết lập phải tuân thủ các qui phạm bắt buộc không phụ thuộc vào việc xác định bản chất của quan hệ đó. Vì vậy, việc các bên tự thoả thuận trước với nhau về bản chất của quan hệ hợp đồng phải hết sức thận trọng. Tuy nhiên, trong phán quyết này, các trọng tài lại cho điều này là thứ yếu và từ việc phân tích hợp đồng bảo hiểm bị tranh chấp, uỷ ban trọng tài đã đi đến kết luận rằng đây không phải là một bảo hiểm tín dụng. Quan niệm về hợp đồng tín dụng của trọng tài theo đó bảo hiểm tín dụng chỉ giới hạn ở các hợp đồng bảo hiểm khi người phải thanh toán nợ mất khả năng thanh toán có vẻ là quá hẹp. Trong vụ việc này uỷ ban trọng tài đã đi đến kết luận rằng hợp đồng phải được điều chỉnh bởi Bộ luật bảo hiểm Pháp. Nhưng liệu kết luận này của trọng tài có cần thiết không khi thực ra một hợp đồng bảo hiểm tín dụng vẫn có thể thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Bảo hiểm Pháp, hoặc chính xác hơn là một phần của Bộ luật này (trừ phần không áp dụng cho bảo hiểm tín dụng).

3. Về tính không thể dự đoán trước của hợp đồng bảo hiểm:

Trọng tài khẳng định chắc chắn rằng hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng không thể dự đoán trước được (việc thực hiện bảo hiểm phụ thuộc vào sự xuất hiện của sự kiện được bảo hiểm). Tuy nhiên tính chất này không phải là tuyệt đối, ít nhất là từ phía người bảo hiểm bởi khi nhận bảo hiểm người bảo hiểm phải có những số liệu thống kê và những tính toán về xác suất xảy ra sự cố làm căn cứ để tính phí bảo hiểm (CF. J. Carbonnier, Luật dân sự, T.4, số 11, trang 38).

Tuy vậy, nếu so với các loại hợp đồng khác thì rõ ràng là trong hợp đồng bảo

205

hiểm, yếu tố ngẫu nhiên có vai trò quan trọng và do đó tính không thể dự đoán trước vẫn được coi là một đặc tính của loại hợp đồng này. Vì thế quan điểm cho rằng người thụ hưởng bảo hiểm có thể làm cho hợp đồng có hiệu lực sau khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm bằng cách thanh toán phí bảo hiểm là không thể chấp nhận được. Trong trường hợp này, yếu tố ngẫu nhiên không còn tồn tại đối với người được bảo hiểm cũng như đối với người bảo hiểm.

4. Về quyết định liên quan đến việc nộp phí trọng tài:

Khi một bên tham gia vụ kiện mà đang trong giai đoạn tiến hành các thủ tục phá sản, bên đó không thể bị các trọng tài buộc thanh toán một khoản tiền. Như P. Ancel đã nhấn mạnh trong phần nhận định của mình tại bản án của Toà Phá án ngày 8 tháng 3 năm 1988 (Tài liệu đã dẫn, trang 473) và được uỷ ban trọng tài nhắc lại trong phán quyết của mình, khi một bên đương sự đang trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản, quyết định của trọng tài về một khoản nợ đối với bên đó (trong vụ việc này là khoản phí trọng tài) chỉ có thể quyết định trên nguyên tắc và xác định về mức tiền, chứ không bắt buộc phải thanh toán. Toà Phá án trên thực tế đã cho rằng nguyên tắc về việc hoãn các khoản truy nợ đối với cá nhân do phá sản không chỉ là trật tự công cộng quốc gia mà còn là một nguyên tắc của trật tự công cộng quốc tế. Do đó, có thể nói cách giải quyết của các trọng tài viên trong trường hợp này là hoàn toàn đúng về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, điểm khác biệt trong quyết định này là ở chỗ trọng tài đã quyết định rằng phí trọng tài sẽ thuộc trách nhiệm chung và liên đới giữa công ty Y và Ngân hàng X và không quyết định về việc phải thanh toán phí này vì có vấn đề thủ tục phá sản. Quyết định này của trọng tài cũng gây tranh cãi bởi trong số hai nguyên đơn, Ngân hàng X không ở trong tình trạng phá sản, như vậy liệu việc Ngân hàng X cũng được đối xử như Công ty Y có phải là công bằng không?

206

PHÁN QUYẾT SỐ 49

TRANH CHẤP TRONG LIÊN DOANH

Các bên:

Nguyên đơn : Một công ty Trung Quốc

Bị đơn : Một công ty Pháp

Các vấn đề được đề cập:

- Thành lập một phòng ban trong Liên doanh

- Hành động của Chủ tịch Hội đồng quản trị mà không có sự nhất trí của toàn bộ thành viên Hội đồng quản trị

- Thiệt hại

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 16 tháng 5 năm 1992, Nguyên đơn, Bị đơn và hai bên khác ký hợp đồng Liên doanh thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Thượng Hải chuyên sản xuất quần áo. Văn bản chấp thuận thành lập Liên doanh được ban hành ngày 21 tháng 5 năm 1992 và giấy phép kinh doanh được cấp ngày 2 tháng 6 năm 1992. Ngày 25 tháng 8 năm 1992, Liên doanh bắt đầu hoạt động.

Ngày 15 tháng 10 năm 1992, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Liên doanh, một thành viên Hội đồng quản trị do Bị đơn chỉ định và một số người khác đến Phòng kinh doanh của Liên doanh lấy đi giắc cắm điện thoại và tuyên bố Liên doanh ngừng hoạt động để tiến hành một số điều chỉnh. Họ cũng niêm phong két an toàn và ba ngăn kéo bên trái bàn làm việc của nhân viên phụ trách tài chính, giữ chìa khoá ô tô của Liên doanh và bằng lái xe của người lái xe. Sáng ngày 16 tháng 10 năm 1992, Chủ tịch Hội đồng quản trị cử đại diện đến ngân hàng để đóng tài khoản của Liên doanh nhưng đã bị ngân hàng từ chối. Ngày hôm sau, tài khoản của Liên doanh ở Chi nhánh Thượng Hải - Ngân hàng Đầu tư Trung Quốc đã bị đóng. Vì vậy, mọi hoạt động của Liên doanh bị ngừng lại.

Nguyên đơn kiện Bị đơn vi phạm hợp đồng và gây thiệt hại 960.000 Nhân dân tệ cho Liên doanh. Theo Điều 43 của Hợp đồng Liên doanh, bất kỳ bên nào cản trở việc thực hiện các điều khoản hợp đồng và các phụ lục kèm theo sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng. Điều 54 của Điều lệ Liên doanh quy định Nguyên đơn được hưởng lợi nhuận từ hoạt động của liên doanh theo tỷ lệ đóng góp vào vốn điều lệ của Liên doanh, tức 15% lãi thu được của Liên doanh. Vì vậy, hành vi của Bị đơn gây thiệt hại cho Nguyên đơn 144.000 Nhân dân tệ và Nguyên đơn đã kiện Bị đơn ra Văn phòng Thượng Hải của Uỷ ban trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế Trung Quốc (CIETAC) theo Điều 46 của Hợp đồng Liên doanh yêu cầu:

1. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 144.000 Nhân dân tệ.

207

2. Phí trọng tài do Bị đơn chịu.

3. Bị đơn phải trả 3.700 Nhân dân tệ chi phí pháp lý.

Bị đơn lập luận rằng Phòng kinh doanh của Liên doanh thực tế đã được Tổng giám đốc và một thành viên Hội đồng quản trị thành lập một cách bất hợp pháp. Tổng giám đốc và thành viên Hội đồng quản trị đó đều do Nguyên đơn chỉ định. Việc thành lập Phòng kinh doanh không chỉ vi phạm Hợp đồng Liên doanh, Điều lệ Liên doanh mà còn vi phạm các bộ luật và quy định thương mại và công nghiệp của Trung Quốc. Hơn nữa, hành động của Chủ tịch Hội đồng quản trị Liên doanh (do chính Nguyên đơn chỉ định) vào ngày 15 tháng 10 năm 1992 và những ngày sau đó không phải chỉ là hành động đơn phương của Bị đơn. Hành động này được tiến hành theo quyết định chung của năm thành viên Hội đồng quản trị trên cơ sở yêu cầu khẩn cấp của hơn 1/3 số thành viên Hội đồng quản trị. Quyết định này của các thành viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Liên doanh (tất cả những người này đều do Bị đơn chỉ định) được đưa ra do họ đã bị mua chuộc và vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ được giao. Những hành vi này của họ gây tổn thất cho Liên doanh nhưng đã được thực hiện và được Hội đồng quản trị phê chuẩn sau đó bằng quyết định ngày 21 tháng 10 năm 1992.

Phán quyết của trọng tài:

1. Phòng kinh doanh của Liên doanh là một bộ phận nội tại chứ không phải là một chi nhánh của Liên doanh. Theo Quy định về quản lý thương mại và công nghiệp và ý kiến của Sở thương mại và công nghiệp Thượng Hải, không cần thẩm tra, phê chuẩn và cũng không cần đăng ký với sở thương mại và công nghiệp địa phương khi thành lập một phòng ban của Liên doanh.

2. Hành động của Chủ tịch Hội đồng quản trị do Nguyên đơn chỉ định vào ngày 15 tháng 10 năm 1992 và những ngày sau đó không được toàn bộ hội đồng quản trị thông qua, mà chỉ được sự đồng ý của một số thành viên hội đồng quản trị. Sau đó, hành động này đã được thông qua bằng một nghị quyết của Hội đồng quản trị vào ngày 21 tháng 10 năm 1992 nhưng chỉ có một vài thành viên Hội đồng quản trị tham dự cuộc họp. Vì hành động đã không được toàn bộ thành viên Hội đồng quản trị thông qua nên nó hoàn toàn trái với các điều khoản trong Hợp đồng Liên doanh và Điều lệ Liên doanh.

3. Trong thời gian từ 28 tháng 8 năm 1992 (khi Liên doanh bắt đầu hoạt đồng) cho đến ngày bắt đầu tố tụng trọng tài, Liên doanh không chính thức sản xuất hay ký kết hợp đồng với bất kỳ khách hàng nào. Vì vậy, yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường 144.000 Nhân dân tệ không có đủ chứng cứ và đã bị Uỷ ban trọng tài bác.

4. Xét thấy cả Nguyên đơn và Bị đơn đều không yêu cầu huỷ Hợp đồng Liên doanh, Uỷ ban trọng tài đề nghị cả Nguyên đơn và Bị đơn và hai bên kia tuân thủ các điều khoản của Hợp đồng Liên doanh và Điều lệ Liên doanh, Luật Liên doanh với nước ngoài của Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Quy định về việc thi hành Luật Liên doanh với nước ngoài của Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, tất cả các vấn đề của Liên doanh phải được xem xét và quyết định bởi Hội đồng quản trị Liên doanh. Nếu

208

tranh chấp phát sinh thì phải báo cáo cho cơ quan chính phủ có liên quan hoặc giải quyết thông qua tư vấn hay hoà giải của bên thứ ba.

5. Phí trọng tài sẽ do cả Nguyên đơn và Bị đơn trả. Nguyên đơn trả 35% phí trọng tài và phần còn lại do Bị đơn trả.

6. Các loại chi phí pháp lý của Nguyên đơn sẽ do Nguyên đơn tự trả.

Phán quyết:

1. Bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi Bị đơn bồi thường 144.000 Nhân dân tệ.

2. Phí trọng tài do cả Nguyên đơn và Bị đơn trả. Nguyên đơn trả 35% phí trọng tài và phần còn lại do Bị đơn trả.

3. Bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi Bị đơn thanh toán về phí pháp lý.

Phán quyết này có giá trị chung thẩm.

209

PHÁN QUYẾT SỐ 50

TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC LỰA CHỌN TƯ PHÁP HAY CÔNG PHÁP LÀM LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG

Các bên:

Nguyên đơn : Người bán Italia

Bị đơn : Người mua Hàn Quốc

Các vấn đề được đề cập:

− Luật công quốc gia (public national law) và giá trị pháp lý của hợp đồng

− Luật điều chỉnh hợp đồng

− Quy tắc cạnh tranh của Cộng đồng châu Âu

Tóm tắt vụ việc:

Tranh chấp phát sinh sau khi "Hợp đồng cung cấp và mua hàng" có hiệu lực vào ngày 11 tháng 11 năm 1976. Thủ tục tố tụng trọng tài được tiến hành tại Toà án trọng tài ICC và Toà án này đã phê chuẩn việc chỉ định trọng tài viên duy nhất ở Hague.

Phán quyết này giải quyết hai vấn đề: sự thừa kế của Người bán Italia đối với các quyền và nghĩa vụ của một công ty đã sáp nhập với Người bán Italia và điều này đã được Bị đơn thừa nhận; yêu cầu của Người mua Hàn Quốc đề nghị uỷ ban trọng tài ra phán quyết tạm thời tuyên bố huỷ bỏ Hợp đồng năm 1976 do hợp đồng này không thể thực hiện được trên cơ sở luật công Hàn Quốc (Luật chống độc quyền, Luật giá cả và Luật thương mại công bằng).

Uỷ ban trọng tài cho rằng trong tố tụng trọng tài, công ty Italia là người thừa kế hợp pháp của công ty đã sáp nhập với nó và rằng Hợp đồng ngày 11 tháng 11 năm 1976 được điều chỉnh bởi luật tư pháp Hàn Quốc. Uỷ ban trọng tài đã bác yêu cầu tuyên bố Hợp đồng không thể thực hiện được và quyết định tiếp tục tố tụng trọng tài.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về khả năng áp dụng luật công pháp của Hàn Quốc cho việc thực hiện hợp đồng

Uỷ ban trọng tài tiến hành phân biệt giữa luật tư điều chỉnh Hợp đồng và các quy tắc khác của luật công có thể áp dụng cho Hợp đồng. Các bên thừa nhận Hợp đồng chủ yếu được thực hiện trên lãnh thổ Hàn Quốc. Vì vậy, cho dù luật tư pháp của bất cứ quốc gia nào điều chỉnh Hợp đồng, Hợp đồng vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của luật công Hàn Quốc. Do đó, Uỷ ban trọng tài phải xác định liệu luật Hàn Quốc như Bị đơn đã viện dẫn có áp dụng cho Hợp đồng không, cho dù luật này không điều chỉnh Hợp đồng.

210

Tuy nhiên, trong vụ này, luật công quốc gia như Nguyên đơn viện dẫn (Luật chống độc quyền, Luật giá cả, Luật thương mại công bằng) về bản chất là các quy tắc chung. Thông thường, việc áp dụng các quy tắc này phải trên cơ sở chính sách của nhà nước. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài không thể tự do áp dụng công pháp Hàn Quốc như yêu cầu của Bị đơn nếu việc áp dụng này đòi hỏi trọng tài phải đánh giá, giải thích các chính sách của Nhà nước.

Mặt khác, Uỷ ban trọng tài được quyền áp dụng luật công pháp quốc gia chừng nào Uỷ ban trọng tài thấy rằng trong vụ kiện này, theo như thực tiễn tư pháp đã được công bố của các toà án quốc gia có thẩm quyền và/hoặc các chính sách đã được ban hành và công bố của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì các bộ luật mà Uỷ ban trọng tài đang xem xét đều bị coi là vô hiệu và không thể thực hiện được do bị công pháp của các quốc gia có liên quan cấm.

Do vậy, bên tham gia tố tụng trọng tài muốn áp dụng luật công pháp quốc gia phải chứng minh công pháp quốc gia thực sự có thể áp dụng được trong vụ kiện này và nếu áp dụng thì ở mức độ nào.

Bởi Bị đơn không cung cấp đủ chứng cứ về tình hình thị trường Hàn Quốc và vị trí của Nguyên đơn ở thị trường đó, Uỷ ban trọng tài cho rằng vào thời điểm đó, Nguyên đơn không thể giữ vị trí chi phối thị trường để có thể lạm dụng thị phần của mình, và bí quyết kỹ thuật liên quan tới sản xuất một loại sản phẩm và việc cung cấp nguyên liệu thô để sản xuất sản phẩm đó không phải là hai mục độc lập dẫn đến quy định hạn chế hoạt động của các bên ký kết hợp đồng trong Điều 4 của bản Thông báo nói trên.

Vì vậy, quan điểm của Uỷ ban trọng tài là Bị đơn không chứng minh được Điều 1 và Điều 2 của Hợp đồng có các điều khoản hạn chế hoạt động của các bên ký kết hợp đồng bị cấm bởi luật công pháp Hàn Quốc.

Bị đơn cũng viện dẫn Đạo luật thương mại công bằng và chống độc quyền Hàn Quốc năm 1980, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 1981. Theo quan điểm của Bị đơn, đạo luật này cũng áp dụng cho Hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế Bị đơn đã huỷ Hợp đồng vào ngày 19 tháng 5 năm 1980 hoặc ngày 25 tháng 11 năm 1980.

Do Bị đơn đã không chỉ ra được rằng Đạo luật mới có hiệu lực hồi tố và Hợp đồng mặc dù bị huỷ vào năm 1980, nhưng vẫn có hiệu lực sau ngày 31 tháng 3 năm 1981, Uỷ ban trọng tài cho rằng Đạo luật mới của Hàn Quốc không liên quan tới vụ kiện này.

Trên cơ sở các văn bản đệ trình của hai bên, các cuộc thảo luận trong các phiên xét xử và các câu trả lời của Bị đơn đối với các câu hỏi về đối tượng của công pháp Hàn Quốc mà Uỷ ban trọng tài đưa ra, Uỷ ban trọng tài không chấp nhận áp dụng luật công pháp Hàn Quốc cho Hợp đồng.

2. Về việc áp dụng Điều 85 của Hiệp ước Rôma:

Cũng như công pháp quốc gia, các quy tắc cạnh tranh (Điều 85) của Hiệp ước

211

Rôme là các quy tắc chung và là một phần chính sách chung của Cộng đồng châu Âu. Vì việc áp dụng các quy tắc về cạnh tranh của Hiệp ước Rôme có liên quan tới vụ kiện, Uỷ ban trọng tài phải xem xét kỹ vấn đề này.

Từ thực tiễn tư pháp của Toà án Cộng đồng châu Âu, Điều 85 hoàn toàn có thể áp dụng trực tiếp đối với công dân của các quốc gia thành viên (tức là công dân của các quốc gia thanh viên có quyền căn cứ vào điều khoản này để yêu cầu tòa án quốc gia của họ để bảo vệ quyền lợi). Theo đoạn 2 Điều 85 của Hiệp ước, tất cả thoả thuận được ký kết vi phạm Điều 85 của Hiệp ước đều bị cấm và sẽ tự động vô hiệu.

Nếu Uỷ ban trọng tài thấy rằng toàn bộ hoặc một phần Hợp đồng đang xem xét vi phạm Điều 85 của Hiệp ước Rôme, thì một số điều khoản của hợp đồng hoặc toàn bộ hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu và không có giá trị thi hành.

Vì vậy, Uỷ ban trọng tài phải xem xét liệu Hợp đồng có bị cấm theo đoạn 1 Điều 85 của Hiệp ước Rôme không.

Theo các quyết định của Toà án tư pháp Cộng đồng châu Âu liên quan tới Điều 85 Hiệp ước Rôme, qui định cấm trong Điều này chỉ áp dụng cho các hợp đồng, thoả thuận được ký kết nhằm mục đích tạo ra sự ngăn cản, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh ở thị trường chung Cộng đồng châu Âu và có thể ảnh hưởng tới thương mại giữa các quốc gia thành viên của Cộng đồng châu Âu.

Bởi đây là Hợp đồng giữa một công ty Italia và một công ty Hàn Quốc và chủ yếu được thực hiện ở Hàn Quốc, Uỷ ban trọng tài cho rằng Hợp đồng không thể ảnh hưởng tới thương mại giữa các quốc gia thành viên Cộng đồng châu Âu và Hợp đồng, đặc biệt là điều 2, không có mục đích tạo ra sự ngăn cản, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh ở thị trường chung Cộng đồng châu Âu. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài không chấp nhận áp dụng Điều 85 Hiệp ước Rôme cho Hợp đồng.

3. Về luật điều chỉnh hợp đồng:

Hợp đồng đã được thực hiện cả ở Italia và Hàn Quốc. Vào thời điểm ký kết Hợp đồng, các bên không nói rõ luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng của họ. Vì các bên không lựa chọn luật điều chỉnh cũng như không thoả thuận về các nhân tố để xác định luật điều chỉnh hợp đồng nên trong tài quyết định việc xác định luật áp dụng cần dựa trên "trung tâm" của hợp đồng.

Mặc dù tên của Hợp đồng là Hợp đồng cung cấp và mua hàng, Hợp đồng này không chỉ đơn thuần là một hợp đồng cung cấp và mua hàng. Nguyên đơn đã trao cho Bị đơn quyền độc quyền sử dụng các bí quyết kỹ thuật liên quan đến sản xuất một loại sản phẩm ở Hàn Quốc. Bị đơn mua của Nguyên đơn nguyên liệu thô để sản xuất sản phẩm đó ở Hàn Quốc.

Xem xét các nhân tố đặc biệt này của Hợp đồng, Uỷ ban trọng tài thấy Hợp đồng chủ yếu thực hiện ở Hàn Quốc và có "trung tâm" ở Hàn Quốc. Do đó, luật tư pháp Hàn Quốc sẽ là luật điều chỉnh hợp đồng.

212