kinh nghiỆm giẢng dẠy mỘt sỐ tÁc phẨm … · web viewqua kết quả khảo sát, tôi...
Post on 26-Dec-2019
0 Views
Preview:
TRANSCRIPT
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10 THPT
************************
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong xu thế hội nhập và phát triển, thế kỉ XXI đòi hỏi con người phải luôn
năng động, sáng tạo; có khả năng tìm kiếm, xử lí thông tin và ứng phó với các tình
huống trong đời sống. Nhằm đáp ứng yêu cầu này, mục tiêu giáo dục phổ thông
của nước ta đã chuyển từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học sinh (HS) sang
trang bị những năng lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực hành động, năng
lực thực tiễn. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp giảng dạy cũng là tất yếu nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh. Với bản chất là hình thành và phát triển cho
HS khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những tình huống,
phương pháp giáo dục kĩ năng sống (KNS) rõ ràng là một trong những phương
pháp ưu thế đáp ứng mục tiêu giáo dục hiện nay. Hơn nữa, rèn luyện KNS cho HS
còn được xác định là một trong những nội dung cơ bản của Phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực” trong các trường phổ thông, giai
đoạn 2008-2013 do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo.
Giáo dục KNS là một yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ. Đó là lí do khiến
giáo dục KNS trở thành xu thế chung của nhiều nước trên thế giới. Dù Ngữ Văn là
một môn học có khả năng đặc biệt trong việc giáo dục KNS cho HS nhưng thực tế
cho thấy vấn đề giáo dục KNS ở trường phổ thông mới chỉ được chú trọng từ năm
học 2010-2011. Do vậy việc làm thế nào để tích hợp nội dung giáo dục KNS trong
nội dung bài học và thông qua các phương pháp triển khai nội dung bài học đến
nay vẫn là sự thử nghiệm tìm đường của các giáo viên dạy văn.
Bản chất của môn Văn là sự kết hợp giữa tính khoa học và nghệ thuật. Làm
sao để HS vừa cảm thụ, rung động với tác phẩm văn chương lại vừa tích hợp được
các KNS cũng không phải là đơn giản. Hơn nữa, cùng với xu thế chung của xã hội
hiện nay, hầu như học sinh chỉ chú trọng đến các môn học khoa học tự nhiên và
- 1 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
không chú trọng các môn khoa học xã hội. Đây cũng là tình hình chung của xã hội
và chính điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập nói chung cũng
như việc tìm hiểu, cảm thụ, rung động với tác phẩm văn chương nói riêng. Vì vậy,
việc thiết kế những bài dạy sao cho vừa đảm bảo yêu cầu về nội dung vừa giúp HS
nhận thức được các giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có
văn hóa trong các tình huống giao tiếp đa dạng của cuộc sống mà vẫn tạo hứng thú
cho học sinh trong một thời lượng có hạn là vấn đề rất cần thiết đối với người giáo
viên Ngữ Văn.
Đối với việc dạy học Văn ở các cấp học nói chung và ở trường THPT nói
riêng, việc làm sao để đảm bảo được nội dung kiến thức bài học mà đồng thời học
sinh lại phải chủ động chiếm lĩnh kiến thức bài học theo yêu cầu đổi mới về
phương pháp hiện nay quả thật là điều không dễ thực hiện. Văn học là khoa học
nhưng cũng là nghệ thuật, vì vậy việc dạy văn đòi hỏi người giáo viên phải vận
dụng nhiều kĩ năng, trong đó không chỉ là kiến thức mà đòi hỏi cả sự sáng tạo, linh
hoạt của người giáo viên ở mỗi bài dạy cụ thể. Sự chuẩn bị kĩ càng cho việc lên lớp
của người giáo viên từ khâu chuẩn bị - tức là phần thiết kế bài dạy - là một trong
những yếu tố góp phần không nhỏ vào hiệu quả của tiết học, đặc biệt là trong việc
vận dụng và phát huy tối đa công năng của các phương pháp dạy học tích cực
trong việc giáo dục KNS cho HS.
Trước thực tế đó, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía HS. Cụ thể, tôi đã
phát câu hỏi cho học sinh ở ba lớp 10 mà tôi phụ trách giảng dạy, để cho các em
phát biểu những cảm nhận của mình về những tác dụng của bài học trong việc rèn
luyện KNS. Kết quả cụ thể như sau:
STT NỘI DUNG CÂU HỎI KẾT QUẢ
1Theo em, học Văn có giúp em nâng
cao khả năng nhận thức không?
- Có 83/132
- Có nhưng
không thực tế.49
2Theo em, học Văn có giúp em điều
chỉnh hành vi không?
Có 67
Không 4
Không biết 41
- 2 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
(Không trả lời)
3 Theo em, học Văn có ý nghĩa không? Có 132/132
4 Theo em, học Văn có cần thiết không?Cần 73
Không cần 59
Qua kết quả khảo sát, tôi nhận thấy có sự mâu thuẫn trong nhận thức của HS
khi các em nhận định văn học là môn học bổ ích, có ý nghĩa nhưng có đến 37,12%
HS cho rằng học văn có giúp em nâng cao khả năng nhận thức nhưng không thực
tế vì các tác phẩm văn học toàn phản ánh những cái đã qua nên chỉ giúp các em
nhìn nhận lại quá khứ mà không giúp các em hội nhập với cuộc sống hiện đại.
Thậm chí có đến 31,1% HS không biết là học Văn có giúp em điều chỉnh hành vi
của mình hay không và 44,70% HS kết luận không cần học môn Văn là một tỉ lệ
không nhỏ. Từ đó ta dễ dàng nhận ra HS cảm nhận được Văn là môn học có ý
nghĩa nhưng còn mơ hồ về khả năng áp dụng thực tiễn của môn học này. Thực tế
ấy khiến người giáo viên dạy Văn không khỏi không suy nghĩ.
Từ thực trạng trên, để việc dạy học môn Văn nói chung và giảng dạy môn
Văn ở chương trình lớp 10, lớp đầu cấp của khối THPT - HS còn nhiều bỡ ngỡ, đạt
hiệu quả, hấp dẫn, lôi cuốn và tác động tích cực hơn đối với HS nhằm giáo dục
KNS cho các em, chúng tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp dạy học
để nâng cao chất lượng giờ dạy bằng việc áp dụng một số phương pháp dạy học
như: dạy học nhóm, dạy học theo dự án và dạy học thông qua trò chơi nhằm giúp
cho HS phát triển và rèn luyện những kĩ năng cần thiết để hội nhập cuộc sống một
cách chủ động hơn.
Môn Ngữ Văn ở trường phổ thông nói chung và trường trung học phổ thông
(THPT) nói riêng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục
trong xu thế mới. Do đặc trưng của bộ môn, Văn học không chỉ giúp HS nhận thức
mà còn có khả năng điều chỉnh hành vi cũng như nâng cao cảm quan thẩm mĩ để
hướng đến định hình và hoàn thiện nhân cách của mình. Như vậy, việc giáo dục
KNS cho HS không phải đến nay mới có mà vấn đề là bằng những phương pháp
- 3 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
giảng dạy tích cực giáo viên sẽ giúp HS nâng cao KNS của mình một cách nhẹ
nhàng nhưng hết sức sâu sắc.
Từ thực tế dạy học qua nhiều năm và việc rút kinh nghiệm của bản thân trong
quá trình giảng dạy, cũng là để trao đổi với các đồng nghiệp giảng dạy Ngữ Văn về
hướng áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để giáo dục KNS cho HS lớp 10,
khối lớp đầu cấp THPT, tôi mạnh dạn trình bày đề tài “Giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh qua một số phương pháp dạy học tích cực trong chương trình Ngữ Văn
lớp 10 trung học phổ thông” mà bản thân tôi nhận thấy có hiệu quả trong quá trình
thực hiện.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Cơ sở lí luận
1.1. Quan niệm về kĩ năng sống
Theo WHO (1993) “Năng lực tâm lí xã hội là khả năng ứng phó một cách
có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng
của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện
qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và
môi trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan trọng trong việc
phát huy sức khoẻ theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã hội. KNS
là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này”.
Theo UNICEF, giáo dục dựa trên KNS cơ bản là sự thay đổi trong hành vi
hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ và
hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái
độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào) thành
hành động (làm gì và làm như thế nào).
Như vậy, KNS chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những
nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả. Việc đưa giáo dục
KNS vào nhà trường cho thấy mục tiêu của giáo dục trong thời kì mới chú trọng
tính hữu dụng, thiết thực của chương trình nhà trường, đồng thời tăng khả năng
- 4 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
đáp ứng yêu cầu đào tạo con người mới năng động, tích cực, tự tin, hội nhập thành
công trong xã hội.
Mục tiêu và nội dung môn Ngữ Văn đã chứa đựng những yếu tố của giáo dục
KNS, phù hợp với các nội dung cơ bản của giáo dục KNS, bao gồm kĩ năng tư duy
sáng tạo, kĩ năng hợp tác nhóm, kĩ năng giao tiếp,... phù hợp với cách tiếp cận làm
thay đổi hành vi của người học trên cơ sở nhận thức về các nội dung của môn Ngữ
Văn. Nhiều bài học của môn Ngữ Văn hướng đến việc giúp HS nhận thức được
các giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hóa trong các
tình huống đa dạng của cuộc sống. Mặt khác, các KNS còn được giáo dục thông
qua phương pháp học tập tích cực, dựa trên sự tương tác giữa nội dung bài học với
những hiểu biết, kinh nghiệm vốn có của bản thân người học và quá trình đối thoại,
tương tác người học với nhau để thực hành, vận dụng linh hoạt vào các tình huống
trong cuộc sống phù hợp với lứa tuổi của các em.
1.2. Đặc điểm của các phương pháp
Phát biểu tại buổi tọa đàm “Đổi mới phương pháp giảng dạy” do báo Tuổi Trẻ
phối hợp với Sở Giáo Dục - Đào Tạo TP.Hồ Chí Minh tổ chức chiều 17/11/2010,
Phó thủ tướng – nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh:
“Đổi mới phương pháp không phải lấy từ trên xuống mà phải từ dưới lên để thúc
đẩy bộ máy”. Đồng tình với quan điểm này, các đại biểu tham gia buổi tọa đàm
đều khẳng định giáo viên chính là chủ thể đổi mới, là người chủ động tìm ra
phương pháp giảng dạy mới. Tuy nhiên áp dụng các phương pháp mới không đồng
nghĩa với việc loại bỏ phương pháp truyền thống. Tiết học có hiệu quả, hấp dẫn, lôi
cuốn hay không phụ thuộc vào sự linh động, sáng tạo của người giáo viên trong
việc lựa chọn, vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp với đặc trưng thể loại
và nội dung của từng bài học. Vì thế có thể nói mỗi phương pháp đều có những
điểm khả thủ riêng mà người giáo viên bằng kinh nghiệm và năng lực của mình
phải lựa chọn, ứng dụng sao cho hiệu quả nhất. Trong khuôn khổ một sáng kiến
kinh nghiệm, người viết chỉ trình bày một số vận dụng mà bản thân nhận thấy có
hiệu quả tích cực trong giáo dục KNS cho HS ở ba phương pháp: dạy học nhóm,
dạy học theo dự án và phương pháp trò chơi.
- 5 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
1.2.1. Phương pháp dạy học nhóm
Dạy học theo nhóm là một hoạt động học tập có sự phân chia học sinh theo
từng nhóm nhỏ với đủ thành phần khác nhau về trình độ, cùng trao đổi ý tưởng,
một nguồn kiến thức dựa trên cơ sở hoạt động tích cực của từng cá nhân. Từng
thành viên của nhóm không chỉ có trách nhiệm với việc học tập của mình mà còn
có trách nhiệm quan tâm đến việc học tập của các thành viên trong nhóm.
Hoạt động nhóm hợp lí, tích cực sẽ giúp HS rèn luyện các kĩ năng: đảm nhận
trách nhiệm, hợp tác, chia sẻ, thương lượng, giải quyết mâu thuẫn, giải quyết vấn
đề,...
1.2.2. Phương pháp dạy học theo dự án
Dạy học theo dự án (DHDA) có nguồn gốc từ châu Âu (thế kỉ 16, ở Ý và
Pháp). Đầu thế kỉ 20, các nhà sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lí luận cho DHDA
(Richard, J.Dewey,.v.v.), và coi đó là PPDH quan trọng để thực hiện quan điểm
dạy học định hướng vào người học, nhằm khắc phục nhược điểm của dạy học
truyền thống coi GV là trung tâm.
DHDA là phương pháp trong đó cá nhân hay nhóm người học thiết lập một dự
án có nội dung gắn kết với nội dung học tập. Dựa vào tri thức, kinh nghiệm và kĩ
năng vốn có, trên cơ sở phân tích thực tiễn thuộc phạm vi học tập, cùng với tài
liệu, phương tiện, người học đề xuất ý tưởng, thiết kế dự án, soạn thảo và hoàn
chỉnh dự án.
Trong DHDA, người học tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của
quá trình dạy học, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự
án. Vì thế DHDA là một PPDH tích cực, hữu hiệu phát huy được năng lực của HS,
đồng thời rất ưu việt trong giáo dục KNS cho các em. Thực hiện DHDA, HS làm
việc theo nhóm để giải quyết những vấn đề có thực mang tính thách đố, dựa trên
bài học và thường có tính liên môn. Vì vậy, đặc điểm này còn được gọi là học tập
mang tính xã hội. Các dự án học tập góp phần gắn liền nhà trường với thực tiễn đời
sống xã hội và có thể mang lại những tác động xã hội tích cực. DHDA không chỉ
rèn luyện cho HS các kĩ năng sống cần thiết mà còn tạo ra các sản phẩm cụ thể.
- 6 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
Các sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết mà trong
đa số trường hợp, các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động
thực tiễn, thực hành.
1.2.3. Phương pháp trò chơi
A.I Xôrôkina đã đưa ra một luận điểm vô cùng quan trọng về đặc thù của dạy
học kết hợp với trò chơi: “Trò chơi học tập là một quá trình phức tạp, nó là hình
thức dạy học và đồng thời nó vẫn là trò chơi… Khi các mối quan hệ chơi bị xóa
bỏ, ngay lập tức trò chơi biến mất và khi ấy, trò chơi biến thành tiết học, đôi khi
biến thành sự luyện tập”. Vì vậy có thể kết luận: học và chơi là hai việc không loại
trừ lẫn nhau. Trò chơi có thể được điều chỉnh cho phù hợp với hầu hết các chủ đề
hoặc đề tài trong nội dung học tập.
Bản chất của phương pháp sử dụng trò chơi học tập là dạy học thông qua việc
tổ chức hoạt động cho học sinh. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS được hoạt động
bằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tải mục tiêu của
bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc biệt là
phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá.
Trò chơi học tập khác với trò chơi khác là ở chỗ, nhiệm vụ nhận thức và luật
chơi trong trò chơi đòi hỏi người chơi phải huy động trí óc làm việc thực sự nhưng
chúng lại được thực hiện dưới hình thức chơi vui vẻ, thú vị (chơi là phương tiện,
học là mục đích). Học trong quá trình chơi là quá trình lĩnh hội tri thức nhẹ nhàng,
tự nhiên không gò bó, khơi dậy hứng thú tự nguyện và giảm thiểu sự căng thẳng
cho HS. Học tập thông qua trò chơi sẽ giúp HS ghi nhớ tri thức dễ dàng và bền
vững hơn.
Trò chơi học tập giúp học sinh lĩnh hội những tri thức và kĩ năng khác nhau
mà không có chủ định từ trước. Đồng thời, giúp người học cảm nhận được một
cách trực tiếp kết quả hành động của mình, từ đó thúc đẩy tính tích cực, mở rộng,
củng cố và phát triển vốn hiểu biết của người học.
Phương pháp trò chơi được sử dụng trong học tập để hình thành kiến thức, kĩ
năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Trong thực tế dạy học, GV
- 7 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kĩ năng. Tuy nhiên việc tổ
chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kĩ năng mới là rất cần
để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Việc tạo ra
các trò chơi mà học không chỉ giúp HS khắc sâu tri thức, nâng cao nhận thức mà
còn tăng cường các KNS cho HS như: biết ứng xử linh hoạt, quan hệ tích cực và
hợp tác,...
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2.1. Phương pháp dạy học nhóm
PPDH nhóm rất đa dạng từ cách chọn chủ đề cần thảo luận cho đến cách phân
chia nhóm, cho nên GV có thể vận dụng linh hoạt tùy theo từng mục tiêu và đặc
trưng của bài học.
Trong PPDH nhóm, có rất nhiều cách phân chia nhóm khác nhau. Nếu hoạt
động nhóm diễn ra trên lớp học thì nên tạo các nhóm nhỏ, tối đa 10 HS một nhóm,
để HS có điều kiện thảo luận với nhau. Các nhóm này cũng không nên trùng lặp
trong suốt quá trình dạy của GV. Việc phân chia nhóm linh hoạt sẽ giúp HS hứng
thú hơn, đồng thời tạo cơ hội cho các HS được học hỏi, giao lưu với các bạn trong
lớp. Ví dụ như GV có thể chia nhóm theo cách gộp hai bàn kế nhau làm một nhóm,
với mô hình lớp học phổ biến trong trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay thì cách
chia này hiệu quả vì HS dễ dàng xoay chuyển để thảo luận cùng nhau; hoặc trong
trường hợp vấn đề cần thảo luận không quá khó ta có thể chia nhóm theo đơn vị
một bàn là một nhóm; ngoài ra cũng có thể chia nhóm theo ngày sinh, theo sở
thích, theo đặc điểm,... hoặc cho HS bốc thăm tạo nhóm theo các chủ đề như: trái
cây, các loại hoa, cây cối, tên địa danh thắng cảnh,...
Việc lựa chủ đề thảo luận cũng là một nhân tố quyết định đến việc phân chia
nhóm. Nếu vấn đề thảo luận lớn, cần dung lượng thời gian nhiều để tìm kiếm thông
tin, phân tích, tổng hợp thì GV không nên cho thảo luận trên lớp. Bởi khi đó việc
thảo luận sẽ chỉ là hình thức. Nhưng cũng không phải bất kì vấn đề nào cũng tạo
nhóm thảo luận trước bởi có những vấn đề GV có thể yêu cầu HS tìm hiểu cá nhân
- 8 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
trước sau đó khi lên lớp mới tạo nhóm để cho HS thảo luận, thống nhất ý kiến trên
cơ sở nội dung tìm hiểu của các cá nhân.
Đối với những bài văn học sử như: Tổng quan văn học Việt Nam, Khái quát
văn học dân gian Việt Nam, Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
XIX, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,... GV có thể cho HS thảo luận nhóm trước để tìm
hiểu vấn đề, thống nhất ý kiến và trình bày trong buổi học. Bằng hình thức thảo
luận nhóm, các bài học này sẽ bớt khô khan và HS cũng dễ tiếp nhận hơn vì đã
thảo luận và tìm hiểu từ trước. Vấn đề của GV là phải đưa ra những yêu cầu cụ thể
để HS không thể thảo luận chiếu lệ mà thực sự phải tìm tòi, động não và tranh luận
thì bài học mới được lĩnh hội dễ dàng hơn, sâu sắc hơn và các KNS từ đó cũng
được gia tăng.
Chẳng hạn khi dạy bài Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
XIX, tôi chia lớp thành bốn nhóm và yêu cầu mỗi nhóm tìm hiểu một giai đoạn
phát triển của văn học Việt Nam tương ứng với nội dung bài học:
Nhóm 1: Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV.
Nhóm 2: Giai đoạn từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII.
Nhóm 3: Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX.
Nhóm 4: Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX.
Yêu cầu: Mỗi nhóm cần chỉ ra được hoàn cảnh lịch sử, các đặc điểm chính về
nội dung và thành tựu về nghệ thuật của giai đoạn đó. Ngoài ra, GV cần lưu ý là
HS phải chỉ ra được mối liên hệ giữa hoàn cảnh lịch sử và văn học. Đồng thời,
khuyến khích HS có dẫn chứng hoặc hình ảnh minh họa.
Thế nhưng khi dạy các tiết về tác giả: Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, tôi vẫn chia
lớp thành bốn nhóm nhưng yêu cầu chung là các nhóm phải thảo luận và tìm ra
những điểm chính về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của tác giả, trình bày bằng
PowerPoint, sưu tầm các dẫn chứng và hình ảnh minh họa.
Khi yêu cầu khác nhau thì việc tổ chức dạy học dĩ nhiên cũng không thể
giống nhau. Nếu mỗi nhóm đảm nhận một yêu cầu khác nhau thì khi một nhóm lên
trình bày, nhiệm vụ của các nhóm khác là theo dõi, đặt câu hỏi để làm sáng tỏ vấn
đề và ghi nhận những nội dung thống nhất. Còn nếu các nhóm cùng thảo luận một
- 9 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
vấn đề, GV lại phải theo dõi và xem xét sản phẩm của các nhóm trước khi lên lớp.
Nếu tất cả các nhóm đều làm tốt thì GV cho tiến hành bốc thăm trình bày. Khi
nhóm thứ nhất lên trình bày thì nhiệm vụ của các nhóm còn lại là phải theo dõi, đặt
câu hỏi cho nhóm được trình bày nếu thấy vấn đề được trình bày chưa rõ và có thể
dùng bài soạn của nhóm mình để trình bày minh họa bổ sung cho những luận điểm
mà nhóm đã được trình bày còn thiếu. Nếu kết quả công việc của các nhóm có độ
chênh lớn thì GV có thể chọn nhóm nổi trội hơn trình bày. Nếu thời gian cho phép,
GV cũng có thể cho các nhóm lần lượt trình bày để HS có sự đối chiếu cụ thể. Tuy
nhiên, nếu muốn giờ dạy có hiệu quả hơn thì GV nên theo dõi quá trình hoàn thiện
sản phẩm của HS để có những gợi ý cho HS điều chỉnh phù hợp. Dĩ nhiên là để
phát huy năng lực sáng tạo của HS, GV chỉ gợi ý, khuyến khích, động viên chứ
không nên gò ép HS theo ý của mình.
Điều quan trọng là sau khi HS trình bày, thảo luận bao giờ GV cũng phải có
phần nhận xét, chốt ý và có những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt để giúp HS hiểu rõ hơn
những nội dung chưa được thể hiện, hoặc thể hiện chưa sâu.
PPDH nhóm không phải là phương pháp hoàn toàn mới, ngay từ khi Bộ Giáo
Dục chủ trương: dạy học tích cực, lấy HS làm trung tâm, PP này đã được sử dụng
rộng rãi bởi đây là một PP ưu việt trong việc thúc đẩy HS tự chiếm lĩnh kiến thức.
Tuy nhiên có nhiều giờ học, GV chỉ sử dụng PPDH nhóm chiếu lệ, không phát huy
được hết tác dụng của PP này. Nghĩa là GV vẫn tổ chức hoạt động nhóm nhưng
thực sự các thành viên trong nhóm có hợp tác với nhau không thì GV không kiểm
soát. Hoặc có nhiều GV lại quá lạm dụng, mỗi hoạt động đều tổ chức thảo luận
nhóm khiến HS rất áp lực, giờ học cũng trở nên nhàm chán. Điều này dẫn tới việc
HS đối phó bằng cách đem sách giải ra chép để trả lời. Hơn nữa với tiêu chí lồng
ghép giáo dục KNS cho HS bằng chiến thuật mưa dầm thấm lâu thì GV cần phải
lựa chọn PP hợp lí để phát huy tác dụng của PP và có những biện pháp để tất cả
các thành viên trong nhóm đều phải hợp tác tham gia và có cơ hội rèn luyện KNS
như nhau.
Ngoài ra, GV cũng nên có những yêu cầu cụ thể với mức độ lũy tiến về độ
khó để phát triển đồng đều KNS của tất cả HS trong lớp. Chẳng hạn như khi dạy
- 10 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy, với những vấn đề như: Bàn
luận về chi tiết ngọc trai -giếng nước, chi tiết An Dương Vương chém đầu con gái,
chi tiết An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc... đi xuống biển, GV có thể chia
nhóm nhỏ theo kiểu đôi bạn hoặc ba em một nhóm nhưng phải trình bày theo kiểu
bàn tròn. Nghĩa là các thành viên trong nhóm phải phối hợp để cùng trình bày chứ
không phải chỉ cử một HS lên trình bày mà thôi. Và trong quá trình HS trình bày,
GV nên khuyến khích các nhóm khác tham gia thảo luận để bảo vệ quan điểm của
mình. Đồng thời khi nhận xét cho điểm GV cũng nên hướng các em đến các kĩ
năng xử lí tình huống như là: không trừ điểm nếu HS không trả lời được câu hỏi
của HS khác nhưng có cách xử lí hay. Chẳng hạn như HS biết cách chất vấn ngược
lại, hoặc tìm cách hứa hẹn trả lời sau,...Với những giải pháp này, HS sẽ dạn dĩ hơn,
xử lí tình huống nhanh hơn, đồng thời cũng hạn chế được việc HS tìm cách né
tránh hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho bạn trong nhóm.
Nhưng cũng có những vấn đề thảo luận ngay trên lớp, trong một thời gian có
hạn mà GV lại muốn HS thống nhất ý kiến trên cơ sở mọi thành viên đều có ý kiến
riêng thì lúc đó ta có thể áp dụng kĩ thuật khăn trải bàn trong việc tổ chức thực hiện
hoạt động nhóm. Ví dụ như cũng trong bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu,
Trọng Thủy, nhưng với yêu cầu thảo luận: Cảm nhận của em về những bài học
được gửi gắm trong tác phẩm? GV có thể chuẩn bị những tờ giấy khổ lớn và yêu
cầu mỗi thành viên trong nhóm đều phải ghi ý kiến riêng của mình ở các ô xung
quanh, sau đó thống nhất ý kiến của cả nhóm và ghi vào giữa. Với cách này mỗi
HS đều được thể hiện chính kiến của mình, đồng thời vẫn phải hợp tác, tranh luận
để đi đến thống nhất lựa chọn ý kiến chung.
2.2. Phương pháp dạy học theo dự án
PPDH theo dự án là một trong những PP ưu việt trong việc phát huy năng lực
tư duy sáng tạo của chủ thể - trò, đồng thời lồng ghép được KNS hợp lí, tự nhiên.
Đây là phương pháp dạy học kết hợp có hiệu quả việc sử dụng máy tính với các
chương trình dạy học hiện có, giúp các GV phát huy khả năng sáng tạo của mình
- 11 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
và phát triển trí tưởng tượng của HS ra ngoài phạm vi học đường, học tập kết hợp
với thực hành.
Để thực hiện PPDH này, trước hết GV phải chuẩn bị một kế hoạch bài dạy
cụ thể, chi tiết. Hồ sơ và các bước thực hiện bao gồm:
Bước 1:
- Kế hoạch bài dạy với các mục tiêu học tập của học sinh đáp ứng yêu cầu về
kiến thức, kĩ năng của chương trình do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo quy định.
- Thu thập tư liệu, thiết kế bài trình bày đa phương tiện của GV.
- Thiết lập các tiêu chí đánh giá cho bài trình bày đa phương tiện của học sinh.
- Bài trình bày, bài báo, tờ giới thiệu, hoặc trang web,… của GV hỗ trợ cho
bài dạy.
Bước 2:
- Hướng dẫn HS cách thiết kế các bài trình bày đa phương tiện: PowerPoint,
cách sử dụng phần mềm làm phim: Windows Movie Maker hoặc Corel
Video Studio,...
- Gợi ý cho HS hình thành ý tưởng, chọn vai.
Bước 3:
- Theo dõi quá trình thực hiện dự án của HS.
- Gợi ý cho HS điều chỉnh để có sản phẩm tốt hơn.
Bước 4:
- Thực hiện giờ dạy:
HS các nhóm trình bày.
GV nhận xét, củng cố nội dung bài học theo từng phần, dùng những câu hỏi
gợi mở để HS các nhóm thảo luận đưa ra ý kiến, sử dụng bài trình bày đa
phương tiện để chốt ý.
Đánh giá, cho điểm.
Lưu ý là khi xây dựng dự án, khâu chọn vai rất quan trọng. Nếu vai trò đảm
nhiệm quá khó hoặc nếu vai không phù hợp HS cũng khó mà thực thi được nhiệm
vụ của mình. Chẳng hạn như khi dạy bài Trình bày một vấn đề, GV có thể cho
trước một số vấn đề để HS lựa chọn. Sau khi HS thống nhất chọn đề tài, GV cho
- 12 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
HS tìm vai thích hợp. Nếu đề tài là: Thời trang cuộc sống hoặc Thời trang học
đường thì HS có thể vào vai nhà thiết kế thời trang, phóng viên chuyên mục thời
trang,... Nếu đề tài là: Vấn đề bạo lực học đường, Tuổi trẻ và tình yêu,... HS cũng
có thể vào vai phóng viên, biên tập viên, chuyên gia tâm lí,...Và quan trọng là sau
khi trình bày HS phải rút ra được các bước thực hiện trình bày và xác định được
tầm quan trọng của việc trình bày một vấn đề.
Bên cạnh đó, GV nhất thiết phải có một bài trình bày để hệ thống kiến thức
cho HS nếu không PPDH này sẽ phản tác dụng. Mặc dù thực hiện PPDH theo dự
án HS rất hứng thú nhưng nếu GV quá lạm dụng hoặc phó thác hoàn toàn vào HS
thì có thể sẽ làm cho HS không nắm được kiến thức một cách hệ thống. Từ đó dẫn
tới việc HS phải sử dụng sách giải hoặc đi học thêm để tự tích lũy kiến thức cho
mình, để đối phó với thầy cô và gia đình.
Tóm lại, với PPDH theo dự án GV sẽ chỉ là người hướng dẫn, định hướng
việc tìm hiểu cũng như chiếm lĩnh nội dung kiến thức trong bài học của học sinh.
HS chính là người thiết kế dự án, lên kế hoạch, thiết lập ý tưởng, tìm hiểu, phân
tích và thể hiện nội dung bài học trong sự tương tác lẫn nhau. Với PP này bài học
luôn luôn mới, đặc biệt trong thời đại hiện nay, chỉ với một chiếc máy tính ta đã có
“cả thế giới trong tầm tay” thì HS hoàn toàn có khả năng thể hiện những bài học đa
dạng. Ngoài ra, với PPDH theo dự án này HS còn có thể tạo ra các ấn phẩm bên
cạnh những bài trình chiếu.
2.3. Phương pháp trò chơi
PP trò chơi thường được tổ chức đầu tiết dạy để tạo tâm thế hứng thú cho HS
đi vào tìm hiểu bài học hoặc để kiểm tra những kiến thức đã học qua, hoặc sử dụng
ở cuối giờ để củng cố nội dung bài học. Nhưng GV cũng có thể thực hiện PP trò
chơi này ở giữa tiết học để nối kết các hoạt động của bài học; tạo sự chuyển ngoặt
sôi nổi, hợp lí. Đặc biệt là GV có thể tổ chức các trò chơi trong các bài ôn tập
nhằm củng cố, khắc sâu và hệ thống các kiến thức đã học theo những đơn vị nhất
định.
- 13 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
Việc tổ chức hình thức chơi rất đa dạng, cũng là câu hỏi trắc nghiệm nhưng
GV có thể cho HS thi đua dưới hình thức Ai nhanh hơn, Ai tài thế,... hoặc cũng có
thể mô phỏng các trò chơi do đài truyền hình tổ chức như: Rung chuông vàng,
Chung sức, Đấu trường 100, Đuổi hình bắt chữ,... Ví dụ như sau bài học GV cho 5
câu hỏi củng cố. Nếu GV muốn tính điểm cho cả lớp và tất cả các HS đều tham gia
thì tổ chức theo hình thức là mỗi câu hỏi tất cả các HS đều trả lời cho đến kết quả
cuối cùng. Nhưng nếu GV chỉ tính điểm cho những HS nào trả lời đến đích cuối
cùng thì có thể cho loại dần bằng cách chỉ cho phép những HS nào có câu trả lời
đúng mới được trả lời câu hỏi kế tiếp, còn HS trả lời sai sẽ phải dừng lại. Nếu GV
muốn phân loại HS thì có thể chỉ cho 3 đến 4 câu hỏi trắc nghiệm, còn lại là câu
hỏi suy luận có độ khó cao để phân định điểm số của HS.
Luật chơi phụ thuộc nội dung và mục đích. Bởi cùng một nội dung nhưng có
thể chơi với nhiều cách khác nhau như ghép đáp án đúng, ghép tranh đoán nội
dung, đi tìm kho báu bằng cách qua mỗi chặng thử thách là một câu hỏi, giải ô
chữ,...
Người tổ chức chơi thông thường là GV, nhưng trong một số trường hợp GV
có thể gợi ý, khuyến khích các em xây dựng trò chơi. Ví dụ đối với các bài học có
ứng dụng PPDH nhóm hoặc DH dự án, tôi khuyến khích các em xây dựng trò chơi
củng cố sau phần trình bày của mình. Kết quả rất khả quan, HS các nhóm theo dõi
tập trung vào bài trình bày của bạn hơn để có thể trả lời câu hỏi của các nhóm, HS
thích thú hơn khi được tham gia trò chơi do chính bạn mình thiết kế, trò chơi càng
độc đáo thì sự phấn khích của HS càng cao, các HS trong nhóm cũng gắn kết hơn,
chủ động sáng tạo trong việc thiết kế các trò chơi.
PP này đặc biệt ứng dụng hiệu quả ở các bài ôn tập. Vì những kiến thức ở bài
học này HS đều đã học qua, vấn đề là kiến thức phải được hệ thống lại và nâng cao
hơn. Nhưng nếu GV sử dụng cách dạy lâu nay như nêu vấn đề hay phát vấn thôi thì
HS rất thụ động. Áp dụng PP trò chơi cho bài ôn tập, tôi phân khối lượng bài cho
từng nhóm để tránh trùng lặp, yêu cầu đặt ra là HS các nhóm phải thiết kế một trò
chơi sử dụng toàn bộ các bài được giao để đặt câu hỏi, ngoài ra phải ôn tập lại các
nội dung còn lại để tham gia trò chơi của nhóm khác. Đặc biệt phải giới hạn thời
- 14 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
gian để HS thiết kế trò chơi phù hợp. Điểm số của mỗi HS được tính bằng tổng
điểm của quá trình tham gia thảo luận trong nhóm, những công việc đã làm, biểu
hiện trên lớp học (có tham gia điều hành cùng nhóm mình không, có trả lời tốt câu
hỏi của nhóm khác không,...).
Tuy nhiên để HS làm tốt vai trò của mình, GV phải có những chỉ dẫn cụ thể
như đưa ra những hình thức chơi mà HS có thể áp dụng và hình dung ra phải áp
dụng như thế nào, cách thiết kế câu hỏi,... Bên cạnh đó, GV cũng phải kiểm tra
trước hệ thống câu hỏi HS các nhóm đã xây dựng để giúp HS có những điều chỉnh
đúng hướng, đáp ứng yêu cầu của bài học. Dĩ nhiên là GV cũng chỉ dẫn dắt, góp ý
chứ không nên áp đặt hay cầm tay chỉ việc để HS được phát huy khả năng sáng tạo
của mình. GV có thể cho HS các nhóm lần lượt triển khai trò chơi của mình rồi GV
chốt lại cuối cùng nhưng cũng có thể xen kẽ phần thực hiện của HS với phần củng
cố của GV.
Với phương pháp trò chơi này, không những việc học trở nên hứng thú hơn
mà HS còn được rèn luyện nâng cao các kĩ năng khác như: hợp tác, tổ chức, dẫn
dắt vấn đề, xử lí tình huống,... Nhưng khi tổ chức hình thức dạy học bằng PP trò
chơi, GV phải nghĩ ra các hình thức chế tài nhất định để HS chơi trong luật, có ổn
định trật tự bởi với mô hình lớp học trong trường phổ thông của chúng ta hiện nay
rất khó cho GV khi tổ chức PP này mà không ảnh hưởng đến các lớp học xung
quanh. Đây cũng là điều mà người viết gặp khó khăn nhất khi tổ chức dạy học
bằng PP trò chơi, bởi khi đã chơi là có thắng - thua vì vậy HS dễ phấn khích và ồn
ào hơn các giờ học thông thường, ngoài ra cũng không ngoại trừ trường hợp HS cố
tình gây rối. Dù có những khó khăn nhất định, nhưng đây vẫn là một trong những
PP rất hiệu quả trong việc tạo hứng thú cho HS trong giờ học môn Văn và rèn
luyện KNS hữu hiệu cho các em.
- 15 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
2.4. Thiết kế tiết dạy minh họa: Tiết 99 - Làm văn
VIẾT QUẢNG CÁO
Mục tiêu bài dạy:
Kiến thức
Kĩ năng
- Khái niệm văn bản quảng cáo, vai trò của quảng cáo trong đời sống.
- Yêu cầu và cách viết quảng cáo cho một sản phẩm hoặc một dịch vụ.
- Biết lựa chọn hình thức quảng cáo phù hợp với nội dung quảng cáo.
- Biết viết các văn bản quảng cáo thông thường.
Yêu cầu về kiến thức của học sinh
1. Kiến thức về CNTT: HS biết soạn thảo văn bản, biết cách tìm thông tin, biết sử dụng các phần mềm, biết xử lí thông tin và thiết kế bài học.
2. Kiến thức chung về môn học: HS nắm được cách hành văn, cách sử dụng từ ngữ chọn lọc, và đặc điểm của quảng cáo.
Yêu cầu về trang thiết bị dạy học
1. Trang thiết bị/Đồ dùng dạy học liên quan đến CNTT:a. Phần cứng: Máy tính, máy chiếu, máy chụp hình kĩ thuật
số, máy quay phim (điện thoại).b. Phần mềm: MS Word, MS PowerPoint, Windows Media
Player, Herosoft, SnagIt 7, Hot Potatoes 6, eMindMaps…2. Những đồ dùng dạy học khác: Bảng, phấn màu, áp phích, panô, tờ rơi, quảng cáo…
Chuẩn bị việc giảng dạy
1. Phần chuẩn bị của Giáo viên : Thu thập các loại tư liệu về quảng cáo; chụp hình các panô, áp phích, tờ rơi; cắt một số quảng cáo tĩnh và động trên web, hướng dẫn HS cách làm bài, chia nhóm, giúp HS hình thành ý tưởng; duyệt bài, góp ý cho HS cách thực hiện, trình bày.
2. Phần chuẩn bị của Học sinh : Tất cả học sinh đều soạn bài vào vở theo cách chia trang vở làm hai: nội dung chính ghi bên phải tập, phần bên trái để trống dùng để bổ sung nội dung khi lên lớp; cả 3 nhóm đều phải họp nhóm, thiết lập ý tưởng, sưu tập thông tin và thiết kế bài; nhiệm vụ các thành viên và công việc mà mỗi thành viên đã làm được phải
- 16 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
được ghi lại một cách chi tiết.Kế hoạch giảng dạy
1. Dẫn nhập - Kiểm tra bài cũ- Giới thiệu bài mới: Thời đại công nghiệp, quảng cáo mọi
nơi mọi lúc. Vậy quảng cáo là gì? Làm thế nào để quảng cáo hiệu quả?
2. Bài mới
Hoạt động của GV & HS Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Giáo viên giới thiệu cấu trúc bài, nêu yêu cầu về nhiệm vụ của từng nhóm.
Hoạt động 2: Nhóm 1 lên trình bày nội dung phần I (Vai trò và yêu cầu chung của văn bản quảng cáo). Yêu cầu phải nêu được:
Văn bản quảng cáo ở đâu? (Ti vi, báo, đài, tờ rơi,…)
Mục đích của quảng cáo là gì?
Quảng cáo có vai trò như thế nào?
Yêu cầu chung của văn bản quảng cáo?
- Giáo viên theo dõi, nhận xét về phần trình bày và thảo luận của học sinh, củng cố những nội dung chính của phần 1 bằng phần trình chiếu: MS PowerPoint.
Cho HS xem quảng cáo ví dụ, GV gợi ý để HS rút ra nhận xét.
Lưu ý học sinh về vai trò của quảng cáo trong đời sống hàng ngày.
Chú ý các yêu cầu cụ
I. Vai trò và yêu cầu chung của văn bản quảng cáo:1. Văn bản quảng cáo trong đời sống:
- Hình thức quảng cáo: áp phích, pa-nô, báo, tờ rơi, đài phát thanh, truyền hình.
Khái niệm:- Thông tin về sản
phẩm, dịch vụ.- Thuyết phục khách
hàng tin vào chất lượng, lợi ích, sự tiện lợi của sản phẩm.
- Tăng thêm lòng ham thích mua hàng và sử dụng dịch vụ của họ.
2. Yêu cầu chung của văn bản quảng cáo:
- Nội dung thông tin: Độc đáo, gây ấn tượng, thể hiện được tính ưu việt của sản phẩm, dịch vụ.
- 17 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
thể đối với một văn bản quảng cáo.
- Hình thức: Ngắn gọn, hấp dẫn tạo ấn tượng, trung thực, tôn trọng pháp luật và thuần phong mĩ tục.
Hoạt động 3: Nhóm 2 trình bày nội dung phần II (Cách viết văn bản quảng cáo). Yêu cầu:
Các nhóm phải thực hành viết quảng cáo.
Xác định được cách viết quảng cáo về nội dung và hình thức.- Giáo viên theo dõi
nhận xét về phần thảo luận của các nhóm, nội dung trình bày của nhóm 2, nhấn mạnh trọng tâm bài học. Và chú ý những nội dung học sinh chưa giải quyết được. Định hướng cho HS đi sâu vào bài học và mở rộng nội dung có liên quan.
II. Cách viết văn bản quảng cáo1. Xác định nội dung cơ bản cho lời quảng cáo
2. Chọn hình thức quảng cáo- Trình bày theo
kiểu qui nạp, so sánh và sử dụng từ ngữ khẳng định tuyệt đối để thuyết phục.
- Kết hợp với tranh ảnh, hình thức trình bày.
3. Củng cố - Tổng kết bài bằng cách cho học sinh sơ đồ hoá bài học.
GV đối chiếu bằng sơ đồ đã chuẩn bị (Mindmap). - Giáo viên cho HS làm bài tập củng cố nhằm kiểm tra
mức độ hiểu bài của HS và khắc sâu kiến thức chính cũng như mở rộng thêm nội dung bài học cho HS (Câu hỏi trắc nghiệm – thiết kế trò chơi: Rung chuông vàng ).
Vòng 1: Câu 1: Văn bản quảng cáo càng nêu đầy đủ đặc
điểm, ý nghĩa, tác dụng của sản phẩm càng gây được ấn tượng mạnh đối với khách hàng.
a. Đúng
b. Sai
Câu 2: Mục đích của văn bản quảng cáo là :a. Thông tin, thuyết phục khách hàng.b. Giới thiệu hoạt động của các tổ chức, cơ quan,
trường học, doanh nghiệp,...c. Thu hút mọi người vào những lợi ích chung của
- 18 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
cộng đồng.d. Cả ba mục đích trên.
Câu 3: Khâu khó khăn, quan trọng nhất khi xây dựng hình ảnh của một văn bản quảng cáo là :
a. Thiết kế ý tưởng.b. Xác định mục đích, đối tượng.c. Phác thảo nội dung thông tin về sản phẩm.d. Sử dụng các thủ pháp để tăng hiệu quả hấp dẫn,
thuyết phục.Vòng 2:
HS xem một đoạn clip và dựa vào những kiến thức đã học về mục đích, yêu cầu của văn bản quảng cáo để nhận xét.
- Giao bài tập cho cả lớp, HS làm ấn phẩm với nội dung: Viết quảng cáo về các hoạt động chào mừng 26/3 ở lớp em.
Kiến thức, KNS:
- Học sinh không chỉ biết cách viết quảng cáo mà còn biết đánh giá nhận xét về một quảng cáo.
- Rèn luyện tư duy đánh giá, phân tích.- KNS: hợp tác, chia sẻ, sáng tạo, thuyết trình,…
III. HIỆU QUẢ
Qua thực tiễn dạy học của bản thân những năm gần đây và từ thực tế dạy học
các lớp 10 ban Cơ bản tại trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh, tôi nhận thấy các
phương pháp này có những ưu điểm sau đây:
- Kiến thức đúng trọng tâm, tích hợp liên môn, lồng ghép nội dung giáo
dục KNS nhẹ nhàng nhưng hiệu quả.
- Phát huy được khả năng nhiều mặt của học sinh, kích thích động cơ,
hứng thú học tập của người học, phát huy tính độc lập, khả năng sáng tạo.
Người học tự định hướng hoạt động học tập, tự khám phá, tích hợp, trình bày,
tự chủ động tổ chức hoạt động học tập, dám chịu trách nhiệm.
- Rèn luyện cho HS năng lực làm việc theo nhóm, vận dụng kiến thức lí
thuyết, năng lực thiết kế, khả năng tổ chức, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực
giải quyết những vấn đề phức hợp, năng lực đánh giá, kĩ năng ứng dụng CNTT,
… Đồng thời còn rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn,… cho các em.
- Gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã
hội.- 19 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
- Phát huy vai trò tích cực của học sinh trong việc tự khám phá, chiếm
lĩnh tác phẩm. Tạo hứng thú, kích thích khả năng tư duy của học sinh trong mỗi
giờ học.
Đặc biệt là sau một năm học áp dụng các PP dạy học này bên cạnh các PP
truyền thống thì 100% HS đều đồng ý là môn Văn rất cần thiết và hữu ích với các
em trong cuộc sống sau này. Tuy nhiên, có đến 43% HS nói thêm là càng yêu thích
môn Văn thì lại càng thấy đây là môn học khó, đòi hỏi tư duy và sáng tạo chứ
không như các em nghĩ ban đầu: Văn chỉ là môn học thuộc bài.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
Ba PPDH trên chỉ là một trong những kiểu dạy học lấy hoạt động học của
người học làm trung tâm. Mỗi PPDH đều có những điểm khả thủ và những hạn chế
riêng, vì vậy khi vận dụng PPDH đòi hỏi người GV phải hết sức linh hoạt lựa chọn
sao cho phù hợp với đặc trưng bài học, năng lực học sinh, điều kiện áp dụng của
từng thời điểm,...
Trong quá trình vận dụng, tôi nhận thấy cả ba PP đều đòi hỏi người GV phải
dụng công nhiều trong khâu chuẩn bị, lên kế hoạch giảng dạy. Kế hoạch giảng dạy
càng chi tiết thì xác xuất thành công càng cao. Đặc biệt là với phương pháp dạy
học theo dự án, giáo viên phải chấp nhận tốn nhiều thời gian đầu tư hơn là giờ học
thông thường bởi ngoài khâu soạn giảng, GV còn phải chuẩn bị, chỉ dẫn, điều
chỉnh cho việc chuẩn bị của HS.
Ngoài ra để thực hiện được những tiết dạy như thế này đòi hỏi GV phải có
một quá trình tập luyện từng bước cho HS, bởi nếu áp dụng tức thời HS sẽ khó
hoàn thành nhiệm vụ, hoặc có thể tạo ra những sản phẩm không tốt bởi chưa quen.
Hơn nữa để triển khai thuận lợi các PPDH này đòi hỏi sự đồng thuận cao của tổ bộ
môn, sự ủng hộ của lãnh đạo trong nhà trường.
Người viết có may mắn được giảng dạy trong một môi trường mà ngay từ
năm 2002 chủ trương của lãnh đạo nhà trường đã là: đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học, tích cực đổi mới PPGD, phát huy vai trò tích cực của
chủ thể trò trong giờ học cho nên việc áp dụng các PP mới trong dạy học luôn
- 20 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
được khuyến khích. Nhưng cũng không phải không còn những vướng mắc thuộc
về qui chế như phân phối chương trình, thời gian hạn hẹp, áp lực thi cử, điều kiện
HS khó khăn,... Vì vậy, nếu được kiến nghị người viết mong các cấp lãnh đạo cao
hơn như Sở Giáo Dục và Đào Tạo, Bộ Giáo Dục Đào Tạo thay đổi quy chế, cho
phép giáo viên được lựa chọn một số bài nằm trong khung để dạy mà không phải
dạy hết tất cả các bài để có nhiều thời gian đầu tư hơn, hiệu quả bài dạy cao hơn;
thêm nữa đề thi mở cũng là một cách giảm tải cho GV và HS; ngoài ra nếu được
đầu tư hơn về cơ sở vật chất để HS được học hai buổi với các trang thiết bị hiện đại
chắc chắn hiệu quả dạy học sẽ cao hơn rất nhiều.
V. KẾT LUẬN
Tóm lại, để phát huy được chủ thể - trò và lồng ghép các KNS vào bài học
hiệu quả đòi hỏi người giáo viên Ngữ Văn phải linh hoạt trong việc vận dụng các
PP, bên cạnh đó cũng phải có một sự dụng công nhất định. PPDH không phải là
chìa khóa vạn năng, nhưng người làm nên công năng của PP chính là GV chứ
không phải ai khác. Không một phương pháp nào có tính tối ưu và vận dụng một
cách độc lập trong một bài học. Vì vậy vận dụng các PPDH mới không có nghĩa là
loại bỏ các PPDH truyền thống, vấn đề là ứng dụng sao cho phù hợp. Đây chỉ là
một vài kinh nghiệm mang tính chất cá nhân mà bản thân tôi trong quá trình áp
dụng thấy có hiệu quả phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, nhưng cũng có thể
không phù hợp với quan điểm dạy học của từng người. Vì vậy người viết rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến và trao đổi chân thành của các đồng nghiệp về việc
áp dụng các PPDH khác nhau trong giáo dục KNS cho HS để tôi có một sự kết hợp
phương pháp tối ưu hơn, hiệu quả hơn trong quá trình giảng dạy!
Xin chân thành cảm ơn.
Long Bình Tân, ngày 14 tháng 04 năm 2012
Người viết
Nguyễn Quỳnh Anh
- 21 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 - tập 2, Nhiều tác giả, Nxb Giáo dục, 2006.
2. Thiết kế bài giảng ngữ văn 10, Nguyễn Văn Đường (chủ biên), Nxb Hà Nội,
2006.
3. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ Văn ở trường THPT, Nhiều tác giả, Nxb
Giáo dục Việt Nam, 2010.
4. Những giá trị sống cho Tuổi trẻ , Diane TillMan, Nxb TP.HCM, 2000.
5. Quá trình dạy - tự học, Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1997.
6. Vận dụng dạy học theo dự án để dạy các học phần tài nguyên khoáng sản , Đậu
Thị Hòa, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số 2/2011, tr.143-
150.
7. Sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá, TS.Lê Văn Hảo (chủ biên), Trường
Đại học Nha Trang, 2008.
8. Các Website:
http://vi.wikipedia.org
http:// www.kynang.edu.vn
http:// www.ketnoisunghiep.vn
http://phanminhchanh.info
- 22 -
Sáng kiến kinh nghiệm 2012
MỤC LỤCTrang
I. Lý do chọn đề tài....................................................................................1
II. Tổ chức thực hiện .................................................................................4
1. Cơ sở lý luận..........................................................................................4
1.1. Quan niệm về kĩ năng sống.................................................................4
1.2. Đặc điểm của các phương pháp..........................................................5
1.2.1. Phương pháp dạy học nhóm..........................................................6
1.2.2. Phương pháp dạy học theo dự án...................................................6
1.2.3. Phương pháp trò chơi....................................................................7
2. Nội dung, biện pháp thực hiện ..............................................................8
2.1. Phương pháp dạy học nhóm................................................................8
2.2. Phương pháp dạy học theo dự án......................................................11
2.3. Phương pháp trò chơi........................................................................13
2.4. Thiết kế tiết dạy minh họa.................................................................16
III. Hiệu quả.............................................................................................19
IV. Đề xuất, khuyến nghị.........................................................................20
V. Kết luận...............................................................................................21
VI. Tài liệu tham khảo.............................................................................22
- 23 -
top related