chuyen de 1(moi) to chuc hoat dong cua ktnn
Post on 24-Jun-2015
72 Views
Preview:
TRANSCRIPT
Chuyên đề 1
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
II. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHUYÊN ĐỀ
1. Mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
1.1. Các mô hình tổ chức trên thế giới
- Mô hình Kiểm toán Nhà nước trực thuộc cơ quan lập pháp.
- Mô hình Kiểm toán Nhà nước trực thuộc cơ quan hành pháp.
- Mô hình Kiểm toán Nhà nước đứng độc lập với cơ quan lập pháp và cơ
quan hành pháp.
1.2. Cơ chế hoạt động
- Cơ chế thủ trưởng.
- Cơ chế hội đồng (đồng sự).
2. Mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam
2.1. Mô hình tổ chức
2.2. Cơ chế hoạt động
3. Quá trình hình thành và phát triển về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán
Nhà nước Việt Nam
3.1. Giai đoạn từ khi thành lập (Nghị định số 70/CP) đến khi Chính phủ
ban hành Nghị định số 93/2003/NĐ-CP.
3.2. Giai đoạn từ khi có Nghị định số 93/2003/NĐ-CP đến trước khi Quốc
hội thông qua Luật Kiểm toán nhà nước.
3.3. Giai đoạn từ khi có Luật Kiểm toán nhà nước (01/01/2006) đến nay.
4. Cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
4.1. Hiến pháp Viêt Nam
4.2. Luật Kiểm toán nhà nước
- Địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước.
- Chức năng của Kiểm toán Nhà nước.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước.
1
- Thẩm quyền và quy trình bổ nhiệm Tổng Kiểm toán Nhà nước.
- Kiểm toán viên nhà nước.
- Hoạt động kiểm toán.
- Giá trị của báo cáo kiểm toán.
- Quyền và nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán.
- Bảo đảm hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước.
- Giám sát hoạt động kiểm toán.
- Giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo.
4.3. Các Luật khác liên quan
4.4. Các văn ban hướng dân thi hành
5. Kết quả đạt được trong tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
5.1. Nâng cao địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước
5.2. Quy định đầy đủ hơn chức năng, nhiêm vụ và quyền hạn của Kiểm toán
Nhà nước
5.3. Quy định về thẩm quyền bổ nhiêm Tổng Kiểm toán Nhà nước
5.4. Kiên toàn một bước cơ ban về tổ chức bộ máy và công chức, viên chức
của Kiểm toán Nhà nước
5.5. Quy mô, loại hình, chất lượng kiểm toán được mở rộng và tăng cường
- Về quy mô.
- Về loại hình và phương thức kiểm toán.
- Về chất lượng kiểm toán.
- Về kết quả kiểm toán.
5.6. Viêc công khai và cung cấp kết qua kiểm toán được dư luận đồng tình
và đánh giá cao
5.7. Các đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan đã nâng
cao ý thức trong viêc tuân thủ nghĩa vụ và trách nhiêm của mình
5.8. Về bao đam hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
6. Hạn chế về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
6.1. Hạn chế về hiêu lực hoạt động kiểm toán
6.2. Hạn chế về phạm vi hoạt động của Kiểm toán Nhà nước còn hẹp
2
6.3. Hạn chế của đội ngũ Kiểm toán viên
7. Một số giải pháp nhằm phát triển và hoàn thiện các bộ máy tổ chức và
hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
7.1 Nâng cao chất lượng của Kiểm toán viên
7.2. Hoàn thiên hê thống chuẩn mực kiểm toán nhà nước Viêt Nam
7.3. Tăng cường đổi mới công tác tổ chức hoạt động kiểm toán và nâng cao
hiêu lực của hoạt động Kiểm toán Nhà nước
7.4. Củng cố và hoàn thiên cơ cấu tổ chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước
8. Quy chế làm việc của Kiểm toán Nhà nước
9. Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Kiểm toán Nhà nước
III. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
1. Mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Kiêm toan Nhà nươc
1.1. Mô hình tổ chức
Mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) ở
các quốc gia trên thế giới dù được thiết kế khác nhau nhưng đều phải tuân thủ
nguyên tắc hoạt động là độc lập, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật.
Ở 180 quốc gia là thành viên của INTOSAI mô hình tổ chức KTNN rất đa
dạng và có thể phân chia thành 3 mô hình cơ bản sau:
- Mô hình Kiểm toán Nhà nước trực thuộc cơ quan lập pháp;
- Mô hình Kiểm toán Nhà nước trực thuộc cơ quan hành pháp;
- Mô hình KTNN độc lập với cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp.
Thông thường có 2 dạng:
- Có thể là một cấp (đơn tuyến) tập trung thống nhất bao gồm KTNN ở
trung ương và KTNN khu vực trực thuộc KTNN, không lập Kiểm toán Nhà
nước ở địa phương;
- Hoặc có thể là tổ chức đa cấp, ở mỗi cấp chính quyền đều lập cơ quan
KTNN của cấp mình, cơ quan kiểm toán các cấp hoàn toàn độc lập với nhau.
1.2. Cơ chế hoạt động
Cơ chế hoạt động của KTNN các nước thế giới cũng chia ra làm 2 dạng:
3
- Cơ chế thủ trưởng: Mọi hoạt động KTNN do người đứng đầu (thủ trưởng)
cơ quan KTNN quyết định và chịu trách nhiệm trước pháp luật;
- Cơ chế hội đồng (đồng sự): Mọi hoạt động của kiểm toán đều do các uỷ
viên Hội đồng quyết định tập thể theo đa số. Các uỷ viên hội đồng là người có vị
trí pháp lý độc lập như một thẩm phán.
Mỗi cơ chế hoạt động đều có những ưu điểm nhất định và do từng nước lựa
chọn áp dụng. Để đảm bảo chất lượng kiểm toán, trung thực và khách quan của
mọi kết luận kiểm toán, mỗi cơ chế hoạt động đều có những quy tắc ứng xử cần
thiết và thích hợp trong lãnh đạo và điều hành hoạt động của KTNN.
2. Mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của Kiêm toan Nhà nươc Việt Nam
Ở Việt Nam, Kiểm toán Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung,
thống nhất bao gồm KTNN trung ương và KTNN các khu vực, tạo điều kiện cho
KTNN hoạt động độc lập, không chịu sự chi phối của chính quyền các cấp. Đây
là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo tính độc lập, trung thực, khách
quan. Qua một thời gian thực hiện, cho thấy mô hình tổ chức này khá ưu việt,
với hệ thống tổ chức theo phương pháp trực tuyến là KTNN trung ương và
KTNN các khu vực thể hiện tính tập trung, thống nhất cao, tạo điều kiện để khai
thác triệt để những ưu điểm của phương pháp quản lý trực tuyến, giảm bớt
những ách tắc qua nhiều khâu trung gian, bảo đảm thu nhận thông tin được thực
hiện nhanh chóng. Đồng thời, mỗi KTNN khu vực được giao nhiệm vụ kiểm
toán trên phạm vi khu vực, vừa giảm chi phí cho hoạt động kiểm toán lại vừa có
điều kiện am hiểu đặc điểm của các đơn vị được kiểm toán, nhất là các đặc điểm
ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế - tài chính và thu - chi ngân sách hàng năm.
3. Qua trình hình thành và phat triên về tổ chức và hoạt động của
Kiêm toan Nhà nươc Việt Nam
3.1. Giai đoạn từ khi thành lập (Nghị định số 70/CP) đến khi Chính phủ
ban hành Nghị định số 93/2003/NĐ-CP. Trong giai đoạn đầu, KTNN được tổ
chức và hoạt động dựa trên 2 văn bản quy phạm pháp luật quan trọng là Nghị định số
70/CP và Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra,
còn được quy định tại một số điều khoản trong các văn bản pháp luật có liên quan:
Luật ngân sách nhà nước, Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước,
Luật các Tổ chức tín dụng ...
Việc ban hành 2 văn bản dưới luật (Nghị định số 70/CP và Quyết định số
4
61/TTg) là rất cần thiết cho sự ra đời và hoạt động kiểm toán của KTNN với tư
cách là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước và tài sản công. Trong quá trình sửa
đổi, bổ sung hệ thống pháp luật của Nhà nước CHXHCN VN, trong điều kiện
hoạt động KTNN chưa được điều chỉnh ở các văn bản có tính pháp lý cao thì
việc bổ sung một số quy phạm pháp luật trong các luật điều chỉnh các hoạt động
thuộc các lĩnh vực khác có phát sinh các mối quan hệ kiểm toán là rất cần thiết
để đảm bảo tính đầy đủ về mặt pháp lý cho hoạt động kiểm toán ở các lĩnh vực
trên; đồng thời, để đảm bảo tính hệ thống nhất định của pháp luật KTNN.
5
Qua nghiên cứu cho thấy, những quy định của Nghị định 70/CP và Quyết
định 61/TTg và những quy định về KTNN trong các luật có liên quan mới chỉ
điều chỉnh tổng quan về địa vị pháp lý của KTNN, cụ thể là:
3.1.1. Về vị trí pháp lý
Ở giai đoạn này, vị trí pháp lý của KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ; hoạt
động KTNN chịu sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức của KTNN bao
gồm Văn phòng KTNN và 04 đơn vị KTNN chuyên ngành (Phụ lục 01)
3.1.2. Chức năng, nhiêm vụ và quyền hạn của KTNN
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN chủ yếu được quy định trong
Điều 1, Điều 2 của Nghị định 70/CP của Chính phủ và được cụ thể hoá trong các
điều 1, 2, 3, 4, 5 của Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN (Ban hành kèm
theo Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ). Có thể
khái quát như sau:
- Về chức năng “KTNN thực hiên chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng
đắn, hợp pháp của các số liêu, tài liêu kế toán, báo cáo quyết toán... ”.
- Về nhiệm vụ, KTNN có nhiệm vụ tổ chức, quản lý bộ máy và chỉ đạo hoạt
động để thực hiện kế hoạch kiểm toán đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Các quy định về nhiệm vụ của KTNN tương đối phù hợp với chức năng được
giao; trong đó các quy định về việc nhận xét, đánh giá việc chấp hành các chính
sách tài chính, chế độ kế toán; góp ý với đơn vị được kiểm toán... là hết sức cần
thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Về quyền hạn và trách nhiệm của KTNN, các quy định trong Điều 5 (gồm
9 điểm) đã tạo cơ sở pháp lý cho KTNN thực hiện được nhiệm vụ của mình;
đồng thời cũng xác định rõ được trách nhiệm của KTNN trước pháp luật.
Có thể đánh giá khái quát: Trong điều kiện mới thành lập, KTNN VN được
Chính phủ giao cho chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm về kiểm toán
báo cáo tài chính, về cơ bản là phù hợp đã tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt
động của KTNN Việt Nam.
3.2. Giai đoạn từ khi có Nghị định số 93/2003/NĐ-CP đến trước khi
Quốc hội thông qua Luật KTNN.
6
Sau gần 10 năm hoạt động và phát triển, cơ sở pháp lý cho hoạt động của
KTNN (Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994) đã bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của KTNN cũng như loại hình
kiểm toán mà KTNN được thực thi. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, đồng
thời hoàn thiện một bước cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của KTNN cho
phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước, ngày 13/8/2003 Chính
phủ ban hành Nghị định số 93/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của KTNN. Nghị định số 93/2003/NĐ-CP của
Chính phủ đã bổ sung một số chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của KTNN so với Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ, cụ thể là:
3.2.1. Về vị trí pháp lý của KTNN (Điều 1)
Tại Điều 1 Nghị định số 93/2003/NĐ-CP quy định: “KTNN là cơ quan
thuộc Chính phủ ". Nghị định số 93/2003/NĐ-CP của Chính phủ tuy vẫn quy
định KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ, song cũng đã thể bước tiến quan trọng
trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về KTNN, lần đầu tiên vị trí pháp
lý của KTNN được quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật về KTNN.
Tổ chức của KTNN gồm 4 đơn vị tham mưu, 6 đơn vị chuyên ngành, 5 khu vực
và 3 đơn vị sự nghiệp (Phụ lục 02).
3.2.2. Về chức năng của KTNN (Điều 1)
Nghị định 93/2003/NĐ-CP quy định tương đối đầy đủ và toàn diện chức
năng của KTNN là kiểm toán báo cáo tài chính; kiểm toán đánh giá tính tuân thủ
pháp luật, tính kinh tế trong quản lý, sử dụng NSNN và tài sản công đã khắc
phục được những bất cập của Nghị định 70/CP (mới chỉ đề cập đến việc kiểm
tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán ngân sách, báo cáo
tài chính chưa quy định về chức năng kiểm toán tuân thủ pháp luật và kiểm toán
hoạt động của KTNN). Ngoài chức năng kiểm toán tài chính, KTNN của các
nước trên thế giới đều thực hiện kiểm toán để kiểm tra, đánh giá tính tuân thủ
pháp luật và thực hiện kiểm toán hoạt động để đánh giá tính kinh tế, tính hiệu
lực trong hoạt động của các đơn vị, các tổ chức có sử dụng ngân sách Nhà nước
và tài sản công.
3.2.3. Về nhiêm vụ và quyền hạn của KTNN (Điều 2)
7
Ngoài sự kế thừa những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số
70/CP của Chính phủ và Điều lệ về tổ chức và hoạt động của KTNN, Nghị định
số 93/2003/NĐ-CP của Chính phủ đã thể chế hoá một số nhiệm vụ theo chủ
trương đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, cải cách hành chính,
minh bạch tài chính và tăng cường kiểm tra tài chính; bổ sung nhiệm vụ quản lý
nhà nước về ngành, lĩnh vực theo quy định của Chính phủ.
3.3. Giai đoạn từ khi có Luật KTNN (01/01/2006) đến nay
Luật KTNN được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
14/6/2005 và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006.
Luật KTNN quy định nguyên tắc hoạt động kiểm toán của KTNN “Độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; Trung thực, khách quan” (Điều 7). Nguyên tắc quan
trọng này được quán triệt và thể hiện trong từng nội dung quy định về tổ chức và
hoạt động của KTNN, cụ thể :
3.3.1. Về địa vị pháp lý của KTNN
Theo quy định tại Điều 13 của Luật, địa vị pháp lý của KTNN được xác
định: “KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do
Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Quy định
như trên đã khắc phục được tình trạng địa vị pháp lý của KTNN còn thấp chưa
tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao của KTNN và chưa phù hợp
thông lệ quốc tế.
3.3.2. Về tổ chức bộ máy
KTNN được hoàn thiện trên cơ sở Luật KTNN, Nghị quyết 916/2005/NQ-
UBTVQH11 và các Nghị quyết khác. Đến nay, KTNN với 7 đơn vị tham mưu, 8
KTNN chuyên ngành, 13 KTNN khu vực và 03 đơn vị sự nghiệp (Phụ lục 03).
3.3.3. Về chức năng của KTNN
KTNN có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm
toán hoạt động đối với mọi cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và
tài sản nhà nước (Điều 14). Đây là những chức năng mà KTNN ở các nước có
hoạt động KTNN hiện đại và phát triển áp dụng.
3.3.4. Về nhiêm vụ, quyền hạn của KTNN
8
Nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN được quy định tại Điều 15, Điều 16 của
Luật KTNN. Với vị thế là cơ quan chuyên môn về kiểm tra tài chính nhà nước
do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Luật
KTNN quy định bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn mới:
- KTNN Quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và báo cáo với Quốc
hội, Chính phủ trước khi thực hiện.
- Trình ý kiến của KTNN để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSNN,
quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự án, công trình quan
trọng quốc gia, phê chuẩn quyết toán NSNN. Kiểm toán dự toán NSNN, các dự
án, công trình quan trọng quốc gia là một nhiệm vụ mới của KTNN so với quy
định của Luật NSNN và các quy định hiện hành về KTNN. Đây chính là hình
thức kiểm toán trước của KTNN, nhằm bảo đảm các nguồn lực được động viên
và phân bổ vào những mục tiêu phát triển của đất nước cũng như tính kinh tế,
hiệu lực và hiệu quả của các khoản chi NSNN; tránh được những sai sót, gian
lận ngay từ khi lập và phân bổ dự toán, dự án. Mặt khác, việc đầu tư các công
trình quan trọng của quốc gia không chỉ tiêu tốn lượng lớn tiền của mà còn liên
quan đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó đòi hỏi không chỉ được
xem xét về mặt kỹ thuật mà còn phải xem xét các khía cạnh về kinh tế, xã hội;
do vậy, nếu không có một cơ quan độc lập với cơ quan lập dự án, có đủ năng lực
chuyên môn, tuân theo các chuẩn mực nghề nghiệp xem xét, đánh giá trước khi
Quốc hội thảo luận và quyết định có thể sẽ gây ra những rủi ro lớn. Kinh nghiệm
của nhiều nước có lịch sử phát triển KTNN lâu dài đều giao cho cơ quan KTNN
thực hiện nhiệm vụ này.
- Tham gia với các cơ quan của Chính phủ, của Quốc hội khi có yêu cầu
trong việc xây dựng và thẩm tra các dự án Luật, Pháp lệnh. Đây chính là hoạt
động tư vấn của KTNN. Từ thực tiễn hoạt động kiểm toán và những chuẩn mực
nghề nghiệp khách quan, KTNN phát hiện những sơ hở, bất cập trong các văn
bản pháp luật hiện hành và yêu cầu điều chỉnh pháp luật các quan hệ kinh tế
phát sinh trong kinh tế thị trường, KTNN đề xuất, kiến nghị Chính phủ, Quốc
hội sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật, góp phần bảo
đảm tính đầy đủ, đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật.
9
- Xem xét quyết định việc kiểm toán khi Thường trực HĐND, UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có yêu cầu; tham gia với Uỷ ban Kinh tế và
ngân sách của Quốc hội, các cơ quan khác của Quốc hội, Chính phủ trong việc
xem xét, thẩm tra dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung ương; tham gia với
Uỷ ban Kinh tế và ngân sách của Quốc hội trong hoạt động giám sát về lĩnh vực
tài chính ngân sách; báo cáo kết quả kiểm toán năm và kết quả thực hiện kiến
nghị kiểm toán với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội; gửi báo cáo kiểm
toán cho Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ; cung cấp kết quả kiểm toán cho Bộ tài chính, Hội
đồng nhân dân nơi kiểm toán và cơ quan khác theo quy định của pháp luật; công
bố công khai kết quả kiểm toán; chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra xem xét, xử
lý các vi phạm theo quy định của pháp luật; tổ chức thi và cấp chứng chỉ Kiểm
toán viên nhà nước; chỉ đạo hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán nội
bộ.
3.3.5. Về thẩm quyền và quy trình bổ nhiêm Tổng KTNN
Khoản 2 Điều 17 của Luật quy định: “Tổng KTNN do Quốc hội bầu, miễn
nhiêm và bãi nhiêm theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội sau khi trao
đổi thống nhất với Thủ tướng Chính phủ”.
Quy định trên đảm bảo tính độc lập, khách quan của Tổng KTNN nói riêng
và cơ quan KTNN nói chung khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán.
4. Cơ sở phap lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN
4.1. Hiến phap Viêt Nam
KTNN Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994
của Chính phủ, tổ chức và hoạt động theo Quyết định số 61/TTg ngày
24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt
động của Kiểm toán Nhà nước, đồng thời được bổ sung, hoàn thiện hơn tại Nghị
định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13/08/2003 của Chính phủ, đặc biệt từ khi Luật
Kiểm toán nhà nước ra đời và có hiệu lực thi hành. Đây là cơ quan mới ra đời
trong công cuộc đổi mới nằm trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam
mà trước đó chưa có tiền thân về tổ chức và tiền lệ về hoạt động.
10
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập sau khi Quốc hội thông qua
Hiến pháp năm 1992 nên không thể quy định địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà
nước trong Hiến pháp. Năm 2001, Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung
nhưng không có quy định về địa vị pháp lý của KTNN, vì việc sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp chỉ tập trung vào những vấn đề đã rõ và có sự thống nhất cao, tập
trung vào những nội dung có nhu cầu cấp thiết phải sửa đổi liên quan đến tổ
chức bộ máy nhà nước quy định tương ứng tại một số luật như: Luật Tổ chức
Chính phủ, Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Tổ chức VKSND, Luật Tổ
chức TAND, Luật Bầu cử đại biểu HĐND. Việc sửa đổi, bổ sung các luật này
phải thể hiện được những chủ trương, đường lối mới đã được Đảng khẳng định,
và nếu không sửa đổi Hiến pháp, sẽ khó sửa đổi các Luật nói trên; trong khi đó
KTNN là một lĩnh vực mới, cần có thêm thời gian và thực tiễn để nghiên cứu.
Song, mặc dù tổ chức và hoạt động của KTNN chưa được quy định trong
Hiến pháp - văn bản pháp lý quan trọng nhất nhưng cũng đã nhận được sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò và tầm quan trọng của KTNN trong hệ
thống bộ máy công quyền nhà nước ta bằng việc ghi nhận trong các văn kiện
quan trọng của Đảng.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp
quyền và hội nhập quốc tế, năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của KTNN
vẫn còn hạn chế, quy mô và chất lượng còn chưa ngang tầm với chức năng và
nhiệm vụ được giao với vị thế là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất trong
hệ thống kiểm soát của Nhà nước. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, trong
đó có nguyên nhân chủ yếu là do địa vị pháp lý của KTNN chưa được quy định
trong Hiến pháp theo khuyến cáo của INTOSAI và thông lệ nhiều nước trên thế
giới. Tồn tại này đã làm cho quy định về địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước
hiện nay chưa đúng với bản chất của KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính nhà
nước cao nhất và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế; chưa có sự thống nhất,
đồng bộ giữa các quy định của Luật KTNN và các luật liên quan như Luật Tổ
chức Quốc hôi, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật NSNN,... đã làm giảm hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của KTNN.
Thực hiện Nghị quyết số 927/2010/UBTVQH12 ngày 19/4/2010 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về việc ban hành Chiến lược phát triển KTNN đến
năm 2020, căn cứ các Nghị quyết của Đảng, kinh nghiệm xác lập địa vị pháp lý
của KTNN trong Hiến pháp các nước trên thế giới và thực tiễn hoạt động của
11
KTNN Việt Nam 18 năm qua, KTNN đã thành lập Ban chỉ đạo xây dựng Đề án
bổ sung quy định về địa vị pháp lý của KTNN và Tổng KTNN trong Hiến pháp
nước CHXHCN Việt Nam. Trên cơ sở đó, KTNN có Tờ trình số 1108/TTr-PC
ngày 03/8/2012 và Công văn số 1258/KTNN-PC ngày 05 tháng 9 năm 2012 gửi
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và các cơ
quan liên quan kiến nghị bổ sung vào Hiến pháp nội dung quy định về KTNN và
Tổng KTNN. Ngày 20/9/2012, KTNN ban hành Công văn số 1328/KTNN-PC
nhằm đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến đến công chức, viên chức,
người lao động trong toàn ngành, các Đoàn Đại biểu Quốc hội về các nội dung
đề xuất Quốc hội bổ sung địa vị pháp lý của KTNN vào Hiến pháp.
Đến nay, nội dung về KTNN trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
quy định tại Điều 119 như sau:
“1. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiên kiểm toán viêc quan lý, sử dụng tài
chính, tài san công.
2. Tổng Kiểm toán Nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán Nhà nước, do
Quốc hội bầu. Nhiêm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước do luật định.
Tổng Kiểm toán Nhà nước chịu trách nhiêm và báo cáo kết qua kiểm toán,
báo cáo công tác trước Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách
nhiêm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
3. Tổ chức, nhiêm vụ và quyền hạn cụ thể của Kiểm toán Nhà nước do luật
định”.
Đồng thời, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 còn có các nội dung khác liên
quan đến KTNN và Tổng KTNN tại các điều:
- Điều 70 (Quốc hội xét báo cáo công tác của KTNN; Quy định về tổ chức
và hoạt động của KTNN; Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng KTNN;
Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc bầu);
- Điều 74 (Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát đối với hoạt động của
KTNN);
- Điều 77 (Hội đồng dân tộc có quyền yêu cầu Tổng KTNN cung cấp thông
tin hoặc giải trình);
- Điều 80 (Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Tổng KTNN);
- Và Điều 84 (Kiểm toán Nhà nước có quyền trình dự án Luật).
12
4.2. Luật Kiêm toan nhà nước
Luật Kiểm toán nhà nước được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 14/6/2005, Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 24/6/2005 và có hiệu lực
thi hành từ 01/01/2006. Đây là một đạo luật quan trọng trong hệ thống pháp luật
của Nhà nước ta, là công cụ pháp lý để tăng cường kiểm tra, kiểm soát các
nguồn lực tài chính nhà nước, đồng thời là cơ sở pháp lý cao nhất hiện nay quy
định một cách đầy đủ, toàn diện, có hệ thống về tổ chức và hoạt động của
KTNN. Luật KTNN được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm hoạt
động của KTNN, kế thừa những quy định còn phù hợp trong các văn bản pháp
luật hiện hành, nhất là Luật Ngân sách nhà nước, các luật, pháp lệnh liên quan
đến hệ thống tài chính, hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính nói chung. Luật
KTNN đã quán triệt và thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển
KTNN, tham khảo có chọn lọc Luật kiểm toán của một số nước trong khu vực,
trên thế giới, tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực của Tuyên bố Lima về kiểm
tra tài chính của INTOSAI, phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế và gia nhập WTO.
Luật KTNN được xây dựng theo phương án luật chi tiết để khi ban hành có thể
thực hiện được ngay, nội dung của Luật phải vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa
phù hợp với xu hướng phát triển về mặt tổ chức và hoạt động kiểm toán trong
tương lai.
Các nội dung chủ yếu của Luật Kiểm toán nhà nước thể hiện:
4.2.1. Về địa vị pháp lý của KTNN
Theo quy định tại Điều 13 “KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm
tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”. Quy định này đã xác định địa vị pháp lý của KTNN trong hệ
thống bộ máy nhà nước pháp quyền. Điều đó chứng tỏ sự hình thành và phát
triển cơ quan KTNN để thực hiện chức năng kiểm tra tài chính nhà nước và tài
sản công là phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với tiến trình hội nhập và
phát triển kinh tế đất nước với khu vực và thế giới.
4.2.2. Về chức năng của KTNN
KTNN có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm
toán hoạt động đối với mọi cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và
tài sản nhà nước (Điều 14). Trong đó:
13
Kiểm toán báo cáo tài chính là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá,
xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính.
Kiểm toán tuân thủ là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá và xác nhận
việc tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế mà đơn vị được kiểm toán phải thực
hiện.
Kiểm toán hoạt động là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá tính kinh
tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà
nước.
Như vậy, Luật Kiểm toán nhà nước đã quy định đầy đủ và toàn diện các
chức năng của KTNN là: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm
toán hoạt động. Đây là những chức năng mà KTNN ở các nước có hoạt động
KTNN hiện đại và phát triển áp dụng.
4.2.3. Về nhiêm vụ, quyền hạn của KTNN
Nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN được quy định tại Điều 15, Điều 16 của
Luật Kiểm toán nhà nước.
4.2.4. Về thẩm quyền và quy trình bổ nhiêm Tổng KTNN
Khoản 2 Điều 17 của Luật quy định về thẩm quyền bổ nhiệm Tổng KTNN:
“Tổng KTNN do Quốc hội bầu, miễn nhiêm và bãi nhiêm theo đề nghị của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội sau khi trao đổi thống nhất với Thủ tướng Chính phủ”.
Với quy định như trên, Quốc hội - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
của nước CHXHCN Việt Nam đã quy định thẩm quyền và quy trình bổ nhiệm
cao nhất cho Tổng KTNN để đảm bảo tính độc lập, khách quan của Tổng KTNN
nói riêng và cơ quan KTNN nói chung khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán.
14
4.2.5. Về Kiểm toán viên nhà nước
Kiểm toán viên nhà nước là chức danh của người trực tiếp thực hiện hoạt
động kiểm toán. Cơ quan KTNN thực thi nhiệm vụ của mình chủ yếu thông qua
đội ngũ Kiểm toán viên nhà nước. Vì vậy, lực lượng Kiểm toán viên nhà nước
mạnh hay yếu là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động, hiệu lực và
hiệu quả cũng như uy tín của KTNN. Việc quy định cụ thể vị trí, vai trò, tiêu
chuẩn là rất cần thiết, nhằm tạo ra sự thống nhất trong việc lựa chọn, đào tạo và
phân công nhiệm vụ cho kiểm toán viên.
4.2.6. Về hoạt động kiểm toán
Hoạt động kiểm toán là một trong những nội dung quan trọng của Luật
KTNN. Do vậy, Luật đã dành một chương riêng (Chương IV, từ Điều 33 đến
Điều 62) quy định về hoạt động KTNN trong đó quy định khá chi tiết và đầy đủ
về: Quyết định kiểm toán; loại hình và nội dung kiểm toán; thời hạn kiểm toán,
địa điểm kiểm toán; Đoàn kiểm toán; quy trình kiểm toán; công khai kết quả
kiểm toán và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán; hồ sơ kiểm toán.
4.2.7. Giá trị của báo cáo kiểm toán
- Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước xác nhận tính đúng đắn,
trung thực của báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách; đánh giá việc
tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước.
- Báo cáo kiểm toán của KTNN là một trong những căn cứ để:
+ Quốc hội sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán ngân sách
nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự án và công
trình quan trọng quốc gia được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước; xem xét,
phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước và sử dụng trong hoạt động giám sát
việc thực hiện ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nghị
quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước, dự án và công trình quan trọng quốc
gia, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, dự án và công trình xây dựng cơ
bản quan trọng khác;
+ Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức, cơ quan khác của Nhà
nước sử dụng trong công tác quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ của mình;
15
+ Hội đồng nhân dân sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán,
phân bổ và giám sát ngân sách địa phương; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa
phương;
+ Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra sử dụng
trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kinh tế, tài chính;
+ Đơn vị được kiểm toán phải thực hiện các kết luận, kiến nghị của Kiểm
toán Nhà nước đối với các sai phạm trong báo cáo tài chính và các sai phạm
trong việc tuân thủ pháp luật; thực hiện các biện pháp khắc phục yếu kém trong
hoạt động của đơn vị do Kiểm toán Nhà nước phát hiện và kiến nghị.
- Cơ quan, người có thẩm quyền sử dụng kết luận kiểm toán quyết định
việc chấp nhận kết luận kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về quyết định của mình.
Kết luận kiểm toán đã được cơ quan, người có thẩm quyền chấp nhận có
giá trị bắt buộc thực hiện.
4.2.8. Về quyền và nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán
Luật Kiểm toán nhà nước cũng quy định quyền và nghĩa vụ của đơn vị
được kiểm toán. Đó là tất cả các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước và tổ
chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Việc các đơn vị được
kiểm toán nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình là một trong
những điều kiện giúp cho hoạt động kiểm toán nhà nước đạt được hiệu quả cao;
đồng thời tạo tác động tích cực đối với hoạt động của KTNN và Kiểm toán viên
nhà nước...
4.2.9. Bao đam hoạt động của cơ quan KTNN
16
Luật Kiểm toán nhà nước là một trong số ít các luật trong hệ thống pháp
luật của Nhà nước ta có chương riêng quy định về bảo đảm hoạt động. Bảo đảm
các điều kiện về nhân lực, vật lực cho hoạt động của cơ quan KTNN, đặc biệt là
sự bảo đảm về tài chính. Đây là tiền đề cơ bản cho một phương thức làm việc tự
chủ, bởi vì mỗi một hạn chế về mặt tài chính với cơ quan KTNN đồng thời cũng
dẫn tới sự hạn chế hoạt động của nó. Điều 67 của Luật đã quy định “KTNN có
kinh phí hoạt động riêng, là đơn vị dự toán cấp I của ngân sách trung ương.
Kinh phí hoạt động của KTNN do KTNN lập dự toán và đề nghị Chính phủ trình
Quốc hội quyết định”… Như vậy, cùng với những quy định nâng cao địa vị
pháp lý của cơ quan KTNN cho tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao,
những quy định đó sẽ bảo đảm cho hoạt động của KTNN độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật; trung thực và khách quan.
4.2.10. Về giám sát hoạt động kiểm toán
Để hoạt động kiểm toán của KTNN thực hiện đúng theo các quy định của
Luật Kiểm toán nhà nước và các quy định có liên quan, Điều 72 Luật Kiểm toán
nhà nước quy đinh: “Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc,
các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội theo chức
năng, nhiêm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiêm giám sát hoạt động và viêc
sử dụng kinh phí của KTNN. Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban
lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra về kết qua hoạt động của KTNN”. Đây là vấn
đề có tính nguyên tắc bởi vì KTNN là cơ quan có vị thế cao, quyền hạn lớn thì
cùng với những quy định nâng cao trách nhiệm của KTNN, cần phải có cơ chế
giám sát rõ ràng, chặt chẽ đối với hoạt động của KTNN theo đúng pháp luật.
4.2.11. Về giai quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo
Kết thúc cuộc kiểm toán, KTNN lập báo cáo kiểm toán ghi rõ các ý kiến
đánh giá, nhận xét, kết luận và kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán. Trong
trường hợp đơn vị được kiểm toán kiến nghị về báo cáo kiểm toán: “trong thời
hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của đơn vị được kiểm toán
về báo cáo kiểm toán, Tổng KTNN phai xem xét, giai quyết; đối với vụ viêc phức
tạp thì thời hạn này có thể kéo dài, nhưng không quá bốn mươi lăm ngày”…
17
Như vậy, KTNN đã, đang được xây dựng và phát triển để trở thành công cụ
hỗ trợ đắc lực, tin cậy cho Quốc hội, Chính phủ, HĐND trong quyết định và
giám sát về kinh tế, tài chính - ngân sách, đồng thời cũng phải đủ mạnh để tăng
cường quản lý và sử dụng vốn, tài sản và ngân sách đất nước một cách có hiệu
quả, khắc phục những yếu kém, tồn tại, xứng đáng là cơ quan kiểm tra tài chính
công cao nhất.
4.3. Cac Luật khac liên quan
Hiến pháp nước ta chưa có quy định về Kiểm toán Nhà nước nhưng một số
đạo luật cơ bản cũng đã có những quy định về Kiểm toán Nhà nước, như: Luật
Ngân sách nhà nước; Luật Ngân hàng nhà nước; Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Cán bộ, công
chức,…(Phụ lục 04-Danh mục các quy định liên quan).
Như vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời gian qua đã từng bước
được xác định và hoàn thiện dần về mặt tổ chức và hoạt động của KTNN thông
qua việc quy định chức năng, nhiệm vụ của KTNN, thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của Tổng KTNN.... Trong quá trình sửa đổi, bổ sung hệ
thống pháp luật của Nhà nước ta, trong điều kiện hoạt động KTNN chưa được
điều chỉnh ở các văn bản có tính pháp lý cao thì việc bổ sung một số quy phạm
pháp luật trong các luật điều chỉnh các hoạt động thuộc các lĩnh vực khác có
phát sinh các mối quan hệ với kiểm toán là rất cần thiết để đảm bảo tính đầy đủ
về mặt pháp lý cho tổ chức và hoạt động kiểm toán ở các lĩnh vực trên; đồng
thời, để đảm bảo tính hệ thống nhất định của Luật KTNN. Tuy nhiên, cần khẳng
định: Hệ thống pháp luật hiện hành quy định về tổ chức và hoạt động của KTNN
vẫn chưa hoàn chỉnh, thiếu tính thống nhất, tính đồng bộ và mâu thuẫn, cần có
lộ trình phù hợp để sửa đổi, bổ sung khắc phục những bất cập trên.
4.4. Cac văn ban hướng dân thi hành
Ngay sau khi Luật KTNN được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua,
Tổng KTNN đã ban hành Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo triển khai thi hành
Luật KTNN. Ban Chỉ đạo đã huy động cán bộ, công chức, kiểm toán viên có
nhiều kinh nghiệm trong toàn ngành tập trung trí tuệ và thời gian để phối hợp với
các cơ quan của Quốc hội, Bộ, ngành liên quan soạn thảo trình Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật KTNN.
18
4.4.1. Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội:
Đây là những văn bản pháp luật rất quan trọng đối với tổ chức và hoạt động
của KTNN. Như: Nghị quyết số 916/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 15/9/2005 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về cơ cấu tổ chức của KTNN; Nghị quyết số
917/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 15/9/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
việc quy định quy trình xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực KTNN. Nghị
quyết số 1002/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 03/3/2006 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và tiêu chuẩn cụ thể của từng ngạch
kiểm toán viên nhà nước; Nghị quyết số 1003/2006/NQ-UBTVQH11 ngày
03/3/2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn bảng lương và phụ cấp
chức vụ đối với cán bộ, lãnh đạo KTNN; bảng lương, phụ cấp, trang phục đối với
cán bộ, công chức KTNN; chế độ ưu tiên đối với kiểm toán viên nhà nước; Nghị
quyết số 794/2009/NQ-UBTVQH12 ngày 22/6/2009 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội sửa đổi, bổ sung chế độ ưu tiên đối với cán bộ, công chức và người lao
động của KTNN ban hành kèm theo Nghị quyết số 1003/2006/NQ-UBTVQH11
ngày 03/3/2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghị quyết số
927/2010/UBTVQH12 về việc ban hành Chiến lược phát triển Kiểm toán Nhà
nước đến năm 2020,…
4.4.2. Những văn ban do Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành:
Nghị định số 162/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ về chế độ
tiền lương, chế độ trang phục đối với cán bộ, công chức, viên chức KTNN và
chế độ ưu tiên đối với kiểm toán viên nhà nước; Nghị định số 32/2011/NĐ-CP
ngày 16/5/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
162/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ về chế độ tiền lương, chế độ
trang phục đối với cán bộ, công chức, viên chức KTNN và chế độ ưu tiên đối
với kiểm toán viên nhà nước; Nghị định số 91/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày
18/8/2008 về công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện kết luận, kiến
nghị kiểm toán của KTNN; Nghị định số 59/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày
18/7/2011 về Về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ
phần đã quy định đối với KTNN; Quyết định số 71/2006/QĐ-TTg ngày
03/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt
mật, Tối mật của KTNN,…
4.4.3. Những văn ban do Tổng Kiểm toán Nhà nước ban hành
19
Ngay sau khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) được
thông qua, ngày 15/02/2008 Tổng KTNN đã ký Quyết định số 02/2008/QĐ-
KTNN ban hành Quy chế soạn thảo, thẩm định và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của KTNN; đồng thời, để việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật
phù hợp với Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 và thực tiễn hoạt động của
KTNN, ngày 07/04/2009 Tổng KTNN đã ban hành Quyết định số 02/2009/QĐ-
KTNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế soạn thảo, thẩm định và ban
hành văn bản QPPL của KTNN ban hành kèm theo Quyết định số 02/2008/QĐ-
KTNN ngày 15/02/20008 Tổng KTNN. Việc ban hành các văn bản trên đây tạo
cơ sở quan trọng trong điều kiện thực hiện Luật KTNN và Luật Ban hành
VBQPPL, góp phần thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật và nâng cao chất lượng,
hiệu lực và hiệu quả hoạt động kiểm toán của KTNN.
20
Để công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của KTNN
đi vào nề nếp và mang tính chuyên nghiệp, trên cơ sở Chiến lược phát triển
KTNN, KTNN đã ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược phát triển
KTNN đến năm 2020, trong đó xác định rõ các văn bản QPPL cần được ban
hành đến năm 2020 và cụ thể theo từng năm. Hàng năm, KTNN ban hành kế
hoạch (chương trình) xây dựng văn bản QPPL và văn bản quản lý. Bên cạnh đó,
đơn vị có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chương trình đã có nhiều
chủ động, tích cực tham mưu. Vì vậy, các chương trình, kế hoạch đề ra cơ bản
đều bảo đảm về mặt tiến độ, chất lượng. Từ 01/01/2009 đến nay, KTNN ban
hành mới, sửa đổi, bổ sung 29 văn bản QPPL thuộc thẩm quyền ban hành của
Tổng KTNN, chủ trì soạn thảo 04 văn bản trình cơ quan có thẩm quyền ban
hành, ban hành 131 văn bản quản lý (không kể các văn bản cá biệt hành chính
thông thường). Ngoài ra, KTNN đã chú trọng phối hợp với các cơ quan, tổ chức
có liên quan xây dựng, tổ chức thực hiện các văn bản phối hợp, thoả thuận hợp
tác. Tính đến hết tháng 4/2013, KTNN đã ký kết Quy chế phối hợp công tác với
12 bộ, ngành trực thuộc trung ương và 49 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(trong đó có 15 tỉnh, thành phố ký trực tiếp với Lãnh đạo KTNN; 03 tỉnh ký với
KTNN Khu vực I). Trong số đó phải kể đến những văn bản quan trọng như: Hệ
thống mẫu biểu hồ sơ kiểm toán để áp dụng thống nhất trong hoạt động kiểm
toán của KTNN; Quy trình kiểm toán của KTNN; Quy trình kiểm toán Chương
trình mục tiêu Quốc gia; Quy trình kiểm toán Ngân sách nhà nước; Quy trình
kiểm toán Doanh nghiệp nhà nước; Quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán;
Quy trình kiểm toán Các tổ chức tài chính - ngân hàng; Quy chế kiểm soát chất
lượng kiểm toán; Quy trình kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán của KTNN;
Hệ thống chuẩn mực KTNN; Quy định trình tự lập, thẩm định, xét duyệt và phát
hành báo cáo kiểm toán của KTNN; Quy định về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm các
ngạch Kiểm toán viên nhà nước; Quy định danh mục hồ sơ kiểm toán; chế độ
nộp lưu, bảo quản, khai thác và tiêu huỷ hồ sơ kiểm toán; Quy tắc ứng xử của
Kiểm toán viên nhà nước; Quy định lập và ban hành kế hoạch kiểm toán năm
của KTNN; Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn KTNN; …
21
Những căn cứ pháp lý này góp phần quan trọng để phát triển, hoàn thiện về
tổ chức và hoạt động của KTNN, góp phần tích cực trong việc giúp Quốc hội
thực hiện chức năng kiểm soát và giám sát quá trình quản lý, điều hành, sử dụng
ngân sách nhà nước và công quỹ quốc gia. Việc chủ động, khẩn trương xây
dựng và ban hành các văn bản nói trên nhằm tạo một hệ thống pháp lý vững
chắc cho tổ chức và hoạt động của KTNN, nâng cao vị thế và vai trò của KTNN
trong hệ thống chính trị nước ta, trở thành công cụ quản lý của nhà nước trong
việc kiểm tra, kiểm soát nền tài chính công.
Như vậy, việc ban hành các văn bản pháp luật về KTNN có thể nói là bước
tiến dài trong hoạt động lập pháp của Nhà nước khi quy định địa vị pháp lý của
KTNN trong hệ thống pháp luật, hệ thống pháp luật Việt Nam thời gian qua đã
từng bước xác định và hoàn thiện địa vị pháp lý của KTNN nói riêng và tổ chức,
hoạt động của KTNN nói chung. Tuy nhiên, cũng phải khẳng định rằng pháp
luật hiện hành quy định về tổ chức và hoạt động của KTNN vẫn chưa hoàn
chỉnh, thiếu tính thống nhất và đồng bộ (phân tích và đánh giá tại phần sau).
Thực trạng này đòi hỏi phải có những sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước
đảm bảo phù hợp với tình hình mới.
5. Kết quả đạt được trong tổ chức và hoạt động của KTNN
5.1. Nâng cao địa vị phap lý của Kiêm toan Nhà nước
KTNN được thành lập và hoạt động theo Nghị định số 70/CP ngày
11/7/1994 của Chính phủ, Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN và
được bổ sung, hoàn thiện một bước về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức tại Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ.
22
Đây là cơ quan mới thành lập trong công cuộc đổi mới đất nước và tiến trình
cải cách nền hành chính quốc gia, trước đó chưa có tiền thân về tổ chức và tiền lệ
về hoạt động. Sự ra đời và phát triển KTNN là một tất yếu khách quan, đánh dấu
một bước phát triển mới của hệ thống các công cụ kiểm tra, kiểm soát ở Việt Nam
trong điều kiện mới. Việc thành lập cơ quan KTNN khẳng định quyết tâm của
Đảng, Nhà nước ta trong việc thiết lập trật tự, kỷ cương quản lý nguồn lực tài chính
quốc gia; tăng cường tính minh bạch và công khai nền tài chính đất nước; góp phần
thực thi dân chủ xã hội và chống tiêu cực, tham nhũng. Tuy nhiên, theo các văn bản
trên, KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ, địa vị pháp lý chưa phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ được giao với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao
nhất trong hệ thống kiểm soát của Nhà nước.
Luật KTNN được ban hành đã mở ra giai đoạn phát triển mới của KTNN.
Địa vị pháp lý của KTNN đã được nâng cao phù hợp hơn với vị trí, vai trò và
chức năng, nhiệm vụ được giao "KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm
tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật". Quy định về địa vị pháp lý của cơ quan KTNN như trên đã phù
hợp với Điều 5 Tuyên bố Lima về kiểm tra tài chính công của INTOSAI: "Cơ
quan KTNN chỉ có thể thực hiên được nhiêm vụ của mình một cách khách quan
và thật hiêu qua khi nó có vị trí độc lập với cơ quan bị kiểm tra và được bao vê
trước những anh hưởng từ bên ngoài". Việc tổ chức cơ quan kiểm tra tài chính
độc lập tương đối với cơ quan lập pháp, hành pháp bảo đảm tính độc lập về
nghiệp vụ và thiết chế của KTNN.
5.2. Quy định đầy đủ hơn chức năng, nhiêm vụ và quyền hạn của Kiêm
toan Nhà nước
Khi mới thành lập, KTNN chủ yếu thực hiện chức năng kiểm toán báo cáo
tài chính và kiểm toán tuân thủ. Đến khi Luật KTNN được ban hành đã quy định
đầy đủ các chức năng vốn có của KTNN phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều 14
Luật KTNN quy định: “KTNN có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm
toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quan lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài san nhà nước”. Đây là những chức năng kiểm toán hiện
đại được các quốc gia có nền KTNN tiên tiến trên thế giới áp dụng.
Điều 15. Nhiêm vụ của Kiêm toan Nhà nước
23
1. Quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và báo cáo với Quốc hội,
Chính phủ trước khi thực hiện.
2. Tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán hàng năm và thực hiện nhiệm vụ
kiểm toán theo yêu cầu của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ.
3. Xem xét, quyết định việc kiểm toán khi Thường trực Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có yêu cầu.
4. Trình ý kiến của Kiểm toán Nhà nước để Quốc hội xem xét, quyết định dự
toán ngân sách nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự
án, công trình quan trọng quốc gia, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
5. Tham gia với Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội và các cơ quan khác
của Quốc hội, Chính phủ trong việc xem xét, thẩm tra báo cáo về dự toán ngân sách
nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, phương án điều chỉnh dự toán
ngân sách nhà nước, phương án bố trí ngân sách cho dự án, công trình quan trọng
quốc gia do Quốc hội quyết định và quyết toán ngân sách nhà nước.
6. Tham gia với Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội khi có yêu cầu
trong hoạt động giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân
sách, giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước và chính sách tài chính.
7. Tham gia với các cơ quan của Chính phủ, của Quốc hội khi có yêu cầu
trong việc xây dựng và thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh.
8. Báo cáo kết quả kiểm toán năm và kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán
với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội; gửi báo cáo kiểm toán cho Hội đồng
dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ; cung cấp kết quả kiểm toán cho Bộ Tài chính, Hội đồng nhân dân nơi kiểm
toán và các cơ quan khác theo quy định của pháp luật.
9. Tổ chức công bố công khai báo cáo kiểm toán theo quy định tại Điều 58,
Điều 59 của Luật này và các quy định khác của pháp luật.
10. Chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra và các cơ quan khác của Nhà nước
có thẩm quyền kiểm tra, xử lý những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật của
tổ chức, cá nhân đã được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán.
11. Quản lý hồ sơ kiểm toán; giữ bí mật tài liệu, số liệu kế toán và thông tin
về hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp luật.
24
12. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
13. Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng,
phát triển nguồn nhân lực của Kiểm toán Nhà nước.
14. Tổ chức thi và cấp chứng chỉ Kiểm toán viên nhà nước.
15. Chỉ đạo và hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán nội bộ; sử
dụng kết quả kiểm toán nội bộ của cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 6
của Luật này.
16. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 16. Quyền hạn của Kiêm toan Nhà nước
1. Yêu cầu đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cung
cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán; đề
nghị cơ quan hữu quan phối hợp công tác để thực hiện nhiệm vụ được giao; đề
nghị cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội và công dân giúp
đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ.
2. Yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện các kết luận, kiến nghị của Kiểm
toán Nhà nước đối với các sai phạm trong báo cáo tài chính và các sai phạm trong
việc tuân thủ pháp luật; kiến nghị thực hiện các biện pháp khắc phục yếu kém trong
hoạt động của đơn vị do Kiểm toán Nhà nước phát hiện và kiến nghị.
3. Kiểm tra đơn vị được kiểm toán trong việc thực hiện kết luận và kiến
nghị của Kiểm toán Nhà nước.
4. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu các đơn vị được kiểm
toán thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán đối với các trường hợp sai phạm
trong báo cáo tài chính và các sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật; đề nghị xử lý
theo pháp luật những trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp
thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước.
5. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý những vi phạm pháp
luật của tổ chức, cá nhân đã được làm rõ thông qua hoạt động kiểm toán.
6. Đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo pháp luật đối với tổ chức, cá
nhân có hành vi cản trở hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước hoặc
cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật cho Kiểm toán Nhà nước và Kiểm toán
viên nhà nước.
7. Trưng cầu giám định chuyên môn khi cần thiết.
25
8. Được uỷ thác hoặc thuê doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm toán cơ
quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; Kiểm toán
Nhà nước chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu, tài liệu và kết luận
kiểm toán do doanh nghiệp kiểm toán thực hiện.
9. Kiến nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính
sách và pháp luật cho phù hợp.
5.3. Quy định về thẩm quyền bổ nhiêm Tổng Kiêm toan Nhà nước
Điều 17 Luật KTNN quy định: "Tổng KTNN do Quốc hội bầu, miễn
nhiêm và bãi nhiêm theo đề nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sau khi trao
đổi thống nhất với Thủ tướng Chính phủ. Nhiêm kỳ của Tổng KTNN là bay năm,
có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiêm kỳ. Lương và chế độ khác của
Tổng KTNN như lương và chế độ khác của Chủ nhiêm Uỷ ban của Quốc hội".
Với quy định này, Quốc hội đã quy định thẩm quyền và quy trình bổ nhiệm đối
với Tổng KTNN để đảm bảo tính độc lập, khách quan của Tổng KTNN nói
riêng và cơ quan KTNN nói chung khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán.
5.4. Kiên toàn một bước cơ ban về tổ chức bộ may và công chức, viên
chức của Kiêm toan Nhà nước
Điều 21 Luật KTNN quy định: "KTNN được tổ chức và quan lý tập trung
thống nhất gồm bộ máy điều hành, KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực và các
đơn vị sự nghiêp”. Trong đó, Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, thực hiện
kiểm toán theo chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức ở trung ương. Các Kiểm
toán Nhà nước khu vực thực hiện kiểm toán đối với cơ quan, tổ chức ở địa
phương trên địa bàn khu vực và các nhiệm vụ kiểm toán khác theo sự phân công
của Tổng Kiểm toán Nhà nước. KTNN khu vực có tư cách pháp nhân, có con
dấu, tài khoản và trụ sở riêng.
Ngày 15/9/2005, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
916/2005/NQ-UBTVQH11 quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức của KTNN. So
với quy định tại Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ,
cơ cấu tổ chức của KTNN có nhiều điểm mới:
- Đổi tên Vụ Giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán thành Vụ Chế độ
và Kiểm soát chất lượng kiểm toán, thực hiện chức năng xây dựng trình Tổng
KTNN ban hành hệ thống chuẩn mực KTNN; ban hành quyết định, chỉ thị, chế
26
độ công tác; quy chế, quy trình và phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm
toán, hồ sơ kiểm toán áp dụng trong hoạt động KTNN và kiểm toán nội bộ; đồng
thời, thực hiện chức năng kiểm soát chất lượng kiểm toán của KTNN.
- Các đơn vị KTNN chuyên ngành được đổi tên thành các KTNN chuyên
ngành theo thứ tự từ KTNN chuyên ngành I đến KTNN chuyên ngành VII.
- Thành lập Vụ Tổng hợp để tham mưu cho Tổng KTNN quản lý hoạt động
kiểm toán của KTNN như: Xây dựng kế hoạch kiểm toán của toàn ngành, phân
giao nhiệm vụ kiểm toán cho các đơn vị KTNN chuyên ngành và KTNN khu
vực, theo dõi việc thực hiện kế hoạch kiểm toán của toàn ngành, thẩm định và
xét duyệt báo cáo kiểm toán trước khi trình Tổng KTNN ký công bố, tổng hợp,
lập báo cáo kiểm toán năm, báo cáo thực hiện các kết luận và kiến nghị kiểm
toán, tổ chức công bố công khai báo cáo kiểm toán theo quy định tại Điều 58 và
Điều 59 Luật KTNN và là đầu mối quan hệ công tác giữa KTNN với Quốc hội
và Chính phủ.
27
- Thành lập Vụ Quan hệ quốc tế (nay là Vụ Hợp tác Quốc tế) để tham mưu
cho Tổng KTNN quản lý công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KTNN, nhằm
tăng cường và tranh thủ tốt nhất sự giúp đỡ của các tổ chức và cơ quan KTNN
trên thế giới, nhất là về kinh nghiệm kiểm toán hoạt động, đào tạo cán bộ để
triển khai thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật KTNN,
từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động KTNN đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ và hội nhập quốc tế.
- Để tiếp tục tăng cường năng lực hoạt động cho KTNN, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1123/NQ-UBTVQH11 ngày 28/5/2007 và
Nghị quyết số 1064/2011/NQ-UBTVQH12 ngày 29/4/2011 thành lập thêm 08
KTNN khu vực, 01 KTNN chuyên ngành. Ngày 16/01/2013 Ủy ban Thường vụ
Quốc hội vừa ban hành Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH13 về việc Thành lập
Thanh tra KTNN và đổi tên Vụ Quan hệ quốc tế thành Vụ Hợp tác quốc tế.
Theo đó, Thanh tra KTNN được thành lập là đơn vị tương đương cấp vụ, trực
thuộc cơ cấu tổ chức KTNN. Thanh tra KTNN thực hiện chức năng thanh tra
hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc KTNN trong việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao
Thực tiễn hoạt động những năm qua đã khẳng định mô hình tổ chức, cơ cấu
của KTNN như hiện nay cơ bản thích hợp và hiệu quả, phù hợp với quy định về
quản lý, điều hành NSNN theo quy định của Luật NSNN và phù hợp thông lệ
quốc tế. Sau 19 năm hoạt động, đặc biệt là từ khi có Luật KTNN, KTNN đã xây
dựng bộ máy tổ chức tập trung thống nhất với 31 đơn vị trực thuộc gồm, 07 đơn
vị tham mưu, 08 KTNN chuyên ngành, 13 KTNN khu vực và 03 đơn vị sự
nghiệp. Theo chiến lược phát triển KTNN đến 2020, KTNN sẽ có 39 đơn vị trực
thuộc gồm: 9 đơn vị tham mưu, 9 KTNN chuyên ngành, 15 KTNN khu vực và 6
đơn vị sự nghiệp.
- Đội ngũ công chức, viên chức không ngừng được tăng cường cả về số lượng và
chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ, cụ thể như sau:
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2013
Số người 714 969 1.164 1.254 1.469 1.563 1.644
28
Chất lượng đội ngũ công chức, viên chức cũng không ngừng được nâng lên,
thể hiện thông qua các cơ cấu sau:
+ Cơ cấu công chức theo trình độ đào tạo
100% công chức, kiểm toán viên có trình độ đại học trở lên, trong đó nhiều
người có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ, nhiều người có 02 đến 03 bằng đại học.
+ Cơ cấu công chức, viên chức theo ngạch
Số công chức làm công tác kiểm toán: 1.430 người (87%); làm hành chính:
165 người (10%); sự nghiệp 49 người (3%).
Cơ cấu theo ngạch kiểm toán viên như sau:
Công chức ngạch KTVDB: 20,8%;
Công chức ngạch KTV: 42,9%;
Công chức ngạch KTVC: 22,7%;
Cơ cấu công chức hành chính:
Công chức ngạch KTVCC: 08 người (4,2 %);
Công chức ngạch CVC và tương đương: 45 người (27,27%);
Công chức ngạch CV và tương đương: 96 người (58,1%);
Công chức ngạch cán sự: 17 người (10,3%).
+ Cơ cấu công chức theo chuyên ngành đào tạo
Chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng, thương mại: 66%;
Chuyên ngành kỹ thuật: xây dựng, giao thông, thuỷ lợi, kiến trúc: 17%;
Chuyên ngành khác: luật, hành chính, xã hội, ...: 17%;
KTNN đã hoàn thành công tác quy hoạch cán bộ, công chức lãnh đạo giai
đoạn 2011-2015 và giai đoạn 2016-2021, đủ về số lượng, cơ cấu và đảm bảo sự
kế thừa giữa các thế hệ. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã bầu Tổng KTNN, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội đã bổ nhiệm 07 Phó Tổng KTNN; Tổng KTNN đã bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển của ngành và tiến trình cải cách hành chính.
5.5. Quy mô, loại hình, chất lượng kiêm toan được mở rộng và tăng
cường
29
Với khuôn khổ pháp lý dần hoàn thiện, năng lực được tăng cường, hoạt
động KTNN ngày càng mở rộng về quy mô, đa dạng về loại hình và phương thức
kiểm toán, tiến bộ về chất lượng kiểm toán, công khai kết quả kiểm toán theo quy định
của pháp luật. Qua thực hiện Luật, hoạt động kiểm toán của KTNN đã đạt được
những bước tiến như sau:
- Về quy mô:
Từ khi Luật KTNN có hiệu lực thi hành, mỗi năm KTNN thực hiện kiểm
toán trên 100 cuộc kiểm toán (Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, tỉnh, thành phố,
tập đoàn, tổng công ty… ), bình quân tăng gấp 2 lần so với giai đoạn trước khi
có Luật KTNN, riêng lĩnh vực đầu tư XDCB có số lượng các dự án đầu tư được
kiểm toán gấp 4 lần. Cụ thể số cuộc kiểm toán hàng năm như sau:
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Số cuộc KT 104 108 141 134 142 154 156 143
30
Trung bình mỗi năm KTNN thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN
của 60% số tỉnh, thành phố; báo cáo tài chính của 60% số Bộ, ngành Trung
ương và 12% số doanh nghiệp nhà nước do Trung ương quản lý.
Khoảng cách bình quân giữa 2 lần kiểm toán tại mỗi đơn vị được kiểm toán
đã rút ngắn. Giai đoạn trước khi Luật KTNN có hiệu lực, tần suất kiểm toán từ 4-
5 năm/lần/đơn vị. Từ khi Luật KTNN có hiệu lực thi hành, hầu hết các đơn vị dự
toán cấp I thuộc ngân sách Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tài
chính, bảo hiểm… được kiểm toán 2-3 năm/lần/đơn vị; nhiều đơn vị được kiểm
toán thường xuyên hàng năm theo luật định như: Ngân hàng Nhà nước, Ngân
hàng Chính sách xã hội....
Bên cạnh việc thực hiện kiểm toán theo Kế hoạch kiểm toán hàng năm,
KTNN còn thực hiện nhiều cuộc kiểm toán phục vụ công tác giám sát theo yêu
cầu của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội như: Chương trình trồng mới 5 triệu ha
rừng, Tổng Công ty Tài chính cổ phần dầu khí, Tổng công ty Thuốc lá Việt
Nam...; kiểm toán theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, như: kiểm toán để
giải quyết tồn đọng tài chính tại 35 nhà máy đường, Xí nghiệp liên doanh dầu
khí Vietsopetro, Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ FPT, Dự án Trung
tâm Hội nghị quốc gia, Dự án Cầu Vĩnh Tuy, Dự án Đường 5 kéo dài … Việc
thực hiện kiểm toán các chương trình mục tiêu quốc gia theo đề nghị của các
nhà tài trợ như: Chương trình 135, Chương trình mục tiêu Quốc gia (MTQG)
nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Chương trình MTQG về giáo dục
và đào tạo; hợp tác, kiểm toán chung với KTNN các nước (Phối hợp với Kiểm
toán Liên bang Nga kiểm toán Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro...) đã trở thành
công việc thường xuyên trong những năm gần đây của KTNN.
- Về loại hình và phương thức kiểm toán:
31
Trước khi có Luật KTNN, KTNN chủ yếu thực hiện kiểm toán báo cáo tài
chính, kiểm toán tuân thủ theo phương thức hậu kiểm phù hợp với giai đoạn đầu
mới thành lập. Từ khi có Luật KTNN, KTNN đã tăng cường kiểm toán cả về
diện và chiều sâu, thực hiện đầy đủ cả 3 loại hình kiểm toán: Kiểm toán báo cáo
tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động, chú trọng đánh giá tình
hình thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, chất lượng công tác kiểm toán Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước
được nâng cao, kết quả cuộc kiểm toán đã phục vụ tốt cho Chính phủ, Quốc hội
trong việc xem xét, phê chuẩn quyết toán NSNN và quyết định dự toán NSNN;
cung cấp thông tin cho HĐND các cấp phê chuẩn quyết toán ngân sách địa
phương hàng năm. KTNN cũng thực hiện kiểm toán và xác nhận báo cáo quyết
toán vốn đầu tư của các dự án XDCB, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp,
các đơn vị, tổ chức kinh tế nhằm cung cấp thông tin khách quan, trung thực và
nâng cao tính minh bạch trong quản lý ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Thực
hiện quy định của pháp luật, nhất là Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, KTNN đã tăng cường kiểm toán tuân thủ,
qua đó chỉ rõ sai phạm, trách nhiệm của các tập thể, cá nhân để xảy ra sai phạm;
kiến nghị cụ thể với các cơ quan liên quan xử lý theo quy định của pháp luật.
Những năm gần đây, KTNN đã chú trọng đẩy mạnh kiểm toán hoạt động
nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước, trước hết là đối với các dự án đầu tư, chương
trình mục tiêu quốc gia; phân tích các nguyên nhân lạm phát và đánh giá việc
thực hiện các gói giải pháp của Chính phủ chống lạm phát, kích cầu theo kết
luận của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc hội.
32
Cùng với sự đa dạng các loại hình kiểm toán, các phương thức kiểm toán
cũng được mở rộng. Bên cạnh phương thức kiểm toán quyết toán (hậu kiểm),
KTNN đã thực hiện thẩm định và trình bày ý kiến về dự toán NSNN hàng năm
trình Quốc hội. Nhiều dự án trọng điểm quốc gia được kiểm toán từ khi khởi
công đến khi kết thúc đầu tư như: Trung tâm Hội nghị quốc gia, Dự án Cầu
Vĩnh Tuy, Dự án Đường 5 kéo dài, Dự án nhà máy xi măng Thái Nguyên, Dự
án đầu tư xây dựng trụ sở Bộ Ngoại giao; Dự án đầu tư xây dựng nhà làm việc
các cơ quan Quốc hội và Văn phòng Quốc hội ... theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ và đề nghị của một số Bộ, ngành, địa phương. Phương thức kiểm
toán chuyên đề cũng được triển khai mở rộng nhằm đi sâu kiểm toán, giải đáp
các vấn đề thực tiễn trong công tác quản lý ngân sách, tiền và tài sản nhà nước
đang được dư luận quan tâm và đề xuất nhiều ý kiến có giá trị để hoàn thiện hệ
thống luật pháp, chính sách, chế độ quản lý. Điển hình là các cuộc kiểm toán
chuyên đề quản lý và sử dụng ngân sách chi cho khoa học công nghệ giai đoạn
2001- 2005; chuyên đề chi sự nghiệp môi trường giai đoạn 2006-2008; chuyên
đề bù lỗ mặt hàng dầu giai đoạn 2006 - 2008; chuyên đề quản lý và sử dụng phí,
lệ phí giao thông đường bộ …
- Về chất lượng kiểm toán:
33
Với nhiều biện pháp tăng cường quản lý, kiểm soát chất lượng kiểm toán và
đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên, chất lượng kiểm toán ngày càng cao,
đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn. Những kiến nghị của KTNN
ngày càng đa dạng, phong phú, sắc sảo và có chất lượng hơn, được Chính phủ,
Quốc hội, các Bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày càng nhiều trong xem xét,
phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách, giám sát ngân sách và thực hiện
chính sách pháp luật; trong quản lý và xây dựng chính sách tài chính - ngân sách;
các đơn vị được kiểm toán khắc phục những yếu kém, bất cập, hoàn thiện hệ
thống kiểm soát nội bộ. Hàng năm, KTNN đều tổ chức thanh tra, kiểm tra việc
thực hiện Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn KTNN, Quy tắc ứng xử của
Kiểm toán viên nhà nước cũng như hồ sơ kiểm toán trong khi thực hiện hoặc kết
thúc kiểm toán đã đưa vào lưu trữ; ban hành và kiểm tra việc thực hiện các chỉ
thị của Tổng KTNN về tăng cường quản lý hoạt động kiểm toán, kiểm soát chất
lượng kiểm toán. Kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm soát chất lượng được công
khai, có tác dụng tốt kịp thời chấn chỉnh các sai phạm và biểu dương khen
thưởng những nhân tố tích cực để nâng cao chất lượng kiểm toán, rút ngắn thời
gian kiểm toán và tránh được các sai phạm, khuyết điểm của Kiểm toán viên.
- Về kết qua kiểm toán:
Theo thống kê từ 2006 - 2010, KTNN đã kiến nghị xử lý tài chính 70.597
tỷ đồng, trong đó: Tăng thu về thuế và các khoản thu khác 17.078 tỷ đồng, giảm
chi NSNN 10.806 tỷ đồng, các khoản phải nộp, hoàn trả và quản lý qua NSNN
29.133 tỷ đồng, phát hiện tăng thêm so với báo cáo của cơ quan quản lý thu
7.871 tỷ đồng, kiến nghị xử lý tài chính khác 9.344 tỷ đồng.
34
Kết quả hoạt động KTNN không chỉ thể hiện, ghi nhận bằng những số liệu
kiến nghị xử lý tài chính hàng nghìn tỷ đồng mà còn thể hiện ở những kiến nghị
kiểm toán mang tính tư vấn, xử lý sai phạm,... đã giúp các đơn vị được kiểm
toán, các cơ quan quản lý nhà nước chấn chỉnh công tác quản lý tài chính - ngân
sách, kế toán, ngăn ngừa những hành vi tiêu cực, tham ô, lãng phí, thất thoát
tiền, tài sản nhà nước; giúp các đơn vị hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý của
mình, đảm bảo quản lý, sử dụng tiền tài sản nhà nước đúng pháp luật và có hiệu
quả. Ngoài ra, KTNN đã phối hợp, cung cấp những thông tin xác thực về tình
hình quản lý điều hành ngân sách, tiền và tài sản nhà nước và có nhiều kiến nghị
với Quốc hội, Chính phủ,... góp phần sửa đổi, hoàn thiện các cơ chế, chính sách
nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. KTNN đã kiến nghị huỷ
bỏ, sửa đổi hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật sai quy định hoặc không phù
hợp thực tế. Kiến nghị các Bộ, ngành, địa phương hủy bỏ 128 văn bản, sửa đổi,
bổ sung 86 văn bản. Đặc biệt, KTNN đã đề xuất ý kiến hoàn thiện nhiều văn bản
quy phạm pháp luật, nhất là Luật NSNN, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Phòng, chống tham nhũng... Đây là những đóng
góp thiết thực của KTNN với chức năng tư vấn của cơ quan kiểm tra tài chính
nhà nước.
Qua 7 năm thực hiện Luật KTNN đã góp phần tăng cường tính minh bạch,
hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Kết quả hoạt động KTNN đã đóng góp tích cực vào thành tựu công cuộc đổi
mới, cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách tài chính công, khẳng định vị trí,
vai trò của KTNN trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế. Hoạt động KTNN và công khai kết quả kiểm toán không chỉ góp phần
tạo lòng tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước mà còn tạo lòng tin với nhân
dân, công chúng và toàn xã hội.
5.6. Viêc công khai và cung cấp kết qua kiêm toan được dư luận đồng
tình và đanh gia cao
35
Thực hiện quy định tại Điều 58 và Điều 59 của Luật KTNN, Nghị định số
91/2008/NĐ-CP ngày 18/8/2008 của Chính phủ về công khai kết quả kiểm toán
và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN. Hàng năm,
KTNN công bố công khai kết quả kiểm toán năm và kết quả kiểm toán một số
cuộc kiểm toán thông qua hình thức họp báo và đăng tải trên Trang thông tin
điện tử và Tạp chí Kiểm toán theo quy định. Việc công khai kết quả kiểm toán
đảm bảo đúng pháp luật, có tính định hướng, được dư luận đồng tình và đánh
giá cao. Các báo cáo kiểm toán định kỳ, đột xuất đều được báo cáo, gửi, cung
cấp đầy đủ, kịp thời cho Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, đơn vị được kiểm toán v.v…theo quy định của pháp luật.
Cùng với Báo cáo kiểm toán, Tổng KTNN còn gửi công văn tới các Bộ trưởng,
Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố, thủ trưởng các đơn vị được kiểm toán và
các cơ quan hữu quan để thông báo và đề nghị thực hiện các kết luận, kiến nghị
kiểm toán. Vì vậy, việc thực hiện và báo cáo, tổng hợp thực hiện kết luận, kiến
nghị kiểm toán ngày càng đi vào thực chất và nề nếp. Các báo cáo kiểm toán của
KTNN được gửi đầy đủ và kịp thời đến Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng,
chống tham nhũng theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng. Thực hiện
Thông tư liên tịch giữa Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, TAND tối cao,
VKSND tối cao và KTNN về trao đổi, quản lý, sử dụng thông tin dữ liệu về
phòng, chống tham nhũng, hàng quý KTNN cung cấp kết quả kiểm toán cho
Thanh tra Chính phủ. KTNN đã chuyển nhiều hồ sơ, vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân cho cơ quan điều tra, cơ quan kiểm tra
Đảng, Thanh tra Chính phủ và thanh tra của các Bộ, ngành để xử lý theo thẩm
quyền; chủ động hoặc cung cấp theo yêu cầu kết quả kiểm toán cho các cơ quan
thanh tra, kiểm tra, giám sát của Đảng và Nhà nước ở trung ương cũng như địa
phương. KTNN cũng cử nhiều lượt cán bộ cấp vụ, cấp phòng tham gia có hiệu
quả các đoàn giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc
hội, các đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành của Đảng và Nhà nước theo yêu cầu.
5.7. Cac đơn vị được kiêm toan và tổ chức, ca nhân có liên quan đã nâng
cao ý thức trong viêc tuân thủ nghĩa vụ và trach nhiêm của mình
Thực hiện Luật KTNN, các đơn vị được kiểm toán và các cá nhân có liên
quan đã thực hiện tốt hơn nghĩa vụ cung cấp các thông tin, tài liệu phục vụ cho
việc kiểm toán; các tổ chức và cơ quan hữu quan đã phối hợp tốt trong công tác
để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán.
36
Các đơn vị được kiểm toán ngày càng thực hiện nghiêm túc các kết luận, kiến
nghị của KTNN đối với các sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật; thực hiện các
biện pháp khắc phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do KTNN phát hiện và
kiến nghị. Lãnh đạo các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, UBND các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương cũng quan tâm và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các kết
luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN. Hàng năm, các đơn vị được kiểm toán đều
có báo cáo thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán gửi về KTNN.
5.8. Về bao đam hoạt động của Kiêm toan Nhà nước
Được sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các địa phương và nỗ
lực của ngành, trụ sở KTNN đã được xây dựng ở trung ương, một số KTNN khu
vực và Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ đảm bảo khang trang, khá
hiện đại. Tuy nhiên trụ sở làm việc còn thiếu, KTNN vẫn phải thuê trụ sở làm
việc cho các KTNN chuyên ngành và các đơn vị mới được thành lập.
KTNN đã xây dựng trung tâm cơ sở dữ liệu và hệ thống mạng ở trung ương,
các khu vực kết nối với mạng Chính phủ và Quốc hội; xây dựng và vận hành hệ
thống thư điện tử cho tất cả công chức, viên chức trong ngành. Xây dựng và đưa
vào khai thác 03 phần mềm phục vụ hoạt động kiểm toán và chương trình phần
mềm phục vụ quản lý, điều hành của lãnh đạo. Hàng năm, đảm bảo kinh phí hoạt
động theo mức ngân sách được phân bổ, chú trọng từng bước trang bị thêm các
phương tiện, đặc biệt là máy tính xách tay cho kiểm toán viên.
Cùng với chế độ phụ cấp trách nhiệm nghề kiểm toán, phụ cấp thâm niên
và chế độ trang phục cho kiểm toán viên, thu nhập của công chức, viên chức
được cải thiện đáng kể từ nguồn kinh phí trích 2% số tiền các cơ quan tổ chức
thực nộp ngân sách theo kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN.
6. Hạn chế về tổ chức và hoạt động của KTNN
Từ khi ra đời, KTNN đã góp phần không nhỏ vào việc kiểm soát NSNN,
thể hiện vai trò tích cực của mình trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, tổ
chức và hoạt động KTNN trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế cần phải
có biện pháp khắc phục, đó là:
6.1. Hạn chế về hiêu lực hoạt động kiêm toan
37
- Hiệu lực hoạt động kiểm toán còn hạn chế, chưa đủ mạnh để đi sâu làm rõ
sai phạm trong quản lí, điều hành, phân phối và sử dụng NSNN. Mặc dù mỗi
năm KTNN đã phát hiện kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi cho nhà nước hàng
nghìn tỉ đồng nhưng đó vẫn là con số rất nhỏ so với thực tế. Chưa phát huy tốt
vai trò của KTNN trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, số vụ việc KTNN
phát hiện hành vi tham nhũng chuyển cơ quan chức năng ít.
6.2. Hạn chế về phạm vi hoạt động của Kiêm toan Nhà nước còn hẹp
- Phạm vi hoạt động của KTNN còn hẹp, khối lượng thu chi ngân sách
được kiểm toán hàng năm còn chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng thu chi ngân sách,
chất lượng kiểm toán chưa cao, mới chỉ dừng lại ở việc xem xét, xử lí những vấn
đề riêng lẻ của từng đối tượng kiểm toán mà chưa đi sâu phân tích tổng hợp để
đưa ra các giải pháp có tính chất vĩ mô. Yêu cầu đối với KTNN, đó là KTNN
phải trở thành một công cụ đắc lực của nhà nước để quản lí nền kinh tế vĩ mô,
do đó, KTNN phải phát huy hết vai trò của mình, hoạt động tích cực hơn, có
hiệu quả hơn để đạt được chất lượng tốt nhất.
6.3. Hạn chế của đội ngũ Kiêm toan viên
- Đội ngũ KTV nhìn chung có phẩm chất tốt, chịu khó trong công việc
nhưng trình độ chưa tương xứng với đòi hỏi của nhiệm vụ được giao. Đã xuất
hiện hiện tượng phản ánh sự thiếu trong sáng trong công việc và trong sinh hoạt
làm ảnh hưởng đến thanh danh của KTNN. Đối với công việc kiểm toán, KTV
giữ một vai trò hết sức quan trọng, nhưng KTV vẫn chưa có những khoá đào tạo
về nghiệp vụ mang tính chất chuyên sâu và có tầm cỡ quốc tế trong nước. Mặc
dù nguồn lực về nhân viên kiểm toán của nước ta khá cao, nhưng tỉ lệ những
người có trình độ chuyên môn mang tính chất quốc tế lại thấp. Đây là một trong
những bất lợi mà kiểm toán Việt Nam phải đương đầu.
Định hướng sửa đổi, bổ sung Luật KTNN: Theo kế hoạch soạn thảo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN, Luật sẽ được trình Quốc hội
thông qua năm 2014. Trong đó tập trung sửa đổi một số nội dung lớn sau:
- Sửa đổi địa vị pháp lý của KTNN tại Điều 13 “Kiểm toán Nhà nước là cơ
quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực
hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công” cho phù hợp với
địa vị pháp lý của KTNN trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
38
- Sửa đổi Điều 14 chức năng của KTNN gồm: “kiểm tra, xác nhận và tư
vấn đối với hoạt động quan lý, sử dụng tài san và tài chính công” cho phù hợp
với công bố của INTOSAI. Đổi tên các KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực
thành Vụ kiểm toán chuyên ngành và Cục kiểm toán khu vực.
- Bổ sung nhiệm vụ “phòng, chống tham nhũng” vào khoản 10, Điều 15
cho tương thích với quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng; bổ sung thẩm
quyền của KTNN trong “Xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về
kiểm toán nhà nước theo quy định của pháp luật”cho đầy đủ, đảm bảo xử lý kịp
thời những trường hợp vi phạm pháp luật về KTNN.
- Bổ sung quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán vì công tác kiểm
toán là hoạt động mang tính chuyên môn cao và liên quan tới nhiều đối tượng
cần phải được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng kiểm toán cũng như trách nhiệm
của người thực thi công vụ.
- Bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan,
nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thiết lập và thực hiện quan hệ giữa KTNN với
các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động kiểm toán; nâng cao chất
lượng công tác kiểm toán đồng thời góp phần sử dụng hiệu quả hơn kết quả
kiểm toán.
7. Một số giải phap nhằm phat triên và hoàn thiện cac bộ may tổ chức
và hoạt động của KTNN
Để khắc phục những hạn chế trên cần xúc tiến việc phát triển, tăng cường
hệ thống bằng những giải pháp sau:
7.1 Nâng cao chất lượng của Kiêm toan viên
Thay đổi phong cách làm việc, không quan liêu, tham nhũng, làm việc năng
động và có hiệu quả. Cần đổi mới chương trình đào tạo và huấn luyện một cách
chuyên nghiệp và mang tầm cỡ quốc tế. Trước mắt, nên chú trọng vào việc đào
tạo cho các thế hệ trẻ. Cần có chính sách tài trợ thiết thực như: Giúp đỡ về mặt
tài chính, thành lập các chương trình đào tạo KTV ở nước ngoài...
39
Đối với hoạt động kiểm toán của KTNN, yếu tố con người có vai trò đặc
biệt quan trọng quyết định chất lượng kiểm toán và sự phát triển của KTNN.
Muốn ổn định và phát triển, KTNN cần phải xây dựng và thực hiện một chiến
lược về con người. Trên cơ sở tiêu chuẩn KTV nhà nước, phải thường xuyên
kiểm tra sát hạch, đánh giá phân loại KTV để sắp xếp bố trí công việc phù hợp
năng lực trình độ. Cần có quy hoạch cán bộ để có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng
dài hạn đáp ứng yêu cầu cán bộ của ngành. Vận hành chặt chẽ cơ chế thi tuyển,
sát hạch để nâng cấp, nâng bậc và cấp chứng chỉ KTV nhà nước. Xây dựng và
áp dụng chế độ lương, chế độ đãi ngộ tương xứng với nhiệm vụ và yêu cầu công
việc của KTV để vừa thu hút được người có năng lực trình độ, vừa đảm bảo vị
thế người thay mặt nhà nước làm công tác kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng ngân
quỹ, công sản quốc gia, bảo vệ lợi ích kinh tế của đất nước, đồng thời tránh sự
mua chuộc cám dỗ.
7.2. Hoàn thiên hê thống chuẩn mực kiêm toan nhà nước Viêt Nam
Hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kiểm toán nhà nước Việt Nam để bảo đảm
cơ sở pháp lí vững chắc khi làm việc, hạn chế những rủi ro đáng tiếc do quy
định không rõ ràng.
7.3. Tăng cường đổi mới công tac tổ chức hoạt động kiêm toan và nâng
cao hiêu lực của hoạt động Kiêm toan Nhà nước
Nhanh chóng áp dụng phương pháp kỹ thuật kiểm toán tiên tiến và hiện đại
hoá công tác kiểm toán. Những bài học kinh nghiệm thu được qua kiểm toán và
kiến thức học tập tiếp thu của các nước trên thế giới cần khẩn trương áp dụng để
đổi mới công tác tổ chức hoạt động kiểm toán, tạo đà cho hoạt động kiểm toán
của KTNN có sự biến đổi về chất:
+ Lập kế hoạch định hướng xây dựng và phát triển dài hạn. Xây dựng định
hướng công tác kiểm toán mục tiêu cho công tác kiểm toán cho từng thời kỳ và
lâu dài. Cải tiến công tác khảo sát lập kế hoạch kiểm toán hàng năm và lập kế
hoạch kiểm toán cho từng cuộc kiểm toán phù hợp điều kiện của KTNN và khả
năng trình độ KTV; nhằm đảm bảo đáp ứng tốt nhất cho mục tiêu hoạt động
kiểm toán trong từng thời kỳ;
40
+ Khắc phục những yếu điểm trong công tác kiểm toán, chấn chỉnh công
tác tổ chức điều hành của các đoàn kiểm toán; nâng cao kỹ năng kiểm toán và
thu thập bằng chứng kiểm toán của KTV. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra sổ sách
chứng từ và kiểm tra thực tế. Chuẩn hoá quá trình xử lý kết quả, tổng hợp viết
báo cáo kiểm toán. Nâng cao chất lượng kiểm toán, báo cáo kiểm toán và chất
lượng báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán hàng năm của KTNN, áp dụng thử
nghiệm và từng bước đẩy mạnh kiểm toán trước, kiểm toán hoạt động;
+ Khẩn trương xây dựng đề án chiến lược về ứng dụng kỹ thuật tin học làm
căn cứ định hướng cho việc thực hiện chương trình trang bị kỹ thuật và ứng
dụng tin học, từng bước hiện đại hóa công tác kiểm toán. Xây dựng chương
trình kiểm toán việc ứng dụng tin học ở các cơ quan đơn vị để hạn chế lãng phí
thiệt hại và tăng cường tính kinh tế hiệu quả;
+ Mở rộng quan hệ quốc tế, tiến tới mở cửa hội nhập khu vực và thế giới về
kiểm toán. Tăng cường tuyên truyền để quảng bá quần chúng nhận thức được
vai trò vị trí và tác dụng của hoạt động kiểm toán;
+ Thực hiện công khai hoá kết quả kiểm toán và báo cáo tổng hợp kết quả
kiểm toán hàng năm trên các phương tiện thông tin đại chúng để tăng cường
quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức ép của dư luận xã hội đối với các
hành vi làm trái do KTNN phát hiện ra, làm tăng tính hiệu lực của những phát
hiện và kiến nghị của KTNN.
7.4. Củng cố và hoàn thiên cơ cấu tổ chức bộ may Kiêm toan Nhà nước
Củng cố và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy KTNN trung ương theo
hướng chuyên môn hoá kiểm toán theo chuyên ngành hẹp; tăng cường năng lực
cho các bộ phận có chức năng tham mưu về chuyên môn nghiệp vụ:
+ Củng cố và hoàn thiện lại cơ cấu tổ chức bộ máy; rà soát, đánh giá, phân
giao lại chức năng nhiệm vụ quyền hạn giữa các đơn vị cho phù hợp, tránh
chồng chéo, nhất là phạm vi, lĩnh vực kiểm toán giữa các KTNN chuyên ngành,
giữa các KTNN chuyên ngành với các KTNN khu vực và chức năng nhiệm vụ
giữa các đơn vị tham mưu thuộc bộ máy điều hành. Tăng cường năng lực cho
các bộ phận tham mưu. Củng cố cơ cấu tổ chức các phòng, nhất là các phòng
nghiệp vụ; kết hợp giữa quản lý hành chính với quản lý chuyên môn nghiệp vụ;
coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức nghè nghiệp của KTV;
tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trong thực thi nhiệm vụ;
41
+ Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và đổi mới công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ. Tranh thủ các nguồn lực, dự án trong và ngoài nước, chọn cử
công chức có năng lực đi đào tạo trong và ngoài nước đào tạo cấp chứng chỉ
kiểm toán quốc tế, như: ACCA, CPA Úc…
8. Quy chế làm việc của KTNN
Từ khi thành lập, để hoạt động của KTNN nề nếp KTNN đã ban hành nhiều
văn bản điều chỉnh về quy chế làm việc của KTNN phân công nhiệm vụ cụ thể
cho các đơn vị và quy định trình tự thủ tục xử lý công việc của KTNN, gồm các
văn bản:
Quyết định số 03/1998/QĐ-KTNN ngày 16/10/1998 ban hành Quy chế làm
việc của cơ quan KTNN.
Quyết định số 01/2001/QĐ-KTNN ngày 23/5/2001 của Tổng KTNN ban
hành Quy chế làm việc của lãnh đạo KTNN.
Quyết định số 555/QĐ-KTNN ngày 11/7/2006 của Tổng KKTNN ban
hành Quy chế làm việc của KTNN (thay thế 02 quyết định trên).
Quy chế làm việc hiện hành của KTNN được ban hành kèm theo Quyết
định số 1817/QĐ-KTNN ngày 03/12/2012 của Tổng KKTNN (thay thế Quyết
định số 555/QĐ-KTNN).
Quy chế làm việc của KTNN gồm 8 Chương 29 điều, quy định về nguyên
tắc, chế độ trách nhiệm, lề lối làm việc, quan hệ công tác và trình tự giải quyết
công việc của KTNN. Bao gồm trách nhiệm, phạm vi và cách thức giải quyết công
việc của lãnh đạo KTNN, lãnh đạo và công chức các đơn vị trực thuộc KTNN; quy
định về trình tự, thủ tục giải quyết công việc của KTNN và chế độ thông tin báo
cáo của KTNN.
Bố cục của Quy chế như sau:
- Chương I, Những quy định chung: Gồm 3 điều quy định về phạm vi điều
chỉnh, đối tượng áp dụng và nguyên tắc làm việc của KTNN.
- Chương II, trách nhiệm, phạm vi và cách thức giải quyết công việc của
lãnh đạo KTNN gồm 3 điều (từ Điều 4 đến Điều 6).
- Chương III trách nhiệm, phạm vi và cách thức giải quyết công việc của thủ
trưởng, phó thủ trưởng và công chức các đơn vị (5 điều, từ Điều 7 đến Điều 11).
42
- Chương IV, trình tự, thủ tục giải quyết công việc của KTNN (5 điều, từ
Điều 12 đến Điều 16).
- Chương V, lập và thực hiện kế hoạch công tác, tổ chức các cuộc họp, hội
nghị (gồm 4 điều, từ Điều 17 đến Điều 20).
- Chương VI, Đi công tác và tiếp khách (4 điều, từ Điều 21 đến Điều 24).
- Chương VII, Chế độ thông tin, báo cáo (Điều 25 và Điều 26).
- Chương VIII, Điều khoản thi hành (3 điều, từ Điều 27 đến Điều 29).
Một số nội dung cơ ban của Quy chế
* Về nguyên tắc làm viêc, gồm 5 nguyên tắc sau:
Kiểm toán Nhà nước làm việc theo chế độ thủ trưởng, có phân công, phân
cấp và đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, Phó thủ trưởng đơn vị và
từng công chức, kiểm toán viên nhà nước. Mọi hoạt động của Kiểm toán Nhà
nước phải tuân thủ pháp luật và Quy chế làm việc của Kiểm toán Nhà nước. Cán
bộ, công chức của Kiểm toán Nhà nước xử lý và giải quyết công việc đúng
phạm vi trách nhiệm, thẩm quyền.
Trong phân công công việc, mỗi việc chỉ được giao một đơn vị hoặc một
người chủ trì và chịu trách nhiệm. Công việc đã giao cho đơn vị, Thủ trưởng
đơn vị chịu trách nhiệm chính về công việc được phân công.
Tuân thủ trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết công việc theo đúng quy
định của pháp luật, chương trình, kế hoạch, lịch làm việc và Quy chế làm việc,
trừ trường hợp đột xuất hoặc có yêu cầu khác của cơ quan cấp trên.
Phát huy năng lực và sở trường của cán bộ, công chức, đề cao sự phối hợp
công tác, trao đổi thông tin trong giải quyết công việc và trong mọi hoạt động
theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định.
Bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và hiệu quả trong mọi hoạt động.
* Trách nhiêm, phạm vi và cách thức giai quyết công viêc của Thủ trưởng
các đơn vị (Điều 7)
43
Quy chế quy định Thủ trưởng các đơn vị phải chủ động tổ chức thực hiện
công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị; chịu trách nhiệm
trước Tổng Kiểm toán Nhà nước về kết quả thực hiện công việc được giao; thực
hiện đầy đủ chế độ thông tin, báo cáo theo quy định của pháp luật và của Kiểm
toán Nhà nước. Những việc phát sinh vượt quá thẩm quyền, phải kịp thời báo cáo
lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước để cho ý kiến chỉ đạo, trường hợp đặc biệt, khẩn cấp
cần chủ động xử lý tình huống, báo cáo kết quả sau khi thực hiện; không tự ý chuyển
công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của đơn vị mình sang đơn vị khác. Quy định
trách nhiệm của lãnh đạo đơn vị trong thông tin báo cáo, quản lý công chức, trách
nhiệm trong việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện Quy chế tổ chức và hoạt đoàn kiểm
toán và các quy trình, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ của KTNN… Ngoài
những nhiệm vụ trên, Quy chế cũng quy định một số nhiệm vụ khác đối với Chánh
Văn phòng Kiểm toán Nhà nước.
* Trách nhiêm, phạm vi và cách thức giai quyết công viêc của công chức
Quy chế quy định trách nhiệm công chức trong chấp hành sự chỉ đạo, phân
công nhiệm vụ của lãnh đạo đơn vị. Giải quyết công việc đúng thời hạn, bảo
đảm chất lượng, tuân thủ quy trình xử lý công việc. Quy định, công chức có
quyền giữ ý kiến riêng, thể hiện ý kiến đó trong văn bản trình để Thủ trưởng đơn
vị xem xét, quyết định. Công chức chịu trách nhiệm trước cấp trên về công việc
được giao và chịu trách nhiệm trước pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ. Ngoài ra
quy chế quy định trách nhiệm của công chức trong trường hợp lãnh đạo Kiểm
toán Nhà nước yêu cầu làm việc trực tiếp với công chức; trách nhiệm của công
chức trong việc thông tin, báo cáo.
* Quan hê phối hợp giai quyết công viêc giữa các đơn vị
Thủ trưởng các đơn vị khi giải quyết các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ
của đơn vị mình có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của đơn vị khác, nhất thiết
phải trao đổi ý kiến với Thủ trưởng đơn vị liên quan. Đơn vị chủ trì chịu trách
nhiệm chính về toàn bộ quá trình xử lý công việc, có trách nhiệm chuyển hồ sơ,
tài liệu liên quan cho đơn vị phối hợp. Trường hợp nhiệm vụ được giao không
thuộc chức năng của đơn vị phải báo cáo ngay Tổng Kiểm toán Nhà nước xem
xét, quyết định.
* Thủ tục trình Tổng Kiểm toán Nhà nước (Điều 12)
44
Văn bản trình Tổng Kiểm toán Nhà nước phải ghi rõ chính kiến và thuyết
minh rõ nội dung công việc và kiến nghị hướng giải quyết cụ thể. Văn bản, hồ
sơ của các đơn vị trình Tổng Kiểm toán Nhà nước phải gửi qua Văn phòng
Kiểm toán Nhà nước. Văn phòng Kiểm toán Nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra về
thủ tục, thể thức, nội dung văn bản. Nếu văn bản, hồ sơ trình không đảm bảo thủ
tục, nội dung hoặc thể thức văn chậm nhất 02 ngày làm việc, Văn phòng Kiểm
toán Nhà nước trả lại đơn vị trình và nêu rõ lý do. Trường hợp văn bản, hồ sơ
đảm bảo thủ tục, thể thức, nội dung Văn phòng Kiểm toán Nhà nước có trách
nhiệm trình Tổng Kiểm toán Nhà nước. Thời gian trình trong thời gian chậm nhất
02 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ.
* Về viêc ký văn ban (Điều 13)
Về nguyên tắc các văn bản của KTNN đều do Tổng KTNN ký ban hành.
Tuy nhiên để giảm tải công việc cũng như để phân cấp cho các Phó Tổng KTNN
và thủ trưởng các đơn vị trực thuộc, Tổng KTNN giao Phó Tổng KTNN ký thay
các văn bản sau: Văn bản xử lý các vấn đề cụ thể phát sinh theo lĩnh vực được
Tổng KTNN phân công phụ trách; Một số văn bản thuộc lĩnh vực, đơn vị do
Tổng KTNN giao phụ trách. Tổng KTNN giao cho Chánh Văn phòng KTNN,
Vụ trưởng các Vụ tham mưu, các Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành được
thừa lệnh ký văn bản theo quy định của Pháp luật và của KTNN.
Quy chế cũng quy định Thủ trưởng các đơn vị có tư cách pháp nhân, có con
dấu riêng (như các KTNN khu vực, các Trung tâm, Báo Kiểm toán) được ký các
văn bản thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân công, phân cấp
quản lý. Phó thủ trưởng đơn vị được phép ký thay đối với văn bản thuộc thẩm
quyền của Thủ trưởng đơn vị khi được Thủ trưởng đơn vị ủy quyền.
* Quan lý văn ban, hồ sơ, tài liêu (Điều 16)
Quy chế quy định trách nhiệm của Thủ trưởng các đơn vị trong việc chỉ đạo
lập hồ sơ, quản lý hồ sơ công việc tại đơn vị mình và trách nhiệm công chức
trong việc lập hồ sơ công việc, quản lý hồ sơ, tài liệu và thực hiện chế độ bảo
mật theo quy định. Quy định trách nhiệm của Văn phòng KTNN và Trung tâm
tin học trong công tác bảo quản, lưu trữ và khai thác hồ sơ.
9. Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Kiêm toan Nhà nươc
45
Để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, theo đề nghị của thủ trưởng đơn vị chủ
trì cuộc kiểm toán, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp và Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ,
Tổng KTNN quyết định thành lập Đoàn kiểm toán. Tùy theo quy mô của mỗi
cuộc kiểm toán, Đoàn kiểm toán gồm trưởng đoàn, các Phó trưởng đoàn, các tổ
trưởng và thành viên tổ kiểm toán. Đoàn kiểm toán tự giải thể sau khi phát hành
báo cáo kiểm toán nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm tham gia xử lý, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về những đánh giá, xác nhận và kiến nghị trong báo
cáo cáo kiểm toán.
Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Kiểm toán nhà nước được ban
hành kèm theo Quyết định số 07/2012/QĐ-KTNN ngày 20/06/2012 của Tổng
KTNN. Quá trình xây dựng Quy chế được thực hiện nghiêm túc trên cơ sở:
- Nghiên cứu Luật Kiểm toán nhà nước, các văn bản pháp luật liên quan;
- Tổng kết thực tiễn thi hành Quyết định số 05/2009/QĐ-KTNN ngày
05/10/2009 của Tổng KTNN thông qua việc lấy ý kiến các đơn vị trong toàn
ngành về đánh giá những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, đồng
thời đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung đối với Quy chế trên;
- Bên cạnh việc tổ chức lấy ý kiến các đơn vị, từng thành viên Tổ soạn thảo
đã tiến hành rà soát, nghiên cứu và đề xuất sửa đổi, bổ sung đối với các nội dung
cụ thể của Quy chế;
- Sau khi tổng hợp các ý kiến đề xuất sửa đổi, bổ sung Quy chế trên, Tổ
biên soạn đã tổ chức 02 cuộc họp nghiên cứu tiếp thu, giải trình việc tiếp thu,
không tiếp thu các ý kiến góp ý của các đơn vị trực thuộc KTNN và hoàn thiện
trình Tổng KTNN;
- Tổ chức cuộc họp xin ý kiến chỉ đạo của Tổng KTNN, các Phó Tổng
KTNN và các đơn vị tham mưu về việc sửa đổi, bổ sung Quy chế.
Bố cục và nội dung của văn ban: gồm 5 chương 38 điều. Tóm tắt bố cục và
nội dung như sau:
(1)Chương I: Quy định chung (gồm 3 điều, từ Điều 1 đến Điều 3)
Quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; nguyên tắc hoạt động
của Đoàn kiểm toán nhà nước.
46
- Về phạm vi điều chỉnh: quy định về tổ chức, hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm trong tổ chức và hoạt động của Đoàn kiểm toán, mối quan hệ công
tác, lề lối làm việc, khen thưởng, kỷ luật đối với Đoàn kiểm toán, Tổ kiểm toán, các
thành viên Đoàn kiểm toán và các tổ chức, cá nhân có liên quan,
- Về đối tượng áp dụng: Áp dụng đối với các Đoàn kiểm toán được thành lập
theo quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan.
- Về nguyên tắc: Đoàn kiểm toán hoạt động theo chế độ thủ trưởng, hoạt động
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, trung thực, khách quan; tăng cường kỷ luật, đề
cao trách nhiệm; tuân thủ và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong quá trình
thực hiện và về kết quả kiểm toán đã thực hiện.
(2) Chương II: Tổ chức và hoạt động của Đoàn kiểm toán (gồm 16 điều, từ
Điều 4 đến Điều 19), quy định về:
- Thành lập và giải thể Đoàn kiểm toán;
- Thành phần Đoàn kiểm toán;
- Tiêu chuẩn Trưởng đoàn, Phó trưởng đoàn, Tổ trưởng Tổ kiểm toán;
- Các hành vi bị nghiêm cấm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm toán;
- Trường hợp Kiểm toán viên nhà nước không được thực hiện kiểm toán;
- Thay thế thành viên Đoàn kiểm toán;
- Tạm đình chỉ thành viên Đoàn kiểm toán;
- Thay đổi nội dung quyết định kiểm toán, kế hoạch kiểm toán;
- Kiểm tra, soát xét chất lượng kiểm toán;
- Niêm phong tài liệu, kiểm tra tài khoản;
- Kiểm kê tài sản, đối chiếu công nợ;
- Trưng cầu giám định;
- Xác minh, điều tra;
- Trách nhiệm lập Biên bản kiểm toán và Báo cáo kiểm toán của Tổ kiểm toán;
- Trách nhiệm lập Báo cáo kiểm toán; Trách nhiệm lập và quản lý hồ sơ
kiểm toán.
(3) Chương III: Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của thành viên Đoàn
kiểm toán và các đơn vị, cá nhân có liên quan (gồm 8 điều, từ Điều 20 đến Điều
27), quy định về:
47
- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Trưởng Đoàn kiểm toán;
- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Phó trưởng Đoàn kiểm toán;
- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Tổ trưởng Tổ kiểm toán;
- Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm toán viên nhà nước;
- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm toán viên dự bị;
- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thành viên khác;
- Quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm toán trưởng trong tổ chức và hoạt động
của Đoàn kiểm toán;
- Trách nhiệm của các đơn vị tham mưu trong tổ chức và hoạt động của Đoàn
kiểm toán.
Chương IV: Quan hệ công tác và lề lối làm việc (gồm 9 điều, từ Điều 28
đến Điều 36), quy định về:
- Chỉ đạo, kiểm tra hoạt động Đoàn kiểm toán;
- Chế độ báo cáo;
- Trình tự xử lý các dấu hiệu hoặc hành vi vi phạm của đơn vị được kiểm toán;
- Bảo lưu ý kiến;
- Xử lý ý kiến giải trình của đơn vị được kiểm toán;
- Trường hợp hai Đoàn kiểm toán cùng triển khai kiểm toán tại một đơn vị
được kiểm toán;
- Chế độ ăn, ở, đi lại;
- Chế độ họp, giao ban;
- Bảo đảm hoạt động của tổ chức đảng, đoàn thể.
(4) Chương V: Tổ chức thực hiện (gồm Điều 37 và Điều 38) quy định về
khen thưởng, xử lý vi phạm và trách nhiệm thi hành.
IV. BÀI TẬP, TÌNH HUỐNG THẢO LUẬN, THỰC HÀNH
1. KTNN thuộc nhánh cơ quan nào trong bộ máy nhà nước ta: cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp hay độc lập cả 3 cơ quan trên? Với quy định mô hình
địa vị pháp lý của KTNN như hiện nay, trong quá trình hoạt động có những ưu
điểm, hạn chế gì?
48
2. Địa vị pháp lý của cơ quan KTNN hiện nay được quy định trong dự thảo
sửa đổi Hiến pháp và trong Luật KTNN hiện hành như thế nào?
3. Năm 2010, Nguyễn Văn A chuyển công tác từ Tập đoàn A về KTNN. Năm 2012, được bố trí vào Đoàn kiểm toán tại Tập đoàn A (trước khi về KTNN, Nguyễn Văn A là Kế toán trưởng). Hỏi với tình huống trên, trường hợp gì xảy ra?
4. Xảy ra trường hợp gì và quy trình thực hiện ra sao khi Kiểm toán viên nghỉ làm việc liên tục từ 5 ngày trở lên?
5. Cần làm gì khi phát hiện nhiều nội dung trong Kế hoạch kiểm toán chi
tiết còn thiếu so với Kế hoạch kiểm toán của cuộc kiểm toán?
6. Theo Kế hoạch kiểm toán chi tiết, Nguyễn Văn A là KTVDB, được Tổ
trưởng tổ kiểm toán hướng dẫn. Khi lập biên bản xác nhận số liệu và tình hình
kiểm toán của KTV. Tổ trưởng tổ kiểm toán yêu cầu Nguyễn Văn A sửa nội
dung trong Biên bản xác nhận số liệu. Nếu Nguyễn Văn A không nhất trí với
quan điểm của Tổ trưởng thì cần làm gì?
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Luật Kiểm toán Nhà nước;
2 Nghị quyết 916/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 15/9/2005 của Ủy ban TVQH
về cơ cấu tổ chức của KTNN;
3 Nghị định số 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ, Quyết định
số 61/TTg ngày 24 tháng 01 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc
ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước (KTNN).
4 Nghị định số 93/2003/ NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2003 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước;
5 Luật kiểm toán độc lập;
6 Luật Ngân sách nhà nước;
7 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
8 Luật Quản lý thuế;
9 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
10 Luật cán bộ, công chức;
49
11 Luật Phòng, chống tham nhũng;
12 Luật Thanh tra;
13 Luật Khiếu nại;
14 Luật Tố cáo;
15 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật;
16 Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về chuyển
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần;
17 Quy chế làm việc của Kiểm toán Nhà nước ban hành kèm theo Quyết định
số 1817/QĐ-KTNN ngày 3/12/2012 của Kiểm toán Nhà nước;
18 Quy chế tổ chức và hoạt động đoàn kiểm toán ban hành kèm theo Quyết
định số 07/2012/QĐ-KTNN ngày 20/6/2012 của Kiểm toán Nhà nước;
19 Phan Trung Lý (chủ biên) Địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước, nxb
Chính trị quốc gia năm 2012;
20 Báo cáo Tổng kết 5 năm thi hành Luật Kiểm toán Nhà nước và đề xuất sửa
đổi, bổ sung Luật KTNN;
21 Tuyên bố Lima và Luật Kiểm toán một số nước: Trung Quốc, Ixaren,
Malayxia, Cộng hòa Liên Bang Đức…;
22 Quy chế làm việc của một số bộ: Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải …
50
top related