tailieu.vncty.com nghien...
Post on 26-May-2015
147 Views
Preview:
DESCRIPTION
TRANSCRIPT
1
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU
1.1 BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU
1.1.1 Bối cảnh thực tiễn
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2008, bất động sản (BĐS) là một trong
những ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao qua hầu hết các chỉ tiêu thể hiện quy
mô cũng như hiệu quả. Theo Tổng cục Thống kê (2010a), trong giai này tốc độ tăng
trưởng bình quân về số lượng doanh nghiệp là 41,4%/năm, vốn kinh doanh là
36%/năm. Hầu hết các chỉ tiêu căn bản thể hiện quy mô và hiệu quả của doanh
nghiệp ngành BĐS đều tăng với tốc độ cao hơn mức trung bình của các ngành kinh
tế khác, chẳng hạn như tốc độ phát triển bình quân giai đoạn 20002008 của ngành
BĐS cao hơn mức trung bình của các ngành kinh tế trong cả nước về số lượng
doanh nghiệp là 20%, số lao động là 11%, nguồn vốn đầu tư là 15%, tài sản cố định
là 6%, doanh thu thuần là 14%, lợi nhuận trước thuế là 182%, thuế và các khoản
nộp ngân sách là 29% (Tổng cục Thống kê, 2010a). Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả
hoạt động kinh doanh của ngành BĐS có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với mức
trung bình của cả nước, đặc biệt là chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh và
tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao hơn mức chung của cả nước lần lượt là 150%
và 82% (Tổng cục Thống kê, 2010a). Tốc độ tăng trưởng cao là động lực thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành lớn nhất cả nước, theo Tổng cục Thống kê
(2010b) ngành BĐS thu hút 33,8% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt
Nam trong năm 2009.
Cũng giống như các ngành kinh tế khác ở Việt Nam, các giai đoạn phát triển
của ngành BĐS phụ thuộc nhiều vào các giai đoạn cải cách thể chế của quốc gia.
Xem xét các văn bản pháp luật hướng dẫn có liên quan, Đào Anh Kiệt (2010) chia
quá trình phát triển thị trường BĐS Việt Nam làm ba giai đoạn là trước năm 1993,
từ 19932003, và từ năm 2003 đến nay. Các đặc điểm và bối cảnh nền kinh tế của
các giai đoạn trong quá trình phát triển thị trường BĐS Việt Nam được tóm tắt ở
Bảng 1.1.
2
Bảng 1.1: Các giai đoạn phát triển của thị trường bất động sản Việt Nam
Giai đoạn Bối cảnh và khung pháp lý Đặc điểm
Trước
năm 1993
Hiến pháp năm 1980; luật đất đai
năm 1987: Người sử dụng đất
chỉ có quyền sử dụng, không có
quyền chuyển nhượng và các
quyền khác
Chủ yếu là các giao dịch phi chính
thức.
Rất ít doanh nghiệp kinh doanh BĐS.
Sản phẩm BĐS rất thô sơ, chủ yếu là
quyền sử dụng đất.
Giao dịch chủ yếu bằng vàng.
Từ năm
1993 đến
2003
Luật đất đai năm 1993: người sử
dụng đất có 5 quyền là chuyển
nhượng, thừa kế, cho thuê, thế
chấp và góp vốn; Pháp lệnh
1994: tất cả các tổ chức sử dụng
đất vào mục đích kinh doanh
chuyển sang hình thức thuê đất;
Khủng hoảng kinh tế khu vực
châu Á 1997; thí điểm chính
sách giao đất tại TP.HCM vào
năm 2000.
Chính thức xuất hiện ngành kinh
doanh BĐS tại Việt Nam.
BĐS chủ yếu là các giao dịch thứ cấp.
Ngoài sản phẩm đất thô, còn có thêm
hình thức phân lô bán nền rất phát
triển.
Khu vực nước ngoài bắt đầu quan tâm
đến thị trường BĐS Việt Nam với các
hình thức BOT, BT và liên doanh với
trong nước để phát triển sản phẩm ở
trình độ cao như cao ốc căn hộ, văn
phòng cho thuê, hạ tầng khu công
nghiệp, bến bãi.
Giai đoạn
2003 đến
nay
Nhiều văn bản pháp luật ra đời
để điều chỉnh thị trường: Luật
đất đai 2003, luật xây dựng, luật
nhà ở, luật kinh doanh BĐS;
Việt Nam gia nhập WTO; thị
trường chứng khoán phát triển.
Từ năm 2008 đến nay, Chính
phủ áp dụng chính sách tiền tệ
thắt chặt để kiềm chế lạm phát.
Sàn giao dịch BĐS ra đời.
Sản phẩm BĐS đa dạng từ thô sơ đến
cao cấp.
Có mối liên hệ khắn khít với thị
trường tài chính, chính sách tài chính
ảnh hưởng rất lớn đến thị trường BĐS.
Với chính sách tiền tệ thắt chặt của
Chính phủ từ năm 2008 làm hạn chế
giao dịch trên thị trường BĐS.
Nguồn: Tổng kết từ tham khảo Đào Anh Kiệt (2010).
3
Trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển, đến nay ngành BĐS Việt
Nam hình thành các sản phẩm kinh doanh đa dạng và thị trường đã hình thành nhiều
dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động của ngành như dịch vụ tư vấn pháp lý, quỹ đầu tư,
thẩm định giá trị BĐS. Tuy nhiên, ngành BĐS Việt Nam còn một số tồn tại xuất
phát từ chính sách điều tiết của Chính phủ và hành vi của doanh nghiệp BĐS như
sau:
Đối với chính sách điều tiết thị trường BĐS của Chính phủ:
Bảng 1.1 cho thấy các chính sách điều tiết của Chính phủ có tác động rất lớn
đối với đặc trưng và sự phát triển của thị trường BĐS Việt Nam. Với tốc độ phát
triển nhanh của thị trường BĐS đòi hỏi Chính phủ phải ban hành nhiều chính sách
để điều tiết thị trường. Từ năm 2008 đến 2010, Chính phủ Việt Nam đã ban hành
tổng số 49 văn bản luật và dưới luật để điều tiết thị trường BĐS 1 . Tuy nhiên, các
chính sách ban hành (nói chung cho cả nền kinh tế, trong đó có ngành BĐS) ít dựa
trên cơ sở liên kết giữa các chủ thể tham gia thị trường như doanh nghiệp, người
tiêu dùng, các định chế tài chính và các cơ quan quản lý nhà nước lẫn nhau (Ohno,
2009; Porter & các cộng sự, 2010). Điều này hàm ý Chính phủ chưa nhận thức đầy
đủ tầm quan trọng của các mạng lưới liên kết trong vấn đề hoạch định chính sách.
Hệ quả là nhiều văn bản pháp luật ban hành còn rườm rà và chồng chéo (Porter &
các cộng sự, 2010).
Mặc dù Chính phủ khá nhạy bén trong ban hành các chính sách điều tiết thị
trường BĐS, nhưng vẫn còn thiếu các chính sách tạo ra các công cụ hỗ trợ vốn cho
thị trường, đặc biệt là các kênh huy động vốn dựa trên sự liên kết giữa các chủ thể
trên thị trường. Trong bối cảnh lạm phát, Chính phủ đang ngày càng ban hành nhiều
chính sách thắt chặt các kênh huy động vốn từ khách hàng (Vũ Đình Ánh, 2010).
Trong khi đó, kênh huy động vốn dưới hình thức các hình thức liên kết các chủ thể
tham gia thị trường thì chưa có ở Việt Nam. Chẳng hạn như quỹ tín thác BĐS (Real
Estate Investment Trust – REIT) chỉ bắt đầu nhận thức ở mức độ khái niệm tại Việt
Nam, chủ yếu là các quỹ ở nước ngoài đầu tư vào thị trường trong nước nhưng
1 Thống kê của tác giả luận án trên website: www.luatvietnam.vn (truy cập ngày 12/03/2011).
4
không đáng kể (Trần Kim Chung, 2010); chưa có hệ thống tín dụng nhà ở như Thái
Lan (là hệ thống nhận tiền đặt cọc để cung cấp vốn vay xây dựng nhà ở); chưa có hệ
thống tiết kiệm nhà ở bắt buộc như ở Singapore (Bộ Xây dựng, 2010).
Bởi vì các cộng cụ huy động vốn còn hạn chế, nên thị trường BĐS Việt Nam
phụ thuộc rất nhiều vào thị trường tín dụng, khi lạm phát xảy ra (từ năm 2008 đến
nay) Chính phủ áp đặt chính sách tiền tệ thắt chặt làm đe dọa sự tồn tại của nhiều
doanh nghiệp BĐS. Do vậy, vấn đề cấp bách hiện nay đối với Chính phủ là cần phải
đa dạng các kênh huy động vốn ngoài ngân hàng với các hình thức dựa trên sự liên
kết các chủ thể tham gia thị trường có thể là một lựa chọn thay thế. Muốn làm được
điều này cần phải có một khung lý thuyết về sự liên kết xã hội để làm nền tảng.
Đối với hành vi của doanh nghiệp bất động sản:
Thứ nhất, trong công tác tìm kiếm quỹ đất phát triển dự án ưu thế nghiêng về
các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước (Porter & các cộng sự, 2010). Điều này
được nhiều chuyên gia (danh sách đính kèm phụ lục 2) giải thích một phần là do
yếu tố lịch sử để lại vì nguồn gốc đất đai trong nền kinh tế phần lớn thuộc sở hữu
quốc dân trước đây, hoặc là do các doanh nghiệp nhà nước được sự hỗ trợ từ các cơ
quan quản lý nhà nước. Mặt khác, tính minh bạch của các thông tin trên các loại thị
trường (trong đó có thị trường BĐS) ở Việt Nam hiện nay còn rất kém (Porter &
các cộng sự, 2010), trong khi đó quỹ đất phát triển dự án chủ yếu được thực hiện
theo quyết định giao đất của cơ quan quản lý nhà nước được phân công (Đào Anh
Kiệt, 2010). Do vậy, việc lựa chọn doanh nghiệp để giao đất phát triển dự án phụ
thuộc rất nhiều vào các mối quan hệ cá nhân của chủ doanh nghiệp với cá nhân lãnh
đạo của cơ quan quản lý nhà nước.
Bởi vì lợi ích mang lại từ các mối quan hệ với chính quyền được nhận thấy
rõ ràng, nên phần lớn các doanh nghiệp chủ yếu quan tâm đến việc thiết lập các mối
quan hệ với chính quyền, mà đánh đổi thời gian để quan tâm đến các lợi ích mang
lại từ mạng lưới bên trong và các chủ thể bên ngoài khác. Các doanh nghiệp đầu tư
thời gian, thậm chí tiền bạc vào việc tìm cách móc nối với chính quyền để trục lợi,
điều này làm các mối quan hệ trở thành nguồn lực có tác động tiêu cực đối với nền
5
kinh tế (theo kết quả phỏng vấn chuyên gia của luận án năm 2010, danh sách có
đính kèm ở phụ lục 2). Với nhận thức như vậy thì doanh nghiệp rất khó có thể khai
thác hết các lợi ích từ các mối quan hệ để phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
Thứ hai, Doanh nghiệp BĐS Việt Nam phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong thời gần đây, quy mô vốn của doanh nghiệp BĐS có xu hướng tăng, nhưng
tính đến năm 2007 có đến 88% các doanh nghiệp BĐS có quy mô dưới 50 tỷ đồng
(con số này tính chung cho các ngành kinh tế cả nước là 95%, xem Hình 1.1),
khoảng 72% doanh nghiệp có quy mô lao động dưới 9 người (con số này tính chung
cho các ngành kinh tế cả nước là 55%, xem Hình 1.2). Các doanh nghiệp có quy mô
nhỏ rất khó tham gia tạo sản phẩm vì đặc trưng của ngành BĐS là ngành thâm dụng
vốn, nếu các doanh nghiệp này sử dụng các mối quan hệ cá nhân để dành quyền sử
dụng quỹ đất thì cũng không có khả năng triển khai. Lúc đó tất yếu sẽ dẫn đến hiện
tượng chuyển nhượng dự án trên giấy tờ, làm đẩy giá thành và giá bán BĐS ở thị
trường Việt Nam lên cao tương đối so với một số nước Châu Á (xem Hình 1.3).
Hình 1.1: Số doanh nghiệp BĐS theo quy mô vốn
0% 5% 10% 15% 20% 25% 30% 35% 40% 45% 50%
Dưới 0,5 tỷ đồng
Từ 0,5 đến
dưới 1 tỷ đồng
Từ 1 đến
dưới 5 tỷ đồng
Từ 5 đến
dưới 10 tỷ đồng
Từ 10 đến
dưới 50 tỷ đồng
Từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng
Từ 200 đến dưới 500 tỷ đồng
Từ 500 tỷ đồng trở lên
Tỷ tron
g do
anh ng
hiệp th
eo quy
mô vố
n
Cả nước Bất động sản
Hình 1.2: Số doanh nghiệp BĐS theo quy mô lao động
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
45%
Dưới 5
người
59 người
1049 người
50 199 người
200 299 người
300 499 người
500 999 người
1000 4999 người
5000 người trở lên
Tỷ lệ số
doanh nghiệp theo quy mô lao
động
Cả nước Bất động sản
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra doanh nghiệp năm 2007 của Tổng cục Thống kê (2010a).
6
Hình 1.3: Giá bán và cho thuê căn hộ hạng sang tại thị trường Châu Á năm 2010
Nguồn: Townsend (2011), trang 8.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ có thể phát triển dự án bằng
cách huy động vốn từ bên ngoài. Nhưng trên thị trường BĐS Việt Nam hiện nay các
kênh huy động vốn rất hạn chế, các doanh nghiệp chủ yếu vay vốn từ ngân hàng
thương mại và sử dụng vốn ứng trước của khách hàng để phát triển dự án. Điều này
thể hiện rất rõ trong thời gian từ năm 2007 đến nay, khi Chính phủ kiềm chế lạm
phát bằng chính sách tiền tệ thắt chặt đã tạo áp lực chi phí lãi vay lên các doanh
BĐS. Trước bối cảnh đó, buộc các doanh nghiệp tập trung huy động vốn từ khách
hàng bằng cách hạ giá các sản phẩm bất động sản trên giấy tờ (xem Hình 1.4 và
Hình 1.5) để có vốn hoàn thiện dự án, nhằm giảm áp lực lãi vay.
Hình 1.4: Giá chào bán căn hộ Hình 1.5: Giá cho thuê mặt bằng TTTM
Nguồn: Công ty CBRE (trích trong Townsend, 2011)
Thứ ba, các hoạt động phân phối sản phẩm trên thị trường BĐS Việt Nam
diễn biến phức tạp và nhiều cấp độ. Theo ước tính của Vũ Đình Ánh (2010) thì có
7
khoảng 80% các giao dịch trên thị trường BĐS là phi chính thức. Trước năm 2007,
thị trường BĐS cùng với chứng khoán là một trong những kênh đầu tư phổ biến của
người dân (Vũ Đình Ánh, 2010), người mua BĐS cũng đồng thời đóng vài trò là
nhà đầu tư BĐS nên đẩy giá BĐS lên cao (xem Hình 1.3).
Mặt khác, theo thống kê của Công ty CBRE (trích trong Townsend, 2011)
trước năm 2007, trung bình mỗi dự án có đến 95% khách hàng của CBRE ở thành
phố Hồ Chí Minh mua nhà ở bằng nguồn vốn vay. Do vậy, từ năm 2007 đến nay,
chính sách tiền tệ thắt chặt được Chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát, làm cho
cầu BĐS giảm đi đáng kể (Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền, 2011).
Tóm lại, hai khía cạnh tồn tại trên thị trường BĐS là chính sách điều tiết
của Chính phủ và hành vi của doanh nghiệp có liên quan đến việc nhận thức chưa
đầy đủ về lợi ích và tác hại của các mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thị
trường, nên chưa hoạch định được chính sách sử dụng các mối quan hệ tối ưu. Đối
với chính sách điều tiết vĩ mô, Chính phủ chưa quan tâm đúng mức đến sự liên kết
giữa các chủ thể trên thị trường nên dẫn đến hiệu ứng của chính sách không cao;
mặc dù các chính sách điều tiết thị trường được ban hành nhiều nhưng chưa tạo ra
sự đa dạng về các công cụ hỗ trợ thị trường, đặc biệt là các công cụ huy động vốn
cho doanh nghiệp BĐS. Đối với doanh nghiệp BĐS thì chịu sự chi phối nhiều bởi
mối quan hệ cá nhân của lãnh đạo doanh nghiệp với các cá nhân cơ quan quản lý
nhà nước trong việc tiếp cận quỹ đất, nên doanh nghiệp nhận thức về vai trò của các
mối quan hệ bị lệch lạc và chưa khai thác tối ưu và chưa sử dụng các mối quan hệ
để phục vụ cho các họat động kinh doanh.
Bởi vì hai khía cạnh tồn tại trên thị trường BĐS Việt Nam có liên quan đến
mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thị trường, nên rất cần một khung lý thuyết
giúp doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách nhận thức và lượng hóa được
nguồn lực tồn tại trong các mối quan hệ của doanh nghiệp, cũng như chỉ ra đóng
góp của chúng trong các hoạt động của doanh nghiệp. Từ đó, làm căn cứ khoa học
và thực tiễn giúp doanh nghiệp BĐS nhận diện và hoạch định các chương trình phát
triển và sử dụng các mối quan hệ phục vụ hoạt động kinh doanh; đồng thời qua đó
8
cũng xác định được luận cứ khoa học và thực tiễn về mối liên kết giữa các chủ thể
tham gia thị trường, nhằm giúp Chính phủ hoạch định các chính sách điều tiết thị
trường BĐS.
1.1.2 Bối cảnh lý thuyết
Nguồn lực tồn tại trong các mối quan hệ là một dạng nguồn lực vô hình được
đề cập đến với tên gọi là vốn xã hội. Vốn xã hội được nhiều nhà nghiên cứu như
Coleman (1988, 1990), Putnam (1995, 2000), và Nahapiet & Ghosal (1998) định
nghĩa là một dạng nguồn lực tồn tại trong các mạng lưới quan hệ có chất lượng (như
sự tín nhiệm, chia sẻ, hỗ trợ) giữa các chủ thể tham gia. Các lý thuyết kinh tế thừa
nhận vốn xã hội là nền tảng ra quyết định của các chủ thể trong nền kinh tế, chúng
chi phối hành vi của doanh nghiệp, người tiêu dùng và các chính sách vĩ mô của
Chính phủ, và các quy luật kinh tế (Wilson, 2000; Wills & các cộng sự, 2004). Do
vậy, vốn xã hội được nghiên cứu dưới nhiều cấp độ khác nhau như quốc gia, cộng
đồng, doanh nghiệp (Woolcock & Narayan, 2000).
Ở cấp độ doanh nghiệp, vốn xã hội của doanh nghiệp được đề cập đến như là
chất lượng các mối quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp; mối quan hệ của doanh
nghiệp với các chủ thể bên ngoài; chất lượng mối quan hệ giữa các cá nhân, bộ phận
chức năng bên trong doanh nghiệp. Các nghiên cứu vốn xã hội trong doanh nghiệp
đề cập đến từng khía cạnh riêng biệt kể trên, có thể tổng kết một vài nghiên cứu tiêu
biểu như sau:
Đối với vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp: Các nghiên cứu gần đây
như McCallum & O'Connell (2009), Truss & Gill (2009), Paré & các cộng sự
(2008), Wharton & Brunetto (2009), Cialdini & các cộng sự (2001), Tushman &
O’Reilly III (1997), Acquaah (2007) có đề cập đến vốn xã hội của lãnh đạo doanh
nghiệp như là chất lượng của các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo: tình hữu nghị, hỗ
trợ lẫn nhau, quyền lực, sự công nhận của xã hội và sự cam kết. Tuy nhiên, các
nghiên cứu này chưa xây dựng được thang đo chất lượng cho từng mạng lưới quan
hệ của lãnh đạo, nên không tạo ra được các gợi ý xây dựng, phát triển và đánh giá
vốn xã hội.
9
Đối với vốn xã hội bên ngoài: Các nghiên cứu của Jansen & các cộng sự
(2011), Yang & các cộng sự (2011), Landry & các cộng sự (2000) đề cập đến vốn
xã hội bên ngoài doanh nghiệp là chất lượng các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với
các chủ thể trong mạng lưới chiều ngang (khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp,
các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh
tranh trong cùng ngành) và mạng lưới chiều dọc (chính quyền các cấp và các công
ty mẹ con trong cùng tập đoàn). Các nghiên cứu này không xây dựng thang đo
chất lượng mối quan hệ cho từng chủ thể trong mạng lưới, mà thay vào đó là đề cập
đến chất lượng của mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể bên ngoài nói
chung. Với các thang đo được xây dựng như vậy thì rất khó có thể giúp doanh
nghiệp phát triển và đánh giá vốn xã hội bên ngoài.
Đối với vốn xã hội bên trong: Có những nghiên cứu đề cập đến vốn xã hội
bên trong của doanh nghiệp thể hiện qua mối quan hệ giữa các cá nhân và bộ phận
chức năng, chẳng hạn như nghiên cứu của Schenkel & Garrison (2009), Nisbet
(2007), Goyal & Akhilesh (2007), Cheng & các cộng sự (2006). Các nghiên cứu
này tiếp cận vốn xã hội bên trong doanh nghiệp là chất lượng các mối quan hệ giữa
nhân viên và giữa các bộ phận chức năng với nhau. Nhưng các nghiên cứu này chưa
xây dựng thang đo và đánh giá tác động của chúng đến kết quả các hoạt động của
doanh nghiệp, nên chưa gợi ý được cách thức xây dựng và sử dụng vốn xã hội cho
doanh nghiệp.
Các nghiên cứu kể trên chỉ đề cập đến từng khía cạnh về vốn xã hội của
doanh nghiệp, chứ không đo lường vốn xã hội của doanh nghiệp bao hàm cả ba khía
cạnh mạng lưới lãnh đạo, bên ngoài và bên trong doanh nghiệp. Điều này dẫn đến
kết quả nghiên cứu rất khó có thể xây dựng các chỉ tiêu đo lường và đánh giá vốn xã
hội một cách toàn diện. Do vậy, rất cần thiết phải có một nghiên cứu xây dựng các
thang đo vốn xã hội bao hàm cả ba khía cạnh bên ngoài, bên trong và lãnh đạo
doanh nghiệp, để từ đó gợi ý các chỉ tiêu đo lường và đánh giá vốn xã hội của doanh
nghiệp một cách toàn diện. Hơn nữa, các nghiên cứu kể trên được thực hiện không
phải thực hiện đối với ngành BĐS.
Comment [D1]: Hoán đổi thứ tự
10
Như vậy, với các lý thuyết hiện tại thì chưa giải quyết được vấn đề thực tiễn
đặt ra đối với doanh nghiệp BĐS Việt Nam là cần một khung lý thuyết giúp doanh
nghiệp và các nhà hoạch định chính sách nhận thức và lượng hóa được nguồn lực
tồn tại trong các mối quan hệ (vốn xã hội) của doanh nghiệp, cũng như chỉ ra đóng
góp của vốn xã hội trong các hoạt động của doanh nghiệp để thông qua đó giúp
doanh nghiệp nhận diện và hoạch định các chương trình nhằm phát triển vốn xã hội
phục vụ hoạt động kinh doanh. Do vậy, rất cần phải nghiên cứu về vốn xã hội đóng
góp vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Như đã giới thiệu, hai khía cạnh tồn tại trên thị trường BĐS Việt Nam là
chính sách điều tiết của Chính phủ và hành vi của doanh nghiệp liên quan đến việc
chưa nhận thức đầy đủ về lợi ích và tác hại của các mối quan hệ giữa các chủ thể
tham gia thị trường, hay nói cách khác là liên quan đến vốn xã hội. Trong khi đó,
các lý thuyết về vốn xã hội trong doanh nghiệp chỉ được nghiên cứu riêng lẻ từng
khía cạnh vốn xã hội bên ngoài, bên trong và lãnh đạo, và chúng được thực hiện
không phải đối với ngành BĐS Việt Nam, nên chưa giải quyết được vấn đề thực
tiễn đặt ra. Nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh
nghiệp BĐS Việt Nam được thực hiện nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn,
với các mục tiêu nghiên cứu của luận án như sau:
1. Khám phá và đo lường cấu trúc của vốn xã hội và các hoạt động trong quá
trình kinh doanh của các doanh nghiệp BĐS ở Việt Nam.
2. Xây dựng mô hình lý thuyết về đóng góp vốn xã hội vào các hoạt động của
doanh nghiệp BĐS Việt Nam.
3. Kiểm định thang đo và mô hình lý thuyết cho trường hợp điển hình: các
doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đề xuất những gợi ý chính sách giúp doanh nghiệp BĐS thành phố Hồ Chí
Minh nâng cao kết quả các hoạt động thông qua sử dụng vốn xã hội. Đồng
11
thời gợi ý chính sách giúp các nhà hoạch định chính sách và Chính phủ hỗ
trợ doanh nghiệp BĐS Việt Nam phát triển các hình thức liên kết xã hội tích
cực và hạn chế các hình thức liên kết xã hội tiêu cực.
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Các mục tiêu nghiên cứu nêu trên nhằm giúp doanh nghiệp BĐS nhận dạng
cấu trúc vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp BĐS, cũng như chỉ ra đóng
góp của chúng vào các hoạt động của doanh nghiệp. Qua đó giúp doanh nghiệp
nhận thức và hoạch định chiến lược sử dụng vốn xã hội phục vụ cho các hoạt động
kinh doanh, cũng như thông qua đó làm cở sỡ để Chính phủ hoạch định các chính
sách vĩ mô nhằm hạn chế các hình thức liên kết các hội tiêu cực và hỗ trợ doanh
nghiệp BĐS phát triển vốn xã hội. Luận án nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào
các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam được thực hiện với các mục tiêu
trên, nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
1. Vốn xã hội và các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS Việt Nam được nhận
diện và đo lường như thế nào?
2. Vốn xã hội đóng góp vào các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS Việt Nam
như thế nào?
3. Nếu vốn xã hội có đóng góp vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS, thì
những gợi ý chính sách nào nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho doanh
nghiệp BĐS thông qua sử dụng vốn xã hội; cũng như gợi ý chính sách nào
giúp Chính phủ điều tiết thị trường BĐS theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp
phát triển các hình thức liên kết xã hội tích cực và hạn chế các hình thức liên
kết xã hội tiêu cực?
1.4 PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Phạm vi nghiên cứu:
Như đã nêu trên, vốn xã hội được nghiên cứu dưới nhiều cấp độ như quốc
gia, cộng đồng dân sự và doanh nghiệp. Trong luận án này chủ yếu nghiên cứu vốn
xã hội dưới cấp độ doanh nghiệp trong một ngành cụ thể là ngành BĐS.
Comment [D2]: Có sự hoán đổi vị trí
12
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp BĐS có đồng thời hai chức năng
kinh doanh: tạo sản phẩm và phân phối sản phẩm BĐS. Đối tượng để xây dựng
thang đo và các giả thuyết nghiên cứu là các doanh nghiệp BĐS Việt Nam. Các
thang đo và mô hình nghiên cứu được kiểm định cho trường hợp điển hình là các
doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh.
1.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu của luận án được thực hiện gồm hai giai đoạn là: (1) xây dựng
thang đo và mô hình lý thuyết; và (2) kiểm định thang đo và mô hình lý thuyết cho
trường hợp điển hình, cụ thể như sau:
Giai đọan một: Lược khảo lý thuyết có liên quan để thiết kế dàn bài thảo
luận tay đôi phục vụ cho nghiên cứu định tính lần thứ nhất nhằm khám phá cấu trúc
và phát triển thang đo sơ bộ của vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp
BĐS. Đối tượng thảo luận tay đôi là các giám đốc hoặc phó giám đốc doanh nghiệp
BĐS ở Việt Nam bằng phương pháp chọn theo mục tiêu.
Sau đó thực hiện nghiên cứu định lượng sơ bộ trên mẫu gồm 150 quan sát là
các giám đốc doanh nghiệp BĐS thành phố Hồ Chí Minh theo phương pháp chọn
mẫu phân tầng phi xác suất (phân theo loại hình sở hữu doanh nghiệp) để đánh giá
sơ bộ về tính nhất quán và cấu trúc thang đo. Hai công cụ sử dụng trong nghiên cứu
định lượng sơ bộ là (1) hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám
phá (Exploratary Factor Analysis, ký hiệu là EFA). Nghiên cứu sơ bộ sẽ sàng lọc
thang đo và xác định được cấu trúc thang đo dùng cho nghiên cứu chính thức ở giai
đoạn hai.
Sau khi nghiên cứu định lượng sơ bộ giúp định hình được cấu trúc thang đo
để làm cơ sở cho việc định nghĩa rõ ràng về các khái niệm nghiên cứu. Công việc
tiếp theo là thiết kế dàn bài thảo luận tay đôi để nghiên cứu định tính lần thứ hai để
xây dựng mô hình lý thuyết với các giả thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các
hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam.
13
Giai đoạn hai: Kiểm định thang đo và các giả thuyết trong mô hình nghiên
cứu cho trường hợp các doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh trên cỡ mẫu
khảo sát là 216 doanh nghiệp với đối tuợng là giám đốc hoặc phó giám đốc các
doanh nghiệp BĐS. Cỡ mẫu nghiên cứu ở giai đoạn hai trên cơ sở kế thừa cỡ mẫu
của giai đoạn một (do kết quả đánh giá sơ bộ thang đo ở giai đoạn một rất ít biến
quan sát bị loại), và cũng chọn mẫu theo phương pháp phân tầng phi xác suất (phân
theo loại hình sở hữu doanh nghiệp). Dữ liệu thu thập được sử dụng để đánh giá
thang đo bằng công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha), phân tích nhân tố khám
phá (EFA) và phân tích nhân tố khẳng định (Confirmatory Factor Analysis, ký hiệu
là CFA) để đánh giá độ tương thích với dữ liệu, tính đơn nguyên, giá trị phân biệt,
giá trị hội tụ để điều chỉnh mô hình nghiên cứu. Cuối cùng là kiểm định mô hình lý
thuyết bằng công cụ mô hình cấu trúc tuyến tính (Structural Equation Modeling, ký
hiệu là SEM) để rút ra kết luận về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của
doanh nghiệp BĐS. Từ đó làm cơ sở cho thảo luận chính sách nâng cao kết quả hoạt
động của doanh nghiệp thông qua sử dụng vốn xã hội; và gợi ý chính sách vĩ mô
cho Chính phủ điều tiết thị trường BĐS theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp phát triển
các hình thức liên kết vốn xã hội tích cực và hạn chế các hình thức liên kết xã hội
tiêu cực.
1.6 Ý NGHĨA CỦA NGHIÊN CỨU
1.6.1 Ý nghĩa khoa học
Nhiều nhà nghiên cứu đã hoài nghi việc sử dụng khái niệm vốn xã hội trong
các nghiên cứu kinh tế và quản trị bởi tính khó đo lường của nó. Đã có nhiều nghiên
cứu nỗ lực trong việc đo lường vốn xã hội trên từng khía cạnh riêng lẻ như mạng
lưới của lãnh đạo doanh nghiệp hoặc bên ngoài hoặc bên trong doanh nghiệp nên
các thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp bị khiếm khuyết. Hơn nữa, các nghiên
cứu trước đây được thực hiện không phải thuộc ngành BĐS nên vẫn chưa chỉ ra
được đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động doanh nghiệp BĐS. Do vậy, nếu
mục tiêu nghiên cứu của luận án hoàn thành dự kiến sẽ có những đóng góp như sau:
14
Thứ nhất, các nghiên cứu trước đây chỉ đề cập đến từng khía cạnh riêng lẻ về
vốn xã hội của doanh nghiệp nên việc nhận diện chúng còn khiếm khuyết. Với mục
tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng thang đo vốn xã hội dựa trên nền tảng lý
thuyết, kết hợp với nghiên cứu định tính tại Việt Nam và nghiên cứu điển hình tại
thành phố Hồ Chí Minh, sẽ kỳ vọng đóng góp về mặt khoa học là xây dựng được
thang đo vốn xã hội đầy đủ hơn các nghiên cứu trước đó, đảm bảo giá trị nội dung
và độ tin cậy để có thể kế thừa cho các nghiên cứu tiếp theo có liên quan.
Thứ hai, với mục tiêu nghiên cứu của luận án là khám phá và đo lường các
nhóm hoạt động của doanh nghiệp BĐS dựa trên lý thuyết, kết hợp với nghiên cứu
định tính tại Việt Nam và kiểm định điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh, sẽ kỳ
vọng xây dựng được các thang đo hoạt động của doanh nghiệp BĐS đảm bảo giá trị
nội dung và độ tin cậy để khẳng định giá trị kế thừa cho các nghiên cứu có liên quan
tại Việt Nam.
Thứ ba, với mục tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng mô hình lý thuyết
về đóng góp của vốn xã hội vào các doanh nghiệp BĐS Việt Nam và kiểm định cho
trường hợp điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh, sẽ kỳ vọng chỉ ra những đóng góp
trực tiếp, gián tiếp của vốn xã hội vào các nhóm hoạt động của doanh nghiệp là
bằng chứng khoa học để khẳng định vốn xã hội là một trong những nguồn lực cần
được bổ sung trong công tác hoạch định và thực hiện chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp BĐS, cũng như trong công tác hoạch định chính sách vĩ mô điều tiết
thị trường BĐS. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần kích thích những
nghiên cứu tiếp theo về mối liên hệ giữa vốn xã hội và các hoạt động trong quá trình
kinh doanh không chỉ ở ngành BĐS mà còn đối với các ngành kinh tế khác.
1.6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Nếu đạt được các mục tiêu nghiên cứu và trả lời được câu hỏi nghiên cứu
nên trên, luận án kỳ vọng có những đóng góp về mặt thực tiễn cho các doanh nghiệp
BĐS và các cơ quan quản lý nhà nước đối với ngành BĐS của Việt Nam nói chung,
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng như sau:
15
Thứ nhất, với mục tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng và kiểm định
thang đo vốn xã hội, sẽ dùng làm căn cứ để gợi ý các mục tiêu và tiêu chí đo lường
vốn xã hội với ba khía cạnh là chất lượng mạng lưới bên trong, bên ngoài và của
lãnh đạo doanh nghiệp. Qua đó, giúp doanh nghiệp BĐS nhận dạng được khuôn khổ
tạo lập, duy trì và sử dụng vốn xã hội trong doanh nghiệp BĐS. Từ đó, doanh
nghiệp có thể hoạch định các chương trình phát triển và sử dụng vốn xã hội để nâng
cao kết quả các hoạt động.
Thứ hai, với mục tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng được các thang đo
cho các nhóm hoạt động của doanh nghiệp BĐS, đồng thời chỉ ra chỉ ra được mối
liên hệ giữa các hoạt động, sẽ là cơ sở để gợi ý các chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt
động đầu vào, sản xuất và đầu ra cho doanh nghiệp BĐS. Đóng góp này sẽ giúp
doanh nghiệp BĐS đánh giá được kết quả của hoạt động trong doanh nghiệp của họ
được hoàn thiện hơn.
Thứ ba, với mục tiêu nghiên cứu của luận án là xác định cấu trúc của vốn xã
hội và khẳng định sự đóng góp của chúng vào các hoạt động của doanh nghiệp
BĐS, kỳ vọng chỉ ra được tác động tiêu cực và tích cực của các hình thức liên kết
xã hội của doanh nghiệp ngành BĐS của Việt Nam. Đó là luận cứ khoa học giúp
cho các cơ quan lập pháp, quản lý nhà nước cấp trung ương và địa phương liên quan
đến thị trường BĐS nhận diện sự vận động của nguồn lực vốn xã hội trên thị
trường. Để từ đó kịp thời có những chính sách phát huy các hình thức liên kết vốn
xã hội tích cực, đồng thời hạn chế các hình thức liên kết vốn xã hội tiêu cực trong
thị trường BĐS quốc gia.
Cuối cùng là kết quả nghiên cứu của luận án sẽ phục vụ cho các hiệp hội
BĐS Việt Nam, hiệp hội BĐS thành phố Hồ Chí Minh nhận diện được sự quan tâm
của các thành viên khi tham gia hiệp hội, để ban chấp hành các hiệp hội tạo ra được
các giá trị từ mạng lưới liên kết phục vụ lợi ích của các thành viên tham gia.
16
1.7 BỐ CỤC LUẬN ÁN
Kết cấu của luận án được trình bày trong sáu chương. Nội dung của từng
chương như sau:
Chương 1, giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu bao gồm: vấn đề nghiên
cứu (bối cảnh thực tiễn và lý thuyết) để nhận dạng cơ hội nghiên cứu, mục tiêu
nghiên cứu, phạm vi và phương pháp nghiên cứu, và dự kiến những đóng góp về
mặt khoa học và thực tiễn của luận án.
Chương 2, trình bày cơ sở lý thuyết và khung phân tích về mối liên hệ giữa
vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Trước hết là lược khảo các lý
thuyết để xây dựng định nghĩa vốn xã hội sử dụng cho luận án. Kế đến là lược khảo
các lý thuyết về các hoạt động trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp nhằm
xác định cấu trúc của vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Từ đó
chỉ ra khe hổng nghiên cứu và khung phân tích về mối liên hệ giữa vốn xã hội và
các hoạt động của doanh nghiệp BĐS.
Chương 3, trình bày quy trình và phương pháp thực hiện nghiên cứu.
Chương này sẽ nêu ra quy trình thực nghiên cứu gồm hai giai đoạn: Giai đoạn một
là xây dựng thang đo và mô hình nghiên cứu; Giai đoạn 2 là kiểm định thang đo và
mô hình nghiên cứu cho trường hợp điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh. Giai
đoạn thứ nhất là từ nghiên cứu định tính lần thứ nhất để xây dựng thang đo sơ bộ,
kế đến là đánh giá sơ bộ thang đo để hình thành thang đo chính thức, nghiên cứu
định tính lần thứ hai để hình thành các giả thuyết và mô hình nghiên cứu. Giai đoạn
thứ hai là trình bày các công cụ sử dụng cho nghiên cứu định lượng nhằm kiểm định
thang đo như hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha), phân tích nhân tố khám phá (EFA),
phân tích nhân tố khẳng định (CFA); kiểm định các giả thuyết nghiên cứu bằng mô
hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Bên cạnh đó, chương này cũng trình bày các
phương pháp chọn mẫu, tiêu chuẩn xác định cỡ mẫu trong từng giai đoạn nghiên
cứu.
Chương 4, xây dựng thang đo và mô hình nghiên cứu cho trường hợp ngành
BĐS Việt Nam. Trước hết là xây dựng thang đo bằng phương pháp liện hệ lý thuyết
17
và kết hợp với nghiên cứu định tính lần thứ nhất. Các thang đo được đánh giá sơ bộ
bằng nghiên cứu định lượng với công cụ sử dụng là Cronbach’s alpha và EFA trên
150 quan sát. Sau cùng là nghiên cứu định tính lần thứ hai để hình thành các giả
thuyết và mô hình nghiên cứu.
Chương 5, trình bày kết quả kiểm định thang đo và các giả thuyết nghiên cứu
đã xây dựng ở chương 4 cho trường hợp điển hình là các doanh nghiệp BĐS tại
thành phố Hồ Chí Minh. Chương này xác định đối tượng và cỡ mẫu dùng để kiểm
định thang đo. Kết quả kiểm định thang đo bằng các công cụ Cronbach’s alpha,
EFA, CFA để đánh mức độ phù hợp của mô hình với dữ liệu, tính đơn nguyên, giá
trị phân biệt, độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích. Sau đó là kiểm định các giả
thuyết nghiên cứu và phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của
doanh nghiệp bằng phương pháp mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Qua đó đánh
giá mức độ phù hợp của mô hình lý thuyết được xây dựng và xác định được các căn
cứ để gợi ý những chính sách ở chương 6.
Chương 6, tóm tắt kết quả nghiên cứu về đóng góp của vốn xã hội vào các
doanh nghiệp BĐS. Qua đó gợi ý một số chính sách nhằm góp phần giúp doanh
nghiệp nâng cao kết quả các hoạt động thông qua sử dụng vốn xã hội của doanh
nghiệp; đồng thời gợi ý các chính sách vĩ mô nhằm hỗ trợ doanh nghiệp BĐS phát
triển các hình thức liên kết xã hội tích cực và hạn chế các hình thức liên kết xã hội
tiêu cực trong thị trường BĐS. Cuối cùng là trình bày những đóng góp về mặt khoa
học và thực tiễn, cũng như những hạn chế của luận án và định hướng nghiên cứu
tiếp theo.
Phần cuối cùng của luận án là danh mục các công trình của tác giả có liên
quan đến luận án, danh mục các tài liệu tham khảo và các phụ lục.
18
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH VỀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA
VỐN XÃ HỘI VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
BẤT ĐỘNG SẢN
Chương 2 sẽ lược khảo các quan điểm tiêu biểu về vốn xã hội để lựa chọn
các yếu tố cấu thành vốn xã hội sử dụng trong luận án, đồng thời kết hợp với các
chủ thể trong mạng lưới quan hệ của doanh nghiệp để xây dựng cấu trúc vốn xã hội
cho doanh nghiệp. Kế đến là xem xét các lý thuyết về quá trình hoạt động của
doanh nghiệp BĐS để chỉ ra các nhóm hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Sau cùng
là tích hợp hai khía cạnh trên để phát triển khung phân tích về mối liên hệ giữa vốn
xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp BĐS.
2.1 TỔNG KẾT LÝ THUYẾT VỀ VỐN XÃ HỘI
2.1.1 Quá trình hình thành khái niệm vốn xã hội
° Giai đoạn từ năm 2000 trở về trước:
Woolcock & Narayan (2000, trang 229) cho rằng:
“Cụm từ vốn xã hội được sử dụng lần đầu tiên bởi Hanifan (1916), sau đó
chúng biến mất đi trong vài thập kỷ và tái hiện trở lại vào những năm của thập kỷ
năm mươi bởi các nhà xã hội học Seeley, Sim và Loosely (1956), những năm của
thập kỷ sáu mươi bởi nghiên cứu của Homans (1961), Jacobs (1961), và những năm
của thập kỷ bảy mươi bởi nhà kinh tế Loury (1977). Không ai trong số các tác giả
đó trích dẫn các nghiên cứu trước đó, nhưng tất cả đều đề cập đến đóng góp quan
trọng của các mối liên kết, ràng buộc trong cộng đồng. Các nghiên cứu của
Coleman (1988) về giáo dục và Putnam (1993) về sự tham gia của cộng đồng và thể
chế đã cung cấp nguồn cảm hứng cho nghiên cứu xung quanh các lĩnh vực: cộng
đồng; giáo dục; quản trị; y tế và môi trường; và kinh tế phát triển.”
Mặc dù vậy, các nhà nghiên cứu gần đây phát triển khái niệm vốn xã hội dựa
trên các khái niệm được đề xuất chủ yếu bởi các nghiên cứu của Bourdieu (1986),
19
Coleman (1988, 1990), Putnam (1993, 1995, 2000), Fukuyama (1995, 1997), và
Nahapiet & Ghosal (1998).
Theo quan điểm Bourdieu (1986), vốn xã hội là các nguồn lực tồn tại trong
các mối liên hệ giữa các cá nhân hoặc tổ chức (gọi chung là chủ thể) trong bối cảnh
xã hội, thông qua đó các chủ thể nhận được lợi ích từ mạng lưới quan hệ như dễ
dàng huy động các nguồn lực khác và tạo ra nguồn vốn con người. Tuy nhiên,
Bourdieu chưa phân loại được cấu trúc của mạng lưới quan hệ của các cá nhân và
chưa đề cập đến các yếu tố chất lượng các mối quan hệ đó nên rất khó có thể xây
dựng các tiêu chí đo lường vốn xã hội dựa trên định nghĩa này.
Cũng tương tự như Bourdieu (1986), Coleman (1988, 1990) cho rằng vốn xã
hội được thành hình qua những thay đổi trong liên hệ giữa người với người, cụ thể
là những liên hệ dễ dàng hoá hành động. Điểm tiến bộ hơn so với Bourdieu là
Coleman đã chỉ ra được ba khía cạnh biểu hiện chất lượng của vốn xã hội, bao gồm:
nghĩa vụ, sự kỳ vọng, thông tin lẫn nhau và chuẩn mực tồn tại giữa các quan hệ xã
hội. Ba khía cạnh trên về sau đã được nhiều nghiên cứu kế thừa để phát triển thang
đo về chất lượng của các mạng lưới xã hội như nghiên cứu của Cohen & Field
(1998), Chou (2003). Tuy nhiên, hạn chế Coleman (1988, 1990) và Bourdieu (1986)
vẫn chưa chỉ ra được cấu trúc của các mạng lưới quan hệ.
Nahapiet và Ghosal (1998) cũng có quan điểm về vốn xã hội tương tự như
Bourdieu và Coleman khi cho rằng vốn xã hội bao gồm các nguồn lực thực tế và
tiềm ẩn bên trong mạng lưới các mối quan hệ được sở hữu bởi một tổ chức hoặc cá
nhân trong xã hội (gọi chung là chủ thể), thông qua mạng lưới đó các chủ thể trong
xã hội huy động được các nguồn lực khác. Nahapiet & Ghosal (1998) còn chỉ ra ba
khía cạnh của vốn xã hội là (1) khía cạnh cấu trúc mạng lưới: chỉ ra những ai trong
hệ thống phân cấp mạng lưới, tần suất kết nối giữa các chủ thể, kết cấu trong mạng
lưới; (2) là khía cạnh quan hệ: biểu hiện chất lượng của các mối quan hệ như sự tín
cẩn, kỳ vọng và chia sẻ lẫn nhau giữa các chủ thể trong mạng lưới; và (3) là khía
cạnh nhận thức: là những quy định về sự chia sẻ, ngôn ngữ, ký hiệu…để giao tiếp
và hành xử với nhau trong mạng lưới. Thực ra ba khía cạnh đề cập đến vốn xã hội
20
của Nahapiet & Ghosal là cách lý giải khác về ba khía cạnh được đề cập bởi
Coleman (1988, 1990). Thực chất ba khía cạnh của vốn xã hội của Nahapiet &
Ghosal (1998) thì khía cạnh cấu trúc đề cập đến sự cấu thành mạng lưới, khía cạnh
quan hệ và nhận thức đề cập đến yếu tố chất lượng của mạng lưới. Về sau được
nhóm nghiên cứu Landry & các cộng sự (2000) sử dụng cho phân tích vốn xã hội
trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng giống như Coleman (1988, 1990) và Bourdieu
(1986), Nahapiet & Ghosal (1998) vẫn chưa phân loại rõ các loại mạng lưới quan
hệ.
Trong các nghiên cứu của Fukuyama (1995, 1997) đã khẳng định tầm quan
trọng của thuộc tính chất lượng mạng lưới quan hệ là sự tín cẩn ảnh hưởng đến sự
thành công trong các hoạt động kinh tế. Do vậy năm 1997, Ông đã chỉ rõ rằng vốn
xã hội có thể được định nghĩa đơn giản như sự tồn tại của các giá trị, chuẩn mực xã
hội giúp các thành viên vận dụng để hợp tác lẫn nhau (Fukuyama, 1997). Trong các
nghiên cứu của Fukuyama đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thuộc tính chất
lượng của các mạng lưới quan hệ, nhưng cũng có những hạn chế giống các nhà
nghiên cứu trước đó như Coleman (1988, 1990) và Bourdieu (1986), Nahapiet &
Ghosal (1998) là chưa phân loại được cấu trúc của mạng lưới quan hệ.
Putnam (1993) tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của chất lượng mạng lưới
quan hệ là sự tín cẩn, các chuẩn mực xã hội. Vài năm sau đó, ông (Putnam,1995) bổ
sung thêm một luận điểm nữa về chất lượng của mối quan hệ là sự kỳ vọng của
những người tham gia mạng lưới. Đến năm 2000, Ông (Putnam, 2000) đã phân biệt
các hình thức liên kết xã hội là co cụm vào nhau (bonding social capital), loại vươn
ra bên ngoài (bridging social capital). Loại co cụm vào nhau gây tác động tiêu cực
cho xã hội; loại vươn ra ngoài có tác động tích cực cho xã hội. Putnam (2000) đã
phân loại được cấu trúc của các mạng lưới xã hội thành hai nhóm là nhóm quan hệ
diễn ra theo chiều ngang và quan hệ diễn ra theo chiều dọc. Cấu trúc liên kết theo
chiều ngang một cách tình nguyện dựa trên lòng tin sẽ gia tăng năng suất cho xã
hội. Trong những xã hội mà sự tín cẩn không cao, sự tương tác hàng ngang bị thay
thế bởi các mối quan hệ theo chiều dọc thì không có vốn xã hội tích cực (Putnam,
21
2000).
Như vậy, điểm tiến bộ hơn của Putnam (2000) so với Bourdieu (1986),
Coleman (1988, 1980), Nahapiet & Ghosal (1998) và Fukuyama (1995, 1997) về
vốn xã hội là phân loại được các loại mạng lưới quan hệ theo chiều ngang và chiều
dọc. Thêm vào đó Putnam (2000) cũng đã chỉ ra được cấu trúc của mối quan hệ có
tác động tiêu cực (co cụm vào nhau) và tích cực (vươn ra bên ngoài) cho xã hội.
Khái niệm nghiên cứu về vốn xã hội được hình thành hoàn thiện kể từ khi có
nghiên cứu của Putnam (2000). Vốn xã hội có thể tổng kết bởi hai đặc trưng là (1)
chất lượng của các mạng lưới quan hệ (hay gọi là khía cạnh nhận thức) như sự tín
cẩn, hỗ trợ, kỳ vọng lẫn nhau và các chuẩn mực, quy tắc hành xử, và các hình thức
liên kết co cụm vào nhau, vươn ra bên ngoài và kết nối; (2) cấu trúc của mạng lưới
bao gồm cơ cấu trong mạng lưới, tần suất kết nối giữa các chủ thể, nhận diện chủ
thể tham gia mạng lưới, và cấu trúc quan hệ chiều ngang và chiều dọc.
° Giai đoạn sau năm 2000:
Các nghiên cứu về vốn xã hội sau năm 2000 vẫn chưa thấy bổ sung thêm đặc
trưng nào về khái niệm vốn xã hội. Các nghiên cứu chủ yếu sử dụng các đặc trưng
của chất lượng mạng lưới quan hệ trong các mạng lưới khác nhau để xác định vốn
xã hội. Từ sau năm 2000, các nghiên cứu về vốn xã hội được đo lường dưới nhiều
cấp độ khác nhau như cấp độ quốc gia, cộng đồng, giữa các công ty và trong nội bộ
công ty.
Ở cấp độ quốc gia và cộng đồng thì có nhiều nghiên cứu xây dựng hệ thống
đo lường vốn xã hội cho quốc gia. Chẳng hạn như Sabatini (2005) đã xây dựng hệ
thống đo lường vốn xã hội ở Ý; ABS (2004) đo lường vốn xã hội ở Úc; Harper và
Kelly (2003) đo lường vốn xã hội ở Anh, và Lisakka (2006) đo lường vốn xã hội ở
Phần Lan. Hầu hết các nghiên cứu đo lường vốn xã hội ở cấp độ quốc gia đều phát
triển các chỉ số đo lường dựa trên hai yếu tố là chất lượng quan hệ và cấu trúc mạng
lưới.
Cũng tương tự, ở cấp độ doanh nghiệp các nhà nghiên cứu phát triển vốn xã
hội dựa trên hai đặc trưng chất lượng mạng lưới và cấu trúc mạng lưới. Dựa vào cấu
22
trúc các mạng lưới quan hệ mà các nghiên cứu đề cập đến ba nhóm mạng lưới xã hội
của doanh nghiệp là mạng lưới quan hệ của lãnh đạo, mạng lưới bên ngoài (giữa
doanh nghiệp với các đơn vị bên ngoài) và mạng lưới bên trong (nội bộ doanh
nghiệp)
+ Ở khía cạnh lãnh đạo doanh nghiệp có nghiên cứu của Tushman &
O’Reilly III (1997) và YliRenko & các cộng sự (2001). Các nghiên cứu này đề cập
đến vốn xã hội của lãnh đạo dựa trên sức mạnh của mối quan hệ của lãnh đạo với
các chủ thể như bạn bè, bạn bè, nhà tư vấn, chính quyền và các cơ quan truyền
thông.
+ Ở khía cạnh bên ngoài doanh nghiệp có nghiên cứu của Landry & cộng sự
(2000), Yang & các cộng sự (2011) đo lường vốn xã hội của doanh nghiệp dựa trên
các đặc trưng của chất lượng mối quan hệ với các chủ thể bên ngoài doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Scupola & cộng sự (2009) đo lường vốn xã hội trong các mối quan
hệ với các chủ thể trong cùng một khu vực nhằm kỳ vọng có được cơ hội phát triển
kinh doanh, tiếp cận được các đối tác và các thông tin có liên quan đến công ty và
các mối quan hệ cá nhân giúp tiếp nhận được sự tư vấn giải quyết vấn đề kinh
doanh, tài chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội tác động có ý nghĩa đến
hiệu suất và khả năng tiếp cận thị trường.
+ Ở khía cạnh bên trong có nghiên cứu của Brookes & cộng sự (2006), Yang
& các cộng sự (2011) đo lường vốn xã hội bên trong của doanh nghiệp dựa trên mối
quan hệ giữa các bộ phận chức năng và các cá nhân. Nghiên cứu của Lee & các
cộng sự (2001) đo lượng vốn xã hội bằng sự tương tác giữa các thành viên trong
cùng nhóm làm việc biểu hiện qua sự chia sẻ thông tin, kiến thức và kỹ năng; Sự
tương tác này có vai trò nâng cao năng suất hoạt động nhóm.
2.1.2 Tổng kết các đặc trưng của khái niệm vốn xã hội
Các định nghĩa về vốn xã hội như lược khảo trên tuy khác nhau nhưng lại bổ
sung cho nhau. Tổng kết các quan điểm này có thể định nghĩa vốn xã hội là tổng
hợp các nguồn lực của cá nhân hoặc nhóm hoặc tổ chức (gọi chung là chủ thể) tồn
tại trong các mạng lưới quan hệ có chất lượng. Định nghĩa này bao gồm hai nhóm
23
đặc trưng là cấu trúc của mạng lưới, chất lượng mạng lưới quan hệ được khái quát
như Bảng 2.1.
Bảng 2.1: Tổng kết các đặc trưng của vốn xã hội từ lược khảo lý thuyết
Tác giả và năm
Chất lượng mạng lưới Cấu trúc mạng lưới
Nhận thức mối
quan hệ: Tín cẩn,
chia sẻ, hỗ trợ,
chuẩn mực, nghĩa
vụ và sự kỳ vọng
lẫn nhau.
Sự liên kết:
Co cụm
vào nhau,
vươn ra bên
ngoài và
kết nối.
Sự tham gia vào
các tổ chức xã
hội: tần suất,
mức độ kết nối,
nhận được sự hỗ
trợ từ mạng lưới
Các
kênh
tương
tác.
Cơ
cấu tổ
chức
mạng
lưới.
Mối
quan hệ
chiều
ngang,
chiều
dọc.
Buordieu (1986) X X
Coleman (1988) X X
Putnam (1993) X X
Putnam (1995) X X
Fukuyama (1995, 1997) X X
Nahapiet & Ghosal (1998) X X X
Putnam (2000) X X X X X X
Harper & Kelly, 2003);
ABS, (2004); Sabatini
(2005); Lisakka (2006).
X X X X X X
Landry và cộng sự (2000);
Brookes & cộng sự (2006); Yang, Alejandro
& Boles (2011); Lee & Pennings (2001).
X X X X
YliRenko, Autio, &
Sapienza (2001); Scupola
& cộng sự (2009);
Tushman & O’Reily III
(1997).
X X
Nguồn: Tổng kết từ lược khảo lý thuyết.
24
Thứ nhất, cấu trúc mạng lưới quan hệ thể hiện qua ba khía cạnh: (1) Cơ cấu
tổ chức mạng lưới cho biết những ai tham gia mạng lưới và vị trí của họ trong mạng
lưới như thế nào; (2) Các chủ thể trong mạng lưới quan hệ với nhau chiều ngang
hay chiều dọc; (3) Các kênh tương tác (phương tiện tương tác) của các thành viên
trong mạng lưới liên hệ với nhau.
Thứ hai, chất lượng của các mạng lưới quan hệ biểu hiện qua ba khía cạnh là
(1) nhận thức về mối quan hệ như sự tín cẩn, kỳ vọng và chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm lẫn nhau giữa các chủ thể trong mạng lưới và các chuẩn mực trong các mối
quan hệ; (2) sự tham gia thể hiện qua tần suất tham gia vào các mạng lưới, mức độ
kết nối (phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên trong mạng lưới) và mức độ nhận
được hỗ trợ từ mạng lưới; (3) sự liên kết thể hiện qua các hình thức liên kết co cụm
vào nhau, vươn ra bên ngoài và kết nối.
2.1.3 Vốn xã hội trong các lý thuyết kinh tế học
Các nhà kinh tế học ít chú trọng đến việc xây dựng thang đo lường vốn xã
hội, mà chủ yếu tập trung vào việc so sánh vốn xã hội với các loại vốn cổ điển khác
và sử dụng vốn xã hội như là một nguồn lực giải thích các hiện tượng, quy luật kinh
tế.
Hans & Bolton (2003) cho rằng “vốn” là một điều kiện tiên quyết trong hoạt
động kinh doanh và cần thiết phải có một quan điểm về vốn xã hội để có thể so sánh
với vốn vật thể. Khi so sánh vốn xã hội với các loại vốn cổ điển khác, Hans &
Bolton (2003) cho thấy có những tương đồng rõ ràng, cũng như là những sự khác
biệt dễ nhận thấy giữa vốn xã hội và những loại vốn khác. Vốn xã hội có nhiều
điểm suy luận tương đồng như vốn vật chất (bao gồm máy móc, công cụ và thiết
bị) và vốn nhân lực. Vốn vật chất được tạo ra bởi sự thay đổi trong vật liệu để mang
lại những công cụ phục vụ sản xuất; vốn nhân lực được tạo ra bởi sự thay đổi trong
con người mang lại những kỹ năng và khả năng trong các hoạt động; còn vốn xã hội
có được thông qua những sự thay đổi trong mối liên hệ giữa con người để tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động. Nếu vốn vật chất hoàn toàn hữu hình, được thể hiện
trong hình thức vật liệu có thể quan sát thì vốn nhân lực ít hữu hình, được thể hiện
25
trong những kỹ năng và kiến thức được cung cấp bởi một cá nhân, còn vốn xã hội ít
hữu hình nhất vì nó tồn tại trong những mối liên hệ giữa cá nhân với nhau. Giống
như cả hai vốn vật chất và vốn nhân lực tạo điều kiện để hoạt động có năng suất,
vốn xã hội cũng vậy (Hans & Bolton, 2003).
Khi thảo luận về vai trò của vốn xã hội trong các quy luật, hiện tượng kinh
tế, Wilson (2000) cho rằng vốn xã hội và lòng tin là hai đặc trưng căn bản của nền
tảng ra quyết định của con người, chúng chi phối hầu hết các chủ thể, các chính
sách và các hoạt động trong nền kinh tế. Vốn xã hội tác động đến tăng trưởng kinh
tế của quốc gia thông qua chi phối đến tính khả thi của chính sách vĩ mô, môi
trường kinh doanh, chi phí giao dịch, các rào cản gia nhập ngành (Daut, 2006). Vốn
xã hội quyết định đến các chính sách của Chính phủ trong việc tạo ra các tính chắc
chắn hoặc không chắc chắn đối với các loại thị trường, từ đây quyết định khối lượng
giao dịch hàng hoá trên thị trường (Carey & Lawson, 2011). Còn Wills & các cộng
sự (2004) thì cho rằng vốn xã hội giúp giải quyết tốt các bài toán hợp tác, là một
trong những nhân tố quan trọng đóng góp vào tăng năng suất của vốn đầu tư và lao
động.
Các luận điểm về vai trò của vốn xã hội trong các quy luật, hiện tường của
nền kinh tế đã được Wallis & các cộng sự (2004) giải thích dựa vào dựa vào hàm
năng suất của Hall & Jones (1999) như phương trình 2.1, trong đó yi là sản lượng
bình quân đầu người của quốc gia i, Yi là tổng sản lượng của quốc gia i, Ki là vốn
vật thể, Hi là vốn con người, Li là số lượng lao động, Ai dùng để đo lường trình độ
công nghệ:
1 i i
i i i i
K H y A Y L
α α −
=
(2.1)
Wallis & các cộng sự (2004) đưa ra kịch bản là có hai quốc gia tương tự
nhau về vốn vật thể, con người và trình độ công nghệ, sự khác biệt về năng suất có
thể giải thích bằng sự khác nhau về hiệu quả của thể chế và các chuẩn mực xã hội.
Vốn xã hội (Si) tham gia vào giải thích năng suất biểu hiện ở phương trình 2.2.
26
1 i i
i i i i
K H y A Si Y L
α α −
=
(2.2)
Phương trình 2.2 cho thấy vốn xã hội tác động đến năng suất bình quân của
quốc gia thông qua tăng năng suất lao động và năng suất vốn.
2.2 CÁC CHỦ THỂ TRONG MẠNG LƯỚI KINH DOANH VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
2.2.1 Các chủ thể trong mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp
Sự thành công của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào vai trò của người
lãnh đạo doanh nghiệp. Lãnh đạo là trung tâm của chiến lược và tạo dựng các giá trị
vô hình cho doanh nghiệp (Barney, 1991; Ou & các cộng sự, 2006; Ray & các cộng
sự, 2004; Roberts & Dowling, 2002), đặc biệt là văn hóa doanh nghiệp. Tinh thần
doanh nhân của lãnh đạo là động cơ thúc đẩy sự năng động của doanh nghiệp và là
yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh (Wiklund & Shepherd, 2003). Tinh
thần doanh nhân được thể hiện qua năm yếu tố, đó là: sự tiên phong thực hiện, sự tự
quản, sự nhiệt tình, giả định về rủi ro (assumption of risk) và sự cải tiến (Lee & các
cộng sự, 2001). Năm yếu tố này chịu ảnh hưởng của các chủ thể trong các mạng
lưới quan hệ bao gồm dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, đồng nghiệp, cơ quan
báo chí, quan chức/nhân viên thuộc các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan nghiên
cứu, các câu lạc bộ (Tushman & O’Reilly III, 1997).
2.2.2 Các chủ thể trong mạng lưới kinh doanh thuộc môi trường bên ngoài
Porter (1985) đề xuất mô hình “năm áp lực cạnh tranh” đề cập đến ba chủ thể
có mối liên hệ trong mạng lưới kinh doanh thuộc môi trường bên ngoài theo chiều
ngang là khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh. Porter (1990)
và Landry & các cộng sự (2000) bổ sung thêm các chủ thể tham gia trong mạng lưới
kinh doanh của môi trường bên ngoài gồm các nhà tư vấn, cơ quan quản lý nhà
nước, cơ quan nghiên cứu phát triển và các hiệp hội. Các chủ thể trong môi trường
kinh doanh có thể phân loại theo các mối quan hệ của doanh nghiệp theo cấu trúc
chiều ngang và chiều dọc được tổng kết ở Hình 2.1.
Comment [D3]: Phần này chỉ dừng lại ở khám phá các chủ thể trong mạng lưới
Comment [D4]: Phần này chủ yếu đề cập đến mạng lưới quan hệ chung để làm cơ sở cho nghiên cứu định tính khám phá thang đo. Chưa rút ra mạng lưới quan hệ của lãnh đạo sử dụng trong luận án.
27
Hình 2.1: Phân loại các chủ thể trong mạng lưới quan hệ bên ngoài
Nguồn: Tổng kết lý thuyết của Porter (1985, 1990) và Landry & các cộng sự (2000)
Các chủ thể quan hệ theo chiều ngang bao gồm khách hàng, nhà phân phối,
nhà cung cấp, các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các
đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành; mối quan hệ theo chiều dọc bao gồm các mối
quan hệ với chính quyền các cấp, các công ty trong cùng tập đòan (công ty mẹ với
công ty con và giữa các công ty đồng cấp). Các chủ thể trong mạng lưới kinh doanh
bên ngoài có vai trò tạo ra cơ hội, thách thức và những lợi ích cho doanh nghiệp
dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Doanh nghiệp cần thiết lập các mối quan hệ phù
hợp với từng chủ thể để phát huy những lợi thế cũng như giảm bớt những yếu tố bất
lợi.
Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào khu vực đặt trụ sở kinh
doanh (Porter, 1990). Doanh nghiệp được đặt trong cụm liên kết tốt nhận được
nhiều cơ hội kinh doanh, tuyển dụng nhân sự, giải quyết các khó khăn về thủ tục
pháp lý, tiêu thụ sản phẩm và tìm kiếm các nguồn cung cấp. Porter (1990) cho rằng
yếu tố quyết định lợi thế quốc gia (có thể suy luận tương tự cho một cụm/ địa
phương) là các điều kiện về nhu cầu, các ngành hỗ trợ, điều kiện đầu vào, cấu trúc
và bối cảnh cạnh tranh, sự thay đổi của môi trường kinh doanh và Chính quyền/
Chính phủ.
Các chủ thể theo mạng lưới bên ngoài doanh nghiệp
Các chủ thể theo mạng lưới quan hệ chiều ngang: Khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành.
Các chủ thể theo mạng lưới quan hệ chiều dọc: Chính quyền các cấp. Công ty mẹ con.
28
2.2.3 Các chủ thể của mạng lưới bên trong doanh nghiệp
Trong mô hình năm áp lực cạnh tranh của Porter (1985) và bảng điểm cân
bằng (balanced scorecard) của Kaplan & Norton (1996) có đề cập đến yếu tố nội tại
trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Các chủ thể tham gia trong môi
trường nội bộ là các cá nhân (các vị trí công việc) và các bộ phận chức năng trong
doanh nghiệp. Các chủ thể này là tác nhân quan trọng để đảm bảo cho các quá trình
trong doanh nghiệp được liên tục và đạt hiệu quả. Có nhiều nghiên cứu đề cập đến
các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công việc của các chủ thể trong tổ chức. Chẳng
hạn các nghiên cứu của Roberts (2006), Schaufeli & Salanova (2007), Luthans &
Youssef (2007a, 2007b), Lee & các cộng sự (2001), YliRenko & các cộng sự
(2001), Koonmee & các cộng sự (2010), Luthans & các cộng sự (2008), và
Ramström (2008) đề cập đến các mối quan hệ giữa các cá nhân, bộ phận bên trong
tổ chức tác động đến hiệu quả công việc của từng cá nhân trong doanh nghiệp nói
riêng và của toàn bộ doanh nghiệp nói chung. Nhưng rất ít nghiên cứu đề cập đến
các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của các bộ phận chức năng trong cùng một
doanh nghiệp. Tuy nhiên, cá nhân luôn hoạt động tại một bộ phận chức năng cụ thể,
các chủ thể trong mạng lưới bên trong doanh nghiệp được xác định bao gồm nhân
viên, lãnh đạo và các bộ phận chức năng. Các chủ thể này được phân loại theo chiều
ngang và chiều dọc được tổng kết ở Hình 2.2 (phân chia theo cấu trúc mạng lưới
quan hệ của Putnam, 2000). Các mối quan hệ theo chiều ngang được đề cập đến
quan hệ giữa nhân viên với nhau, giữa các bộ phận chức năng với nhau; mối quan
hệ theo chiều dọc thể hiện mối quan hệ cá nhân cấp trên với cá nhân cấp dưới, giữa
bộ phận chức năng cấp trên với bộ phận chức năng cấp dưới.
29
Hình 2.2: Các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp
Nguồn: Tổng kết từ lược khảo lý thuyết Roberts (2006), Porter (1985), Kaplan &
Norton (1996), Schaufeli & Salanova (2007), Luthans &Youssef (2007a, 2007b),
Lee & các tác giả (2001), YliRenko & các cộng sự (2001), Koonmee & các cộng
sự (2010), và Luthans & các cộng sự (2008).
2.3 CẤU TRÚC VỐN XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
Như phân tích ở mục 2.2, cấu trúc mạng lưới của doanh nghiệp được tách
thành ba loại là mạng lưới của lãnh đạo, mạng lưới bên ngoài và bên trong doanh
nghiệp. Trong khi đó vốn xã hội có hai đặc trưng căn bản là chất lượng mạng lưới
và cấu trúc của mạng lưới. Do vậy, các nhà nghiên cứu về vốn xã hội trong doanh
nghiệp thường đề cập đến vốn xã hội của doanh nghiệp trên ba khía cạnh riêng lẻ là
vốn xã hội của lãnh đạo, bên ngoài và bên trong doanh nghiệp.
2.3.1 Vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp
Các nghiên cứu của McCallum & O'Connell (2009), Truss & Gill (2009),
Paré & các cộng sự (2008), Wharton & Brunetto (2009), Cialdini & các cộng sự
(2001) và Acquaah (2007) có đề cập đến vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp như
là chất lượng của các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo như tình hữu nghị, hỗ trợ lẫn
nhau, quyền lực, sự công nhận của xã hội, sự cam kết. Còn Tushman & O’Reilly III
(1997) thì chỉ ra các cấu trúc của mạng lươi quan hệ của lãnh đạo như dòng họ, bạn
bè, đối tác kinh doanh, đồng nghiệp, cơ quan báo chí, quan chức/nhân viên thuộc
các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan nghiên cứu, các câu lạc bộ. Tuy nhiên, chưa
Các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp
Mối quan hệ chiều ngang: Mối quan hệ giữa nhân viên với
nhau Mối quan hệ giữa các bộ phận
chức năng ngang cấp với nhau
Mối quan hệ chiều dọc: Mối quan hệ giữa cá nhân cấp
trên với cá nhân cấp dưới, Mối quan hệ giữa bộ phận
chức năng cấp trên với bộ phận chức năng cấp dưới.
Comment [D5]: Sắp xếp lại thứ tự
30
thấy nghiên cứu nào tích hợp hai yếu tố chất lượng và cấu trúc mạng lưới quan hệ
nêu trên để hình thành thang đo vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp BĐS. Nghiên
cứu của luận án sẽ tích hợp hai yếu tố chất lượng và cấu trúc mạng lưới đó để xây
dựng thang đo cho vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp BĐS Việt Nam.
2.3.2 Vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp
Nhiều nghiên cứu về vốn xã hội có đề cập đến vốn xã hội bên ngoài doanh
nghiệp như nghiên cứu của Jansen & các cộng sự (2011), Yang & các cộng sự
(2011) và Landry & các cộng sự (2000). Các nghiên cứu này đề cập đến vốn xã hội
bên ngoài doanh nghiệp là chất lượng các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các
chủ thể trong mạng lưới chiều ngang (khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, các
doanh nghiệp trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh tranh
trong cùng ngành) và mạng lưới chiều dọc (chính quyền các cấp và các công ty mẹ
con trong cùng tập đoàn). Các nghiên cứu này không xây dựng thang đo chất lượng
mối quan hệ cho từng chủ thể trong mạng lưới, mà thay vào đó là đặt ra những câu
hỏi đo lường chung về chất lượng quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể bên
ngoài.
Đối với nghiên cứu của Landry & cộng sự (2000) về vốn xã hội tác động đến
sự cải tiến của doanh nghiệp ở Canada. Trong nghiên cứu này tiếp cận vốn xã hội
dựa trên nhận thức về tầm quan trọng và sự tín cẩn của các mạng lưới quan hệ của
doanh nghiệp tác động đến động lực cải tiến sản phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy
doanh nghiệp có nhận thức về tầm quan trọng của mạng lưới với khách hàng, nhà
cung cấp, đơn vị tư vấn, công ty trong cùng tập đoàn, hệ thống phân phối càng cao
thì động lực cải tiến càng cao. Tuy nhiên các thang đo trong nghiên cứu này không
thể hiện các khía cạnh khác của chất lượng mạng lưới như hỗ trợ và chia sẻ, cũng
như chưa đề cập đến các mạng lưới bên trong và lãnh đạo của doanh nghiệp. Đồng
thời thang đo không được kiểm định thống kê về giá trị hội tụ và phân biệt (chỉ
kiểm định tính nhất quán). Do vậy, luận án này không sử dụng lại các thang đo vốn
xã hội bên ngoài từ những nghiên cứu trên, mà xây dựng thang đo dựa trên chất
31
lượng của các mối quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể bên ngoài doanh
nghiệp BĐS.
2.3.3 Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp
Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp được đề cập đến trong các nghiên cứu
gần đây như Schenkel & Garrison (2009), Nisbet (2007), Goyal & Akhilesh (2007),
và Cheng & các cộng sự (2006). Các nghiên cứu này tiếp cận vốn xã hội bên trong
doanh nghiệp là chất lượng các mối quan hệ theo chiều ngang giữa nhân viên lẫn
nhau và các bộ phận chức năng lẫn nhau; và các mối quan hệ theo chiều dọc giữa cá
nhân cấp trên với cá nhân cấp dưới, giữa bộ phận chức năng cấp trên với bộ phận
chức năng cấp dưới. Nhưng các nghiên cứu này chưa xây dựng thang đo vốn xã hội
bên trong và chưa đánh giá tác động của chúng đến kết quả các hoạt động của
doanh nghiệp. Mặc dù chưa xây dựng thang đo, nhưng việc chỉ ra được cách thức
tiếp cận vốn xã hội bên trong doanh nghiệp sẽ được nghiên cứu này kế thừa để phát
triển thang đo cho doanh nghiệp BĐS.
Như vậy, kết quả lược khảo lý thuyết cho thấy vốn xã hội trong doanh
nghiệp được tiếp cận trên từng khía cạnh riêng lẻ là vốn xã hội bên trong, bên ngoài
và lãnh đạo doanh nghiệp. Ba khía cạnh này được tiếp cận riêng lẻ trong từng
nghiên cứu chứ chưa có nghiên cứu nào trong số các nghiên cứu được lược khảo đề
cập đến vốn xã hội của doanh nghiệp bao gồm cả ba khía cạnh trên. Do vậy, vốn xã
hội của doanh nghiệp đến nay vẫn còn khiếm khuyết trong việc đo lường. Nghiên
cứu này sẽ kết hợp ba khía cạnh vốn xã hội bên ngoài, bên trong và lãnh đạo doanh
nghiệp để xây dựng thang đo vốn xã hội cho doanh nghiệp. Cấu trúc thang đo vốn
xã hội của doanh nghiệp được minh họa ở Hình 2.3.
Hình 2.3: Cấu trúc vốn xã hội của doanh nghiệp trong luận án
Nguồn: Tổng kết từ lược khảo lý thuyết.
Sự cấu thành và chất luợng mạng lưới
Vốn xã hội bên trong
Vốn xã hội bên ngoài
Vốn xã hội của lãnh đạo
32
2.4 CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA DOANH NGHIỆP BẤT ĐỘNG SẢN
2.4.1 Lịch sử hình thành ngành BĐS
Joroff & cộng sự (1993) mô tả BĐS như là một trong năm nguồn lực của tổ
chức bên cạnh các nguồn lực khác là lao động, vốn, công nghệ và kiến thức như
Hình 2.4. Tương tự với quan điểm của Joroff & các cộng sự (1993), Krumm (2001)
cho rằng đặc trưng của các quá trình phát triển của ngành BĐS gắn liền với quá
trình phát triển của các công ty trong các nền kinh tế như Bảng 2.2.
Hình 2.4: Năm nguồn lực của tổ chức
Nguồn:Joroff và các cộng sự (2003)
Trong giai đoạn đầu, khi công ty ở các nền kinh tế chủ yếu định hướng sản
xuất nội địa, chưa thực hiện chiến lược quốc tế hoá, thì BĐS chỉ đóng vai trò hỗ trợ
cho quá trình mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp. Trong giai đoạn này BĐS
chủ yếu được quan tâm ở khía cạnh kỹ thuật như thiết kế và xây dựng cho phù hợp
với công năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các công ty có bộ phận
chuyên trách thực hiện công tác thuê thiết kế, xây dựng văn phòng nhà xưởng cho
các chi nhánh, trụ sở nội địa.
Đến các giai đoạn từ những năm 1980 trở lại đây, khi tiến trình quốc tế hoá,
chuyên môn hoá diễn ra nhanh và sâu sắc, tạo ra áp lực lớn đối với các doanh
nghiệp về cạnh tranh quốc tế và đổi mới công nghệ. Điều này đòi hỏi các doanh
nghiệp phải tập trung nguồn lực cho việc nghiên cứu phát triển công nghệ, phát
triển phương thức phân phối linh hoạt, lựa chọn địa điểm giao dịch thuận lợi. Do
BĐS
Kiến thức
Nhân viên
Công nghệ
Vốn
Các nguồn lực trong các quá trình của doanh nghiệp
33
đó, doanh nghiệp không thể phân tán nguồn lực để thực hiện các hoạt động xây
dựng nhà xưởng, văn phòng đặt trụ sở cho các công ty con địa phương và các địa
điểm phân phối. Thay vào đó các công ty đi thuê hoặc mua sản phẩm dịch vụ có
liên quan đến BĐS. Trước cơ hội đó, nhiều doanh nghiệp được thành lập để đáp
ứng cho các nhu cầu đó của nhiều công ty trên thế giới, đặc biệt là các công ty đa
quốc gia, ngành BĐS được ra đời và phát triển từ đó.
Bảng 2.2: Đặc trưng của doanh nghiệp BĐS qua các giai đoạn phát triển Các tập đoàn đa quốc gia Các công ty BĐS
Từ 1900 đến 1940
Khu vực dịch vụ
Định hướng nội địa. Hoạt động bán lẻ chủ yếu là công ty bạn bè.
BĐS để hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng. Vai trò quan trọng của các thành viên bạn bè trong các công ty bán lẻ.
Khu vực sản xuất
Mở rộng quốc tế hoá sớm. Thành lập các công ty con địa phương do những khó khăn kiểm soát.
Tham gia về kỹ thuật. Liên kết giữa nghiên cứu và kỹ thuật.
Từ 1940 đến 1980
Khu vực dịch vụ
Hoạt động nội địa. Chức năng tổ chức. Chiến lược tăng trưởng.
Tài chính cho BĐS. Công ty kiến trúc. Lựa chọn vị trí.
Khu vực sản xuất
Hoạt động quốc tế hoá. Định hướng địa lý. Cơ cấu phân chia. Chiến lược phát triển. Mở rộng trụ sở chính.
BĐS như là phương tiện để sản xuất. BĐS trong phạm vi địa phương tổ chức các đơn vị kinh doanh.
Từ 1980 đến 2000
Khu vực dịch vụ
Mở rộng thông qua sáp nhập /mua lại. Mở rộng quốc tế. Đa dạng hóa sản phẩm. Địa lý / định hướng thị trường
Tập trung BĐS. Tái tập trung vào vai trò của các trung tâm ngành BĐS. Các hoạt động tập trung vào hòa giải và tư vấn.
Khu vực sản xuất
Phân chia các nhóm với các đơn vị kinh doanh. Xem xét lại vai trò của trụ sở chính. Định hướng sản phẩm. Phân chia theo vùng.
Sáng kiến phối hợp trong hoạt động BĐS. Các hoạt động tập trung vào tư vấn BĐS có tổ chức trong các đơn vị kinh doanh.
Nguồn: Krumm (2001).
Mặt khác, cũng trong giai đoạn từ 1980 trở lại đây, Chính phủ các nước quan
tâm nhiều hơn với công tác quy hoạch đất đai để tạo điều kiện cho sự phát triển bền
vững, đặc biệt quy hoạch các khu/cụm công nghiệp, đô thị, trung tâm thương mại và
giao cho doanh nghiệp phát triển thành các dự án BĐS. Khi ngành BĐS phát triển,
34
đã cho ra đời các tổ chức tài chính trung gian phục vụ cho ngành, đặc biệt là ngân
hàng cho vay BĐS, quỹ tín thác BĐS, quỹ đầu tư BĐS và ở Việt Nam thì ngòai các
thể chế liên quan BĐS nêu trên còn có khả năng hình thành quỹ phát triển nhà ở,
quỹ tiết kiệm nhà ở.
2.4.2 Các đặc trưng của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp BĐS
Cũng như các ngành kinh tế khác, Krumm (2001) chia các doanh nghiệp
BĐS thành hai khu vực là sản xuất và dịch vụ. Khu vực dịch vụ tham gia vào các
chuỗi hoạt động tư vấn pháp lý, thiết kế, giám sát, phân phối và tư vấn tài chính;
khu vực sản xuất thực hiện các hoạt động xây dựng. Tương tự luận điểm của
Krumm (2001), Nelen (2008) đã chỉ ra sáu lĩnh vực kinh doanh trong doanh nghiệp
BĐS là tìm kiếm quỹ đất; nghiên cứu mô hình phát triển dự án trên khu đất và xin
cấp phép để xây dựng dự án; huy động vốn – tìm nguồn tài chính cho dự án; tìm
kiếm công ty xây dựng (nhằm đảm bảo tiến độ, chi phí và chất lượng); tìm kiếm
khách hàng cho thuê/ bán sản phẩm; bán (cho thuê) dự án cho các nhà đầu tư. Tích
hợp sáu lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp BĐS với mô hình chuỗi giá trị của
Porter (1985), có thể phân quá trình kinh doanh của doanh nghiệp BĐS thành 3 giai
đoạn là: (1) hoạt động đầu vào là tìm kiếm quỹ đất, mua hoặc thuê để phát triển dự
án, xin cấp phép, huy động vốn; (2) hoạt động sản xuất: triển khai xây dựng và các
hoạt động nhằm đảm bảo tiến độ, chất lượng và chi phí; (3) hoạt động đầu ra: tìm
kiếm khách hàng cho thuê hoặc bán (xem Hình 2.5).
Hình 2.5: Qui trình hoạt động của doanh nghiệp BĐS đề nghị cho nghiên cứu
của luận án
Nguồn: Tích hợp các luận điểm của Porter (1985), Krumm (2001) và Nelen (2008)
Hoạt động đầu vào
Tiềm kiếm và mua quỹ đất; Xin phép; Huy động vốn.
Hoạt động sản xuất
Xây dựng đảm bảo: tiến độ; chi phí, chất lượng.
Hoạt động đầu ra
Tìm khách hàng cho thuê/bán, kết quả bán hàng.
35
Các nhóm hoạt động của doanh nghiệp BĐS có quan hệ mắt xích chuỗi giá trị trong
một doanh nghiệp, vì thế để đánh giá toàn diện kết quả kinh doanh, doanh nghiệp
cần đánh giá kết quả của cả ba nhóm hoạt động. Đồng thời khi xem xét vai trò của
vốn xã hội trong doanh nghiệp BĐS, cần phải đề cập đến đóng góp của vốn xã hội
vào các hoạt nhóm hoạt động này.
2.5 KHUNG PHÂN TÍCH CỦA NGHIÊN CỨU
Như phân tích ở mục 2.3 đã xây dựng được ba yếu tố cấu thành vốn xã hội là
vốn xã hội bên trong, vốn xã hội bên ngoài và vốn xã hội của lãnh đạo doanh
nghiệp; và mục 2.4 đã tổng kết được các nhóm hoạt động trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp BĐS là các hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Mục
tiêu tổng quát của luận án là nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động
của doanh nghiệp BĐS Việt Nam. Để đạt được mục tiêu tổng quát này, trước hết
phải xây dựng và kiểm định các thang đo cho vốn xã hội và các hoạt động của
doanh nghiệp BĐS. Sau đó là phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động
của doanh nghiệp. Khung phân tích được trình bày như Hình 2.6
Qua lược khảo lý thuyết về vốn xã hội trong doanh nghiệp, cho thấy vốn xã
hội được các nghiên cứu trước đây đề cập đến từng khía cạnh riêng lẻ như vốn xã
hội bên ngoài hoặc vốn xã hội bên trong hoặc vốn xã hội của lãnh đạo. Do vậy, các
thang đo về vốn xã hội bị khiếm khuyết, không đề cập đầy đủ các mạng lưới quan
hệ có liên quan đến tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, nên chưa cung cấp được
một luận chứng khoa học giúp doanh nghiệp tạo lập, phát triển, sử dụng và đánh giá
vốn xã hội trong doanh nghiệp. Hơn nữa, các nghiên cứu đã lược khảo được thực
hiện không phải với đối tượng là ngành BĐS nên các thang đo khiếm khuyết đó
cũng không phù hợp để gợi ý chính sách xây dựng vốn xã hội cho doanh nghiệp
BĐS. Nghiên cứu của luận án sẽ cố gắng khắc phục các khiếm khuyết nêu trên bằng
cách xây dựng thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp BĐS tại Việt Nam bao hàm ba
khía cạnh vốn xã hội bên trong, bên ngoài và lãnh đạo doanh nghiệp.
Cũng tương tự đối với các hoạt động của doanh nghiệp BĐS, nghiên cứu của
luận án sẽ xây dựng các thang đo cho từng nhóm hoạt động. Thông qua các thang
36
đo cho từng nhóm hoạt động là cơ sở để giúp các doanh nghiệp đánh giá kết quả
hoạt động.
Các thang đo vốn xã hội và các nhóm hoạt động trong doanh nghiệp BĐS
được xây dựng dựa trên cơ sở lý thuyết được lược khảo ở phần trên, kết hợp với
nghiên cứu định tính tại doanh nghiệp BĐS Việt Nam. Các thang đo này được kiểm
định chặt chẽ trước khi sử dụng để phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt
động của doanh nghiệp.
Hình 2.6: Khung phân tích mối liên hệ giữa vốn xã hội với các hoạt động của
doanh nghiệp BĐS
Nguồn: Đề xuất của tác giả luận án
Mục tiêu tổng quát của luận án là phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các
hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Mục tiêu này được thực hiện dựa trên các giả
thuyết nghiên cứu có nền tảng lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam. Nghĩa là các giả
thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS phải
Vốn xã hội bên trong
Vốn xã hội của lãnh đạo
Vốn xã hội bên ngoài
Sự cấu thành và chất lượng mạng lưới
Hoạt động đầu vào
Hoạt động đầu ra
Hoạt động sản xuất
Các hoạt động của doanh nghiệp
Vốn xã hội của doanh nghiệp Các nhóm hoạt động của doanh nghiệp
Quan hệ nhân quả
Biểu hiện/đề cập đến
37
được xây dựng dựa trên các lý thuyết có liên quan và được sự thừa nhận của các
chuyên gia trong lĩnh vực BĐS ở Việt Nam. Các giả thuyết nghiên cứu này được
kiểm định về mặt định lượng để khẳng định đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt
động của doanh nghiệp BĐS.
38
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương này sẽ trình bày phương pháp để thực hiện các mục tiêu nêu ra trong
khung phân tích ở Chương 2. Trước hết là thiết kế quy trình thực hiện nghiên cứu từ
lược khảo lý thuyết đi đến xây dựng và kiểm định các thang đo, mô hình nghiên cứu
với các giả thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp
BĐS Việt Nam. Kế đến là trình bày các phương pháp và thiết kế mẫu nghiên cứu
cho từng bước trong các giai đoạn của quy trình nghiên cứu.
3.1 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU
Để giải quyết vấn đề nêu ra trong khung phân tích ở Chương 2 về đóng góp
của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam. Quy trình
nghiên cứu được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn một, xây dựng thang đo và mô
hình nghiên cứu với các giả thuyết đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của
doanh nghiệp BĐS Việt Nam; Giai đoạn hai, kiểm định thang đo và mô hình nghiên
cứu đề xuất ở giai đoạn một cho trường hợp điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh.
Quy trình thực hiện hai giai đoạn nghiên cứu được trình bày cụ thể như sau:
Giai đoạn một: Xây dựng thang đo và mô hình nghiên cứu với các giả
thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt
Nam, trong giai đoạn này được thực hiện gồm hai bước.
Bước 1 là xây dựng các thang đo: Từ khung phân tích đã hình thành được
các khái niệm về biến nghiên cứu làm căn cứ để soạn thảo dàn bài thảo luận tay đôi
dùng cho nghiên cứu định tính lần thứ nhất nhằm xây dựng các thang đo sơ bộ. Sau
đó là khảo sát thử (khoảng 10 người) để hiệu chỉnh tính nhất quán về cách hiểu của
đối tượng phỏng vấn về thang đo, để từ đó hình thành bản câu hỏi dùng cho nghiên
cứu định lượng sơ bộ (đánh giá thang đo sơ bộ). Nghiên cứu định lượng sơ bộ được
tiến hành trên 150 giám đốc (hoặc là phó giám đốc) để đánh giá thang đo bằng công
39
cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA) nhằm
sàng lọc thang đo sử dụng cho nghiên cứu giai đoạn hai loại. .
Bước 2 là xây dựng giả thuyết và mô hình nghiên cứu: sau khi nghiên cứu sơ
bộ giúp hoàn chỉnh các khái niệm nghiên cứu, làm cơ sở cho thiết kế dàn bài thảo
luận tay đôi lần thứ hai nhằm khám phá mối quan hệ giữa vốn xã hội và các hoạt
động của doanh nghiệp BĐS, để hình thành mô hình nghiên cứu với các giả thuyết
đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam.
Giai đoạn hai: Kiểm định thang đo và mô hình nghiên cứu cho trường hợp
điển hình. Giai đoạn hai được thực hiện với các bước sau:
Bước 3 là xác định đối tượng và phạm vi kiểm định thang đo và các giả
thuyết nghiên cứu là các doanh nghiệp BĐS thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi xác
định được đối tượng và phạm vi nghiên cứu sẽ tiến hành soạn thảo bản phỏng vấn
thể hiện các nội dung của các biến quan sát chính trong mô hình nghiên cứu và tổ
chức huấn luyện nhóm điều tra để thu thập và làm sạch dữ liệu.
Bước 4 là kiểm định thang đo bằng công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha)
và phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) để đánh
giá độ thích hợp, tính đơn hướng, giá trị phân biệt, giá trị hội tụ. Sau khi kiểm định
thang đo, mô hình nghiên cứu sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với dữ liệu.
Bước 5 là kiểm định mô hình lý thuyết bằng công cụ mô hình cấu trúc tuyến
tính (SEM) nhằm rút ra kết luận về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của
doanh nghiệp BĐS. Từ đó thảo luận các chính sách nhằm nâng cao kết quả các hoạt
động của doanh nghiệp thông qua sử dụng vốn xã hội cho ngành BĐS tại Việt Nam
nói chung và tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Đồng thời qua đó cũng đề xuất
các chính sách vĩ mô nhằm hạn chế các hình thức liên kết xã hội tích cực và hỗ trợ
doanh nghiệp BĐS phát triển vốn xã hội.
Quy trình thực hiện nghiên cứu được tổng kết ở Hình 3.1
40
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu của luận án
Giai đoạn Các bước thực hiện nghiên cứu
Giai đoạn
một:
Xây dựng
thang đo và mô
hình nghiên
cứu.
Bước 1: Xây dựng các thang đo
Bước 2: Xây dựng giả thuyết và mô hình nghiên cứu
Giai đoạn hai:
Kiểm định
thang đo và mô
hình nghiên
cứu cho một
trường hợp
điển hình.
Bước 3: Xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu điển hình
Bước 4: Kiểm định thang đo và hiệu chỉnh mô hình nghiên cứu
Bước 5: Kiểm định giả thuyết và mô hình nghiên cứu
Nguồn: Đề xuất của tác giả luận án. Ghi chú: n là ký hiệu cỡ mẫu.
Cơ sở lý thuyết về vốn xã hội và các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS
Khung phân tích
Nghiên cứu định tính lần thứ nhất Thang đo sơ bộ
Hoàn chỉnh thang đo và định hình các khái niệm nghiên cứu
Hiệu chỉnh mô hình nghiên cứu cho phù hợp với
Phỏng vấn thử (n=10) Hiệu chỉnh thang đo
Đánh giá sơ bộ thang đo (n=150)
Nghiên cứu định tính lần thứ hai (n=10) Mô hình nghiên cứu
Xác định đối tượng và phạm vi kiểm định thang đo và mô hình nghiên cứu
Thu thập dữ liệu
Kiểm định thang đo Hiệu chỉnh mô hình
Kiểm định mô hình nghiên cứu Kết luận và gợi ý chính sách
41
3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1 Phương pháp xây dựng thang đo
Các thang đo trong nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động
của doanh nghiệp BĐS bao gồm thang đo vốn xã hội và các nhóm hoạt động của
doanh nghiệp. Các thang đo được xây dựng theo phương pháp như sau:
Từ lược khảo lý thuyết ở Chương 2 đã xác định được cấu trúc của vốn xã hội
(bao gồm chất lượng của mạng lưới quan hệ của lãnh đạo, bên ngoài và bên trong
doanh nghiệp) và các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS (bao gồm hoạt động đầu
vào, sản xuất và đầu ra). Căn cứ vào đó để thiết kế dàn bài thảo luận tay đôi phục vụ
cho nghiên cứu định tính lần thứ nhất (xem phụ lục 1) với đối tượng và phương
pháp chọn mẫu như sau: (1) Mẫu được thực hiện trên các lãnh đạo doanh nghiệp
thuộc các loại hình doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài và
ngoài nhà nước (xem danh sách chuyên gia phụ lục 2); (2) Cỡ mẫu không giới hạn
cho đến khi còn phát hiện các vấn đề mới. Thông tin thu thập được mô tả, phân loại
và kết nối các khái niệm để hình thành thang đo theo cách thức sau:
Hình thành thang đo vốn xã hội: Các thông tin thu thập từ thảo luận tay đôi
giúp định hình cấu trúc của các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo, bên ngoài và bên
trong doanh nghiệp BĐS. Kết hợp các khái niệm trong cấu trúc được mô tả với các
đặc trưng biểu hiện chất lượng của mối quan hệ để hình thành các thang đo vốn xã
hội của lãnh đạo, bên ngoài và bên trong doanh nghiệp BĐS.
Hình thành thang đo các hoạt động của doanh nghiệp: Từ việc phân loại
các hoạt động của doanh nghiệp BĐS theo ba nhóm hoạt động đầu vào, sản xuất và
đầu ra. Kết hợp với sự ghi nhận về mong đợi của lãnh đạo doanh nghiệp BĐS trong
các nhóm hoạt động này để hình thành thang đo.
3.2.2 Phương pháp đánh giá sơ bộ thang đo
Các thang đo được xây dựng dựa trên liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định
tính đã đảm bảo giá trị nội dung, nhưng chưa khẳng định được độ tin cậy nên cần
được đánh giá sơ bộ trước khi thực hiện nghiên cứu chính thức. Việc đánh giá được
thực hiện dựa trên dữ liệu nghiên cứu 150 giám đốc doanh nghiệp BĐS được chọn
42
theo phương pháp phân tầng phi xác suất (phân theo loại hình sở hữu doanh nghiệp)
tại thành phố Hồ Chí Minh). Mục tiêu của bước này là sàng lọc các biến nghiên cứu
quan sát dùng để đo lường các khái niệm nghiên cứu đã đề cập trong khung phân
tích của luận án. Các biến quan sát đạt yêu cầu dùng để đưa vào bản câu hỏi sử
dụng cho nghiên trường hợp điển hình. Mặt khác, qua đánh giá sơ bộ cũng xác định
lại cấu trúc của các khái niệm rõ ràng hơn, dùng làm căn cứ để nghiên cứu định tính
lần thứ hai, nhằm khám phá mối quan hệ giữa vốn xã hội và các hoạt động của
doanh nghiệp BĐS, từ đó hình thành các giả thuyết và mô hình nghiên cứu.
Hai công cụ sử dụng trong nghiên cứu định lượng sơ bộ là hệ số tin cậy
(Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA). Hệ số Cronbach’s alpha
được sử dụng để loại các biến không phù hợp khi chúng có hệ số tương quan biến
tổng (Item – total correlation) nhỏ hơn 0,35 và tiêu chuẩn chọn thang đo khi nó có
hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) lớn hơn 0,6 (Hair & các tác giả, 1998). Tuy nhiên,
theo Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2008) thì nếu hệ số tin cậy
Cronbach’s alpha >0,95 thì cũng không tốt vì các biến đo lường hầu như là một.
Tiếp theo, phương pháp EFA được sử dụng để loại đi các biến quan sát có
trọng số tải (factor loading) nhỏ hơn 0,5. Phương sai trích hệ số sử dụng (princical
components) với phép quay vuông góc (varimax) và điểm dừng khi trích các yếu tố
(eigenvalue) bằng 1. Thang đo được chấp nhận khi tổng phương sai trích bằng hoặc
lớn hơn 50% và trọng số nhân tố lớn nhất từ 0,5 trở lên (Gerbing & Anderson,
1988). Hệ số KMO nằm trong khoảng 0,5≤KMO≤1 thì có thể xem phân tích nhân tố
là thích hợp. Kiểm định Bartlett có mức ý nghĩa nhỏ hơn 0,05 thì có thể xem các
biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể (Gerbing & Anderson, 1988).
3.2.3 Phương pháp phát triển giả thuyết và mô hình nghiên cứu
Đánh giá sơ bộ thang đo đã định hình lại cấu trúc của các khái niệm nghiên
cứu. Tiếp theo là dựa vào cấu trúc thang đo để định nghĩa lại các khái niệm vốn xã
hội và các hoạt động của doanh nghiệp để khám phá giả thuyết nghiên cứu. Các giả
thuyết nghiên cứu được xây dựng bằng cách liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định
43
tính lần thứ hai với công cụ thảo luận tay đôi, dàn bài thảo luận bao gồm các nội
dung như sau:
(1) Giới thiệu về mục đích nghiên cứu.
(2) Định nghĩa các khái niệm vốn xã hội của lãnh đạo, bên trong, bên ngoài
doanh nghiệp; và khác khái niệm về hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra của
doanh nghiệp BĐS. Phần này được xây dựng dựa trên kết quả của đánh giá sơ bộ
thang đo.
(3) Thảo luận về mối liên hệ giữa các thành phần của vốn xã hội với từng
nhóm hoạt động của doanh nghiệp để hình thành mô hình nghiên cứu với các giả
thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp.
3.2.4 Phương pháp kiểm định thang đo cho nghiên cứu điển hình
Do các thang đo mới được xây dựng lần đầu nên hai phương pháp đánh giá
thang đo bằng hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám phá
(EFA) được thực hiện lại một lần nữa giúp sàng lọc sơ bộ và nhận dạng cấu trúc
thang đo (Hair và các tác giả, 1998). Tuy nhiên, để có kết luận cuối cùng về giá trị
của bộ thang đo cần sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khẳng định CFA
(Hurley & các tác giả, 1998, trích trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai
Trang, 2008), vì CFA cho phép kiểm định cấu trúc lý thuyết của các thang đo như
mối quan hệ giữa một số khái niệm nghiên cứu với các khái niệm khác mà không bị
chệch do sai số đo lường (Steenkamp & Van Trijp, 1991, trích trong Nguyễn Đình
Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2008). Các tiêu chí đánh giá thang đo bằng công cụ
CFA như sau:
Thứ nhất là tính đơn nguyên: Một thang đo đạt được tính đơn nguyên nếu
mô hình thang đo tương ứng đạt được độ thích hợp chung (phù hợp với dữ liệu).
Mô hình được gọi là tương thích khi phép kiểm định Chibình phương (χ 2 ) có giá trị
mức ý nghĩa (p) lớn hơn 0,05 (Kline, 2010). Tuy nhiên vì Chibình phương có
nhược điểm là phụ thuộc vào kích thước mẫu. Do đó, có thể sử dụng đến các chỉ
tiêu khác: nếu một mô hình có giá trị CFI từ 0,9 đến 1, CMIN/df<2 (theo Kline
(2010) thì giá trị CMIN/df vẫn có thể chấp nhận ở mức nhỏ hơn 3) và RMSEA<0,8
44
thì mô hình được xem là thích hợp với dữ liệu (Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị
Mai Trang, 2008).
Thứ hai là giá trị hội tụ: (1) hệ số hồi quy nhân tố (Factor loadings) có ý
nghĩa thống kê và có giá trị ≥ 0,5 (Hilderbrandt, 1987, trích trong Nguyễn Đình Thọ
& Nguyễn Thị Mai Trang, 2008); (2) Mô hình thỏa mãn phù hợp với dữ liệu.
Thứ ba là giá trị phân biệt: (1) Tương quan giữa hai thành phần của một
khái niệm hay giữa hai khái niệm nhỏ hơn 1 và có ý nghĩa; (2) Mô hình thỏa mãn
phù hợp với dữ liệu;
Thứ tư là độ tin cậy tổng hợp (αc) và phương sai trích (ρvc):
Độ tin cậy tổng hợp (αc) và phương sai trích (ρvc) được tính theo công thức
sau:
2
1
2 2
1 1
( )
( ) (1 )
p
i i
c p p
i i i i
λ α
λ λ
=
= =
= + −
∑
∑ ∑ và
2
1
2 2
1 1
(1 )
p
i i
vc p p
i i i i
λ ρ
λ λ
=
= =
= + −
∑
∑ ∑
Trong đó i λ là trọng số chuẩn hóa của biến quan sát thứ i, 1 i λ 2 là phương
sai của sai số đo lường biến quan sát thứ i và p là biến quan sát của thang đo
(Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2009).
Theo Hair & các tác giả (1998) thang đo đảm bảo độ tin cậy khi độ tin cậy
tổng hợp phải lớn hơn 0,6 và phương sai trích phải lớn hơn 50%.
Việc kiểm định thang đo bằng công cụ CFA được tiến hành qua hai bước
sau:
Bước 1: Phân tích CFA riêng cho từng thang đo để khẳng định tính đơn
nguyên, độ tin cậy tổng hợp, phương sai trích và giá trị hội tụ. Ngoài ra đối với các
thang đo đa hướng kiểm định thêm về giá trị phân biệt giữa các thành phần của
thang đo.
Bước 2: Phân tích CFA chung cho tất cả các thang đo để kiểm định giá trị
hội tụ và giá trị phân biệt giữa các khái niệm nghiên cứu.
45
Sau khi kiểm định các thang đo bằng công cụ CFA, các biến quan sát không
phù hợp sẽ tiếp tục bị loại. Do vậy, mô hình nghiên cứu sẽ được điều chỉnh cho phù
hợp với dữ liệu nghiên cứu trước khi thực hiện kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.
3.2.5 Phương pháp kiểm định giả thuyết và mô hình nghiên cứu cho trường
hợp điển hình
Phương pháp phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) được sử dụng để
kiểm định mô hình lý thuyết. Mô hình SEM ngoài việc có ưu điểm hơn so với các
phương pháp truyền thống như hồi quy đa biến do tính được sai số đo lường, còn
cho phép kết hợp các khái niệm tiềm ẩn với đo lường của chúng và có thể xem xét
các đo lường độc lập hay kết hợp chung với mô hình lý thuyết cùng một lúc
(Hulland & các tác giả, 1996, trích trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai
Trang, 2008). Phương pháp hợp lý tối đa (Maximum Likelihood) được sử dụng để
ước lượng các tham số trong mô hình nghiên cứu nếu dữ liệu có phân phối chuẩn.
Mô hình SEM trước hết được sử dụng để đánh giá sự thích hợp của mô hình
tương tự như CFA (mô hình được xem là thích hợp với dữ liệu khi các chỉ tiêu CFI
từ 0,9 đến 1, CMIN/df<2 và RMSEA<0,8). Kế đến là kiểm định các giả thuyết
trong mô hình nghiên cứu bằng các tham số giá trị ước lượng, giá trị tới hạn và mức
ý nghĩa của giá trị ước lượng (p).
3.3 THIẾT KẾ MẪU NGHIÊN CỨU
3.3.1 Thiết kế mẫu cho xây dựng thang đo sơ bộ
Việc xây dựng mô hình lý thuyết được thực hiện bằng phương pháp liên hệ
lý thuyết và nghiên cứu định tính với công cụ thảo luận tay đôi chủ yếu với các
giám đốc doanh nghiệp BĐS Việt Nam. Do vậy, phương pháp chọn mẫu theo mục
tiêu (purposeful sampling) được sử dụng trong giai đoạn này (Nguyễn Đình Thọ,
2010). Trước hết là tham gia vào các hội thảo do hiệp hội BĐS thành phố Hồ Chí
Minh và Việt Nam tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội để nắm bắt thông
tin tổng quan về thị trường BĐS Việt Nam. Tiếp theo là tiếp cận với các giám đốc
doanh nghiệp BĐS có khả năng cung cấp thông tin sâu với kỹ thuật thảo luận tay
đôi (phỏng vấn sâu – indepth interviews) nhằm thu thập thông tin phục vụ cho quá
46
trình xây dựng thang đo vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Cỡ
mẫu không giới hạn cho đến khi không còn phát hiện thêm vấn đề mới.
3.3.2 Thiết kế mẫu cho đánh giá sơ bộ thang đo
Sau khi thang đo sơ bộ được hình thành, nghiên cứu định lượng được thực
hiện đối với các doanh nghiệp BĐS ở thành phố Hồ Chí Minh để đánh giá sơ bộ
thang đo nhằm xác định thang đo chính thức cho nghiên cứu giai đoạn hai. Phương
pháp lấy mẫu phân tầng phi xác suất (phân theo loại hình sở hữu doanh nghiệp)
được thực hiện với cỡ mẫu là 150 quan sát. Đối tượng trả lời phỏng vấn là giám đốc
hoặc phó giám đốc doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh.
3.3.3 Thiết kế mẫu cho xây dựng giả thuyết và mô hình nghiên cứu
Sau khi đánh giá sơ bộ thang đo để hình thành thang đo chính thức và định
hình rõ ràng về cấu trúc của các khái niệm nghiên cứu. Nghiên cứu định tính lần thứ
hai được thực hiện bằng phương pháp thảo luận tay đôi nhằm xây dựng mô hình lý
thuyết. Dàn bài thảo luận tay đôi lần thứ hai được soạn thảo dựa trên kết quả nghiên
cứu sơ bộ với những câu hỏi về mối liên hệ giữa vốn xã xã hội với các hoạt động
của doanh nghiêp BĐS. Phương pháp chọn mẫu theo mục tiêu (purposeful
sampling) được sử dụng trong giai đoạn này (Nguyễn Đình Thọ, 2010). Đối tượng
phỏng vấn là giám đốc các doanh nghiệp BĐS, và cỡ mẫu không giới hạn cho đến
khi không còn phát hiện thêm vấn đề mới về mối liên hệ giữa vốn xã hội và các
hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam.
3.3.4 Phương pháp thiết kế mẫu cho kiểm định thang đo và mô hình lý thuyết
cho nghiên cứu điển hình
Sau khi đã hình thành được thang đo chính thức và các giả thuyết cho mô
hình nghiên cứu, rất cần kiểm định các giả thuyết này trên phạm vi cả nước. Tuy
nhiên, điều này không thể thực hiện bởi vì hạn chế về thời gian và kinh phí. Do vậy,
mô hình nghiên cứu được kiểm định trên mẫu được chọn theo phương pháp phân
tầng phi xác suất (phân theo loại hình sở hữu doanh nghiệp), đối tượng khảo sát là
giám đốc hoặc phó giám đốc của các doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí
47
Minh. Việc chọn mẫu này nhằm mục đích là kiểm định mô hình cho trường hợp
điển hình, không nhằm mục đích kiểm định đại diện cho cả ngành BĐS Việt Nam.
Trong giai đoạn kiểm định mô hình lý thuyết, phương pháp phân tích dữ liệu
chính được sử dụng là mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Các nhà nghiên cứu
trong lĩnh vực này đều đồng ý là phương pháp này đòi hỏi phải có kích thước mẫu
lớn vì nó dựa trên lý thuyết phân phối mẫu lớn (Raykov & Widama, 1995, trích
trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2008). Kích thước mẫu phụ
thuộc vào phương pháp ước lượng, có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nếu sử dụng
phương pháp hợp lý tối đa (Maximun Likelihood) thì kích thước mẫu tối thiểu phải
100 đến 150 (Hair & các tác giả, 1998). Theo kinh nghiệm, kích thước mẫu 300 là
tốt, 500 là rất tốt, và 1.000 là tuyệt vời (Comrey & Lee, 1992; Tabachnick & Fidell,
2001 (trích trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2008)). Theo Bollen
(1998), kích thước mẫu tối thiểu là 5 mẫu cho một tham số cần ước lượng, trong
luận án này sẽ vận dụng nguyên lý này để xác định kích thước mẫu cho kiểm định
mô hình lý thuyết. Trong trường hợp không đủ bậc tự do để phân tích cho từng biến
quan sát riêng lẻ trong mô hình thì sẽ gộp các biến quan sát cùng đo lường một
thành phần bằng phép tính trung bình. Việc xác định kích thước mẫu cụ thể sẽ được
thực hiện sau khi xây dựng được mô hình lý thuyết và thang đo chính thức.
3.4 TÓM TẮT PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Quy trình thực hiện nghiên cứu gồm hai giai đoạn là (1) xây dựng thang đo
và mô hình lý thuyết; (2) kiểm định thang đo và mô hình lý thuyết cho nghiên cứu
điển hình.
Các phương pháp được sử dụng cho giai đoạn xây dựng thang đo là nghiên
cứu định tính lần thứ nhất với công cụ thu thập thông tin là thảo luận tay đôi và xử
lý bằng phương pháp mô tả, phân loại và kết nối để hình thành thang đo sơ bộ.
Thang đo được hình thành từ nghiên cứu định tính được đánh giá sơ bộ bằng công
cụ Cronbach’s alpha và EFA với cỡ mẫu 150 quan sát để hình thành thang đo chính
thức và xác định lại cấu trúc của các thang đo thành phần. Sau đó, thực hiện nghiên
cứu định tính lần thứ hai để hình thành các giả thuyết và mô hình nghiên cứu.
Comment [D6]: Công thức tính toán cỡ mẫu áp dụng trong trường hợp này là không phù hợp, bởi vĩ cỡ mẫu được tính cho trường mục đích đtra là ước lượng GTTB hoặc tỷ lệ cho một biến số cụ thể. Luận án này không nhằm mục đích đó. Hơn nữa việc tính toán cở mẫu chủ yếu là với giả định sai số tối đa chấp nhận. Ở đây không đề cập đến sai số của một biến đại diện nào cả.
48
Trong giai đoạn kiểm định thang đo và mô hình nghiên cứu cho trường hợp
điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh với các công cụ được sử dụng là CFA dùng để
đánh giá thang đo và hiệu chỉnh mô hình nghiên cứu cho phù hợp với bộ dữ liệu;
phương pháp phân tích SEM được sử dụng để kiểm định mô hình nghiên cứu. Tóm
tắt quy trình, phương pháp và chọn mẫu được sử dụng cho nghiên cứu ở Bảng 3.1.
Bảng 3.1: Tóm tắt phương pháp nghiên cứu
Giai đoạn Các bước trong giai đoạn
Phương pháp nghiên cứu
Giai đoạn một: Xây dựng thang đo và mô hình nghiên cứu.
Bước 1: Xây dựng thang đo
Thảo luận tay đôi lần thứ nhất: Đối tượng là Giám đốc doanh nghiệp BĐS, dàn bài thảo luận lần thứ nhất, kỹ thuật mô tả, phân loại và kết nối để hình thành thang đo sơ bộ. Đánh giá thang đo sơ bộ với cỡ mẫu 150 giám đốc doanh nghiệp BĐS: Cronbach’s alpha: Loại bỏ biến nghiên cứu có hệ số
tương quan biến – tổng nhỏ (<0,35); Kiểm tra hệ số Cronbach’s alpha (>0,6).
EFA: Kiểm tra nhân tố và phương sai trích được (>0,50); Loại các biến có trọng số EFA nhỏ (<0,60); hệ số 0,5≤KMO≤1; mức ý nghĩa của kiểm định Barlette <0,05
Bước 2: Xây dựng giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu
Thảo luận tay đôi lần thứ hai: Đối tượng là Giám đốc doanh nghiệp BĐS, dàn bài thảo luận lần thứ hai, kỹ thuật mô tả, phân loại và kết nối để hình thành mô hình nghiên cứu.
Giai đoạn hai: Kiểm định thang đo và mô hình nghiên cứu cho trường hợp điển hình tại doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh.
Bước 3: Xác định đối tượng và phạm vi kiểm định
Đối tượng khảo sát là Giám đốc hoặc Phó giám đốc doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh. Chọn mẫu theo phương pháp thuận tiện; Cỡ mẫu phân bổ theo các loại hình sở hữu doanh nghiệp.
Bước 4: Kiểm định thang đo
Cronbach’s alpha; EFA với tiêu chí lựa chọn như bước 1 của giai đoạn một. CFA: Kiểm tra tính thích hợp của mô hình; loại các biến có trọng số CFA nhỏ (<0,5); Kiểm tra tính đơn nguyên, giá trị hội tụ và phân biệt.
Bước 5: Kiểm định giả thuyết nghiên cứu và mô hình
SEM: Đánh giá độ thích hợp (0,9<CFI; CMIN/df<2 và RMSEA<0,8).
Nguồn: Tổng kết của tác giả luận án.
49
CHƯƠNG 4
XÂY DỰNG THANG ĐO VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐÓNG GÓP
CỦA VỐN XÃ HỘI VÀO CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM
Chương 4 sẽ thực hiện xây dựng thang đo, đánh giá sơ bộ thang đo và xây
dựng mô hình nghiên cứu với các giả thuyết về đóng góp của vốn xã hội trong quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp BĐS Việt Nam (thực hiện giai đoạn một trong
quy trình nghiên cứu như đề xuất ở chương 3). Trước hết là xây dựng thang đo sơ
bộ cho các khái niệm nghiên cứu bằng phương pháp nghiên cứu định tính lần thứ
nhất. Kế đến là đánh giá sơ bộ thang đo trên cỡ mẫu 150 quan sát bằng công cụ hệ
số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA) để sàng lọc
thang đo không phù hợp, qua đó hình thành các biến quan sát cho nghiên cứu điển
hình. Cuối cùng là xây dựng mô hình nghiên cứu với các giả thuyết đóng góp của
vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam bằng phương pháp
nghiên cứu định tính lần thứ hai.
4.1 PHÁT TRIỂN THANG ĐO VỐN XÃ HỘI VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG
CỦA DOANH NGHIỆP BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM
4.1.1 Phát triển thang đo vốn xã hội
4.1.1.1 Vốn xã hội lãnh đạo doanh nghiệp
Từ lược khảo lý thuyết ở Chương 2 đã chỉ ra được chất lượng của các mạng
lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp. Chất lượng của các mạng lưới quan hệ bao
gồm: (1) nhận thức về mối quan hệ bao gồm sự tín cẩn, chia sẻ, hỗ trợ, chuẩn mực,
kỳ vọng lẫn nhau và thực hiện nghĩa vụ; (2) Sự liên kết với hình thức co cụm vào
nhau, vươn ra bên ngoài; (3) Sự tham gia vào các tổ chức xã hội như tần suất, mức
độ kết nối, nhận được sự hỗ trợ từ mạng lưới. Các chủ thể trong mạng lưới quan hệ
với lãnh đạo bạn bè, bạn bè, đối tác kinh doanh, đồng nghiệp, cơ quan báo chí, quan
chức/nhân viên thuộc các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan nghiên cứu, các câu
lạc bộ.
Comment [D7]: Mới việt lại phần giới thiệu
50
Đối với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp BĐS ở Việt Nam thì mạng lưới xã
hội của họ được cấu thành giống như lý thuyết hay không? Để trả lời câu hỏi này,
trong các cuộc thảo luận với chuyên gia, tác giả nêu ra câu hỏi mở là: “Với tư cách
là lãnh đạo doanh nghiệp, Ông/ bà thường xuyên tìm đến ai để giúp đỡ khi doanh
nghiệp gặp phải những vấn đề cần tư vấn?”; câu hỏi thứ hai là: “đối tượng nào được
lãnh đạo doanh nghiệp thường xuyên nhờ giúp đỡ cho các hoạt động kinh doanh?”.
Hai câu hỏi trên được phỏng vấn với 10 lãnh đạo doanh nghiệp, tuy nhiên
khi hỏi đến người thứ 6 trở đi là không còn thêm nội dung mới. Kết quả khám phá
các chủ thể cấu thành mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp bao gồm dòng
họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính quyền và đồng nghiệp, tóm tắt trong Bảng 4.1.
Bảng 4.1: Phân nhóm các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp
Mạng lưới Diễn giải mạng lưới
Mạng lưới dòng họ Mối quan hệ với bà con trong dòng họ.
Mạng lưới bạn bè Mối quan hệ với những người bạn thông qua hoạt động cá
nhân của người lãnh đạo.
Mạng lưới kinh doanh Khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh, nhà phân phối,
hiệp hội, đơn vị tư vấn…
Mạng lưới chính quyền Mối quan hệ của lãnh đạo với cá nhân thuộc cơ quan chính
quyền.
Mạng lưới đồng nghiệp Mối quan hệ của lãnh đạo với các đồng nghiệp.
Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.
Sau đó là xem xét các mối quan hệ này được hình thành như thế nào và cách
thức chúng mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. Các câu hỏi nhằm vào mục đích này
được thiết kế dựa vào các yếu tố thể hiện chất lượng của mạng lưới quan hệ là nhận
thức về mối quan hệ, sự liên kết và tham gia. Câu hỏi mở như sau: “Ông/bà làm thế
nào có thể duy trì và khai thác các mối quan hệ xã hội để đạt được sự hỗ trợ cho bản
thân? Câu hỏi trên sử dụng để thảo luận với 10 giám đốc doanh nghiệp BĐS, nhưng
đến người thứ 6 không còn phát hiện nội dung mới. Kết quả thảo luận cho thấy có
bốn yếu tố cấu thành của chất lượng các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo là sự tham
gia thường xuyên vào các sự kiện của mạng lưới để duy trì và thiết lập các mối quan
51
hệ, tin tưởng, chia sẻ và giúp đỡ. Theo Putnam (1995, 2000) bốn yếu tố này không
tách rời nhau mà có mối tương quan chặt chẽ với nhau vì vốn xã hội cần được duy
trì để tạo lòng tin hay sự tín cẩn để từ đó nhận được sự giúp đỡ và chia sẻ. Hầu hết
các nhà lãnh đạo cho rằng muốn nhận được sự giúp đỡ từ các mạng lưới xã hội,
điều quan trọng nhất là phải biết cách tạo lập các mối quan hệ thông qua việc tham
gia thường xuyên vào các sự kiện để duy trì mối quan hệ, phải tạo được lòng tin,
thông qua đó nhận được sự chia sẻ và giúp đỡ (tổng kết ở Hình 4.1).
Hình 4.1: Chất lượng các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp
Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.
Kế thừa ý tưởng về vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp từ các nghiên cứu
McCallum & O'Connell (2009), Truss & Gill (2009), Paré & các cộng sự (2008),
Wharton & Brunetto (2009), Cialdini & các cộng sự (2001), Tushman & O’Reilly
III (1997), Acquaah (2007) về tích hợp hai nội dung của chất lượng mạng lưới với
cấu trúc các mạng lưới vừa khám phá ở trên, các thang đo thành phần của vốn xã
hội lãnh đạo được hình thành với các thành phần biểu hiện chất lượng quan hệ của
lãnh đạo trong các mạng lưới dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính quyền và
đồng nghiệp được trình bày ở Bảng 4.2.
Tạo lập và duy trì
Tin tưởng
Chia sẻ
Nhận được giúp đỡ
52
Bảng 4.2: Thang đo vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp Thành phần Ký hiệu và nội dung thang đo
Mạng lưới
dòng họ
Với tư cách là lãnh đạo doanh nghiệp,
L1: Tôi đã thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với những người trong dòng họ
L2: Tôi luôn nhận được sự tin tưởng từ những người trong dòng họ
L3: Tôi luôn nhận được sự chia sẻ từ những người trong dòng họ
L4: Tôi thường nhận được sự giúp đỡ từ những người trong dòng họ
Mạng lưới
Bạn bè
L5: Tôi đã thiết lập và duy trì tốt mối quan hệ với bạn bè của tôi
L6: Tôi luôn nhận được sự tin tưởng từ bạn bè của tôi
L7: Tôi luôn nhận được sự chia sẻ từ bạn bè của tôi
L8: Tôi thường nhận được sự giúp đỡ từ bạn bè của tôi
Mạng lưới
đối tác kinh
doanh
L9: Tôi đã thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với các đối tác kinh doanh
L10: Tôi luôn nhận được sự tin tưởng từ các đối tác kinh doanh
L11: Tôi luôn nhận được sự chia sẻ thông tin từ đối tác kinh doanh
L12: Tôi thường nhận được sự giúp đỡ từ đối tác kinh doanh
Mạng lưới
chính quyền
L13: Tôi đã thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền
L14: Tôi luôn nhận được sự tin tưởng từ các cấp chính quyền
L15: Tôi luôn nhận được sự chia sẻ thông tin từ các cấp chính quyền
L16: Tôi thường nhận được sự giúp đỡ từ các cấp chính quyền
Mạng lưới
đồng nghiệp
L17: Tôi đã thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp
L18: Tôi luôn nhận được sự tin tưởng từ các đồng nghiệp
L19: Tôi luôn nhận được sự chia sẻ kiến thức từ các đồng nghiệp
L20: Tôi thường nhận được sự giúp đỡ từ các đồng nghiệp
Nguồn: Đề xuất của tác giả từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.
4.1.1.2 Vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp
Chương 2 đã chỉ ra ý tưởng xây dựng vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp từ
các nghiên cứu của Jansen & các cộng sự (2011), Yang & các cộng sự (2011),
Landry & các cộng sự (2000), trên cở sở tích hợp chất lượng và cấu trúc mạng lưới
quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể bên ngoài. Vốn xã hội bên ngoài thể hiện
chất lượng các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong mạng lưới
chiều ngang: khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, các doanh nghiệp trong
cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành;
53
và mạng lưới chiều dọc: chính quyền các cấp và các công ty mẹcon trong cùng tập
đoàn.
Để phát triển thang đo vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp cho phù hợp với
các công ty BĐS Việt Nam, nghiên cứu thiết kế câu hỏi thảo luận tay đôi phục vụ
cho nghiên cứu định tính là: “doanh nghiệp Ông/ bà nhận được lợi ích từ việc tham
gia/thiết lập quan hệ với các đơn vị nào? và lợi ích nhận được là gì?”; Hai câu hỏi
trên được thực hiện trên 10 lãnh đạo doanh nghiệp, tuy nhiên phỏng vấn đến người
thứ 8 thì nội dung các câu trả lời không phát hiện thêm những điểm mới. Kết quả
cho thấy các chủ thể trong mạng lưới của doanh nghiệp gồm hai nhóm: nhóm thứ
nhất là các chủ thể theo quan hệ chiều ngang bao gồm khách hàng, nhà cung cấp,
đối thủ cạnh tranh, hiệp hội và hội chợ/triển lãm; nhóm thứ hai là các chủ thể có
mối quan hệ theo chiều dọc giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước
các cấp và các công ty trong cùng tập đòan. Các mạng lưới này được trình bày Hình
4.2.
Hình 4.2: Phân nhóm mạng lưới quan hệ bên ngoài của doanh nghiệp
Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.
Để thiết lập vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp, trước hết là xuất phát từ việc
lựa chọn khu vực kinh doanh (cụm kinh doanh), bởi vì khu vực kinh doanh là không
gian chứa đựng các chủ thể trong mạng lưới quan hệ của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp thường có xu hướng lựa chọn khu vực kinh doanh có nhiều cơ hội tiếp cận
Mạng lưới quan hệ bên ngoài
Chiều ngang Khách hàng Nhà phân phối Nhà cung cấp Đơn vị tư vấn Hiệp hội
Chiều dọc Chính quyền các cấp; Các công ty mẹ/con trong cùng tập đoàn
54
khách hàng, lựa chọn nhà cung cấp, nhà phân phối, đơn vị tư vấn, hiệp hội và ảnh
hưởng của chính sách phát triển địa phương (Porter, 1990; Landry và các cộng sự,
2000). Lựa chọn khu vực kinh doanh tốt là điều kiện cần để giúp doanh nghiệp
thuận lợi trong các hoạt động nhưng chưa đủ, mà cần biết cách tạo lập và duy trì các
mối quan hệ thông qua chiến lược, chính sách đối ngoại với sự cam kết thực hiện.
Làm như vậy sẽ tạo ra được uy tín và sự tin tưởng để nhận được lợi ích phản hồi từ
đối tác. Kết nối các nội dung này lại, có thể khái quát các thuộc tính chất lượng
quan hệ bên ngoài doanh nghiệp như Hình 4.3.
Hình 4.3: Chất lượng của các mạng lưới quan hệ bên ngoài doanh nghiệp
Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.
Các thang đo thành phần của vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp biểu hiện
chất lượng của các mạng lưới quan hệ bên ngoài như khách hàng, nhà phân phối,
nhà cung cấp, đơn vị tư vấn, hiệp hội, chính quyền các cấp, các công ty trong cùng
tập đoàn. Các thang đo được trình bày ở Bảng 4.3.
Lựa chọn cụm kinh doanh
Tạo lập
Duy trì
Tin tưởng
Giúp đỡ
55
Bảng 4.3: Thang đo vốn xã hội bên ngoài của doanh nghiệp
Mạng lưới Ký hiệu và nội dung thang đo
Khách hàng EX21: Trong khu vực này chúng tôi có nhiều cơ hội phát triển khách hàng mới EX22: Doanh nghiệp chúng tôi luôn có chính sách thu hút thêm khách hàng EX23: Doanh nghiệp chúng tôi có chính sách chăm sóc khách hàng tốt EX24: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin tốt đối với khách hàng EX25: Khách hàng của doanh nghiệp chúng tôi tăng như mong muốn
Nhà phân phối
EX26: Trong khu vực này chúng tôi có nhiều cơ hội liên kết với nhà phân phối EX27: Chúng tôi luôn có chính sách trong việc phát triển thêm nhà phân phối EX28: Chúng tôi luôn có chính sách duy trì sự hợp tác với nhà phân phối EX29: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin tốt đối với nhà phân phối EX30: Nhà phân phối cho doanh nghiệp chúng tôi tăng như mong muốn
Nhà cung cấp EX31: Trong khu vực này chúng tôi có nhiều cơ hội lựa chọn nhà cung cấp tốt EX32: Chúng tôi luôn có chính sách tốt trong việc phát triển thêm nhà cung cấp EX33: Chúng tôi luôn có chính sách tốt để duy trì sự hợp tác với nhà cung cấp EX34: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin đối với nhà cung cấp EX35: Nhà cung cấp cho doanh nghiệp chúng tôi đạt chất lượng như mong muốn
Đơn vị tư vấn EX36: Trong khu vực này chúng tôi có nhiều cơ hội tiếp cận đơn vị tư vấn tốt EX37: Doanh nghiệp chúng tôi có chính sách phát triển thêm các đơn vị tư vấn EX38: Doanh nghiệp chúng tôi luôn có chính sách duy trì sự hợp tác với đơn vị tư vấn EX39: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin tốt đối với các đơn vị tư vấn EX40: Nhà tư vấn của doanh nghiệp chúng tôi đạt chất lượng mong muốn
Chính quyền các cấp
EX41: Trong khu vực này chúng tôi được hưởng lợi từ chính sách địa phương EX42: Chúng tôi có chiến lược tranh thủ sự hỗ trợ các chính sách của nhà nước EX43: Doanh nghiệp chúng tôi thường xuyên tham gia hỗ trợ cộng đồng EX44: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin tốt đối với chính quyền các cấp EX45: Chính quyền các cấp hỗ trợ cho doanh nghiệp của chúng tôi như mong muốn
Các công ty trong cùng tập đoàn
EX46: Trong khu vực này chúng tôi dễ dàng hợp tác với các đơn vị cùng tập đoàn EX47: Doanh nghiệp chúng tôi thực hiện tốt chiến lược của cả tập đoàn EX48: Chúng tôi có chính sách duy trì mối quan hệ tốt với các công ty cùng tập đoàn EX49: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin với các công ty cùng tập đoàn EX50: Chúng tôi nhận được sự hỗ trợ của các công ty cùng tập đoàn như mong muốn
Hiệp hội EX51: Trong khu vực này chúng tôi có nhiều cơ hội tham gia các hiệp hội EX52: Doanh nghiệp chúng tôi có chủ trương tham gia tất cả các hiệp hội có liên quan EX53: Doanh nghiệp chúng tôi chính sách duy trì tham gia các hiệp hội thường xuyên EX54: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin tốt đối với thành viên các hiệp hội EX55: Hiệp hội cung cấp thông tin cho chúng tôi đầy đủ và chính xác như mong muốn
Nguồn: Đề xuất của tác giả từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.
56
4.1.1.3 Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp
Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp thể hiện chất lượng các mối quan hệ giữa
các chủ thể trong mạng lưới chiều ngang: mối quan hệ giữa nhân viên với nhau,
giữa các bộ phận chức năng với nhau; và chiều dọc: mối quan hệ giữa cá nhân cấp
trên với cá nhân cấp dưới, giữa bộ phận chức năng cấp trến với bộ phận chức năng
cấp dưới (Porter,1985; Kaplan và Norton, 1996; Schaufeli & Salanova, 2007;
Luthans &Youssef (2007a, 2007b); Lee & các tác giả , 2001; YliRenko & các
cộng sự, 2001; Koonmee & các cộng sự, 2010; Luthans & các cộng sự, 2008). Chất
lượng mối quan hệ biểu hiện qua sự hợp tác giữa các cá nhân/ bộ phận chức năng
trong tổ chức như sự tin tưởng, sự chia sẻ kiến thức, sự hỗ trợ, đòan kết lẫn nhau để
hoàn thành các mục tiêu của tổ chức (Nahapiet & Ghosal, 1998).
Để xem xét sự phù hợp các yếu tố trên với việc đo lường vốn xã hội bên
trong của doanh nghiệp BĐS Việt Nam, nghiên cứu định tính bằng phương pháp
thảo luận tay đôi với câu hỏi: “Ông/bà vui lòng cho biết điều gì nâng cao kết quả
hợp tác trong công việc của các nhân viên/bộ phận chức năng trong công ty?”. Câu
hỏi này được thực hiện trên 10 giám đốc doanh nghiệp BĐS, nhưng hỏi đến người
thứ 8 thì không còn phát hiện nội dung mới. Kết quả thu được từ ý kiến các nhà
lãnh đạo doanh nghiệp BĐS cho rằng để các cá nhân/ bộ phận chức năng trong
doanh nghiệp hợp tác hiệu quả, trước hết cần có cơ chế khuyến khích nhân viên hợp
tác như quy trình hướng dẫn công việc, hệ thống giao tiếp, văn hóa công ty để từ đó
làm cơ sở cho mọi người sự tin tưởng, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn
nhau. Tuy nhiên, cơ chế chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ, điều kiện đủ là lãnh
đạo cần phải có nghệ thuật kết nối mọi người/ bộ phận chức năng hợp tác lẫn nhau,
chẳng hạn như phương pháp giao việc theo mục tiêu, kiểm soát hành vi, giải quyết
xung đột. Chất lượng vốn xã hội bên trong được tổng kết như Hình 4.4.
Hình 4.4: Chất lượng quan hệ giữa nhân viên/bộ phận chức năng
Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.
Tạo cơ chế hợp tác
Nghệ thuật triển khai cơ chế hợp tác
Duy trì và cải tiến cơ chế hợp tác
Biểu hiện của sự hợp tác
57
Các yếu tố biểu hiện chất lượng của mối quan hệ được ghi nhận từ các
chuyên gia bao gồm sự nỗ lực tạo lập, duy trì và cải tiến cơ chế hợp tác. Cơ chế này
được đảm bảo thực thi bằng các nghệ thuật giao việc theo mục tiêu từ lãnh đạo cho
nhân viên và các bộ phận chức năng, đồng thời phải có hành động giám sát và giải
quyết xung đột hợp lý. Biểu hiện chất lượng của sự hợp tác được đánh giá thông
qua mức độ tin tưởng, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau giữa các
nhân viên/ bộ phận chức năng trong tổ chức. Các thang đo thành phần của vốn xã
hội bên trong doanh nghiệp biểu hiện chất lượng của các mạng lưới quan hệ chiều
dọc và chiều ngang giữa cá nhân và bộ phận chức năng trong doanh nghiệp được
trình bày ở Bảng 4.4.
Bảng 4.4: Thang đo vốn xã hội bên trong doanh nghiệp Thành phần Ký hiệu và nội dung thang đo
Hợp tác giữa
các cá nhân
I56: Chúng tôi luôn chú trọng tạo ra cơ chế hợp tác giữa các cá nhân.
I57: Chúng tôi luôn giám sát sự hợp tác giữa các cá nhân.
I58: Cấp trên giao việc cho cấp dưới chú trọng đến sự hợp tác giữa các cá nhân
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
I59: Hầu hết mọi người trong công ty tin tưởng lẫn nhau.
I60: Hầu hết mọi người trong công ty rất sẵn sàng chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm
cho nhau trong giải quyết các công việc.
I61: Sự hợp tác giữa các cá nhân ở doanh nghiệp chúng tôi đạt kết quả tốt.
Hợp tác các
bộ phận chức
năng
I62: Chúng tôi luôn chú trọng tạo ra cơ chế hợp tác giữa các bộ phận chức năng.
I63: Chúng tôi có cơ chế giám sát sự hợp tác giữa các bộ phận chức năng.
I64: Cấp trên giao việc cho cấp dưới chú trọng đến sự hợp tác giữa các bộ phận
chức năng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
I65: Hầu hết các bộ phận chức năng trong công ty rất thiện chí hỗ trợ lẫn nhau
trong công việc để hoàn thành mục tiêu chung của công ty.
I66: Các công việc đạt hiệu quả cao của doanh nghiệp chúng tôi dựa trên sự hợp tác giữa các bộ phận chức năng.
Nguồn: Đề xuất của tác giả từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.
Như vậy, kết quả nghiên cứu định tính cho thấy vốn xã hội của doanh nghiệp
là thang đo đa hướng bậc ba. Thang đo này gồm ba thành phần bậc hai là vốn xã hội
của lãnh đạo, vốn xã hội bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thành phần của vốn
58
xã hội lãnh đạo bao gồm 5 thành phần bậc ba là mạng lưới dòng họ, bạn bè, đối tác
kinh doanh, chính quyền các cấp và đồng nghiệp. Thành phần của vốn xã hội bên
ngoài của doanh nghiệp gồm 7 thành phần bậc ba là mạng lưới khách hàng, nhà
phân phối, nhà cung cấp, đơn vị tư vấn, chính quyền, các công ty trong cùng tập
đoàn và các hiệp hội. Thành phần của vốn xã hội bên trong doanh nghiệp gồm 2
thành phần bậc ba là sự hợp tác các bộ phận chức năng và sự hợp tác giữa các cá
nhân trong doanh nghiệp. Kết quả phát triển thang đo được tổng kết ở Hình 4.5.
Hình 4.5: Cấu trúc vốn xã hội của doanh nghiệp trước khi đánh giá sơ bộ
Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất của luận án.
Vốn xã hội của doanh nghiệp
Mạng lưới của lãnh đạo
Mạng lưới bên trong
Mạng lưới bên ngoài
Dòng họ
Bạn bè
Đối tác
Chính quyền
Đồng nghiệp
Chính quyền
Đơn vị tư vấn
Nhà cung cấp
Nhà phân phối
Khách hàng
Công ty cùng tập đoàn
Các hiệp hội
Hợp tác phòng ban
Hợp tác cá nhân
59
4.1.2 Phát triển thang đo về các hoạt động trong quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp bất động sản
Chương 2 đã tổng kết quá trình kinh doanh của doanh nghiệp BĐS bao gồm
3 giai đoạn là (1) hoạt động đầu vào: tìm kiếm quỹ đất mua để phát triển dự án, xin
cấp phép, huy động vốn; (2) hoạt động sản xuất: các hoạt động triển khai dự án
nhằm đảm bảo tiến độ, chất lượng và chi phí; (3) hoạt động đầu ra: tìm kiếm khách
hàng cho thuê hoặc bán.
Để kiểm chứng lại sự hợp lý của kết quả tích hợp này, nghiên cứu định tính
với phương pháp thảo luận tay đôi bởi câu hỏi mở: “Ông/bà vui lòng cho biết các
hoạt động trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp BĐS Việt Nam hiện
nay?”. Câu hỏi này được thảo luận đối với 10 giám đốc doanh nghiệp BĐS, nhưng
khi thảo luận đến người thứ 8 không phát hiện thêm nội dung mới. Ý kiến chuyên
gia được tổng kết cũng tương tự với phương pháp tích hợp các luận điểm trên, bao
gồm các nhóm hoạt động trong quá trình đầu vào, sản xuất và đầu ra.
Thứ nhất là nhóm hoạt động đầu vào: chủ yếu là tìm kiếm quỹ đất phát
triển dự án. Doanh nghiệp tìm kiếm quỹ đất bởi hai cách là thoả thuận nhận chuyển
nhượng lại quỹ đất của dân hoặc thuê đất của nhà nước. Việc nhận chuyển nhượng
quỹ đất từ người dân rất khó thực hiện bởi diện tích không đủ lớn để phát triển dự
án. Do vậy, các doanh nghiệp thường chọn giải pháp tiếp cận thông qua thuê lại đất
nhà nước, nhà nước giữ vai trò là người thu hồi đất rồi cho doanh nghiệp thuê lại.
Để đạt mục tiêu có được quỹ đất, doanh nghiệp phải thực hiện hàng loạt các hoạt
động như nghiên cứu thị trường, nghiên cứu tiềm năng của khu vực có quỹ đất,
phương án phát triển khu đất, phương cách quản lý dự án, phương án vốn, hoạt
động thiết kế quy hoạch, xin cấp phép. Như vậy, kết quả của hoạt động đầu vào
trong quá trình kinh doanh BĐS là sự thuận lợi trong việc xin cấp phép phát triển
dự án, tìm kiếm được nhà tư vấn thiết kế dự án như mong muốn, huy động được
vốn tài trợ cho dự án như mong muốn.
Thứ hai là nhóm hoạt động sản xuất: chủ yếu là các hoạt động triển khai dự
án để đạt được kết quả tốt. Ở Việt Nam tồn tại dưới ba hình thức phát triển dự án,
60
(1) uỷ thác cho doanh nghiệp triển khai dự án, (2) tự thuê nhà thầu xây dựng dự án,
(3) doanh nghiệp tự xây dựng dự án. Kết quả của các hoạt động này là nhằm mục
tiêu về tiến độ, chi phí và chất lượng của các sản phẩm BĐS theo mô hình thiết kế
từ nhóm hoạt động đầu vào.
Thứ ba là nhóm hoạt động đầu ra: chủ yếu là phân phối sản phẩm của
doanh nghiệp. Các hoạt động của nhóm này dưới nhiều hình thức như ký thác sản
phẩm cho sàn giao dịch, giới thiệu sản phẩm, chăm sóc khách hàng. Ở Việt Nam
hình thức phân phối cũng đa dạng tùy thuộc vào sản phẩm bán hoặc cho thuê. Đối
với sản phẩm bán, các hình thức phân phối bao gồm: (1) bán sỉ cho các sàn giao
dịch, (2) bán sỉ cho các nhà đầu tư thứ cấp, (3) tự doanh nghiệp lập sàn giao dịch
phân phối sản phẩm. Đối với sản phẩm cho thuê, các hình thức phân phối bao gồm:
(1) doanh nghiệp tự điều hành khai thác kinh doanh sản phẩm, (2) ủy thác doanh
nghiệp khác sản xuất cho thuê sản phẩm. Tổng kết các hoạt động và phát triển thang
đo trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp BĐS Việt Nam ở Bảng 4.5.
Bảng 4.5: Thang đo các hoạt động trong doanh nghiệp bất động sản Nhóm
hoạt động Mục tiêu Ký hiệu và nội dung thang đo
Hoạt động
đầu vào
Xin cấp phép IP67: Doanh nghiệp chúng tôi dễ dàng trong việc xin cấp phép các dự án.
Thiết kế dự án IP68: Doanh nghiệp chúng tôi tìm được tư vấn dự án như mong muốn.
Huy động vốn IP69: Doanh nghiệp chúng tôi huy động được vốn như mong muốn.
Hoạt động
sản xuất
Tiến độ IP70: Tiến độ xây dựng các công trình của chúng tôi đúng với kế hoạch.
Chi phí IP71: Chi phí thực tế xây dựng công trình đúng với kế hoạch.
Chất lượng IP72: Các công trình của chúng tôi đạt được chất lượng như mong muốn.
Hoạt động
đầu ra
Marketing IP73: Doanh nghiệp chúng tôi thuận lợi trong hoạt động bán hàng.
phân phối IP74: Chúng tôi tìm kiếm được phân phối sản phẩm như mong muốn.
Doanh thu IP75: Doanh nghiệp chúng tôi đạt được doanh thu như mong muốn.
Thị phần IP76: Doanh nghiệp chúng tôi đạt được thị phần như mong muốn.
Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất của luận án.
61
4.2 ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ THANG ĐO
Các thang đo được xây dựng từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính đảm
bảo được giá trị nội dung, nhưng chưa được kiểm định qua nghiên cứu thực nghiệm
nên chưa đảm bảo độ tin cậy về cấu trúc. Vì vậy, rất cần thiết phải nghiên cứu định
lượng sơ bộ để loại các biến quan sát không phù hợp, cũng như xác định lại cấu trúc
thang đo để sử dụng cho nghiên cứu chính thức. Các thang đo được soạn thảo thành
bản câu hỏi nghiên cứu định lượng như Phụ lục 3. Nghiên cứu định lượng sơ bộ
được thực hiện trên 150 doanh nghiệp với đối tượng trả lời là lãnh đạo các doanh
nghiệp (giám đốc hoặc phó giám đốc) bằng phương pháp chọn mẫu thuận tiện tại
thành phố Hồ Chí Minh. Hai công cụ sử dụng trong nghiên cứu định lượng sơ bộ là
hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA). Hệ số
Cronbach’s alpha được sử dụng để loại các biến không phù hợp khi chúng có hệ số
tương quan biến tổng (Item – total correlation) nhỏ hơn 0,35 và tiêu chuẩn chọn
thang đo khi nó có độ tin cậy (alpha) lớn hơn 0,6. Tiếp theo, phương pháp EFA
được sử dụng để loại đi các biến quan sát có trọng số (factor loading) nhỏ hơn 0,5.
Phương sai trích hệ số sử dụng (princical components) với phép quay vuông góc
(varimax) và điểm dừng khi trích các yếu tố (eigenvalue) bằng 1. Thang đo được
chấp nhận khi tổng phương sai trích bằng hoặc lớn hơn 50% và trọng số nhân tố lớn
nhất từ 0,5 trở lên.
4.2.1 Hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha)
Thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp
Kết quả đánh giá sơ bộ bằng công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) cho
thấy các biến quan sát của các thang đo thành phần bậc ba đo lường vốn xã hội của
doanh nghiệp đều có hệ số tin cậy lớn hơn 0,6 và hệ số tương quan biến tổng đều
lớn hơn 0,35 (kết quả tính tóan xem mục 1, 2, 3, phụ lục 4). Điều này cho thấy các
biến quan sát thành phần bậc ba của khái niệm vốn xã hội đều đảm bảo tín nhất
quán nội tại. Do vậy, các biến quan sát của vốn xã hội đều được giữ lại để phân tích
nhân tố tiếp theo.
62
Thang đo kết quả hoạt động doanh nghiệp
Theo thiết kế từ nghiên cứu định tính lần thứ nhất, các họat động trong doanh
nghiệp là các thang đo đơn hướng: thang đo nhóm hoạt động là hoạt động đầu vào
gồm ba biến quan sát IP67, IP68 và IP69; thang đo hoạt động sản xuất bao gồm
IP70, IP71 và IP72; và thang đo hoạt động đầu ra IP73, IP74, IP75 và IP76.
Kết quả đánh giá hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) được tổng kết ở mục 4,
phụ lục 4. Kết quả cho thấy các biến quan sát có tính nhất quán nội tại với hệ số hệ
số tin cậy đều lớn hơn 0,6 và tất cả các biến quan sát đều có hệ số tương quan biến
tổng lớn hơn 0,35 nên tất cả các biến quan sát đều được giữ lại cho phân tích nhân
tố khám phá tiếp theo.
4.2.2 Phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp:
Sau khi phân tích hệ số tin cậy Cronbach’s alpha, các thang đo được đánh giá tiếp theo bằng phân tích nhân tố khám phá (EFA). Phương pháp trích thành phần (Principal componts) với phép quay vuông góc (varimax) được sử dụng trong phân tích EFA. Hai tiêu chí để đánh giá thang đo là phương sai trích lớn hơn 50% và trọng số nhân tố phải lớn 0,5 (nếu biến quan sát nào nhỏ hơn 0,5 thì bị loại). Kết quả đánh giá cho thấy cấu trúc thang đo không thay đổi nhưng các biến quan sát có trọng số nhân tố nhỏ hơn 0,5 bị loại là 13 biến quan sát. Các biến bị loại lần lượt là EX34, EX30, L9, EX35, I56, EX24, EX25, EX52, EX53, EX51, EX27, EX26, EX54. Các biến quan sát còn lại đưa vào phân tích nhân tố đạt giá trị phương sai trích là 71,364% (lớn hơn 50%) và các trọng số nhân tố lớn hơn 0,5, hệ số KMO là 0,867 (lớn hơn 0,5); mức ý nghĩa kiểm định Bartlett là 0,000 (nhỏ hơn 0,05). Kết quả phân tích sau cùng được tổng kết ở Phụ lục 5. Cấu trúc thang đo vốn xã hội như sau:
Thang đo vốn xã hội của lãnh đạo bao gồm các thành phần mạng lưới dòng
họ (các biến quan sát L1, L2, L3 và L4), bạn bè (L5, L6, L7 và L8), đối tác kinh
doanh (L10, L11 và L12), chính quyền (L13, L14, L15 và L16) và đồng nghiệp
(L17, L18, L19 và L20). Như vậy cấu trúc của vốn xã hội lãnh đạo không đổi so với
giả thuyết ban đầu và chỉ có biến quan sát L9 thuộc mạng lưới đối tác kinh doanh bị
loại.
63
Thang đo vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp bị loại mất đi mạng lưới hiệp
hội, các mạng lưới còn lại bao gồm: khách hàng (các biến quan sát EX21, EX22,
EX23), nhà phân phối (EX28 và EX29), nhà cung cấp (EX31, EX32 và EX33), đơn
vị tư vấn (EX36, EX37, EX38, EX39 và EX40), chính quyền (EX41, EX42, EX43,
EX44 và EX45) và các công ty trong cùng tập đòan (EX46, EX47, EX48, EX49 và
EX50). Như vậy cấu trúc thang đo vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp không đổi,
chỉ mất đi một mạng lưới là các hiệp hội.
Thang đo vốn xã hội bên trong của doanh nghiệp bị loại đi một biến quan
sát là I56, nhưng cấu trúc thang đo vẫn không thay đổi, bao gồm sự hợp tác giữa các
cá nhân (các biến quan sát I57, I58, I59, I60 và I61) và sự hợp tác giữa các bộ phận
chức năng (I62, I63, I64, I65 và I66).
Như vậy, cấu trúc thang đo vốn xã hội sau khi đánh giá sơ bộ bằng công cụ
hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố (EFA) không đổi so với thiết
kế ban đầu, chỉ sàng lọc một số biến quan sát là EX34, EX30, L9, EX35, I56,
EX24, EX25, EX52, EX53, EX51, EX27, EX26 và EX54 được tổng kết ở Hình 4.6.
Các thang đo đơn hướng của hoạt động doanh nghiệp:
Các thang đo đơn hướng đo lường kết quả hoạt động doanh nghiệp vẫn
không thay đổi cấu trúc so với thiết kế ban đầu. Thang đo vốn xã hội bên trong vẫn
với các biến quan sát IP67, IP68 và IP69. Thang đo hoạt động sản xuất vẫn với các
biến quan sát IP70, IP71 và IP72. Thang đo hoạt động đầu ra vẫn với các biến quan
sát IP73, IP74, IP75 và IP76. Cấu trúc thang đo sau khi sàng lọc được tổng kết ở
Hình 4.7.
64
Hình 4.6: Cấu trúc thang đo vốn xã hội sau khi đánh giá sơ bộ
Nguồn: Tổng kết sau khi đánh giá sơ bộ thang đo.
Hình 4.7: Cấu trúc các thang đo đơn hướng các hoạt động của doanh nghiệp
Hoạt động đầu vào Hoạt động sản xuất Hoạt động đầu ra
Nguồn: Tổng kết sau khi đánh giá sơ bộ thang đo.
Vốn xã hội của doanh nghiệp
Mạng lưới của lãnh đạo
Mạng lưới bên trong
Mạng lưới bên ngoài
Dòng họ
Bạn bè
Đối tác
Chính quyền
Đồng nghiệp
Chính quyền
Đơn vị tư vấn
Nhà cung cấp
Nhà phân phối
Khách hàng
Công ty cùng tập đoàn
Hợp tác phòng ban
Hợp tác cá nhân
Hoạt động đầu vào
Hoạt động sản xuất
Hoạt động đầu ra
IP67:Xin cấp phép
IP68:Tìm tư vấn
IP69: Huy động vốn
IP73: Marketing
IP74: Phân phối sản phẩm
IP75: Doanh thu
IP76: Thị phần
IP72: Chi phí dự án
IP70: Chất lượng dự án
IP71: Tiến độ dự án
Formatted: Font: 9 pt
Formatted: Font: 9 pt
Formatted: Font: 9 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 9 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 9 pt, Bold
Formatted: Font: 9 pt, Bold
Formatted: Font: 9 pt, Bold
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
65
Sau khi đánh giá sơ bộ thang đo bằng công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s
alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA), đã sàng lọc các biến quan sát không
phù hợp và xác định lại cấu trúc của thang đo. Các biến quan sát được giữ lại sử
dụng để xây dựng bản câu hỏi cho nghiên cứu cho trường hợp điển hình tại các
doanh nghiệp BĐS thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, qua đánh giá sơ bộ các biến
quan sát bị loại không nhiều nên bản câu hỏi nghiên cứu định lượng sơ bộ được giữ
nguyên để thực hiện nghiên cứu ở giai đoạn hai.
4.3 XÂY DỰNG CÁC GIẢ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Đánh giá sơ bộ thang đo đã định hình lại cấu trúc của các khái niệm nghiên
cứu. Tiếp theo là dựa vào cấu trúc thang đo để định nghĩa lại các khái niệm nghiên
cứu về vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp để xây dựng các giả thuyết
nghiên cứu. Các giả thuyết nghiên cứu được xây dựng bằng liên hệ lý thuyết và
nghiên cứu định tính với công cụ thảo luận tay đôi, dàn bài thảo luận tay đôi (xem
Phụ lục 6) bao gồm các nội dung như sau:
(1) Giới thiệu về mục đích nghiên cứu.
(2) Định nghĩa các khái niệm nghiên cứu vốn xã hội của lãnh đạo, bên ngoài
và bên trong doanh nghiệp; và các khái niệm về hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu
ra của doanh nghiệp BĐS. Phần này được xây dựng dựa trên kết quả đánh giá sơ bộ
thang đo.
(3) Thảo luận về mối liên hệ giữa các thành phần của vốn xã hội với các hoạt
động của doanh nghiệp.
Thảo luận thực hiện chủ yếu đối với các giám đốc doanh nghiệp BĐS Việt
Nam vào tháng 11 năm 2010 (danh sách chuyên gia được trình bày ở Phụ lục 7). Số
lượng chuyên gia thảo luận theo dự kiến ban đầu là không giới hạn, nhưng thảo luận
đến khoảng 8 người thì không còn phát hiện thêm điều gì mới nữa nên cỡ mẫu dừng
lại ở 10 người tham gia thảo luận. Các giả thuyết được đề xuất trên cơ sở kết hợp
kết quả của các nghiên cứu có liên quan với ý kiến chuyên gia trong nghiên cứu
định tính để khám phá các giả thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động
của doanh nghiệp BĐS.
66
4.3.1 Giả thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh
nghiệp bất động sản
Vốn xã hội của doanh nghiệp được cấu thành từ ba khía cạnh là vốn xã hội
của lãnh đạo, bên ngoài và bên trong doanh nghiệp. Để xem xét tác động của vốn xã
hội đóng góp vào các hoạt động của doanh nghiệp thì phải xem xét tác động của
từng khía cạnh vốn xã hội.
Đối với khía cạnh vốn xã hội của lãnh đao:
Theo Tushman & O’Reilly (1997) cho rằng mạng lưới lãnh đạo doanh
nghiệp trong mối liên hệ với các chính quyền các cấp, báo chí, công chúng; các mối
quan hệ trong nghề nghiệp; khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh; cấp dưới;
đồng nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với khả năng tiếp cận thông tin, các nguồn
tài nguyên, cơ hội và sự ủng hộ. Các thuộc tính tiếp cận thông tin, nguồn tài nguyên
và cơ hội là những thuộc tính tương đồng với các hoạt động đầu vào của doanh
nghiệp BĐS, chẳng hạn như tìm kiếm quỹ đất, thuận lợi xin cấp phép.
Hơn nữa, Acquaah (2007) cũng khẳng định các mối quan hệ của lãnh đạo với
đóng vai trò quan trọng đến sự thành công của tổ chức. Còn Cialdini (2001) cho
rằng lãnh đạo gây ảnh hưởng đến người khác dựa trên tình hữu nghị, hỗ trợ lẫn
nhau, quyền lực, sự công nhận của xã hội và lời cam kết. Các luận điểm này hàm ý
rằng lãnh đạo của doanh nghiệp giữ vai trò quyết định kết quả các hoạt động của
doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp BĐS thì kết quả các hoạt động được phân
thành ba nhóm là hoạt động đầu vào như tìm kiếm quỹ đất, xin cấp phép và huy
động vốn; hoạt động sản xuất được đo lường bằng kết quả thực hiện các dự án đúng
tiến độ, chất lượng và chi phí; hoạt động đầu ra liên quan đến việc phân phối sản
phẩm. Điều này hàm ý rằng vốn xã hội của lãnh đạo ảnh hưởng đến các hoạt động
của doanh nghiệp.
Lãnh đạo doanh nghiệp đóng vai trò tạo ra môi trường văn hóa làm việc và
có chức năng hoạch định và động viên các nhân viên thực hiện nhiệm vụ mục tiêu
của doanh nghiệp (Wharton & Brunetto, 2009). Khi công việc được hoạch định tốt
và nhân viên được động viên làm việc tích cực sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ và
67
tiết kiệm chi phí thực hiện các dự án (Ireland, 2006). Hơn nữa thông qua các mối
quan hệ với các đối tác kinh doanh mà lãnh đạo doanh nghiệp lựa chọn được các
nhà tư vấn, nhà thầu tốt đảm bảo các dự án hoàn thành đúng tiến độ, chi phí và chất
lượng kế hoạch (Stevens, 2002). Kết quả nghiên cứu định tính lần thứ hai nhiều
chuyên gia cho rằng vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp có ảnh hưởng dương đến
kết quả của các hoạt động sản xuất.
Mối quan hệ của lãnh đạo với các đối tác kinh doanh sẽ tạo ra khách hàng
tiềm năng cho các doanh nghiệp (Tansley & Newell, 2007). Ngoài ra lãnh đạo còn
đóng vai trò động viên quan trọng đối với hệ thống các nhà phân phối, khách hàng
chiến lược, chính quyền các cấp để thông qua đó nâng cao hiệu quả phân phối (Lee
& các cộng sự, 2001; Yang & các cộng sự, 2011). Trong nghiên cứu định tính lần
thứ hai cho thấy nhiều chuyên gia cho rằng mạng lưới của lãnh đạo doanh nghiệp
đóng vai trò quan trọng giúp doanh nghiệp phát triển hệ thống phấn phối, phát triển
thêm khách hàng và mở rộng thị phần.
Kết quả nghiên cứu định tính lần thứ hai cũng ủng hộ luận điểm trên, đa số
các chuyên gia tham gia thảo luận cho rằng vốn xã hội của lãnh đạo có vai trò quan
trong đối với các hoạt động đầu vào: tìm kiếm quỹ đất, xin cấp phép và huy động
vốn; lãnh đạo doanh nghiệp cũng đóng góp quan trọng vào sự thành bại của hoạt
động sản xuất và đầu ra. Vai trò của lãnh đạo là quan trọng bởi vì đa số các doanh
nghiệp BĐS Việt Nam mới được thành lập không lâu, hệ thống quản lý chưa được
chuẩn hóa nên sức mạnh vô hình của tổ chức chủ yếu là dựa vào lãnh đạo chứ
không phải là hệ thống quản lý như các quốc gia khác. Hơn nữa, Việt Nam là một
quốc gia bị chi phối bởi nền văn hóa Phương Đông nên quan hệ cá nhân để dễ dàng
giải quyết công việc mới là điều quan trọng hàng đầu.
Như vậy, kết quả liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ hai cho
thấy vốn xã hội của lãnh đạo có tác động tích cực đến các hoạt động của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, trong các mạng lưới quan hệ xã hội của lãnh đạo được phân
thành hai loại mạng lưới quan hệ gây hiệu ứng đối với thị trường BĐS trái ngược
nhau. Các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp với dòng họ, bạn bè, đối
68
tác kinh doanh và đồng nghiệp là những mạng lưới được giả thuyết đóng góp tích
cực vào việc tăng kết quả của các hoạt động của doanh nghiệp, thông qua đó chúng
cũng góp phần tạo hiệu ứng tích cực cho thị trường BĐS như thúc đẩy sự hiệu quả
hợp tác, giảm chi phí giao dịch và thông tin bất cân xứng (Putnam, 2000; Webb,
2008; Waheduzzaman, 2010). Tuy nhiên, mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh
nghiệp với chính quyền cũng được giả thuyết là đóng góp tích cực vào các hoạt
động của doanh nghiệp (nhất là đối với công tác tiếp cận đất đai và huy động vốn),
nhưng mạng lưới quan hệ này gây hiệu ứng tiêu cực đối với thị trường BĐS
(Putnam, 2000), bởi vì chúng biểu hiện sự bất bình đẳng trong ứng xử của chính
quyền đối với các doanh nghiệp trên thị trường BĐS (Bueno & các cộng sự, 2004;
Carey & Lawson, 2011).
Đối với vốn xã hội bên ngoài:
Nhiều nghiên cứu cho rằng chất lượng các mối quan hệ của doanh nghiệp với
các chủ thể trong môi trường kinh doanh có tác động đến kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Chẳng hạn như (Grant, 2002) cho rằng chất lượng mối quan hệ tốt
với khách hàng, nhà cung cấp, ngân hàng, chính quyền giúp doanh nghiệp đạt được
kết quả kinh doanh tốt. Nghiên cứu của Landry & các cộng sự (2000) thì cho rằng
nhận thức về tầm quan trọng trong các mạng lưới khách hàng, nhà cung cấp, chính
quyền, đơn vị tư vấn, hiệp hội sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong các hoạt
động đầu vào và đầu ra. Acquaah (2007) thì kết luận rằng sự phát triển của vốn xã
hội từ các mạng lưới liên kết với những nhà quản lý cấp cao của các doanh nghiệp
khác, các nhân viên thuộc cơ quan quản lý nhà nước và các nhà lãnh đạo quần
chúng có tác động đáng kể tới thành tích của tổ chức. Nghĩa là các nghiên cứu trước
đây cho rằng chất lượng quan hệ của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh
(vốn xã hội bên ngoài) tác động đến kết quả của họat động đầu vào, sản xuất và đầu
ra.
Kết quả nghiên cứu định tính để khám phá các giả thuyết về đóng góp của vốn
xã hội bên ngoài vào các hoạt động doanh nghiệp BĐS Việt Nam cho thấy doanh
nghiệp BĐS kinh doanh có uy tín (lòng tin) đối với các chủ thể trong môi trường
69
kinh doanh (vốn xã hội bên ngoài) sẽ dễ dàng nhận quỹ đất phát triển dự án và cơ
hội tiếp cận với các nguồn tín dụng. Thêm vào đó vốn xã hội bên ngoài của doanh
nghiệp tiếp nhận được thông tin từ nhà cung cấp, nhà thầu, tư vấn; khi doanh nghiệp
hành xử đúng mực với các tổ chức này thì sẽ dẫn đến tổ chức đó hành xử ngược lại
tương tự. Bên cạnh đó khi doanh nghiệp tạo dựng được lòng tin đối với khách hàng
sẽ thu hút được nhiều khách hàng trung thành, tạo lòng tin đối với nhà phân phối sẽ
thuận lợi phát triển mạng lưới bán hàng. Nghĩa là vốn xã hội bên ngoài tác động
trực tiếp đến hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Như vậy, kết quả nghiên cứu
định tính cũng ủng hộ các kết luận của các nghiên cứu có liên quan về đóng góp của
vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp.
Trong cấu trúc các mạng lưới quan hệ bên ngoài doanh nghiệp BĐS, các mạng
lưới quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp và các
công ty trong cùng tập đoàn sẽ là các mạng lưới quan hệ gây hiệu ứng tích cực cho
thị trường BĐS, bởi vì chúng góp phần tạo ra kênh huy động vốn, giảm chi phí giao
dịch, tăng hiệu quả hợp tác, tiếp cận thông tin và chuyển giao tri thức (Yang & các
cộng sự, 2011). Nhưng mạng lưới quan hệ của doanh nghiệp với chính quyền sẽ tạo
ra hiệu ứng tiêu cực đối với thị trường BĐS, bởi vì chúng biểu hiện sự bất cập trong
các chính sách điều tiết thị trường của Chính phủ không đảm đương được vai trò tạo
“luật chơi” bình đẳng cho các chủ thể tham gia thị trường (Bueno & các cộng sự,
2004).
Đối với vốn xã hội bên trong:
Vốn xã hội giúp giải quyết các bài toán hợp tác và sự hợp tác giữa các chủ
thể bên trong doanh nghiệp làm tăng kết quả các hoạt động của doanh nghiệp
(Cheng & các cộng sự, 2006; Kurt, 2000; Emmerik & các cộng sự, 2011). Nghĩa là
sự hợp tác của các chủ thể bên trong doanh nghiệp có tác động đến kết quả các hoạt
động doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu định tính lần thứ nhất và đánh giá sơ bộ
thang đo cho thấy vốn xã hội bên trong của doanh nghiệp thể hiện sự hợp tác giữa
các cá nhân/bộ phận chức năng với nhau, để tạo được điều này doanh nghiệp cần có
chính sách duy trì mối quan hệ hợp tác bên trong doanh nghiệp. Nghiên cứu định
70
tính lần thứ hai về khám phá đóng góp của vốn xã hội bên trong đến các hoạt động
doanh nghiệp BĐS cho thấy sức mạnh của sự đoàn kết sẽ giúp doanh nghiệp thực
hiện tốt hoạt động đầu vào như chuẩn bị tốt hồ sơ xin cấp phép; tác động tăng kết
quả của hoạt động sản xuất như tổ chức quản lý dự án đạt chất lượng, chi phí và tiến
độ; và tác động đến kết quả phát triển hệ thống phân phối, mở rộng thêm khách
hàng, tăng doanh thu, thị phần (hoạt động đầu ra). Như vậy, vốn xã hội bên trong
doanh nghiệp đóng góp tích cực đến cả ba nhóm hoạt động trong quá trình kinh
doanh, thông qua đó cũng tạo ra hiệu ứng tích cực cho thị trường BĐS như tăng
năng suất lao động, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và chuyển giao tri thức
(Ramström, 2008).
Tóm lại, từ việc liên hệ lý thuyết và kết hợp nghiên cứu định tính cho thấy vốn
xã hội bên ngoài, bên trong và lãnh đạo là các khía cạnh của vốn xã hội có tác động
dương đến kết quả các nhóm hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra của doanh
nghiệp BĐS. Như vậy giả thuyết đặt ra như sau:
H1: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả họat động đầu vào.
H2: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả hoạt động sản xuất.
H3: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả hoạt động đầu ra.
4.3.2 Giả thuyết về mối quan hệ giữa các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS
Các hoạt động trong quá trình kinh doanh là một mắt xích giá trị của doanh
nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ lẫn nhau (Porter, 1985). Cũng tương đồng với lý
thuyết của Porter (1985), nhiều chuyên gia cho rằng hoạt động đầu vào có tác động
dương đến hoạt động sản xuất; hoạt động sản xuất có tác động dương đến hoạt động
đầu ra. Với các giả thuyết:
H4: Tăng kết quả hoạt động đầu vào tác động đồng biến với việc tăng kết quả hoạt động sản xuất.
H5: Tăng kết quả hoạt động sản xuất tác động đồng biến với việc tăng kết quả hoạt động đầu ra.
71
H1+ H2+ H3+
H4+ H5+
Mô hình lý thuyết đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động trong quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp BĐS được tổng kết ở Hình 4.8.
Hình 4.8: Mô hình lý thuyết đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của
doanh nghiệp bất động sản Việt Nam
Nguồn: Đề xuất của tác giả từ lược khảo lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ hai.
Vốn xã hội của doanh nghiệp
Mạng lưới của lãnh đạo
Mạng lưới bên trong
Mạng lưới bên ngoài
Dòng họ
Bạn bè
Đối tác
Chính quyền
Đồng nghiệp
Chính quyền
Đơn vị tư vấn
Nhà cung cấp
Nhà phân phối
Khách hàng
Công ty cùng tập đoàn
Hợp tác giữa các phòng ban
Hợp tác giữa các
cá nhân
Hoạt động đầu vào
Hoạt động sản xuất
Hoạt động đầu ra
IP67:Xin cấp phép
IP68:Tìm kiếm tư vấn
IP69: H
uy động vốn
IP73: M
arketing
IP74: P
hân phối sản phẩm
IP75: D
oanh thu
IP72: C
hi phí dự án
IP70: C
hất lượng dự án
IP71: T
iến độ dự án
IP76: T
hị phần
72
CHƯƠNG 5
KIỂM ĐỊNH THANG ĐO VÀ MÔ HÌNH LÝ THUYẾT CHO NGHIÊN CỨU
ĐIỂN HÌNH: DOANH NGHIỆP BẤT ĐỘNG SẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chương 5 sẽ mô tả đặc điểm của mẫu khảo sát và thực hiện kiểm định độ tin
cậy, giá trị của thang đo và các giả thuyết trong mô hình nghiên cứu. Trước hết,
công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) được sử dụng để loại đi những biến quan
sát không đảm bảo tính nhất quán trong việc đo lường các khái niệm. Kế đến là
phương pháp nhân tố khám phá (EFA) dùng để xác định cấu trúc các thang đo cũng
như loại bỏ những biến không phù hợp. Các biến còn lại sẽ đưa vào phân tích nhân
tố khẳng định (CFA) để đánh giá tính đơn nguyên, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt, độ
tin cậy tổng hợp và phương sai trích. Phân tích nhân tố khẳng định được thực hiện
trước hết cho thang đo đa hướng vốn xã hội theo trình tự bậc ba, bậc hai để kiểm
định tính đơn nguyên, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của các thành phần bậc hai
và giữa các thang đo bậc hai của vốn xã hội với nhau.
Kế đến, mô hình CFA được thiết kế chung cho các khái niệm đa hướng vốn
xã hội với các khái niệm đơn hướng hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Thiết kế
mô hình này với hai mục đích: (1) đánh giá mức độ tương thích của mô hình với dữ
liệu, tính đơn nguyên, giá trị hội tụ của các thang đo bậc hai của vốn xã hội (mức độ
hội tụ của ba thành phần bậc hai là vốn xã hội của lãnh đạo, bên ngoài và bên trong
của khái niệm vốn xã hội của doanh nghiệp) và mức độ hội tụ của các biến quan sát
đo lường hoạt động đầu vào, hoạt động sản xuất và hoạt động đầu ra; (2) kiểm định
giá trị phân biệt giữa thang đo vốn xã hội, hoạt động đầu vào, hoạt động sản xuất và
hoạt động đầu ra. Sau khi phân tích CFA, công cụ hệ số tin cậy tổng hợp và phương
sai trích được sử dụng để đánh giá mức độ tin cậy của thang đo. Kết quả CFA giúp
xác định lại cấu trúc thang đo, mô hình kiểm định các giả thuyết nghiên cứu sẽ được
hiệu chỉnh cho phù hợp với dữ liệu khảo sát.
73
Sau khi mô hình nghiên cứu được hiệu chỉnh, công cụ SEM được sử dụng để
ước lượng mô hình nghiên cứu, thông qua đó kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.
Kết quả ước lượng mô hình và giả thuyết nghiên cứu làm cơ sở cho phân tích đóng
góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp.
5.1 ĐẶC ĐIỂM MẪU NGHIÊN CỨU
5.1.1 Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Như đã giới thiệu, phương pháp phân tích dữ liệu chính được sử dụng là mô
hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này đều đồng ý
là phương pháp này đòi hỏi phải có kích thước mẫu lớn vì nó dựa trên lý thuyết
phân phối mẫu lớn (Raykov & Widama, 1995; trích trong Nguyễn Đình Thọ &
Nguyễn Thị Mai Trang, 2008). Kích thước mẫu phụ thuộc vào phương pháp ước
lượng, có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nếu sử dụng phương pháp hợp lý tối đa
(Maximun Likelihood) thì kích thước mẫu tối thiểu phải 100 đến 150 (Hair & các
tác giả, 1998). Theo Bollen (1998), kích thước mẫu tối thiểu là 5 mẫu cho một tham
số cần ước lượng. Trong luận án này, sau khi nghiên cứu sơ bộ còn lại 63 biến quan
sát, cộng với 20 biến tiềm ẩn quan hệ với nhau theo năm giả thuyết nghiên cứu đề
nghị từ Chương 4. Nghĩa là có 88 tham số cần ước lượng, như vậy cỡ mẫu tối thiểu
phải là 440 quan sát (5 mẫu x 88 tham số cần ước lượng). Tuy nhiên, việc điều tra
440 quan sát với đối tượng là giám đốc doanh nghiệp BĐS thì rất khó thực hiện, bởi
vì số lượng doanh nghiệp BĐS không nhiều, theo Bộ Xây Dựng (2011), năm 2009
cả nước chỉ có khoảng 1.717 doanh nghiệp, trong đó thành phố Hồ Chí Minh có
khoảng 1.460 doanh nghiệp. Do đó, mô hình SEM được ước lượng dựa trên biến
trung bình (Bagozzi & Edward 1998, trích trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị
Mai Trang, 2008) của các thang đo thành phần của khái niệm vốn xã hội của lãnh
đạo (với 5 thành phần), vốn xã hội bên ngoài (với 6 thành phần) và vốn xã hội bên
trong (với 2 thành phần), cộng với 9 biến quan sát thuộc các hoạt động của doanh
nghiệp, 7 biến tiềm ẩn và 5 giả thuyết nghiên cứu thì số tham số cần ước lượng là
34 tham số, do vậy cỡ mẫu tối thiểu cần chưa đến 200. Như vậy, với cách thức xử lý
như trên với 216 quan sát là có cơ sở chấp nhận được.
74
Bảng 5.1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Đặc điểm Tần số Phần trăm Thời gian hoạt động: Ít hơn 2 năm 23 11 Từ 2 đến dưới 5 năm 85 39 Từ 6 đến dưới 10 năm 63 29 Trên 10 năm 45 21 Tổng 216 100 Nguồn vốn: Dưới 1 tỷ đồng 32 15 Từ 1 đến dưới 10 tỷ đồng 83 38 Từ 10 đến dưới 50 tỷ đồng 49 23 Từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng 30 14 Trên 200 tỷ đồng 22 10 Tổng 216 100 Số lượng nhân viên: Ít hơn 10 người 43 20 Từ 10 đến 49 người 66 31 Từ 50 đến 199 người 66 31 Từ 200 đến 299 người 17 8 Từ 300 đến 499 người 11 5 Từ 500 trở lên 13 6 Tổng 216 100
Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.
Để đạt được kích thước mẫu là 216 quan sát, 400 phiếu khảo sát được phát ra
và số phiếu thu về là 300. Sau khi thu hồi, có 84 phiếu không hợp lệ nên bị loại.
Trong các phiếu bị loại có 40 phiếu do đối tượng trả lời không phù hợp (không phải
là thành viên của ban giám đốc) và 44 phiếu có số lượng ô trống trên 10%. Vì vậy
kích thước mẫu cuối cùng dùng để xử lý là 216. Đặc điểm mẫu theo số lượng nhân
viên, thời gian hoạt động, nguồn vốn được trình bày trong Bảng 5.1.
Mẫu được chọn phân bổ theo loại hình sở hữu 2 doanh nghiệp, theo Bộ Xây
Dựng (2011), năm 2009 tại thành phố Hồ Chí Minh có 1.460 doanh nghiệp BĐS,
trong đó có 19 doanh nghiệp nhà nước (chiếm 1%), 1.383 doanh nghiệp ngoài nhà
2 Loại hình sở hữu doanh nghiệp trong luận án phân loại theo Tổng cục Thống kê Việt Nam với ba loại hình: (1) doanh nghiệp nhà nước: có từ 50% vốn nhà nước trở lên; (2) doanh nghiệp ngoài nhà nước: không có vốn nước ngoài và/hoặc có từ 49% vốn của nhà nước trở xuống; (3) doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
75
nước (chiếm 95%) và 58 doanh nghiệp có vốn nước ngoài (chiếm 4%). Bảng 5.2
cho thấy tỷ lệ phân bổ mẫu mặc dù không hoàn toàn tương thích với tỷ lệ của tổng
thể nhưng có thể chấp nhận được với mức độ xấp xỉ.
Bảng 5.2: So sánh tỷ lệ phân bổ mẫu với tổng thể theo loại hình sở hữu
Loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp của tổng thể năm 2009
Doanh nghiệp của mẫu điều tra năm 2011
Số doanh nghiệp
Tỷ lệ Số doanh nghiệp
Tỷ lệ
Doanh nghiệp nhà nước 19 1% 19 9% Doanh nghiệp ngoài nhà nước 1.383 95% 184 85% Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 58 4% 13 6% Tổng số doanh nghiệp 1.460 100% 216 100%
Nguồn: Tính tóan theo dữ liệu Bộ Xây Dựng (2011) và điều tra của luận án năm 2011.
5.1.2 Các đặc điểm của loại hình sở hữu theo thời gian hoạt động và quy mô
doanh nghiệp BĐS trong mẫu
5.1.2.1 Thời gian hoạt động
Bảng 5.3 cho thấy có sự ảnh hưởng có ý nghĩa (mức ý nghĩa của χ 2 (6) =
0,001) của loại hình sở hữu đến thời gian hoạt động của doanh nghiệp. Đa số các
doanh nghiệp nhà nước có thời gian hoạt động trên 10 năm, các doanh nghiệp ngoài
nhà nước chỉ mới xuất hiện trong thời gian gần đây (hơn 53% doanh nghiệp có thời
gian hoạt động dưới 5 năm), các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài chủ yếu có thời
gian hoạt động từ 5 đến 10 năm (chiếm khoảng 46,3%).
Bảng 5.3: Số doanh nghiệp phân theo thời gian hoạt động và lọai hình sở hữu
Thời gian hoạt động Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp ngoài nhà nước
Doanh nghiệp nước ngoài
Cộng
Ít hơn 2 năm 1 21 1 23 Từ 2 đến dưới 5 năm 5 78 2 85 Từ 5 đến dưới 10 năm 2 55 6 63 Trên 10 năm 11 30 4 45 Tổng 19 184 13 216 Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.
Comment [D8]: Thảo luận???
76
5.1.2.2 Quy mô nguồn vốn của các loại hình doanh nghiệp
Bảng 5.4 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa (mức ý nghĩa của χ 2 (4) = 0,010)
giữa loại hình doanh nghiệp và quy mô nguồn vốn của doanh nghiệp. Đa số các
doanh nghiệp nhà nước có quy mô vốn lớn, có đến 42% doanh nghiệp có vốn hơn
hơn 50 tỷ đồng. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ,
đến 80% doanh nghiệp có nguồn vốn dưới 50 tỷ đồng. Các doanh nghiệp có vốn
nước ngoài chủ yếu là có nguồn vốn trên 10 tỷ đồng (chiếm khoảng 77%).
Bảng 5.4: Số doanh nghiệp phân theo quy mô nguồn vốn và loại hình sở hữu
Thời gian hoạt động Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp ngoài nhà nước
Doanh nghiệp nước ngoài
Cộng
Dưới 1 tỷ 4 28 0 32 Từ 1 đến dưới10 tỷ đồng 3 77 3 83 Từ 10 đến dưới 50 tỷ đồng 4 41 4 49 Từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng 2 25 3 30 Trên 200 tỷ đồng 6 13 3 22 Tổng 19 184 13 216 Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.
5.1.2.3 Quy mô lao động của các loại hình doanh nghiệp
Bảng 5.5 cho thấy có sự ảnh hưởng có ý nghĩa (mức ý nghĩa của χ 2 (6) = 0,02)
của loại hình sở hữu đến quy mô lao động của doanh nghiệp. Đa số các doanh
nghiệp nhà nước có quy mô lao động lớn, có đến 90% doanh nghiệp có hơn 50 lao
động. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, đến 56%
doanh nghiệp có dưới 50 lao động. Các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài thì có
đến 61% doanh nghiệp có lao động 50 đến dưới 200 người.
Bảng 5.5: Số doanh nghiệp phân theo quy mô lao động và loại hình sở hữu
Thời gian hoạt động Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp ngoài nhà nước
Doanh nghiệp nước ngoài
Cộng
Ít hơn 10 người 0 41 2 43 Từ 10 đến 49 người 2 62 2 66 Từ 50 đến 199 người 7 51 8 66 Từ 200 đến 299 người 3 13 1 17 Từ 300 đến 499 người 3 8 0 11 Từ 500 trở lên 4 9 0 13 Tổng 19 184 13 216 Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.
77
5.2 KIỂM ĐỊNH THANG ĐO BẰNG HỆ SỐ TIN CẬY VÀ PHÂN TÍCH
NHÂN TỐ KHÁM PHÁ
Do các thang đo được xây dựng mới nên trước khi sử dụng công cụ phân tích
nhân tố khẳng định (CFA) cần kiểm định độ tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích
nhân tố khám phá (EFA) để đánh giá xác định cấu trúc của thang đo.
Kiểm định Cronbach’s alpha cho các thang đo thành phần bậc ba của vốn xã
hội và các hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy chỉ có biến quan sát IP76
thuộc khái niệm hoạt động đầu ra bị loại, các biến quan sát còn lại đều đảm bảo tính
nhất quán để đo lường các khái niệm nghiên cứu với hệ số tin cậy lớn hơn 0,6 và hệ
số tương quan biến tổng 0,35 (kết quả Cronbach’s alpha trình bày ở Phụ lục 8).
Phân tích nhân tố khám phá (EFA) được thực hiện chung cho các khái niệm
đa hướng vốn xã hội và riêng đối với từng thang đo đơn hướng các hoạt động đầu
vào, sản xuất và đầu ra của doanh nghiệp. Kết quả EFA cho các thang đo vốn xã hội
tách ra thành 13 nhân tố, không có biến quan sát nào bị loại (tất cả các trọng số
nhân tố đều lớn hơn 0,5 và phương sai trích lớn hơn 50%, hệ số KMO lớn hơn 0,5
và mức ý nghĩa của kiểm định Bartlett nhỏ hơn 0,05) và cấu trúc của các nhân tố
không có sự thay đổi so với đánh giá sơ bộ ở giai đoạn một (kết quả phân tích nhân
tố khám phá được trình bày ở Phụ lục 9).
Như vậy, kết quả kiểm định thang đo bằng Cronbach’s alpha và EFA chỉ có
loại biến quan sát IP76, các biến quan sát còn lại tiếp tục đưa vào kiểm định bằng
công cụ phân tích nhân tố khẳng định (CFA).
5.3 KIỂM ĐỊNH THANG ĐO BẰNG PHÂN TÍCH NHÂN TỐ KHẲNG
ĐỊNH (CFA)
Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) được thực hiện trước hết là kiểm định
thang đo bậc ba thuộc các thành phần bậc hai của khái niệm vốn xã hội; kế đến là
kiểm định giá trị phân biệt và giá trị hội tụ giữa các thành phần bậc hai của vốn xã
hội; cuối cùng là phân tích nhân tố chung cho các khái niệm trong mô hình nghiên
cứu, bao gồm vốn xã hội, hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra của doanh nghiệp.
78
5.3.1 Kiểm định các thang đo bậc ba của khái niệm vốn xã hội
5.3.1.1 Kiểm định thang đo vốn xã hội của lãnh đạo
Thang đo vốn xã hội lãnh đạo doanh nghiệp là thang đo đa hướng với năm
thành phần, đó là (1) mạng lưới dòng họ, (2) mạng lưới bạn bè; (3) mạng lưới đối
tác kinh doanh và (4) mạng lưới chính quyền địa phương; và (5) mạng lưới đồng
nghiệp.
Kết quả CFA cho thấy mô hình đạt được độ tương thích với dữ liệu thị
trường, với χ 2 (134)=315,117 (P=0,000); TLI= 0,890; CFI= 0,913 và RMSEA= 0,079;
CMIN/dF=2,352. Kết quả cũng cho thấy trọng số CFA của tất cả các biến quan sát
đều lớn hơn 0,5 (nhỏ nhất là 0,610), điều này khẳng định tính đơn nguyên và giá trị
hội tụ của các biến quan sát thuộc các thành phần vốn xã hội của lãnh đạo (xem
Hình 5.1). Tiếp theo, hệ số tương quan của các thành phần thuộc khái niệm vốn xã
hội lãnh đạo đều nhỏ hơn 1 đơn vị với mức ý nghĩa 1% (xem Bảng 5.6). Vì vậy, các
thành phần này đạt được giá trị phân biệt trong cùng một khái niệm.
Bảng 5.6: Hệ số tương quan giữa các khái niệm của vốn xã hội lãnh đạo
Mối quan hệ Tương
quan (r)
Sai số
chuẩn 1r
Giá trị tới
hạn (1r)
Mạng lưới bạn bè <> Mạng lưới dòng họ 0,531 0,058 0,469 8,097
Mạng lưới bạn bè <> Mạng lưới đối tác 0,528 0,058 0,472 8,130
Mạng lưới đối tác <> Mạng lưới chính quyền 0,632 0,053 0,368 6,947
Mạng lưới bạn bè <> Mạng lưới chính quyền 0,464 0,061 0,536 8,852
Mạng lưới chính quyền <> Mạng lưới đồng nghiệp 0,471 0,060 0,529 8,773
Mạng lưới dòng họ <> Mạng lưới chính quyền 0,375 0,063 0,625 9,863
Mạng lưới dòng họ <> Mạng lưới đối tác 0,355 0,064 0,645 10,093
Mạng lưới đối tác <> Mạng lưới đồng nghiệp 0,529 0,058 0,471 8,119
Mạng lưới bạn bè <> Mạng lưới đồng nghiệp 0,542 0,057 0,458 7,973
Mạng lưới dòng họ <> Mạng lưới đồng nghiệp 0,443 0,061 0,557 9,089
Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 1.1.1, Phụ lục 10).
Comment [D9]: Ở Đây muốn đề cập đế trọng số hồi quy của các biến quan sát chứ không nói đến môi tương quan giữa các khái niệm. Những số <0,5 là hệ số tương quan giữa các khái niệm.
Comment [D10]: Hệ số tương quan này nhằm để đánh giá giá trị phân biệt giữa các thành phần trong thang đo. Nếu chúng có ý nghĩa trong việc nhỏ hơn 1 thì coi như cặp khái niệm đó đạt giá trị phân biệt.
79
Hình 5.1: Kết quả CFA (đã chuẩn hóa) thang đo vốn xã hội lãnh đạo
Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 1.1.1, Phụ lục 10).
5.3.1.2 Kiểm định thang đo vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp
Thang đo vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp là thang đo đa hướng với sáu
thành phần, bao gồm (1) mạng lưới khách hàng, (2) mạng lưới nhà phân phối, (3)
mạng lưới nhà cung cấp; (4) mạng lưới nhà tư vấn, (5) mạng lưới chính quyền, (6)
mạng lưới các công ty cùng tập đoàn.
Kết quả CFA cho thấy mô hình đạt được độ tương thích với dữ liệu thị
trường, với χ 2 (210)=404,34 (P=0,000); CFI= 0,934 và RMSEA= 0,066;
CMIN/DF=1,925. Kết quả cũng cho thấy trọng số CFA của tất cả các biến quan sát
đều lớn hơn 0,5 (nhỏ nhất là 0,551), điều này khẳng định tính đơn nguyên và giá trị
hội tụ của các thành phần của vốn xã hội bên ngoài (xem Hình 5.2). Tiếp theo, hệ số
tương quan của các thành phần thuộc khái niệm vốn xã hội bên ngoài đều nhỏ hơn 1
[ ] 2 134 315,117 χ = (P=0,000); CFI= 0,913 và RMSEA= 0,079; CMIN/DF=2,352.
L4 Mạng lưới dòng họ
Mạng lưới bạn bè
Mạng lưới chính quyền
Mạng lưới đồng nghiệp
Mạng lưới đối tác
L3 L2 L1
L5 L6
L7
L8
L10
L11 L12
L13
L14 L15
L16
L17 L18
L19
L20
0,75 0,62 0,87
0,75
0,71 0,75
0,79 0,66
0,61
0,82 0,87
0,66
0,77 0,88
0,75
0,66 0,69
0,81
0,70
0,443
0,531
0,528
0,632 0,471
0,375
0,355
0,529
0,542
0,464
80
đơn vị với mức ý nghĩa 1% (xem Bảng 5.7). Vì vậy, các thành phần này đạt được
giá trị phân biệt trong cùng một khái niệm.
Bảng 5.7: Hệ số tương quan giữa các khái niệm của vốn xã hội bên ngoài
Mối quan hệ Tương
quan (r)
Sai số
chuẩn 1r
Giá trị tới
hạn (1r)
Mạng lưới khách hàng <> Mạng lưới chính quyền 0,476 0,060 0,524 8,716
Mạng lưới khách hàng <> Công ty cùng tập đoàn 0,469 0,060 0,531 8,795
Mạng lưới khách hàng <> Mạng lưới cung cấp 0,642 0,052 0,358 6,831
Mạng lưới phân phối <> Mạng lưới chính quyền 0,494 0,059 0,506 8,513
Mạng lưới phân phối <> Công ty cùng tập đoàn 0,336 0,064 0,664 10,313
Mạng lưới phân phối <> Mạng lưới cung cấp 0,566 0,056 0,434 7,701
Mạng lưới tư vấn <> Mạng lưới cung cấp 0,579 0,056 0,421 7,554
Mạng lưới chính quyền <> Mạng lưới cung cấp 0,548 0,057 0,452 7,905
Mạng lưới khách hàng <> Mạng lưới tư vấn 0,459 0,061 0,541 8,908
Mạng lưới phân phối <> Mạng lưới khách hàng 0,551 0,057 0,449 7,871
Mạng lưới phân phối <> Mạng lưới tư vấn 0,603 0,055 0,397 7,280
Mạng lưới tư vấn <> Mạng lưới chính quyền 0,533 0,058 0,467 8,074
Mạng lưới tư vấn <> Công ty cùng tập đoàn 0,474 0,060 0,526 8,739
Mạng lưới chính quyền <> Công ty cùng tập đoàn 0,571 0,056 0,429 7,644
Công ty cùng tập đoàn <> Mạng lưới cung cấp 0,546 0,057 0,454 7,927
Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 1.1.2, Phụ lục 10).
81
Hình 5.2: Kết quả CFA (đã chuẩn hóa) của thang đo vốn xã hội bên ngoài
Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 1.1.2, Phụ lục 10).
5.3.1.3 Kiểm định thang đo vốn xã hội bên trong
Thang đo vốn xã hội bên trong doanh nghiệp là thang đo đa hướng với hai
thành phần bao gồm: (1) sự hợp tác giữa cá nhân trong công ty, (2) sự hợp tác giữa
các bộ phận chức năng. Kết quả CFA cho thấy mô hình đạt được độ tương thích với
dữ liệu thị trường, với χ 2 (33) =61,976 (P=0,002); CFI= 0,968 và RMSEA= 0,067;
CMIN/DF=1,878. Kết quả cũng cho thấy trọng số CFA của tất cả các biến quan sát
đều lớn hơn 0,5 (nhỏ nhất là 0,612), điều này khẳng định tính đơn nguyên và giá trị
hội tụ của các thành phần trong thang đo vốn xã hội bên trong (xem Hình 5.3). Tiếp
EX42 EX40
EX39 EX41
[ ] 2 210 404,340 χ = (P=0,000); CFI= 0,934 và RMSEA= 0,066; CMIN/DF=1,925
EX21 EX22
Mạng lưới khách hàng
Công ty cùng tập đoàn
Mạng lưới chính quyền
Mạng lưới tư vấn
Mạng lưới phân phối
Mạng lưới cung cấp
EX23 EX28
EX29
EX31
EX32
EX33
EX36
EX37
EX38 EX43 EX44
EX45
EX46
EX47
EX48
EX49
EX50
0,551
0,566
0,579
0,533
0,571
0,469 6
0,642
0,459
0,476
0,603
0,494
0,336
0,546
0,548
0,551 0,816
0,832 0,807
0,874
0,750
0,827
0,779
0,638
0,841
0,778 0,766 0,640
0,615 0,621 0,728
0,715
0,827
0,833
0,858
0,933
0,889
0,780
82
theo, hệ số tương quan giữa hai thành phần của khái niệm vốn xã hội bên trong nhỏ
hơn 1 đơn vị với mức ý nghĩa 1%. Vì vậy, các thành phần này đạt được giá trị phân
biệt trong cùng một khái niệm.
Hình 5.3: Kết quả CFA (đã chuẩn hóa) của thang đo vốn xã hội bên trong
Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 1.1.3, Phụ lục 10).
5.3.2 Kiểm định các thang đo bậc hai của khái niệm vốn xã hội
Thang đo bậc hai của vốn xã hội bao gồm vốn xã hội của lãnh đạo, vốn xã
hội bên trong và vốn xã hội bên ngoài. Ba thành phần này đo lường khái niệm vốn
xã hội của doanh nghiệp, nên cần phải xem xét giá trị hội tụ và phân biệt giữa
chúng. Mô hình được thiết kế chung để đánh giá mối liên hệ giữa các cặp 3 .
Kết quả CFA mô hình sau khi hiệu chỉnh đạt mức độ tương thích với dữ liệu
thị trường, với: χ 2 (46)=89,779 (P=0,000); CFI= 0,929, RMSEA= 0,078 và
CMIN/DF=2,321. Kết quả cũng cho thấy trọng số CFA của tất cả các biến quan sát
đều lớn hơn 0,5 (nhỏ nhất 0,512), khẳng định tính đơn nguyên và giá trị hội tụ của
các nhân tố trong các thang đo bậc hai của vốn xã hội (xem Hình 5.4). Tiếp theo, hệ
số tương quan giữa các thang đo bậc hai đều nhỏ hơn 1 đơn vị với mức ý nghĩa 1%
3 Do kích thước mẫu không đủ lớn nên biến trung bình của các thang đo thành phần vốn xã hội lãnh đạo, bên ngoài và bên trong được sử dụng cho phân tích CFA giữa chúng với nhau.
Sự hợp tác giữa các cá nhân
Sự hợp tác giữa các bộ phận chức năng
0,701
0,712
0,802
0,612
0,620
0,758
0,764
0,681
0,781
0,776 0,608
χ 2 (33)=61,976 (P=0,002); CFI= 0,968 và RMSEA= 0,064; CMIN/DF=1,878
I57
I58
I59
I60 I61
I62 I63
I64
I65
I66
83
Đồng nghiệp
Khách hàng
Nhà cung cấp
Nhà phân phối
Nhà tư vấn Chính quyền
Công ty cùng tập đoàn
Hợp tác giữa các cá nhân
Hợp tác giữa các bộ phận
0,512
0,564 0,733
0,65
0,625 0,743
0,702 0,648
0,681 0,736 0,723
0,783
0,810 0,842
Dòng họ
Bạn bè Đối tác kinh doanh
Chính quyền 0,693
0,656
(xem Bảng 5.8). Vì vậy, các thành phần này đạt được giá trị phân biệt trong cùng
khái niệm vốn xã hội của doanh nghiệp.
Hình 5.4: Kết quả CFA (đã chuẩn hóa) của thang đo vốn xã hội
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011(xem mục 1.2, Phụ lục 10).
Bảng 5.8: Hệ số tương quan giữa các khái niệm bậc hai của vốn xã hội
Mối quan hệ Tương
quan (r)
Sai số
chuẩn 1r
Giá trị tới
hạn (1r)
Vốn xã hội bên ngoài <> Vốn xã hội lãnh đạo 0,842 0,037 0,158 4,284
Vốn xã hội lãnh đạo <> Vốn xã hội bên trong 0,810 0,040 0,190 4,740
Vốn xã hội bên ngoài <> Vốn xã hội bên trong 0,783 0,043 0,217 5,103
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011(xem mục 1.2, Phụ lục 10).
Vốn xã hội lãnh đạo
Vốn xã hội bên trong
Vốn xã hội bên ngoài
χ 2 (46)=89,779 (P=0,000); CFI= 0,929, RMSEA= 0,078 và CMIN/DF=2,321
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Portuguese (Brazil)
84
5.3.3 Phân tích nhân tố khẳng định chung cho các thang đo vốn xã hội, hoạt
động đầu vào, sản xuất và đầu ra
Trước khi ước lượng mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) để kiểm định các
giả thuyết nghiên cứu, các khái niệm trong mô hình lý thuyết cần được kiểm định
giá trị phân biệt lẫn nhau, cũng như các thành phần của khái niệm phải đảm bảo tính
đơn nguyên và giá trị hội tụ. Để kiểm định điều này, mô hình phân tích nhân tố
khẳng định được thiết kế chung cho các thang đo vốn xã hội 4 , hoạt động đầu vào,
hoạt động sản xuất và hoạt động đầu ra. Kết quả ước lượng mô hình ở Hình 5.5.
Kết quả CFA cho thấy mô hình sau khi hiệu chỉnh đạt mức độ tương thích
với dữ liệu thị trường, với: χ 2 (198) =399,692 (P=0,000); CFI= 0,906, RMSEA= 0,069
và CMIN/df = 2,019. Kết quả cũng cho thấy trọng số CFA của tất cả các biến quan
sát đều lớn hơn 0,5 (nhỏ nhất 0,54), khẳng định tính đơn nguyên và giá trị hội tụ của
các thang đo thành phần của khái niệm vốn xã hội, hoạt động đầu vào, sản xuất và
đầu ra của doanh nghiệp.
Tiếp theo, hệ số tương quan giữa các thang đo đều nhỏ hơn 1 đơn vị với mức
ý nghĩa 1% (xem Bảng 5.9). Vì vậy, các thang đo vốn xã hội, hoạt động đầu vào,
hoạt động sản xuất và hoạt động đầu ra đạt được giá trị phân biệt.
Bảng 5.9: Hệ số tương quan giữa các khái niệm trong mô hình nghiên cứu
Mối quan hệ Tương
quan (r)
Sai số
chuẩn 1r
Giá trị tới
hạn (1r)
Vốn xã hội <> Hoạt động đầu vào 0,65 0,052 0,350 6,738
Vốn xã hội <> Hoạt động sản xuất 0,622 0,054 0,378 7,062
Hoạt động đầu ra <> Vốn xã hội 0,709 0,048 0,291 6,036
Hoạt động đầu vào <> Hoạt động sản xuất 0,598 0,055 0,402 7,337
Hoạt động đầu ra <> Hoạt động sản xuất 0,822 0,039 0,178 4,572
Hoạt động đầu ra <> Hoạt động đầu vào 0,778 0,043 0,222 5,169
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 2, Phụ lục 10).
4 Vì khích thước mẫu không đủ lớn nên biến trung bình cho các thang đo thành phần của khái niệm vốn xã hội lãnh đạo, bên ngoài và bên trong được sử dụng cho phân tích CFA giữa nó với các khái niệm khác.
85
0,68 0,64
0,72
0,60 0,82
0,78
0,94 0,93 0,85
0,54 0,55 0,7
0,7
0,67 0,76 0,70
0,75 0,60
0,75
0,69
0,66
0,66
0,69 0,89
0,78 0,72 0,75
0,78 0,79 0,73
0,76
Hình 5.5: Kết quả CFA (đã chuẩn hóa) giữa các khái niệm trong mô hình nghiên cứu
Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 2, Phụ lục 10).
Vốn xã hội của doanh nghiệp
Mạng lưới của lãnh đạo
Mạng lưới bên trong
Mạng lưới bên ngoài
Dòng họ
Bạn bè
Đối tác
Chính quyền
Đồng nghiệp
Chính quyền
Đơn vị tư vấn
Nhà cung cấp
Nhà phân phối
Khách hàng
Công ty cùng tập đoàn
Hợp tác giữa các phòng ban
Hợp tác giữa các
cá nhân
IP67:Xin cấp phép
IP68:Tìm kiếm tư vấn
IP69: H
uy động vốn
IP73: M
arketing
IP74: Phân phối sản phẩm
IP75: D
oanh thu
IP72: C
hi phí dự án
IP70: C
hất lượng dự án
IP71: T
iến độ dự án
Hoạt động đầu vào
Hoạt động sản xuất
Hoạt động đầu ra
χ 2 (198)=399,692 (P=0,000), CFI= 0,906, RMSEA= 0,069 và CMIN/df = 2,019
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt, Bold
Formatted: Font: 10 pt, Bold
Formatted: Font: 10 pt, Bold
86
5.4 KIỂM ĐỊNH ĐỘ TIN CẬY TỔNG HỢP VÀ PHƯƠNG SAI TRÍCH
Độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích được tính trên cơ sở trọng số nhân tố
ước lượng trong các mô hình CFA của các thang đo. Kết quả cho thấy tất cả các
nhân tố thành phần của khái niệm đa hướng và các khái niệm đơn hướng đều đạt
yêu cầu về độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích. Bảng 5.10 tóm tắt giá trị của độ
tin cậy tổng hợp và phương sai trích cùng với giá trị trung bình và độ lệch chuẩn
của các thang đo.
Bảng 5.10: Hệ số tin cậy tổng hợp và phương sai trích của các khái niệm
Khái niệm bậc nhất
Thành phần bậc hai Thành phần bậc ba Trung
bình
Độ lệch chuẩn
Độ tin cậy tổng hợp
Phương sai trích
Vốn xã
hội
Vốn xã hội
lãnh đạo
Mạng lưới dòng họ 5,56 1,03 0,84 0,57
Mạng lưới bạn bè 6,29 0,66 0,82 0,53
Mạng lưới đối tác 5,36 0,94 0,82 0,60
Mạng lưới chính quyền 5,39 1,01 0,85 0,59
Mạng lưới đồng nghiệp 5,85 0,82 0,81 0,51
Vốn xã hội
bên ngoài
Mạng lưới khách hàng 5,88 0,86 0,78 0,55
Mạng lưới phân phối 5,72 1,05 0,83 0,71
Mạng lưới cung cấp 5,50 1,00 0,83 0,62
Mạng lưới tư vấn 5,50 0,87 0,85 0,54
Mạng lưới chính quyền 5,25 1,02 0,83 0,50
Công ty cùng tập đoàn 5,34 1,20 0,93 0,74
Vốn xã hội
bên trong
Sự hợp tác giữa các cá
nhân
5,66 0,85 0,83 0,51
Sự hợp tác giữa các bộ
phận chức năng
5,77 0,83 0,85 0,54
Hoạt động đầu vào 5,09 1,06 0,83 0,63
Hoạt động sản xuất 5,59 0,91 0,79 0,56
Hoạt động đầu ra 5,36 0,95 0,77 0,53 Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.
87
5.5 MÔ TẢ CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC NHÂN TỐ VÀ HIỆU CHỈNH
MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
5.5.1 Mô tả đặc trưng của vốn xã hội
Bảng 5.11 cho thấy doanh nghiệp BĐS nhận thức về vốn xã hội là tương đối
cao, cao hơn mức trung bình của thang đo (thang đo có mức độ đánh giá từ 1 đến 7,
nên mức độ trung bình là 3,5). Trong đó vốn xã hội bên trong là cao nhất, kế đến là
vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp, thấp nhất là vốn xã hội bên ngoài. Điều này
hàm ý rằng các doanh nghiệp BĐS quan tâm đến các mối quan hệ hợp tác bên trong
và cá nhân của lãnh đạo nhiều hơn là các mạng lưới quan hệ với các chủ thể bên
ngoài doanh nghiệp.
Bảng 5.11: Các tham số mô tả các thành phần bậc hai của vốn xã hội
Vốn xã hội Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Hệ số biến thiên
Vốn xã hội của lãnh đạo 5,69 0,65 11%
Vốn xã hội bên ngoài 5,53 0,74 13%
Vốn xã hội bên trong 5,71 0,74 13%
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.
Kết quả so sánh sự khác nhau về các thành phần bậc hai của vốn xã hội theo
loại hình doanh nghiệp cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa của vốn xã hội
của lãnh đạo, bên trong giữa các loại hình sở hữu doanh nghiệp. Chỉ có vốn xã hội
bên ngoài là khác nhau giữa các loại hình sở hữu: vốn xã hội bên ngoài của doanh
nghiệp nước ngoài là lớn nhất, kế đến là doanh nghiệp ngoài nhà nước và cuối cùng
là doanh nghiệp nhà nước (xem Bảng 5.12).
Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa về các thành phần bậc hai của
vốn xã hội theo quy mô nhân viên, quy mô nguồn vốn và thời gian hoạt động (xem
phụ lục 11). Điều này hàm ý rằng, vốn xã hội không tăng theo quy mô và thời gian
hoạt động của doanh nghiệp, hay nói cách khác các doanh nghiệp BĐS thành phố
Hồ Chí Minh chưa quan tâm đúng mức đến việc tạo lập và phát triển vốn xã hội
trong quá trình kinh doanh.
88
Bảng 5.12: So sánh vốn xã hội giữa các loại hình doanh nghiệp
Cấu trúc vốn xã hội Loại hình doanh nghiệp
Số doanh nghiệp
Giá trị trung bình
Mức ý nghĩa phân tích phương sai (ANOVA)
Vốn xã hội của lãnh đạo
Doanh nghiệp nhà nước 19 5,40
0,103 Doanh nghiệp ngoài nhà nước 184 5,71
Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 13 5,82
Tổng 216 5,69 Vốn xã hội bên ngoài
Doanh nghiệp nhà nước 19 5,13
0,025 Doanh nghiệp ngoài nhà nước 184 5,55
Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 13 5,79
Tổng 216 5,53 Vốn xã hội bên trong
Doanh nghiệp nhà nước 19 5,40
0,128 Doanh nghiệp ngoài nhà nước 184 5,74
Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 13 5,86
Tổng 216 5,71
Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.
5.5.2 Mô tả đặc trưng các nhóm hoạt động của doanh nghiệp
Hình 5.6 cho thấy đối với các hoạt động của doanh nghiệp BĐS thì hoạt
động sản xuất đạt kết quả cao nhất, kế đến là các hoạt động thuộc nhóm đầu ra và
thấp nhất là hoạt động đầu vào. Điều này cho thấy khó khăn nhất đối với các doanh
nghiệp là hoạt động đầu vào, bởi vì trong mẫu nghiên cứu tỷ lệ doanh nghiệp có quy
mô vốn nhỏ chiếm tỷ lệ cao (doanh nghiệp có quy mô nguồn vốn dưới 10 tỷ đồng
chiếm tỷ lệ 53,24% trong mẫu nghiên cứu).
Hình 5.6: So sánh kết quả các hoạt động của doanh nghiệp
5,09
5,59
5,36
4,8 4,9 5
5,1 5,2 5,3 5,4 5,5 5,6 5,7
Hoạt động đầu vào Hoạt động sản xuất Hoạt động đầu ra
Các hoạt động
Giá trị trung bình
Nguồn: Hình vẽ được thực hiện theo dữ liệu tính toán ở Bảng 5.10.
89
5.5.3 Mô hình nghiên cứu điều chỉnh
Kết quả kiểm định thang đo cho thấy, các thang đo đạt mức độ tương thích
với dữ liệu, tính đơn nguyên, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt, độ tin cậy tổng hợp và
phương sai trích. Do vậy, về cơ bản các giả thuyết nghiên cứu không có sự điều
chỉnh.
Tuy nhiên, mô hình nghiên cứu có hai sự điều chỉnh như sau: (1) có một biến
quan sát là IP76 không đạt được giá trị tương quan nội tại để đo lường khái niệm
hoạt động đầu ra nên bị loại; (2) mô hình không đủ bậc tự do để có thể ước lượng
mô hình trên toàn bộ số quan sát, nên các biến thành phần bậc ba của vốn xã hội
được tính trung bình của các biến quan sát đo lường chúng.
Sau khi thực hiện hai điều chỉnh trên, mô hình kiểm định các giả thuyết
nghiên cứu sau khi điều chỉnh như Hình 5.7.
90
H1+ H2+ H3+
H4+ H5+
Hình 5.7: Mô hình lý thuyết sau khi điều chỉnh
Nguồn: Điều chỉnh mô hình lý thuyết sau khi kiểm định thang đo.
Vốn xã hội của doanh nghiệp
Mạng lưới của lãnh đạo
Mạng lưới bên trong
Mạng lưới bên ngoài
Dòng họ
Bạn bè
Đối tác
Chính quyền
Đồng nghiệp
Chính quyền
Đơn vị tư vấn
Nhà phân phối
Công ty cùng tập đoàn
Hợp tác giữa các phòng ban
Hợp tác giữa cá nhân
IP67:Xin cấp phép
IP68:Tìm kiếm tư vấn
IP69: H
uy động vốn
IP73: M
arketing
IP74: Phân phối sản
IP75: D
oanh thu
IP72: C
hi phí dự án
IP70: C
hất lượng dự án
IP71: T
iến độ dự án
Hoạt động đầu vào
Hoạt động sản xuất
Hoạt động đầu ra
Nhà cung cấp
Khách hàng Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 10 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
Formatted: Font: 8 pt
91
5.6 KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
5.6.1 Ước lượng mô hình nghiên cứu
Để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu như mô hình được điều chỉnh ở
Hình 5.8, cần kiểm tra phân phối của các biến trung bình thuộc thành phần bậc ba
của vốn xã hội và các biến quan sát thuộc các hoạt động của doanh nghiệp BĐS.
Kết quả kiểm tra phân phối các biến quan sát cho thấy chúng không lệch nhiều với
phân phối chuẩn (các biến quan sát có gía trị độ lệch phần lớn nằm trong khoảng [
1;+1], xem mục 1, Phụ lục 12). Vì vậy, phương pháp ước lượng hợp lý tối đa
(Maximum Likelihood) được sử dụng để ước lượng các tham số trong mô hình
(Muthen & Kaplan, 1985, trích trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang,
2008). Mô hình lý thuyết với các giả thuyết như sau:
H1: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả
họat động đầu vào;
H2: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả
hoạt động sản xuất;
H3: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả
hoạt động đầu ra;
H4: Tăng kết quả hoạt động đầu vào tác động đồng biến với việc tăng kết
quả hoạt động sản xuất;
H5: Tăng kết quả hoạt động sản xuất tác động đồng biến với việc tăng kết
quả hoạt động đầu ra.
Kết quả ước lượng SEM cho mô hình lý thuyết sau khi điều chỉnh đạt mức
độ tương thích với dữ liệu thị trường, với: χ 2 (198)=405,695; CFI=0,903,
RMSEA=0,070, CMIN/df=2,049 (tuy kết quả này chưa phải là tốt lắm, nhưng có
thể chấp nhận được vì theo Kline (2010) thì giá trị CMIN/df vẫn có thể chấp nhận ở
mức nhỏ hơn 3). Kết quả mô hình được tổng kết ở Hình 5.8.
92
0,660*** (H1+) 0,378*** (H2+) 0,316*** (H3+)
0,385*** (H1+) 0,661*** (H1+)
0,69 0,89
0,72 0,75
0,78 0,79 0,73
0,76 0,78
0,94 0,93 0,85
0,54 0,55 0,7 0,7
0,67 0,76 0,70 0,75
0,60
0,75 0,69
0,66
0,66
Hình 5.8: Kết quả SEM mô hình nghiên cứu (đã chuẩn hóa)
Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 2, Phụ lục 12).
Ghi chú: (***) là hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 1%.
Vốn xã hội của doanh nghiệp
Mạng lưới của lãnh đạo
Mạng lưới bên trong
Mạng lưới bên ngoài
Dòng họ
Bạn bè
Đối tác
Chính quyền
Đồng nghiệp
Chính quyền
Đơn vị tư vấn
Nhà cung cấp
Nhà phân phối
Khách hàng
Công ty cùng tập đoàn
Hợp tác phòng ban
Hợp tác cá nhân
IP67:Xin cấp phép
IP68:Tìm kiếm tư vấn
IP69: H
uy động vốn
IP73: M
arketing
IP74: Phân phối sản phẩm
IP75: D
oanh thu
IP72: C
hi phí dự án
IP70: C
hất lượng dự án
IP71: T
iến độ dự án
Hoạt động đầu vào (0,436 Θ )
Hoạt động sản xuất (0,484 Θ )
Hoạt động đầu ra (0,802 Θ )
χ 2 (198)=405,695; CFI=0,903; RMSEA=0,070; CMIN/df=2,049; Θ Hệ số xác định.
93
5.6.2 Kiểm định các giả thuyết
Kết quả ước lượng (chưa chuẩn hóa) của các tham số chính trong mô hình
hiệu chỉnh được trình bày ở Bảng 5.13 và kết quả ước lượng đã chuẩn hóa được
biểu diễn ở Hình 5.9. Các kết quả này cho thấy giả thuyết đều được chấp nhận ở
mức ý nghĩa 1%.
Bảng 5.13: Hệ số hồi quy (đã chuẩn hóa) của các mối quan hệ
Giả Thuyết Mối quan hệ giữa các khái niệm
Hệ số hồi quy
Sai số chuẩn
Giá trị tới hạn
Mức ý nghĩa
H1 Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả họat động đầu vào
0,660 0,177 6,332 0,000
H2 Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả họat động sản xuất
0,378 0,173 3,463 0,000
H3 Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả họat động đầu ra
0,316 0,145 3,394 0,000
H4 Tăng kết quả hoạt động đầu vào tác động đồng biến với việc tăng kết quả hoạt động sản xuất
0,385 0,094 3,822 0,000
H5 Tăng kết quả hoạt động sản xuất tác động đồng biến với việc tăng kết quả hoạt động đầu ra
0,661 0,098 6,629 0,000
Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 2, Phụ lục 12).
Cụ thể, giả thuyết H1 tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia
tăng kết quả họat động đầu vào, được chấp nhận ở mức ý nghĩa 1% (hệ số hồi quy
đã chuẩn hóa 0,660).
Giả thuyết H2, tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng
kết quả họat động sản xuất, được chấp nhận với mức ý nghĩa 1% (hệ số hồi quy đã
chuẩn hóa 0,378).
Giả thuyết H3, tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng
kết quả họat động đầu ra, được chấp nhận ở mức ý nghĩa 1% (hệ số hồi quy đã
chuẩn hóa 0,316).
Giả thuyết H4, tăng kết quả hoạt động đầu vào tác động đồng biến với việc
tăng kết quả hoạt động sản xuất, được chấp nhận ở mức ý nghĩa 1% (hệ số hồi quy
đã chuẩn hóa 0,385).
94
Giả thuyết H5, tăng kết quả hoạt động sản xuất tác động đồng biến với việc
tăng kết quả hoạt động đầu ra, được chấp nhận ở mức ý nghĩa 1% (hệ số hồi quy đã
chuẩn hóa 0,661).
5.6.3 Phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp
Bảng 5.14 trình bày kết quả tính toán từ mô hình SEM về tác động trực tiếp,
gián tiếp và tổng giữa các khái niệm nghiên cứu. Căn cứ vào kết quả tính toán này
để phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các kết quả của các hoạt động trong
doanh nghiệp, cũng như mối liên hệ giữa các hoạt động của doanh nghiệp BĐS.
Bảng 5.14: Tác động trực tiếp, gián tiếp và tổng (chuẩn hóa) giữa các khái
niệm nghiên cứu
Biến phụ thuộc Tác động Vốn xã hội của doanh nghiệp
Hoạt động đầu vào
Hoạt động sản xuất
Hoạt động đầu vào Trực tiếp 0,660 Gián tiếp Tổng 0,660
Hoạt động sản xuất Trực tiếp 0,378 0,385 Gián tiếp 0,254 Tổng 0,632 0,385
Hoạt động đầu ra Trực tiếp 0,316 0,661 Gián tiếp 0,418 0,255 Tổng 0,734 0,255 0,661
Nguồn: Tính toán từ kết quả ước lượng ở Hình 5.9 (xem mục 2, Phụ lục 12).
5.6.3.1 Đóng góp của vốn xã hội vào hoạt động đầu vào
Vốn xã hội của doanh nghiệp tác động trực tiếp đến hoạt động đầu vào thể
hiện qua việc chấp nhận giả thuyết H1 với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,660
(β tổng =β trực tiếp = 0,660). Thông qua mạng lưới quan hệ của lãnh đạo với chính quyền,
sự hỗ trợ từ các mối quan hệ với dòng họ, bạn bè giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn
trong việc tiếp cận dự án như thủ tục xin cấp phép, tìm kiếm tư vấn và huy động
vốn. Thêm vào đó, thông qua các mạng lưới quan hệ bên ngoài của doanh nghiệp
như uy tín của doanh nghiệp với chính quyền, các nhà tư vấn và các công ty trong
cùng tập đoàn mà có thể tiếp cận với các tổ chức tài chính, thông qua mối quan hệ
95
với khách hàng giúp doanh nghiệp huy động vốn từ khách hàng. Cuối cùng là sự
hợp tác giữa các cá nhân và các bộ phận chức năng trong công ty giúp doanh nghiệp
chuẩn bị tốt các thủ tục xin cấp phép và huy động vốn.
5.6.3.2 Đóng góp của vốn xã hội vào hoạt động sản xuất
Vốn xã hội tác động trực tiếp đến kết quả của hoạt động sản xuất thể hiện
qua giả thuyết H2 được chấp nhận với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,378 (βtrực tiếp=
0,378). Điều này được giải thích là thông qua mạng lưới quan hệ của lãnh đạo với
dòng họ, bạn bè, đối tác giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận và lựa chọn được các nhà
tư vấn phát triển dự án tốt; thiết lập mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp trong công
ty sẽ giúp động viên nhân viên làm việc tích cực để thông qua đó đảm bảo kết quả
thực hiện các dự án đúng tiến độ, chất lượng và chi phí. Thêm vào đó, doanh nghiệp
thiết lập mối quan hệ tốt với nhà cung cấp giúp đảm bảo tiến độ, chất lượng các
công trình thông qua mua được các nguyên vật liệu đầu vào đạt chất lượng, nhận
giao hàng đúng lúc, kịp thời; thiết lập mối quan hệ tốt với các nhà tư vấn để lựa
chọn các nhà tư vấn giám sát tốt để giám sát tiến độ và chất lượng công trình
(Konstantinos & các cộng sự, 2011), ; sự hỗ trợ của các doanh nghiệp trong cùng
tập đoàn giúp lựa chọn đơn vị tư vấn, cũng như hỗ trợ cung cấp vốn để phát triển dự
án. Cuối cùng, sự hợp tác cá nhân và các bộ phận chức năng góp phần quan trọng
vào kết quả thực hiện dự án đúng tiến độ, chất lượng và tiết kiệm chi phí.
Mặt khác, vốn xã hội tác động gián tiếp đến hoạt động sản xuất thông qua
hoạt động đầu vào với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,254: vốn xã hội tác động trực
tiếp đến hoạt động đầu vào với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,660, và hoạt đồng đầu
vào tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất với hệ số hồi quy đã chuẩn hóa là
0,385, nghĩa là vốn xã hội tác động gián tiếp đến hoạt động sản xuất là 0,254 (βgián
tiếp= 0,660*0,385= 0,254).
Như vậy, tổng mức độ tác động của vốn xã hội đến hoạt động sản xuất với hệ
số hồi quy chuẩn hóa là 0,632 (β tổng =β trực tiếp + β gián tiếp =0,378+0,254=0,632).
96
5.6.3.3 Vốn xã hội tác động đến hoạt động đầu ra
Vốn xã hội tác động trực tiếp đến hoạt động đầu ra thể hiện qua việc chấp
nhận giả thuyết H3 với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,316. Sự tác động này được giải
thích như sau:
Thứ nhất, mối quan hệ cá nhân của người lãnh đạo giúp doanh nghiệp dễ
dàng trong các hoạt động phân phối sản phẩm. Chẳng hạn như thông qua các mối
quan hệ với bạn bè, dòng họ giúp doanh nghiệp thuận lợi trong các hoạt động phát
triển hệ thống phân phối, thậm chí họ có thể là những khách hàng của doanh
nghiệp. Lãnh đạo thiết lập mối quan hệ với các đối tác kinh doanh sẽ duy trì được
khách hàng hiện hữu và có nhiều cơ hội tiếp cận được khách hàng mới thông qua
mối liên hệ bắc cầu. Thêm vào đó, lãnh đạo thiết lập mối quan hệ tốt với các nhân
viên bán hàng, những nhà phân phối sẽ khích thích tăng doanh số và mở rộng thị
phần. Mặt khác, thương hiệu cá nhân của lãnh đạo cũng góp phần tạo dựng được
lòng tin của khách hàng, nhà phân phối để thông qua đó đẩy nhanh hoạt động bán
hàng cho doanh nghiệp.
Thứ hai, sự hợp tác giữa các cá nhân trong tổ chức sẽ thúc đẩy hiệu quả của
việc bán hàng. Chẳng hạn như các nhân viên bán hàng chia sẻ kinh nghiệm, kiến
thức lẫn nhau về những hiểu biết, ứng xử với khách hàng, nhà phân phối cũng góp
phần làm tăng hiệu quả của hoạt động phân phối, mở rộng thị phần. Thêm vào đó,
sự hợp tác giữa các bộ phận chức năng tốt sẽ tạo ra hệ thống làm việc hiệu quả,
thông qua đó giảm sự phàn nàn của khách hàng và tăng mức độ hài lòng cũng như
lòng trung thành của khách hàng.
Thứ ba, mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, nhà phân phối có
ảnh hưởng đến sự hài lòng và lòng trung thành của khách hàng, từ đó ảnh hưởng
đến kết quả của các hoạt động đầu ra.
Bên cạnh đó, vốn xã hội cũng tác động trực tiếp đến hoạt động đầu vào (với
hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,660), mà hoạt động đầu vào tác động trực tiếp đến hoạt
động sản xuất (với hệ số hồi quy đã chuẩn hóa là 0,385), trong khi đó hoạt động sản
xuất tác động đến hoạt động đầu ra (với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,661), nghĩa là
97
vốn xã hội tác động gián tiếp đến hoạt động đầu ra thông qua hoạt động đầu vào và
sản xuất là 0,660*0,385*0,661 = 0,168. Thêm vào đó, vốn xã hội tác động trực tiếp
đến hoạt động sản xuất với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,378 và hoạt động sản xuất
tác động đến hoạt động đầu ra là 0,661, nghĩa là vốn xã hội tác động gián tiếp đến
hoạt động đầu ra thông qua hoạt động sản xuất là 0,378*0,661=0,250. Như vậy vốn
xã hội của doanh nghiệp tác động gián tiếp đến hoạt động đầu ra với hệ số hồi quy
chuẩn hóa là 0,418 (0,168+0,250 = 0,418).
Như vậy, tổng mức độ tác động của vốn xã hội đến hoạt động đầu ra của
doanh nghiệp với hệ số hồi quy trực tiếp cộng với hệ số hồi qui gián tiếp đã chuẩn
hóa là 0,734 (β tổng =β trực tiếp + β gián tiếp = 0,418+0,250 = 0,734).
5.6.4 Mối liên hệ giữa các hoạt động của doanh nghiệp
Các nhóm hoạt động của doanh nghiệp BĐS có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Hoạt động đầu vào tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất thể hiện qua
việc chấp nhận giả thuyết H4 với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,385. Điều này có
nghĩa là việc tìm kiếm dự án, thuê tư vấn và huy động vốn có sự ảnh hưởng đến tiến
độ, chất lượng và chi phí của dự án. Trong khi đó, hoạt động sản xuất tác động trực
tiếp đến hoạt động đầu ra thể hiện qua giả thuyết H5 được chấp nhận với hệ số hồi
đã quy chuẩn hoá là 0,661, nghĩa là hoạt động đầu vào tác động gián tiếp đến hoạt
động đầu ra là 0,385*0,661= 0,255.
5.7 HIỆU ỨNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CỦA VỐN XÃ HỘI ĐỐI VỚI
THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
5.7.1 Hiệu ứng tích cực của vốn xã hội đối với thị trường bất động sản
Kết quả nghiên cứu đã khẳng định được vốn xã hội đóng góp tích cực vào
các hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Đóng góp này tạo ra hiệu ứng tích cực đối
với thị trường BĐS Việt Nam, biểu hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất là vốn xã hội đóng vai trò tạo vốn cho thị trường BĐS thông qua
chấp nhận giả thuyết H1: vốn xã hội tác động dương có ý nghĩa với hoạt động đầu
vào, nghĩa là vốn xã hội đóng góp tích cực vào khả năng huy động vốn của doanh
nghiệp (bởi vì hoạt động đầu vào có biến quan sát IP69 đề cập đến khả năng huy
98
động vốn). Điều này hàm ý vốn xã hội đóng vai trò tạo vốn cho thị trường BĐS, kết
quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Hammervoll (2011), Zhang &
Fung (2006), khi cho rằng các mạng lưới quan hệ giúp tạo vốn cho các hoạt động
kinh tế.
Thứ hai là vốn xã hội đóng góp tích cực vào các hoạt động của doanh
nghiệp, mà các hoạt động của doanh nghiệp được đánh giá qua các biến quan sát
biểu hiện mức độ thuận lợi trong hợp tác và tiết kiệm chi phí. Điều này hàm ý rằng
vốn xã hội góp phần cắt giảm chi phí và giải quyết tốt bài toàn hợp tác cho các hoạt
động. Suy rộng ra cho toàn nền kinh tế thì vốn xã hội góp phần cắt giảm chi phí
giao dịch và giải quyết tốt các bài toán phối hợp. Luận điểm này đã được chứng
minh qua các nghiên cứu thực nghiệm gần đây của Fernández (2011), Ross (2011)
và Martha & Howard (2011). Kết quả nghiên cứu của Fernández (2011) và Ross
(2011) cho thấy vốn xã hội đóng góp tích cực vào giảm chi phí giao dịch, còn
Martha & Howard (2011) thì chỉ ra được vốn xã hội góp phần giải quyết các bài
toán hợp tác để thúc đẩy các hoạt động kinh tế được thuận lợi. Các kết quả nghiên
cứu thực nghiệm trên cũng phù hợp với cách giải thích trước đó của Wills & các
cộng sự (2004) khi cho rằng vốn xã hội giúp tăng năng suất vốn và lao động của
quốc gia thông qua cắt giảm chi phí giao dịch và giải quyết các vấn đề về sự phối
hợp.
Thứ ba là kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội đóng góp vào hoạt động
sản xuất và hoạt động đầu ra. Điều này có thể được giải thích bởi thông qua các
mạng lưới quan hệ với các chủ thể bên ngoài mà doanh nghiệp tiếp nhận được
thông tin và nhận chuyển giao tri thức để phục vụ kịp thời cho các hoạt động
(Glosiene, 2006; Tansley & Newell, 2007). Như vậy, trên thị trường BĐS thành phố
Hồ Chí Minh, sự liên kết xã hội đã góp phần chuyển tải thông tin, tri thức đến các
chủ thể tham gia mạng lưới, hay nói cách khác vốn xã hội tạo được hiệu ứng tốt về
thông tin và chuyển giao tri thức.
99
5.7.2 Hiệu ứng tiêu cực của vốn xã hội đối với thị trường bất động sản
Ngoài những hiệu ứng tích cực của vốn xã hội nêu trên (mục 5.7.1), kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy vốn xã hội tạo ra các hiệu ứng tiêu cực đối với thị trường
BĐS. Theo Putnam (2000) thì các mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế
theo chiều dọc của hệ thống chính trị có tác động tiêu cực đến tổng thể nền kinh tế
(mặc dù chúng mang lại lợi ích cho chủ thể tham gia mạng lưới quan hệ đó). Các
mạng lưới quan hệ đó biểu hiện trong cấu trúc của thang đo vốn xã hội là các biến
quan sát đo lường chất lượng mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp với
chính quyền (L13, L14, L15 và L16) và của doanh nghiệp với chính quyền (EX41,
EX42, EX43, EX44 và EX45). Các biến quan sát này tác động dương có ý nghĩa
đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp (xem Hình 5.9), điều này hàm ý tính bất
cập của chính sách điều tiết vĩ mô của Chính phủ trong vai trò tạo “luật chơi” bình
đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia, biểu hiện trên hai khía cạnh sau:
Mối quan hệ của lãnh đạo với chính quyền tác động dương có ý nghĩa đến
hoạt động đầu vào, trong đó có hoạt động tiếp cận quỹ đất, nghĩa là mối quan hệ của
cá nhân lãnh đạo doanh nghiệp này sẽ hạn chế cơ hội tiếp cận quỹ đất của các doanh
nghiệp khác (cho dù họ có năng lực triển khai dự án tốt hơn). Điều này sẽ dẫn đến
sự lựa chọn bất lợi của các cấp chính quyền trong việc giao đất cho doanh nghiệp:
có những doanh nghiệp vì không có mối quan hệ tốt với chính quyền nên không tiếp
cận được quỹ đất phát triển dự án; trong khi đó những doanh nghiệp có mối quan hệ
với chính quyền tiếp cận được quỹ đất, nhưng lại không có khả năng triển khai dự
án. Kết quả là bên có quỹ đất muốn bán quyền phát triển dự án do không có năng
lực triển khai, còn bên có năng lực triển khai nhưng không có quỹ đất nên muốn
mua; và lúc đó thị trường chuyển nhượng dự án sẽ hình thành dẫn đến chi phí cho
các dự án tăng lên cao. Bằng chứng cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia
có giá cả các sản phẩm BĐS thuộc nhóm cao so với các nước Châu Á như Hình 1.3.
Khi mối quan hệ với chính quyền tác động có ý nghĩa đến kết quả các hoạt
động, sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp BĐS có quan hệ tốt với chính
quyền về lợi thế tiếp cận quỹ đất mà ít quan tâm đến đầu tư thời gian và trí lực để
100
nghiên cứu cải tiến công nghệ xây dựng và phân phối. Nghiêm trọng hơn là đa số
các doanh nghiệp trong ngành có suy nghĩ như vậy, sẽ dẫn đến phong trào thiết lập
mối quan hệ với quan chức để tiếp cận được dự án, sẽ triệt tiêu động lực cải tiến
công nghệ của các doanh nghiệp trong ngành BĐS.
101
CHƯƠNG 6
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
Chương 6 sẽ tóm tắt kết quả nghiên cứu để trên cơ sở đó đề xuất những gợi ý
nhằm nâng cao kết quả hoạt động của doanh nghiệp BĐS thông qua sử dụng vốn xã
hội; đồng thời trình bày những đóng góp, hạn chế của luận án và gợi ý hướng
nghiên cứu tiếp theo. Chương này bao gồm bốn phần chính: thứ nhất tóm tắt kết quả
nghiên cứu và ý nghĩa của chúng; thứ hai là một số gợi ý chính sách từ luận án; thứ
ba là những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn của luận án; cuối cùng là trình
bày những hạn chế của luận án và gợi ý các nghiên cứu tiếp theo.
6.1 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TỪ LUẬN ÁN
6.1.1 Kết quả xây dựng và kiểm định thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp
bất động sản
Kết quả liên hệ lý thuyết, nghiên cứu định tính và kiểm định cho trường hợp
điển hình tại các doanh nghiệp BĐS thành phố Hồ Chí Minh, đã xây dựng được các
thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp là thang đo bậc ba đảm bảo được giá trị nội
dung và độ tin cậy. Ba thành phần bậc hai của vốn xã hội là vốn xã hội của lãnh
đạo, bên ngoài và bên trong doanh nghiệp.
6.1.1.1 Kết quả xây dựng thang đo vốn xã hội
Thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp được xây dựng dựa trên liên hệ lý
thuyết và nghiên cứu định tính nên đảm bảo thang đo đạt được giá trị nội dung áp
dụng cho ngành BĐS Việt Nam. Kết quả xây dựng thang đo cho thấy vốn xã hội là
thang đo bậc ba với ba thành phần bậc hai vốn xã hội của lãnh đạo, bên ngoài và
bên trong doanh nghiệp như sau:
Thành phần vốn xã hội của lãnh đạo được xây dựng dựa trên ý tưởng từ các
nghiên cứu McCallum & O'Connell (2009), Truss & Gill (2009), Paré & các cộng
sự (2008), Wharton & Brunetto (2009), Cialdini & các cộng sự (2001), Tushman &
O’Reilly III (1997), Acquaah (2007) về tích hợp hai nội dung chất lượng mạng lưới
với cấu trúc các mạng lưới để hình thành các thang đo. Nghiên cứu định tính lần thứ
102
nhất được thực hiện để khám phá các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo bao gồm
mạng lưới dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính quyền và đồng nghiệp. Chất
lượng các mối quan hệ được biểu hiện trên việc tạo lập và duy trì các mối quan hệ,
tín cẩn, chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau giữa lãnh đạo với các mạng lưới quan hệ kể trên.
Từ đó hình thành các thang đo vốn xã hội của lãnh đạo là chất lượng của các mạng
lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp bao gồm dòng họ (những người thân trong
bạn bè, bà con, dòng họ), bạn bè (những người quen biết bên ngoài thông qua hoạt
động cá nhân của lãnh đạo), đối tác kinh doanh (mạng lưới quan hệ có được thông
qua hoạt động công việc kinh doanh của lãnh đạo), chính quyền (những cá nhân
thuộc cơ quan chính quyền các cấp mà lãnh đạo có thiết lập quan hệ) và đồng
nghiệp (những người làm việc cùng cơ quan).
Thành phần vốn xã hội bên ngoài được xây dựng dựa trên ý tưởng từ các
nghiên cứu của Jansen & các cộng sự (2011), Yang & các cộng sự (2011), Landry
& các cộng sự (2000). Các nghiên cứu này đề cập đến vốn xã hội như là chất lượng
của các mạng lưới quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể bên ngoài. Kết quả
nghiên cứu định tính khám phá các chủ thể thuộc mạng lưới bên ngoài doanh
nghiệp bao gồm các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong mạng
lưới chiều ngang: khách hàng, phân phối, nhà cung cấp, các doanh nghiệp trong
cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành;
và mạng lưới chiều dọc: Chính quyền các cấp và các công ty mẹ công ty con. Chất
lượng của các mối quan hệ biểu hiện trước hết thông qua vị trí kinh doanh của
doanh nghiệp (lựa chọn cụm kinh doanh) và các chỉ tiêu đo lường chất lượng như
sự tạo lập, duy trì, tin tưởng, chia sẻ và hỗ trợ giữa doanh nghiệp với các chủ thể
thuộc mạng lưới quan hệ bên ngoài. Tích hợp yếu tố chất lượng và cấu trúc của
mạng lưới hình thành thang đo vốn xã hội bên ngoài là chất lượng các mối quan hệ
giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong môi trường kinh doanh như khách hàng,
nhà phân phối, nhà cung cấp, chính quyền các cấp, đơn vị tư vấn, các công ty trong
cùng tập đoàn và các hiệp hội.
103
Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp thể hiện chất lượng các mối quan hệ giữa
các chủ thể bên trong doanh nghiệp theo mạng lưới chiều ngang: mối quan hệ giữa
nhân viên với nhau, giữa các bộ phận chức năng với nhau; và chiều dọc: mối quan
hệ giữa cá nhân cấp trên với cá nhân cấp dưới, giữa bộ phận chức năng cấp trên với
bộ phận chức năng cấp dưới (Porter,1985; Kaplan & Norton, 1996; Roberts, 2006;
Schaufeli & Salanova, 2007; Luthans &Youssef (2007a, 2007b); Lee và các tác giả,
2007; YliRenko & các cộng sự, 2001; Koonmee & các cộng sự, 2010; Luthans &
các cộng sự, 2008). Chất lượng mối quan hệ biểu hiện qua sự hợp tác giữa các cá
nhân/ bộ phận chức năng trong tổ chức như sự tin tưởng, sự chia sẻ kiến thức, sự hỗ
trợ, đoàn kết lẫn nhau để hoàn thành các mục tiêu của tổ chức (Nahapiet & Ghosal,
1998). Kết quả nghiên cứu định tính đã xây dựng các thang đo cho vốn xã hội bên
trong biểu hiện chất lượng các mối quan hệ giữa các cá nhân lẫn nhau và các đơn vị
chức năng lẫn nhau trong doanh nghiệp. Các yếu tố biểu hiện chất lượng của mối
quan hệ bao gồm sự nỗ lực tạo lập, duy trì và cải tiến cơ chế hợp tác. Cơ chế này
được đảm bảo thực thi bằng các nghệ thuật động viên của lãnh đạo cho nhân viên và
các bộ phận chức năng, đồng thời phải có hành động giám sát và biện pháp giải
quyết xung đột hợp lý. Chất lượng vốn xã hội được đánh giá thông qua mức độ tin
tưởng, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhân viên/ bộ
phận chức năng trong tổ chức.
6.1.1.2 Kết quả kiểm định thang đo vốn xã hội
Thang đo vốn xã hội được kiểm định cho trường hợp các doanh nghiệp BĐS
tại thành phố Hồ Chí Minh bằng các công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha), phân
tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích nhân tố khẳng định (CFA). Kết quả cho
thấy, thang đo vốn xã hội đảm bảo tính đơn nguyên, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt,
độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích. Trong quá trình kiểm định thang đo không
có biến quan sát nào bị loại và cấu trúc thang đo không có sự thay đổi so với xây
dựng từ nghiên cứu định tính và đánh giá sơ bộ ban đầu.
Vốn xã hội của doanh nghiệp sau khi kiểm định thang đo với cấu trúc gồm
ba thành phần bậc hai là vốn xã hội của lãnh đạo, vốn xã hội bên ngoài và vốn xã
104
hội bên trong. Vốn xã hội bên trong gồm chất lượng các mạng lưới dòng họ, bạn bè,
đối tác, chính quyền và đồng nghiệp. Vốn xã hội bên ngoài gồm chất lượng các
mạng lưới khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, đơn vị tư vấn, chính quyền,
các công ty trong cùng tập đoàn. Vốn xã hội bên trong bao gồm sự hợp tác giữa cá
nhân và bộ phận chức năng.
Các nghiên cứu trước đây đề cập đến vốn xã hội chỉ với từng khía cạnh riêng
lẻ của mạng lưới bên ngoài hoặc bên trong hoặc của lãnh đạo nên việc đo lường vốn
xã hội vẫn còn khiếm khuyết. Nghiên cứu này đã khắc phục được khiếm khuyết trên
với thang đo vốn xã hội là thang đo đa hướng hội tụ đầy đủ cả ba nhóm mạng lưới
trên (mạng lưới bên ngoài, bên trong và lãnh đạo doanh nghiệp). Đóng góp này là
cơ sở quan trọng giúp doanh nghiệp BĐS Việt Nam nhận diện đầy đủ các chỉ tiêu
đo lường và đánh giá vốn xã hội của doanh nghiệp.
6.1.2 Kết quả xây dựng và kiểm định thang đo các hoạt động của doanh
nghiệp bất động sản
Các nhóm hoạt động trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được phát
triển dựa trên cơ sở tích hợp các nghiên cứu của Porter (1985), Krumm (2000) và
Nelen (2008) với nghiên cứu định tính. Kết quả xây dựng thang đo đã chỉ ra ba
nhóm hoạt động của các doanh nghiệp BĐS là các thang đo đơn hướng: (1) Hoạt
động đầu vào: tìm kiếm quỹ đất mua để phát triển dự án, xin cấp phép, huy động
vốn; (2) Hoạt động sản xuất: triển khai xây dựng và các hoạt động nhằm đảm bảo
tiến độ, chất lượng và chi phí của các dự án; (3) Hoạt động đầu ra: tìm kiếm khách
hàng cho thuê hoặc bán.
Các thang đo được đánh giá lần lượt bằng các công cụ hệ số tin cậy
(Cronbach’s alpha), phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích nhân tố khẳng
định (CFA). Kết quả cho thấy thang đo các nhóm hoạt động của doanh nghiệp đảm
bảo tính đơn nguyên, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt, độ tin cậy tổng hợp và phương
sai trích. Trong quá trình kiểm định thang đo chỉ có biến quan sát IP76 thuộc nhóm
hoạt động đầu ra bị loại và không có sự thay đổi cấu trúc so với thiết kế ban đầu.
105
Việc xây dựng thang đo các hoạt động của doanh nghiệp BĐS sẽ góp phần
giúp doanh nghiệp nhận diện được các tiêu chí đo lường và đánh giá kết quả hoạt
động toàn diện hơn.
6.1.3 Kết quả ước lượng và kiểm định mô hình nghiên cứu
Kết quả ước lượng SEM cho thấy mô hình lý thuyết đạt được độ tương thích
với dữ liệu thị trường và các giả thuyết nghiên cứu đều được chấp nhận ở mức ý
nghĩa 1%. Kết quả nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa các họat động trong doanh
nghiệp và đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp.
6.1.3.1 Mối liên hệ các hoạt động của doanh nghiệp
Kết quả nghiên cứu cho thấy các hoạt động của doanh nghiệp có tương quan
với nhau, cụ thể là hoạt động đầu vào tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất,
hoạt động sản xuất tác động trực tiếp đến hoạt động đầu ra. Điều này cũng hàm ý là
hoạt động đầu vào cũng tác động gián tiếp đến hoạt động đầu ra. Kết quả nghiên
cứu này là phù hợp với lý thuyết chuỗi giá trị doanh nghiệp được đề xuất bởi Porter
(1985) cho rằng các hoạt động trong chuỗi giá trị có ảnh hưởng dây chuyền với
nhau.
6.1.3.2 Đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp
Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội đóng góp vào tất cả các hoạt động
của doanh nghiệp, trong đó đóng góp trực tiếp lớn nhất đến hoạt động đầu vào, kế
đến là hoạt động sản xuất và đầu ra. Tuy nhiên vốn xã hội còn có tác động gián tiếp
đến hoạt động sản xuất và đầu ra. Do vậy, tổng mức độ tác động (tổng tác động gián
tiếp và trực tiếp) của vốn xã hội đến hoạt động đầu ra là cao nhất, kế đến là hoạt
động sản xuất và thấp nhất là hoạt động đầu vào.
Vốn xã hội của doanh nghiệp tác động trực tiếp đến hoạt động đầu vào. Điều
này được giải thích là thông qua mạng lưới quan hệ của lãnh đạo với chính quyền,
sự hỗ trợ từ các mối quan hệ với dòng họ, bạn bè giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn
trong việc tiếp cận dự án như thủ tục xin cấp phép, tìm kiếm tư vấn tốt và huy động
vốn. Thêm vào đó thông qua các mạng lưới quan hệ bên ngoài của doanh nghiệp
như uy tín của doanh nghiệp với chính quyền, các nhà tư vấn và các công ty trong
106
cùng tập đoàn mà có thể tiếp cận các tổ chức tài chính, thông qua mối quan hệ với
khách hàng giúp doanh nghiệp huy động vốn từ khách hàng. Cuối cùng là sự hợp
tác giữa các cá nhân và các bộ phận chức năng bên trong giúp doanh nghiệp chuẩn
bị tốt các thủ tục xin cấp phép và huy động vốn.
Vốn xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến kết quả của hoạt động sản xuất
được giải thích thông qua mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp với dòng
họ, bạn bè, đối tác giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận và lựa chọn được các nhà tư
vấn phát triển dự án tốt, thiết lập mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp trong công ty
sẽ giúp động viên nhân viên làm việc tích cực để thông qua đó đảm bảo kết quả
thực hiện các dự án đúng tiến độ, chất lượng và chi phí. Thêm vào đó, doanh nghiệp
thiết lập mối quan hệ tốt với nhà cung cấp giúp đảm bảo tiến độ, chất lượng các
công trình thông qua mua được các nguyên vật liệu đầu vào tốt, nhận giao hàng
đúng lúc, kịp thời; thiết lập mối quan hệ tốt với các nhà tư vấn để lựa chọn các nhà
tư vấn giám sát đạt chất lượng, đảm bảo tiến độ công trình; sự hỗ trợ của các doanh
nghiệp trong cùng tập đoàn giúp lựa chọn tư vấn, cũng như hỗ trợ cung cấp vốn để
dự án đảm bảo được tiến độ thi công. Cuối cùng, sự hợp tác cá nhân và các bộ phận
chức năng góp phần quan trọng vào đảm bảo kết quả thực hiện dự án đúng tiến độ,
chất lượng, và tiết kiệm chi phí. Mặt khác vốn xã hội tác động gián tiếp đến hoạt
động sản xuất thông qua hoạt động đầu vào.
Vốn xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đầu ra được giải
thích như sau:
Thứ nhất, mối quan hệ của cá nhân lãnh đạo giúp doanh nghiệp dễ dàng
trong các hoạt động phân phối sản phẩm. Chẳng hạn như thông qua các mối quan hệ
với bạn bè, dòng họ giúp doanh nghiệp thuận lợi trong các hoạt động phát triển hệ
thống phân phối, thậm chí họ có thể là những khách hàng của doanh nghiệp. Lãnh
đạo doanh nghiệp thiết lập mối quan hệ với các đối tác kinh doanh sẽ duy trì được
khách hàng hiện hữu và có nhiều cơ hội tiếp cận được khách hàng mới thông qua
mối liên hệ bắc cầu. Thêm vào đó, mối quan hệ của lãnh đạo với các nhân viên bán
hàng tốt sẽ động viên họ nổ lực tăng doanh số và mở rộng thị phần. Mặt khác
107
thương hiệu cá nhân của lãnh đạo cũng góp phần tạo dựng được lòng tin của khách
hàng, nhà phân phối để thông qua đó thúc đẩy kết quả hoạt động bán hàng của
doanh nghiệp.
Thứ hai, sự hợp tác giữa các cá nhân trong doanh nghiệp sẽ thúc đẩy hiệu
quả bán hàng. Chẳng hạn như các nhân viên bán hàng chia sẻ kinh nghiệm, kiến
thức lẫn nhau về khách hàng, nhà phân phối để góp phần làm tăng hiệu quả của hoạt
động phân phối, mở rộng thị phần. Thêm vào đó, sự hợp tác giữa các bộ phần chức
năng tốt sẽ tạo ra hệ thống làm việc hiệu quả, thông qua đó giảm sự phàn nàn và
tăng mức độ hài lòng cũng như lòng trung thành của khách hàng.
Thứ ba, mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, nhà phân phối có
ảnh hưởng đến sự hài lòng và lòng trung thành của khách hàng, từ đó ảnh hưởng
đến kết quả của các hoạt động đầu ra. Bên cạnh đó, vốn xã hội tác động gián tiếp
đến hoạt động đầu ra thông qua hoạt động đầu vào và sản xuất.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu đã cho thấy vốn xã hội là một nguồn lực tác
động có ý nghĩa đối với các hoạt động của doanh nghiệp. Điều này hàm ý rằng
doanh nghiệp cần hoạch định sử dụng nguồn lực vốn xã hội để phục vụ cho các hoạt
động của doanh nghiệp BĐS.
6.1.4 Vốn xã hội tạo hiệu ứng tích cực và tiêu cực cho thị trường bất động sản
Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội đóng góp tích cực vào kết quả các
hoạt động của doanh nghiệp, sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực cho thị trường BĐS bao
gồm: tạo vốn, giảm chi phí giao dịch, thuận lợi trong sự phối hợp, lan toả thông tin,
chuyển giao tri thức trên thị trường BĐS. Bên cạnh đó, vốn xã hội cũng tạo ra hiệu
ứng tiêu cực được biểu hiện qua sự bất cập trong chính sách điều tiết vĩ mô của
Chính phủ trong vai trò tạo “luật chơi” bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia
thị trường BĐS, đây là nguyên nhân dẫn đến sự lựa chọn bất lợi trong các chính
sách trong các chính sách giao đất của Chính phủ cho doanh nghiệp, và tạo tâm lý ỷ
lại của các doanh nghiệp vào các mối quan hệ với chính quyền để dành quyền tiếp
cận quỹ đất nhằm chuyển nhượng dự án.
108
6.2 MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH TỪ LUẬN ÁN
6.2.1 Gợi ý chính sách giúp doanh nghiệp bất động sản đo lường và đánh giá
kết quả hoạt động
Muốn nâng cao kết quả các hoạt động, doanh nghiệp cần xác định tiêu chí đo
lường để đánh giá chúng. Dựa vào kết quả xây dựng và kiểm định thang đo các hoạt
động của doanh nghiệp BĐS, tác giả luận án đề nghị:
Nhóm gợi ý thứ nhất, xây dựng các mục tiêu và tiêu chí đo lường kết quả
hoạt động của doanh nghiệp trong từng nhóm hoạt
động như sau:
Thứ nhất là đối với hoạt động đầu vào: doanh nghiệp phải liên tục tăng quỹ
đất và huy động vốn phát triển dự án với các mục tiêu cụ thể và tiêu chí đo lường:
(1) tiếp cận được quỹ đất có vị trí chiến lược, được đo lường bằng số quỹ đất được
cấp phép bình quân, thời gian bình quân hoàn thành thủ tục đầu tư cho một dự án;
(2) xác định được mô hình phát triển dự án đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng,
được đo lường bằng số dự án có mô hình thiết kế và phương thức triển khai mới
bình quân; (3) Đảm bảo huy động đủ nguồn vốn phát triển dự án, được đo lường
bằng thời gian huy động vốn bình quân cho mỗi dự án, số kênh huy động vốn bình
quân cho mỗi dự án.
Thứ hai là đối với hoạt động sản xuất: doanh nghiệp phải đảm bảo các dự án
thực hiện theo đúng tiến độ, chi phí và đạt chất lượng với các mục tiêu cụ thể và
tiêu chí đo lường: (1) Dự án triển khai đúng tiến độ, được đo lường bằng tỷ lệ dự án
triển khai chậm tiến độ, chi phí phát sinh do dự án chậm tiến độ bình quân; (2) Dự
án triển khai đúng chi phí kế hoạch, được đo lường bằng tỷ lệ dự án hoàn thành có
chi phí vượt kế hoạch, tỷ lệ chi phí thựcc tế so với chi phí kế hoạch bình quân; (3)
Dự án đạt được chất lượng yêu cầu, được đo lường bằng tỷ lệ dự án đạt chất lượng
yêu cầu bình quân, tỷ lệ chi phí do không đảm bảo chất lượng trên chi phí kế hoạch
bình quân.
Thứ ba là đối với hoạt động đầu ra: doanh nghiệp phải liên tục tăng khả năng
phân phối và gia tăng thị phần, với mục tiêu cụ thể và tiêu chí đo lường: (1) liên tục
109
nâng cao hiệu quả Marketing, được đo lường bằng tốc độ tăng số lượng khách hàng
quan tâm đến sản phẩm của công ty; (2) liên tục nâng cao hiệu quả phân phối, được
đo lường bằng thời gian phân phối sản phẩm cho một dự án bình quân; (3) liên tục
nâng cao kết quả bán hàng, được đo lường bằng tốc độ tăng doanh thu bình quân.
Các mục tiêu và tiêu chí đo lường kết quả của các nhóm hoạt động trong
doanh nghiệp BĐS được tổng kết ở Bảng 6.1.
Bảng 6.1: Mục tiêu, đo lường kết quả hoạt động của doanh nghiệp BĐS
Nhóm hoạt động
Mục tiêu tổng quát Mục tiêu cụ thể Đo lường
Hoạt động đầu vào
Liên tục gia tăng quỹ đất và huy động vốn cho phát triển các dự án BĐS
Tiếp cận được các quỹ đất có vị trí chiến lược phát triển dự án
Số quỹ đất được cấp phép bình quân; Thời gian bình quân hoàn thành thủ tục đầu tư cho một dự án
Tìm được mô hình phát triển dự án đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng
Số dự án có mô hình thiết kế và phương thức triển khai mới bình quân
Đảm bảo huy động đủ nguồn vốn phát triển dự án
Thời gian huy động vốn bình quân cho mỗi dự án Số kênh huy động vốn bình quân cho mỗi dự án
Hoạt động sản xuất
Đảm bảo các dự án thực hiện theo đúng tiến độ, chi phí và đạt chất lượng
Dự án triển khai đúng tiến độ
Tỷ lệ dự án triển khai chậm tiến độ, Chi phí phát sinh do dự án chậm tiến độ bình quân
Dự án triển khai đúng chi phí kế hoạch
Tỷ lệ dự án hoàn thành có chi phí vượt kế hoạch Tỷ lệ chi phí vượt kế hoạch so với chi phí kế hoạch bình quân
Dự án đạt được chất lượng yêu cầu
Tỷ lệ dự án đạt chất lượng yêu cầu bình quân; Tỷ lệ chi phí do không đảm bảo chất lượng trên chi phí kế hoạch bình quân
Hoạt động đầu ra
Liên tục tăng khả năng phân phối và gia tăng thị phần
Nâng cao hiệu quả Marketing
Tốc độ tăng số khách hàng quan tâm đến sản phẩm của công ty
Nâng cao hiệu quả phân phối
Thời gian phân phối sản phẩm cho một dự án bình quân
Nâng cao kết quả bán hàng
Tốc độ tăng doanh thu bình quân
Nguồn: Đề xuất của tác giả từ kết quả nghiên cứu.
110
6.2.2 Gợi ý chính sách giúp doanh nghiệp bất động sản nâng cao kết quả hoạt
động thông qua sử dụng vốn xã hội
Vốn xã hội của doanh nghiệp tồn tại trong các mạng lưới quan hệ có chất
lượng của doanh nghiệp được phân thành ba nhóm mạng lưới của lãnh đạo, bên
ngoài và bên trong doanh nghiệp. Chất lượng của ba mạng lưới này có tương quan
chặt chẽ với nhau và đảm bảo độ giá trị và tin cậy để đo lường một khái niệm vốn
xã hội của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội là một nguồn lực
tác động có ý nghĩa đến các hoạt động đầu vào (thuận lợi trong xin cấp phép, tìm
kiếm tư vấn và huy động vốn), sản xuất (tiến độ, chi phí và chất lượng các công
trình) và đầu ra (marketing, phân phối, bán hàng) của doanh nghiệp BĐS. Để nâng
cao kết quả hoạt động, doanh nghiệp nên quan tâm đến việc sử dụng vốn xã hội bởi
các lý do sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp là một thực thể tồn tại trong môi trường kinh doanh
phụ thuộc nhiều vào các chủ thể bên ngoài như khách hàng, nhà phân phối, nhà
cung cấp, đơn vị tư vấn, các công ty trong cùng tập đoàn, chính quyền các cấp
(Porter, 1985; Yang & các cộng sự , 2011). Mỗi một chủ thể trong môi trường kinh
doanh giống như bộ phận cấu thành nên kết quả hoạt động của doanh nghiệp, nếu
doanh nghiệp không thiết lập quan hệ tốt với các chủ thể sẽ gặp khó khăn trong các
quá trình. Ngược lại, doanh nghiệp thiết lập tốt các mối quan hệ với các chủ thể này
sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh và làm nên sự khác biệt, đặc biệt trong môi trường kinh
doanh ở các nước Phương Đông như Việt Nam, các mối quan hệ đóng vai trò hàng
đầu trong mọi hoạt động của doanh nghiệp. Thật vậy kết quả kiểm định mô hình lý
thuyết cho thấy vốn xã hội (trong đó có thành phần vốn xã hội bên ngoài) có tác
động đến hoạt động đầu vào như thuận lợi trong việc xin cấp phép, huy động vốn
triển khai dự án và tìm kiếm nhà tư vấn phát triển dự án; tác động đến hoạt động
đầu ra như thuận lợi trong việc mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm, tăng thị
phần, doanh thu; và tác động dương đến hoạt động sản xuất như đảm bảo chi phí,
tiến độ và chất lượng công trình.
111
Thứ hai, người lãnh đạo có thể được ví như “thuyền trưởng”, có vai trò định
hướng và đồng hành trong tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Phẩm chất và
năng lực của lãnh đạo được chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó môi
trường quan hệ là một yếu tố có vai trò quyết định (Paré và các cộng sự, 2008). Môi
trường quan hệ của lãnh đạo bao gồm: dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính
quyền các cấp, các câu lạc bộ ảnh hưởng đến phẩm chất và năng lực của họ
(Tushman & O’Reilly III, 1997; Acquaah, 2007; Paré & các cộng sự, 2008;
Wharton & Brunetto, 2009). Chẳng hạn như khi người lãnh đạo đi học thì tiếp xúc
với bạn bè, thầy cô để rồi từ đó họ có kiến thức và có phương pháp tư duy; thông
qua mối quan hệ với chính quyền địa phương mà lãnh đạo quen với cách làm việc
của họ để từ đó biết hành xử cho phù hợp; tiếp xúc với đối tác kinh doanh thường
xuyên thì sẽ có được kinh nghiệm làm việc với họ... Khi mạng lưới quan hệ của
lãnh đạo càng rộng, càng sâu thì sẽ huy động được nhiều nguồn lực hữu hình và vô
hình để hỗ trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp. Điều này được minh chứng từ
kết quả kiểm định mô hình lý thuyết tại thành phố Hồ Chí Minh, vốn xã hội (trong
đó có thành phần chất lượng mạng lưới quan hệ của lãnh đạo) tác động có ý nghĩa
đến hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra.
Cuối cùng, trung tâm của mọi hoạt động của doanh nghiệp là con người và
hệ thống quản lý, là các yếu tố bên trong của doanh nghiệp. Hệ thống quản lý bao
gồm cơ cấu tổ chức, quy chế, điều lệ, chính sách chất lượng, quy trình hướng dẫn
công việc và các quy định…(Kaplan & Norton, 1996). Mỗi cá nhân là một tế bào
của doanh nghiệp, thuộc các bộ phận chức năng khác nhau theo quy định của cơ cấu
tổ chức. Chính sự hợp tác giữa các cá nhân/ bộ phận chức năng quyết định hiệu quả
sử dụng các nguồn lực hữu hình cũng như góp phần tạo ra giá trị vô hình cho doanh
nghiệp. Công cụ để nâng cao sự hợp tác được các doanh nghiệp sử dụng là cơ chế
tạo ra sự hợp tác và lựa chọn con người phù hợp để đảm bảo cơ chế được thực thi.
Sự hợp tác giữa các cá nhân theo chiều ngang và chiều dọc cao sẽ mang lại kết quả
hầu hết các hoạt động của doanh nghiệp. Sự hợp tác giữa các cá nhân cao sẽ mang
đến kết quả hoạt động trong doanh nghiệp sẽ cao, thêm vào đó sự phối hợp và hỗ
112
trợ lẫn nhau giữa các bộ phận chức năng sẽ thúc đẩy tiến độ các hoạt động được
nhanh chóng. Sự phản biện có thiện chí lẫn nhau giữa các bộ phận chức năng giảm
những sai lầm hệ thống. Hai chủ thể bên trong doanh nghiệp được đề cập đến là cá
nhân và bộ phận chức năng cấu thành vốn xã hội bên trong (là thành phần đạt giá trị
hội tụ trong khái niệm vốn xã hội của doanh nghiệp) tác động có ý nghĩa trực tiếp
đến hoạt động đầu vào và sản xuất trong trường hợp nghiên cứu tại thành phố Hồ
Chí Minh.
Từ ba lý do trên, cho thấy vốn xã hội là một nguồn lực rất cần thiết phải đưa
vào trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Trước hết là doanh nghiệp cần
phải nhận thức đầy đủ về nguồn lực vốn xã hội. Kế đến là xây dựng chiến lược phát
triển vốn xã hội cho doanh nghiệp. Sau cùng là phải liên tục phát triển, duy trì và sử
dụng vốn xã hội để nâng cao kết quả các hoạt động kinh doanh. Các gợi ý cụ thể
được trình bày như sau:
Nhóm gợi ý thứ hai: Nhận thức vốn xã hội là nguồn lực cần thiết phải đưa
vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp BĐS.
Thông thường, theo phương pháp truyền thống trong một bản chiến lược và
kế hoạch đề cập đến hai nguồn lực cơ bản là nguồn lực hữu hình và thời gian phục
vụ cho các nhiệm vụ chiến lược và kế hoạch. Kết quả nghiên cứu này cho thấy vốn
xã hội có ảnh hưởng đến các nhóm hoạt động của doanh nghiệp, do vậy cần đưa
thêm nguồn lực vốn xã hội vào để hoạch định chiến lược và kế hoạch trong tất cả
các lĩnh vực bên trong doanh nghiệp. Chẳng hạn như trong xác định tầm nhìn, sứ
mệnh, mục tiêu phải xây dựng các chỉ tiêu có liên quan đến phát triển nguồn lực
vốn xã hội, cũng như phải có kế hoạch sử dụng vốn xã hội để phục vụ cho các mục
tiêu khác.
Nhóm gợi ý thứ ba: xây dựng khung phân tích tiếp cận vốn xã hội cho doanh
nghiệp BĐS.
Chiến lược của các doanh nghiệp BĐS nên đề cập đến ba thành phần của vốn
xã hội trong quá trình phát triển của doanh nghiệp. Trong chiến lược của doanh
nghiệp nên xác định việc gia tăng vốn xã hội như là các mục tiêu cần hướng đến.
113
Đối với người lãnh đạo đòi hỏi chất lượng các mối quan hệ của họ trong các mạng
lưới dòng họ, bạn bè, đối tác, chính quyền và đồng nghiệp phải tăng lên. Đối với
các đối tác bên ngoài thì đòi hỏi doanh nghiệp phải thiết lập các được các mối quan
hệ để đảm bảo được lòng trung thành và hỗ trợ của khách hàng, nhà phân phối, nhà
cung cấp, đơn vị tư vấn, chính quyền và các công ty trong cùng tập đoàn. Đối với
mỗi cá nhân và bộ phận chức năng bên trong đòi hỏi phải tạo ra được cơ chế hợp tác
và cải thiện được sự hợp tác. Khuôn khổ mục tiêu chiến lược phát triển vốn xã hội
của doanh nghiệp tổng kết ở Hình 6.1.
Hình 6.1: Vốn xã hội trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp
Nguồn: Đề xuất của tác giả từ kết quả nghiên cứu.
Các mục tiêu trong chiến lược phát triển vốn xã hội của doanh nghiệp được
xác định với các tiêu chí đo lường của ba nhóm mạng lưới lãnh đạo, bên ngoài và
bên trong được trình bày trong Bảng 6.2, mục tiêu chiến lược cụ thể của từng nhóm
như sau:
Nhóm thứ nhất là đối với vốn xã hội của lãnh đạo. Mục tiêu tổng quát của
nhóm này là phải đảm bảo duy trì và liên tục tăng chất lượng các các mối quan hệ
đối với dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh và chính quyền các cấp có khả năng
chuyển hóa các mối quan hệ này thành lợi ích cho doanh nghiệp. Mục tiêu cụ thể và
tiêu chí đo lường bao gồm: (1) Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ dòng họ,
Chiến lược doanh nghiệp
Mạng lưới bên ngoài: Lựa chọn cụm kinh doanh, tạo lập và duy trì các mối quan hệ với: Khách hàng; Nhà phân phối; Nhà cung cấp; Đơn vị tư vấn; Chính quyền; Các công ty trong cùng tập đoàn.
Mạng lưới lãnh đạo Tạo lập và duy trì các mối quan hệ của lãnh đạo với: dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính quyền và đồng nghiệp
Sự hợp tác bên trong Tạo lập và duy trì cơ chế hợp tác giữa các cá nhân lẫn nhau và các bộ phận chức năng lẫn nhau
114
được đo lường bằng các chỉ tiêu số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ
dòng họ bình quân; (2) Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ bạn bè, được đo
lường cụ thể bằng các chỉ tiêu số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ bạn bè
bình quân; (3) Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ đối tác kinh doanh, được đo
lường cụ thể bằng chỉ tiêu số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ đối tác
bình quân; (4) Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ chính quyền, được đo lường
bằng các chỉ tiêu số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ chính quyền bình
quân; (5) Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ đồng nghiệp, được đo lường bằng
các chỉ tiêu số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ các đồng nghiệp bình
quân.
Nhóm thứ hai là đối với mục tiêu chiến lược của vốn xã hội bên ngoài doanh
nghiệp. Mục tiêu tổng quát của nhóm này là phải đảm bảo duy trì và liên tục tăng
chất lượng các mối quan hệ bên ngoài doanh nghiệp như đối với khách hàng, nhà
phân phối, nhà cung cấp, đơn vị tư vấn, chính quyền các cấp, các công ty trong
cùng tập đoàn có khả năng chuyển hóa các mối quan hệ này thành lợi ích cho doanh
nghiệp. Mục tiêu cụ thể và tiêu chí đo lường bao gồm: (1) Lòng trung thành của
khách hàng cũ và phát triển thêm khách hàng mới thông qua kênh khách hàng cũ
giới thiệu, được đo lường bằng các tiêu chí số lần khách hàng cũ mua hàng bình
quân, số khách hàng mới mua hàng do khách hàng cũ giới thiệu bình quân; (2)
Lòng trung thành của nhà phân phối cũ và phát triển thêm nhà phân phối mới, được
cụ thể bằng các chỉ tiêu đo lường là số sản phẩm đuợc nhà phân phối cũ bán, số nhà
phân phối mới, số lượng chính sách ban hành duy trì hệ thống phân phối; (3) Nhà
cung cấp chấp nhận bán chịu và giao hàng đạt chất lượng và đúng tiến độ, được cụ
thể bằng các tiêu chí đo lường là thời gian bán chịu bình quân, tỷ lệ giao hàng chậm
tiến độ, tỷ lệ giao hàng không đạt chất lượng; (4) Chất lượng của tư vấn, được cụ
thể bằng các tiêu chí đo lường là số đề xuất tư vấn có giá trị được sử dụng bình
quân; (5) Nhận được sự giúp đỡ và ưu tiên từ chính quyền các cấp, được cụ thể
bằng các chỉ tiêu đo lường là số thông tin có giá trị được thông báo kịp thời, số lần
ưu đãi từ chính quyền bình quân; (6) Nhận được sự giúp đỡ từ các công ty trong
115
cùng tập đoàn, được cụ thể bằng các tiêu chí đo lường là số lần nhận được sự trợ
giúp bình quân.
Bảng 6.2: Mục tiêu, đo lường vốn xã hội của doanh nghiệp bất động sản
Các khía cạnh
Mục tiêu tổng quát Mục tiêu cụ thể Đo lường
Mạng lưới của lãnh đạo
Liên tục duy trì và tăng chất lượng các mối quan hệ của lãnh đạo để hỗ trợ cho công việc điều hành doanh nghiệp
Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ dòng họ.
Số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ dòng họ bình quân.
Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ bạn bè.
Số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ bạn bè bình quân.
Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ đối tác.
Số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ đối tác bình quân.
Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ chính quyền.
Số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ chính quyền bình quân.
Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ đồng nghiệp.
Số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ bình quân từ chính quyền.
Mạng lưới bên ngoài
Liên tục duy trì và tăng chất lượng các mối quan hệ bên ngoài doanh nghiệp
Lòng trung thành của khách hàng cũ và phát triển thêm khách hàng mới thông qua kênh khách hàng cũ giới thiệu.
Số lần khách hàng cũ mua hàng bình quân; Số khách hàng mới mua hàng do khách hàng cũ giới thiệu bình quân.
Lòng trung thành của nhà phân phối cũ và phát triển thêm nhà phân phối mới thông qua kênh nhà phân phối cũ giới thiệu.
Số sản phẩm đuợc nhà phân phối cũ bán; Số nhà phân phối mới đăng ký do nhà phân phối cũ giới thiệu; Số lượng chính sách ban hành duy trì hệ thống phân phối.
Nhà cung cấp chấp nhận bán chịu và giao hàng đạt chất lượng và đúng tiến độ.
Thời gian bán chịu bình quân; Tỷ lệ giao hàng chậm tiến độ; Tỷ lệ giao hàng không đạt chất lượng.
Chất lượng của tư vấn. Số đề xuất tư vấn có giá trị được sử dụng bình quân.
Nhận được sự giúp đỡ, ưu tiên từ chính quyền các cấp.
Số thông tin có giá trị được thông báo kịp thời; Số lần ưu đãi từ chính quyền bình quân.
Nhận được sự giúp đỡ từ các công ty trong cùng tập đoàn.
Số lần nhận được sự trợ giúp bình quân.
Sự hợp tác bên trong
Liên tục tạo ra cơ chế hợp tác hiệu quả và gia tăng giá trị từ sự hợp tác bên trong.
Cơ chế tạo ra và giám sát hợp tác cá nhân hiệu quả.
Số kiến thức mới bình quân được cập nhật mới trong tổ chức; Mức độ tin tưởng và chia sẻ giữa các cá nhân; Số lần xung đột giữa cá nhân.
Cơ chế tạo ra và giám sát hợp tác cá nhân hiệu quả.
Thời gian thực hiện bình quân của từng quy trình.
Nguồn: Đề xuất của tác giả từ kết quả nghiên cứu.
116
Nhóm thứ ba là đối với mục tiêu chiến lược của sự hợp tác bên trong doanh
nghiệp. Mục tiêu tổng quát của nhóm này là liên tục tạo ra cơ chế hợp tác hiệu quả
và gia tăng giá trị từ sự hợp tác giữa các cá nhân, các bộ phận chức năng lẫn nhau
trong một tổ chức. Mục tiêu cụ thể và tiêu chí đo lường bao gồm: (1) Cơ chế tạo ra
và giám sát hợp tác cá nhân hiệu quả, được cụ thể bằng các chỉ tiêu đo lường là số
kiến thức mới bình quân được cập nhật mới trong tổ chức, mức độ tin tưởng và chia
sẻ giữa các cá nhân, số lần xung đột giữa cá nhân trong tổ chức; (2) Cơ chế tạo ra và
giám sát hợp tác cá nhân hiệu quả, được cụ thể bằng các tiêu chí đo lường là thời
gian thực hiện bình quân của từng quy trình công việc
Để chiến lược phát triển vốn xã hội phục vụ cho các hoạt động của doanh
nghiệp BĐS được thành công, cần phải nuôi dưỡng và phát triển vốn xã hội của
doanh nghiệp. Để làm được điều này, luận án đề nghị nhóm gợi ý thứ tư, thứ năm
và thứ sáu như sau:
Nhóm gợi ý thứ tư: Tạo lập, duy trì, phát triển và sử dụng vốn xã hội của
lãnh đạo doanh nghiệp.
Như phân tích ở trên vốn xã hội của lãnh đạo là thành phần đạt giá trị hội tụ
để đo lường khái niệm vốn xã hội của doanh nghiệp, mà vốn xã hội thì ảnh hưởng
có ý nghĩa đến các họat động kinh doanh. Nghĩa là vốn xã hội của lãnh đạo cũng có
ảnh hưởng đến hầu hết hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra doanh nghiệp BĐS.
Vốn xã hội lãnh đạo bao gồm chất lượng các mối quan hệ của lãnh đạo với các
mạng lưới cá nhân như dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính quyền và đồng
nghiệp. Điều này hàm ý rằng muốn nuôi dưỡng và phát triển vốn xã hội lãnh đạo thì
phải nuôi dưỡng và phát triển chất lượng quan hệ của lãnh đạo với các mạng lưới
này, theo các gợi ý như sau:
Thứ nhất, cần phải tạo lập và duy trì các mối quan hệ với những người thân
trong dòng họ và bạn bè. Để làm được điều này trước hết cá nhân lãnh đạo phải biết
thực hiện cân bằng trong cuộc sống, giành thời gian thăm viếng, tin tưởng và nhiệt
tình giúp đỡ người trong dòng họ và bạn bè. Các mối quan hệ cá nhân là nơi bày tỏ
những căng thẳng trong công việc, điều này góp phần làm tăng chất lượng cho cuộc
117
sống, qua đó sẽ khởi nguồn cho các ý tưởng kinh doanh, cũng như vượt qua và giải
quyết các vấn đề khó khăn trong công việc. Hơn nữa các mối liên hệ cá nhân có thể
nhận được sự giúp đỡ vật chất hoặc tinh thần để lãnh đạo thực hiện tốt các hoạt
động của doanh nghiệp.
Thứ hai, tạo lập và duy trì mối quan hệ cá nhân giữa lãnh đạo với các đối tác
kinh doanh và chính quyền các cấp. Để làm được điều này, lãnh đạo doanh nghiệp
phải xem đối tác và cá nhân ở các tổ chức chính quyền như những người bạn, phải
thường xuyên liên lạc, thăm hỏi, gặp gỡ và giúp đỡ với tư cách cá nhân để tạo dựng
lòng tin. Bởi vì thiết lập mối quan hệ với chủ thể này sẽ giúp giải quyết các công
việc thuận lợi, cũng như tạo cơ hội tiếp cận dự án tốt và thiết lập hệ thống bán hàng
hiệu quả.
Thứ ba, tạo lập và duy trì các mối quan hệ với các cá nhân là cấp dưới trong
công ty cũng như các cá nhân trong cùng tập đoàn. Thiết lập mối quan hệ tốt với
cấp dưới để tạo uy tín, lòng tin và động lực để phát huy tối đa năng suất lao động
của nguồn nhân lực trong công ty; thiết lập mối quan hệ với cá nhân của công ty
khác trong cùng tập đoàn để tranh thủ sự ủng hộ. Để tạo lập và duy trì các mối quan
hệ này, cần phải hành xử đúng các quy định và văn hóa của công ty, nhiệt tình hợp
tác với các cá nhân, bộ phận chức năng và các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn để
kỳ vọng nhận được sự hỗ trợ ngược lại. Thêm vào đó, lãnh đạo doanh nghiệp nên
thiết lập và tham gia các mạng lưới sinh hoạt mang tính chất cá nhân (ngoài công
việc) với các đồng nghiệp để tạo ra sự linh hoạt trong giải quyết công việc.
Nhóm gợi ý thứ năm: Tạo lập, duy trì, phát triển và sử dụng vốn xã hội bên
ngoài doanh nghiệp.
Vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp là thành phần đạt giá trị hội tụ trong việc
đo lường vốn xã hội có ảnh hưởng đến hầu hết các nhóm hoạt động doanh nghiệp
BĐS. Vốn xã hội bên ngoài bao gồm chất lượng các mối quan hệ của doanh nghiệp
với các mạng lưới bán hàng (nhà phân phối, khách hàng), nhà cung cấp, đơn vị tư
vấn, công ty trong cùng tập đoàn và chính quyền. Nghĩa là muốn nuôi dưỡng và
Comment [u11]: Nên bỏ
Comment [u12]: Xem lại
118
phát triển vốn xã hội bên ngoài thì phải nuôi dưỡng và phát triển các mạng lưới này,
với các gợi ý như sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp phải có bộ phận hoặc nhóm chuyên trách thực hiện
hoạt động quan hệ với các chủ thể bên ngoài. Bộ phận này có chức năng xác định
các chủ thể doanh nghiệp cần tạo lập và duy trì mối quan hệ cũng như xây dựng
hình ảnh doanh nghiệp đối với nhận thức của họ về doanh nghiệp. Kết quả nghiên
cứu ở các doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh chỉ ra các chủ thể đó bao
gồm khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, đơn vị tư vấn, các công ty trong
cùng tập đoàn và chính quyền các cấp.
Thứ hai, cần xây dựng các chính sách cụ thể trong mối quan hệ với từng chủ
thể trong mạng lưới bên ngoài doanh nghiệp. Đối với khách hàng và nhà phân phối
thì chính sách thông qua duy trì sản phẩm chất lượng, tạo giá trị khi sử dụng sản
phẩm (giá trị tạo ra trong khâu phân phối), chăm sóc khách hàng, hỗ trợ nhà phân
phối trong hoạt động bán hàng (như động viên, khuyến khích, chiết khấu, hoa
hồng). Đối với nhà cung cấp thì đảm bảo uy tín trong thanh toán và sự chặt chẽ
trong các hợp đồng thu mua. Đối với nhà tư vấn cần xây dựng kênh lựa chọn, tôn
trọng và cam kết thực hiện trong khi sử dụng tư vấn. Đối với chính quyền phải
thường xuyên tham gia các chương trình do chính quyền phát động. Đối với các
công ty trong cùng tập đoàn thì phải cam kết trong các thỏa thuận hợp tác và hỗ trợ
nhiệt tình.
Thứ ba, trong hầu hết các hoạt động quan hệ cộng đồng cần xác định đối
tượng trực tiếp và đối tượng gián tiếp thực hiện phát triển mối quan hệ với từng chủ
thể trong mạng lưới bên ngoài. Chẳng hạn như đối với khách hàng thì nhân viên bán
hàng là đối tượng trực tiếp, các bộ phận còn lại là gián tiếp; đối với nhà phân phối
thì nhân viên liên hệ với đại lý là trực tiếp, các bộ phận còn lại là gián tiếp; đối với
đơn vị tư vấn thì lãnh đạo là trực tiếp, các bộ phận còn lại là gián tiếp; đối với các
công ty trong cùng tập đoàn, chính quyền thì lãnh đạo và bộ phận quan hệ cộng
đồng là trực tiếp, các bộ phận còn lại là gián tiếp… Khi xác định được các đối
119
tượng này thì cần chú trọng đến khâu lựa chọn nhân sự phù hợp và đào tạo chính
sách quan hệ cộng đồng cho các đối tượng thực hiện.
Nhóm gợi ý thứ sáu: Tạo lập, nuôi dưỡng, phát triển và sử dụng vốn xã hội
bên trong doanh nghiệp.
Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp cũng là thành phần đạt giá trị hội tụ trong
việc đo lường vốn xã hội của doanh nghiệp, có tác động đến hầu hết các hoạt động
của doanh nghiệp; chúng tác động đến hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Vốn
xã hội bên trong bao gồm chất lượng các mối quan hệ theo chiều ngang và chiều
dọc giữa cá nhân/ bộ phận chức năng lẫn nhau, vì vậy để nuôi dưỡng và phát triển
vốn xã hội bên trong cần trú trọng đến hai mạng lưới này theo các gợi ý như sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý cần chú trọng đến sự hợp
tác giữa các cá nhân/ bộ phận chức năng lẫn nhau theo các mối quan hệ kể cả chiều
dọc và chiều ngang. Cần xác định quan điểm cho rằng sức mạnh của tổ chức không
phải dựa vào sự xuất sắc đơn lẻ từng cá nhân mà phải dựa trên hệ thống quản lý
được thiết lập dựa trên sự hợp tác của cá nhân/bộ phận chức năng. Xây dựng được
hệ thống, cải tiến hệ thống và cam kết thực hiện đúng quy trình của hệ thống hợp
tác trong công việc chẳng những tạo ra được giá trị vô hình cho doanh nghiệp mà
còn giúp doanh nghiệp bảo vệ được các bí quyết công nghệ nói chung.
Thứ hai, khi xây dựng hệ thống quản lý cần đưa vào các giá trị văn hóa
doanh nghiệp và mô tả phẩm chất nhân sự có liên quan đến mỗi quy trình hoạt
động. Cần chú ý đến cơ chế nội hoá kiến thức của cá nhân vào trong tổ chức thông
qua các biện pháp khuyến khích sự chia sẻ, nhân rộng những kiến thức chia sẻ có
giá trị để phát huy, bảo tồn và sử dụng chúng phục vụ cho các mục tiêu của doanh
nghiệp.
6.2.3 Gợi ý chính sách vĩ mô hỗ trợ doanh nghiệp phát triển vốn xã hội tạo
hiệu ứng tích cực, đồng thời hạn chế các hình thức liên kết xã hội tạo
hiệu ứng tiêu cực trên thị trường bất động sản
Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội của doanh nghiệp đóng góp tích cực
vào các hoạt động của doanh nghiệp, qua đó tạo ra hiệu ứng tích cực và tiêu cực cho
120
thị trường BĐS. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất gợi ý thứ bảy và thứ tám nhằm hỗ
trợ doanh nghiệp phát triển các hình thức liên kết xã hội tạo hiệu ứng tích cực và
hạn chế các hình thức liên kết xã hội tạo hiệu ứng tiêu cực.
Nhóm gợi ý thứ bảy: Gợi ý chính sách vĩ mô tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp phát triển vốn xã hội dưới hình thức liên kết
tạo hiệu ứng tích cực cho thị trường BĐS.
Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội tạo hiệu ứng tích cực cho thị
trường BĐS biểu hiện qua việc tạo điều kiện huy động vốn cho thị trường; giảm chi
phí giao dịch, tạo thuận lợi cho sự hợp tác giữa các chủ thể tham gia thị trường; góp
phần lan tỏa thông tin và chuyển giao tri thức cho thị trường BĐS. Nhiều nghiên
cứu cho rằng các hình thức liên kết tạo hiệu ứng tích cực của vốn xã hội thường
thấy ở các quốc gia có môi trường thể chế tốt, đặc biệt là sự hiện diện của các kênh
tương tác do Chính phủ tạo ra (Fukyyama, 1995; De soto, 2000; Thornburn, 2006).
Trong các khía cạnh vốn xã hội của doanh nghiệp thì vốn xã hội bên ngoài rất cần
sự hỗ trợ từ Chính phủ trong việc tạo lập các kênh tương tác giữa doanh nghiệp với
các chủ thể như khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, đơn vị tư vấn và chính
quyền. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển vốn xã hội bên ngoài nên tập
trung vào các nội dung sau:
Thứ nhất là Chính phủ nên xây dựng hành lang pháp lý tạo điều kiện cho
sự hình thành và phát triển đa dạng các công cụ tài chính dựa trên sự liên kết của
các chủ thể tham gia thị trường như quỹ tín thác BĐS (quỹ này ở Việt Nam chưa có
và nó được lồng ghép vào quỹ phát triển và tiết kiệm nhà ở đã được triển khai về
mặt pháp lý) mà các quốc gia phát triển đang áp dụng và mang lại kết quả huy động
vốn rất tốt cho các chủ thể trên thị trường. Chính sách này sẽ góp phần tạo ra vốn xã
hội cho thị trường BĐS, thông qua đó cũng tạo thêm cung tín dụng cho thị trường
này.
Thứ hai là sử dụng các công cụ liên kết xã hội giữa các chủ thể tham gia thị
trường để giúp các khách hàng, nhà cung, doanh nghiệp nắm bắt thông tin lẫn nhau
để dễ dàng trong các giao dịch giữa họ, qua đó làm giảm chi phí và thời gian giao
121
dịch trên trị trường BĐS. Để làm được điều này, Chính phủ cần ban hành các quy
định về xếp hạng uy tín của doanh nghiệp, chế độ minh bạch thông tin của các
doanh nghiệp tham gia thị trường.
Thứ ba là Chính phủ nên hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các mối quan hệ
bán hàng bằng các chính sách khuyến khích và hỗ trợ thành lập các tổ chức tiêu
dùng như hội chợ, triển lãm sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển mạng lưới
xã hội với khách hàng, nhà cung cấp và phân phối. Để thông qua đó giúp doanh
nghiệp tiếp cận được thông tin để ra các quyết định kinh doanh hợp lý, đồng thời
các tổ chức đó cũng là nơi trao đổi công nghệ giữa các doanh nghiệp với nhau.
Thứ ba là Chính phủ nên có những chương trình đầu tư phát triển các kênh
tương tác xã hội giữa các doanh nghiệp trong ngành BĐS, giữa doanh nghiệp ngành
BĐS với ngành có liên quan, giữa doanh nghiệp BĐS với các nhà làm chính sách
điều tiết thị trường. Các kênh tương tác này nên được sự hỗ trợ của các công cụ
mạng lưới công nghệ thông tin, đảm bảo sự thuận tiện trong việc trao đổi thông tin
giữa các chủ thể trong mạng lưới.
Cuối cùng là cần có những chính sách tạo điều kiện thúc đẩy sự liên kết phát
triển giữa các doanh nghiệp có vốn nước ngoài và doanh nghiệp trong nước đối với
ngành BĐS. Thông qua đó, các doanh nghiệp trong nước tiếp thu công nghệ quản lý
và cải tiến công nghệ, tránh được sự cạnh tranh trực diện. Bởi vì kết quả nghiên cứu
cho thấy vốn xã hội bên ngoài của doanh nghiệp nước ngoài cao hơn các doanh
nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước. Điều này hàm ý doanh nghiệp có vốn nước
ngoài có nhiều cơ hội phát triển dự án và phân phối sản phẩm thành công hơn hai
loại hình doanh nghiệp còn lại. Việc doanh nghiệp khu vực nhà nước và ngoài nhà
nước liên kết với doanh nghiệp nước ngoài là một cách thức tiếp cận mạng lưới
kinh doanh toàn cầu.
Nhóm gợi ý thứ tám là xây dựng các chính sách hạn chế các hình thức liên
kết xã hội tạo hiệu ứng tiêu cực cho thị trường BĐS.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy vốn xã hội cũng tạo ra hiệu ứng tiêu cực
được biểu hiện qua sự bất cập trong chính sách tiết vĩ mô của Chính phủ trong vai
122
trò tạo “luật chơi” bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia thị trường BĐS, đây là
nguyên nhân dẫn đến sự lựa chọn bất lợi trong các chính sách giao đất cho doanh
nghiệp của Chính phủ, và tạo tâm lý ỷ lại cho các doanh nghiệp vào các mối quan
hệ với chính quyền để giành quyền tiếp cận quỹ đất nhằm chuyển nhượng dự án.
Các gợi ý chính sách sau đây nhằm hạn chế các hình thức liên kết xã hội tạo hiệu
ứng tiêu cực cho thị trường BĐS:
Xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn quy trình xin cấp phép dự án rõ
ràng, minh bạch tạo điều kiện tiếp cận quỹ đất và giải quyết các thủ tục đất đai công
bằng đối với tất cả các doanh nghiệp. Cần xây dựng các tiêu chí sàng lọc, lựa chọn
doanh nghiệp có đủ năng lực về công nghệ, kinh nghiệm và tài chính để cấp phép
đầu tư các dự án BĐS. Bởi vì kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ của doanh
nghiệp với chính quyền địa phương tác động có ý nghĩa đối với hoạt động đầu vào
(có biến quan sát về khả năng tiếp cận quỹ đất).
Ngăn cấm các hành vi chuyển nhượng dự án đã được cấp phép mà chưa
qua xây dựng. Biện pháp này với mục đích là ngăn chặn tình trạng có nhiều doanh
nghiệp lợi dụng các mối quan hệ với chính quyền các cấp để được cấp phép dự án
sau đó chuyển nhượng lại. Thông qua đó sẽ góp phần giảm chi phí đầu tư và hạ giá
thành cho ngành BĐS.
6.3 NHỮNG ĐÓNG GÓP CHÍNH CỦA LUẬN ÁN
6.3.1 Đóng góp về mặt khoa học
Nhiều nhà nghiên cứu đã hoài nghi việc sử dụng khái niệm vốn xã hội trong
các nghiên cứu kinh tế và quản trị bởi tính khó đo lường của nó. Đã có nhiều nghiên
cứu nỗ lực trong việc đo lường vốn xã hội trên từng khía cạnh riêng lẻ như mạng
lưới bên ngoài hoặc bên trong hoặc lãnh đạo doanh nghiệp nên các thang đo vốn xã
hội của doanh nghiệp bị khiếm khuyết. Hơn nữa, các nghiên cứu trước đây được
thực hiện không phải thuộc ngành BĐS nên vẫn chưa chỉ ra được đóng góp của vốn
xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Luận án này góp phần hạn chế
những khiếm khuyết trên với những đóng góp như sau:
123
Thứ nhất các nghiên cứu trước đây chỉ đề cập đến từng khía cạnh riêng lẻ
của vốn xã hội nên việc nhận diện vốn xã hội của doanh nghiệp còn bị khiếm
khuyết. Luận án đã xây dựng được thang đo vốn xã hội hoàn thiện hơn, đề cập đến
ba khía cạnh của mạng lưới bên trong, bên ngoài và lãnh đạo doanh nghiệp. Thang
đo vốn xã hội được xây dựng dựa trên liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính nên
đảm bảo đạt được giá nội dung. Đồng thời các thang đo được kiểm định tại trường
hợp thành phố Hồ Chí Minh đảm bảo được tính đơn nguyên, giá trị phân biệt, độ tin
cậy tổng hợp và phương sai trích. Như vậy, đóng góp trước hết của luận án về mặt
khoa học là xây dựng được thang đo vốn xã hội đầy đủ hơn các nghiên cứu trước
đó, đảm bảo giá trị kế thừa cho các nghiên cứu tiếp theo có liên quan đến vốn xã hội
trong doanh nghiệp.
Thứ hai, nghiên cứu đã nhận dạng được các nhóm hoạt động của doanh
nghiệp BĐS là hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Việc nhận diện các nhóm
hoạt động của doanh nghiệp dựa trên lý thuyết chuỗi giá trị của Porter (1985) và các
luận điểm Krumm (2001), Nelen (2008) và kết hợp với nghiên cứu định tính nên
các thang đo phù hợp cho điều kiện Việt Nam và đảm bảo đạt được giá trị nội dung.
Các thang đo đã được kiểm định độ tin cậy cho trường hợp các doanh nghiệp BĐS
thành phố Hồ Chí Minh. Việc xây dựng được thang đo các hoạt động của doanh
nghiệp BĐS đảm bảo giá trị nội dung và độ tin cậy nên có giá trị kế thừa cho các
nghiên cứu có liên quan tại Việt Nam.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được những đóng góp trực tiếp, gián
tiếp của vốn xã hội vào các nhóm hoạt động của doanh nghiệp là bằng chứng để
khẳng định vốn xã hội là một trong những nguồn lực cần được bổ sung trong công
tác hoạch định và thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp BĐS. Hơn
nữa, kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần kích thích những nghiên cứu tiếp theo về
mối liên hệ giữa vốn xã hội và các hoạt động trong quá trình kinh doanh không chỉ
ở ngành BĐS mà còn đối với các ngành kinh tế khác.
124
6.3.2 Đóng góp về mặt thực tiễn
Nghiên cứu này đã có những đóng góp thực tiễn cho các doanh nghiệp BĐS
và các cơ quan quản lý nhà nước đối với ngành BĐS của Việt Nam nói chung,
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu đã xây dựng và kiểm định thang đo vốn xã hội là căn
cứ để luận án gợi ý các mục tiêu và tiêu chí đo lường vốn xã hội với ba khía cạnh là
chất lượng mạng lưới bên trong, bên ngoài và lãnh đạo doanh nghiệp. Việc gợi ý
này góp phần giúp doanh nghiệp nhận diện và đánh giá được vốn xã hội trong
doanh nghiệp. Việc đánh giá này là việc làm thường xuyên để doanh nghiệp thay
đổi chiến lược kinh doanh cho phù hợp với những biến đổi của thị trường BĐS. Qua
đó giúp doanh nghiệp BĐS nhận dạng được khuôn khổ tạo lập, sử dụng, duy trì và
phát triển vốn xã hội trong doanh nghiệp BĐS. Từ đó, doanh nghiệp có thể hoạch
định các chương trình nhằm phát triển và sử dụng vốn xã hội để nâng cao kết quả
các hoạt động.
Thứ hai, nghiên cứu đã xây dựng được các thang đo cho các nhóm hoạt động
của doanh nghiệp đảm bảo được giá trị nội dung và độ tin cậy. Đồng thời cũng đã
chỉ ra được mối liên hệ giữa các hoạt động về mặt lý thuyết cũng như kiểm chứng
thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để gợi ý các chỉ
tiêu đo lường kết quả hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra cho doanh nghiệp BĐS.
Đóng góp này sẽ giúp doanh nghiệp BĐS đánh giá được kết quả hoạt động trong
doanh nghiệp của họ được toàn diện hơn.
Thứ ba, nghiên cứu cũng chỉ ra được tác động tiêu cực và tích cực của các
hình thức liên kết xã hội của doanh nghiệp ngành BĐS của Việt Nam. Đó là luận cứ
khoa học giúp cho các cơ quan lập pháp, quản lý nhà nước cấp trung ương và địa
phương liên quan đến thị trường BĐS nhận diện sự vận động của nguồn lực vốn xã
hội trên thị trường. Để từ đó kịp thời có những chính sách phát huy các hình thức
liên kết vốn xã hội tích cực, đồng thời hạn chế các hình thức liên kết vốn xã hội tiêu
cực trong thị trường BĐS quốc gia.
125
Cuối cùng, kết quả nghiên cứu sẽ phục vụ cho các hiệp hội BĐS Việt Nam,
hiệp hội BĐS thành phố Hồ Chí Minh nhận diện được sự quan tâm của các thành
viên khi tham gia hiệp hội, để ban chấp hành các hiệp hội tạo ra được các giá trị từ
mạng lưới liên kết phục vụ lợi ích của các thành viên tham gia.
6.4 HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ GỢI Ý NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
6.4.1 Hạn chế của luận án
Bên cạnh những đóng góp trên, luận án còn những hạn chế sau:
Thứ nhất, các thang đo được xây dựng và kiểm định trong môi trường thể
chế của Việt Nam nhưng chỉ được kiểm định cho trường hợp thành phố Hồ Chí
Minh nên kết quả nghiên cứu không đạt tính đại diện và chưa chắc là sẽ đúng tại các
tỉnh /thành khác trong cả nước.
Thứ hai, các thang đo được kiểm định với kích thước mẫu trung bình, nên
không đủ bậc tự do để ước lượng mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) với tất cả các
biến quan sát, thay vào đó là chỉ ước lượng đối với các biến trung bình của các
thang đo. Việc ước lượng như trên không thể hiện giá trị của từng biến quan sát cá
biệt trong mô hình nghiên cứu.
Thứ ba, thang đo vốn xã hội và hoạt động trong doanh nghiệp được xây dựng
cho ngành BĐS gắn với đặc thù của ngành nên không thể áp dụng cho doanh nghiệp
các ngành khác. Hơn nữa, ngành BĐS tại Việt Nam mới được hình thành gần 20
năm nên hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, nên các thang đo xây dựng trong điều
kiện này có thể sẽ không còn phù hợp cho thị trường ở các nước khác đã có hành
lang pháp lý hoàn thiện hơn, cũng như đối với thị trường BĐS Việt Nam trong
tương lai.
Thứ tư, bối cảnh xây dựng thang đo, mô hình lý thuyết và kiểm định cho
trường hợp thành phố Hồ Chí Minh vào cuối năm 2010 và đầu năm 2011 là khoảng
thời gian nền kinh tế Việt Nam đang trong bối cảnh lạm phát nên hoạt động của các
doanh nghiệp BĐS không ở trong trạng thái bình thường. Do vậy, tính ổn định của
kết quả nghiên cứu có thể không được đảm bảo lâu dài.
126
6.4.2 Gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo
Từ những hạn chế nêu trên, cần có các nghiên cứu tiếp theo về vốn xã hội
trong doanh nghiệp khắc phục những hạn chế, cũng như tìm thêm bằng chứng để
đánh giá việc sử dụng vốn xã hội như là nguồn lực của doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, thang đo và mô hình nghiên cứu chỉ mới kiểm định tại thành phố
Hồ Chí Minh nên chưa thể khẳng định được sự phù hợp đối với các địa phương
khác. Điều này hàm ý rằng các gợi ý từ nghiên cứu có thể không phù hợp cho tất cả
các địa phương ở Việt Nam. Do vậy, cần có các nghiên cứu tiếp theo để kiểm định
thang đo và mô hình lý thuyết cho ngành BĐS ở địa phương khác.
Thứ hai, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khẳng định
(CFA) và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) là các phương pháp dựa trên cỡ mẫu
lớn. Mặc dù cỡ mẫu nghiên cứu có thể chấp nhận được nhưng không lớn lắm, do
vậy cần có các nghiên cứu tiếp theo thực hiện trên kích thước mẫu lớn hơn.
Thứ ba, do nghiên cứu này được thực hiện trong bối cảnh nền kinh tế lạm
phát nên đe dọa tính ổn định của kết quả nghiên cứu. Cần có những nghiên cứu tiếp
theo thực hiện trong trạng thái nền kinh tế bình thường (không có lạm phát, khủng
hoảng kinh tế) để kiểm chứng lại kết quả nghiên cứu.
Thứ tư, vốn xã hội được khẳng định là nguồn lực cần thiết đối với doanh
nghiệp ngành BĐS. Nhưng với nghiên cứu này chưa thể khẳng là chúng phù hợp
cho các ngành kinh tế khác. Do vậy, cần thiết có những nghiên cứu tiếp theo để xem
xét vốn xã hội trong các ngành kinh tế khác.
127
KẾT LUẬN
Luận án nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh
nghiệp BĐS Việt Nam được thực hiện với mục tiêu nghiên cứu là khám phá cấu
trúc của vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp ngành Bất động sản (BĐS).
Đồng thời phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp
BĐS. Qua đó gợi ý các chính sách giúp doanh nghiệp BĐS sử dụng vốn xã hội để
nâng cao kết quả hoạt động, đồng thời gợi ý chính sách vĩ mô giúp Chính phủ hạn
chế các hình thức liên kết xã hội tiêu cực và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các hình
thức liên kết xã hội tích cực.
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu trên, luận án được thực hiện qua hai
giai đoạn: giai đoạn một là xây dựng thang đo và mô hình nghiên cứu với đối tượng
là các doanh nghiệp bất động sản Việt Nam (doanh nghiệp có hai chức năng tạo sản
phẩm và phân phối sản phẩm), với phương pháp nghiên cứu định tính bằng kỹ thuật
phỏng vấn chuyên gia (thảo luận tay đôi); và giai đoạn hai là kiểm định thang đo và
mô hình nghiên cứu cho trường hợp điển hình với đối tượng là các doanh nghiệp bất
động sản thành phố Hồ Chí Minh, bằng các phương pháp hệ số tin cậy (Cronbach’s
alpha), phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), mô
hình cấu trúc tuyến tính (SEM).
Kết quả nghiên cứu đã xây dựng được thang đo đảm bảo giá trị nội dung và
độ tin cậy, bao gồm: thang đo vốn xã hội là thang đo đa hướng bậc ba với các thành
phần bậc hai là vốn xã hội của lãnh đạo, vốn xã hội bên ngoài, vốn xã hội bên trong
doanh nghiệp; Các hoạt động của doanh nghiệp là các thang đo đơn hướng, bao gồm
hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định được vốn
xã hội đóng góp tích cực vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp BĐS.
Đóng góp này tạo ra hiệu ứng tích cực và tiêu cực đối với thị trường BĐS Việt
Nam: Hiệu ứng tích cực là vốn xã hội góp phần tạo vốn cho thị trường, giảm chi phí
giao dịch, thúc đẩy hợp tác hiệu quả, thông tin và chuyển giao tri thức trên thị
trường BĐS; Hiệu ứng tiêu cực của vốn xã hội là tạo ra những bất cập của chính
sách điều tiết vĩ mô của Chính phủ trong việc không đảm đương được vai trò tạo
128
“luật chơi” bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia thị trường, dẫn đến sự lựa
chọn bất lợi của Chính phủ và tâm lý ỷ lại của doanh nghiệp trong một số hoạt động
của ngành BĐS.
Kết quả nghiên cứu là cơ sở để gợi ý các chính sách giúp doanh nghiệp đánh
giá kết quả các hoạt động (gợi ý thứ nhất), nhận diện và đo lường vốn xã hội (gợi ý
thứ hai và thứ ba), sử dụng vốn xã hội phục vụ cho các hoạt động của doanh nghiệp
(gợi ý thứ tư, thứ năm và thứ sáu). Đồng thời cũng gợi ý chính sách vĩ mô giúp
Chính phủ hạn chế các hình thức liên kết xã hội tiêu cực và hỗ trợ doanh nghiệp
phát triển các hình thức liên kết xã hội tích cực (gợi ý thứ bảy và thứ tám).
Kết quả nghiên cứu đã góp phần đáp ứng được yêu cầu từ thực tiễn là bổ
sung luận cứ khoa học giúp cho doanh nghiệp BĐS sử dụng vốn xã hội phục vụ cho
hoạt động kinh doanh, cũng như giúp Chính phủ quan tâm đến vốn xã hội trong việc
ban hành các chính sách điều tiết thị trường. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng
đóng góp về mặt lý thuyết là bổ sung vào sự khiếm khuyết trong việc đo lường vốn
xã hội trong các nghiên cứu trước đó.
129
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
Tiếng việt: Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Đóng góp của vốn xã hội vào
các hoạt động của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Kiểm định cho trường hợp điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh”, Kỹ yếu hội thảo khoa học Ổn định Kinh tế Vĩ mô và Phát triển Kinh tế, tháng 10 năm 2011, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, trang 412432.
Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước: tiếp cận khả năng điều tiết vĩ mô và tác động hỗ trợ”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 252, trang 2230.
Huỳnh Thanh Điền (2011), “Ảnh hưởng vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp đến việc tiếp cận quỹ đất phát triển dự án bất động sản”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 251, trang 2936.
Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh hội nhập và lạm phát: Phân tích tình huống ngành bất động sản Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 246, trang 29.
Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Phát triển khu vực kinh tế tư nhân: tiếp cận các giải pháp giảm thiểu tác động lấn át và nâng cao tác động hỗ trợ”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 245, trang 27.
Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Vốn xã hội và sự năng động trong phát triển kinh tế địa phương tại Việt Nam”. Trong sách Những vấn đề kinh tế xã hội trong cương lĩnh (Bổ sung và phát triển năm 2011), chủ biên Trương Giang Long và Trần Hòang Ngân. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2011, trang 207 – 223.
Huỳnh Thanh Điền (2008), “Đóng góp của Vốn xã hội vào sự cải tiến doanh nghiệp”, Tạp chí phát triển Kinh tế, số 214, trang 4853.
Tiếng Anh: Nguyen Trong Hoai & Huynh Thanh Dien (2010), “Framework for Analyzing
Social Capital in Vietnamese Companies: An Overview of Literature and Empirical Researches”, The Economic Development Review, No. 191, pp. 1419.
130
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt:
Vũ Đình Ánh (2010), Nhận dạng nguồn vốn “nóng” cho thị trường bất động sản,
trình bày tại Hội thảo do Hiệp hội Bất động sản thành phố Hồ Chí Minh tổ
chức ngày 14/5/2010.
Bộ Xây Dựng (2011), “Chiến lược phát triển nhà ở Việt Nam”, Báo cáo tại Hội thảo
do Hiệp hội Bất động sản thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 11/3/2011.
Trần Kim Chung (2010), Lựa chọn kênh huy động vốn nào cho doanh nghiệp bất
động sản, trình bày tại hội thảo “những giải pháp về vốn cho thị trường bất
động sản năm 2010”, do hiệp hội bất động sản thành phố Hồ Chí Minh tổ
chức ngày 14/05/2010.
Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Áp lực cạnh tranh đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh hội nhập và lạm phát: Phân tích tình
huống ngành bất động sản Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 246,
trang 29.
Đào Anh Kiệt (2010), Thị trường Bất động sản thành phố Hồ Chí Minh: Cơ hội và
Thách thức, trình bày tại Hội thảo do Hiệp hội Bất động sản tổ chức ngày
12/05/2010, thành phố Hồ Chí Minh.
Porter & Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2010), “Báo cáo đánh giá
năng lực cạnh tranh của quốc gia của Việt Nam”, Viện Kinh tế Quản lý
Trung ương, Hà Nội.
Nguyễn Đình Thọ (2010), Phương pháp nghiên cứu định tính, Bài giảng số 3, môn
phương pháp nghiên cứu khoa học, lớp nghiên cứu sinh khóa 2009, trường
ĐH Kinh tế TP.HCM.
Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang (2009), Nghiên cứu khoa học quản trị
kinh doanh, NXB Thống kê, thành phố Hồ Chí Minh.
131
Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang (2008), Nghiên cứu Khoa học
Marketing: Ứng dụng Mô hình Cấu trúc Tuyến tính SEM, NXB ĐH Quốc gia
TPHCM, thành phồ Hồ Chí Minh
Thornburn (2006), “An toàn tài sản và đảm bảo tăng trưởng kinh tế”, trình bày tại
hội thảo do Hiệp hội Bất động sản thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, ngày
25/09/2006.
Townsend (2011), “Dự báo táo bạo”, Hội thảo Dự báo táo bạo 2011 tại Hà Nội vào
ngày 12/01/2011.
Tổng cục Thống kê (2010a), “Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu của thế kỷ 21”,
NXB Thống Kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2010b), “Niên giám thống kê Việt Nam năm 2009”, Nhà xuất
bản Thống kê.
132
Tiếng Anh:
ABS (2004), Measuring Social Capital: An Australian Framework and Indicators
http://www.ausstats.abs.gov.au/Ausstats/free.nsf/Lookup/13C0688F6B98DD
45CA256E360077D526/$File/13780_2004.pdf (truy cập ngày 10/5/2009).
Acquaah M. (2007), “Business Strategy and Competitive Advantage in Family
Businesses in Ghana: The Role of Social Networking Relationships”. A
Presentation at “Entrepreneurship in Africa” conference, Syracuse, NY,
April 12, 2010.
Barney J. B. (1991), “Firm resources and sustained competitive advantage”. Journal
of Management, 17(1), 99120.
Bueno E., Salmador M.P., Rodríguez O. (2004), "The role of social capital in
today's economy: Empirical evidence and proposal of a new model of
intellectual capital", Journal of Intellectual Capital, Vol. 5 Iss: 4, pp.556 –
574.
Bollen K.A. (1989), Structural Equation with Latent Variables, New York: John
Wiley & Sons.
Bourdieu P. (1986). The Form of Capital, in Richardson, J. E. (ed.) Handbook of
Theory of Research for the Sociology of Education, 241258, New
York:Greenwood.
Brookes N.J., Morton S.C., Dainty, A.R.J. & Burns, N.D. (2006). “Social processes,
patterns and practices and project knowledge management: A theoretical
framework and an empirical investigation”. International Journal of Project
Management, Volume 24, Issue 6, August 2006, Pages 474482
Carey S., Lawson B. (2011), "Governance and social capital formation in buyer
supplier relationships", Journal of Manufacturing Technology Management,
Vol. 22 Iss: 2, pp.152 170
Cheng C.N., Tzeng L.C., Ou WM., & TiChang K. (2006), “The Relationship
among Social Capital, Entrepreneurial Orientation, Organizational Resources
and Entrepreneurial Performance for New Ventures”
133
http://bai2006.atisr.org/CD/Papers/2006bai6030.doc (truy cập ngày
03/03/2010).
Chou Y.K. (2003), “Modelling the Impact of Network Social Capital on Business
and Technological Innovations”
http://www.economics.unimelb.edu.au/SITE/research/workingpapers/wp03/8
90.pdf (truy cập ngày 20/01/2009).
Cialdini R. B., Wosinska W., Barrett D. W., Butner J., & GornikDurose, M.
(2001), “The differential impact of two social influence principles on
individualists and collectivists in Poland and the United States”. Website
http://mba.tuck.dartmouth.edu/pages/faculty/petia.petrova/Petrova%20Web
%20site%20material/Personality%20and%20Individual%20Differences%20
%20Final.pdf
Cohen S.S. & Fields G. (1999), “Social capital and capital gains in Silicon Valley”,
California Management Review, 41 (2): 108130.
Coleman J. (1988), “Social capital in the creation of human capital”, American
Journal of Sociology, 94: s95s120.
Coleman J. (1990), Foundations of Social Theory, Cambridge: Harvard University
Press.
Daut S. (2006), “Social capital Macedonia and its impact on the economic growth”,
Center for Economic Analyses (CEA), http://www.cea.org.mk/
Documents/LGU_Project/Third_USAID_report_social_capita.pdf (truy cập
ngày 12/21/2009).
De Soto H. (2000), The Mystery of Capital: Why Capitalism Triumphs in the West
and Fails Everywhere Else, Bantam Press – Black Swan edition, London.
Emmerik H.V., Jawahar I.M, Schreurs B & Cuyper N. D, (2011), "Social capital,
team efficacy and team potency: The mediating role of team learning
behaviors", Career Development International, Vol. 16 Iss: 1, pp.82 – 99.
Fernández O.M. (2011), The moderating role of trust in contractual choice, British
Food Journal, Vol. 113 Iss: 3, pp.374 – 390.
134
Fukuyama F. (1995), Trust: The Social Virtues and the Creation of Prosperity,
London: Penguin Books.
Fukuyama F. (1997), The End of Order, London: Centre for Postcollectivist
Studies.
Gerbing W.D. & Anderson J.C. (1988), “An update paradigm for scale development
incorporating unidimensionality and its assessment”, Journal of Marketing
Research, 25(2): 186192
Goyal. A. & Akhilesh K.B. (2007), "Interplay among innovativeness, cognitive
intelligence, emotional intelligence and social capital of work teams", Team
Performance Management, Vol. 13 Iss: 7/8, pp.206 – 226
Glosiene A. (2006), Social Capital and Information Technology, Journal of
Documentation, Vol. 62 Iss: 5, pp.640 642
Grant R. (2002), Contemporary Strategy Analysis: Conepts, Techniques
Applications, Oxford, Backwell.
Hammervoll T. (2011), "Honeymoons in Supply Chain Relationships: the effects of
financial capital, social capital and psychological commitment", International
Journal of Logistics Management, The, Vol. 22 Iss: 2
Hans W. & Bolton, R. (2003), ‘Local Social Capital and Entrepreneurship’. Small
Business Economics, Vol. 21.
Hair, Anderson, Tatham & Black (1998). Multivariate Data Analysis, PrenticalHall
International, Inc.
Harper R. & Kelly M. (2003), “Measuring Social Capital in the United Kingdom”.
www.statistics.gov.uk/socialcapital (truy cập ngày 10/10/2008).
Ireland L.R. (2006), Project Management. McGrawHill Professional, 2006.
Jansen R J.G., Curseu D.P.L., Vermeulen P.A.M, Geurts J.L.A., & Gibcus P.
(2011), "Social capital as a decision aid in strategic decisionmaking in
service organizations", Management Decision, Vol. 49 Iss: 5.
Joroff M.L., Porter W.L., Feinberg B. & Kukla C. (2003), "The agile workplace",
Journal of Corporate Real Estate, Vol. 5 Iss: 4, pp.293 311
Kaplan R. & Norton D. (1996), The Balanced Scorecard. Harvard Business School
135
Kline, R.B. (2010), Principles and Practice of Structural Equation Modeling, The
Guilford Press, Third Edition.
Konstantinos J., Manolis S. C. & Harris G. P., (2011), A new evaluation procedure
in real estate projects, Journal of Property Investment & Finance, Vol. 29
Iss: 3, pp.280 – 296.
Koonmee K, Singhapakdi A, Virakul B. & Lee D.J. (2010), “Ethics
institutionalization, quality of work life, and employee job – related
outcomes : A survey of human resource managers in Thailand”; Journal of
Business Research; 63 : 2026.
Krumm P.J.M.M. (2001), "History of real estate management from a corporate
perspective", Facilities, Vol. 19 Iss: 7/8, pp.276 – 286.
Kurt A. (2000), "Social Capital within the Urban SmallFirmSector in Developing
Countries: A Form of Modern Organization or a Reason for Economic
Backwardness?" Presented at "Constituting the Commons: Crafting
Sustainable Commons in the New Millennium," the Eighth Conference of
the International Association for the Study of Common Property,
Bloomington, Indiana, USA, May 31June 4, 2000.
http://dlc.dlib.indiana.edu/documents/dir0/00/00/10/06/index.html (truy cập
ngày 22/04/2009).
Landry R., Lamari M. & Amara N. (2000), “Does Social Capital Determine
Innovation? To What Extent?”
http://kuuc.chair.ulaval.ca/francais/pdf/apropos/publication5.pdf (truy cập
ngày 02/02/2008).
Lee C., Lee K. & Pennings J. M.(2001), “Internal capabilities, external networks,
and performance: a study on technologybased ventures”. Strategic
Management Journal, vol 22, pp 615640.
Lisakka L. (2006), “Social Capital in Finland”, Statistical Review,
http://www.pdfbe.com/e9/e9151b592754dcf3download.pdf (truy cập ngày
10/7/2010).
136
Luthans F. & Youssef C. M. (2007a), “Positive organizational behavior in the
workplace: The impact of hope, optimism, and resiliency”, Journal of
Management, Vol 33, pp 774–800.
Luthans F. & Youssef C. M. (2007b), “Emerging positive organizational behavior.
Journal of Management, Vol 33, pp 321–349.
Luthans F., Norman S.M., Avolio B.J. & Avey J.B. (2008), “The Mediating Role of
Psychological Capital in the Supportive Organization Climate – Employee
Performance Relationship”, Journal of Organizational Behavior; Vol 29, pp
219238.
Martha A.M., Howard E. A. (2011), Networking strategies for entrepreneurs:
balancing cohesion and diversity, International Journal of Entrepreneurial
Behaviour & Research, Vol. 17 Iss: 1, pp.7 38
McCallum S. & O'Connell D. (2009), "Social capital and leadership development:
Building stronger leadership through enhanced relational skills", Leadership
& Organization Development Journal, Vol. 30, pp.152 – 166
Nahapiet J. & Ghoshal S. (1998), “Social capital, intellectual capital, and
organizational advantage”, The Academy of Management Review, 23 (2):
242266.
Nelen H. (2008), "Real estate and serious forms of crime", International Journal of
Social Economics, Vol. 35, pp.751 – 762
Nisbet P. (2007), "Human capital vs social capital: Employment security and self
employment in the UK construction industry", International Journal of
Social Economics, Vol. 34, pp.525 – 537
Ohno K. (2009), “Avoiding the Middle – income Trap: Renovating Industrial Policy
Formulation in Vietnam”, ASEAN Economic Bulletin, Vol 26, No1, pp2543.
Ou W.M., Abratt R., & Dion P.(2006), “The influence of retailer reputation on store
patronage”, Journal of Retailing and Consumer Services, Vol 13(3), pp 221
230.
Paré S., Menzies T. V., Filion L.J., & Brenner, G.A. (2008), "Social capital and co
leadership in ethnic enterprises in Canada", Journal of Enterprising
137
Communities: People and Places in the Global Economy”, Vol. 2, pp.52 –
72
Putnam R.D. (1993), “The Prosperous Community. Social Capital and Public Life”,
The American Prospect, Vol. 13, pp. 3542.
Putnam R.D. (1995), “Bowling alone: America’s declining social capital”, Journal
of Democracy, Vol. 6 No. 1, pp. 6578.
Putnam R.D., (2000). Bowling Alone. The Collapse and Revival of American
Community, New York. NY: Simon & Schuster.
Porter M. E. (1985), Competitive Advantage, Free Press, New York.
Porter M.E. (1990), The Competitive Advantage of Nations, Free Press, New York.
Ramström J. (2008), “Interorganizational meets interpersonal: An exploratory
study of social capital processes in relationships between Northern European
and ethnic Chinese firms”. Industrial Marketing Management, Volume 37,
Issue 5, July 2008, Pages 502512
Ray G., Barney J. B. & Muhanna W. A.(2004), “Capabilities, business processes,
and competitive advantage: Choosing the dependent variable in empirical
tests of the resourcebased view”. Strategic Management Journal, vol 25(1).
Roberts L. M. (2006), “Shifting the lens on organizational life: The added value of
positive scholarship”, Academy of Management Review, Vol 31, pp 292–305.
Roberts P. W., & Dowling, G. R.(2002), “Corporate reputation and sustained
superior financial performance”, Strategic Management Journal, vol 23(12),
pp 10771093.
Ross A. (2011), Supply chain management in an uncertain economic climate: a UK
perspective, Construction Innovation: Information, Process, Management,
Vol. 11 Iss: 1, pp.5 – 13.
Sabatini F. (2005), “Meauring Social Capoital in Italy: An Exploratory Analysis”,
Working Paper n. 12 Aprile 2005. website: www.ecofo.unibo.it (truy cập
25/9/2010)
Schaufeli W. B. & Salanova M. (2007), “Work engagement: An emerging
psychological concept and its implications for organizations”, In S. W.
138
Gilliland, D. D. Steiner, & D. P. Skarlicki (Eds.), Research in social issues in
management: Managing social and ethical issues in organizations (Vol. 5, pp.
135–177). Greenwich, CT: Information Age Publishers.
Schenkel M.T., & Garrison G. (2009), "Exploring the roles of social capital and
teamefficacy in virtual entrepreneurial team performance", Management
Research News, Vol. 32 Iss: 6, pp.525 – 538
Scupola. A., LópezNicolás. C., & Steinfield. C. (2009), “Social Capital, ICT Use
and Company Performance: Findings from the Medicon Valley Biotech
Cluster, For presentation at the International Conference on Organizational
Learning, Knowledge and Capabilities (OLKC)”, Amsterdam, The
Netherlands, April 2628, 2009.
https://www.msu.edu/~steinfie/OLKCpaper2009.pdf (truy cập ngày
12/11/2010).
Stevens M. (2002), Project Management Pathways. Association for Project
Management. APM Publishing Limited.
Tansley C. & Newell S. (2007), "Project social capital, leadership and trust: A study
of human resource information systems development", Journal of
Managerial Psychology, Vol. 22, pp.350 – 368
Tushman & O’Reilly III C. (1997), Winning through innovation, Havard Business
Shool Press.
Truss C. & Gill J. (2009), "Managing the HR function: the role of social capital",
Personnel Review, Vol. 38, pp.674 – 695
Waheduzzaman (2010), "Value of people's participation for good governance in
developing countries", Transforming Government: People, Process and
Policy, Vol. 4 Iss: 4, pp.386 – 402.
Woolcock M. & Narayan. D. (2000), “Social Capital: Implications for Development
Theory, Research, and Policy”. Final version submitted to the World Bank
Research Observer. To be published in Vol. 15(2), pp.225249.
http://www.oecd.org/dataoecd/5/13/1824913.pdf (truy cập ngày 25/5/2009)
139
Wallis J., Killerby, P., & Dollery B. (2004), "Social economics and social capital",
International Journal of Social Economics, Vol. 31 Iss: 3, pp.239 – 258.
Webb C. (2008), "Measuring social capital and knowledge networks", Journal of
Knowledge Management, Vol. 12, pp.65 – 78.
Wharton R.F. & BrunettoY. (2009), "Female entrepreneurs as managers: The role
of social capital in facilitating a learning culture, Gender in Management”,
An International Journal, Vol. 24, pp.14 – 31.
Wiklund J. & Shepherd D.(2003), “Knowledgebased resources, entrepreneurial
orientation, and the performance of small and mediumsized business”,
Strategic Management Journal, Vol 24, pp 13071314.
Wilson P.N. (2000), “Social capitap, Trust, and the agribusiness of economics”,
Journal of Agricultural and Resource Economics, Vol 35, pp 113.
Yang J., Alejandro T.G.B., & Boles J.S. (2011), "The role of social capital and
knowledge transfer in selling center performance", Journal of Business &
Industrial Marketing, Vol. 26, pp.152 – 161.
YliRenko H., Autio E. & Sapienza H. J.(2001), “Social capital, knowledge
acquisition, and knowledge exploitation in young technologybased firms”,
Strategic Management Journal, vol 22, pp 587613.
Zhang Q. & Fung H.G. (2006), China's social capital and financial performance of
private enterprises, Journal of Small Business and Enterprise Development,
Vol. 13 Iss: 2, pp.198 – 207.
top related