cÔng cuỘc ĐẤu tranh bẢo vỆ ĐỘc lẬp dÂn tỘc Ở nƯỚc...
Post on 09-Feb-2020
4 Views
Preview:
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐẶNG CÔNG THÀNH
CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Ở NƯỚC CỘNG HÒA BOLIVAR VENEZUELA
TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2013
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc
Hà Nội - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐẶNG CÔNG THÀNH
CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở NƯỚC CỘNG HÒA BOLIVAR VENEZUELA
TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2013
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc
Mã số: 62 22 03 12
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. Nguyễn Hữu Cát
2. PGS. TS. Nguyễn Thị Thúy Hà
Hà Nội - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong
luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ
Đặng Công Thành
3
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 10
1.1. NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC 13
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG LÀM RÕ 26
CHƯƠNG 2: QUAN NIỆM VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ NHÂN TỐ
TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP
DÂN TỘC Ở VENEZUELA TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2013 28
2.1. QUAN NIỆM VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC 28
2.2. NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP
DÂN TỘC Ở VENEZUELA 35
CHƯƠNG 3: NỘI DUNG VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CÔNG
CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VENEZUELA
TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2013 68
3.1. NỘI DUNG BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VENEZUELA 68
3.2. QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CÁC CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH
BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ KẾT QUẢ 83
CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA VENEZUELA TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM
2013 VÀ KINH NGHIỆM 119
4.1. ĐÁNH GIÁ CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở
VENEZUELA 119
4.2. KINH NGHIỆM 146
KẾT LUẬN 157
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ 159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160
PHỤ LỤC 173
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tiếng nước ngoài Tiếng Việt Nam
CNĐQ : Chủ nghĩa đế quốc
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNE Consejo Nacional Electoral Hội đồng Bầu cử quốc gia
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
ĐCS : Đảng Cộng sản
ĐLDT : Độc lập dân tộc
EU Euro Union Liên minh châu Âu
GCCN : Giai cấp công nhân
GCTS : Giai cấp tư sản
GCVS : Giai cấp vô sản
GDP Gross domestic product Tổng sản phẩm quốc nội
IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ quốc tế
LLSX : Lực lượng sản xuất
Nxb : Nhà xuất bản
OPEC Organization of Petroleum Exporting Countries
Tổ chức các nước xuất khẩu
dầu mỏ
PSUV Partido Socialista Unido de Venezuela
Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Venezuela
PDVSA Petróleos de Venezuela, S.A. Công ty Dầu lửa Venezuela
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
TLSX : Tư liệu sản xuất
TTXVN : Thông tấn xã Việt Nam
USD United States dollar Đô la Mỹ
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
WB World Bank Ngân hàng Thế giới
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ năm 1999, Tổng thống Hugo Chavez Frias lên nắm quyền ở Venezuela
đã mở đầu cho một “làn sóng cánh tả” ở khu vực. Các đảng cánh tả ở khu vực Mỹ
Latinh, bằng con đường bầu cử dân chủ đã giành được chính quyền và thực hiện
nhiều cải cách tích cực mang khuynh hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đánh dấu thời
kỳ phát triển mạnh mẽ của các đảng cánh tả (Venezuela, Chile, Brasil, Argentina,
Uruguay, Enxanvado, Bolivia, Ecuador, Nicaragua, Honduras, Guatemala, Paraguay).
Đây là sự kiện rất đáng được quan tâm bởi trong bối cảnh chính trị phức tạp của thế
giới hiện nay, khi mà cơn khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực khởi
đầu bằng sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu vẫn còn dư chấn;
công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước XHCN hiện nay tuy đã đạt nhiều thành tựu ở
tầm lịch sử, song vẫn còn không ít khó khăn trong quá trình xây dựng CNXH, trong
khi các thế lực thù địch với CNXH vẫn đang tiếp tục công kích, phản bác…
Dù đã có được thời kỳ phát triển mạnh mẽ và đảng cánh tả trở thành đảng
cầm quyền ở nhiều quốc gia thông qua tranh cử hợp pháp; nhưng không phải nơi
nào trong khu vực, cánh tả đều mạnh và cầm quyền đều thành công và bền vững
như nhau. Tuy nhiên, những đóng góp của cánh tả trong giai đoạn nói trên có ý
nghĩa lịch sử đối với từng quốc gia và cả khu vực, cũng như đối với phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế, phong trào dân chủ và đấu tranh xã hội trên phạm vi
toàn thế giới.
Nổi bật nhất trong phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh, đó là Venezuela dưới sự
lãnh đạo của Tổng thống Hugo Chavez. Với những nỗ lực không mệt mỏi trong công
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc (ĐLDT) từ khi Ông giữ chức Tổng thống nước
Cộng hòa Bolivar Venezuela (tháng 02/1999) cho đến khi qua đời (tháng 03/2013),
Ông được coi là người đi đầu trong phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh bằng việc khẳng
định xây dựng một xã hội mới theo tư tưởng Bolivar. Từ những quan điểm, chủ trương
đến những biện pháp thực hiện cũng như những kết quả đạt được trong công cuộc đấu
tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela đã mang lại những đóng góp to lớn. Đóng góp thứ
nhất là đưa các vấn đề thiết yếu đối với đời sống của người dân lao động trong xã hội
6
vào tâm điểm chính sách của nhà nước. Đó là những vấn đề như phát triển kinh tế - xã
hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống, bảo đảm an
sinh xã hội, công bằng xã hội và dân chủ, bảo vệ môi trường sinh thái, đẩy lùi các các
nhân tố bất lợi bên ngoài lợi dụng con người và nguồn tài nguyên. Đóng góp thứ hai là
chấm dứt thời kỳ áp đặt chính sách của các nước tư bản, đế quốc bên ngoài để tạo nên
sự cân bằng thực sự hài hòa giữa phát triển kinh tế ổn định và bền vững với công bằng
xã hội. Nhiều người coi đó là bằng chứng của việc người dân và khu vực tự giải phóng
mình khỏi những kìm kẹp và áp bức trước đây. Độc lập, tự chủ trong định hướng chính
sách tạo vị thế và điều kiện thuận lợi cần thiết để đất nước chủ động, tích cực vận hành
quá trình hội nhập khu vực và quốc tế một cách bình đẳng nhất, thích hợp nhất, có lợi
nhất. Đóng góp thứ ba là với vai trò đầu tàu, Venezuela đã thúc đẩy sự gắn kết và hợp
tác giữa Venezuela và các nước trong khu vực trên tất cả các lĩnh vực với nhiều hình
thức, cấp độ hợp tác vừa liên kết, bổ sung, vừa tăng cường vai trò, ảnh hưởng với các
tổ chức hợp tác và liên kết khu vực đã được thành lập và hoạt động từ trước đó.
Công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela chưa được bao lâu thì việc
Tổng thống Chavez qua đời đã để lại một khoảng trống lãnh đạo lớn trong phong
trào cánh tả Mỹ Latinh nói chung và Venezuela nói riêng. Song, điều đó không có
nghĩa cuộc Cách mạng Bolivar do ông khởi xướng đã chấm dứt. Dù không ít thách
thức, khó khăn và sóng gió, nhưng “con tàu” mà Hugo Chavez làm “thuyền trưởng”
vẫn đang tiến lên phía trước, với sự tin tưởng của nhân dân Venezuela. Như vậy có
thể nói, công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela từ năm 1999 đến năm 2013
đã đại diện cho một trào lưu mới ở Mỹ Latinh, công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT
của Venezuela cũng như tuyên bố xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” đã,
đang được sự quan tâm theo dõi đặc biệt của nhiều chính phủ, bởi đây là những bài
học kinh nghiệm hết sức quý báu cho các lực lượng tiến bộ đang đấu tranh cho một
trật tự thế giới mới hòa bình, dân chủ, bình đẳng, hợp tác và phát triển.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Công cuộc đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc ở nước Cộng hòa Bolivar Venezuela từ năm 1999 đến năm 2013”
làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc.
7
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ nội dung và quá trình triển khai đấu
tranh bảo vệ ĐLDT của nước Cộng hòa Bolivar Venezuela từ năm 1999 đến năm
2013 trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an
ninh. Qua đó đóng góp những thành công, hạn chế, kinh nghiệm và những vấn đề
đặt ra cần giải quyết trong đấu tranh bảo vệ ĐLDT đối với Venezuela trong thời
gian tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ phải giải quyết sau:
- Phân tích những nhân tố tác động đến công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT
của Cộng hòa Bolivar Venezuela giai đoạn 1999 - 2013.
- Phân tích chủ trương, biện pháp và quá trình triển khai đấu tranh bảo vệ ĐLDT
của Venezuela trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc
phòng, an ninh dưới thời Tổng thống Hugo Chavez từ năm 1999 đến năm 2013.
- Đánh giá về những thành công, hạn chế từ công cuộc cuộc đấu tranh bảo vệ
ĐLDT của nước Cộng hòa Bolivar Venezuela, vấn đề đặt ra cần giải quyết và rút ra
những kinh nghiệm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Là công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở nước Cộng hòa Bolivar Venezuela
dưới thời Tổng thống Hugo Chavez Frias giai đoạn 1999 - 2013.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về nội dung của luận án: tập trung nghiên cứu về công cuộc đấu tranh bảo
vệ ĐLDT ở Venezuela trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
đối ngoại và quốc phòng, an ninh.
- Về không gian: Nước Cộng hòa Bolivar Venezuela trong bối cảnh đấu tranh
bảo vệ ĐLDT dưới thời Tổng thống Hugo Chavez.
- Về thời gian: Thời gian nghiên cứu của đề tài được giới hạn từ năm 1999
đến năm 2013. Mốc thời gian 1999, là thời điểm Ông Hugo Chavez nhậm chức
8
Tổng thống nước Cộng hòa Bolivar Venezuela ngày 02/02/1999. Mốc 2013, Lãnh
tụ Cách mạng Bolivar - Tổng thống Hugo Chavez qua đời ngày 05/03/2013.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh
tế - xã hội, về nhà nước và giai cấp, dân tộc, thời đại, đảng cầm quyền trong hệ thống
chính trị, về mô hình xây dựng CNXH…; đồng thời vận dụng những quan điểm cơ
bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐLDT, các văn kiện của Nhà nước Cộng hòa
Bolivar Venezuela về đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ nền ĐLDT.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nguyên lý, phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với hệ thống, phương pháp luận sử học mácxít
là cơ sở hình thành phương pháp nghiên cứu của luận án.
Trong đó, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu logic, lịch sử để phân
chia, trình bày quá trình phát triển của nước Cộng hòa Bolivar Venezuela giai đoạn
1999 - 2013, trên cơ sở đó rút ra những kết luận cần thiết.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh,
đối chiếu, thống kê, dự báo... để nghiên cứu và trình bày nội dung luận án.
Quá trình thu thập, tích luỹ tư liệu sẽ hướng tới trước tiên là những nhận định
về phong trào cánh tả của khu vực Mỹ Latinh nói chung và Venezuela nói riêng.
Đây được xem là bộ khung lý thuyết cơ bản để đánh giá về công cuộc đấu tranh bảo
vệ ĐLDT ở Venezuela giai đoạn 1999 - 2013. Các văn kiện chính thống của Đảng
Xã hội chủ nghĩa thống nhất Venezuela (PUSV), các tuyên bố của các lãnh tụ -
nguyên thủ quốc gia Mỹ Latinh, kết quả nghiên cứu của các công trình trước cũng
là hướng quan trọng để nghiên cứu sinh thu thập nguồn tài liệu trong luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm về một trong nhiều con đường đấu
tranh bảo vệ ĐLDT của các nước trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
- Đánh giá về những thành công, hạn chế và tác động của các chính sách,
biện pháp trên các lĩnh vực mà Chính quyền Tổng thống Chavez đã thực hiện trong
9
giai đoạn 1999 - 2013 đối với việc giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội,
đối ngoại, quốc phòng, an ninh trong công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT.
- Từ những thành tựu và đóng góp trong công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở
Venezuela, rút ra những kinh nghiệm bước đầu trong lý luận và thực tiễn phát triển
của các nước đang phát triển trong giai đoạn hiện nay.
- Luận án còn có thể là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về
Lịch sử thế giới hiện đại, Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng
dân tộc ở các trường đại học. Đồng thời góp phần cung cấp cứ liệu cho hoạt động đối
ngoại của Việt Nam đối với khu vực Mỹ Latinh nói chung và Venezuela nói riêng.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án bao gồm 04 chương, 08 tiết với các nội dung của các chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Quan niệm về độc lập dân tộc và nhân tố tác động đến công cuộc
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Venezuela từ năm 1999 đến năm 2013.
Chương 3: Nội dung và quá trình triển khai công cuộc đấu tranh bảo vệ độc
lập dân tộc ở Venezuela từ năm 1999 đến năm 2013.
Chương 4: Đánh giá về công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở
Venezuela từ năm 1999 đến năm 2013 và kinh nghiệm.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT của các nước đang phát
triển nói chung, các nước trong khu vực Mỹ Latinh nói riêng là chủ đề được quan
tâm, thu hút sự chú ý của nhiều học giả, nhà nghiên cứu, chính trị gia trong và
ngoài nước từ trước tới nay. Là quốc gia nằm trong khu vực Mỹ Latinh, trong tiến
trình phát triển dân tộc của Venezuela luôn gắn với sự vận động và phát triển
chung của khu vực. Vì vậy, các nguồn tài liệu nghiên cứu về quốc gia này cũng có
sự liên quan mật thiết với các công trình nghiên cứu về Mỹ Latinh nói chung.
Để đảm bảo tính khoa học, trong khuôn khổ luận án, tác giả có tham khảo
một số tư liệu, tài liệu gốc như sau:
(1) Các tài liệu tiếng Tây Ban Nha: Hiến pháp nước Cộng hòa Bolivar
Venezuela - “Constitución de la república Bolivar Venezuela”, do Bộ Thông tin và
Truyền thông Venezuela xuất bản lần thứ hai năm 2006 [158]. Hiến pháp
Venezuela 1999 đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc thiết lập các yếu tố cấu
thành nên hệ thống chính trị xã hội của nhà nước. Hiến pháp thể hiện một quá trình
hợp hiến không chỉ xây dựng những cơ sở mới cho việc tái thiết đất nước mà còn
phản ánh khát vọng về những thay đổi chính trị trong khu vực. Hiến pháp
Venezuela bao gồm 9 Phần (Phần 1. Các nguyên tắc cơ bản; Phần 2. Các không
gian địa lý và phân khu chính trị; Phần 3. Nghĩa vụ, quyền con người và bảo lãnh;
Phần 4. Công quyền; Phần 5. Tổ chức Cơ quan Thẩm quyền Quốc gia công; Phần 6.
Hệ thống kinh tế xã hội; Phần 7. An ninh quốc gia; Phần 8. Bảo vệ Hiến pháp; Phần
9. Cải cách Hiến pháp) với 350 Điều khoản. Đây là một hệ thống quy định những
nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập kiến trúc, thủ tục, quyền hạn và trách
nhiệm của chính quyền, bảo đảm các quyền nhất định của nhân dân. Đây là Đạo
luật cơ bản nhất của Nhà nước Cộng hòa Venezuela từ năm 1999 đến nay.
Cuốn “Partido Socialista Unido de Venezuela - III Congreso” (Sách Đỏ), là
cuốn sách của Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Venezuela (PSUV) [160]. Sách
Đỏ đã được phê duyệt tại Đại hội bất thường của PSUV vào tháng 04/2010, được
coi là di sản về đường lối điều hành đất nước của PSUV để lại cho đội ngũ đảng
11
viên, hay đúng hơn là những nguyên tắc cơ bản bắt nguồn từ tư tưởng của những
anh hùng kiệt xuất của Venezuela như Simon Bolivar, Zamora và Simon Rodriguez.
Sách đỏ của PSUV được cấu trúc thành ba phần. Phần “Giới thiệu” mô tả bối cảnh
lịch sử và chính trị mà nhân dân Venezuela đang trải qua, với đặc trưng là cuộc
khủng hoảng nghiêm trọng nhất của CNTB đang đe dọa không chỉ là hạnh phúc của
phần lớn nhân dân trên thế giới, nhưng cũng đặt sự sống trên hành tinh trước những
nguy hiểm; mà mặt khác, cũng xuất hiện đông đảo những con người đang đấu tranh
cho một xã hội bình đẳng, với cuộc Cách mạng Bolivar là trọng tâm chính. Cuốn
sách đề cập tới di sản của Simón Rodríguez (Samuel Robinson), Simon Bolivar,
Ezequiel Zamora và những đóng góp mang tính cách mạng của C.Mác, V.I.Lênin,
Che Guevara và tất cả những ai đã hy sinh đời mình cho một thế giới tốt đẹp hơn.
Như: bối cảnh lịch sử của cuộc cách mạng trong cuộc đấu tranh giành ĐLDT; cuộc
nổi dậy quân sự của ngày 04/02/1992; chiến thắng bầu cử của Tổng thống Chavez
năm 1998 và việc ra đời Hiến pháp nước Cộng hòa Bolivar Venezuela vào năm
1999. Phần chính của Sách Đỏ được chia thành ba yếu tố: “Tuyên bố Nguyên tắc”,
những “Điều lệ” và “Chương trình cơ sở” của PSUV. Những điều lệ bao gồm
những nguyên tắc về hoạt động và cơ cấu tổ chức cần thiết trong việc xây dựng
“Chủ nghĩa Xã hội thế kỷ XXI”. Theo điều lệ của PSUV, tổ chức chính trị này tuân
theo nguyên tắc tổ chức tập trung dân chủ, mà qua đó, các quy tắc, chiến lược,
chương trình, chiến thuật và kế hoạch hành động được bàn luận một cách dân chủ
và tuân theo trật tự kỷ cương. Nguyên tắc cơ bản của Đảng. “Những nguyên tắc cơ
bản”, còn gọi là “nguyên tắc chung” và là một phần của Sách Đỏ, là một trong
những nền tảng cần thiết mà PSUV xây dựng làm nền tảng chính trị của mình.
(2) Các tài liệu tiếng Tây Ban Nha được Đại sứ quán Venezuela tại Việt Nam
dịch sang tiếng Việt: Cuốn “Simon Bolivar - Libertador De Nationes, creador De
Patrias” (Simon Bolivar - Người anh hùng giải phóng dân tộc, người sáng lập đất
nước), do Bộ Thông tin và Truyền thông Venezuela ấn hành, được Đại sứ quán nước
Cộng hòa Bolivar Venezuela tại Việt Nam dịch sang tiếng Việt và xuất bản tháng
10/2010 [13]. Cuốn sách đề cập đến tiểu sử, con đường đấu tranh và những cuộc phiêu
lưu của nhà giải phóng dân tộc với những lý tưởng chính trị và xã hội siêu việt. Cuốn
12
sách đưa ra cách nhìn tổng quan về sự thừa nhận của quốc tế đối với cuộc đấu tranh của
Simon Bolivar vì tự do và một châu Mỹ đoàn kết trong bối cảnh 30 năm đầu thế kỷ
XIX của nghĩa quân châu Mỹ nổi dậy chống lại chủ nghĩa thực dân Tây Ban Nha. Sự
tôn vinh của nhân dân Venezuela đối với anh hùng giải phóng dân tộc không chỉ qua
cách họ tự gọi mình là người Bolivar mà còn ở cách họ tiếp tục cuộc đấu tranh chống
đế quốc, cuộc đấu tranh cho sự đoàn kết và thống nhất của các dân tộc.
Cuốn “Plan De La Patria” (Programa De Gobierto Bolivariano 2013 - 2019)
Kế hoạch tổ quốc (Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN lần
thứ hai, 2013 - 2019) [14]. Đại sứ quán nước Cộng hòa Bolivar Venezuela tại Việt
Nam dịch sang tiếng Việt và đã được xuất bản. Đây là bản báo cáo của Tổng thống
Venezuela trước Quốc hội để giới thiệu một giai đoạn phát triển mới có hoạch định
rõ ràng cho đất nước với các mục tiêu là: Bảo vệ và củng cố tài sản quý giá nhất mà
nhân dân đã giành được sau 200 năm: ĐLDT; Tiếp tục công cuộc xây dựng “Chủ
nghĩa xã hội thế kỷ XXI” tại Venezuela như là sự lựa chọn thay thế cho hệ thống
chủ nghĩa tư bản (CNTB) và qua đó bảo đảm an ninh xã hội, ổn định chính trị, hạnh
phúc nhiều nhất cho nhân dân; Phấn đấu đưa Venezuela trở thành cường quốc về
mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong khối các cường quốc mới nổi tại khu
vực Mỹ Latinh và Caribbean, nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định, thống nhất cho toàn
khu vực; Đóng góp cho việc phát triển địa chính trị quốc tế mới, với việc chú trọng
xây dựng thế giới đa cực và đa trung tâm để tiến tới công bằng và hòa bình cho thế
giới; Bảo vệ cuộc sống trên hành tinh và cứu vớt nhân loại.
Cuốn “El Libro Azul” (Sách Xanh), Đại sứ quán nước Cộng Hòa Bolivar
Venezuela tại Việt Nam dịch sang tiếng Việt, xuất bản lần thứ hai tại Venezuela
tháng 12/2013 [15]. Đây là ấn phẩm đã thể hiện tư tưởng của Tổng thống Hugo
Chavez. Tác phẩm gồm ba phần; Phần thứ nhất giới thiệu, Phần thứ hai tập trung
vào trình bày tư tưởng ba gốc rễ: Robinson, Bolivar và Zamorar, Phần thứ ba đề ra
đường lối chiến lược tổng quát của Dự án Quốc gia Simon Bolivar.
Cuốn “Sứ mệnh Venezuela”, do Bộ Thông tin và Truyền thông Venezuela ấn
hành năm 2014, cuốn sách đã được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng [159], đề cập tới
29 chương trình hay gọi là Sứ mệnh của Chính phủ Venezuela từ năm 2003 đến
13
năm 2014 trên các lĩnh vực, giáo dục, y tế, lương thực, thực phẩm, quốc phòng, an
ninh, từ mục tiêu đến nhiệm vụ cũng như kết quả cụ thể và sinh động của từng sứ
mệnh. Cuốn sách là bức tranh thể hiện khá cụ thể về kết quả những gì mà Chính
quyền Tổng thống Chavez đã làm được với đất nước Venezuela.
Bên cạnh đó, nghiên cứu sinh đã tiếp cận với một khối lượng tài liệu tham
khảo lớn của các nhà nghiên cứu Venezuela, các học giả nước ngoài và các nhà
khoa học Việt Nam. Đây là nguồn tài liệu quan trọng tập trung nghiên cứu trên
nhiều phương diện: địa lý, lịch sử, văn hoá, phong trào cánh tả ở khu vực với việc
xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”, đặc điểm tình hình chính trị, phát triển
kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển kinh tế vĩ mô, đối ngoại, quốc phòng, an ninh
của các nước Mỹ Latinh và Venezuela. Đây còn là cơ sở và là cứ liệu quan trọng để
nghiên cứu sinh tập hợp nguồn tư liệu khoa học nhằm tiếp tục nghiên cứu sâu hơn
về những vấn đề liên quan đến nội dung của luận án.
1.1. NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC
1.1.1. Về lịch sử phát triển của phong trào cánh tả Mỹ Latinh và mô
hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở Venezuela
Luận án đã tìm hiểu một số tài liệu của các nhà nghiên cứu ở nước ngoài:
Tác giả D.L.Raby, trong cuốn sách “Democracy and Revolution: Latin
America and Socialism Today” [162], đã đề cập tiến trình dân chủ hóa, phong
trào cánh tả và xu hướng đi lên CNXH của các quốc gia Mỹ Latinh ngày nay.
Tác giả cũng phân tích những thành quả, thuận lợi và khó khăn, thách thức của
trào lưu XHCN ở khu vực này, đặc biệt là tại Cuba, Venezuela, Nicaragua,
Bolivia và Ecuador. Cuốn sách đã so sánh tiến trình cách mạng Venezuela với
các nước khác trong khu vực, đó là cuộc cách mạng của các sỹ quan quân đội
đứng dậy chống chế độ dân chủ đã mất uy tín và xác định những khát vọng của
mình, hướng tới một phong trào rộng lớn, lấy cảm hứng từ nền văn hóa truyền
thống và tinh thần tiến bộ quốc tế.
Hai tác giả George Philip và Francisco Panizza với cuốn sách “The Triumph
of Politics: The Return of the Left in Venezuela, Bolivia and Ecuador” [161], đã đề
cập về sự hồi sinh và phát triển của phong trào cánh tả ở Venezuela, Bolivia,
14
Ecuador từ cuối những năm 1990 như một thắng lợi to lớn của tiến trình chính trị
khu vực Mỹ Latinh. Tác giả đã phân tích và đánh giá nhiều mặt trong công cuộc
xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở ba quốc gia trên cùng những ảnh hưởng
chính trị tích cực của nó.
Tác giả Richard S.Hillman và Thomas D.J.Agostino trong cuốn sách
“Understanding contemporary Latin America” [154]. Cuốn sách bao gồm 14 phần,
đã giới thiệu về địa lý, lịch sử của Mỹ Latinh, nghiên cứu tình hình chính trị, quân
đội, kinh tế của Mỹ Latinh, mối quan hệ quốc tế, vấn đề môi trường, dân số, đô thị
hóa, vấn đề chủng tộc, tính sắc tộc, giai cấp và chủ nghĩa dân tộc, vai trò của phụ nữ,
gia đình và phát triển, tôn giáo, triển vọng của Mỹ Latinh. Với Venezuela, tác giả đã
đề cập tới bức tranh chính trị ở quốc gia này, đó là cuộc đấu tranh giữa Tổng thống
Chavez với phe đối lập, giữa những thuận lợi và thách thức của cả hai bên.
Cuốn “Latin America’s Turbulent Transitions: The Future of 21st Century
Socialism”, của Roger Burbach, Michael Fox và Federico Fuentes [144], đề cập
tới trào lưu “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở Mỹ Latinh những năm gần đây như
một sự thay đổi mạnh mẽ. Các tác giả không chỉ khái quát tiến trình “Chủ nghĩa
xã hội thế kỷ XXI” ở Mỹ Latinh mà còn chỉ ra những tác động nhiều chiều, nhiều
mặt của nó đối với đời sống xã hội, nhấn mạnh đến những chủ trương, quyết định
bất ngờ của các lãnh tụ cánh tả như Hugo Chavez, Evo Morales, Rafael Correa.
Bài viết “Chủ nghĩa xã hội Cuba trên đất Venezuela”, bản dịch của Lệ
Thuỷ [122], ngoài những nghiên cứu về ảnh hưởng sâu rộng của Cuba với đất
nước của mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” đã nhận định cần quan tâm:
“Bản thân các nhà lãnh đạo cao nhất của Chính phủ Venezuela cũng chưa hiểu rõ
ràng về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Venezuela”.
Chuyên đề “Venezuela và chủ nghĩa xã hội mới” của Pol Koksort [52], tổng
hợp những nghiên cứu về đặc trưng của mô hình Venezuela. Tác giả đã phân tích
các dấu hiệu đặc trưng của kết quả cải cách và những vấn đề phải đối diện. Có một
cảnh báo về tốc độ và cách thức của cải cách đang diễn ra.
Tác giả Alex Durand có bài nghiên cứu “The Chavez Paradox: Assessing the
Bolivarian Revolution” [148], đề cập tới vai trò đặc biệt của Tổng thống Hugo
15
Chavez đối với cuộc “Cách mạng Bolivar” đi lên CNXH do ông khởi xướng và lãnh
đạo. Tác giả phân tích khá kỹ vai trò này, đánh giá những thành quả và hạn chế;
đồng thời nhấn mạnh những khác biệt trong cách điều hành, chỉ đạo và quyết định
của Chavez. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng đã chỉ ra sự lựa chọn cho Venezuela
để đảm bảo vấn đề phát triển khi giá dầu trên thế giới giảm sút.
Trong quá trình nghiên cứu, nghiên cứu sinh cũng đã tiếp cận được các kết
quả nghiên cứu về Mỹ Latinh nói chung và Venezuela nói riêng của các học giả
Việt Nam. Những công trình đáng chú ý là:
Tác giả Nguyễn Văn Thanh với cuốn sách tham khảo “Nhận diện chủ nghĩa
tự do mới” [106]. Cuốn sách gồm 4 phần: Phần I - Vài nét lịch sử của chủ nghĩa tự
do mới. Phần II - Chủ nghĩa tự do mới vấp phải sự phản kháng ở các nước tư bản
phát triển. Phần III - Các nước đang phát triển chống lại sự thâm nhập của chủ
nghĩa tự do mới. Phần IV - Nói không với chủ nghĩa tự do mới. Nội dung tổng quát
là đề cập đến nguồn gốc ra đời, sự phát triển của chủ nghĩa tự do mới, sự xâm nhập
và ảnh hưởng của nó đối với khu vực Mỹ Latinh trong đó có Venezuela, sự phản
kháng chủ nghĩa tự do mới ở các nước tư bản phát triển và việc ngăn chặn sự thâm
nhập của nó ở các nước đang phát triển.
Nhằm cung cấp thông tin về Mỹ Latinh, Viện 70, Tổng Cục II, Bộ Quốc
phòng đã xuất bản cuốn sách “Nghiên cứu cơ bản về Mỹ Latinh” [90]. Đây là tài
liệu được biên soạn công phu, cung cấp tài liệu nghiên cứu về Mỹ Latinh, của
khu vực cũng như từng quốc gia. Ngoài phần giới thiệu, kết luận, phụ lục cuốn
sách đã được trình bày trên bốn nội dung chính: Những vấn đề chung về Mỹ
Latinh; Phong trào cánh tả và một số tổ chức khu vực Mỹ Latinh; Chiến lược của
Mỹ, Trung Quốc, Nga, EU đối với Mỹ Latinh, quan hệ Việt Nam - Mỹ Latinh;
Những nét cơ bản về một số nước Mỹ Latinh trên các lĩnh vực đời sống xã hội.
Đặc biệt, cuốn sách đã phân tích cụ thể những tác động chiến lược của các nước
lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga, EU đối với khu vực. Cũng như các quốc gia
khác, khi đề cập đến Venezuela, cuốn sách cho chúng ta thấy được bức tranh
tổng quát về vị trí địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại và
quốc phòng, an ninh.
16
Đề cập tới việc lựa chọn đường phát triển ở Mỹ Latinh có cuốn sách “Về
triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, của tác giả
Nguyễn An Ninh (chủ biên) [77]. Các tác giả đã đưa ra quan niệm về triển vọng của
CNXH, các nhân tố tác động và có những đánh giá riêng về xu hướng đi lên CNXH
ở từng khu vực, những thách thức và vấn đề đặt ra với các khu vực, trong đó có Mỹ
Latinh. Đáng chú ý là những nhận định về thế giới thứ ba và vai trò của nó, đặc thù
chính trị - xã hội cùng những nét riêng quy định sắc thái CNXH ở khu vực này. Với
việc đi sâu phân tích điển hình ở nước Cộng hòa Bolivar Venezuela đã cho thấy sự
thức tỉnh ý thức tự chủ, tự tôn dân tộc của các tầng lớp xã hội, đã dấy lên phong trào
đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vì mục
tiêu dân sinh, dân chủ, tiến bộ và nhất là công bằng xã hội. Họ đến với cánh tả như
một niềm hi vọng vào sự thay đổi. Đây là điều kiện thuận lợi để các lực lượng cánh
tả đẩy mạnh hoạt động và trở thành lực lượng đi đầu cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tự do mới, chống sự lệ thuộc vào Mỹ, bảo vệ độc lập chủ quyền, bình đẳng
trong quan hệ quốc tế và công bằng xã hội trong phát triển. Cùng với nội dung trên,
tác giả còn có công trình nghiên cứu “Quan điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội của
các đảng cánh tả ở khu vực Mỹ Latinh - những giá trị cần tham khảo” là một
chuyên đề cho đề tài: “Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - những quan điểm lý
luận cơ bản” của tác giả Trần Thành - Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh chủ nhiệm (2008 - 2010) [79]. Tác giả đã phân tích những đặc điểm
về bối cảnh, chủ thể, đặc thù khu vực và những quan niệm cơ bản cùng một số
đánh giá về giá trị, đóng góp của nó đối với lý luận về CNXH hiện đại.
Để tìm hiểu về nguồn gốc kinh tế, xã hội dẫn đến việc các chính phủ cánh tả đã
đưa người của mình lên nắm quyền ở Mỹ Latinh mà mở đầu là trường hợp của
Venezuela với Tổng thống Hugo Chavez, thắng cử năm 1998. Quá trình, cách thức để
các đảng và phong trào cánh tả lên nắm quyền; khó khăn, thách thức phải đối mặt trong
giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội; phản ứng của các thế lực đối lập trước
hiện tượng này; sự phân tích, đánh giá của giới chính trị và học thuật về những vấn đề
trên là những nội dung đề được đề cập rõ trong tập thông tin chuyên đề “Lực lượng cánh
tả Mỹ Latinh: Những góc nhìn khác biệt” [38], bao gồm một loạt bài viết của nhiều tác
giả, với những quan điểm, cách nhìn đa dạng, thậm chí hoàn toàn trái ngược.
17
Với những diễn biến trên chính trường Venezuela dưới thời Tổng thống
Chavez, tác giả Thái Văn Long đã có một số các bài viết như: “Mỹ và cuộc đảo
chính bất thành ở Venezuela”, đăng trên Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 10/2002, đã
đề cập về tình hình căng thẳng ở Venezuela vào tháng 04/2002 [57], đó là cuộc biểu
tình đòi lật đổ Tổng thống Hugo Chavez. Tác giả đã đề cập đến những nguyên nhân
sâu xa của biến động này, trong đó có nguyên nhân khách quan, bên cạnh đó tác giả
cho rằng rõ ràng đã có sự can thiệp từ phía Mỹ nhằm ủng hộ phe đối lập thực hiện
cuộc đảo chính này. “Trưng cầu dân ý ở Venezuela” đăng trên Tạp chí Châu Mỹ
ngày nay, số 09/2004 [58], viết về nguyên nhân, diễn biến, kết quả cuộc trưng cầu ý
dân ngày 15/08/2004 tại Venezuela về việc nắm Chính quyền Tổng thống Chavez.
Tác giả lý giải những nguyên nhân sâu xa và nhu cầu mạnh mẽ của phe đối lập,
đồng thời khẳng định việc Tổng thống Chavez vượt qua một cách ngoạn mục (với
59% số phiếu) đã khẳng định vai trò xứng đáng của ông cũng như vị thế của cánh tả
tại Venezuela. Bên cạnh đó, tác giả đề cập đến đánh giá của dư luận quốc tế, tác
động của thắng lợi này, cũng như những khó khăn còn ở phía trước.
Ngoài ra còn có khá nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành,
như: Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế “Bước phát triển mới của trào lưu
cánh tả Mỹ Latinh” [20], là một nghiên cứu về phong trào cánh tả Mỹ Latinh hiện
nay. Các tác giả đã bước đầu lý giải vì sao cánh tả thắng lợi vang dội và dự báo về
triển vọng của phong trào này. Bài viết “Khuynh hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu
của cánh tả Mỹ Latinh”, của tác giả Nguyễn Khắc Sứ [101]. Bài viết xây dựng tổng
quan về tình hình cải cách của Mỹ Latinh. Đáng lưu ý là hai nhận định: 1/ Coi hiện
tượng này là một “khuynh hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu” - đây có thể coi là
một nhận định có tính đóng góp cho việc nghiên cứu hiện tượng Mỹ Latinh. 2/ Tác
giả, với tư cách là người đã từng hoạt động thực tiễn tại khu vực này (nguyên là đại
sứ Việt Nam tại Cuba) đã cung cấp nhiều thông tin, tư liệu và cả một phác thảo về
mô hình “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” của Mỹ Latinh. Bài viết “Chủ nghĩa xã
hội thế kỷ XXI ở Venezuela - Những nhiệm vụ cơ bản và cấp bách”, của tác giả
Nguyễn Viết Thảo [109], viết về những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong công
cuộc xây dựng CNXH tại Venezuela. Tác giả đưa ra những luận điểm và khẳng
18
định những nhiệm vụ cần thiết về chính trị, kinh tế, xã hội, đối ngoại ở Venezuela
để vừa đáp ứng các nhu cầu nảy sinh, vừa giữ vững được chủ trương, đường lối của
“Cách mạng Bolivar” và mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”. Bài viết “Phong
trào cánh tả và hệ lụy của chủ nghĩa tự do mới ở Mỹ Latinh” của tác giả Lại Lâm
Anh [01]. Bài viết đã đề cập những tác động của chủ nghĩa tự do mới ở khu vực,
không giải quyết được vấn đề cơ bản của xã hội, dân sinh, dân chủ, xóa đói giảm
nghèo, giảm chênh lệch thu nhập giàu nghèo, xóa nạn mù chữ… đây là một trong
những lý do đa số dân Mỹ Latinh muốn thoát khỏi chủ nghĩa tự do mới, đây cũng là
một trong những nguyên nhân để phong trào cánh tả Mỹ Latinh liên tiếp thắng lợi.
Trong chuyên san của Tạp chí Cộng sản với nhan đề “Venezuela - “Ngọn
cờ đầu của phong trào cánh tả Mỹ Latinh” [41], bao gồm tổng hợp những bài
viết của nhiều tác giả khái quát về đất nước con người, tình hình kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội của đất nước Venezuela, những thành tựu của cuộc cách
mạng cũng như khó khăn trong quá trình Tổng thống Chavez lãnh đạo đất nước.
Bên cạnh đó, chuyên san cũng đã đề cập đến những thực trạng Venezuela thời
Tổng thống Maduro như thách thức về chính trị, thách thức về kinh tế, sự chống
phá của các thế lực thù địch…
Đề tài khoa học tháng 09/2008 của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam (KHBD-16), Quá trình cải cách dưới thời tổng thống H.Chavez ở
Venezuela thực trạng và triển vọng do Dương Minh (Chủ biên) [70], là một nghiên
cứu khá rõ về bức tranh và công cuộc cải cách đất nước Venezuela dưới thời Tổng
thống Chavez. Từ khái quát tình hình khu vực Mỹ Latinh, tình hình Venezuela, các
nhân tố bên trong và bên ngoài tác động đến quá trình lãnh đạo của các chính phủ
Mỹ Latinh, trong đó có Venezuela, đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng và triển
vọng của quá trình cải cách, những thành công, hạn chế của quá trình này, những
thuận lợi khó khăn, những nguy cơ có thể tác động đến cải cách. Đề tài cũng đã làm
rõ một số điểm về lý luận và thực tiễn của “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở
Venezuela, mô hình phát triển kinh tế của nước này trong thời gian tới và tầm quan
trọng của một chính đảng cách mạng Venezuela trong bối cảnh nhiều nước đang tìm
kiếm mô hình phát triển trong giai đoạn quá độ lên CNXH.
19
Đề tài cấp bộ “Phong trào cánh tả Mỹ Latinh: thực trạng và triển vọng”
[137], đã nghiên cứu khá rõ về vấn đề mà luận án quan tâm. Đáng chú ý là những
phản ánh về thực trạng, đánh giá và tổng thuật về phong trào cánh tả Mỹ Latinh.
Đặc biệt, đề tài đã có nội dung lớn đề cập tới cánh tả Venezuela dưới thời Tổng
thống Chavez, như: cải cách dân chủ, đa dạng hóa nền kinh tế, cải cách ruộng đất,
cải cách trên lĩnh vực xã hội - giáo dục, y tế, liên kết khu vực cũng như xây dựng
“Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”. Đề tài cũng phân tích những quan điểm của ĐCS
Việt Nam về phong trào này. Với sự nhìn nhận chiến lược XHCN ở Mỹ Latinh là
mềm dẻo, linh hoạt và kiên trì với mục tiêu CNXH, song vẫn còn nhiều khó khăn
đang chờ phía trước. Thậm chí có nhiều ý kiến khác nhau về một vấn đề ngay trong
nhóm tham gia nghiên cứu đề tài này (chẳng hạn quan niệm về triển vọng).
Đi sâu vào nghiên cứu về mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở
Venezuela, đã có các công trình nghiên cứu đáng chú ý là: Kỷ yếu hội thảo cùng tên
do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Đại sứ quán nước Cộng hòa
Bolivar Venezuela tại Việt Nam phối hợp xuất bản bằng song ngữ tiếng Tây Ban
Nha và tiếng Việt Nam [40]. Cuốn sách “Tư tưởng chính trị Hugo Chavez Frias -
chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” gồm nhiều bài viết của nhiều nhà nghiên cứu về
nguồn gốc, giá trị và những nội dung đặc sắc trong tư tưởng chính trị Hugo Chavez,
về mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở Mỹ Latinh, sự phát triển của phong
trào cánh tả Mỹ Latinh từ 1991 đến nay cũng như một số nét chính trong tiểu sử của
Tổng thống Hugo Chavez Frias. Phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh và quan niệm về
mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” - đó là mô hình CNXH không hoàn toàn
lặp lại các mô hình CNXH trước đó, mà xây dựng trên việc tiếp thu những kinh
nghiệm được tích lũy hàng ngày, với tư tưởng thấm nhuần tình đoàn kết, tình anh
em, tình yêu, tinh thần tự do và bình đẳng.
1.1.2. Nghiên cứu về chủ trương, chính sách, quá trình triển khai trên
các lĩnh vực nhằm đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
Vào những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, sự thay đổi mạnh mẽ và
nhanh chóng trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội của các nước Mỹ Latinh
nói chung và Venezuela nói riêng đã dành được sự quan tâm sâu sắc của dư luận
20
quốc tế. Trong vấn đề này có các công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài đã
đề cập đến, tiêu biểu như:
Tác giả Iain Bruce trong cuốn “The Real Venezuela: Making Socialism in the
21st Century” [143], đã tìm hiểu, phát hiện, phân tích chi tiết những thành công, đổi
mới của đời sống, dân chủ, nền kinh tế và xã hội Venezuela trong tiến trình đi lên
CNXH. Điểm nổi bật của cuốn sách tạo nên sức thuyết phục là những thành quả
được nêu ra trên đủ mọi lĩnh vực, với những con số cụ thể và sự lý giải, đánh giá
đáng tin cậy, trái ngược hẳn với những quan điểm, thông tin của nhiều sách báo
phương Tây viết về CNXH ở Venezuela.
Tác giả Carlos González Irago với cuốn sách”Venezuela nhân quyền và dân
chủ (1999 - 2009)” [23]. Với 5 chương của cuốn sách là: Khuôn khổ Pháp lý của
Quan điểm toàn diện và đa văn hóa về Nhân quyền. Quyền cơ bản về an sinh lịch sử
phát triển tại Venezuela. Chủ quyền lương thực: thực phẩm - nhân quyền cơ bản
đầu tiên về an sinh. Tiến tới quyền an sinh thứ hai: giáo dục bắt buộc và miễn phí.
Tiến tới quyền an sinh thứ ba: sức khỏe cho người dân. Tác giả đã đề cập đến những
vấn đề dân chủ, nhân quyền, an ninh lương thực, y tế của Venezuela, so sánh những
thay đổi dưới thời cách mạng Bolivar với thời kỳ của Nền Cộng hòa thứ tư trong các
lĩnh vực này. Tương lai cần được xây đắp và mục tiêu của Cách mạng Bolivar là tạo
nên một mô hình lý luận có khả năng bảo vệ những thành tựu cách mạng, đồng thời
chỉ ra một mô hình an ninh và sinh kế mới theo định hướng XHCN với trọng tâm là
xây dựng các thể chế và khuyến khích quyền tham gia của công dân nhằm hướng tới
dân chủ hóa nhân quyền.
Tác giả Carlos Lozada đã có bài viết “Mỹ Latinh”, do Lê Thị Thu dịch đăng
tải trên Tạp chí Châu Mỹ ngày nay [61], đã phân tích khá sâu sắc về những hạn chế
trong chính sách phát triển của các nước trong khu vực như: Những thất bại trong cải
cách về tự do thị trường, quản lý xã hội, tình trạng tham nhũng, toàn cầu hóa khiến
Mỹ Latinh thành khu vực bất bình đẳng, phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên,
vấn đề quan hệ Mỹ với các nước Mỹ Latinh. Đối với Venezuela, Tác giả tập trung đề
cập tới vấn đề dân chủ đã thay thế chủ nghĩa độc quyền và vấn đề phụ thuộc vào
nguồn tài nguyên dầu mỏ.
21
Vào thời điểm Chính phủ Venezuela tiến hành kiểm soát những doanh
nghiệp tư nhân sản xuất và phân phối gạo vì những thủ đoạn trong việc kiểm soát
giá cả. Tạp chí CETRI đã công bố bài viết về nền chính trị công của Venezuela trên
bình diện lương thực với tiêu đề “Etat à la résitances dans le Sud - 2009. Face à la
crise alimentaire” của hai tác giả Lettitina Montilla và Hector Lucena [73]. Bài viết
này đã được Nguyễn Khánh Vân dịch và đăng tải trên Tạp chí Châu Mỹ ngày nay,
số 05/2009. “Venezuela: Những chính sách công và tổ chức xã hội trước tình trạng
phụ thuộc về lương thực”, bài viết đã đề cập tới các tầm quan trọng của lương thực
trong chiến lược công ở Venezuela, quá trình thực hiện các chiến lược nhằm tự chủ
được về lương thực, ngăn chặn khủng hoảng sẽ tác động đến toàn cầu và những
xung đột giữa Chính phủ và các tập đoàn tư nhân lớn…
Về vấn đề này, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã công bố một số lượng
tài liệu lớn, với một số nội dung được chuyển tải như:
Các tác giả Trịnh Trọng Nghĩa, Vũ bá Thể, Nguyễn Thị Hạnh, Lê Thị Thu
đã có những bài viết nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế của Venezuela đăng tải trên
Tạp chí Châu Mỹ ngày nay như: Bài viết “An ninh kinh tế trong điều kiện hiện nay
ở khu vực Mỹ Latinh”, (Trịnh Trọng Nghĩa) [76], với tám vấn đề lớn, bài viết đã chỉ
ra một số yếu tố quan trọng nhất trong an ninh kinh tế khu vực Mỹ Latinh: Phát
triển kinh tế - nền tảng an ninh kinh tế; Dự đoán - tiền đề của ổn định; Hệ thống tiền
tệ lành mạnh - điều kiện của an ninh kinh tế; Nợ nước ngoài - dấu hiệu báo động;
Vốn xuyên quốc gia không phải là liều thuốc vạn năng; Tội phạm kinh tế, nguy cơ
gia tăng; Tin tưởng vào cơ cấu chính quyền cơ sở của lành mạnh kinh tế; Sự nguy
hiểm của tình trạng tiếp thu một cách máy móc kinh nghiệm nước ngoài. Bài viết
“Phong trào cánh tả Mỹ Latinh và vai trò của nó đối với việc giải quyết vấn đề kinh
tế - xã hội”, (Nguyễn Thị Hạnh) [31]. Bài viết đã điểm lại những thắng lợi, nguyên
nhân thắng của phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh. Những cải cách mới trong việc giải
quyết vấn đề kinh tế - xã hội ở mỗi nước bước đầu đã đạt được những thành tựu
nhất định, tuy nhiên cũng còn không ít những khó khăn trước mắt. Bài viết “Một số
chính sách ổn định kinh tế ở khu vực Mỹ Latinh sau khủng hoảng”, (Vũ Bá Thể) [111],
bài viết đã đề cập tới những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008 tới thế giới nói chung và khu vực Mỹ Latinh nói riêng, tuy nhiên các nước trong
22
khu vực đã có những chính sách phản ứng mang tính đặc thù riêng của chính sách tài
chính, chính sách tiền tệ, tín dụng, chính sách kinh tế đối ngoại. Bài viết “Một số tác
động của văn hóa, xã hội đến phát triển kinh tế Mỹ Latinh”, (Lê Thị Thu) [120], bài
viết đã khẳng định đã có sự tác động đến kết quả phát triển và các dự án phát triển.
Cùng với xã hội, kinh tế và môi trường, văn hóa được xem như là trụ cột thứ tư của
phát triển bền vững, phát triển bền vững chỉ có thể đạt được nếu như có sự hài hòa và
liên kết giữa mục tiêu đa dạng văn hóa và công bằng xã hội, trách nhiệm đối với môi
trường và khả năng phát triển kinh tế.
Đi sâu vào phân tích về kinh tế của Venezuela có các tác giả Nguyễn Hồng
Sơn, Lê Thị Thu Trang đã có các bài viết trên Tạp chí Châu Mỹ ngày nay: “Kinh tế
và kế hoạch công nghiệp hóa nền kinh tế của Chính phủ Hugo Chavez”, (Nguyễn
Hồng Sơn) [98]. Từ khái quát về địa lý, lịch sử cũng như những diễn biến chính trị
của Venezuela sau cuộc bầu cử tổng thống năm 2007, tác giả đã đề cập khá rõ về
tình hình kinh tế của Venezuela giai đoạn này, đặc biệt chú ý đề cập đến kế hoạch
công nghiệp hóa của Chính quyền Tổng thống Chavez với mục tiêu đưa đất nước
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Tác giả còn có bài viết “Kinh tế xã hội Venezuela
dưới thời Tổng thống Hugo Chavez” [99]. Với những chỉ số kinh tế xã hội trong
vòng 10 năm ở Venezuela từ 1998 đến 2008, bài viết đã đánh giá về những thành
tựu về kinh tế xã hội ở Venezuela dưới thời Tổng thống Hugo Chavez. Venezuela
đã vượt qua những khó khăn thử thách để ổn định chính trị, xã hội và phát triển kinh
tế. Bài viết “Venezuela dưới thời của Tổng thống Hugo Chavez”, (Lê Thị Thu
Trang) [125]. Tác giả đã khái quát về sự thay đổi tình hình kinh tế Venezuela thời
Tổng thống Chavez so với trước đây, đặc biệt là những thành tựu đã đạt được.
Những cải cách về thể chế, thông qua nhiều đạo luật mới, quốc hữu hóa ngành dầu
mỏ - trụ cột của nền kinh tế đất nước, tiến hành nhiều cải cách xã hội như chiến
dịch xóa mù chữ, xóa đói giảm nghèo, nâng cấp hạ tầng cơ sở, xây dựng thêm
nhiều trường học, cải thiện dịch vụ y tế.
Đề cập tới phương diện chính trị ở Venezuela, trên Tạp chí Châu Mỹ ngày
nay đã đăng tải các công trình nghiên cứu của các tác giả, như: Đỗ Vũ Hưng,
Nguyễn Anh Hùng, Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Lan Hương và Nguyễn Văn
Dũng. Bài viết “Xung quanh sự kiện Hugo Chavez đắc cử Tổng thống Venezuela”,
23
(thông tin do Tác giả Đỗ Vũ Hưng tổng hợp) [45]. Bài viết đã đề cập đến diễn biến,
kết quả cuộc bầu cử tổng thống Venezuela tháng 12/2006, những cải cách của Tổng
thống Hugo Chavez ở những nhiệm kỳ trước, những chính sách mới ở những nhiệm
kỳ tiếp theo như đổi tên nước và cải cách Hiến pháp, thành lập đảng chính trị duy
nhất để đại diện những người ủng hộ ông Chavez… Bài viết “Tiến triển trong hệ
thống chính trị một số nước Mỹ Latinh trong những năm gần đây và triển vọng”,
(Nguyễn Thị Hạnh) [32], đã đề cập đến việc các đảng cánh tả ở nhiều nước Mỹ
Latinh giành thắng lợi trong bầu cử, từ đó giành quyền kiểm soát chính quyền. Ý
định của tác giả là muốn lý giải sự quan tâm của dư luận thông qua việc nhìn nhận
chính đối tượng, trên ba phương diện là bối cảnh xuất hiện, hoạt động trong thực
tiễn và xu hướng vận động tiếp theo. Khi đề cập tới Venezuela, tác giả đã đưa ra
những dẫn chứng về việc Tổng thống Chavez thực hiện các cải cách tiến bộ về thể
chế, tổ chức trưng cầu dân ý về hiến pháp, bầu quốc hội, thông qua nhiều đạo
luật có lợi cho người lao động… Bài viết “Mạng lưới liên kết chính trị dưới sự
khởi xướng của các nước Mỹ Latinh”, (Nguyễn Lan Hương) [47], bài viết đã đề
cập tới những đặc trưng của mạng lưới liên kết chính trị do các nước Mỹ Latinh
khởi xướng từ nền tảng tinh thần của chủ nghĩa Bolivar. Tình hình liên kết chính
trị tại Mỹ Latinh, các sáng kiến hội nhập khu vực mới, sự mở rộng của các mục
tiêu hướng tới liên kết chính trị, các phong trào xã hội và tiến trình chính trị của
Mỹ Latinh, triển vọng liên kết của Mỹ Latinh. Bài viết “Quan hệ giữa Nhà nước
và giáo hội công giáo ở Venezuela: hiện tại và quá khứ”, (Nguyễn Văn Dũng)
[11], đã đề cập về tư tưởng của “Thần học giải phóng” ở Mỹ Latinh nói chung và
Venezuela nói riêng, đó là “Giáo hội nhân dân” của người nghèo. Bên cạnh đó,
bài viết cũng cũng chỉ ra mối quan hệ căng thẳng giữa Chính quyền Tổng thống
Chavez và Giáo hội công giáo.
Đề cập tới tình hình đảng phái ở Venezuela có các bài viết như: “Tình hình
các Đảng Cộng sản, cánh tả và tiến bộ Mỹ Latinh” của Nguyễn Khắc Sứ [101]. Tác
giả khái quát tình hình các ĐCS, cánh tả và tiến bộ tại Mỹ Latinh những năm đầu
thế kỷ XXI. Không chỉ ghi nhận thành quả, tác giả còn phân tích và luận giải cả
những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với các đảng phái, phong trào cánh tả
24
và dự báo xu hướng phát triển của phong trào. “Sự ra đời của Đảng Xã hội chủ
nghĩa thống nhất Venezuela” của tác giả Nguyễn Viết Thảo [110], đã phản ánh quá
trình hình thành, vấn đề và thách thức với bộ tham mưu của Chính quyền Tổng
thống Chavez - người sẽ dẫn dắt cả dân tộc theo mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ
XXI”; đánh giá về vai trò này, tác giả phản ánh một nhận định rằng: “Đảng Xã hội
chủ nghĩa thống nhất Venezuela” đã làm hồi sinh hy vọng về CNXH trong khu vực
Mỹ Latinh chất chứa đầy tiềm năng cách mạng và đấu tranh chống đế quốc”. “Về
các đảng chính trị ở Venezuela” của tác giả Nguyễn Thị Quế, Bùi Việt Hương [93],
đã đề cập tới hệ thống các đảng phái chính trị ở Venezuela, sự cân bằng quyền lực
trong hệ thống đa đảng, nguồn gốc cũng như ảnh hưởng của các đảng chính trị đối
với Nhà nước Venezuela cả lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trên phương diện văn hóa, xã hội có bài viết “Chính sách phát triển xã hội
của Venezuela: nhiệm vụ và kết quả”, tác giả Nghiêm Thị Thủy [123]. Bài viết đã
đề cập đến những mục tiêu xã hội của Chính quyền Tổng thống Chavez nhằm theo
đuổi các chính sách giải quyết tình trạng nghèo đói của các vấn đề xã hội như:
Nhiệm vụ xã hội, nhiệm vụ văn hóa, nhiệm vụ y tế, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội, nhiệm vụ môi trường, nhiệm vụ an ninh lương thực và phát triển nông thôn,
nhiệm vụ về nhà ở… Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra một số lưu ý trong quá trình
thực hiện những chính sách này.
Nghiên cứu ở phương diện đối ngoại có các công trình đã đăng tải trên Tạp
chí Châu Mỹ ngày nay của các tác giả Nguyễn Viết Thảo, Lê Khương Thùy,
Nguyễn Xuân Trung và Nguyễn Khánh Vân: Bài viết “Hợp tác và đấu tranh trong
quá trình liên kết ở châu Mỹ”, (Nguyễn Viết Thảo) [108], đã đề cập tới quá trình
liên kết ở châu Mỹ ở trong những giai đoạn lịch sử khác nhau để minh chứng quá trình
liên kết khu vực là một xu thế khách quan trong bối cảnh quốc tế hóa và toàn cầu hóa. Bài
viết “Chính sách đối ngoại của các nước Mỹ Latinh”, (Lê Khương Thùy) [121], đã
đề cập vấn đề để thực hiện có hiệu quả việc củng cố và phát triển xu thế ĐLDT bên
cạnh giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, các
nước Mỹ Latinh đều chủ trương thực hiện chính sách đối ngoại theo hướng độc lập,
tự chủ, đề cao lợi ích quốc gia, dân tộc, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối
25
ngoại, thể hiện khuynh hướng độc lập hơn với Mỹ, tăng cường liên kết, hợp tác khu
vực, đấu tranh cho trật tự thế giới mới đa cực, dân chủ và bình đẳng vì hòa bình,
ĐLDT, dân chủ và tiến bộ xã hội. Bài viết “Nền ngoại giao dầu mỏ của Venezuela
dưới thời Tổng thống Hugo Chavez”, (Nguyễn Xuân Trung) [128]. Bài viết đề cập
tới những nguyên tắc trong nền ngoại giao dầu mỏ của Venezuela như coi dầu mỏ là
công cụ chủ đạo trong quan hệ đối ngoại, ưu tiên cho hợp tác Nam - Nam, ủng hộ
sự tăng giá dầu. Từ đó, tập trung phân tích mục tiêu và tác động của nền ngoại giao
dầu mỏ của Venezuela: thực hiện cải cách kinh tế - xã hội hướng đến tự chủ, chủ
quyền, chống đói nghèo, bình đẳng xã hội, mở rộng ảnh hưởng trong khu vực thông
qua các hiệp định và liên minh… Bài viết “Chính sách ngoại giao của Venezuela
thập kỷ đầu thế kỷ XXI”, (Nguyễn Khánh Vân) [134], đã đề cập đến cuộc cách
mạng trong nền chính trị, những thay đổi trong chính sách ngoại giao của
Venezuela mang đậm dấu ấn của Tổng thống Hugo Chavez, đặc biệt là chính sách
của Venezuela đối với Mỹ.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết khác đăng trên các tạp chí chuyên ngành,
như: “Liên kết kinh tế Mỹ Latinh: Quan điểm, tiến trình và chính sách” của
Khu Thị Tuyết Mai [65]; “An ninh kinh tế trong điều kiện hiện nay ở khu vực
Mỹ Latinh” của Trịnh Trọng Nghĩa [76]; “Một số tác động của văn hóa – xã
hội đến phát triển kinh tế Mỹ Latinh” của Lê Thị Thu [120]… đây là các công
trình nghiên cứu về kinh tế Mỹ Latinh mà trong đó cũng có đề cập tới các
khía cạnh kinh tế của Venezuela; “Mô hình phát triển của Mỹ Latinh” của Hồ
Châu [07]; “Bước phát triển mới của phong trào cánh tả Mỹ Latinh” của Thái
Văn Long [60].
Các công trình được đề cập trên đây không chỉ lột tả ở nhiều góc độ, khía cạnh
của con đường đấu tranh bảo vệ ĐLDT của nước Cộng hòa Bolivar Venezuela mà
còn chỉ ra vai trò của Tổng thống Hugo Chavez trong việc hoạch định đường lối,
chính sách, lựa chọn con đường phát triển, đồng thời qua đó còn giúp chúng ta hiểu
hơn về xuất phát điểm việc lựa chọn con đường phát triển của Venezuela trong các
giai đoạn cụ thể. Đây chính là nguồn tài liệu tham khảo quý để nghiên cứu sinh
tham khảo, phục vụ cho việc thực hiện đề tài Luận án.
26
Nhìn chung, việc nghiên cứu về Mỹ Latinh nói chung và Venezuela nói riêng
đã được đề cập đến nhiều trên các góc độ kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội, đối
ngoại, quốc phòng, an ninh. Từ những góc độ và quan điểm tiếp cận khác nhau, các
nhà khoa học đã khái quát tổng thể hoặc đi sâu nghiên cứu các vấn đề cụ thể trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các công trình trên đã giải quyết được những vấn
đề chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, lịch sử hình thành và phát triển của Venezuela; những đặc trưng về
văn hóa, ngôn ngữ, tộc người, tôn giáo, truyền thống, bản sắc dân tộc.
Thứ hai, sự trỗi dậy của phong trào cánh tả Mỹ Latinh từ cuối thập niên 90 của
thế kỷ XX và việc triển khai xây dựng mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở
Venezuela.
Thứ ba, công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT, xây dựng và phát triển trên nhiều
lĩnh vực của nước Cộng hòa Bolivar Venezuela từ năm 1999 đến năm 2013 với các
chính sách khác nhau; Về cơ hội, thách thức, thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm
trong phát triển của Venezuela.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG LÀM RÕ
Mặc dù việc nghiên cứu về Mỹ Latinh nói chung và Venezuela nói riêng thu
hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong nước và thế giới với nhiều công
trình đã được công bố. Tuy nhiên, qua tìm hiểu nguồn tài liệu đã nêu trên, nghiên
cứu sinh nhận thấy các công trình này chủ yếu trình bày một cách khái quát về lịch
sử phát triển của đất nước Venezuela, vấn đề xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ
XXI”…; hoặc chỉ đi sâu tìm hiểu về một vấn đề cụ thể, như: đặc điểm dân tộc, tôn
giáo, về các chính sách kinh tế, về từng lĩnh vực hoạt động kinh tế, về chính sách
đối ngoại, quốc phòng, an ninh của quốc gia này.
Trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu trước,
luận án tiếp tục nghiên cứu để sáng tỏ một số vấn đề sau:
Một là, nghiên cứu các quan niệm về ĐLDT, bảo vệ ĐLDT trong lịch sử cũng
như trong bối cảnh toàn cầu hóa làm cơ sở xây dựng quan niệm ĐLDT của luận án.
Hai là, phân tích và luận giải những nhân tố tác động đến công cuộc đấu
tranh bảo vệ ĐLDT của nước Cộng hòa Bolivar Venezuela giai đoạn 1999 - 2013.
27
Ba là, phân tích những chủ trương, biện pháp và quá trình triển khai bảo vệ
ĐLDT ở Venezuela trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc
phòng, an ninh của Chính quyền Tổng thống Chavez từ năm 1999 đến năm 2013.
Bốn là, Đánh giá về những thành công và hạn chế từ công cuộc đấu tranh bảo vệ
ĐLDT ở Venezuela và vấn đề đặt ra cần giải quyết cũng như rút ra những kinh nghiệm.
Trong khuôn khổ của một luận án Tiến sĩ, do những điều kiện chủ quan và
khách quan, có những vấn đề nêu ra mới chỉ giải quyết được một phần nào đó hoặc
có những vẫn đề nghiên cứu còn hạn chế. Nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục nghiên cứu và
hoàn thiện trong thời gian tiếp theo.
Như vậy, luận án sẽ là công trình nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về
một giai đoạn phát triển của Venezuela, trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Thực chất đây là quá trình đấu tranh
của nhân dân Venezuela dưới sự lãnh đạo của Chính quyền Tổng thống Chavez
nhằm đấu tranh bảo vệ ĐLDT, củng cố, xây dựng và phát triển đất nước, khẳng
định vị thế của mình trong khu vực và trên thế giới.
28
Chương 2
QUAN NIỆM VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở
VENEZUELA TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2013
2.1. QUAN NIỆM VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Đấu tranh bảo vệ ĐLDT, lựa chọn con đường phát triển phù hợp luôn là một
vấn đề lớn đối với các nước đang phát triển. Nếu sự lựa chọn hướng đi đúng thì việc
bảo vệ nền ĐLDT sẽ được thực hiện một cách tốt nhất và ngược lại. Hiện nay, với
những xu thế phát triển mới trong quan hệ quốc tế, bối cảnh thế giới và các khu
vực… đã làm xuất hiện nhận thức, quan niệm và cách tiếp cận mới về ĐLDT. Cùng
với nhận thức đó, việc lựa chọn một con đường phát triển theo hướng độc lập, tự chủ
luôn là vấn đề được coi trọng trong chiến lược phát triển của mọi quốc gia, dân tộc
trên thế giới. Vì nội hàm của ĐLDT ngày càng rộng hơn cho nên các cách thức, con
đường để tiến hành bảo vệ nền ĐLDT cũng đa dạng hơn. Cho nên việc tìm hiểu về
những con đường phát triển của các nước trên thế giới càng có ý nghĩa quan trọng.
Theo Từ điển tiếng Anh, độc lập (independence) có các nghĩa: 1. Sức mạnh
hay khả năng đưa ra quyết định cho chính mình mà không bị ảnh hưởng từ bên
ngoài. 2. Quyền của một quốc gia xác định hình thức riêng của chính phủ mình mà
không bị ảnh hưởng từ bên ngoài [149].
Theo Từ điển tiếng Việt, độc lập là: I) như một tính từ, “độc lập” có nghĩa: 1.
Tự mình tồn tại, hoạt động, không nương tựa hoặc phụ thuộc vào ai, vào cái gì khác; 2.
(nước hoặc dân tộc) có chủ quyền, không phụ thuộc vào nước khác hoặc dân tộc khác;
II) như một danh từ, “độc lập” chỉ “Trạng thái của một nước hoặc một dân tộc có chủ
quyền về chính trị, không phụ thuộc vào nước khác hoặc dân tộc khác” [86].
Quan niệm về ĐLDT trong lịch sử: Vào khoảng thế kỷ XV - XVI ở châu Âu,
nhằm chống lại quyền lực của Hoàng đế và Đức Giáo Hoàng và sự gia tăng niềm tin
vào tính tối cao của lãnh thổ quốc gia, theo nghĩa đó, chủ quyền quốc gia là khái niệm
“trần tục”, đối lập với thần quyền của tôn giáo. Đại diện của quan niệm này là Niceolo
Machiavelli (1469 - 1527) - Nhà tư tưởng người Italia và là một trong những đại biểu
của phong trào Ánh sáng ở châu Âu. Trong cuốn "Le Prince" (Bậc Quân vương) xuất
29
bản năm 1532, Niccolo Machiavelli đã cho rằng: chủ quyền quốc gia dân tộc phải tuyệt
đối trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, phải được đặt trên tất cả mọi quyền lực khác.
Điều đó có nghĩa trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia dân tộc có thể làm mọi
điều bất chấp các quốc gia khác. Để bành trướng quyền lực của mình, quốc gia có thể
tận dụng tất cả các phương kế, chính sách kể cả các thủ đoạn [95, tr.19].
Thomas Hobbes - nhà triết học nổi tiếng người Anh với quan điểm trong các
tác phẩm về triết học chính trị. Cuốn sách Leviathan viết năm 1651 của ông đã thiết
lập nền tảng cho nền triết học chính trị phương Tây theo quan điểm lý thuyết về khế
ước xã hội. Hobbes cho rằng chủ quyền như một trạng thái pháp lý riêng của nhà
nước, đó là đặc quyền tuyệt đối bắt tất cả các chủ thể phi nhà nước phải tuân theo ý
chí của nó thông qua hệ thống pháp luật.
Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778) là một nhà triết học thuộc trào lưu
Khai sáng người Thụy Sĩ có ảnh hưởng lớn tới Cách mạng Pháp 1789. Theo ông,
chủ quyền quốc gia dân tộc đồng nghĩa với sự độc lập của quốc gia đó. Ông cho
rằng có nhiều điểm tương đồng giữa hai khái niệm độc lập và chủ quyền quốc gia
dân tộc, ở ba đặc tính sau: quyền lực toàn vẹn, quyền lực chuyên biệt và quyền lực
tự chủ của quốc gia. Theo quan niệm này, chủ quyền quốc gia dân tộc phải toàn
vẹn, chủ quyền được phép can thiệp vào mọi lĩnh vực xét thấy có lợi ích cho sự tồn
tại và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc. Chủ quyền quốc gia dân tộc phải
độc quyền trên toàn bộ lãnh thổ của mình, trừ trường hợp quốc gia dân tộc muốn tự
mình hạn chế độc quyền này bởi những cam kết quốc tế với nước ngoài và các tổ
chức quốc tế. Chủ quyền của quốc gia dân tộc phải tự chủ, không lệ thuộc vào một
quốc gia nào trong quan hệ đối nội và đối ngoại [95, tr.21].
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin: Lý luận về vấn đề dân tộc là một bộ
phận quan trọng trong hệ tư tưởng của giai cấp vô sản (GCVS) thế giới. Trong tác
phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” C.Mác viết: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc
lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà
sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa, thì sự thù địch
giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo” [66, tr.624]. Tư tưởng cách mạng triệt để
này là mục tiêu, phương châm cách mạng của GCVS, của những người cộng sản và
30
các dân tộc trên thế giới. Tư tưởng cách mạng của C.Mác chỉ ra rằng chỉ có xóa bỏ
áp bức giai cấp, mới xóa bỏ được áp bức dân tộc, thực hiện quyền bình đẳng giữa
các dân tộc, sứ mệnh lịch sử đó chỉ có GCVS cùng với đảng của mình mới thực
hiện được. Bằng những hàng động cách mạng thực tiễn C.Mác và Ph.Ăngghen đã
xem xét vấn đề ĐLDT với tinh thần nghiêm khắc, tư duy sáng tạo, gắn với những
điều kiện lịch sử cụ thể nhằm giáo dục lập trường GCVS cho GCCN và phê phán
những tư tưởng sai lệch về vấn đề ĐLDT. Quan điểm cách mạng trong vấn đề ĐLDT
của các dân tộc bị áp bức của C.Mác và Ph.Ăngghen được thể hiện sâu sắc ở quan hệ
biện chứng giữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giữa bình đẳng
dân tộc và bình đẳng giai cấp, tìm ra cơ sở khoa học của vấn đề dân tộc, nguồn gốc xã
hội của phong trào ĐLDT và khẳng định rằng, chỉ có thủ tiêu được ách áp bức dân tộc
và mọi bất bình đẳng của dân tộc khi thủ tiêu được CNTB, giành được chính quyền,
xây dựng xã hội mới không có giai cấp. GCVS xét về bản chất xã hội thì có tính chất
quốc tế, những lợi ích cách mạng của nó đòi hỏi phải đấu tranh thủ tiêu ách áp bức,
thống trị của các dân tộc thuộc địa, thực hiện quyền bình đẳng dân tộc.
V.I.Lênin đã bảo vệ và phát triển sáng tạo những tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc trong hoàn cảnh mới. Khi chủ nghĩa đế quốc
(CNĐQ) và giai cấp tư sản (GCTS) đang chuẩn bị cuộc chiến tranh nhằm phân chia
lại thế giới. Chính vì vậy, V.I.Lênin đã xây dựng nên một hệ thống quan điểm về
cách mạng giải phóng dân tộc, vấn đề dân tộc - thuộc địa là bộ phận cấu thành cuộc
đấu tranh của GCCN. V.I.Lênin khẳng định, phong trào đấu tranh giành ĐLDT về
kinh tế và chính trị, là bộ phận cấu thành phong trào cách mạng thế giới vì CNXH.
Đấu tranh giành ĐLDT là một nội dung đấu tranh cho dân chủ, dân sinh và tiến bộ
xã hội. ĐLDT, tiền đề dân chủ để thực hiện sự liên hợp, thống nhất dân tộc trong
điều kiện XHCN, trên nguyên tắc tự do, tự nguyện. Thực hiện sứ mệnh lịch sử đó,
GCVS và đảng viên tiền phong của mình, phải đoàn kết thống nhất GCVS ở các
dân tộc bị áp bức. Các tác phẩm của V.I.Lênin đã luận chứng một cách khoa học
cho những luận điểm mang tính chất cương lĩnh về ĐLDT, về quyền bình đẳng giữa
các dân tộc và kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng để bảo vệ tư tưởng mácxít
về vấn đề dân tộc, đồng thời cũng nhắc nhở những người mácxít cần phân biệt rõ
31
chủ nghĩa dân tộc của dân tộc đi áp bức với chủ nghĩa dân tộc của dân tộc bị áp bức
để xem xét thái độ đúng đắn và sách lược đấu tranh thích hợp. Thực chất của Cương
lĩnh dân tộc theo quan điểm mácxít được khái quát: “Các dân tộc hoàn toàn bình
đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại: đó
là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm
của nước Nga dạy cho công nhân” [55, tr.375].
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng
dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản, phong trào giải phóng dân tộc
thế giới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ĐLDT là vấn đề thiêng liêng, là luận đề
cơ bản quan trọng, chi phối xuyên suốt trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, các dân tộc đều bình đẳng về quyền độc lập tự do, không ai
có thể xâm phạm; mọi sự xâm phạm độc lập tự do đều là trái với đạo lý và lẽ
phải, các quốc gia dân tộc sẽ kiên quyết đứng lên chiến đấu hy sinh đến cùng
để bảo vệ, giữ gìn quyền độc lập tự do của mình, “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”. Không có được độc lập tự do thì các dân tộc không thể có hạnh
phúc thực sự. Vì vậy, đấu tranh cho ĐLDT là vấn đề trước tiên của các dân tộc
trên con đường giải phóng dân tộc mình.
Với Hồ Chí Minh, ĐLDT không phải là một khái niệm chung chung mà
ngược lại, nó chứa đựng những nội dung cụ thể: Thứ nhất, ĐLDT phải gắn liền với
sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; Thứ hai, ĐLDT phải là độc lập thực sự
trên tất cả các mặt: Chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao... trên tinh thần quyền dân
tộc tự quyết. Hồ Chí Minh viết: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi
công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào” [69, tr.162]; Thứ ba,
ĐLDT phải gắn liền với sự ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Chúng ta đấu tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét
thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập
khi được ăn no, mặc đủ...” [68, tr.175]. Tư tưởng Hồ Chí Minh: ĐLDT vừa là mục
tiêu, động lực, vừa là con đường cách mạng giải phóng dân tộc triệt để nhất, cách
mạng nhất trong thời đại ngày nay, chỉ có như vậy mới thực hiện được quyền bình
đẳng, dân chủ trong quan hệ quốc tế giữa các nước trên thế giới.
32
Quan điểm trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay: Trong cuốn sách “Chủ quyền
quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, tác giả
Phan Văn Rân đã đưa ra quan niệm về ĐLDT trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay là:
“Độc lập dân tộc thể hiện ở quyền độc lập tự chủ trong việc lựa chọn con đường phát
triển của dân tộc mình, thể hiện qua việc quyết định mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội, trong việc thiết lập và thực thi quyền lực thông qua các hoạt động lập
pháp, tư pháp, tiến hành mà không có sự can thiệp từ phía các quốc gia khác và các tổ
chức quốc tế. Có chính sách phù hợp để phát triển đất nước bền vững, loại trừ nguy cơ
tác động xấu đến độc lập dân tộc. Có chủ trương chính sách thích hợp để có thể hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới” [95, tr.65 - 76].
Quan điểm của của một số lãnh tụ Venezuela: Simon Bolivar (1783 - 1830)
là nhà quân sự, nhà tư tưởng lỗi lạc, người lãnh đạo phong trào đấu tranh chống chế
độ thực dân Tây Ban Nha giành độc lập cho 5 nước vùng Nam Mỹ (Venezuela,
Colombia, Ecuador, Peru, Bolivia). Năm 1812, ông đã công bố bản Tuyên ngôn
Cartagena và đây được xem như một cương lĩnh về con đường đấu tranh giành
ĐLDT cho các nước Nam Mỹ. Tư tưởng về ĐLDT của Bolivar được thể hiện đó là
“Đấu tranh để Venezuela thoát khỏi sự đô hộ của các thế lực bên ngoài, trở thành
một dân tộc tự do, việc tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình là một nguyên tắc
không khoan nhượng” [40, tr.78].
Simon Bolivar ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và chính sách của các lãnh tụ
phong trào cánh tả Mỹ Latinh sau này, đặc biệt là Tổng thống Hugo Chavez, trong
tư tưởng ĐLDT của mình Ông Chavez đã tiếp thu nhiều luận điểm từ tư tưởng của
Bolivar và tin rằng xây dựng CNXH cũng chính là thực hiện mơ ước của Bolivar.
Nhiều tư tưởng của Bolivar về giáo dục, quyền sở hữu đất đai, y tế, ngoại giao được
Tổng thống Chavez tiếp thu và thực hiện. Với tư tưởng cách mạng chống đế quốc,
kiên định ĐLDT và nhiệt tình kiến tạo “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”. Mô hình này
được “Tổng thống Chavez theo đuổi và truyền bá là một sự kết hợp giữa tư tưởng
tiến bộ của Bolivar (yêu nước, ĐLDT, đoàn kết nhân dân trong nước với Mỹ
Latinh) với một số nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin (chống đế quốc,
chống áp bức, xóa bỏ giai cấp, chế độ người bóc lột người…) và với tinh thần nhân
đạo của Thiên Chúa giáo (yêu thương, bác ái)” [40, tr.83 - 83].
33
Kế thừa các quan điểm về ĐLDT như trên, tác giả luận án xây dựng khái
niệm như sau: ĐLDT là một thuật ngữ chỉ trạng thái của một quốc gia không bị phụ
thuộc hay lệ thuộc vào bên ngoài. Đó là quyền bất khả xâm phạm về độc lập chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, có sự độc lập về chính trị, kinh tế, đối ngoại,
quốc phòng, an ninh, có các giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa riêng, nguồn
tài nguyên, môi trường được đảm bảo toàn vẹn, đầy đủ về mọi mặt, cả lập pháp,
hiến pháp lẫn tư pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Có
quyền bình đẳng, quyền tự quyết với tư cách là một quốc gia độc lập trong cộng
đồng quốc tế. ĐLDT là mục tiêu cho tự do, bình đẳng, bất khả xâm phạm, là tiền đề
để xây dựng quốc gia phát triển và bền vững.
Từ khái niệm trên, quan niệm bảo vệ ĐLDT được hiểu trên những nội dung
cơ bản sau đây:
Một là, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, đây là vấn
đề sống còn của mỗi quốc gia dân tộc và cũng là quyền thiêng thiêng bất khả xâm
phạm của mỗi quốc gia, song không phải lúc nào vấn đề này cũng được thỏa mãn
với mọi quốc gia dân tộc. Vì, lịch sử xã hội loài người cho đến hiện nay là lịch sử
đấu tranh giai cấp, xâm chiếm thuộc địa, nhất là khi CNTB ra đời, để có thị trường,
nguyên, nhiên, vật liệu và nguồn nhân công rẻ mạt cho sự phát triển kinh tế tư bản
chủ nghĩa (TBCN), giai cấp tư sản đã tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược
quy mô lớn để thôn tính thế giới. V.I.Lênin đã nắm bắt thời cơ lãnh đạo Cách mạng
Tháng Mười Nga thắng lợi, mở ra một chương mới cho lịch sử loài người, cũng như
mỗi quốc gia dân tộc. Song, vấn đề đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của mỗi quốc gia vẫn là vấn đề nóng bỏng và thường xuyên, đó là lợi ích
sống còn của mỗi quốc gia hiện nay.
Hai là, bảo vệ sự độc lập về chính trị, kinh tế, đối ngoại, quốc phòng, an ninh,
có nghĩa là hoàn toàn làm chủ trong việc lựa chọn chế độ chính trị, con đường phát
triển kinh tế và có quyền liên hiệp hoặc tách ra thành những quốc gia độc lập trên con
đường phát triển của quốc gia mình. Đây là lợi ích thiết thực và quyết định sự hưng
vong của mỗi quốc gia. Độc lập về chính trị là nhân tố quan trọng hàng đầu của quốc
gia, độc lập kinh tế là nhân tố quyết định sự tồn tại lâu dài của quốc gia, độc lập về
34
đối ngoại, quốc phòng, an ninh là khẳng định vị thế của quốc gia. Chúng có mối quan
hệ khăng khít và hỗ trợ lẫn nhau, làm tiền đề và điều kiện cho nhau trên cơ sở nguyên
tắc độc lập, tự chủ, tự lực, tư cường, tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, hợp tác
cùng có lợi có ý nghĩa quyết định trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
Ba là, kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống, bảo vệ bản sắc văn hóa
dân tộc, những giá trị truyền thống của một dân tộc là thành quả của hoạt động lao
động sáng tạo của con người, của xã hội trong tiến trình lịch sử, là toàn bộ giá trị vật
chất và giá trị tinh thần do nhân dân sáng tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển
của mỗi quốc gia, nhằm thỏa mãn những nhu cầu trong cuộc sống của mình. Mỗi
bước tiến của con người trong quá trình lao động sản xuất vật chất, nghiên cứu khoa
học, đấu tranh cách mạng cũng đồng thời là quá trình xây dựng những giá trị truyền
thống và khẳng định một bước tiến trên con đường vươn tới sự nghiệp giải phóng
con người, xã hội và toàn thể nhân loại. Vì thế, không thể tách truyền thống ra khỏi
cuộc sống của con người, xã hội. Đồng thời, con người và xã hội cũng không thể
tồn tại và phát triển lành mạnh nếu thiếu truyền thống văn hóa.
Bốn là, bảo vệ tài nguyên, môi trường của đất nước, mỗi quốc gia đều có lợi
thế riêng, được thiên nhiên ban tặng tài nguyên, khoáng sản và môi trường thuận lợi
hoặc khó khăn trong sinh hoạt, sản xuất. Đây là nguồn tài sản vô giá, có ý nghĩa
quyết định đến sự phát triển và trường tồn của quốc gia. Việc bảo vệ nguồn tài
nguyên, môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển nhanh và
bền vững, không những cho hiện tại mà còn cho cả thế hệ mai sau. Bảo vệ ĐLDT
còn bao hàm các điều kiện bảo đảm cho sự phát triển hài hòa, bền vững, lâu dài và tiến
lên xây dựng một xã hội phồn vinh, nhân đạo, văn minh, giải quyết một cách hài hòa
giữa lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia và lợi ích nhân loại. Như vậy, bất cứ quốc gia dân
tộc nào trong cộng đồng thế giới, dù lớn hay nhỏ, dù phát triển hay chậm phát triển đều
có những lợi ích quốc gia chính đáng của mình, đó là quyền thiêng liêng bất khả xâm
phạm và không ảnh hưởng đến ĐLDT của các quốc gia dân tộc khác, được lịch sử
thừa nhận và Luật pháp quốc tế công nhận.
Năm là, có quyền bình đẳng, quyền tự quyết với tư cách là một quốc gia độc
lập trong cộng đồng thế giới, bảo vệ ĐLDT của mỗi quốc gia bảo đảm cho mình
tồn tại với tư cách là một thành viên độc lập trong cộng đồng quốc tế. Các quốc gia
35
dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, trình độ phát triển khác nhau nhưng đều có quyền
bình đẳng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế.
Quyền tự quyết của các quốc gia, trước hết là quyền lựa chọn chế độ chính trị, kinh
tế của quốc gia đó và con đường phát triển của mình, đồng thời quyền tự quyết
chính trị còn bao hàm cả quyền tự do phân lập hay tự nguyện liên hiệp với một số
quốc gia dân tộc khác để hình thành các liên bang hoặc cộng đồng kinh tế, văn hóa,
xã hội trong xu thế toàn cầu hóa, để cùng nhau tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó, để
tồn tại với tư cách một quốc gia dân tộc, còn phải có những điều kiện bảo đảm cho
quốc gia đó tồn tại, phát triển như: phải có một chính đảng cầm quyền, một chính
phủ quản lý đất nước và một cơ quan lập pháp để ban hành hiến pháp, phải có hệ
thống pháp luật để duy trì sự ổn định mọi mặt của đời sống xã hội, bảo vệ lợi ích
chính đáng của công dân và quốc gia dân tộc mình.
2.2. NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC
LẬP DÂN TỘC Ở VENEZUELA
2.2.1. Tình hình Venezuela và vai trò Tổng thống Hugo Chavez
2.2.1.1. Đất nước, con người Venezuela
Venezuela (tên chính thức là Cộng hòa Bolivar Venezuela, tiếng Tây Ban
Nha: República Bolivariana de Venezuela) là một quốc gia nằm ở phía Bắc lục địa
Nam Mỹ. Tọa độ: 8000 vĩ độ Bắc, 66000 kinh độ Tây. Với diện tích là 916.490 km²,
Venezuela tiếp giáp với Guyana về phía Đông, với Brazil về phía Nam, Colombia về
phía Tây và biển Caribbean về phía Bắc. Venezuela nằm ở sườn Bắc của dãy núi
Andes, khu vực đồng bằng của sông Orinoco nằm ở phía Đông, có đường bờ biển dài
hơn 2800 km, không bằng phẳng, nhiều chỗ hẹp và dốc ngoại trừ khu vực phía Tây.
Địa hình Venezuela có thể chia làm ba vùng chính: Vùng Tây Bắc là nơi có
độ cao lớn nhất của Venezuela. Vùng Trung Tâm là vùng có những đồng bằng rộng.
Vùng Nam là vùng Cao nguyên Guiana với độ cao trung bình. Tuy nhiên, do sự đan
xen phức tạp của các dạng địa hình, Venezuela có thể được chia làm 10 khu vực địa
lý khác nhau, tạo điều kiện cho sự phát triển của nhiều hệ sinh thái với các loài động
thực vật vô cùng đa dạng, trong đó có nhiều loài động thực vật đặc hữu riêng.
Venezuela có nhiều khu bảo tồn thiên nhiên với cảnh quan đa dạng. Nguồn tài
36
nguyên phong phú, sự đa dạng được thể hiện như: Dầu mỏ, khí tự nhiên, sắt, vàng,
bôxit, một số khoáng sản khác, tiềm năng thủy điện.
Tên gọi Venezuela được bắt nguồn từ chuyến hải trình của nhà vẽ bản đồ
Amerigo Vespucci cùng với nhà thám hiểm Alonso de Ojeda đến bờ biển Tây Bắc
vịnh Venezuela năm 1499. Khi đến bán đảo Guajira, Vespucci đã bắt gặp những
ngôi nhà lá của thổ dân da đỏ được dựng trên mặt nước và khiến ông liên tưởng đến
thành phố Venice (tiếng Italia: Venezia). Ông đã đặt tên cho vùng đất này là
Venezuola, trong tiếng Italia có nghĩa là “Venice nhỏ”. Trong tiếng Tây Ban Nha,
cụm từ zuela dùng với vai trò giảm nghĩa tương tự như zuola trong tiếng Ý được
ghép thay vào để hình thành cái tên Venezuela [41, tr.04].
Bên cạnh đó, nhà địa lý người Tây Ban Nha Martin Fernandez de Enciso,
một thủy thủ đoàn của Ojeda đã nêu trong tác phẩm Summa de Geografía của mình
rằng những thổ dân da đỏ tại vùng này tự gọi mình là Veneciuela, và cái tên
Venezuela được bắt nguồn từ tên gọi đó.
Những bằng chứng khảo cổ cho thấy, con người đã định cư tại vùng đất
Venezuela từ 13.000 năm trước công nguyên. Những mũi giáo săn bắn của người bản
địa đã được xác định có niên đại trong khoảng từ 13.000 đến 7000 năm về trước.
Toàn bộ đất nước Venezuela được chia thành 23 tiểu bang, 1 quận thủ đô là
thành phố Caracas, các vùng lãnh thổ phụ thuộc và khu vực Guyana Esequiba tranh
chấp với Guyana. Ở cấp tiếp theo, Venezuela lại được chia tiếp thành 335 đô thị rồi
lại được chia tiếp thành hơn 1000 khu vực nhỏ. Dân số Venezuela tính đến tháng
04/2013 là hơn 28 triệu người [41, tr.04]. Venezuela là một trong quốc gia có tốc độ
gia tăng dân số nhanh nhất Nam Mỹ, chỉ đứng sau Bolivia, Paraguay và Guiana
thuộc Pháp. Khoảng 85% dân số Venezuela sống tập trung tại các đô thị miền Bắc.
Venezuela là một trong những nước có tỉ lệ dân cư sống tại thành thị cao nhất Nam
Mỹ. Do đó khu vực phía Nam đồng bằng Orinoco tuy chiếm đến một nửa diện tích
đất nước nhưng lại vô cùng hoang vắng với chỉ 5% dân cư sống tại đó. Ngôn ngữ
chính thức là tiếng Tây Ban Nha.
2.2.1.2. Đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc
phòng, an ninh
Về kinh tế: Với sự ưu đãi về thiên nhiên, Venezuela có nguồn tài nguyên dầu
mỏ rất lớn, đứng đầu thế giới về trữ lượng, nhiều hơn cả “quốc gia dầu mỏ” Arab
37
Saudi. Có thể khẳng định rằng, dầu mỏ được phát hiện và khai thác đã mang lại sự
thịnh vượng cho nền kinh tế đất nước. Công nghiệp dầu lửa là ngành kinh tế đóng
góp nhiều nhất cho kinh tế Venezuela, đứng thứ 5 trên thế giới về sản xuất và xuất
khẩu dầu mỏ, nằm trong nhóm 10 nước xuất khẩu dầu thô lớn nhất thế giới. Ngành
công nghiệp dầu mỏ Venezuela chiếm tới hơn 1/3 tổng sản phẩm quốc nội (GDP),
80% giá trị xuất khẩu và hơn một nửa ngân sách Nhà nước [41, tr.05]. Những mỏ dầu
chính của Venezuela nằm tại khu vực hồ Maracaibo, vịnh Venezuela và vùng châu
thổ sông Orinoco. Tuy nhiên sự lên xuống thất thường của giá dầu trên thị trường thế
giới cũng như các cuộc khủng hoảng chính trị, đình công luôn đe dọa đến ngành kinh
tế nhạy cảm này của Venezuela. Chính phủ Venezuela đang tìm cách làm đa dạng
hóa nền kinh tế và tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào dầu mỏ của nước này.
Từ thập niên 1950 đến thập niên 1980, Venezuela là một trong những cường
quốc kinh tế tại Mỹ Latinh. Thu nhập bình quân của nước này gia tăng nhanh chóng
đã thu hút rất nhiều lao động từ khắp nơi trên thế giới. Mặc dù là một quốc gia
nhiều tài nguyên thiên nhiên nhưng việc phân bố tài sản tại Venezuela lại không
đồng đều, khiến cho đời sống một bộ phận lớn dân nghèo gặp nhiều khó khăn. Đây
là vấn đề lớn tác động trực tiếp đến cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT của Tổng thống
Chavez nhằm mục tiêu mang lại sự bình đẳng cho tất cả mọi người dân bằng nội
lực, tránh được sự ảnh hưởng hay phụ thuộc vào bên ngoài.
Về thể chể chế chính trị: Venezuela theo thể chế cộng hòa. Tổng thống
Venezuela được bầu cử với phiếu bầu trực tiếp với nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.
Tổng thống đảm nhiệm vai trò là nguyên thủ quốc gia và đồng thời cũng là người đứng
đầu Chính phủ. Nhiệm kỳ của một tổng thống là 6 năm và tổng thống có thể được bầu
lại trong một nhiệm kỳ tiếp theo. Tổng thống Venezuela có quyền bổ nhiệm phó tổng
thống và quyết định quy mô và thành phần của nội các và bổ nhiệm các thành viên với
sự phê chuẩn của quốc hội. Tổng thống có thể đề nghị quốc hội sửa đổi các điều luật
nhưng quốc hội cũng có thế phủ quyết đề nghị của tổng thống nếu đa số phản đối.
Cơ quan lập pháp: Hiến pháp năm 1999 của Venezuela quy định, Quốc hội
gồm hai viện là Thượng viện và Hạ viện, nhưng đến năm 2000 thì chỉ còn áp dụng
chế độ một viện với 167 đại biểu, trong đó có 3 ghế được dành riêng cho người thổ
38
dân da đỏ. Các đại biểu có nhiệm kỳ 5 năm và có thể được bầu lại tối đa thêm 2
nhiệm kỳ nữa. Các đại biểu quốc hội có thế được bầu theo danh sách các chính đảng
hoặc ứng cử độc lập. Công dân Venezuela từ 18 tuổi trở lên có quyền tham gia bầu
cử và ứng cử.
Cơ quan hành pháp: Ở Venezuela, quyền lực Tổng thống rất lớn. Vì vậy, khi
người dân nói về “Chính phủ” có nghĩa như là “Tổng thống”, hay “Hành pháp”. Là
Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang quốc gia, Tổng thống được quân đội hậu thuẫn. Do
đó hầu như toàn quyền với nội các nên Tổng thống có sự hậu thuẫn lớn từ cơ quan này.
Cơ quan tư pháp: đứng đầu là Tòa án tối cao Venezuela với 32 thẩm phán
được Quốc hội bổ nhiệm với nhiệm kỳ 12 năm. Hội đồng bầu cử quốc gia Venezuela
(Consejo Nacional Electoral, hay CNE) chịu trách nhiệm trong quá trình bầu cử. Cấp
bang có một tòa án cấp cao và các tòa án địa phương [41, tr.05].
Venezuela tách khỏi Đại Colombia năm 1930 và đi vào chế độ độc tài cho đến
năm 1958. Đến năm 1989, hai đảng Đảng Hành động dân chủ (AD) và Đảng Dân chủ
Thiên chúa giáo (COPEI) thay nhau cầm quyền, Venezuela là một nước có hệ thống
đa đảng. Sự ổn định chính trị được thực hiện thông qua hệ thống trung gian bảo trợ
đảng phái, nơi mà các đảng được tiếp cận với các nguồn lực kinh tế nhà nước cung
cấp, hỗ trợ. Hugo Chavez giành chiến thắng vang dội trong cuộc bầu cử Tổng thống
tháng 12/1998 với tư cách là ứng cử viên của Patriotic Pole (PP), một liên minh của
Phong trào Nền cộng hòa thứ năm với hai đảng cánh tả khác là Tổ quốc cho tất cả
(PPT) và Phong trào hướng tới chủ nghĩa xã hội (MAS). Hiện nay, các đảng chính trị
chủ yếu bao gồm: Phong trào Nền cộng hòa thứ năm (MVR), Phong trào hướng tới
chủ nghĩa xã hội (MAS), Đảng Hành động dân chủ (AD), Đảng Dân chủ Thiên chúa
giáo (COPEI), Đảng Tổ quốc cho tất cả (PPT), Đảng Chúng ta có thể (PODEMOS),
Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Venezuela (PSUV). Các đảng này hoạt động rất
tích cực trong đời sống chính trị Venezuela. Từ sau cuộc bầu cử năm 1998,
Venezuela theo xu hướng chính trị cánh tả dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Chavez
với mong muốn đưa đất nước thoát khỏi sự mâu thuẫn giữa các đảng phái, đồng thời
cùng nhau tham gia vào các chính sách của đất nước vì cuộc cách mạng cho người
nghèo ở Venezuela và cả khu vực Mỹ Latinh [93, tr.55].
39
Về văn hóa, xã hội: Những di sản văn hóa của đất nước Venezuela mang đậm
ảnh hưởng của phong cách Mỹ Latinh, được hình thành trên nền của ba nhân tố
chính: văn hóa của người da đỏ bản địa, của người Tây Ban Nha và người da đen
châu Phi. Ban đầu, các yếu tố văn hóa này trộn lẫn vào nhau rồi sau đó lại phân hóa
ra theo từng khu vực địa lý theo quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhìn chung, người dân Venezuela có lối sống sôi nổi, ca hát. Những người thổ dân
châu Mỹ có tính đơn nhất về văn hóa, chính trị chỉ có ảnh hưởng mờ nhạt đối với
nền văn hóa của họ vốn đã bị những người nhập cư đồng hóa.
Nghệ thuật Venezuela ban đầu xoay quanh các mô típ tôn giáo là chủ yếu.
Tuy nhiên đến cuối thế kỉ XIX, nền nghệ thuật này bắt đầu phản ánh các sự kiện
lịch sử và những người anh hùng dân tộc, mà đi tiên phong là họa sĩ Martín Tovary.
Đến thế kỉ XX, chủ nghĩa hiện đại lên thay thế. Văn học Venezuela bắt đầu phát
triển sau khi người Tây Ban Nha đặt chân đến đây khai phá thuộc địa. Nền văn học
bằng tiếng Tây Ban Nha chiếm địa vị độc tôn với những ảnh hưởng của các phong
cách văn học từ chính quốc. Văn học xoay quanh các chủ đề chính trị phát triển
trong cuộc đấu tranh giành độc lập đầu thế kỉ XIX của nhân dân Venezuela. Kiến
trúc, Carlos Raúl Villanueva được coi là kiến trúc sư vĩ đại nhất của đất nước
Venezuela hiện đại. Ông đã thiết kế Trường Đại học Trung tâm Venezuela, thành
phố đại học của Caracas được coi là kiệt tác về kiến trúc và quy hoạch đô thị, chính
vì thế đây là khu hội sở đại học duy nhất được thiết kế vào thế kỷ XX được
UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 2000. Venezuela là một trong những
quốc gia mà người dân hâm mộ các cuộc thi sắc đẹp nhất thế giới. Với một công nghệ
đào tạo hoa hậu chuyên nghiệp, Venezuela đã trở thành một cường quốc hoa hậu mà
không một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đất nước này đã lập kỷ lục sáu lần đoạt
vương miện Hoa hậu Thế giới, 06 lần đoạt vương miện Hoa hậu Hoàn vũ và 06 lần
đoạt Hoa hậu Quốc tế [41, tr.10].
Về đối ngoại: Dưới thời Tổng thống Chavez, Venezuela chủ trương thực
hiện một chính sách đối ngoại đa phương, rộng mở nhằm phát triển kinh tế - xã
hội và tăng cường vai trò của Venezuela. Cụ thể: Tiếp tục hội nhập và phát
triển khối MERCOSUR, tăng cường liên kết giữa các nước dầu mỏ Nam Mỹ,
mở rộng và tăng cường quan hệ với các nước châu Phi, châu Á và châu Âu.
40
Thúc đẩy thực hiện Liên minh Bolivar cho châu Mỹ (ALBA). Củng cố và mở
rộng các liên minh chiến lược giữa các quốc gia cánh tả, tiếp tục thực hiện
chính sách ngoại giao dầu mỏ để tạo ảnh hưởng và nâng cao vai trò của
Venezuela tại khu vực thông qua các chương trình cung cấp dầu với giá ưu đãi.
Tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ với các nước EU. Mở rộng quan hệ với
các nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền của nhau. Bên
cạnh đó, Venezuela tiếp tục tham gia vào các dự án hợp tác Nam - Nam trong
khuôn khổ Phong trào Không liên kết.
Về quốc phòng, an ninh: Lực lượng vũ trang Venezuela bao gồm 6 thành phần
gồm Lục quân, Hải quân, Lực lượng dự bị, Lực lượng bảo vệ lãnh thổ, các lực lượng
này nằm dưới sự điều hành của Bộ Tư lệnh tác chiến và Bộ Tổng tư lệnh Dự bị quốc
gia. Trước năm 2005, hệ thống quốc phòng của Venezuela được thiết lập theo mô
hình của các nước tư bản, nhiều sỹ quan được học tập và đào tạo từ Mỹ và phương
Tây… Tuy nhiên, từ năm 2005, Venezuela đã có sự thay đổi, tập trung quyền kiểm
soát quân đội về chính quyền trung ương. Venezuela chủ trương xây dựng lực lượng
vũ trang trung thành với Chính phủ, có khả năng chiến đấu với một cuộc chiến tranh
nếu xảy ra. Học thuyết quân sự Venezuela nhấn mạnh đến việc phòng thủ tích cực,
trong đó các lực lượng thông thường phải có khả năng tác chiến, các lực lượng dự bị
chiếm giữ các vị trí phòng thủ cố định. Về mặt chiến thuật, học thuyết quân sự của
Venezuela nhấn mạnh áp dụng các lực lượng phối thuộc có khả năng sử dụng các loại
hỏa lực mạnh và có khả năng cơ động nhanh.
Những yếu tố trên tạo cho Venezuela trở thành quốc gia mang nhiều nét đặt
thù so với quốc gia khác như truyền thống lịch sử, văn hóa, dân tộc, tôn giáo cũng
như về tư duy và tính cách con người. Đặc biệt, do chiếm giữ vị trí chiến lược quan
trọng ở khu vực cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Venezuela luôn
là nơi tranh giành ảnh hưởng của các nước tư bản phương Tây. Đất nước này cũng
là nơi thu hút nguồn vốn đầu tư lớn của các trung tâm tư bản và các tổ chức tài
chính trên thế giới. Tuy nhiên, dù nguồn tài nguyên phong phú nhưng trong một
thời gian dài, đất nước Venezuela lại trong tình trạng nghèo đói, bị phụ thuộc vào
Mỹ và các nước phương Tây. Những yếu tố trên đây góp phần không nhỏ vào công
cuộc đấu trang bảo vệ ĐLDT ở Venezuela.
41
2.2.1.3. Khái quát lịch sử đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở
Venezuela trước năm 1999
Năm 1522, người Tây Ban Nha bắt đầu thiết lập thuộc địa đầu tiên ở
Venezuela. Lúc đó, miền Đông Venezuela được sát nhập vào một thuộc địa lớn với
tên gọi New Andalusia. Đến đầu thế kỷ XVIII, Venezuela lại được sát nhập vào
thuộc địa New Granada.
Dưới sự thống trị của phong kiến Tây Ban Nha, nhân dân Venezuela đã
nhiều lần nổi dậy đấu tranh nhưng không thành công. Ngày 05/07/1811, nước Cộng
hòa Venezuela tuyên bố độc lập. Francisco de Miranda, một chỉ huy từng tham gia
Cách mạng Pháp và chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ đã quay về lãnh đạo cuộc
đấu tranh của nhân dân Venezuela. Năm 1812, quân đội Tây Ban Nha quay trở lại
tấn công, Miranda bị bắt về Tây Ban Nha và chết trong ngục. Cuộc đấu tranh sau đó
vẫn tiếp tục với Nền Cộng hòa thứ hai được thành lập vào ngày 07/08/1813 nhưng
rồi cũng nhanh chóng sụp đổ.
Dưới sự lãnh đạo của người anh hùng giải phóng dân tộc Simon Bolivar,
Venezuela đã giành được độc lập với chiến thắng Carabobo vào ngày 24/06/1821. Quốc
hội mới của New Granada trao quyền lãnh đạo quân đội cho Bolivar và giải phóng thêm
nhiều vùng đất mới, thành lập nên nước Đại Colombia bao gồm Venezuela, Colombia,
Ecuador và Panama. Venezuela trở thành một phần của Đại Colombia cho đến năm
1830, khi nước này tách ra để thành lập một quốc gia riêng biệt.
Thế kỉ XIX đánh dấu một giai đoạn biến động của lịch sử Venezuela với những
cuộc khủng hoảng chính trị và chế độ độc tài quân sự. Nửa đầu thế kỷ XX, các tướng
lĩnh quân đội vẫn kiểm soát nền chính trị của Venezuela mặc dù cũng chấp nhận một số
cải cách ôn hòa và thúc đẩy kinh tế phát triển. Sau khi nhà độc tài Juan Vicente Gomez
qua đời vào năm 1935, những phong trào dân chủ tại Venezuela cũng đã loại bỏ sự thống
trị của quân đội vào năm 1958 và tổ chức những cuộc bầu cử tự do.
Trong bối cảnh giá dầu mỏ sụt giảm trong thập niên 1980 đã khiến nền kinh
tế lâm Venezuela khủng hoảng sâu sắc. Việc phá giá tiền tệ làm cho đời sống của
người dân Venezuela bị hạ thấp. Cộng với những chính sách kinh tế thất bại và mâu
thuẫn chính trị đã đẩy Venezuela vào khủng hoảng trầm trọng, thể hiện rõ nhất qua
hai cuộc đảo chính trong cùng năm 1992.
42
Tháng 02/1992, Trung tá sỹ quan quân đội Hugo Chavez đã tiến hành đảo
chính nhưng thất bại. Tháng 11 cùng năm, những người ủng hộ Ông Hugo Chavez
lại một lần nữa tiến hành đảo chính, song cũng không thành công. Tuy nhiên, Ông
đã giành được nhiều thiện cảm của nhân dân Venezuela và ông đã chiến thắng trong
cuộc bầu cử tổng thống Venezuela 1998. Trong suốt thế kỷ XX, mặc dù còn có một
số tranh chấp lãnh thổ với hai nước láng giềng Colombia và Guyana song
Venezuela thường duy trì quan hệ hữu hảo với hầu khắp các nước Mỹ Latinh cũng
như các nước phương Tây.
2.2.1.4. Vai trò của Tổng thống Hugo Chavez Frias
Chủ nghĩa thủ lĩnh là nét đặc sắc trong văn hóa chính trị Mỹ Latinh, đây là
nhân tố góp phần tạo nên nét riêng của khu vực. Chủ nghĩa thủ lĩnh cùng với chủ nghĩa
dân tộc là truyền thống và những giá trị được tiếp tục khẳng định vào thời cận đại và hiện
đại trong cuộc đấu tranh vì ĐLDT và phát triển. Theo đó, trong mỗi giai đoạn lichk sử,
Mỹ Latinh đều có những con người vĩ đại cả ý chí, nhiệt tình cách mạng và mang tầm
vóc tư tưởng. Họ là ngọn cờ đầu đại diện cho phong trào cách mạng tiến bộ của nhiều
nước. Chính những nhân cách lớn ấy đã được lịch sử tạo ra và góp phần đẩy nhanh tiến
trình lịch sử dân tộc. Tên tuổi của họ luôn gắn liền với những cuộc cách mạng, cải cách ở
mỗi quốc gia. Những tên tuổi lớn như Simon Bolivar, Che Guevavara, Fidel Castro,
Hugo Chavez... tiếp tục là sức mạnh và là niềm sáng tạo của các cuộc cách mạng. Dấu ấn
tư tưởng mà các thủ lĩnh này in trên các cuộc cách mạng chính là chủ nghĩa dân tộc, tinh
thần giải phóng dân tộc vì độc lập, tự chủ, tình đoàn kết khu vực với những giá trị lớn
của nhân loại như công bằng, bình đẳng, dân chủ và CNXH.
Đối với phong trào cánh tả Mỹ Latinh những năm đầu thế kỷ XXI, vị “thủ
lĩnh” đó không ngoài ai khác là Hugo Rafael Chavez Frias, Ông sinh ngày
28/07/1954 ở thị trấn Sabaneta, thuộc tỉnh Barinas, miền đồng bằng Venezuela. Ông
qua đời ngày 05/03/2013 tại thủ đô Caracas. Tổng thống hợp hiến nước Cộng hòa
Venezuela từ năm 1999 đến năm 2013, là cha đẻ của nền Cách mạng Bolivar, người
khởi xướng đề án chính trị “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”.
Năm 1960, Hugo Chavez bắt đầu được theo học tiểu học tại trường Julian Pino.
Sau đó chuyển tới thị trấn Barias để học trung học tại trường Daniel Florencio O Leary.
43
Tháng 08/1971, Chavez được tuyển vào Học viện Khoa học quân sự Venezuela. Vốn
tư chất thông minh, học giỏi và nhanh nhạy, nên sau khi học ra trường, ông được cử
theo học Khoa Chính trị ở Trường Đại học Simon Bolivar. Trong những năm học đại
học, Chavez và các đồng chí của mình đã nhiệt thành phát triển học thuyết chủ nghĩa
quốc gia theo phái tả và họ gọi đó là Bolivarianism, được tạo cảm hứng từ những triết
lý Thuyết Liên Mỹ ra đời từ cuộc cách mạng Simon Bolivar của nhân dân Venezuela
và những bài học của nhiều nhà lãnh đạo cộng sản chủ nghĩa [38, Tr.25]. Ông cũng
tham gia nhiều khóa học khác, sau khi học xong, Chavez vào làm việc ở Ban quân sự
đóng ở Barinas. Hoạt động quân sự của Chavez kéo dài 17 năm. Trong thời gian này,
ông đã nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng, đồng thời giảng dạy ở Học viện Quân sự
Venezuela, nơi ông nổi tiếng với những bài thuyết trình và những chỉ trích gay gắt xã
hội và chính phủ đương thời. Vào thời gian này, ông thành lập Phong trào Cách mạng
Bolivar- 200 và được đề cử vào nhiều vị trí cao ở Caracas, được tặng thưởng nhiều
huân chương, huy chương danh tiếng của Nhà nước Venezuela.
Bất bình trước sự suy thoái kinh tế, tham nhũng và xã hội bất công dưới
Chính quyền Tổng thống Carlos Andres Perez, Hugo Chavez đã quyết định tiến
hành cuộc vận động lật đổ chính quyền để xây dựng một quốc gia Venezuela phát
triển hài hòa hơn và có tiếng nói trên trường quốc tế.
Ngày 04/02/1992, các đội quân dưới sự chỉ huy của Hugo Chavez tiến ra các
đường phố của thủ đô Caracas. Những người khởi nghĩa tuyên bố không có ý định
cướp chính quyền mà chỉ đòi tổ chức lại nội các, thành lập Hội đồng tối cao trong đó
có đại diện của tất cả các nhóm trong xã hội Venezuela để thay thế Quốc hội gồm hai
viện trước đây chỉ phản ánh lợi ích của các tập đoàn cầm quyền tham nhũng.
Cuộc bạo động này nhận được sự ủng hộ của các quân nhân, trong đó có 133
sỹ quan và gần 1.000 binh sĩ, chưa kể đến đông đảo các nhân viên dân sự. Bộ Chỉ
huy tối cao quân đội Venezuela đã ra lệnh ủng hộ Tổng thống đương quyền và trấn
áp lực lượng nổi dậy [91]. Cuộc đụng độ kéo dài đến giữa trưa ngày 04/02/1992,
làm chết một số binh sĩ, nhiều quân nhân và nhân viên dân sự bị thương. Đến trưa
cùng ngày, để tránh thương vong cho những người vô tội, Hugo Chavez tuyên bố
đầu hàng chính phủ, ra lệnh cho những người ủng hộ mình hạ vũ khí và tự nhận
toàn bộ trách nhiệm về việc chuẩn bị và tổ chức cuộc bạo động đó.
44
Cuộc bạo động giành chính quyền đã thành công ở một số nơi, trong đó có
các thành phố lớn của Venezuela như Valencia, Maracaibo và Maracay. Tuy vậy,
lực lượng của Tổng thống Chavez đã thất bại trong việc chiếm thủ đô Caracas.
Sau đó Ông Chavez đã bị bắt, tuy nhiên Ông đã có những tuyên bố trên kênh
truyền hình quốc gia rằng chỉ thất bại “trong chốc lát”. Những người nghèo ở
Venezuela coi Ông như một nhân vật có khả năng đứng lên chống lại chính
quyền tham nhũng và chuyên quyền.
Tổng thống Chavez bị giam trong nhà tù Yare. Còn Ông Perez cũng bị đưa
ra điều trần và bị kết tội một năm sau đó. Cuộc nổi dậy do Tổng thống Chavez
lãnh đạo tuy không thành công nhưng đã để lại tiếng vang lớn ở Venezuela, thức
tỉnh người dân đứng lên chống chính quyền tham nhũng và bê bối. Sau hai năm
trong tù, Ông Chavez đã được Tổng thống mới Rafael Caldera miễn tội. Ông
được tự do vào ngày 27/03/1994 và bắt đầu cải tổ tổ chức Phong trào cách mạng
Bolivar - 200 thành Phong trào Nền cộng hòa thứ năm. Năm 1998, Hugo Chavez
bắt đầu vận động tranh cử tổng thống. Trước các nhà chính trị đã lãnh đạo đất
nước trong nhiều thập kỷ trước đó, trước những nhân vật ông cáo buộc là tham
nhũng và phản quốc, Ông Chavez hướng bài phát biểu của mình vào việc tố cáo
nạn tham nhũng của hệ thống chính trị cầm quyền và những đảng phái chính trị
chính của đất nước trong 40 năm nhờ vào dầu mỏ. Venezuela đã tích lũy được
lượng tiền tệ tương đương với 16 lần kế hoạch Marshall, những cáo buộc tham
nhũng, quản lý yếu kém và biển thủ công quỹ trong các chính đảng là minh
chứng rõ ràng nhất. Chỉ 3% dân cư Venezuela thuộc tầng lớp thượng lưu, 17%
thuộc tầng lớp trung lưu và đến 80% dân số thuộc tầng lớp đói khổ và bị gạt ra
ngoài lề xã hội. Trước tình trạng hỗn loạn trong nước, bài phát biểu của Tư lệnh
Chavez đã nhận được sự đồng tình vô điều kiện của đại đa số các tầng lớp dân
nghèo và tuyệt vọng. Phe đối lập đã buộc tội Ông Chavez đi theo chủ nghĩa dân
túy với niềm hy vọng sáo rỗng, thiếu thực tế. Tuy nhiên, điều đó chỉ nhấn mạnh
hơn tư tưởng của Tư lệnh Chavez khi Ông đề cập tới một xã hội bị phân chia
thành hai bên, một bên là nhân dân và bên kia là đầu sỏ suy đồi.
Trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 12/1998, Ông Chavez đã nhận được
56,20% số phiếu ủng hộ và chính thức nhậm chức Tổng thống Venezuela từ ngày
45
02/02/1999, đứng trên các ứng cử viên khác vốn nhận được sự đồng thuận của các
Đảng (Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo - COPEI và Đảng Hành động dân chủ - AD).
Sau khi nhậm chức, chính sách trong nước của ông chủ yếu dựa trên những gì mà ông
gọi là những Sứ mệnh Bolivar. Đây thực chất là một loạt những chiến dịch chính trị
nhằm thay đổi diện mạo kinh tế và văn hóa của đất nước Venezuela [38, Tr.27].
Trong thời gian nắm quyền, Tổng thống Chavez đã hoạt động không mệt mỏi
với khao khát đưa nước Cộng hòa Bolivar Venezuela trở thành một cường quốc trên
mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh
trong khối các cường quốc mới nổi tại khu vực Mỹ Latinh và Caribbean. Tiến tới
xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định ở châu Mỹ không có nghèo đói và đau
khổ. Từ năm 2005, Tổng thống Chavez đã nhiều lần tuyên bố, khẳng định sẽ đẩy
mạnh tiến trình cuộc Cách mạng Bolivar bằng việc xây dựng, tiến lên “Chủ nghĩa
xã hội thế kỷ XXI”. Đồng thời, ông cũng gấp rút liên minh, hợp nhất Phong trào
Nền cộng hòa thứ năm của mình với 27 đảng phái, phong trào cánh tả, theo hướng
XHCN và xã hội dân chủ, lập nên Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Venezuela
(PSUV) ngày 24/03/2007.
Từ năm 2011, Tổng thống Chavez phát hiện ung thư, bệnh tình ngày càng
nặng và phải nhiều lần sang Cuba chữa trị. Ngày 05/03/2013, ông qua đời khi
chưa kịp nhậm chức nhiệm kỳ mới (2013 - 2019) của mình. Ngày 14/04/2013,
cuộc bầu cử Tổng thống thay thế được tiến hành và ứng viên Nicolas Maduro -
Phó Tổng thống, là người đồng chí, đồng nghiệp của Chavez đã giành chiến
thắng sít sao trước đối thủ là ứng viên của phe đối lập (Thống đốc Henrique
Capriles) với tỷ lệ phiếu 50,66% trên 49,31%.
Trước khi qua đời, Ông Hugo Chavez đã soạn thảo “Chương trình Chính phủ
2013 - 2019” với lời kêu gọi nhân dân Venezuela với năm mục tiêu lịch sử để tiếp
tục đưa cuộc Cách mạng Bolivar tới thành công, đó là:
- Bảo vệ và củng cố tài sản quý giá nhất mà nhân dân Venezuela đã giành
được sau 200 năm: Độc lập dân tộc.
- Tiếp tục công cuộc xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” tại Venezuela
như là một sự lựa chọn thay thế cho hệ thống CNTB hoang dã và tàn phá, qua đó,
bảo đảm an ninh xã hội, ổn định chính trị và hạnh phúc nhiều nhất cho nhân dân.
46
- Phấn đấu đưa Venezuela trở thành cường quốc về mặt xã hội, kinh tế và
chính trị trong khối các cường quốc mới nổi tại Mỹ Latinh và Caribbean, nhằm bảo
đảm hòa bình cho toàn khu vực.
- Đóng góp cho việc phát triển địa chính trị quốc tế mới, với việc chú trọng xây
dựng thế giới đa cực và đa trung tâm để tiến tới công bằng và hòa bình cho hành tinh.
- Bảo vệ cuộc sống trên hành tinh và cứu vớt nhân loại [14].
2.2.2. Tình hình thế giới và khu vực tác động đến công cuộc đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Venezuela
2.2.2.1. Tình hình thế giới
* Cục diện chính trị thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra
nhanh hơn: Sự sụp đổ của mô hình XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã
đánh dấu sự kết thúc thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Cục diện thế giới bước sang một
trang mới với những thay đổi sâu sắc về địa - chính trị và tương quan lực lượng trên
thế giới. CNXH hiện thực lâm vào thoái trào đã khiến cho phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình quốc tế biến chuyển
theo chiều hướng bất lợi cho phong trào cách mạng trên thế giới.
Từ nửa cuối thập niên 90 của thế kỷ XX trở đi, mặc dù còn nhiều khó khăn
và vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng, song phong trào cộng sản và công nhân thế giới
đã bước đầu vượt qua được thời kỳ khó khăn nhất và bắt đầu đã có những bước
phục hồi, lực lượng cánh tả trên thế giới cũng có những bước phát triển tích cực. Ở
châu Âu, sự ra đời một chính đảng cánh tả toàn châu Âu đã được bắt đầu từ đầu
năm 2004 và được xúc tiến trong lòng các quốc gia thuộc EU. Tháng 05/2004, đảng
cánh tả châu Âu ra đời, tập hợp những người cộng sản cùng chí hướng ở 17 quốc
gia châu Âu và đã thông qua bản tuyên bố Athens chỉ rõ trong các lực lượng cánh tả
châu Âu cần tập hợp lực lượng trong một mặt trận thống nhất đấu tranh cho lý
tưởng và trật tự mới ở châu Âu. Bước phát triển mới của lực lượng cánh tả thế giới
là nguồn cổ vũ, động viên rất lớn cho phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh. Riêng ở khu
vực Mỹ Latinh, nhiều tổ chức cánh tả tuy vẫn còn nhiều khó khăn nhưng đã bước
đầu tìm cách tháo gỡ bế tắc về đường lối và đề ra được những giải pháp có hiệu quả
nhằm tập hợp lực lượng để tiếp tục đấu tranh có hiệu quả trong hình mới.
47
Sự thay đổi của cục diện thế giới sau sự sụp đổ của mô hình XHCN ở Đông
Âu và Liên Xô cũng góp phần cảnh tỉnh, đối với các ĐCS ở các nước phát triển
thấy rõ hơn thực chất mưu đồ nham hiểm cùng với những tham vọng hiếu chiến của
các thế lực đế quốc phản động đối với CNXH, phong trào cộng sản, công nhân quốc
tế và các lực lượng dân chủ tiến bộ trên thế giới. Lợi dụng tình trạng khủng hoảng
tại các nước thuộc hệ thống XHCN trước đây, các thế lực đế quốc phản động đã
tăng cường chống phá các nước XHCN còn lại bằng mọi thủ đoạn cả về kinh tế,
chính trị và tư tưởng nhằm thực hiện mưu đồ xóa bỏ CNXH trên toàn thế giới.
Tuy nhiên sự sụp đổ của hệ thống XHCN trên thế giới không đồng nghĩa với
việc CNTB trở thành hệ tư tưởng thống lĩnh và chỉ đạo con đường phát triển của thế
giới. Cùng với sự phát triển của nhân loại, mô hình phát triển theo con đường
TBCN ngày càng bộc lộ rõ hơn những hạn chế thuộc về bản chất, những mâu thuẫn
nội tại không thể khắc phục và giới hạn lịch sử không thể vượt qua của nó. Mặc cho
những luận điệu mị dân mà các nhà tư tưởng tư sản rêu rao, thực tiễn đã chỉ ra chân
lý rằng CNTB không thể là tương lai của xã hội loài người. Việc tập hợp lực lượng,
liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước trên thế giới vì lợi ích của từng quốc
gia diễn biến phức tạp, những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa
cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế.
Diễn biến của tình hình thế giới những năm đầu thế kỷ XXI cho thấy, CNXH
hiện thực không bị mất đi mà vẫn tồn tại, trụ vững được trước những thách thức của
lịch sử. Trên cơ sở nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm và bài học từ những thành công
và thất bại của công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, các nước
XHCN còn lại đã có những tìm tòi, sáng tạo cả về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
để tìm ra con đường xây dựng CNXH cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của
từng nước cũng như những diễn biến của tình hình thế giới. Tới nay, mặc dù còn
nhiều khó khăn, song công cuộc xây dựng CNXH tại các nước XHCN còn lại đều
đang có những bước tiến triển theo chiều hướng tốt. Điều này đã tác động không
nhỏ tới một số nước Mỹ Latinh, trong các quốc gia do lực lượng cánh tả nắm quyền
qua các cuộc bầu cử ở khu vực, có 04 quốc gia công khai đi theo con đường XHCN,
hướng tới sự công bằng, bình đẳng, tự do cho mọi người. Điều đó không chỉ đánh
48
dấu sự đổi mầu trên bản đồ chính trị thế giới mà còn chứng tỏ xu hướng mới hình
thành ở khu vực - xu hướng đi lên CNXH.
* Cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế tiếp tục phát triển cả bề rộng và chiều sâu: Cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã diễn
ra từ những năm 2000 theo hướng lấy công nghệ cao làm trung tâm với sức mạnh
số đã tạo nên những đột phá tiến triển có tính bùng nổ với quy mô và mức độ sức
mạnh lớn. Công nghệ cao đã trở thành tiêu điểm cạnh tranh giữa các quốc gia, đặc
biệt là cạnh tranh giữa các nước lớn về kinh tế, chính trị, quân sự, đạt được những
kỳ tích, có những bước nhảy vọt, tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của mỗi
quốc gia và đời sống kinh tế. Các nước đều coi phát triển công nghệ cao là hướng
đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất (LLSX), thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
tăng cường sức mạnh quân sự, tạo khả năng răn đe và là nhân tố gây ảnh hưởng
mạnh về chính trị, là nguồn lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Công nghệ cao được xây
dựng trên cơ sở phát triển toàn diện khoa học công nghệ hiện đại, có tác dụng dẫn
dắt, đi đầu trong việc phát triển LLSX, thúc đẩy văn minh xã hội, tăng cường tiềm
lực quốc phòng. Về tổng thể, cuộc cách mạng khoa học công nghệ nói chung và
công nghệ cao nói riêng được thế giới liệt vào diện nghiên cứu, khai thác trọng
điểm trong thế kỷ XXI. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ mà thành tựu của cách mạng khoa
học công nghệ tiếp tục sẽ có bước nhảy vọt và ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, kinh tế tri thức có
vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển LLSX. Kinh tế tri thức - giai
đoạn mới của các nền kinh tế phát triển cao sau giai đoạn kinh tế công nghiệp, có
vai trò ngày càng nổi bật, không chỉ biểu hiện ở hàm lượng trí tuệ chiếm tỷ trọng
chủ yếu trong giá trị các sản phẩm mà còn bằng sự dịch chuyển của khu vực chế tạo
sang khu vực dịch vụ với các đặc điểm mới. Sản phẩm của kinh tế tri thức là thành
quả của việc nghiên cứu và ứng dụng những công nghệ mới, trong đó trụ cột là
công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ năng
lượng mới. Các loại công nghệ đó không chỉ nhằm mục tiêu phát triển kinh tế mà
49
còn được ứng dụng, sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu phát triển khoa học công
nghệ quân sự, trong công nghiệp quốc phòng, trong trang bị vũ khí kỹ thuật của lực
lượng vũ trang và trở thành lực lượng chiến đấu trực tiếp.
Toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng khách quan của đời sống nhân loại, lôi
cuốn mọi quốc gia tham gia. Trong quá trình đó, mỗi quốc gia đều phải đối mặt với
một môi trường mới, vừa có thời cơ, vừa có thách thức, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa
có cả sức ép cạnh tranh, trong đó vấn đề đấu tranh bảo vệ ĐLDT là vấn đề có nhiều
khó khăn và thách thức đối với các nước đang phát triển.
Trong đời sống nhân loại hiện nay, nhiều vấn đề đã trở thành những thách
thức toàn cầu. Đó là xung đột vũ trang, tôn giáo, sắc tộc, can thiệp vào công việc
nội bộ của các quốc gia khác, thảm họa suy thoái môi trường, khủng hoảng kinh tế -
xã hội, khủng hoảng chính trị, bệnh dịch, khủng bố, tăng dân số, tranh chấp lãnh
thổ, cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước có những diễn biến phức tạp, đòi hỏi các
quốc gia phải có sự hợp tác song phương, đa phương để ngăn chặn và loại trừ. Tình
hình đó đã đặt ra nhiều vân đề mới cho các quốc gia trong công cuộc đấu tranh bảo
vệ ĐLDT. Hội nhập quốc tế phát triển mạnh cũng đã làm xuất hiện nhiều khái niệm
mới về quốc phòng, an ninh phức tạp khác như an ninh tư tưởng, an ninh kinh tế, an
ninh văn hóa… Những vấn đề mới đó làm cho khả năng kiểm soát của nhà nước bị
thách thức, rất khó ngăn chặn của các cuộc xâm nhập, tấn công từ bên ngoài bằng
thủ đoạn sức mạnh mềm như thông tin, kinh tế, tư tưởng, văn hóa. Trong điều kiện
CNĐQ và các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”,
bạo loạn lật đổ chống các nước XHCN còn lại và các nước đang phát triển. Quá
trình hội nhập quốc tế đặt ra cho các quốc gia không ít những vấn đề phải xử lý liên
quan đến độc lập chủ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc, giai cấp, đến sự ổn định của
hệ thống chính trị và thiết chế xã hội khác, sự gia tăng tính tùy thuộc lẫn nhau giữa
các quốc gia, hạn chế thẩm quyền cũng là những thách thức không nhỏ đối với tính
độc lập của các quốc gia.
* Hòa bình, hợp tác, phát triển là xu thế lớn trên thế giới: Từ hậu quả của
các cuộc chiến tranh thế giới, mọi quốc gia đều thấy tầm quan trọng của hòa bình,
ổn định để phát triển. Trong thực tế không một nước nào có thể phát triển được
50
trong hoàn cảnh có chiến tranh, do vậy hòa bình đã trở thành nhu cầu bức xúc của
các dân tộc trên thế giới. Hòa bình gắn với phát triển. Có hòa bình mới có điều kiện
thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, mới huy động được sức người, sức của trong
nhân dân để phát triển đất nước và ngược lại, đất nước phát triển mới để bảo vệ
được nền hòa bình. Nhưng phát triển phải theo hướng tiến bộ, vì lợi ích của nhân
dân, chứ không vì lợi ích của một số nhà tư bản.
Ngày nay, giữa các nước lớn không còn mâu thuẫn về phân chia thuộc địa
như ở các thế kỷ trước, mà điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh
tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu
vực buộc các nước phải giải quyết bằng con đường hòa bình. Hợp tác, phát triển
trên thế giới đang diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng: hợp tác song phương, hợp
tác khu vực, hợp tác quốc tế. Các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)… ngày càng tham gia nhiều
hơn vào đời sống kinh tế, chính trị các nước. Lĩnh vực hợp tác quốc tế giữa các
nước ngày càng đa dạng: Hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật, hợp tác thương mại và
cả hợp tác chính trị.
* Phong trào cách mạng thế giới có những bước tiến mới: Chế độ XHCN ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong
những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX gặp nhiều khó khăn, phong trào giải
phóng dân tộc và ĐLDT của các nước đang phát triển mất đi một chỗ dựa lớn cả
về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ
CNTB lên CNXH. Trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay, cán cân so sánh lực
lượng giữa CNXH và CNTB theo chiều hướng tạm thời có lợi cho CNTB. Bước
sang thế kỷ XXI, với những thành tựu ở bước đầu cải cách, đổi mới, xây dựng đất
nước ở các nước XHCN còn lại đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của chế độ XHCN,
vai trò của các nước XHCN sẽ ngày càng được thể hiện sinh động và rõ nét hơn trên
mọi mặt của đời sống quốc tế. Đặc biệt, ở Mỹ Latinh, trong những năm đầu thế kỷ
XXI đã xuất hiện trào lưu các lực lượng cánh tả lên nắm quyền thông qua các cuộc
bầu cử như: Venezuela (1998); Chile (2000), Achentina (2003); Ecuado (2006)…
Thắng lợi của các lực lượng cánh tả ở các nước này đã tích cực hóa đời sống chính trị
51
theo hướng dân chủ, dần thoát khỏi sự chi phối của CNĐQ và nhiều nước tuyên bố
hướng tới xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần
phải hiểu rằng sự phục hồi và phát triển này chưa phát huy được tác động mạnh đối
với phong trào giải phóng dân tộc và ĐLDT như trước đây. Các nước XHCN không
còn là thành trì, là chỗ dựa, tuy nhiên họ vẫn là lực lượng quốc tế có ảnh hưởng sâu
rộng và đang cùng phong trào ĐLDT, phong trào cộng sản, công nhân quốc tế tiếp
tục đấu tranh gay gắt với CNĐQ. Ý thức ĐLDT của các quốc gia ngày càng tăng.
Sự khủng hoảng mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô đã thúc đẩy cánh tả Mỹ
Latinh đi tìm mô hình mới. Ở khu vực Mỹ Latinh, việc sụp đổ chế bộ XHCN tại Liên
Xô khiến cho Cuba - nước có vai trò quan trọng đối với phong trào cộng sản và
phong trào cánh tả trong khu vực - mất đi chỗ dựa quan trọng về kinh tế, chính trị và
cũng lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về kinh tế, xã hội trong một thời gian
dài. Điều này còn khiến cho các lực lượng cánh tả tiến bộ trong khu vực gặp rất nhiều
khó khăn trong việc phát triển lý luận, phát triển lực lượng và tăng cường ảnh hưởng.
Nhưng mặt khác, các nước XHCN ở châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Triều
Tiên trên cơ sở nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm và bài học từ những thành công và
thất bại của công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, đã có những tìm tòi,
sáng tạo cả về lý luận và thực tiễn để tìm ra con đường xây dựng CNXH phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh của nước mình và bối cảnh thế giới. Mặc dù còn nhiều khó
khăn, song công cuộc cải cách, đổi mới của những nước này đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Thực tế này cũng có tính động viên, thúc đẩy cánh tả
ở khu vực Mỹ Latinh mạnh dạn đi tìm một mô hình của mình.
Theo Tổng thống Chavez, CNXH ở Mỹ Latinh sẽ không giống với mô hình
CNXH tại Liên Xô trước đây. Ông đã từng đưa ra nhận xét, tại Liên Xô chưa từng có
CNXH, vì ở đó đã làm sai lệch tư tưởng của V.I.Lênin, nhất là từ sau khi Stalin lên
cầm quyền. Ngoài ra, ông còn tuyên bố, CNXH Mỹ Latinh xuất phát từ thực tế của khu
vực Mỹ Latinh, quan niệm này được đa số những nhà lãnh đạo và phong trào cánh tả
ủng hộ, cổ vũ, giúp hình thành và phát triển chủ nghĩa xã hội bản địa Mỹ Latinh.
2.2.2.2. Tình hình khu vực Mỹ Latinh
* Mỹ Latinh là cái nôi của phong trào cách mạng và các diễn đàn xã hội: Với
diện tích khoảng 21 triệu km2, dân số khoảng 600 triệu người, có 33 quốc gia độc lập
52
và 14 vùng lãnh thổ. Lịch sử phát triển của các nước Mỹ Latinh từ thế kỷ XV đến
nay, được hình thành mang nhiều nét đặc thù gắn kết khá chặt chẽ giữa các quốc gia
với nhau. Sau khi phát hiện ra châu Mỹ (1492), thực dân Tây Ban Nha đã nhanh
chóng tiến hành chinh phục và chiếm đóng phần lớn lục địa Mỹ Latinh, từ Mexico
qua Trung Mỹ kéo dài đến Argentina, Chile và cả một số quốc gia vùng Caribbean,
theo chân Tây Ban Nha, thực dân Bồ Đào Nha chiếm đóng lãnh thổ của Brasil, các
nước Anh, Pháp, Hà Lan chia nhau xâm chiếm những nước và quốc đảo nhỏ còn lại
trong khu vực. Đến cuối thế kỷ XVIII, toàn bộ khu vực Mỹ Latinh cơ bản rơi vào ách
thống trị và trở thành thuộc địa của các cường quốc thực dân châu Âu.
Sự tàn bạo của chế độ nô lệ cũng như chủ nghĩa thực dân đã dẫn đến các
phong trào đấu tranh đòi độc lập, tự do của nhân dân các nước trong khu vực. Ngay
từ cuối thế kỷ XV, nhiều phong trào đấu tranh có quy mô lớn đòi xóa bỏ chế độ nô
lệ và giành ĐLDT đã nổ ra, tiêu biểu là cuộc đấu tranh do người anh hùng dân tộc
Venezuela - Simon Bolivar (1783 - 1830) lãnh đạo với mục tiêu giải phóng các dân
tộc thuộc lãnh thổ Nam Mỹ ngày nay khỏi ách đô hộ của thực dân Tây Ban Nha,
giành ĐLDT và xây dựng một đại liên bang Mỹ Latinh thống nhất.
Các cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do đã diễn ra một cách liên tục, rộng
khắp suốt từ thế kỷ XV cho đến thế kỷ XIX và lần lượt giành thắng lợi, dẫn đến sự
ra đời của các nhà nước độc lập: Equador (1809), Mexico, Colombia (1810),
Venezuela, Paragoay (1811), Argentina (1816), Chile (1818); Costa Rica,
Guatemala, Nicaragoa (1821); Brasil (1822); Peru (1824); Bolivia (1825); Cuba
(1898); Panama (1903)… Đến đầu thế kỷ XX, hầu hết các nước Mỹ Latinh đã thoát
khỏi ách đô hộ của thực dân châu Âu và trở thành các quốc gia độc lập.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), ở đa số các nước Nam Mỹ, nhiều
ĐCS đã được thành lập, nhiều đảng xã hội ở các nước trong khu vực đã đổi thành
ĐCS. Giai đoạn từ những năm 1950 đến những năm 1980, lực lượng cánh tả Mỹ
Latinh trải qua một thời kỳ hưng thịnh với lực lượng phát triển nhanh, mạnh và có ảnh
hưởng rộng khắp, các tổ chức cộng sản đã phát triển rộng khắp các nước Mỹ Latinh và
Caribbean. Thời kỳ này, xuất hiện quốc gia XHCN đầu tiên ở khu vực đó là Cuba. Mặt
trận giải phóng dân tộc Nicaragoa - Xandino thông qua đấu tranh vũ trang thành lập
53
chính quyền cách mạng. Một số chính đảng cánh tả khác cũng phát động đấu tranh vũ
trang tiến tới làm cách mạng. Một vài đảng giành được chính quyền đứng ra thành lập
chính phủ cánh tả. Thực tiễn của phong trào dân tộc, phong trào công nhân nói trên
trong lịch sử đã ảnh hưởng sâu rộng tới phong trào cánh tả Mỹ Latinh.
Mỹ Latinh cũng là nơi sinh ra nhiều diễn đàn chính trị, xã hội, các diễn đàn
này có vai trò to lớn trong trong tập hợp, đoàn kết nhân dân lao động đấu tranh xây
dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, là nơi trao đổi kinh nghiệm của các đảng cánh tả,
chống lại các mặt trái của toàn cầu hóa, tiêu biểu có một số diễn đàn lớn như:
Trước hết, Quốc tế XHCN - cơ quan lãnh đạo phong trào XHCN Mỹ Latinh
được thành lập từ năm 1951 - tiếp tục mở rộng quy mô và hoạt động. Tổ chức này
đã liên kết 170 đảng XHCN, đảng dân chủ - xã hội và đảng công nhân từ nhiều
nước khác nhau, trong đó có 35 đảng ở Mỹ Latinh.
Các diễn đàn và phong trào tiến bộ cũng được mở ra và hoạt động. Diễn đàn
Sao Paulo ra đời tháng 07/1990, theo sáng kiến của Đảng Lao động Brasil, nhằm
tập hợp các đảng, phong trào cánh tả Mỹ Latinh và các khu vực khác trên thế giới
cùng chung lập trường chống đế quốc, chống chủ nghĩa tự do mới, đấu tranh vì một
xã hội tốt đẹp hơn. Chủ đề trung tâm của Diễn đàn là phê phán mô hình chủ nghĩa
tự do mới, tìm các giải pháp thay thế nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của các
quốc gia, thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội, đoàn kết quốc tế.
Từ năm 1997, Đảng Lao động Mexico có sáng kiến tổ chức cuộc hội thảo
quốc tế Các đảng chính trị và một xã hội mới và sáng kiến này đã được các ĐCS,
cánh tả Mỹ Latinh cũng như trên thế giới ủng hộ trở thành một diễn đàn thường
niên để các đảng trao đổi kinh nghiệm đấu tranh chính trị vì một xã hội mới, phát
triển về kinh tế và công bằng về xã hội. Nhưng khác với Diễn đàn Sao Paulo (tham
gia rộng rãi của các đảng, tổ chức và phong trào; tổ chức luân phiên tại các nước
Mỹ Latinh), những cuộc hội thảo quốc tế Các đảng chính trị và một xã hội mới chỉ
mời các đảng và chỉ tổ chức tại Mexico.
Từ năm 1999, Cuba đã đứng ra tổ chức hội nghị quốc tế thường niên với chủ
đề Toàn cầu hóa và các vấn đề phát triển. Đây cũng là một diễn đàn thường niên
của các lực lượng cánh tả, với sự tham gia của các chính khách, nhân sĩ, các nhà
54
nghiên cứu có quan điểm tiến bộ và đại diện các tổ chức quốc tế, khu vực, các cơ
quan thuộc Liên Hợp Quốc. Các cuộc hội thảo đã được tổ chức bám sát chủ đề Toàn
cầu hóa và các vấn đề phát triển, các cuộc hội thảo đã: đi sâu phân tích các khía
cạnh của toàn cầu hóa, những tác động đối với những nước đang phát triển, kinh
nghiệm của các nước trong hội nhập kinh tế quốc tế, đấu tranh chống các mặt trái
của toàn cầu hóa...
Mỹ Latinh cũng là nơi ra đời Diễn đàn Xã hội thế giới (WSF) với khẩu hiệu
“Một thế giới khác là có thể” - một diễn đàn mở của các lực lượng xã hội rộng rãi
chống lại chủ nghĩa tân tự do; chống lại các mặt trái của tiến trình toàn cầu hóa; vì
một tiến trình toàn cầu hóa chú ý đến mặt xã hội nhiều hơn, có lợi ích cho tất cả mọi
người, cho tất cả các quốc gia, dân tộc...
Có thể thấy rằng thông qua thực tế đấu tranh trong diễn đàn quốc tế của
các ĐCS, cánh tả họp hàng năm ở khu vực, các chính đảng, phong trào cánh tả
Mỹ Latinh đã làm cho quần chúng nhân dân thấy được sự cần thiết khách quan
phải thực hiện những cải cách sâu rộng, từ bỏ mô hình chủ nghĩa tự do mới,
thực hiện dân chủ và tiến bộ xã hội. Lực lượng quần chúng nhân dân được thức
tỉnh đã tập hợp xung quanh các chính đảng và các phong trào cánh tả, các lực
lượng dân tộc tiến bộ tạo thành các phong trào nhân dân mạnh mẽ, đánh đổ các
chính phủ cánh hữu, đưa các lực lượng cánh tả, tiến bộ lên cầm quyền thông
qua các cuộc bầu cử. Đây là nhân tố có vai trò rất quan trọng trong việc thức
tỉnh ý thức chính trị, xã hội của quần chúng nhân dân Mỹ Latinh mở đường và
định hướng cho xu thế cánh tả ở khu vực. Đồng thời quần chúng nhân dân cũng
muốn có được những thay đổi, nhanh chóng, rõ rệt, nhất là về đời sống, việc
làm, các vấn đề xã hội để vừa thúc đẩy, vừa tạo thành sức ép lớn đối với các
chính phủ tiến bộ lên nắm quyền ở các nước Mỹ Latinh. Những yếu tố trên đây
góp phần không nhỏ tới công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela dưới
thời Tổng thống Chavez.
* Chủ nghĩa dân tộc tiêu biểu là Simon Bolivar: Mỹ Latinh tồn tại lâu dài
dưới ách đô hộ của thực dân phương Tây, cho nên các phong trào giải phóng dân tộc
tại khu vực phát triển mạnh mẽ. Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc là một luồng tư
55
tưởng chính trong đời sống người dân Mỹ Latinh. Từ người anh hùng Simon bolivar
đến Hoxe Macti, Che Guevara, Phidel Castro… Trong số các nhà tư tưởng này, Simon
Bolivar là người có ảnh hưởng to lớn nhất đến phong trào cánh tả tại Mỹ Latinh.
Simon Bolivar nhà quân sự, nhà tư tưởng lỗi lạc, người lãnh đạo phong trào
đấu tranh chống chế độ thực dân Tây Ban Nha giành độc lập cho 5 nước vùng Nam
Mỹ (Venezuela, Colombia, Ecuador, Peru, Bolivia). Ông sinh ngày 24/07/1783 tại
Caracas, thủ đô của Venezuela. Ông qua đời ngày 17/12/1830 khi đang trên đường
đến Catagenna, lúc ấy ông mới 47 tuổi. Cho đến nay, Bolivar vẫn được các quốc gia
Nam Mỹ xem như một lãnh tụ đấu tranh giành độc lập tiên phong và là một nhà lập
quốc vĩ đại nhất của châu lục trong thời kỳ đó. Bolivar được nhân dân Nam Mỹ
kính trọng và coi ông là "Washington của Nam Mỹ" [13].
Simon Bolivar có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và chính sách của lãnh tụ các
phong trào cánh tả Mỹ Latinh sau này, đặc biệt là Tổng thống Hugo Chavez. Ông
tin rằng, xây dựng CNXH cũng chính là “thực hiện ước mơ của Bolivar”. Nhiều tư
tưởng của Bolivar về ĐLDT, giáo dục, quyền sở hữu đất đai, y tế, ngoại giao đã
được Tổng thống Chavez tiếp thu và thực hiện [xem Phụ lục 1].
Năm 1983, nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Simon Bolivar, một số
sỹ quan quân đội Venezuela có tinh thần yêu nước và ngưỡng mộ Bolivar đã
thành lập tổ chức Quân đội Bolivar 200, viết tắt là EB-200 với mục tiêu đấu
tranh nhằm thay đổi tình hình đất nước đang bị khủng hoảng trầm trọng. Tổng
thống Hugo Chavez lúc đó là một sỹ quan trẻ đã tham gia và sau này trở thành
thủ lĩnh của phong trào này.
* Thần học giải phóng Mỹ Latinh: Vào thập niên 70 của thế kỷ XX, tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội ở Mỹ Latinh thay đổi sâu đậm: hầu hết các quốc gia đều do
các lực lượng quân sự, độc tài lãnh đạo, áp dụng chính sách đàn áp các phong trào
cách mạng. Chính vì vậy, phong trào giải phóng được phát triển mạnh trong các
giới trí thức cũng như bình dân. Sự giải phóng không còn là khái niệm trừu tượng,
mà đã diễn ra bằng những hành động cụ thể. Cũng trong thời gian đó, về phía Giáo
hội Công giáo La Mã ở Mỹ Latinh đưa ra các quan điểm mới là giáo hội có trách
nhiệm giúp đỡ con người tự giải phóng cho chính mình khỏi sự đói nghèo và bất
công xảy ra, đặc biệt phổ biến trong các nước thế giới thứ ba. Những luận điển của
56
Thần học giải phóng tán thành sự nhấn mạnh của C.Mác về bất công xã hội. Giáo
hội cũng thành lập nhiều phong trào ủng hộ tầng lớp nghèo nhằm thúc đẩy các Kitô
hữu dấn thân trong việc giúp đỡ những người nghèo. Hội nghị các Giám mục Mỹ
Latinh tại Medellin đã ghi vào chương trình hành động những điểm như: ưu tiên
cho người nghèo, giải phóng toàn diện con người, phát triển các cộng đồng cơ bản.
Chính trong bối cảnh ảnh ấy mà thần học giải phóng ra đời, nhằm đề ra một đường
hướng hoạt động cho Giáo hội, dựa trên sự phân tích thực trạng của địa phương. Cơ
sở xã hội của khuynh hướng thần học này là vì Mỹ Latinh rất nghèo và bất công.
Chính vì thế, mà phong trào này cương quyết giải phóng cho những người nghèo,
kêu gọi người nghèo đứng lên để giải thoát tầng lớp của mình.
Như vậy có thể thấy, những tư tưởng tiến bộ của Thần học giải phóng có những
điểm tương đồng với mục tiêu, lý tưởng của những người cánh tả Mỹ Latinh. Trong lý
luận về “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”, các tư tưởng công bằng, bình đẳng, bác ái của
đạo Thiên chúa, đặc biệt những tư tưởng về giải phóng tầng lớp dân nghèo được các
nhà chính trị cánh tả kế thừa. Tổng thống Chavez cũng thừa nhận rằng, một phần lý
luận của ông về “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” bắt nguồn từ Kinh thánh. Khi giải thích
nội hàm khái niệm “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”, Tổng thống Hugo Chavez cho biết
có thể tham khảo Kinh thánh và các trước tác nguyên bản của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác. Theo ông, Chúa Giê su là người theo CNXH vĩ đại nhất trong lịch sử. Vì
vậy, ông ra sức làm cho nhân dân Venezuela được tự do, tự nguyện chủ động quan tâm
đến người khác, xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân tự tư, tự lợi. Đây là mục tiêu mà suốt hơn
2000 năm qua đạo Cơ đốc vẫn chưa thực hiện được.
* Chủ nghĩa tự do mới: Học thuyết Chủ nghĩa tự do mới của Feidric August
von Hayek (Mỹ) ra đời từ năm 1944, nó tuyệt đối hóa vai trò của thị trường, cho rằng
cần phải để cho thị trường quyết định mọi vấn đề kinh tế, nhà nước phải giảm bớt vai
trò của mình trong nền kinh tế, các tập đoàn tư bản phải hoàn toàn tự do, cá nhân phải
được coi trọng hơn tập thể và phải kiềm chế các công đoàn [106, tr.15].
Từ giữa thập kỷ 70 cho tới giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, đại đa số các
nước Mỹ Latinh đã từ bỏ mô hình kinh tế hướng nội công nghiệp hóa thay thế nhập
khẩu để áp dụng mô hình tự do mới về kinh tế hay còn gọi là chủ nghĩa tự do mới.
Các nội dung cơ bản của chủ nghĩa tự do mới về kinh tế được áp dụng ở Mỹ Latinh
57
là: tự do hóa kinh tế, thương mại, kể cả thị trương tài chính, tiền tệ, tư nhân hóa các
công ty quốc doanh, hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế,
khuyến khích đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế hướng ngoại, mở rộng xuất
khẩu, tăng thuế, cắt giảm chi tiêu công cộng và phúc lợi xã hội.
Chủ nghĩa tự do mới vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đối với
sự phát triển của tất cả các quốc gia ở Mỹ Latinh. Tác động tích cực trước hết bắt
nguồn từ tính khách quan và những đặc trưng mang tính khách quan của nó. Trên lĩnh
vực kinh tế, việc áp dụng vào thực hiện mô hình chủ nghĩa tự do mới ở các nước Mỹ
Latinh đã đạt được một số thành tựu như: GDP tăng trưởng ở mức tương đối cao, trung
bình toàn khu vực là 3,6%/năm, từ năm 1991 đến năm 1994. Lạm phát đã được kiềm
chế từ ba con số ở mức cao cuối thập kỷ 80 giảm xuống còn ở mức hai con số là 25%
năm 1995. Khơi được dòng tư bản nước ngoài đầu tư vào Mỹ Latinh và khối lượng đầu
tư vào đây. Tăng cường khả năng xuất khẩu của khu vực. Từ năm 1992 đến năm 1994,
tổng kim ngạch xuất khẩu Mỹ Latinh tăng 8%/năm [39, tr.23].
Tác động tiêu cực bắt nguồn từ sự chi phối của các trung tâm quyền lực tư
bản lớn trên thế giới, đặc biệt là của Mỹ và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia. Tuy
nhiên, sau gần bốn thập kỷ áp dụng, mô hình này để lại những hậu quả về mặt xã
hội. Các chính sách của chủ nghĩa tự do mới đã trở thành một thảm họa đối với
quần chúng nhân dân Mỹ Latinh, nhưng lại là món quà đối với các công ty xuyên
quốc gia, đa quốc gia khi được các công ty này sử dụng để cướp bóc, mua lại các
nguồn lực và tài sản tư nhân hóa với mức đại hạ giá [xem Phụ lục 2, 3, 4]. Những
tiêu cực đó biểu hiện trên các mặt như:
Một là, sự bất bình đẳng xã hội, sự nghèo khổ và phân cực. Trong quá
trình thực hiện mô hình chủ nghĩa tự do mới, phần lớn các chính phủ Mỹ Latinh
cắt giảm ngân sách phúc lợi xã hội, y tế và giáo dục, đẩy mức sống của đông đảo
tầng lớp dân cư xuống giới hạn của sự nghèo khổ. Đối lập với sự nghèo khổ của
đông đảo tầng lớp nhân dân là tình trạng của cải ngày càng tập trung vào một
nhóm nhỏ người ở Mỹ Latinh.
Hai là, sự phụ thuộc quá lớn của nền kinh tế vào các tập đoàn kinh tế, tài
chính nước ngoài. Các tập đoàn và các tổ chức quốc tế đã dùng sức mạnh của mình
58
can thiệp vào nền kinh tế các nước và ép các nước này phải thực thi chính sách “thắt
lưng buộc bụng”, cắt giảm dịch vụ công để tài trợ, giảm thuế cho người giàu, tiến
hành tư hữu hóa.
Ba là, nạn thất nghiệp gia tăng từ hậu quả tất yếu của quá trình cắt giảm bộ
máy hành chính và tư nhân hóa các cơ sở sản xuất của nhà nước. Việc cơ cấu lại bộ
máy hành chính và cắt giảm biên chế ở hầu hết các nước Mỹ Latinh đã đẩy hàng
loạt nhân viên, công chức, vào đội ngũ những người thất nghiệp. Đồng thời, đội
quân này được bổ sung bằng các lực lượng lao động khác dôi dư từ khi nhiều cơ sở
kinh tế nhà nước bị tư nhân hóa một cách ồ ạt. Mặt khác, do không cạnh tranh nổi
với luồng hàng hóa nhập khẩu, không ít công ty vừa và nhỏ ở Mỹ Latinh bị phá sản,
người lao động chỉ còn biết trông chờ sự trợ cấp của chính phủ.
Bốn là, tham nhũng đã trở thành một quốc nạn của một số chính phủ Mỹ Latinh.
Nạn tham nhũng lan tràn mọi cấp, mọi ngành trong bộ máy quyền lực nhà nước.
Năm là, tình trạng buôn bán ma túy, bạo lực và khủng bố có xu hướng ngày
càng nghiêm trọng. Mỹ Latinh là một trong ba khu vực sản xuất côcain, hêrôin và
bạch phiến lớn nhất thế giới.
Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế đang
diễn ra sôi động, chủ nghĩa tự do mới ngày càng bộc lộ rõ không thể giải quyết
được các vấn đề kinh tế - xã hội, không đáp ứng được các nhu cầu, nguyện vọng
chính đáng của đông đảo quần chúng, mà chỉ mang lại nghèo khổ và thất vọng cho
đa số nhân dân lao động ở Mỹ Latinh, phân hóa giàu nghèo ngày càng trở nên sâu
sắc, các vấn đề xã hội bất cập cần phải giải quyết, nhân dân mong muốn có một sự
thay đổi, nhu cầu về ĐLDT, dân chủ và phát triển trở nên cấp thiết hơn bao giờ
hết. Trước tình hình đó, lực lượng chính trị nào nắm bắt và có khả năng giải quyết
được nhu cầu thường trực đó thì sẽ nhận được sự ủng hộ của dân chúng và sẽ trở
thành lực lượng trung tâm, đóng vai trò lãnh đạo cách mạng và trên thực tế lực
lượng cánh tả Mỹ Latinh đã làm được điều này. Cùng với Cuba, các nước
Venezuela, Bolivia, Equador, Nicaragoa đã nổi lên như những quốc gia cánh tả
cấp tiến nhất do có lập trường chống đế quốc mạnh mẽ, thi hành những biện pháp
mang tính chất cách mạng cao hơn so với các chính quyền cánh tả ôn hòa khác.
59
Các đảng cánh tả ở các nước này đi theo đường lối dựa vào sức mạnh của đông
đảo lực lượng nhân dân lao động và thông qua lá phiếu cử tri để tiến hành cuộc
cách mạng dân chủ, bảo vệ ĐLDT, tự do, chủ quyền dân tộc, giành quyền làm chủ
đối với nguồn tài nguyên, chủ trương phân chia nguồn của cải trong xã hội một
cách công bằng hơn, xây dựng một xã hội mới theo định hướng của “Chủ nghĩa xã
hội thế kỷ XXI”.
2.2.3. Quan điểm của một số nước lớn đối với khu vực Mỹ Latinh
* Quan điểm của Mỹ: Mỹ Latinh có vị trí địa chính trị và địa kinh tế sống
còn, được coi là “sân sau” của Mỹ. Chính sách của Mỹ đối với Mỹ Latinh trong gần
hai thế kỷ qua về cơ bản dựa trên Học thuyết Monroe. Ngày 02/12/1823, Tổng
thống Mỹ James Monroe, trong một thông điệp gửi Quốc hội đã nêu một học thuyết
làm nền tảng cho chính sách đối ngoại trong gần 200 năm sau đó: Châu Mỹ dành
cho người châu Mỹ [82, tr.161].
Chủ trương, chính sách của Mỹ đối với Mỹ Latinh có tác động và ảnh hưởng
mạnh mẽ đến sự phát triển của kinh tế và chính trị của khu vực. Kể từ khi các nước
Mỹ Latinh giành được độc lập, mục tiêu nhất quán đối với Mỹ Latinh là: Củng cố và
mở rộng ảnh hưởng của Mỹ, ngăn chặn và loại trừ ảnh hưởng của các nước khác ở
Mỹ Latinh nhằm đảm bảo vị trí độc tôn tại Tây bán cầu, đồng thời ngăn chặn các
cuộc cải cách, phong trào cách mạng, phong trào tiến bộ của người dân Mỹ Latinh có
thể gây tổn hại đến ảnh hưởng và lợi ích của Mỹ ở khu vực.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, tình hình trên thế giới diễn ra phức tạp,
xung đột tại Trung Đông có xu hướng lan rộng; Trung Quốc, Ấn Độ, Nga ngày
càng lớn mạnh với tham vọng trở thành những cực mới trên thế giới; Từ vụ khủng
bố ngày 11/09/2001 đã làm tăng lên nỗi lo an ninh cho nước Mỹ trước những nguy
cơ khủng bố có thể xảy ra. Trước tình hình đó, Mỹ phải phân tán lực lượng để giải
quyết một loạt các vấn đề trên thế giới, đặc biệt là vấn đề Trung Đông để đảm bảo
nguồn năng lượng từ khu vực này. Kinh tế nước Mỹ trong những năm đầu thế kỷ
XXI có những dấu hiệu khủng hoảng và hiện đã lâm vào khủng hoảng nên có phần
hạn chế trong việc cùng một lúc phải phân bổ lực lượng cho nhiều nơi. Do phải tập
trung lực lượng ở nhiều khu vực, trong khoảng hai thập kỷ qua, Mỹ có phần lãng
60
quên khu vực sân sau của mình, đây được xem là điều kiện thuận lợi để phong trào
cánh tả Mỹ Latinh phát triển. Hơn nữa, những chính sách mang tính áp đặt một
chiều của Mỹ đối với Mỹ Latinh luôn gặp sự phản ứng mạnh mẽ của các quốc gia
trong khu vực, đặc biệt về chính sách kinh tế, thương mại, tạo nên khuynh hướng
muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào Mỹ và độc lập hơn so với Mỹ. Phản ứng ngày càng
mạnh của các chính phủ cánh tả Mỹ Latinh đã trở thành thách thức đe dọa vị trí độc
tôn ở ngay khu vực được coi là sân sau của nước Mỹ.
Tuy nhiên, Mỹ không khoanh tay đứng nhìn và chịu mất ảnh hưởng ở khu vực
sân sau của mình. Cùng với việc gây sức ép rất mạnh về kinh tế đối với các chính phủ
cánh tả, tiến bộ mới lên cầm quyền ở các nước Mỹ Latinh (thông qua các công ty
xuyên quốc gia đang chi phối nền kinh tế các nước Mỹ Latinh cũng như vấn đề nợ
nước ngoài của các nước này), Mỹ tích cực hậu thuẫn cho các lực lượng đối lập tìm
cách lật đổ các chính phủ tiến bộ ở Mỹ Latinh. Đồng thời Mỹ đẩy nhanh tiến trình ký
kết các hiệp định tự do thương mại song phương với từng nước, tăng cường sự hiện
diện quân sự ở Mỹ Latinh với Kế hoạch Colombia và Kế hoạch Puebla - Panama xây
dựng những căn cứ triển khai nhanh, sẵn sàng can thiệp quân sự trong thời gian
nhanh nhất vào bất cứ điểm nóng nào tại Mỹ Latinh [90, tr.165].
Đối với Venezuela, Mỹ có mối quan tâm đặc biệt, bởi Venezuela là một
trong những nguồn cung cấp dầu mỏ quan trọng bậc nhất của Mỹ, trữ lượng dầu
mỏ của Venezuela đứng hàng đầu thế giới trong khi giá nhiên liệu có xu hướng
ngày càng tăng [xem Phụ lục 6]. Do nguồn nhiên liệu dồi dào đó mà trong suốt
nhiều năm, tuy giữa hai nước nhiều lúc rất căng thẳng nhưng Mỹ vẫn chưa một
lần tuyên bố cấm vận nước này như vẫn từng làm với các nước khác. Chính vì
thế, khả năng can thiệp quân sự vào Venezuela cũng vì thế mà ít đi. Tuy nhiên,
tình hình Venezuela từ khi Tổng thống Chavez lên nắm quyền đã buộc Mỹ phải
tính lại chính sách của mình.
Thời kỳ Chính quyền Tổng thống George Bush (2001 - 2008), cùng với Cuba
và Bolivia, Bộ Ngoại giao Mỹ đã xếp Venezuela vào nhóm nước E - là nhóm nước
cần phải thay đổi chế độ, đây là mức cuối cùng trong 5 nhóm quan hệ). Với nhóm
nước này, Chính quyền Tổng thống Bush thực hiện chính sách hai con đường vừa
61
ủng hộ hoạt động của các lực lượng đối lập có sức mạnh để lật đổ chính quyền,
thương lượng khi lực lượng đối lập chưa có đủ lực, đẩy mạnh, củng cố dân chủ, thúc
đẩy thịnh vượng, đầu tư vào con người và vừa bảo vệ an ninh nhà nước dân chủ [90,
tr.174]. Thời kỳ Chính quyền Tổng thống Obama (từ năm 2009) đã có những động
thái điều chỉnh chính sách cứng rắn đối với các nước mà Mỹ coi là thù địch ở Mỹ
Latinh mà Chính quyền Tổng thống Bush đã thực hiện trong những năm cầm quyền,
tuyên bố áp dụng các biện pháp mềm mỏng hơn nhằm can dự vào các nước thuộc
phong trào cánh tả, đặc biệt với Cuba, Venezuela, Bolivia, Nicaragoa, Ecuado. Mỹ tỏ
thái độ thân thiện với Venezuela như nối lại quan hệ ngoại giao, tuyên bố sẵn sàng
hợp tác với Venezuela trong việc giải quyết các vấn đề khu vực… Tuy nhiên, Mỹ tiếp
tục ủng hộ lực lượng dân chủ đối lập, kêu gọi các nhà kinh tế chống lại các chính
sách của Chính phủ. Tiếp tục thực hiện nhiều thủ đoạn nhằm chuyển hóa lực lượng
vũ trang nhằm gây bạo loạn, đảo chính…
* Quan điểm của Trung Quốc: Khu vực Mỹ Latinh và Caribbean có vị trí
quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc, một trong những trọng
điểm tăng cường mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc trên trường quốc tế. Để
duy trì tốc độ phát triển kinh tế, nhu cầu nhập khẩu năng lượng của Trung Quốc,
nhất là dầu mỏ ngày càng tăng, nguồn nhập khẩu này của Trung Quốc chủ yếu từ
khu vực Trung Đông, tuy nhiên, sản lượng và nguồn dự trữ của khu vực này
ngày càng giảm sút, tình hình chính trị bất ổn đã khó đảm bảo cho nguồn cung
bền vững cho Trung Quốc. Trong khi đó, Mỹ Latinh có trữ lượng dầu mỏ lớn,
một số nước thuộc khu vực, đặc biệt là Venezuela đã phát hiện ra nhiều nguồn
dầu mỏ mới, đưa trữ lượng dầu của khu vực ngày càng tăng, có thể đuổi kịp,
thậm chí vượt cả khu vực Trung Đông. Chính vì vậy, tăng cường quan hệ với Mỹ
Latinh và Caribbean sẽ đảm bảo cho chiến lược an ninh năng lượng lâu dài của
Trung Quốc. Hơn nữa, Mỹ Latinh là thị trường đầy tiềm năng đối với hàng hóa
của Trung Quốc vì mức thu nhập, nhu cầu, tiêu chuẩn của khu vực phù hợp với
hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc. Việc mở rộng quan hệ thương mại và thâm
nhập hàng hóa vào các nước ở Mỹ Latinh đã tạo cho Trung Quốc nhiều thuận lợi
trong hợp tác thương mại.
62
Trên trường quốc tế, hầu hết các nước Mỹ Latinh là các nước đang phát triển,
có nhiều điểm tương đồng với đặc điểm phát triển của Trung Quốc. Đây là khu vực
có các phong trào tiến bộ phát triển, đấu tranh vì sự độc lập tự do như phong trào
cánh tả, phong trào không liên kết mà Trung Quốc cũng là một thành viên. Ngoài
ra, nhiều nước chủ trương tận dụng sự phát triển của Trung Quốc để phát triển kinh
tế, nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng các biện pháp phát triển đất nước của Trung
Quốc mà vẫn duy trì được sự ổn định chính trị, xã hội. Đây là điều kiện quan trọng
để Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng và xâm nhập sâu hơn vào khu vực này. Mặt
khác Mỹ Latinh tiếp giáp Mỹ, nên có vị trí rất quan trọng trong chiến lược cạnh
tranh ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Mỹ. Trung Quốc rất coi trọng mở rộng sự
hiện diện và ảnh hưởng tại Mỹ Latinh nhằm cạnh tranh ảnh hưởng trực diện với
Mỹ, thực hiện chiến lược kiềm chế Mỹ ngay tại khu vực sân sau của Mỹ, giảm thiểu
sự cạnh tranh và sức ép của Mỹ đối với Trung Quốc ở các khu vực trọng điểm khác
trên thế giới [90, tr.223].
Mặc dù gia tăng hiện diện của Trung Quốc trong khu vực tạo cơ hội phát triển
và thoát khỏi thời kỳ phụ thuộc vào Mỹ của một số nước Mỹ Latinh nhưng cũng dẫn
đến nhiều thách thức không nhỏ, đó là: Cạnh tranh ảnh hưởng của một số nước lớn tại
khu vực ngày càng trở nên gay gắt có thể tạo ra nguy cơ xảy ra các xung đột cục bộ
do sự can thiệp vào công việc nội bộ của các nước để mở rộng ảnh hưởng của mình;
Trung Quốc thực hiện mở rộng ảnh hưởng tại Mỹ Latinh theo kiểu khai thác thuộc
địa làm cho nhiều nước mất lòng tin vào Trung Quốc, đồng thời chiếm lĩnh thị trường
bằng cách bán phá giá, điều này đã gây nguy hại cho nền kinh tế các nước bản địa,
các dự án đầu tư của Trung Quốc có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, vấn đề lao
động người Trung Quốc là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến bất ổn xã hội.
* Quan điểm của Nga: Mỹ Latinh có vị trí chiến lược quan trọng trong chiến
lược củng cố và bảo vệ vị thế cường quốc thế giới của Liên Xô trước đây, cũng như
Liên bang Nga hiện nay, do Mỹ Latinh có đường biên giới chung cả đường bộ và
đường biển với Mỹ - đối thủ cạnh tranh chủ yếu, lâu dài của Liên Xô trước đây
cũng như của Liên bang Nga hiện nay. Mỹ Latinh là khu vực để Nga triển khai các
biện pháp chiến lược nhằm răn đe, ngăn chặn các hành động tiếp cận không gian
63
chiến lược xung quang Nga ở châu Âu. Ngày nay, vị trí địa chiến lược và tầm quan
trọng của khu vực này với vai trò là khu vực kiềm chế Mỹ vẫn không thay đổi, cho
dù Liên bang Nga có gặp khó khăn sau sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu. Mỹ Latinh vẫn là một trong những khu vực có tác động quan trọng đến
mỗi động thái chiến lược trong quan hệ Nga - Mỹ, kể cả những biến cố về ngoại
giao giữa hai nước.
Một trong những lợi ích quan trọng của Nga ở Mỹ Latinh là xuất khẩu vũ khí.
Việc đẩy mạnh xuất khẩu vũ khí sang Mỹ Latinh có nhiều ý nghĩa: Đảm bảo thị
trường xuất khẩu và sự phát triển của ngành công nghiệp quốc phòng Nga, hạn chế
được sự lệ thuộc của các nước vào vũ khí trang bị của Mỹ, nâng cao ảnh hưởng và vị
thế của Nga ở khu vực, đồng thời là cơ sở để Nga răn đe Mỹ ngay tại khu vực “sân
sau”. Về kinh tế, Nga là một cường quốc khai thác và xuất khẩu dầu mỏ, với những
kỹ thuật tiên tiến và hiện đại, tạo lợi thế lớn để thúc đẩy các mục tiêu chiến lược ở
Mỹ Latinh và trên thế giới, Nga muốn thông qua việc kiểm soát dầu mỏ để mở rộng
ảnh hưởng cũng như kiểm soát nguồn cung chiến lược cho các nước khác trong đó có
Mỹ. Trong khi đó, đây là khu vực có trữ lượng dầu mỏ đã được tìm thấy đứng hàng
đầu thế giới, Mỹ Latinh lại là khu vực cung cấp dầu mỏ quan trọng bậc nhất của
ngành công nghiệp Mỹ. Do đó, việc mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực dầu mỏ, hậu
thuẫn cho các tập đoàn dầu mỏ của Nga sang thăm dò, khai thác ở Mỹ Latinh vừa có
lợi về mặt kinh tế, vừa đem lại lợi ích chính trị và vai trò ảnh hưởng của Nga không
chỉ ở Mỹ Latinh mà cả trên trường quốc tế.
Về phía Mỹ Latinh, một loạt nguyên thủ các nước Mỹ Latinh như
Venezuela (Tổng thống Hugo Chavez đã 9 lần đi thăm Nga kể từ khi nhậm chức
đến năm 2011) để thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, mua sắm vũ khí, trang
bị. Các nhà lãnh đạo Mỹ Latinh đều mong muốn Nga hợp tác trên lĩnh vực chính
trị, thúc đẩy hợp tác kinh tế, quân sự, mời các công ty dầu mỏ của Nga đầu tư
thăm dò, khai thác và xây dựng đường ống dẫn dầu tại Mỹ Latinh. Trong chuyến
thăm Nga và tháng 07/2007, Tổng thống Hugo Chavez đã chính thức mời các
công ty dầu mỏ của Nga tham gia xây dựng đường ống dẫn khí lớn nhất thế giới
chạy qua Nam Mỹ [90, tr.275]. Mục đích của các chuyến thăm này là dựa vào
64
tiềm lực về quân sự và kinh tế của Nga để giảm ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực,
đặc biệt là là các nước có tư tưởng chống Mỹ hoặc không thân Mỹ.
* Quan điểm của Liên minh châu Âu (EU): Mỹ Latinh là khu vực được các
nhà thám hiểm châu Âu (Cristoforo Colombo) phát hiện ra từ cuối thế kỷ XVI. Lịch
sử hình thành và phát triển của Mỹ Latinh gắn liền với châu Âu trên nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược của châu Âu
đối với Mỹ Latinh. Trong chiến lược của mình, EU xác định Mỹ Latinh và
Caribbean là đồng minh tự nhiên, có mối liên kết chặt chẽ về lịch sử, văn hóa và
kinh tế, cũng như các giá trị và nguyên tắc cơ bản chung. Hai bên đều chia sẻ
cam kết về vấn đề nhân quyền, dân chủ, quản lý đất nước, chủ nghĩa đa phương
và gắn kết xã hội và cùng hợp tác phấn đấu vì các mục tiêu này. Điều này khiến
cho hai bên trở thành các đối tác liên kết chặt chẽ để cùng tham gia giải quyết
các vấn đề toàn cầu. Quan điểm này của EU xuất phát từ các yếu tố: Đó là mối
liên hệ chặt chẽ về nhân chủng học do người châu Âu chiếm đại đa số Mỹ
Latinh, chủ yếu do người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha di cư sang. Trong quá
trình thực dân hóa, các nước châu Âu đã truyền bá tư tưởng và hệ thống trị
TBCN tại hầu hết các nước thuộc địa, nên đa số các nước Mỹ Latinh có hệ thống
chính trị tương đồng với hệ thống chính trị ở châu Âu; Cơ cấu kinh tế các nước
Mỹ Latinh cơ bản tương đồng với nền kinh tế các nước châu Âu, chủ yếu là nền
kinh tế thị trường TBCN. Ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo chủ yếu được truyền bá
từ châu Âu sang, đặc biệt là các nước Mỹ Latinh chủ yếu sử dụng tiếng Tây Ban
Nha làm ngôn ngữ chính thức của quốc gia.
EU chủ trương mở rộng quan hệ toàn diện với Mỹ Latinh nhằm khôi phục
ảnh hưởng truyền thống trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, vừa
phối hợp chặt chẽ với Mỹ để ngăn chặn và kiềm chế các nước lớn khác mở rộng ảnh
hưởng ở khu vực, vừa cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ ở khu vực. Về kinh tế, EU chủ
trương đẩy mạnh tiếp cận nguồn nguyên liệu dồi dào của khu vực Mỹ Latinh phục
vụ cho chiến lược an ninh năng lược của EU. Về xã hội, EU chủ trương thắt chặt
chủ nghĩa tự do mới của EU, áp đặt các điều kiện tương tự, thậm chí cứng rắn hơn
những gì Mỹ đề ra nhất là vấn đề liên quan đến bản quyền và thâm nhập vào thị
trường Nam Mỹ [90, tr.248]. Mục đích tăng cường mối quan hệ với EU của các
65
nước Mỹ Latinh là tranh thủ tiềm lực về kinh tế và quân sự của EU để giảm bớt sự
phụ thuộc vào Mỹ ở khu vực sân sau này.
* Quan điểm của Cuba: Tuy không phải là một nước lớn nhưng lại có tác
động rất mẽ tới công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela dưới thời Tổng
thống Hugo Chavez. Là một quốc đảo nằm ở vịnh Caribbean có nhiều điểm
tương đồng với khu vực Mỹ Latinh, Cuba được coi là đồng minh tự nhiên của
các chính phủ cánh tả ở Mỹ Latinh. Hơn nửa thế kỷ qua, kể từ khi cách mạng
Cuba thành công năm 1959 đến nay, hòn đảo anh hùng này vẫn hiên ngang nơi
đầu sóng ngọn gió, cùng với các lực lượng cánh tả ở Mỹ Latinh trên hành trình
đi tới những mục tiêu cao cả vì hòa bình, ĐLDT, dân chủ, hợp tác và phát triển.
Trong thập kỷ 60, 70 và 80, hàng loạt phong trào du kích, tiến hành đấu tranh vũ
trang theo kiểu Cuba ra đời và phát triển hầu hết ở các nước Mỹ Latinh. Cuba
tích cực ủng hộ và giúp đỡ các phong trào này. Phần lớn các lãnh tụ du kích của
những năm này được đào tạo cả về lý luận và quân sự tại Cuba. Phong trào du
kích tại Mỹ Latinh đã có thời kỳ phát triển rất mạnh và giành thắng lợi thông qua
chiến tranh tại Nicaragua và ở một loạt nước khác như El Salvador, Guatemala,
Colombia… Tuy nhiên, kể từ khi Liên Xô tiến hành cải tổ, sự ủng hộ về vật
chất và tài chính không còn, phần lớn các lực lượng cảnh tả đã từ bỏ đấu tranh
vũ trang, chấp nhận đấu tranh nghị trường và tiếp tục nhận được sự hỗ trợ rất
lớn của Cuba. Cuba tích cực tham gia vào tất cả các diễn đàn cánh tả khu vực,
cùng các đảng này tìm kiếm hướng đi mới, điển hình như Diễn đàn Sao Paulo -
đây là Diễn đàn đánh dấu cho sự phát triển của phong trào cộng sản khu vực
Mỹ Latinh trong giai đoạn mới, là biểu hiện sinh động cho hình thức liên hệ
của các ĐCS, công nhân và các lực lượng cánh tả khu vực Mỹ Latinh vì một
mục tiêu cuối cùng là tiến lên CNXH.
Sau khi một loạt các chính phủ cánh tả ra đời tại Mỹ Latinh, những đóng
góp của Cuba vẫn tiếp tục được giữ vai trò quan trọng trong việc đấu tranh bảo
vệ ĐLDT của các nước Mỹ Latinh. Nhiều chuyên gia Cuba trong các lĩnh vực y
tế, giáo dục, thể thao, kinh tế, an ninh, quốc phòng đã được cử sang để giúp các
chính phủ cánh tả, trong đó chủ yếu được cử sang Venezuela. Những kết quả
66
bước đầu mà Venezuela dành được trên các lĩnh vực đời sống xã hội có sự giúp
đỡ không nhỏ từ Cuba. Những thắng lợi này đã giúp củng cố lòng tin của đại đa
số nhân dân lao động vào chính quyền, vào Tổng thống và cũng giúp cá nhân
Tổng thống Chavez có thể quay lại cầm quyền sau cuộc đảo chính không thành
của phe đối lập vào tháng 04/2002.
Với những thành quả của một nửa thế kỷ qua đã nâng cao uy tín của Cuba
lên cao không chỉ ở khu vực Mỹ Latinh mà cả trên trường quốc tế. Riêng tinh
thần chống Mỹ kiên cường và việc tiếp tục tồn tại ngay trước mũi siêu cường lớn
nhất thế giới là Mỹ, Cuba đã giành được sự kính trọng của thế giới và khu vực.
Có thể thấy rằng, Cuba có tác động mạnh tới phong trào cánh tả Mỹ Latinh. Các
giai đoạn phát triển của phong trào cánh tả khu vực từ những năm 60 của thế kỷ
XX tới nay đều có dấu ấn Cuba. Hiện nay, Cuba tiếp tục là ngọn cờ, là hình mẫu
lý tưởng của nhiều cuộc đấu tranh diễn ra tại khu vực, bởi nhìn lại chặng đường
đó cho thấy, một logic nội tại đã làm nên sức mạnh Cuba, đó là sức mạnh của
ĐLDT và CNXH, Cuba sẽ tiếp tục đi đầu trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ,
bảo vệ ĐLDT, phấn đấu cho công bằng xã hội, hạnh phúc của nhân dân lao động
và giá trị cao cả của thời đại ở Mỹ Latinh. Riêng đối với Venezuela, kể từ khi
Tổng thống Hugo Chavez nắm chính quyền, cách mạng Venezuela đã giành
được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của Cuba, những thành tựu trên các lĩnh vực
đời sống xã hội không tách khỏi sự ủng hộ, giúp đỡ của Cuba. Do vậy, có thể
khẳng định, Cuba là một trong những nhân tố quan trọng đã có tác động trực tiếp
đến cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Mỹ Latinh nói chung và nước Cộng hòa Bolivar
Venezuela nói riêng.
Tiểu kết chương 2
Đấu tranh bảo vệ ĐLDT luôn là nhiệm vụ hàng đầu, bức thiết, có tính chất
sống còn của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đây là một quá trình lâu dài, khó
khăn đòi hỏi mỗi nước phải nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn những cách thức, biện pháp
phù hợp với điều kiện cụ thể, độc lập về chính trị, giành quyền tự chủ về kinh tế, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Hiện nay, với sự gia tăng
của toàn cầu hóa, khu vực hóa, sự phát triển của kinh tế tri thức, sự bùng nổ của cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học công nghệ
67
lần thứ tư đã và đang tạo ra nhiều cơ hội giúp các nước khai thác tốt mọi nguồn lực
trong và ngoài nước để vừa hợp tác vừa phát triển. Công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT
ở nước Cộng hòa Bolivar Venezuela dưới thời Tổng thống Hugo Chavez từ năm 1999
đế năm 2013 luôn chịu sự tương tác tổng hợp, đan quyện vào nhau vừa trực tiếp,
vừa gián tiếp của hàng loạt những nhân tố khách quan và chủ quan như tình hình
cách mạng trong nước, tình hình khu vực Mỹ Latinh, sự tác động của các nước
lớn, vai trò cá nhân của Tổng thống Chavez, những nhân tố này không chỉ tác
động sâu sắc đến phong trào cánh tả ở khu vực mà nó còn đặt ra nhiều vấn đề cần
phải lý giải về cuộc đấu tranh, sự lựa chọn con đường phát triển mới phù hợp với
điều kiện thực tiễn. Nó đã tạo điều kiện thuận lợi và là cơ sở vững chắc để
Venezuela đấu tranh bảo vệ nền ĐLDT.
68
Chương 3
NỘI DUNG VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CÔNG CUỘC ĐẤU
TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VENEZUELA
TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2013
3.1. NỘI DUNG BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VENEZUELA
3.1.1. Giai đoạn mới giành chính quyền (1999-2002)
Ngày 27/02/1989, một sự kiện lớn đã xảy ra ở Venezuela, đó là cuộc nổi dậy
phản đối Chính phủ của Tổng thống Carlos Andres Perez. Cuộc nổi dậy nhằm mục
đích tìm ra giải pháp cho mô hình kinh tế khủng hoảng trầm trọng - hậu quả của
chính sách điều hành đất nước của các chính phủ như việc tăng giá hàng hóa, đặc
biệt là các mặt hàng cơ bản, sa thải người lao động trong cơ quan hành chính công,
tăng thuế và tăng giá hàng hóa.
Ngày 04/02/1992, một nhóm sỹ quan trẻ đã tiến hành cuộc nổi dậy chống lại
Chính phủ của Tổng thống Perez. Tuy sự kiện này thất bại do sự trấn áp mạnh của
chính phủ song đã mở ra cơ hội cho Ông Hugo Chavez - người chỉ huy cuộc nổi dậy
bắt đầu đứng vào chính trường với mục tiêu đấu tranh cho đất nước Venezuela phát
triển hài hòa và có vị thế trên trường quốc tế.
Năm 1998, ông Hugo Chavez bắt đầu vận động tranh cử tổng thống và trong
cuộc bầu cử tổng thống tháng 12/1998, ông đã nhận được đa số phiếu ủng hộ và
chính thức nhậm chức Tổng thống Venezuela ngày 02/02/1999. Sau khi nhậm chức,
Tổng thống Chavez phải đối mặt với một loạt các khó khăn mà các chế độ trước đó
để lại: Xã hội bất ổn định, kinh tế suy thoái, tăng trưởng âm trong một thời gian dài,
nợ nước ngoài ngày càng cao; các vấn đề xã hội hết sức trầm trọng; mặc dù là một
nước xuất khẩu dầu mỏ lớn của thế giới, nhưng phần lớn dân số Venezuela sống
trong cảnh nghèo đói; bệnh tật, thất học, thất nghiệp, thiếu nhà ở, tội phạm, bạo lực,
ô nhiễm môi trường diễn ra trầm trọng.
Công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT của Chính quyền Tổng thống Chavez
trong giai đoạn này đã gặp phải sự phản kháng quyết liệt của phe đối lập. Điển hình
như vào tháng 04/2002, một cuộc đảo chính đã nổ ra nhằm lật đổ Tổng thống
Chavez và đưa Chủ tịch Hiệp hội thương mại và sản xuất Pedro Carmona Estanga
69
lên nắm quyền tổng thống tạm thời. Trước sức ép của quần chúng lao động và sức
mạnh của lực lượng quân đội ủng hộ Tổng thống Chavez ngày càng tăng, ông
Carmona đã buộc phải từ chức. Phó Tổng thống Diosdado Cabello lên thay, ông Chavez
lập tức được trả tự do và trở lại Dinh Tổng thống Miraflores và kêu gọi tiến hành hòa giải
dân tộc đồng thời tuyên bố không truy bức những người tham gia đảo chính.
Trong giai đoạn khó khăn này, Chính quyền Tổng thống Chavez đã có những chủ
trương, biện pháp nhằm hướng tới mục tiêu đấu tranh bảo vệ, củng cố ĐLDT, đảm bảo
quyền dân sinh, dân chủ cho người dân. Những chính sách trong nước chủ yếu dựa trên
những gì mà Ông gọi là Sứ mệnh Bolivar. Đây thực chất là một loạt những chính sách
nhằm thay đổi diện mạo kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước Bolivar Venezuela.
Việc trước tiên Chính quyền Tổng thống Chavez khẳng định xây dựng một hệ
thống chính trị, kinh tế, xã hội bằng ý tưởng riêng và có khả năng hiện thực hóa
những ý tưởng đó. Tư tưởng chính trị của Ông là sự kết hợp tư tưởng của ba người
anh hùng lớn của dân tộc Venezuela cùng những tư tưởng tiến bộ của họ như: Nhà
giải phóng dân tộc Simon Bolivar (về chính trị với tư tưởng bình đẳng, tự do và hội
nhập Mỹ Latinh), Người thầy vĩ đại Simon Rodriguez (tư tưởng tiến bộ về giáo dục
chung và văn hóa) và Đại tướng Ezequiel Zamoza (công đoàn dân quân, công lý) để
củng cố Hệ tư tưởng mang tên “Cây ba gốc rễ” hay còn gọi là Hệ tư tưởng EBR [15].
Tư tưởng ba gốc rễ đã được áp dụng một cách linh hoạt tại một đất nước
theo đạo Công giáo và có nguồn dầu mỏ phong phú. Tư tưởng này được nâng lên
tầm cao hơn bằng những giá trị nhân văn của CNXH và kinh nghiệm thực tiễn.
Những tiền đề trên đưa ra lời giải thích đầy đủ và cặn kẽ cho định hướng của
cuộc cách mạng Bolivar, một cuộc cách mạng theo hướng chủ nghĩa dân tộc,
CNXH, Thiên chúa và chủ nghĩa quốc tế, với mục tiêu cuối cùng là mang lại
hạnh phúc lớn nhất có thể cho nhân dân với những nội dung cụ thể như:
* Về chính trị: Ngay sau khi tuyên thệ nhậm chức, nội dung đầu tiên Chính
quyền Tổng thống Hugo Chavez thực hiện là đề nghị tiến hành trưng cầu dân ý về
việc bầu Quốc hội lập hiến và Hiến Pháp mới thay thế Hiến pháp năm 1961. Với
Hiến pháp mới và chương trình cải cách tiến bộ, Venezuela sẽ thoát khỏi tình trạng
lạc hậu, trở thành một quốc gia dẫn đầu Mỹ Latinh như thời của Simon Bolivar.
70
Tổng thống Chavez đã kêu gọi Hội đồng Lập hiến soạn thảo một Văn kiện mới thay
thế cho Hiến pháp năm 1961. Sau khi đưa ra trưng cầu dân ý ngày 15/12/1999 và
ban hành năm ngày sau đó, văn kiện này đã trở thành Hiến pháp mới, Hiến pháp
dân chủ nhất trong lịch sử độc lập của đất nước, thực sự mở ra kỷ nguyên mới đối
với nước Cộng hòa Bolivar Venezuela.
Hiến pháp mới có hiệu lực từ tháng 12/1999, đây là bản Hiến pháp đầu tiên
được thông qua bằng trưng cầu dân ý, đã thể hiện những cải tổ mang tính căn bản nhất
về thế chế, tổ chức bộ máy nhà nước và hình thái kinh tế - xã hội, đồng thời khẳng định
lại những quyền cơ bản nhất của người dân Venezuela. So với bản Hiến pháp 1961,
bản Hiến pháp này có những thay đổi cơ bản như sau:
Cộng hòa Venezuela trở thành Cộng hòa Bolivar Venezuela: Tên của nhà
cách mạng Simon Bolivar đã được đặt cho tên chính thức của quốc gia. Đó không
chỉ là ý nguyện của những người ủng hộ tư tưởng cách mạng của ông, đi đầu là
Tổng thống Hugo Chavez, nhằm bày tỏ sự tôn kính đối với nhà cách mạng tiền bối
mà còn thể hiện sự định hướng trong lập trường tư tưởng của nhà cách mạng về dân
chủ, bình đẳng xã hội mà Venezuela luôn hướng tới.
Nhà nước dân chủ với 5 nhánh quyền lực: Khác với sự phân chia truyền
thống thành 3 nhánh quyền lực gồm hành pháp, lập pháp và tư pháp, Hiến pháp năm
1999 của Venezuela đã định ra ngũ quyền phân lập với sự xuất hiện của hai nhánh
quyền lực mới: quyền lực bầu cử và quyền lực của công dân.
Quyền lực bầu cử được trao cho Hội đồng Bầu cử quốc gia (CNE). Đây vừa
là cơ quan trực thuộc Ủy ban Bầu cử Nhà nước, vừa chịu trách nhiệm chỉ huy ủy
ban này. CNE có trách nhiệm giám sát tất cả các cuộc bầu cử của Venezuela, từ bầu
cử hội đồng địa phương, liên bang đến bầu cử cấp nhà nước.
Cơ quan quyền lực của công dân bao gồm: người bảo vệ công dân (chức
nghị sĩ), người kiểm soát về thuế (tương đương với Bộ trưởng Tư pháp), người kiểm
soát chung (Tổng thanh tra nhà nước). Cơ quan này có nhiệm vụ đại diện và bảo vệ
công dân trong mối quan hệ với các cơ quan quyền lực nhà nước, giám sát hoạt động
của Tổng thống, Quốc hội, việc thực thi Hiến pháp. Họ được quyền cảnh báo với các
cấp chính quyền về những sai phạm của quan chức hoặc viên chức nhà nước. Trong
71
trường hợp lời cảnh báo của họ không được tôn trọng, cơ quan này có thể đưa ra các
biện pháp trừng phạt trong khuôn khổ quy định của Luật pháp Venezuela.
Bên cạnh hai cơ quan quyền lực mới này, Venezuela vẫn có ba nhánh quyền
lực truyền thống:
Cơ quan hành pháp: bao gồm tổng thống, các phó tổng thống, bộ trưởng. Theo
Hiến pháp 1999, nhiệm kỳ của tổng thống tăng từ 4 năm lên 6 năm, nhưng việc tái ứng
cử chỉ được tiến hành một lần duy nhất. Bản Hiến pháp trước không hạn chế số lần tái
ứng cử, nhưng quy định điều đó chỉ diễn ra sau nhiệm kỳ nắm quyền ít nhất 10 năm.
Tổng thống cũng được trao thêm quyền giải tán Quốc hội. Tính dân chủ của Hiến pháp
1999 còn được thể hiện ở chỗ trao cho người dân quyền bãi nhiệm bất kỳ quan chức
nhà nước nào, kể cả Tổng thống, thông qua trưng cầu dân ý.
Cơ quan lập pháp: là Quốc hội với mô hình đơn viện, có chức năng cơ bản là
xây dựng hệ thống luật pháp, giám sát hoạt động của Chính phủ và cơ quan hành
chính nhà nước. Một trong những công cụ giám sát đó là quyền bỏ phiếu bất tín
nhiệm đối với Chính phủ. Quốc hội cũng có quyền sửa đổi Hiến pháp trong phạm vi
quy định, thông qua ngân sách nhà nước.
Cơ quan tư pháp: Hệ thống tư pháp bao gồm Tòa án Tối cao, các tòa án khác
được pháp luật quy định, Bộ Công cộng, Cơ quan Bảo vệ công dân. Tính độc lập
của cơ quan tư pháp được thể hiện ở chỗ Tòa án Tối cao được trao quyền tự chủ về
nhân sự, tài chính và hành chính. Ngoài ra, Hiến pháp 1999 còn đưa ra những cải tổ
trong thủ tục bổ nhiệm thẩm phán. Cụ thể, theo quy định của Hiến pháp 1999, thẩm
phán phải được điều tra công khai trước khi bổ nhiệm. Trước đây chỉ cần được sự
chấp thuận của cơ quan lập pháp.
Bảo đảm quyền cơ bản của công dân: Bên cạnh những thay đổi căn bản về
thể chế nhà nước, Hiến pháp 1999 cũng đưa ra những cải tổ tiến bộ nhằm bảo đảm
những quyền lợi cơ bản cho mọi công dân Venezuela. Ví dụ, việc quy định đào tạo
cao học miễn phí, bảo đảm quyền được khám chữa bệnh miễn phí cho người dân
trong khuôn khổ quy định, bảo đảm quyền cho các cộng đồng dân tộc thiểu số, đặc
biệt là người dân da đỏ. Hiến pháp đã có những quy định cho phép họ gìn giữ nét
văn hóa truyền thống, ngôn ngữ riêng, tôn trọng tự do tôn giáo của họ.
72
Việc Hiến pháp mới được ban hành là một thắng lợi lớn của Chính phủ Tổng
thống Chavez, tạo cơ sở pháp lý để Chính phủ có thể tiến hành công cuộc đấu tranh
bảo vệ ĐLDT của mình. Nhiệm vụ đầu tiên của Hiến pháp là dỡ bỏ bộ máy nhà
nước đàn áp và loại trừ nguy cơ khủng bố nhà nước, để đạt được mục tiêu này, cuộc
Cách mạng Bolivar cần phải giải quyết vấn đề đó là tạo ra hệ thống an ninh mới để
thay thế hệ thống cũ và Nền Cộng hòa thứ tư để lại. Hiến pháp mới đã định nghĩa
lại về nhà nước, đặc biệt là những chức năng cơ bản của nhà nước, như quyền hành
pháp, tư pháp và quân sự. Nhiệm vụ văn hóa mà Hiến pháp mới đặt ra đó là phải
xây dựng hình ảnh công dân Venezuela và tạo dựng bản sắc dân tộc đối với khu vực
Mỹ Latinh. Mô hình an ninh mới mà Hiến pháp đề ra theo đuổi những đặc trưng cơ
bản của nhân quyền về an ninh và an sinh như: Bảo vệ sinh kế và an sinh như quyền
cơ bản của con người và trách nhiệm đảm bảo những quyền trên chính là trách
nhiệm của nhà nước.
* Về kinh tế: Là một trong những quốc gia có trữ lượng và sản lượng khai
thác dầu mỏ hàng đầu thế giới, đây cũng là nguồn thu chủ yếu của Venezuela.
Những năm mới nắm chính quyền, Chính quyền Tổng thống Chavez tin tưởng
vào phát triển kinh tế theo Con đường thứ ba. Bởi vậy, trong các chính sách,
chương trình phát triển kinh tế - xã hội vẫn tương tự như chính sách của các
chính phủ xã hội dân chủ nói chung. Chính phủ rất thận trọng trong những quyết
định mang tính cải cách đột phá ở lĩnh vực kinh tế. Chính quyền Tổng thống
Chavez tuyên bố không tiếp tục chương trình tư nhân hóa mà chính phủ cánh
hữu trước đó đang tiến hành, nhưng cũng không quốc hữu hóa các công ty tư
nhân vốn trước đây là công ty nhà nước và tìm mọi biện pháp để ổn định nền
kinh tế đang rất khó khăn mà không phá giá đồng tiền hay áp đặt một hệ thống
kiểm soát tỉ giá.
Một trong những mục tiêu được Chính phủ ưu tiên hàng đầu là làm sao
thuyết phục được các nước thành viên Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC)
cắt giảm sản lượng khai thác để tăng giá dầu. Năm 2001, Chính phủ đã ban hành 49
pháp lệnh và luật trong đó có Luật Đất đai và Phát triển nông thôn, Luật Đánh cá, Luật
Dầu mỏ…quy định lại một số vấn đề chủ chốt trong nền kinh tế Venezuela. Ví dụ như
73
Luật Dầu khí quy định mức thuế của các công ty nước ngoài hoạt động trong ngành
công nghiệp dầu mỏ sẽ lên tới 30% và Nhà nước sẽ nắm giữ ít nhất 51% cổ phiếu trong
liên doanh với các công ty tư nhân để chiếm cổ phần chi phối [137, tr.36].
Cuộc cải cách ruộng đất ở Venezuela được bắt đầu từ năm 1999, nhằm phá
vỡ thế độc quyền đất đai của các đại điền chủ. Theo Luật Đất đai, đất nông nghiệp
không canh tác hoặc sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp, được thu và chia lại
cho nông dân không có ruộng, cấp quyền sử dụng đất cho các hộ đã thực sự canh
tác. Đồng thời Chính phủ Venezuela không tước bỏ quyền sở hữu ruộng đất bằng
bạo lực, mà giải quyết thông qua việc đền bù theo giá thị trường. Với Luật Đất đai
và Phát triển nông thôn các chủ đồn điền phải khai thác đất đai và đóng thuế cho
nhà nước hoặc buộc phải trao trả những diện tích bỏ hoang. Luật Đất đai đã đem lại
nguồn lợi thực sự cho người nông dân.
* Về văn hóa, xã hội: Chính quyền Tổng thống Chavez đã đưa ra hàng loạt
chính sách cải cách xã hội như: Đề cao yêu cầu đổi mới giáo dục, xây dựng trường
học ở các khu phố lao động, cải cách hệ thống y tế, hỗ trợ cho người nghèo, đặc biệt
là những người thổ dân, cung cấp tín dụng cho những xí nghiệp nhỏ, cải thiện cơ sở
hạ tầng ở các địa phương.
Trong suốt Nền Cộng hòa thứ tư ở Venezuela (1961 - 1999), giáo dục
Venezuela hầu như không có gì phát triển, giáo dục thể hiện sự khác biệt giữa
những người giàu vốn chỉ chiếm thiểu số và đại bộ phận dân nghèo không được
giáo dục [23, tr.40]. Để giải quyết thực trạng này, Chính quyền Tổng thống Chavez
đã đầu tư thực hiện các chương trình phổ cập giáo dục miễn phí. Các chương trình
này tập trung vào công tác xóa mù chữ và mở rộng hệ thống giáo dục trung học và
đại học. Điều 102, 103 của Hiến pháp Venezuela đã chỉ ra: Giáo dục là một quyền
con người và là một nghĩa vụ xã hội cơ bản; dân chủ, miễn phí và bắt buộc. Nhà
nước nhận trách nhiệm thực hiện việc này như là một chức năng bất di bất dịch có
lợi ích lớn nhất, tại tất cả các cấp và ở mọi chế độ, như một công cụ của tri thức
khoa học, nhân văn, kỹ thuật để phục vụ xã hội… Mọi người đều có quyền được
hưởng sự giáo dục đầy đủ… Giáo dục là bắt buộc ở tất cả các cấp... Giáo dục được
cung cấp tại các tổ chức của Nhà nước là miễn phí cho tới bậc đại học [158].
74
Lĩnh vực y tế cũng đã bắt đầu được chú trọng trong giai đoạn này, theo Hiến
pháp Venezuela năm 1999, Điều 83 qui định: Y tế là một quyền xã hội cơ bản và là
trách nhiệm của Nhà nước đảm bảo nó như một phần của quyền được sống. Nhà
nước sẽ thúc đẩy, phát triển các chính sách hướng tới việc cải thiện chất lượng cuộc
sống, phúc lợi chung, quyền tiếp cận các dịch vụ. Tất cả mọi người đều có quyền
được bảo vệ sức khỏe, cũng như có nghĩa vụ tham gia tích cực vào việc thúc đẩy bảo
vệ sức khỏe, tuân thủ các biện pháp y tế vệ sinh được quy định bởi pháp luật, phù hợp
với các công ước quốc tế và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa đã ký kết và phê
chuẩn. Venezuela đã thành lập các ủy ban chăm sóc sức khỏe cộng đồng để tiến hành
khảo sát và xác định nhu cầu của từng khu vực, từ đó đưa ra kế hoạch toàn diện nhằm
cải thiện cuộc sống và sức khỏe cho người dân. Chính phủ bước đầu đã xây dựng
được các trung tâm công nghệ cao, trung tâm chẩn đoán, trung tâm phục hồi chức
năng, để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân.
* Về đối ngoại, quốc phòng, an ninh: Ngay từ những ngày đầu lên nắm chính
quyền, Chính quyền Tổng thống Chavez đã tiến hành một đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, chống đế quốc, chống chủ nghĩa tự do mới, ủng hộ cách mạng Cuba, ủng hộ
việc dân chủ hóa và cải cách Liên hợp quốc, chủ trương liên kết các quốc gia khu vực
Mỹ Latinh thành một khối với một chính sách đối ngoại chung, một tiếng nói chung
trong các cuộc đàm phán về mậu dịch tự do với Mỹ và các cường quốc kinh tế thế giới
khác. Venezuela đẩy mạnh quan hệ với Cuba bởi Tổng thống Chavez luôn coi Chủ tịch
Phidel Castro như một người thầy, một tấm gương lớn về tinh thần đấu tranh chống
Mỹ. Hai nước đã ký Hiệp định Hợp tác toàn diện, trong đó Venezuela cam kết cung
cấp cho Cuba 53.000 thùng dầu mỗi ngày và được nợ với lãi xuất ưu đãi; ngược lại
Cuba giúp Venezuela chuyên gia và kỹ thuật viên [90, tr.502].
Trong giai đoạn này, để giải quyết các xung đột giữa các bên ở trong
nước như: Tuyên bố bất hợp tác với chính phủ của một số sỹ quan từng tham
gia đảo chính năm 1992; Bãi công trên toàn quốc tháng 12/2001 của phe đối
lập gồm các đảng cánh hữu, một số tổ chức nghiệp đoàn, tổ chức phi chính
phủ, các doanh nghiệp tư nhân; Cuộc biểu tình chống chính phủ của phe đối
lập năm 2002… Chính quyền Tổng thống Chavez một mặt lên tiếng chỉ trích,
75
tố cáo các nhóm đối lập cố tình gây bạo lực nhằm lật đổ chính phủ lâm thời.
Một mặt, kêu gọi Liên hợp quốc, Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS) làm
trung gian giúp Venezuela tiến hành đối thoại, hòa giải dân tộc, nhằm chấm
dứt khủng hoảng chính trị.
3.1.2. Chủ trương, biện pháp từ năm 2003 đến năm 2013
Trong giai đoạn này, Tổng thống Hugo Chavez muốn tìm kiếm một mô hình phát
triển mới khác hẳn về bản chất so với CNTB, đặc biệt là chủ nghĩa tự do mới. Những
chủ trương biện pháp đấu tranh bảo vệ ĐLDT đã được thể hiện trên các lĩnh vực như:
* Về chính trị: Đấu tranh bảo vệ ĐLDT, củng cố chính quyền, đưa ra những
biện pháp thích hợp và cần thiết đối phó với cuộc tấn công từ mọi phía của các thế
lực bên ngoài cũng như phe đối lập, củng cố khối đoàn kết toàn dân, giác ngộ ý thức
cách mạng cho người dân, củng cố chính quyền cách mạng. Ông Hugo Chavez đã
có sự thay đổi hẳn về CNTB nhân đạo và Con đường thứ ba khi nhận ra rằng đây
không phải là con đường mà Venezuela cần đi theo, bởi nó không thể giải quyết
được những vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở nước này. Chính vì vậy mà
Ông luôn trăn trở với việc tìm tòi xây dựng mô hình phát triển mới - Mô hình “Chủ
nghĩa xã hội thế kỷ XXI” trên cơ sở những đặc điểm riêng của Venezuela và Mỹ
Latinh, khác về bản chất so với CNTB, đặc biệt là chủ nghĩa tự do mới. Đó là
CNXH nhân đạo, vì quyền con người, thực hiện chế độ chính trị đa đảng, dân chủ,
tự do, nhưng đồng thời có công cụ đủ mạnh để trấn áp các lực lượng phản cách
mạng. Tổng thống Chavez luôn nhấn mạnh tới tư tưởng dân chủ tham gia và chính
quyền nhân dân, theo đó nhân dân có trách nhiệm cùng tham gia quyết định vận
mệnh của đất nước, tham gia vào việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, công
bằng xã hội, xây dựng mô hình xã hội mới, nơi mà mọi người dân đều có chỗ đứng,
đều cảm thấy được làm người, cho dù đó là một thổ dân. Tiếp tục cải cách Hiến
pháp 1999, xây dựng và củng cố Đảng XHCN Thống nhất Venezuela (PSUV) trên
cơ sở một số đảng cánh tả trong liên minh cầm quyền. Với vai trò nòng cốt là Phong
trào Nền cộng hòa thứ năm để PSUV đủ mạnh, tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo
vệ ĐLDT ở Venezuela để đưa đất nước tiến vững vàng lên CNXH như ông Chavez
chính thức tuyên bố: "Cần phải tiếp tục xây dựng Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI tại
76
Venezuela. Đó là sự lựa chọn thay thế cho hệ thống TBCN hoang dã và phá hoại.
Chỉ có “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” mới bảo đảm đem lại hạnh phúc lớn nhất, ổn
định chính trị và an ninh cao nhất cho nhân dân" [40, tr.217].
“Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI không giống với mô hình CNXH Liên Xô và
Đông Âu trước đây, vẫn xem tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng nhưng kết
hợp với tư tưởng Simon Bolivar và các tư tưởng tiến bộ khác ở Mỹ Latinh làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, theo Tổng thống Chavez “Chủ nghĩa
xã hội thế kỷ XXI” ở Mỹ Latinh phải xuất phát từ thực tế của Mỹ Latinh.
Về chủ trương cụ thể như sau:
- Tiếp tục duy trì và củng cố cuộc Cách mạng Bolivar cầm quyền.
- Bảo tổn và củng cố chủ quyền tài nguyên dầu mỏ và các nguồn tài nguyên
thiên nhiên chiến lược khác.
- Đạt chủ quyền về lương thực để bảo đảm quyền thiêng liêng của người dân
được tiếp cận với lương thực thực phẩm.
- Phát triển năng lực khoa học và công nghệ liên quan tới nhu cầu của người dân.
- Tăng cương nền quốc phòng toàn dân với mục tiêu bảo vệ độc lập và chủ quyền
dân tộc, đảm bảo các nguồn lực và tài nguyên của đất nước cho các thế hệ tương lai.
- Tiếp tục phát triển địa chính trị quốc tế hướng tới thế giới đa cực và đa
trung tâm, tạo nên sự cân bằng và bảo đảm hòa bình trên thế giới.
- Bảo tồn cuộc sống trên hành tinh và cứu vớt nhân loại [40, tr.217 - 224].
Để thực hiện chủ trương trên, Chính quyền Tổng thống Chavez đã đề ra các
biện pháp trên các lĩnh vực cụ thể như:
* Về kinh tế: Xác lập mô hình kinh tế mới - Mô hình được hoạch định trên cơ
sở chú trọng sự phát triển nền kinh tế đa dạng và bền vững, có hiệu quả, có khả
năng đảm bảo việc tạo ra nguồn của cải vật chất cũng như việc phân phối công bằng
cho toàn dân, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Đây được gọi là mô
hình kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng “Xã hội chủ nghĩa thế kỷ
XXI”, gồm thành phần kinh tế nhà nước (kinh tế công), kinh tế xã hội (trực tiếp và
gián tiếp), kinh tế tập thể (hợp tác xã, xí nghiệp sản xuất xã hội, đơn vị phát triển
nội sinh, đơn vị sản xuất cộng đồng, hội đồng xã, phường...), kinh tế liên doanh
77
(giữa nhà nước với tư nhân, giữa nhà nước với nước ngoài), kinh tế tư bản tư nhân
(trong nước và nước ngoài), trong đó kinh tế nhà nước phải nắm vai trò chủ đạo.
Các thành phần kinh tế này dựa trên những hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí
đối lập nhau về bản chất kinh tế - xã hội [136, tr.51].
Một là, thực hiện đa dạng các loại hình sở hữu - Sở hữu là vấn đề rất quan
trọng trong phát triển kinh tế, tạo ra công bằng xã hội và giải quyết nhu cầu dân
sinh. Mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” tại Venezuela xác định trong nền kinh
tế có các loại hình sở hữu sau:
Sở hữu nhà nước là sở hữu thuộc về bộ máy công quyền.
Sở hữu xã hội là sở hữu toàn dân và được kế thừa cho các thế hệ tương lai.
Sở hữu xã hội được chia thành hai loại: sở hữu xã hội gián tiếp khi nhà nước thay
mặt nhân dân quản lý tài sản và sở hữu xã hội trực tiếp khi tài sản được trao cho
một hoặc nhiều cộng đồng quản lý (còn gọi là sở hữu cộng đồng).
Sở hữu tập thể là sở hữu thuộc một nhóm xã hội hoặc một nhóm cá nhân,
liên kết với nhau vì một mục tiêu chung.
Sở hữu liên doanh, liên kết được hình thành trên cơ sở liên doanh, liên kết
giữa các thành phần kinh tế khác nhau như xã hội, tập thể, tư nhân, nước ngoài, theo
nhiều hình thức khác nhau, nhằm tận dụng tối đa tiềm năng và lợi thế của từng khu
vực, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền kinh tế - xã hội của dân tộc.
Sở hữu tư nhân là sở hữu thuộc về các cá nhân hoặc pháp nhân, mọi tài sản
và công cụ sản xuất có nguồn gốc chính đáng của các cá nhân và pháp nhân này
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Trong các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất,
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ
để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế [136, tr 51].
Hai là, Nhà nước can thiệp mạnh vào cơ chế kinh tế thị trường - Venezuela
đã tiến hành mạnh mẽ cải cách kinh tế, chuyển từ mô hình chủ nghĩa tự do mới sang
thực hiện mô hình kinh tế thị trường kết hợp giải quyết các vấn đề xã hội. Có nhiều
biện pháp vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn được áp dụng trong cải cách kinh tế (Chính
phủ Venezuela buộc các công ty tư nhân phải bán ít nhất 51% cổ phần cho
78
PVDSA). Chính phủ tăng cường, mở rộng sự kiểm soát đối với lĩnh vực ngân hàng
để xây dựng và phát triển hệ thống tài chính mới. Đây là bước đi cần thiết cho phép
nhà nước cung cấp nguồn lực và đầu tư để đáp ứng nhu cầu chung.
Venezuela thành lập các tổ chức, hợp tác xã và doanh nghiệp dịch vụ cộng
đồng nhằm vừa tạo việc làm, vừa tăng phúc lợi xã hội cho người dân. Chính phủ
khuyến khích nông dân phát triển nông nghiệp, xây dựng các hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp, trợ giá hàng hóa; giúp đỡ cho họ về vốn, công nghệ, quản lý. Chính
phủ Venezuela cũng chủ trương phát triển mô hình đồng quản lý giữa nhà nước với
người lao động. Người lao động có thể xây dựng dự án phát triển sản xuất, dịch vụ
và đệ trình Chính phủ xin cấp vốn. Sau khi xem xét, nếu dự án đó có tính khả thi,
nhà nước sẽ cấp vốn và kỹ thuật ban đầu để người lao động có thể triển khai dự án
của mình. Nhà nước cấp vốn và trợ giúp kỹ thuật, người lao động quản lý và tham
gia sản xuất. Đã có nhiều dự án được cấp vốn, một số dự án phát triển khá tốt, làm
ăn có lãi, tuy số này chưa nhiều.
Ba là, tiến hành quốc hữu hóa những ngành kinh tế quan trọng - là vấn
đề nổi bật trong tiến trình hiện thực hóa nền kinh tế theo mô hình “Chủ nghĩa
xã hội thế kỷ XXI” tại Venezuela. Khá nhiều biện pháp mềm dẻo nhưng cương
quyết nhằm giành lại chủ quyền quốc gia về tài nguyên - mà trước hết là dầu
mỏ - đã được thực hiện. Tổng thống Chavez đã đề xuất Quốc hội ban hành đạo
luật mới quy định về vấn đề quốc hữu hóa. Ông coi đây là một trong năm động
lực của Cách mạng Bolivar. Đạo luật Hydrocarbon được ban hành năm 2001,
ngoài dầu mỏ, nhiều lĩnh vực khác cũng đã được quốc hữu hóa như sản xuất và
phân phối điện năng, viễn thông, luyện kim, sản xuất xi măng và một số công
ty sản xuất lương thực.
Bốn là, giải quyết vấn đề ruộng đất - với những nỗ lực để cải cách ruộng đất
và làm cho người nông dân có ruộng đã xuất hiện ngay từ đúc rút kinh nghiệm của
các chính phủ tiền nhiệm. Do nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào việc khai thác dầu
mỏ, nên các địa chủ và các chủ tư bản không quan tâm đến phát triển nông nghiệp.
Vì vậy, tuy có tỷ lệ đất canh tác cao nhưng sản lượng lương thực, thực phẩm thấp.
Đất canh tác bị bỏ hoang, người nông dân không có đất canh tác phải đổ dồn về
79
các đô thị lớn, làm tăng nhanh dân số cơ học ở các đô thị này. Hầu như lương
thực, thực phẩm của Venezuela tiêu thụ đều phải nhập từ nước ngoài. Để giải
quyết vấn đề này, Năm 2001, Venezuela ban hành Luật Đất đai. Năm 2005, Quốc
hội tiếp tục sửa đổi 18 điều của bộ luật này để tăng cường quyền nông dân có
ruộng, phân phối đất công bằng hơn, trong đó nêu rõ tất cả các diện tích canh tác
bị bỏ hoang sẽ bị bị nhà nước thu hồi chia cho nông dân, nhằm đem lại công bằng
xã hội cho người lao động. Sau khi Luật Đất đai và Phát triển nông thôn được ban
hành, Chính quyền Tổng thống Chavez đã thông qua Chương trình Zamora. Đây
là một chương trình tổng thể để phát triển nông thôn và nông nghiệp nhằm điều tra
và thu hồi những diện tích canh tác không có chứng nhận sở hữu hợp pháp hoặc
phần diện tích đất canh tác mà các đại địa chủ bỏ hoang, từ lâu không trồng trọt để
chia lại cho người nông dân. Chính phủ Venezuela không tước bỏ quyền sở hữu
ruộng đất của đại địa chủ bằng bạo lực, mà giải quyết thông qua việc đền bù theo
giá trị trường. Với Luật Đất đai và Phát triển nông thôn, các chủ đồn điền phải
khai thác đất đai và đóng thuế cho nhà nước hoặc buộc phải trao trả những diện
tích bỏ hoang.
* Về văn hóa, xã hội: Ngay sau khi lên nắm chính quyền, Tổng thống
Chavez đã từng bước thực hiện các mục tiêu vì sự tiến bộ và công bằng xã hội để
người dân có thể sử dụng những dịch vụ công tốt nhất. Sau cuộc đảo chính của
phe đối lập tháng 04/2002 và sự phá hoại ngành công nghiệp dầu mỏ của phe đối
lập vào tháng 12/2002, Chính quyền Tổng thống Chavez đã thành công trong việc
loại công ty PDVSA khỏi tay GCTS dân tộc, để đưa nguồn lợi thu được từ ngành
công nghiệp dầu mỏ của Venezuela vào phục vụ cho xã hội, đó là nhiệm vụ trọng
tâm quốc gia. Từ năm 2004, nhờ kinh tế tăng trưởng mạnh, hàng loạt các chương
trình xã hội đã được thực hiện, Chính phủ cũng đã thành lập Quỹ Phát triển
(FONDEN) cho các chương trình này. Thành công lớn nhất của các nhiệm vụ xã
hội là người dân cảm thấy được là chính mình, họ có quyền công dân và có thể
cùng nhau hợp sức để cải thiện cuộc sống của chính bản thân họ, cuộc sống của
người dân được nâng cao, bất bình đẳng xã hội giảm, Chính quyền đạt được sự
đồng thuận của cử tri cả nước.
80
Thiết lập chương trình có tên những nhiệm vụ xã hội - Social Mission là một
cơ chế linh hoạt để đáp ứng các yêu cầu cơ bản của người dân mà trước đây không
được phục vụ hoặc đã được giao cho các công ty tư nhân kiếm lợi nhuận từ việc
này. Các sứ mệnh xã hội có nhiệm vụ giải quyết tình trạng nghèo đói và các vấn
đề xã hội như: giáo dục, văn hóa, y tế, phát triển kinh tế, xã hội, nhà ở… trong
mỗi nhiệm vụ còn chia ra làm nhiều nhiệm vụ nhỏ để thực hiện có hiệu quả hơn.
Do tầm quan trọng, phạm vi, tính chất thường xuyên của các nhiệm vụ mà
Venezuela đã thể chế hóa thành chính sách của nhà nước, như là một phần của quá
trình chuyển đổi toàn diện nhà nước, kinh tế - xã hội quốc gia. Những nhiệm vụ
này đã trở thành trọng tâm, hạt nhân trong các chính sách của chính quyền cách
mạng. Tính từ năm 2003 đến đầu năm 2013, Chính quyền Tổng thống Chavez đã
xây dựng và thực hiện 27 Sứ mệnh lịch sử (trong đó có 02 Sứ mệnh về quốc
phòng, an ninh - Sứ mệnh Negro Primero, Sứ mệnh A Toda Vida - Đại sứ mệnh
tất cả vì cuộc sống ở Venezuela) [159].
Một là, nhiệm vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, Chính phủ tập trung
xây dựng và thực hiện các Sứ mệnh như: Sứ mệnh Bario Adentro, Sứ mệnh
Milagro, Sứ mệnh Sonrisa - Sứ mệnh Nụ cười…
Hai là, đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Chính phủ đã có nhiều
chương trình hỗ trợ giáo dục, như miễn học phí cho học sinh và trợ cấp thêm
các khoản sinh hoạt phí để khuyến khích trẻ em tới trường. Đã có nhiều
chương trình giáo dục được thực hiện, điển hình như: Sứ mệnh Robinson, Sứ
mệnh Ribas, Sức mệnh Sucre…
Ba là, đảm bảo an ninh lương thực, Chính phủ Venezuela đã xây dựng chương
trình trợ cấp lương thực, thực phẩm, tiến hành phân phối thực phẩm chất lượng cao và
hàng hóa với giá thấp, cung cấp dịch vụ nông nghiệp đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng hàng
ngày cho người dân. Bên cạnh đó, các khu lương thực được thiết lập để cung cấp thức ăn
miễn phí cho những người có hoàn cảnh khó khăn nhất. Chương trình này tập trung tiếp
cận những cộng đồng thổ dân và khu vực nông thôn qua mạng lưới những người di cư
hoặc đội ngũ lái xe tải vận chuyển hành hóa và thực phẩm tới những nơi có địa hình
hiểm trở cung cấp miễn phí hoặc bán hàng với giá phải chăng để người dân có thể tiếp
81
cận được những hàng hóa thiết yếu. Điển hình như các chương trình: Sứ mệnh
Allmentaciong- Sứ mệnh cung cấp thực phẩm; Sứ mệnh Guaicaipuro - Sứ mệnh an ninh
lương thực; Sứ mệnh Agro Venezuela - Sứ mệnh nông nghiệp…
Bốn là, các chương trình phúc lợi, an sinh xã hội, đã triển khai các chương
trình lao động, sản xuất khác nhau, trong đó có việc xây dựng các hợp tác xã thuộc
đủ ngành nghề. Chương trình đã tạo ra công ăn, việc làm cho hàng triệu người thất
nghiệp, giúp họ có công ăn, việc làm trong các ngành sản xuất và dịch vụ khác nhau
để có thể làm việc tại các hợp tác xã, những người này còn được học nghề, được
đào tạo hoặc đào tạo lại cho phù hợp với ngành nghề mới. Chính phủ đã cung cấp
nhiều khoản tín dụng và ký nhiều hợp đồng với hợp tác xã, giúp họ phát triển sản
xuất. Ngân hàng Thương mại Tổng hợp có chương trình tín dụng ngân hàng nhỏ
phục vụ cho các ngân hàng thương mại tư nhân của người nghèo. Bên cạnh đó còn
có các nhiệm vụ nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, giữ gìn bản sắc
văn hóa riêng của Venezuela… Trong đó, có các nhiệm vụ như: Sứ mệnh Piar - Sứ
mệnh phát triển bền vững; Sứ mệnh Barrio Adentro Deportivo - Sứ mệnh Thể thao
bên trong khu phố; Sứ mệnh Cultura Corazon Adentro - Sứ mệnh Nâng cao chất
lượng đời sống văn hóa; Sứ mệnh Arbol - Sứ mệnh Trồng rừng; Sứ mệnh En Amor
Mayor - Sứ mệnh Công bằng xã hội; Sứ mệnh Nhà ở; Sứ mệnh Tất cả vì cuộc sống
ở Venezuela; Sứ mệnh Ngôi nhà Tổ quốc… [159].
* Về đối ngoại, quốc phòng, an ninh
Một là, về đối ngoại, để đấu tranh bảo vệ ĐLDT có hiệu quả, bên cạnh
việc ưu tiên ổn định chính trị theo hướng thúc đẩy tự do, dân chủ, tập trung phục
hồi và phát triển kinh tế, giải quyết vấn đề bức xúc trong xã hội như bất bình
đẳng, nghèo đói, thất nghiệp, tham nhũng, nâng cao đời sống người lao động,
Chính quyền Tổng thống Chavez chủ trương thực hiện một chính sách đối ngoại
đa phương, rộng mở nhằm phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường vai trò của
Venezuela trong khu vực và quốc tế.
Chính quyền Tổng thống Chavez đã xác định phần lớn các nước Mỹ Latinh
đều có chung truyền thống, điều kiện lịch sử, quan điểm chính trị, nền tảng kinh tế
nên cần phải liên kết hoặc hợp nhất để tăng thêm sức mạnh, thúc đẩy khối đoàn kết
82
Mỹ Latinh và thắt chặt quan hệ với các nước trong khu vực. Venezuela là quốc gia
khởi xướng hoặc giữ vai trò cơ bản trong việc thành lập, phát triển nhiều tổ chức
hợp tác chặt chẽ ở Mỹ Latinh: Sự lựa chọn Bolivar cho châu Mỹ (ALBA), Liên hiệp
Các quốc gia Nam Mỹ (UNASUR), Hệ thống Truyền hình phương Nam
(TELESUR), Hệ thống Ngân hàng phương Nam (BANKSUR)... và gần nhất là
Cộng đồng Các quốc gia Mỹ Latinh và Caribbean (CELAC).
Venezuela tăng cường liên kết và phát triển với lực lượng cánh tả, XHCN và
những phong trào tiến bộ trên thế giới, sự tăng cường liên kết và phát triển này sẽ
lấy hợp tác, hỗ trợ thay thế cho cạnh tranh; lấy hội nhập, tương trợ thay cho chèn
ép, bóc lột và cùng đấu tranh cho một thế giới đa cực, dân chủ, bình đẳng, cùng phát
triển... Venezuela luôn xác định mình là một thành viên nòng cốt và tích cực của
phong trào cách mạng, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Venezuela tiếp tục duy trì quan hệ ổn định với các cường quốc. Trong sự
phát triển của lực lượng cánh tả, trong những chuyển biến và phát triển quan hệ đối
ngoại, Venezuela vẫn duy trì quan hệ tương đối ổn định với các cường quốc là đồng
minh, bạn hàng cũ. Điều này thể hiện sự khác biệt so với quan hệ đối ngoại của các
chính phủ thiên tả trên thế giới trước kia: thường khi lực lượng thiên tả lên nắm
quyền thì ngay tiếp đó là một giai đoạn đóng băng quan hệ với các cường quốc bị
coi là “đế quốc”. Thông lệ ấy đã không diễn ra với Chính phủ cánh tả tại Venezuela,
sự mềm dẻo, linh hoạt về đối ngoại, ý thức về lợi ích quốc gia dân tộc và sự ràng
buộc đa chiều về lợi ích trong bối cảnh toàn cầu hóa đã khiến cho tư duy kinh tế,
chính trị của họ tìm được những giải pháp phù hợp.
Hai là, về quốc phòng, an ninh, để bảo vệ cách mạng, bảo vệ chủ quyền quốc
gia, Tổng thống Chavez đã chủ trương phát triển một học thuyết quân sự mới, dựa
trên học thuyết chiến tranh nhân dân, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của khối liên
minh giữa quân đội và các lực lượng dân sự có vũ trang, quân đội ngoài nhiệm vụ quốc
phòng, có trách nhiệm tham gia phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương mình đóng
quân. Nhân dân, ngoài nghĩa vụ công dân trong xây dựng và phát triển đất nước, trong
những trường hợp cần thiết, có thể được huy động tham gia, phối hợp với quân đội
trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Chủ trương mua sắm thiết bị mới
83
và tăng ngân sách quốc phòng đáng kể nhất tại Mỹ Latinh. Venezuela ký nhiều hiệp
định chiến lược với nhiều quốc gia trong khu vực. Đặc biệt là Hiệp định hợp tác về
kinh tế và quân sự với Brasil, tạo nên một trục địa chính trị mới, chiến lược cho khu
vực. Mục tiêu Tổng thống Chavez đưa ra là: Ngăn chặn Mỹ thiết lập căn cứ quân sự tại
biên giới Venezuela “bằng bất kỳ giá nào” [137, Tr.33].
3.2. QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CÁC CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP ĐẤU
TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ KẾT QUẢ
3.2.1. Nội dung triển khai trên lĩnh vực chính trị
Đấu tranh với phe đối lập: Từ năm 1999, Tổng thống Hugo Chavez đã được sự
ủng hộ công khai của nhiều lực lượng, đảng phái, tổ chức chính trị ở Venezuela.
Những bài học đắt giá từ việc xây dựng đất nước theo mô hình chủ nghĩa tự do mới, đã
làm tỉnh ngộ các nhà cầm quyền Venezuela: phải đặt trọng tâm phát triển đất nước theo
con đường bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. Nhằm tiến tới xây dựng một nền dân
chủ thực sự với sự tham gia tích cực của nhân dân vào đời sống chính trị, kinh tế và xã
hội của đất nước, Chính phủ Venezuela đã chú trọng đến quyền tham chính của thổ
dân, quyền bầu cử và tham gia trưng cầu dân ý của nhân dân.
Không thể đảo chính Tổng thống Chavez bằng quân sự, phe đối lập đã
chuyển sang mục tiêu lật đổ Tổng thống thông qua trưng cầu dân ý. Theo luật định,
phe đối lập hoặc phía chính phủ nếu có được 20% chữ ký của cử tri thì có thể tổ
chức trưng cầu dân ý phế truất tổng thống hoặc bất cứ nghị sĩ quốc hội nào. Chiến
dịch thu thập chữ ký cho một cuộc trưng cầu dân ý đã được phe đối lập tiến hành
vào cuối năm 2003, phe đối lập đã có đủ số chữ ký theo luật định và tiến hành trưng
cầu dân ý phế truất tổng thống và 35 nghị sĩ của liên minh cầm quyền.
Đây là cuộc trưng cầu dân ý bãi nhiệm tổng thống đầu tiên trong lịch sử
Venezuela, nó được xem như là một giải pháp nhằm chấm dứt những xung đột, sự
bất ổn giữa Chính quyền Tổng thống Chavez - người theo đường lối cải cách, muốn
chia đều nguồn lợi của đất nước cho nhân dân với các lực lượng đối lập thuộc tầng
lớp trung lưu giàu có đại diện cho mô hình kinh tế - xã hội theo kiểu chủ nghĩa tự
do mới. Với cuộc trưng cầu dân ý này, người dân Venezuela đều muốn tự tay bỏ lá
phiếu quyết định của mình. Lá phiếu của họ không chỉ quyết định vận mệnh chính
84
trị của một vị tổng thống, mà còn quyết định đường lối phát triển của một đất nước
trong tương lai.
Ngày 15/08/2004, cuộc trưng cầu dân ý tại Venezuela đã được tiến hành với
kết quả cuối cùng là sự ủng hộ của người dân đối với đương kim Tổng thống,
nhưng ngọn lửa vẫn còn âm ỉ khi phe đối lập yêu cầu kiểm lại phiếu và không chấp
nhận kết quả bầu cử. Trước tình hình đó, tổng thống Chavez kêu gọi những người
đối lập ôn hòa tham gia đối thoại thẳng thắn với Chính phủ vì một sự ổn định là rất
cần thiết cho Venezuela lúc này và nó chỉ có được khi có sự hòa giải giữa phe đối
lập và Tổng thống.
Thắng lợi của cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý lần này có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, không chỉ đối với cách mạng Venezuela mà còn đối với cả phong trào
cánh tả Mỹ Latinh. Thắng lợi của Tổng thống Chavez là một bước tiến nhảy vọt về
chất trong quá trình phát triển của Venezuela vì nhân dân. Trong cuộc đảo chính
năm 2003, nhân dân Venezuela đã vùng dậy đấu tranh một cách tự phát để đưa ông
Chavez trở lại cầm quyền. Nhưng có thể nói rằng, nhờ tác động của các chương
trình xã hội của Chính phủ nên trong cuộc trưng cầu dân ý lần này, nhân dân đã
tham gia một cách tự giác trong việc ủng hộ ông Chavez. Vị thế của cuộc cách
mạng Bolivar đã lớn mạnh hơn nhiều ở chính trường trong nước, điều này còn quan
trọng hơn nhiều thắng lợi của cá nhân Tổng thống Chavez vì nó đã khẳng định xu
hướng và con đường cách mạng của Venezuela. Thắng lợi lần này giúp tổng thống
Chavez có thêm thẩm quyền và thời gian để đẩy mạnh các chương trình cải cách
các lĩnh vực của đất nước trong khuôn khổ của cuộc cách mạng Bolivar. Ở vị thế
vững chắc và hợp pháp hơn, tổng thống Chavez và Chính phủ Venezuela có thể xúc
tiến mạnh mẽ những kế hoạch liên kết Mỹ Latinh và Caribbean. Thắng lợi này cũng
là nguồn cổ vũ, động viên cho cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trong khu vực
vì ĐLDT thực sự, chống lại chủ nghĩa tự do mới.
Sự ủng hộ của nhân dân đối với Chính quyền Tổng thống Chavez càng được
khẳng định khi ngày 31/10/2004, cử tri Venezuela đã đi bỏ phiếu bầu 22 thống đốc
bang, nghị sĩ các bang và thị trưởng các thành phố. Kết quả là Phong trào Nền cộng
hòa thứ năm và các đảng trong liên minh cầm quyền đã dành thắng lợi tại 20 bang,
85
kể cả ở thủ đô trong khi phe đối lập chỉ giành thắng lợi tại 2 bang. Cùng với thắng
lợi trong việc trưng cầu dân ý, chiến thắng áp đảo trong cuộc bầu cử địa phương cho
thấy Chính quyền Tổng thống Chavez ngày càng lớn mạnh và nhận được sự ủng hộ
rộng rãi của nhân dân bất chấp sự chống phá quyết liệt của phe đối lập được các thế
lực cực hữu khu vực ủng hộ và giúp đỡ.
Ngày 27/09/2010, Ủy ban bầu cử quốc gia Venezuela đã công bố kết quả sơ
bộ cuộc bầu cử Quốc hội diễn ra một ngày trước đó. Kết quả cho thấy, PSUV đã
thắng lợi khi đã giành được 95 ghế trên tổng số 165 ghế của cơ quan lập pháp. Liên
minh đối lập Tập hợp Đoàn kết dân chủ (MUD) về thứ hai với 59 ghế nghị sỹ, Đảng
Tổ quốc cho mọi người giành được 2 ghế, và 2 ghế giành cho các đại diện cộng
đồng thổ dân [117].
Chiến thắng của PSUV khẳng định những gì Tổng thống Chavez làm đã
chiếm được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng, thế mạnh lớn nhất của PSUV là
thành quả xã hội trong nhiều năm, đã cải thiện một phần điều kiện vật chất, tinh
thần của người lao động, làm họ cảm thấy được làm người, được quan tâm, giúp
đỡ, được sở hữu ruộng đất, vay vốn làm ăn, biết đọc, biết viết, biết thế nào là
chăm sóc y tế.
Xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”: Từ năm 2005, sau 6 năm cầm
quyền đầy sóng gió, Tổng thống Chavez đã kết luận và công khai tuyên bố, khẳng
định mục tiêu của cuộc Cách mạng Bolivar ở Venezuela là đưa đất nước đi lên
“Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” và tuyên bố tính chất XHCN của cuộc Cách mạng
Bolivar với mô hình CNXH Venezuela là hướng tới một xã hội bình đẳng, công
bằng, một xã hội hoà bình, hoà bình với chính mình và hoà bình với các dân tộc trên
trái đất, một xã hội, nơi mọi người đều được quan tâm, không còn đói nghèo, mọi
người đều được sống một cách xứng đáng. Nội dung cơ bản và phương thức xây
dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” như sau:
Về nền tảng tư tưởng: “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” là sự kết hợp giữa tư
tưởng tiến bộ của Bolivar (với 7 nội dung chính: ĐLDT, quyền tự chủ của nhân
dân, công bằng xã hội, giáo dục cho toàn dân, chống tham nhũng, chống chủ nghĩa
quân phiệt, và liên kết Mỹ Latinh) [xem phụ lục 1]. Chủ nghĩa Mác (chủ yếu là
86
thông qua việc học tập kinh nghiệm của các nước XHCN đang trong thời kỳ cải
cách, đổi mới, đặc biệt là về biện pháp, nhưng không sao chép, giáo điều đối với lý
luận của mô hình). Tư tưởng nhân đạo thiên chúa giáo (là những tư tưởng về giải
phóng người nghèo, xây dựng xã hội bình đẳng, bác ái), trên cơ sở những đặc điểm
riêng của Venezuela và Mỹ Latinh.
Về chính trị: Chính quyền mới được chuyển giao quyền lực hoàn toàn
thông qua bầu cử dân chủ; nhà nước tư sản dần bị gỡ bỏ quyền lực bằng các biện
pháp hiến định; Xây dựng và phát triển nền dân chủ tham gia; Liên minh, thống
nhất giữa cánh tả với ĐCS cùng những phong trào, tổ chức chính trị - xã hội tiến
bộ; Chủ trương phân phối công bằng của cải xã hội, giải quyết vấn đề bất bình
đẳng và phân hóa xã hội.
Về kinh tế: Xác lập mô hình kinh tế mới được hoạch định trên cơ sở chú trọng
sự phát triển nền kinh tế đa dạng và bền vững, có hiệu quả, có khả năng đảm bảo việc
tạo ra nguồn của cải vật chất cũng như việc phân phối công bằng cho toàn dân, kết
hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Thực hiện đa dạng các loại hình sở hữu,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và đồng thời là lực lượng vật chất quan
trọng và công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, nhấn mạnh
việc giành lại chủ quyền quốc gia - dân tộc đối với tài nguyên thiên nhiên. Nhà nước
can thiệp mạnh vào cơ chế kinh tế thị trường; Tiến hành quốc hữu hóa những ngành
kinh tế quan trọng, chú trọng vấn đề sở hữu và cải cách ruộng đất; Thực hiện chính
sách độc lập với các tổ chức tài chính thế giới do Mỹ thao túng.
Về văn hóa, xã hội: Chủ trương phân phối công bằng của cải xã hội để từng
bước hạn chế, loại bỏ được vấn đề bất bình đẳng, sự phân hóa xã hội và phân biệt
giai cấp sâu sắc trước đây, vấn đề nghèo đói, thất nghiệp, nhà ở, nhà nước chú
trọng đầu tư cho giáo dục để mọi người đều được đến trường, được hưởng các
dịch vụ y tế, xã hội, bảo hiểm xã hội và dịch vụ công cộng. Cộng đồng người
nghèo, người thất nghiệp được cảm thấy làm người, được cống hiến và được cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần.
Về đối ngoại: Tăng cường liên kết và phát triển với lực lượng cánh tả,
XHCN và những phong trào tiến bộ trên khắp thế giới, lấy hợp tác, hỗ trợ thay thế
87
cho cạnh tranh. Lấy hội nhập, tương trợ thay cho chèn ép, bóc lột và cùng đấu
tranh cho một thế giới đa cực, dân chủ, bình đẳng, cùng phát triển...; Thúc đẩy
khối đoàn kết Mỹ Latinh và thắt chặt quan hệ với các nước trong khu vực; Thoát
khỏi ảnh hưởng, chi phối bởi các cường quốc, các tổ chức quốc tế lớn và khẳng
định vị thế, vai trò độc lập, tích cực của mình trong khu vực và trên thế giới.
Tuy khởi xướng và triển khai từ năm 2005, nhưng mô hình “Chủ nghĩa xã
hội thế kỷ XXI” tại Venezuela đã đạt được những thành quả đáng kể.
Về chính trị, đã thực hiện hoàn tất việc tạo dựng mọi cấp chính quyền bằng
hình thức bầu cử dân chủ và phổ thông. Loại bỏ một phần hoặc hoàn toàn những
thiết chế, biểu hiện phi dân chủ trong mô hình chính quyền cũ. Từng bước xây dựng
và áp dụng được nền dân chủ tham gia. Đẩy mạnh hình thức dân chủ rất quan trọng
là việc trưng cầu ý dân đối với sự lãnh đạo của các cá nhân và thiết chế cao cấp.
Thống nhất được về cơ bản các lực lượng cánh tả, XHCN và tiến bộ trong một tổ chức,
liên minh cầm quyền là PSUV. Về kinh tế, bước đầu đã xác lập được mô hình kinh tế
XHCN và đa dạng hóa các loại hình sở hữu. Thực hiện khá hiệu quả việc can thiệp của
nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Thực hiện quốc hữu hóa triệt để những ngành,
những tập đoàn kinh tế quan trọng. Bước đầu đã chuyển giao được ruộng đất từ giới
địa chủ sang cho nông dân nghèo sở hữu và canh tác. Mở rộng thị trường xuất khẩu
dầu mỏ. Trả hết được các khoản nợ tài chính cơ bản của quốc gia. Về xã hội, đã từng
bước hạn chế, loại bỏ được sự phân hóa xã hội, phân hóa giàu nghèo và phân biệt giai
cấp sâu sắc trước đây. Nhà nước đãchú trọng đầu tư cho giáo dục, nâng cao chất lượng
y tế, bảo hiểm xã hội và dịch vụ công cộng. Cộng đồng người nghèo, người thất nghiệp
đã được nhà nước hỗ trợ một phần hoặc toàn phần. Về đối ngoại, tăng cường và mở
rộng liên kết với các lực lượng cánh tả, phong trào tiến bộ trên thế giới. Thiết lập quan
hệ chặt chẽ với các nước trong khu vực Mỹ Latinh và các nước XHCN. Duy trì được
quan hệ ổn định với các cường quốc, dần thoát khỏi sự chi phối của Mỹ và các tổ chức
quốc tế lớn do Mỹ thao túng. Khẳng định được vai trò, vị thế của Venezuela trong khu
vực và trên thế giới - cao hơn nhiều so với trước năm 1998.
Xây dựng nền dân chủ và cải cách Hiến pháp: Trong cuốn sách El Libro
Anzul, Tổng thống Chavez đề cập: Đó chính là nền dân chủ đích thực mà các thiết
88
chế và các phương thức điều hành đang làm thay đổi những giá trị bị mai một và
tình trạng lạc hậu mà những chính phủ dân túy trước kia đã đem lại dân chủ tới Mỹ
Latinh. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân là khẩu hiệu hoàn hảo để vạch ra tiến
trình dân chủ hướng tới xã hội với bao mục tiêu đặt ra trong tương lai. Dự án Quốc
gia Simon Bolivar cần phải phá vỡ những giới hạn của dân chủ đại diện để tiến lên
chinh phục những giá trị đích thực của nền dân chủ có sự tham gia của quần chúng
trong giai đoạn đầu phát triển [15].
Theo Điều 2 Hiến pháp Venezuela chỉ rõ: Venezuela tạo thành một Nhà
nước dân chủ và xã hội trên cơ sở Luật và Tư pháp, coi các quyền sống, quyền tự
do, công bằng, bình đẳng, đoàn kết, dân chủ, trách nhiệm xã hội, trên hết là nhân
quyền, đạo đức và đa nguyên chính trị như các giá trị cao của pháp luật và hành
động pháp luật [158].
Trên thực tế, ở Venezuela vẫn song song tồn tại hai loại hình dân chủ, dân
chủ đại diện và dân chủ tham gia. Dân chủ đại diện vẫn tiếp tục đóng vai trò
quan trọng, trong khi dân chủ tham gia ngày càng được thúc đẩy và có vị trí
trong đời sống xã hội đất nước. Dân chủ tham gia bổ sung cho dân chủ đại diện
và làm cho hoạt động của dân chủ đại diện có hiệu quả hơn thông qua một loạt
các thể chế mới cho phép người dân có thể tham gia vào các quyết định quan
trọng của đất nước, đồng thời có thể kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ
quan công quyền. Nhiều hình thức dân chủ tham gia đã được áp dụng và bước
đầu đem lại kết quả tích cực.
Các hình thức trưng cầu dân ý về việc phế truất mang tính bắt buộc đối với
các chức vụ chủ chốt của quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp vào giữa nhiệm kỳ
là một ví dụ điển hình về chế độ dân chủ tham gia ở Venezuela. Luật pháp
Venezuela quy định, sau một nửa nhiệm kỳ, các lực lượng chính trị có thể yêu cầu
tiến hành trưng cầu dân ý phế truất bất cứ chức vụ chủ chốt nào của nhà nước nếu
thu nhập đủ số chữ ký cử tri cần thiết theo luật định.
Một hình thức dân chủ tham gia khác nữa được Hiến pháp quy định là các công
dân, thông qua sáng kiến của mình, có thể tổ chức lấy chữ ký cử tri về một dự luật do họ
soạn thảo, trình Quốc hội xem xét thông qua, Quốc hội có trách nhiệm bắt buộc phải
89
xem xét, bỏ phiếu về các dự luật này. Nói cách khác, các đề xuất của lập pháp không còn
là quyền của riêng Quốc hội mà thuộc về nhân dân, thông qua tổ chức của mình, có thể
thúc đẩy các luật mà họ coi là cần thiết cho đất nước và cho lợi ích của họ.
Để phát huy quyền dân chủ tham gia và có thể trực tiếp nghe ý kiến phản hồi
của nhân dân đối với các chính sách, Chính phủ đã lập kênh đối thoại trực tiếp giữa
nhân dân với Tổng thống thông qua Chương trình “Alo Presidente”. Đây là chương
trình truyền hình phát mỗi tuần một lần, Tổng thống đối thoại trực tiếp với nhân
dân; trả lời tất cả những thắc mắc, giải đáp mọi kiến nghị của nhân dân, tiếp nhận
những đề nghị của nhân dân và cũng là diễn đàn để Chính phủ bày tỏ chính kiến,
quan điểm chính trị, tư tưởng và chỉ đạo các chương trình đang tiến hành.
Về chính sách nhân dân, Venezuela chủ trương song song với hệ thống chính
quyền hiện tại, tức là hệ thống hành chính từ Chính phủ đến chính quyền các bang,
các thành phố, quận huyện, xây dựng một hệ thống chính quyền nhân dân tương
ứng. Mục tiêu của hệ thống chính quyền nhân dân là thiết lập một hệ thống quản lý
đảm bảo để nhân dân thực sự là chủ nhân của đất nước, thực sự được tham gia vào
việc quản lý, điều hành và giám sát các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội; trực tiếp
quyết định hướng đi, tương lai phát triển của địa phương mình.
Về vấn đề cải cách Hiến pháp năm 1999, để có cơ sở pháp lý cho việc thúc
đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT và thực hiện mục tiêu xây dựng “Chủ
nghĩa xã hội thế kỷ XXI”, Chính quyền Tổng thống Chavez đã đi tiếp một bước
quan trọng: Ngày 15/08/2007, Tổng thống Chavez đã đề xuất một tu chính án đối
với 33 điều khoản (trong tổng số 69 Tu chính án) trong 350 điều khoản của Hiến
pháp. Các thay đổi theo đề xuất bao gồm:
- Xóa bỏ giới hạn nhiệm kỳ tổng thống, cho phép tổng thống tái đắc cử vô
hạn định nhưng không cho phép đối với các chức vụ chính trị khác.
- Tăng thời gian trong một nhiệm kỳ tổng thống từ 6 lên 7 năm.
- Tổ chức lại các quận hành chính của quốc gia và cho phép tổng thống lựa
chọn các lãnh đạo tỉnh và thành phố.
- Cho phép tổng thống tuyên bố tình trạng khẩn cấp vô hạn.
- Cấm sở hữu bất động sản đất đai lớn nhưng lại "cho nhà nước quyền tạm
chiếm tài sản sung công trước khi một phiên tòa đưa ra phán quyết".
90
- Cấm nước ngoài cung cấp ngân quỹ cho các hiệp hội chính trị.
- Chấm dứt quyền tự trị của ngân hàng trung ương, giao quyền kiểm soát cho
tổng thống, và giao cho tổng thống quản lý dự trữ ngoại hối.
- Giảm giờ làm việc tối đa mỗi tuần từ 44 xuống 36 tiếng và giảm ngày làm
việc mỗi ngày từ 8 tiếng xuống 6 tiếng.
- Hạ tuổi bầu cử từ 18 xuống 16.
- Mở rộng an sinh xã hội cho công nhân trong nền kinh tế không chính thức [140].
Với kết quả trưng cầu dân ý là 49% ủng hộ đề xuất cải cách Hiến pháp, có
nghĩa là đề xuất cải cách Hiến pháp của Tổng thống Chavez đã không được thông qua.
Theo Hiến pháp Venezuela 1999, Tổng thống Chavez sẽ không được tiếp tục tham gia
ứng cử trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm 2012. Tuy nhiên, ở những năm tiếp theo,
tận dụng vào những thời cơ, điều kiện khách quan và chủ quan, Chính quyền Tổng
thổng Chavez đã tiếp tục tổ chức trưng cầu dân ý về cải cách Hiến pháp.
Với kết quả chung cuộc, phần thắng lợi đã thuộc về Tổng thống Chavez và
những người ủng hộ phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cánh tả ở
Venezuela. Như vậy, cuộc mở đường lần thứ hai để cho ông Chavez tiếp tục ra
tranh cử Tổng thống và sửa đổi Hiến pháp đã thắng lợi.
Xây dựng Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Venezuela (PSUV): Một vấn đề
được Tổng thống Chavez đặc biệt quan tâm đó là xây dựng một chính đảng cách
mạng có đủ sức tiếp tục lãnh đạo công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT. Việc thành lập
một chính đảng cách mạng cũng sẽ giúp loại bỏ những bất đồng, mâu thuẫn nội bộ
để hợp nhất các lực lượng thành một khối thống nhất dưới sự lãnh đạo của Tổng
thống Chavez nhằm hoàn thành mục tiêu cuộc Cách mạng Boliviar.
Quá trình thành lập PSUV được triển khai khá kỹ lưỡng. Từ tháng 03 đến
tháng 06/2007, Ủy ban Xúc tiến thành lập Đảng đi đến các cơ sở như khu dân cư,
nhà máy, nông thôn, trường học, công sở, lập danh sách những người sẵn sàng gia
nhập Đảng và tổ chức họ thành các nhóm XHCN. Tháng 07/2007, các nhóm này đã
tổ chức hội nghị bầu đại biểu đi dự Đại hội thành lập Đảng. Trải qua 06 hội nghị với
hơn 2 tháng, sự thành lập PSUV đã phản ánh tính chất phức tạp và tính chiến đấu
của các cuộc thảo luận. Đồng thời, cũng báo hiệu đặc điểm mới trong sinh hoạt của
91
đảng, hệ thống chính trị nói chung trong thế giới hiện đại. PSUV đã xác định là một
chính đảng XHCN, theo chủ nghĩa Bolivar, chống CNTB, chống CNĐQ, vì lợi ích
của giai cấp lao động và dân tộc. Đảng cũng khẳng định bản chất nhân văn, quốc tế
chủ nghĩa, thống nhất, rèn luyện theo đạo đức cách mạng, phê bình và tự phê bình,
áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ. Dự thảo Cương lĩnh cũng công khai tuyên bố
đấu tranh xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (TLSX) và thẳng thắn phê phán
tính không hiệu quả của cơ quan quyền lực công, chủ nghĩa quan liêu, sự tham gia
hạn chế của nhân dân vào quản lý xã hội và giám sát Chính phủ, tệ nạn tham nhũng,
sự xa cách giữa nhân dân với chính quyền sẽ đe dọa vận mệnh của sự nghiệp cách
mạng. Đại hội và Dự thảo Cương lĩnh cũng xác định nền tảng tư tưởng và kim chỉ
Nam cho hoạt động của PSUV là tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin và
Simon Bolivar [110].
Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Venezuela được thành lập tháng 03/2008,
chủ yếu dựa trên cơ sở Đảng Phong trào Nền cộng hòa thứ năm. Tuy Đảng Phong
trào Nền cộng hòa thứ năm tuyên bố tự giải tán nhưng trên thực tế cơ cấu tổ chức
của Đảng vẫn giữ nguyên, đặc biệt là các tổ chức cơ sở. Đại hội thành lập PSUV
khai mạc ngày 12/01/2008 với sự tham gia của 1681 đại biểu, thông qua 6 phiên
họp. Phiên thứ nhất thảo luận về dự thảo Tuyên bố Nguyên tắc của Đảng; Phiên
thứ hai thảo luận dự thảo Cương lĩnh của Đảng; Phiên thứ ba thảo luận và ra
Tuyên bố Bolivar; Phiên thứ tư bầu 07 Ủy ban theo dõi các lĩnh vực khác nhau
của đời sống kinh tế - xã hội quốc gia; Phiên thứ năm bầu Chủ tịch Đảng và
quyết định Đại hội toàn quốc là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng; Phiên thứ
sáu thảo luận về dự thảo Điều lệ Đảng, Đại hội bế mạc ngày 09/03/2008 với việc
bầu 15 ủy viên chính thức và 15 ủy viên dự khuyết Ban Lãnh đạo Đảng.
Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Venezuela là một đảng dân chủ, lãnh đạo
Đảng do đảng viên bầu trực tiếp. Nền tảng tư tưởng của Đảng là sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Boliviar, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng nhân đạo Thiên chúa giáo, yếu
tố thổ dân trên cơ sở đặc điểm riêng của Venezuela và Mỹ Latinh. Do vậy, có thể
nói Đảng XHCN Thống nhất là một đảng cách mạng, có tính đại diện cho lợi ích
của các tầng lớp nhân dân lao động và toàn dân tộc Venezuela; đảng viên của Đảng
92
thuộc mọi tầng lớp xã hội. Đảng XHCN Thống nhất sẽ không chỉ là bộ máy vận
động tranh cử như Đảng Phong trào Nền cộng hòa thứ năm trước đây, mà nó còn
đảm nhiệm chức năng lãnh đạo toàn diện xã hội về chính trị, tư tưởng, tổ chức, kinh
tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Sự thành lập một đảng cánh tả lấy tôn chỉ XHCN làm tên của mình, coi ĐCS
như một thành tố hữu cơ của tổ chức và xây dựng Cương lĩnh mới trên cơ sở lý luận
là chủ nghĩa Mác... đã tạo cơ sở chính trị, xã hội cho quá trình hiện thực hóa “Chủ
nghĩa xã hội thế kỷ XXI” tại Venezuela. Như nhận định của một đại biểu tham gia
Đại hội PSUV, sự kiện đó đã làm hồi sinh hy vọng về CNXH trong khu vực Mỹ
Latinh chất chứa đầy tiềm năng cách mạng và đấu tranh chống đế quốc [110].
Các đảng viên của PSUV cần thực hiện đầy đủ các nguyên tắc về hoạt động
và cơ cấu tổ chức một cách thường xuyên, tuân theo khẩu hiệu: Xã hội Tổ quốc hay
là chết... chúng ta sẽ chiến thắng. Theo đó, đảng viên của PSUV cần có những phẩm
chất sau: tinh thần Bolivar, XHCN và chủ nghĩa Mác, nhân văn, yêu nước, đoàn kết,
chống TBCN, chống đế quốc, đạo đức và đạo đức cách mạng, bảo vệ Mẹ trái đất,
cam kết lợi ích của giai cấp công nhân (GCCN) và nhân dân, chống tham nhũng,
bình đẳng và bình đẳng giới, bảo vệ quyền của người khuyết tật, bảo vệ nền dân
chủ, là đội tiên phong chính trị của quá trình cách mạng, sáng tạo, bảo vệ và phát
huy sức mạnh quần chúng nhân dân, giữ vững nội bộ, bình đẳng trong tổ chức, phê
bình và tự phê bình, tôn trọng các nguyên tắc tập trung dân chủ và sự lãnh đạo tập
thể, thực thi dân chủ trong nội bộ đảng, bảo đảm kỷ luật [161].
Cương lĩnh của Đảng chỉ rõ: Đảng là công cụ để hoạch định mục tiêu, hình
thức và phương pháp tiến hành cách mạng, thể hiện thông qua các khẩu hiệu đấu
tranh trong suốt quá trình quá độ lên “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”. Các khẩu hiệu
này cần phù hợp với hoàn cảnh thực tế của mỗi thời kỳ, không chỉ có một Cương
lĩnh duy nhất và một khẩu hiệu chung cho suốt thời kỳ quá độ, áp dụng cho mọi
chỗ, mọi nơi và bất cứ hoàn cảnh nào.
Để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, PSUV nhấn mạnh cần phải trao
chính quyền cho người lao động, tức là phải xây dựng một chính quyền nhân dân,
trong đó người lao động, công nhân, nông dân, trí thức là những người trực tiếp
93
tham gia điều hành đất nước, nhân dân có quyền tham gia vào những quyết định
liên quan tới lợi ích quốc gia, thông qua các cơ chế dân chủ tham gia như được đề
xuất trưng cầu dân ý phế truất đối với các quan chức chính phủ, quyền đề xuất luật
và dự luật, buộc Quốc hội phải thảo luận và bỏ phiếu.
Cương lĩnh đưa ra mô hình kinh tế kế hoạch hóa dân chủ, với mục tiêu thỏa
mãn nhu cầu của tất cả mọi người dân. Đây là một vấn đề còn gây nhiều tranh luận
vì nội dung của mô hình này chưa cụ thể, thậm chí không ít đảng viên lo ngại rằng
nếu không cẩn thận sẽ rơi vào tình trạng của các nước XHCN ở Đông Âu trước đây.
PSUV chủ trương xây dựng một mô hình phát triển bền vững, phát triển đi đôi với
giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đảng nhấn mạnh cần xây dựng
kế hoạch sản xuất để vừa đảm bảo phát triển, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của
cộng đồng, đồng thời vừa đáp ứng được những đòi hỏi về môi trường sinh thái.
Để bảo vệ cách mạng, bảo vệ chủ quyền quốc gia, trong lĩnh vực an ninh,
quốc phòng, Đảng chủ trương phát triển một học thuyết quân sự mới dựa trên học
thuyết chiến tranh nhân dân, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của khối liên minh
giữa quân đội và các lực lượng dân sự có vũ trang. Quân đội ngoài nhiệm vụ quốc
phòng, có trách nhiệm tham gia phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương mình đóng
quân. Nhân dân ngoài nghĩa vụ công dân trong xây dựng và phát triển đất nước,
trong những trường hợp cần thiết, có thể được huy động tham gia, phối hợp với
quân đội trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, quốc phòng.
Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Venezuela nhấn mạnh tầm quan trọng sống
còn của khối liên kết khu vực và sự ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp cách mạng
Venezuela và cho rằng các mục tiêu của cách mạng chỉ có thể đạt được một khi các
dân tộc Mỹ Latinh đoàn kết nhau lại trong cuộc đấu tranh giải phóng xã hội. Chỉ có
khối đoàn kết mới có thể giúp nhân dân các nước Mỹ Latinh tìm ra được một giải pháp
khả thi, thay thế cho mô hình tự do mới đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng.
Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Venezuela tuy đã được thành lập nhưng rõ
ràng vẫn còn nhiều việc phải làm: từ việc hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối, mục tiêu
chiến lược đến những vấn đề công tác tổ chức của Đảng. Điều này cho thấy để có
một chính đảng cách mạng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức
94
tiếp tục sự nghiệp cách mạng, lực lượng cánh tả Venezuela nói riêng và ở Mỹ Latinh
nói chung cần tăng cường khối đoàn kết, đồng thời thống nhất với nhau về quan
điểm, nguyên tắc tổ chức xây dựng một chính đảng thật sự cách mạng chân chính.
3.2.2. Nội dung triển khai trên lĩnh vực kinh tế
Là quốc gia có trữ lượng dầu mỏ lớn trên thế giới, nhưng việc khai thác này
chủ yếu do các công ty nước ngoài thực hiện. Ngày 15/04/2006 Quốc hội Venezuela
đã thông qua dự luật về thuế tài nguyên, theo đó các công ty dầu mỏ nước ngoài
hoạt động tại Venezuela phải chịu mức thuế mới là 33,3% so với 16,6% trước đây.
Ngày 15/04/2008, Venezuela tăng mức thuế thu nhập đối với các dự án khai thác
dầu mở tại lưu vực sông Orinoco từ 34% lên 50%. Hai mức thuế mới bổ sung cho
ngân sách Nhà nước thêm 9 tỷ USD/năm [125, tr.49]. Đây là một bước đột phá
mạnh mẽ trong chiến lược dầu mỏ của Venezuela do Tổng thống Hugo Chavez
đứng đầu nhằm cân bằng các lợi nhuận mà các công ty dầu mỏ tư nhân và nước
ngoài đã thu được trong thời gian trước đó. Mức thuế mới mà Quốc hội
Venezuela thông qua chủ yếu ảnh hưởng lớn tới các công ty nước ngoài khai
thác dầu thô nặng trên lưu vực sông Orinoco như Exxon Mobil Corp, Chevron,
ConocoPhilips, Total SA… Các công ty tư nhân ở Venezuela hoạt động trong
những dự án chung với chính phủ, đã đóng mức thuế 33,3% từ trước nên họ
không phải đóng thêm thuế. Cộng vào đó là kế hoạch chấm dứt việc quản lý của
nước ngoài đối với các xí nghiệp khai thác dầu ở khu vực sông Orinoco, nơi các
hãng độc quyền Chevron và Texas của Mỹ, Total của Pháp, BP của Anh sẽ mất
quyền sở hữu. Venezuela đã giành lại quyền điều hành và sở hữu bốn nhà máy
lọc dầu ở khu Orinoco. Đây là một bước quan trọng trong kế hoạch quốc hữu hóa
các ngành trọng yếu, đưa Venezuela trở thành nước XHCN. Bốn nhà máy này trị
giá hơn 30 tỷ USD và có thể chế biến 600.000 thùng dầu thô/ngày, chiếm 1/5
tổng sản lượng cả nước. Trước đó các công ty sở hữu chúng gồm
ConocoPhillips, Chevron, Exxon Mobil (Mỹ), BP (Anh), Statoil (Nauy) và Total
(Pháp), đã đồng ý tuân thủ lệnh chuyển giao quyền vận hành lại cho Tập đoàn
Dầu mỏ Quốc gia Venezuela, tập đoàn này chiếm khoảng 60% tổng số vốn kinh
doanh của bốn nhà máy trên [125, tr.49].
95
Quốc hữu hóa những ngành kinh tế quan trọng là nỗ lực nổi bật ở Venezuela.
Có nhiều biện pháp mềm dẻo nhằm giành lại chủ quyền quốc gia về tài nguyên, mà
trước hết là dầu mỏ, đã được thực hiện. Tổng thống Chavez đã đề xuất Quốc hội
ban hành đạo luật mới quy định về vấn đề quốc hữu hóa. Ông coi đây là động lực
của Cách mạng Bolivar: Phải có luật để quốc hữu hoá những gì đã tư nhân hoá. Nó
đã được triển khai đầu tiên trong lĩnh vực quản lý tài nguyên quốc gia. Đạo luật
Hydrocacbon được ban hành năm 2001 có hiệu lực vào năm 2002 đã thay thế luật
Hydrocacbon 1943 và luật Quốc hữu hóa 1975. Đạo luật mới này quy định rằng
mọi hoạt động sản xuất và phân phối đều thuộc về nhà nước, trừ các lĩnh vực kinh
doanh trong sản xuất dầu thô siêu nặng. Dựa trên đạo luật mới này, chính phủ của
tổng thống đã chính thức quốc hữu hóa ngành khai thác dầu mỏ. Nhà nước chiếm
khoảng 2/3 sản lượng dầu mỏ và 1/3 còn lại là của các tập đoàn tư nhân lớn,
nhưng nguồn tài nguyên này được khai thác trong khuôn khổ của các hợp đồng đã
được tái thương lượng, đem lại cho Venezuela doanh thu lớn hơn nhiều so với
trước đây. Tất cả mọi người đều được hưởng lợi từ dầu mỏ là tiêu chí của Chính
quyền Tổng thống Chavez. Nhiều lĩnh vực khác cũng đã được quốc hữu hóa như
sản xuất và phân phối điện năng, viễn thông, luyện kim, sản xuất xi măng và một
số công ty sản xuất lương thực.
Ngay từ lúc còn vận động tranh cử, Tổng thống Chavez đã tuyên bố sẽ cải
cách triệt để Công ty Dầu mỏ Venezuela (PDVSA) nhằm chấm dứt tình trạng quản
lý yếu kém và nạn tham nhũng tại công ty này. Đây là công ty nhà nước đóng góp
tới 80% giá trị xuất khẩu, 40% nguồn thu ngân sách nhà nước và chiếm tới 27%
GDP. Trong những năm đầu khi mới lên nắm chính quyền, với những nỗ lực của
mình, Tổng thống Hugo Chavez đã làm thay đổi đáng kể nền kinh tế của
Venezuela: tăng trưởng GDP đạt 3,7%, so với -6% năm 1999; lạm phát còn 13,4%
giảm gần 7% so với năm 1999, chỉ số thất nghiệp xuống thấp nhất từ năm 1986; cán
cân thanh toán tài khoản vãng lai đạt mức thặng dư cao nhất trong vòng 5 năm và
thâm hụt ngân sách giảm xuống còn 2% [70, tr.47]. Tuy nhiên những cố gắng của
mình cùng với những bộ luật mới ra đời đã ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của
giới chủ, nên gặp phải sự chống đối quyết liệt của phe đối lập.
96
Một số chỉ số kinh tế vĩ mô cho thấy nền kinh tế Venezuela liên tục phát
triển dưới thời Tổng thống Hugo Chavez với tốc độ bình quân hàng năm cao nhất
trong khu vực. Bộ mặt kinh tế - xã hội ngày càng đổi mới. Các số liệu của Ngân
hàng Trung ương Venezuela cho thấy kinh tế có mức tăng trưởng liên tục trong
nhiều năm [xem Phụ lục 7]. Nếu năm 2004, GDP đạt 110 tỷ USD, GDP/người đạt
4.249 USD; năm 2005 tương tự là 132,6 tỷ USD (tăng khoảng 2%) và 5.026 USD
(tăng khoảng 9,3%); năm 2006 là 164,4 tỷ USD (tăng khoảng 2,9%) và 6,099 USD
(tăng khoảng 7,5%). Đó là chưa kể thiếu hụt ngân sách, nợ nhà nước so với GDP
đều giảm, năm 2003, thiếu hụt ngân sách tương đương 5,8%, nợ nhà nước 50,4%,
thì năm 2004 - tương tự - giảm còn 3,6% và 39,6%; năm 2006 còn 0,5% và 32,1%
GDP. Kết dư thanh toán vãng lai và dự trữ ngoại tệ tăng dần. Năm 2003, kết dư
thanh toán vãng lai tương đương 13,7% GDP; dự trữ ngoại tệ tương đương 16,7%
GDP; năm 2004 là 12,5% và 24,2% GDP; năm 2005 là 19,1% và 30,4% GDP; năm
2006 là 17,5% và 35,4% GPD; năm 2007 là 17,6% và 41,2% GDP [98, tr.5]. Bên
cạnh đó các lĩnh vực viễn thông, dịch vụ, thương mại, giao thông vận tải và xây
dựng đã đạt mức tăng trưởng bình quân 9,7%. Ngân hàng trung ương Venezuela
cho biết trong tám tháng đầu năm 2006, kinh tế Venezuela tăng trưởng 9,2%, mức
tăng cao nhất Mỹ Latinh, chủ yếu do thu nhập tăng mạnh từ xuất khẩu dầu mỏ. Có
được thành tựu này là do Chính phủ Venezuela đã rất nỗ lực trong bình ổn tình hình
chính trị vốn có nhiều sóng gió. Từ tháng 01/2008, việc đưa đồng Bolivar mới có
giá trị gấp 1000 lần đồng tiền cũ vào lưu thông cũng góp phần không nhỏ củng cố
chỉ số tăng trưởng kinh tế. Trong thời kỳ kinh tế bùng nổ, nhưng tỉ lệ lạm phát của
Venezuela đã được kìm chế và giảm xuống mức thấp nhất trong vòng gần 20 năm
trở lại. Tuy vẫn là mức cao ở khu vực, trung bình dưới 20% so với trên 50% trước
năm 1999, tỷ lệ lạm phát có xu hướng giảm dần đều. Tuy nhiên chỉ số này tăng trở
lại từ 10,4% vào tháng 6/ 2006 lên 19,4% vào tháng 6/2007 [xem Phụ lục 8].
Các chỉ số phát triển khác cũng rất khả quan. Tỷ lệ thất nghiệp tỷ lệ nghịch
với tốc độ phát triển kinh tế. Tỷ lệ này tăng cao khi kinh tế đi vào đình đốn và suy
thoái: ở mức 18,4% tháng 6/2003. Tỷ lệ này là 15% năm 1999 sau đó đi theo chiều
hướng giảm đến năm 2001 là 13,3%. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội ở
97
Venezuela, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt, cao nhất là năm 2003. Tiếp theo đó, với sự
phục hồi của nền kinh tế, tỷ lệ này giảm xuống nhanh chóng chỉ còn 8,3% năm
2006, năm 2008 là 6,1% đồng thời tăng lương cho người lao động thêm 20%
(khoảng 238 USD/tháng) và giảm giờ làm ngày còn sáu giờ [125, tr.47]. Những chỉ
số cụ thể này đã cho thấy những chủ trương, chính sách kinh tế của Chính quyền
Tổng thống Chavez đã bắt đầu đi đúng hướng.
Ngoài ngành dầu mỏ, ngành trụ cột nhất của đất nước, Venezuela còn tiến
hành quốc hữu hóa các ngành công nghiệp chủ chốt khác là điện nước, mạng lưới
viễn thông, xi măng và luyện kim. Ngày 08/01/2008, Tổng thống Chavez đã công
bố kế hoạch quốc hữu hóa các công ty điện lực tư nhân lớn nhất nước đó là
Electriccidad de Caracas (EDC) - một công ty của Mỹ, nhằm thực hiện chương trình
quốc hữu hóa các ngành kinh tế chủ chốt mà Ông Chavez khởi xướng bằng cách
mua lại gần 93% cổ phiếu của công ty EDC và mất khoảng 850 triệu USD để giành
quyền sở hữu EDC. Cũng tương tự, công ty CANTV, một nhà cung cấp địch vụ
điện thoại cố định chủ chốt của Venezuela, đồng thời chiếm thị phần lớn trong thị
trường điện thoại di động và Internet, cũng đã nhận được lệnh quốc hữu hóa của
chính phủ. Tiếp theo đó, Tổng thống Chavez đã ký sắc lệnh quốc hữu hóa tập đoàn
luyện gang thép lớn nhất đất nước Sidor (60% vốn góp là của Argentina Techint)
vào tháng 05/2008 với cam kết sẽ trả lương cao hơn và tạo điều kiện việc làm tốt
hơn cho công nhân. Chính phủ Venezuela chủ trương giảm xuất khẩu sản phẩm
thiết yếu để tăng cường phục vụ cho nhu cầu trong nước.
Tháng 04/2008, Tổng thống Chavez quyết định quốc hữu hóa ngành sản xuất
xi măng nhằm ngăn chặn các công ty ồ ạt bán vật liệu thô ra nước ngoài trong khi
trong nước đang thiếu hụt trầm trọng. Theo đó, từ tháng 08/2008 nhà nước nắm
quyền kiểm soát 60% cổ phần của ba công ty sản xuất xi măng hàng đầu thế giới
đang hoạt động tại nước này là Cemex (Mexico), Lafarge SA (Pháp), Holcim Ltd
(Thụy Sỹ). Việc Quốc hữu hóa các công ty xi măng là bước khởi đầu triển khai kế
hoạch thành lập một tập đoàn xi măng quốc gia lớn của Chính phủ Venezuela nhằm
kiểm soát giá vật liệu xây dựng, từ đó thúc đẩy kế hoạch xây dựng, giải quyết tình
trạng thiếu nhà ở và phát triển cơ sở hạ tầng đất nước.
98
Chính phủ của Tổng thống Hugo Chavez cũng tăng cường, mở rộng sự kiểm
soát của chính phủ cánh tả đối với lĩnh vực ngân hàng để xây dựng và phát triển hệ
thống tài chính mới. Quốc hội Venezuela ngày 15/12/2009 đã thông qua một đạo
luật cải cách lĩnh vực ngân hàng, tăng cường sự kiểm soát, không để ngân hàng thao
túng theo quy luật của thị trường. Buộc các ngân hàng tư nhân ưu tiên tài chính các
công ty trong nước, nếu các công ty này coi thường vấn đề này họ sẽ bị đóng cửa.
Đây là bước đi cần thiết cho phép nhà nước cung cấp nguồn lực và đầu tư để đáp
ứng nhu cầu chung [116].
Ngày 30/04/2007, Tổng thống Venezuela Hugo Chavez tuyên bố sẽ chính thức
rút nước này khỏi WB và IMF - các tổ chức tài chính thế giới do Mỹ thao túng. Do
nắm cổ phần lớn nhất nên Mỹ có vai trò khống chế trong WB và IMF. Vào thập niên
1980 cũng như các nước Mỹ Latinh khác, Venezuela rơi vào khủng hoảng nợ trầm
trọng. Mỹ, WB và IMF đã tiến hành thương lượng với nước này về vấn đề họ sẽ giảm
nợ, giãn nợ hoặc xóa nợ nếu chấp nhận đồng thuận Washington. Nội dung chính của
nó là yêu cầu các nước tham gia cải cách thể chế kinh tế, tự do hóa thị trường, giảm
rào cản đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài…Kết quả là đầu những năm 90,
Venezuela đã phải tiến hành cải cách kinh tế, chính trị, xã hội dưới sự giám sát của
WB và IMF. Hàng năm để vay vốn được từ hai tổ chức này chính phủ phải giải trình
chương trình phát triển kinh tế của nước mình và phải chấp nhận ý kiến của WB, IMF
[132, tr.40 - 41]. Thông qua các tổ chức tài chính và các công ty đa quốc gia Mỹ đã
can thiệp vào việc ban hành và thực thi chính sách của nước này một cách khôn khéo,
tinh vi. Điều hiển nhiên lợi ích trước hết thuộc về các chủ tư bản, còn người dân, lợi
ích có được không đáng kể. Kết qủa là sau gần một thập niên phải theo chủ trương
phát triển kinh tế của Mỹ, WB, IMF, nền kinh tế Venezuela phát triển yếu kém, cơ
cấu kinh tế lệch lạc dẫn đến suy thoái nền kinh tế. Vì vậy Chính phủ ngay sau khi
hoàn trả xong nợ, đã dứt khoát thoát khỏi sự chi phối, ràng buộc của hai tổ chức này.
Nhờ sự giúp đỡ của Venezuela, nhiều chính phủ cánh tả khác ở Mỹ Latinh như
Bolivia, Brasil…cũng đã dần thoát khỏi sự chi phối của IMF và WB. Venezuela cũng
đang nỗ lực thay thế Mỹ bằng Trung Quốc với tư cách là đối tác thương mại số một
để hạn chế sự phụ thuộc vào kinh tế Mỹ. Ông còn dự kiến thanh toán bằng đồng Euro
thay đồng USD Mỹ trong giao dịch quốc tế...
99
Trong lĩnh vực nông nghiệp, vấn đề sở hữu ruộng đất cũng là một nội dung
lớn trong cuộc Cách mạng Bolivar. Venezuela đã ban hành Luật Đất đai năm 2001,
vào năm 2005 Quốc hội tiếp tục sửa đổi 18 Điều của Luật để tăng cường quyền
người cày có ruộng, phân phối ruộng đất công bằng hơn. Mục đích là chia đất cho
nông dân, giải phóng họ khỏi tàn tích của chế độ phong kiến và tư bản nông nghiệp,
thúc đẩy phát triển nông thôn.
Quốc hội Venezuela đã thông qua Luật Đất đai và Phát triển nông thôn, trong
đó nêu rõ tất cả các diện tích canh tác bị bỏ hoang sẽ bị bị Nhà nước thu hồi và đem
chia cho nông dân nhằm đem lại công bằng xã hội cho người lao động. Sau khi Luật
Đất đai và Phát triển nông thôn được ban hành. Nhờ vào những chính sách của
Tổng thống Hugo Chavez, gần hàng ngàn nông dân đã được giao đất để tự canh tác
trong vòng 05 năm. Bên cạnh đó, họ cũng được tiếp cận những khoản vay với lãi
suất thấp của chính phủ và mua vật tư nông nghiệp với giá ưu đãi. Chính sách này
của chính phủ Venezuela đã giúp nhiều hộ nông dân thoát nghèo và có thể tự nuôi
sống bản thân. Cụ thể như: Đại Sứ mệnh Agro Venezuela - Đại Sứ mệnh Nông
nghiệp Venezuela (Thành lập tháng 01/2010) với mục tiêu Tăng cường sản xuất
lương thực trong nước thông qua việc cung cấp, hỗ trợ kỹ thuật và hậu cần cho các
nhà sản xuất nhỏ, vừa và lớn trên tất cả các mặt hàng rau, chăn nuôi, thủy sản và
nuôi trồng thủy sản. Sư mệnh đã làm tăng sản lượng lương thực trong nước lên
10,61% từ 2.690.189 tấn năm 2012 lên 25.097.618 tấn năm 2013. Đã thành lập
31.105 đơn vị sản xuất, phân phối 8,8 triệu tấn hóa nông, 19 triệu kg hạt giống và
600.000 tấn phân bón… [159].
3.2.3. Nội dung triển khai trên lĩnh vực văn hóa, xã hội
Thời kỳ đầu khi Tổng thống Chavez mới nhậm chức, lúc đó ở Venezuela
tình trạng bất bình đẳng xã hội ở mức không thể vượt qua được. Năm 1999, gần
một nửa dân số Venezuela (43%) sống ở mức nghèo đói, quyền lực, sự giàu có
tập trung vào tay một số người chủ yếu là những ông chủ liên quan tới dầu mỏ
[121, tr.44]. Lúc này Tổng thống Chavez cho rằng, nguồn lực dầu mỏ có thể cải
thiện tình trạng nghèo đói và bảo đảm phúc lợi cho người dân, Chính phủ
Venezuela đã sử dụng hàng trăm tỷ USD lợi nhuận thu được từ ngành dầu mỏ để
100
tiến hành nhiều chương trình xã hội rộng rãi và thiết thực hướng tới xây dựng
một xã hội công bằng hơn. Nội dung triển khai cụ thể bao gồm:
Một là, đẩy mạnh cải cách giáo dục, về cơ bản là tập trung loại bỏ những yếu
tố cản trở giáo dục. Cụ thể là, nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học và trung học,
tăng cường đầu tư cho giáo dục tại các vùng nông thôn, đầu tư hợp lý cho giáo dục,
nhất là giáo dục cho nhóm người có thu nhập thấp, chú trọng mang lại nhiều cơ hội
học tập hơn cho người nghèo, coi trọng vai trò của giáo dục trong cải thiện phân
phối thu nhập, đặc biệt là chức năng phân phối lại của giáo dục. Từ năm 1999,
Chính phủ Venezuela thực hiện chính sách miễn phí cho học sinh nghèo, cung cấp
miễn phí 02 bữa ăn chính, 01 bữa ăn phụ cho đối tượng này. Học sinh nghèo được
phát đồng phục, sách giáo khoa và giấy bút.
Hai là, phát huy tính công bằng trong hệ thống bảo hiểm xã hội, như liên tục
tăng chi trả xã hội, coi trọng chức năng và chi phí công cộng trong điều tiết, phân
phối thu nhập, cải cách chế độ bảo hiểm xã hội, nâng cao hiệu suất và mức công bằng
của chế độ bảo hiểm xã hội và thực hiện chính sách nhà ở ưu đãi cho người nghèo.
Ba là, quan tâm đến phân phối thu nhập và đảm bảo cuộc sống cho người
nghèo. Venezuela đã thông qua một số chính sách như thuế để điều tiết phân phối
thu nhập, giảm nhẹ gánh nặng về thuế cho những người có thu nhập trung bình và
thấp. Xây dựng hệ thống cửa hàng cung cấp tư liệu sinh hoạt thiết yếu cho người
nghèo. Để khắc phục tình trạng chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng vốn rất phổ
biến trong xã hội Venezuela,
Bốn là, vấn đề nhân quyền được đề cao, cộng đồng người da đỏ được quan tâm
nhiều hơn. Chính quyền Tổng thống Chavez đã rất quan tâm và đề cao vấn đề nhân
quyền. Hiến pháp 1999 của Venezuela đã dành 111 điều luật (từ điều 19 đến điều
130) để quy định và bảo vệ nhân quyền [158]. Trong đó quy định bảo vệ nhân
quyền là nghĩa vụ của tất cả các công chức, cơ quan Nhà nước. Đặc biệt có một
nguyên tắc hiến định mà ít có trong các điều luật các nước là trong trường hợp có sự
mâu thuẫn giữa các quy phạm pháp luật hoặc giữa các quy phạm pháp luật còn chưa
rõ thì quy phạm pháp luật nào hoặc hướng giải quyết nào có lợi cho người lao động
sẽ được áp dụng. Không chỉ có thể ông còn có nhiều chính sách bảo vệ nhân quyền
101
rất hiệu quả. Vi phạm nhân quyền được quy định là tội phạm nghiêm trọng nhất
hoặc là tội đặc biệt nghiêm trọng. Ông không cho phép các công chức nhà nước có
bất kì hành vi nào vi phạm nhân quyền và không có quyền viện lý do thi hành mệnh
lệnh cấp trên để miễn trừ trách nhiệm khi đã vi phạm. Chính phủ ông coi nhân dân
là “tác nhân chính” là trụ cột của một xã hội bình đẳng, đoàn kết và dân chủ.
Vấn đề quyền lợi của Người Da đỏ cũng là một vấn đề nằm trong chương trình
cải cách xã hội của chính phủ. Với tỉ lệ 2% tổng số dân, Người Da đỏ cũng đã thành
lập ra các tổ chức để bảo vệ quyền lợi của mình ngoài 3 đại diện trong Quốc Hội
theo quy định của Hiến Pháp 1999. Hơn nữa, chính phủ mới trong nhiệm kỳ 3 của
tổng thống cũng đã lập thêm bộ mới là Bộ Thổ Dân. Điều đó cho thấy vai trò của
người da đỏ trong xã hội ngày càng được tôn trọng và nâng cao.
Với những nỗ lực của cá nhân Tổng thống Chavez cũng như của Chính phủ,
Venezuela đã đạt được những thành tựu đáng kể trong xóa đói giảm nghèo, xóa mù
chữ, sức khỏe cộng đồng, giáo dục, nhà ở…
Đối với y tế, Chính phủ đã thành lập hệ thống y tế công cộng với mục tiêu
cung cấp các dịch vụ miễn phí cho tất cả mọi người dân Venezuela. Để đạt được mục
tiêu này, Tổng thống Chavez đã cho ra mắt Sứ mệnh Bario Adentro (cuối năm 2003)
và ra lệnh cho thực hiện trên toàn quốc với mục tiêu xã hội hóa y tế, thực hiện chăm
sóc sức khỏe ban đầu với ưu tiên đáp ứng các nhu cầu xã hội của dân chúng theo
nguyên tắc bình đẳng, có tính chất toàn thể, dễ tiếp cận, miễn phí, xuyên lĩnh vực,
công bằng và trách nhiệm xã hội, thông qua góp phần nâng cao chất lượng sức khỏe
và đời sống. Sứ mệnh này có nhiều giai đoạn theo lịch sử phát triển của nó.
Sứ mệnh Bario Adentro I (thành lập từ năm 2003) hỗ trợ y tế ở những khu
vực nghèo khổ, không có điều kiện tiếp cận với việc chăm sóc sức khỏe so với các
khu vực đô thị và nông thôn. Cụ thể, đã lập mạng lưới hơn 10.000 điểm chăm sóc
sức khỏe ban đầu, chia thành các khu phố, khu đô thị, làng mạc và thôn xóm nông
thôn trên cả nước…) trong khi nhà nước dần tiến hành xây dựng các trung tâm y tế
mới [159]. Bario Adentro II, giai đoạn xây dựng các Trung tâm chẩn đoán đa khoa.
Các trung tâm này có nhiệm vụ vụ cấp cứu, xét nghiệm, chẩn đoán cơ bản. Đã có
554 trung tâm chẩn đoán toàn diện, 582 phòng phục hồi chức năng toàn diện, 34
102
trung tâm công nghệ cao được thành lập trong giai đoạn này. Vào cuối năm 2012,
các trung tâm đã phục vụ cho hơn 69 triệu ca khám bệnh miễn phí [159]. Bario
Adentro III, củng cố và phát triển dịch vụ chăm sóc y tế ở mức cao hơn trong hệ
thống y tế quốc gia bao gồm kế hoạch hiện đại hóa và đưa vào công nghệ tiên tiến
trong lĩnh vực y tế vào các bệnh viện nhà nước, thay đổi mô hình quản lý, trong đó
coi trọng mô hình hợp tác với sự tham gia của cộng đồng, xây dựng các bệnh viện
mới nhằm đáp ứng nhu cầu y tế của công dân. Trong chương trình đã nâng cấp 160
bệnh viện trên cả nước nhằm tăng cường mạng lưới bệnh viện và đáp ứng các nhu
cầu phát sinh trong hai Sứ mệnh I và II. Bario Adentro IV liên quan đến việc phát
triển một mạng lưới 16 bệnh viện mới dành cho việc chăm sóc, nghiên cứu và đào
tạo nhân tài chuyên môn cao [159].
Sứ mệnh Milagro - Sứ mệnh Phép màu (thành lập tháng 07/2004), được ra
đời theo sang kiến của Tổng thống Hugo Chavez và Chủ tịch nước Cuba Fidel
Castro nhằm nâng cao khả năng và kỹ năng của những người bị rối loạn thị giác,
làm cho họ hòa nhập vào đời sống xã hội, cả ở Venezuela và các nước Mỹ Latinh.
Đã có 90% số bệnh nhân phẫu thuật đến từ Venezuela và 10% đến từ các nước Mỹ
Latinh… [159]. Sứ mệnh Sonrisa - Sứ mệnh nụ cười (thành lập tháng 11/2006),
nhằm chăm sóc bệnh nha, cung cấp, điều trị miễn phí cho tất cả mọi người vấn đề
phục hồi chức năng răng miệng thông qua bộ phận giả cho người dân nghèo
Venezuela, trả lại cho người dân các điều kiện chức năng, thẩm mỹ và tâm lý vì
điều kiện tâm lý khó khăn đã làm cho họ không được chăm sóc răng miệng…
Với Chương trình y tế, gần 17 triệu người đã được chăm sóc miễn phí tại các
trung tâm y tế mới được xây dựng. Kể từ năm 2003, đội ngũ bác sỹ tại Venezuela
đã tiến hành tư vấn sức khỏe miễn phí cho khoảng 40 triệu lượt người dân từ 1.600
trạm y tế và cung cấp cho người dân dịch vụ chăm sóc sức khỏe miễn phí. Ngoài ra
các chuyên gia y tế đã tổ chức rất nhiều hoạt động giáo dục tập trung nhằm nâng
cao nhận thức cải thiện dinh dưỡng và ngăn ngừa các hành vi nguy cơ cao liên quan
đến dinh dưỡng, Theo thông tin từ Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tỷ lệ phần trăm
dân số được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại Venezuela ngày càng gia tăng,
tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm, tuổi thọ trung bình của người dân đã được nâng lên
đáng kể nhờ sự phát triển của y tế [123, tr.45].
103
Đối với giáo dục, Sứ mệnh Robinson (thành lập tháng 06/2003) với mục tiêu
xóa mù chữ và tiếp tục học lên sau trình độ lớp sáu của bậc giáo dục cơ bản. Sứ
mệnh Robinson đã phát triển qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên nhằm xóa mù
chữ thông qua tạo điều kiện tối đa để mọi người dân có thể tham gia lớp học cơ bản.
Giai đoạn thứ hai đảm bảo sự tiếp tục học lên sau trình độ lớp sáu đối với cả học
sinh. Giai đoạn thứ ba được hình thành với mục đích là để phổ biến và tạo thói quen
đọc sách, nhằm củng cố và cập nhật các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Giai đoạn thứ tư nhằm mục đích mở rộng sự phát triển và cơ hội cho các công dân
được tham gia Sứ mệnh Robinson, nó liên quan từ việc hòa nhập các thành phần sản
xuất đến đào tạo học thuật như là cơ chế đóng góp vào việc cải thiện và đem lại lợi
ích kinh tế xã hội tập thể cho sự phát triển mô hình kinh tế xã hội mới của đất nước.
Kết quả sau hơn hai năm thực hiện, ngày 28/10/2005, Venezuela tuyên bố lãnh thổ
thoát khỏi nạn mù chữ theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc và được Tổ chức
UNESCO chính thức công nhận nạn mù chữ đã được thanh toán ở Venezuela. Cụ
thể 1.781.920 người đã không còn mù chữ, 980.000 công dân học xong chương trình
lớp sáu, 33.305 suất học bổng đã được trao tặng, 73.040 người đã được hỗ trợ từ các
quỹ tương trợ và 958 dự án hiệu quả xã hội được tài trợ… [159]. Sứ mệnh Ribas
(thành lập tháng 10/2003), với mục tiêu lồng vào hệ thống giáo dục và sản xuất đối
với tất cả những người không hoàn thành việc học trong giai đoạn giáo dục trung học
và đa dạng hóa việc học để nhận được bằng cử nhân. Sứ mệnh Ribas đã ủng hộ việc
thành lập các đội xây dựng XHCN có trình độ cao trong lĩnh vực giáo dục để tham
gia các dự án phát triển đất nước. Sứ mệnh này có phạm vi giáo dục trên toàn lãnh
thổ quốc gia, bao gồm các nhà tù, người dân bản địa, các đơn vị đồn trú của lực lượng
vũ trang quốc gia, cũng như cung cấp cơ sở vật chất cho những người có yêu cầu đặc
biệt. Trong Sứ mệnh này đã có 1.632.726 người đăng ký, 822.853 người tốt nghiệp
và 67.471 người có học bổng [159]. Sứ mệnh Sucre (thành lập tháng 10/2003), có
mục tiêu tạo điều kiện tiếp cận và theo đuổi giáo dục đại học công, chính quy, toàn
diện, miễn phí và bình đẳng về cơ hội cho tất cả mọi người, nhằm tăng trình độ giáo
dục của người dân Venezuela và đào tạo công dân cam kết phục vụ cho sự phát triển
của đất nước thông qua việc thành lập các mô hình giáo dục đại học mới được hỗ trợ
104
bởi sức mạnh tổng hợp và sự tham gia của cộng đồng. Với yêu cầu của Chương trình
Sucre, ở Venezuela đã có hàng trăm trường đại học được đưa vào hoạt động. So với
năm học 1999 - 2000, số sinh viên vào năm học 2006 - 2007 tăng 86%, vào năm học
2001 - 2008 tăng 138%. Với những kết quả đó Venezuela đã được UNDP xếp là quốc
gia đứng thứ 58 về phát triển giáo dục năm 2005 [00, tr.14].
Các chương trình đảm bảo an ninh lương thực nhằm bảo đảm quyền tiếp cận
thực phẩm cho người dân thông qua việc điều chỉnh, xây dựng, giám sát và đánh giá
chính sách về thương mại, công nghiệp, tiếp thị và phân phối thực phẩm. Sứ mệnh
Alimentacion - Sứ mệnh thực phẩm (thành lập tháng 03/2003), mục tiêu tăng cường
khả năng cung cấp lương thực thực phẩm theo nhu cầu ban đầu cho người dân một
cách kịp thời, thường xuyên, giá cả phải chăng và chất lượng cao. Góp phần vào
công cuộc xóa đói. Tăng chủ quyền lương thực và củng cố an ninh lương thực.
Khuyến khích phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm theo quy hoạch
mới về sử dụng đất. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp. Sau khi
thực hiện Sứ mệnh, số lượng phân phối năm 2003 là 28,8 triệu tấn lương thực cho
21 triệu người, chiếm 69% dân số Venezuela, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
của Liên hợp quốc (FAO) đã công nhận Venezuela là nước có nhiều nỗ lực để chấm
dứt nạn đói trên thế giới [159]. Sứ mệnh Mercal (thành lập tháng 04/2003), nhằm
đảm bảo cho người dân Venezuela có thể mua lương thực, thực phẩm có chất
lượng, giá rẻ và thuận tiện. Chương trình gồm một hệ thống các cửa hàng lương
thực, thực phẩm giá rẻ, chủ yếu là để phục vụ cho người lao động và người có thu
nhập thấp. Chương trình bao gồm Tổ hợp Cung ứng và Dịch vụ Nông nghiệp, các
cửa hàng bán lẻ, quỹ chương trình lương thực chiến lược.
Các chương trình phúc lợi, an sinh xã hội, Chính quyền Tổng thống Chavez
đã thực hiện nhiều sứ mệnh nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Sứ mệnh Identidad - Sứ mệnh Căn cước, đây là sáng kiến của chính phủ đối
với người dân nhiều năm không có giấy căn cước để cho phép họ thực hiện quyền
của mình để tham gia bầu cử và thực hiện các thủ tục pháp lý. Từ năm 2003 đến
năm 2006, có khoảng 18 triệu người được nhận thẻ căn cước hoặc được cập nhật
thông tin cá nhân [123, Tr.46]. Sứ mệnh Barrio Adentro Deportivo - Sứ mệnh Thể
105
thao bên trong khu phố (thành lập tháng 07/2004) với mục tiêu góp phần nâng cao
chất lượng cuộc sống và cuộc sống tốt đẹp của người dân thông qua các hoạt động
đại chúng như thể dục, thể thao, vui chơi giải trí thông qua việc sử dụng thời gian
nhàn rỗi một cách lành mạnh. Đồng thời, góp phần vào việc phát triển các cuộc thi
đấu thể thao của Venezuela. Sứ mệnh Cultural Corazon Adento (thành lập tháng
06/2005), góp phần củng cố chương trình văn hóa xã hội, khuyến khích và giúp đỡ
trong phạm vi các cộng đồng hoạt động văn hóa, định hướng tạo nên các giá trị bản
sắc dân tộc, sử dụng lợi thế các cuộc trình diễn nghệ thuật truyền thống làm các
công cụ cơ bản cho việc tham gia của người dân. Đại sứ mệnh Vivienda Venezuela
- Đại Sứ mệnh Nhà ở Venezuela (thành lập tháng 04/2010) với mục tiêu bảo đảm
nhà ở cho các gia đình Venezuela, những gia đình không có nhà ở để thỏa mãn nhu
cầu cơ bản. Sứ mệnh đã thực hiện được 609.000 căn nhà mới trong cả nước,
3.000.000 người trước đây không có nhà ở đã có nhà ở, số hộ không có dịch vụ cơ
bản giảm từ 17,7% xuống còn 8,9% [159]. Đại Sứ mệnh En Amor Mayor
Venezuela (thành lập tháng 12/2011), mục tiêu của Sứ mệnh này là đảm bảo sự bảo
vệ tối đa, sự hòa nhập, sự tôn trọng, phúc lợi và công bằng xã hội cho người cao
tuổi, đặc biệt là những người sống trong các hộ gia đình có mức thu nhập dưới mức
lương tối thiểu.
Ngoài ra Chính quyền Tổng thống Hugo Chavez đã thông qua và thực hiện
các chương trình xã hội khác vì lợi ích người lao động như chương trình trợ giúp
người già, đặc biệt là những người không nơi nương tựa, chương trình Bà mẹ khu
phố, chương trình ngăn chặn các tệ nạn đường phố.
3.2.4. Nội dung triển khai trên lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng, an ninh
3.2.4.1. Về đối ngoại
Cùng với những nỗ lực trong công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở quốc gia
mình, Venezuela tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh sự phối hợp, liên kết phong trào
cánh tả Mỹ Latinh. Đây chính là nhân tố giúp các nước này khắc phục tình trạng bất
ổn định kinh tế, giảm bớt sự phụ thuộc kinh tế vào các nước tư bản Tây Âu, Bắc Mỹ
và góp phần quan trọng vào bảo vệ ĐLDT cho mỗi quốc gia cũng như toàn khu vực.
Hợp tác, liên kết được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị - tư tưởng, kinh
106
tế, văn hoá - xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh trên cơ sở tôn trọng ĐLDT và
chủ quyền của các quốc gia. Trong đó phải kể đến sự đóng góp rất lớn của
Venezuela. Hơn nữa sự có mặt của Venezuela trong quá trình tập hợp lực lượng của
các ĐCS, phong trào cánh tả, lực lượng tiến bộ ở Mỹ Latinh qua các diễn đàn, hội
nghị cũng là yếu tố thuận lợi giúp cánh tả khu vực nói chung và Venezuela nói
riêng củng cố và mở rộng ảnh hưởng của mình. Sau đây là những liên kết hợp tác
trên các lĩnh vực mà Venezuela đóng góp vai trò quan trọng.
Venezuela cùng với các nước cánh tả Mỹ Latinh thể hiện tinh thần đoàn kết,
ủng hộ với Cuba và phản đối chính sách cấm vận của Mỹ đối với đất nước này. Các
chính phủ cánh tả Mỹ Latinh đã thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Cuba và ngày
càng thắt chặt mối quan hệ nhiều mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế. Các nước cánh
tả Mỹ Latinh cũng đánh giá cao vai trò của Cuba đối với sự nghiệp cách mạng của
khu vực Mỹ Latinh. Khi phát biểu trong chương trình Alô Tổng thống ngày
14/10/2007 nhân kỷ niệm 40 năm ngày người du kích anh hùng Ernesto Che Guevara
hy sinh tại chiến trường Bolivia, Tổng thống Venezuela đã ca ngợi Chủ tịch Phidel
Castro đồng thời khẳng định Cuba đang giữ vai trò tiên phong trong phong trào cách
mạng hiện nay tại Mỹ Latinh. Tại cuộc mít tinh kỷ niệm 1 năm Cuba và Venezuela
ký các Hiệp định thực hiện Sáng kiến ALBA diễn ra tại Quảng trường Cách mạng ở
thủ đô Havana của Cuba vào tối ngày 29/04/2006, Tổng thống Venezuela Hugo
Chavez và Tổng thống Bolivia Evo Morales đều đã khẳng định quyết tâm của Chính
phủ và nhân dân hai nước nhằm tăng cường khối liên kết, hợp tác và đoàn kết với
Cuba cũng như với các dân tộc khu vực Mỹ latinh để đối phó với mọi âm mưu xâm
lược của đế quốc cũng như sự chống phá của các thế lực thù địch.
Vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI, các nước Mỹ Latinh mà khởi đầu
là Venezuela tập trung nỗ lực nhằm thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nghèo đói
để tiến lên. Bằng việc thực thi những cải cách về kinh tế, chính trị, xã hội, chính
sách đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Những thắng lợi bước đầu trong đấu tranh
bảo vệ ĐLDT ở Venezuela đã thổi một luồng gió mới cho quá trình củng cố và
phát triển xu thế ĐLDT ở các nước trong khu vực. Để thực hiện có hiệu quả, bên
cạnh ưu tiên nhằm giữ ổn định chính trị theo hướng thúc đẩy, tự do, dân chủ; tập
107
trung sức phục hồi và phát triển kinh tế; giải quyết các vấn đề bức xúc trong xã
hội như bất bình đẳng, nghèo đói, thất nghiệp, nạn tham nhũng, nâng cao đời sống
của người lao động, nhất là của tầng lớp dân nghèo, các nước Mỹ Latinh mà ngọn
cờ đầu là Venezuela chủ trương thực hiện chính sách đối ngoại theo hướng độc lập
tự chủ, đề cao lợi ích quốc gia, dân tộc, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, tăng
cường liên kết, hợp tác khu vực, ủng hộ quá trình dân chủ hóa các quan hệ quốc tế
và cải tổ Liên hợp quốc, đấu tranh cho một trật tự thế giới mới đa cực, dân chủ và
bình đẳng vì hòa bình, ĐLDT và tiến bộ xã hội.
Hoạt động ngoại giao của Venezuela dưới thời Tổng thống Chavez có nhiều
thay đổi mang tính bước ngoặt so với các thời tổng thống trước. Không muốn tiếp
tục bị coi là “sân sau” của Mỹ, Venezuela thi hành chính sách chống Mỹ mạnh mẽ
và gay gắt, bảo vệ độc lập chủ quyền và bình đẳng trong quan hệ quốc tế, đó cũng là
tấm gương để các nước Mỹ Latinh noi theo.
Cùng với các đảng cánh tả khác ở Mỹ Latinh, Đảng Phong trào nền Cộng
hoà thứ năm và sau là PSUV đã tham gia tích cực diễn đàn của cánh tả khu vực.
Nhìn lại chặng đường hai thập niên qua kể từ khi ra đời Diễn đàn Sao Paulo, có
thể thấy hoạt động sôi nổi của Diễn đàn đã đưa lại những kết quả thiết thực, thúc
đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản, cánh tả ở Mỹ Latinh nói riêng và trên
thế giới nói chung. Trước hết, với sự tham gia ngày càng đông đảo các ĐCS, công
nhân, các đảng cánh tả, Diễn đàn không chỉ giới hạn trong khu vực, mà mở rộng
ra khắp các châu lục, Diễn đàn đã tỏ rõ là một phương thức phối hợp hoạt động,
tập hợp lực lượng thích hợp, có tính hiệu quả, đồng thời thể hiện nhu cầu gặp gỡ,
trao đổi về nhiều mặt giữa các lực lượng cộng sản, cánh tả ngày càng tăng trong
điều kiện lịch sử mới sau Chiến tranh Lạnh. Tính linh hoạt và cơ chế mở trên cơ
sở nguyên tắc tự nguyện của Diễn đàn tạo điều kiện cho các chính đảng, phong
trào và lực lượng chính trị theo nhiều khuynh hướng đa dạng. Từ các ĐCS cầm
quyền hoặc chưa cầm quyền, các đảng dân chủ - xã hội đến các tổ chức, phong
trào dân tộc cấp tiến đều có cơ hội tham gia, bày tỏ quan điểm, chính kiến một
cách dân chủ trước những chủ đề được lựa chọn trong mỗi kỳ hội nghị. Đây là một
nét mới trong cơ chế phối hợp hoạt động và tập hợp lực lượng của cánh tả, phù
108
hợp với sự thay đổi tương quan lực lượng ở khu vực và trên thế giới từ đầu thập
niên 90 thế kỷ XX trở lại đây.
Venezuela cũng đã tham gia tích cực các hội nghị quốc tế Toàn cầu hoá và
các vấn đề phát triển, Diễn đàn xã hội thế giới (WSF). Thông qua các hình thức các
Diễn đàn kinh tế, xã hội, Venezuela đã phối hợp được các lực lượng cách mạng tiến
bộ trên thế giới và khu vực thực hiện đoàn kết, ủng hộ lẫn nhau, cùng nhau trụ vững
và chống lại những tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hóa. Hình thức này đã
đem lại những hiệu quả khá ấn tượng, mang lại ý nghĩa quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng cánh tả và cách mạng tiến bộ trên thế giới, đặc biệt trong bối
cảnh phong trào cộng sản, công nhân quốc tế tuy đã từng bước hồi phục nhưng chưa
thực sự vượt qua được khủng hoảng sâu sắc. Với những thành quả bước đầu, các
ĐCS, cánh tả ở Mỹ Latinh nói riêng và thế giới nói chung củng cố được niềm tin và
vững vàng hơn với vai trò lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì mục tiêu hoà bình, ĐLDT, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Kết quả hoạt động đối ngoại của Venezuela được thể hiện trong mối quan hệ
với các tổ chức quốc tế, khu vực cũng như các đối tác quan trọng.
Venezuela là thành viên của Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết, Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC),
Liên minh Bolivar cho châu Mỹ (ALBA), Hiệp hội Liên kết kinh tế Mỹ Latinh
(ALADI), Nhóm RIO, Diễn đàn hợp tác Đông Á - Mỹ Latinh (FEALAC), Khối thị
trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR), Liên minh các quốc gia Nam Mỹ
(UNASUR), quan sát viên của Cộng đồng các Quốc gia vùng Caribbean
(CARICOM), Cộng đồng các Quốc gia Mỹ Latinh và Caribbean (CELAC).
Trong Liên minh Bolivar cho châu Mỹ (ALBA), là tổ chức đã được Tổng
thống Hugo Chavez và Chủ tịch Fidel Castro đã ký kết tuyên bố chung về việc
thành lập tổ chức ALBA ngày 14/12/2004. Với mục tiêu xây dựng một mô hình liên
kết kiểu mới, trên cơ sở đoàn kết Mỹ Latinh, nhằm thay thế cho Khu vực Tự do
Thương mại châu Mỹ (FTAA) với 34 nước châu Mỹ do Mỹ sáng kiến thành lập.
Các nguyên tắc định hướng hoạt động của ALBA bao gồm: 1- Đoàn kết sâu
rộng giữa các dân tộc Mỹ Latinh và Caribbean, 2- Không chấp nhận các tiêu chí
thương mại hoặc quyền lợi ích kỷ của quốc gia này gây hại cho quốc gia khác, 3-
109
Hội nhập dựa trên nguyên tắc hỗ trợ kinh tế, 4- Liên minh chính trị, kinh tế và xã
hội nhằm bảo vệ độc lập, tự chủ và bản sắc của các nước cùng thuộc khối.
Tuy chỉ mới được thành lập, nhưng những thành tựu mà ALBA đem lại cho
các nước thành viên rất lớn trên tất cả các lĩnh vực, trong đó thể hiện rõ vai trò của
Venezuela. Trong khuôn khổ hợp tác giữa các nước thành viên của ALBA,
Venezuela đã có những đóng góp tích cực như: Hàng nghìn sinh viên Bolivia mà
phần lớn là các sinh viên nghèo đã được Venezuela cấp học bổng tại Trường Đại
học quốc tế Caracas chuyên ngành hoá dầu và năng lượng; Với sự giúp đỡ của
Venezuela, tình trạng thiếu hụt năng lượng ở Nicaragua đã dần được giải quyết với
việc lắp đặt 38 trạm phát điện nhỏ và việc Venezuela cung cấp dầu thô với các điều
kiện ưu đãi, Nicaragua chỉ phải trả 60% số tiền trong vòng 10 năm, 40% còn lại
phía Nicaragua sẽ trả trong vòng 25 năm, Venezuela đã ký Hiệp định năng lượng
với El Salvador trong khuôn khổ của ALBA, Hiệp định này loại bỏ các khâu
trung gian cũng như việc đầu cơ trong buôn bán dầu mỏ, cho phép ổn định nguồn
hàng cũng như giá cả, Chương trình Dầu mỏ Caribbean do Venezuela khởi
xướng cung cấp dầu cho các nước thuộc khu vực này với giá ưu đãi bằng 60%
giá thị trường và được trả chậm trong vòng 25 năm với lãi xuất 1% đến 2%. Đã
có 13 nước thuộc khu vực Caribbean được hưởng ưu đãi này. Chương trình này
thể hiện trách nhiệm của Venezuela đối với việc thừa nhận tình trạng bất bình
đẳng ở mỗi nước. Bên cạnh đó, nhiều hiệp định thương mại giữa Venezuela với
Cuba, Argentina, Brasil, Bolivia, Nicaragua, Uruguay đã được ký kết [70,
tr.108]. Nghị định mở rộng đường ống dẫn khí đốt xuyên qua các lãnh thổ, Hiệp
định hợp tác trong các lĩnh vực khai thác, chế biến, xuất khẩu khí đốt, đảm bảo
an ninh năng lượng cho các nước Mỹ Latinh. Bốn nước Mỹ Latinh là Venezuela,
Argentina, Brasil, Boliva đã thành lập Ngân hàng Phương Nam hoạt động theo
nguyên tắc đoàn kết, thống nhất nhằm hỗ trợ các nước thành viên phát triển kinh
tế xã hội, cân bằng ngân sách, đối phó với các cuộc khủng hoảng trong khu vực,
dùng để làm đối trọng với WB và IMF là hai tổ chức quốc tế bị Mỹ và các nước
tư bản phương Tây chi phối. Ngoài các hoạt động trên, Tổng thống Hugo Chavez
còn kêu gọi các nước thành viên ALBA, cùng nhau thành lập Hiệp ước Phòng
thủ chung, vì theo Ông, hợp tác chặt chẽ hơn về quốc phòng là cần thiết, vì chủ
110
nghĩa khủng bố và bản tính hiếu chiến cố hữu của Mỹ và ông khẳng định đây là
thời điểm thành lập chiến lược phòng thủ chung [137, tr.40].
Trong Khối thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR), là tổ chức thành lập
ngày 26/03/1991 bằng Hiến chương MERCOSUR giữa bốn nước Achentina, Brasil,
Paragoay và Urugoay. MERCOSUR là khối kinh tế lớn thứ 05 thế giới và là một
trong những khu vực sản xuất hàng đầu về lương thực, nguyên liệu và năng lượng.
Đây cũng là một thị trường đầy tiềm năng với gần 300 triệu người tiêu dùng. Thời
gian đầu, tuy chưa phải là thành viên của MERCOSUR nhưng Venezuela đã có
những đóng góp về cả đường lối phát triển và tài chính cho tổ chức này. Ngày
04/07/2006, Venezuela trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức. Trao đổi thương
mại giữa Venezuela với các nước thành viên trong khối đã tăng từ 02 tỷ USD năm
2004 lên 28 tỷ vào năm 2009. Đầu tư của các nước MERCOSUR vào Venezuela đã
vượt 6 tỷ USD, chủ yếu tập trung vào các ngành sản xuất và phát triển cơ sở hạ
tầng, Venezuela đã tham gia ngày càng sâu hơn vào tiến trình hội nhập khu vực ở
hầu hết các cấp độ, không chỉ về mặt thể chế mà cả trong lĩnh vực kinh tế [118].
Venezuela đã tiên phong đưa ra các nội dung nhằm thúc đẩy tiến trình thực hiện
mục tiêu hội nhập Nam Mỹ, phản đối ý đồ của Mỹ xây dựng Khu vực Tự do thương
mại toàn châu Mỹ, chống lại chính sách bảo hộ mậu dịch của Mỹ và các nước phát
triển, đề ra phương hướng xây dựng Ngân hàng Phương Nam.
Venezuela là một trong những thành viên sáng lập ra OPEC và có vai trò
quan trọng trong tổ chức này. Trong hoạt động của tổ chức, Venezuela luôn được
các nước thành viên khác đánh giá là nước tiên phong và có nhiều sáng kiến vì lợi
ích của các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn trên thế giới. Venezuela kêu gọi 11 nước
thành viên còn lại phá thế áp đặt về giá và khối lượng dầu mỏ bán ra trên toàn thế
giới của Mỹ và các nước phương Tây, tạo ra một cơ chế bảo vệ giá, tránh khai thác
bừa bãi dầu mỏ làm ảnh hưởng lâu dài đến nguồn tài nguyên này.
Đối với một số tổ chức kinh tế quốc tế, Chính phủ Venezuela lên tiếng mạnh
mẽ phản đối sự áp đặt của thế giới tư bản thông qua các tổ chức tài chính là WB và
IMF. Các thiết chế tài chính của WB và IMF luôn đi kèm với sự giúp đỡ để các
nước Mỹ Latinh thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính là các yêu cầu cải cách buộc
các quốc gia Mỹ Latinh phải thực hiện theo ý muốn của Mỹ nếu muốn vay tiền.
111
Hậu quả của nó là sự nghèo đói, thất nghiệp gia tăng, mất ổn định chính trị, xã hội
khiến cho hầu như các nước Mỹ Latinh đều có chung một mong muốn là mau
chóng thoát khỏi sự lệ thuộc của các tư bản nước ngoài. Venezuela là nước đầu tiên
ở Mỹ Latinh đã thanh toán đầy đủ các khoản nợ nước ngoài sớm trước thời hạn 05
năm, thời gian ngay sau khi Tổng thống Hugo Chavez lên nhậm chức năm 1999.
Nhờ đó, Venezuela đã tiết kiệm được 8 triệu USD tiền lãi, không dừng lại ở đó,
Venezuela còn tích cực giúp Brasil trả khoản nợ 500 triệu USD cho cho Argentina.
Quyết liệt hơn, ngày 30/4/2007 Tổng thống Venezuela Hugo Chavez tuyên bố sẽ
chính thức rút nước này khỏi WB và IMF. Bên cạnh các tổ chức quốc tế và khu vực,
Venezuela chủ trương đẩy mạnh hợp tác với các nước XHCN, ưu đãi dành thị phần
cho các nước này bởi vì Venezuela cần có sự hiện diện về chính trị và hình ảnh của
các nước XHCN để cổ vũ cho công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT của mình cũng
như cổ vũ cho phong trào cánh tả Mỹ Latinh.
Venezuela và Cuba có mối quan hệ song phương quan trọng ở khu vực Mỹ
Latinh và Caribbean. Đặc biệt, từ khi Tổng thống Chavez lên nắm quyền, mối quan
hệ giữa hai nước thực sự bước sang một trang mới. Venezuela và Cuba là hai ngọn
cờ đầu trong phong trào cánh tả và xây dựng CNXH ở khu vực vốn được coi là sân
sau của Mỹ, cùng nhau đấu tranh vì ĐLDT và chống CNĐQ. Hơn nữa, ngoài việc
duy trì mối quan hệ anh em bền lâu và luôn ủng hộ lẫn nhau trong các phong trào
quốc tế, hai quốc gia này còn hợp tác sâu rộng trên tất cả lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Đây là mối quan hệ có nền tảng
vững chắc là sự tương đồng về quan điểm chính trị, tư tưởng và ý thức hệ, Tổng
thống Chavez luôn coi Chủ tịch Phidel như người thầy, một tấm gương lớn về tinh
thần chống Mỹ và là người đóng góp phần đáng kể vào học thuyết “Chủ nghĩa xã
hội thế kỷ XXI” và chiến lược phát triển đất nước của Tổng thống Chavez. Hai
nước luôn sử dụng thế mạnh của mình để củng cố liên minh chiến lược và giúp đỡ
nhau giải quyết những khó khăn trong nước, áp dụng cơ chế tham vấn chính trị,
thiết lập đường dây nóng giữa nguyên thủ hai nước.
Venezuela tăng cường hợp tác toàn diện với Trung Quốc trên mọi mặt, đặc biệt là
quân sự và kinh tế, Venezuela cần tranh thủ vai trò và ảnh hưởng của Trung Quốc để
giành sự ủng hộ của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, nhất là sáng kiến của
112
Venezuela trong nhóm các nước đang phát triển (G77). Bên cạnh đó, Trung Quốc đánh
giá cao thị trường và nguồn dầu mỏ tại Venezuela nhằm củng cố và mở rộng ảnh hưởng
tại Mỹ Latinh, tăng cường khả năng cạnh tranh với Mỹ trên phạm vi toàn cầu.
Quan hệ Venezuela với Việt Nam, hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao ngày
18/12/1989. Hai nước có mối quan hệ hữu nghị, hợp tác và truyền thống. Venezuela
đặc biệt coi trọng Việt Nam, khâm phục Việt Nam không chỉ trong đấu tranh giành
ĐLDT mà còn cả trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Mối quan hệ hai
nước đã phát triển vượt bậc dưới thời Tổng thống Chavez bằng việc thăm hỏi, trao
đổi các đoàn cấp cao, hai bên đã thiết lập đại sứ quán (2005, 2006). Venezuela chủ
trương đẩy mạnh quan hệ với Việt Nam nhằm giương cao ngọn cờ XHCN tại khu
vực do Tổng thống Chavez làm thủ lĩnh để thực hiện chiến lược đối nội và đối
ngoại của mình. Ưu tiên phát triển quan hệ với Việt Nam nhằm sử dụng hình ảnh
Việt Nam với tư cách là nước thành công trong công cuộc bảo vệ đất nước và có
những thành tựu vượt bậc trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước để cổ vũ cho
công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT do Tổng thống Chavez lãnh đạo, củng cố niềm
tin của dân chúng đối với Chính quyền trung ương, tạo uy tín và sự nhất trí trong
PSUV, tập hợp và phát triển lực lượng cánh tả ở Mỹ Latinh.
Quan hệ Venezuela và Liên bang Nga, sau khi trở thành Tổng thống
Venezuela, Ông Hugo Chavez đã chú trọng thúc đẩy quan hệ với Nga, nhằm tranh
thủ sự ủng hộ của Nga, đối phó với sự chống phá quyết liệt của Mỹ, đồng thời qua
việc tăng cường quan hệ sẽ thu hút được các khoản đầu tư về tài chính, công nghệ
của các công ty Nga và bảo đảm bền vững nguồn cung cấp các trang thiết bị quân
sự. Quan hệ hai nước đã phát triển đáng kể dưới thời Tổng thống Chavez, hai nước
đã nâng tầm quan hệ lên đối tác chiến lược, được thể hiện bằng một loạt chuyến
thăm lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao và luôn khẳng định lập trường gần gũi nhau về
phần lớn các vấn đề quốc tế và đều đứng trên quan điểm hướng tới một thế giới dân
chủ và đa cực. Quan hệ quân sự được coi là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ
Venezuela trong mối quan hệ tổng thể với Nga để tăng cường tiềm lực quốc phòng.
Quan hệ Venezuela với Mỹ, kể từ sau khi Tổng thống Chavez lên nắm Chính
quyền, quan hệ ngoại giao giữa Venezuela và Mỹ luôn căng thẳng, do mâu thuẫn về
lợi ích chiến lược về chính trị. Cùng chung với các nước ALBA, Venezuela kiên
quyết chống lại chủ nghĩa tự do mới. Để bảo vệ và thúc đẩy tiến trình cách mạng
113
XHCN ở Venezuela nói riêng và Mỹ Latinh nói chung, một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của Chính quyền Tổng thống Chavez là đề phòng, ngăn chặn
sự can thiệp, chống phá của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước bằng các
biện pháp đối nội và đối ngoại. Tuy hai bên có những căng thẳng chính trị, nhưng
quan hệ thương mại lại có những bước phát triển mới. Venezuela vẫn xuất sang Mỹ
hàng triệu thùng dầu mỗi ngày. Lợi ích của Mỹ ở Venezuela cũng rất lớn, nhiều
công ty Mỹ làm ăn ở Venezuela, nhất là trong ngành khai thác và hóa dầu, các nhà
máy lọc dầu của Venezuela trên đất Mỹ tiếp tục hàng ngày cung cấp một lượng
xăng và sản phẩm hóa dầu đáng kể cho thị trường Mỹ. Đây là một đặc điểm hết sức
quan trọng trong quan hệ quốc tế, đó là điều lý giải được vì sao với tư cách là một
siêu cường lớn nhất thế giới, nhưng Mỹ chưa thể tiến hành các biện pháp cứng rắn
như họ đã từng làm đối với các nước Trung Đông.
Đối với các nước trong khu vực, Venezuela luôn ưu tiên xây dựng mối quan
hệ toàn diện, bền vững, đồng thời đẩy nhanh tiến trình hội nhập, xây dựng một
không gian thống nhất về các thể chế kinh tế, thương mại. Việc tăng cường quan hệ
với các nước Mỹ Latinh còn nhằm tránh sự phụ thuộc vào nguồn hàng hóa, lương
thực, thực phẩm nhập khẩu từ Mỹ. Chính sách Ngoại giao dầu mỏ là điểm nổi bật
trong chính sách đối ngoại của Venezuela.
Quan hệ Venezuela và Bolivia, dưới thời Tổng thống Chavez và Tổng thống
Evo Morles có bước phát triển nhanh chóng, tốt đẹp. Chính phủ Venezuela giữ vai trò
là trung gian hòa giải quan trọng trong quá trình giải quyết bất đồng gay gắt giữa
Bolivia và Brasil. Tháng 10/2006, Venezuela và Bolivia đã ký thỏa thuận thành lập liên
minh chiến lược giữa hai nước, tăng cường hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực, kinh tế,
năng lượng, khoa học công nghệ, giáo dục, y tế, hạ tầng cơ sở và quốc phòng.
Quan hệ Venezuela và Nicaragoa được coi là một trong những mối quan hệ mang
tính chiến lược đầy tình anh em và chống CNĐQ. Trong các diễn đàn quốc tế và khu
vực, hai nước luôn có những sáng kiến chung để giải quyết các vấn đề quốc tế. Chính
phủ Venezuela đã giúp Chính phủ Nicaragoa tái thiết nền kinh tế, ký kết Hiệp định hợp
tác năng lượng, cung cấp đủ nhiên liệu, phân phối với giá ưu đãi cho Nicaragoa.
Với Brasil, kể từ khi Tổng thống Lula Da Silva lên nắm quyền, với nhiều lợi
thế lớn, trong đó có sự tương đồng về tư tưởng cánh tả, quan hệ hai nước có bước
114
phát triển nhanh theo hướng xây dựng thành quan hệ đồng minh chiến lược, một
mắt xích quan trọng của phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh. Hai bên cũng đã tuyên bố
chung về việc thành lập liên minh chiến lược, thống nhất quan điểm cùng giải quyết
các vấn đề của hai nước và khu vực, loại bỏ sự can dự của Mỹ. Cam kết xây dựng
liên minh chiến lược theo ba hướng chủ đạo gồm thống nhất quan điểm chính trị,
tăng cường trao đổi kinh tế, thương mại và kết nối hạ tầng cơ sở. Liên minh chiến
lược này thúc đẩy việc hình thành nền kinh tế chung giữa hai bên, đồng thời là
khuôn mẫu được mở rộng sang các quốc gia khác trong khu vực.
Quan hệ Venezuela và Colombia mang tính lịch sử gắn bó, vì cả hai
được tách ra từ Đại Colombia trước đây, có sự tương đồng về văn hóa, sự giao
thoa về chủng tộc và nền kinh tế có thể bổ sung cho nhau. Quan hệ kinh tế song
phương đóng vai trò quan trọng trong tổng thể giữa hai nước có bước phát triển
tương đối ổn định.
3.2.4.2. Về quốc phòng, an ninh
Tháng 01/2008, Tổng thống Hugo Chavez đề xuất thành lập Hội đồng Quốc
phòng và Lực lượng quân sự chung của tổ chức ALBA nhằm ngăn ngừa ảnh hưởng
của Mỹ ở Mỹ Latinh. Theo Tổng thống Chavez, bốn nước thành viên ALBA nên
hợp tác về mặt quân sự, tình báo nhằm độc lập hơn trước ảnh hưởng của Mỹ, đồng
thời lên án những nước trong khu vực hợp tác về quốc phòng và an ninh đối với
Mỹ, theo Ông việc hợp tác chặt chẽ hơn về quốc phòng là cần thiết và đây là thời
điểm thành lập chiến lược phòng thủ chung.
Để phá vỡ thế độc quyền thông tin của các hãng thông tấn và truyền hình Mỹ
và phương Tây, theo sáng kiến của Tổng thống Hugo Chavez, kênh truyền hình cổ
phần TELESUR đã được thành lập vào tháng 02/2004 có trụ sở đặt tại thủ đô
Caracas của Venezuela và các chi nhánh đặt tại thủ đô của các nước thành viên và ở
Los Angeles, Mỹ. Về tỷ lệ góp vốn, Venezuela giữ 31% cổ phần, Achentina 20%,
Brazil 20%, Cuba 19%, Urugoay 10%. Phát biểu về sự kiện này, Tổng thống Hugo
Chavez chỉ rõ: "Chúng ta là nạn nhân của sự độc quyền truyền thông của phương
Bắc. Họ phổ biến đến đất nước chúng ta những thông tin, những giá trị và mô thức
tiêu dùng xa lạ với thực tế của chúng ta và đó là công cụ rõ ràng của thống trị. Để
chống lại, chúng ta cần lập một kênh truyền hình phương Nam" [119, tr.86].
115
Nhằm tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, Venezuela đã tăng
cường hiện đại hoá quân đội với những hợp đồng mua sắm vũ khí và các trang thiết
bị kỹ thuật quân sự mới của nước ngoài do nguồn cung cấp vũ khí từ Mỹ và một số
nước phương Tây chấm dứt, Venezuela đã chuyển sang mua vũ khí của Nga, Trung
Quốc và một số nước khác. Tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang Venezuela
bao gồm 06 thành phần gồm Lục quân, Hải quân, Không quân, Vệ binh quốc gia,
Lực lượng dự bị và Lực lượng bảo vệ lãnh thổ.
Lục quân Venezuela có khoảng 34.000 quân, trong đó có 27.000 binh lính
triệu tập khẩn cấp, là lực lượng chính của lực lượng vũ trang, có nhiệm vụ tiến hành
các chiến dịch mặt đất và bảo vệ đường biên giới đất liền và biển. Lục quân chịu sự
lãnh đạo trực tiếp của Bộ quốc phòng và Tổng tư lệnh - Tổng thống Chavez, phần lớn
các sỹ quan lục quân được đào tạo tại Học viện quân sự ở ngoại ô Caracas. Các sỹ
quan cũng có thể theo học các khóa học sau đại học tại các trường đại học dân sự.
Ngoài ra, cũng có các sỹ quan học tập tại nước ngoài, chủ yếu được đào tạo tại Cuba.
Cơ cấu của Lực lượng Bộ binh bao gồm: 1 sư đoàn xe bọc thép, 3 sư đoàn bộ
binh, 1 sư đoàn bộ binh hạng nhẹ, 1 lữ đoàn đổ bộ không quân biệt lập, 3 trung
đoàn công binh biệt lập, 3 tiểu đoàn chỉ huy hàng không quân đội, 2 trung đoàn chỉ
huy hậu tuyến. Vũ khí của Lực lượng Bộ binh Venezuela bao gồm các trang thiết bị
sau: 81 xe tăng AMX-30, 109 xe tăng hạng nhẹ trong đó có 31 chiếc AMX-13 và
78 chiếc Scorpion-90, 431 thiết bị do thám trong đó có 42 máy bay Dragoon 300
LFV2, 79 chiếc V-100/-150 và 310 UR-53AR50 Tiuna, 71 xe vận tải bọc thép trong
đó có 25 chiếc AMX-VCI, 10 chiếc Transportpanzer 1, 25 chiếc Dragoon 300 APC,
11 chiếc Dragoon 300PC, 347 hệ thống pháo binh các loại trong đó có 25 hệ thống
phản lực hoả lực hàng loạt AMX-13/LAR-160 và 10 lựu pháo tự hành AMX-
13/Mle F.3 cỡ nòng 155mm, Tổ hợp tên lửa phòng không di động RBS-70 và
Mistral cũng như pháo tầm xa bao gồm 6 khẩu pháo tự hành AMX-13 Rafaga, 12
máy bay vận tải quân sự, 56 trực thăng bao gồm 10 trực thăng Mi-35, 20 trực thăng
vận tải quân sự Mi-17-1B và 20 chiếc Mi-26.
Ngoài ra, Lực lượng bộ binh còn sở hữu súng tấn công FAL và FNC, súng tiểu
liên Uzi cũng như AK-103 của Nga do Venezuela mua với số lượng 100.000 khẩu
nhằm thay thế cho súng tiểu liên đã cũ; súng trường M82, súng tiểu liên MP5 và P90;
súng lục các loại M-1935GP, Zamora, Glock 17/18, P226; súng liên thanh Minimi,
116
MAG, M2, M-60 và M-66. Ngoài ra, Lục quân Venezuela còn có súng cối Cazador,
M-19 và M-29A1 cũng như các tổ hợp chống tăng AT4 и MAPATS-2.
Lực lượng Không quân Venezuela có khoảng 7.000 người. Lực lượng tấn
công chủ lực của Không quân Venezue là 4 nhóm máy bay chiến đấu bao gồm máy
bay Mirage, F-5, F-16 và Su-30MK2. Số lượng máy bay F-16 sẵn sàng chiến đấu là
10 chiếc. Để vận chuyển quân đội, quân trang, đạn dược và những dụng cụ khác,
không quân nước này có thể sử dụng 48 máy bay vận tải quân sự và 23 trực thăng.
Lực lượng Phòng không có khoảng 10 tổ hợp tên lửa phòng không Barak, 10 pháo
cao xạ tự hành Roland cũng như tổ hợp RBS-70 và gần 230 pháo cao xạ.
Quân số của Lực lượng Hải quân Venezuela gồm 18.000 người trong đó có
7.000 lính đổ bộ hải quân. Vũ khí bao gồm 6 chiến hạm tên lửa, 2 tàu ngầm, tàu
tuần tra và đổ bộ cũng như tàu cứu hộ. Hàng không Hải quân có 3 máy bay chiến
đấu, 12 máy bay vận tải quân sự, 13 trực thăng vận tải quân sự. Vũ khí của bộ binh
thuỷ chiến bao gồm 38 xe vận tải bọc thép LVTP-7, 6 pháo tự hành M-42 cỡ nòng
40mm, 18 pháo M-56 cỡ nòng 105mm [90, tr.498].
Lực lượng vệ binh quốc gia - đây là lực lượng thực hiện chức năng bảo vệ an
ninh và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia dọc theo toàn bộ chiều dài biên giới, hợp tác với
các lực lượng khác, đồng thời tham gia vào các chiến dịch an ninh nội địa và phối
hợp với các lực lượng cảnh sát nhà nước và địa phương. Năm 2006, lực lượng vệ
binh quốc gia có khoảng 23.000 người [90, tr.499].
Với Cuba, Chính phủ Venezuela đã chủ động đề xuất trao đổi kinh nghiệm
xây dựng lực lượng cảnh sát, an ninh, gửi sỹ quan sang Cuba học tập. Mô hình Ủy
ban Bảo vệ cách mạng của Cuba đã được Venezuela vận dụng có hiệu quả, góp
phần bảo vệ được những thành quả cách mạng. Hai bên cũng đã ký kết thỏa thuận
hợp tác quân sự, theo đó tăng cường hợp tác trao đổi đào tạo sỹ quan giữa hai
trường sỹ quan cao cấp Venezuela và Cuba.
Với Liên bang Nga, Venezuela đã nhập khẩu của Nga nhiều loại vũ khí (24
máy bay tiêm kích Su-30, 38 trực thăng Mi-17V5, 3 Mi-26T2, 10 Mi-35M2,
100.000 súng Kalashnikov và 5.000 súng trường Dragunov) với tổng giá trị lên tới 5
tỷ USD. Năm 2009, Nga đã cấp cho Venezuela khoản tín dụng trị giá 2,2 tỷ USD để
117
mua vũ khí của Nga (92 xe tăng cơ sở T-72 và các hệ thống pháo phản lực bắn loạt
Smerch). Ngoài ra, Venezuela còn mua các loại vũ khí khác: 240 xe chiến đấu bộ
binh BMP-3 và xe bọc thép chở quân BTR-80A, các sở chỉ huy- quan sát đa năng
1V152, hệ thống súng cối- pháo tự hành Nona-SVK, súng cối tự hành Sani, bệ pháo
phòng không Zu-23-2, xe vận tải Ural-43206 và Ural-4320. Tại Venezuela đã triển
khai xây dựng nhà máy sản xuất súng trường tiến công tự động AK và nhà máy sửa
chữa bảo dưỡng trực thăng của Nga.
Năm 2010, khoản tín dụng của Nga cung cấp cho Venezuela tăng đến 4 tỷ
USD. Theo lời Thủ tướng Nga V. Putin, tổng giá trị khoản tín dụng mà Nga cung
cấp cho Venezuela có thể tăng lên đến 5 tỷ USD, con số này tăng đến 11 tỷ USD
năm 2011. Tổng thống Chavez tuyên bố rằng, Venezuela cần 600 xe tăng chủ lực và
các hệ thống phòng không. Tháng 09/2009, Tổng thống Chavez đã tuyên bố xây
dựng hệ thống phòng không tích hợp các hệ thống phòng không tầm ngắn, tầm
trung và tầm xa của Nga. Nga đã cung cấp cho Venezuela các tổ hợp Tor-M1, 1.800
tổ hợp tên lửa phòng không vác vai Igla-S.
Venezuela cũng tiến hành đàm phán với Nga để mua lô hàng Su-35, trực thăng
Mi-28N, các tổ hợp bảo vệ bờ biển cơ động, thuỷ phi cơ Be-200, các máy bay tuần tiễu
hải quân trên cơ sở IL-114, tàu tuần tiễu dự án 14310 Mirage, tàu đổ bộ đệm khí dự án
12061 Murena-E, tàu ngầm phi nguyên tử động cơ điện-diezel, trực thăng huấn luyện
Ansat. Ngoài ra, Nga còn đang đào tạo 45 quân nhân cho Venezuela tại Viện Kỹ thuật
Tăng Thiết giáp Omsk. Chính phủ Venezuela đã đặt hàng mua 18 máy bay huấn luyện
và máy bay tấn công hạng nhẹ K-8 của Trung Quốc. Venezuela cho biết các máy bay đa
năng K-8 có thể dùng để huấn luyện phi công, ngăn chặn buôn bán ma túy.
Có nhiều lý do khiến Venezuela mua sắm nhiều thiết bị quân sự mới,
tăng cường sức mạnh quân sự đó là ngăn chặn mối đe doạ ngày càng tăng
xuất phát từ các tổ chức buôn lậu ma tuý và chủ nghĩa khủng bố quốc tế, cũng
như những bất đồng liên quan đến vấn đề biên giới đang tồn tại. Ngoài ra,
củng kể đến các cuộc khủng hoảng đã xảy ra và có thể xảy ra và sự lên ngôi
của nhận thức cho rằng tăng cường sức mạnh quân sự là biện pháp khả thi để
củng cố chủ quyền trước mối đe doạ tấn công từ bên ngoài.
118
Tiểu kết chương 3
Ngay sau khi nắm quyền, Tổng thống Chavez đã đưa ra các chủ trương và
tiến hành hàng loạt biện pháp nhằm đấu tranh bảo vệ ĐLDT của Venezuela như
cải cách thể chế, bầu Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến pháp mới, thông qua một
loạt các luật và bộ luật. Đồng thời triển khai xây dựng mô hình phát triển mới thay
thế cho mô hình tự do mới trước đây với việc xây dựng một nhà nước pháp quyền
dân chủ, xã hội công bằng, một nền dân chủ tham gia; một chính quyền nhân dân,
của dân, do dân, vì dân và hàng loạt chương trình xã hội như cải cách ruộng đất,
xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục vì quyền lợi của đa số nhân dân lao động, đấu
tranh với lợi ích của GCTS trong và ngoài nước. Những cải cách chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh của Chính phủ Tổng thống
Chavez đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa, kinh tế phát triển với tốc độ cao,
liên tục trong nhiều năm. An ninh quốc phòng được giữ vững, các vấn đề xã hội
do ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do mới dần được giải quyết, đời sống vật chất và
tinh thần của người dân lao động được cải thiện đáng kể, mặt khác vị thế của
Venezuela trong khu vực và trên thế giới ngày càng được củng cố. Dưới sự lãnh
đạo của Tổng thống Chavez, phong trào cánh tả ở Venezuela có nhiều tiến bộ và
được xem là nước đi đầu trong việc xây dựng mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ
XXI. Phong trào cảnh tả ở Venezuela mang nhiều giá trị XHCN. Sự ra đời Đảng
PSUV là một nhân tố hết sức quan trọng và cùng với vai trò “thủ lĩnh” và uy tín
tuyệt đối của Tổng thống Hugo Chavez, trở thành hạt nhân đoàn kết các lực lượng
chính trị, các tầng lớp nhân dân Venezuela để vượt qua mọi khó khăn, thử thách,
tiến hành thành công cuộc Cách mạng Bolivar xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ
XXI” ở Venezuela.
119
Chương 4
ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC CỦA VENEZUELA TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2013
VÀ KINH NGHIỆM
4.1. ĐÁNH GIÁ CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Ở VENEZUELA
4.1.1. Về thành công
Sau gần bốn thập kỷ được áp dụng tại hầu hết ở các nước Mỹ Latinh, mô
hình chủ nghĩa tự do mới đã rơi vào khủng hoảng và bị hầu hết các nước trong khu
vực tẩy chay. Chủ nghĩa tự do mới tuy có thời điểm đã thúc đẩy kinh tế phát triển
nhưng đo là sự phát triển không bền vững, chứa đựng rủi ro, nó làm cho sự phân
cách giàu - nghèo vốn đã trầm trọng càng trầm trọng hơn. Trước sự khủng hoảng
của chủ nghĩa tự do mới, tại Mỹ Latinh, hàng loạt các chính phủ cánh tả, tiến bộ đã
lên cầm quyền và tiến hành đấu tranh bảo vệ ĐLDT với những cải cách khá sâu
rộng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh.
Có thể nói, công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela đã đạt được
những bước phát triển đáng khích lệ. Chính quyền Tổng thống Chavez đã giành
được sự ủng hộ của đại đa số dân chúng, đập tan âm mưu tổ chức chính biến lật đổ
chính quyền của phe đối lập với sự hậu thuẫn của lực lượng phản động ngoài nước
để tiếp tục nắm quyền lãnh đạo đất nước. Venezuela đã giương cao ngọn cờ chống
đế quốc, chống chủ nghĩa tự do mới, bảo vệ độc lập quốc gia và chủ quyền dân tộc,
bảo vệ nguồn tài nguyên và quyền lợi của đông đảo quần chúng. Những thành công
cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chính trị
Phải khẳng định rằng Chính quyền Tổng thống Chavez được lập nên không
phải bằng con đường đấu tranh vũ trang giành chính quyền mà bằng con đường
nghị trường - con đường hoà bình. Trên thực tế, việc chuyển giao quyền lực từ chỗ
nằm trong tay những người đại diện cho các chủ tư bản sang những người theo
đường lối cánh tả tiến bộ không bằng con đường đấu tranh vũ tranh, lật đổ, đập tan
như trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như trong thực tiễn hoạt động
120
chính trị mà chúng ta vẫn thường thấy mà bằng biện pháp hoà bình. Dĩ nhiên, dù là
giành chính quyền bằng biện pháp hòa bình thì việc chuyển giao quyền lực đồng
nghĩa với việc phế truất quyền thống trị của GCTS được thực hiện bằng các biện
pháp hiến định, và khẳng định quyền lực của GCCN cách mạng, buộc giai cấp khác
phải tuân theo một trật tự có lợi cho giai cấp lãnh đạo là GCCN được ghi nhận trong
hiến pháp. Đây là logic tất yếu khi một giai cấp tiến bộ lên thay thế một giai cấp lỗi
thời khác trong xã hội.
Trong Hiến pháp cũng như trên thực tế Venezuela dưới thời Tổng thống
Chavez quy định mọi công dân đều có quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng theo qui
định của pháp luật. Đồng thời, coi nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, mọi
đường lối chính trị phải phục vụ nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Ngược lại, về
phía người dân có trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi tham gia xây dựng chính
quyền, thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội, tham gia xây dựng một nhà nước
pháp quyền, công bằng xã hội.
Ngay từ khi lên nắm chính quyền, Tổng thống Chavez đã tiến hành hàng loạt
các cuộc cải cách mạnh mẽ, đặc biệt về thể chế, tiêu biểu nhất là việc tổ chức trưng
cầu dân ý về bản Hiến pháp mới, bầu Quốc hội lập hiến và Chính phủ để thực hiện
nhiều chính sách tiến bộ cho người dân lao động, đặc biệt là sửa đổi Luật Đất đai
theo hướng có lợi cho dân nghèo, để người nông dân từ chỗ không có ruộng đất
phải đi làm thuê cho địa chủ, nay đã có ruộng, đất để canh tác tự chủ.
Như vậy là, nếu trong lĩnh vực công nghiệp nhà nước đã quốc hữu hoá ngành
dầu mỏ - trụ cột kinh tế của đất nước, thì trong lĩnh vực nông nghiệp nhà nước cũng
tiến hành quốc hữu hoá đất đai, đồn điền và trao cho người nông dân. Điều này đã
cho phép Tổng thống Chavez có thể thực hiện các khát vọng lớn lao của mình là xây
dựng CNXH trên đất nước Venezuela để thay thế cho CNTB vô nhân đạo, tàn ác đã
tồn tại hàng chục năm trước đó.
Những đặc trưng lý tưởng của CNXH là xã hội không có người nghèo, mọi
người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, đều được bình đẳng, công bằng, được
sống trong hòa bình, được tôn trọng, được mưu cầu hạnh phúc. Điều đó đã trở thành
một trong những động lực to lớn để nhận thức của người dân thay đổi, họ hiểu rằng
121
chỉ có tự mình xây dựng CNXH thì quyền dân chủ thực sự mới được mở rộng, ước
mơ nguyện vọng của mình mới có thể trở thành hiện thực, điều này khác hẳn với xã
hội trước do chủ tư bản nắm quyền. Điều này lý giải tại sao Tổng thống Chavez đã
được đông đảo quần chúng lao động nhiệt liệt hưởng ứng, ủng hộ nhằm lật đổ chính
quyền của GCTS để lập nên chính quyền phục vụ nhân dân.
Ở đây chúng ta thấy có sự gặp gỡ nhau của cả hai khát vọng cháy bỏng xuất
phát từ hai nhóm người cùng một chí hướng là: quần chúng - những người lao động,
và người thủ lĩnh chính trị đã dẫn đến sự đổi thay mạnh mẽ của chế độ, mà biểu
hiện là những hành động dứt khoát, mạnh mẽ, đó là tịch thu, quốc hữu hoá đất đai,
tài sản của chủ tư bản để trao cho người dân, đó là xây dựng chế độ dân chủ, đảm
bảo cho mọi người dân có thể tham gia quản lý nhà nước.
Với mong muốn xây dựng CNXH đã thôi thúc Tổng thống Chavez trình
Quốc hội dự thảo sửa đổi 33 điều trong Hiến pháp 1999. Tất nhiên, Hiến pháp được
thông qua từ năm 1999 có nhiều điểm tiến bộ như: khẳng định vai trò của nhân dân
trong việc quyết định các vấn đề hệ trọng của đất nước; đổi tên nước từ Cộng hòa
Venezuela thành Cộng hòa Bolivar Venezuela để nhấn mạnh các tư tưởng của Anh
hùng giải phóng dân tộc Simon Bolivar về độc lập, tự do, công bằng, bình đẳng và
bác ái, pháp luật bảo vệ và phục vụ lợi ích đại đa số nhân dân lao động, pháp luật
thông qua các điều luật tiến hành quốc hữu hóa ngành dầu mỏ - nguồn thu chủ yếu
cho ngân sách nhà nước.
Tính ưu việt của chế độ xã hội XHCN là cơ sở mà đông đảo người dân không
chỉ ủng hộ cho Chính phủ mới lần đầu tiên lên nắm chính quyền, mà còn đồng tình
với việc xây dựng những thể chế dân chủ do chính phủ thực thi thông qua việc thu
hút được sự tham dự của quần chúng nhân dân. Về sau này, đường lối cách mạng tiếp
tục được ông và các đồng nghiệp bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh thực tế đất nước. Đó là đưa đất nước đi theo con đường XHCN.
Việc lựa chọn con đường CNXH của Venezuela là hợp qui luật lịch sử - tự
nhiên và hợp lòng dân, đây là cơ sở để Tổng thống Chavez đứng vững trên vị trí của
mình, đặc biệt qua các cuộc trưng cầu dân ý - được xem là sự sát hạch nghiệt ngã vì
các thế lực đối lập chống đối ông còn chiếm tỷ lệ khá lớn trong xã hội. Nền tảng tư
122
tưởng của “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” mà Tổng thống Chavez là kết hợp hài
hoà giữa chủ nghĩa Mác, tư tưởng cách mạng và tiến bộ của Simon Bolivar với
tinh thần bác ái của Thiên chúa giáo vốn tương đối phổ biến ở các quốc gia Mỹ
Latinh. Nét đặc thù của mô hình này không giống với nhiều quốc gia XHCN khác,
nét nổi trội của tâm lý xã hội của các dân tộc Mỹ Latinh nói chung và Venezuela
nói riêng là đời sống tình cảm phong phú, tính cách chan hoà, cởi mở kết hợp với
ảnh hưởng to lớn của các giá trị thế giới quan và giá trị đạo đức của đạo Thiên
chúa giáo, đó là lý tưởng về một xã hội công bằng, bình đẳng và đoàn kết xã hội
vốn mâu thuẫn với sự sùng bái tự do cá nhân, chủ nghĩa cá nhân ích kỷ cực đoan
vốn là cốt lõi lối sống của chủ nghĩa tự do mới.
Mục tiêu xây dựng xã hội đã được thể hiện cụ thể đó là: không có người
nghèo, mọi người đều được bình đẳng, công bằng; hòa bình với chính mình và hòa
bình với các dân tộc trên thế giới, đã trở thành một mục tiêu chung của các dân tộc bị
áp bức bóc lột trên thế giới nói chung và của các dân tộc ở Mỹ Latinh nói riêng.
Dường như không chỉ có phong trào yêu nước của một quốc gia mà hầu hết các quốc
gia ở lục địa này đều có chung khát vọng như vậy, đây là lý do giải thích tại sao con
đường cánh tả đi theo hướng XHCN đã diễn ra hầu như đồng loạt ở các quốc Mỹ
Latinh, tiêu biểu là từ Đảng Phong trào Nền cộng hòa thứ năm của Venezuela.
Xuất phát từ tính chất quan trọng và đặc biệt của tổ chức đảng chính trị,
bởi đảng không chỉ lãnh đạo quần chúng giành chính quyền mà còn tiếp tục thực
hiện sứ mệnh là đưa mọi người dân thoát khỏi cảnh đói nghèo, bất công, vươn
tới tự do, bình đẳng, hạnh phúc. Tổng thống Chavez đã lãnh đạo thành lập một
chính đảng tiền phong: Đảng PSUV, do Tổng thống Chavez làm Chủ tịch, đó là
tổ chức chính trị rộng lớn nhất, dân chủ và cách mạng để lãnh đạo đất nước.
Đảng PSUV nêu rõ: Đảng tự xác định là chính đảng XHCN, chống CNTB,
CNĐQ, vì lợi ích của giai cấp lao động và của dân tộc, lấy tư tưởng C.Mác, Ph.
Ăngghen, V.I. Lênin, S.Bolivar làm kim chỉ nam hoạt động. Đảng cũng tự khẳng
định nhiệm vụ của mình là phải rèn luyện đạo đức cách mạng, phê bình và tự phê
bình, áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, chống nguy cơ quan liêu, xa rời thực
tiễn, độc đoán, chuyên quyền.
123
Thứ hai, về kinh tế
Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, cùng với kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã tạo nên nền tảng vững chắc cho
nền kinh tế quốc dân. Điều này là hoàn toàn phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của
Venezuela vì trong giai đoạn đầu đi theo con đường XHCN nền kinh tế vẫn còn đan
xen giữa sản xuất lớn và sản xuất nhỏ. Kỹ thuật thủ công lạc hậu, trình độ cơ giới
hoá chưa cao, kỹ năng tổ chức quản lý sản xuất còn hạn chế nên quan hệ sản xuất
không thể chỉ tồn tại chế độ công hữu đơn nhất, thuần nhất mà chỉ có thể xây dựng
một cơ cấu sở hữu đa dạng phù hợp với LLSX còn ở trình độ thấp. Hơn nữa, việc đa
dạng hoá hình thức, cơ cấu sở hữu, có cả công hữu và tư hữu là phù hợp bởi không
nhất thiết chế độ công hữu phải chiếm tuyệt đại bộ phận thì tính chất XHCN mới
được khẳng định. Trên thực tế, tính chất XHCN, trước hết và chủ yếu là tuỳ thuộc
vào chế độ công hữu có chiếm địa vị chủ thể hay không, vốn công hữu có chiếm vị
thế ưu thế không, có quyền khống chế đối với nền kinh tế và trên hết là hiệu quả
hoạt động như thế nào, đó mới là vấn đề quan trọng.
Khẳng định nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần tức là nhà nước đã thừa nhận
tính hợp pháp của các hình thức sở hữu về TLSX, cũng có nghĩa là pháp luật tôn
trọng và bảo vệ sự đa dạng về lợi ích của các tầng lớp dân cư, các tầng lớp, các
tập đoàn người trong xã hội. Tất nhiên, việc thừa nhận sự tồn tại khách quan của
nền kinh tế nhiều thành phần đi liền với khẳng định nền kinh tế này là nền sản
xuất hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN cần có
sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, bởi vì pháp luật không chỉ là ý chí của
giai cấp thống trị cầm quyền mà còn là khế ước xã hội mà mọi cá nhân và tổ
chức tự nguyện cùng tuân thủ để bảo vệ sự đồng thuận về lợi ích chung của cả
cộng đồng. Trong Hiến pháp Venezuela đã khẳng định mọi người có quyền bình
đẳng, được tự do buôn bán trong khuôn khổ pháp luật, pháp luật bảo hộ quyền tự
do sản xuất kinh doanh của mọi cá nhân, công dân cũng như của các tổ chức.
Nói cách khác, nhà nước đã pháp luật hoá các quyền làm chủ trực tiếp của người
lao động đối với quá trình sản xuất, kinh doanh, phân phối sản phẩm và làm
nghĩa vụ đóng thuế với nhà nước.
124
Đáng lưu ý là trong quá trình thực hiện cải cách kinh tế, thực hiện cơ
chế thị trường định hướng XHCN, Venezuela đã mạnh dạn tiếp thu có chọn
lọc một số giải pháp tích cực từ các quốc gia XHCN khác, ví như kết hợp kế
hoạch với thị trường, tăng cường quyền tự chủ của doanh nghiệp, hạn chế sự
can thiệp của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Điều này thể hiện rõ ngay khi chính quyền mới được xác lập, chính phủ
khuyến khích các doanh nghiệp tự chủ trong sản xuất kinh doanh, bản thân
nhà nước chỉ làm chức năng giám sát hoạt động này có theo pháp luật hay
không, thu thuế, cố gắng hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp vào hoạt động
của các doanh nghiệp.
Để đạt được những mục tiêu kinh tế tổng quát, ngay từ khi Chính quyền
Tổng thống Chavez mới được thiết lập đã tập trung quốc hữu hoá các nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt là nguồn dầu mỏ to lớn vốn nằm trong tay
các nhà tài phiệt trong nước cũng như chủ tư bản nước ngoài để phục vụ mục đích
phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu và lợi ích của nhân dân.
Bên cạnh việc tiến hành quốc hữu hoá, thì nhà nước cũng thành lập mới
nhiều doanh nghiệp hoặc liên doanh với nước ngoài, đặc biệt trong các ngành then
chốt, mũi nhọn trong nền kinh tế, như ngân hàng, phát thanh truyền hình, khai thác
mỏ, chế tạo cơ khí, năng lượng điện nhằm nâng cao vị thế của kinh tế nhà nước và
đối trọng với kinh tế tư bản tư nhân. Việc nhà nước nắm quyền chi phối, nắm TLSX
chủ yếu, xác lập sự kiểm soát đối với một số ngành, bộ phận kinh tế quan trọng như
dầu mỏ, khai khoáng và thực hiện các chính sách xã hội cũng chính là khắc phục sự
tha hoá của lao động vốn là nguồn gốc tha hoá con người, để rồi gắn kết chặt chẽ
người lao động với TLSX cũng là thể hiện bản chất của chế độ xã hội mới tiến bộ
hơn chế độ xã hội do chủ tư bản nắm quyền thống trị, đã góp phần hiện thực hoá
mục tiêu của mô hình CNXH: mọi người đều được sống trong hoà bình, ấm no, tự
do, bình đẳng, không bất công và đói nghèo.
Với quan điểm xoá bất công, xoá đói nghèo, thực hiện phân phối như vậy
Venezuela đã giải quyết được vấn đề khó trên con đường phát triển, ở chỗ vừa tránh
chủ nghĩa bình quân, vừa tránh phân hoá hai cực: người thì quá giàu, người thì quá
125
nghèo, tạo ra động lực tốt để mọi người hăng say cống hiến cho xã hội, qua đó họ
cũng được thụ hưởng xứng đáng kết quả lao động do mình làm ra.
Trước khi chính quyền mới do Tổng thống Chavez được thành lập,
Venezuela mặc dù có 30 triệu ha đất trồng trọt, nhưng 70% lượng lương thực, thực
phẩm lại phải nhập từ nước ngoài, 80% đất đai được canh tác lại nằm trong tay
của 5% đại điền chủ. Là quốc gia có tiềm năng dầu mỏ thứ 6 trên thế giới và đứng
thứ 5 về sản lượng khai thác nhưng lại có tới 80% dân sống ở mức nghèo khổ,
dưới 2 USD/ngày. Cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính càng làm cho những khoản
nợ nước ngoài của các quốc gia thêm chồng chất, đặt đất nước trước bờ vực của sự
sụp đổ kinh tế [20].
Các quốc gia Mỹ Latinh nói chung và Venezuela nói riêng một thời gian dài
vẫn được biết đến như là sân sau CNTB Bắc Mỹ, nền kinh tế mặc dù có nguồn tài
nguyên được thiên nhiên ưu đãi nhưng lại lệ thuộc trầm trọng vào chủ tư bản nước
ngoài, cụ thể là hầu hết các quốc gia này đều nợ nước ngoài trong suốt hàng chục
năm. Trên thực tế, là sân sau của CNĐQ nên người dân không chỉ đã quá mệt mỏi
với nghèo đói, áp bức, bất công, mà họ còn phải gánh chịu nỗi cực nhọc cũng như
quá chán ngán với tình cảnh tham nhũng trầm trọng của quan chức chính phủ.
Chính vì vậy, việc quốc hữu hoá nguồn tài nguyên, quốc hữu hoá các cơ sở sản xuất
của các ông chủ dầu mỏ là tất yếu, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất
nước lúc bấy giờ, đó là đem lại công ăn việc làm cho người lao động.
Lao động, việc làm là vấn đề nổi lên hàng đầu cần giải quyết khi Chính
quyền Tổng thống Chavez lên nắm quyền lãnh đạo đất nước. Nhưng khác biệt là ở
chỗ: không chỉ là giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động mà còn là xây
dựng cơ sở vật chất cho CNXH, tạo nhân tố vững chắc cho nền ĐLDT. Xem ngành
dầu mỏ là ngành kinh tế mũi nhọn, nguồn tài nguyên dầu mỏ đóng vai trò quyết
định trong việc tạo nguồn vốn ngoại tệ, tạo cơ sở cho đầu tư sản xuất nội địa, có vị
đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển LLSX, củng cố địa vị của thành phần
kinh tế nhà nước nên có chủ trương khẳng định trước sau như một chủ quyền nguồn
tài nguyên thiên nhiên dầu mỏ với việc hội nhập với khu vực và trên thế giới. Để
thực hiện được công việc khó khăn phức tạp này chính phủ không chỉ có thực hiện
126
quốc hữu hoá mà còn phải bỏ ra những khoản tiền khổng lồ mua cổ phiếu của các
công ty, tập đoàn nước ngoài nhằm nắm quyền khống chế đối với các tổ hợp sản
xuất này cũng như giữ vị thế đối trọng với kinh tế tư nhân CNTB.
Như vậy là mục tiêu kép đã được Chính quyền Tổng thống Chavez giải quyết
khá thành công, đó là vừa khắc phục sự bất bình đẳng về mặt xã hội, đảm bảo cho
mọi người dân có điều kiện làm việc, có công ăn, việc làm, không bị thất nghiệp,
không phải chịu sự bóc lột bất công vô lý của chủ tư bản, vừa xây dựng cơ sở vật
chất cho một chế độ xã hội mới mà ở đó mọi người được giải phóng khỏi mọi áp
bức bất công, mọi người đều được mưu cầu hạnh phúc, có cuộc sống ấm no.
Thứ ba, về văn hoá - xã hội
Khi Tổng thống Chavez lên nắm quyền lãnh đạo đất nước, nhiệm vụ hàng
đầu đặt ra trong đời sống xã hội là giải quyết những đòi hỏi thực tế, thiết thực của
người dân. Đó là những nhu cầu về ăn, ở sinh hoạt, được tự do đi lại, học tập, được
nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, được chăm lo sức khoẻ. Bởi vậy, cùng với
việc thực thi các quyết sách chính trị, chính sách kinh tế đúng đắn thì việc đề ra các
chính sách xã hội tập trung vào con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng nhằm
phát huy tối đa các năng lực bản chất của con người.
Chính quyền Tổng thống Chavez ngay từ khi lên nắm quyền đã coi vấn đề giáo
dục là sự đầu tư cơ bản và lâu dài, là quốc sách, gốc rễ của sự phát triển và tác nhân
văn hoá để phát triển con người, bởi bình luận, nhận xét đến con người không thể tách
rời đến giáo dục đào tạo, tách rời kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, mục tiêu
trước mắt khi nền kinh tế vừa mới được khôi phục, nhiệm vụ đặt ra cho Chính phủ là
tạo điều kiện cho mỗi con người có quyền được sống, được học tập, được lao động sản
xuất và hưởng thụ các kết quả lao động do mình làm ra. Cùng với giáo dục phổ thông
thì giáo dục đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề cũng nhận được sự
hỗ trợ tích cực từ nhà nước mà bằng chứng cụ thể là học sinh, sinh viên được nhận học
bổng, không phải đóng tiền. Các sinh viên nghèo học giỏi được Chính phủ cấp học
bổng đi học ở nước ngoài để sau này trở lại phục vụ đất nước.
Quan tâm đến cải thiện dịch vụ y tế, chăm lo sức khỏe của người dân, tạo
công ăn việc làm cho các tầng lớp dân cư, hỗ trợ tín dụng cho người nghèo để phát
triển khu vực kinh tế gia đình luôn là mối quan tâm hàng đầu của chính phủ. Cùng
127
với tốc độ phát triển của nền kinh tế ngân sách chính phủ dành cho vấn đề xã hội
liên tục gia tăng, số bệnh viện, trung tâm y tế, trạm xá, trường học đang được xây
mới có sự tăng mạnh về số lượng và qui mô, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa
trung tâm, đô thị kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Đây là một bước tiến vượt bậc
trong lịch sử của đất nước vì trước khi Tổng thống Chavez lên nắm chính
quyền,Venezuela là đất nước đói nghèo, nạn mù chữ lan rộng trên cả nước, phân
hoá giàu nghèo, bất công xã hội gia tăng không ngừng.
Là một quốc gia có nền văn hóa đậm đà bản sắc truyền thống, hiểu sâu sắc
văn hoá chính là nền tảng, là gốc rễ và động lực của sự phát triển không chỉ ở nghĩa
nghĩa hẹp mà còn ở cả nghĩa rộng của nó nên Chính quyền đã đề ra nhiều chính
sách tôn trọng, bảo tồn, phát huy và giữ gìn những bản sắc văn hoá truyền thống kết
hợp có chọn lọc tinh hoa văn minh văn hoá nhân loại, đảm bảo hội nhập về văn hoá
nhưng không lai căng, hoà tan nền văn hoá dân tộc với các nền văn hoá của CNTB.
Những chủ trương và chính sách tiến bộ về xã hội, văn hoá, giáo dục này đã
cho phép Tổng thống Chavez thu hút, tập hợp đông đảo tầng lớp dân nghèo ủng hộ
Chính phủ. Đồng thời cũng nhờ có đường lối kinh tế tiến bộ mà Ông đã đứng vững
trong cuộc đấu tranh với các thế lực đối lập ở Venezuela và giành thắng lợi vang
dội trong các cuộc bầu cử. Sự thắng thế của Tổng thống Chavez đã phản ánh sự
thắng thế của phong trào tiến bộ trên thế giới nói chung và khu vực Mỹ Latinh nói
riêng gồm: Brazil, Bolivia, Chile, Argentina, Panama, Paraguay, Nicaragua,
Ecuador vốn là sân sau của Mỹ, đồng thời phản ánh cục diện chính trị kinh tế ở khu
vực Mỹ Latinh đã có sự thay đổi mạnh mẽ, dấu hiệu sụp đổ của CNTB ở châu Mỹ
Latinh là khá rõ ràng từ bản chất xấu xa bóc lột và chiến tranh của nó cũng như
khẳng định bản chất tốt đẹp của CNXH đang là mục tiêu cần hướng tới của xã hội
loài người nói chung và ở đất nước Venezuela nói riêng.
Thứ tư, về đối ngoại, quốc phòng, an ninh
Đối ngoại, quốc phòng, an ninh, là những vấn đề quan trọng để hợp nên
chỉnh thể của công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela. Trong xây dựng đất
nước, Tổng thống Chavez luôn quan tâm đến bảo vệ đất nước, tăng cường mua sắm
vũ khí trang bị quân sự, tăng cường ngân sách quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ
trang, gia tăng sức mạnh quốc phòng, an ninh bảo vệ đất nước, đẩy mạnh chống
khủng bố, chống lệ thuộc, phụ thuộc vào Mỹ và phương Tây.
128
Thúc đẩy tăng cường liên kết, hợp tác và đoàn kết khu vực là một hướng ưu
tiên, thể hiện rõ nét chủ nghĩa quốc tế của “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”. Tổng
thống Hugo Chavez tuyên bố rằng “Không có sự thống nhất, Mỹ Latinh không có
đường nào để tiến về phía trước” [71].
Venezuela nổi lên như là quốc gia cánh tả cấp tiến nhất với lập trường chống
đế quốc mạnh mẽ, thi hành những biện pháp mang tính cách mạng cao. Để thực
thi điều đó, Chính phủ đã thành lập các Ủy ban Bolivar ở tất cả các cộng đồng
dân cư với chức năng tham gia quản lý xã hội và bảo vệ cách mạng, bảo vệ
ĐLDT, chủ quyền đất nước. Đường lối đối ngoại theo hướng mở rộng hợp tác
với các nước châu Âu, châu Á, ủng hộ quá trình dân chủ hoá các quan hệ quốc
gia và cải tổ Liên hợp quốc, mở rộng tính đại diện của Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc. Ủng hộ cuộc đấu tranh chống khủng bố, chống chính trị cường
quyền, vì một trật tự thế giới mới dân chủ và bình đẳng, vì hoà bình, ĐLDT,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Đoàn kết, ủng hộ với Cuba, phản đối chính sách cấm
vận của Mỹ đối với đất nước này. Venezuela đã thiết lập lại quan hệ ngoại giao
đặc biệt với Cuba, Cuba cung cấp cho Venezuela hàng chục ngàn chuyên gia kỹ
thuật, đặc biệt là đội ngũ bác sỹ, các vận động viên, giáo viên... có trình độ cao,
tới 30.000 người, Venezuela cung cấp cho Cuba đến 90.000 thùng dầu với giá
ưu đãi chỉ bằng 1/2 giá hiện tại mỗi ngày để lọc hoá dầu và tái xuất khẩu, đẩy
mạnh các hoạt động đối ngoại với các nước thuộc Phong trào Không liên kết,
các nước XHCN, chống CNĐQ, ủng hộ cuộc đấu tranh vì hoà bình, ĐLDT và
tiến bộ xã hội của các nước trên thế giới [20].
Đối với Nga và Trung Quốc, Venezuela không chỉ xem các quốc gia này là bạn
hàng lớn mà còn coi đây là bạn hàng chiến lược, vừa nhằm gia tăng nguồn thu ngoại tệ
mà quan trọng hơn là góp phần trong nỗ lực giảm bớt lệ thuộc vào Mỹ.
Việc mở rộng và tăng cường đoàn kết, hợp tác giữa Venezuela với các quốc
gia Mỹ Latinh, tăng cường quan hệ hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới trên
tinh thần hợp tác các bên cùng có lợi, đấu tranh vì một thế giới dân chủ, hoà bình và
góp phần củng cố sự ổn định khu vực là chủ trương chung, nhất quán của
Venezuela dưới thời Tổng thống Hugo Chavez.
129
4.1.2. Về chưa thành công
Bên cạnh những điểm thành công trên các lĩnh vực trong công cuộc đấu
tranh bảo vệ ĐLDT như đã đề cập ở trên, những khó khăn thách thức còn rất lớn,
phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khách quan và chủ quan, vào mức độ giải quyết
mọi khó khăn, thách thức như sau:
Một là, nhiều thiết chế bất lợi hoặc tiêu cực của hệ thống chính quyền cũ
chưa được loại bỏ hết hoặc không thể loại bỏ được, liên minh cầm quyền gồm
nhiều lực lượng theo các khuynh hướng chính trị khác nhau, do lực lượng tham
gia rất đa dạng, với nhiều lợi ích khác nhau nên chưa thật thống nhất và bền
vững. Tuy Chính quyền của Tổng thống Chavez đã nhận thức được nhu cầu bức
thiết của việc thành lập một chính đảng duy nhất, song đây không phải là một
nhiệm vụ dễ dàng trong bối cảnh cánh tả Venezuela hết sức đa dạng về khuynh
hướng tư tưởng và tổ chức.
Trong khi thực hiện tư tưởng dân chủ cách mạng còn gọi là dân chủ tham gia
mới chỉ hoàn chỉnh về mặt hình thức, nội dung và cách thực hiện còn thiếu sót, mâu
thuẫn. Cơ chế phát triển trưng cầu ý dân có tác dụng hai mặt: lực lượng cánh tả khó
giữ được quyền lực khi tâm lý dân chúng có sự dao động và thể hiện qua lá phiếu
trưng cầu. Tính thống nhất trong lực lượng cánh tả chưa cao, còn lỏng lẻo, tình
trạng bè phái, bất phục tùng lãnh đạo và mâu thuẫn nội bộ còn nhiều. Việc bầu cử
phổ thông ở nhiều nơi, nhiều vùng bị tố cáo là kết quả gian lận theo hướng của phe
cầm quyền. Phe đối lập hay còn gọi là cánh hữu và thân hữu đã hồi phục mạnh, qua
bầu cử đã giành được quyền lực tại nhiều địa phương và đang cạnh tranh ảnh hưởng
gay gắt với quyền lực cánh tả tại trung ương.
Ðảng PSUV ra đời từ thắng lợi của phong trào cánh tả, được quần chúng
đồng tình, ủng hộ, từ uy tín của Tổng thống Chavez trên cương vị lãnh tụ, ngọn
cờ, ra đời từ trong lòng Chính phủ mới, Quốc hội mới mà đảng viên PSUV
chiếm đa phần đại biểu. Vì vậy, đây chưa phải hoàn toàn là một chính đảng tiên
phong, có đường lối cách mạng rõ ràng, đầy đủ ban lãnh đạo, mặc dù PSUV có
gần một triệu người được cấp thẻ trong tổng số hàng triệu người ghi tên ủng hộ
Ðảng. Ban lãnh đạo PSUV cho rằng, để giữ chính quyền, xác định được quyền
lực trong xây dựng, bảo vệ đất nước, phải có một đảng chính trị, một đường lối
130
cách mạng khoa học. Trước đó, mọi hoạt động cách mạng chỉ là thực hiện chủ
trương, khẩu hiệu tập hợp lực lượng. Ðiều đặc biệt này xuyên suốt trong tiến
trình cách mạng của Venezuela. Ðường lối kinh tế, xã hội của Ban lãnh đạo
PSUV cũng mới chỉ hình thành những đường nét chính cơ bản, những mong
muốn, dự định nhiều hơn là chủ trương, kế hoạch rõ ràng.
Hai là, kinh tế chưa phải là một nền kinh tế phát triển bền vững, chứa đựng
nhiều rủi ro, kinh tế phụ thuộc lớn vào dầu mỏ. Trong lúc gia dầu thế giới lên cao,
kinh tế tăng trưởng mạnh, nhà nước có đủ ngân sách để đảm bảo cho đời sống của
nhân dân và thực hiện những chương trình xã hội của mình, nhưng khi giá dầu
xuống thì nền kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn. Venezuela đã nhiều lần chứng minh
rằng các chu kỳ phát triển của nước này đều gắn với giá dầu tăng, giảm trên thế
giới, cứ mỗi lần giá dầu xuống mạnh là Venezuela lại rơi vào khủng hoảng và bùng
nổ xã hội lại xảy ra. Thực tế nền kinh tế Venezuela cho thấy rất rõ, hàng năm nhà
nước phải chi hàng chục tỉ USD để bao cấp cho các doanh nghiệp nhà nước và tập
thể, để trợ giá hàng hóa cho xuất, nhập khẩu, đặc biệt để thực hiện các chương trình
xã hội của mình. Tất cả nguồn kinh phí đó đều do PDVSA cung cấp. Khi nguồn
kinh phí này không còn, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể sẽ khó khăn, khủng
hoảng, các chương trình xã hội không thể duy trì thì lòng tin của nhân dân vào
chính phủ sẽ giảm sút. Chính phủ Venezuela đã có cố gắng thúc đẩy phát triển các
ngành sản xuất phi dầu mỏ và bước đầu đã có những thành quả nhất định. Tuy
nhiên, ở Venezuela khả năng phát triển của các ngành này hạn chế, nhiều người dân
có quan niệm là với nguồn dầu mỏ dồi dào thì không nhất thiết phải phát triển các
ngành công nghiệp khác.
Thực tế, Venezuela vẫn nhập hầu như toàn bộ hàng hóa tiêu dùng, lương
thực, thực phẩm. Tổng thống Chavez từng tuyên bố, đối với Venezuela, dầu mỏ vừa
là phước, vừa là họa; may mắn nếu giá dầu lên cao, còn tai họa, nếu giá dầu xuống
thấp. Có thể nói đây là một thách thức lớn đối với cách mạng Venezuela trong quá
trình đấu tranh bảo vệ ĐLDT của mình, nếu không giải quyết triệt để thì khi giá dầu
thế giới giảm xuống, nền kinh tế rất dễ rơi vào lệ thuộc và mục tiêu định hướng
“Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” khó có thể giữ được.
131
Trong khi các ngành kinh tế chiến lược đang dần dần được quốc hữu hóa, kinh
tế Nhà nước đang ngày càng nắm giữ vai trò chủ đạo, chi phối và định hướng sự phát
triển của đất nước. Việc chuyển giao ruộng đất từ giới địa chủ sang cho nông dân
nghèo nặng tính lý thuyết, ít khả thi. Việc đa dạng hóa các loại hình sở hữu chưa
được hiện thực hóa cao, thực tế sở hữu tư nhân vẫn là loại hình sở hữu quan trọng
nhất, lớn mạnh nhất, việc đẩy mạnh hơn nữa việc quốc hữu hóa các doanh nghiệp tư
nhân không mang tính chiến lược chưa phải là chính sách đúng đắn. Tháng 03/2008,
Venezuela quốc hữu hóa Nhà máy sữa Andes của các doanh nghiệp trong nước,
tháng 04/2008, quốc hữu hóa các nhà máy Cemex - Venezuela của Mexico - giá trị
900 triệu USD; Holcim của Thụy Sĩ - 440 triệu USD và Lafage của Pháp - 199,3 triệu
USD. Đây là những doanh nghiệp không lớn, hoạt động tại các ngành không phải
chiến lược [70, tr.113]. Vấn đề này đang gây lo ngại cho các chủ doanh nghiệp; nhiều
người cho rằng ở nhiều ngành, kinh tế tư nhân làm tốt hơn kinh tế nhà nước và không
nhất thiết phải quốc hữu hóa tất cả. Nếu không giải quyết đúng đắn vấn đề này thì rất
có thể chính sách sẽ gây phản cảm, ảnh hưởng tới nhịp độ, hiệu quả và chất lượng
phát triển của nền kinh tế.
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn chưa có lãi hoặc lãi
suất thấp, một số mô hình kinh tế mới được đưa vào thực hiện như kinh tế xã hội,
kinh tế nội sinh vẫn đang ở trong giai đoạn thử nghiệm. Nhiều xí nghiệp, hợp tác xã
theo mô hình này hoạt động chưa hiệu quả, năng xuất lao động chưa cao, nặng
nề hình thức, phô trương, phong trào, các mô hình này duy trì được phần lớn
vẫn là do có Chính phủ trợ cấp trong sản xuất và bao cấp trong thu mua sản
phẩm. Sản phẩn các mô hình này chất lượng không cao, công nghệ lạc hậu, chủ
yếu dựa vào sản phẩm thủ công nên tính cạnh tranh kém, khó có thể tồn tại
được trong điều kiện tự do cạnh tranh, nếu Nhà nước ngừng bao cấp, trợ giá thì
các hợp tác xã, xí nghiệp tập thể này khó có thể sống sót, nguy cơ phá sản cao.
Chính sách trợ giá sản phẩm và duy trì tỷ giá hối đoái ở mức cố định đang làm
nảy sinh nhiều vấn đề. Ở Venezuela luôn tồn tại đồng thời hai tỷ giá hối đoái,
tỷ giá chính thức được duy trì ở mức 2150 Bolivar/1USD, tỷ giá chợ đen là hơn
4000 Bolivar/1USD sau đổi tiền là 4 Bolivar/1USD [85]. Giá hàng hóa cũng có
hai loại, giá được nhà bao cấp thấp hơn giá tự do khoảng 30 - 40%. Chính sách
132
này đang khuyến khích các công ty tư nhân nhập khẩu hàng hóa và triệt tiêu
động lực của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Đây cũng là nguyên
nhân làm cho các ngành kinh tế phi dầu mỏ không phát triển được, các cửa hàng
thu đổi ngoại tệ của ngân hàng chỉ mua chứ không bán.
Venezuela thành lập các tổ chức, hợp tác xã và doanh nghiệp dịch vụ cộng đồng
nhằm tạo việc làm, nhà nước sẽ cấp vốn và kỹ thuật ban đầu để người lao động có thể
triển khai dự án của mình. Tuy nhiên, đa phần những dự án làm ăn chưa hiệu quả do cơ
chế sản xuất chưa khuyến khích người lao động, cơ chế giám sát từ phía nhà nước chưa
chặt chẽ, ý thức của người lao động chưa cao, trình độ chuyên môn và quản lý hạn chế,
công nghệ lạc hậu. Thậm chí nhiều dự án có tính khả thi rất cao nhưng do chưa có cơ
chế giám sát và chế tài cụ thể nên sau khi nhận vốn, chủ dự án dùng tiền đó để chia
nhau, làm cho dự án phá sản, Nhà nước thất thoát nguồn vốn.
Một điểm hạn chế trong nền kinh tế của Venezuela là sự phát triển chưa thực
sự bền vững, những tác nhân bên ngoài chưa ổn định có thể chi phối tới nền kinh tế.
Điển hình những hệ lụy của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, giá nhiều mặt
hàng thiết yếu tăng mạnh, đặc biệt là lương thực, thực phẩm đẩy lạm phát lên cao
làm đồng Bolivar mất giá nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn,
mức sống nhân dân lao động vốn đã thấp ngày càng thấp hơn. Trong khi đó, tận
dụng tình hình này, phe đối lập đã hạn chế nhập khẩu hàng hóa, tạo ra sự khan hiếm
giả tạo, đẩy giá hàng hóa lên cao hơn nhiều mức bình thường. Mặc khác, nhiều chủ
trang trại còn cố tình bán sản phẩm nông nghiệp ra nước ngoài, đẩy giá lương thực
lên cao hơn nữa, gây tâm lý hoang mang, làm người dân mất lòng tin vào Chính
phủ. Hệ thống các cửa hàng bán giá ưu đãi tuy giá rẻ hơn, nhưng chưa đủ khả năng
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, tại các cửa hàng này thường xuyên
diễn ra cảnh xếp hàng và việc mua hàng tại cửa hàng này ngày một khó.
Ba là, chủ nghĩa thủ lĩnh ở các nước Mỹ Latinh nói chung và ở Venezuela
nói riêng quá lớn, có cả những thuận lợi và thách thức. Đây cũng là một đặc điểm
chung, dễ thấy của hầu hết các cuộc cách mạng ở khu vực Mỹ Latinh. Có thể nói, ở
Venezuela, việc đoàn kết các lực lượng cách mạng, giành thắng lợi trong bầu cử
hay công cuộc cách mạng có phát triển tiếp tục không đều phụ thuộc vào vai trò của
133
Tổng thống Hugo Chavez. Nếu Ông không còn nắm quyền Tổng thống thì ai có thể
thay thế và những thành tựu cách mạng sẽ khó có thể giữ được. Ngay hoạt động của
PSUV và sự điều hành của Chính phủ Venezuela cũng phụ thuộc quá nhiều vào cá
nhân Tổng thống. Ví dụ như Tổng thống có thể nhanh chóng quyết định điều một vị
Phó Tổng thống đi làm quận trưởng, một nữ bộ trưởng đi làm giám đốc một công ty
dầu mỏ. Tổng thống cũng trực tiếp đưa ra và quyết định thực hiện các chính sách,
chương trình hành động. Đây là điểm thuận lợi để tạo điều kiện cho Tổng thống có
hành động quyết đoán, chủ động trong lãnh đạo đảng, điều hành Chính phủ. Nhưng
đây cũng là gót chân A-sin của cách mạng Venezuela mà phe đối lập có thể triệt để
khai thác để chống phá.
Chủ nghĩa thủ lĩnh của Mỹ Latinh còn có những hạn chế của nó. Trong thời
kỳ cách mạng, việc đưa ra các quyết sách tức thì của thủ lĩnh có tác dụng đẩy nhanh
hoặc là mầm mống của sai lầm, độc đoán đều là những điều có thể xảy ra. Ngay cả khi
uy tín của Ông Chavez cao cũng làm nảy sinh tâm lý ít người dám nói ngược lại với ý
kiến của Tổng thống. Những ý kiến ngược chiều - có khi bị cho là vấn đề quan điểm -
khiến cho một vài lãnh đạo và đảng trong liên minh cầm quyền trở thành đối lập và kéo
theo là những đảng viên của các đảng này. Họ cũng không còn ủng hộ Tổng thống như
trước. Bản lĩnh đảm nhận trọng trách trước quốc gia dân tộc là điều cần thiết với một
chính trị gia nhưng nếu không chú ý đầy đủ đến việc nuôi dưỡng đội ngũ lãnh đạo kế
cận và phát huy tính tích cực chính trị của quần chúng thì cách mạng sẽ gặp khó khăn,
nếu thủ lĩnh chính trị bị mất vị thế quyền lực hoặc bị ám sát. Vì thế, sự lo ngại của
không ít người về việc sau khi Tổng thống Chavez qua đời ngày 05/03/2013, thì việc
người kế nhiệm Ông là Nicolas Maduro có còn tiếp tục giữ vững được ngọn cờ thiên tả
hay không không phải là không có cơ sở. Cuộc cách mạng Bolivar và “Chủ nghĩa xã
hội thế kỷ XXI” liệu có thay đổi sắc màu và mục đích của mình nếu như người nắm
giữ quyền lực không còn là Ông Hugo Chavez - đó là một câu hỏi lớn đặt ra đối với sự
phát triển của trào lưu XHCN ở Mỹ Latinh trong tương lai.
Bốn là, giáo dục và y tế phát triển theo bề rộng, mang tính phong trào nên
chất lượng không cao. Nhiều nơi, sau khi được xóa mù nhưng do không có điều
kiện học tiếp nên rất có khả năng sẽ có hiện tượng tái mù. Trong thực tế, chất lượng
134
của các trường công lập ở Venezuela kém các trường tư thục kể cả bậc phổ thông
lẫn đại học. Con em GCTS và trung lưu có điều kiện kinh tế tốt hơn nên được đầu
tư cho học tập nhiều hơn, trong khi đó, con em người dân lao động, do vừa phải
học, vừa phải làm để trợ giúp gia đình nên điều kiện học tập ít hơn, nhiều học sinh
phải bỏ học giữa chừng nên cơ hội học tiếp đại học là rất khó. Tuy có sự hỗ trợ của
Nhà nước và Cuba, con em người lao động đã có cơ hội tiếp cận với giáo dục đại
học, nhưng số lượng đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước. Trong
lĩnh vực y tế, Venezuela có được những thành tựu bước đầu rất đáng trân trọng, đại
đa số người dân đã được hưởng các dịch vụ y tế miễn phí. Tuy nhiên, cũng giống
như giáo dục, do phát triển theo bề rộng nên chất lượng dịch vụ y tế chưa cao, các
nhân viên y tế được đào tạo cấp tốc nên trình độ còn hạn chế. Vấn đề thuốc chữa
bệnh đối với người nghèo cũng chưa được giải quyết, dịch vụ khám chữa bệnh và
các loại thuốc chữa bệnh thông thường được nhà nước bao cấp gần như miễn phí,
tuy nhiên, những dịch vụ đòi hỏi sự hỗ trợ của các thiết bị công nghệ cao và các loại
biệt dược thì không thể người lao động nào cũng có điều kiện để tiếp cận được, hơn
nữa, do số lượng các trung tâm y tế nhà nước chưa đủ để phục vụ nhu cầu người
dân nên hiện tượng xếp hàng dài chờ khám bệnh khá phổ biến.
Năm là, vấn đề an ninh chưa được giải quyết triệt để, đặc biệt là các khu lao
động, tội phạm có giảm nhưng vẫn trầm trọng. Venezuela là quốc gia có tỷ lệ án
mạng và bạo lực đứng hàng đầu trên thế giới. An ninh, trật tự xã hội đang là vấn đề
nóng bỏng, nạn trộm cướp hoành hành, phủ bóng nặng nề lên đời sống của người
dân, nhất là đối với khách du lịch và người nước ngoài đến làm việc. Ngay ở thủ đô
Caracas, những vụ tội phạm sử dụng súng cướp xe ô tô, trấn lột người đi đường, bắt
cóc con tin để tống tiền xảy ra thường xuyên. Bọn tội phạm có thể cướp ngay
những chiếc xe đang dừng chờ đèn đỏ ở ngã tư của những con phố đông đúc. Vì
thế, sau 20 giờ, người dân được phép lái xe vượt đèn đỏ. Mặc dù Chính phủ quản
lý súng đạn, nhưng tội phạm vẫn tìm ra vũ khí từ nhiều nguồn khác nhau. Tháng
10/2007, quân đội từng triển khai hơn 1.000 binh sĩ trên các đường phố Caracas
để trấn áp tội phạm nhưng mọi việc vẫn tiếp tục xảy ra sau khi rút số binh sỹ này
đi. Việc thiết lập lại an ninh, trật tự xã hội ở Venezuela càng khó khăn, do tình
135
trạng phân tán cát cứ của cảnh sát. Ở Venezuela, cảnh sát được tổ chức theo từng
quận một cách riêng rẽ, không có mối quan hệ với nhau. Cảnh sát truy bắt cướp
đến ranh giới quận buộc phải dừng lại, không có quyền xâm nhập vào quận khác.
Việc cảnh sát quận này xâm nhập quận khác cũng nguy hiểm như đối mặt với
bọn cướp có vũ trang. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ đang xúc tiến kế
hoạch thành lập lực lượng cảnh sát quốc gia thống nhất duy nhất. Song việc này
cũng không dễ do việc xử lý các tổ chức cảnh sát ở các quận sẽ đụng chạm đến
quyền tự trị của các quận.
Sáu là, việc làm tuy được cải thiện nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của
nhân dân, việc làm không chính thức và thời vụ vẫn là chủ yếu, thất nghiệp còn cao;
chất lượng việc làm và thu nhập thấp. Vấn đề giải quyết nhu cầu nhà ở rất trầm
trọng, nhà nước đã có nhiều nỗ lực nhưng mới chỉ giải quyết được một phần nhỏ
nhu cầu của người dân. Ngay tại Thủ đô Caracas, nhiều khu ổ chuột vẫn tồn tại với
các điều kiện sống hết sức tồi tàn. Thu nhập bình quân đầu người của Venezuela
tăng lên rõ rệt nhưng lạm phát cao cũng làm giảm đi phần nào kết quả của việc tăng
lương này. Trong khi đó ở giai đoạn đầu áp dụng tăng lương, tiền lương mỗi ngày
chỉ tăng thêm 06 Bolivar tương đương 57.000 đồng tiền Việt Nam và mức lương cơ
bản hằng tháng chỉ là 1.538 Bolivar tương đương 7,1 triệu đồng Việt Nam. Năm
2010, tỉ lệ lạm phát liên tục tăng cao tới 27% và nằm trong số những nước có tỉ lệ
lạm phát cao nhất thế giới, mặc dù Chính phủ Venezuela nỗ lực trợ giá các mặt
hàng lương thực và xăng dầu. Ngân hàng Trung ương Venezuela cho biết lạm phát
đẩy giá lương thực tăng cao. Chính phủ cũng niêm yết giá loại mặt hàng thực phẩm
thứ yếu, nhưng những mặt hàng này lại không có mặt ở các cửa hàng hay siêu thị vì
nạn đầu cơ tràn lan, buộc người dân phải mua thực phẩm nhập khẩu đắt đỏ [173].
Việc giải quyết chênh lệch giàu nghèo vẫn là vấn đề trầm trọng, người
nghèo tuy có được cải thiện nhưng mức cải thiện là chưa đủ để có thể rút ngắn
khoảng cách với người giàu. Điều kiện sống của người lao động rất khó khăn và
khó có thể giải quyết trong thời gian ngắn. Một bộ phận người nghèo sống trông
chờ, phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Chính phủ. Người ta xếp hàng dài dằng dặc
trước các cửa hàng nhà nước để mua thực phẩm giá rẻ do Chính phủ cung cấp.
136
Một bộ phận người nghèo khổ hầu như bị gạt ra ngoài rìa xã hội, bị lưu manh
hóa. Ngay cửa ngõ Caracas, trên đường từ thành phố ra sân bay, có những khu
nhà ổ chuột trên lưng chừng núi, nơi mà ngay cả cảnh sát cũng không dám bước
chân tới, nhất là vào ban đêm.
Bảy là, trong triển khai thực hiện chính sách đối ngoại của mình, Chính
quyền Tổng thống Chavez cũng bộc lộ những bất cập, mang nặng tính chủ quan,
duy ý chí. Đó là việc thực hiện chính sách chống Mỹ một cách thoái quá - Ông đã
từng đổi giờ đất nước chậm hơn 30 phút vì một trong những lý do là không phải
tuân thủ giờ do Mỹ áp đặt, điều đó đã gây xáo trộn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh và sẽ bất lợi cho sự phát triển và ổn định của Venezuela ở thời điểm hiện tại
và tương lai. Với chính sách không phụ thuộc vào Mỹ, thân Cuba và Iran, mạnh mẽ
lên án Mỹ trong nhiều trường hợp đã làm Nhà Trắng mất lòng. Chính vì vậy, Tổng
thống Chavez như cái gai trong mắt và là nhân tố gây mất ổn định, Mỹ chắc chắn sẽ
không chịu khoanh tay đứng nhìn, bởi Mỹ Latinh là sân sau của họ, Mỹ có bị mất
một phần ảnh hưởng nhưng sẽ không từ bỏ và sẽ tìm cách khôi phục lại ảnh hưởng
của mình ở khu vực này. Để làm được điều này thì trước hết, họ phải lật đổ được
chính phủ của Tổng thống Hugo Chavez bởi họ coi đây là một trong những mắt xích
quan trọng nhất của phong trào cánh tả Mỹ Latinh. Mỹ đang tìm kiếm các chính sách
mới cho phù hợp với tình hình khu vực. Một mặt họ thực hiện chính sách chia rẽ các
chính phủ cánh tả, giữa cánh tả vẫn trong tầm kiểm soát như Brazil, Argentina, Chile
và cánh tả vượt ra khỏi sự kiểm soát của Mỹ như Venezuela, Bolivia, Ecuador,
Nicaragua, tăng cường gây sức ép về kinh tế, kích động nổi dậy từ bên trong, khống
chế các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ Latinh, truyền bá văn hóa là lối sống Mỹ.
Đồng thời, xây dựng các căn cứ triển khai nhanh tại khu vực, đe dọa can thiệp trực tiếp
Venezuela trong trường hợp khẩn cấp. Mặt khác, họ giúp đỡ củng cố phe đối lập trong
nước, xây dựng ngọn cờ tập hợp lực lượng, tiến hành các hoạt động gây mất ổn định
chính trị, kinh tế, xã hội làm nhân dân mất lòng tin vào Chính phủ, tiến hành các hoạt
động bôi xấu chính phủ, bôi xấu tổng thống, thậm chí cả việc ám sát Ông Hugo Chavez
nếu có điều kiện. Để đấu tranh bảo vệ ĐLDT của mình, đấu tranh chống lại các âm
mưu can thiệp của Mỹ chắc chắn sẽ tiếp tục là một thách thức lớn với Chính phủ
Venezuela và là cuộc đấu tranh một mất một còn.
137
Tám là, phe đối lập Venezuela được Mỹ và các chính phủ cánh hữu Mỹ
Latinh ủng hộ vẫn còn mạnh, lại có tiềm lực về kinh tế, nắm trong tay nhiều ngành
kinh tế quan trọng kể cả các ngân hàng lớn có khả năng chi phối công nhân đang
làm việc trong các công ty cũng như khống chế nguồn vốn đầu tư. Những cuộc
tổng bãi công do phe đối lập phát động có khả năng làm tê liệt nền kinh tế đất
nước, chắc chắn sẽ không chịu ngồi yên và luôn tìm mọi cách để lật Tổng thống
Hugo Chavez. Tháng 12/2001, phe đối lập gồm các đảng cánh hữu, một số tổ chức
nghiệp đoàn, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp tư nhân thông qua Liên đoàn
doanh nghiệp Venezuela, Hiệp hội Thương mại và sản xuất - nắm trong tay 90%
GDP chưa tính dầu mỏ và các công đoàn trong Liên đoàn lao động Venezuela đã
tổ chức bãi công trên toàn quốc nhằm tạo ra sự bất ổn, làm tê liệt nền kinh tế, tiến
tới buộc tổng thống từ chức mà không cần đợi đến trưng cầu dân ý theo luật định.
Khẩu hiệu của cuộc bãi công là phản đối việc ban hành gói 49 Pháp lệnh của
Chính quyền Tổng thống Chavez, bởi họ cho rằng gói dự luật và luật này đã đe
dọa quyền sở hữu cá thể, cơ cấu của nền kinh tế thị trường và những thay đổi
trong ngành dầu mỏ sẽ làm mất đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế, việc chuyển
vốn đầu tư ra nước ngoài sẽ khó tránh khỏi.
Tháng 04/2002, được sự hỗ trợ của Mỹ, phe đối lập đã tiến hành đảo
chính quân sự, bắt giữ Tổng thống Hugo Chavez và đưa Chủ tịch Camona
Estanga lên giữ quyền Tổng thống lâm thời. Cuộc đảo chính đã đã gặp sự phản
đối quyết liệt của tầng lớp nhân dân lao động, người nghèo cả nước. Carmona
buộc phải đề đơn từ chức và Tổng thống Chavez trở lại nắm quyền. Do đảo
chính quân sự không thành, phe đối lập tiếp tục tìm các biện pháp chống phá
khác, chuyển sang các hoạt động gây mất ổn định chính trị, xã hội, phá hoại kinh
tế, làm kinh tế đình trệ, làm mất uy tín của chính phủ và tổng thống, tiến tới lật
đổ tổng thống, tiêu diệt cách mạng thông qua cuộc trưng cầu dân ý phế truất tổng
thống theo luật định vào cuối 2003. Các phương tiện thông tin đại chúng cũng
nằm trong tay phe đối lập và đây cũng là một điều bất lợi lớn cho Chính phủ bởi
nhiều thông tin đã bị bóp méo và xuyên tạc, chính những thông tin sai sự thật
này đã tác động lớn đến người dân trong cuộc trưng cầu dân ý về cải cách hiến
pháp tháng 12/2007.
138
Trong công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT, để tiếp tục phát triển, Chính quyền
của Tổng thống Chavez cần phải giải quyết các vấn đề như:
Đồng tâm hiệp lực với các chính quyền cánh tả khác chống lại chiến lược toàn
cầu của Mỹ nói chung và quan niệm áp đặt, coi Mỹ Latinh là sân sau của mình. Tìm ra
phương sách hiệu quả để tận dụng sự ủng hộ của các bộ phận tiến bộ trong cánh hữu,
nhưng đồng thời phải nâng cao cảnh giác, đấu tranh có hiệu quả, cô lập, làm tê liệt các
thế lực cánh hữu phản động câu kết chặt chẽ với Mỹ, luôn tìm cách phá hoại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân Mỹ Latinh nói chung và công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở
Venezuela nói riêng. Venezuela phải là ngọn cờ đầu trong liên kết, tập hợp lực lượng cả
trong nước và khu vực, khắc phục những khuynh hướng khác nhau trong ban lãnh đạo,
những tư tưởng khác nhau trong chính phủ liên minh cầm quyền, hướng tới thành lập
một chính đảng thống nhất thực sự của GCCN và nhân dân lao động. Một khó khăn và
thách thức không thể không kể đến là sự ra đi của Tổng thống Chavez. Kể từ khi ông qua
đời (05/03/2013), lực lượng cánh tả của Venezuela và Mỹ Latinh chưa thể tìm được ai có
tài năng, ảnh hưởng tương xứng để thay thế. PSUV bắt đầu có sự phân rã vì không hoàn
toàn chấp nhận người kế nhiệm Tổng thống Chavez.
4.1.3. Một số vấn đề đặt ra cần giải quyết
Một là, đường lối cách mạng và mô hình xã hội mà Venezuela hướng tới
chưa được xác định rõ ràng.
Tổng thống Chavez cùng Phong trào Nền cộng hòa thứ năm đã giành thắng lợi
và nắm chính quyền thông qua con đường đấu tranh nghị viện. Sự đoàn kết của mặt
trận các lực lượng cánh tả trong Phong trào và uy tín của cá nhân Tổng thống Chavez
đã thuyết phục các tầng lớp dân nghèo đang chiếm đa số trong xã hội dành lá phiếu
ủng hộ cho cách mạng. Nhưng sau khi đã nắm chính quyền, bất cứ một lực lượng
chính trị nào cũng không thể mang lại những thành tựu phát triển, sự ổn định bền
vững của xã hội và qua đó khẳng định được quyền lực của mình nếu không có một kế
hoạch phát triển đúng đắn và một mô hình xã hội đủ độ rõ ràng cần thiết.
Đối với cách mạng Venezuela, hầu như chỉ mới có những đường nét phác
thảo chung nhất cho học thuyết phát triển ấy. Cả nội dung cuộc Cách mạng
Bolivar và mô hình của "Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI" mới chỉ được biết tới qua
những tuyên bố của Tổng thống, qua những chương trình kinh tế - xã hội cụ thể
139
được Tổng thống đưa ra thực hiện. Năm 1999, sau khi nhậm chức tổng thống,
Chính quyền của Tổng thống Chavez đã tổ chức soạn thảo và thông qua tổ chức
trưng cầu dân ý thông qua Hiến pháp mới (tháng 12/1999) để nhấn mạnh tư
tưởng của người anh hùng cách mạng Bolivar về độc lập, tự do, công bằng, bình
đẳng và bác ái, đã đệ trình Quốc hội thông qua nhiều bộ luật quan trọng phục vụ
lợi ích của đại đa số nhân dân lao động… Mặc dù tiến hành nhiều cải cách kinh
tế, xã hội, nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy, giai đoạn này, Tổng thống
Chavez là người có chủ trương đi theo Con đường thứ ba. Ông ủng hộ con đường
thứ ba của của Thủ tướng Anh - Tony Blair và từng tuyên bố xây dựng chủ nghĩa
tư bản nhân đạo, chủ nghĩa tư bản xã hội, đi theo con đường thứ ba. Tuy nhiên
năm 2002 đã xảy ra hai sự kiện: nước Anh ửng hộ Mỹ trong cuộc tấn công quân
sự vào Apganixtan và sau đó là Iraq; vụ đảo chính ở Venezuela do các lực lượng
cánh hữu được Mỹ hậu thuẫn nên Ông Chavez quay sang phê phán Tony Blair,
đồng thời từ bỏ chủ trương “Con đường thứ ba” và chính thức quyết định định
hướng cho cuộc cách mạng Bolivar đi theo “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”.
Từ năm 2005, Tổng thống Hugo Chavez nhiều lần công khai tuyên bố mục
tiêu của cuộc cách mạng Bolivar ở Venezuela là đưa đất nước đi lên “Chủ nghĩa xã
hội thế kỷ XXI”. Trong diễn văn kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 01/05 ở Thủ đô
Caracas năm 2006, Tổng thống Chavez khẳng định sẽ xây dựng một xã hội, trong
đó mọi người đều được quan tâm, không có người nghèo và mọi người được sống
xứng đáng, xây dựng một xã hội bình đẳng, công bằng; hoà bình với chính mình và
hoà bình với các dân tộc khác trên thế giới.
Dưới sự chỉ đạo của Tổng thống Chvez, các chính đảng cánh tả Venezuela đã
tổ chức nhiều cuộc thảo luận; bước đầu xác định các nội dung cơ bản của “Chủ
nghĩa xã hội thế kỷ XXI” như sau:
Về tư tưởng: lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng cách mạng và tiến bộ của Bolivar,
tư tưởng nhân đạo Thiên chúa giáo làm nền tảng tư tưởng.
Về chính trị: nhấn mạnh tư tưởng dân chủ cách mạng hay còn gọi là dân chủ
tham gia và chính quyền nhân dân, theo đó, nhân dân có trách nhiệm cùng tham gia
quyết định vận mệnh của đất nước, tham gia vào việc xây dựng một nhà nước pháp
quyền, công bằng xã hội, xây dựng một mô hình xã hội mới, nơi mà mọi người dân
đều có chỗ đứng cho dù đó là một thổ dân.
140
Về kinh tế: chủ trương thực hiện kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước và hợp tác xã nắm vai trò chủ đạo; nhấn mạnh việc giành lại chủ quyền quốc gia dân
tộc đối với tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ, nước sạch và môi sinh...
Về xã hội: chủ trương phân phối công bằng của cải xã hội để giải quyết vấn
đề bất bình đẳng và phân hoá xã hội...
Về đối ngoại: thúc đẩy khối đoàn kết Mỹ Latinh và quan hệ hữu nghị với tất
cả các nước; lấy hợp tác thay thế cho cạnh tranh; lấy hội nhập thay cho bóc lột; đấu
tranh cho một thế giới đa cực, dân chủ...
Về cách làm, bước đi: kế thừa những mặt tốt đẹp của CNXH ở Liên Xô,
Đông Âu trước đây; không rập khuôn, sao chép, mà phải thường xuyên đổi mới và
sáng tạo; bên cạnh phát triển kinh tế, coi trọng các giá trị đạo đức, tinh thần; đoàn
kết dân tộc; chú trọng kinh nghiệm quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa như
Cuba, Việt Nam, Trung Quốc...
Những người cách mạng Venezuela rất quan tâm nghiên cứu, học tập mô hình xã
hội cùng những kinh nghiệm ở các nước XHCN như Cuba, Việt Nam, Trung Quốc.
Nhưng mô hình, kinh nghiệm phù hợp với điều kiện của Venezuela Đó là một câu hỏi
không dễ và có thể là chưa có được câu trả lời cụ thể, có hệ thống. Trên thực tế, một số
chương trình xã hội như chương trình xây dựng các công xã, tạo việc làm cho người dân
hay việc quốc hữu hóa một số ngân hàng tư nhân vào thời điểm cuối năm 2009, chưa
phải đã mang lại hiệu quả như trông đợi. Một số cán bộ trong bộ máy chính quyền của
Tổng thống Chavez giải thích rằng, cách mạng Venezuela như một đứa trẻ đang cần học
tập, trải nghiệm mới trưởng thành. Tuy nhiên, ai cũng hiểu rằng, để chiến thắng được các
thế lực đối lập và quản lý, phát triển đất nước thì "đứa trẻ" ấy phải trưởng thành nhanh
chóng và một dấu hiệu đầu tiên của sự trưởng thành ấy chính là một đường lối cách
mạng đúng đắn, một mô hình xã hội hợp lý.
Hai là, cơ sở chính trị - xã hội của cách mạng Venezuela chưa được củng cố
để đảm bảo độ tin cậy, chỗ dựa vững chắc cho công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT
Cơ sở ấy trước hết và quan trọng nhất là một chính đảng cách mạng lớn
mạnh với lực lượng cán bộ, nguồn nhân lực cho đảng.
Một trong những đặc điểm rất dễ nhận thấy ở hầu hết các cuộc cách mạng
hoặc cải cách ở Mỹ Latinh là các thủ lĩnh luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng,
141
mang tính quyết định đối với sự tồn vong của một cuộc cách mạng hoặc một
quá trình cải cách và Venezuela không phải là ngoại lệ. Có thể nói ở
Venezuela, khi liên minh cầm quyền vẫn là một tập hợp rất nhiều đảng phái, tổ
chức chính trị với đường lối và lợi ích chính trị hết sức khác nhau thì vai trò
của Tổng thống Chavez là quyết định. Công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở
Venezuela có tiếp tục phát triển được hay không đều tùy thuộc vào việc Tổng
thống nắm quyền nữa hay không. Đây vừa là điểm mạnh vừa là điểm yếu của
quá trình này. Rõ ràng là, trong điều kiện của Venezuela cũng như của tuyệt đại
các nước Mỹ Latinh do cánh tả nắm quyền, khi các lãnh tụ cánh tả không còn
nữa hoặc không thể tiếp tục nắm quyền thì cách mạng Venezuela sẽ đứng trước
muôn vàn khó khăn, kể cả nguy cơ bị đảo ngược. Để khắc phục điểm yếu này
và có thể kế thừa, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa công cuộc cải cách, tiến tới xây
dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” tại Venezuela, để có thể đương đầu với
phe đối lập được Mỹ ủng hộ thì nhu cầu xây dựng và củng cố một chính đảng
cách mạng, có đủ sức tiếp tục lãnh đạo quá trình cải cách trong trường hợp
Tổng thống không còn là một điều cấp thiết hơn bao giờ hết. Việc thành lập
một chính đảng cách mạng cũng sẽ giúp loại bỏ những bất đồng, mâu thuẫn nội
bộ để hợp nhất các lực lượng thành một khối thống nhất dưới sự lãnh đạo của
Tổng thống Chavez nhằm hoàn thành mục tiêu của Cách mạng Bolivar.
Nhận thức được điều ấy, tháng 12/2006, Tổng thống Chavez tuyên bố xúc
tiến thành lập PSUV nhằm thay thế cho Phong trào Nền cộng hòa thứ năm, lãnh đạo
công cuộc cách mạng hiện nay. Ông tuyên bố nguyên tắc, PSUV sẽ là đảng cách
mạng cầm quyền. Mọi công dân Venezuela ủng hộ cách mạng đều có thể gia nhập
PSUV. Các đảng thành viên của liên minh cầm quyền muốn tham gia PSUV phải tự
giải tán, nếu không giải tán vẫn có thể hoạt động độc lập nhưng sẽ không tiếp tục
tham gia Chính phủ.
Đến tháng 06/2007, chỉ sau không đầy một tháng tiếp nhận đã có 5,6 triệu
người đăng ký tham gia PSUV. Chỉ sau hơn một năm thành lập, PSUV đã có 6,5
triệu đảng viên, chiếm xấp xỉ 1/4 dân số. Những người muốn gia nhập PSUV chỉ
cần nhấn ngón tay vào máy đăng ký, máy tính sẽ tự động nhận diện qua vân tay lưu
142
trữ trong hệ thống quản lý chứng minh nhân dân và ghi tên vào danh sách. Không
có bất cứ yêu cầu gì khác về lý lịch chính trị, trình độ học vấn, thành phần xã hội...
Với cách thu nhận đảng viên như thế, ai có thể biết được quan điểm chính trị, không
ít những kẻ cơ hội, đăng ký vào đảng với các mục đích khác nhau, thậm chí những
phần tử khiêu khích, phá hoại vào trong đảng. Mặc dù vậy, cũng có nhiều đảng
trong liên minh cầm quyền, trong đó có ĐCS Venezuela tuyên bố sẽ không tự giải tán
cho tới khi xác định được nền tảng tư tưởng, đường lối chính trị của của PSUV. Các
đảng này cho rằng việc thành lập PSUV phải qua từng bước, trong đó bước đầu tiên là
thành lập một mặt trận chính trị, xã hội thống nhất, đồng thời các đảng trong liên minh
cầm quyền cần thảo luận một cách thẳng thắn, cởi mở và mang tính xây dựng cao để
thống nhất các nguyên tắc cơ bản về nền tảng tư tưởng, đường lối chính trị, cơ cấu tổ
chức của đảng mới. Tuy được thành lập vào tháng 03/2008, nhưng cần thấy rằng quá
trình thành lập đảng PSUV gặp không ít khó khăn, nhiều đảng trong liên minh cầm
quyền chưa tán thành với chủ trương và phương pháp thành lập đảng, vẫn còn nhiều ý
khác nhau xung quanh vấn đề này. Từ đây có thể thấy, PSUV được thành lập chủ yếu
là nhờ vào uy tín của cá nhân Tổng thống Chavez và chưa phải hoàn toàn nhận được sự
đồng tình của tất cả các lực lượng cánh tả trong nước, do đó vẫn còn hàng loạt vấn đề
về tư tưởng, lý luận trở thành các chủ đề tranh luận trong đảng.
Đảng PSUV đã tiến hành Đại hội để thảo luận và thông qua đường lối của
Đảng (Đại hội họp vào các ngày thứ Bảy và Chủ nhật từ tháng 11/2009 đến tháng
03/2010). Về nguyên tắc, PSUV hướng tới xây dựng một đảng chính trị lãnh đạo
toàn xã hội về tất cả các lĩnh vực theo hướng kết hợp tư tưởng giải phóng của
Bôlivar và CNXH. Một số vấn đề quan trọng được đã được đưa vào nội dung thảo
luận tại Đại hội như: Chủ trương trao quyền cho nhân dân lao động, tạo cơ chế dân
chủ rộng rãi cho nhân dân tham gia quyết định các vấn đề quốc kế dân sinh, bầu
trực tiếp và phế truất các quan chức chính quyền; Xây dựng mô hình kinh tế kế
hoạch hóa dân chủ, ngày càng thỏa mãn nhu cầu của người dân, lấy học thuyết
chiến tranh nhân dân làm cơ sở để xây dựng nền quốc phòng, an ninh; Chính sách
đối ngoại chú trọng hàng đầu đến khối liên kết khu vực và sự đoàn kết với lực
lượng XHCN quốc tế.
143
Tuy nhiên, một trong những vấn đề cốt tử của PSUV là nền tảng tư
tưởng và đường lối cách mạng vẫn còn chưa rõ ràng. Trong khi chưa xác định
rõ đường lối, chủ trương của cách mạng, việc điều hành của PSUV và Chính
phủ hầu như phụ thuộc tuyệt đối vào quan điểm, ý tưởng của cá nhân Tổng
thống Hugo Chavez.
Về vấn đề cán bộ, nguồn nhân lực cho công cuộc xây dựng phát triển và
quản lý đất nước. Đội ngũ cán bộ của PSUV cũng như của Chính phủ Venezuela
chủ yếu là những người hoạt động chính trị trong Phong trào Nền cộng hòa thứ năm
và một bộ phận cán bộ trẻ trưởng thành trong thời gian Tổng thống Hugo Chavez
cầm quyền. Đội ngũ cán bộ ấy không chỉ thiếu về số lượng mà còn hạn chế nhiều
mặt, nhất là kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước, quản lý điều hành kinh tế, xã
hội. Trong khi đó, một bộ phận không nhỏ những người có kiến thức, kinh nghiệm
quản lý kinh tế, điều hành sản xuất đã rời khỏi đất nước. Họ là những người thuộc
về giới chủ, một số chuyên gia đã gắn bó lợi ích với giới chủ hoặc bất mãn với các
chính sách của chính phủ đương thời. Những khoảng trống do bộ phận ngườì này
để lại không dễ có thể lấp kín trong thời gian ngắn. Tình trạng này gây ra những
khó khăn, đặc biệt là ở các cơ sở sản xuất dầu mỏ, các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở
dịch vụ mà nhà nước đã quốc hữu hóa. Những người công nhân lao động thay thế
những người quản lý, các chuyên gia kỹ thuật khó có thể đáp ứng tốt đòi hỏi của
công việc trong một sớm một chiều. Công việc đào tạo cán bộ của PSUV và Chính
quyền Tổng thống Chavez hầu như mới chỉ bắt đầu. Trường Đại học Bolivar - cơ
sở đào tạo cán bộ của Chính phủ mới chỉ khai giảng những khóa học đầu tiên.
Nhiệm vụ đặt ra cho nhà trường này là đào tạo những công nhân, thanh niên con
em người lao động thành những cán bộ chuyên môn nòng cốt của PSUV và Chính
phủ. Đó là một nhiệm vụ quá lớn so với những điều kiện thực tế của nhà trường về
người dạy, về cơ sở vật chất, về nội dung giáo trình, tài liệu…
Ba là, Chính phủ Venezuela chưa đấu tranh triệt để đối với các hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch.
Những việc làm hướng tới người nghèo của Chính quyền Tổng thống Chavez
đã dụng chạm đến lợi ích của các nhà tư bản trong và ngoài nước. Chính sách cải
cách kinh tế xã hội bị các công ty tư bản phản đối mạnh mẽ. Tầng lớp trung lưu
144
giàu có, những người làm việc trong các công ty dầu mỏ có thu nhập cao cũng tỏ ra
không hài lòng. Lực lượng này đã tham gia vào các phong trào phản đối cải cách.
Phe đối lập trong nước lợi sự bất mãn của các nhà tư bản, tầng lớp trung lưu để lôi
kéo kích động quần chúng. Đất nước Venezuela đã bị chia rẽ thành nhiều phe phái
khác nhau đang chống đối lại Tổng thống cũng như chương trình cải cách của ông.
Đỉnh cao nhất của hoạt động chống phá tổng thống là cuộc đảo chính bất thành vào
tháng 04/2002, tiếp đó là cuộc bãi công kéo dài 63 ngày do phe đối lập tiến hành
vào tháng 03/2003 làm đảo lộn tình hình trong nước. Tình hình đất nước về phần
nào đó lại trở lên mất ổn định, mẫu thuẫn và phức tạp hơn trước.
Bên cạnh những hoạt động chống phá trong nước, Venezuela còn bị chống phá
bởi các thế lực đế quốc bên ngoài. Sự phát triển của phong trào cánh tả mà Venezuela
là ngọn cờ đầu, đặc biệt là ảnh hưởng của các cuộc cải cách theo con đường XHCN
đã khiến cho chính quyền Mỹ thực sự lo ngại. Do đó, Mỹ luôn tìm mọi cách ngăn cản
các lực lượng cánh tả lên cầm quyền, ngăn cản các chính phủ cánh tả thực hiện các
cải cách của mình. Mỹ ra sức khoét sâu mâu thuẫn giữa các quốc gia cánh tả mới nổi
tại khu vực Mỹ Latinh, ly gián các mặt trận cánh tả Mỹ Latinh.
Quá trình cải cách, các chính phủ cánh tả đi theo con đường XHCN cũng đã
bộc lộ những cải cách thiếu hợp lý, mang nặng tính chủ quan, duy ý chí. Tại
Venezuela, Tổng thống Chavez đã thực hiện chính sách chống Mỹ một cách thái
quá. Ông đã từng đổi giờ đất nước chậm hơn Mỹ 30 phút, đã gây khó khăn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh. Với giờ chuẩn mới Venezuela lệch giờ với tất cả
các nước láng giềng có cùng múi giờ trong khu vực vì hiển nhiên không quốc gia
nào chịu đổi giờ theo Venezuela. Điều này sẽ không có lợi cho sự phát triển và
ổn định của Venezuela trong hiện tại và tương lai. Mặt khác với chính sách
không phụ thuộc vào Mỹ, thân Cuba và Iran, mạnh mẽ lên án Mỹ trong nhiều
trường hợp Tổng thống Chavez đã làm Nhà Trắng mất lòng. Chính quyền Mỹ lâu
nay vẫn không hài lòng với chính sách đối ngoại của ông Chavez. Washington
coi ông là một nhân tố gây mất ổn định trong khu vực. Từ lâu Mỹ đã coi ông như
cái gai trong mắt. Mỹ cho rằng Tổng thống Chavez là nhân vật thù địch chỉ đứng
sau Fidel Castro. Vì vậy Mỹ đã ngấm ngầm hỗ trợ các đảng phái chính trị đối lập
nhằm kích động họ chống phá tổng thống.
145
Bốn là, bất cập trong cải cách về kinh tế - xã hội
Áp lực từ những nhu cầu cải cách kinh tế - xã hội trở thành thách thức đối với
quá trình cải cách. Nhu cầu bức thiết của nhân dân muốn có những thay đổi nhanh
chóng và rõ rệt, nhất là về đời sống, việc làm và các vấn đề xã hội, vừa thúc đẩy, vừa
tạo thành sức ép đối với các chính phủ cánh tả đi theo con đường XHCN ở Mỹ Latinh.
Những nhu cầu đó của quần chúng nhân dân cần phải có thời gian để giải quyết, chứ
không thể giải quyết trong một sớm một chiều. Tuy nhiên, các chính phủ cánh tả lên
cầm quyền nhờ sự ủng hộ của quần chúng. Quần chúng sẽ chỉ tiếp tục ủng hộ nếu tiến
trình cải cách đem lại cho họ những kết quả mong đợi. Nếu tiến trình cải cách bị chững
lại, những nhu cầu, đòi hỏi của quần chúng không được đáp ứng thì nhiều khả năng sự
ủng hộ của quần chúng sẽ đổi hướng.
Trên thực tế, cải cách ở Venezuea đã gặp một vài bước lùi trong năm 2007,
các biện pháp can thiệp mạnh của nhà nước vào thị trường đã khiến các nhà đầu
tư ngần ngại. Venezuela bị xếp cuối danh sách các nước Mỹ Latinh về thu hút
đầu tư nước ngoài. Đã buộc Tông thống Chavez phải tuyên bố hãm phanh tốc độ
cải cách, thực hiện 3 chữ R: Revision (xem xét lại), Rectification (điều chỉnh),
Relaunching (tái phát động) cuộc cải cách. Nguyên nhân của vấn đề này có thể
trở thành bài học về kinh tế quý báu cho các nước đang phát triển hiện nay, đó là
phát triển kinh tế không dựa trên quy luật giá cả của thị trường. Chính quyền
Tổng thống Chavez đã thực hiện một chính sách kinh tế có xu hướng cực tả. Khi
tái đắc cử chức tổng thống vào năm 2006, Ông đã công hữu hóa hàng loạt các tài
sản trên rất nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế, từ các nông trại, siêu thị, ngân
hàng, công ty viễn thông, năng lượng, các công ty khai thác dầu mỏ, các công ty
sản xuất xi măng, cà phê thậm chí là cả các công ty sản xuất ly thủy tinh... Và tất
cả các doanh nghiệp đã được quốc hữu hóa này bắt đầu phải tuân thủ một cách
điều hành mang đậm tính kế hoạch, trong đó các sản phẩm làm ra không được thị trường
định giá như ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới đều đang làm, thay vào đó phải tuân theo
một quy định chung là “định giá hàng hóa”. Nói cách khác, giá cả hàng hóa là do nhà
nước quy định - một đặc trưng điển hình của nền kinh tế bao cấp kế hoạch trước đây
vốn đã bị loại bỏ gần như toàn bộ trên thế giới ở thời điểm hiện tại.
146
Việc định giá hàng hóa một cách bất cập và vô lý này đã giết chết toàn bộ
các ngành và lĩnh vực trong nền kinh tế Venezuela. Bộ luật mang tên “Luật về chi
phí và giá cả công bằng” của Chính phủ Venezuela là nguồn cơn gây ra sự sụp đổ
cho tất cả các ngành kinh tế. Vì bộ luật này, các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp
đóng cửa do giá nhà nước quy định quá thấp, điều này vừa dẫn đến tình trạng thiếu
hụt lương thực trầm trọng, vừa khiến lạm phát tăng mạnh do hàng hóa thiết yếu bị
thiếu hụt trầm trọng.
Khi bộ luật này được thực thi, Venezuela chính thức trở thành quốc gia có hệ
thống kiểm soát giá lớn nhất thế giới, nhưng đồng thời cũng là nước có mức lạm phát
cao nhất toàn cầu. Việc quy định chi phí và giá cả không hợp lý đã tạo ra những câu
chuyện cười ra nước mắt tại quốc gia Nam Mỹ này, chẳng hạn như việc trợ giá khí
đốt và điện lớn hơn cả ngân sách dành cho giáo dục và y tế cộng lại, hay việc với
mức lương tối thiểu mỗi ngày thì một người dân Venezuela chỉ có thể mua được
khoảng 227 gram thịt bò hoặc 12 quả trứng nhưng lại đủ để mua được tới 1.000 m3
khí đốt hoặc 5.100 kWh điện năng (đủ dùng cho cả một thị trấn nhỏ).
Việc quốc hữu hóa các tài sản lớn, cộng với việc ban hành luật định giá hàng
hóa của chính phủ Venezuela, là nhắm đến phục vụ tầng lớp người nghèo trong nỗ
lực thúc đẩy chất lượng cuộc sống của họ. Khi giá cả các loại hàng hóa thiết yếu
được chính phủ quy định thấp hơn mức thị trường, thì sẽ càng nhiều người nghèo
được hưởng các điều kiện sống tốt hơn. Đó là lý do vì sao Venezuela được rất nhiều
quốc gia và tổ chức trên thế giới ca ngợi vì những chính sách cấp tiến của mình.
Nhưng khi mà thảm họa xảy ra, đẩy cả đất nước vào một sự khủng hoảng toàn diện,
thì rõ ràng là số người dân Venezuela phải chịu hậu quả sẽ lớn hơn rất nhiều so với
số người nghèo được hưởng lợi từ các chính sách trợ giá mà giờ đây họ cũng đang
chịu chung số phận.
4.2. KINH NGHIỆM
Một là, cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela khẳng định cách mạng là chủ
động sáng tạo, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Trong quá trình phát triển,
Chính quyền Tổng thống Chavez đã chú trọng phát triển cả về lý luận lẫn kiện toàn tổ
chức, tìm kiếm ra các hình thức đấu tranh và tập hợp lực lượng mới.
147
Tham gia vào cuộc Cách mạng Bolivar ở Venezuela từ năm 1999 do Phong
trào Nền cộng hoà thứ năm lãnh đạo cách mạng có nhiều lực lượng chính trị, đảng
phái với khuynh hướng tư tưởng, đường lối chính trị và cương lĩnh khác nhau. Mặc
dù Phong trào đương nhiên được thừa nhận là đội tiền phong chính trị và Thủ lĩnh
Chavez là lãnh tụ của cuộc cách mạng, nhưng việc thành lập PSUV như đội tiền
phong thống nhất và duy nhất trở thành yêu cầu sống còn của cách mạng. Với
PSUV, không chỉ các lực lượng chính trị tiền phong có điều kiện thống nhất lại như
một bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức duy nhất, mà còn tạo ra cho cách mạng
Venezuela một cương lĩnh duy nhất đi tới một tiến trình ngày càng triệt để. Chỉ có
như vậy, các lực lượng cách mạng mới có khả năng thoát khỏi nguy cơ rơi vào chủ
nghĩa cải lương, hữu khuynh, cơ hội đã từng là một trong những đường nét xuyên
suốt lịch sử và làm phá sản nhiều cuộc đấu tranh cách mạng của khu vực và đất
nước hàng thế kỷ qua. Ngay trong không khí cách mạng hiện nay, vẫn xuất hiện
những giọng điệu cơ hội rằng: cải cách hay cách mạng, điều đó không quan trọng.
Họ không chỉ muốn xoá bỏ ranh giới giữa cải cách và cách mạng, mà chủ yếu là
muốn lái cách mạng đi vào con đường cải cách, cải lương.
Sự chống phá của các thế lực đối lập, thù địch, phản cách mạng và của CNĐQ
cũng đặt cách mạng Venezuela trước thách thức nghiêm trọng và càng khẳng định
thêm tính cấp thiết của việc thành lập PSUV. Phải thừa nhận rằng các lực lượng đối lập
vẫn còn cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội rất lợi hại. Về kinh tế, đó là cơ cấu kinh tế do tư
bản đang chi phối, là hệ thống các quan hệ sản xuất TBCN hiện hành, là hoạt động của
tư bản tài chính và các tập đoàn độc quyền. Về xã hội, đó là sự tồn tại và hoạt động đầy
thủ đoạn của GCTS lôi kéo được một số tầng lớp dân cư, trong đó có tầng lớp trung
lưu. Họ tập hợp xung quanh một nhân vật đối lập phản động, đó là Manuel Rosales,
Thống đốc bang Zulia. Thêm vào đó, tệ nạn quan liêu, tham nhũng trong bộ máy chính
quyền và tình trạng mất đoàn kết trong nội bộ các lực lượng cách mạng càng làm cho
sự chống phá của các thế lực thù địch trở nên nguy hiểm hơn.
Hơn 10 năm quần chúng cách mạng Venezuela chiến đấu chống CNTB,
CNĐQ và công khai ủng hộ ngọn cờ “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”. Một thập kỷ
hành động cách mạng đầy nhiệt huyết và trí tuệ đã thể hiện tầm cao của phong trào
148
cách mạng, của quần chúng nhân dân. Dấu hiệu này là rất mới mẻ, tích cực so với
các cao trào cách mạng trước kia ở Venezuela và khu vực Mỹ Latinh. Đồng thời
nâng phong trào lên trình độ đấu tranh tự giác, hay để mặc phong trào trong tình
trạng tự phát - điều đó phụ thuộc vào đội tiền phong cách mạng, Đảng PSUV.
Thực tế chính trị của Venezuela cũng cho thêm nhiều nhận thức mới về âm
mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của CNĐQ. Đối với các nước XHCN hiện nay,
chiêu bài “diễn biến hòa bình” của CNĐQ vẫn là một trong những thủ đoạn thâm
độc đối với chế độ chính trị. Đó là một công cụ khá lợi hại của CNĐQ để tấn công
vào chế độ XHCN. Nhưng qua thực tiễn của Mỹ Latinh thập niên gần đây, chính
“diễn biến hòa bình” của Mỹ đã trở thành “con dao hai lưỡi”, nó bị các đảng cánh tả
sử dụng làm công cụ để lật đổ các chính phủ cánh hữu thân Mỹ tại khu vực này.
Lần đầu tiên, Mỹ bị “gậy ông đập lưng ông”. Sự thất vọng với chủ nghĩa tự do mới
của nhân dân và Cương lĩnh tranh cử của các đảng cánh tả là hai tác động chính
khiến cho bầu cử dân chủ trở thành cơ hội để những lực lượng tiến bộ nắm được
chính quyền. Như vậy, chiêu bài “diễn biến hòa bình” của CNĐQ tuy nguy hiểm,
nhưng không phải là công cụ vạn năng để xoay chuyển chế độ. Nếu CNXH hiện
thực ở các quốc gia giữ được tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, nếu uy tín chính trị của Đảng Cộng sản không ngừng được giữ vững và tăng
cường trong nhân dân, dân chủ XHCN không ngừng được hoàn thiện thì các âm
mưu phá hoại hay các cuộc cách mạng sắc màu đều bất lực.
Hai là, phát huy dân chủ là một trong những động lực quan trọng của cách
mạng, ngay cả khi nó còn bị giới hạn khuôn khổ dân chủ tư sản và chủ nghĩa dân túy.
Dân chủ hóa đời sống kinh tế xã hội đã trở thành những chương trình lớn.
Sau khi nắm quyền điều hành đất nước, Chính quyền của Tổng thống Chavez đã
xúc tiến các chương trình cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại,
quốc phòng, an ninh, sâu rộng với quyết tâm từng bước xóa bỏ tàn dư của chủ nghĩa
thực dân, đế quốc, khắc phục những hậu quả của quá trình thực hiện mô hình chủ
nghĩa tự do mới, đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển lành mạnh. Khát vọng dân
chủ và dân sinh của người dân là tình huống chính trị, xã hội, theo đó, lực lượng
chính trị nào nắm bắt và có khả năng giải quyết được những nhu cầu trên của người
149
dân thì sẽ được dân chúng ủng hộ và trở thành lực lượng trung tâm, nắm vai trò lãnh
đạo đất nước. Phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội là
những chính sách đúng đắn mà Tổng thống Chavez đã thực hiện sau khi lên nắm
quyền. Trên thực tế, những năm qua Venezuela đã làm được điều này.
Vấn đề quyền lợi của Người Da đỏ - sắc thái riêng của xã hội Mỹ Latinh nói
chung và Venezuela nói riêng cũng là một nội dung trong chương trình cải cách xã
hội. Với tỉ lệ 2% tổng số dân của Venezuela, Người Da đỏ cũng đã thành lập ra các
tổ chức để bảo vệ quyền lợi của mình ngoài ba đại diện trong Quốc Hội theo quy
định của Hiến Pháp Venezuela năm 1999. Hơn nữa, Chính phủ mới trong nhiệm kỳ
thứ ba của Tổng thống Chavez cũng đã lập thêm bộ mới là Bộ Thổ Dân [132, tr.62].
Những chính sách trên đã đáp ứng nhu cầu dân chủ của nhân dân đồng thời
phản ánh rõ tiến trình dân chủ hóa đang diễn ra khá sâu sắc ở Venezuela. Quan tâm
và đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân là một trong những kinh nghiệm chính trị
để mọi chính đảng dành được niềm tin, sự ủng hộ trong xã hội. Một số mặt của quá
trình này, dân chủ XHCN có thể tham chiếu, chẳng hạn: phát huy dân chủ trực tiếp,
tăng cường các hình thức tự quản để phát huy tính tích cực chính trị của công dân.
Ba là, giá trị nhân đạo, giải phóng - tư tưởng tiến bộ của cuộc đấu tranh bảo
vệ ĐLDT ở Venezuela có thể đồng hành với lý tưởng XHCN. Chính quyền của Tổng
thống Chavez đã tiến hành cải cách khá sâu rộng về kinh tế - xã hội, chuyển từ mô
hình kinh tế tự do mới sang mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý chặt hơn của nhà
nước đi đôi với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; đẩy mạnh chống tham
nhũng; tiến hành cải cách ruộng đất, xóa đói giảm nghèo, xóa nạn mù chữ, tạo công
ăn việc làm, cung cấp vốn, tín dụng cho người có thu nhập thấp, xây dựng nhà ở cho
người nghèo, hỗ trợ vốn phát triển kinh tế gia đình, cải thiện các lĩnh vực y tế, văn
hóa cộng đồng; đấu tranh chống phân biệt chủng tộc; điều chỉnh một số luật theo
hướng coi trọng lợi ích quốc gia và có lợi cho người lao động…
Thực ra, các vấn đề đó với nhiều mức độ, đã xuất hiện khá lâu ở Mỹ Latinh.
Song chỉ đến gần đây, việc giải quyết chúng mới có được những thành quả khá căn
bản và tích cực thông qua quá trình xây dựng “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI”.
Chính CNXH và những nguyên tắc của nó đã tạo ra nền tảng và góp phần tạo ra
150
nhiều xung lực xã hội mới để Venezuela có được những thành tựu trên. Khi người
nông dân Venezuela xuống đường với khẩu hiệu: “Chủ nghĩa xã hội, Hugo Chavez
hay là chết!”; khi 4 triệu thổ dân lần đầu tiên có được quyền công dân và quyền
bình đẳng về chính trị trong bầu cử thì khi ấy, lý luận CNXH nơi đây đã có được
bước tiến dài trên hiện thực.
Những biểu hiện tích cực của chủ nghĩa quốc tế mới mà Cuba và Venezuela
đang thực hiện đã nêu tấm gương và có thể có tác dụng điều chỉnh một số biểu hiện
lệch lạc của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc sự tính toán thực dụng trong quan hệ
giữa các nước XHCN thời gian qua. Sự liên kết của lý tưởng, mục tiêu chung đã
góp thúc đẩy sự gắn bó thêm chặt chẽ và có nhiều hành động hào hiệp.
Nhận thức về vai trò của lãnh tụ trong mối quan hệ biện chứng với vai trò
của quần chúng nhân dân trong cách mạng XHCN cũng có thêm một góc nhìn tham
chiếu từ chủ nghĩa thủ lĩnh của khu vực Mỹ Latinh thông qua các trường hợp
Cheguevara, Phidel Castro và Hugo Chavez.
Bốn là, thực hiện xây dựng chính quyền nhân dân, thực hiện dân chủ cách
mạng, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Tổng thống Chavez đã hướng tới xây dựng một nhà nước của dân, vì dân,
thành lập chính quyền nhân dân ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương.
Ngay sau khi lên cầm quyền, sau cuộc bầu cử tổng thống năm 1998, Chính phủ đã soạn
thảo và tổ chức trưng cầu dân ý thông qua Hiến pháp mới (tháng 12/1999), đổi tên nước
Cộng hòa Venezuela thành Cộng hòa Bolivar Venezuela để nhấn mạnh tư tưởng độc lập,
tự do, công bằng, bình đẳng, bác ái của người anh hùng giải phóng dân tộc Simon
Boliva, xây dựng đất nước theo mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”.
Thực hiện cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT, Venezuela đã thông qua nhiều bộ
luật quan trọng, phục vụ lợi ích của đại đa số nhân dân, như: Luật Đất đai, Luật
Đánh cá, Luật Thuế, Luật Thông tin… theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền.
Đây là bước tiến quan trọng về chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước
XHCN và xu thế của thế giới. Tổng thống Chavez kêu gọi tất cả các lực lượng
chính trị, xã hội ở Venezuela đi theo và phấn đấu cho “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ
XXI” đang được tạo dựng ở nước này. Ở Venezuela, người dân cảm thấy được làm
151
người, có quyền công dân và có thể cùng nhau hợp sức để xây dựng và cải thiện
cuộc sống của mình. Chính vì vậy, trong tiến trình cách mạng người dân sẵn sàng
xuống đường đấu tranh vì nhân phẩm, vì tiến bộ xã hội, đòi hỏi và thúc đẩy các
chính phủ tiến hành cải cách về dân sinh, dân chủ. Chính điều này là nhân tố rất
quan trọng thúc đẩy sự phát triển của tiến trình các cải cách tiến bộ, dân chủ mang
tính cách mạng ở các nước Mỹ Latinh.
Điều quan trọng là Chính quyền Tổng thống Chavez hướng tới và là thành
lập chính đảng cách mạng, làm cơ sở cho việc kiến tạo xây dựng “Chủ nghĩa xã hội
thế kỷ XXI” ở khu vực. Sự phát triển của phong trào cánh tả sau khi các lực lượng
cách mạng lên cầm quyền thực thi quyền lực với rất nhiều vấn đề phức tạp về chính
trị, kinh tế và xã hội đã đặt ra một cách bức thiết phải có bộ tham mưu thống nhất
lãnh đạo để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Đảng PSUV, một chính đảng cách mạng do Tổng thống Chavez đứng đầu làm
nòng cốt chính trị và lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela, đã được
thành lập và hoạt động có hiệu quả. Có thể thấy rằng, việc thực hiện xây dựng “chính
quyền nhân dân”, thực hiện dân chủ cách mạng, xây dựng nhà nước pháp quyền, thiết
lập đảng cách mạng, tuy còn rất nhiều vấn đề phức tạp và khó khăn, có cả điều chưa
thật tường minh, nhưng những yếu tố và tính chất cách mạng, tiến bộ của “Chủ nghĩa
xã hội thế kỷ XXI” đã thể hiện.
Năm là, thực hiện kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước và hợp tác xã
nắm vai trò chủ đạo.
Mô hình kinh tế mới của Venezuela được hoạch định trên cơ sở chú trọng sự
phát triển nền kinh tế đa dạng và bền vững, có hiệu quả, có khả năng đảm bảo việc tạo
ra nguồn của cải vật chất cũng như việc phân phối công bằng cho toàn dân, kết hợp hài
hòa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Trong công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT của
mình, Chính quyền Tổng thống Chavez đã tiếp thu, kế thừa những di sản tư tưởng kinh
tế và các kiểu thiết chế kinh tế của nhân loại, mang yếu tố thời đại, đặc biệt của CNXH.
Đây được gọi là mô hình kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ
nghĩa thế kỷ XXI, gồm thành phần kinh tế nhà nước (kinh tế công), kinh tế xã hội (trực
tiếp và gián tiếp), kinh tế tập thể (hợp tác xã, xí nghiệp sản xuất xã hội, đơn vị phát
152
triển nội sinh, đơn vị sản xuất cộng đồng, hội đồng xã, phường...), kinh tế liên doanh
(giữa nhà nước với tư nhân, giữa nhà nước với nước ngoài), kinh tế tư bản tư nhân
(trong nước và nước ngoài), trong đó kinh tế nhà nước ngày càng nắm vai trò chủ đạo.
Các thành phần kinh tế này dựa trên những hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối
lập nhau về bản chất kinh tế-xã hội. Thực hiện quốc hữu hóa một số ngành kinh tế quan
trọng, đặc biệt là dầu mỏ, ngân hàng, chống chủ nghĩa tự do, nhằm tạo cơ sở kinh tế
vững chắc cho “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”. Tổng thống Hugo Chavez khẳng định
sẽ quốc hữu hóa và để cho tất cả các ngân hàng phục vụ cho quá trình phát triển đất
nước”. Chính phủ Venezuela tuyên bố và thực hiện quốc hữu hóa ngành điện lực, viễn
thông và chấm dứt sự độc quyền của Ngân hàng Trung ương nhằm tăng cường vai trò
quản lý của nhà nước, thực thi chính sách thuế xa xỉ đánh vào những người giàu, thu
nhập cao nhằm phân phối lại tài sản cho những người nghèo. Ngành dầu mỏ là trụ cột
kinh tế và là nguồn thu chủ yếu của Venezuela. Quốc hữu hóa ngành dầu mỏ bằng cách
buộc các công ty tư nhân (cả trong nước và nước ngoài) phải bán ít nhất 51% cổ phần
cho công ty PVDSA [78].
Trên cơ sở thừa nhận tính ưu việt của các nền kinh tế XHCN, Chính quyền
Tổng thống Chavez đã thực hiện nhiều cải cách tiến bộ, thực hiện tăng trưởng kinh
tế gắn với bảo đảm đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo, quan tâm đến đời sống
người lao động. Nhà nước được xác định là chủ thể hữu hiệu nhất trong hợp tác và
cạnh tranh kinh tế quốc tế và trong sự điều tiết, phối hợp giữa tăng trưởng kinh tế
với thực hiện công bằng xã hội.
Trong chỉ đạo thực tiễn, mặc dù bị các thế lực tư bản nước ngoài kịch liệt
chống đối, nhưng bằng các biện pháp kiên quyết và sự ủng hộ của nhân dân và
quân đội, chính phủ của Tổng thống Hugo Chavez đã thực hiện cải cách ruộng đất,
nhằm tăng thêm quyền lợi cho nông dân, thiết lập được trật tự kinh tế mới và
nhanh chóng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế hết sức khả quan. Như vậy, quốc
hữu hóa, đặc biệt là các ngành kinh tế then chốt, ngân hàng; cải cách ruộng đất
theo hướng quan tâm đến lợi ích của nông dân; lấy kinh tế nhà nước và hợp tác xã
làm chủ đạo trong nền kinh tế; tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với
nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập; phát triển kinh tế gắn
153
với thực hiện công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo, chăm lo đời sống người
lao động… là những vấn đề cơ bản trong công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở
Venezuela dưới thời Tổng thống Chavez.
Sáu là, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, chủ trương phân phối công
bằng của cải xã hội, giải quyết vấn đề bất bình đẳng và phân hóa xã hội, quan tâm
đến người nghèo.
Trong cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT của mình, Chính quyền Tổng thống
Chavez đã thực hiện nhiều tư tưởng về xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, của
Bolivar và tư tưởng nhân văn của Thiên Chúa giáo, xây dựng xã hội công bằng, dân
chủ. Tổng thống Chavez tuyên bố, chỉ có CNXH mới giải quyết được nghèo khổ,
bất bình đẳng xã hội; CNTB không phải là tương lai của nhân loại. Đồng thời, ông
kêu gọi các nước đang phát triển trên thế giới hãy tìm mô hình xã hội tiến bộ của
thế kỷ XXI. Tổng thống Chavez ca ngợi tư tưởng vĩ đại của C.Mác, đánh giá cao
luận điểm CNXH khoa học rằng phải xây dựng CNXH trên cơ sở thực tiễn của mỗi
nước, không dập khuôn máy móc, giáo điều. Trong thực tiễn lãnh đạo nhân dân,
Ông cũng đã tuân theo và thực hiện quyết liệt những tư tưởng đó, rất chú trọng đến
đặc điểm đặc thù của đất nước.
Trong công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT, việc xây dựng một nền dân chủ
thực sự với sự tích cực của nhân dân vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước được chú trọng. Đây là bước tiến mang tính chất XHCN khá rõ nét. Tuy trình
độ dân chủ của các tầng lớp nhân dân ở Venezuela còn nhiều hạn chế, lý thuyết về
dân chủ cũng chưa được rõ ràng, nhưng trong cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT của
Venezuela, tính chất của nền dân chủ XHCN, dân chủ của người dân đã thể hiện
khá rõ. Đây là một giá trị mới, tiến bộ trong thế giới hiện đại, làm phong phú thêm
cho dân chủ và dân chủ XHCN.
Chính quyền Tổng thống Chavez đã đề ra nhiều biện pháp nhằm giải quyết
các vấn đề xã hội như các chương trình xóa đói giảm nghèo, xóa nạn mũ chữ, tăng
cường các phúc lợi xã hội, các dịch vụ công cộng, chú ý quan tâm thực hiện phát
triển văn hoá, giáo dục vì người nghèo, coi đó là một hướng quan trọng cần quan
tâm trong xây dựng xã hội mới. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT của mình, các
154
hoạt động thông tin tuyên truyền được chú trọng đẩy mạnh và hướng vào phục vụ
các tầng lớp nhân dân lao động, bảo vệ và phát huy truyền thống bản sắc văn hóa
dân tộc. Đài truyền hình phương Nam do Venezuela, Cuba, Uruguay cùng nhau
thành lập đã chính thức phát sóng với nhiệm vụ phá vỡ sự lũng đoạn của các
phương tiện thông tin trái chiều ở Mỹ Latinh; giữ gìn những giá trị truyền thống,
văn hoá của nhân dân các dân tộc Mỹ Latinh, khuếch trương thành quả cách mạng
và truyền bá những tư tưởng cách mạng, tiến bộ.
Bảy là, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, bảo vệ ĐLDT; đẩy mạnh
hội nhập khu vực, quốc tế, thực hiện quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước.
Đối ngoại, quốc phòng, an ninh là những vấn đề quan trọng hợp nên chỉnh
thể của cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela. Trong xây dựng đất nước, Tổng
thống Hugo Chavez luôn quan tâm đến bảo vệ đất nước, tăng cường mua sắm vũ
khí trang bị quân sự, tăng cường ngân sách quốc phòng, xây dựng lực lượng, gia
tăng sức mạnh quốc phòng, an ninh bảo vệ đất nước, đẩy mạnh chống khủng bố,
chống lệ thuộc và phụ thuộc vào Mỹ và phương Tây.
Thúc đẩy tăng cường liên kết, hợp tác và đoàn kết khu vực là một hướng
ưu tiên, thể hiện rõ nét chủ nghĩa quốc tế của “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”.
Tổng thống Bolivia - Evo Morales nhấn mạnh: “Điều liên kết chúng tôi và
Hugo Chavez chính là khái niệm về một Nam Mỹ thống nhất. Đó là giấc mơ cổ
xưa về một Tổ quốc rộng lớn, một giấc mơ đã có từ trước khi người Tây Ban
Nha đến đây xâm lược, và sau này Simon Bolivar tiếp tục đấu tranh cho ước
mơ đó. Chúng tôi muốn có một Nam Mỹ theo mô hình Liên minh châu Âu, với
một đồng tiền chung như đồng Euro, một đồng tiền còn mạnh hơn cả đồng
đôla” [10]. Cộng đồng các quốc gia Nam Mỹ được thành lập ngày 08/12/2004
trên cơ sở hợp nhất hai không gian kinh tế là Thị trường chung Nam Mỹ
MERCOSUR (gồm: Braxin, Achentina, Paragoay, Urugoay) và Cộng đồng các
quốc gia thuộc vùng núi Andes CAN (gồm: Peru, Bolivia, Colombia, Ecuado,
Venezuela) và sự tham gia của Chile, Suriam, Guyana. 12 nước Nam Mỹ này
đã ký tuyên bố thành lập khối kinh tế - chính trị thống nhất theo mô hình của
EU mang tên Cộng đồng các quốc gia Nam Mỹ (CSN). Cộng đồng đang hướng
155
tới thiết lập đồng tiền chung, quy chế công dân chung và một nghị viện chung
được bầu qua hình thức bỏ phiếu trực tiếp. Tổng thống Hugo Chavez tuyên bố:
“Không có sự thống nhất, Mỹ Latinh không có đường nào để tiến về phía
trước” [71]. Đáng chú ý là tổ chức Sự lựa chọn Bolivar cho châu Mỹ (ALBA)
do sáng kiến của Tổng thống Venezuela Chavez, hoạt động trên tinh thần đoàn
kết, giúp đỡ lẫn nhau, thúc đẩy sự phát triển chung vì sự tiến bộ, công bằng xã
hội nhằm đối trọng với khu vực Thương mại tự do châu Mỹ (FTAA) do Mỹ khởi
xướng năm 1994.
Đường lối đối ngoại của Venezuela đã thể hiện rõ xu thế mong muốn có độc
lập nhiều hơn, chống Mỹ ngày càng quyết liệt. Mở rộng hợp tác với các nước châu
Âu, châu Á; ủng hộ quá trình dân chủ hoá các quan hệ quốc gia và cải tổ Liên hợp
quốc, mở rộng tính đại diện của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Ủng hộ cuộc
đấu tranh chống khủng bố, chống chính trị cường quyền, vì một trật tự thế giới
mới dân chủ và bình đẳng, vì hoà bình, ĐLDT, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đoàn
kết, ủng hộ Cuba, phản đối chính sách cấm vận của Mỹ đối với đất nước này.
Venezuela đã thiết lập lại quan hệ ngoại giao đặc biệt với Cuba, đẩy mạnh các
hoạt động đối ngoại với các nước thuộc Phong trào Không liên kết, các nước
XHCN, chống CNĐQ, ủng hộ cuộc đấu tranh vì hoà bình, ĐLDT và tiến bộ xã
hội của các nước trên thế giới.
Cùng với những kết quả to lớn có được sau hơn mười năm thực hiện cuộc
cách mạng theo tinh thần Bolivar và xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”,
Venezuela cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, thậm chí có những
vấn đề đe dọa cả sự tồn vong của chế độ.
Tiểu kết chương 4
Công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela mang tính dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội nhằm củng cố ĐLDT và chủ quyền quốc gia, bảo đảm dân sinh,
dân chủ cho người dân. Cuộc cách mạng này có sức lan tỏa lớn đối với các nước
trong khu vực, tạo thành một bước phát triển mới của phong trào cánh tả Mỹ latinh.
Các phong trào xã hội mạnh mẽ với sự tham gia của các tầng lớp nhân dân rộng rãi
đòi hỏi phải có sự thay đổi thoát khỏi tình trạng mất dân chủ và bất bình đẳng ngày
156
càng nghiêm trọng, do việc áp dụng ồ ạt chủ nghĩa tự do mới đã gây ra những hậu
quả nặng nề, gia tăng sự phụ thuộc vào tư bản độc quyền nhà nước, nhất là tư bản
Mỹ, lợi ích quốc gia và nền ĐLDT bị phương hại. Ngọn cờ Venezuela đã dấy lên
phong trào đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động vì mục tiêu dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội. Đây là điều kiện thuận lợi để
các lực lượng cánh tả khu vực đẩy mạnh hoạt động và trở thành đi đầu cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tự do, chống sự lệ thuộc vào Mỹ. Bảo vệ độc lập chủ
quyền và bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Thực tiễn vận động của phong trào
cánh tả Mỹ Latinh nói chung và cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela nói
riêng thập niên vừa qua là nhân tố quan trọng thúc đẩy những thay đổi theo
hướng thực hiện dân chủ và tiến bộ xã hội và lực lượng dân tộc tiến bộ. Những
nền móng mà Tổng thống Chavez đã tạo dựng, trong hợp tác và liên kết các nước
trong khu vực cũng như thế giới đã tác động lớn đối với Mỹ Latinh và điều quan
trọng công cuộc đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela đã để lại những bài học kinh
nghiệm quý báu.
157
KẾT LUẬN
Ngay sau khi lên nắm Chính quyền, Tổng thống Hugo Chavez đã tiến hành
hàng loạt các biện pháp nhằm xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ ĐLDT của
Venezuela như cải cách thể chế chính trị, bầu Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến pháp
mới, thông qua một loạt các luật và bộ luật, triển khai xây dựng mô hình phát triển mới
thay thế cho mô hình tự do mới trước đây, với việc xây dựng một Nhà nước pháp
quyền dân chủ, xã hội công bằng; một nền dân chủ tham gia; một chính quyền nhân
dân, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hàng loạt chương trình xã hội như cải
cách ruộng đất, xóa đói giảm nghèo, tăng cường y tế, đổi mới giáo dục… vì quyền lợi
của đa số nhân dân lao động, đấu tranh với lợi ích của GCTS trong và ngoài nước.
Hơn 10 năm cầm quyền, Chính quyền Tổng thống Chavez đã tận dụng
những thuận lợi, đương đầu, vượt qua những khó khăn và thách thức, công cuộc
đấu tranh bảo vệ ĐLDT ở Venezuela đã thu được kết quả bước đầu rất tích cực,
xuất phát từ mục tiêu đấu tranh để Venezuela trở thành một dân tộc tự do, tự quyết
định vận mệnh của đất nước mình và thoát khỏi sự thâu tóm của các thế lực bên
ngoài. Những chính sách kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh
của Chính phủ Tổng thống Hugo Chavez triển khai và thực hiện đã đạt được những
thành tựu có ý nghĩa, nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, liên tục trong nhiều năm,
an ninh quốc phòng được giữ vững; các vấn đề xã hội do ảnh hưởng của chủ nghĩa
tự do mới dần được giải quyết, đời sống vật chất và tinh thần của người dân lao
động được cải thiện đáng kể; vị thế của Venezuela trong khu vực và trên thế giới
ngày càng được củng cố. Với phong trào cách mạng thế giới, cuộc Cách mạng
Bolivar ở Venezuela có sức động viên, cổ vũ rất lớn không chỉ đối với quá trình
xây dựng CNXH hiện thực. Sự phát triển này có ý nghĩa to lớn và tích cực đối
với phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, với khu vực Mỹ Latinh mà còn có ý
nghĩa đối với đấu tranh bảo vệ ĐLDT của các nước đang phát triển hiện nay.
Đấu tranh bảo vệ ĐLDT với việc xây dựng mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế
kỷ XXI” tại Venezuela là một mô hình đặc sắc của CNXH ở Mỹ Latinh nói riêng và
trên thế giới nói chung. Không chỉ kế thừa, áp dụng, phát triển những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác, mô hình này còn kết hợp nhuần nhuyễn với tính cách mạng, tính
dân tộc - dân chủ, tính bản địa, tính thực tiễn của tư tưởng tiến bộ Bolivar và tư
158
tưởng nhân đạo Thiên Chúa giáo. Không giống nhiều mô hình xã hội chủ nghĩa đã
và đang tồn tại trên thế giới, mô hình này ghi nhận, khẳng định và đề cao sự đa
dạng trong biểu hiện (đa đảng và đa nguyên chính trị; đa hình thức sở hữu và đa
thành phần kinh tế; đa dạng hóa các hình thức dân chủ và các thiết chế xã hội...). Nó
cũng được hiện thực hóa theo phương thức hỗn hợp chứ như mô hình XHCN khác.
Tiến trình hiện thực hóa mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21” tại Venezuela
đến nay kéo dài chưa lâu, nhưng đã đạt được những thành quả to lớn. Nền dân chủ
được mở rộng cùng sự tăng cường vai trò của Nhà nước. Các lĩnh vực, ngành nghề
kinh tế phát triển. Nhiều bảo trợ và bảo đảm xã hội được áp dụng hiệu quả. Đời
sống nhân dân (đặc biệt là nông dân và người nghèo) được nâng cao cả về vật chất
lẫn tinh thần. Vị thế quan trọng của Venezuela trong khu vực Mỹ Latinh và trên thế
giới được khẳng định... Hiện nay, dù tiến trình hiện thực hóa có phần chững lại vì
gặp phải nhiều khó khăn, thách thức lớn, nhưng những thành quả trên là không thể
phủ nhận. Nó cũng là những tham chiếu cần thiết (nhất là về yếu tố mạnh mẽ, tích
cực, bản địa, đa dạng và phù hợp với thực tiễn) cho công cuộc xây dựng CNXH ở
các quốc gia Mỹ Latinh và trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Hugo Chavez, phong trào cánh tả ở
Venezuela mang nhiều giá trị XHCN, đặc biệt mang lại nhiều bài học lớn cho các
nước đang phát triển hiện nay: bước đầu tạo được cơ sở vật chất cho sự phát triển của xã
hội, vai trò của phụ nữ được đề cao hơn, thể hiện được vai trò của quần chúng nhân dân…
Sự ra đời Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Venezuela là một nhân tố hết sức quan trọng
và cùng với vai trò thủ lĩnh và uy tín tuyệt đối của Tổng thống Hugo Chavez, trở thành hạt
nhân đoàn kết các lực lượng chính trị, các tầng lớp nhân dânVenezuela để vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, tiến hành thành công cuộc Cách mạng Bolivar xây dựng “Chủ nghĩa
xã hội thế kỷ XXI” ở Venezuela. Thực tế từ tiến trình phát triển của Cộng hoà Bolivar
Venezuela giai đoạn 1999 - 3013 cho chúng ta thấy, nếu mỗi quốc gia trên thế giới tìm
được một con đường phát triển phù hợp thì điều này không chỉ góp phần củng cố một cách
vững chắc nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia của dân tộc đó; mà còn thúc đẩy
nhanh chóng sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần ổn định tình hình chính
trị, xã hội trong nước. Đây chính là những điều kiện quyết định sự thành công của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc của mỗi quốc gia trong bối cảnh hiện nay.
159
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Đặng Công Thành (2016), “Một số bài học kinh nghiệm của quá trình thực hiện
mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở khu vực Mỹ Latinh với chủ nghĩa
xã hội thế giới”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, (03).
2. Đặng Công Thành (2016), “Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của quá trình thực
hiện “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” của Venezuela với chủ nghĩa xã hội thế
giới” (2016), Tạp chí Dạy và học ngày nay, (08).
3. Đặng Công Thành (2017), “Nhìn lại chính sách của Mỹ đối với khu vực Mỹ
Latinh dưới thời Tổng thống Barrack Obama”, Thông tin khoa học lý luận
chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (02).
160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. Lại Lâm Anh (2010), “Phong trào cánh tả và hệ lụy của chủ nghĩa tự do mới ở
Mỹ Latinh”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (07).
2. Trương Thiết Ánh, (2007), “Kinh nghiệm của một số nước Mỹ Latinh trong xử
lý mâu thuẫn xã hội”, Thông tin Những vấn đề lý luận, (01)
3. Thẩm Dược Bình (2009), “Về Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI của Hugo Chavez”,
Thông tin những vấn đề lý luận, (12).
4. Nguyễn Đức Bình, Lê Hữu Nghĩa và Trần Hữu Tiến (2003), Góp phần nhận thức thế
giới đương đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đỗ Thanh Bình (2006), Lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc thế kỷ
XX - Một cách tiếp cận mới, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
6. Bộ Ngoại giao (2015), Thông tin cơ bản về Cộng hòa Bolivar Venezuela và quan
hệ với Việt Nam, tại trang http://www.mofa.gov.vn, (truy cập ngày
25/04/2013).
7. Hồ Châu (2006), “Mô hình phát triển của Mỹ Latinh”, Tạp chí Châu Mỹ ngày
nay, (02).
8. Lê Minh Châu (2009), “Ra đời Quốc tế V xã hội chủ nghĩa tại Venezuela”, Báo
Sài Gòn giải phóng, (ngày 24/09/2009).
9. Nguyễn Hữu Cát, Đoàn Thị Mai Liên (2017), “Cách mạng sắc màu” và giải pháp
phòng chống, Tạp chí Lý luận chính trị, (03).
10. Thủy Chung (2007), Tổng thống Bolivia: chủ nghĩa tư bản làm tổn hại đến Mỹ
Latinh, tại trang http//www.che-vietnam.com, (truy cập ngày 19/07/2007).
11. Nguyễn Văn Dũng (2010), “Quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội Công giáo ở
Venezuela: hiện tại và quá khứ”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (10).
12. Đại Hội đồng Liên hợp quốc (1970), Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970 tuyên
bố về những nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và
hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chươmg Liên hợp quốc, tại
trang http://thuvienphapluat.vn, (truy cập ngày 23/04/2015).
13. Đại sứ quán nước Cộng hòa Bolivar Venezuela tại Việt Nam (2010), Simon Bolivar
- Người anh hùng giải phóng dân tộc, người sáng lập đất nước, Hà Nội.
161
14. Đại sứ quán nước Cộng hòa Bolivar Venezuela tại Việt Nam (2014), Kế hoạch
Tổ quốc - Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa lần thứ hai, 2013 - 2019, Hà Nội.
15. Đại sứ quán nước Cộng hòa Bolivar Venezuela tại Việt Nam (2014), “Sách Xanh”,
Hà Nội.
16. A. Elianop (2000), “Thế giới thứ ba trong thiên niên kỷ thứ ba”, Tạp chí Thông
tin lý luận, (09).
17. Nguyễn Hoàng Giáp, Mai Hoài Anh (1999), “Chủ quyền quốc gia dân tộc trước
xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay” Tạp chí Cộng sản, (03).
18. Nguyễn Hoàng Giáp (2006), Sự phối hợp hoạt động của các Đảng Cộng sản và
cánh tả trên thế giới hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
19. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế (2007), “Những thắng lợi của phong trào
cánh tả Mỹ Latinh gần đây”, Tạp chí Cộng sản, (03).
20. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế (2007), “Bước phát triển mới của trào
lưu cánh tả Mỹ Latinh”, tại trang http://tapchicongsan.org.vn, (truy cập
ngày 13/03/2007).
21. Nguyễn Hoàng Giáp (2007), “Làn sóng cánh tả Mỹ Latinh: Nguyên nhân và kết
quả chủ yếu”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (03).
22. Forge G.Castanea (2004), “Quan hệ Mỹ - các nước Mỹ Latinh”, Tạp chí Châu
Mỹ ngày nay, (01).
23. Carlos Gonzalez Irago (2014), Venezuela nhân quyền và dân chủ (1999 - 2009),
Nxb Thế giới, Hà Nội.
24. Rebeca Grynspan (2007), “Liệu Mỹ Latinh có nắm bắt được thời cơ”, Tạp chí
Châu Mỹ ngày nay, (10).
25. Almeyra Guillermo (2008), “Kinh tế, gót chân Achille của Venezuela”, Tạp chí
Châu Mỹ ngày nay, (03).
26. Janette Habel (2008), “Có phải Washington đã đánh mất Mỹ Latinh”, Tạp chí
Châu Mỹ ngày nay, (08).
27. Phạm Thanh Hà (2005), “Độc lập dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay”, Tạp chí Triết học, (04).
162
28. Nguyễn Thị Thúy Hà (2011), “Nhìn lại phong trào cánh tả Venezuela thập niên
đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (05).
29. Nguyễn Thị Thúy Hà (2013), “Cánh tả Venezuela - con đường phía trước”, Tạp
chí Giáo dục lý luận, (191).
30. Thanh Hải (2004), “Thời điểm thách thức đối với Tổng thống H. Chavez”, Báo
Hà Nội mới, (ngày 14/08/2004).
31. Nguyễn Thị Hạnh (2009), “Phong trào cánh tả Mỹ Latinh và vai trò của nó đối với
việc giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (11).
32. Nguyễn Thị Hạnh (2010), “Tiến triển trong hệ thống chính trị của một số nước
Mỹ Latinh trong những năm gần đây và triển vọng”, Tạp chí Châu Mỹ
ngày nay, (03).
33. Lưu Thu Hằng (2012), “Chính sách đối ngoại với Mỹ Latinh dưới Chính quyền
Obama”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (01).
34. Lưu Thu Hằng (2014), “Thực trạng xã hội Mỹ Latinh giai đoạn 2005 - 2012”,
Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (03).
35. Vũ Văn Hiền (2010), Nhận thức về thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
36. Vũ Đăng Hinh (2008), “Các thiết chế chính trị chủ yếu ở Mỹ Latinh”, Tạp chí
Châu Mỹ ngày nay, (01).
37. Nguyễn Hòa (2008), “Mỹ Latinh không còn là sân sau của Mỹ, Báo Quân đội
nhân dân, (ngày 14/11/2008).
38. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Lực lượng cánh tả Mỹ
Latinh: Những góc nhìn khác biệt, Thông tin chuyên đề.
39. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Quan hệ quốc tế (2008), Phong
trào cánh tả Mỹ Latinh: thực trạng và triển vọng, Báo cáo Tổng hợp kết
quả nghiên cứu khoa học.
40. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Đại sứ quán nước Cộng hòa Bolivar
Venezuela tại Việt Nam (2014), Tư tưởng chính trị Hugo Chavez Frias -
Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI, Nxb Chính trị hành chính, Hà Nội.
41. Hồ sơ sự kiện (2013), “Venezuela - “Ngọn cờ đầu” của phong trào cánh tả Mỹ
Latinh”, Chuyên san của Tạp chí Cộng sản, (254).
163
42. Nguyễn Anh Hùng (2014), “Vấn đề chính trị xã hội trong tiến trình hiện thực hóa
mô hình chủ nghĩa xã hội ở Venezuela”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (02).
43. Nguyễn Mạnh Hùng (2007), “Trào lưu cánh tả ở Mỹ Latinh và công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở Venezuela”, Tạp chí Lý luận chính trị, (09).
44. Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Trào lưu cánh tả ở Mỹ Latinh và công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở Venezuela, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Đỗ Vũ Hưng (2006), “Xung quanh sự kiện Hugo Chavez đắc cử Tổng thống
Venezuela”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (12).
46. Nguyễn Hương (2007), Venezuela rút khỏi IMF và WB, tại trang
http://www.toquoc.gov.vn, (truy cập ngày 02/05/2007).
47. Nguyễn Lan Hương (2012), “Mạng lưới liên kết chính trị dưới sự khởi xướng
của các nước Mỹ Latinh”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (12).
48. Nguyễn Lan Hương (2013), “Tác động của Hoa Kỳ tới liên kết chính trị ở Mỹ
Latinh”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (11).
49. Trần Thị Lan Hương - Nguyễn Kim Anh (2012), “Vai trò hiện nay của Mỹ ở
khu vực Mỹ Latinh”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (06).
50. B. Kagarlytsky (2007), “Sự lựa chọn khó khăn của cách mạng Venezuela”, Tạp
chí Những vấn đề chính trị - xã hội, (46).
51. L.L. Kloscopski (2003), “Những xu hướng tiến triển mới của kinh tế Mỹ
Latinh”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (07).
52. Pol Koksort (2008), “Venezuela và chủ nghĩa xã hội mới”, Chuyên đề của Viện
thông tin Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (05 và 06).
53. Nguyễn Văn Lan (2006), “Chiến lược toàn cầu mới của Mỹ và tác động của nó
đối với tình hình thế giới”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (02).
54. Nguyễn Văn Lan, Nguyễn Văn Tuấn (2008), “Sự phát triển của phong trào cánh
tả Mỹ Latinh thời gian qua: Nguyên nhân và triển vọng”, Tạp chí Châu Mỹ
ngày nay, (01).
55. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 25, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
56. Uông Minh Long (2010), Công cuộc bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc của
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1975 đến
năm 2010, Luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
164
57. Thái Văn Long (2002), “Mỹ và cuộc đảo chính bất thành ở Venezuela”, Tạp chí
Châu Mỹ ngày nay, (10).
58. Thái Văn Long (2004), “Trưng cầu dân ý ở Venezuela”, Tạp chí Châu Mỹ ngày
nay, (09).
59. Thái Văn Long (2006), Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu
thế toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Thái Văn Long, Hồ Ánh Nguyệt (2007), “Bước tiến mới của phong trào cánh tả
Mỹ Latinh”, Tạp chí Lý luận chính trị, (03).
61. Callos Lozada (2003), “Mỹ Latinh”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (08).
62. Kinh Luân (2006), “Venezuela gia nhập MERCOSUR”, tại trang
http://www.vietbao.vn, (truy cập ngày 23/07/2006).
63. Nhật Mai (2010), Venezuela dọa cắt nguồn xuất khẩu dầu mỏ sang Mỹ, tại trang
http://www.dantri.com.vn, (truy cập ngày 26/07/2010).
64. Khu Thị Tuyết Mai (2000), “Cải cách chính sách thương mại ở Mỹ Latinh”,
Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (03).
65. Khu Thị Tuyết Mai (2001), “Liên kết kinh tế Mỹ Latinh: quan điểm, tiến trình,
chính sách”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (05).
66. C.Mác và Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập 04, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
67. Phạm Bình Minh (2010), Cục diện thế giới đến 2020, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 04, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 05, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Dương Minh (2008), Quá trình cải cách dưới thời tổng thống H. Chavez ở
Venezuela: thực trạng và triển vọng, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học của
Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Hà Nội, (Tài liệu chưa cuất bản).
71. K.Minh (2007), Tổng thống Chavez: Venezuela hoàn toàn dân chủ, tại trang
http://www.lanhdao.net, (truy cập ngày 20/01/2007).
72. Nguyễn Tuấn Minh (2010), “Các tổ chức của MERCOSUR”, Tạp chí Châu Mỹ
ngày nay, (05).
165
73. Letitia Montilla và Hector Lucena (2009), “Venezuela: những chính sách công
và tổ chức xã hội trước tình trạng phụ thuộc về lương thực”, Tạp chí Châu
Mỹ ngày nay, (05).
74. Trình Mưu, Nguyễn Hoàng Giáp (2008), Quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại
của Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
75. Phạm Xuân Nam (1968), "Phong trào đấu tranh chống Đế quốc Mỹ ở châu Mỹ
Latinh: Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
76. Trịnh Trọng Nghĩa (2003), “An ninh kinh tế trong điều kiện hiện nay ở khu vực
Mỹ Latinh”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (04).
77. Nguyễn An Ninh (2006), Về triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong hai thập
niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
78. Nguyễn An Ninh (2007), Động thái tích cực trong đời sống chính trị khu vực Mỹ
Latinh gần đây, tại trang http//www.cpv.org.vn, (truy cập ngày 06/04/2007).
79. Nguyễn An Ninh (2010), “Quan điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội của các đảng
cánh tả ở khu vực Mỹ Latinh - những giá trị cần tham khảo”, Đề tài do Trần
Thành chủ nhiệm, Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - những quan điểm
lý luận cơ bản, Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
80. Nguyễn An Ninh (2010), Về mô hình "chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI" của khu
vực Mỹ Latinh hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Hữu Nghị (2006), Hugo Chavez, tại trang http://www.tuoitre.com.vn, (truy cập
ngày 10/12/2006).
82. Nguyễn Nghị, Lê Minh Đức (1994), Lịch sử nước Mỹ, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
83. Bình Nguyên (2004), “Thắng lợi quan trọng của nhân dân Venezuela”, Báo
Nhân dân, (ngày 23/08/2004).
84. Minh Nhật (2007), Venezuela muốn quốc hữu hoá các ngân hàng, tại trang
http://www.hanoimoi.com.vn, (cập nhật ngày 04/05/2007).
85. Kiều Oanh (2010), Venezuela phá giá đồng nội tệ (2010), tại trang
http://www.tienphong.vn, (truy cập ngày 10/01/2010).
86. Hoàng Phê (2016), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
166
87. Duy phúc (2011), Venezuela lương tăng không kịp với lạm phát, tại trang
http://www.tuoitre.vn, (truy cập ngày 05/01/2011).
88. Trần Hữu Phước (2009), “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”, Báo Sài Sòn giải
phóng, (ngày 02/07/2009).
89. Hoàng phương (2007), Tổng thống Venezuela kêu gọi thành lập khối phòng thủ
cánh tả, tại trang http://che-vietnam.com, (truy cập ngày 10/06/2007).
90. Phạm Hải Quân (2011), Nghiên cứu cơ bản về Mỹ Latinh, Tổng cục II, Bộ Quốc
phòng, Hà Nội.
91. Lê Minh Quang (2008), Hugo Chavez - chủ nghĩa xã hội hay là chết, tại trang
http://www.giadinh.net.vn, (truy cập ngày 08/03/2008).
92. Nguyễn Văn Quang (2007), “Xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của các nước
Mỹ Latinh”, Tạp chí Cộng sản, (127).
93. Nguyễn Thị Quế, Bùi Việt Hương (2017), “Về các đảng chính trị ở Vênêzuêla”,
Tạp chí Thông tin Lý luận chính trị, (02).
94. Nguyễn Duy Quý (2003), Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
95. Phan Văn Rân, Nguyễn Hoàng Giáp (2010), Chủ quyền quốc gia dân tộc trong
xu thế toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
96. Herrera, Rémy (2013), “Hậu Chavez: Những thách thức nào đối với cuộc cách
mạng?”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, (08).
97. Z. N. Romanova (2005), “Mỹ Latinh trong hệ thống thương mại toàn cầu”, Tạp
chí Châu Mỹ ngày nay, (01).
98. Nguyễn Hồng Sơn (2007), “Kinh tế và kế hoạch công nghiệp hóa nền kinh tế
của Chính phủ Hugo Chavez”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (06).
99. Nguyễn Hồng Sơn (2010), “Kinh tế xã hội Venezuela dưới thời Tổng thống
Hugo Chavez”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (09).
100. Minh Sơn (2006), Tổng thống Chavez và con đường chủ nghĩa xã hội của
Venezuela, tại trang http://www.vnn.vn, (truy cập ngày 06/12/2006).
101. Nguyễn Khắc Sứ (2005), “Tình hình các đảng cộng sản, cánh tả và tiến bộ Mỹ
Latinh”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (01).
167
102. Nguyễn Khắc Sứ (2006), “Vê-nê-xu-ê-la, đất nước của Xi-môn Bô-li-va”, Tạp
chí Cộng sản, (19).
103. Nguyễn Khắc Sứ (2006), “Lực lượng cánh tả Mỹ Latinh: Thực trạng và triển
vọng”, Tạp chí Cộng sản, (99).
104. Nguyễn khắc Sứ (2007), “Khuynh hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu của cánh
tả Mỹ Latinh”, Tạp chí Cộng sản, (11).
105. Tạ Ngọc Tấn (2010), “Những thách thức của cách mạng Venezuela vẫn còn ở
phía trước”, Tạp chí Cộng sản, (03).
106. Nguyễn Văn Thanh (2005), Nhận diện chủ nghĩa tự do mới, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
107. Nguyễn Viết Thảo (1998), Liên kết khu vực Mỹ Latinh: văn hóa, chính trị, kinh
tế, Luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
108. Nguyễn Viết Thảo (2002), “Hợp tác và đấu tranh trong quá trình liên kết châu
Mỹ”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (10).
109. Nguyễn Viết Thảo (2008), “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI ở Venezuela những
nhiệm vụ cơ bản và cấp bách”, Tạp chí Cộng sản, (03).
110. Nguyễn Viết Thảo (2008), “Sự ra đời của Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất
Venezuela”, Tạp chí Cộng sản, (07).
111. Vũ Bá Thể (2014), “Một số chính sách ổn định kinh tế ở khu vực Mỹ Latinh
sau khủng hoảng”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (07).
112. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Thất bại của Chavez: Mối nguy hiểm chết
người đối với Bôlivia và Cuba”, Tài liệu Tham khảo đặc biệt, (ngày
08/12/2007).
113. Thông tấn xã Việt Nam (2007), Vênêzuêla, Cuba và Bôlivia thành lập ngân
hàng hỗ trợ phát triển, tại trang http://www.www.baomoi.com, (truy cập
ngày 08/06/2007).
114. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Bất lợi đối với nỗ lực của Chavez”, Tài liệu
Tham khảo đặc biệt, (ngày 24/12/2007).
115. Thông tấn xã Việt Nam (2009), “Nhìn lại hiện tượng các Đảng Cộng sản và
chính đảng cánh tả lên nắm quyền qua đấu tranh nghị trường”, Các vấn đề
quốc tế, (05).
168
116. Thông tấn xã Việt Nam (2009), Quốc hội Venezuela chuẩn y luật cải cách ngân
hàng, tại trang http://www.vietnamplus.vn, (truy cập ngày 16/12/2009).
117. Thông tấn xã Việt Nam (2010), Đảng cầm quyền Venezuela giành thắng lợi
bầu cử (2010), tại trang http://www.vietnamplus.vn, (truy cập ngày
27/09/2010).
118. Thông tấn xã Việt Nam (2010), Trao đổi thương mại giữa Venezuela và các
nước MERCOSUR tăng trưởng mạnh, tại trang http://www.baomoi.com,
(truy cập ngày 09/08/2010).
119. Thông tin (2007), “Tham nhũng ở Venezuela” Tạp chí Châu Mỹ ngày nay (10).
120. Lê Thị Thu (2014), “Một số tác động của văn hóa, xã hội đến phát triển kinh tế
Mỹ Latinh”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (10).
121. Lê Khương Thùy (2009), “Chính sách đối ngoại các nước Mỹ Latinh”, Tạp chí
Châu Mỹ ngày nay, (07).
122. Lệ Thủy (2007), “Chủ nghĩa xã hội Cuba trên đất Venezuela”, Thông tin những
vấn đề chính trị - xã hội, Viện Thông tin khoa học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, (06).
123. Nghiêm Thị Thủy (2010), “Chính sách phát triển xã hội của Venezuela: nhiệm
vụ và kết quả”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (04).
124. Nguyễn Hữu Toàn (2012), Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam với cuộc đấu tranh bảo
vệ độc lập dân tộc của các nước phát triển sau Chiến tranh Lạnh, Luận án
Tiến sĩ khoa học lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hổ Chí Minh, Hà Nội.
125. Lê Thị Thu Trang (2009), “Venezuela dưới thời của Tổng thống Hugo
Chavez”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (04).
126. Lê Thị Thu Trang (2012), “Quan hệ Hoa Kỳ - Mỹ Latinh năm 2011”, Tạp chí
Châu Mỹ ngày nay, (04).
127. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Trung tâm Nghiên cứu Bắc Mỹ
(1998), Mỹ Latinh một vùng năng động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
128. Nguyễn Xuân Trung (2010), “Nền ngoại giao dầu mỏ của Venezuela dưới thời
Tổng thống Hugo Chavez”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (10).
129. T.Trúc (2007), Venezuela muốn xây dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội, tại
trang http://www.toquoc.gov.Việt Nam, (truy cập ngày 10/01/2007).
169
130. Nguyễn Ngọc Trường (2008), Cánh tả Mỹ Latinh tiến tới chủ nghĩa hiện thực,
tại trang http://www.toquoc.gov.vn, (truy cập ngày 05/02/2008).
131. Đỗ Minh Tuấn (2005), “Vai trò của Mỹ ở khu vực Mỹ Latinh”, Tạp chí Châu
Mỹ ngày nay, (11).
132. Đỗ Minh Tuấn (2005), “Lịch sử hình thành và phát triển nhà nước Venezuela
độc lập”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (05).
133. Hồ Vân (2004), “Thăng trầm của Hugo Chavez”, Báo Quốc tế, (34,
ngày 25/08/2004).
134. Nguyễn Khánh Vân (2014), “Chính sách ngoại giao của Venezuela thập kỷ đầu
của thế kỷ XXI”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (01).
135. V.H (2006), 15 năm MERCOSUR: Một liên minh kinh tế - chính trị của Mỹ
Latinh, tại trang http://www.qdnd.vn, (truy cập ngày 25/10/2006).
136. Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (2010), Về mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ
XXI” của khu vực Mỹ Latinh hiện nay - giá trị và vấn đề đặt ra với chủ
nghĩa xã hội. Đề tài khoa học cấp bộ năm 2010, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
137. Viện Quan hệ quốc tế (2008), Phong trào cánh tả Mỹ Latinh: thực trạng và
triển vọng, Đề tài khoa học cấp Bộ 2008, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
138. Viện Thông tin khoa học (2006), “Lực lượng cánh tả Mỹ Latinh: Những góc
nhìn khác biệt”, Thông tin chuyên đề phục vụ nghiên cứu và giảng dạy,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
139. Alan Wood (2007), Cách mạng Venezuela và nhiệm vụ những người cộng sản,
Nguyễn Tú Hoa (dịch), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
140. L.Xuân (2004), Venezuela: đẩy mạnh cải cách ruộng đất, tại trang
http://www.tuoitre.vn, (truy cập ngày 30/08/2004).
B. Tài liệu Tiếng nước ngoài
141. Robert J. Alexander (1965), Latin - American Politics and Government,
Happer & Row press, New York, USA.
142. Demetrio Boersner (2011), La geopolítica del Caribe y sus implicaciones para
la política exterior de Venezuela, ILDIS Instituto Latinoamericano de
Investigaciones Sociales, Caracas, Venezuela.
170
143. Iain Bruce (2008), The Real Venezuela: Making Socialism in the 21st Century,
Pluto Press, London, UK.
144. Roger Burbach, Michael Fox and Federico Fuentes (2013), Latin America’s
Turbulent Transitions: The Future of 21st Century Socialism, Zed Books
Press, London, UK.
145. R.S.Clem, (2012), Venezuela’s petro - diplomacy: Hugo Chavez’s foreign
policy, Kansas: Pi Gamma Mu, Kansas, USA.
146. Corrales, Javier (2007), Venezuela: Crowding out the opposition Michael
Penfold, The Jonhs Hopkins University Press, Maryland, USA.
147. Larry Diamond, Ronathar Hartlin (1999), Democracy in Developing Countries
Latinh America, Lynee Riener Publisher, (second edition), Colorado, USA.
148. Alex Durand (2011) The Chavez Paradox: Assessing the Bolivarian Revolution
Harvard International Review, 03 ( 33).
149. American Heritage® (2016), Dictionary of the English Language, Fifth
edition. Copyright and Published by Houghton Mifflin Harcourt Publishing
Company, Boston, USA.
150. Marta Harnecker (1992), “Democracy and revolutionary movement”, Social
Justice Magazine, (04), Michigan, USA.
151. Irving Louis Horowitz (1969), Latin American radicalism: A documentary report
of left and nationalist movement, Jonathan Cape Ltd press, London, UK.
152. Rosa Miriam, Elizalde Luis Báez (2005), El encuentro de Fidel y Chávez,
Oficina de Publicaciones del Consejo de Estado, La Habana, Cuba.
153. Ministerio del Poder Popular para la Comunicación e Información (2007), EL
ALBA: La Gran Batalla contra el Capitalismo donde cada día estaremos
más unidos, Caracas, Venezuela.
154. Richard S. Hillman (2001), Understanding Comtemporary Latin America,
Boulder Press, London, UK.
155. Danuta Hubner (2000), Limits to national sovereignty, speech at European
Forum Albach, (28/08/2000).
156. Jaime Osorio (1992), Liberalism, democraacy and socialism, Social Justice
Magazine, (04), Michigan, USA.
171
157. Germán Sánchez, (2006), Cuba and Venezuela: An insight into two
revolutions, Ocean Press, Melbourne, Australia.
158. Ministry of peoples’ power for communication and information (2006),
Constitution of the Bolivarian republic of Venezuela, Caracas, Venezuela.
159. Ministry of peoples’ power for communication and information (2014), Social
mission in Venezuela, Caracas, Venezuela.
160. Partido Socialista Unido De Venezuela (2010), III Congreso, Caracas,
Venezuela.
161. George Philip và Francisco Panizza (2011), The Triumph of Politics: The
Return of the Left in Venezuela, Bolivia and Ecuador, Polity Books Press,
NewYork, USA.
162. D.L.Raby (2006), Democracy and Revolution: Latin America and Socialism
Today, Pluto Press, Malbourne, Australia.
163. Jame N.Rousseau (2000), The Challenges and tension of a globalizied world,
Mid - America American Studies Association published, Denver, USA.
164. Germán Sánchez (2006), Cuba and Venezuela: An insight into two revolutions,
Ocean Press, Australia.
165. Timothy W.Luke (1996), Nationality and Sovereignty in the New World Order,
Department of Politics at Victoria University of Wellington, New Zealand.
172
PHỤ LỤC
Quốc kỳ Venezuela
Quốc huy Venezuela
173
Phụ lục 1
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG BOLIVAR
Độc lập dân tộc: Đấu tranh để Venezuela thoát khỏi sự đô hộ của các thế lực
bên ngoài, trở thành một dân tộc tự do. Việc tự quyết định vận mệnh của đất nước
mình là một nguyên tắc không thương lượng.
Quyền tự chủ của nhân dân: Nguyên tắc này khẳng định quyền tự do của
nhân dân trước các chế độ độc tài trong nước. Quyền tự chủ của nhân dân là quyền
hợp pháp lớn nhất của các dân tộc.
Công bằng xã hội: Bolivar cho rằng, nền Cộng hòa và tự do không thể tồn tại
nếu không có công bằng xã hội. Nếu tự nhiên làm cho chúng ta khác nhau thì luật
pháp có nhiệm vụ phải điều chỉnh những khác biệt này thông qua giáo dục, phát
triển công nghiệp, nghệ thuật và các dịch vụ cho phép mọi người được bình đẳng cả
về chính trị và xã hội. Theo Bolivar, các bất bình đẳng xã hội đe dọa sự tồn vong
của nền cộng hòa.Vì vậy, ông tuyên bố sự bình đẳng phải được đặt lên trên cả lợi
ích giai cấp. Chính vì vậy, ông đã soạn thảo và công bố các bộ luật trao tự do cho
nô lệ và công nhận những quyền rất cơ bản của các dân tộc thổ dân như quyền tự do
và quyền có ruộng đất.
Giáo dục toàn dân: Bolivar là người luôn thúc đẩy và bảo vệ quyền được
hưởng nền giáo dục của nhân dân. Ông cho rằng giáo dục toàn dân là trách nhiệm
và nghĩa vụ của Nhà nước; chính vì thế, Ông đã khẳng định: “Nhiệm vụ đầu tiên
của chính phủ là đưa giáo dục đến với nhân dân”. Đối với ông, “một dân tộc dốt nát
là công cụ mù quáng hủy diệt chính họ”.
Chống tham nhũng: Đối với Bolivar, sự hưng thịnh của một quốc gia phụ
thuộc vào đạo đức của các công dân thông qua hệ thống giáo dục của quốc gia đó.
Đạo đức công dân phải đi cùng các bộ luật nghiêm minh và các tòa án công tâm có
khả năng thực hiện công lý. Nếu không làm được điều đó thì nền cộng hòa sẽ chết.
Chống chủ nghĩa quân phiệt: Bolivar luôn chống lại sự thoái hóa của quân
đội; hay nói cách khác là ông phản đối việc các sỹ quan quân đội lạm dụng sức
mạnh của vũ khí để mưu cầu lợi ích riêng; Ông luôn chống lại các chế độ độc tài.
Đối với ông, một người lính hạnh phúc là người không đòi hỏi quyền lãnh đạo đất
nước. Họ không được tự cho mình là trọng tài hay là người phán quyết luật pháp
174
của Chính phủ; họ phải là những người bảo vệ tự do. Ông là người đưa ra sáng kiến
xây dựng các đơn vị quân - dân sự; các đơn vị này đã thể hiện tính hiệu quả cao
trong cả thời kỳ chiến tranh lẫn hòa bình. Các đơn vị này phải công nhận quyền hợp
pháp của nhân dân thông qua luật pháp và thể chế Nhà nước.
Liên kết Mỹ Latinh: Đây là ý tưởng về sự liên kết Mỹ Latinh và toàn thế giới
trong một chính phủ, được Bolivar xây dựng từ năm 1826. Hòa bình trên cơ sở một
khối liên kết thống nhất các nước Mỹ Latinh và ông hy vọng rằng một ngày nào đó
nó sẽ là tấm gương để: “Thế giới mới sẽ gồm các quốc gia độc lập gắn chặt với
nhau bởi luật pháp chung quy định quan hệ đối ngoại của các nước và tạo cơ hội
cho các nước đó, thông qua một cơ quan lập pháp chung, những phương thức để
trường tồn... Mọi rào cản về xuất xứ, chủng tộc và màu da sẽ biến mất. Trong các
thế kỷ tiếp theo, có thể tiến tới một chính phủ hợp nhất toàn thế giới như một liên
bang”. [Dẫn theo 70, tr.146 - 147]
175
Phụ lục 2
TĂNG TRƯỞNG GDP VÀ GDP ĐẦU NGƯỜI CỦA MỸ LATINH
Đơn vị tính: %
Thời kỳ 1960 - 1980 Thời kỳ 1981 - 2002 Nước
GDP GDP/đầu người GDP GDP/đầu người
Argentina 4,2 2,6 0,8 - 0,6
Bolivia 4,7 2,3 2,0 - 0,3
Brazil 7,2 4,6 1,8 0,1
Chile 3,5 1,6 4,7 3,2
Comlombia 5,3 2,6 2,9 0,9
Costa Rica 6,2 3,1 3,7 0,9
Ecuador 8,4 5,4 2,1 - 0,2
Mexico 6,8 3,7 2,5 0,6
Peru 4,6 1,8 1,8 - 0,2
Cộng hòa
Dominicana 7,3 4,7 4,9 3,0
Uruguay 2,2 1,5 0,8 0,1
Venezuela 5,1 1,6 1,0 - 1,3
Trung bình khu vực 5,5 3,0 2,4 0,5
Nguồn: CEPAL [72,tr.19]
176
Phụ lục 3
SỐ NĂM TĂNG TRƯỞNG GDP ÂM CỦA MỘT SỐ NƯỚC MỸ
LATINH THỜI KỲ 1980 - 2002
Đơn vị tính: %/ năm
1980 - 2002 Nước
Argentina 11
Bolivia 10
Brazil 9
Comlombia 7
Costa Rica 8
Ecuador 8
Mexico 8
Peru 10
Uruguay 9
Venezuela 12
Trung bình khu vực 8,3
Nguồn: Economic growth in Latin America in the late twentieth centuryN: Evidence
and Intepretation của Andres solimano và raimundo Soto, CEPAL, 12/2003 [137, tr.78].
177
Phụ lục 4
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA MỸ LATINH
GIAI ĐOẠN 1980 - 1990
Đơn vị tính: %
Nước 1980-1985 1986-1990
Achentina -7,6 -1,3
Bolivia -18,0 5,7
Brazil -2,0 2,0
Chile 9,0 14,3
Colombia 2,0 2,6
Dominica -1,9 7,3
Ensanvador -10,7 9,0
Goatemala -8,1 6,2
Onduraz -3,9 7,4
Mexico 0,4 2,6
Nicaragoa -55,8 -11,8
Paragoay 1,9 6,7
Peru -0,2 6,8
Urugoay -14,3 3,9
Venezuela -3,6 -5,3
Nguồn: World Bank, World Deverlopment Indicators Database, 2006, [137,tr.78].
178
Phụ lục 5
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CÁC NƯỚC MỸ LATINH
GIAI ĐOẠN 1997 - 2006
Đơn vị tính: %
Quốc gia 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Achentina 8,1 3,9 -3,4 -0,8 -4,4 -10,9 8,8 9,0 9,2 5,3
Bolivia 5,0 5,0 0,4 2,5 1,7 2,5 2,9 3,9 4,1 4,5
Brazil 3,3 0,1 0,8 4,4 1,3 1,9 0,5 4,9 2,3 2,8
Chile 6,6 3,2 -0,8 4,5 3,4 2,2 3,9 6,2 6,3 4,4
Colombia 3,4 0,6 -4,2 2,9 1,5 1,9 3,9 4,9 5,2 6,0
Coxtarica 5,6 8,4 8,2 1,8 1,1 2,9 6,4 4,1 5,9 6,8
Cu Ba 2,7 0,2 6,3 6,1 3,0 1,5 2,9 4,5 11,8 12,5
Equado 4,1 2,1 -6,3 2,8 5,3 4,2 3,6 7,9 4,7 4,9
Ensanvador 4,2 3,7 3,4 2,2 1,7 2,3 2,3 1,8 2,8 3,8
Goatemala 4,4 5,0 3,8 3,6 2,3 2,2 2,1 2,7 3,2 4,6
Haiti 2,7 2,2 2,7 0,9 -1,0 -0,3 0,4 -3,5 1,8 2,5
Ondurat 5,0 2,9 -1,9 5,7 2,6 2,7 3,5 5,0 4,1 5,6
Mexico 6,8 5,0 3,8 6,6 0,0 0,8 1,4 4,2 3,0 4,8
Nicaragoa 4,0 3,7 7,0 4,1 3,0 0,8 2,5 5,1 4,0 3,7
Panama 6,4 7,4 4,0 2,7 0,6 2,2 4,2 7,5 6,9 7,5
Paragoay 3,0 0,6 -1,5 -3,3 2,1 0,0 3,8 4,1 2,9 4,0
Peru 6,9 -0,7 0,9 3,0 0,2 5,2 3,9 5,2 6,4 5,2
Dominica 8,1 8,3 6,1 7,9 2,3 5,0 -0,4 2,7 9,2 10,0
Urugoay 5,0 4,5 -2,8 -1,4 -3,4 -11,0 2,2 11,8 6,6 7,3
Venezuela 6,4 0,3 -6,0 3,7 3,4 -8,9 -7,7 17,9 9,3 10,0
Nguồn: Báo cáo của Uỷ ban kinh tế Mỹ Latinh của Liên hợp quốc, [137,tr.79].
179
Phụ lục 6
VENEZUELA TRONG DANH MỤC CÁC ĐỐI TÁC CỦA MỸ
(Tổng giá trị xuất - nhập khẩu)
Đơn vị tính: triệu USD
Năm Vị trí Giá trị thương mại
1998 21 15.138
1999 23 15.598
2000 17 22.737
2001 19 19.561
2002 20 18.491
2003 19 19.313
2004 16 28.922
2005 13 38.785
(Nguồn: Uỷ ban Thương mại quốc tế Mỹ - USITC) [70, tr.148].
Phụ lục 7
GDP THỰC/ ĐẦU NGƯỜI CỦA VENEZUELA
Đơn vị tính: Nghìn tỷ Bolivaria
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
(Nguồn: Ngân hàng Trung ương Venezuela, BCV), [125, tr.46].
180
Phụ lục 8
TỶ LỆ LẠM PHÁT (TỪ 1991 - 2000)
Đơn vị tính: %
0
20
40
60
80
100
120
140
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
(Nguồn: Ngân hàng Trung ương Venezuela- BCV), [125, tr.47].
Phụ lục 9
TỶ LỆ THẤT NGHIỆP Ở VENEZUELA NĂM 1999- 2007
Đơn vị tính: %
0
5
10
15
20
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
(Nguồn: Viện Thống kê Venezuela- INE), [125, tr.48].
Tỉ lệ thất nghiệp được thống kê theo % tháng sáu hàng năm
181
Phụ lục 10
TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG Ở CÁC KHU VỰC KINH TẾ CỦA
VENEZUELA TRONG THỜI GIAN 1998- 2008
Đơn vị tính: % tổng thực tế
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng GDP thực 0,3 -6,0 3,7 3,4 -8,9 -7,8 18,3 10,3 10,3 8,4 5,6*
Phần của xã hội -2,1 -5,2 3,0 -0,6 -11,1 -1,3 12,5 2,8 3,6 7,7 18,8
Phần của tư nhân 1,1 -6,9 4,2 4,9 -5,8 -8,9 17,2 12,9 11,9 7,3 0,2
Phân theo ngành kinh tế
Khu vực dầu mỏ 0,3 -3,8 2,3 -0,9 -14,2 -1,9 13,7 -1,5 -2,0 -4,2 4,1
KV phi dầu mỏ -0,1 -6,9 4,2 4,0 -6,0 -7,4 16,1 12,1 11,7 9,5 5,9
Khu mỏ -7,5 -12,1 15,3 2,8 4,3 -4,4 14,2 3,0 2,0 2,0 0,4
Sản xuất -1,4 -10,1 5,1 3,7 -13,1 -6,8 21,4 11,1 7,2 7,2 2,0
Điện, nước 0,5 -2,2 4,7 4,8 2,1 -0,5 8,5 11,2 2,4 2,4 3,6
Xây dựng 1,4 -17,4 4,0 13,5 -8,4 -39,5 25,5 20,0 13,3 13,3 7,6
Thương nghiệp -1,5 -5,4 5,7 4,6 -13,6 -9,6 28,6 21,0 16,9 16,9 5,4
Vận tải -5,2 -15,3 12,5 -1,3 -10,4 -8,0 24,6 14,7 13,5 13,5 3,5
Bưu điện 8,2 3,6 2,1 8,1 2,5 -5,0 12,9 22,4 20,0 20,0 21,3
Tài chính,B.Hiểm 0,2 -15,2 -0,7 2,8 14,5 11,9 37,9 36,4 17,0 17,0 -5,2
Nhà ở 0,7 -4,7 0,8 3,5 -0,7 -0,6 11,1 7,9 6,6 6,6 3,2
Dịch vụ N. Nước -0,6 -4,8 2,8 2,5 -0,4 4,9 11,1 8,0 5,0 5,0 4,4
Các loại khác** 3,0 0,5 5,2 1,9 -1.0 -2,9 7,2 12,6 5,1 5,1 5,4
Phân loại theo chi
Chi N.Nước -3,1 -7,5 4,2 6,9 -2,5 5,7 14,2 10,7 6,7 5,1 5,6
T.Dùng tư nhân 1,8 -1,7 4,7 6,0 -7,1 -4,3 15,4 15,7 17,9 18,7 8,3
Hình thành vốn 4,4 -10,6 6,7 13,6 -34,0 -35,5 91,3 30,5 31,6 26,6 -1,5
Xuất khẩu 3,5 -11,0 5,8 -3,5 -4,0 -10,4 13,7 3,8 -4,5 -5,6 -0,4
Nhập khẩu 11,3 -9,3 12,4 14,1 -25,2 -20,9 57,5 35,2 31,1 33,6 3,8
* Tăng trưởng 3 quí đầu 2008 so với cả năm 2007
** Loại khác gồm: Nông nghiệp tư nhân, nhà trọ tư nhân, khách sạn và các DN khác
Nguồn: Viện Thống kê quốc gia Venezuela - INE 2009, [99, tr.10].
182
Phụ lục 11
TÌNH TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI DƯỚI THỜI
TỔNG THỐNG HUGO CHAVEZ
Số hộ
(% so với tổng số hộ)
Số người
(% so với tổng số
người)
Bất bình
đẳng XH Năm 6 Tháng
Nghèo Cực nghèo Nghèo Cực nghèo Chỉ số
Đầu năm 42,80 16,60 50,00 19,86 46,93 1999
Cuối năm 42,00 16,89 48,70 20,15 48,51
Đầu năm 41,60 16,65 48,30 19,49 47,72 2000
Cuối năm 40,40 14,89 46,30 18,02 45,07
Đầu năm 39,10 14,17 45,50 17,36 45,73 2001
Cuối năm 39,00 14,40 45,40 16,94 47,72
Đầu năm 41,50 16,59 48,10 20,13 49,44 2002
Cuối năm 48,60 21,04 55,40 25,03 47,98
Đầu năm 54,00 25,09 61,00 30,22 48,11 2003
Cuối năm 55,10 25,03 62,10 29,75 46,47
Đầu năm 53,10 23,46 60,20 28,10 45,50 2004
Cuối năm 47,00 16,60 53,90 22,50 45,40
Đầu năm 42,40 17,00 48,80 20,30 47,47 2005
Cuối năm 37,90 15,30 43,70 17,80 47,71
Đầu năm 33,90 10,60 39,70 12,90 44,22 2006
Cuối năm 30,60 9,10 36,30 11,10 43,70
Đầu năm 27,46 7,63 33,07 9,41 42,37 2007
Cuối năm 28,50 7,90 33,60 9,60 42,11
Đầu năm 28,00 7,80 33,10 9,20 40,99 2008
Cuối năm 27,50 7,60 32,60 9,20 40,68
Đầu năm 31,60 8,70 2009
Cuối năm
Nguồn: Viện Thống kê quốc gia Venezuela- INE, 2009,[99, tr.12].
183
Phụ lục 12
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ NGHÈO CÙNG CỰC CHO HỘ GIA ĐÌNH
Đơn vị tính: %
38.52
24.57
1516.32
6.97
005
1015202530354045
Quá khứ
(1999)
Hiện tại
(2011)
Tương lai
(2019)
Nghèo
Nghèo cùng cực
Nguồn: Viện Thống kê quốc gia Venezuela - INE [160].
Phụ lục 13
TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN
Đơn vị tính: %
43.4
70.7
98.590.7 93 95
53.6
74
97
0
20
40
60
80
100
120
Quá khứ
(1999)
Hiện tại
(2012)
Tương lai
(2019)
Giáo dục mầm non
Giáo dục tiểu học
Giáo dục trung học
Nguồn: Viện Thống kê quốc gia Venezuela - INE [160].
top related