ĐÀo tẠo vÀ nghiÊn cỨu vỚi phÁt triỂn...
Post on 06-Jan-2020
7 Views
Preview:
TRANSCRIPT
ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VỚI MỤC TIÊUPHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH&NV
PGS.TS. Võ Văn SenTS Nguyễn Ngoc Thơ
Trường Đại học KHXH&NV
Với mục tiêu xây dựng thành một đại học định hướng nghiên cứu vào năm 2020,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh đã và đang
đầu tư nhiều công sức trong việc kiến lập những nền tảng quan trọng cho chiến lược đào tạo và
nghiên cứu gắn với phát triển cộng đồng, lấy nhu cầu và mục tiêu cộng đồng làm nền tảng và
là động lực để phát triển. Bài viết này đi từ thực trạng và các thành tựu tiêu biểu nhất trong đào
tạo và NCKH tại nhà trường trong 5 năm vừa qua đến triển vọng phát triển đến năm 2020 tầm
nhìn 2030, qua đó cũng xác định những thuận lợi và khó khăn do môi trường đại học mang
đến.
1. THỰC TRẠNG VÀ THÀNH TỰU ĐÀO TẠO PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN CỘNG
ĐỒNG
a. Là một trường đại học công lập thuộc hệ thống ĐHQG-HCM, và với lịch sử gần 60
năm, Trường ĐHKHXH&NV đã từ lâu trở thành một trong hai trường đại học hàng đầu của
Việt Nam trong lĩnh vực KHXH&NV. Trường đã trở thành sự lựa chọn hàng đầu của học sinh
sinh viên khối KHXH, KHNV trong suốt mấy chục năm qua, là chiếc nôi đào tạo của rất nhiều
nhân tài trong xã hội thuộc tất cả các lĩnh vực xã hội trên cả nước. Tính riêng từ sau năm 1975
cho đến nay, nhà trường đã đào tạo sinh viên có nguồn gốc từ 64 tỉnh thành trong cả nước và
sinh viên học, học viên nước ngoài từ 73 quốc gia/khu vực trên thế giới. Cho đến thời điển hiện
tại (năm 2014), Nhà trường đang triển khai đào 27 ngành, phân thành 58 chuyên ngành cấp đại
học thuộc 28 khoa/bộ môn trực thuộc Trường; tổng cộng 39 chương trình đào tạo Sau đại học,
trong đó có 26 chương trình thạc sĩ và 13 chương trình tiến sĩ.
Trong lĩnh vực đào tạo cử nhân, có thể phân thành ba nhóm ngành gồm:
Nhóm các ngành khoa học xã hội cơ bản (gọi tắt là nhóm KHXH cơ bản) bao gồm hai
tiểu nhóm truyền thống (Văn học, Ngôn ngữ, Lịch sử, Địa lý, Triết học) và tiểu nhóm các
ngành mới (Nhân học, Xã hội học, Giáo dục, Tâm lý học, Văn hóa học). Đây là nhóm các
ngành có truyền thống lâu đời hoặc là các ngành đang thu hút sự chú ý cao của cộng đồng (đặc
1
biệt là mảng Sau Đại học), đã và đang đóng góp quan trọng trong việc định hình và duy trì
danh tiếng của Trường ĐHKHXH&NV đối với cộng đồng.
Nhóm các ngành khoa học xã hội ứng dụng (nhóm KHXH ứng dụng), bao gồm các
ngành Báo chí-truyền thông, Công tác xã hội, Du lịch, Lưu trữ-Quản trị văn phòng, Quan hệ
quốc tế, Thư viện –Thông tin, Đô thị học. Trong nhóm ngành ứng dụng này nổi bật các ngành
đào tạo (Báo chí – Truyền thông, Quan hệ quốc tế) được xã hội đặc đặc biệt coi trọng trong xu
hướng đất nước đang phát triển mạnh và xã hội đang hòa nhập chung với dòng chảy chung của
thế giới; hoặc là ngành đào tạo mới có triển vọng phát triển cao và hiện đang là “đặc sản” của
cả nước (Đô thị học); Lực lượng chuyên gia, giảng viên của nhóm ngành này đang được tích
cực đào tạo ở trong và ngoài nước, một bộ phận không nhỏ đã hoàn thiện học tập và đang đóng
góp quan trọng cho công tác đào tạo. Nhóm ngành này đã liên tục giữ “quán quân” về điểm thi
tuyển đầu vào của cả trường (Báo chí – Truyền thông, Quan hệ quốc tế, Tâm lý học..).
Nhóm các ngành ngữ văn nước ngoài và khu vực học, bao gồm Ngữ văn (NV) Anh,
NV Pháp, NV Đức, NV Nga, NV Trung Quốc, NV Ý, NV Tây Ban Nha, Đông phương học,
Nhật Bản học, Hàn Quốc học, Việt Nam học. Nhóm này có thể phân thành các ngành truyền
thống (NV Anh, NV Pháp, NV Nga) và nhóm các ngành được thành lập từ khoảng trên dưới
20 năm trở lại đây (NV Trung Quốc, NV Ý, NV Tây Ban Nha, Đông phương học, Nhật Bản
học, Hàn Quốc học, Việt Nam học). Nhóm ngành này thu hút số lượng đông đảo sinh viên do
tính chất đáp ứng cầu nhân lực của xã hội thời mở cửa và phát triển mạnh của hội nhập quốc tế.
Yếu tố hiểu biết văn hóa, xã hội và ngôn ngữ khu vực và thế giới hiện đang là thế mạnh của
nhóm ngành này.
Do nhu cầu cấp thiết của cộng đồng xã hội, Trường ĐHKHXH&NV hiện đang triển khai
đào tạo cả hai loại hình đào tạo chính quy và hệ vừa làm vừa học (VLVH). Trong ba năm
(2012, 2013 và 2014), Nhà trường đã tiếp nhận 8.677 sinh viên hệ chính quy và gần 5.350 sinh
viên hệ VLVH; trong khi đó Nhà trường đã cấp bằng tốt nghiệp cho hơn 7.163 cử nhân đã
hoàn thành chương trình đào tạo chính quy, gần 5.000 cử nhân hệ VLVH. Đối với hệ đào tạo
VLVH, Nhà trường đã mở một số lớp đào tạo ở khắp các tỉnh Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ
theo nhu cầu chuẩn hóa kiến thức khối cán bộ - viên chức địa phương. Trong số 5.345 sinh
viên hệ VLVH có 3.943 người tại các địa bàn Tp. HCM và 1.402 người học ở các tỉnh thành
phía Nam.
Bảng 1: Số lượng SV nhập học và tốt nghiệp trong các năm 2012, 2013 và 2014:
Loại hình Nhập học/
Tốt nghiệp
2012 2013 2014 Tổng số
2
Hệ chính quy Nhập học 2.932 2.870 2.875 8.677
Tốt nghiệp 2.800 2.295 2.068 7.163
Bảng 2: Số lượng SV hệ VLVH nhập học tại Tp.HCM và các địa phương trong các năm
2012, 2013 và 2014:
Loại hình Địa phương mở lớp 2012 2013 2014 Tổng số
Hệ VLVH Tp.HCM 1.316 1.331 1.296 3.943
Các tỉnh phía Nam 764 363 275 1.402
Tổng số 5.345
Có thể thấy, loại hình đào tạo VLVH trong mấy năm gần đây đã thu hẹp dần về quy mô do
hai nguyên do chính (1) tính bão hào của nhu cầu xã hội; (2) chính sách tập trung đầu tư cho
chất lượng thay vì số lượng của ĐHQG-HCM. Điều đó có nghĩa là Trường ĐHKHXHNV tập
trung nhiều hơn cho chương trình đào tạo chính quy, coi đó là nền móng cơ bản cho sự phát
triển Nhà trường trong hiện tại và tương lai.
Trong lĩnh vực đào tạo Sau Đại học, trong 5 năm gần nhất (2010 – 2014) Nhà trường đã
trực tiếp đào tạo 974 học viên Cao học có nơi sinh tại các tỉnh phía Nam và 204 học viên có
nơi sinh tại các tỉnh phía Bắc nhưng đang công tác tại phía Nam. Bên cạnh đó, từ năm 2008
đến nay Nhà trường đã và đang đào tạo 359 nghiên cứu sinh đang là cán bộ, viên chức, giảng
viên các trường đại học, cao đẳng, các cơ quan ban ngành của khu vực phía Nam.
Bảng 3: Số lượng học viên cao học đang công tác tại khu vực phía Nam đã và đang được đào
tạo tại Trường ĐHKHXH&NV
STT 2010 2011 2012 2013 2014 Tổng
HV có nơi sinh ở phía
Nam
189 174 199 183 228 974
HV gốc phía Bắc nhưng
đang công tác tại Nam Bộ
58 53 36 23 34 204
Tổng cộng 1178
Bảng 4: Số lượng NCS tiến sĩ đang công tác tại khu vực phía Nam đã và đang được đào tạo tại
Trường ĐHKHXH&NV
STT 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Tổng
HV có nơi sinh ở
phía Nam
15 20 28 23 24 35 29 174
HV gốc phía Bắc
đang công tác tại
27 26 22 30 27 22 31 185
3
Nam Bộ
Tổng cộng 359
Nếu tính chung cho cả giai đoạn 1975 cho đến nay, Trường ĐHKHXH đã đào tạo trên
70.000 cử nhân và trên 600 tiến sĩ, trên 6000 thạc sĩ phục vụ cho hệ thống xã hội. Cựu sinh
viên, học viên của Nhà trường hiện đã và đang tham gia sâu rộng vào hệ thống chính trị - kinh
tế - xã hội từ Trung ương đến địa phương, trong đó có nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà
nước hiện đang phát huy rất tốt năng lực tư duy và tri thức được đào tạo nền tảng tại Nhà
trường. Nhiều cán bộ khác hiện đang giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy chính trị,
đoàn thể và các tổ chức xã hội tại các địa phương (cấp tỉnh/thành trở xuống) cũng như trong hệ
thống các trường, viện từ trung ương đến địa phương.
Trường ĐHKHXH&NV là một trong những đơn vị có mạng lưới cựu sinh viên rộng rãi và
hoạt động có hiệu quả. Với tính đặc thù là lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, các cử nhân
hay thạc sĩ, tiến sĩ do Nhà trường đào tạo ra thường công tác nhiều hơn ở các cơ quan, tổ chức
văn hóa, xã hội, tư tưởng (cơ quan Đảng, hệ thống chính quyền, các cơ quan thông tấn – báo
chí – đài truyền hình, đài truyền thanh, giới tư nhân và các tổ chức xã hội khác); chính vì thế
những tác động trở lại của cựu sinh viên đối với Nhà trường là hết sức mật thiết. Nhiều cựu
sinh viên là thành viên nòng cốt của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp đã đóng góp nhiều ý
tưởng có giá trị cho việc định hướng phát triển đào tạo và NCKH của Nhà trường, đã trao rất
nhiều suất học bổng khuyến học cho sinh viên (có nhiều trường hợp lên đến hàng trăm triệu
đồng), đồng thời có chính sách ưu tiên tuyển dụng sinh viên ra trường hay hỗ trợ sinh viên thực
tập dưới nhiều hình thức. Sự kết nối Nhà trường – mạng lưới cựu sinh viên thể hiện sống động
mối liên hệ Nhà trường - xã hội trong bối cảnh xã hội đang chuyển đổi mạnh mẽ, sức bật và sự
phát triển của xã hội đang rất cần nền tảng giáo dục hiện đại đóng góp nhân lực và đường lối.
b. Nghị quyết TW 8, khóa XI đã nhấn mạnh đến mục tiêu thay đổi căn bản và toàn diện nền
giáo dục nước nhà, đảm bảo cung ứng đầy đủ và hiệu quả nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển
của đất nước. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao ấy của xã hội, các nhóm ngành đào tạo tại
Trường ĐHKHXHNV đều đã đầu tư công sức cho việc cải tiến chương trình đào tạo theo
hướng song hành và kết hợp đào tạo cơ bản và đáp ứng nhu cầu xã hội. Từ năm học 2012-2013
Nhà trường đã ban hành quyết định bắt buộc các khoa/bộ môn đào tạo phải tổ chức lấy ý kiến
nhà tuyển dụng rộng rãi để làm cơ sở cho việc điều chỉnh chương trình đào tạo. Cứ hai năm
một lần vào các năm số chẵn, các hội đồng khoa học đào tạo các Khoa/BM xem xét bổ sung,
thay đổi chương trình đào tạo cho phù hợp với định hướng của Nhà trường. Nhìn chung, việc
4
điều chỉnh chương trình đào tạo được thực hiện khá bài bản và bước đầu nhận được sự hưởng
ứng và hồi đáp tích cực của người học.
Hội thảo Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn KHXH trong nhà trường phổ thông tổ chức tại Đồng Tháp (tháng 11/2013)
Song song với cải tiến chương trình đào tạo là cải tiến phương pháp giảng dạy theo hướng
tích hợp kiến thức và phương pháp liên ngành, kết hợp lý thuyết, lý luận với tri thức xã hội,
vừa cung cấp phương pháp luận và hệ thống tư duy khoa học vừa gắn kết với thực tiễn xã hội.
Trong 3 tuần lễ cuối tháng 9/2014, Nhà trường đã triển khai 3 lớp tập huấn nâng cao phương
pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá học tập cho đội ngũ CB-GV toàn trường với phần trình
bày có hệ thống của các chuyên gia cũng như phần chia sẻ kinh nghiệm của các giảng viên có
uy tín do sinh viên đánh giá trong toàn Trường, bước đầu đã tác động tích cực đến nhận thức
và hành vi dạy và học tại Trường. Trong tương lai gần, Nhà trường tiếp tục đầu tư cho mảng
công tác này nhằm đảm bảo mục tiêu đóng vai trò định hướng phát triển xã hội trên mặt trận tư
tưởng và xã hội.
Nhà trường cũng hết sức quan tâm đến việc tìm kiếm và triển khai các dự án phối hợp với
các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn tại khu vực phía Nam để nâng
cao chương trình, trình độ và phương pháp đào tạo. Trong ba năm gần nhất, dưới sự tài trợ của
nhiều nguồn quỹ quốc tế như Ford Foundation, DAAD, Japan Foundation, Korea Foundation,
SIDA, Rosa Luxembourg v.v., nhiều chương trình nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu
khoa học đang triển khai tại Trường ĐHKHXH&NV, chẳng hạn như chương trình service-
5
learning, chương trình nâng cao hiệu quả đào tạo Hàn Quốc học, chương trình nâng cao hợp
tác Việt-Nhật trong đào tạo và nghiên cứu v.v.. Nhà trường đã và đang áp dụng nhiều chương
trình liên kết đào tạo với các đối tác nước ngoài có uy tín, chẳng hạn các chương trình 3+1,
3+2, 2+2, chương trình đào tạo thạc sỹ Quản trị kinh doanh với ĐH Bỉ (UB), ĐH Stirling, ĐH
Ngoại ngữ Busan (Hàn Quốc), Trường Đại học Dục Đạt (Đài Loan) và Trường Đại học Khoa
học và Kỹ thuật điện tử Quế Lâm, Đại học Dân tộc Quảng Tây (Trung Quốc) v.v..
Ngày 26/7/2013, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) đã tiếp tục tổ
chức “Hội nghị tổng kết đánh giá chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn AUN-QA giai đoạn
2009-2013”, một lần nữa khẳng định hướng đi của giáo dục đại học Việt Nam. Đến thời điểm
năm 2013, Việt Nam có tất cả 21 chương trình được đánh giá theo bộ tiêu chuẩn AUN-QA,
trong số ấy, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh đã có 10 ngành đạt chuẩn AUN, riêng Trường
ĐHKHXH&NV có hai ngành gồm Việt Nam học và Ngữ văn Anh(1). Trong những năm tiếp
theo Nhà trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh mảng công tác này như là một cam kết nâng cao chất
lượng đào tạo phục vụ xã hội.
Để thực hiện mục tiêu này, các trường đại học tích cực nâng cao chất lượng đội ngũ quản
lý giáo dục đại học thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có đội ngũ
chuyên gia giảng dạy từ nước ngoài. Đơn cử ĐHQG-HCM, trong suốt hai năm gần nhất đã
phối hợp với UCLA (Mỹ) luân phiên mở lớp đào tạo Quản trị đại học nhằm hướng đến xây
dựng đội ngũ quản lý tiến bộ, hiệu quả. Thêm vào đó, hệ thống cơ sở vật chất, thiết bị máy móc
hiện đại được trang bị để phù hợp với các phương pháp giảng dạy mới, hệ thống thư viện – thư
viện điện tử và cổng thông tin – website không ngừng được hoàn thiện để phục vụ tối đa các
tiện ích cho nhà quản lý, người dạy và người học.
Trong đó có thể kể Khoa Nhân học, nhờ sự hỗ trợ của Ford Foundation và lợi ích từ việc
hợp tác với các trường Đại học Toronto (Canada) và Đại học Washington (Mỹ), chương trình
đào tạo và đội ngũ giảng viên của khoa này không ngừng được nâng cao. Tương tự, với sự hợp
tác của Quỹ Rosa Luxembourg (Bỉ), các đơn vị Khoa Xã hội học và Khoa Công tác Xã hội
không ngừng hoàn thiện chương trình đào tạo theo hướng gắn liền với thực tế và nhích gần hơn
với các chương trình đào tạo tại tiên tiến của thế giới. Trong khi đó chính các hợp tác quốc tế
qua cầu nối là Đại sứ quán Tây Ban Nha, số giảng viên thiện nguyện người bản xứ đã đến làm
việc và giảng dạy tại Bộ môn Tây Ban Nha, góp phần rất lớn trong việc khẳng định hiệu quả
đào tạo và thúc đẩy phát triển ngành khoa học này tại trường. Nhiều tổ chức quốc tế khác như
1 Các ngành khác gồm Công nghệ thông tin (Trường ĐH Khoa học Tự nhiên); Điện tử Viễn thông, Kỹ thuật chế tạo, Kỹ thuật Hóa học và Kỹ thuật Xây dựng (Trường ĐH Bách khoa); Công nghệ thông tin, Công nghệ Sinh học và Quản trị kinh doanh (Trường ĐH Quốc tế);
6
DAAD, Japan Foundation, Korea Foundation, SIDA, Rosa Luxembourg v.v. đều có những đầu
tư cơ bản tại Trường ĐHKHXHNV để đẩy mạnh quá trình hoàn thiện mục tiêu đào tạo nhân tại
phục vụ đất nước.
2. THỰC TRẠNG VÀ THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU VÀ CHUYỂN GIAO KHOA HỌC
a. Thực trạng và thành tựu
Phân tầng đại học là một trong 4 vấn đề mới cơ bản của Luật Giáo dục nước ta ban
hành năm 2013, theo đó, hệ thống các trường đại học của Việt Nam sẽ được phân tầng thành
các cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu, các cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng
dụng và cơ sở giáo dục đại học định hướng nghề nghiệp. Mỗi một loại hình trường đại học lại
có mục tiêu đào tạo khác nhau. Theo Luật Giáo dục 2013, mục đích của việc phân tầng này
nhằm “phục vụ công tác quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển, nâng cao năng lực đào tạo và
nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học; thực hiện quản lý nhà nước.”; nhằm “đánh giá
uy tín và chất lượng đào tạo; phục vụ công tác quản lý nhà nước và ưu tiên đầu tư từ ngân sách
nhà nước.” Bên cạnh cơ cấu và chất lượng của các hoạt động đào tạo, thì hoạt động khoa học
công nghệ và nghiên cứu khoa học là một tiêu chí xếp hạng quan trọng của hệ thống các đại
học nghiên cứu. Mục đích cuối cùng và cao nhất của việc xếp hạng đại học chính là định
hướng xây dựng mục tiêu phục vụ xã hội.
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục như vậy, với tính chất là một trung tâm lớn của Việt
Nam về lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, bắt đầu từ Chiến lược phát triển giai đoạn 2011-
2015, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tthành phố Hồ Chí
Minh đã xác định tầm nhìn “trở thành một trường đại học định hướng nghiên cứu, từng bước
tiến đến mục tiêu đại học nghiên cứu theo mô hình hiện đại của đại học thế giới, đóng vai trò
nòng cốt trong hệ thống giáo dục đại học về các ngành KHXH&NV của Việt Nam và tại khu
vực châu Á.”
7
Mỗi năm có hàng chục lượt giáo sư nước ngoài đến giảng dạy và trình bày chuyên đề, giới thiệu thành
tựu và phương pháp nghiên cứu khoa học mới tại Trường. Trong ảnh là GS. Linda Grove – GS Viện
Harvard-Yenching (Hoa Kỳ) đang trình bày tọa đàm, tháng 11/2014.
Nhà trường luôn ý thức về vị trí, tầm vóc và sứ mệnh của mình trong giáo dục – đào tạo
và nghiên cứu khoa học gắn với những vấn đề lý luận và thực tiễn của Việt Nam và thế giới
trên lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn. Trong những năm qua, Trường ĐHKHXH&NV đã có
nhiều nỗ lực cả về mặt thể chế và nguồn nhân lực để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học
của cả giảng viên, NCS, HVCH và sinh viên để thực hiện tầm nhìn hướng đến đại học nghiên
cứu. Để thúc đẩy nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trong giảng viên, Nhà trường luôn có chính
sách khuyến khích cán bộ - giảng viên học tập nâng cao trình độ chuyên môn để đáp ứng nhu
cầu nghiên cứu và giảng dạy ngày càng cao của xã hội; kiên trì chính sách tập trung mọi nguồn
lực có thể để đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ trong lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn, bao gồm các chính sách khuyến khích hình thành và triển khai các nhóm nghiên cứu,
các kế hoạch, đề án, đề tài nghiên cứu, khuyến khích công bố kết quả nghiên cứu; tiếp tục đầu
tư cơ sở vật chất (phòng nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu, thư viện, cơ sở dữ liệu phục vụ
nghiên cứu) và cơ chế hỗ trợ nghiên cứu (hành chính, pháp lý, chính sách khen thưởng), tiếp
tục chính sách khuyến khích nghiên cứu và công bố khoa học trong và ngoài nước bằng hình
thức chi hỗ trợ khen thưởng. Ngoài ra, thực hiện phương châm “giảng viên là nhà khoa học”,
với 45 giáo sư và phó giáo sư, 195 tiến sĩ, 408 thạc sĩ (tháng 12 năm 2014) đang công tác tại 28
Khoa, Bộ môn trực thuộc Trường (phân thành 58 chuyên ngành khoa học), 7 trung tâm nghiên
cứu ứng dụng, 4 phòng nghiên cứu và thực nghiệm, Nhà Trường tận dụng mọi nguồn lực để
8
triển khai nghiên cứu tất cả các bình diện, lĩnh vực của khoa học xã hội và nhân văn để phục xã
hội. Đội ngũ các giảng viên – nhà khoa học này đã và đang tiến hành nhiều công trình nghiên
cứu khoa học quan trọng, đóng góp quan trọng trong việc tăng cường tri thức khoa học và phát
triển xã hội, đặc biệt là tại khu vực Nam Bộ. Thêm vào đó, với hơn 150 đối tác là các trường
đại học, viện nghiên cứu trên thế giới cùng hàng ngàn nhà khoa học quốc tế có uy tín, Nhà
trường còn là cầu nối và là đối tác học thuật quan trọng để tiếp nhận, đối thoại, đóng góp và áp
dụng nhiều khung lý thuyết mới, phương pháp mới, cách tiếp cận mới và góc nhìn mới trong
nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn tại Việt Nam. Nhiều GS, PGS, TS và giảng viên có uy
tín của Nhà trường thường xuyên gia vào các diễn đàn đại chúng (báo chí, truyền thành, truyền
hình) dưới nhiều hình thức khác nhau (thuyết giảng, tọa đàm, talkshow, phỏng vấn) đã tham
gia phản biện xã hội, góp phần xây dựng và phát triển xã hội theo định hướng tiến bộ, văn
minh và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Với tầm nhìn hướng đến đại học định hướng nghiên cứu, nhiệm vụ khoa học công nghệ
theo kế hoạch chiến lược 2011-2015 của Nhà trường bao gồm các nội dung: Dự án, đề tài
nghiên cứu khoa học các cấp, Hội nghị/ Hội thảo khoa học, Lớp tập huấn/Tọa đàm khoa học,
Công bố kết quả nghiên cứu khoa học, xây dựng năng lực nghiên cứu, và hợp tác nghiên cứu
khoa học. Đề tài nghiên cứu khoa học các cấp và các dự án nghiên cứu khoa học là kênh
nghiên cứu và chuyển giao khoa học chủ yếu của đội ngũ giảng viên toàn Trường. Trong
những năm qua, nghiên cứu khoa học của Trường tăng về số lượng và chất lượng, gắn với đào
tạo và hướng đến phục vụ xã hội. Ngoài những đề tài nghiên cứu trong hệ thống Đại học Quốc
gia và Bộ Khoa học Công nghệ, các nhà khoa học của Trường còn tham gia mạnh mẽ vào
nhiệm vụ khoa học công nghệ của các Sở Khoa học Công nghệ của các tỉnh, thành để tăng
cường hơn nữa sự gắn kết giữa nghiên cứu khoa học và thực tiễn xã hội đồng thời trực tiếp
mang hơi thở cộng đồng vào nghiên cứu, mang kết quả nghiên cứu và lý thuyết áp dụng vào
thực tiễn. Một số chủ đề nghiên cứu trong giai đoạn 2011-2015 là sưu tầm và nghiên cứu di sản
Hán-Nôm; Nghiên cứu ngữ âm học thực nghiệm; Nghiên cứu văn học Việt Nam và thế giới;
Nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam và thế giới; Nghiên cứu lý luận văn hóa học, nghiên cứu văn
hoá Việt Nam và thế giới; Nghiên cứu triết học và triết học ở Việt Nam; Nghiên cứu biến đổi
khí hậu; Nghiên cứu Biển và Đảo Việt Nam; Nghiên cứu khu vực học (Việt Nam-Đông Nam
Á-Hán học); Nam Bộ – Một thế kỷ phát triển từ truyền thống đến hiện đại (đầu thế kỷ 20-21);
Lịch sử văn hóa Nam bộ qua khảo cổ học; Kinh tế-Văn hóa-Xã hội của cộng đồng ngư dân
Nam bộ, dân thương hồ Nam bộ, công nhân và an sinh xã hội các KCN, KCX; Phát triển kinh
tế-xã hội nông thôn đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới; Nghiên
9
cứu tri thức bản địa của các tộc người Nam bộ và Nam Tây Nguyên; Nghiên cứu các dạng thức
tín ngưỡng dân gian Nam bộ và Tây Nguyên; Quy hoạch và phát triển du lịch các địa phương;
Đổi mới phương pháp giáo dục KHXH các địa phương; Các hệ thống tư tưởng triết học Đông-
Tây và lễ tục xã hội Việt Nam; Kinh điển học… Với sự hợp tác hiệu quả với các đối tác nước
ngoài, Trường đã thực hiện các dự án có tác động xã hội quan trọng như:“Phát triển tài nguyên
giảng dạy và nghiên cứu văn học Hàn Quốc ở Việt Nam” do Korea Foundation tài trợ; Xây
dựng và nâng cao năng lực đồng tham gia cho cộng đồng và chính quyền địa phương trong
việc cải thiện môi trường sống khu dân cư nghèo ở TP. Hồ Chí Minh” do Rosa Luxemburg tài
trợ, “Tập huấn về học tập và mạng lưới phục vụ” (Service– Learning)” năm II do tổ chức
United Board tài trợ; Chương trình thăng tiến giáo dục công tác xã hội) phối hợp với ĐH San
Jose State (Hoa Kỳ) do Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ…
10
Công tác tổ chức tọa đàm, hội nghị, hội thảo của Trường có những khởi sắc theo hướng
tăng cường hội nhập quốc tế về khoa học, và gắn kết với xã hội. Trong năm học 2013-2014,
Trường đã ghi dấu ấn với các hội thảo lớn như: Dấu ấn Ấn Độ trong tiếp biến văn hóa ở Việt
Nam và Đông Nam Á (tổ chức 3/10/2013); Nghiện Internet: Những thách thức mới trong xã
hội hiện đại (tổ chức ngày 23/11/2013); Phật giáo Nguyên thủy trong kỷ nguyên toàn cầu hóa
(phối hợp với Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức ngày 18/1/2014), Phát triển kinh tế
- xã hội Đồng bằng sông Cửu Long (2/1/2014); Làng nghề và Phát triển Du lịch (phối hợp với
Đại học Silapakon, Thái Lan tổ chức ngày 20-21/03/2014), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam bộ
(phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa Tín ngưỡng, tổ chức ngày
27/4/2014); Chiến thắng Điện Biên Phủ - Những vấn đề lịch sử (phối hợp với ĐH Thủ Dầu
Một, tổ chức ngày 6/5/2014); Nghi lễ cộng đồng: Truyền thống và biến đổi (27/6/2014), 20
năm Hàn Quốc học ở Việt Nam – Nhìn lại để phát triển” (ngày 18/7/2014); Cây dừa tiềm năng
và giá trị” (phối hợp với Hiệp hội Dừa Việt Nam tổ chức ngày 29-30/8/2014), Nghệ thuật âm
nhạc phương Đông – bản sắc và giá trị (phối hợp với ĐH Trà Vinh, Nhạc viện Tp.HCM, Cao
đẳng Văn hóa Nghệ thuật Tp.HCM, Trường TED SAIGON) ngày 18/12/2014 v.v.… Các hội
thảo, tọa đàm trong năm 2014 Trường ĐHKHXH&NV hết sức chú ý sự kết nối với các địa
phương. Các hội thảo do TT NC Tôn giáo tổ chức đều có sự tham gia hoặc kết nối với các cơ
quan tôn giáo/quản lý tôn giáo (phối hợp với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức hội thảo
VESAK 2014; phối hợp với Giáo hội Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Việt Nam Tp.HCM tổ
chức các hội thảo Phật giáo, phối hợp với các địa phương Kiên Giang, Bà Rịa-Vũng Tàu v.v.
11
tổ chức các hội thảo/tọa đàm chuyên môn tại các địa phương. Tương tự, Nhà trường đã tiến
hành các tọa đàm chuyên môn Phát triển du lịch tại Bình Dương (tháng 6/2013), Tiền Giang
(12/2013), tọa đàm về khảo cổ học tại Bình Dương (tháng 10/2014), tại Lâm Đồng (tháng
12/2014), tại Gò Tháp Đồng Tháp (tháng 12/2014), tiến hành các phiên địa phương tại tại Bình
Dương (hội thảo Làng nghề và Phát triển Du lịch tháng 3/2014), tại An Giang (hội thảo Tín
ngưỡng thờ Mẫu tháng 4/2014), với ĐH Thủ Dầu Một Bình Dương (hội thảo Chiến thắng Điện
Biên Phủ - Những vấn đề lịch sử, tháng 5/2014). Xu hướng phối hợp với các địa phương trong
việc tổ chức các hoạt động khoa học hiện là một chủ trương rất được chú trọng tại Trường
ĐHKHXH&NV trong giai đoạn tiếp theo. Theo dự kiến, Nhà trường sẽ phối hợp với ĐH Thủ
Dầu Một, ĐH Huế và ĐHKHXH&NV Hà Nội tổ chức hội thảo nhân sự kiện 40 năm thống
nhất đất nước vào tháng 4 năm 2015, phối hợp với Viện Harvard-Yenching tổ chức hội thảo về
Nhân học Biển tại Vũng Tàu (12/2015), phối hợp với ĐH Hawaii tổ chức Hội thảo về Văn hóa
Nho học vào tháng 5/2016 v.v..
Hội thảo Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ tổ chức tại Lăng miếu Bà Núi Sam, Châu Đốc, An Giang, tháng 4 năm 2014
12
Hội thảo Làng nghề và phát triển Du lịch do Nhà trường phối hợp với ĐH Silpakorn Thái Lan, Sở VH-TT-DL Bình Dương tổ chức vào tháng 3 năm 2014
Để khẳng định vị thế của một trung tâm nghiên cứu lớn về lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn, Nhà Trường đã tích cực đẩy mạnh công tác công bố khoa học đặc biệt nhấn mạnh
đến công bố quốc tế qua các kênh tọa đàm, hội nghị, hội thảo, tập san, tạp chí, sách, báo…
Trường đang triển khai tổ chức xuất bản Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ (Chuyên
san KHXH&NV, ISSN 1859-0128), Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn và các tuyển tập
chuyên đề phục vụ xã hội. Ngoài ra, trang web Phòng QLKH-DA (www.qlkh.hcmussh.edu.vn)
được nâng cấp và phát triển dần theo hướng trở thành Cổng thông tin khoa học chuyên nghiệp,
hướng đến mục tiêu phục vụ khoa học cho cộng đồng. Nhà trường đã năng động phối hợp với
các nhà xuất bản để đưa các công trình nghiên cứu của Trường đến với xã hội. Trong thời gian
qua Ban xuất bản Trường ĐH KHXH&NV hỗ trợ giảng viên xuất bản rất nhiều công trình,
nâng số công trình sách giáo khoa, sách chuyên khảo và tuyển tập khoa học của Nhà trường
trong năm 2014 là 147 cuốn, tăng trưởng hơn 100% so với cùng kì năm 2013. Các tác phẩm
tiêu biểu có thể kể Lối sống và tư duy của cộng đồng người Việt vùng Tây Nam Bộ trong quá
trình đổi mới và hội nhập quốc tế của PGS.TS Trịnh Doãn Chính; Đón nhận truyện ngắn
đương đại Nam Bộ (Embracing life contemporary short fiction from southern Vietnam) của TS.
Nguyễn Thị Kiều Thu (Khoa Ngữ văn Anh); Fukuzama & Nguyễn Trường Tộ - tư tưởng cái
cách giáo dục của PGS. TS. Nguyễn Tiến Lực (BM Nhật Bản học); Tìm về bản sắc văn hóa
Việt Nam (bản tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Đức); Văn hoá người Việt vùng Tây Nam Bộ của
GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm; Đô thị học – lý thuyết và thực tiễn của PGS. TS. Nguyễn Minh
Hoà; Giới và di dân – tầm nhìn châu Á của TS. Nguyễn Thị Hồng Xoan; Quan điểm của các
13
học giả Âu Mỹ về phong trào tôn giáo mới của PGS.TS Trương Văn Chung; Lý luận văn học
nhập môn của GS.TS. Huỳnh Như Phương; Nhớ về chiến thắng Hà Nội – Điện Biên Phủ trên
không năm 1972 của PGS.TS. Hà Minh Hồng…
Nhận thức đội ngũ giảng viên – nhà khoa học Trường hiện có là động lực chủ yếu của
tiến trình hướng đến đại học nghiên cứu, Trường ĐHKHXH&NV luôn có các chính sách kịp
thời để khuyến khích, giải phóng mọi nguồn lực để đạt kết quả nghiên cứu cao nhất như:
khuyến khích giảng viên tăng cường công bố bài viết trên tạp chí quốc tế có chỉ số ISSN và
thuộc danh mục ISI. Trên tinh thần ấy, Trường ĐHKHXHNV đang thí điểm thực hiện chính
sách chi hỗ trợ công cố khoa học, trong đó ưu tiên cao nhất cho công bố khoa học quốc tế, từ
chi trả chi phí xuất bản (nếu có yêu cầu), chi hỗ trợ công bố với mức tiền cao và cộng giờ
nghiên cứu khoa học. Công tác này bước đầu đã có những thành tích khích lệ với hàng năm có
khoảng 70-100 bài báo được đăng; khuyến khích giảng viên tham dự hội thảo trong nước và
quốc tế: hàng năm Trường cử hơn 200 lượt cán bộ giảng viên đi dự hội thảo khoa học hay tập
huấn ngắn hạn tại các nước trên thế giới. Nhiều cán bộ - giảng viên đã xuất bản các bài viết
trên các tạp chí khoa học quốc tế thông qua kênh hội nghị, hội thảo; khuyến khích hình thành
các nhóm nghiên cứu mạnh thông qua thực tiễn thực hiện đề tài các cấp; tổ chức các lớp tập
huấn để giảng viên tham gia bổ sung kiến thức. Với tính đặc thù vốn có của khối khoa học xã
hội và nhân văn, nhà trường đã bắt đầu gặt hái các kết quả tốt đẹp: đã có 3 công trình đăng trên
các tạp chí ISI, thậm chí có tạp chí có điểm IF cao đến 6-7 điểm. Đơn cử, trường hợp TS. Phạm
Gia Trân (Khoa Địa lý), người có đến 2 bài ISI (năm 2013), đã biết tận dụng quan hệ quốc tế
với các nhà khoa học nước ngoài, vận dụng phương pháp tiên tiến tiến hành nghiên cứu thực
nghiệm tại Việt Nam và mạnh dạn công bố quốc tế qua kênh hợp tác quốc tế với đồng nghiệp
nước ngoài. Trong năm 2014, một số GV trẻ đã nỗ lực công bố khoa học, bước đầu đã đạt
thành tựu công bố ISI quốc tế. Có thể nói đây là một hướng đi đúng đắn và đầy triển vọng vì
giới khoa học Việt Nam vẫn đủ tầm để tạo ra các sản phẩm khoa học có chất lượng, phù hợp
với chuẩn công bố quốc tế để phục vụ xã hội.
Bảng 5: Số lượng các bài viết công bố khoa học các loại qua các năm 2012, 2013 và 2014.
STT Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
Bài viết trên tạp chí ISI 1 1 2
Bài viết trên tạp chí ISSN quốc tế 17 31 67
Bài viết trên tạp chí ISSN chuyên ngành
trong nước
73 101 280
Bài viết xuất bản thành kỷ yếu quốc tế 20 40 91
14
ISBN
Bài viết xuất bản thành kỷ yếu trong nước
ISBN
121 198 411
Bài viết in sách chuyên khảo, sách chuyên
đề, tuyển tập
31 40 147
Bài viết đăng tập san KHXHNV 62 61 50
Tổng cộng 325 472 1047
Để quan sát rõ hơn những biến đổi trong công bố khoa học qua các năm 2012-2014, ta
có thể sát theo biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: Tỉ lệ các loại hình công bố khoa học tại Trường ĐHKHXH&NV qua các năm
Tính riêng các công bố khoa học trên các tạp chí quốc tế, số lượng các bài viết công bố
tăng dần đều, năm sau cao gấp đôi năm trước:
15
Biểu đồ 2: Tỉ lệ các công bố trên tạp chí quốc tế qua các năm
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, hội nhập quốc tế là một quy luật tồn tại tất yếu của
các cơ sở đào tạo. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, Nhà trường tích cực kết nối mời các
diễn giả nước ngoài, học giả các chương trình quốc tế đặc biệt là từ các nước và vùng lãnh thổ
có nền giáo dục tiên tiến như Australia, Canada, Hoa Kỳ, Đức, Pháp, Anh, Nhật Bản,
Singapore, Hồng Kông v.v. đến thuyết trình, tọa đàm khoa học tại trường; mở các lớp chuyên
đề cho giảng viên, sinh viên; tổ chức cho giảng viên, sinh viên giao lưu trao đổi học thuật, đẩy
mạnh tổ chức hội thảo quốc tế, chủ động đăng ký dự án quốc tế có quy mô liên kết nhân sự
cao, rộng.
Song song với công tác phát triển nghiên cứu khoa học trong đội ngũ giảng viên, Nhà
trường luôn chú trọng đẩy công tác nghiên cứu khoa học trong sinh viên gắn với nhu cầu xã
hội. Hàng năm, Trường đều dành kinh phí hỗ trợ cho việc thực hiện các đề tài nghiên cứu của
sinh viên, trong đó ưu tiên hỗ trợ các đề tài có tính ứng dụng Đây là cơ sở để các em tham gia
giải thưởng nghiên cứu khoa học sinh viên các cấp như Giải thưởng Nghiên cứu khoa học sinh
viên cấp Trường, Giải thưởng Nghiên cứu khoa học sinh viên cấp Thành Đoàn Tp. Hồ Chí
Minh – Eureka, Giải thưởng Nghiên cứu khoa học sinh viên cấp Đại học Quốc gia, Giải
thưởng Nghiên cứu khoa học sinh viên cấp Bộ Khoa học Công nghệ, Giải thưởng Holcim v.v..
Với tính chất đặc thù của khối ngành KH XH&NV, việc ứng dụng sản phẩm NCKH của SV
vẫn mang những nét đặc thù, song cũng không vì thế mà đóng góp xã hội lại bị hạn chế. Trong
suốt ba năm liền của Giải thưởng Eureka cũng với tiêu chí phục vụ xã hội, SV Trường
ĐHKHXH&NV cũng gặt hái được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Năm 2014, SV đã giành
được 1 giải nhất (giải lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn), 2 giải nhì và 1 giải ba (trao giải
16
ngày 28/12/2014). Năm 2013, nhóm SV khoa Địa lý đã nghiệm thu xuất sắc đề tài Xây dựng
Atlat điện tử TP.HCM, đã được NXB Giáo dục triển khai ứng dụng từ đầu năm 2014. Trên
thực tế, trong nhiều năm qua sinh viên của trường cùng tham gia dự thi các giải thưởng khoa
học thiên về công nghệ vẫn đạt những giải thưởng rất cao. Thêm một minh chứng nữa, giải
thưởng Holcim được triển khai nhiều năm qua, Trường ĐH KHXH&NV đã tham gia từ năm
2011. Điểm nổi bật là năm nào sinh viên trường cũng đoạt giải thưởng Cộng đồng hoặc giải
Xây dựng bền vững dành cho các đề tài mang tính ứng dụng mang ý nghĩa cộng đồng. Đề tài
năm 2011 có hai đề tài đoạt giải là Lồng ghép mô hình ngoại khoá giáo dục xanh ở bậc tiểu
học của nhóm SV khoa Nhân học và đề tài Đánh thức không gian hẻm của nhóm SV khoa Đô
thị học. Đề tài năm 2012 là Mô hình sân chơi dành cho trẻ em khuyết tật của nhóm SV khoa
Đô thị học. Đề tài năm 2013 là Mô hình cho thuê xe đạp tại thành phố Hồ Chí Minh, nghiên
cứu ứng dụng thí điểm tại khu đô thị Đại học Quốc gia TP. HCM của nhóm SV khoa Đô thị
học. Đề tài năm 2014 là Mô hình sản xuất và kinh doanh các sản phẩm từ nhựa cây dừa nước
nhằm cải thiện sinh kế nông hộ vùng Hà Tiên - Kiên Lương của nhóm SV khoa Địa lý.
Sinh viên khoa Đô thị học ĐH KHXH&NV TP.HCM đạt giải phát triển cộng đồng Giải thưởng Holcim Phát triển vì Cộng đồng năm 2013
b. Chuyển giao công nghệ
Với mục tiêu xây dựng thành trường đại học định hướng nghiên cứu vào năm 2020,
Trường ĐHKHXH&NV rất coi trọng công tác chuyển giao khoa học công nghệ đối với cộng
đồng xã hội. Với đặc thù là sản phẩm nghiên cứu khoa học xã hội, phần đông các sản phẩm là
các đề án, bộ giải pháp, hệ thống các giá trị nghiên cứu chứ không phải là các mô hình kỹ thuật
hoặc các sản phẩm vật chất cụ thể như trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên hay kỹ thuật; do
17
vậy các sản phẩm chuyển giao KHCN của Trường ĐHKHXHNV là các ý tưởng, các mô hình,
tư tưởng thể hiện trong các sách chuyên khảo, sách công cụ v.v.. Các lĩnh vực gắn kết nhiều
nhất với xã hội là Xã hội học, Nhân học, Công tác xã hội, Đô thị học, Giáo dục học, Báo chí –
Truyền thông, Lưu trữ - Quản trị văn phòng, Thư viện – Thông tin, Quan hệ Quốc tế, Hàn
Quốc học, Nhật Bản học v.v..
+ Các công trình NCKH điển hình đã và đang triển khai ứng dụng xã hội dưới các hình
thức khác nhau:
Trong nhiều năm liền, Trường ĐHKHXH&NV triển khai chính sách khuyến khích CB-GV
Trường đăng ký nhận nhiệm vụ KHCN vừa tham gia phục vụ xã hội vừa trực tiếp đào tạo nhân
tài phục vụ đất nước.
Trước mắt Nhà trường đã và đang triển khai các nhóm đề án với nhiệm vụ xây dựng định
hướng NCKH với hệ thống các kế hoạch nghiên cứu trong giai đoạn 2015-2020 tầm nhìn đến
2030, trong đó nhấn mạnh hai nhóm chủ đề (1) Nghiên cứu các vấn đề văn hóa – kinh tế - lịch
sử - xã hội vùng Nam Bộ; và (2) Nghiên cứu KHXH&NV về Biển đảo Việt Nam. Nhà trường
đã tiến hành đăng ký nhiều Dự án lớn cấp Nhà nước với hy vọng nếu thành công sẽ tập trung
lực lượng đông đảo cán bộ – GV trong và ngoài trường tham gia nghiên cứu và chuyển giao
KHCN. Về cơ sở vật chất phục vụ NCKH, Nhà trường đã được Nhà nước đầu tư các hạng mục
lớn gồm Phòng Thí nghiệm GIS, Phòng Nghiên cứu Ngữ âm thực nghiệm, Phòng Nghiên cứu
Hán Nôm, Trung tâm nghiên cứu KHXN&NV về Biển Đảo, hệ thống Thư viện Trường hoàn
chỉnh, hệ thống các nguồn lực thông tin và công nghệ v.v.. Trong 5 năm qua, CB-GV toàn
trường đã và đang triển hơn 60 đề tài Đại học Quốc gia (Trọng điểm, loại C), gần 150 đề tài
cấp cơ sở, gần 40 đề tài KHCN các địa phương (cao nhất là năm 2014 với 14 đề tài), 6 đề tài
NAFOSTED (từ năm 2012 đến năm 2014). Dưới đây là các đề tài tiêu biểu, trong đó hầu hết
các đề tài đều được chuyển hóa thành sách giáo khoa, sách chuyên khảo hay các loại sách công
cụ phục vụ đào tạo và phát triển xã hội:
- Nhóm các đề tài gắn với phát triển các địa phương:
Nghiên cứu tổng hợp điều kiện tự nhiên, xã hội và giá trị lịch sử - văn hoá phục vụ phát
triển bền vững khu vực Thoại Sơn tỉnh An Giang – PGS.TS Võ Văn Sen
Đời sống thương hồ ở các chợ nổi Đồng bằng Sông Cửu Long - GS.TS. Ngô Văn Lệ
Tri thức bản địa các dân tộc bản địa tỉnh Đắk Nông - GS.TS. Ngô Văn Lệ
Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ - GS.TS. Trần Ngọc Thêm
Đời sống kinh tế- văn hóa- xã hội của cư dân vùng biển, đảo Nam Bộ - PGS.TS. Phan
Thị Yến Tuyết
18
Những biến đổi xã hội của nông dân người Việt trong quá trình chuyển dịch kinh tế
hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long - PGS.TS. Nguyễn Văn Tiệp;
Tri thức bản địa của các tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ trong tiến trình phát triển
xã hội tộc người – GS.TS. Ngô Văn Lệ
Đánh giá rủi ro sinh thái huyện Cần Giờ - TS Ngô Thanh Loan
Xây dựng hệ thống sản phẩm du lịch tỉnh Bình Dương – PGS.TS. Huỳnh Quốc Thắng
Phát huy giá trị Khu di tích Cát Tiên phục vụ phát triển xã hội – PGS.TS. Đặng Văn
Thắng
Hiện tượng tôn giáo mới và những vấn đề về chính sách và công tác tôn giáo ở thành
phố Hồ Chí Minh (PGS.TS. Trương Văn Chung)
Từ lúa đến tôm, từ tôm đến lúa – TS. Ngô Thị Phương Lan
Vai trò tôn giáo bản địa trong đời sống văn hoá của cư dân ở Nam Bộ - TS. Huỳnh
Ngọc Thu
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu miền Tây Nam Bộ - TS. Nguyễn Ngọc Thơ
Đời sống công nhân và an sinh xã hội tại các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương – TS.
Nguyễn Đức Lộc
Thực trạng nguồn nhân lực các tộc người thiểu số ở ĐBSCL – PGS.TS. Hoàng Văn
Việt
Thích ứng sinh kế của cộng đồng dân cư ven biển tỉnh Bến Tre trong bối cảnh biến đổi
khí hậu - TS. Lê Thị Kim Thoa
Nâng cao năng lực tham gia của cộng đồng trong các hoạt động nâng cấp hạ tầng đô thị
cấp ba – Trường hợp điển cứu tại TP. Cần Thơ - TS. Phạm Gia Trân
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể của người Việt ở thành phố Hồ Chí Minh
trong thời kỳ đô thị hóa, hiện đại hóa - TS. Hồ Sơn Diệp, TS. Nguyễn Đình Thống
Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam từ góc độ quản lý và khai thác (từ 1975-2012) -
TS. Phạm Ngọc Trâm
Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam - PGS, TS. Doãn Chính và nhóm GV khoa Triết
Sự tương đồng và khác biệt trong hệ thống tính cách Hàn Quốc và Việt Nam – PGS.TS.
Trần Thị Thu Lương…
- Nhóm các chủ đề nghiên cứu cơ bản:
Nam Bộ trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế - PGSTS Võ Văn Sen
Từ điển báo chí Anh-Việt– PGS.TS. Lê Khắc Cường
19
Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản văn học Nam Bộ giai đoạn 1930-1945 - PGS.TS. Lê
Giang và tập thể GV khoa Văn học – Ngôn ngữ
Các trung tâm tôn giáo thuộc văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ - PGS.TS. Đặng Văn Thắng
Những di tích khảo cổ học thời văn hóa Óc Eo – hậu Óc Eo ở An Giang - PGS.TS.
Phạm Đức Mạnh
Đặc điểm xuất phát và đặc trưng phát triển của Nam Bộ đi vào Công nghiệp hóa-Hiện
đại hóa – PGS.TS. Hà Minh Hồng
Thân tộc - hôn nhân - gia đình - Những vấn đề lí thuyết – TS. Nguyễn Khắc Cảnh, TS.
Đặng T Kim Oanh
Lịch sử Ngoại giao Việt Nam thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc (Từ đầu thế kỉ XX
đến 1945) – PGS.TS. Trần Nam Tiến
Những biến đổi xã hội của nông dân người Việt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế hiện nay ở ĐBSCL – PGS.TS. Nguyễn Văn Tiệp
Chính sách dân tộc của chính quyền Việt Nam cộng hòa và tác động của nó đối với vấn
đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên - PGS.TS. Nguyễn Văn Tiệp
Hệ thống lễ Raja của người Chăm Ở Việt Nam trong mối quan hệ với văn hóa Mã Lai -
TS. Trương Văn Món…
Trong 3 năm qua (2012-2014), dưới tác động của khủng hoảng kinh tế, nguồn kinh phí
Nhà nước đầu tư cho nghiên cứu khoa học giảm rõ rệt, song Nhà trường đã nỗ lực tìm hiểu,
tham gia đấu thầu và nhận nhiệm vụ khoa học công nghệ tại các đơn vị địa phương khu vực
phía Nam, nhờ vậy số lượng các đề tài, dự án tăng lên rõ rệt. Điều đó phần nào thể hiện xu
hướng phát huy năng lực nghiên cứu và chuyển giao khoa học giữa Nhà trường và cộng đồng
xã hội, đồng thể cho thấy tiềm năng lớn lao của lực lượng CB-GV Nhà trường trong tương lai.
20
Biểu đồ 3: Số lượng các đề tài, dự án GV Trường ĐHKHXH&NV thực hiện tại các tỉnh, thành qua các
năm 2012-2014 (chỉ tính các đề tài, dự án do Nhà trường làm đơn vị chủ trì)
Bên cạnh các đề tài, dự án nghiên cứu lấy các vấn đề kinh tế - văn hóa – xã hội các địa
phương làm đối tượng nghiên cứu, có mục tiêu chủ yếu là phục vụ sự phát triển địa phương
còn có các kế hoạch hợp tác triển khai các hoạt động khoa học do các địa phương đặt hàng.
Tiêu biểu nhất phải kể đến Kế hoạch hợp tác nghiên cứu và chuyển giao khoa học với tỉnh
Đồng Tháp (2014-2016).
3. NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP: KẾ HOẠCH ĐỔI MỚI PPGD CÁC MÔN KHXH&NV
TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG TỈNH ĐỒNG THÁP (2014-2016)
Giáo dục Việt Nam đương đại đang có nhiều thành tựu tiêu biểu, đã và đang đóng góp to
lớn cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá tại Việt Nam. Về cơ bản ngành giáo dục đáp
ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội trong những năm qua. Tuy nhiên, sự
phát triển của kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá đòi hỏi chúng ta phải xây dựng chiến
lược đào tạo nguồn nhân lực toàn diện cả về kỹ năng, chuyên môn lẫn đạo đức để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội. Thêm vào đó, nhu cầu đào tạo người công dân tốt trong xã hội
hiện đại dần trở nên cấp thiết, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang tác động mạnh
mẽ, làm thay đổi hay biến dạng một số giá trị đạo đức trong một bộ phận không nhỏ cư dân.
Trước tình hình đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị
quyết số 29-NQ/TW) đã xác định mục tiêu thay đổi căn bản và toàn diện nền giáo dục nước
nhà là một nhiệm vụ trọng tâm của toàn xã hội.
Tỉnh Đồng Tháp, một tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đang trong tiến trình công nghiệp
hoá – hiện đại hoá. Tỉnh đang phát huy mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục đào tạo con em địa
phương để có thể chủ động tiến sâu thêm trên con đường phát triển. Trong thời đại mới, đào
tạo chuyên môn cần song hành với đào tạo kỹ năng sống và những hiểu biết xã hội. Trước
những vấn đề cấp bách đó, việc nhìn nhận lại những thành tựu giáo dục đạo đức và hiểu biết xã
hội trong các trường phổ thông đã đạt được trong thời gian qua, nhất là các môn Khoa học xã
hội (KHXH), cũng như việc đánh giá đúng những thiếu sót, khó khăn cần được nghiên cứu và
giải quyết hiệu quả, hợp lý. Để xây dựng các luận cứ khoa học nhằm đề ra những giải pháp lâu
dài và trước mắt cho việc giáo dục các môn KHXH trong trường phổ thông tỉnh Đồng Tháp,
Ban Tuyên giáo Tỉnh Đồng Tháp phối hợp với Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh hợp tác
nghiên cứu và triển khai kết quả nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp với chủ đề “Đổi mới
21
phương pháp giảng dạy các môn khoa học xã hội trong nhà trường phổ thông tỉnh Đồng
Tháp”.
Mục tiêu chính của kế hoạch này gồm (1) cung cấp phương pháp luận giảng dạy các
môn KHXH trong thời đại mới; (2) cung cấp các phương pháp cụ thể dùng trong giảng dạy các
môn KHXH hiện nay; (3) Xây dựng phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp với các phương
pháp giảng dạy mới.
Cơ quan chỉ đạo là Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Đồng Tháp; cơ quan phối hợp thực hiện là Sở
Giáo dục – Đào tạo tỉnh Đồng Tháp. Các phân môn triển khai gồm có 4 phân môn, bao gồm
Ngữ văn, Giáo dục công dân, Địa lý và Lịch sử.
a. Các nhóm hoạt động cụ thể
* Nhóm hoạt động 1 – các lớp tập huấn: bao gồm (1) các lớp tập huấn tập trung mùa hè
2014, 2015, và (2) Các lớp tập huấn phổ thông ở các huyện thị.
Từ ngày 18/7/2014 đến 21/9/2014 Trường Đại học KHXH&NV đã triển khai 3 lớp tập
huấn hè cho 320 cán bộ giáo viên các trường PTTH và PTCS toàn tỉnh Đồng Tháp tại Tp. Sa
Đéc, Tp. Cao Lãnh và TX. Hồng Ngự. Trong thời gian 1 tháng, các học viên đã tiếp cận các
khối kiến thức liên ngành (10 chuyên đề) như Lý thuyết giáo dục hiện đại; Tâm lý giáo dục;
Các lý thuyết tiếp cận trong KHXH; Lịch sử - văn hoá – xã hội vùng Nam Bộ; Kỹ thuật ghi
ảnh và dựng clip phục vụ giảng dạy; Kỹ thuật sử dụng phần mềm hỗ trợ giảng dạy Powerpoint
và Prezi; và 6 đến 8 chuyên đề chuyên môn của các khối Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý và Giáo dục
công dân. Đã có 48 giảng viên là các GS, PGS, TS và các nhà chuyên môn của các trường,
viện như Trường Đại học KHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Cần Thơ, Trường Cán bộ
Tp.HCM, Trường Cao đẳng Sư phạm TW 3, Đại học Quốc gia Singapore v.v.. Đặc biệt, Ban tổ
chức đã mời GS.TS. Lee Chuek Yin (Đại học Quốc gia Singapore) tham gia giảng dạy để bổ
sung góc nhìn, hiểu biết và kinh nghiệm giáo dục tiên tiến ở Singapore và nhiều quốc gia, vùng
lãnh thổ, đặc khu khác ở Đông Á.
22
Đoàn giáo viên PTCS, PTTH học tập tại Tp. Hồ Chí Minh năm 2014
Ở các lớp tập huấn phổ thông tại các địa phương, Nhà trường phân bổ 12 huyện, thị xã,
thành phố tại Đồng Tháp thành 6 cụm (Lai Vung-Lấp Vò; Sa Đéc-Châu Thành; Tp. Cao Lãnh-
Huyện Cao Lãnh; Tháp Mười- Tam Nông; Thanh Bình-TX. Hồng Ngự; Huyện Hồng Ngự-Tân
Hồng), tiến hành triển khai tập huấn chuyên môn chung trong tháng 1 và tháng 2 năm 2015,
trong đó đặt trọng tâm ở các mục tiêu nhấn mạnh đổi mới tư duy, đổi mới phương pháp giáo
dục –đào tạo theo mô hình tiên tiến trên thế giới, đồng thời nhấn mạnh vai trò của kiến thức
liên ngành cũng như tầm quan trọng của các phương pháp kiểm tra, đánh giá học sinh.
* Nhóm hoạt động 2: Các toạ đàm chuyên môn: bao gồm các tọa đàm
Nhu cầu đổi mới các phương pháp giảng dạy các môn KHXH trong nhà trường phổ
thổng tỉnh Đồng Tháp, tổ chức vào tháng 11 năm 2013 tại Cao Lãnh;
Giao lưu Vinh quang nghề giáo, tổ chức tháng 9 năm 2014, tại Tp. Hồ Chí Minh
Ứng dụng các phương pháp giảng dạy các môn KHXH trong nhà trường phổ thổng tỉnh
Đồng Tháp, tổ chức tháng 11 năm 2014 tại Cao Lãnh;
Xây dựng các phương pháp kiểm tra, đánh giá học sinh ứng với các phương pháp mới,
tổ chức tháng 11 năm 2014 tại Cao Lãnh.
Tọa đàm đánh giá trung hạn, tổ chức tháng 8 năm 2015 tại Cao Lãnh;
Hội thảo tổng kết kế hoạch, tổ chức tháng 8 năm 2016 tại Cao Lãnh.
* Nhóm hoạt động 3: Các chuyến du khảo thực tế, bao gồm các tọa đàm
23
(1) Các chuyến thực tập thực tế tại miền Đông Nam Bộ: vào các ngày 5-6-7/9/2014, 12-13-
14/9/2014 và 19-20-21/9/2014, Trường Đại học KHXH&NV đã tổ chức 3 chuyến giao lưu,
học tập thực tế của ba đoàn Sa Đéc, Cao Lãnh và Hồng Ngự tại Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai và
Bình Dương trong ba ngày hai đêm. Mục tiêu chính của các chuyến học tập thực tế này gồm
Tăng cường kinh nghiệm giảng dạy qua giao lưu, học hỏi kinh nghiệm thực tế tại Tp.
Hồ Chí Minh; tăng cường tinh thần làm việc nhóm và chia sẻ kinh nghiệm trong nội bộ
GV tỉnh Đồng Tháp
Tăng cường tìm hiểu, thực hành tri thức lịch sử - văn hoá Nam Bộ; tìm hiểu học tập lịch
sử-văn hoá Nam Bộ và lịch sử Việt Nam cận hiện đại tại khu vực kênh Bến Nghé – Tàu
Hủ, Lăng tả quân Lê Văn Duyệt, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, Bảo tàng Mỹ thuật
Tp. Hồ Chí Minh;
Tìm hiểu kinh nghiệm tổ chức dạy và học tại Tp. Hồ Chí Minh tại Trường Phổ thông
Năng khiếu, Trường PTTH Lê Hồng Phong; Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh;
Tìm hiểu tín ngưỡng dân gian tại Miếu Tuệ Thành; văn hoá Phật giáo tại các chùa Hội
Khánh (Bắc Tông, Bình Dương), Tây Tạng (Phật giáo Tây Tạng, Bình Dương), Bửu
Long (Nam Tông, Quận 9-Tp.Hồ Chí Minh), văn hoá Nho giáo Việt Nam và Nam Bộ
tại Văn miếu Trấn Biên;
Tìm hiểu các nghề thủ công mỹ nghệ dân gian (lò lu Đại Hương, làng sơn mài Tương
Bình Hiệp, công ty gốm sứ Minh Long);
(2) Chuyến giao lưu, học tập thực tế tại Khu Di tích Gò Tháp: tổ chức vào ngày
29/11/2014 nhằm các mục tiêu: cung cấp phương pháp luận và các kỹ năng tổ chức cho học
sinh đi học tập thực tế; các kỹ năng sinh hoạt tập thể; kỹ năng sử dụng trò chơi trong giảng dạy
các môn KHXH; tìm hiểu Quần thể di tích Gò Tháp và Văn hóa Óc Eo; tăng cường tinh thần
làm việc nhóm giữa các giáo viên PTTH, PTCS tỉnh Đồng Tháp.
(3) Chuyến học tập thực tế Biển Tây Nam Bộ - giáo dục Biển Đảo Việt Nam: sẽ tổ chức vào
tháng 7 năm 2015 tại Rạch Giá – quần đảo Nam Du tỉnh Kiên Giang. Mục tiêu chính: tìm hiểu
đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội cư dân vùng biển đảo; bổ sung tri thức và kỹ năng giáo dục
kiến thức biển đảo Việt Nam; chia sẻ kinh nghiệm trong đổi mới PP giáo dục v.v..
* Nhóm hoạt động 4: Xây dựng bộ học liệu phục vụ đổi mới PP giảng dạy: bao gồm (1)
bộ học liệu chung (sách, báo chí (giấy, mạng), dụng cụ học tập, các phần mềm ứng dụng kỹ
thuật trong giảng dạy; (2) 4 bộ học liệu riêng của 4 bộ môn Ngữ văn, Địa, GDCD, Sử. Thực
hiện vào tháng 3-4/2015.
24
* Nhóm hoạt động 5: Đào tạo cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Đồng Tháp (bậc thạc sỹ):
bao gồm (1) định hướng, tư vấn đào tạo cao học ngành Giáo dục học; (2) thiết kế và tổ chức
các lớp tập huấn phục vụ kỳ thi tuyển sinh Sai Đại học; (3) bồi dưỡng ngoại ngữ cho học viên:
tổ chức từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 4 năm 2016.
b. Thành quả bước đầu
Kế hoạch có thời hạn 2 năm (2014-2016), đã được triển khai 6 tháng, bước đầu đạt được
những thành tựu quan trọng, khẳng định tính đúng đắn của kế hoạch được triển khai trên thực
tế, đồng thời thể hiện xu hướng gắn kết nghiên cứu lý luận và thực tiễn của Trường Đại học
KHXH&NV ngày càng có hiệu quả. Kế hoạch này được triển khai tại Đồng Tháp cho đến nay
là kế hoạch lớn, có hệ thống duy nhất được triển khai trên cả nước, được khẳng định là “bản
sắc Đồng Tháp” (như trong các nhận định, phát ngôn của cán bộ Sở Giáo dục – Đào tạo Đồng
Tháp). Sauk hi triển khai các lớp tập huấn tập trung tại ba địa bàn Tp. Cao Lãnh, Tp. Sa Đéc và
TX. Hồng Ngự, Ban chủ nhiệm kế hoạch đã tổ chức lấy phiếu thăm dò của một lớp (lớp Hồng
Ngự), kết quả cho thấy 100% các phiếu đánh giá tính đúng đắn và tầm quan trọng của kế hoạch
triển khai; 100% cảm thấy hài lòng về việc tổ chức lớp tập huấn gần 2 tháng tại Đồng Tháp;
98% hài lòng về nội dung tập huấn; 34/36 chuyên đề được triển khai trong các lớp tập huấn
được đánh giá tốt và xuất sắc; 2/36 chuyên đánh giá ở mức trung bình-khá.
Tương tự, chuyến đi thực tế và học tập kinh nghiệm tại Tp. Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ
được đánh giá là hết sức lý thú, bởi chuyến đi đã tạo điều kiện cho giáo viên tỉnh Đồng Tháp
tiếp xúc, tiếp cận thực tế ngành giáo dục các địa phương Đông Nam Bộ, đồng thời trực tiếp
học hỏi các tri thức lịch sử - văn hóa – xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ, đã bổ
sung góc nhìn liên ngành cho từng giáo viên tỉnh Đồng Tháp.
Trong các buổi tọa đàm về việc Ứng dụng các phương pháp giảng dạy mới các môn KHXH
và Xây dựng phương pháp kiểm tra, đánh giá tại tỉnh Đồng Tháp, nhiều ý kiến của giáo viên
địa phương đã bày tỏ tính hiệu quả của việc ứng dụng các phương pháp mới tại tỉnh nhà sau
thời gian tập huấn tập trung, đồng thời cũng đề xuất bổ sung nhiều chuyên đề hữu ích bổ sung
thêm vào kế hoạch đổi mới PPGD các môn KHXH tại tỉnh Đồng Tháp.
Trên tờ Dân trí ngày 3 tháng 11 năm 2014, TS. Hồ Văn Thống (Giám đốc Sở Giáo dục –
Đào tạo tỉnh Đồng Tháp) đã khẳng định: “Với cách tiếp cận mới về quan điểm giáo dục toàn
diện, học sinh phải được tạo môi trường học tập thuận lợi để phát huy năng lực sở trường của
mình theo định hướng nghề nghiệp. Bộ GDĐT đã chỉ đạo các trường THPT đổi mới phương
pháp dạy học, thi, kiểm tra đánh giá môn học theo hướng đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức
tổng hợp, liên môn để làm bài, giải quyết các vấn đề liên quan đến thực tiễn cuộc sống. Các
25
môn KHXH như Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí đã được ra theo hướng mở để khắc phục tình trạng
bắt học sinh học thuộc lòng, đồng thời huy động kiến thức tổng hợp, liên môn và vốn sống của
học sinh vào việc làm bài (chẳng hạn, trong đề thi Ngữ văn có kiến thức về Lịch sử, Địa lí,
Giáo dục công dân và ngược lại).”
4. NHỮNG THÁCH THỨC TIÊU BIỂU VÀ CÁC NHÓM GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
a. Những thách thức tiêu biểu
Sự nghiệp đào tạo và NCKH phục vụ cộng đồng là mục tiêu sống còn của Nhà trường, dù
đã được đặc biệt quan tâm đầu tư song những kết quả đạt được còn vướng mắc nhiều hạn chế.
Trên đại thể các vướng mắc ấy bắt đầu từ những hạn chế khách quan và chủ quan.
Những hạn chế khách quan đầu tiên phải kể đến sự mất cân đối trong phân bổ ngân sách
nhà nước dành cho KHXH&NV từ ĐHQG-HCM. Đơn cử năm học 2014-2015, ĐHQG-HCM
giao tổng cộng 56,51 tỷ đồng cho KHCN các trường/viện thành viên, số kinh phí dành cho lĩnh
vực KHXH&NV là 2,450 tỷ đồng, tương đương 1/4 của KH tự nhiên, bằng 1/5 của lĩnh vực kỹ
thuật. Sự thiếu hụt về nguồn kinh phí dành cho NCKH đã dẫn đến hiện trạng ít đề tài được giao
nhiệm vụ, kinh phí dành cho mỗi đề tài ít, không đủ trang trải cho các hoạt động nghiên cứu, ít
nhiều hạn chế đến đầu ra của công tác nghiên cứu. Thứ hai là sự thâm hụt ngân sách dành cho
hoạt động trong toàn trường do Nhà nước hạn định mức thu học phí của sinh viên dẫn đến sự
hạn chế trong đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo cũng như nguồn kinh phí
dành cho đào tạo. Thứ ba là sự thiếu cân bằng trong cách nhìn nhận, đánh giá của xã hội giữa
lĩnh vực KHXH&NV và các lĩnh vực khác như kinh tế, kỹ thuật, y tế.., dẫn đến tình trạng một
số ngành đào tạo thuộc khối KHXH&NV chưa thu hút đầu vào của sinh viên, song song đó
mức đầu tư của xã hội cho các kế hoạch nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng trong lĩnh
vực này cũng không nhiều. Trung bình mức đầu tư kinh phí của các Sở KHCN các địa phương
dành cho lĩnh vực này chỉ vào khoảng 10-20% tổng ngân sách dành cho KHCN hang năm.
Những thách thức mang tính chủ quan bao gồm yếu tố tính chất đào tạo và nghiên cứu,
giữa chất lượng cán bộ giảng dạy và nghiên cứu, chất lượng sản phẩm đào tạo và nghiên cứu
và ứng dụng xã hội vẫn còn một khoảng cách đáng kể. Có một thực tế là một số nghiên cứu cơ
bản tại Nhà trường chưa đạt đến mục tiêu xây dựng định hướng phát triển xã hội, tính phản
biện xã hội chưa cao, do vậy sản phẩm nghiên cứu gặp phải hạn chế trong tiếp cận xã hội, các
cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương không tìm thấy ở các công trình này sự an tâm trong
triển khai ứng dụng. Thêm vào đó, một số chương trình đào tạo còn mang tính hàn lâm, yếu tố
đào tạo nghề chưa cập nhật, dẫn đến tình trạng “đào tạo lại” sau khi sinh viên ra trường tìm
việc. Thứ hai là số các công trình NCKH ứng bám sát vào nhu cầu phát triển xã hội chưa
26
nhiều, quy mô nhỏ lẻ, thiếu tính hệ thống nên hiệu quả và tác dụng xã hội chưa cao. Thứ ba,
lực lượng giảng dạy và nghiên cứu còn thiếu, chất lượng chưa đồng đều, đầu tư dàn trải, chưa
hình thành tính hệ thống nên chưa phát huy giá trị của hệ thống đào tạo và các công trình
NCKH phục vụ xã hội. Thứ tư là sự gắn kết giữa Nhà trường với nhà tuyển dụng và các cơ
quan triển khai ứng dụng chưa chặt chẽ, dẫn đến hiện tượng kết nối còn lỏng lẻo, chưa phát
huy hết hiệu quả đào tạo và nghiên cứu.
b. Nhóm giải pháp xây dựng các nhóm nghiên cứu gắn kết nghiên cứu hàn lâm và ứng
dụng
Việc xây dựng các nhòm nghiên cứu đã được phát động tại Trường ĐHKHXH&NV nhiều
năm trước, được Nhà trường tạo điều kiện đăng ký và triển khai các nhiệm vụ KHCN các cấp,
các địa phương, qua đó các thành viên có điều kiện gắn kết trong nghiên cứu đồng thời các
giáo sư đầu ngành có thể triển khai đào tạo các thế hệ tiếp nối. Dưới đây là các nhóm nghiên
cứu tiêu biểu trong Trường ĐHKHXH&NV:
Nhóm nghiên cứu Lịch sử - Khảo cổ học
Đây là một nhóm nghiên cứu có truyền thống lâu đời và có những thành tích quan trọng
trong lịch sử xây dựng và phát triển Nhà trường. Các hoạt động KHCN của nhóm nghiên cứu
này đã đào tạo một lực lượng đông đảo các nhà khoa học tiến bộ trong và ngoài trường, đã làm
chủ nhiệm hoặc làm thành viên của rất nhiều dự án, đề tài nghiên cứu khoa học các cấp; trong
đó có rất nhiều công trình đặt hàng hay qua đấu thầu tại các Sở KHCN các địa phương từ Nam
Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Đứng đầu nhóm nghiên cứu này phải
kể đến PGS.TS. Võ Văn Sen, PGS.TS. Hà Minh Hồng, TS. Lê Hữu Phước, PGS.TS. Đặng Văn
Thắng, PGS.TS. Phạm Đức Nhiều nhà nghiên cứu trong nhóm này là thành viên chủ chốt của
Hội nghiên cứu lịch sử Tp. Hồ Chí Minh. Hiện tại Khoa Lịch sử và các đơn vị có liên quan
đang tích cực đào tạo cán bộ trẻ hay gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài để tiếp nối truyền
thống. Nhóm nghiên cứu Lịch sử - Khảo cổ học đang triển khai các nhiệm vụ quan trọng có ý
nghĩa khoa học lẫn thực tiễn cao như Nghiên cứu di sản văn hoá Óc Eo – Phù Nam; Nghiên
cứu liên ngành những vấn đề kinh tế văn hoá xã hội Óc Eo-Thoại Sơn; Di sản văn hoá quần thể
Nam Cát Tiên; các di sản văn hoá khảo cổ Óc Eo – Phù Nam tại các tỉnh ĐBSCL; Nghiên cứu
lịch sử - văn hoá – xã hội Nam Bộ; Lịch sử các vùng đất Nam Bộ như Hà Tiên, Đồng Tháp,
Cần Thơ, Bình Dương, Bình Phước v.v.; Lịch sử biển đảo Việt Nam (Bà Rịa Vũng Tàu..).
Nhóm NC Nhân học
Nhóm NC Nhân học là một trong các nhóm nghiên cứu mạnh tại Trường Đại học
KHXH&NV, do GS.TS. Ngô Văn Lệ làm đầu tàu. Đội ngũ cán bộ đông đảo, được đào tạo bài
27
bản, có kinh nghiệm nghiên cứu và giỏi ngoại ngữ. Hướng nghiên cứu tập trung bao gồm tri
thức bản địa các cộng đồng tộc người bản địa và các nhóm cư dân địa phương ở Tây Nguyên,
Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Các đề tài nghiên cứu điển hình có: Đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo
và sinh hoạt văn hoá của các cộng đồng dân cư Nam Bộ; Những vấn đề văn hoá, xã hội của cư
dân vùng biển Nam Bộ; Những biến đổi xã hội của nông dân người Việt trong quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long; Tri thức bản địa của các dân
tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ trong tiến trình trình phát triển xã hội tộc người; Tri thức
bản địa của các dân tộc thiểu số ở Đông Nam Bộ trong tiến trình phát triển xã hội tộc người;
Hoạt động thương hồ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long: truyền thống và biến đổi; Tri thức bản
địa của các tộc người thiểu số tại chỗ tỉnh Đăk Nông trong tiến trình phát triển xã hội tộc
người; Hiện trạng, mức độ tiếp cận phúc lợi xã hội của công nhân tỉnh Bình Dương và đề xuất
mô hình hợp lý; Đời sống kinh tế- văn hóa- xã hội của cư dân vùng biển, đảo Nam Bộ v.v..
Nhóm Nghiên cứu Văn hoá
Nhóm NC Văn hoá do GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm làm đầu tàu đã tiến hành nghiên cứu
các vấn đề lý luận văn hoá học, văn hoá vùng miền và hệ giá trị văn hoá Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới. Nhóm nghiên cứu này đã công bố nhiều chuyên khảo quan trọng làm cơ sở khoa
học cho công tác hoạch định chính sách nhà nước trong phát triển văn hoá. Các đề tài chính có
Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; Văn hóa
người Việt miền Tây Nam bộ; Phát triển du lịch sinh thái và làng nghề tỉnh Bình Dương; Tín
ngưỡng thờ Thiên Hậu miền Tây Nam Bộ v.v.. Nhóm nghiên cứu này có mối quan hệ hợp tác
học thuật quốc tế khá tốt, là điều kiện quan trọng để giao tiếp, mở rộng nghiên cứu và công bố
khoa học. Trong thời gian vừa qua, nhiều cán bộ trẻ được đào tạo ở hai cấp thạc sĩ và tiến sĩ đã
hoàn thiện, hứa hẹn một tươi lại tốt đẹp cho sự nhiệp nghiên cứu văn hóa trong tương lai.
Nhóm NC Xã hội học – Công tác xã hội
Nhóm NC tập trung các nhà khoa học, nhà nghiên cứu Khoa Xã hội học, Khoa Công tác
Xã hội và các đơn vị có liên quan họp thành. Đội ngũ nghiên cứu khá đông đảo, ngoại ngữ và
kinh nghiên cứu phong phú, nhu cầu xã hội trong nghiên cứu những vấn đề đang nổi bật của xã
hội như vấn đề đô thị hoá và đời sống công nhân, đời sống các khu dân cư và đời sống ngoại
thành, nghèo nông thôn – thực trạng và giải pháp; An sinh xã hội hướng đến sự phát triển bền
vững; vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở các địa phương v.v.. Các chương trình hợp tác quốc tế
điển hình có thể kể: Chương trình thăng tiến giáo dục công tác xã hội) phối hợp với ĐH San
Jose State (Hoa Kỳ) do Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ; Chương trình "HEIP-Link, vai trò của các
viện nghiên cứu cấp cao trong quản lý sở hữu trí tuệ trong quá trình đổi mới và cải tiến tại các
28
nước Mỹ Latinh, châu Á và châu Âu" do Quỹ ERASMUS MUNDUS, EU tài trợ; Dự án
“Chương trình nghiên cứu liên ngành về nghèo dựa trên khả năng tiếp cận” Đại học Tokyo,
Nhật Bản triển khai; chương trình “Xây dựng và nâng cao năng lực đồng tham gia cho cộng
đồng và chính quyền địa phương trong việc cải thiện môi trường sống khu dân cư nghèo ở TP.
Hồ Chí Minh” do Rosa Luxemburg tài trợ; chương trình “Tập huấn về học tập và mạng lưới
phục vụ” (Service– Learning)” năm II do tổ chức United Board tài trợ v.v.. Nhóm nghiên cứu
XHH-CTXH đã công bố rất nhiều ấn phẩm khoa học phục vụ phát triển xã hội tại Tp.HCM và
nhiều tỉnh thành Nam Bộ.
Nhóm nghiên cứu Triết học
Nhóm nghiên cứu do các PGS. Vũ Văn Gầu, PGS.TS. Trịnh Đoãn Chính làm nòng cốt,
đã chủ động nghiên cứu các vấn đề lý luận của triết học Việt Nam và thế giới; nghiên cứu và
giới thiệu triết học tân tiến của thế giới vào Việt Nam nhằm mục đích phục vụ sự phát triển tư
tưởng xã hội. Bên cạnh đó, nhóm cũng rất quan đếm đến các nghiên cứu phục vụ xã hội gắn
với các bình diện củ thể như những vấn đề về lối sống và tư duy của cộng đồng người Việt
vùng Đông Nam bộ nói riêng, Nam Bộ nói chung trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế
hiện nay đã gúp nhận diện lối sống, nhận thức, tư duy của cộng đồng người Việt Nam bộ.
Đồng thời, nhóm cũng hết sức quan tâm đến mối quan hệ và vai trò của lối sống và tư duy
người Việt đối với những vấn đề đang đặt ra ở vùng Nam bộ trong sự đổi mới, phát triển và hội
nhập quốc tế. Nhóm đã xuất bản rất nhiều sách chuyên khảo, tham khảo và tham gia đào tạo
nhiều tiến sỹ, thạc sỹ cho xã hội.
Nhóm NC Tôn giáo
Đây là một nhóm nghiên cứu mạnh của Nhà trường, tập trung nhiều nhà nghiên cứu có
kinh nghiệm, do PGS.TS. Trương Văn Chung lãnh đạo. Nhóm xây dựng mối quan hệ học thuật
và xã hội rộng rãi, chủ động tìm kiếm các nguồn lực phục vụ nghiên cứu và công bố khoa học.
Nhóm Nghiên cứu Tôn giáo đã làm lực lượng nòng cốt trong tổ chức và thảo luận các vấn đề
của tôn giáo trong nhiều hội thảo chuyên môn, chẳng hạn “Phật giáo nguyên thuỷ”, “Hội thảo
khoa học chào mừng Đại lễ VESAK 2014”, một số hội thảo tại Kiên Giang, Bà Rịa – Vũng
Tàu v.v.. Nhóm đã xuất bản nhiều ấn phẩm chuyên khảo, các kỷ yếu hội thảo khoa học làm nền
tảng khoa học quan trong cho việc nâng cao nhận thức và đề xuất các chính sách nhà nước
trong hoạt động tôn giáo. Trong thời gian qua nhóm đã tiến hành nghiên cứu các đề tài liên
quan trực tiếp đến các trào lưu tư tưởng tôn giáo hiện tại ở Nam Bộ. Các đề tài điển hình Hiện
tượng tôn giáo mới và những vấn đề về chính sách và công tác tôn giáo Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay v.v.. Bên cạnh đó, để phát triển lực lượng nghiên cứu kế thừa, Nhà trường đang
29
thực hiện dự án “Thành lập Bộ môn Tôn giáo học và Trung tâm Tôn giáo học” do Tổ chức
Missio (Đức) tài trợ.
Nhóm NC Địa lý môi trường – Bản đồ viễn thám
Nhóm nghiên cứu này tập trung chủ yếu ở các đơn vị Khoa Địa lý, Trung tâm Nghiên cứu
Biển và Đảo cùng một số nhà khoa học liên ngành khác. Trong thời gian vừa qua, nhóm đã tập
trung nghiên cứu các vấn đề: Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sinh thái tác động đến tiến
trình lịch sử và đặc trưng văn hóa Nam Bộ; Nâng cao năng lực tham gia của cộng đồng trong
các hoạt động nâng cấp hạ tầng đô thị; Hoạt động nuôi trồng thủy sản tại Cần Giờ trong định
hướng bảo vệ môi trường; Xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù cho khu vực phía Nam;
Thiết kế và biên tập bản đồ giáo khoa phục vụ công tác giảng dạy tại Khoa Địa lý - Trường
ĐHKHXH&NV; Vấn đề ngập nước, nhiệt độ tăng và các bệnh tật; thực trạng và định hướng
phát triển kinh tế trang trại; Đánh giá rủi roc ho các khu du lịch sinh thái; Sử dụng bản đồ trong
NCKH v.v..
Nhóm NC Văn học – Ngôn ngữ học - Hán Nôm
Nhóm nghiên cứu này bao hàm nhiều nhà khoa học hàng đầu như GS.TS Huỳnh Như
Phương, PGS.TS Đoàn Lê Giang, PGS.TS Võ Văn Nhơn,… Nhóm này đã khảo sát, đánh giá,
bảo tồn di sản văn học Nam Bộ 1930-1945; Mối liên hệ văn học Mỹ – Anh; Thi Pháp học với
việc nghiên cứu tác phẩm và loại thể văn học; Nghiên cứu thành tựu văn học Việt Nam bằng
tiếng Pháp của các tác giả Việt Nam; Từ điển ẩn dụ, hoán dụ tiếng Việt; Thể loại, khuynh
hướng và các tác giả văn học Việt Nam tiêu biểu từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV; Ngôn ngữ báo
chí tiếng Việt; Thể loại văn xuôi trong văn học phương Tây; Nghệ thuật truyền thống Nam Bộ:
thành tựu và triển vọng nghiên cứu; Chữ Nôm Nam Bộ; Nghiên cứu và dịch thuật về Gia Định
tam gia, về Phan Thanh Giản; Nghiên cứu đối sánh các tác phẩm văn học kinh điển; nghiên
cứu địa danh Nam Bộ; Các lý thuyết văn học Phương Tây vào Miền Nam Việt Nam giai đoạn
1945-1975; Văn học Hán -Nôm Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX sưu tầm, phiên
dịch và nghiên cứu; Hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình Văn học quốc ngữ ở Nam Bộ
trước 1954; Nghiên cứu loại hình các khuynh hướng và trào lưu văn học v.v.. Ngoài ra, nhóm
đã thực hiện việc nghiên cứu về sưu tầm, khảo sát và đánh giá văn học Nam bộ 1945 – 1954
nhằm giúp nghiên cứu sự đóng góp và những thành tựu của văn học Nam bộ giai đoạn 1945 –
1954 trong sự hình thành và phát triển một nền văn học mới, đặc biệt là văn học kháng chiến
chống Pháp. Thông qua các công trình nghiên cứu, nhóm đã xuất bản rất nhiều sách chuyên
khảo, sách tham khảo, kỷ yếu hội thảo cùng hang loạt các bài viết có giá trị trên các tạp chí
chuyên ngành; tham gia đào tạo nhiều tiến sĩ, thạc sĩ phục vụ xã hội.
30
Nhóm NC Việt Nam học
Là một đơn vị đào tạo ngành Việt Nam học quan trọng của cả nước, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn rất quan tâm đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ tham gia nhóm nghiên
cứu Việt Nam học. Với tính đặc thù liên ngành, khoa học Việt Nam học càng được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Hiện tại Nhóm NC Việt Nam học của Trường quy tụ hầu hết các giảng
viên, nhà nghiên cứu của khoa Việt Nam học cùng đội ngũ cán bộ nghiên cứu có kinh nghiệm
từ nhiều lĩnh vực, khoa/Bộ môn khác cùng cộng tác nghiên cứu. Trong thời gian qua, nhóm đã
triển khai nhiều nghiên cứu có giá trị về cư dân vùng biển, các lễ hội dân gian khu vực Trung
Bộ và Nam Bộ, các làng nghề truyền thống, ngôn ngữ và văn hóa Nam Bộ v.v. Đặc biệt, thành
phần nòng cốt của nhóm nghiên cứu này còn tham gia giảng các chuyên đề trực tiếp cho người
nước ngoài, do vậy, thành viên của nhóm dễ dàng nắm bắt xu thế và thành tựu nghiên cứu của
khu vực và thế giới. Trong hai năm vừa qua, đơn vị Khoa Việt Nam học đã đầu tư xuất bản hai
tuyển tập nghiên cứu Việt Nam học và chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn (Tạp chí Phát
triển Khoa học và Công nghệ), tạo đòn bẩy để thúc đẩy nghiên cứu sâu và cao hơn trong lĩnh
vực Việt Nam học.
Nhóm NC Khu vực học
Khu vực học với các phân ngành Đông Á học (Trung Quốc học, Nhật Bản học, Hàn Quốc
học), Đông Nam Á học, Nam Á học, Tây Á học, Úc học v.v. là một trong những mũi nhọn của
Trường Đại học KHXH&NV. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu này được quan tâm đầu tư, đã
thực sự thu hút lực lượng nghiên cứu đông đảo, trong đó có nhiều chuyên gia đầu ngành như
PGS.TS. Nguyễn Tiến Lực, PGS.TS. Phan Thị Thu Hiền, PGS.TS. Trần Thị Thu Lương v.v..
Trong nhiều năm qua, nhóm nghiên cứu này rất qua tâm hướng nghiên cứu so sánh văn hóa,
kinh tế, văn học giữa Việt Nam và khu vực nhằm xác định rõ đặc trưng văn hóa khu vực (quốc
gia, dân tộc) phục vụ cho công cuộc phát triển xã hội, nhất là khu vực phía Nam. Các đề tài
điển hình đã và đang triển khai chủ yếu thuộc các khía cạnh so sánh tính cách văn hóa, đặc
trưng văn hóa và cung cách ứng xử, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa trong khu vực,
bản sắc văn hóa, phát triển tài nguyên giảng dạy và nghiên cứu văn học, phát triển kinh tế,
quan hệ quốc tế trong khu vực v.v..
Nhóm NC Đô thị học
Đô thị học là một khoa học đặc hữu của Trường ĐHKHXH&NV, do PGS.TS. Nguyễn
Minh Hoà làm chủ nhiệm, chính vì vậy Nhóm Nghiên cứu Đô thị học rất được Nhà trường
quan tâm thúc đẩy nghiên cứu, phục vụ xã hội. Các hướng nghiên chính của nhóm bao gồm
Quy hoạch đô thị - quy hoạch vùng; Nghèo đô thị; Ngập nước đô thị; Không gian giao tiếp đô
31
thị; Đô thị hoá và biến đổi môi trường v.v.. Hiện tại lực lượng cán bộ trẻ đang được tích cực
đào tạo để tiếp nối hoạt động của nhóm nghiên cứu trong tương lai gần.
c. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách
Trong thời gian vừa qua, Bộ GD&ĐT đã đưa ra 9 ưu tiên phát triển giáo dục đại học Việt
Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 bao gồm (1) xây dựng các kế hoạch đào tạo theo
chương trình tiên tiến; (2) khởi động và thúc đẩy đào tạo theo nhu cầu xã hội; (3) đào tạo và
bồi dưỡng hiệu trưởng các trường ĐH-CĐ; (4) xây dựng một số chương trình đào tạo định
hướng nghề nghiệp và ứng dụng; (5) đào tạo 20.000 tiến sĩ làm giảng viên các trường ĐH-CĐ
đến năm 2020; (6) xây dựng giáo trình điện tử, phát triển và hoàn thiện trang học liệu mở; (7)
triển khai chương trình 10 năm tiếng Anh trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam; (8) xây
dựng những đại học đẳng cấp quốc tế; phân tầng hệ thống nhà trường, điều chính cơ cấu trình
độ (theo Báo Văn hóa, 2009). Bên cạnh, cơ quan này cũng đã lập dự thảo Quy định chính sách
đầu tư, chế độ đãi ngộ nhằm thu hút các nhà khoa học nước ngoài và người Việt Nam ở nước
ngoài tham gia hoạt động tài trợ, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
trong các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam.
Hội nghị Thế giới về giáo dục đại học (8/7/2009) tại UNESCO Paris đã khẳng định “giáo
dục đại học, với tư cách là một lợi ích công, là trách nhiệm của tất cả các tổ chức, cá nhân có
liên quan, đặc biệt là các chính phủ”. Hội nghị này nhận định rằng giáo dục đại học đang
chuyển động dưới tác động của những động lực mới. Những động lực ấy gồm: (1) Sự gia tăng
nhu cầu giáo dục đại học; (2) sự cần thiết của việc phân loại trường đại học; (3) hợp tác giữa
các trường cùng với quá trình liên kết mạng lưới; (4) nhu cầu học tập suốt đời của người dân;
(5) tác động mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông; (6) trách nhiệm xã hội của các
trường đại học; (7) sự thay đổi trong vai trò của Chính phủ (theo Phạm Đỗ Nhật Tiến 2009).
Với thực cảnh ấy, hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học ở Việt Nam rõ ràng đang đứng trước
những triển vọng to lớn cùng với muôn vàn thử thách. Tuy những động lực nói trên đã được
đặt ra trong Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, nhưng chưa được
quan tâm đúng mức. Do vậy, chủ trương đã có, bước kế tiếp là triển khai sao cho có hiệu quả.
Theo khảo sát của các tác giả hội nghị nói trên, hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học trên
thế giới trong mười năm gần đây phát triển mạnh mẽ và mang hai đặc trưng cơ bản, gồm (1) sự
dịch chuyển xuyên biên giới vốn có từ lâu của cả người dạy lẫn người học đã kéo theo sự dịch
chuyển xuyên biên giới của các chương trình giáo dục và nhà cung ứng giáo dục; và (2) bên
cạnh sự dịch chuyển xuyên biên giới theo cơ chế phi thương mại (thông qua hợp tác quốc tế
với các dự án ODA và liên kết đào tạo) đã hình thành và phát triển sự dịch chuyển xuyên biên
32
giới theo cơ chế thương mại (Phạm Đỗ Nhật Tiến 2009). Chính vì thế, các cơ chế, chính sách
nhà nước dành cho giáo dục đại học phải nắm bắt xu thế này, chủ động tạo hành lang thông
thoáng cho một “thị trường” giáo dục đại học vốn hết sức đặc thù này. Theo đó, Bộ GD-ĐT
nghiên cứu và trình chính phủ ban hành các luật định cho phép các đại học:
* Tăng cường hợp tác quốc tế (theo quy định của Luật Giáo dục 2005), tập trung vào các
lĩnh vực ưu tiên là nâng cao năng lực quản trị đại học, nâng cao chất lượng giáo dục và nghiên
cứu khoa học, nâng cao năng lực hợp tác và cạnh tranh thông qua các cơ chế mở và chính sách
ưu tiên về tài chính;
* Đẩy mạnh liên kết đào tạo quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ các
quỹ nước ngoài, vốn ODA, thu hút các chuyên gia nước ngoài và người Việt Nam ở nước
ngoài đến Việt Nam làm việc qua chính sách khuyến tài của quốc gia.
* Đặc biệt chú ý đến những nhân tố mới phát sinh của cơ chế thương mại trong giáo dục
đại học, mạnh dạn cho phép các trường chủ động và tích cực tham gia thương mại dịch vụ giáo
dục có yếu tố liên kết quốc tế.
Trên thực tế, ở nhiều nước đang hình thành một thị trường giáo dục gần đúng, thường được
gọi là chuẩn thị trường (quasi-market) (Phạm Đỗ Nhật Tiến 2009). Việt Nam đang trong quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đại học Việt Nam dù sớm dù muộn đều phải chung
một dòng chảy của thế giới, vì vậy nhận thức về vai trò, trách nhiệm của đại học Việt Nam cần
được đặt trong bối cảnh chung của thế giới. Trong xu hướng chung ấy, đại học Việt Nam cần
được xem như một thực thể kinh tế đặc thù, vừa thế hiện vai trò điều tiết tri thức xã hội vừa
mang tính năng kinh tế. Nhà nước phải công nhận rằng các đại học tự thân nó đã là một đơn vị
xã hội - kinh tế, sự vận hành và quá trình nâng cao chất lượng của nó phải phù hợp với cơ chế
kinh tế thị trường của toàn bộ hệ thống xã hội.
Lớp nghiệp vụ báo cáo viên, tuyên truyền miệng năm 2013 tại Cần Thơ
33
Trước mắt, giáo dục đại học Việt Nam cần đạt các mục tiêu là cung cấp dịch vụ đào tạo tại
chỗ mang tầm khu vực và quốc tế, hình thành các mạng lưới liên kết đào tạo và xây dựng
không gian giáo dục mở. Ở một chừng mực nào đó, giáo dục Việt Nam cần chấp nhận cơ chế
thị trường trong giáo dục và chuyển sang mô hình cung ứng chuẩn thị truờng. Nói cách khác,
Việt Nam cần hoàn chỉnh hệ thống chính sách của Nhà nước về vấn đề hợp tác quốc tế trong
giáo dục đào tạo, đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao trong các lĩnh vực khoa học
và công nghệ theo hướng nâng cao tính công bằng, khách quan trong tuyển chọn, đào tạo và sử
dụng theo đúng yêu cầu thực tế của xã hội Việt Nam hiện nay.
- Nhóm giải pháp đổi mới tư duy và phương pháp giáo dục
Thế kỷ XXI đang chứng kiến những thay đổi mạnh mẽ về sự đa dạng văn hoá, bùng nổ thông
tin, kiến thức và công nghệ cao, đã và đang mang lại những cơ hội “vô tiền khoán hậu” và kèm
theo là muôn vàn những thách thức, trực tiếp tạo ra sức ép và sự kích thích cho hệ thống giáo
dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng, buộc hệ thống này phải hướng tới mục tiêu cung cấp
cho xã hội những con người có những khả năng phù hợp yêu cầu thời đại mới gồm tinh thần
nhóm, tư duy sáng tạo, hàm dưỡng đầy đủ tài, trí và đức để tham gia sâu hơn vào một thị
trường cung ứng nhân lực với tiêu chuẩn ngày càng cao.
Trong bối cảnh ấy, chỉ đầu tư cho phương tiện kỹ thuật nâng cao hiệu quả giảng dạy không
thôi là chưa đủ, bởi cái cốt lõi là phải thay đổi trong tư duy giáo dục, quan niệm về mục tiêu,
yêu cầu, nội dung đào tạo của trường đại học, từ đó thay đổi cách dạy - học, cách tổ chức đánh
giá - thi cử và quản trị đại học. Bàn về thay đổi tư duy giáo dục, giáo sư Arne Carlsen (BI) tập
trung vào nhiều vấn đề, trong đó có:
Xây dựng chương trình đào tạo tiên tiến theo chuẩn quốc tế cho mọi lứa tuổi trong đó
chú trọng giáo dục kiến thức và nhân cách cho sinh viên, coi trọng và đảm bảo chất lượng đầu
ra; rút ngắn chương trình đào tạo nếu có thể, coi trọng việc “học tập suốt đời”;
Xây dựng một số chương trình đào tạo định hướng nghề nghiệp và ứng dụng đạt chuẩn,
liên kết đào tạo với các doanh nghiệp, thực hiện “thương mại hóa” giáo dục đại học và tăng sức
cạnh tranh;
Liên kết đào tạo với các trường uy tín trên thế giới, qua đó nâng cao uy tín của đơn vị
và cải cách chương trình đào tạo đơn vị mình;
- Nhóm giải pháp nâng cao nghiên cứu khoa học và công bố khoa học
Các trường đại học cần chủ động chính sách khuyến khích hợp tác quốc tế trong nghiên
cứu khoa học bằng các hình thức mời gọi tham gia đội nghiên cứu, mở hội thảo, tọa đàm, lớp
chuyên tu; khuyến khích nhà nghiên cứu ra nước ngoài nghiên cứu, giảng dạy, tham dự hội
34
nghị - hội thảo v.v. để tiếp tục cọ sát, qua đó có thể nhận thức đầy đủ mô hình hoạt động của
một đại học tiên tiến. Các nhà khoa học nên cập nhật thông tin khoa học bằng cách thường
xuyên tìm kiếm các cơ sở dữ liệu quốc tế, đọc các trích yếu để có cái nhìn tổng quan, vừa là
tìm các đối tượng nghiên cứu mà thế giới quan tâm để được hội nhập.
Trường đại học cần tiếp tục hành trình tiếp cận với các chuẩn quốc tế trong nghiên cứu và
công bố khoa học, nâng cao năng lực cạnh tranh. Thay vì với một tâm lý ngại trở lực, các đại
học, các nhà khoa học cần chủ động tìm kiếm cơ hội công bố, đa dạng hóa các hình thức công
bố quốc tế. Bàn về kinh nghiệm thế giới, GS. Nguyễn Văn Tuấn (Đại học New South Wales,
Australia) thì “đề nghị nên thưởng cho nhà khoa học có công trình công bố trên những tập san
quốc tế có tác động cao. Một cách khuyến khích khác là đặc cách, đề bạt nhà khoa học khi có
công trình công bố quốc tế chất lượng cao, hoặc đặt công bố quốc tế như một tiêu chuẩn chính
để xét danh hiệu học hàm, học vị” (Hương Thu 2013).
- Nhóm giải pháp đặc thù của Trường ĐHKHXH&NV
Là hai hệ thống đại học hàng đầu Việt Nam theo hướng đại học nghiên cứu (research
university), Trường ĐHKHXH&NV cần đòi hỏi có cơ chế chính sách riêng trong cơ chế vận
hành để đảm bảo đầy đủ các tiêu chí của GATS trong xây dựng mô hình đại học hàng đầu
trong khu vực.
Trong quản trị đại học, Trường ĐHKHXH&NV cần hoàn chỉnh hóa toàn bộ hệ thống sao
cho có thể phát huy sức mạnh hệ thống như đã cam kết trong tầm nhìn, sứ mạng củ mình. Bàn
về xu hướng phát triển các đại học đa ngành, GS Arne Carlsen (BI) cho rằng các quốc gia
muốn đẩy mạnh hợp tác quốc tế và nâng cao chất lượng đều cần phải “cải cách các trường đại
học đơn ngành thành các trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực bằng cách sáp nhập hoặc nhóm
các trường đại học lại với nhau”. Xu hướng ấy rất phù hợp với mô hình đại học nghiên cứu còn
cần phải tiếp tục phấn đấu. Trong quá trình ấy, Trường ĐHKHXH&NV cần phát triển yếu tố
tích hợp liên ngành giữa khoa học xã hội và các khoa học khác, đặt biệt là kỹ thuật, công nghệ
và kinh tế, đảm bảo đào tạo nhân tài có đủ các phẩm chất tài, trí và đức để đầu ra cạnh tranh
với khu vực, chủ động tham gia vào thị trường cung ứng nhân lực.
Để có thể chủ động tận dụng các cơ hội hợp tác quốc tế nhằm đẩy nhanh tiến trình chuẩn
hóa chất lượng, Trường ĐHKHXH&NV chủ trương lập nhóm chuyên trách xây dựng đề án
liên kết hợp tác quốc tế với đội ngũ cán bộ đủ tài, tâm và nhiệt huyết để lôi kéo hợp tác quốc tế
về đơ vị mình. Nhóm công tác này phải kết nối các mảng Đào tạo Đại học, Sau Đại học,
QLKH, HTQT và Khoa/BM để đảm bảo sức mạnh hệ thống, làm cơ sở đối trọng với đối tác
quốc tế. Đội ngũ tham gia nhóm chuyên trách này phải (1) nắm vững khung pháp lý liên quan
35
đến quá trình hội nhập, các hiệp định liên quan trong phạm vi ngành giáo dục, các văn bản ký
kết, các luật định, thông lệ quốc tế, quá trình rà soát và xây dựng hệ thống pháp lý của Việt
Nam liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế; (2) nắm được các Hiệp định có liên quan đến các
ngành học trong WTO và các Hiệp định GATS hiện tại Việt Nam đang đàm phán và đã kết
thúc đàm phán, (3) thường xuyên nắm được tiến trình hội nhập của Việt Nam vào các tổ chức
quốc tế và khu vực; (4) có kỹ năng xây dựng đề án, tiến hành đàm phán, cơ chế giải quyết
tranh chấp của các tổ chức thương mại quốc tế, các hiệp định; (5) phân tích tác động của hội
nhập, quản lý hội nhập, phân tích khả năng cạnh tranh của giáo dục Việt Nam; (6) các kiến
thức bổ trợ khác như ngoại ngữ, tin học, các vấn đề liên quan đến ứng dụng công nghệ thông
tin..
Nhà trường cần đẩy mạnh kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ có tầm nhìn quốc tế trong
quản trị đại học, đào tạo và nghiên cứu khoa học, đảm bảo tính liên tục và tính kế thừa của các
giai đoạn phát triển hợp tác quốc tế; tiên phong trong thực hiện đầy đủ các tiêu chí đại học phát
triển của GATS gồm cung ứng xuyên biên giới, tiêu thụ ngoài nước, sự hiện diện thương mại
và sự hiện diện thể nhân để trở thành một đối tác chủ động trong “thị trường giáo dục toàn
cầu”.
Nhà trường hướng tới việc xây dựng các cơ sở hợp tác chiến lược với các đại học nước
ngoài (đặc biệt là Mỹ) và thuê nhiều nhà khoa học, nhà quản lý hàng đầu thế giới đến làm việc,
kể cả những giáo sư đã từng đạt giải Nobel. Hơn thế nữa, Nhà trường phải làm cầu nối hỗ trợ
các trường thành viên tiếp cận, làm quen và hợp tác với các giáo sư có uy tín, qua đó tích hợp
kinh nghiệm quốc tế trong chất lượng đào tạo, nghiên cứu và công bố khoa học. Nhà trường
cần duy trì chính sách ưu tiên trong liên kết nghiên cứu khoa học quốc tế và công bố quốc tế
nhằm đẩy mạnh mục tiêu đạt chuẩn quốc tế.
Trường ĐHKHXH&NV cần xây dựng lộ trình quốc tế hoá tạp chí khoa học, chú trọng
xuất bản chuyên san KHXH&NV của tạp chí Khoa học và Công nghệ trong nước bằng tiếng
Anh với hệ thống bình duyệt theo tiêu chuẩn quốc tế mà vào hệ thống tiêu chuẩn quốc tế công
nhận, đồng thời duy trì thực hiện chính sách khen thưởng thỏa đáng để khuyến khích tài chính
và công nhận giá trị cho các nhà khoa học có công trình công bố trên các tập san quốc tế uy tín
cao.
Quan trọng không kém là nhân tố xây dựng con người. Trường ĐHKHXH&NV chủ trương
tăng cường nâng cao nhận thức toàn bộ đội ngũ cán bộ giảng viên rằng chỉ có con đường đẩy
mạnh chất lượng là điều kiện sống còn của toàn hệ thống, giáo dục đại học, trong đó hợp tác
quốc tế giữa Trường ĐHKHXH&NV và các đại học có uy tín của thế giới sẽ đóng vai trò thúc
36
đẩy quá trình ấy tăng tốc, đồng thời đảm bảo tính đúng đắn của còn đường phát triển Trường
ĐHKHXH&NV trên xa lộ giáo dục đại học thế giới. Trường ĐHKHXH&NV cần tiếp tục kế
hoạch đào tạo cán bộ đang trực tiếp tham gia hội nhập quốc tế ở tất cả các ngành học, đồng
thời có kế hoạch khai thác các mối quan hệ học thuật quốc tế và kinh nghiệm, khả năng của đội
ngũ cán bộ, giảng viên từ các nước tiên tiến trở về, trong số đó có các cán bộ được đào tạo từ
nguồn kinh phí quốc gia. Ở phương diện đào tạo, cần học tập mô hình quốc tế, đẩy mạnh đổi
mới phương pháp tổ chức dạy học theo phương châm “lấy người học làm trung tâm”, tăng
cường nghiên cứu khoa học trong quá trình giảng dạy của các giảng viên để vừa phục vụ giảng
dạy vừa phục vụ xã hội và hướng đến mục tiêu tạo ra sản phẩm cạnh tranh xuyên biên giới.
Trong thời gian sắp tới, Nhà trường cần tăng cường nắm bắt nhu cầu xã hội, mặt khác
tăng cường tư vấn, định hướng KHCN cho các địa phương nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển
đúng hương hướng, phát triển bền vững, qua đó cũng tăng cường vị thế của Nhà trường đối với
sự phát triển các địa phương.
Kết luậnĐào tạo và nghiên cứu KH gắn kết với cộng đồng xã hội, lấy tính hiệu quả và tính bền vững
của phát triển xã hội làm tôn chỉ hoạt động là xu hướng trong giáo dục đại học là xu thế tất
yếu của hệ thống giáo dục đại học tiên tiến ở Việt Nam và thế giới, và do vậy cơ cấu tổ chức và
vận hành giáo dục đại học ở Trường ĐHKHXH&NV cần phải dần dà phát triển theo trục chủ
lưu của thế giới, trong đó sự tương tác giữa nhà trường – nhà tuyển dụng/nhà ứng dụng chuyển
giao KHCN là hết sức quan trọng. Những nỗ lực quan trọng của giáo dục và nghiên cứu trong
thời gian qua đã đưa Trường ĐHKHXH&NV lên tầm cao mới, dù vậy vẫn còn tồn tại nhiều
thử thách trước mắt mang tính chủ quan lẫn khách quan. Để chủ động đẩy nhanh hiệu quả phục
vụ xã hội và nâng cao chất lượng, ngoài sự nỗ lực của Nhà trường (nắm bắt nhu cầu xã hội,
nâng cao chất lượng và cải tiến tính chất đào tạo/NCKH) thì nhà nước cần tạo nền tảng cơ chế,
chính sách phù hợp để Nhà trường có thể tự chủ hơn trong nguồn ngân sách hoạt động, có
nhiều hơn các điều kiện vật chất để đầu tư cho con người và trang thiết bị. Thêm vào đó, nhận
thức và thái độ của toàn hệ thống xã hội phải được cải tiến, bởi lẽ tư tưởng, nhân cách, thái độ
và hành vi của từng công dân có vai trò quyết định sự thành bại của cả quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam 2006: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, tr 35,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37
2. Đinh Xuân Hảo 2009: “Hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt
Nam”, http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=108&News=2991&CategoryID=40
3. “Hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học ”,http://tuoitre.vn/Giao-duc/342863/hoi-
nhap-quoc-te-trong-giao-duc-dai-hoc.html
4. “Hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học : Giải pháp nào ?”, Báo Văn hóa - 19/10/2009
5. Lê Vũ Quý Linh 2013: “Việt Nam không nhất thiết phải học theo ai”,
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/144859/-viet-nam-khong-nhat-thiet-phai-hoc-theo-
ai-.html
6. Nguyễn Hoàng Long 2013: “'Nên làm thân với các nhà khoa học uy tín quốc
tế'”,http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/nen-lam-than-voi-cac-nha-khoa-hoc-uy-tin-
quoc-te-2421472.html (31-3-2013)
7. Hương Thu 2013: “'Đi tắt đón đầu làm hại khoa
học'”,http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/di-tat-don-dau-lam-hai-khoa-hoc-
2420388.html, 29/2/2013
8. Phạm Đỗ Nhật Tiến 2009: “Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế về giáo dục: một
chiến lược, hai kịch bản, Tạp chí Tia sáng, Bộ Khoa học và Công nghệ.
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=108&News=2994&CategoryID=40
9. Đỗ Quốc Tuấn 2013: “'Sao lại tuyển cử nhân làm giảng viên đại
học?',http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/sao-lai-tuyen-cu-nhan-lam-giang-vien-dai-
hoc-2420692.html
10. Nguyễn Văn Tuấn 2012: Đi vào nghiên cứu khoa học, Thời báo Kinh tế Sài Gòn.
11. Lục Trí Tuyên 2013: “Khoa học không nên trả lương theo cách cào
bằng”,http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/khoa-hoc-khong-nen-tra-luong-theo-cach-
cao-bang-2419036.html
12. 2009 World Conference on Higher Education (2009): The New Dynamics of Higher
Education and Research for Societal Change and Development, Communique 8 July
2009
13. Supachai Yavaprabhas 2008: ASEAN Higher Education Area, Macao.
14. UNESCO 2003: Synthesis Report on Trends and Developments in Higher Education
since the WCHE (1998-2003), Paris 2003.
38
top related