hỒ sƠ xÉt cÔng nhẬn sÁng kiẾn · 2020. 4. 29. · - tỷ lệ (%) đóng góp vào việc...
Post on 20-Sep-2020
4 Views
Preview:
TRANSCRIPT
ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN
TRUNG TÂM GDNN – GDTX BÌNH XUYÊN
HỒ SƠ XÉT CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
- Tên sáng kiến: Giáo dục học sinh qua những phát hiện các vấn đề
xã hội đặt ra trong một số tác phẩm văn xuôi đối với học sinh lớp
11 và 12
- Tác giả sáng kiến: Nguyễn Khả Tuyến
- Đơn vị: Trung tâm GDNN - GDTX Bình Xuyên
- Chức vụ: Giáo viên
- Trình độ chuyên môn: Cử nhân sƣ phạm Ngữ văn
u t
1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------- o0o --------
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính ửi: Hội đồng Sáng kiến kinh nghiệm huyện Bình Xuyên
a) Tác giả sáng kiến: NGUYỄN KHẢ TUYẾN
- Ngày tháng năm sinh: 13/11/1984. Giới tính: Nam.
- Đơn vị công tác: Trung tâm GDNN – GDTX Bình Xuyên.
- Chức danh: Giáo viên.
- Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm.
- Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra kiến: 100%.
b) Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Khả Tuyến.
c) Tên sáng kiến; lĩnh vực áp dụng; mô tả bản chất sáng kiến; các thông
tin cần bảo mật:
* Tên sáng kiến: Gi o dục ọc si qua ữ p t iệ c c vấ đề xã
ội đặt ra tro ột số t c p ẩ v xuôi đối với ọc si lớp 11 và 1 .
* Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Dạy và học môn ngữ văn lớp 11, 12 ở
các Trung tâm GDNN – GTDX.
* Mô tả sáng kiến:
- Nội dung sáng kiến:
1. Cơ sở lựa chọn đề tài
Việc đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy
vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập ngày nay đang
được áp dụng rất hiệu quả. Trong đó, học sinh đóng vai trò chủ động, tích cực
khám phá và chiếm lĩnh tri thức. Giáo viên là người dẫn dắt định hướng, quan
sát và đánh giá.
Trên thực tế, học sinh đã thực sự trở thành những chủ thể tích cực và sáng
tạo, hiệu quả giáo dục đã được cải thiện và chất lượng được nâng cao hơn. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, dư luận xã hội và các phương tiện thông tin đại
chúng cũng đã và đang phản ánh, cảnh báo về tình trạng xuống cấp về mặt đạo
đức của một bộ phận không nhỏ người trong xã hội: sống vô trách nhiệm, vô
cảm, bạo lực học đường, bạo hành gia đình, lối sống thực dụng, hưởng thụ, và
2
nó đang diễn ra chủ yếu trong đời sống của bộ phận giới trẻ… Đây cũng là vấn
đề mà xã hội cũng như ngành giáo dục và những người giảng dạy trên bục giảng
như chúng tôi quan tâm, trăn trở.
Giáo dục là quá trình với nhiều nhân tố cùng phối hợp, mà sản phẩm
hướng đến cuối cùng là hình thành và hoàn thiện nhân cách người học.
Có thể thấy rằng, trong hệ thống các môn học thì các môn học thuộc lĩnh
vực khoa học xã hội có vai trò quan trọng đến việc giáo dục và bồi dưỡng nhân
cách học sinh bởi tính đặc thù của nó.
Tuy nhiên, với việc học theo định hướng khối, phân ban, hiện tượng học
lệch (quan tâm, ưu tiên đến các môn phục vụ mục đích thi đại học...) đã diễn ra
ở phần lớn học sinh. Vì thế dẫn đến việc nhiều học sinh xem thường, học lệch,
học qua loa đối phó đối với các môn khoa học xã hội, trong đó có môn Ngữ văn.
Có thể nói rằng, môn học Ngữ văn là bộ môn học có những giá trị lớn về
nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát
triển nhân cách của người học một cách trực tiếp, tự nhiên và hiệu quả nhất. Bởi
lẽ, văn học là một bộ môn nghệ thuật. Tác phẩm văn học có nhiều giá trị. Trước
hết tác phẩm văn học là một tấm gương phản chiếu cuộc sống. Tác phẩm văn
học là kết quả của quá trình nhà văn khám phá, lí giải cuộc sống rồi chuyển hóa
những hiểu biết đó vào nội dung tác phẩm. Ở đó qua lăng kính nghệ thuật nhà
văn trực tiếp hay gián tiếp chuyển tải những vấn đề xã hội vào trong tác phẩm
văn chương. Cho nên văn học là cuộc sống, gần gũi và gắn bó với mỗi người. Vì
vậy, đọc văn là hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của con người
giúp người đọc hiểu biết rõ hơn, sâu hơn về cuộc sống xung quanh và thậm chí
chính bản thân mình, từ đó tác động vào cuộc sống hiệu quả hơn. Thông qua
cuộc sống và hình ảnh của nhiều người khác nhau được phản ánh trong các tác
phẩm cụ thể, văn học còn giúp cho mỗi người đọc hiểu được bản chất của con
người nói chung (Đâu là giá trị mà con người muốn hướng đến? Đâu là tư
tưởng, tình cảm, khát vọng và sức mạnh của con người ? v.v …) Đồng thời
chính từ cuộc đời người khác (nhân vật), mỗi người đọc có thể tự liện hệ, tự so
sánh, đối chiếu để thấu cảm với cuộc sống, số phận khác nhau của con người, từ
đó thấu hiểu bản thân mình hơn với tư cách là một con người - cá nhân.
Con người trong quá trình nhận thức không chỉ để nhận thức mà nhận
thức là để hành động. Con người không chỉ có nhu cầu hiểu biết mà còn có nhu
cầu hướng thiện, khao khát một cuộc sống tốt đẹp hướng đến Chân - Thiện - Mĩ.
Chính vì vậy, văn học có khả năng đem đến cho người đọc những bài học quý
giá về lẽ sống để họ tự rèn luyện bản thân mình ngày một tốt đẹp hơn.
3
Về tư tưởng, văn học hình thành trong người đọc một lí tưởng tiến bộ,
giúp cho người học có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống.
Về tình cảm, văn học giúp con người trở nên trong sáng, cao thượng hơn.
Về đạo đức, văn học nâng đỡ cho nhân cách của con người phát triển,
giúp cho người học biết phân biệt phải - trái, tốt - xấu, đúng - sai, có quan hệ tốt
đẹp và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của mọi người.
Có thể thấy, văn học có giá trị giáo dục lớn lao, nó có thể thay đổi hoặc
nâng cao tư tưởng, tình cảm con người theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp, tiến
bộ, đồng thời làm cho con người ngày càng hoàn thiện về đạo đức, nhân cách,
bồi đắp tâm hồn ngày càng tốt đẹp hơn.
Là một giáo viên giáo viên dạy văn, tôi tâm niệm, dạy văn trước hết là
dạy làm người, học văn trước hết là học làm người. Vì vậy, trong những năm
qua, tôi luôn chú trọng việc giáo dục học sinh trong quá trình dạy học Ngữ văn
bằng cách giúp các em tích cực, chủ động khám phá, phát hiện các vấn đề xã hội
được đặt tra trong các tác phẩm văn chương, từ đó giúp các em nhận thấy sự gần
gũi của văn học với cuộc sống; văn học luôn gắn liền với đời sống. Đồng thời,
giúp các em nhận thức được giá trị giáo dục của văn học, góp phần hình thành,
phát triển và hoàn thiện nhân cách chính mình. Với những mục tiêu muốn hướng
đến như vậy, tôi chọn thực hiện bước đầu đề tài: Gi o dục ọc si qua ữ
p t iệ c c vấ đề xã ội đặt ra tro ột số t c p ẩ v xuôi đối với ọc
si lớp 11 và 1 . Tôi coi đây là một ý tưởng, chưa hẳn đã là một sáng kiến, mà
là một kinh nghiệm thực tiễn cho bản thân cũng như đồng nghiệp của mình
trong quá trình dạy học và bồi dưỡng, giáo dục các em học sinh...
2. Phƣơng pháp và điều kiện thực hiện
2.1. Phƣơng pháp giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn đề
xã hội trong tác phẩm văn học ngữ văn lớp 11, 12
Bản chất của việc giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện ra vấn đề xã
hội trong tác phẩm văn học chính là việc vận dụng kết hợp, linh hoạt nhiều
phương pháp trong quá trình dạy và học làm sao để đạt được hiệu quả:
- Trước hết, để thực hiện phương pháp này, học sinh sẽ phải chủ động tích
cực chuẩn bị bài ở nhà (đọc tác phẩm, soạn bài, tìm hiểu trên các kênh thông tin
những nội dung có liên quan đến tác phẩm), tìm hiểu kĩ về tác phẩm, từ đó phát
hiện những vấn đề xã hội và những thông điệp mà tác giả đặt ra, từ đó các em có
tâm thế và hứng thú trong tiết học trên lớp.
- Thứ hai, trong tiết học, giáo viên tổ chức tiết học thông qua việc vận
dụng linh hoạt phương pháp dạy học như: Nêu vấn đề, phát vấn, thảo luận
4
nhóm, bình giảng,… Điều này sẽ giúp không khí học tập sinh động, học sinh
được tự do, mạnh dạn bày tỏ ý kiến quan điểm của mình về một vấn đề, cũng là
phương thức đối thoại giữa học sinh với nhà văn, giữa học sinh với giáo viên,
và giữa học sinh với học sinh, rèn luyện kĩ năng diễn đạt, tranh luận… Do vậy,
việc tiếp nhận tác phẩm văn học không còn mang tính thụ động, áp đặt. Đồng
thời qua đó, giáo viên có thể đánh giá được thái độ học tập của học sinh, nắm
bắt mức độ tiếp nhận tác phẩm văn học, mức độ hiểu biết của các em về các vấn
đề xã hội,… nhằm có sự khích lệ hoặc có định hướng tích cực, kịp thời.
Thứ ba, việc tiếp nhận tác phẩm văn học một cách chủ động, tích cực còn
sẽ giúp học sinh thấy tác phẩm văn học không phải là những gì xa lạ, tách rời
cuộc sống mà rất gần gũi, gắn bó với cuộc sống. Văn học là cuộc sống. Văn học
xuất phát từ cuộc sống và trở lại để phục vụ cuộc sống. Từ đó, các em có thể
tiếp nhận các tác phẩm văn chương một cách tích cực, các em sẽ có sự thấu hiểu
để rồi đồng cảm, sẻ chia, học hỏi được những giá trị tinh thần quý báu mà nhà
văn gửi gắm. Thông qua đó, các em tự điều chỉnh, hoàn thiện bản thân theo
hướng tích cực, hướng đến chân, thiện , mĩ một cách tự nhiên.
Thứ tư, việc tích cực, chủ động phát hiện, tìm hiểu về các vấn đề xã hội
trong tác phẩm văn học còn giúp học sinh phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng
làm văn nghị luận xã hội.
2.2. Điều kiện thực hiện
2.2.1. Đối với i o vi
- Hướng dẫn học sinh cách thức làm việc.
- Xác định những vấn đề xã hội trọng tâm được phản ánh trong từng tác
phẩm, hệ thống câu hỏi, dự kiến nội dung trả lời của học sinh để có thể chủ động
xử lí tình huống. Các vấn đề được nhận thức và giáo dục học sinh thông qua tác
phẩm.
- Dự kiến thời gian thực hiện.
- Cách thức cho điểm, khen ngợi, khích lệ, động viên học sinh tham gia
phát biểu, thảo luận.
2.2.2. Đối với ọc si
- Nắm vững cách thức thực hiện.
- Tiếp nhận tác phẩm văn học (đọc tác phẩm, soạn bài, tìm hiểu trên các
kênh thông tin những nội dung có liên quan đến tác phẩm).
- Phát hiện những vấn đề xã hội trọng tâm được phản ánh trong tác phẩm
văn học.
5
- Bày tỏ ý kiến cá nhân về những vấn đề đó dưới dạng đề cương.
- Chuẩn bị phát biểu tranh luận trước lớp.
3. Phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học lớp 11 và 12
3.1. Đối với c ươ tr N ữ v lớp 11
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên tổ chức cho học sinh học và phát
hiện một số vấn đề xã hội trọng tâm được đặt ra trong các tác phẩm văn học
như:
- Văn bản Vào phủ Chúa Trịnh: Cuộc sống xa hoa của vua chúa, nhân
cách y đức của người thầy thuốc
- Bài thơ Tự tình II: Thân phận lẽ mọn, niềm khao khát hạnh phúc của
người phụ nữ thời phong kiến.
- Thương vợ: Sự hi sinh của người phụ nữ và vai trò, trách nhiệm của
người đàn ông trong gia đình.
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Lòng yêu nước.
- Truyện ngắn Hai đứa trẻ: Lòng thương người.
- Văn bản Hạnh phúc của một tang gia: Lối sống thực dụng và sự suy đồi
đạo đức của bộ phận người trong tầng lớp thượng lưu trước cách mạng.
- Văn bản Chí Phèo: Bi kịch của sự tha hóa và niềm tin vào con người.
- Văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài: Lòng dân.
- Văn bản Tình yêu và thù hận: Sức mạnh của tình yêu.
- Bài thơ Tôi yêu em: Ứng xử trong tình yêu đơn phương.
- Bài thơ Từ ấy: Lí tưởng sống và mối quan hệ giữa cá nhân với cộng
đồng.
- Bài thơ Chiều tối: Nghị lực và tình yêu thiên nhiên, cuộc sống.
- Văn bản Về luân lí xã hội ở nước ta: Sự vô cảm, vô trách nhiệm.
3.2. Đối với c ươ tr N ữ v lớp 1
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh phát hiện một số vấn đề xã hội
trọng tâm trong các tác phẩm văn học như:
- Việt Bắc: Tình quân dân.
- Tây Tiến: Trách nhiệm và lí tưởng của người trai với đất nước.
- Văn bản Vợ chồng A Phủ: Tinh thần tự đấu tranh giải phóng.
- Văn bản Vợ nhặt: Khát vọng sống và lòng nhân ái.
- Văn bản Rừng xà nu: Vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số trong công
cuộc giữ nước.
6
- Văn bản Những đứa con trong gia đình: Mối quan hệ giữa gia đình và
xã hội.
- Văn bản Chiếc trhuyền ngoài xa: Bạo lực gia đình và trách nhiệm của
cha mẹ với con cái.
- Văn bản Số phận con người: Nghị lực sống và lòng nhân ái.
- Văn bản Ông già và biển cả: Yếu tố làm nên sự thành công.
- Văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt: Sự đấu tranh để trở về là chính
mình, là mình. Cuộc đấu tranh với chính mình.
4. Cách thức tiến hành
Bước một: Giáo viên cho học sinh nêu vấn đề xã hội mà các em đã phát
hiện trong quá trình chuẩn bị bài ở nhà và tìm hiểu tác phẩm trên lớp. Nếu học
sinh chưa nêu được những vấn đề xã hội trọng tâm theo yêu cầu, giáo viên có
thể đặt ra hệ thống câu hỏi định hướng, gợi mở vấn đề.
Bước hai: Sau khi học sinh đã nêu ra được những vấn đề xã hội trọng tâm
được phản ánh trong tác phẩm văn học, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận
và trình bày ý kiến của bản thân về vấn đề đó trước lớp.
Bước ba: Giáo viên nhận xét, đánh giá, cho điểm phần trình bày của học
sinh.
5. Ứng dụng trong một số bài học cụ thể
Để có thể tổ chức hiệu quả những giờ dạy học tác phẩm văn chương thông
qua việc giúp học sinh chủ động, tích cực phát hiện những vấn đề xã hội trong
tác phẩm văn học, từ đó giáo dục nhận thức của học sinh đối với các vấn đề
được đặt ra và có liên quan giáo viên cũng cần lưu ý một số vấn đề sau:
Mỗi tác phẩm văn chương nghệ thuật chứa đựng những hình tượng nghệ
thuật đa nghĩa, phản ánh nhiều vấn đề xã hội khác nhau. Vì vậy, trước hành
động tích cực tiếp nhận của người đọc, nó hiện lên như một cấu trúc vừa ổn định
vừa biến đổi của những hình ảnh mang ý nghĩa thẩm mĩ. Nội dung ý nghĩa của
tác phẩm là một hệ thống mở đối với những cách lí giải khác nhau. Cho nên mỗi
sự phát hiện, cắt nghĩa, lí giải đúng đắn, hợp lí về ý nghĩa tác phẩm đều có khả
năng mang lại cho học sinh những tác động ảnh hưởng nhất định, tạo nên hệ quả
đa chiều. Vì vậy, trong giờ đọc văn, giáo viên cần tránh giới hạn, gò ép vào một
kết quả diễn giảng duy nhất, vào quan điểm, ý đồ của nhà văn mà cần gợi ra cho
học sinh nhiều chiều hướng lí giải khác nhau về ý nghĩa tác phẩm. Đặc biệt cần
tránh tình trạng chỉ chú trọng khai thác khía cạnh xã hội mà không có sự đầu tư
thỏa đáng cho việc tiếp nhận những giá trị khác của tác phẩm văn học.
Ngoài ra, việc tiếp nhận văn học của học sinh bao giờ cũng vừa mang tính
7
cá nhân gắn liền với cảm xúc, vốn sống, thị hiếu, trình độ, tâm lí riêng của từng
cá thể lại vừa mang tính tập thể xã hội, thể hiện sự gặp gỡ, quan điểm chung,
tiếng nói hòa đồng của tập thể lớp. Cho nên, giáo viên cần phải tác động và xử
lí thông qua các định hướng sư phạm thích hợp, tinh tế nhằm cân bằng ở chừng
mực nhất định, tạo ra được sự nhất trí thỏa đáng trên tinh thần chung của lớp
học, đồng thời nhấn mạnh và phát huy tính tích cực sáng tạo, năng động chủ
quan của học sinh. Muốn vậy, giáo viên cần có những định hướng cho từng đối
tượng học sinh, phải nhạy bén nắm bắt, kích thích và phát huy tính sáng tạo của
các em, khơi gợi các hoạt động bên trong của mỗi học sinh để các em tiếp nhận
tác phẩm, tự tin và hào hứng phát biểu ý kiến, bộc lộ cái riêng của mình.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần vận dụng nhiều phương pháp, nhất
là phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm,… tạo không khí học tập nhẹ nhàng,
linh hoạt, thân thiện nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả sư phạm, phát huy được tối đa
tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập.
Mặt khác, việc giáo viên nhận xét, đánh giá ý kiến phát biểu của học sinh
cũng hết sức quan trọng. Nó là một trong những yếu tố tạo hứng thú học tập cho
học sinh, tác động trực tiếp đến hiệu quả giáo dục. Vì vậy, giáo viên cần nắm
vững kĩ năng sư phạm, nhạy bén, xử lí tình huống hợp lí, có sự định hướng,
nhận xét và đánh giá thỏa đáng, điều chỉnh, uốn nắn những quan niệm, cách
nghĩ, cách hiểu lệch lạc, sai quỹ đạo chung, đồng thời, động viên khen ngợi,
thưởng điểm cho những học sinh đúng lúc sẽ giúp các em hứng thú, chủ động,
tích cực hơn trong việc học văn.
Dưới đây, tôi xin chia sẻ với quý thầy cô đồng nghiệp cách thức giúp học
sinh chủ động tích cực phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học từ đó
giáo dục giúp các em có nhận thức đầy đủ và đúng đắn các vấn đền được đặt ra
với những góc nhìn khách quan thông qua một số giờ học cụ thể trong chương
trình Ngữ văn lớp 11, 12.
5.1. Bài t ơ T ươ vợ
ước 1: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản trên lớp, giáo viên
dành 5 phút cuối tiết học yêu cầu học sinh nêu vấn đề xã hội của bài thơ mà các
em đã phát hiện ra. Giáo viên cũng có thể định hướng bằng hệ thống câu hỏi:
- Bài thơ Thương vợ khắc họa hình ảnh bà Tú như thế nào?
- Tại sao ông Tú lại không giúp đỡ được gì cho vợ trong việc mưu sinh?
- Suy nghĩ của em về người đàn ông trong gia đình hiện đại?
ước ai: Sau khi học sinh phát hiện ra vấn đề xã hội rút ra từ bài thơ
Thương vợ: Vai trò và trách nhiệm của người đàn ông trong gia đình hiện đại,
8
Giáo viên tổ chức học sinh thảo luận nhanh và phát biểu ý kiến về vấn đề đó
trước lớp.
ước ba: Giáo viên nhận xét, đánh giá ý kiến phát biểu của học sinh và
có thể nhấn mạnh một số ý: Trong gia đình phụ hệ, người đàn ông, người chồng,
người cha đóng vai trò trụ cột gia đình, họ là người chủ yếu gánh vác việc mưu
sinh và giải quyết những việc lớn trong gia đình và ngoài xã hội. Họ là người
được nể trọng. Thế nhưng vẫn có những người đàn ông có lối sống gia trưởng,
độc đoán, thẳng việc, lười biếng, ỷ nại… gây khổ cho vợ con, thậm chí trở thành
gánh nặng cho gia đình. Ở đây, ông Tú vì lo việc học, vì định kiến xã hội mà
không thể giúp đỡ vợ gánh vách gia đình. Chỉ biết thương vợ suông.
Bài học nhận thức: Vậy nên người đàn ông hiện đại, không chỉ là trụ cột
gia đình, gánh vác trách nhiệm với gia đình và xã hội mà còn phải là người
chồng, người cha biết quan tâm, chia sẻ việc gia đình, chung tay nuôi dạy con
cái, chăm sóc cha mẹ già… Người đàn ông biết quan tâm và chia sẻ bằng cả tình
cảm và hành động sẽ là người đàn ông có được sự thành đạt và hạnh phúc!
5.2. ài Vợ c ồ A P ủ
Sau khi hướng dẫn học sinh khám phá ra những vấn đề xã hội trong tác
phẩm văn học như: Tinh thần tự đấu tranh giải thoát bản thân, tinh thần đấu
tranh cách mạng giải phóng dân tộc,… giáo viên tổ chức học sinh thảo luận về
các vấn đề trên. Sau cùng nhận xét, đánh giá phần phát biểu của học sinh và có
thể nhấn mạnh những ý cơ bản:
- Khi kẻ bị ức hiếp, áp bức, bóc lột, đè nén,… phản ứng của con người
thường là bất bình, phẫn uất, và phản kháng. Tuy nhiên, sự phản ứng thường là
tiêu cực. Chẳng hạn như nhân vật Mị vậy, khi mới bị bắt cóc và bị ép phải làm
dâu gạt nợ, phải sống cuộc sống đầy cơ cực, tủi nhục, ban đầu, đêm nào Mị cũng
khóc, rồi Mị định tự tử. Khi ý định tự tử không thành, Mị cam chịu an phận. Sự
cam chịu an phận ấy không phải do sự thiếu hiểu biết về quyền sống, quyền tự
do và hạnh phúc của bản thân mà chính là do sự khiếp nhược của Mị cũng như
của nhiều người đàn bà khác trong nhà thống lí Pátra. Sự khiếp nhược khiến cho
họ tê liệt tinh thần phản kháng đấu tranh và kết cục là nhiều người đàn bà đã
chết thảm trong tay chúng, còn lại thì phải sống cuộc đời tủi nhục, đắng cay.
Nhưng cuối cùng, Mị đã tự do.
Bài học nhận thức: Con người cần đấu tranh và không ngừng đấu tranh để
trống lại các ác, những thế lực trà đạp, giam hãm cuộc sống của mình để được tự
do. Giống như Mỵ, sự tự do ấy có được là bởi chính Mị biết dũng cảm vượt lên
trên cái chết, đấu tranh vượt qua hoàn cảnh để giành lại. Như vậy, sống là phải
9
biết mạnh mẽ vùng lên đấu tranh, đấu tranh với sự khiếp nhược của bản thân và
đấu tranh với cái xấu, cái ác.
5.3. Bài Vợ ặt Số p ậ co ười
Giáo viên cũng hướng dẫn học sinh thực hiện quá trình khám khá và tìm
hiểu vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học như những bài trên. Sau đó xác định
những vấn đề xã hội trọng tâm:
- Đó là khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, là tấm lòng nhân
hậu và tinh thần lạc quan của người nông dân Việt Nam qua nhân vật Tràng,
người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
- Nghị lực vượt qua nghịch cảnh cùng tấm lòng nhân hậu thông qua số
phận và con người của nhân vật Xô-cô-lốp.
Từ đó giúp các em nhận ra những bài học quý giá về sự sống khi phải đối
mặt với hoàn cảnh khó khăn, nghiệt ngã, cách cư xử nhân ái với đồng bào, đồng
loại mà mỗi người đều cần phải có.
5.4 Bài N ữ đứa co tro ia đ
Tiến hành các bước tương tự những bài trên, giáo viên sẽ giúp học sinh
nhận ra: Vai trò và sự tác động lớn lao của gia đình trong việc hình thành và
phát triển nhân cách, các tố chất của các thành viên.
Lối sống của ông bà, cha mẹ, chú bác, anh chị, … sẽ ảnh hưởng sâu sắc
đến đời sống của con cháu họ. Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia
đình, hình ảnh người ông, người cha, người mẹ, người chú,… yêu nước, gan
góc, dũng cảm, bản lĩnh, kiên cường bất khuất tham gia hoạt động cách mạng
cứu nước và giàu lòng nhân hậu đã thấm sâu vào tâm trí, tư tưởng chị em Việt
và Chiến, tác động lớn đến nhân cách, lí tưởng sống của họ, khiến hai chị em trở
thành những người con tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê
hương, đất nước.
Vì vậy mỗi người chúng ta phải có ý thức giữ gìn truyền thống gia đình,
là tấm gương sáng cho con cháu mình. Mỗi gia đình là phần tử của xã hội, xã
hội làm nên bộ mặt của đất nước.
5.5. Bài C iếc t u ề oài xa
Tiến hành các bước như trên, giáo viên sẽ giúp học sinh chủ động phát
hiện vấn đề xã hội được phản ánh trong tác phẩm:
- Đó là hiện tượng bạo hành gia đình.
- Vai trò, trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái, sự quan tâm đến người
khác…
10
- Lý giải nguyên nhân…
Tham gia thảo luận trên lớp sẽ giúp học sinh nhận thức được:
- Bạo hành gia đình là hiện tượng tiêu cực để lại nhiều hậu quả nặng nề,
làm tổn thương đến người bị bạo hành, gây nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình,
ảnh hưởng xấu đến qúa trình hình thành và phát triển nhân cách của con trẻ.
- Trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái. Cha mẹ sinh ra con cái phải có
trách nhiệm đối với chúng - cho chúng một không khí gia đình hòa thuận hạnh
phúc, nuôi dạy chúng nên người, không vì hạnh phúc, sự ích kỉ cá nhân mà làm
gia đình tan vỡ, làm tổn hại tâm hồn và tương lai của con trẻ.
Giáo viên cũng có thể đặt ra các tình huống cho học sinh thảo luận, tìm
hướng giải quyết, chẳng hạn như:
- Nếu em là nhân vật Phùng, khi chứng kiến cảnh người chồng hàng chài
đánh vợ tàn bạo, em sẽ làm gì ?
- Nếu em là nhân vật thằng bé Phác, em sẽ xử sự như thế nào khi thấy cha
mình bất hòa, bạo hành mẹ ?
Qua việc thảo luận, học sinh sẽ nhận thức được những nhiều bài học về
nhân cách sống như phải biết cách xử sự phù hợp khi các thành viên trong gia
đình bất hòa dẫn đến xô xát, bạo hành đồng thời phải biết đấu tranh chống lại cái
ác, bảo vệ kẻ yếu, phải biết quan tâm, giúp đỡ người khác, biết giải gỡ vấn đề
một cách hiệu quả, nhất là biết nhìn nhận đánh giá con người một cách toàn
diện, nhân hậu, bao dung v.v.
5.6. Bài Hồ Trươ a da à t ịt
Tiến hành theo cách thức trên, Giáo viên cũng có thể đặt ra những tình
huống cho học sinh giải quyết, phát hiện vấn đề và bày tỏ suy nghĩ của bản thân
về vấn đề đó:
- Tâm trạng của hồn Trương Ba như thế nào khi nhận ra bi kịch mình bị
thân xác hàng thịt điều khiển, biến thành kẻ tha hóa, sa đọa?
- Hãy tưởng tượng cuộc sống của Hồn Trương Ba khi ông nhập hồn vào
thân xác cu Tị.
- Nếu em là Trương Ba, trong màn đối thoại với Đế Thích, em sẽ giải
quyết vấn đề của bản thân như thế nào? Tại sao?
Qua đối thoại, giáo viên sẽ giúp học sinh nhận thức được bài học quý giá
về tinh thần tự đấu tranh với bản thân.
Trong văn bản, nhân vật hồn Trương Ba đã rơi vào bị kịch tha hóa, bi kịch
tinh thần. Sau một quá trình nhận thức ông đã quyết liệt đấu tranh với bản thân,
11
với cả cái chết để hướng đến một cuộc sống trong sạch và toàn vẹn .
Như vậy cuộc đấu tranh với bản thân là cuộc đấu tranh hết sức khó khăn,
nhưng hết sức cần thiết để gìn giữ phần Người trong mỗi con người… Cuộc đấu
tranh đó đòi hỏi con người phải có lòng dũng cảm, bản lĩnh và cả sự hi sinh.
- Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Với các vấn đề đã đặt ra trong sáng kiến này, khả năng áp dụng linh hoạt
trong các bài học về tác phẩm văn chương trong chương trình ngữ văn lớp 11 và
lớp 12. Thông qua các vấn đề được đặt ra trong các tác phẩm, góp phần định
hướng, giáo dục học sinh có những cách nhìn nhận, đáng giá đúng đắn, đầy đủ
và khách quan, cũng từ đó, mỗi học sinh tự rút ra những nhận thức để hoàn thiện
bản thân.
* Đánh giá về lợi ích thu đƣợc hoặc dự kiến có thể thu đƣợc do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
“Văn học là nhân học”, Vấn đề giáo dục nhân cách cho học sinh thông
qua các tác phẩm văn học nghệ thuật, có thể nói rằng, nó không mới và cũng
được các giáo viên thực hiện thường xuyên trong các tiết học. Tuy nhiên, để
thực hiện việc giáo dục nhân cách học sinh thông qua việc chủ động phát hiện
những vấn đề có tính xã hội được đặt ra trong tác phẩm như trên thì không hẳn
ai cũng làm và làm thường xuyên. Trong quá trình dạy học, tôi đã thực nghiệm
nhiều năm và nhận thấy việc “Giáo dục học sinh qua những phát hiện các vấn
đề xã hội đặt ra trong một số tác phẩm văn xuôi đối với học sinh lớp 11 và 12”
này đã đạt được những hiệu quả nhất định. Với kinh nghiệm chia sẻ này, định
lượng cho kết quả thu được là rất khó. Tuy nhiên, những giá trị nhận thức được
thông qua việc phát hiện, đánh giá các vấn đề rất đa dạng mà các tác phẩm văn
học đặt ra, học sinh sẽ có cái nhìn thấu đáo, khách quan, đầy đủ. Và chính từ
những nhận thức ấy, để rồi vận dụng ngay vào trong cuộc sống hằng ngày. Đó
chính là tình yêu thương con người, là tình yêu quê hương đất nước, là tình
nghĩa thủy chung, là tinh thần nghị lực vượt khó, là luôn biết đấu tranh cho sự
công bằng, là ý chí kiên cường, là tinh thần cầu thị không ngừng hoàn thiện bản
thân, chiến thắng bản thân…
* Những thông tin cần bảo mật: Không
d) Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Áp dụng trong điều kiện khi dạy và học các tác phẩm văn chương trong
chương trình ngữ văn lớp 11, lớp 12 có các vấn đề xã hội được đặt ra như đã nêu
ở phần trên.
Có thể áp dụng đối với lớp học tập trung hoặc gợi ý học sinh tự học.
12
đ) Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tƣợng, cơ quan,
tổ chức nào hoặc những ngƣời tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu
Số
TT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ
Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
1 Trung tâm GDNN –
GDTX Bình Xuyên
Thị trấn Hương Canh,
Bình Xuyên, Vĩnh Phúc
Hoạt động dạy và học
môn văn đối với học
sinh lớp 11, 12 của
Trung tâm.
Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng sáng kiến xem xét và công
nhận sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực,
đúng sự thật, không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn
chịu trách nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Bình Xuyên, ngày tháng 02 năm 2020
NGƢỜI VIẾT ĐƠN
Nguyễn Khả Tuyến
1
top related