tập 121, số 07, 2014
Post on 11-Jan-2017
253 Views
Preview:
TRANSCRIPT
oµ Tạp chí Khoa học và Công nghệ
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – HÀNH VI
Mục lục Trang
Lê Thị Ngân - Đọc tiểu thuyết Sau phút sinh ly của Lê Văn Trương, nghĩ về ranh giới mong manh giữa thủy chung và phản bội 3
Nguyễn Diệu Linh, Nghiêm Thị Hồ Thu, Dương Ngọc Thùy - Giải mã ý nghĩa một số trò chơi trong Cho tôi xin
một vé đi tuổi thơ của Nguyễn Nhật Ánh 9
Nguyễn Thị Thanh Huyền - Sử dụng ca dao, đồng dao trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 15
Ngô Thị Thanh Nga - Nhân vật tài tử giai nhân trong tác phẩm Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú và Truyện hoa tiên
kí - những nét tương đồng 19
Lương Thị Hạnh - Quan niệm của người Tày Bắc Kạn về sự sống và cái chết 23
Nguyễn Minh Tuấn, Lê Văn Hiếu - Làm rõ vai trò của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên với vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1997 – 2005 29
Phạm Quốc Tuấn - Kết cấu tự sự - trữ tình trong truyện thơ nôm Tày Tổng tân – Cúc hoa 35
Nguyễn Mậu Đức – Phòng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm với việc hình thành năng lực nghiệp vụ sư phạm cho
sinh viên 41
Đinh Đức Hơi, Nguyễn Thị Yến - Biểu hiện về tri tuệ xuc cảm của học sinh trường trung học phô thông chuyên
Thái Nguyên – tỉnh Thái Nguyên 49
Phan Thị Hòa, Hoàng Thị Nhung - Những khó khăn trong giảng dạy và phát triển khả năng đọc cho sinh viên
năm thứ hai trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên 55
Nguyễn Thị Quế, Phùng Thị Hải Vân - Đề xuất kế hoạch hành động gồm bảy bước nhằm thực hiện đề án học
tập dựa trên vấn đề cho giáo viên tiếng Anh tham gia chương trình bồi dưỡng của đề án ngoại ngữ quốc gia 2020
tại Đại học Thái Nguyên 61
Ngô Hữu Hoàng - Lời rào đón như phương tiện “đền bù” các vi phạm nguyên tắc lịch sự (dựa trên diễn ngôn tiếng Anh và tiếng Việt) 65
Ngô Thị Huyền Trang, Trần Thị Tuyết, Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Nhân lực tác nghiệp tại các khách sạn ba sao
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, thực trạng và giải pháp 73
Nguyễn Thị Kim Nhung, Chu Thị Thức - Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại chi nhánh ngân hàng thương mại cô phần đầu tư và phát triển Thái Nguyên 79
Nguyễn Thị Nhung - Nghiên cứu cơ cấu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam 87
Lê Quang Đăng, Đỗ Thị Nga - Phân tich hiện trạng và đề xuất giải pháp phát triển kinh tế du lịch Thái Nguyên
qua ma trận SWOT 95
Trần Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu giải pháp phát triển thương mại, dịch vụ bền vững cho tỉnh Thái Nguyên 101
Hà Thị Thanh Hoa, Dương Thị Thuý Hương - Giải pháp xây dựng nông thôn mới của huyện Phú Lương - tỉnh
Thái Nguyên 111
Nguyễn Phương Thảo - Một số đánh giá về việc vận dụng mô hình kế toán quản trị chi phi ở một số nước trên thế giới 115
Võ Thy Trang, Nguyễn Thu Hà - Nghiên cứu sự phát triển bền vững các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên 121
Đỗ Thị Thu Hằng, Trần Tuấn Anh, Đỗ Thị Thuý Phương - Bàn về kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp Việt Nam 135
Journal of Science and Technology
121(07)
N¨m 2014
Nguyễn Thị Phương Thảo, Phạm Văn Hải, Nguyễn Tiến Đông, Lương Văn Hinh - Công tác giải phóng mặt
bằng tại dự án xây dựng hồ Khe Ván xã Phủ Lý - huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên 139
Nguyễn Thùy Linh, Phạm Văn Hải, Nguyễn Tiến Đông, Lương Văn Hinh - Đánh giá thực trạng công tác giao,
cho thuê đất của các tô chức trên địa bàn thành phố Thái Nguyên 145
Đỗ Quang Quý, Trần A Hùng - Việt Nam hướng tới bảo hiểm y tế toàn dân 151
Phạm Thị Hồng, Nguyễn Bích Ngọc, Phạm Quang Tùng - Nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh 157
Hoàng Văn Hải, Hoàng Thị Thu Hằng - Tông quan về tiến trình quốc tế hóa của công ty 165
Nguyễn Nam Hà, Nguyễn Thị Hà Trang - Nâng cao hiệu quả hoạt động cố vấn học tập tại trường Đại học Kinh
tế và Quản trị kinh doanh – Đại học Thái Nguyên 171
Thăng Văn Liêm - Đôi điều suy nghĩ về đối tượng giáo dục, giáo hóa của nho giáo 177
Phạm Kim Thoa - Khảo sát thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên trường Đại học Công nghệ Thông tin và
Truyền thông – Đại học Thái Nguyên 181
Nguyễn Xuân Tiến - Công tác giải phóng mặt bằng xây dựng Đại học Thái Nguyên – thực trạng và một số đề xuất 187
Nguyễn Thu Nga, Trần Thị Thùy Linh, Đặng Trung Kiên - Giải pháp nâng cao chất lượng tin dụng tại chi
nhánh ngân hàng thương mại cô phần quốc tế Thái Nguyên 191
Nguyễn Thị Phương Nga, Nguyễn Xuân Trường - Tình hình và triển vọng phát triển du lịch Hà Giang trong
tiến trình hội nhập 199
Dương Thị Hoa, Vũ Thị Hằng Nga - Nâng cao hoạt động dịch vụ cho sinh viên trong trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội 207
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
3
ĐỌC TIỂU THUYẾT SAU PHÚT SINH LY CỦA LÊ VĂN TRƯƠNG,
NGHĨ VỀ RANH GIỚI MONG MANH GIỮA THỦY CHUNG VÀ PHẢN BỘI
Lê Thị Ngân*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Tiểu thuyết gia Lê Văn Trương (1906- 1964) đã tạo ra được nhân vật người hùng được một thời
chấp nhận và say mê. Tiểu thuyết Sau phút sinh ly được nhà xuất bản Tân Dân in lần đầu vào
năm 1942. Lê Văn Trương đã làm mới những vấn đề tưởng chừng đã cũ bằng cách thổi vào đó
một luồng sinh khí mới và để nhân vật của mình thể hiện một cách sinh động triết lý “Người
hùng” qua từng trang truyện. Trong tác phẩm, cái ranh giới mong manh giữa tình yêu cao thượng
và dục vọng thấp hèn, giữa hi sinh và ích kỉ, giữa thủy chung và phản bội đã được tác giả thể hiện
khá linh diệu. Con người, để giữ được đạo lý, nhiều khi đã phải đấu tranh quyết liệt và hi sinh hết
sức đau đớn.
Từ khóa: Lê Văn Trương, người hùng, tình yêu, đạo lý, thủy chung, phản bội
Sau thời gian tiếp biến và chuyển mình, đến
những năm 30 của thế kỉ XX, đời sống văn
học Việt Nam thật sự chuyển sang đường ray
của một nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự
tiếp xúc với văn học Pháp nói riêng và văn
học phương Tây nói chung đã làm cho sinh
hoạt văn học tiền chiến trở nên sôi nổi. Làn
sóng văn minh Âu hóa lúc đó như sự đáp ứng
đầy thách thức trước cơn chuyển dạ của văn
học Việt Nam trong buổi giao thời. Một
phong trào sáng tác rộng lớn trên tất cả mọi
thể loại, và với sự kết tinh các thành tựu trong
không ít tác giả - tác phẩm tiêu biểu. Các văn
sĩ châu tuần quanh các tòa báo, các nhà xuất
bản, kiếm sống bằng ngòi bút và được xã hội
công nhận. Họ là Nhất Linh, Khái Hưng,
Thạch Lam, Lê Văn Trương, Vũ Bằng,
Nguyễn Tuân, Trần Huyền Trân, Vũ Trọng
Phụng, Thâm Tâm, Nam Cao, Tô Hoài,
Thanh Châu v.v… (Danh sách này còn có thể
kéo dài hơn nữa). Trong đó, Lê Văn Trương
là nhà văn ăn khách hơn cả. Với sức viết đặc
biệt của mình (hơn 200 cuốn tiểu thuyết cho
cuộc đời sáng tác, ông đã tạo ra được một
kiểu nhân vật “người hùng” "được cả một
thời chấp nhận và say mê”.[2]*
Đã từng bị coi là huênh hoang tiên sinh, là
hạng triết học nửa mùa, đã từng chịu những
* Tel: 0912 022777, Email:lengandhkhtn@gmail.com
lời khinh khi, đố kị của văn đoàn Tự lực
nhưng Lê Văn Trương vẫn hồn nhiên là mình,
dám là mình, dù có “nhàm chết người” cũng
vẫn là mình một cách nhất quán trong suốt
đời thực và đời văn. Ông đã coi viết văn là
một nghề để sống và để tự ấn định mặt nạ
nhân cách của mình trên sàn diễn cuộc đời.
Không chịu “khép phòng văn hì hục viết”
(thơ Chế Lan Viên) như Tự lực văn đoàn, Lê
Văn Trương chường mặt ra giữa đời, xông
pha và ngao du sang tận Xiêm, Cao Miên,
Tàu mở điền, buôn bán, làm thầu khoán…và
viết văn. Và tuồng như đi đến đâu, ông mang
cả phong trần theo đến đấy. Con người ấy,
với sức lao động của mình đã tạo nên một
thành tựu, một bản sắc riêng trong đời văn.
Xã hội Việt Nam giai đoạn 1930-1945 là xã
hội thuộc địa hỗn mang với quan niệm đạo
đức bị đảo lộn, ranh giới để phân định các giá
trị dường như rất mong manh. Nhưng một
điều dễ nhận thấy nhất của thời buổi “Á – Âu
tranh nhau, Đông - Tây lẫn lộn” là cuộc sống
của người dân một nước nông nghiệp kiểu
châu Á vốn luẩn quẩn, trì trệ, dù có xảy ra
bao nhiêu cuộc “bể dâu” thì luân thường vẫn
cứ được xem là “khuôn vàng thước ngọc”.
Trung thành với quan điểm sáng tác của
mình, Lê Văn Trương đã làm cho “xu hướng
văn tải đạo mới đượm khí sắc thời đại mà đua
nở với các xu hướng khác "[3]. Là luân lý mà
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
4
không giáo điều, là tải đạo mà không cứng
nhắc chính bởi ông đã "chuyển ngòi bút nghệ
thuật thức thời để phát huy những thứ không
lỗi thời"[3]. Sau phút sinh ly là một trong
những tác phẩm thể hiện được tính thức thời
ấy của Lê Văn Trương. Trong tác phẩm, cái
ranh giới mong manh giữa tình yêu cao
thượng và dục vọng thấp hèn, giữa hi sinh và
ích kỉ, giữa thủy chung và phản bội đã được
tác giả thể hiện khá linh diệu. Con người, để
được coi là sống có đạo lý, nhiều khi đã phải
đấu tranh quyết liệt và hi sinh đau đớn như
thế nào.
Tiểu thuyết Sau phút sinh ly được nhà xuất
bản Tân Dân in lần đầu vào năm 1942. Tình
yêu nam nữ, đạo lý vợ chồng, tình người…
luôn chạm được đến thẳm sâu trái tim mỗi
người. Lê Văn Trương đã làm mới những vấn
đề tưởng chừng đã cũ bằng cách thổi vào đó
một luồng sinh khí mới và để nhân vật của
mình thể hiện một cách sinh động triết lý
“Người hùng” qua từng trang truyện.
Xã hội Việt Nam giai đoạn 1930-1945 đã bị
lối sống tư sản hóa thâm nhập. Trong môi
trường ấy, các tầng lớp và giai cấp xã hội ở
thành thị - tư sản và công nhân, tiểu thương,
tiểu chủ, công chức, dân nghèo thành thị, trí
thức tân tiến và nhà nho “Nôm na phá nghiệp
kiếm ăn xoàng” cho tới các cô sen, cậu bồi
tuy rất khác nhau về mức sống và khả năng
thực hiện ước mơ của mình, rất khác nhau,
thậm chí đối lập nhau về thái độ đối với chế
độ đương thời, vẫn gần nhau về những nét
tâm lý, thị hiếu: thích đua đòi, ăn chơi hưởng
lạc, muốn sống và giải trí trong môi trường
náo nhiệt, khao khát cái lạ, cái luôn luôn đổi
thay. Tức là, lối sống Âu hóa đã trở thành một
thứ mốt thời thượng, một vòng quay tịnh tiến
khiến con người phần nào thoát khỏi khuôn
khổ chật hẹp của lễ giáo phong kiến phương
Đông. Tinh thần này khúc xạ khá rõ nét trong
Sau phút sinh ly của Lê Văn Trương.
Tuấn là một công chức tiểu tư sản 26 tuổi, có
vợ và hai con. Hơn hết Tuấn được coi là một
trí thức Tây học vì anh biết tiếng Tây, hiểu
văn hóa Tây và cái tinh thần thể thao của anh
cũng đáng được xem là Tây lắm. Tuấn yêu vợ
và hết lòng vun đắp cho cái gia đình nhỏ ấy
của mình.
Cái nghĩa vụ làm cha, làm chồng của Tuấn sẽ
hoàn hảo biết bao nếu vào một sớm mai kia
trong lúc tập thể dục Tuấn không bắt gặp ánh
mắt nhìn của Cẩm - con gái bà chủ nhà. Cái
thân thể tráng kiện, một mình nhấc bổng cả
giang sơn ấy của Tuấn đã làm xao động tâm
hồn của Cẩm - một thiếu nữ mới 17 tuổi, e lệ,
dịu dàng, gia giáo và nhất là nàng cũng là một
người con gái đẹp!
Cái nhìn vụng trộm khó giấu ấy đã khiến
Tuấn chóng nhận ra. Trong Tuấn thấy “rộn
ràng những ý nghĩ khác”. Tâm hồn Tuấn
dường như bị lung lay, dao động. Nhất là khi
biết Cẩm trộm ngắm mình trong bộ véc đẹp,
trong anh thấy nhẹ nhõm, phơi phới lạ thường.
Có một chút gì như thể sự tự hào của Tuấn khi
được có một người con gái đẹp như thế để mắt.
Lần đầu tiên trong đời, Tuấn sinh ra ý nghĩ so
sánh vợ mình với người con gái khác.
Bằng ấy chi tiết mở đầu tác phẩm đã giúp
người đọc hình dung phần nào thiên cơ của
truyện. Câu chuyện sẽ trở nên nhạt nhẽo nếu
thiếu đi sự khập khiễng giữa Cẩm và Châm -
vợ Tuấn. Cẩm là một người con gái đẹp, “nói
tiếng Tây rất đúng mẹo và có một giọng giống
đầm lắm”[1], nàng lại còn biết thưởng thức
cái đẹp và có gu thẩm mỹ nữa. Trong đó vợ
anh là một người phụ nữ đảm đang, siêng cần
nhưng chỉ là cô gái gốc gác quê mùa, không
có cái Tây học như Cẩm. Tuấn so sánh, và, tự
thấy cái suy nghĩ của mình thật lố bịch. Anh
thấy phục vợ, nếu không nói là biết ơn vợ và
thấy người con gái kia quá xa vời, chẳng thể
so với người vợ tảo tần của mình được.
Nhưng đó chỉ là suy nghĩ ban đầu. Cũng có
thể đó là suy nghĩ tự răn mình của Tuấn.
Cuộc đời là những chuỗi bất ngờ không ai
lường hết được. Một ngày, mẹ con Cẩm đang
tranh cãi với mấy người thợ mộc về việc họ
đóng đồ không đúng yêu cầu. Đám thợ thấy
mẹ con Cẩm toàn đàn bà con gái, cậy thế
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
5
mạnh lấn tới. Sự việc đang đến hồi nguy nan
thì Tuấn xuất hiện và dàn xếp êm đẹp trong
tích tắc bằng chính cơ bắp và tài ăn nói của
mình. Tuấn xuất hiện như một chàng hiệp sĩ.
Cẩm quan sát không thiếu một hành động nào
của Tuấn và Tuấn cũng vì muốn gây ấn tượng
với Cẩm mà làm như thế. Chi tiết này là một
cái cớ thật hợp lý để Tuấn có cơ hội gần Cẩm.
Một sự vô tình đầy ngọt ngào.
Luôn luôn dành một niềm ngưỡng mộ và biết
ơn với vợ, đã từng cảm thấy “một hối hận
chớm mọc trong linh hồn”[1] nhưng ngay sau
cái lần ấy, Tuấn đã nghĩ nhiều hơn về Cẩm.
Bởi vì Cẩm hơn Châm, mà cái sự hơn ấy lại
hợp với Tuấn lắm. Được mẹ con bà Cả cảm
ơn và dành cho niềm tri ân, Tuấn lại càng cảm
thấy mình đang dần trở nên vĩ đại trong mắt
Cẩm. Tuấn có cơ hội dạy Cẩm học võ, học
đàn. Cái sự dạy dỗ ấy như một thứ “lửa gần
rơm lâu ngày cũng bén”, mầm mống tình cảm
yêu đương đang được nhen lên. Tình cảm ấy
lại làm bà Cả nghĩ theo chiều hướng khác. Bà
cảm động khi thấy Tuấn chăm lo cho Cẩm
như anh lo cho em, săn sóc việc nhà như việc
của mình thì đã nhận Tuấn làm con nuôi. Núp
sau cái bóng ấy, quan hệ giữa Tuấn và Cẩm
càng khiến người ta không thể nghi ngờ. Nó
được bảo vệ kiên cố bằng lòng tin của cả
Châm và bà Cả.
Tuấn như được sống thêm một cuộc đời khác
từ khi có được tình cảm của Cẩm dành cho,
không lúc nào Tuấn thôi nghĩ về Cẩm và vô
hình chung, anh đã đẩy Châm sang một bên.
Người đọc dễ dàng nhận thấy, Tuấn chỉ thuộc
về Châm phần xác còn phần hồn anh ký thác
nơi Cẩm. Anh trở nên khao khát cái thân thể
nõn nường của Cẩm, càng khát khao anh càng
cảm thấy cái thân hình sồ sề của một người
đàn bà đang bụng mang dạ chửa như Châm
hoàn toàn không phù hợp với thân thể cường
tráng và khổ người đẹp như anh. Người bố
của hai đứa con ấy, trong lúc vợ về quê thu
thóc nợ đã thả sức vui chơi đàn địch với
người con gái khác cho thoả mãn với những
khát khao trong tinh thần. Họ dạy nhau học,
họ chăm sóc cho nhau từng li từng tí - “Mới
hửng sáng, Cẩm đã xuống dựng Tuấn dậy lên
gác sân tập võ. Rồi Cẩm pha sữa cho Tuấn
uống”[1]. Họ thả mình trong những đêm
trăng bát ngát cùng đàn và rượu Tây trong khi
người vợ ở quê đang tất bật thu lúa.
Tuấn đang lạm dụng lòng tin của Châm! Anh
đã từng cho rằng cái ý nghĩ sánh vai cùng
Cẩm là gian tà, đã từng hối hận, bứt rứt…
nhưng rồi anh không vượt qua được. Từ khi
Cẩm xuất hiện, Tuấn sống ngợp trong cái gọi
là cảm xúc của tình yêu. Tình cảm mà Tuấn
dành cho Châm lúc này đơn thuần chỉ vì trách
nhiệm, tình nghĩa, lòng trung thành và những
đứa con chung. Trong lòng Tuấn có trăn trở,
chỉ là trăn trở bởi lòng chịu ơn với Châm. Lí
trí luôn nhắc nhở Tuấn rằng mình đã có vợ,
rằng vợ mình là một người hi sinh cho chồng
con, cho gia đình, nhưng lí trí ấy không thắng
sức hút mạnh mẽ và ghê gớm từ phía Cẩm.
Dù tòa án lương tâm dằn vặt, sự tra tấn mình,
anh vẫn cứ ao ước có được Cẩm.
Những phút giây bên nhau ngọt như mộng
ước, những cử chỉ trìu mến đong đầy yêu
thương tưởng chừng như không có điểm dừng
thì cái tin Châm thu thóc xong sắp ra đã làm
“cả hai đều thấy quặn ruột” – “thôi thế là từ
nay hết những giây phút thân mật mà người
ta hòa cảm giác vào nhau”[1]. Cẩm cáo ốm.
Mà nàng ốm thật. Còn Tuấn như người đã
chết. Chàng sụt đi trông thấy. Trước ánh mắt
xót xa của Châm, Tuấn đã dối vì nhớ Châm
mà Tuấn sa sút! Giá mà Châm biết cái tin
mình lên đã làm cho Tuấn thành ra như thế!
Giá như Châm gắt gỏng, Châm lạnh nhạt với
anh thì anh còn thấy dễ chịu hơn, đằng này
người vợ quê mùa ấy, người vợ không biết
tiếng Tây ấy lại lại rơm rớm nước mắt vì
thương chồng ở nhà một mình, tuyệt nhiên
không có một ý nghĩ lỉnh kỉnh nào hơn. Đọc
tác phẩm ta thấy Châm là một người phụ nữ
hiền đảm, rất mực cổ xưa. Một người vợ luôn
dành một niềm tin tuyệt đối nơi đức ông
chồng, lúc nào cũng chỉ thấy ở chồng mình
“siêu thường như thể - trên đời này tốt nhất là
anh”. Người mẹ ấy đã không chịu mặc tân
thời, không chịu phấn sáp nước hoa chỉ muốn
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
6
để dành tiền cho con sau này ăn học. “Nàng
đã được bảo vệ bằng một triết lý yêu đời do
giáo dục của gia đình và hoàn cảnh của nàng
trước kia gây nên, nàng chỉ thấy ở đời những
góc đẹp”[1]. Ta tự hỏi tại sao trong tác phẩm
này Lê Văn Trương lại để nhân vật Châm
không biết một chút gì về mối quan hệ của
Tuấn và Cẩm? Dù chỉ là mảy may nghi ngờ
cũng không? Đàn bà thường giỏi linh cảm. Có
thể chứng cớ chưa có, nhưng linh giác mách
nước cho họ. Mà sự lúng túng của Tuấn, sự
gượng gạo của Cẩm khi hàng ngày giáp mặt
nhau, chả nhẽ Châm không hay? Đọc Lê Văn
Trương, độc giả thấy nhân vật nữ chính của
tiểu thuyết gia thường trong sáng đến tận
cùng như thế. Tác giả không nỡ để “linh hồn
trong sáng” của nàng vương phải những vẩn
đục. Giá như Châm đời thường hơn một chút,
nàng đã biết được mối quan hệ này. Và nếu
chi tiết ấy có thật trong tác phẩm thì cũng rất
có thể tinh thần của tác phẩm lại đi theo một
hướng khác, tức là Tuấn đã thành người phản
bội rồi.
Từ ngày Châm lấy thóc ở quê ra, Tuấn và
Cẩm không có những đêm trăng đẹp nữa. Cả
hai đều có cảm giác như bị tù đày. Cẩm như
chết mòn trong tinh thần vì từ nay sẽ không
được làm nũng Tuấn nữa, sẽ không còn
những cảm giác hồi hộp yêu đương. Tuấn đau
khổ đến tận cùng bởi sự giằng xé giữa một
bên là cảm xúc yêu đương với người tình,
một bên là tình thương đối với người vợ.
Tuấn biết bên kia vách, Cẩm cũng đang vật vã
vì đau đớn, vì hờn ghen, vì cảm giác tội lỗi.
Để thoát khỏi trạng thái này, Tuấn đã tự cho
mình buông thả không cần biết ngày đêm –
“Tuấn đi chơi vì chàng không chịu được cách
mình một bức tường, có một người con gái
đau đớn vì mình mà mình không có quyền
được an ủi”[1]. Tuấn phát điên, Tuấn thấy
nhục vì phải lừa dối. Và như một thông lệ của
những kẻ đang bế tắc, con người bất đắc chí
ấy tìm đến sự giải sầu giải uất trong men
rượu. Nhưng cả rượu cũng chẳng làm cho anh
vơi đi mà chỉ làm cho anh thêm thấm thía nỗi
khổ sở đắng cay của mình. Mỗi một lần uống
là anh lại cảm thấy đau xót, hối hận, hổ
thẹn… Anh vùi mình vào thế giới nửa người
nửa ma chỉ để “ru ngủ một cơn buồn”. Đó
không phải là thứ hối hận ồn ào hời hợt của
kẻ lấy việc xỉ vả mình để khoe khoang cũng
không phải là thứ hối hận có tính chu kỳ của
những kẻ dùng để xoa dịu cái lương tâm rách
nát của mình trong khi mình vẫn buông thả
theo cái xấu. Với Tuấn đó là sự giằng xé chảy
máu giữa hai thái cực: giữa một bên là sự ân
hận của mình khi đã phụ lòng tin của Châm,
đã gần như là phản bội Châm với một bên là
cái khát khao trong tình yêu với Cẩm. Tuấn là
loại nhân vật có tư tưởng, cũng là một kiểu
“người hùng” mà Lê Văn Trương cất công
xây dựng.
Tuấn đã đóng dấu được suy nghĩ của mình
rằng vĩnh viễn từ nay không thể có Cẩm từ
sau buổi nói chuyện trên gác ấy. Họ đã nói
hết cùng nhau, bộc bạch hết suy nghĩ trăn trở
mà chỉ hai người mới hiểu. Cẩm yêu cầu
Tuấn chấm dứt ngay lối sống hiện tại và
“thương em với tấm lòng ân ưu của một
người”[1] mặc dù Cẩm biết và mãi mãi biết
một khi đã không thuộc về Tuấn thì cô sẽ
không thuộc về ai. Cả hai đều thấy việc thuộc
về nhau là hoàn toàn không thể. Mối quan hệ
này sẽ không đến một cái đích nào cả bởi về
bản chất đó là một cuộc tình mù quáng, nói gì
thì nói cũng đã giẫm đạp phần nào lên gia
pháp hôn nhân! Cẩm đã chọn cách chôn vùi
những kỷ niệm đẹp đã có và sống như trước
kia. Tuấn khác, để giải quyết dứt điểm cơn
“bão tình” này anh quyết định sẽ kén chồng
cho Cẩm tuy việc ấy không khác việc anh tự
đem muối xát lòng mình.
Cẩm đã không nghe theo sự sắp đặt ấy của
Tuấn. Sau lần sát cánh cuối cùng cùng Tuấn
trong chuyến thi đấu tại Hà Nội để tranh giải
quán quân bóng bàn Bắc kì, Cẩm đã thú nhận
đã nói dối Kế và Bằng trong bữa cơm hôm ấy.
Nàng nói với hai người rằng nàng đã có người
hỏi để họ dập tắt hi vọng có đựơc Cẩm. Nói
ra điều này, Cẩm cũng đồng thời khẳng định,
nàng chỉ muốn giữ nguyên một tấm lòng yêu
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
7
với Tuấn mà thôi. Nhưng Tuấn đã quyết tâm.
Ngày nào chưa cưới được chồng cho “cô
Cẩm” ngày ấy “anh Cả” còn thấy bứt rứt
trong lòng. Phải yên vị với cái ý nghĩ rằng
Cẩm đã có chồng Tuấn mới không bị giày vò
nữa. Giải pháp này cho thấy Tuấn đã thực sự
“nhận chân lấy cái thiên chức của mình”, đã
dừng lại một cách đúng lúc, đã nhận ra rằng
chỉ có Châm mới là bến đỗ bình an nhất của
cuộc đời mình. Anh phải giữ trọn một mối
chung thủy với Châm, tin vào một hạnh phúc
gia đình có thật mà trước kia mình luôn có,
vào niềm tin son sắt của Châm.
Đám cưới của Cẩm và Kế, Tuấn cố tình tránh
mặt không đến dự. Dù rất cảm động tấm lòng
của bà Cả nhưng Tuấn biết mình không thể làm
khác, ở lại dự đám cưới - rất có thể chỉ chuốc
lấy một chứng tích trong tâm hồn mà thôi.
Cả nhà Tuấn rời Hải Phòng trong yên lặng và
đêm tối. Với Tuấn nó không khác một cuộc
chạy trốn. Khoảnh khắc ấy có hai con người
lặng lẽ bước trong nhau, lòng rạo rực – “Hình
như họ quên hết cả loài người. Họ bước mà
cũng không biết rằng mình bước, lúc ấy chân
họ chỉ có bản năng sai khiến”[1], họ không
còn bận lòng về những lối đi ẩm ướt và cũ kỹ
trong lòng nhau bởi thời gian khi ấy là một
cái gì quá đỗi xa xỉ, và người bước cạnh nhau
để tiếc thôi, chỉ tiếc thôi cũng vội vã lắm
rồi… Người đọc có cảm tưởng như nhà văn
muốn dẫn người đọc đi mãi hơn là muốn
người đọc tưởng tượng sau chuyến tàu ấy,
Tuấn sẽ thế nào khi mà trước “phút sinh ly”
đó anh chỉ bước một bước nữa thôi là sang bờ
bên kia của sự phản bội?
Lê Văn Trương vẫn nổi tiếng với thế giới
nhân vật người hùng của ông. Mỗi tác phẩm,
tác giả lại đem đến cho người đọc sự trân quí
một người hùng nào đó ở một khía cạnh nào
đó trong cuộc đời cuộc đời của họ. Đó là
Giáng Vân trong Cánh sen trong bùn, là
Trọng Khang trong Trường đời, là Chí trong
Trận đời, là Vượng trong Người anh cả, …
Nhưng trong tiểu thuyết Sau phút sinh ly,
người đọc thấy tác giả đã coi cả Tuấn, Châm
và Cẩm đều có thể được trân trọng gọi là
người hùng. Tuấn đã hi sinh cái cảm xúc
thăng hoa của tình yêu, hi sinh cả cái cơ ngơi
nếu lấy Cẩm có thể anh sẽ được thừa hưởng
để thủy chung với người vợ tào khang của
mình. Châm cả đời hi sinh cho chồng con,
chưa có một chút gì dám tự mình thưởng
hưởng. Cẩm đã dằn lòng quên đi mối tình đầu
ngang trái nhưng cũng đầy ngọt ngào và nồng
say của mình vì đạo lý và vì người mình yêu
thương, vì nếu như nàng cố tình tranh giành,
Châm có thể mất Tuấn lắm.
Cả ba người cùng hi sinh vì nhau như thế,
khiến cho phần kết của câu chuyện thật bâng
khuâng, đầy lắng đọng. Ranh giới của thủy
chung và phản bội mỏng manh biết bao nhiêu.
Giữ được nó ở bên bờ này hay bị đổ sang bờ
bên kia nhờ cả vào một sợi dây vô hình nhưng
bền chắc vô cùng: đó là đạo lý.
Hơn 70 năm đã qua, thiết nghĩ, câu chuyện về
nghĩa tình vẫn không bao giờ xưa cũ. Trong
giai đoạn xã hội sống đầy thực tế và có phần
bản năng như bây giờ, nhắc lại chuyện đạo lý
liệu có ai cho là giáo điều?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Trương (1942), Sau phút sinh li, Hà
Nội, Nhà in Tân Dân.
2. Lan Khai (1940), Mớ tài liệu cho văn sử Việt
Nam, Nhà xuất bản Minh Phương
3. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt
Nam, Quyển hạ, Ba thế hệ của văn học mới (1862-
1945), Trình bày xuất bản Sài Gòn.
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
8
SUMMARY
AFTER READING NOVEL SAU PHUT SINH LY OF LE VAN TRUONG,
THINK ABOUT FINE LINE BETWEEN GENERAL
AND AQUATIC BETRAYAL
Le Thi Ngan*
College of Sciences – Thai Nguyen University
Novelist Le Van Truong (1906-1964) has created a hero accepts and charm. Novel physiological
minutes later the New Democratic print publishers first time in 1942. Le Van Truong has new
problems seemed outdated by blowing into it a new spirit and to express their characters vividly
philosophy "hero" through each story page. In the work, the fine line between love and lust noble
vile, between sacrifice and selfishness, between loyalty and betrayal was the author shows quite
flexible magic. Man, to keep the moral, sometimes had to fight fierce and downright painful
sacrifices.
Keywords: Le Van Truong, hero, love, morality, loyalty, betrayal
Ngày nhận bài:28/2/2014; Ngày phản biện:01/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Phạm Phương Thái – Trường Đại học Khoa học – ĐHTN
* Tel: 0912 022777, Email:lengandhkhtn@gmail.com
Nguyễn Diệu Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 9 - 13
9
GIẢI MÃ Ý NGHĨA MỘT SỐ TRÒ CHƠI
TRONG CHO TÔI XIN MỘT VÉ ĐI TUỔI THƠ CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
Nguyễn Diệu Linh, Nghiêm Thị Hồ Thu*, Dương Ngọc Thùy Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Nhật Ánh có khả
năng diệu kỳ trao cho người đọc chiếc vé để có thể lên chuyến tàu trở về tuổi thơ thăm lại miền ký
ức bị bỏ quên. Thế giới tuổi thơ trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ hiện lên gần gũi, thân thương
và xúc động. Đó là những kỉ niệm tuổi thơ gắn với những trò chơi thú vị, hấp dẫn, những trải
nghiệm, suy ngẫm rất đáng yêu, đáng phải suy nghĩ và cũng rất ấn tượng. Qua 12 chương truyện
trong hành trình trở về tuổi thơ với những trò chơi của nhân vật chính - cu Mùi cùng nhóm bạn
thân thời tám tuổi, tác giả đã lôi kéo hàng triệu trẻ em và cả người lớn cùng hào hứng tham gia và
hồi tưởng.
Từ khóa: Trò chơi, kỷ niệm, tuổi thơ, làm người lớn, kho báu, quan tòa, đáng yêu
1. Trong tổng thể nền văn học dân tộc, văn
học thiếu nhi là một thành tố quan trọng
không thể thiếu. Với vai trò cung cấp tri thức,
vốn hiểu biết và cũng là phương tiện giải trí,
văn học thiếu nhi đặc biệt hơn so với các thể
loại văn học khác khi nó phải đảm nhận chức
năng định hình và bồi dưỡng tâm hồn cũng
như nhân cách trẻ em - thế hệ chủ nhân tương
lai của đất nước. Trong số những nhà văn có
đóng góp quan trọng cho nền văn học thiếu
nhi Việt Nam, có một gương mặt nổi bật, đó
là nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Cho tôi xin một
vé đi tuổi thơ là một trong số những truyện
nổi tiếng trong gia tài văn chương của
Nguyễn Nhật Ánh. Tác phẩm có khả năng
diệu kỳ khi đã trao cho người đọc tấm vé để
có thể lên chuyến tàu trở về tuổi thơ, thăm lại
miền ký ức dường như bị bỏ quên. Đó là một
bức tranh đa màu sắc mà nhà văn đã vẽ nên
về cuộc sống của trẻ em thành thị Việt Nam
cùng với sự chiêm nghiệm về một phần tuổi
thơ đã qua của chính tác giả. *
Lấy trọng tâm là viết cho thiếu nhi, viết vì
thiếu nhi, truyện Nguyễn Nhật Ánh xoay
quanh những vấn đề về cuộc sống tâm hồn
của trẻ nhỏ. Tác phẩm của ông dường như
chứa đựng những bài học giáo dục tâm lý cho
trẻ. Trong đó, những trò chơi của trẻ em là
* Tel: 0912 591582, Email: hothu81@gmail.com
một trong những phương tiện nghệ thuật quan
trọng để thể hiện tư tưởng của tác phẩm và
cũng là một dấu ấn giá trị thể hiện tài năng
của tác giả.
2. Thế giới tuổi thơ trong Cho tôi xin một vé
đi tuổi thơ hiện lên gần gũi, thân thương và
xúc động. Đó là những kỉ niệm tuổi thơ gắn
với những trò chơi thú vị, hấp dẫn như tìm
kho báu, đóng vai người lớn, tập làm bố mẹ,
đặt tên cho thế giới hay xử án… với những
trải nghiệm, suy ngẫm rất đáng yêu, ấn tượng
và đáng để suy nghĩ.
Thuộc đề tài viết về sinh hoạt của trẻ em
thành thị, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là bức
tranh sống động về cuộc sống của những trẻ
em gia đình có điều kiện tương đối đầy đủ,
chúng chỉ phải lo học hành và vui chơi. Mặc
dù đề tài này được khá nhiều tác giả quan tâm
nhưng Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ thực sự
là một bức tranh có những nét vẽ độc đáo.
Qua những trò chơi của cu Mùi cùng nhóm
bạn thân thời tám tuổi, tác giả đã lôi kéo hàng
triệu trẻ em và cả người lớn cùng hào hứng
tham gia và hồi tưởng.
Trò chơi vốn là những hoạt động được bày ra
để vui chơi, giải trí. Với trẻ em, đây là hoạt
động chủ yếu và tự nhiên. Qua đó thể hiện
nhận thức, tâm lý, suy nghĩ và mong muốn
của trẻ. Nguyễn Nhật Ánh rất tinh tế và khéo
léo miêu tả những trò chơi quen thuộc gắn
Nguyễn Diệu Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 9 - 13
10
liền với trẻ em ở thành thị với một sức hấp
dẫn riêng và gửi gắm những ý tưởng nghệ
thuật thật sâu sắc.
Đó là trò chơi làm vợ chồng, làm bố mẹ - tập
làm người lớn. Nếu như người lớn nhiều lần
ước ao được trở lại làm trẻ con thì con trẻ
cũng nhiều lúc có mong muốn là được trở
thành người lớn. Những trò chơi gia đình giả
làm chồng làm vợ, giả làm bố mẹ là biểu hiện
của mong muốn ấy. Trong mắt chúng “cuộc
sống thật là cũ kỹ”. Vì vậy, những trò chơi
vui nhộn không chỉ mang tính chất giải trí mà
còn là những liều thuốc tinh thần hữu hiệu.
Trong đôi mắt ngây thơ của những đứa trẻ
tám tuổi, trò vợ chồng là “cái trò mà đứa trẻ
nào bằng tuổi tôi cũng rất thích, mặc dù khi
lớn lên thì chúng rất dè chừng” [1;31]. Đã là
vợ chồng rồi thì ắt sẽ có con. Đó là quy luật
tất yếu của con người. Và nếu gia đình của cu
Mùi là có thật thì vợ chồng cu Mùi hẳn phải
đạt điểm mười vì chỉ dừng lại với hai đứa con
đủ một trai một gái. “Tôi cưới con Tí sún
chừng năm phút thì lập tức đẻ liền một lúc hai
đứa con: thằng Hải và con Tủn” [1;32]. Và
ngay khi gia đình mà cả bố mẹ và con cái đều
ngang tuổi ấy được lập ra thì cũng đồng nghĩa
với việc một thế giới “gia đình đảo ngược”
được ra đời. Gọi là thế giới đảo ngược bởi vì
chỉ có những ông bố, bà mẹ trong thế giới đó
mới dạy con cái rằng “học bài là lêu lồng”,
rằng “con ngoan là phải chạy nhảy trèo cây,
tắm sông đánh lộn”, rằng “chỉ có bọn hư hỏng
mới ăn cơm đúng giờ” [1;41]. Thực tế cha mẹ
của những đứa trẻ này ngay thời điểm đó biết
chuyện chắc chắn sẽ tức giận và đánh cho
chúng một trận ra trò. Và rồi cái tôi kể
chuyện của cu Mùi - con mắt nhìn của
Nguyễn Nhật Ánh đã vượt thời gian nhìn
xuyên thấu vào hai thế giới để cảm nhận, giãy
bày và mơ ước. Ai dám bảo hai lần bốn
không phải là tám, đánh nhau mà quần áo
sạch sẽ là làm nhục tổ tiên hay chỉ có những
đứa trẻ nghịch ngợm và “nổi loạn” mới suy
nghĩ như vậy? Nhưng đằng sau sự nổi loạn ấy là
cả một câu chuyện mà Nguyễn Nhật Ánh đã
trân trọng và tinh tế kể lại với nhiều dụng ý.
Trẻ em ngày nay chịu nhiều áp lực trong học
hành, thi cử. Vì vậy, trò chơi đóng vai bố mẹ,
vợ chồng được miêu tả đã thể hiện một cách
tự nhiên những suy tư, tâm trạng và mong
muốn của trẻ thơ - điều mà bố mẹ nhiều khi
không để ý và đưa ra như một điều lệ với trẻ.
Thông qua trò chơi này, trẻ như muốn khẳng
định mình và mơ ước có được sự cảm thông,
tự do để được sáng tạo.
Trò chơi truy tìm kho báu gắn với đặc điểm
ham chơi và yêu thích tìm tòi khám phá là
bản chất của trẻ con. Hơn ai hết, nhà văn
Nguyễn Nhật Ánh hiểu rất rõ điều này. Vì
vậy, trong những trò chơi của những đứa trẻ
ưa nghịch ngợm như cu Mùi, Hải cò, Tủn và
Tí sún ắt phải có trò gì đó mang tính chất
phiêu lưu khám phá và hiển nhiên về mặt này
thì những trò chơi như truy tìm kho báu là
một trong những trò phổ biến và phù hợp với
tâm lý các em. Nguyễn Nhật Ánh đã dành gần
một chương để kể về trò chơi truy tìm kho
báu của bốn đứa trẻ ngây thơ nhưng cũng rất
tinh quái này đưới tiêu đề “Chúng tôi trở
thành lũ giết người như thế nào”. Ở đây,
ngoài hình ảnh của những đứa trẻ ưa khám
phá và khát khao tìm hiểu thế giới, ta còn thấy
được hình ảnh của những đứa trẻ ngoan. Mặc
dù mong ước của chúng rất chính đáng nhưng
vì chúng luôn nhớ rằng chúng đang là những
đứa trẻ sống trong gia đình có khuôn phép, đi
đâu cũng phải xin bố mẹ đồng ý thì mới dám
làm. Trẻ em không được quyền quyết định
điều gì cả. Những lời khuyên hay ngăn cản
hoặc an ủi không chỉ nói cho cu Mùi nghe mà
dường như là nói với cả chính mình: “Đợi lớn
lên đi anh. Khi trở thành người lớn, tụi mình
có thể đi bất cứ đâu mà không có ai cấm
cản”. Thành người lớn - đó là điều mà cả bọn
trẻ đều nóng lòng mong muốn, đến mức phải
tự đóng vai mình làm người lớn, phải làm
những điều to tát như người lớn vẫn làm
(đóng bè, vượt biển để tìm kho báu). Thế
nhưng ý tưởng mới đưa ra đã sụp đổ chỉ vì
một lý do hết sức đơn giản: chúng đang là trẻ
con. Nỗi buồn chán bất lực xâm lấn đầu óc
ngây thơ của cu Mùi, nó phải thốt ra: “Như
Nguyễn Diệu Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 9 - 13
11
vậy, chúng tôi không ra đảo được, cũng
không lên núi hay vô rừng được. Tám tuổi thì
khốn khổ khốn nạn thế đấy: Cuộc đời nhìn
đâu cũng thấy những rào cản giăng giăng”
[1;142]. Nó kết luận: “Dường như mọi đứa
trẻ đều tin rằng có một kho báu nào được cất
giấu ở một nơi nào đó trên thế gian này đang
chờ đợi tụi nó” [1;145]. Đó hoàn toàn là đặc
điểm tự nhiên của trẻ con. Và Nguyễn Nhật
Ánh đã hiểu rất sâu sắc để viết một cách tự
nhiên và rất thật về trẻ em cũng như những
suy nghĩ của trẻ. Dù có những sai lầm nhưng
trò chơi đã thắp lên trong tâm hồn trẻ một
niềm vui khám phá và nhận thức về thế giới.
Và hẳn người đọc lớn tuổi sẽ nhận ra một
phần con người mình trong tuổi thơ đã qua
còn những trẻ em cùng thời sẽ tìm thấy một
người bạn đồng hành và không ngừng tưởng
tượng. Làm được điều này, nhà văn thực sự
đã rất thành công.
Trong hệ thống các trò chơi được tác giả tái
hiện, trò chơi làm quan tòa đã đem đến cho
trẻ một cặp “kính vạn hoa”. Có nhà văn đã
quan niệm rằng bạn đọc sẽ chỉ yêu thích tác
phẩm của tác giả ấy nếu như tác giả ấy biết
trân trọng quá khứ và tuổi thơ của chính
mình. Truyện của Nguyễn Nhật Ánh hấp dẫn
cũng bởi nhà văn có sự công bằng và trân
trọng khi viết về những ký ức và kỉ niệm tuổi
thơ. Trong số những trò chơi hấp dẫn và
nghịch ngợm mà Nguyễn Nhật Ánh kể ra, trò
làm quan tòa là một trò chơi được nhiều em
nhỏ thích thú. Bộ tứ những đứa trẻ trong câu
chuyện của Nguyễn Nhật Ánh cũng đã từng
rất hứng thú với trò chơi ấy.
Thời mới có tivi và được xem phim Bao
Thanh Thiên, chắc hẳn có nhiều cu cậu cũng
đẽo kiếm đóng giả Triển Chiêu để bắt chước
kiểu múa võ, bay nhảy tài phép và thay nhau
làm quân lính, làm quan Bao Thanh Thiên lập
tòa thăng đường xử án. Cu Mùi và nhóm bạn
thân cách đây mấy mươi năm cũng chơi trò
này nhưng có điểm đặc biệt là chúng đã lập ra
phiên tòa để xử án chính bố mẹ của chúng.
Đó là một phiên tòa trong mơ để được nói ra
những ấm ức dồn nén bấy lâu trong lòng, để
được trách móc, được kể tội và khao khát
được thông cảm. Phiên tòa ấy đặc biệt đến
mức “Những ngày hôm trước, nếu bốn đứa
tôi hăng hái giành nhau làm cha mẹ thì bây
giờ lại tranh nhau đến khô cả cổ để được làm
con cái. Phải tranh giành thôi vì đây là phiên
tòa vô tiền khoáng hậu: trẻ con xử người lớn”
[1;158]. Vì nếu như ở trong trò chơi lần trước,
được làm “cha mẹ” để có quyền dạy dỗ sai
bảo các “con” theo ý thích thì trong trò chơi
lần này, làm “cha mẹ” sẽ bị xử án và kết tội
bởi những đứa “con”. Đây hẳn là phiên tòa kỳ
lạ mà từ trước đến bây giờ mới có và cũng chỉ
có thể thể diễn ra trong trí tưởng tượng của
bọn trẻ mà thôi.
Trẻ con được xử người lớn, đó hẳn là suy
nghĩ của không chỉ riêng cu Mùi, Tí sún, Hải
cò và con Tủn trong Cho tôi xin một vé đi tuổi
thơ mà còn là niềm mong mỏi của nhiều trẻ
em khác. Và người đọc sẽ thích thú biết bao
nhiêu khi thấy trong phiên tòa ấy, những đứa
trẻ làm quan tòa xử án như thế này:
Khi cu Mùi đóng vai làm ba, Hải cò đóng vai
làm con:
“Hải cò nện lọ mực xuống mặt bàn đánh
“cốp”, mặt nó khó đăm đăm:
- Ba đi đâu mà giờ này mới về? Ba có biết
bây giờ là mấy giờ rồi không?
Tôi lí nhí:
- Ờ, ba đi gặp mấy người bạn…Vui miệng
làm mấy lỵ...
- Tuần trước ba say rượu, ủi xe vô gốc cây,
phải đưa đi cấp cứu, ba hổng nhớ hả?
(…)
Tôi tặc lưỡi:
- Nhớ chứ sao không.
- Nhớ sao ba còn tiếp tục say rượu? Rủi ba có
mệnh hệ gì thì vợ con bỏ cho ai nuôi?”.
Khi Tí sún đóng vai mẹ, Tủn đóng vai con:
“Con Tủn nhìn con Tí sún bằng ánh mắt
ngán ngẩm:
- Thiệt tình con không biết nói sao nữa mẹ à.
Con Tí sún đổi chân hai, ba lần, mặt lộ vẻ
bồn chồn, như thể nó biết nó tội lỗi đầy mình.
Nguyễn Diệu Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 9 - 13
12
Con Tủn đột nhiên nức nở:
- Mẹ không bao giờ tôn trọng con hết. Hu
hu hu.
Con Tí sún mặt mày xanh lè:
- Nín đi con. Con nói sao ấy chứ. Mẹ luôn
luôn thương con mà.
- Con nói mẹ không tôn trọng con chứ đâu có
nói mẹ không thương con.
Trước ánh mắt ngơ ngác của con Tí sún, con
Tủn ấm ức dằn từng tiếng:
- Thương là khác. Còn tôn trọng là khác”. [1;
158 - 161]
Còn gì hả hê và hạnh phúc hơn khi được trút
bỏ những tâm tư phiền muộn mà bấy lâu giữ
trong lòng không dám nói ra. Và những đứa
trẻ đóng vai trong trò chơi làm vợ chồng, giờ
đây lại thật mới mẻ, thật đáng yêu mà cũng vô
cùng đáng thương trong trò chơi đóng vai
quan tòa. Tuy chúng được sống trong một
giấc mơ ngắn và “phù du” khi “chúng tôi cảm
thấy đã lấy lại được sự công bằng, xả được
bao nhiêu là ấm ức, đã tưởng tượng ra được
cảnh người lớn xin lỗi trẻ con về bao nhiêu là
khuyết điểm mà nếu trẻ con không vạch ra thì
người lớn không bao giờ nhận thấy” [1; 163]
để rồi ngay sau đó, chỉ từ phiên tòa về đến
nhà là giấc mơ đã tan biến nhưng trẻ con đã
khẳng định được suy nghĩ cũng như thái độ
của mình: Dám nghĩ, dám làm, nhiều suy tư
mà nếu người lớn không lắng nghe thì không
bao giờ hiểu được trẻ.
Trẻ em ngày nay rất thông minh và óc quan
sát cũng thật nhanh nhạy, tinh tế. Từ khả năng
quan sát ban đầu giúp hình thành những quan
niệm, từ quan niệm hình thành những thói
quen là một quy luật tất yếu. Nơi trẻ quan sát
nhiều nhất chính là gia đình và nhà trường. Vì
vậy, người lớn cần suy nghĩ và hành động sao
để chính họ là tấm gương thực tế cho trẻ chứ
không phải là những khẩu hiệu hay lý thuyết
suông. Việc cu Mùi, Hải cò, Tí sún và Tủn
phải lập ra phiên tòa có một không hai ấy như
một lời nhắc nhở với những người làm cha
mẹ. Những bậc phụ huynh bấy lâu nay có thể
mải mê bận rộn với công việc mà quên đi
trách nhiệm nuôi dạy con cái, quen với cách
áp đặt trong giáo dục mà không gương mẫu,
không hiểu tâm lý trẻ hẳn sẽ phải giật mình
nhìn lại cách họ đối xử với con cái bấy lâu
nay. Làm được điều này, văn chương Nhật
Ánh đã thực sự tạo được hiệu ứng đầy tính
nhân văn.
Có ý kiến cho rằng: “Cuộc sống như một màn
kịch, mỗi người đang sống là một diễn viên
trong màn kịch ấy”. Nếu xem xét trên góc độ
này thì những đứa trẻ tám tuổi đã thực sự xuất
sắc khi hoàn thành vai diễn của mình với
nhiều vai trò như: làm bố mẹ, làm con cái,
làm nhà thám hiểm đi tìm kho báu hay thậm
chí làm quan toà và cũng làm cả luật sư (khi
bào chữa cho mình trong phiên tòa xử án).
Nguyễn Nhật Ánh đã cảm thông với những
đứa trẻ đang sống trong những gia đình tuy
đầy đủ về vật chất nhưng không được thấu
hiểu và chia sẻ. Những trò chơi thú vị của
những đứa trẻ tuy đôi khi có bị coi là ngỗ
ngược và gây ra những hậu quả nhưng chúng
có thể được cảm thông bởi đó là cách trẻ đến
với thế giới, khám phá thế giới theo cách
riêng, để chúng tự trưởng thành và phát triển
thật sự.
3. Các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh dành
cho thiếu nhi đã được đông đảo bạn đọc đón
nhận nồng nhiệt bởi chúng có sức hấp dẫn lạ
kỳ. Sức hấp dẫn ấy được tạo nên từ nội dung
đến nghệ thuật, từ giá trị nhận thức đến giá trị
giáo dục. Vì thế, truyện của Nguyễn Nhật
Ánh không chỉ hấp dẫn thiếu nhi mà còn có
ảnh hưởng sâu sắc tới người lớn. Đọc và say
mê các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh giúp
bồi đắp tâm hồn trẻ thơ, đưa các em đến cuộc
sống hướng thiện, tự hoàn thiện nhân cách.
Đó cũng là sự định hướng và khơi dậy cảm
hứng sáng tác cho các cây bút trẻ có nhiều tác
phẩm giá trị và khơi dậy niềm đam mê văn
hóa đọc.
Nguyễn Nhật Ánh đã phác họa thành công
bức tranh sinh động về thế giới sống của cả
người lớn và trẻ thơ, nổi bật là bức tranh đời
Nguyễn Diệu Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 9 - 13
13
sống trẻ thơ gắn với những trò chơi nghịch
ngợm, quen thuộc mà đáng yêu nhưng để lại
nhiều suy ngẫm cho người lớn như trò làm vợ
chồng, làm cha mẹ, làm quan tòa hay truy tìm
kho báu… cùng các dạng thức tình cảm
phong phú của những đứa trẻ tám tuổi. Mặc
dù vắng bóng những trò chơi dân gian nhưng
sự thể hiện của những trò chơi nói trên trong
tác phẩm đã một lần nữa khẳng định cho
phong cách văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh - một
lối viết giản dị, tự nhiên, dí dỏm mà sâu sắc,
hướng thiện và mang một chất thơ trong trẻo
phù hợp với tâm lý trẻ em. Nó cũng chứng
minh một điều trẻ thơ không hề đơn giản như
nhiều người vẫn nghĩ. Qua những trò chơi ấy,
nhà văn đã giúp trẻ em tìm được tiếng nói
đồng điệu với mình và khiến người lớn phải
suy nghĩ và đồng tình với tác giả: để sống tốt
hơn, đôi khi chúng ta phải học làm trẻ con
trước khi học làm người lớn…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
2. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn
học, Nxb Giáo dục Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn, (2006), Văn
học Việt Nam sau 1975 Những vấn đề nghiên cứu
và giảng dạy, Nxb Giáo dục.
4. Lã Thị Bắc Lý (2008), Giáo trình văn học trẻ
em, Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội.
5. Vân Thanh, Nguyên An (biên soạn 2002), Bách
khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam tập 1, Nxb
Từ điển bách khoa Hà Nội.
SUMMARY DECODING THE MEANING OF SOME GAMES
IN THE WORK “GIVE ME A TICKET BACK TO CHILDHOOD”
OF THE AUTHOR NGUYEN NHAT ANH
Nguyen Dieu Linh, Nghiem Thi Ho Thu*, Duong Ngoc Thuy College of Scienes - TNU
“Give me a ticket back to childhood” is a one of the most famous works of the author Nguyen
Nhat Anh. It brings readers a wonderful ticket to imagine that they are sitting on a train to revisit
childhood memories. The childhood world in the story is close, loving, and emotional. A lot of
childhood memories which are related to interesting and attractive games along with children’s
impressive thought. Through twelve chapters of the game journey back to childhood, the main
character namely Mui and his close friends have drawn millions of other children as well as adults
to be excited to participate and reminisce.
Keywords: games, memories, childhood, as an adult, treasure, judges, lovely.
Ngày nhận bài:25/4/2014; Ngày phản biện:28/5/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Lê Thị Ngân – Trường Đại học Khoa học - ĐHTN
* Tel: 0912 591582, Email: hothu81@gmail.com
Nguyễn Diệu Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 9 - 13
14
Nguyễn Thị Thanh Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 15 - 18
15
SỬ DỤNG CA DAO, ĐỒNG DAO
TRONG PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO
Nguyễn Thị Thanh Huyền*
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Ca dao, đồng dao là những câu hát, câu vè mộc mạc, gần gũi, dễ thuộc, dễ nhớ bởi vần điệu vui tươi,
rộn ràng. Trong quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo, ca dao, đồng dao có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Thông qua các bài ca dao, đồng dao giáo viên có thể tiến hành phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo ở các nội dung như: Giáo dục chuẩn mực ngữ âm; Hình thành và phát triển vốn
từ; Phát triển lời nói mạch lạc; Phát triển ngôn ngữ nghệ thuật; Với ưu thế như vậy nên trong quá
trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giáo viên mầm non cần nắm được nội dung các bài ca dao, đồng
dao, biết cách lựa chọn những bài ca dao, đồng dao phù hợp với mục tiêu giáo dục, như vậy ca
dao, đồng dao sẽ là một phương tiện hữu hiệu để giáo dục ngôn ngữ cho trẻ.
Từ khóa: Ca dao, đồng dao, phát triển, ngôn ngữ, trẻ mẫu giáo
1. Đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách con người, đặc biệt là trẻ mẫu giáo ngôn
ngữ giữ một vai trò rất quan trọng, ngôn ngữ
không chỉ là phương tiện để giao tiếp, là công
cụ để tư duy mà ngôn ngữ còn là phương tiện
để giúp trẻ nhận thức được thế giới xung
quanh. Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo có thể thực hiện qua nhiều con đường
khác nhau. Một trong những con đường mang
lại nhiều hiệu quả đó là thông qua tiếp xúc
với các bài ca dao, đồng dao.*
Với trẻ em các bài ca dao, đồng dao rất quen
thuộc và gần gũi, trẻ không chỉ được học ở
trường, ở lớp mà còn biết được qua lời ca, câu
hát của bà, của mẹ hay qua các trò chơi dân
gian. Ca dao, đồng dao là những câu vè ngắn
gọn, có âm điệu vui nhộn, dễ nhớ, dễ thuộc.
Nét đặc biệt này đã thu hút trẻ vào việc học
và chơi với những bài ca dao, đã mang lại
những giá trị to lớn, góp phần giáo dục trí tuệ,
thẩm mỹ, đạo đức, đặc biệt là phát triển ngôn
ngữ cho trẻ.
2. Thông qua các bài ca dao, đồng dao giáo
viên có thể tiến hành phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mẫu giáo lớn ở các nội dung như:
* Giáo dục chuẩn mực ngữ âm: ở nội dung
này giáo viên có thể dùng nhiều bài ca dao,
đồng dao để phát triển ngôn ngữ cho trẻ:
* Tel:
Chẳng hạn để rèn khả năng nghe âm thanh
ngôn ngữ cho trẻ giáo viên có thể lựa chọn
các bài ca dao, đồng dao ở một số chủ đề
trong chương trình mẫu giáo như: Chủ đề
Trường mầm non có bài đồng dao “Nu na nu
nống”, “Kéo cưa lừa xẻ”. Chủ đề động vật có
bài “Con vỏi con voi”, “Con rùa” dạy trẻ tri
giác tính biểu cảm của âm thanh ngôn ngữ:
Khi buồn thì như thế nào? Khi vui thể hiện
như thế nào? Giọng nói âu yếm, nhẹ nhàng
hay quát nạt; Dạy trẻ tri giác được sắc thái
khác nhau của âm thanh như tốc độ, trường
độ, cao độ; Rèn cho trẻ khả năng chú ý nghe,
khả năng ngắt nhịp hay nhấn giọng khi đọc ca
dao, đồng dao.
- Luyện phát âm cho trẻ: Các bài ca dao, đồng
dao thường được dùng trong việc luyện phát
âm cho trẻ: Luyện khả năng nghe các âm tiết,
âm vị; Luyện cho trẻ phát âm đúng âm vị, âm
tiết Tiếng Việt trong sự kết hợp với nhau, dạy
trẻ phát âm đúng các âm vị và phân biệt được
các cặp âm vị nhất là các âm vị khó mà trẻ
hay nhầm lẫn l-n, ch- tr, r- d... Chẳng hạn như
câu ca dao:
Lúa nếp là lúa nếp làng
Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng
Khi đọc câu ca dao này trẻ rất dễ nhầm lẫn
giữa l với n, “lúa nếp” sẽ thành “núa nếp” hay
“lúa lếp”. Do vậy đọc ca dao, đồng dao giáo
viên sẽ phát hiện ra những trẻ phát âm sai, nói
ngọng... và giúp trẻ phát âm đúng các âm vị.
Nguyễn Thị Thanh Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 15 - 18
16
- Sửa lỗi sai cho trẻ về phát âm như: Lỗi phát
âm sai thanh điệu “~” thành “ ”, hoặc “ ? ”
thành “ .”. Ví dụ “ngã” thành “ngá”; Lỗi
phát âm sai âm đầu, sai phần vần như : n l,
ch kh....; Lỗi nói lắp, nói dài dòng.
- Rèn sức truyền cảm trong lời nói hàng ngày
và khi trẻ thể hiện bài ca dao, đồng dao. Ở nội
dung này giáo viên có thể dùng một số bài ca
dao về chủ đề gia đình, về tình cảm anh em...
Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Khi cho trẻ đọc bài ca dao trên, trẻ sẽ thể hiện
tình cảm, thái độ của mình đối với cha mẹ qua
các câu ca dao. Điều này sẽ rèn sức truyền
cảm trong lời nói của trẻ.
*Hình thành và phát triển vốn từ cho trẻ:
Đối với nội dung này, các bài ca dao, đồng
dao sẽ góp phần làm giàu vốn từ cho trẻ: về
các từ loại như danh từ, tính từ, động từ và
các từ về tự nhiên, xã hội. Giúp trẻ nắm được
nghĩa của từ; Tích cực hoá vốn từ cho trẻ.
Như:
“Cá bống còn ở trong hang
Cái rau tập tàng còn ở nương dâu
Ta về ta sắm cần câu
Câu lấy cá bống nấu rau tập tàng.
Hay
“Con cua mà có hai càng
Đầu tai không có bò ngang cả đời
Con cá mà có cái đuôi
Hai vây vung vẩy nó bơi rất tài
Con rùa mà có cái mai
Cái cổ thụt ngắn, thụt dài vào ra
Con voi mà có hai ngà
Cái vòi nó cuốn đổ nhà, đổ cây
Con chim mà có cánh bay
Bay cùng nam, bắc, đông, tây tỏ đường”.
Ca dao, đồng dao là kho từ vựng phong phú
cho trẻ, có thể nói chỉ một bài đồng dao
nhưng đã cung cấp cho trẻ số lượng lớn các từ
về tự nhiên, xã hội. Đây là điều đặc biệt trong
ca dao, đồng dao mà khó có thể loại văn học
nào có được. Chẳng hạn như trong chủ đề động
vật bài đồng dao “Bồ các là bác chim ri” sẽ
cung cấp cho trẻ vốn từ phong phú về các loài
chim như: Chim Ri, chim Sáo, Tu hú...
Bồ các là bác chim ri
Chim ri là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các
Bồ các là bác chim ri
Qua đồng dao, các em nhỏ như lạc vào vườn
bách thú với đủ các loài chim muông, các em
như được trải nghiệm một môi trường thực tế
có cảnh vật xung quanh, từ đó giúp trẻ có
những cảm xúc với thiên nhiên, với loài vật.
Hay khi dạy trẻ bài “Nu na nu nống” trong
chủ đề trường mầm non có thể cung cấp cho
trẻ các danh từ về động vật như: Cái bống,
con ong, con gà, con cóc... Các động từ:
Trong, ngoài, khóc, nhảy... Các từ về thức ăn:
Xôi, chè...
Nu na nu nống
Cái bống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Phật ngồi phật khóc
Con cóc nhảy ra
Con gà ú ụ
Nhà cụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Tay xoè chân rụt
Ca dao, đồng dao không chỉ giúp trẻ tìm hiểu
thế giới xung quanh, mà còn là cuốn từ điển
chứa đựng một kho từ vựng phong phú cung
cấp vốn cho trẻ, giúp trẻ nhận thức được tự
nhiên và xã hội. Ngôn ngữ ở các bài đồng
dao, ca dao phong phú và đa dạng cũng là
điều kiện để trẻ nắm được các từ loại khác
nhau như: Danh từ, tính từ, động từ... Các bài
Nguyễn Thị Thanh Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 15 - 18
17
ca dao, đồng dao không chỉ cung cấp các từ
ngữ làm giàu vốn từ cho trẻ mà còn giúp trẻ
hiểu nghĩa của từ và biết cách sử dụng chúng
trong giao tiếp hàng ngày.
* Phát triển lời nói mạch lạc là nhiệm vụ
quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu phát
triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong quá trình phát
triển lời nói mạch lạc cho trẻ, người ta thường
chú ý đến hai yếu tố: Khả năng phát âm và
khả năng diễn đạt. Điều này đã được tìm thấy
trong các bài đồng dao, đặc biệt là khi trẻ chơi
các trò chơi dân gian. Để giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ mạch lạc, nhà giáo dục cần:
+ Dạy trẻ nói một cách trôi chảy, rõ ràng, lưu
loát, không ngọng, không lắp.
+ Dạy trẻ biết trò chuyện, đàm thoại, diễn đạt
nguyện vọng của mình.
Nội dung này được thể hiện thông qua ca dao,
đồng dao là khi trẻ đọc các bài ca dao, đồng
dao, hay khi trẻ đàm thoại về nội dung của nó.
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên trẻ sẽ đọc
trôi chảy, sửa được các lỗi ngọng, lỗi đọc lắp.
Mặt khác, các bài đồng dao còn đến với trẻ
trong trò chơi dân gian, nó chính là luật của
trò chơi. Khi trẻ tham gia vào trò chơi, trẻ
phải thảo luận cùng các bạn về cách chơi, luật
chơi, giải quyết các tình huống xảy ra trong
khi chơi. Điều này đòi hỏi trẻ phải có sự rõ
ràng, thống nhất, logic trong lời nói để bạn
chơi hiểu và tham gia tích cực trong khi chơi.
Đây là biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
mạch lạc. Khi tham gia chơi trò chơi dân gian
trẻ vừa hát đồng dao vừa làm động tác theo
nhịp bài đồng dao. Đó cũng là hoạt động để
phát triển thể lực cho trẻ, rèn luyện cho trẻ sự
khéo léo của tay, của mắt, sự mềm dẻo của cơ
thể, qua đó giáo dục thể chất cho trẻ. Ở
trường mầm non, các giờ thể dục buổi sáng
cũng được lồng ghép với những bài thể dục
gắn với trò chơi dân gian mà các em rất yêu
thích như bài: “Nhảy lò cò”, “Tập tầm
vông”, “Lộn cầu vồng”; “Thả đỉa ba ba”;
“Mèo đuổi chuột”...
Đọc đồng dao nghĩa là trẻ đang tham gia chơi,
một cách tự nhiên trẻ cảm nhận được âm điệu,
nhịp điệu, cách ngừng nghỉ, tất cả ăn sâu vào
tâm trí trẻ và dần trở thành vốn kinh nghiệm
trong ngôn ngữ của trẻ.
*Phát triển ngôn ngữ nghệ thuật cho trẻ:
Trong quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ,
giáo viên cần phát triển ngôn ngữ nghệ thuật
cho trẻ thông qua:
+ Dạy trẻ cảm nhận được nhịp điệu âm điệu
của ca dao, đồng dao.
+ Dạy trẻ cảm nhận được các hình thức nghệ
thuật trong ca dao, đồng dao.
Trẻ mẫu giáo lớn rất nhạy cảm với nghệ thuật
ngôn từ. Vì vậy, cho trẻ tiếp xúc với ca dao,
đồng dao chính là con đường phát triển lời
nói nghệ thuật cho trẻ. Ngoài việc góp phần
phát triển ngôn ngữ cho trẻ, ca dao, đồng dao
còn góp phần giáo dục toàn diện cho trẻ.
Những lời ca dao mượt mà, những câu đồng
dao ngắn gọn, dễ thuộc đã rất hấp dẫn trẻ thơ
với cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên như chính
những đứa trẻ đã làm cho các em vui thích,
kích thích tính tò mò, ham hiểu biết ở trẻ.
Chính điều này đã góp phần giáo dục trí tuệ
cho trẻ, bồi đắp cho trẻ sự hiểu biết về thế
giới xung quanh không chỉ với thiên nhiên,
với xã hội mà với cả lịch sử. Chẳng hạn như
bài ca dao quen thuộc mà các bà, các mẹ
thường hay hát ru cho trẻ:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con
Nếu như đồng dao là lời ngộ nghĩnh vui tươi,
thì ca dao lại bồi dưỡng cho các em thế giới
tình cảm phong phú, đa dạng. Đó là tình cảm
gia đình, tình cảm bạn bè, tình yêu quê hương
đất nước. Ngoài ra còn giáo dục cho trẻ lòng
yêu cái đẹp, biết quý trọng cái đẹp, lòng nhân
ái giữa con người với con người, con người
với thiên nhiên. Điều này cũng chính là ca dao,
đồng dao đang thực hiện nhiệm vụ giáo dục
tình cảm, giáo dục thẩm mỹ, đạo đức cho trẻ.
Nguyễn Thị Thanh Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 15 - 18
18
Như vậy có thể thấy ca dao, đồng dao của các
dân tộc Việt Nam rất phong phú đa dạng.
Những câu nói giản dị, những câu ca, câu vè
có nội dung về phản ánh về các hoạt động đa
dạng của con người, về các loài vật… tất cả
những đều rất gần gũi thân thuộc với trẻ mẫu
giáo. Mỗi bài ca dao, một khúc đồng dao đều
chứa đựng những giá trị văn hóa nhất định. Vì
vậy trong quá trình phát triển ngôn ngữ cho
trẻ, giáo viên mầm non cần nắm được nội
dung các bài ca dao, đồng dao, biết cách lựa
chọn phù hợp với mục tiêu giáo dục, như vậy
ca dao, đồng dao sẽ là một phương tiện hữu
hiệu để giáo dục ngôn ngữ cho trẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Thanh Âm (2005), Giáo dục học mầm non
tập 1-2-3, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
2. Phương Hoa, Bùi Hà Mi (2004), Bé với khúc
đồng dao, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Xuân Khoa (2009), Phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
4. Triều Nguyên (2004), Tìm hiểu đồng dao người
Việt, Nxb Thuận Hoá.
5. Hoàng Thị Oanh (2008). Phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi, Nxb Đại học
Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
SUMMARY
USING FOLK – SONGS AND RHYMES IN LANGUAGE DEVELOPMENT
OF KINDERGARTEN CHILFREN
Nguyen Thi Thanh Huyen*
College of Education - TNU
Folk songs, rhymes are singing, rhymes rustic, friendly, catchy, easy to remember by playful
rhymes, busy. In the process of language development for preschoolers, folk songs, rhymes
significance of particular importance. Through song knives, and knives teachers can conduct
language development for preschoolers in the content, such as phonetic Education Standards;
Formation and development capital; Development of coherent speech; Developing language arts;
With such advantages should be in the process of language development for children, preschool
teachers need to understand the content of the song knives, and knives, to know how to choose the
song knives, and knives suitable for targeted education education, such folk, and knives will be a
useful vehicle for language education for children.
Keywords: folksong, rhymes, development, language, kindergarten
Ngày nhận bài:19/5/2014; Ngày phản biện:26/5/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Tính – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN
* Tel:
Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 19 - 22
19
NHÂN VẬT TÀI TỬ GIAI NHÂN TRONG TÁC PHẨM TÚ TƯỢNG ĐỆ BÁT TÀI
TỬ TIÊN CHÚ VÀ TRUYỆN HOA TIÊN KÍ - NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG
Ngô Thị Thanh Nga*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú mặc dù thuộc loại hình Ca bản nhưng theo lời bình điểm của Chung
Đới Thương, tác phẩm này được đánh giá là đệ bát tài tử thư bởi nó mang trong mình đầy đủ
những yếu tố của truyện tài tử giai nhân. Có thể nói mô hình nhân vật tài tử giai nhân của Ca bản
này về đại thể đã được Nguyễn Huy Tự tiếp thu khá trọn vẹn. Chính vì vậy, trong bài viết này,
chúng tôi đề cập đến những nét tương đồng về phương diện xây dựng nhân vật giai nhân tài tử
giữa hai tác phẩm. Qua đó người đọc phần nào thấy được bối cảnh văn hóa giữa hai nước Việt -
Trung, cũng như cảm nhận được sự đồng điệu về mặt cảm xúc của Nguyễn Huy Tự đối với tác giả
của Ca bản.
Từ khóa: Hoa tiên kí - Nguyễn Huy Tự - Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú - Nhân vật - So sánh
Có thể nói, khi so sánh Hoa tiên kí của
Nguyễn Huy Tự và Tú tượng đệ bát tài tử tiên
chú (?) về phương diện xây dựng nhân vật,
độc giả dễ dàng nhận thấy sự tâm đắc của tiên
sinh Trường Lưu với mô hình nhân vật tài tử
giai nhân trong Ca bản bởi những yếu tố: tài,
sắc, tình, hiệp, thức.*Do đó về phương cách
xây dựng nhân vật, đặc biệt là các nhân vật
chính diện (tài tử và giai nhân), hai tác phẩm
lại cơ bản tương đồng. Chân dung hai nhân
vật Lương Phương Châu và Dương Dao Tiên
đều được khắc họa bằng các phẩm chất tài,
sắc, tình,…Về tài, sắc thì Lương sinh giỏi
giang, khôi ngô nức tiếng Tô Châu, Dao Tiên
ngoài tài thơ phú, nàng còn đẹp như người
con gái xứ Đào Nguyên làm Lương sinh
tưởng mình như đang trong cõi mộng. Đặc
biệt các tác giả rất dụng công trong việc thể
hiện cái tình của hai nhân vật này. Họ rất chú
trọng trong việc khắc họa tâm lý và tình cảm,
nhất là những tình cảm cũng như tâm lý yêu
đương của Lương, Dương. Cả chàng và nàng
đều rất trọng tình, trung trinh và sống hết
mình với chữ tình ấy. Tuy cách biểu đạt của
hai tác phẩm có khá khác nhau, nhưng khi
viết về tâm trạng của con người trong tình yêu
với bao nhiêu cung bậc như: tương tư, hồi
hộp, rạo rực, nhớ thương, sầu muộn, thất
vọng, bi quan, đau khổ, hạnh phúc, sung
* Tel: 0982 548560
sướng… thì cả hai ông Giải nguyên, Thám
hoa và Nguyễn Huy Tự đều miêu tả một cách
hết sức sinh động.
Đó là nỗi tương tư “nàng xiêm trắng” cứ trở
đi trở lại và ngày càng mãnh liệt của công tử
họ Lương trong Ca bản. Nó dường như đã
choán ngợp cả tâm hồn và thể xác của Lương
sau khi bước chân dạo chơi vô định trong
vườn trăng đã khiến chàng vô tình được gặp
và chứng kiến sắc đẹp hiếm lạ “tiểu nữ ngộ
đồng tục nữ trang” của Dao Tiên:
Tâm tâm huyền niệm thử kiều nương.
Đăng hạ kiến cừ chân mỹ mạo,
Tiểu nữ ngộ đồng tục nữ trang…
Mạc đạo tiểu sinh tâm sự sảng,
Liệu ưng ni Phật diệc tư lường.
Bắc biên huyền y nhân diệc hảo,
Tư tình chỉ ái bạch y nương.
Hoa gian nhất hội như giao tất,
Hận nan phi nhập bạng hồng trang…
(Lòng đau đớn nhớ nhung người đẹp ấy/ Dưới
đèn, thấy dung mạo nàng thật tuyệt vời/ Đẹp
khác xa bọn nữ nhi trần tục/… / Chớ nói tiểu
sinh này lòng mê sảng/ Mà đến cả tượng Phật
cũng khó biết tâm tư sẽ thế nào/ Người phía
Bắc mặc xiêm đen cũng đẹp/ Tình riêng chỉ
mê người xiêm trắng/ Một lần gặp bên hoa
mà như đã gắn keo sơn/ Hận không có cánh
để bay vào chốn lầu son/ …).
Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 19 - 22
20
(Hồi 7 - Lương sinh si tưởng)
Hoặc là sự bồi hồi, day dứt “như đứng đống
lửa, như ngồi đống than” rất giống với tâm lý
của chàng trai trong ca dao người Việt ở hồi 9
- Bộ nguyệt tương tư: “Đêm qua tưởng lầm
mình đã lạc vào con đường dẫn đến xứ Đào
Nguyên/ Những hình ảnh đó còn lưu lại cho
nên tương tư thấu đến tận tâm can/… / Từ lúc
đấy thì nhớ người không ngủ được/… / Liệu
người ngọc từ bấy đi đâu/ Có biết rằng có
người ở nơi quán lạnh đang đứt ruột không/
Chỉ còn cái nụ cười đó là còn đọng mãi trong
tâm can ta/ Khiến cho tình riêng của ta dằng
dặc, cách biệt như biển cả/ Đêm nay vì nàng
mà ta sầu nhớ vô cùng/… / Xưa nay đã nhớ
nhung ai là sầu khổ nhất trên đời/ Quả thật
đêm nay là một đêm tràn lan thê lương/… /
Khuê phòng của người đẹp chỉ cách trong tấc
gang mà như xa xôi tận chân trời/ Buồn bã
không biết nương tựa vào đâu chỉ tựa bên hoa
mà mong ngóng/… /”.
Đây cũng chính là nỗi tương tư nàng Dương
nữ đong đầy trong trái tim và khối óc của
chàng Lương trong truyện Hoa tiên kí. Chàng
nửa tỉnh, nửa mê. Chàng trông ngóng đứng
ngồi chẳng yên. Hình ảnh người con gái mặc
xiêm trắng như đến từ xứ Đào Nguyên cứ ám
ảnh chàng khiến chàng “Chập chờn cơn tỉnh
cơn mê trước đình”. Chàng trách mình, trách
người, chàng giải thích cho nỗi giày vò “tơi
bời” trong cảm xúc.
“Bỗng dưng vương lấy tơ tình,
Này đồ vườn Lãng, hay tranh non bồng.
Người sao ngọc đúc tuyết đông!
Vẻ sao giá chuốt gương trong hệt người!
Chớ chê dạ khách tơi bời,
Tượng sành ấy cũng rụng rời chân tay.
Xiêm huyền bên nọ đối bày,
Huyền kia tuy lịch, bạch này càng tôn.
Ví chăng bình tước gây khuôn,
Thì chi lắm giống tiêu hồn quấy ai”.
Tình dài thêm bận canh dài,
Lầu điêu nhẫn trót hiên cài bóng đông.
(Hồi 7 - Lương sinh si tưởng)
Nỗi tương tư ấy dường như thấm cả vào cảnh
vật bởi “Tấc gang gác khoá lầu then,
Bồng sơn dẫu cách muôn nghìn chẳng sai”.
Vì thế trong cái nhìn của chàng thiên nhiên
như làm “lòa dấu in”, hoa thì rụng, lá thời rơi.
Thiên nhiên trống vắng, hiu quạnh hay chính
là nỗi trống vắng hiu quạnh trong tâm hồn
Lương. Có thể nói chỉ có nỗi tương tư trong
tình yêu mới tạo nên ở con người cái nhìn chủ
quan như thế, đúng như đại thi hào Nguyễn
Du đã viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ” (Truyện Kiều)
Chiếc đình gió lọt sương pha,
Xạ phai trận rước, sen loà dấu in.
Chập chờn bóng tố trêu ai,
Hoa đâu rụng, lá đâu rơi trước rèm.
Tơ trần sớm ngỡ riêng giăng,
Thì lên nhờ cuội cung trăng kẻo còn.
Lại song, sầu bể sầu non,
Nào hay là khách lầu son đã về.
(Hồi 9 - Bộ nguyệt tương tư)
Còn đây là nỗi đau đớn, thất vọng, giận hờn
oán trách của tiểu thư Dao Tiên khi nàng hiểu
lầm Lương sinh đã phụ bạc mình và mối tình
đẹp của mình với chàng Lương đã không có
phương cách gì để nối lại được nữa trong hồi
31 - Phòng trung hóa vật mà chúng tôi đã
dẫn: “Dao Tiên vừa nghe xong lời a hoàn/ Lệ
mới vừa sa lệ cũ hãy còn ngấn/ Kiếp này của
ta không bao giờ được vui vầy nữa/ Sao có cả
một trời oan trái làm lỡ đời ta/ Ta biết mình
không có phận để trở thành cô dâu đẹp nữa/
Tóc mây ơ hờ còn đồ trang sức thì dửng
dưng/ Những vật ấy tất cả đều hữu dụng cả/
Cho nên đem những vật ấy đốt hết đi/ … /
Bởi vì còn ai nữa đâu mà phải tô điểm dung
mạo/ Những chuyện phong lưu khoái hoạt tất
thảy đều không còn hy vọng/… / Đẹp như
người qua cửa ải rơi lệ nước mắt ướt đầm cả
xiêm áo/ Mối tình Lộng Ngọc - Tiêu Lang
đều là giả cả thôi/… / Nơi trang đài còn hy
vọng gì nữa mà nối vòng thơ họa/… / Hóa ra
những việc phong lưu đều có ý vị/ Không
dưng mà nước mắt chảy máu ướt hết cả
Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 19 - 22
21
áo/…/ Đau đớn đứt ruột chàng Lương có biết
hay chăng?/ … / Các vật đem hết ra mà đốt
sạch/… / Nguyện đến chết làm một người
trinh tiết.”
(Ca bản)
Nỗi đau rất chân thực ấy của người con gái
trong tình yêu cũng được Nguyễn Huy Tự thể
hiện trọn vẹn trong những vần thơ Nôm giàu
cảm xúc. Một mình vật vã trong căn phòng,
Dao Tiên nhìn lại những kỉ vật hẹn thề, tượng
trưng cho tình yêu chung thủy giữa nàng và
chàng Lương mà lòng bao đau đớn. Nỗi đau
ấy như chà sát và bào mòn thể xác nàng:
Buồng riêng thức thức phô bày,
Lòng nào vui với vật này với ai.
Cầm nào kẻ biện thiêng tai,
Dù say, ai với ai nài điều say?
Cờ nào kẻ đấu ngang tay,
Dù mê, ai với ai vầy cuộc mê.
Thơ nào kẻ họa vần quê,
Giấy kia dù xướng nên đề ai liên?
Vẽ nào kẻ nhận nét truyền,
Bút kia dù trạng nên phiền ai xem?
Người đọc cảm nhận được rất sâu nỗi đau ấy,
sự tuyệt vọng ấy của Dao Tiên, một người
con gái quý tộc đã phải đấu tranh rất nhiều
với chính bản thân mình để bước qua rào cản
Nho giáo hướng tới tình yêu hạnh phúc. Vì
thế cũng thật không ngạc nhiên khi Dao Tiên
không chỉ “hóa vật” kỉ niệm của tình yêu mà
tất cả những đồ vật gắn bó với thú vui của
một người con gái quý tộc, nàng cũng “phó
cho ngọn lửa hồng”:
Nào gương, nào chỉ, nào kim,
Nào ai mà để chi thêm bận bùng.
Sạch sanh phó trận lửa hồng,
Dành chơi tiên thệ ghi lòng để sau.
(Truyện Hoa tiên kí)
Có thể nói cảm xúc chân thành này từ nỗi đau
tưởng mình bị phụ tình chỉ có được dựa trên
một tình yêu chân thành của một con người
sống thành thực với cảm xúc của mình. Có lẽ,
chỉ ở thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện, phát
triển khá mạnh mẽ của tư tưởng dân chủ mới
cho phép Nguyễn Huy Tự tiếp nhận và thể
hiện cảm xúc rất con người như thế.
Như vậy, qua những phân tích trên, chúng tôi
nhận thấy Nguyễn Huy Tự đã rất đồng cảm
với tác giả Ca bản trong việc xây dựng nhân
vật từ sắc, mạo, tài năng đặc biệt là quan niệm
tình yêu. Vì thế khi xây dựng những nhân vật
chính của tác phẩm, những nhân vật tài tử giai
nhân đang mang trong mình những khát khao
yêu đương, hạnh phúc, cả Nguyễn Huy Tự và
tác giả Ca bản đã khắc họa thật sinh động
những cung bậc tình cảm điển hình của họ.
Đây chính là nét tương đồng cơ bản trong
phương cách xây dựng nhân vật của các tác
giả Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên bằng
cảm quan dân tộc và lý tưởng thẩm mỹ của cá
nhân, những phẩm chất tài tử giai nhân trong
truyện Nôm Hoa tiên kí có phần đậm nhạt
khác nhau. Vì vậy để thấy được việc học tập
và tiếp biến văn học nước ngoài của tiên sinh
Trường Lưu như thế nào, chúng tôi cũng đã
đề cập đến vấn đề này ở một bài viết khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Văn Hùng (2000), Dòng văn Nguyễn Huy ở
Trường Lưu, Nxb Khoa học xã hội, H.
2. Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú, Tĩnh Tịnh Trai
bình đính, Thư viện Viện thông tin Khoa học xã
hội, kí hiệu P.705 (Bản chụp của PGS Phạm Tú
Châu).
3. Nguyễn Huy Tự - Nguyễn Thiện (1961),
Truyện Hoa tiên, Lại Ngọc Cang khảo đính và
giới thiệu, Nxb Văn hóa, Viện Văn học, H.
Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 19 - 22
22
SUMMARY
THE SIMILARITY OF TALENTED MALE AND BEAUTIFUL FEMALE
CHARACTERS IN THE WORKS TÚ TƯỢNG ĐỆ BÁT TÀI TỬ TIÊN CHÚ
AND HOA TIÊN KÍ STORY
Ngo Thi Thanh Nga* College of Education – TNU
Although Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú belongs to the Ca bản type, this work is seen as Đệ bát tài
tử thư because it carries all characteristics of the talented male and beautiful female type of work,
according to Chung Đới Thương’s viewpoint. It can be said that the form of this Ca bản is
apprehended quite fully by Nguyễn Huy Tự. Therefore, in this article, we would like to study the
similarity of the method of character building of those two works. Through that, readers could be
able to understand the cultural contexts of Vietnam and China by that time as well as to learn the
syntony of emotions between the two authors.
Keywords: Hoa tiên kí - Nguyễn Huy Tự - Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú - Character –
Comparison
Ngày nhận bài:06/4/2014; Ngày phản biện:27/4/2014; Ngày duyệt đăng:25/6/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Nguyễn Hằng Phương – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN
* Tel: 0982 548560
Lương Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 23 - 28
23
QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI TÀY BẮC KẠN VỀ SỰ SỐNG VÀ CÁI CHẾT
Lương Thị Hạnh* Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Sự sống được bắt đầu từ đâu và kết thúc ở đâu? Tận cùng của sự sống là gì? Chúng ta sẽ gặp điều
gì sau khi chết đi? Những cuộc tranh luận về vấn đề này từ hàng ngàn năm nay vẫn không dứt. Các
dân tộc và tôn giáo khác nhau đều có những giả thuyết, kiến giải riêng biệt đối với vấn đề này.
Quan điểm về sự sống và cái chết của Đạo giáo là sự dung hòa với lý luận trường sinh của đạo
Thần tiên nên đã nảy sinh ra quan điểm sự sống vĩnh hằng, đắc đạo thành tiên, trường sinh bất tử.
Trong khi quan điểm của Nho giáo là coi trọng giá trị cuộc sống, né tránh những sự việc xảy ra
đến với con người sau khi chết. Nho giáo cũng cho rằng cái chết là điều mà loài người không thể
kháng cự được. Theo quan niệm của Phật giáo, căn cứ vào lý luận “hành vi thiện ác khi còn sống
sẽ quyết định con người được sống ở đâu sau khi chết” được gọi là Nhân quả báo ứng,…
Từ khóa: Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo, Trường sinh bất tử, Nhân quả báo ứng…
VÀI NÉT KHÁI QUÁT*
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Tày ở Việt Nam có dân số
1.626.392 người, là dân tộc có số dân đứng
thứ 2 sau dân tộc Kinh (73,594 triệu người,
chiếm 85,7%) và có số dân đông nhất trong
các dân tộc thiểu số ở nước ta. Người Tày có
mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố và cư trú tập
trung nhất tại một số tỉnh vùng Đông Bắc,
trong đó có Bắc Kạn (155.510 người chiếm
52,9% dân số toàn tỉnh và 9,6% tổng số người
Tày ở Việt Nam).
Từ trước tới nay, các vấn đề liên quan đến cõi
sống, cõi chết của Đạo giáo, Nho giáo, Phật
giáo; các vấn đề về tín ngưỡng dân gian của
người Tày ở Việt Nam nói chung, Bắc Kạn
nói riêng đều đã ít nhiều được giới thiệu trong
các công trình về các dân tộc Tày, Nùng hoặc
văn hóa các dân tộc Tày, Nùng, Thái. Trong
khuôn khổ của bài biết, tác giả chỉ xin sơ lược
điểm qua một vài công trình sau:
Trước hết phải kể đến cuốn sách Sơ lược giới
thiệu các nhóm Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam
của Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn [3]; Văn
hóa Tày - Nùng của các tác giả Lã Văn Lô,
Hà Văn Thư [4]; Tiếp đến phải kể đến cuốn
sách Các dân tộc Tày – Nùng ở Việt Nam [1]
do tập thể các cán bộ của Viện Dân tộc học
* Tel: 0914 892999, Email: hanhluongthi4@gmail.com
thực hiện cũng đã dành một chương giới thiệu
về tín ngưỡng của người Tày, Nùng (chương
VI từ tr.228 đến tr.254); Hôn nhân và gia
đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam
của tác giả Đỗ Thúy Bình; Đạo giáo sinh tử
kỳ thư của Tống Đạo Nguyên [5]; Tín ngưỡng
dân gian Tày, Nùng của tác giả Nguyễn Thị
Yên [6];... Nhìn chung, các ấn phẩm nêu trên,
thực sự là những công trình nghiên cứu khá
đầy đủ về xã hội, con người và văn hoá của
hai dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam nói chung.
Các vấn đề trong đời sống xã hội được đề cập
khá đa dạng, điểm đáng chú ý nhất của các
công trình này là nguồn tư liệu thực địa khá
phong phú, trong đó các tác giả đã đề cập một
cách ngắn gọn, súc tích các vấn đề liên quan:
tín ngưỡng dân gian bản địa; các tín ngưỡng
du nhập; quan niệm về cái chết; nghi lễ và tín
ngưỡng liên quan đến sản xuất của người Tày,
Nùng. Tuy nhiên nhiều đặc trưng văn hoá
trong tín ngưỡng dân gian của người Tày Bắc
Kạn như quan niệm về cõi sống, cõi chết thì
chưa được các tác giả phân biệt rõ theo từng
nhóm địa phương khác nhau. Chính vì vậy,
việc tiến hành nghiên cứu tìm hiểu những
quan niệm về cõi sống, cõi chết trong tín
ngưỡng dân gian của người Tày Bắc Kạn theo
tôi sẽ là một việc làm cần thiết để đóng góp
thực tế cho việc nghiên cứu văn hóa Tày ở
Việt Nam nói chung và người Tày ở Bắc Kạn
nói riêng.
Lương Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 23 - 28
24
Khi nói đến những ảnh hưởng của tam giáo,
có thể khẳng định rằng, trong xã hội người
Tày dù có tiếp thu các yếu tố văn hóa du nhập
từ bên ngoài, song thật khó có thể xác định
tộc người Tày ở Việt Nam nói chung theo tôn
giáo nào. Bởi vì, trong tất cả các sinh hoạt của
cuộc sống tộc người, ta đều bắt gặp sự hiện
diện của các dòng văn hóa Nho giáo, Phật
giáo, Đạo giáo. Chẳng hạn, khi nói đến ảnh
hưởng của Phật giáo trong xã hội Tày, thì
chúng ta lại không tìm thấy có chùa thờ Phật,
không gặp những nhà sư hay tăng ni, phật tử,
mà chỉ có những người làm nghề cúng bái gọi
là Tào, Mo, Then, Pụt. Họ vốn là những tín
đồ đã được thụ phong, cấp bằng sắc, ấn tín
của Đạo giáo, nhưng khi thực hành nghi lễ
cầu cúng họ lại sử dụng sách cúng, kinh kệ,
tụng kinh Phật. Như vậy, các đệ tử Tào, Mo,
Then, Pụt bề ngoài là danh nghĩa tín đồ Đạo
giáo, nhưng đã được trang bị thêm giáo lý,
giáo luật của Đạo Phật.
Bài viết này, tác giả chỉ xin giới thiệu các
quan niệm về cõi sống, cõi chết của tam giáo
và của người Tày ở Bắc Kạn, chứ không đi
sâu tìm hiểu về nguồn gốc và bản chất của
tam giáo trong đời sống xã hội tộc người Tày.
CÁC QUAN NIỆM CỦA TAM GIÁO VỀ
SỰ SỐNG VÀ CÕI CHẾT
Quan điểm của Nho giáo về sự sống và cái chết
Cách đây 26 thế kỷ, vào thế kỷ thứ VI - V
TCN, Nho giáo - hệ tư tưởng chính trị chính
thống của giai cấp phong kiến thống trị đã ra
đời ở Trung Quốc. Người sáng lập ra Nho
giáo là Khổng Tử (551-479 TCN). Vì thế Nho
giáo còn gọi là Khổng giáo.
Nho giáo vào Việt Nam từ thế kỷ I TCN.
Nhưng, trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc,
ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam còn rất
hạn chế. Phải đến thế kỷ X, sau chiến thắng
Bạch Đằng của Ngô Quyền, khi dân tộc Việt
Nam bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và
thực sự bắt tay vào xây dựng nền văn minh
Đại Việt trong khuôn khổ của một nhà nước
phong kiến quân chủ tập quyền, thì xã hội
Việt Nam lúc này mới đặt ra những yêu cầu
đối với sự tồn tại và phát triển của Nho giáo ở
Việt Nam.(
Quan điểm sinh tử của Nho giáo là coi trọng
giá trị cuộc sống, né tránh những chuyện xảy
đến sau khi chết. Nho giáo cũng cho rằng cái
chết là điều mà loài người không thể kháng
cự được, là số kiếp mà mỗi người không thể
trốn tránh. Và Khổng Tử còn cho rằng nên coi
cuộc sống hiện tại trong thế giới thực là trọng
tâm, không nên suy ngẫm quá nhiều đến
những chuyện sẽ xảy ra sau khi chết, chẳng
hạn như: sau khi chết sẽ như thế nào? Sẽ xảy
ra những chuyện gì? Cứ chờ đến khi chết thực
sự thì tự nhiên sẽ biết được cả thôi. Sống chết
đều do số mệnh nên không cần phải gắng
công tìm hiểu, nghiên cứu về thế giới sau khi
chết, và cũng không cần hỏi bao giờ thì chết
mà chỉ nên hỏi xem trong cuộc sống hiện tại,
bản thân đã làm tốt những công việc và những
trách nhiệm bổn phận của mình trong cuộc
sống hay chưa [5, tr.24, 26].
Hay nói một cách đơn giản là mọi vật đều có
bản vị của nó, mọi sự đều có trước có sau rõ
ràng. Nếu những việc ở ngay trước mắt còn
làm không tốt thì sao có thể đảm bảo sẽ làm
tốt những việc về sau? Nếu không thể chăm
sóc tốt cuộc sống hiện tại thì làm sao có thể
chăm lo được đến cuộc sống ở kiếp sau – sau
khi chết? Như vậy cũng có nghĩa là phải ưu
tiên chăm lo tốt cho cuộc sống thực tại theo
đúng thứ tự tự nhiên mới phù hợp với nhân
tâm, nhân đạo.
Tư tưởng của Khổng Tử là hợp tình hợp lý,
phù hợp với nhân tính. Vì vậy, khi đối diện
với sự sống và cái chết, Khổng Tử cũng có
phần cảm tính khi tận mắt chứng kiến một
môn sinh tài giỏi của mình bị mắc bệnh hiểm
nghèo mà chết, Khổng Tử đã vô cùng buồn bã
mà than rằng “Người như vậy mà lại mắc
bệnh thế kia!”. Biểu hiện đó cho thấy sự đau
khổ, tiếc nuối vô hạn trong tâm hồn ông, tuy
bản thân là bậc thánh nhân nhưng cũng có
những nổi cảm thương vô hạn. Như vậy, có
thể thấy rằng, khi đối diện với sự sống và cái
chết, ngay đến cả bậc thánh nhân cũng còn có
Lương Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 23 - 28
25
điều bất lực của riêng mình. Như vậy, tuổi thọ
của mỗi người dài hay ngắn đều là do số
mệnh, mệnh trời quyết định. Đứng trước số
mệnh đó, con người không thể thay đổi hay
trốn tránh mà nên có thái độ “lạc thiên tri
mệnh”, nghĩa là, khi biết rằng sự sống chết
đều do mệnh số thì dù có nhắm mắt xuôi tay
khi đã “hết mệnh” hay phải chết bất đắc kỳ tử
vì một sự cố nào đó thì đó cũng là số mệnh
của mỗi người. Bởi vậy, ngay khi còn sống
trên trần gian, mỗi người hãy tu thân hàng
ngày, luôn tích đức làm thiện ở mọi nơi, mọi
lúc, như vậy cho dù có đột ngột phải đối diện
với cái chết bất ngờ, thì bản thân cũng sẽ thấy
thanh thản [5, tr.34, 36].
Quan điểm của Phật giáo về sự sống và cái chết
Phật giáo được du nhập từ Ấn Độ vào Trung
Quốc từ thời Lưỡng Hán và cũng tạo nên
những ảnh hưởng rất lớn đối với văn hóa
Trung Quốc. Phật giáo vào Việt Nam bằng
nhiều con đường khác nhau từ những năm
đầu công nguyên, nhưng phải đến khi nước
nhà được độc lập tự chủ (thế kỷ X) thì Phật
giáo mới có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống
xã hội Đại Việt và cũng bắt đầu từ đó Phật
giáo phát triển thịnh đạt đến thế kỷ XIV. Ảnh
hưởng của Đạo Phật tập trung rõ nhất ở việc
cầu xin bình an, khỏi bệnh tật, cầu phúc, đưa
hồn người chết lên cõi Niết Bàn. Mặc dù
người Tày không lấy Phật giáo làm tôn giáo
riêng của mình, song tư tưởng Phật giáo lại
ảnh hưởng và chi phối rất lớn tới các quan
niệm về cõi sống, cõi chết. Coi cái chết là kết
thúc một chu kỳ đời người trên cõi trần gian,
để sang một thế giới vĩnh hằng, ở đó cái chết
bắt đầu của sự sinh mới và có cuộc sống tốt
đẹp hơn, đó là vòng luân hồi chuyển kiếp của
sự sống.
Khi nhắc đến quan niệm sinh tử của con
người, theo quan điểm của Phật giáo, cuộc
đời con người có tám nỗi khổ ải chính là sinh
khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, oán tăng hội
khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ thủ uẩn khổ và ái
biệt ly khổ. Chẳng hạn: Sinh khổ chỉ nỗi khổ
khi được thụ thai và được sinh ra đời. Sau khi
hình thành hình hài, rồi sinh ra đời, hàng loạt
những nỗi khổ khác lại liên tiếp kéo đến, cuộc
đời là một chuỗi đau khổ bất tận cho đến lúc
chết, hoặc là Tử khổ là chỉ nỗi khổ của cuộc
sống vô thường, kết thúc sự sống sẽ là cái
chết và đây là một trong những nỗi khổ lớn
nhất của đời người. Chính vì cuộc đời có
nhiều nỗi khổ như vậy nên Phật giáo cho rằng
cuộc sống trên trần gian không có gì đáng để
lưu luyến, nuối tiếc mà điều cần chú trọng
hơn chính là sự giải thoát ở kiếp sau, tức là
cuộc sống tốt đẹp sẽ chỉ thực sự tồn tại ở kiếp
sau. Đó cũng chính là cõi Niết Bàn, nơi con
người trở thành Phật, thoát khỏi bể khổ trần
gian. Ngoài ra, đối với muôn vàn chúng sinh,
Phật giáo cũng cho rằng nếu không thể lên
được cõi Niết Bàn để hóa Phật thì chỉ có thể
luân hồi, chuyển từ kiếp này sang kiếp khác
nơi sáu cõi (sáu cõi luân hồi: trên cùng là cõi
Trời, cõi người, cõi quỷ đói, cõi địa ngục, cõi
súc sinh và cõi A tu la), mãi mãi không thể
kết thúc [5, tr.66].
Tư tưởng luân hồi chuyển kiếp, nhân quả báo
ứng của Phật giáo đã tạo nên những ảnh
hưởng rất lớn đến quan điểm của cư dân nông
nghiệp về sự sống và cái chết. Trong vấn đề
sống chết, ngoài chủ trương thông qua con
đường tu hành để đạt đến cõi Niết Bàn vô
sinh vô tử, đối với những người không thể đạt
đến cõi Niết Bàn, Phật giáo cho rằng cuộc
sống của con người đều ở trong vòng luân hồi
của sáu cõi, phi thường phi đoạn (vô thường
không gián đoạn). Trong sáu cõi, tuổi thọ của
chúng sinh có thể dài hoặc ngắn nhưng đều có
sống và chết, hơn nữa còn luôn sống ở cùng
một cõi. Theo quan niệm của Phật giáo, con
người đã được sinh ra tại cõi nào trong kiếp
sau hoàn toàn không phải do số mệnh hay
theo ngẫu nhiên, mà được quyết định bởi
chính những hành vi của người đó khi còn
sống trên trần gian. Khi còn sống nếu người
đó làm được nhiều việc thiện thì sau khi chết
sẽ được tái sinh tại ba cõi thiện. Ngược lại,
nếu khi con người sống làm nhiều việc ác thì
sau khi chết sẽ phải tái sinh tại ba cõi ác. Lý
Lương Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 23 - 28
26
luận “hành vi thiện ác khi còn sống sẽ quyết
định con người được sống ở đâu sau khi chết”
được gọi là Nhân quả báo ứng. Căn cứ của
Nhân quả báo ứng chính là nghiệp nhân, bao
gồm ba dạng là nhân nghiệp, khẩu nghiệp và
ý nghiệp. Một người có nghiệp như thế nào
thì sẽ có báo ứng như thế; tự mình làm thì tự
mình phải chịu báo ứng, không ai có thể thay
thế được [5, tr.70].
Tuy nhiên, khi nói về cuộc sống của con
người, Phật giáo lại cho rằng con người là do
ngũ uẩn tạo thành, mà ngũ uẩn đều là hư ảo,
nên chư pháp vô ngã, con người cũng là ảo.
Nếu đã là vô ngã thì ai sẽ luôn hồi trong sáu
cõi kể trên? Rất khó để đưa ra câu trả lời
chính xác, bởi mỗi người đang sống đều chưa
từng chết, còn những người đã chết thì không
thể quay trở lại để nói cho chúng ta biết về
tình trạng của họ sau khi chết. Vì vậy, câu hỏi
này giống như một “nút chết” vậy.
Quan điểm của Phật giáo về sự sống và cái
chết, đặc biệt là tư tưởng luân hồi chuyển
kiếp, đã có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng trong
dân gian, khiến mọi người chú trọng hơn đến
những hành động, việc làm của mình ở kiếp
này (phải tích đức hành thiện, tránh xa điều ác
và tin tưởng vào sự tồn tại của linh hồn) với
mong muốn sẽ vượt qua được vòng luân hồi,
giải thoát mình khỏi sự sống chết.
Quan điểm của Đạo giáo về sự sống và cái chết
Đạo giáo cho rằng con người được sinh ra từ
sự hòa hợp giữa hai khí âm và dương, do khí
tụ lại mà sinh ra nên khi khí tán thì sẽ bị chết.
Do đó: “Sự sống hay cái chết đều là sự biến
hóa của vật chất và suy cho cùng thì chính là
sự biến hóa của đạo hay còn gọi là sự biến
hóa của khí. Sống hay chết đều chỉ là những
hiện tượng khác nhau của sự biến hóa. Chủ
thể biến hóa của sự sống và cái chết chính là
bản thân người có sinh mệnh đó nhưng khi
xét về mặt bản chất thì lại chính là sự biến
hóa của “đạo”, là sự biến hóa của “khí”.
“Đạo” biến hóa lần thứ nhất sẽ trở thành sự
sống của con người, biến hóa thêm lần thứ hai
sẽ trở thành cái chết; khí tụ tương ứng với sự
sống và khí tán lại tương ứng với cái chết. Vì
vậy, trên thực tế, sự biến hóa giữa sự sống và
cái chết chính là căn nguyên của sinh mệnh
đang biến hóa, là những nguyên liệu vật chất
của sinh mệnh đang biến hóa hay cũng là một
dạng biến hóa vật chất” [5, tr. 38].
Từ nhìn nhận về sự sống và cái chết dưới góc
độ “Đạo”, Trang Tử đã đưa ra kết luận rằng:
“Sự sống và cái chết chính là một thể thống
nhất”. Thể thống nhất ở đây bao hàm hai
phương diện: Phương diện thứ nhất là sự sống
và cái chết luôn song hành cùng nhau, không
thể chia tách được. Có sự sống tất sẽ có cái
chết và ngược lại, có cái chết thì chắc chắn sẽ
có sự sống. Sự sống và cái chết dựa vào nhau
đề cùng tồn tại, trở thành điểm đầu và điểm
cuối của nhau để tạo thành quá trình hoàn
chỉnh của sinh mệnh. Bất cứ một sinh mệnh
nào cũng đều không thể chỉ sống mà không
có chết hoặc chỉ có chết mà không có sống.
Phương diện thứ hai của nhận định này là sự
sống và cái chết đều có nền tảng vật chất
tương đương với nhau. Nền tảng vật chất đó
chính là “khí”. Bên cạnh đó, sự sống và cái
chết cũng có một căn nguyên cuối cùng tương
đồng với nhau. Căn nguyên cuối cùng đó là
“đạo”. Khi so sánh giữa “khí” và “đạo”, có
thể kết luận rằng: sự sống và cái chết chỉ có
khác biệt về hình thái chứ không khác biệt về
bản chất. Hay nói một cách đơn giản hơn,
sống hay chết chính là sự tụ hay tán của khí;
Sống là khởi đầu của một sinh mệnh còn chết
là sự kết thúc của sinh mệnh ấy. Đó chính là
sự tuần hoàn vô hạn và bất biến trong tự
nhiên từ xưa đến nay; cái chết là điểm kết
thúc một hành trình sống nhưng cũng là điểm
khởi đầu cho giai đoạn tiếp theo. Sự sống
chuyển hóa thành cái chết, cái chết lại chuyển
hóa thành sự sống. Sự sống và cái chết cứ liên
tục chuyển hóa lẫn nhau như vậy, cái này là
điểm khởi đầu của cái kia. Vì vậy, xét đến
cùng, sự sống hay chết chẳng qua cũng chỉ là
những hiện tượng thường gặp trong tự nhiên
mà thôi. Cuộc sống của con người chỉ có giới
hạn và rất ngắn ngủi, chỉ có cái chết mới là
vĩnh hằng, con người nên thuận theo lẽ sống
chết [6, tr.68].
Lương Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 23 - 28
27
Từ những luận giải trên, Đạo giáo đã coi cuộc
sống là trách nhiệm với rất nhiều mệt mỏi,
gánh nặng còn chết lại là sự nghỉ ngơi, từ đó
làm nổi bật ý nghĩa của cái chết trong quá
trình sống của con người nói chung và người
Tày ở Việt Nam nói riêng. Vì vậy, trong quan
niệm của người Tày đều cho rằng khi con
người chết, tức là con người đó được giải
thoát khỏi gánh nặng của cuộc sống trần gian,
lên sống ở trên trời với tổ tiên để hưởng thụ
cuộc sống sung túc dưới một trạng thái khác
mà ở trần gian không có.
QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI TÀY BẮC
KẠN VỀ CÕI SỐNG VÀ CÕI CHẾT
Thế giới vô hình trong quan niệm và tưởng
tượng của người Tày là hết sức sinh động mà
cụ thể. Hình dung theo quan niệm của họ thì
thế giới là một thể thống nhất gồm 3 cõi: Cõi
Trời, cõi Người và cõi âm ti địa ngục. Ở cả ba
cõi đều có con người sinh sống, chim muông,
cây cối và trăm loài hoạt động khác nhau và
mối quan hệ ở mỗi cõi không giống nhau,
tương ứng với mỗi cõi lại có những dạng thần
linh, ma quỷ riêng.
Theo tín ngưỡng dân gian bản địa, lại chịu
ảnh hưởng của tam giáo, người Tày quan
niệm khi sống, con người gồm 2 phần: phần
xác và phần hồn (cả vía), tương ứng với 2
phần là hai thế giới khác nhau: thế giới hiện
hữu (cõi sống) và thế giới phi hiện hữu, huyền
bí (cõi chết, cõi âm). Đồng bào cho rằng cõi
người sống là phức tạp nhất, ở đó tồn tại
nhiều tầng lớp, nhiều loại người, tốt – xấu;
cao cả - thấp hèn,...
Thế giới hiện hữu mà con người đang sống
gọi là trần gian, ở thế giới này, con người
sống được là nhờ xác và hồn, khi xác và hồn
gắn vào nhau, thì con người sống. Nếu hồn lìa
khỏi thể xác sẽ làm cho mất cân bằng tự nhiên
đưa đến mộng mị, ốm đau, chết chóc. Do đó,
cuộc sống của con người ở trần thế chỉ là tạm
thời, giống như câu châm ngôn của người
Kinh “sống gửi thác về”, tức là cuộc sống của
một con người trên trần gian thì rất ngắn ngủi,
chỉ tính bằng những năm tháng, trong khi
cuộc sống ở bên kia cõi âm lại vĩnh hằng, nên
mới có câu “về nơi vĩnh hằng” trong các đám
ma. Đồng bào cũng tin số mệnh của mỗi con
người sung sướng hay khổ đau, giàu sang hay
nghèo hèn,… là do kiếp trước đã định. Chẳng
hạn, những đứa trẻ sơ sinh chết, là do kiếp
trước ăn ở bạc, Mẹ Bjoóc cho đầu thai, nay lại
bắt, để cả hồn và xác chúng thành con ma,
hoặc giả, nhà này ăn ở bạc, nay đầu thai
nhầm, không xứng đáng có những “đứa con
như thế”, và chúng trở thành ma trẻ con (phi
eng) không làm nên trò trống gì. Tuy nhiên,
vì chúng là ma trẻ con nên chúng rất tinh
nghịch và cũng thích vui đùa, thậm chí quấy
rầy, rủ rê trẻ con ở dương thế, khiến trẻ ốm
đau, khi đó phải đón thầy đến làm lễ gọi hồn
về. Người già qua đời (thai ké), hồn già đáng
kính, vì đã hoàn thành trọn nghiệp ở trần gian,
khi sống họ là những người ăn ở hiền lành,
phúc đức; khi chết họ chết nhẹ nhõm và hồn
họ sẽ trở thành ma lành, phù hộ cho con cháu.
Từ những viện dẫn trên, người Tày cũng quan
niệm rằng, những ai mong muốn khi chết
được siêu thoát lên mường Trời, và muốn
được đầu thai trở lại làm người tốt, thì khi còn
sống phải ăn ở đức hạnh. Ngược lại, nếu lúc
sống họ làm những việc bất nhân, thất đức
không chỉ bản thân bị báo ác (sống khổ sở,
chết vất vả) mà con cháu đời sau cũng phải
gánh chịu. Người nào có tội với trời sẽ bị chết
bất đắc kì tử (đặc biệt trường hợp bị sét đánh,
đồng bào cho rằng đó là bị trời đánh), con cháu
muốn cầu trời tha tội, cứu linh hồn phải mời
thầy Tào đến làm lễ để linh hồn người chết
không quấy quả con cháu, anh em họ hàng.
Thế giới bên âm hay còn gọi là cõi chết, là thế
giới dành cho phần hồn của mỗi người sau
khi chết. Vì thế giới sau khi chết trong tưởng
tượng của người Tày, hồn ma vẫn phải làm
ăn, vẫn có những nhu cầu sinh hoạt như cuộc
sống trên cõi trần gian. Theo họ con người
chết chẳng qua chỉ là sự chuyển đổi về bóng
dáng và nơi ở từ thế giới này sang thế giới
kia, thế giới của những vị thần và các loại ma.
Ở thế giới ấy cũng có đầy đủ mọi mối quan hệ
gia đình và xã hội, có tổ tiên, có gia đình gồm
Lương Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 23 - 28
28
bố mẹ, anh em, vợ chồng, con cái,… và đầy
đủ mọi thứ như cuộc sống thực tại. Bởi vậy,
khi có người thân qua đời, dù gia đình khó
khăn cũng phải cố gắng vay mượn tổ chức
đám ma đầy đủ, chu đáo, với mong muốn
người quá cố sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn
với đầy đủ mọi thứ ở thế giới bên âm, từ đó
mà phù hộ cho con cháu có cuộc sống bình
an, khỏe mạnh ở trần thế.
Tóm lại, quan niệm về sự sống và cái chết có
sự tiếp nhận, ảnh hưởng từ Nho giáo, Đạo
giáo, Phật giáo. Trong đó, quan điểm cơ bản
nhất chính là “trọng sinh ố tử” (yêu sống ghét
chết) chiếm một phần đáng kể trong tổng thể
tín ngưỡng dân gian của người Tày ở Bắc
Kạn. Tín ngưỡng này có liên quan chặt chẽ và
ảnh hưởng đến cách ứng xử giữa con người
với con người và giữa con người với tự nhiên.
Trong nhiều nguyên nhân ốm đau hoặc chết
chóc của con người, theo người Tày đều có
liên quan đến mệnh số.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam (1992),
Viện Dân tộc học xuất bản, Hà Nội.
2. Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn (1999), Tín
ngưỡng dân gian Tày lịch sử và hiện tại, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, Mã số: B98-05-10.
3. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược
giới thiệu các nhóm Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Là Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày –
Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
5. Tống Đạo Nguyên (2011), Đạo giáo sinh tử kỳ
thư, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian
Tày, Nùng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
SUMMARY
THE CONCEPTION OF THE TAY PEOPLE
IN BAC KAN LIFE AND DEATH Luong Thi Hanh*
College of Science – TNU
Where does life come from and where does life come to an end? What is the end of life? What will
we see after death? The debate on these issues has been going on for thousands of years. Different
ethnic groups and different religions have their own hypotheses and interpretations of these issues.
Perspectives on life and death of Taoism reconcile with the immortality theory of Fairy Religion,
which raise the concepts of eternal life, consummation and immortality. Meanwhile, Confucian
emphasizes life values and avoids to mention things which happen to people after death.
Confucian also believes that death is something that humans cannot resist. According to
Buddhism, “evil and good acts in life will determine where people live after death”, which is
called Causal rretribution.
Keywords: Taoism, Buddhism, Confucianism, Immortality, Causal Retribution ...
Ngày nhận bài:31/1/2014; Ngày phản biện:16/2/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Đàm Thị Uyên – Đại học Thái Nguyên
* Tel: 0914 892999, Email: hanhluongthi4@gmail.com
Nguyễn Minh Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 29 - 33
29
LÀM RÕ VAI TRÒ CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN
VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1997 – 2005
Nguyễn Minh Tuấn*, Lê Văn Hiếu Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất cơ bản cho xã hội mà không ngành kinh
tế nào có thể thay thế được. Do vậy, sự ổn định và phát triển của nông nghiệp là điều kiện để thực
hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nền kinh tế [1]. Trải qua 8 năm (1997 –
2005), kinh tế nông nghiệp của tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều biến đổi tích cực, nó chứng tỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng bộ.
Từ khóa: Nông nghiệp; Công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
MỞ ĐẦU*
Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế giữa
vùng trung du miền núi phía Bắc với vùng
đồng bằng Bắc bộ, là địa phương có nhiều
tiềm năng để phát triển kinh tế nông nghiệp.
Tổng diện tích đất tự nhiên của Thái Nguyên
là 354.655 ha, chiếm 1,08% diện tích tự nhiên
cả nước, trong đó đất nông nghiệp là
80.883,91 ha, chiếm 22,67% đất tự nhiên. Đất
đai ở đây rất phù hợp với trồng cây công
nghiệp nhất là cây chè, cộng với khí hậu nhiệt
đới gió mùa, nguồn tài nguyên nước phong
phú từ sông Cầu, sông Công [6,tr.14], đó là
những điều kiện thuận lợi để kinh tế nông
nghiệp tỉnh Thái Nguyên phát triển theo
hướng hiện đại.
NỘI DUNG
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, xu thế
CNH, HĐH nền kinh tế là yêu cầu cấp thiết
để phát triển đất nước. Trong đó CNH, HĐH
nông nghiệp là vấn đề không thể thiếu đối với
nước ta. Vì vậy, từ sau Đại hội VI (12/1986)
Đảng luôn xác định: Bảo đảm cho nông, lâm,
ngư nghiệp thực sự là mặt trận hàng đầu.
Trước khi tái lập (1997) Thái Nguyên cơ bản
vẫn là một tỉnh nông nghiệp lạc hậu. Vốn đầu
tư cho nông nghiệp thấp, dẫn tới cơ sở vật
chất chưa đồng bộ và thiếu quy hoạch, mức
độ cơ giới hóa trong nông nghiệp rất thấp, tỷ
lệ diện tích đất được làm bằng máy đạt 20%,
* Tel: 01234 865145, Email: Thansa6@gmail.com
trong khâu thu hoạch đạt 15%, chăn nuôi là
5%, cho nên không đáp ứng được nhu cầu
phát triển.
Đứng trước thực trạng trên, muốn đưa nông
nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng
hóa lớn thì cần phải tiến hành CNH, HĐH
nông nghiệp. Sau một thời gian dài sáp nhập
với Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái, ngày
22/12/1996, Bộ Chính trị ra quyết định số
131/QĐNS/TW về việc “Kết thúc hoạt động
của Đảng bộ và Tỉnh ủy Bắc Thái, đồng thời
thành lập Đảng bộ Thái Nguyên”. Quyết định
này có hiệu lực từ ngày 1/1/1997. Từ đó, dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân các
dân tộc tỉnh Thái Nguyên bước vào thời kì
mới: thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH. Trong đó
CNH, HĐH nông nghiệp là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu.
CNH, HĐH nông nghiệp hiểu một cách tổng
quát theo tinh thần của Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX)
là: “Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị
trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa,
thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa
học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh
học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện
đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị
trường” [5, tr. 92].
Nguyễn Minh Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 29 - 33
30
Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
về CNH, HĐH nông nghiệp 1997 – 2005
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên đã từng bước xây dựng đường
lối phát triển nông nghiệp theo hướng CNH,
HĐH phù hợp với điều kiện địa phương.
Trong thời gian 1997 – 2005 trải qua hai kỳ
đại hội lần thứ XV, XVI nhiều chủ trương,
chính sách được đưa ra nhằm phát triển nông
nghiệp theo hướng CNH, HĐH.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ
XV (11/1997) chủ trương: “Phát triển nông,
lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn theo
hướng sản xuất hàng hóa gắn với công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Tích cực chuyển dịch cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, hình thành các vùng
sản xuất tập trung gắn với phát triển nền nông
nghiệp sạch. Phát triển cây lương thực, thực
phẩm làm trọng tâm, cây ăn quả và cây công
nghiệp theo mô hình kinh tế vườn đồi là
hướng chiến lược quan trọng. Phát triển mạnh
đàn gia súc, gia cầm và một số con đặc sản
phù hợp với điều kiện sinh thái của mỗi vùng.
Phát triển kinh tế đồi rừng gắn với ổn định và
cải thiện đời sống nhân dân miền núi, trước
mắt tập trung khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng
rừng mới, giao đất giao rừng để chăm sóc bảo
vệ, nhất là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ,
rừng trồng, kết hợp giữa trồng rừng với cây
công nghiệp, cây ăn quả tăng nhanh tỷ trọng
cây công nghiệp và cây ăn quả trong giá
trị sản xuất. Ngành trồng trọt và tỷ trọng chăn
nuôi trong tổng giá trị sản xuất ngành nông
nghiệp, chú trọng phát triển chất lượng nông
sản, nâng cao giá trị gia tăng trên 1 đơn vị
diện tích” [3, tr. 25-26].
Đầu của thế kỷ XXI, nhiều thành tựu khoa
học - công nghệ hiện đại ra đời, đặc biệt là sự
bùng nổ của công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học. Để đẩy mạnh công cuộc CNH,
HĐH nông nghiệp, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên lần thứ XVI (1/2001) đã diễn ra với
những chính sách cụ thể hơn: “Muốn đưa
nông nghiệp phát triển phải tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp bằng
cách: tăng năng suất, tăng chất lượng, tăng
hiệu quả cây trồng, ứng dụng mạnh mẽ tiến
bộ kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản
xuất, tập trung cải tạo, chọn lọc giống trâu,
bò, lợn, gà, kiểm soát và ngăn chặn dịch bệnh
ở gia súc, gia cầm, phát triển hộ, nông trại
chăn nuôi gà thả vườn. Lợn hướng nạc, bò
“lai sind”, đưa gà thả vườn thành ngành chăn
nuôi lớn” [4, tr. 24].
Bên cạnh đó, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành
nhiều Nghị quyết để tiến hành các chủ trương
trên như: Nghị quyết 05 - NQ/TW ngày
31/07/1997 của Tỉnh ủy “Về đổi mới và phát
triển kinh tế hợp tác theo luật hợp tác xã”;
Nghị quyết số 06 - NQ/TW ngày 28/06/2001
của Tỉnh ủy “Về đẩy mạnh sản xuất và sử
dụng giống lúa có năng suất cao”; Nghị
quyết số 14 - NQ/TW ngày 27/06/2003 của
Tỉnh ủy “Về đẩy mạnh và phát triển chăn
nuôi lợn nạc”. Từ đó nhiều chính sách hỗ trợ
phát triển sản xuất như: chăn nuôi bò sữa, tiền
tiêm vắcxin, hỗ trợ tiền giống cho chăn nuôi
lợn nái ngoại và lợn thịt có tỷ lệ nạc cao, cũng
như việc thực hiện đưa các giống thủy sản
mới vào sản xuất (như cá rô phi đơn tính, cá
mè lai, cá chép lai, cá chim trắng…) được đẩy
mạnh. Ngoài ra tỉnh còn đề ra chính sách phát
triển tiểu thủ công nghiệp và hình thành các
làng nghề. Tỉnh ủy khóa 15 có Nghị quyết 04
- NQ/TW ngày 25/08/1998 về chủ trương và
giải pháp phát triển làng nghề tỉnh Thái
Nguyên và Nghị quyết 12 - NQ/TW ngày
3/02/2000 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về
phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp. Theo
đó Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh
có những quy định, quyết định đầu tư, hỗ trợ,
khuyến khích kinh tế nông nghiệp, nông thôn
như việc đầu tư kinh phí hỗ trợ các lĩnh vực:
sản xuất giống cây, vật nuôi, củng cố hệ thống
kênh mương, giao thông nông thôn, phát triển
công nghiệp và dịch vụ, nước sạch và bảo vệ
môi trường, sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế,
khoa học công nghệ, xóa đói giảm nghèo.
Nguyễn Minh Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 29 - 33
31
Các chủ trương đúng đắn của Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên đã góp phần phát huy được
những tiềm năng của tỉnh và thúc đẩy nhanh
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
ở Thái Nguyên.
Những thành tựu, hạn chế và bài học
kinh nghiệm
Thành tựu
Với chủ trương đúng đắn, kinh tế nông
nghiệp Thái Nguyên đã có những chuyển biến
rõ rệt, toàn diện và đạt được nhiều thành tựu
quan trọng:
Trồng trọt
Nhận thấy tầm quan trọng của ngành kinh tế
nông nghiệp, trong những năm 1997 – 2005
Đảng bộ tỉnh đã đẩy mạnh việc đưa máy móc,
ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất:
Trong đó cây chè là cây công nghiệp truyền
thống tạo nên hương vị “chè Thái” đặc trưng,
là cây “kinh tế mũi nhọn” trong cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Đến
năm 1995, số hộ chế biến chè bằng máy
chiếm 63,7% số hộ trồng chè, số lượng máy
chế biến chè là 29.353 cái, trong đó máy sao
sấy thủ công: 20.567 cái (70,07%), máy sao
cải tiến: 7.929 cái (27,02%), máy vò mini:
857 cái (2,92%). Bên cạnh đó, nhiều giống
chè mới chất lượng cao được đưa vào trồng
bằng phương pháp giâm cành như: chè Shan,
chè tuyết, chè cành, phúc vân tiên… đạt sản
lượng ngày càng cao: năm 1997 đạt 38.284
tấn, đến năm 2005 tăng lên 93.746 tấn [6,tr.
64-66].
Lúa là cây lương thực chủ yếu của Thái
Nguyên, nhờ việc đưa giống lúa TH 3-3 cho
năng suất cao 6-8 tấn/ha với thời gian sinh
trưởng ngắn, phát triển tốt trên nhiều loại đất,
có khả năng chống chịu sâu bệnh, chất lượng
gạo trắng, thơm ngon, cho nên năng suất lúa
đã tăng liên tục từ 33,74 tạ/ha năm 1997 tăng
lên 45,98 tạ/ha vào năm 2005. Các giống ngô
lai như: DK999, HQ2000, VN61 được đưa
vào sản xuất chiếm 90% diện tích cây ngô, và
đây là yếu tố quan trọng làm tăng năng suất từ
28,91 tạ/ha năm 1997 lên 34,55 tạ/ha vào năm
2005.
Là một tỉnh trung du miền núi, Thái Nguyên
có tiềm năng lớn về rừng. Với phương châm
“lấy ngắn nuôi dài”, thực hiện mô hình đan
xen cây dài ngày với cây ngắn ngày, công tác
quy hoạch cơ cấu cây trồng trên đất lâm
nghiệp được triển khai, kinh tế rừng của Thái
Nguyên đã có những thay đổi đáng kể, đưa độ
che phủ rừng từ 28% năm 1996 tăng lên 45%
năm 2005.
Chăn nuôi
Đàn trâu có xu hướng giảm dần do việc áp
dụng máy móc vào khâu làm đất, từ 135.000
con năm 1997 giảm xuống còn 114.438 con
năm 2005; Chương trình “Sind hóa” cho lai
bò vàng địa phương với bò đực ngoại (Zêbu)
đã được thực hiện nhằm nâng cao tầm vóc,
trọng lượng đàn bò và nâng cao khả năng sinh
sản của giống bò vàng địa phương, và thu
được nhiều kết quả tốt, năm 1997 là 19.000
con đến năm 2005 là 43.277 con.
Nhiều giống lợn đực ngoại xuất hiện như: Tân
Cương, Đại Bạch, Trung Bạch, Edel, lợn
Móng Cái. Một mạng lưới nhân giống được
xây dựng rộng khắp đến tận hợp tác xã để
phát triển lợn lai kinh tế (hay gọi là lợn F1)
trong toàn tỉnh. Việc làm này đã góp phần
đưa số lượng đàn lợn của tỉnh tăng lên từng
năm từ 326.000 con năm 1997 lên 491.289
con năm 2005. Sản lượng thịt hơi xuất
chuồng từ 27.445 tấn năm 2000, tăng lên
35.910 tấn vào năm 2005.
Việc chăn nuôi gia cầm đẩy mạnh với nhiều
giống, từ năm 1997 trở lại đây nhiều giống
gia cầm mới được nuôi thử nghiệm có hiệu
quả kinh tế cao, được áp dụng rộng rãi vào
sản xuất. Trong đó đáng chú ý là giống gà
mới Goldine, Tam Hoàng, Lương Phượng,
BE707, Hydine, các giống vịt hướng thịt: Bắc
Kinh, CV 2000 Layer, các giống ngan Pháp:
R31, K51, R71. Các mô hình nuôi gà Ri
thuần thả vườn, nuôi gà lông màu có năng
suất cao, thịt thơm ngon phát triển, số hộ gia
Nguyễn Minh Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 29 - 33
32
đình nuôi gia cầm quy mô công nghiệp khá
nhiều và tập trung ở huyện: Phổ Yên, Định
Hóa, Phú Bình.
Nhiều loại thủy sản nước ngọt lớn nhanh,
năng suất cao gấp hàng chục lần các loại thủy
sản truyền thống được đưa vào nuôi như: mè
hoa, trắm cỏ, chép Inđônexia thuần, cá trôi
Rohu, trôi Ấn Độ, Rophi đen chép lai, tôm
càng xanh…
Có thể thấy việc đưa máy móc và ứng dụng
những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào
trồng trọt, chăn nuôi đã làm tăng cả số lượng,
chất lượng hàng hóa. Những thành tựu đó
trước hết làm cho đời sống người nông dân và
bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi, đóng góp
to lớn vào sự phát triển kinh tế chung của tỉnh
Thái Nguyên.
Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thì
kinh tế nông nghiệp của tỉnh Thái Nguyên
còn những hạn chế cơ bản sau đây:
Tốc độ tăng trưởng hàng năm tuy ổn định
nhưng chưa thực sự bền vững, chưa cân đối
giữa các lĩnh vực, còn phụ thuộc rất nhiều vào
biến động thị trường. Tập trung cho trồng
trọt, chăn nuôi, chưa chú trọng phát triển lâm
nghiệp và thủy sản. Ngành công nghiệp phục
vụ việc chế biến, bảo quản nông sản sau thu
hoạch còn rất nhiều hạn chế.
Nhận thức của cán bộ, người dân về phát triển
nông nghiệp nông thôn bền vững còn hạn chế.
Tình trạng thiếu việc làm, thu nhập thấp ở
không ít vùng nông thôn trong tỉnh đang là
vấn đề bức xúc. Số hộ nghèo trong tỉnh còn
nhiều ở khu vực nông thôn.
Việc đầu tư, thâm canh tăng năng suất cây
trồng chưa đảm bảo yếu tố bảo vệ môi
trường: còn bón quá nhiều phân hóa học, sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật quá mức và chưa
đúng yêu cầu, việc luân canh tăng vụ chưa
hợp lý làm suy kiệt dinh dưỡng trong đất. Kỹ
thuật canh tác đất dốc vùng đồi núi chưa được
áp dụng rộng rãi nên tỷ lệ xói mòn đất còn
cao. Tình trạng lạm dụng các chế phẩm hóa
học trong sản xuất nông nghiệp đã và sẽ gây
tác hại to lớn đối với cả người sản xuất, người
tiêu dùng và môi trường sinh thái.
Bài học kinh nghiệm
Trải qua 8 năm 1997 – 2005 thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Đảng
bộ và nhân dân Thái Nguyên đã rút ra được
bài học kinh nghiệm như sau:
Một là; Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các Chỉ
thị, Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Căn cứ vào tình hình cụ thể Đảng bộ tỉnh
và nhân dân phải vận dụng đúng đắn, sáng tạo
vào việc phát triển sản xuất nông nghiệp.
Hai là; Thường xuyên chăm lo công tác xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Tăng
cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Ba là; Cần tích cực đầu tư vốn vào việc xây
dựng cơ sở vật chất, ứng dụng khoa học – kỹ
thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Bốn là; Thường xuyên củng cố khối đoàn kết,
thống nhất trong Đảng bộ, không ngừng mở
rộng khối đại đoàn kết nhân dân các dân tộc
trong tỉnh.
Năm là; Đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao
trình độ hiểu biết của cán bộ và nhân dân về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
Sáu là; Tăng cường các hoạt động thanh tra,
kiểm tra và giám sát việc thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
KẾT LUẬN
Những kết quả mà nhân dân Thái Nguyên đã
làm được trong năm 1997 – 2005 về phát
triển kinh tế nông nghiệp đã cho thấy sự lãnh
đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ tỉnh, sự
nỗ lực của nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
Trong suốt quá trình đó, Đảng bộ và nhân dân
Thái Nguyên luôn quán triệt việc đưa chủ
trương, đường lối của Đảng về vấn đề nông
nghiệp vào thực tế cuộc sống. Để đẩy mạnh
hơn nữa công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp
Nguyễn Minh Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 29 - 33
33
trong giai đoạn tiếp sau, sớm đưa nông nghiệp
tỉnh phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa
lớn thì Đảng bộ và nhân dân phải không
ngừng đoàn kết, hướng đến các mặt hàng kinh
tế mũi nhọn như: chè, lâm sản, nhằm sớm đạt
mục tiêu đưa Thái Nguyên thành tỉnh giàu
mạnh, văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban tư tưởng văn hóa Trung ương. Bộ nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, Con đường CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2002.
2. Cục Thống kê Thái Nguyên, Niên giám thống
kê các năm 1986 – 1996, 1997, 1998,
1999, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2007. Nxb
Thống kê.
3. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Văn kiện Đại hội
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XV, năm 1997.
4. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Văn kiện Đại hội
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa IX,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2002.
6. Trịnh Trúc Lâm, Địa lý tỉnh Thái Nguyên, Sở
Giáo dục – Đào tạo Thái Nguyên, năm 2008
SUMMARY
COMMITE OF A PARTY’S ROLE IN THAI NGUYEN PROVINCE
IS WITH DEVELOPMENT AGRICULTURE ECONOMY PROBLEM
ACCORDING TO IN DUSTRY AND CONTEMPORARY PERIOD 1997 TO 2005
Nguyen Minh Tuan*, Le Van Hieu College of Sciences – TNU
Agriculture is one of the fiels to produce material to sell for the social which there is not any
economy can do it. So, stabilize and development of agriculture are conditions to push up
industryaim and contemporary period (industryaim and contemporary), the economy [1]. After
eight years of implementation (1997 - 2005), the agricultural economy of Thai Nguyen province
had many good changes. This shows that committee of a party is an important role.
Keywords: Agriculture, industrialization, modernization, Party, Thai Nguyen, Thai Nguyen Party
Ngày nhận bài:06/01/2014; Ngày phản biện:27/01/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Hà Thị Thu Thủy – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN
* Tel: 01234 865145, Email: Thansa6@gmail.com
Nguyễn Minh Tuấn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 29 - 33
34
Phạm Quốc Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 35 - 40
35
KẾT CẤU TỰ SỰ - TRỮ TÌNH
TRONG TRUYỆN THƠ NÔM TÀY TỔNG TÂN – CÚC HOA
Phạm Quốc Tuấn* Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Truyện thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa có cốt truyện vay mượn từ truyện thơ Nôm Kinh Tống
Trân - Cúc Hoa. Truyện thơ Tống Trân - Cúc Hoa có nguồn gốc từ truyện cổ tích Dã sử quan
Trạng Gầu. Truyện gồm 1680 câu lục bát. Hình thái cấu trúc của truyện giống truyện cổ tích với
mô hình: gặp gỡ - chia li - đoàn tụ. Truyện gồm 23 sự kiện tình tiết chính.
Truyện thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa dài 3002 câu thơ, chia làm 17 đoạn, được viết bằng
chữ Nôm Tày và thể thơ thất ngôn trường thiên.
Vì vay mượn nên cơ bản cốt truyện của truyện thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa không khác với
truyện thơ Nôm Kinh. Sự sáng tạo của tác giả người Tày thể hiện ở việc mở rộng, bớt, lược bỏ và
sáng tạo mới một số tình tiết. Đặc biệt, họ đã thêm vào 14 phiến đoạn miêu tả diễn biến tâm trạng
nhân vật và cảnh thiên nhiên, điều này góp phần làm thay đổi kết cấu cốt truyện của văn bản gốc.
Từ khóa: Truyện thơ, Tổng Tân – Cúc Hoa, nôm Tày, tự sự, trữ tình, kết cấu
Truyện thơ Nôm Kinh (bình dân) có kết cấu
cốt truyện tự sự là chủ yếu thì truyện thơ Nôm
Tày xét trên quá trình phát triển của thể loại
có hai kiểu kết cấu: kết cấu trữ tình - tự sự (ở
giai đoạn đầu) và kết cấu tự sự - trữ tình (ở
giai đoạn sau). Sở dĩ có sự thay đổi này bởi
trong truyện thơ Nôm Tày đã thấy sự xuất
hiện yếu tố trữ tình. Chất trữ tình trong truyện
thơ Nôm Tày có thể biểu hiện ở dạng cốt
truyện giàu chất trữ tình hay xuất hiện kiểu
nhân vật trữ tình, có khi là những đoạn miêu
tả phong cảnh thiên nhiên đậm màu sắc trữ
tình... Có thể nhận thấy xu hướng trữ tình hóa
tác phẩm tự sự trong truyện thơ Nôm Tày
Tổng Tân - Cúc Hoa qua những phương diện
sau đây:*
Chất trữ tình bộc lộ qua cốt truyện
Từ xưa đến nay, theo cách hiểu truyền thống,
khi nói đến truyện người ta nhắc đến cốt
truyện. Tác phẩm hình thành trên cơ sở một
hay nhiều câu chuyện. Truyện có thể được kể
lại hấp dẫn nhờ tài năng của người kể. Truyện
thơ Nôm Tày Tổng Tân - Cúc Hoa là kiểu
truyện ở trong thơ và thơ lồng trong truyện.
Đã là truyện, tác phẩm này cũng không nằm
ngoài quỹ đạo loại hình tự sự. Cốt truyện
* Tel: 0988 508007, E-mail: tuantnsp@yahoo.com
Tổng Tân - Cúc Hoa được xây dựng trên
những mâu thuẫn phức tạp của đời sống. Đó
là những nghịch cảnh, nghịch lý trớ trêu, ấm
ức ê chề diễn ra trong cuộc đời. Nghịch cảnh,
nghịch lý ấy được diễn đạt trên nền tảng của
chất trữ tình sâu lắng. “Sự” là thể xác mà
“Tình” là linh hồn. “Sự” xuất hiện trước làm
điểm tựa cho “Tình”. Có những đoạn thơ
“Tình” xuất hiện trước chi phối sự lựa chọn
các tình tiết, sự kiện, nhân vật làm cho “Sự”
được rõ ràng, rành rẽ hơn. “Sự” và “Tình ”
lúc thống nhất trong một chỉnh thể trọn vẹn,
khi bổ sung tôn nhau lên. Có khi ranh giới
giữa “Sự” và “Tình” tạm thời bị xoá nhoà,
che lấp. “Sự” và “Tình” giao thoa hòa quyện
với nhau, nhưng cũng có lúc tách bạch rạch
ròi, tương đối độc lập. “Sự” xuất hiện như hòa
vào cái dàn trải mênh mông của cảm xúc trữ
tình. Mỗi chi tiết, hành động của nhân vật đều
gắn với những trạng thái tình cảm con người.
Trong Tổng Tân - Cúc Hoa, có nhiều phiến
đoạn “Sự” và “Tình” gắn kết như vậy. Chẳng
hạn, việc Tổng Tân đi sứ chính là “Sự”, còn
chất “Tình” là dòng chảy tâm trạng nhân vật
đan xen trong suốt mười năm chàng ở xứ
người. Trong những năm đi sứ, Tổng Tân
không lúc nào nguôi nhớ nhà, nhớ người thân,
hình ảnh mẹ già và người vợ thảo hiền luôn
Phạm Quốc Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 35 - 40
36
hiện hữu trong suy nghĩ của chàng. Tâm trạng
này được tác giả miêu tả tới 5 lần, trong đó có
những đoạn vô cùng sâu sắc và cảm động
(đoạn Tổng Tân chia tay mẹ già và người vợ
hiền để lên đường đi sứ). Khi nhận được
chiếu chỉ vua ban, Tổng Tân rất bàng hoàng,
đau xót bởi: “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”,
“Chữ hiếu chưa trọn chữ tình dở dang”. Nếu
trong bản Kinh, tâm trạng này cũng được
nhắc tới trong 37 câu thơ thì ở bản Tày, tác
giả đã dùng đến 114 câu để miêu tả. Rõ ràng,
với hơn 100 câu thơ, tâm trạng của Tổng Tân,
Cúc Hoa được thể hiện tỉ mỉ, chi tiết giúp
người đọc hình dung rõ hơn về hoàn cảnh và
số phận nhân vật. Phẩm chất, tính cách, chân
dung nhân vật cũng được hiện lên gần gũi,
chân thật hơn. Có thể nói đây là đoạn thơ chia
tay đầy nước mắt, nó làm người ta liên tưởng
đến những câu thơ đã trở thành biểu tượng
cho sự chia li: đoạn Thúc sinh từ biệt Thúy
Kiều trong Đoạn trường tân thanh của
Nguyễn Du. Phải ra đi, điều đầu tiên Tổng
Tân nghĩ đến là thương mẹ già tuổi đã cao
không ai chăm sóc. Sau đó, chàng thương
người vợ hiền đã bao công nuôi mẹ, nuôi thầy
rồi nuôi chồng, mới được một chút hiển vinh
nay lại phải xa cách mà chưa biết bao giờ
đoàn tụ. Cả đoạn thơ chứa chan nước mắt với
những từ ngữ đầy buồn đau như: thảm hại, lệ
tuôn lai láng, thảm thương lo ngại, nước mắt
rơi lã chã, thảm thiết, xót xa… Từ giã gia
đình, Tổng Tân nói với người ở lại:
“Tổng Tân cẩu pác vọng Cúc Hoa / Tổng Tân
dặn lời với Cúc Hoa
Ngọc thẻo mừa trung gia đuổi mẻ /“ Nàng
hãy quay về nhà cùng mẹ
Dượng dục ngòi tua ké thả quan / Chăm sóc
bao xuân hạ chờ anh
Noọng nhiệu vỉ pây thàng bấu đảy / Nàng
khóc ta không đành đường trảy
Hất rừ dẳng vần nẩy rối bân/ Làm sao phải
thế vậy, trời ơi?
Soong gần tẳng vần hâng liền vyảc / Hai
người nói những lời xa cách
Thân nàng thẻo mừa các đuổi hiên/ Thân
nàng về lầu các mái hiên
Phít se quan Tạng nguyên nàng vọng / Dõi
theo bóng Trạng nguyên xa khuất..”.
Khảo sát các truyện thơ khác, đặc biệt là
trong Phạm Tử - Ngọc Hoa, Lưu Bình -
Dương Lễ, việc đan xen giữa “Sự ” và
“Tình” như trên diễn ra khá thường xuyên.
Cốt truyện vì thế mà giàu chất trữ tình hơn.
Như vậy, nội dung của tác phẩm bao giờ cũng
được phản ánh thông qua hình thức nghệ
thuật. Có nội dung được thể hiện dưới dạng
câu văn xuôi dài, mà yếu tố tự sự thường nổi
bật với “câu chuyện” được kể giữ vai trò chủ
chốt. Có khi nó được phản ánh bằng những
câu thơ trữ tình giàu hình ảnh, cảm xúc.
Truyện thơ là thể loại mang trong mình đầy
đủ cả hai đặc tính của văn học là tự sự và trữ
tình. Nó hòa quyện vào nhau làm cho câu
chuyện được “tự sự”, thuyết phục, chính xác,
lời văn thêm sinh động, lãng mạn “trữ tình”.
Chất trữ tình bộc lộ qua tâm trạng nhân vật
Tâm trạng của nhân vật trữ tình như được đan
cài vào từng sự kiện, hữu “Sự’’ hữu “Tình’’,
chúng quấn quýt với nhau khó tách bạch.
Cũng chỉ khi “Sự ”và “Tình” đi liền nhau thì
truyện thơ mới có được sự mạch lạc và trở
thành một thể thống nhất trọn vẹn. Trong
dòng tự sự mênh mông của truyện thơ Tổng
Tân - Cúc Hoa, xuất hiện nhiều đoạn xen vào
yếu tố trữ tình. Tác phẩm được mềm hoá bởi
những dòng tâm trạng, cảm xúc, tính chất kể
và tả cũng bớt nặng nề. Tính trữ tình làm sống
dậy thế giới hiện thực khách quan, giúp chúng
ta đi sâu vào thế giới của những suy tư, nỗi
niềm tâm trạng trong nhân vật. Truyện thơ
Tổng Tân - Cúc Hoa đã xây dựng được tính
cách khái quát và riêng biệt của nhân vật ở
dạng “trữ tình”.
Tổng Tân và Cúc Hoa được tái hiện từ khi
còn thơ ấu. Gặp nhau trong cảnh trớ trêu:
nàng Cúc Hoa lá ngọc cành vàng, còn chàng
Tổng Tân ăn xin từng ngày nuôi mẹ. Ngay
giây phút ban đầu gặp gỡ, tình yêu giữa hai
Phạm Quốc Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 35 - 40
37
người như đã nảy nở. Họ yêu nhau không bởi
hai chữ sắc tài hay danh lợi mà bằng tình cảm
chân thành nhân ái. Sự cộng kết này làm cho
mối tình thêm bền chặt. Tổng Tân, Cúc Hoa
nhớ đến nhau trong nỗi nhớ ân tình, gắn với
nhau trong lời nguyền ân nghĩa: “Phúc may
nhờ nhà quý cao sang/ Hai là đội ơn nàng
thương đến/ Cho tôi được ngần ấy gạo ngon/
Khác chi cho bạc vàng mười nén/ Ơn người
còn thương đến kẻ nghèo”. Khi phải xa nhau,
họ không bi thương tiêu cực, không oán hận
sầu đau, có chăng chỉ là lời trách móc, nghi
ngờ của Tổng Tân khi đi sứ: “Ngày về có còn
trông hay chẳng/ Nàng Cúc Hoa ở đợi tu
thân/ Hay là đã quên công anh cả/ Một là vợ
đợi đó không sai/ Hai là đã lâu rồi không
thấy”. Nhưng đó cũng chỉ là nét điểm xuyết
làm tăng tính chân thực của hình tượng nhân
vật. Tỏa sáng hơn cả vẫn là tấm lòng đôn hậu,
nghĩa tình của Tổng Tân và Cúc Hoa. Tấm
lòng ấy tạo thành dư vị “trữ tình” qua 17
đoạn thơ. Hơn thế, tình yêu của họ đã vượt
qua bao rào cản khó khăn, phép vua, lệ làng,
sự can thiệp của mẹ cha để thể hiện một ước
mơ giàu tính nhân bản “Tình đôi lứa gốc ở
tao khang”. Khát vọng ấy là nỗi khao khát
của những tâm hồn mạnh mẽ, khoẻ khoắn
quyết giữ trọn tình yêu và cao hơn là tình
người cao đẹp. Họ quý mến nhau ở cách cư
xử tình người, cảm phục nhau ở sự tài trí, giỏi
giang. Nhưng hai nhân vật đã rơi vào vòng
xoáy cuộc đời bởi sự toan tính nhỏ nhen của
cha Cúc Hoa. Không chỉ có vậy, tâm trạng
nhân vật Tổng Tân còn được phản ánh chân
thực qua nhiều đoạn độc thoại nội tâm cùng
những suy tưởng đầy cảm xúc.
Diễn biến tâm trạng hai nhân vật Tổng Tân và
Cúc Hoa là yếu tố chính làm nên chất trữ tình
đậm nét của tác phẩm. Những thử thách cuộc
sống được đặt ra trong truyện càng làm cho
tình yêu thêm rạng rỡ. Từ đó tâm trạng “trữ
tình” của đôi lứa thêm lấp lánh trong mọi tình
cảnh éo le. Cuộc đời họ đã trải qua trăm cay
nghìn đắng, rơi vào hết nạn nọ, kiếp kia. Khi
vất vả chẳng ai nhòm ngó, lúc vinh quy bái tổ,
vui chưa kịp hưởng đã phải chịu nỗi buồn
chia xa. Cúc Hoa nguyện ở nhà nuôi mẹ cho
chồng vững bước đường xa. Niềm tin ấy đã
biến thành sự lạc quan để họ động viên nhau
vượt qua khó khăn và hướng tới tương lai tươi
sáng. Tình yêu của đôi trẻ đã trở thành “thiên
tình sử” sâu sắc, đậm đà ý vị về một mối tình
lãng mạn, thơ mộng của tộc người Tày.
Tâm trạng nhân vật được viết theo kiểu tâm
tình thương nhớ, rất giàu chất trữ tình, tuy
diễn ra trong nhiều tình huống cụ thể nhưng
nó như đã phá vỡ lằn ranh giữa tự sự và trữ
tình để phát huy tối đa khả năng diễn tả cảm
xúc của nhân vật. Tuy vậy, sự phá vỡ này
chưa đạt đến độ xâm lấn và xóa nhòa hoàn
toàn ranh giới của hai yếu tố tự sự và trữ tình.
Xu hướng trữ tình hóa khiến cho tác phẩm trở
nên mượt mà, giàu cảm xúc, dễ thấm hơn
trong hồn người. Biểu hiện tình cảm được coi
như một chức năng đặc biệt của truyện thơ.
Mọi yếu tố trữ tình được vận dụng trong tác
phẩm đều nhằm hướng đến nội dung phơi trải
những tình cảm yêu thương, nhân nghĩa, thủy
chung của con người. Nói đúng ra, yếu tố trữ
tình trong truyện thơ đã tạo nên đặc trưng của
thể loại truyện trong thơ và cũng là thơ trong
truyện. Chất trữ tình được thể hiện sâu đậm
trong suy nghĩ, tình cảm của Cúc Hoa. Nàng
tuy có hướng về quá khứ (kể về những gì đã
xảy ra - yếu tố tự sự) nhưng sự hiện hữu đó
đều nằm trong dòng hồi tưởng, kí ức của
nàng. Tương lai được nói đến cũng chỉ là
những mơ tưởng, mong ước mà nàng tự vẽ
nên trong tâm trí, trong sự mỏi mòn chờ đợi
Tổng Tân. Vì thế trung tâm tác phẩm vẫn là
quãng thời gian hiện tại, lúc Cúc Hoa đối diện
với chính lòng mình, đang tự bộc bạch những
suy nghĩ diễn ra trong tâm tư. Điều đó không
chỉ diễn ra với Cúc Hoa mà quy luật tình cảm
ấy cũng xuất hiện nơi tiếng lòng Tổng Tân.
Những xúc động trữ tình của nhân vật trong
hiện tại phủ lên các sự kiện quá khứ và tương
lai tấm màn cảm xúc để chúng hiện lên như
đang diễn ra với những hình thái sống động.
Phạm Quốc Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 35 - 40
38
Chất trữ tình bộc lộ qua khung cảnh thiên nhiên
Sự xuất hiện của thiên nhiên trong truyện thơ
Tổng Tân - Cúc Hoa được gắn chặt với việc
thể hiện tâm tình con người. Sau khi Cúc Hoa
xin đi sứ cùng chồng nhưng không được
(Chàng chia li chốn dạ mường xa/ Cho thiếp
cùng mẹ già theo trảy/ Bỏ thiếp cho ở lại làm
chi), Tổng Tân đành giã biệt ra đi trong màn
mưa nước mắt của mẹ và vợ. Trên hành trình
vượt “xa cách” đến “kinh kì”, thiên nhiên
xuất hiện như nói hộ chàng tiếng lòng nức nở
sầu thương: “Bỗng nghe tiếng từ quy ngựa
phóng/ Nghe ong ve rừng thẳm vọng thanh/
Trạng nguyên bỗng bực mình xa cách/ Nhớ
đến nàng thương nhớ Cúc Hoa”. Thiên nhiên
trong Tổng Tân - Cúc Hoa đã trở thành một
nhân vật thực thụ, làm minh chứng cho tình
yêu giữa Tổng Tân và Cúc Hoa. Đây là tiếng
ong, tiếng chim hay tiếng lòng khắc khoải của
chàng “Khi lại thấy chuồn chuồn bay lượn/
Thầy tớ cùng nhìn ngắm cho vui/… Ong ve
gọi lân la điềm gở/ Buồn lòng chàng ngồi
nghỉ gọi là/... Khảm khắc hót gần xa ngàn lạ/
Trạng nguyên thân nhớ mẹ nhớ nàng”. Ai đã
từng nghe tiếng chim khảm khắc vọng ra từ
rừng sâu mới thấy hết cái da diết, khắc khoải
của cõi lòng khi buồn nhớ. Tiếng chim khảm
khắc là hồn quê hương. Tổng Tân chân bước
đi nhưng lòng như níu chặt.
Không gian rộng lớn nơi xứ người cùng bước
đi nghiệt ngã của thời gian 10 năm làm se thắt
nỗi lòng Tổng Tân. Chàng cứ lo âu rồi phấp
phỏng, như nhận ra có điều gì bất trắc, xa
xăm, mơ hồ khi nghĩ về quê hương: “Bao giờ
đủ mười năm hoa nở/ Năm nay vượt mới có
một năm/ Còn thiếu những chín xuân chưa
đủ/ Trạng nguyên buồn lòng dạ buồn thay/
Ngày hết lại thấy ngay trăng đến/ Đêm tối rồi
mai sớm lần hồi”. Trong tâm trạng của Cúc
Hoa thì thiên nhiên cũng xuất hiện để nói hộ
nàng nỗi nhớ: “Sáng sớm đến chiều tà chiếc
lẻ/ Yêu chồng em nuôi mẹ thay chàng”.
Thiên nhiên trong truyện thơ không thơ mộng
mà khắc khoải trào dâng vì nỗi nhớ, niềm
thương của nhân vật. Vẫn là khung cảnh ngày
đêm, rừng núi và vầng trăng nhưng thiên
nhiên được khai thác ở chiều sâu đa diện,
được “hữu hình hóa”, có khối, hình, âm thanh
và tâm trạng. Nó làm cho tình vợ, nghĩa
chồng của Tổng Tân và Cúc Hoa thêm sâu
đậm và cũng giàu chất “bi kịch”.
Thiên nhiên không còn là sinh thể vô tri nữa
mà trở thành người bạn, một nhân vật thực
thụ. Đây là điểm sáng của truyện thơ Tổng
Tân - Cúc Hoa trong nghệ thuật truyền thống
“lấy thiên nhiên làm tâm cảnh”. Bút pháp
miêu tả nội tâm nhân vật làm cho truyện thơ
vượt lên trên các thể loại khác của văn học
dân gian.
Trong Tổng Tân - Cúc Hoa, nhân vật được
đặt trong cả ba chiều thời gian, không gian
đồng hiện: quá khứ - hiện tại - tương lai.
Những chiều kích đó được thể hiện bằng cách
khắc họa thêm những chi tiết, tình tiết trong
cuộc đời nhân vật. Chi tiết là kết quả của sự
vật, còn tình tiết là kết quả của sự việc. Chi
tiết mang nhiều yếu tố tự sự, nhưng tình tiết
lại chứa đựng chất trữ tình. Truyện thơ Tổng
Tân - Cúc Hoa có nhiều chi tiết, sự kiện...
Những chi tiết này đóng nhiều vai trò khác
nhau nhưng một trong các chức năng là biểu
đạt tâm trạng con người. Chẳng hạn, sự kiện
“người chồng đi sứ” chỉ đóng vai trò như
điểm tựa, chỗ dựa để khơi nguồn cho dòng
chảy cảm xúc chan chứa của con người. Nó là
cái cớ để Tổng Tân, Cúc Hoa thổ lộ tâm trạng
trong hoàn cảnh “ái biệt ly” và chất trữ tình
cũng giúp họ bày tỏ mong ước đoàn tụ. Mọi
chi tiết tự sự khác được nói đến cũng cùng
chung mục đích đó. Yếu tố trữ tình xuất hiện
khá linh hoạt và ở vị trí nào nó cũng là cơ sở
nhằm xây nên những trạng thái tình cảm của
nhân vật. Có khi trong một khổ thơ, câu trước
chỉ việc làm của nhân vật, câu sau lại biểu
hiện tâm trạng:“Bữa cơm người hầu hạ trưa
chiều/ Ngày hết lại trăng lên phiền muộn/
Thoảng nhớ nàng nhớ đến Cúc Hoa/ Nhớ vợ
châu lệ sa không cạn/ Nhớ đến mẹ lão mẫu
thân sinh”. Không gian xuất hiện cũng chỉ
nhằm đi vào chiều sâu tâm trạng nhân vật.
Nơi xứ người nghĩ về quê hương, những giấc
mộng hay niềm suy nghĩ, đều là không gian
Phạm Quốc Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 35 - 40
39
tưởng tượng. Nó không xuất hiện ở cuộc đời
thực mà chỉ tồn tại trong dòng tâm tưởng
miên man bất tận của nhân vật. Nếu không có
khung cảnh ngày Tổng Tân trở về với cờ
giong trống mở: “Đi nhận chức mười xuân
hoa nở/ Mặt mũi chàng rạng rỡ ngọc châu/
Hướng đi về kinh đô Nam Việt” thì không thể
nào thấu hiểu cùng một lúc rất nhiều tâm
trạng đan xen trong lòng Tổng Tân. Niềm háo
hức gặp lại sau bao ngày xa cách chồng lấn
với nỗi xót xa cho số phận, tình cảnh:“Ta nói
ra xấu hổ với người/ Lúc nhỏ ta mồ côi không
bố/ Cùng mẹ đi tứ xứ ăn xin/ Nàng Cúc Hoa
động lòng cho gạo”. Lời giãi bày về gia cảnh
của Tổng Tân với quan quân nước Tần trên
đường hồi hương đủ thấy chàng là người
không quên tình nghĩa. Sau mười năm cách
biệt, biết bao sự kiện diễn ra nhưng quá khứ
vẫn hiện hình trong suy nghĩ của Tổng Tân rõ
ràng chi tiết, điều đó cho thấy chàng là người
thuỷ chung. Trong Tổng Tân - Cúc Hoa các
đoạn thơ liên kết với nhau bằng những câu
nối: “ Lại kể đoạn Tổng Tân nhật trình”, “Lại
kể đoạn Cúc Hoa cô ả” rồi “Lại kể đoạn
quan trạng Tổng Tân ”. Cũng có khi, liên
tiếp các khổ thơ chỉ toàn là những chi tiết bề
bộn như sự kể lể, không có dấu hiệu nào gắn
với tình cảm (chẳng hạn đoạn 6 đoạn 7 và
đoạn 8 kể chuyện Tổng Tân giải quyết những
vụ việc ở xứ người: dâm phụ giết chồng; lái
hương kiện cành đa; vụ Lí Vì sát hại họ
Lương....). Tất cả các đoạn thơ trên như đang
kể về công việc và cách giải quyết của Tổng
Tân. Dấu vết cảm xúc tưởng không hề có mặt
trong câu chữ. Nhưng không hoàn toàn như
vậy, bề sâu của những dòng thơ đầy chất tự
sự ấy là nỗi niềm khắc khoải trong mười năm
trông ngóng, chờ đợi ngày hồi hương. Chàng
Tổng Tân bên ngoài vẫn giúp đời, cứu người
bằng trí tuệ mẫn tiệp, cách phân xử công
minh, thấu lý đạt tình nhưng tâm trạng chàng
lại đau đáu nỗi niềm về mẹ già, vợ trẻ, thường
trực nỗi đoạn trường khi chưa phụng dưỡng
mẹ lúc tuổi già, chưa đáp đền công lao của vợ
từ thuở hàn vi. Khái quát lại, có thể thấy, mọi
chi tiết tự sự được sử dụng đều khiến tác
phẩm có xu hướng trữ tình hóa. Không chỉ để
làm phông, nền cho tâm trạng như một yếu tố
phụ mà trữ tình đóng vai trò khá quan trọng
trong cốt truyện. Không có nó, nhân vật sẽ
đơn điệu nhạt nhẽo, cốt truyện thuần tuý chỉ
là sự kiện rời rạc. Dòng tâm trạng của nhân
vật cũng vì thế mà không thể trôi chảy tự
nhiên, thuận lợi và dễ dàng trong chiều dài
3002 câu thơ. Điều quan trọng hơn xu hướng
trữ tình đã làm cho tâm trạng nhân vật trong
tác phẩm trở nên mới mẻ, sinh động, phong
phú. Tâm trạng nhân vật tuy có rất nhiều sắc
thái khác nhau nhưng đều đồng quy trong
những từ như nhớ, buồn, lo... nên thường có
sự lặp lại. Xu hướng trữ tình hoá các diễn
biến tâm trạng khiến cho tác phẩm bớt đi sự
tẻ nhạt, tăng độ hấp dẫn. Thử hình dung, nếu
truyện thơ Tổng Tân - Cúc Hoa không chêm
xen vào dòng chảy tình cảm những khúc đoạn
mang dấu vết trữ tình thì các đoạn thơ chỉ như
sự lặp lại một cách vụng về những việc làm,
sự kiện, tình tiết được kể lại trong cuộc đời
nhân vật. Chính yếu tố trữ tình giúp cho tác
phẩm có một sợi dây liên hệ bền chặt giữa các
chi tiết đồng thời làm những phiến đoạn miêu
tả tâm trạng nhân vật trở nên thật hơn. Xu
hướng trữ tình hoá tác phẩm tự sự góp phần
tạo nên nét đặc sắc cho truyện thơ Nôm Tày.
Bằng việc chỉ ra xu hướng trữ tình hoá trong
Tổng Tân - Cúc Hoa, chúng tôi có thêm
những cứ liệu để khẳng định đó cũng là xu
hướng tất yếu của những truyện thơ Nôm Tày
khác. Yếu tố tự sự tựa như cái khung, bệ đỡ
cho cảm xúc của nhân vật được bộc lộ. Yếu tố
trữ tình hiện diện còn là điều kiện để kéo dài
quy mô trường thiên của tác phẩm và quan
trọng hơn làm bật lên nội dung cốt lõi của
truyện thơ. Tự sự và trữ tình là hai phương
thức tái hiện đời sống khác nhau. Sự khác
nhau đó đã vạch ra đường ranh tưởng chừng
không thể bước qua của thể loại. Nhưng đến
truyện thơ, cụ thể trong Tổng Tân - Cúc Hoa,
ranh giới này đã bị “xâm lấn” nhằm đạt đến
hiệu quả nghệ thuật tinh tế của tác phẩm.
Chính việc “kể lể tình cảm” đã tạo khả năng
cho truyện thơ này có thể kéo dài đến 3002
câu thơ và diễn đạt một cách dễ dàng, thuận
lợi những tiếng tơ đàn muôn điệu trong tâm
hồn con người.
Phạm Quốc Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 35 - 40
40
Xem xét tổng thể những truyện thơ Nôm Tày
cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh
(Thạch Sanh, Phạm Tử - Ngọc Hoa, Lưu Bình
- Dương Lễ, Tổng Tân – Cúc Hoa), xét riêng
về mặt kết cấu, sự sáng tạo của người Tày thể
hiện trên hai phương diện. Thứ nhất, họ đã
thay đổi kết cấu cốt truyện theo phương thức:
gặp gỡ - tai biến - lưu lạc thành kết cấu cốt
truyện xâu chuỗi, lắp ghép (trường hợp truyện
Thạch Sanh). Thứ hai, việc gia tăng chất trữ
tình cho cốt truyện, thêm vào nhiều phiến
đoạn lột tả diễn biến tâm trạng nhân vật, miêu
tả cảnh thiên nhiên đã biến đổi kiểu kết cấu
tác phẩm tự sự thuần túy của người Kinh
thành tác phẩm có kết cấu tự sự - trữ tình
trong truyện thơ Nôm Tày (các tác phẩm còn
lại). Xu hướng trữ tình hóa tác phẩm tự sự
làm cho nội dung truyện thơ Nôm Tày được
mở rộng đồng thời ghi dấu thành công nghệ
thuật xuất sắc của tác giả người Tày. Xu
hướng này cũng cho thấy sự giao thoa, tiếp
biến văn hóa sâu sắc giữa hai dân tộc Kinh -
Tày. Những thành công nghệ thuật đặc sắc
của bản Tày vừa là minh chứng cho quá trình
giao lưu văn hóa giữa các dân tộc anh em
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam vừa cho
thấy vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn của văn hóa
Tày, tâm hồn Tày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Triều Ân (1994), Truyện thơ Nôm Tày (tập 1),
Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
2. Triều Ân, Hoàng Quyết, Hoàng Thị Cành
(1995), Truyện thơ Nôm Tày (tập 2) (đạt giải ba
công trình nghiên cứu năm 1995 của Hội Văn
nghệ Dân gian Việt Nam - tài liệu mượn của tác
giả).
3. Nông Quốc Chấn (giới thiệu) (1964), Truyện
thơ Tày Nùng, Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện Nôm lịch sử
phát triển và thi pháp thể loại, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
5. Phan Đăng Nhật (1997), Văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
6. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học các dân tộc ít
người ở Việt Nam, Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
7. Lục Văn Pảo (1992), Truyện Nôm Tày, Tạp chí
Văn hoá Dân gian (số 3).
8. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày - nguồn
gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội
SUMMARY
STRUCTURE NARRATIVE – ROMANCE
OF TAY PEOPLE TONG TAN - CUC HOA
Pham Quoc Tuan* College of Education - TNU
“Tong Tan - Cuc Hoa”, Nom-Tay (Nôm Tày) long poem, which has a plot borrowed from Nom-
Kinh (Nôm Kinh) poem “Tong Tran - Cuc Hoa”, originates from fairy tales “Trang Gau historical
epic tales” . Nom-Kinh poem “Tong Tran - Cuc Hoa” includes 1680 six-eight meter sentences. Its
structure is like fairy tales’ one with the same model: meeting - separation - reunion. It also
includes 23 main events.
Nom-Tay poem “Tong Tan - Cuc Hoa” consists of 3002 verses long, and is divided into 17
sections. It was written in Nom Tay language and in seven-lined stanza.
Because of borrowing from Nom-Kinh poem, the plot of the Nom-Tay poem “Tong Tran - Cuc
Hoa” does not differ from its original. The creations of Tay author are reflected in the expanding,
omitting, pruning and creating some new circumstances. Particularly, they added 14 sections
describing the changes in character’s mood and natural beauty. This contributed to the changes of
the structural of the original plot. Key words: poetic tales, Tong Tan - Cuc Hoa, Nom-Tay, narrative, romance, structure.
Ngày nhận bài:17/4/2014; Ngày phản biện:12/5/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh – Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên
* Tel: 0988 508007, E-mail: tuantnsp@yahoo.com
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
41
PHÒNG RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM VỚI VIỆC HÌNH THÀNH
NĂNG LỰC NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN
Nguyễn Mậu Đức* Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Trong những năm qua, các trường Đại học Sư phạm trong cả nước đã và đang cố gắng đưa ra
những biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên (GV) tương lai cho các cơ sở giáo dục.
Chính vì lẽ đó mà việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (RLNVSP) phải được coi là một trong những
khâu quan trọng nhất làm nền tảng cho việc hình thành con người mới năng động và sáng tạo và
có hướng phát triển nghề nghiệp bền vững. Việc hình thành và phát triển năng lực sư phạm không
chỉ qua những bài giảng về tâm lý hay giáo dục học, mà còn được rèn luyện trong môi trường thực
hành nghề mang tính hệ thống, chuyên môn sâu theo chương trình đào tạo, quy trình và môi
trường chuẩn mực nhất định, đó là phòng nghiệp vụ sư phạm ở trường sư phạm.
Từ khóa: nghiệp vụ, nghiệp vụ sư phạm, sinh viên, năng lực, trường đại học sư phạm
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Nghề sư phạm là một nghề mang tính chuyên
nghiệp với những kỹ năng sư phạm riêng (kỹ
năng giảng dạy và giáo dục học sinh). Những
kỹ năng này được hình thành và phát triển
trong suốt quá trình đào tạo ở trường sư phạm
và tiếp tục hoàn thiện dần trong quá trình hoạt
động nghề nghiệp. Phòng RLNVSP hướng
đến hình thành cả năng lực chuyên môn lẫn
năng lực sư phạm (SP). Việc trang bị hệ
thống tri thức chuyên môn và rèn luyện kỹ
năng SP, giáo dục nghệ thuật làm thầy… là
những vấn đề cực kỳ quan trọng, cần phải
được tiến hành trong suốt 4 năm học ở trường
Đại học Sư phạm.
Trong thực tế những phòng nghiệp vụ sư
phạm (NVSP) này chưa theo một quy chuẩn
nào và cho đến hiện nay cũng chưa có tiêu
chuẩn thiết kế cụ thể cho loại phòng học
mang tính chuyên sâu để hình thành tay nghề
cho sinh viên (SV). Nếu đối chiếu với yêu cầu
và chức năng của một phòng RLNVSP thì
hầu như chưa có phòng RLNVSP theo đúng
nghĩa, mà có chăng mới chỉ là phòng bộ môn
phương pháp với trang thiết bị tối thiểu và
giản đơn.
Thực hành RLNVSP cho SV đóng vai trò
quan trọng trong quá trình hình thành năng
lực nghề và cần thiết tiến hành thường xuyên
* Tel: 0983 834724, Email: mauducsptn@gmail.com
liên tục và trong những điều kiện tập luyện
tốt. Trên thực tế các cuộc khảo sát qua đợt
thực tập tốt nghiệp của SV hằng năm cho thấy
SV của trường ĐHSP có kiến thức vững chắc
về các môn khoa học cơ bản và phương pháp
giảng dạy môn học, song kĩ năng SP vẫn còn
những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được
ngay với những yêu cầu của thực tiễn giáo
dục mà nguyên nhân ít được thực hành trước
đó. Để góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo thì phòng RLNVSP giúp SV nhanh
chóng tiếp cận với thực tế nghề nghiệp và
thực hành luyện tập một số kĩ năng dạy học,
giáo dục trước khi đi thực tập dưới trường
phổ thông [4]
NHỮNG PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CẦN PHÁT TRIỂN
Ở NGƯỜI GIÁO VIÊN
Khái niệm “nghiệp vụ” và “nghiệp vụ sư
phạm”
“Nghiệp vụ thường được hiểu là công việc
chuyên môn của một nghề xác định ”(Trần Bá
Hoành). Nghiệp vụ thể hiện tính chuyên biệt
của một nghề so với những nghề khác, đòi hỏi
tính chuyên nghiệp khi thực hiện hoạt động
của nghề cụ thể.
“Nghiệp vụ sư phạm là hoạt động dạy học và
giáo dục (nghĩa hẹp) học sinh của nhà giáo” .
“Nghiệp vụ sư phạm là công việc chuyên môn
của người làm “nghề dạy học”. Khả năng
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
42
thực hiện công việc chuyên môn đó với một
chất lượng nhất định gọi là năng lực nghề
nghiệp. Người có năng lực nghề nghiệp hay
năng lực sư phạm hay năng lực nghiệp vụ sư
phạm là người biết vận dụng linh hoạt, sáng
tạo vốn kinh nghiệm cá nhân vào giải quyết
tốt các nhiệm vụ giáo dục, dạy học trong các
hoàn cảnh, các điều kiện cụ thể của nhà
trường. Rèn luyện NVSP cho SV cần phải đặt
ra một cái đích nào đấy thuộc về năng lực [2].
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
Rèn luyện là một quá trình tập luyện, thực hành
một cách có hệ thống những kĩ năng chuyên
môn, nghiệp vụ cần thiết của một nghề [2].
"Rèn luyện là luyện tập nhiều trong thực tế để
đạt tới những phẩm chất hay trình độ vững
vàng, thông thạo". Muốn rèn luyện một năng
lực nào đó, một phẩm chất nào đó phải tiếp
xúc với thực tế, làm lại nhiều lần các thao tác
cụ thể. Phẩm chất ấy, năng lực ấy có thể được
hình thành, nảy sinh trong quá trình học tập.
Song muốn đạt được một trình độ vững vàng,
một phẩm chất bền vững, ổn định thì người
học phải thường xuyên được luyện tập trong
thực tế.
Theo đó, "Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là
một quá trình, trong đó SV được luyện tập,
thực hành một cách có hệ thống những kỹ
năng sư phạm cần thiết của một nhà giáo
tương lai; đồng thời củng cố, đào sâu, mở
rộng những tri thức về chuyên môn nghiệp vụ
và bồi dưỡng tình cảm, thái độ đối với nghề
giáo dục"[2].
Năng lực nghiệp vụ sư phạm[2],[4]
Người giáo viên vừa tốt nghiệp trường Đại
học Sư phạm, khoa Sư phạm của các trường
Đại học khác, hoặc trường Cao đẳng Sư phạm
và mới bắt đầu làm nhiệm vụ ở cấp THPT
hoặc cấp THCS cần luôn liên hệ đối chiếu
bản thân với những yêu cầu về phẩm chất và
năng lực NVSP của người giáo viên, đó là :
+ Có kiến thức kỹ năng cơ bản về tâm lí học,
giáo dục học, phương pháp dạy học, biết vận
dụng vào dạy học - giáo dục (DH - GD) ở
trường THPT hoặc THCS.
+ Nắm vững mục tiêu, chương trình, kế hoạch
dạy học của cấp THPT hoặc THCS và của
môn học, biết các quy định, chủ trương chỉ thị
hiện hành của Bộ, của Sở Giáo dục và Đào
tạo về công tác DH - GD ở trường THPT
hoặc THCS.
+ Biết chẩn đoán nhu cầu, đặc điểm đối tượng
dạy học của mình để thiết kế kế hoạch DH -
GD phù hợp.
+ Biết lập kế hoạch DH - GD: nghiên cứu
mục tiêu, nội dung chương trình sách giáo
khoa, dựa vào đặc điểm đối tượng đã khảo sát
để lập kế hoạch phù hợp, khả thi, có thể kiểm
soát được, đánh giá được; bản kế hoạch có
định rõ các điều kiện (đầu vào) và sản phẩm
(đầu ra) cùng với các họat động (có định rõ
tiến độ và phân công trách nhiệm).
+ Biết tổ chức thực hiện kế hoạch DH - GD:
Bước đầu có kỹ năng vận dụng các tri thức
khoa học và khoa học giáo dục đã được đào
tạo, biết lựa chọn phối hợp và vận dụng hợp lí
phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện, biết sử
dụng đồ dùng dạy học, thí nghiệm và các
phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại, biết
phát triển năng lực học tập của học sinh, biết
tư vấn cho học sinh xây dựng các kế hoạch
học tập, cải tiến phương pháp học tập, góp
phần giáo dục hướng nghiệp, biết quản lí các
họat động DH - GD được giao, bảo đảm kế
hoạch đề ra được triển khai đầy đủ, được điều
chỉnh khi cần thiết, biết cách cuốn hút sự
tham gia của các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường, biết khích lệ động viên và
giúp đỡ các HS đóng góp vào tiến bộ chung
của lớp, của trường.
+ Biết cách giám sát, đánh giá kết quả các
hoạt động DH - GD. Nắm được các phương
pháp kĩ năng đánh giá chính xác, công bằng
kết quả học tập của học sinh. Biết phát triển
năng lực đánh giá và đánh giá lẫn nhau trong
HS, giúp các em tự điều chỉnh cách học tập
rèn luyện.
Biết tự đánh giá kết quả DH - GD của bản
thân và điều chỉnh cách DH-GD cho hợp lí.
Nắm vững các phương pháp kiểm tra truyền
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
43
thống, biết vận dụng một số phương pháp
kiểm tra hiện đại trên các thiết bị thông tin.
+ Bước đầu giải quyết những vấn đề nảy sinh
trong thực tiễn DH - GD bằng con đường
nghiên cứu khoa học và tổng kết kinh
nghiệm. Có kĩ năng phát triển, nhận dạng nắm
được cách phát triển vấn đề cần giải quyết
thành đề tài nghiên cứu, biết xây dựng giả
thiết khoa học, xây dựng đề cương nghiên
cứu, bố trí điều tra nghiên cứu cơ bản, thực
nghiệm sư phạm, xử lí kết quả điều tra và thực
nghiệm, báo cáo khoa học, ứng dụng triển khai
kết quả nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm.
+ Có năng lực hoạt động nhóm: Biết phối hợp
với đồng nghiệp, biết xây dựng tập thể các
đồng nghiệp.
CHỨC NĂNG CỦA PHÒNG RÈN LUYỆN
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM ĐỐI VỚI VIỆC
HÌNH THÀNH NĂNG LỰC NGHIỆP VỤ
SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN [2],[3]
Như trên đã trình bày, năng lực được hình
thành và phát triển trong một môi trường hoạt
động nhất định. Song ngoài chương trình đào
tạo rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, người
hướng dẫn… thì môi trường (môi trường
phòng/ lớp, trang thiết bị cơ sở vật chất, môi
trường tâm lí của sinh viên và giảng viên sư
phạm…) cũng tạo nên những điều kiện cần
thiết để sinh viên có cơ hội thực hành, trải
nghiệm, rèn luyện tay nghề dạy học và giáo
dục theo nhiều cách khác nhau.
Phòng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là một
phòng chuyên môn, mà ở đó giảng viên và
sinh viên thực hiện những nhiệm vụ nhất
định. Do đó phòng rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm có những chức năng giúp sinh viên:
+ Làm một bộ phận giúp thực hiện chương
trình RLNVSP cho SV nhằm hình thành
phẩm chất và năng lực nghề nghiệp cho SV
sư phạm. Phòng RLNVSP ở trường sư phạm
kết hợp trường mầm non, phổ thông theo mô
hình liên kết đào tạo như dạy học, dự giờ,
sinh hoạt chuyên môn trực tuyến. Các phòng
học có kết cấu chuyên biệt sao cho sinh viên
có thể quan sát được hoạt động giữa giáo viên
và học sinh, học sinh với học sinh trong quá
trình tương tác. Có thể quan sát các hoạt động
dạy và học của học sinh và giáo viên, mối
quan hệ tương tác giữa thầy – trò; trò – trò với
nhau: những biểu hiện tâm lý của học sinh
trong quá trình họat động, những thao tác của
học sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,
những hành động dạy học của giáo viên, quan
hệ giao tiếp… Trong quá trình quan sát đối
tượng giáo dục dần hình thành cho sinh viên
kĩ năng quan sát và hiểu đối tượng dạy học và
giáo dục.
+ Tổ chức thực hiện các hoạt động SP mang
tính thực tiễn cho SV, giúp hiểu sâu sắc hơn
lý thuyết được học (trong tâm lý học, giáo
dục học, phương pháp giảng dạy bộ môn…)
và hình thành kĩ năng cần thiết của GV (quan
sát, tìm hiểu đối tượng, nhận dạng các tình
huống SP và cách xử lí…).
+ Nghiên cứu các tài liệu tham khảo (sổ ghi
đầu bài, giáo án, kế hoạch của lớp, nhật kí
hàng ngày của lớp, sáng kiến kinh nghiệm, kế
hoạch tổ chức hoạt động giáo dục, sách giáo
khoa và sách giáo viên, các công trình nghiên
cứu khoa học hoặc luận văn tốt nghiệp, luận
văn cao học, các bài tập đánh giá…).
+ Có những điều kiện để nghiên cứu bài học,
nghiên cứu những tài liệu tham khảo chuyên
môn. Từ đó sinh viên có thể tập lập kế hoạch
dạy học và giáo dục dưới sự hỗ trợ giúp đỡ
của giảng viên, chuẩn bị giáo án hay kế hoạch
hoạt động giáo dục, tùy theo mục đích đặt ra.
Vào đây, sinh viên có những tài liệu tham
khảo, trao đổi với bạn bè và chuẩn bị giáo án
cho chính mình.
+ Tập soạn giáo án và chuẩn bị đồ dùng dạy
học cho tiết dạy. Ở đây, có luyện cách soạn
giáo án của các môn học, các loại tiết.
+ Chuẩn bị những điều kiện để dạy học hay tổ
chức họat động GD như: chuẩn bị và làm đồ
dùng dạy học, tập sử dụng đồ dùng dạy học,
các tài liệu ấn phẩm, tranh/ ảnh, các vật liệu,
luyện cách sử dụng dụng cụ thí nghiệm và
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
44
phối kết hợp với việc trình bày diễn giải hay
ra câu hỏi thảo luận, luyện cách viết bảng, tập
sử dụng các thiết bị nghe nhìn hiện đại.
+ Tập giảng và rèn luyện các kĩ năng cụ thể
như: kĩ năng trình bày bảng và lời nói; kĩ
năng giao tiếp SP; kĩ năng ra câu hỏi; kĩ năng
sử dụng phương tiện, đồ dùng trong dạy học,
kĩ năng kết hợp giảng dạy với sử dụng đồ
dùng thiết bị dạy học, kĩ năng đánh giá học
sinh, kĩ năng tổ chức thảo luận nhóm…
+ Thực hành giảng dạy, đóng vai trước khi đi
xuống thực tập tốt nghiệp tại trường mầm
non, phổ thông. Việc thực hành giảng dạy kết
hợp ghi hình theo phương pháp nghiên cứu
bài học để sinh viên có thể nghiên cứu, xem
lại băng hình, trao đổi sinh hoạt chuyên môn
sau giờ dạy, rút kinh nghiệm sau giờ dạy.
Việc ghi hình giúp cho sinh viên và giảng
viên có cơ hội xem lại, phân tích sâu sắc những
thành công và bài học rút kinh nghiệm – là điều
kiện để sinh viên tập luyện trước khi thực tập tốt
nghiệp tại trường mầm non, phổ thông.
Xét từ khía cạnh môn học, ngành học hay bậc
học cho thấy: mỗi khoa học và phương pháp
giảng dạy môn học có những đặc điểm riêng:
có những môn đòi hỏi việc giảng giải kết hợp
với làm thí nghiệm, thực nghiệm (môn hóa
học, vật lí học, sinh học…) nhưng có những
môn học có liên quan nhiều đến việc sử dụng
mẫu vật, tranh ảnh, thậm chí cả trang thiết bị
nghe nhìn như: xem phim, xem video, nghe
băng nhạc… (môn lịch sử, địa lí, văn học, âm
nhạc…). Vì vậy mà phòng rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm cho sinh viên của từng khoa
(khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, giáo dục
tiểu học, giáo dục mầm non) có những yêu
cầu và tiêu chuẩn khác biệt, phù hợp với công
tác đào tạo nhằm hình thành tay nghề của
giáo viên một cách phù hợp.
Việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn của chương
trình RLNVSP, cũng như họat động RLNVSP
đang thực hiện tại trường ĐHSP cho thấy bức
tranh tổng thể về RLNVSP hiện nay ở trường
ĐHSP cũng như cách thức tổ chức và hướng
dẫn SV thực hành, thực tập tại trường, trước
khi xuống trường phổ thông. Ai cũng đều
nhận thức đúng đắn về họat động RLNVSP
nhằm hình thành các kĩ năng nghề nghiệp cho
SV là cần thiết. Có thể nói RLNVSP làm tốt
bao nhiêu, thì “tay nghề” của các GV tương
lai sẽ tốt bấy nhiêu. Để làm được việc thực
hành nghề của SV cần làm đúng, đủ và sáng
tạo đối với những vấn đề đã được học trong
chương trình RLNVSP. Bên cạnh đó, SV cần
được tiếp cận với các phương pháp và kĩ thuật
dạy học hiện đại, còn chưa đưa kịp vào
chương trình đào tạo NVSP như: kĩ thuật dạy
học vi mô, dạy học theo dự án, dạy học theo
hợp đồng, dạy học theo góc; kĩ thuật các
mảnh ghép, kĩ thuật khăn trải bản… Đây là
những phương pháp và kĩ thuật dạy học mà
các dự án của Bộ GD-ĐT đã triển khai nhằm
trang bị cho đội ngũ GV của nhiều trường phổ
thông và SP. Nếu không nắm bắt kịp thời
những phương pháp và kĩ thuật dạy học mới
này thì dù SV của chúng ta mới tốt nghiệp
vẫn luôn đi sau, lạc hậu với thực tế đổi mới ở
các trường PT.
Qua quá trình chúng tôi điều tra cũng cho
thấy cần có sự đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật
chất, kĩ thuật cũng như nguồn lực con người
để phòng RLNVSP đó có thể thực hiện được
chức năng, nhiệm vụ đã được xác định. Đây
cũng chính là yêu cầu của GVSP cũng như
SV của các khoa đào tạo GV mầm non, GV
tiểu học và GV trung học. Phòng RLNVSP
cần có: một đội ngũ cán bộ có chuyên môn
sâu và có trình độ, kĩ năng nghiệp vụ SP tinh
thông, vững vàng để có thể đảm nhận việc rèn
luyện kĩ năng nghề cho SV. Bên cạnh đó, cần
có đầy đủ các trang thiết bị cần thiết: phòng
thực hành với hệ thống nghe nhìn, tài liệu,
thiết bị thí nghiệm… để tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho việc RLNVSP của từng cá nhân
và tập thể nhóm SV, phù hợp với đặc thù
nghề SP nói chung và đặc thù đào tạo GV cho
từng bậc học, cấp học hay GV bộ môn giảng
dạy nói riêng.
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
45
MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ TIÊU CHUẨN (DỰ
KIẾN) CỦA PHÒNG RÈN LUYỆN
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM ĐỐI VỚI VIỆC
HÌNH THÀNH NĂNG LỰC NGHIỆP VỤ
SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN
- Phòng RLNVSP phải là nơi giúp SV thực
hành những họat động mang tính nghiệp vụ
nhằm rèn luyện năng lực sư phạm.
- Phòng RLNVSP phải đảm bảo đủ diện tích
cần thiết và những trang thiết bị phù hợp để
SV có thể thực hiện các hoạt động RLNVSP.
- Phòng RLNVSP phải đảm bảo tính sư
phạm, tính giáo dục và tính thực hành cho SV
trường đại học sư phạm
Chính vì những chức năng riêng biệt, khác
với các phòng học bình thường, nên phòng
rèn luyện NVSP cần có cấu trúc không gian
với những tiêu chuẩn riêng về trang thiết bị và
đồ dùng chuyên biệt. Có thể nói phòng rèn
luyện NVSP cần đảm bảo theo những tiêu
chuẩn kĩ thuật nhất định nhằm thực hiện được
chức năng rèn luyện kĩ năng tay nghề cho
sinh viên sư phạm để sau khi tốt nghiệp, họ
có được những kĩ năng cơ bản của người GV,
nhanh chóng tham gia vào hoạt động nghề
giáo dục.
Về không gian
- Về phòng/ lớp có không gian đủ rộng để
sinh viên và giảng viên có thể tổ chức họat
động thoải mái và thuận tiện, phù hợp với
mục đích rèn luyện;
- Không gian đủ rộng phù hợp với số lượng
học sinh và giáo viên, tạo một không gian như
một lớp học bình thường.
- Nếu có thể có 2 – 3 phòng riêng biệt để
người ngồi quan sát (bên ngoài) hoặc thực
hiện những công việc khác mà không ảnh
hưởng đến họat động dạy học của học sinh và
giáo viên khi tiến hành tiết học.
Về trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
Bục giảng điện tử cho giáo viên
1) Giúp GV quản lý lớp học, tạo bài giảng
tương tác, đánh giá và kiểm tra trắc nghiệm
qua các phần mềm: quản lý việc học của
người học ActivInspire 1.6; Giảng dạy trực
tuyến Come To Live; Sách giáo khoa điện tử.
2) Giúp GV kết nối máy chiếu, bảng tương tác
và máy tính của sinh viên một cách dễ ràng.
3) Tổ chức học tập thể, học nhóm, học cá
nhân theo yêu cầu của GV; Giảng viên có thế
kiểm tra và đánh giá việc sinh viên đang học
hay làm việc riêng và yêu cầu từng sinh viên
làm bài tập và nộp lại cho GV thông qua
bục giảng này.
4) GV hỏi và trả lời câu hỏi cho từng SV mà
không làm ảnh hưởng các SV khác; Sinh viên
có thể đặt câu hỏi cho giáo viên trả lời cho cá
nhân mình hay cả nhóm, tập thể cũng đều
thông qua bục giảng này.
Máy tính giáo viên cài đặt các phần mềm: tạo
bài giảng tương tác, giảng dạy trực tuyến,
sách giáo khoa điện tử, hệ thống quản lý việc
học (learning management system LMS)…
Bảng tương tác
1) Hiển thị thông tin từ bục giảng của GV.
2) Là một thiết bị thông minh có thể viết, vẽ
đồ họa, soạn thảo văn bản, giáo án điện tử,
mô hình ứng dụng trong các môn học một
cách trực quan và sinh động sau đó có thể ghi
lại toàn bộ tư liệu đã được thiết kế để phục vụ
cho giờ giảng lần sau.
3) Cập nhật mạng Internet để hiển thị các
thông tin cần thiết phục vụ cho bài giảng của
GV qua sự kết nối giữa bảng tương tác và
bục giảng điện tử của giáo viên.
4) Là màn hình lớn 100 inch có thể hiển thị
video, các hình ảnh sống động giúp GV và
SV có cái nhìn trực quan hơn đều thông qua
thiết bị này.
Máy tính xách tay trang bị cho người học
1) Giúp SV thực hành luyện tập, trình bày lời
giải bài tập, lưu trữ thông tin bài giảng.
2) Máy tính xách tay dễ di chuyển để hướng
dẫn thực hành nhóm và chia nhóm
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
46
3) Hiển thị và kết nối camera trực tuyến tại
các vị trí di động trong phòng học giúp giảng
viên quan sát và hướng dẫn SV học nhóm một
cách dễ dàng.
4) Thay thế các phòng thực hành tin học
hiện nay của Trường, vì hệ thống máy tính
của các phòng này được trang bị từ lâu đã
bị hỏng gần hết.
Máy chiếu cự ly gần
1) Hiển thị các thông tin từ các phần mềm
ứng dụng.
2) Hỗ trợ tăng kênh hình trong dạy học
3) Giúp SV có thể trình bày kết quả hoạt động
nhóm nhanh chóng trước lớp.
Bộ thiết bị kiểm tra trắc nghiệm
Các bài kiểm tra, bài trắc nghiệm được xem
như phương tiện để kiểm tra kiến thức, kĩ
năng trong dạy học một cách trực tiếp và biết
ngay kết quả của từng cá nhân trong lớp học
cũng như cả lớp học.
Máy chiếu vật thể hiển thị các vật thể với kích
thước tỷ lệ theo yêu cầu.
Hệ thống camera IP: thu hình ảnh và âm
thanh từ các nơi theo yêu cầu.
1) Có chức năng kết nối các giờ giảng từ các
trường mầm non, THCS, THPT, các trường
đại học, các phòng học với nhau nhờ thiết bị
bục giảng, bảng tương tác, máy chiếu...
2) Ghi lại 01 giờ giảng mẫu để thực hành cho
các bài học lần sau.
3) Giúp cho Phòng Thanh tra khảo thí và
phòng đào tạo kiểm tra giờ giảng và việc học
của SV một cách nhanh chóng, thuận tiện.
Bàn ghế sinh viên: có thể di động (ghế cá nhân).
Có thể tạo nhóm dễ dàng giúp GV sử dụng
các kỹ thuật dạy học tích cực (Dạy học hợp
tác, học theo góc, dạy học vi mô, …)
Bảng viết phấn có ray trượt
1) Là bảng linh hoạt giúp cho GV, SV khi
không sử dụng thiết bị thông minh, thì có thể
quay về việc viết phấn theo kiểu truyền thống.
2) Là một loại bảng được thiết kế để có thể sử
dụng cả trình chiếu và cả viết phấn mà không
ảnh hưởng đến không gian của bảng.
Hệ thống thiết bị mạng và bộ phát sóng không dây
Mic không dây: Kết hợp với hệ thống loa, âm
ly để tăng âm cho phòng học.
Mic không dây đeo tai: Gắn vào tai không cần
sử dụng tay như micro.
Thiết bị kết nối mạng Lan; wifi: Kết nối mạng
Lan, wifi… có tác dụng hỗ trợ dạy học:
+ Dạy học trên mạng tạo điều kiện cho
người học vượt qua “rào cản về thời gian và
không gian”.
+ Dạy học trên mạng giúp cho việc dạy học
vượt qua “rào cản liên quan đến đối tượng
học tập”.
+ Nhờ dạy học trên mạng người học có thể
vượt qua được “rào cản về tư liệu học tập”.
Camera di động, máy in, máy scanner…
- Đồ dùng thí nghiệm, đồ dùng rèn luyện kĩ
năng (đàn, đồ dùng vẽ, thiết bị thí nghiệm lí,
hóa, sinh…)
- Máy ảnh, máy quay, ghi băng hình, camera..
+ Ghi lại hình ảnh và âm thanh trong phòng học.
+ Giám sát hoạt động của sinh viên.
+ Chia sẻ, kết nối với hình thức đào tạo trực tuyến.
+ Ghi lại những thước phim tư liệu dạy học.
KẾT LUẬN
Xây dựng phòng rèn luyện nghiệp vụ cho sinh
viên sư phạm là cần thiết vì nó đóng vai trò
quan trọng trong quá trình rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm, đào tạo sinh viên sư phạm trở
thành những giáo viên có trình độ chuyên
môn vững vàng, có tri thức lý luận và kỹ năng
sư phạm phong phú, có tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo trong giảng dạy cũng như trong
việc xử lý các tình huống giáo dục chung. Vì
vậy cần cấu trúc, thiết kế và trang bị cho các
phòng này các phương tiện, thiết bị và đồ
dùng dạy học phù hợp đảm bảo việc rèn luyện
tay nghề dạy học và giáo dục cho sinh viên
đạt hiệu quả cao, nhưng đồng thời cũng cần
chú ý đến những đặc thù riêng của bộ môn
khoa học mà giáo viên sẽ đảm nhận công việc
giảng dạy.
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
47
Mô hình phòng học RLNVSP liên kết phòng học khác
Mô hình phòng rèn luyện NVSP
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Bộ
giáo dục và Đào tạo (1995)
2. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội “Nâng cao
chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các
trường Đại học Sư phạm ” – Kỷ yếu hội thảo
(2010)
3. Kỉ yếu Hội thảo khoa học: “Mục tiêu đào tạo và
Mô hình Đại học Sư phạm Việt Nam trong giai
đoạn mới”. Viện nghiên cứu giáo dục - ĐHSP
TPHCM tháng 5/2005.
4. Kỉ yếu Hội thảo khoa học:“Đào tạo nghiệp vụ
sư phạm tại các trường Đại học Sư phạm” Viện
nghiên cứu giáo dục - ĐHSP TPHCM tháng
4/2006.
Nguyễn Mậu Đức Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 41 - 48
48
SUMMARY
DEPARTMENT OF THE PEDAGOGIC PROFESSION WITH FORMATION
OF THE PEDAGOGIC PROFESSIONAL CAPACITY FOR STUDENTS
Nguyen Mau Duc* College of Education - TNU
In recent years, Universities of Education in the whole country have been trying to take measures
to improve the training quality of future teachers (Ts) for educational facilities. Therefore, the
professional pedagogic training (PPT) must be considered as one of the most important steps that
underlie the formation of new humans with dynamics and creation and availability of direction of
sustainable professional development. Teaching capacity formed and developed is not only
lectures on psychology or education, but also trained in systematic practicing environment, depth
expertise under the training program, process and certain standard environment that is a
department of the pedagogic profession at university of Education
Keywords: business, pedagogic, student, capacity, Universities of Education
Ngày nhận bài:07/4/2014; Ngày phản biện:14/4/2014; Ngày duyệt đăng:25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Hà – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN
* Tel: 0983 834724, Email: mauducsptn@gmail.com
Đinh Đức Hợi và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 49 - 53
49
BIỂU HIỆN VỀ TRI TUỆ XUC CẢM CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHÔ THÔNG CHUYÊN THÁI NGUYÊN – TỈNH THÁI NGUYÊN
Đinh Đức Hơi*, Nguyễn Thị Yến Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Trí tuệ cảm xúc là loại trí tuệ đặc biệt, nó có liên quan đến nhận thức, tình cảm và hành động ý chí
của con người. Trí tuệ xúc cảm phát triển trong quá trình con người sống và hoạt động. Có thể hiểu
trí tuệ xúc cảm là loại hình trí tuệ thể hiện năng lực của chủ thể đối với các vấn đề có liên quan đến
xúc cảm, thể hiện ở năng lực cảm nhận và kiểm soát xúc cảm của bản thân và người khác, phân
biệt chúng và sử dụng thông tin này để hướng dẫn tư duy nhằm giải quyết tốt các nhiệm vụ trong
cuộc sống”. Nhà trường là nơi bồi dưỡng và phát triển trí tuệ xúc cảm cho người học.
Từ khóa: Trí tuệ, xúc cảm, học sinh, năng lực
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Cuối của thế kỷ XX, hàng loạt công trình
khoa học nghiên cứu về cảm xúc đã ra đời.
Nhờ có nhiều phương pháp đổi mới, như công
nghệ về hình ảnh chúng ta có thể thấy rõ bộ
não hoạt động như thế nào, điều gì thật sự
diễn ra khi chúng ta suy nghĩ, cảm nhận,
tưởng tượng và ước mơ. Đôi khi chúng ta hay
đồng nhất trí tuệ với chỉ số IQ (chỉ số thông
minh). Vậy cái gì giúp chúng ta thành công
hơn, hạnh phúc hơn trong cuộc sống? Đâu là
những nhân tố tác động? Liệu nó có nằm ở
năng lực Trí tuệ cảm xúc (emotional
intelligence) là l loại hình trí tuệ thể hiện năng
lực của chủ thể với những vấn đề có liên quan
đến cảm xúc. Với những năng lực đó giúp con
người nhận biết, sử dụng và kiểm soát được
cảm xúc ở bản thân và ở người khác từ đó
giúp chủ thể giải quyết tốt các tình huống
đang diễn ra trong cuộc sống. Trường Trung
học phổ thông Chuyên là loại hình trường
chuyên biệt, đối tượng học sinh THPT chuyên
là đối tượng học sinh độ tuổi từ 15 – 18 tuổi,
có chỉ số thông minh (IQ), chỉ số sáng tạo
(CQ) ở mức khá cao thể hiện ở việc có năng
lực nổi trội trong một môn học như Toán,
Văn, Sinh, Anh,… Động cơ học tập, thái độ,
hứng thú học tập và niềm say mê thể hiện rõ
đối với một môn học nhất định. Nhờ đó học
sinh THPT Chuyên thường đạt được những
thành công đối với môn học họ đam mê. Chỉ
* Tel: 0915 943456
số IQ, CQ cao và có những thành công trong
hoạt động học tập gợi dẫn cho các nhà nghiên
cứu tâm lý học câu hỏi: liệu học sinh THPT
có thể nhận thức tốt những cảm xúc của mình
và đâu là môi trường phát triển trí tuệ xúc
cảm cho học sinh.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành đo trắc nghiệm và khảo
sát tại Trường THPH Chuyên tỉnh Thái
Nguyên: là học sinh trường THPT chuyên
tỉnh Thái Nguyên các khối lớp Chuyên 10,
11, 12; phân ra thành 2 khối chuyên tự nhiên
và chuyên xã hội.
Chúng tôi sử dụng thang đo của MSCEIT để
đo lường mức độ trí tuệ cảm xúc chung của
học sinh THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên,
thang đo đã được dịch ra Tiếng Việt bản dịch
của tác giả Nguyễn Công Khanh, cùng nhóm
chuyên gia thẩm định, Việt hóa: Trần Trọng
Thủy, PGS. TS. Lê Đức Phúc, Nguyễn Huy
Tú, Nguyễn Công Khanh. Trí tuệ cảm xúc của
học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái
Nguyên được thể hiện và đánh giá thông qua
4 năng lực sau: Năng lực nhận biết xúc cảm;
Năng lực hiểu xúc cảm; Năng lực xúc cảm
hóa ý nghĩ; Năng lực điều khiển và quản lý
xúc cảm.
Kết quả mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc
của học sinh trường THPT chuyên tỉnh
Thái Nguyên
Năng lực trí tuệ cảm xúc của một người theo
thang đánh giá MSCEIT của J. Mayer và P.
Đinh Đức Hợi và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 49 - 53
50
Salovey được cấu trúc bởi 4 năng lực thành
phần: Năng lực nhận thức xúc cảm, năng lực
hiểu xúc cảm, năng lực xúc cảm hóa suy nghĩ
và năng lực điều khiển và quản lý xúc cảm.
Vì vậy, chỉ số trí tuệ cảm xúc của một người
tính bằng điểm được tính bằng tổng điểm của
cả 4 năng lực hợp thành đó.
Bảng 1 cho thấy: kết quả điểm thô trung bình
mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh
trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên là 77
với độ lệch chuẩn 20. So với điểm lý tưởng
của thang đo MSCEIT là 141, điểm thô trung
bình trắc nghiệm của học sinh trường THPT
chuyên tỉnh Thái Nguyên đạt khoảng 55%.
Điều này cho thấy mức điểm của học sinh
chỉ giữ ở mức điểm trung bình so với điểm
lý tưởng.
Xét điểm trung bình EQ trên với thang đánh
giá Wechsler cho ta đánh giá tổng quan về
mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh chuyên ở
nhóm trung bình (90 < EQ = 100 < 109). Tuy
vậy, độ lệch chuẩn lại rất cao (SD = 15) nói
lên rằng chỉ số EQ của từng học sinh chuyên
là không đồng đều, có học sinh đạt điểm rất
cao nhưng có những học sinh đạt điểm rất
thấp. Cụ thể như học sinh Phương Việt Bùi
lớp 11 Anh có chỉ số EQ = 122 điểm thuộc
nhóm có EQ cao (120 <EQ =122 <129)
nhưng học sinh nữ lớp 12 Anh chỉ số EQ = 64
điểm thuộc nhóm có EQ thấp (EQ =64 <89).
Kết quả khảo sát trí tuệ cảm xúc ở mức trung
bình cho thấy: học sinh chuyên đạt điểm trung
bình các năng lực nhận thức xúc cảm, năng
lực hiểu xúc cảm, năng lực xúc cảm hóa suy
nghĩ, năng lực điều khiển và quản lý xúc cảm
ở mức trung bình. Học sinh đã bắt đầu nhận
thức được các xúc cảm đang diễn ra trong
mình và trong người khác nhưng chưa thực sự
rõ ràng; học sinh còn gặp khó khăn khi hiểu,
lý giải những xúc cảm diễn ra trong mình, và
của mọi người trước mọi tình huống gặp phải
và từ đó khi suy nghĩ, điều khiển, chế ngự và
quản lý xúc cảm của mình và người khác trở
nên bối rối, đôi khi lúng túng không làm chủ
được xúc cảm.
Kết quả khảo sát về mức độ biểu hiện của
trí tuệ cảm xúc (trên 4 thành phân của
năng lực)
Dựa trên cách đánh giá năng lực trí tuệ cảm
xúc theo thang đo MSCEIT và cơ sở lý luận
của trí tuệ cảm xúc ta thấy có thể mức độ biểu
hiện năng lực trí tuệ cảm xúc của một người ở
mức trung bình nhưng mức độ biểu hiện năng
lực trí tuệ cảm xúc của từng thành phần năng
lực riêng cấu thành năng lực trí tuệ cảm xúc
của người đó không hoàn toàn đều ở mức
trung bình. Hoàn toàn có thể, năng lực nhận
thức xúc cảm của người này đạt chỉ số điểm
rất cao, hoặc cao còn năng lực hiểu xúc cảm,
năng lực điều khiển và quản lý xúc cảm lại
chỉ đạt chỉ số điểm ở mức khá hoặc thấp và
ngược lại.
- Bảng so sánh mức độ biểu hiện của từng
năng lực cấu thành năng lực trí tuệ cảm của
học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái
Nguyên được trình bày cụ thể ở bảng 2.
Bảng 1: Kết quả điểm trung bình của mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc
ở học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên
Tổng số (n) X SD
Điểm thô 48 77.4792 20.04462
EQ 48 100.32 15.00
Bảng 2. So sánh mức độ biểu hiện của từng năng lực cấu thành năng lực trí tuệ cảm xúc
của học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên
STT Thang đo ĐTB
thang đo
SD Số item
1 Nhận thức xúc cảm (AE) 26.54 11.61 50
2 Xúc cảm hóa ý nghĩ (BF) 17.27 5.06 30
3 Hiểu xúc cảm (CG) 20.73 3.91 32
4 Điều khiển và quản lý xúc cảm (DH) 12.94 4.35 29
5 MSCEIT 77.47 20.04 141
Đinh Đức Hợi và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 49 - 53
51
Kết quả bảng 2 cho thấy: Trong kết quả điểm trung bình item của các thang đo thì điểm
trung bình của thang đo DH (ĐTB = 12.94) là thấp nhất với độ lệch chuẩn SD = 4.35. Thang
đo DH là thang đo phản ánh mức độ biểu hiện năng lực điểu khiển và quản lý xúc cảm. Điều
này cho ta kết luận học sinh THPT có khả năng thấp trong việc điều khiển, chế ngự và
quản lý xúc cảm của mình và của mọi người. Đây là một năng lực quan trọng trong hình
thành và phát triển năng lực trí tuệ cảm xúc ở mỗi người, chỉ số điểm của năng lực này thấp
sẽ khiến cho năng lực trí tuệ cảm xúc tổng thể không cao. Bên cạnh đó, độ lệch chuẩn của
thang đo DH thấp còn nói lên đa số học sinh đều có chỉ số điểm ở năng lực điều khiển và
quản lý xúc cảm chưa cao.
Trong kết quả điểm trung bình item của các
thang đo điểm trung bình của thang đo AE – năng lực nhận thức xúc cảm là cao nhất (ĐTB
= 26.54) cho thấy học sinh chuyên có khả năng nhận biết, gọi tên, chỉ ra, phân loại được
những xúc cảm đang diễn ra trong bản thân và trong mọi người ở mỗi tình huống. Điều
này góp phần nâng cao chỉ số điểm EQ của họ. Nhưng thang đo AE lại có độ lệch chuẩn
cũng cao nhất (SD = 11.61), điều này nói lên có sự không đồng đều trong năng lực nhận
thức xúc cảm của mỗi học sinh. Có học sinh nhận thức rất cao, cao và cũng có học sinh
nhận thức trung bình, thấp.
Nếu tất cả các năng lực cấu thành năng lực trí
tuệ cảm xúc của học sinh đều đạt chỉ số điểm cao thì mới có thể đạt được chỉ số điểm EQ
cao. Vì vậy, nhà giáo dục cần chú ý bồi dưỡng từng năng lực trí tuệ cảm xúc cho học
sinh, phát huy năng lực có chỉ số cao và không ngừng gia tăng điểm số cho những
năng lực còn hạn chế.
- Sự khác biệt về mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trường THPT chuyên tỉnh
Thái Nguyên theo khối lớp.
Ở mỗi lớp, mỗi độ tuổi con người sẽ có mức
độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc khác nhau. So sánh mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc các
khối lớp với nhau giúp ta nhận thấy sự khác nhau này.
Kết quả so sánh sự khác biệt về mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc qua thang đo MSCEIT
của học sinh theo khối lớp 10, 11, 12 được thể hiện ở bảng 3.
Kết quả bảng 3 cho thấy: học sinh lớp 10 có
phần trăm học sinh đạt mức điểm ở nhóm
điểm trung bình cao nhất (82.4%). Lớp 12 là
lớp có phần trăm số học sinh đạt mức điểm ở
nhóm điểm thấp nhiều nhất (58.8%). Có thể
nhận thấy ở 3 khối lớp, lớp 11 có mức điểm
khá cao trong đó có 28.6% học sinh đạt mức
điểm ở nhóm điểm cao, 42.6% học sinh ở
nhóm điểm khá và 28.6% học sinh đạt mức
điểm ở nhóm điểm trung bình. Những lý giải
về việc phân loại đánh giá số điểm học sinh
đạt được thông qua thang đánh giá của
Wechsler là sự giải thích cho sự khác nhau
giữa số điểm EQ trung bình mà mỗi khối lớp
đạt được. Cụ thể, lớp 11 có số điểm EQ trung
bình cao nhất (EQ =112), độ lệch chuẩn 9.44
cho thấy đa số học sinh lớp 11 đều đạt được
mức điểm 112 này, không có sự chênh lệch
lớn giữa số điểm của mỗi học sinh. Lớp 12 có
số điểm EQ trung bình thấp nhất trong 3 lớp
(EQ = 88), tuy vậy độ lệch chuẩn lại rất lớn
(SD = 15.84) cho thấy sự chênh lệch lớn về số
điểm EQ mà mỗi học sinh trong khối 12 đạt
được, có học sinh đạt điểm khá nhưng lại
những học sinh chỉ đạt điểm EQ thuộc nhóm
điểm thấp.
Bảng 3: Sự khác biệt về mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc qua thang đo MSCEIT theo khối lớp
STT
Lớp
Mức độ
Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12
Tân số % Tân số % Tân số %
1 Nhóm rất cao 0 0 0 0 0 0
2 Nhóm cao 0 0 4 28.6 0 0
3 Nhóm khá 3 17.6 6 42.8 2 11.8
4 Nhóm trung bình 14 82.4 4 28.6 5 29.4
5 Nhóm thấp 0 0 0 0 10 58.8
6 Tổng số học sinh 17 14 17
EQ 103 SD = 6.76 112 SD = 9.44 88 SD = 15.84
Đinh Đức Hợi và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 49 - 53
52
Từ những chỉ số định lượng trên, ta thấy chỉ
số EQ của học sinh lớp 11 là cao nhất có thể
do trong 3 khối lớp đây là khối lớp đã quen
với môi trường học ở trường chuyên THPT,
học sinh ở khối này không còn gặp khó khăn
trong việc thay đổi môi trường từ cấp II lên
cấp III như học sinh lớp 10. Họ đã làm chủ
được công việc học ở trường và tự gây dựng
được cho mình những nề nếp học tập phù hợp
để đạt được kết quả học tập cao nhất. Thời
gian dành cho việc học được cân đối với thời
gian vui chơi, tham gia các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao bổ ích khác.
Từ những nguyên nhân đó khiến cho chỉ số trí
tuệ cảm xúc của học sinh khối lớp này cao
hơn các khối lớp khác.
Học sinh khối 12, là khối lớp có nội dung
chương trình học tập nặng nhất trong 3 khối
lớp. Đặc biệt, lớp 12 là một lớp học quan
trọng đối với tương lai của mỗi học sinh, họ
phải tập trung cao độ vào công việc học tập,
tích lũy tri thức thật chắc và rộng để có thể
tham gia kỳ thi Đại học của quốc gia, đỗ vào
trường Đại học mà họ mơ ước hoặc có cơ hội
theo đuổi con đường đam mê tri thức của họ
với một môn học cụ thể qua kỳ thi Olimpic
trong và ngoài nước. Từ đó, chính trong họ có
rất nhiều áp lực khách quan và chủ quan ảnh
hưởng, tác động đến hoạt động của mỗi học
sinh. Ở khối lớp này, có nhiều học sinh rơi
vào trạng thái tự kỷ, trầm cảm và thường
xuyên cảm thấy hoang mang và lo sợ trước
khi đối mặt với những kỳ thi quan trọng trong
đời họ. Từ những nguyên nhân do hoạt động
chủ đạo – hoạt động học tập đem lại có thể
khiến cho khi làm bài tập trắc nghiệm này học
sinh lớp 12 không thực sự tập trung làm, họ
có thái độ chưa tích cực, chưa thực sự chú
tâm suy nghĩ trong thời gian làm từng item
nên số điểm EQ học sinh đạt được là thấp
nhất. Bên cạnh đó, có thể trong chính mỗi học
sinh xúc cảm đang rất hỗn độn, trong thời
điểm này họ thực sự không có thời gian để
tâm, lắng nghe xúc cảm trong mình và trong
người khác nên học sinh lớp 12 gặp những
khó khăn, trở ngại trong việc xúc cảm hóa ý
nghĩ hay điều khiển và quản lý xúc cảm của
bản thân và của người khác.
Từ thực trạng trên mong rằng nhà trường và
các nhà giáo dục sẽ quan tâm đến đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh từng khối lớp, đặc
biệt của học sinh khối lớp 12 tìm ra những
biện pháp, nội dung dạy học và giáo dục phù
hợp giúp học sinh có thể cân bằng việc học
của mình với các hoạt động khác. Giúp học
sinh không cảm thấy quá áp lực với việc học,
giảm số học sinh bị tự kỷ, trầm cảm, stress
trong học tập, góp phần nâng cao chỉ số trí tuệ
cảm xúc của mỗi học sinh khối lớp này. Hình
thành một nhân cách toàn diện ở người học.
KẾT LUẬN
Để có một năng lực trí tuệ cảm xúc được đánh
giá ở nhóm mức cao thì phải đảm bảo đạt các
năng lực thành phần cũng phải đạt ở nhóm
mức cao. Và cũng rất có thể năng lực trí tuệ
cảm xúc cao thì năng lực nhận thức xúc cảm
ở nhóm mức cao nhưng năng lực điều khiển
và quản lý xúc cảm lại mới chỉ đạt nhóm mức
trung bình. Vì vậy, nhà giáo dục cần chú ý
đánh giá chính xác năng lực trí tuệ cảm xúc
của từng học sinh, của nhóm học sinh để có
thể tìm ra những mục tiêu nâng cao, phát triển
năng lực trí tuệ cảm xúc và từ đó xây dựng
nội dung chương trình, tìm phương pháp,
phương thức và hình thức tổ chức nâng cao
phù hợp với đặc điểm trí tuệ cảm xúc của học
sinh. Bên cạnh đó, để hiệu quả công việc đạt
được cao nhất nhà giáo dục cũng cần chú ý
đánh giá năng lực trí tuệ cảm xúc của mỗi học
sinh, nhóm học sinh trên từng năng lực riêng
cấu thành năng lực trí tuệ xúc cảm của một
người. Từ đó, phát triển những năng lực riêng
được đánh giá cao và chú trọng nâng cao
những năng lực riêng chưa có mức đánh giá
cao, trung bình hoặc còn thấp. Việc nâng cao,
phát triển năng lực trí tuệ cảm xúc cho học
sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên
có ý nghĩ lớn trong việc xây dựng một nhân
cách toàn diện ở người học mà nhà trường
cần quan tâm.
Đinh Đức Hợi và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 49 - 53
53
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Daniel Goleman (2012), Trí tuệ xúc cảm ứng
dụng trong công việc (Phương Thúy, Minh
Phương, Phương Linh dịch, Alpha books hiệu
đính), Nhà xuất bản lao động – xã hội.
2. Phan Trọng Nam, (2012), Trí tuệ cảm xúc của
sinh viên Đại học Sư phạm, Luận án tiến sĩ Tâm lý
học, Bộ giáo dục và đào tạo, Viện khoa học giáo
dục Việt Nam.
3. Nguyễn Huy Tú (2003), Trí tuệ cảm xúc –
bản chất và phương pháp chuẩn đoán, Tạp chí
Tâm lý học.
4. Dương Thị Hoàng Yến (2010), Trí tuệ cảm xúc
của giáo viên Tiểu học, Luận án tiến sĩ Tâm lý học,
Viện Tâm lý học – Viện khoa học xã hội Việt Nam.
5. Nguyễn Thị Yến (2013), Trí tuệ xúc cảm của
học sinh Trường THPT Chuyên tỉnh Thái Nguyên,
Thái Nguyên.
SUMMARY
EMOTIONAL INTELLECTURAL DEVELOPMENT
TO STUDENT PRIVATE SCHOOL
Dinh Duc Hoi*, Nguyen Thi Yen
College of Education - TNU
Emotional intelligence is a special type of Intelligence, it is related to cognition, feelings and
actions will of the people. Intellectual emotional development in humans process and river
activities. Intelligence can understand emotional intelligence is the type of show the subject's
capacity for problems related to emotions, reflected in the capacity to feel and control the emotions
of themselves and others, distinguish them and use this information to guide thinking for solving
tasks in life. "Where the school is to foster and intellectual development for learners emotional.
Keywords: intellectual, emotional, students, faculty
Ngày nhận bài:13/3/2014; Ngày phản biện:27/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Phùng Thị Hằng – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN
* Tel: 0915 943456
Đinh Đức Hợi và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 49 - 53
54
Phan Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 55 - 60
55
DIFFICULTIES IN TEACHING AND DEVELOPING READING ABILITIES
OF SECOND YEAR NON-ENGLISH MAJOR STUDENTS
OF THAI NGUYEN UNIVERSITY OF SCIENCES
Phan Thi Hoa*, Hoang Thi Nhung College of Sciences – TNU
SUMMARY
Reading is a great way leading people to the world of knowledge. Teaching and developing
reading abilities, however, are facing many abtacles. This descriptive correlational study attempts
to analyse some difficulties and establish relationship between teachers’ factors and the profile of
students to their reading abilities. The study sought to answer the question of whether there are
significant relationship between the teachers’ professional qualities, English background
knowledge and students’ reading abilities in terms of comprehension, extensive, intensive reading.
The respondents of the study were 100 non-English major students of the College of Sciences,
Thai Nguyen University in the second semester of the academic year 2012-2013. The findings
revealed significant correlation exists between reading competence and the ability of the teacher to
set and explain course objectives and expectations, focus on meaning of words in the different
contexts as well as the capacity of the teacher to adjust teaching strategies according to students’
level of understanding.
Key words: difficulties, reading abilities, significantly related, non-English major students, Thai
Nguyen University of Sciences.
INTRODUCTION*
English is a dominant international language
in communication, science, business, aviation,
entertainment, radio and diplomacy. It is the
language of the global marketplace, global
village [2]. In Vietnam, following a rather
unstable past, Vietnam has stablilized and
seen an influx of foreign diplomacy policy
over the past several years. Due to this boost
in international involvement, the demand for
English has taken off. And the study of
English has always partaken of a plurality
consciousness since the time it began in the
first decades of the century. English is now
included in the curricula program of every
school, especially at universities and colleges,
with the focus on the development of the four
skills reading, writing, listening and speaking.
Reading is necessary when students further
the study, especially at the university level.
They need good reading skills for acquiring
knowledge and learning new information [4] .
Of the four language skills that learners need
* Tel: 0986 249 269, Email: phanhoa83@gmail.com
to acquire, reading is the most necessary skill
for non-English majors at the universities and
colleges [8] . The final goal of learning
foreign languages for many non-English
majors is to use English as a means to read
the materials to help them with the
professions they have chosen in the future.
However, it can be seen from a small
survey that most students’ reading abilities at
Thai Nguyen College of Sciences arenot good
enough. Even some students have rather low
reading comprehension skills. Many students
after leaving universities and colleges are not
able to read texts in English for their career
fields or for study purposes .
At Thai Nguyen College of Sciences,
undergraduate students are required to take an
English course in three terms in the first two
years. In this time students are provided with
the general English program consisting of
four skills: speaking, listening, reading, and
writing. In the second term of the first year,
the students learned English in 45 periods of
the New English file (elementary). After
fifteen weeks, the students had a final test
Phan Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 55 - 60
56
which consisted of four parts: Vocabulary,
Grammar, Reading comprehension and
speaking. The result of the test in the reading
comprehension section of the English test
wasnot satisfactory although they had good
marks in the other parts of the test. One of the
main reasons lies in the fact that the teachers
often simply give students a text and require
them to answer a series of comprehension
questions when they have finished reading the
test. The teachers do almost nothing to
provide them with the skills or strategies
needed to become efficient and independent
readers. This does not lead to effectiveness of
reading comprehension lessons.
Being an English teacher, the researcher has
always been aware of the importance of
developing reading abilities for students.
Within the scope of this study, the researcher
aims to conduct a study on typical problems
that are encountered by teachers and the
second year students of Thai Nguyen
University of Sciences in the process of
teaching and developing English reading
abilities of the students.
SUBJECT AND METHODOLOGY:
The research uses the descriptive corelational
method to establish relationship between the
competence of the students in terms of
reading comprehension, extensive reading,
intensive reading to their profile and teachers’
factors in terms of professional qualities,
English background knowledge. The
respondents of this study were 100 freshmen
English major students at the College of
Sciences during the second semester of the
academic year 2012-2013. The data gathered
were described statistically using percentage,
frequency, mean, standard deviation, Pearson
r, Chi-square test of correlation at a threshold
P-value of 0.05.
FINDINGS
The following are the findings of the study:
1. The profile of the respondents showed that
76.2 percent of non-English student -
respondents are female and 23.8 percent are
male; 40 out of 100 respondents who chose
newspaper as their reading interest; for novel,
science fiction, news story are 26,3%, 17.5%,
15%, 11.3%, 8.8% respectively, in which 32.5
percent like reading books and 33.8 percent
love reading love story; the number of
students having difficulty in vocabulary with
the highest frequency of 58; there are 29 have
problem in determining message of the
selection; or 23 for words and sentence
relationship; 20 have other reading diffictulties
like pronunciation and literal translation. The
lowest number of students 15 face the problem
of clarifying the purposes of reading.
2. The teachers' profile in terms of
professional qualities as to knowledge of the
subject matter, teaching methods and
techniques and English background
knowledge is "much" with a mean of 3.69,
3.47 and 3.51.
3. The level of the students' reading abilities as
to comprehension, extensive and intensive are
all "poor" with a mean of 6.0, 5.5 and 5.7.3.
4. Relationships
Table 1 indicates that significant correlation
exists between reading comprehension and
the ability of the teacher to set and explain
course objectives and expectations, focus on
meaning of words in the different contexts
with the obtained P-value of 0.040 and 0.016,
being less than the threshold level of
significance of 0.05. Thus, the foregoing null
hypothesis was rejected.
The study failed to show any significant
correlation between comprehensive reading
and the ability of the teacher to present the
subject matter accurately and systematically,
relate subject matter with other areas of
knowledge and community affairs, exhibit
thorough and broad knowledge of the subject
matter, read and understands the texts fluently
and explain the meaning of a text or a
sentence in the lessons understandably.
Phan Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 55 - 60
57
Table 2 shows that there is significant
correlation between reading comprehension
and the ability of the teacher to adjust
teaching strategies according to students’
level of understanding; the obtained P-value
of 0.030, being less than the threshold P-value
of 0.05. Thus, the foregoing null hypothesis
was rejected.
The study failed to show any significant
correlation between comprehensive reading
and others.
Table 3 implies that significant correlation
exists between extensive reading and the
ability of the teacher to adjust teaching
strategies according to students’ level of
understanding; the obtained P-value of
0.002, being less than the threshold P-value
of 0.05. Thus, the foregoing null hypothesis
was rejected.
The study failed to show any significant
correlation between extensive reading and the
ability of the teacher to organize subject
matter according to the given learning
competencies and follow it systematically,
use appropriate strategies and approaches
depending on the lessons to be presented or
discussed and skills to be developed, give
comprehensive explanation and teaches in
an interesting way, accept students
comment for further analysis even the point
of views is different.
Table 4 says that significant relationship
exists between intensive reading and the
ability of the teacher to adjust teaching
strategies according to students’ level of
understanding; the obtained P-value of
0.004, being less than the threshold P-value
of 0.05. Thus, the foregoing null hypothesis
was rejected.
The study failed to show any significant
correlation between intensive reading and the
ability of the teacher to organize subject
matter according to the given learning
competencies and follow it systematically,
use appropriate strategies and approaches
depending on the lessons to be presented or
discussed and skills to be developed, give
comprehensive explanation and teaches in
an interesting way, accept students
comment for further analysis even the point
of views is different.
Table 1. Significance of Relationship between Reading Comprehension of the Students and
Professional Qualities of the Teachers with Respect to Knowledge of the Subject Matter
Variables tested for relationship r-value P-value Remarks
Reading Comprehension and Knowledge of the Subject
Matter
1. Presents the subject matter accurately and systematically.
0.448
0.449
NS
2. Relates subject matter with other areas of knowledge and
community affairs.
0.799
0.105
NS
3. Exhibits thorough and broad knowledge of the subject
matter (content, grammar, vocabulary).
0.832
0.081
NS
4. Sets and explains course objectives and expectations.
0.895
0.040
S
5. Reads and understands the texts fluently 0.672 0.214 NS
6. Explains the meaning of a text or a sentence in the lessons
understandably
0.761 0.135 NS
7. Focuses on meaning of words in the different contexts. 0.944 0.016 S
Legend: P-value > 0.05 - Not significant
P-value < 0.05 - Significant
Phan Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 55 - 60
58
Table 2. Relationship between Reading Comprehension Abilities of the Students and Professional
Qualities of the Teachers with Respect to Teaching Methods and Techniques
Variables tested for relationship r-value P-value Remarks
Reading Comprehension and Teaching Methods and Techniques
1. Organizes subject matter according to the given learning
competencies and follow it systematically.
-0.102
0.870
NS
2. Adjusts teaching strategies according to students’ level of
understanding
0.913
0.030
S
3. Uses appropriate strategies and approaches depending on the lessons
to be presented or discussed and skills to be developed
0.847
0.070
NS
4. Gives comprehensive explanation and teaches in an interesting way. 0.180 0.772 NS
5. Accepts students comment for further analysis even the point of
views is different.
-0.221
0.721
NS
Legend: P-value > 0.05 - Not significant
P-value < 0.05 - Significant
Table 3. Relationship between Extensive Reading Abilities of the Students and Professional Qualities
of Teacher with Respect to Teaching Methods and Techniques
Variables tested for relationship r-value P-value Remarks
Extensive Reading and Teaching Methods and Techniques
1. Organizes subject matter according to the given learning
competencies and follow it systematically.
-0.269
0.662
NS
2. Adjusts teaching strategies according to students’ level of
understanding
0.984
0.002
S
3. Uses appropriate strategies and approaches depending on the
lessons to be presented or discussed and skills to be developed
0.728
0.163
NS
4. Gives comprehensive explanation and teaches in an interesting way. -0.206 0.739 NS
5. Accepts students comment for further analysis even when the
point of views is different.
-0.274
0.656
NS
Legend: P-value > 0.05 - Not significant
P-value < 0.05 - Significant
Table 4. Relationship between Intensive Reading Abilities of the Students and Professional Qualities
of Teacher with Respect to Teaching Methods and Techniques
Variables tested for relationship r-value P-value Remarks
Intensive reading and Teaching Methods and Techniques
1. Organizes subject matter according to the given learning
competencies and follow it systematically.
-0.223
0.718
NS
2. Adjusts teaching strategies according to students’ level of
understanding
0.979
0.004
S
3. Uses appropriate strategies and approaches depending on the
lessons to be presented or discussed and skills to be developed
0.775
0.123
NS
4. Gives comprehensive explanation and teaches in an interesting way. -0.094 0.881 NS
5. Accepts students comment for further analysis even when the
point of views is different.
-0.263 0.670 NS
Legend: P-value < 0.05 - Significant;
P-value > 0.05 - Not significant
Phan Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 55 - 60
59
CONCLUSIONS
Based on the foregoing findings, the
following conclusions were drawn:
The findings show that significant correlation
exists between reading comprehension
abilities and the ability of the teacher to set and
explain course objectives and expectations,
focus on meaning of words in the different
contexts; but none with the others.
The findings gave the conclusion that there
were significant correlations between reading
comprehension abilities, extensive and
intensive and the ability of the teacher to
adjust teaching strategies according to
students’ level of understanding; but none
with the others.
There is no significant relationship between
reading comprehension, extensive and intensive
reading abilities of the students and English
background knowledge of the teacher.
There is no significant relationship exists in
extensive and intensive reading abilities of the
students and professional qualities of teacher
with respect to knowledge of the subject matter.
RECOMMENDATION
In the light of findings gathered in this
study, the researcher hereby recommends
the following:
Various measures and strategies may be
utilized to improve the reading abilities of the
students. And varied drills and activities may
be introduced to expose the students on the
different situations that will enhance their
reading abilities.
Teachers may continuously pay attention to
the layout, content, etc. in the book and the
feedback from the students. Adaptations and
adjustment may be considered and made to
have more appealing teaching materials.
Also, teachers may be very flexible in
working with materials and try to add more
“flavor” to the extra materials. That means the
reference materials should not be confined to
the international and authentic materials.
Sometimes, teachers can choose materials on
domestic but hot issue so that students can
have a sense of achievement with reading.
It is recommended that teachers may pay
attention on the needs of the students having
reading difficulties to find the exact ways
helping them improve their reading abilities.
And it is further recommended that teachers
may have regular reading inventory to know if
the students show some improvement or not.
REFERENCES 1. Christine Nuttalli (2000) Teaching Reading
Skills in a Foreign Language. Oxford:Macmillan
Heinemann ELT.
2. Cohen, A.D.(1998) Strategies in Learning and
Using a Second Language. London: Longman.
3. Grallet (1999) A practical guide to reading
comprehension exercises. Cambridge University
Press.
4. Karlin, A & Kartin, A.R. (1998) Teaching
Elementary Reading: Principles and strategies.
Harcourt Brace Jovanovich Publishers.
5. Mendoza, Rosa Cheng.(2002) Reading Skills on
Series. Fourth Edition Mission Commercial
Corporation, Quezon City.
6. Silberstein, S. (1998) Techniques and
Resources in Teaching Reading. Oxford
University Press.
7. Stanovich. (1999) “What principals need to
know about reading”. December.
8. Strang,R. (1999) "Reading today and
tomorrow". Open Milton Keynes.
9. Sheila B. Porto (2006). Determinants of
Reading Difficulties among First year High
School Students of Santa Maria, Languna.
10. Ziauddin Khan. “Teaching Reading Skills:
Problems and Suggestions”. August 2007.
Phan Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 55 - 60
60
TÓM TẮT
NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG GIẢNG DẠY
VÀ PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG ĐỌC CHO SINH VIÊN NĂM THỨ HAI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC, ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Phan Thị Hòa*, Hoàng Thị Nhung
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
Đọc là nhu cầu tất yếu để có tri thức. Tuy nhiên, việc giảng dạy và phát triển khả năng đọc hiểu
cho sinh viên còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích một số
khó khăn và tìm ra mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về người dạy và người học với khả năng
đọc tài liệu tiếng Anh của sinh viên và từ đó đề xuất các giải pháp để dạy và học kỹ năng đọc đạt
hiệu quả cao. Đối tượng của nghiên cứu là 100 sinh viên trường Đại học Khoa học, Đại học Thái
Nguyên của học kỳ II năm học 2012-2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng đọc của sinh
viên có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực của giáo viên trong việc đặt ra cũng như giải thích mục
tiêu của khóa học, làm rõ nghĩa của từ trong những ngữ cảnh khác nhau cũng như khả năng điều
chỉnh phương pháp giảng dạy của giáo viên sao cho phù hợp với trình độ của sinh viên.
Từ khóa: khó khăn, khả năng đọc, mối quan hệ chặt chẽ, sinh viên không chuyên ngành tiếng
Anh, Trường Đại học Khoa học- Đại học Thái Nguyên
Ngày nhận bài:17/3/2014; Ngày phản biện:31/3/2014; Ngày duyệt đăng:25/6/2014
Phản biện khoa học: ThS. Nguyễn Thị Hồng Minh – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN
* Tel: 0986 249 269, Email: phanhoa83@gmail.com
Nguyễn Thị Quế và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 61 - 64
61
PROPOSED SEVEN-STEP ACTION PLANS IN IMPLEMENTING PROBLEM-
BASED LEARNING PROJECTS FOR ENGLISH TEACHERS IN NFLP 2020
TRAINING PROGRAMS AT THAI NGUYEN UNIVERSITY
Nguyen Thi Que*, Phung Thi Hai Van College of Sciences - TNU
SUMMARY
What kinds of research does Vietnam need to build in order to foster its English teachers’
proficiency competence and teaching capacity? This article introduces a new approach in teacher
action research, a key component of the NFL2020 Project vision. At Thai Nguyen University, this
approach is named Problem-based learning (PBL) projects which have been experimented with
initial success for the past two years. In this paper, we will briefly look at what PBL is, how a PBL
project is carried out and why it is important in English language learning and teaching. After that,
we will walk through the major steps to successfully implement a PBL project with proposed
seven-step action plans. Our purpose is to create capable and motivated life-long learners, so the
paper is for teachers at any level who want to learn how PBLP projects can improve their language
proficiency. It is also hoped to encourage teachers of English to implement the use of self-study
and cooperative learning strategies in PBLPs to solve problems in their classroom language
teaching.
Key words: Teacher action research, problem-based learning projects, seven-step action plans,
improving language proficiency, National Foreign Language Project 2020, Thai Nguyen
University
INTRODUCTION*
For years in Vietnam, the quality of English
teaching and learning at all levels of
education has become a question for debate
and teachers’ weaknesses in English
proficiency and teaching methodologies were
blamed for students’ failure to communicate
or use English in their study and work after 9
years at school and college [2].
The above challenge served as a driving force
to put forward Decision 1400 issued by
Vietnam Government in 2008, with the goal
of thoroughly renovating the tasks of teaching
and learning foreign languages within the
national educational system [5]. Two years
later, in 2010, The National Foreign
Language 2020 Project (NFLP2020) was set
up by Ministry of Education and Training of
Vietnam to implement this decision at
national level.
Under this project, Thai Nguyen University
(TNU) has been officially chosen as one of
* Tel: 0963 888288, Email: quenguyentnu@gmail.com
five regional foreign language centers of the
whole country to carry out NFLP2020 with a
specific focus of action research. In 2012, the
Center for Human Resource Development for
Foreign Language Studies (CFORD) was
founded to shoulder responsibilities given by
NFLP2020 at TNU. Since its establishment,
TNU English educators and foreign experts at
CFORD have tried hard to develop a training
program in which Problem-based Learning
Project (PBLP) was integrated as a
compulsory component. During two years of
training, more than 400 PLB projects have
been executed by over 1.500 primary,
secondary and high school English teachers of
8 Northern provinces of Vietnam and helped
those teachers solve their problems in English
language proficiency.
PROBLEM-BASED LEARNING
What
Problem based learning, also known as action
learning, is defined as “putting ourselves in
the driving seat of our learning” [1] or “a
dynamic approach to teaching in which
Nguyễn Thị Quế và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 61 - 64
62
students explore real-world problems and
challenges, simultaneously developing
language teaching and study skills while
working in small collaborative groups” [3].
Graph 1. Action learning [3].
PBL projects require students to take
responsibility for their learning by making
choices about their priorities and fulfill action
learning plans to achieve their goals in
learning. These projects are meant to be
structured experiments in practical study
strategies and collaborative learning. This is
an unfamiliar approach to many Vietnamese
ELT instructors and the whole class will
typically struggle at the beginning to grasp
the idea if they are not clearly instructed.
Why
Because problem based learning is filled with
active and engaged discoveries, it inspires
students to obtain a deeper knowledge of the
subjects they are studying. Research also
indicates that students are more likely to
retain the knowledge gained through this
approach far more readily than through
traditional teacher-centered learning. In
addition, students develop confidence and
self-direction as they move through both
team-based and independent work.
In the process of completing their projects,
students also hone their organizational and
research skills, develop better communication
with their peers, and often work within their
community while seeing the positive effect of
their work.
As students are evaluated on the basis of their
projects, rather than on the comparatively
narrow rubrics defined by exams, essays, and
written reports, assessment of project-based
work is often more meaningful to them. They
will quickly see how they progress and their
weaknesses are solved within certain periods
of time [3].
How
Graph 2. Action Research Steps [4]
As can be seen from graph 2, PBL projects
foster habits well-suited for lifelong learning
by requiring participants through the process
of selecting a specific issue related to
language skill development, planning detailed
action steps to follow through, implementing
the planned steps to address the problem or
concern, analyzing the results and finally
reflecting on the outcome.
The next part of the paper will discuss in
details of how a PLB project is carried out
with specific guidance for learners who want
to apply this approach in solving their
language difficulties.
PROPOSED SEVEN-STEP ACTION
PLANS in PBLPs.
To guarantee the success of a PBL project for
better improvement of learners’ English
capacity, we proposed that seven-step
action plans should be strictly followed as
described below:
Identify the problem
This is an essential step in the process of
doing a PBL project in which learners
identify real-life difficulties, analyze their
Nguyễn Thị Quế và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 61 - 64
63
language learning needs and weaknesses (or
those of their students) that limit the success
in using the English language.
Make a team
It is important to think carefully about a team
(ideally with no more than four people) since
each member will work extensively with this
group of people both face-to-face and online
between the beginning and the end of the
course. Most obviously, team members
should all be able to agree upon a project
focus that will help them build their language
skills in specific areas. Moreover, it will help
if participants are from the same school or
district so that they can easily meet with one
another outside of class time.
Question it
The next step would be finalizing the project
focus and plan by writing it in the form of a
question. A good question will be specific and
action oriented.
The work as a team is in fact a determined
effort to find an answer to the question
created. This question should simultaneously
describe the common problem that members
face as a team as well as the strategies that
they will use to find solutions.
Plan it
Planning your PBL projects refers to drawing
up a step-by-step picture about what a group
can do to actively answer their action learning
question. The plan should include specific
action steps that can be carried out over a four
to six week time period.
Do it
Once the plan is approved by the instructor,
team members should carry out the action
steps as outlined in their plan. The majority
of class-time during PBLP tutorials will be set
aside for each team to work together on the
project. It is noted that each group is required
to bring one laptop computer and one USB
3G modem for internet access to tutorial
meetings. It is also the learners’
responsibility to bring any other resources
needed to complete their project.
Discuss it
Every week PBLP tutorial sessions will also
include time for participants and their team to
discuss the effectiveness of what they are
doing to answer their action learning question.
The instructor will serve as a consultant and
coach during this time to ensure that students’
work is focused and effective.
During team discussions, group members will
analyze what is helpful about what they have
been doing and what has been less helpful
than expected. As a result, they may decide
to make some changes to their original plan if
they think that doing something different would
help them reach their project goal more quickly.
Share it
The goal, again, is to find answers to the
original question by means of members’
effort and experience. The final report is an
essential part of that process. It is an
opportunity for learners and their team to
summarize what they have learned from these
projects. An excellent report will also provide
invaluable advice and resources to colleagues
who face problems similar to their own. The
final report is therefore also a cooperative
effort among team members.
CONCLUSION
It is obvious that a key priority with the
NFLP2020 is renovating the way languages
are taught and learned in Vietnam.
Renovation requires rethinking about old
assumptions and discovering new ways of
doing things. PBL projects are one way to
accomplish this renewal of learning and have
been proved to be of great help to teachers of
English in improving their language
proficiency at TNU. It is expected that these
teachers will continue applying PLBPs to
solve problems in their classroom teaching
when coming back to their schools with the
ambition of building a community of practice
in the whole country to better implement
NFLP2020.
Nguyễn Thị Quế và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 61 - 64
64
REFERENCES 1. Gawith, G. (1995). Action learning: student
guide to research and information skills.
Auckland: Longman Paul.
2. Nguyen Ngoc Hung (2010). “Innovation in
English Language Education in Vietnam:
Challenges, Opportunities and Solutions.
International Conference in TESOL, Hue.
3. William C. Frence et al. (2013). Problem-based
learning project workbook. TNU
4.http://actionresearch.pbworks.com/w/page/1353
001/FrontPage (retrieved 20/02/2014)
5. http://tuoitrenews.vn/education/8231/english-
teaching-in-vietnam-teacher-reeducation (retrieved
15/02/2014)
TÓM TẮT
ĐỀ XUẤT KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG GỒM BẢY BƯỚC NHẰM THỰC HIỆN
ĐỀ ÁN HỌC TẬP DỰA TRÊN VẤN ĐỀ CHO GIÁO VIÊN TIẾNG ANH
THAM GIA CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG CỦA ĐỀ ÁN NGOẠI NGỮ
QUỐC GIA 2020 TẠI ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Quế*, Phùng Thị Hải Vân Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
Việt Nam cần những loại hình nghiên cứu nào để phát triển năng lực ngoại ngữ và phương pháp
giảng dạy cho giáo viên tiếng Anh? Bài báo này sẽ giới thiệu một cách tiếp cận mới với nghiên
cứu hành động dành cho giáo viên – một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đề án Ngoại ngữ
quốc gia (ĐANNQG) 2020. Trong hai năm qua, tại Đại học Thái Nguyên, các đề án nghiên cứu
hành động đã được thử nghiệm với những thành công ban đầu cùng với tên gọi: Đề án học tập dựa
trên vấn đề. Bài viết sẽ giới thiệu ngắn gọn thế nào là học tập dựa trên vấn đề, cách thức thực hiện
và lợi ích của các đề án này đối với việc dạy và học ngoại ngữ. Sau đó, chúng tôi đưa ra đề xuất
gồm bảy bước cụ thể để thực hiện một dự án nghiên cứu hành động thành công. Với mục đích
hướng tới việc tạo ra những người học có khả năng học tập suốt đời và có quyết tâm cao, bài viết
này phù hợp với giáo viên tiếng Anh ở mọi trình độ mong muốn tìm hiểu xem các dự án nghiên
cứu hành động có thể giúp họ cải thiện khả năng ngôn ngữ của mình bằng cách nào. Hy vọng rằng,
các chiến lược tự học và học cộng tác theo nhóm đề án trong mô hình này sẽ được các giáo viên
tiếng Anh các cấp tiếp tục áp dụng và nhân rộng để giải quyết các vấn đề liên quan đến phương
pháp giảng dạy của mình ở cơ sở đào tạo.
Từ khoá: Nghiên cứu hành động cho giáo viên, đề án học tập dựa trên vấn đề, kế hoạch hành động
bảy bước, cải thiện năng lực ngoại ngữ, Đề án Ngoại ngữ Quốc Gia 2020, Đại học Thái Nguyên
Ngày nhận bài:28/2/2014; Ngày phản biện:03/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: ThS. Nguyễn Thị Hồng Minh – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN
* Tel: 0963 888288, Email: quenguyentnu@gmail.com
Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71
65
LỜI RÀO ĐÓN NHƯ PHƯƠNG TIỆN “ĐỀN BÙ”
CÁC VI PHẠM NGUYÊN TẮC LỊCH SỰ
(DỰA TRÊN DIỄN NGÔN TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT)
Ngô Hữu Hoàng* Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội
TÓM TẮT
Lời rào đón (hedges) như đã biết, thường được sử dụng trong giao tiếp để đền bù những vi phạm
về nguyên tắc lịch sự mà người nói, dù ý thức hay vô thức, có thể nghĩ rằng mình đang gây ra. Bài
viết, dựa trên diễn ngôn tiếng Anh và tiếng Việt, điểm qua một số các vấn đề của lời rào đón dựa
trên cơ sở chức năng (1) đền bù sự vi phạm “Ba chiến lược lịch sự” của Lakoff; (2) ngăn chặn
“Hành vi đe doạ thể diện” của Goffman, Brown & Levinson và (3) đền bù sự vi phạm “Phương
châm hội thoại” của Grice.
Từ khóa: lời rào đón, nguyên tắc lịch sự, Goffman, Brown & Levison, Grice
DẪN NHẬP*
Khi phát ngôn, thông thường người nói đều
“linh cảm” lời nói của mình có khả năng gây
tổn hại đến sự tế nhị, phép xã giao trong giao
tiếp mà các nhà nghiên cứu ngữ dụng học gọi
là sự vi phạm “nguyên tắc lịch sự” (violation
of politeness principle). Trong đa số các
trường hợp, dù vô thức hay có ý thức, người
nói đều cố “đền bù” sự vi phạm cho phát
ngôn của mình bằng những cách nói sao cho
sự tổn hại giao tiếp xuống đến mức tối đa.
Yule gọi phương tiện đền bù ngôn ngữ này là
“hedges”, được tạm dịch trong tiếng Việt là
“lời rào đón” (LRĐ) và phát biểu:
Có một vài cách diễn đạt mà người nói sử
dụng để báo hiệu rằng họ đang có nguy cơ vi
phạm nguyên tắc lịch sự. Những cách nói này
được gọi là lời rào đón (1998: 38).
Bài viết này điểm qua một vài khía cạnh của
LRĐ dùng để (1) đền bù sự vi phạm “Ba
chiến lược lịch sự” của Lakoff, (2) ngăn chặn
“Hành vi đe doạ thể diện” của Brown và
Levinson, và (3) đền bù sự vi phạm “Phương
châm hội thoại” của Grice.
PHÁT TRIỂN
Lý thuyết về lịch sự (politeness)
Thuật ngữ “phép lịch sự” của tiếng Việt và
“Politeness” của tiếng Anh chỉ ra một phạm
* Tel: 01647 087320
trù lớn trong giao tiếp học, ngữ dụng học
cũng như các ngành văn hoá, xã hội học khác.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về lịch sự.
Theo Robin Lakoff, đó là:
Một hệ thống quan hệ liên nhân được thiết
lập nhằm thúc đẩy giao tiếp thành công bằng
cách giảm đến mức tối ta những tiềm năng
xung đột và đối đầu vốn có trong giao tiếp
của con người. (1990: 38)
Richard dựa trên cơ sở ngôn ngữ để định
nghĩa lịch sự là:
Cách thức mà ngôn ngữ phản ánh khoảng
cách xã hội giữa các thành viên giao tiếp và
phản ánh các mối quan hệ của các vai giao
tiếp khác nhau (1999: 281).
Yule (1997) cho rằng lịch sự (thường là thông
qua ngôn ngữ) có mối quan hệ chặt chẽ đến
khoảng cách xã hội hoặc sự thân mật
(informality), trang trọng (formality). Tóm
lại, theo chúng tôi, lịch sự là quy củ của giao
tiếp trong một nền văn hoá nào đó, được thực
hiện thông qua các phương tiện khác nhau,
đặc biệt là phương tiện ngôn ngữ, nó duy trì
và làm cho tất cả mọi quan hệ giao tiếp của
con người trong nền văn hoá ấy tồn tại và trở
nên tốt hơn.
Những cách tiếp cận lịch sự trong ngôn
ngữ của một số tác giả
Robin Lakoff đề xuất ba phương châm về lịch
sự là:
Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71
66
- Không áp đặt (Don’t impose): Người nói
không áp đặt chủ kiến của mình lên người nghe.
- Đề xuất lựa chọn (Give options): Người nói
trao cho người nghe quyền lựa chọn, hoặc cho
phép người nghe quyết định sự lựa chọn..
- Làm người nghe hài lòng (Make H feel
good): Người nói làm người nghe cảm thấy
thoải mái để tiếp thu thông tin.
Goffman (1981), Brown và Levinson (1997)
tiếp cận lý thuyết lịch sự bằng khái niệm “thể
diện” (Face). Theo Goffman (1981), thể diện
là sự thể hiện giá trị xã hội của chính bản
thân, là chính hình ảnh “cái tôi” (self-image)
mà con người cần có và cần được gìn giữ một
cách có hiệu quả trong tương tác xã hội. Các
tác giả đề nghị phân chia thể diện ra làm hai
loại chính:
- Thể diện âm tính (negative face): Không
thích người khác áp đặt cho mình, định hướng
tự do cá nhân, mong không gặp trở ngại từ
phía người khác.
- Thể diện dương tính (positive face): Mong có
được sự tán đồng, yêu thích từ phía người khác
trong cộng đồng, định hướng sự đoàn kết.1
Hai loại thể diện này đòi hỏi người nói phải
có những ứng xử sao cho người nghe cảm
thấy thoả mãn về các nguyên tắc của chúng.
Nếu người nói làm được, tức là họ đã đáp ứng
được những nhu cầu thể diện (face wants) và
hành vi giao tiếp của họ được gọi là hành vi
gìn giữ thể diện (Face Saving Act - FSA). Khi
người nói làm ngược lại FSA tức là họ đã
khiến người nghe khó chịu, dễ tạo ra khả
năng xung đột giao tiếp, thì đó là hành vi đe
doạ thể diện (Face Threatening Act - FTA).
Grice (1975: 158) giới thiệu khái niệm về
nguyên tắc chung trong hội thoại mà tác giả
1 “negative” và “positive” là hai thuật ngữ
được dùng để chỉ ra hai khuynh hướng lịch sự
có đặc tính đối kháng nhau như hai cực của
dòng điện. Từ đó, “negative” vì thế không có
nghĩa là “bad” (tiêu cực),và từ “positive”
không có nghĩa là “good” (tích cực) (Yule,
1997: 61-62).
gọi là “nguyên lý cộng tác” (cooperative
principle) trong đó gồm có một số các
phương châm. Theo Grice, các phương châm
này tuy không được nói ra, nhưng thông
thường, người tham gia giao tiếp phải ngầm
tuân thủ. Tác giả cũng cho là các phương
châm được đưa ra chỉ là những phương châm
nổi bật trong khái niệm “cộng tác hội thoại”,
đó là phương châm Lương (quanlity): Phần
đóng góp của người nói có chứa lượng thông
tin đúng như nó được đòi hỏi; Chất (quality):
Phần đóng góp của người nói luôn là chân
thật; Quan hệ (relevance): Phần đóng góp của
người nói có liên quan đến chủ đề đang được
nói. Cách thức (manner): Phần đóng góp của
người nói nên mạch lạc, không mơ hồ.
Có một số ý kiến tranh cãi về vấn đề “phương
châm hội thoại” của Grice và không chia sẻ
các phương châm này vì suy cho cùng thì
giao tiếp của con người, theo đúng với
phương châm hội thoại như thế là máy móc
và không thể tránh khỏi hiện tượng “vi phạm”
liên tục. Tuy nhiên cũng chính vì không thể
tránh khỏi vi phạm mà người nói, như đã nói
trên, dù ý thức hay không ý thức, bằng cách
nào đó, cố tìm cách đền bù cho sự vi phạm này.
Sự chọn lựa phổ biến nhất mà chúng ta có thể
thấy là cách nói rào đón cho những gì mà người
nói muốn hướng tới trong phát ngôn.
Thật vậy, trong giao tiếp, người nói có vẻ như
“nhận biết” được mình đang có khả năng vi
phạm một hoặc một vài phương châm lịch sự
nào đó. Ví dụ như, có thể họ đang vi phạm về
phương châm “chất” (họ e ngại rằng họ đang
bị đánh giá là quá quyết đoán) hoặc “quan hệ”
hoặc “lượng” (họ e ngại rằng họ đang nói dài
quá), về quan hệ (họ e ngại rằng họ đang nói
lạc chủ đề), hoặc về cách thức (họ e ngại rằng
họ đang nói thiếu mạch lạc, thiếu bố cục rõ
ràng), v.v... Đứng về phương châm của
Lakoff, người nói có cảm giác rằng câu nói
của mình vi phạm phương châm 1 (không áp
đặt) tiến đến sự phá vỡ phương châm 2 (đề
xuất lựa chọn) và phương châm 3 (làm người
nghe hài lòng). Trong khái niệm FTA của
Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71
67
Goffman, cũng như Brown và Levinson,
người nói có khuynh hướng nhận thức được
hành vi giao tiếp của mình có khả năng tạo
xung đột bằng những phát ngôn đe doạ “cái
tôi” của người nghe, làm người nghe cảm
thấy e dè, ngượng nghịu, thất vọng, thậm chí
bực tức,...
Lời rào đón là gì?
Quay lại với định nghĩa của Yule đã được đưa
ra bên trên, có thể thấy LRĐ là một dấu hiệu
(marker) trong diễn ngôn với mục đích làm
giảm nhẹ bớt ảnh hưởng của phát ngôn, khiến
phát ngôn nghe ít bị áp đặt, võ đoán hơn.
Trong mối liên hệ với lịch sự, khi LRĐ hướng
đến những mục đích giảm nhẹ phát ngôn thì
cũng đồng nghĩa với sự ảnh hưởng đến việc
đảm bảo các nguyên tắc lịch sự. Đó là đền bù
nguy cơ phá vỡ những nguyên tắc mà tự thân
phát ngôn luôn có tiềm năng tạo ra. Hình thức
của LRĐ có thể là một âm thanh e hèm:
- Uhm/Ehm, this dress doesn’t suit you. (Cái
váy này không hợp với em đâu.)
(Những âm thanh được dùng như LRĐ
thường bị kéo dài.)
hay một từ đơn:
- Well/Honestly, this dress doesn’t suit you.
hay một quán ngữ:
- To be honest, this dress doesn’t suit you.
hay một mệnh đề:
- If I may say so, this dress doesn’t suit you.
thậm chí là một sự gắn kết nhiều loại rào đón
cùng một lúc với nhau
- Uh, well, to be honest, this dress doesn’t suit
you, if I may say so.
Xưa nay, văn hoá của người Việt vốn chuộng
lối nói năng tế nhị, ý tứ, thiên về duy tình hơn
duy lý (“một bồ cái lý không bằng một tí cái
tình”) và coi trọng sự cân bằng các mối quan
hệ. Nét văn hoá ấy thường làm cho người
Việt có thói quen “rào trước đón sau” trong
khi giao tiếp. Vì thế những phát ngôn kiểu
tiếng Anh như trên cũng rất phổ biến, thậm
chí còn có mầu sắc phức tạp hơn:
- Ừm, cái váy này xem ra không hợp với chị
nhỉ, em thấy thế, không biết có đúng không,....
LRĐ từ đó là một công cụ hữu hiệu để ngăn
chặn những tiềm năng xung đột giao tiếp mà
hầu như trong một phát ngôn nào dù trong
hoàn cảnh nào cũng có thể xảy ra.
LRĐ như những phương tiện đền bù
“hành vi đe doạ thể diện”
LRĐ đền bù cho hành vi vi phạm 3 chiến lược
lịch sự của Lakoff
Với Lakoff, một trong những điều quan trọng
đầu tiên và quan trọng nhất để tránh tình trạng
sốc giao tiếp là cách nói rào đón làm sao cho
người nghe không có cảm giác bị áp đặt. Ví
dụ trong một lời khuyên, lời kiến nghị, lời
mời, người Anh có khuynh hướng sử dụng
cấu trúc rào đón “If I were you”, “If you
like”, “How/What about...?” để ngầm ý “trao
quyền” quyết định cho người nghe. Với
những cấu trúc như thế, người nghe chắc hẳn
thấy thoải mái dễ chịu hơn để thực hiện ý
định của người nói so với một cách nói ngắn
gọn, cộc lốc thiếu hiệu quả giao tiếp. Xét mẩu
đối thoại sau đây, chúng ta sẽ thấy hai người
tham gia giao tiếp đều có ý thức đền bù
những gì mà họ cho rằng có thể bị vi phạm:
A: If you don’t mind, could you put on the
fan, please?
(Nếu không thấy phiền gì thì xin anh bật quạt
giúp được không?)
B: Sure, and how about opening the window?
(Được chứ, thế thì cửa thế nào, anh có muốn
mở không?)
(A) đã tránh áp đặt bằng mẫu LRĐ “If you
don’t mind” làm cho (B) có cảm giác có
quyền không bật quạt nếu (B) thấy phiền. Đến
lượt (B) thì “giao phó” sự lựa chọn đề nghị
“mở cửa sổ” cho (A) suy xét.
Những cách mà người Việt thường lựa chọn
trong đền bù sự vi phạm nguyên tắc lịch sự
trong tiếng Việt là “Hình như ...”, “Có lẽ
...”, “Dường như...”, “Hay là...”, “Nên
chăng...”, “Nghe nói ...”. Ví dụ, khi thủ
Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71
68
trưởng một đơn vị tuyên bố bắt đầu buổi
họp cơ quan bằng câu:
Có khi ta bắt đầu làm việc nhé.
thì LRĐ “có khi” giúp người nói mềm hoá
trong hiệu lệnh, làm người nghe bắt đầu với
tâm lý thoải mái hơn. Những dấu hiệu dụng
học (pragmatic marker) như thế luôn là một
khía cạnh thú vị trong nghiên cứu văn hoá và
dịch thuật qua lại giữa hai thứ tiếng.
LRĐ đền bù cho hành vi tạo FTA của Brown
và Levison
Để xem xét việc sử dụng các LRĐ giúp
đương đầu với khả năng xảy ra FTA, thử
phân tích sơ đồ của Brown và Levinson
(1997) với năm cách “mượn một chiếc bút”
sau đây. Trước tiên chúng ta có lược đồ lịch
sự dương tính và âm tính do Brown và
Levinson đề xuất như đã thể hiện bên dưới.
Cách thứ nhất là sử dụng trực tiếp lời thỉnh
cầu mà không cần đến LRĐ. Hành vi thỉnh
cầu này tiềm ẩn “đe doạ thể diện” rất cao vì
thiếu phương tiện rào đón tạo nên biểu thức
thỉnh cầu lịch sự:
Give me your pen.
(Cho tớ mượn chiếc bút của cậu đi.)
Cách thứ hai là dùng yếu tố đền bù lịch sự
dương tính, làm cho hành động bớt nguy cơ
FTA hơn bằng cách dùng các LRĐ báo hiệu
sự “tỏ ra lạc quan”, “tin tưởng” rằng người
nghe sẽ cho mình mượn. Ví dụ:
I think you could lend me your pen.
(Tớ nghĩ cậu có thể cho tớ mượn cây bút
của cậu.)
Cách thứ ba, dùng yếu tố đền bù lịch sự âm tính
bằng cấu trúc phủ định, để chứng tỏ không
muốn can thiệp vào quyền tự do hành động và
quyền “không bị áp đặt” của người nghe:
I don’t suppose you could lend me your pen.
(Tớ không nghĩ cậu có thể cho tớ mượn cây
bút của cậu.)
Cách rào đón “tớ không nghĩ là” khá xa lạ với
tiếng Việt vì nó thuộc về chiến lược tiêu biểu
của lịch sự âm tính “tỏ ra bi quan” của người
Anh, chứng tỏ sự sẵn sàng chấp nhận lời từ
chối của phía người nghe thay vì “Tôi nghĩ
là” trong LRĐ thuộc lịch sự dương tính, chỉ
ra sự lạc quan tin tưởng rằng sẽ được chấp
nhận lời thỉnh cầu. Tuy nhiên khi người nói tỏ
ra quá chắc chắn rằng về sự đồng ý của người
nghe thì cũng có nghĩa là họ đã áp đặt lên
người nghe ý đồ của họ mà trường phái lịch
sự âm tính thường coi là một hành vi FTA.
1. Không có hành động đền bù, thẳng thừng (without
redressive action)
2. Lịch sự dương tính
(Positive Politeness)
Công khai
(on record)
Có hành động đền bù
(With redressive actions)
Gây ra FTA
(Do the FTA)
3. Lịch sự âm tính
(Negative Popliteness) 4. Không công khai
(off record)
5. Không gây ra FTA
(Do not do the FTA)
Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71
69
Cách thứ tư là không công khai hỏi mượn, chỉ
gián tiếp chỉ ra rằng mình không có bút:
I left my pen at home.
(Tớ đã để quên cây bút ở nhà rồi.)
Tuy nhiên, theo suy nghĩ của chúng tôi, đây
cũng là một lới “ướm”2 trước khi người nói
đặt vấn đề “mượn” cây bút. Người nói có thể
phát triển thêm như sau:
Tớ để quên cây bút ở nhà rồi. Chà, chà, biết
làm sao đây nhỉ?
Thế rồi quan sát thái độ của người nghe,
người nói có thể đi vào cầu đề nghị:
Cậu có thể cho tớ mượn cây bút của cậu
được không?
Cách thứ năm đơn giản là ta không làm/ nói
điều gì có thể “đe dọa thể diện”.
Ví dụ, người nói chỉ giả vờ lục tìm trong túi
sách của mình. Tuy nhiên cách cuối cùng này
thuộc chiến lược phi ngôn từ, có thể làm cho
người nghe không hiểu ý, và như vậy, ý đồ
giao tiếp của người nói có khả năng không
thành công.
Chiến lược “đền bù” các vi phạm phương
châm hội thoại của Grice
- Về chất:
Một số lượng lớn LRĐ được sử dụng để đền
bù về chất khi mà người nói “tự nhận thấy”
hay cố tình tự cho là những điều mình đang
nói ra là có thể không hoàn toàn xác đáng.
Chúng được coi là có tác dụng hạn định giá
trị chân thực của điều nói ra vào trong phạm
vi ý kiến của chính người nói: “Theo chỗ tôi
biết ...”, “Nếu tôi không nhầm ...”, “Theo tôi
...”, “Tôi cho rằng ...”, “Tôi không chắc lắm
nhưng ...”, “Riêng tôi thì ...”, “(Theo) tôi
nghĩ ...”, “Nghe nói ...”, “Nghe họ bảo ...”,
2 Diệp Quang Ban (2010:215) phân biệt lới nói
“ướm” (pre-senquences) với LRĐ nhưng theo
chúng tôi, những lời nói có chức năng như thế
đều phục vụ cho sự “rào trước đón sau” của
người giao tiếp và có thể đều được xếp vào
cùng một phạm trù “che chắn” cho thông tin
diễn ngôn.
“Nghe đồn ...”, “Hình như có thông tin ...”
v.v... Trong tiếng Anh, có các LRĐ khá trang
trọng loại này như “As far as I know ...”, “I
may be mistaken but ...”, “It is a rumor that
...”, “People say that ...”, “I think ...”, “I
suppose ...”. Ví dụ phát ngôn sau đây:
They told me that Boss is about to retire.
(Thấy chúng nó bảo sếp sắp hết tuổi rồi.)
Người nói có thể chắc chắn hoặc không chắc
thông tin mà họ đưa ra nhưng rõ ràng là sẽ có
chiến lược giao tiếp hơn so với một phát ngôn
không có “che chắn” sau đây:
Boss is about to retire.
(Sếp sắp hết tuổi rồi.)
Bởi lẽ, sự cam kết về chất lượng thông tin của
phát ngôn trên quá tuyệt đối khiến người nói
thấy có tiềm năng giao tiếp bất lợi, vì thế, họ
vừa phải chuyển “trách nhiệm” thông báo
thông tin cho một chủ thể mơ hồ “chúng
nó/họ” vừa để chứng minh là mình có ý thức
đang đền bù sự vi phạm phương châm hội
thoại với cách thức “vờ” như là tin chưa được
xác tín, chỉ là “Người ta nói vậy thôi. Tôi
không nói”.
- Về lượng:
Những LRĐ cũng có thể được dùng để chỉ ra
rằng người nói có ý thức về phương châm chỉ
lượng, “phòng thủ” sự thừa thãi về thông tin
mình đưa ra nên những lời mở đầu phát ngôn
sau đây được tạo ra trong quá trình người nói
đề cập đến kì nghỉ gần đây của mình:
As you probably know, I am terrified of dogs.
(Chắc là anh biết, tôi rất sợ chó.)
I want to cut a long story short but if say for
short you may not understand what was
happening to me that time
(Tôi muốn rút ngắn câu chuyện nhưng nếu tôi
kể tóm tắt thì tôi lại sợ anh không hiểu được
những gì đang xảy ra với tôi lúc ấy.)
Trong cả hai ngôn ngữ, các cách nói kiểu này
rất phong phú thường xuất hiện thông qua
những mẫu gần như được làm sẵn (ready-
made) như “As (far as) you know, in short, I
Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71
70
don’ want to kill your time, ... (Như anh đã
biết, Tôi không muốn giết thời gian của anh,
Nói ra hơi dài dòng một chút nhưng, Đại
loại/Đại khái là, Nói tóm lại, Nói chung, Nói
vắn tắt là, Nói nôm na là ...). Người nói tỏ ra
cố gắng “rút ngắn” cho thông tin vừa đủ
nhưng thực tế những cách rào đón như thế đôi
khi không phản ảnh thực tế ý đồ thực sự
muốn tuân thủ phương châm dựa trên những
gì họ phát ngôn tiếp theo sau đó.
- Về quan hệ:
Khi người nói có ý thức về việc không đảm
bảo được yêu cầu của “phương châm quan
hệ”, nghĩa là nói những điều không nên,
không đáng được nói ra hoặc lạc đề, họ càng
có những hành vi che chắn bằng ngôn từ để
chứng tỏ cho người nghe biết là những gì họ
sắp nói ra không liên quan nhiều đối với chủ
đề giao tiếp hoặc bị nhạy cảm nhưng cũng
“không thể không nói”. Thực tế, đây cũng là
một chiến lược tránh cho người nghe cảm
giác đột ngột nhằm chỉ ra rằng người nói có
“tự giác” về nguy cơ của chủ đề đang bị đi
lệch hoặc không phù hợp:
Not to change the subject, but why don’t you
tell her about that?
(Xin hỏi ra ngoài lề một chút, sao anh không
nói với cô ấy về việc đó?)
Người Việt thường dùng những quán ngữ như
LRĐ như “Nói khí không phải ...”, “Nói khí
vô phép ...”, “Nói bỏ ngoài tai ...”, “Nói trộm
bóng ...”, “Nói của đáng tội ...”, “Nói anh bỏ
quá cho ...”, “Không biết có nên nói không
...”, “Tiện đây ...”, “À nhân tiện ...” v.v... để
“tự công nhận” mình đang vi phạm phương
châm hội thoại và dùng chúng như là những
phương tiện đền bù.
- Về cách thức:
Việc nhận thức được các mong muốn của
người nghe về cách thức nói năng của người
nói khiến người nói có khuynh hướng dùng
rào đón để đền bù, ngăn chặn hiện tượng
người nói cho là có khả năng vi phạm
“phương châm rõ ràng”. Trong tiếng Anh là
“I’m not sure but ...” (“Tôi không chắc lắm
nhưng ...”), “That may be a bit confused but
...” (“Nếu không có gì nhầm lẫn ...”), “I’m not
sure if what I’m talking about is clear to you
but ...” (“Không biết tôi những gì tôi nói có
rõ nghĩa không, ...”). Ví dụ:
This may be a bit confused, but I was asleep.
(Nếu tôi nhớ không nhầm thì lúc đó tôi
đang ngủ.)
Về sự đền bù cho nguyên tắc này, tiếng Việt
đó là những quán ngữ như “Nếu tôi nhớ
không nhầm thì ...”, “Hình như là ...”, “Có
thể là ...”.
THAY LỜI KẾT
Tất nhiên LRĐ còn có thể có nhiều chức năng
hơn nữa và tồn tại dưới nhiều hình thức ngôn
ngữ và văn phong khác nhau. Trong giới hạn
của một bài báo, chúng tôi chỉ giới thiệu LRĐ
phổ biến trong giao tiếp bằng tiếng Anh và
tiếng Việt. Những phân tích, bình luận cũng
chỉ giới hạn với những nguyên tắc lịch sự
được đề ra bởi một số tác giả nổi tiếng trong
nghiên cứu ngữ dụng học. Đây là vấn đề
ngôn ngữ và văn hoá phản ánh được năng
lực giao tiếp của người nói/viết vì vậy cũng
là vấn đề cần được quan tâm trong học tiếng
và dịch thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban, (2010), Từ điển thuật ngữ
ngôn ngữ học (Sơ thảo), Nxb Giáo Dục Việt
Nam, Hà Nội.
2. Brown, P. & Levison, S., (1997). Politeness -
Some Universals in Language Usage Phenomena,
CUP.
3. Grice, H.P., (1969). Utterer’s Meaning and
Intention, Philosophical Review No. 78 (147-177),
4. Goffman, E., (1981). Forms of Talk, University
of Philadelphia Press, Philadelphia PA.
5. Lakoff, R., (1990). Talking Power-The Politics
of Language, Basic Books.
6. Richards, J.C & Platt, J., (1999). Dictionary of
Language Teaching & Applied Liguistics,
Longman.
7. Yule, G., (1997). Pragmatics, OUP.
Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71
71
SUMMARY
HEDGES AS A “COMPENSATION” MEAN
OF THE VIOLATIONS OF POLITENESS PRINCIPLES
(BASED ON ENGLISH AND VIETNAMESE PRAGMATIC)
Ngo Huu Hoang* University of Languages and International Studies - VNU
As they are known, hedges are used to compensate the “violations” of politeness principles which
the speaker may think, consciously or unconsciously, that he or she is causing while s/he is
uttering. The paper, in that observation, discusses some issues of hedges in terms of some
functions of (1) compensations for violations of “three politeness policies” by Lakoff, (2)
prevention of the “face threatening act” by Brown and Levinson, and (3) compensations of the
cooperative principle by Grice illustrated by English and Vietnamese.
Keywords: hedges, politeness principles, Lakoff, Brown and Levison, Grice
Ngày nhận bài:31/1/2014; Ngày phản biện:12/2/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thành Long – Khoa Ngoại ngữ - ĐHTN
* Tel: 01647 087320
Ngô Hữu Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 65 - 71
72
Ngô Thị Huyền Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 73 - 78
73
NHÂN LỰC TÁC NGHIỆP TẠI CÁC KHÁCH SẠN BA SAO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THÁI NGUYÊN, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Ngô Thị Huyền Trang*, Trân Thị Tuyết, Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Qua quá trình nghiên cứu và khảo sát tại các khách sạn ba sao trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cho
thấy, nhân lực tác nghiệp đóng góp một vai trò quan trọng trong kết quả hoạt động kinh doanh của
các khách sạn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc đào tạo nguồn nhân lực tác nghiệp tại các khách
sạn ba sao vẫn còn nhiều khó khăn, chi phí đào tạo vẫn còn hạn chế… Thông qua kết quả nghiên
cứu để có thể đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tác nghiệp của các
khách sạn, đặc biệt là các khách sạn ba sao, nơi mang lại nguồn doanh thu lớn cho hoạt động kinh
doanh khách sạn của tỉnh Thái Nguyên.
Từ khóa: Nhân lực tác nghiệp, khách sạn ba sao, tỉnh Thái Nguyên, thực trạng giải pháp
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Thế giới đang từng bước đi vào nền kinh tế tri
thức, chuyển từ việc lấy khoa học kỹ thuật
làm trung tâm sang lấy con người làm trung
tâm. Yếu tố con người đã và đang trở thành
tài sản quý giá nhất của mỗi quốc gia nói
chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng.
Các khách sạn ba sao là một hệ thống có vai
trò to lớn trong sự phát triển của lĩnh vực kinh
doanh khách sạn ở Thái Nguyên. Cùng với sự
phát triển không ngừng của nền kinh tế, cũng
giống như sự cạnh tranh khốc liệt của các
công ty, các khách sạn ba sao trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên được coi là điểm nhấn quan
trọng trong sự phát triển đó. Các khách sạn ba
sao hoạt động khá ổn định, khởi sắc, tự khẳng
định mình trên thị trường do ngoài việc tìm
nguồn khách hàng còn tăng cường việc củng
cố chất lượng sản phẩm và chú trọng đến chất
lượng nguồn nhân lực của khách sạn.
Nhân lực nói chung và nhân lực tác nghiệp
nói riêng là yếu tố then chốt đối với sự phát
triển của mỗi khách sạn, đặc biệt là hệ thống
các khách sạn ba sao, là nơi cung ứng các
dịch vụ tốt, đáp ứng được nhu cầu của các đối
tượng khách khác nhau. Thực trạng nghiên
cứu tại các khách sạn ba sao trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên cho thấy, hiệu quả sử dụng lao
* Tel: 0973 101496, Email: huyentrangksdl@gmail.com
động tác nghiệp của các khách sạn ba sao còn
gặp rất nhiều khó khăn. Nghiên cứu khảo sát
cũng chỉ ra nguyên nhân do chất lượng đào
tạo nhân lực tác nghiệp chưa được chú trọng,
các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo
như: mục tiêu đào tạo, nội dung và chương
trình đào tạo còn chưa sát với thực tế, phương
pháp đào tạo còn nặng về lý thuyết, thụ
động… Từ những nguyên nhân trên để đưa ra
được các giải pháp nâng cao hiệu quả của
nguồn nhân lực tác nghiệp.
THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG ĐÀO
TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TÁC NGHIỆP
CỦA CÁC KHÁCH SẠN BA SAO TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
Trong quá trình kinh doanh của mình đội ngũ
lao động tác nghiệp của các khách sạn ba sao
đã đóng góp rất nhiều thành quả giúp cho các
khách sạn có được kết quả kinh doanh tốt.
Tuy nhiên, trong một xã hội luôn biến động
như hiện nay thì việc cải tiến và nâng cao chất
lượng đào tạo lao động tác nghiệp luôn là vấn
đề cần sự quan tâm của toàn thể nhà lãnh đạo
trong các khách sạn.
Quá trình điều tra và phỏng vấn trực tiếp tại
các khách sạn ba sao đối với 3 đối tượng
trong khách sạn là nhà quản trị, nhân viên tác
nghiệp và khách hàng thì tình hình nhân lực
tác nghiệp của các khách sạn ba sao được thể
hiện như sau:
Ngô Thị Huyền Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 73 - 78
74
- Về phía nhà quản trị: Là những người lãnh
đạo trong khách sạn, nhà quản trị đề ra những
kế hoạch về nhân sự cho khách sạn trong
ngắn hạn và dài hạn, do đó nhà quản trị đã
nhận thức được tầm quan trọng của công tác
đào tạo nhân lực tác nghiệp trong khách sạn,
từ việc xác định đối tượng đào tạo, căn cứ để
xác định đối tượng đào tạo, đưa ra các nội
dung cần thiết trong chương trình đào tạo, lựa
chọn các phương pháp đào tạo... Tuy nhiên,
các hoạt động này chưa được thực hiện rõ
ràng, chiếu lệ nên vẫn còn tồn tại nhiều hạn
chế cần giải quyết để có thể nâng cao chất
lượng đào tạo nhân lực tác nghiệp. Đặc biệt
các chi phí dành cho việc đào tạo nhân lực tác
nghiệp của các khách sạn ba sao còn ít, chưa
có sự tập trung trọng điểm trong đào tạo.
Thực tế cho thấy số nhân lực tác nghiệp được
đào tạo của các khách sạn nghiên cứu đã có
sự tăng lên. Tuy nhiên, chi phí đào tạo
chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng chi phí của
các khách sạn.
Kết quả này cho thấy, các khách sạn vẫn chưa
tập trung đầu tư kinh phí nhiều cho công tác
đào tạo nhân lực tác nghiệp
- Về phía nhân viên tác nghiệp: Do trình độ
còn hạn chế hơn so với các nhà quản trị khách
sạn nên sự lựa chọn về các tiêu chí đưa ra
trong phiếu điều tra có sự lựa chọn khác với
các nhà quản trị. Các nhà quản trị cũng cần
quan tâm đến các ý kiến đóng góp từ phía
nhân viên để đảm bảo công tác đào tạo nhân
lực tác nghiệp được thực hiện có hiệu quả.
Bảng 1: Chi phí đào tạo nhân lực tác nghiệp của các khách sạn nghiên cứu năm 2012- 2013
STT Chỉ tiêu Đơn vị
Tính
Năm
2012
Năm
2013
So sánh 12/13
± %
1 Số nhân lực tác nghiệp được đào tạo Người 52 68 16 130,7
2 Tổng chi phí Trđ 70.810 72.943 2.133 103
Chi phí đào tạo nhân lực tác nghiệp Trđ 235 326 91 138,7
Tỷ trọng % 0,33 0,4 0,07 _
3 Chi phí đào tạo nhân lực tác
nghiệp bình quân Trđ/ng 0,274 0,396 0,122 144,5
(Nguồn: Tổng hợp từ 3 khách sạn nghiên cứu)
Bảng 2: Cơ cấu lao động tác nghiệp của một số khách sạn nghiên cứu năm 2012 - 2013
STT Chỉ tiêu Năm 2012 Năm 2013 So sánh
(2013/2012)
Số
lượng
Tỷ
trọng
Số
lượng
Tỷ
trọng
+/ - %
1 Tổng số lao động tác nghiệp 120 - 210 - 90 175
Giới tính
Nam 30 25 50 23,8 20 166,7
Nữ 90 75 160 76,2 70 177,8
3 Trình độ chuyên môn
Đại học – Cao đẳng 25 20,8 45 39,02 20 180
Trung cấp 58 48,3 70 50,2 12 120,7
Sơ cấp 37 30.9 95 10,78 58 257
4 Trình độ ngoại ngữ
Tiếng Anh A 80 66,7 125 59,5 12 156,3
Tiếng Anh B 28 23,3 55 26,2 11 196,4
Tiếng Anh C 12 10 30 14,3 7 250
5 Tuổi bình quân 28 -- 29,5 -- 1,5 --
(Nguồn: Tổng hợp từ các khách sạn nghiên cứu)
Ngô Thị Huyền Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 73 - 78
75
Có thể nói độ tuổi lao động trung bình như
vậy vẫn là cao, các khách sạn cần có biện
pháp để trẻ hoá đội ngũ nhân viên ở các bộ
phận tác nghiệp. Nguyên nhân của sự tăng lên
về cơ cấu lao động giữa năm 2013 và năm
2012 là do một số khách sạn đã mở rộng các
loại hình kinh doanh dịch vụ, nâng cấp cơ sở
vật chất, quy mô các khách sạn tăng lên.
Đa số lao động ở bộ phận nhà hàng có trình
độ trung học và cao đẳng. Trình độ ngoại ngữ
của nhân viên khách sạn chưa cao, chủ yếu là
trình độ tiếng Anh A và trình độ B, nhân viên
có trình độ tiếng Anh C là còn ít. Sự nâng cao
về trình độ qua các năm ở mức độ trung bình.
Đây chính là điểm hạn chế trong việc phục vụ
khách quốc tế của nhân viên các khách sạn ba
sao. Mặc dù đối tượng khách quốc tế đến với
các khách sạn cũng không nhiều.
- Về phía khách hàng: Khách hàng là những
người đánh giá khách quan từ phía bên ngoài
khách sạn về chất lượng phục vụ của nhân
viên tác nghiệp, qua đó nhà quản trị có thể
đánh giá được các mặt ưu điểm, hạn chế của
nhân viên từng bộ phận, có biện pháp đào tạo
các nhân viên đó để chất lượng phục vụ của
nhân viên được nâng cao, đáp ứng nhu cầu
của khách hàng tốt hơn.
Nhìn chung, công tác đào tạo nhân lực tác
nghiệp đã được các nhà quản trị quan tâm, kế
hoạch đào tạo đã được đề ra nhưng khi thực
hiện thì chưa đạt hiệu quả như mong muốn,
nhân viên tác nghiệp vẫn chưa thực sự được
đào tạo theo phương pháp phù hợp, kinh phí
dành cho đào tạo chưa cao... dẫn đến trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của nhân viên không
được cải thiện, ảnh hưởng đến chất lượng
phục vụ khách hàng của nhân viên. Do đó,
các khách sạn cần đưa ra những giải pháp cụ
thể để nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực
tác nghiệp trong khách sạn của mình.
MỘT SỐ TỒN TẠI CỦA CÔNG TÁC ĐÀO
TẠO NHÂN LỰC TÁC NGHIỆP TẠI CÁC
KHÁCH SẠN BA SAO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THÁI NGUYÊN
- Nhà quản trị khách sạn chưa xác định được
vai trò và trách nhiệm của mình trong công
tác nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tác
nghiệp của khách sạn mình.
- Các hình thức đào tạo mới chưa được áp
dụng phổ biến, chủ yếu vẫn là hình thức đào
tạo bên trong khách sạn.
- Nội dung đào tạo vẫn còn nặng về lý
thuyết, chưa liên hệ nhiều đến thực tế, các
khách sạn ít thay đổi nội dung đào tạo cho
nhân viên tác nghiệp.
- Quá trình triển khai đào tạo chưa đạt hiệu
quả cao thể hiện thông qua: Việc xác định
nhu cầu đào tạo theo yêu cầu của người lao
động tại các khách sạn hầu như là chưa có, kế
hoạch xây dựng chiến lược đào tạo nhân lực
tác nghiệp của một số khách sạn còn chưa rõ
ràng, thiếu tới đâu đào tạo tới đó chứ chưa có
chiến lược cụ thể từ đầu…
- Nguồn kinh phí đầu tư cho đào tạo của các
khách sạn chưa thực sự được các nhà quản trị
quan tâm, hiện tại, các khách sạn chỉ có thể
đầu tư một lượng kinh phí nhỏ trích từ lợi
nhuận kinh doanh. Do đó việc tổ chức công
tác đào tạo cũng gặp nhiều khó khăn.
Nhìn chung, nhân lực tác nghiệp là nhân tố
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của
các khách sạn. Qua phân tích có thể thấy cơ
cấu lao động của các khách sạn là tương đối
hợp lý, tuy nhiên trình độ chuyên môn của
người lao động ở các khách sạn chưa cao, số
lượng nhân viên có trình độ chuyên môn chưa
cao so với yêu cầu của bộ phận. Để tạo sự phát
triển toàn diện của các khách sạn, nhà quản trị
cần có những biện pháp đào tạo đội ngũ nhân
viên tác nghiệp có trình độ tay nghề cao.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC TÁC
NGHIỆP CỦA CÁC KHÁCH SẠN BA SAO
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
Từ những kết quả nghiên cứu, trong bối cảnh
nền kinh tế hội nhập đầy cạnh tranh, trước
những xu thế mới trong đào tạo nhân lực tác
nghiệp, có một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo nhân lực trong các khách
sạn ba sao như sau:
Ngô Thị Huyền Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 73 - 78
76
Xác định rõ nhiệm vụ nhà quản trị cân
làm trong công tác nâng cao chất lương
đào tạo nhân lực tác nghiệp
Các nhà quản trị khách sạn có thể thực hiện
một số các công việc cụ thể sau:
- Tổ chức các buổi thảo luận định kỳ về sự
cần thiết phải nâng cao trình độ của nhân viên
tác nghiệp để làm cho nhân viên đó thấy được
ý nghĩa và tầm quan trọng của việc nâng cao
kiến thức, kỹ năng làm việc của mình trong
hoạt động nâng cao hiệu quả kinh doanh của
khách sạn hiện nay.
- Nhà quản trị cũng có thể tổ chức các cuộc
thi, các cuộc trao đổi để cho nhân viên tác
nghiệp có cơ hội giao lưu, học hỏi, trao đổi
kinh nghiệm của nhau, trau dồi thêm những
kiến thức chung về chuyên môn, nghiệp vụ
của từng bộ phận tác nghiệp.
- Đi đôi với việc tuyên truyền để nâng cao
nhận thức của tất cả các nhân viên từ nhà
quản trị xuống dưới với chất lượng đào tạo
nhân lực tác nghiệp thì nhà quản trị phải tiến
hành xây dựng các chiến lược đào tạo đội ngũ
nhân viên tác nghiệp sao cho phù hợp với chức
năng và nhiệm vụ của từng bộ phận tác nghiệp.
Đổi mới, đa dạng hoá hình thức đào tạo
nhân lực tác nghiệp
Những hình thức đào tạo cần được thực hiện là:
Thứ nhất, đào tạo thông qua trường lớp theo
các hình thức như đào tạo chính quy, đào tạo
ngắn hạn tại các cơ sở đào tạo về du lịch –
khách sạn cho các nhân viên đang làm việc để
nâng cao trình độ, hình thức này phù hợp với
các nhân viên đã có hợp đồng dài hạn tại
khách sạn… Các hình thức đào tạo trên đều
có ưu điểm và nhược điểm nhất định, tuỳ vào
từng đối tượng nhân viên tác nghiệp mà bố trí
các hình thức học khác nhau.
Thứ hai, đào tạo tay nghề cho nhân viên tác
nghiệp thông qua các buổi hội thảo, các cuộc
thi tay nghề, tổ chức tham quan trao đổi học
tập kinh nghiệm lẫn nhau.
Đây là hình thức đào tạo cụ thể, thiết thực cho
nhiều đối tượng có trình độ khác nhau đều có
thể tiếp thu được, nó tác động trực tiếp tới
chất lượng của đội ngũ nhân viên tác nghiệp
trong khách sạn.
Thứ ba, đào tạo theo yêu cầu công việc: Đào
tạo theo yêu cầu công việc là một loại hình đào
tạo dựa trên sự cá biệt hoá quá trình đào tạo
theo từng cá nhân, trên cơ sở phân tích và đánh
giá năng lực, trình độ do công việc đặt ra.
Đổi mới, cải tiến nội dung đào tạo nhân lực
tác nghiệp
Nội dung đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tác
nghiệp cần được cải tiến theo hướng sau đây:
- Cải tiến nội dung cần tập trung vào những
kiến thức chủ yếu cho việc phát triển kỹ năng
chuyên môn, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý
tình huống... kết hợp hài hoà với tình hình
thực tế. Cần phải xây dựng một chương trình
với các môn học có tính nền tảng như tâm lý
học du lịch, marketing du lịch, lịch sử văn
hoá Việt Nam truyền thống, khoa học và nghệ
thuật giao tiếp đồng thời với các môn học về
nghiệp vụ tác nghiệp của từng bộ phận như
buồng, bàn – bar, lễ tân, bảo vệ... với các thao
tác cụ thể.
- Xác định lại khung kiến thức cần có cho
từng loại nhân viên tác nghiệp, đây thật sự là
khâu rất quan trọng vì chỉ khi xác định được
khung kiến thức mới có thể bồi dưỡng có hiệu
quả cao.
Đa dạng hoá và lựa chọn phương pháp đào
tạo thích hơp
Các khách sạn có thể đào tạo thông qua một
số phương pháp như sau:
- Kèm cặp trong quá trình làm việc: Đối với
nhân viên các bộ phận trực tiếp phục vụ khách
hàng như lễ tân, buồng, phục vụ bàn, bar...
- Gửi đi đào tạo tại các trường, các cơ sở đào
tạo chuyên nghiệp: Khách sạn gửi một số
nhân viên bộ phận lễ tân, bếp, marketing... đi
đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, các
trường dạy nghề chính quy của Nhà nước để
được đào tạo bài bản.
- Đào tạo theo lớp: Khách sạn đứng ra mở lớp
mời giáo viên bên ngoài cùng cán bộ quản lý
Ngô Thị Huyền Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 73 - 78
77
trong doanh nghiệp tham gia giảng dạy về
kiến thức nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp ứng xử
với khách hàng cho các nhân viên các bộ
phận trực tiếp phục vụ khách hàng như lễ tân,
buồng, bàn, bar.
- Tự đào tạo: Phương pháp này đòi hỏi nhân
viên phải tự chủ động học hỏi để nắm vững
chuyên môn, công việc của mình. Tự đọc
sách báo, tài liệu, học hỏi kinh nghiệm của
những người đi trước, ghi tên học tập ở các
lớp ngoài giờ...
Tăng cường kinh phí cho công tác đào tạo
nhân lực tác nghiệp
Lao động trong khách sạn là một nguồn lực
hết sức quan trọng với hoạt động kinh doanh.
Đặc biệt là lao động tác nghiệp, là bộ phận có
đóng góp lớn nhất trong doanh thu của khách
sạn. Đầu tư vào nguồn lực con người là hoạt
động đầu tư mang lại lợi ích lâu dài cho
khách sạn, do đó khách sạn cần phải tăng
cường kinh phí cho đào tạo và bồi dưỡng
nhân lực.
Thực trạng cho thấy, khoản kinh phí dành cho
đào tạo trong khách sạn chưa phải là cao, chỉ
chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng chi phí kinh
doanh của khách sạn do đó khi thực hiện đào
tạo thì khách sạn chưa đáp ứng được thuê các
giáo viên giảng dạy có chất lượng từ các
trường, các cơ sở đào tạo có uy tín hay các
chuyên gia trong lĩnh vực khách sạn. Cho nên
nó có ảnh hưởng rất lớn tới thời gian và chất
lượng của các chương trình đào tạo.
KẾT LUẬN
Tăng cường sức cạnh tranh, nâng cao hiệu
quả kinh doanh là một trong những công việc
mà bất cứ một khách sạn nào cũng phải đề
cập tới. Để có thể làm tốt công việc này thì
các khách sạn ba sao cần phải có nhiều biện
pháp và nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực
đặc biệt là nhân lực tác nghiệp là một biện
pháp hợp lý, đội ngũ nhân lực tác nghiệp đã
mang lại tính hiệu quả trong kinh doanh nhờ
có trình độ chuyên môn cao, được trang bị
các kỹ năng cần thiết trong phục vụ nhu cầu
của khách hàng, sự ưu việt của đội ngũ nhân
viên sẽ tạo ra một sản phẩm mang tính chất
đặc thù của các khách sạn và giúp cho các
khách sạn hoạt động một cách hiệu quả hơn
trong môi trường cạnh tranh khốc liệt và nền
kinh tế khủng hoảng như hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2009),
Nghiệp vụ quản trị du lịch lữ hành, lễ tân, nhà
hàng, khách sạn và các quy định mới nhất về kinh
doanh du lịch, vệ sinh an toàn thực phẩm, Nxb
Lao động, Hà Nội
2. Dennis L. Foster (1999), Giới thiệu về ngành
kinh doanh khách sạn, (tài liệu dịch), Hà Nội
3. Trần Kim Dung (2001), Quản trị nguồn nhân
lực, Nxb Giáo dục, Hà Nội
4. Nguyễn Trọng Đặng, Nguyễn Doãn Thị Liễu,
Vũ Đức Minh, Trần Thị Phùng (2008), Quản trị
doanh nghiệp khách sạn – du lịch, Nxb Đại học
Quốc gia
5. Nguyễn Vân Điềm, Nguyễn Ngọc Quân (2007),
Quản trị nhân lực, Nxb Đại học kinh tế Quốc dân,
Hà Nội
6. Phạm Xuân Hậu (2004), Quản trị chất lượng dịch
vụ khách sạn – du lịch, Nxb Quốc gia, Hà Nội
7. Nguyễn Thanh Hội (2002), Quản trị nhân sự,
Nxb Thống kê, Hà Nội
8. http://www.hrlink.vn – Cộng đồng nhân sự
9. www.quantri.com.vn
10. www.saga.vn
11.http://www.tourism.edu.vn/index.php?catid=15
&itemid=62
12. www.vietnamtourism.gov.vn
13. www.vietnamtourism.com
14. http://vi.wikipedia.org – Bách khoa toàn thư mở
Ngô Thị Huyền Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 73 - 78
78
SUMMARY
HUMAN RESOURCE IN THREE STAR HOTELS
IN THAI NGUYEN PROVINCE
Ngo Thi Huyen Trang*, Tran Thi Tuyet, Nguyen Thi My Hanh College of Economics and Business Administration – TNU
It can be said that human resources have been playing an important role in hotel operation. Human
resource can help to generate revenue, profit to hotel. In fact, quality of human resource is far to
reach the world standard. Thus, it is necessary to train them to be skilled, qualified staff. However,
in Thai Nguyen, three star hotels still face with the difficulties in training, mainly because of
limited training cost. Through this research, somes solutions can be given to improve the quality of
hotel workforce in order to help hotels generate more revenue and profit.
Key words: hotel operations, three star hotels, Thai Nguyen province, quality
Ngày nhận bài:19/2/2014; Ngày phản biện:26/2/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Phạm Công Toàn – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0973 101496, Email: huyentrangksdl@gmail.com
Nguyễn Thị Kim Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 79 - 85
79
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CÔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Kim Nhung*, Chu Thị Thức Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Xu thế hội nhập quốc tế đã mang đến nhiều cơ hội và thách thức lớn cho nền kinh tế Việt Nam nói
chung và ngành tài chính - ngân hàng nói riêng. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thương mại tiếp
tục phát triển nhanh và ổn định sẽ tạo nên một cuộc cạnh tranh khốc liệt với các ngân hàng. Hiện
nay, đa số nguồn thu nhập hiện nay của các ngân hàng thương mại là từ hoạt động tín dụng, một
hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chính vì vậy, định hướng về mở rộng dịch vụ ngân hàng ngoài các
dịch vụ truyền thống được nhận định là chiến lược mang lại triển vọng lớn cho ngân hàng thương
mại Việt Nam đặc biệt là dịch vụ bán lẻ trong tương lai không xa. Nhận thức được sự thay đổi.
Không nằm ngoài xu hướng đó, trong thời gian qua, Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Đầu
tư và Phát triển chi nhánh Thái Nguyên đã mở ra những hướng mới để phát triển dịch vụ ngân
hàng bán lẻ.
Từ khóa: phát triển dịch vụ, ngân hàng bán lẻ, BIDV
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Thái Nguyên là địa bàn có nhiều ngân hàng
tham gia kinh doanh. Hệ thống ngân hàng
thương mại tại địa bàn tương đối phát triển.
Tính đến năm 2012, trên địa bàn thành phố
Thái Nguyên có 15 hệ thống ngân hàng
thương mại (NHTM) đang hoạt động, góp
phần tạo thêm sinh khí cho thị trường tài
chính tiền tệ trong tỉnh. Các NHTM trên địa
bàn thành phố Thái Nguyên giữ vững vị thế
"top 3" trên bản đồ NH cả nước. Cũng chính
vì thế mà sự cạnh tranh giữa các ngân hàng
diễn ra khá quyết liệt trên mọi mặt hoạt động.
Để có thể giữ vững được vị thế của mình
trong mọi lĩnh vực đặc biệt là dịch vụ, một
yêu cầu cấp thiết đối với chi nhánh Ngân
Hàng TMCP Đầu tư và phát triển Thái
Nguyên trong giai đoạn hiện nay là phải phát
triển các dịch vụ hiện có cũng như đa dạng
hóa các loại hình dịch vụ để tăng khả năng
tiếp cận với khách hàng, thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng, tăng doanh thu cũng như vị
thế trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.
Vai trò của dịch vụ ngân hàng trong nền
kinh tế
Cho đến nay, nhiều nghiên cứu đã đánh giá
cao vai trò của dịch vụ ngân hàng, cụ thể:
* Tel: 0917 007223, Email: Khanhha24507@gmail.com
Đối với nền kinh tế, dịch vụ ngân hàng góp
phần tích cực mang lại lợi ích chung cho nền
kinh tế, cho khách hàng và ngân hàng thông
qua việc giảm chi phí nhờ sự tiện ích và
chuyên môn hoá của từng loại dịch vụ: giảm
chi phí in ấn, kiểm đếm, bảo quản, vận
chuyển tiền, cũng như tiết kiệm nhân lực để
thực hiện giảm chi phí dịch vụ, giúp khách
hàng có nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm
dịch vụ. Đồng thời, dịch vụ ngân hàng
(DVNH) tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia
từ các nguồn kiều hối từ nước ngoài chuyển
về; cùng với đó, DVNH góp phần chống tham
nhũng, gian lận thương mại, buôn lậu, trốn
thuế. Có thể nói dịch vụ ngân hàng tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp tới hầu hết các khía
cạnh của nền kinh tế.
Đối với các khách hàng, thông qua các DV
cho vay, hệ thống NHTM giúp các doanh
nghiệp chuyển đổi cơ cấu sản xuất, dịch
chuyển vốn đầu tư, đổi mới trang thiết bị,
công nghệ, nhằm hạ giá thành sản phẩm, nâng
cao sức cạnh tranh, nhất là trong giai đoạn hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay.
Đối với ngân hàng, dịch vụ ngân hàng đem
lại cho ngân hàng các khoản thu nhập lớn về
phí dịch vụ. Phát triển dịch vụ ngân hàng đa
dạng, nhiều tiện ích theo hướng cải tiến
phương thức thanh toán, đơn giản hóa thủ tục,
mở rộng mạng lưới hoạt động... khách hàng
Nguyễn Thị Kim Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 79 - 85
80
đang lưu ký trên tài khoản thanh toán, ký quỹ.
Những tài khoản này ngân hàng không phải
trả lãi hoặc trả lãi thấp làm cho chi phí đầu
vào của nguồn vốn huy động giảm xuống, tạo
ra chênh lệch lớn giữa lãi suất bình quân cho
vay so với lãi suất bình quân tiền gửi.
Do đó, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng
gay gắt như hiện nay, việc đa dạng và phát
triển các dịch vụ ngân hàng sẽ đem lại ưu thế
vượt trội, nâng cao khả năng cạnh tranh của
ngân hàng. Dịch vụ ngân hàng hiện đại, phong
phú, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng sẽ
thu hút được khách hàng đến với mình.
Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại chi
nhánh Ngân Hàng TMCP Đâu tư và phát
triển Thái Nguyên
Hoạt động tại một tỉnh có nền kinh tế đa
thành phần, khách hàng là những doanh
nghiệp, công ty trách nhiệm hữu hạn, hộ cá
thể và cá nhân, với số tài khoản tiền gửi có
nhu cầu thanh toán qua ngân hàng tương đối
lớn như Thái Nguyên, trong thời gian vừa
qua, BIDV Thái Nguyên đã không ngừng
quan tâm, chú trọng đến dịch vụ ngân hàng để
khai thác và thu hút tối đa thị trường.
Về huy động vốn, từ năm 2010 – 2012, BIDV
Thái Nguyên vẫn giữ được quy mô tăng
trưởng khá cao trong huy động vốn. Tổng huy
động vốn tăng từ 2010 tỷ đồng lên 2.792 tỷ
đồng năm 2012. Kết quả này cho thấy khả
năng huy động vốn của chi nhánh BIDV Thái
Nguyên là rất mạnh, khách hàng khá tin
tưởng vào uy tín ngân hàng.
Về hoạt động tín dụng, chi nhánh BIDV Thái
Nguyên đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hoá
hình thức tài trợ sao cho vốn ngân hàng tiếp
cận được khách hàng nhiều nhất qua các hình
thức cho vay: thu mua nông sản; dự trữ vật tư,
nguyên liệu phục vụ sản xuất; chiết khấu bộ
chứng từ hàng xuất, đầu tư mở rộng, bổ sung
tài sản cố định, phục vụ tiêu dùng. Năm 2012,
tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của Chi nhánh
là 3965 tỷ đồng và vẫn giữ mức tăng ổn định
so với các năm 2010 và 2011.
Với phương châm như trên, tổng dư nợ cho
vay nền kinh tế của Chi nhánh tăng trưởng
qua các năm từ 2.899 tỷ đồng vào năm 2010
và đến năm 2011 là 3.496 tỷ đồng, tăng
20,5% so với năm 2011. Năm 2011 do chính
sách thắt chặt tín dụng và suy thoái kinh tế
xong con số này vẫn tăng 41,76% so với năm
2012. Hiện nay chi nhánh BIDV Thái Nguyên
đáp ứng ngày nhiều hơn nhu cầu vốn cho nền
kinh tế. Những năm trở lại đây, Chi nhánh tập
trung phát triển khối doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và hộ gia đình với mức tài trợ cho đối
tượng này bắt đầu tăng dần qua các năm và
giảm dần việc tài trợ cho khối DNNN không
hiệu quả. Đồng thời, chi nhánh cũng giảm dần
việc xem xét cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản với tỷ lệ nợ không có tài sản bảo đảm
năm 2012 là 10,69% giảm so với 17,5% của
năm 2010 nhằm giảm rủi ro không có khả
năng thu hồi vốn từ tài sản đảm bảo. Thị phần
tín dụng chiếm 25,84% địa bàn, tăng 5,94%
so năm 2011.
Về dịch vụ thanh toán và tài trợ thương mại.
Chi nhánh vận dụng nhiều kênh thanh toán
(thanh toán song phương với hệ thống
NHCT, NHNN VÀ PTNT, HSBC,Kỹ
Thương, Quốc tế…; Thanh toán bù trừ, thanh
toán điện tử…) với các phương thức thanh
toán qua ngân hàng như: ủy nhiệm thu, ủy
nhiệm chi, chuyển tiền điện tử… để phục vụ
nhu cầu thanh toán đa dạng của khách hàng.
Tình hình dư nơ tại Chi nhánh BIDV Thái Nguyên
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Tổng dư nơ 2.899 3.495 3.965
Trong đo:
- Dư nợ ngắn hạn 2.058 2.542 3.103
Tỷ trọng(%) 70,9 72,7 62,6
- Dư nợ trung và dài hạn 841 954 1107
Tỷ trọng(%) 29,1 27,3 37,4
(Nguồn: Báo cáo tổng kết BIDV Thái Nguyên)
Nguyễn Thị Kim Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 79 - 85
81
Tình hình thanh toán nội địa tại Chi nhánh BIDV Thái Nguyên
Đơn vị:tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
-Tổng doanh số phương thức TT qua NH 22.105 27.165 31.561
- Doanh số TT bằng tiền mặt 1.095 564 356
Tỷ trọng(%) 4,9 2,07 1,1
- Doanh số TT không dùng tiền mặt 21.010 26.601 30.856
Tỷ trọng(%) 95,7 97,9 98.9
(Nguồn: Báo cáo tổng kết BIDV Thái Nguyên)
Doanh số tài trơ xuất nhập khẩu tại Chi nhánh BIDV Thái Nguyên
Đơn vị:tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
1.Thanh toán nhập khẩu
- L/C 109,2 124 134
2.Thanh toán xuất khẩu
- L/C 54 70 97
Doanh số chiết khấu BCT xuất khẩu 0 0 0
(Nguồn: Báo cáo tổng kết BIDV Thái Nguyên)
Chi nhánh vận dụng nhiều kênh thanh toán
(thanh toán song phương với hệ thống
NHCT, NHNN VÀ PTNT, HSBC,Kỹ
Thương, Quốc tế…; Thanh toán bù trừ, thanh
toán điện tử…) với các phương thức thanh
toán qua ngân hàng như: ủy nhiệm thu, ủy
nhiệm chi, chuyển tiền điện tử… để phục vụ
nhu cầu thanh toán đa dạng của khách hàng.
Năm 2010 lượng thanh toán không dùng tiền
mặt là 21.010 tỷ đồng, con số này ước đến
cuối năm 2011 tăng 97.9% đạt 26.601tỷ đồng.
Bên cạnh đó thanh toán không dùng tiền mặt
vào cuối năm 2011 cũng tăng 98.9% so với
năm 2012. Tỷ trọng thanh toán không dùng
tiền mặt chiếm hơn 80% vào năm 2010 cho
thấy những năm gần đây thanh toán bằng tiền
mặt đang giảm dần và thay vào đó thanh toán
không dùng tiền mặt có sự gia tăng đáng kể.
Thái Nguyên là nơi cũng có khu công nghiệp
địa bàn không thuận lợi, chi nhánh đã tận
dụng được lợi thế về uy tín cũng như chất
lượng của mình để đầu tư vào các khu công
nghiệp cũ và mới. Vì vậy hoạt động tài trợ
xuất nhập khẩu của chi nhánh khá mạnh. Con
số có thể biểu hiện qua bảng trên. Hoạt động
tài trợ XK tại chi nhánh Ngân Hàng
TMCPĐT và PT Thái Nguyên ngày càng phát
triển, do tận dụng địa thế chi nhánh TMCP
Đầu Tư và Phát Triển Thái Nguyên đưa ra
nhiều chính sách thu hút khách hàng, đặc biệt
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do đó,
doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của chi
nhánh khá mạnh. Uớc đến cuối năm 2010
doanh số thanh toán nhập khẩu tăng 55% so
với năm 2012. Trong đó doanh số thanh toán
L/C tăng 48% so với năm 2011. Tỷ trọng của
thanh toán L/C so với tổng thanh toán nhập
khẩu tính đến cuối năm 2010 chiếm khoảng
gần 50%.
Dịch vụ thẻ, hiện nay, BIDV Thái Nguyên đã
thực hiện trả lương qua tài khoản cho trên 200
đơn vị cả ngân sách và ngoài ngân sách. Tổng
số thẻ ATM đã phát hành 25.815 thẻ. Tổng
phí dịch vụ thẻ là 530 trđ tăng 61,66% so với
năm trước. Hiện chi nhánh có 10 máy ATM
do được lựa chọn kỹ vị trí nên đã phát huy
hiệu quả hoạt động của các máy. Số giao dịch
bình quân là 380 giao dịch/máy/ngày và
doanh số giao dịch bình quân 750
trđ/máy/ngày. Từ tháng 7/2009 nhằm vào đối
tượng khách hàng có nguồn thu nhập cao nên
việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn. Trong
năm chi nhánh đã phát hành 80 thẻ VISA,
nâng tổng số thẻ VISA lên 286 thẻ.
Nguyễn Thị Kim Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 79 - 85
82
Tình hình sử dụng thẻ ATM tại Chi nhánh BIDV Thái Nguyên
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Số thẻ quốc tế Thẻ 80 190 216
Số thẻ nội địa Thẻ 6.388 18.809 19.032
Số dư trên tài khoản thẻ Tỷ đồng 9.592 10.955 13.867
Số lượng máy ATM Máy 10 13 13
Số lượng ĐVCNT Đơn vị 12 16 44
(Nguồn: Báo cáo tổng kết BIDV Thái Nguyên)
Tình hình mua bán ngoại tệ tại Chi nhánh BIDV Thái Nguyên
Đơn vị: triệu USD
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
- Doanh số mua ngoại tệ 70 85 105.45
- Doanh số bán ngoại tệ 99.57 101 154.7
(Nguồn: Báo cáo tổng kết BIDV Thái Nguyên)
Tình hình thu chi tiền mặt tại Chi nhánh BIDV Thái Nguyên
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Thu VNĐ 614,915 736,802 805,25
Chi VNĐ 570 602 791
Thu ngoại tệ (USD) 2,6 3,5 4,85
Chi ngoại tệ (USD) 0,373 0,586 1,05
(Nguồn: Báo cáo tổng kết BIDV Thái Nguyên)
Tổ nghiệp vụ thẻ ATM trong năm qua đã tích
cực triển khai công tác quảng cáo, tiếp thị
dịch vụ thẻ và triển khai chỉ thị 20 trả lương
qua tài khoản cho các đơn vị hưởng lương từ
NSNN. Hiện nay đã thực hiện trả lương qua
tài khoản cho trên 200 đơn vị cả ngân sách và
ngoài ngân sách, với hàng nghìn cán bộ công
nhân viên. Tổng số thẻ ATM đã phát hành
25.815 thẻ trong đó số thẻ phát hành mới
trong năm 2010 là 6.388 thẻ. Tổng phí dịch
vụ thẻ là 530 trđ tăng 61,66% so với năm
trước. Hiện chi nhánh có 10 máy ATM thực
hiện bình quân là 380 giao dịch/máy/ngày và
doanh số giao dịch bình quân 750
trđ/máy/ngày. Chi nhánh mới thực hiện phát
hành thẻ VISA tới khách hàng từ tháng
7/2009 nhằm vào đối tượng khách hàng có
nguồn thu nhập cao nên việc triển khai còn
gặp nhiều khó khăn. Trong năm chi nhánh đã
phát hành 80 thẻ VISA, nâng tổng số thẻ
VISA lên 286 thẻ.
Về kinh doanh tiền tệ, doanh số bán ngoại tệ
của BIDV Thái Nguyên năm 2012 có sự gia
tăng mạnh mẽ so với những năm trước đó.
Từ kết quả tổng kết, có thể dễ dàng nhận thấy
doanh số bán ngoại tệ năm 2010 là 99,57
USD tăng 102,5% so với năm 2009. Tổng thu
dịch vụ ròng từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ
đạt: 2,6 tỷ đồng tăng. Trong khi đó, doanh số
bán ngoại tệ năm 2011 là 101 triệu USD tăng
1,1% so với năm 2010. Tổng thu dịch vụ ròng
từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ và phái sinh
(gồm cả số ghi nhận) đạt: 9,5 tỷ đồng. Doanh
số bán ngoại tệ năm 2012 là 154,7 triệu USD
tăng 53% so với năm 2011. Tổng thu dịch vụ
ròng từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ và phái
sinh đạt: 7,66 tỷ đồng.
Về dịch vụ ngân quỹ, thực hiện chỉ đạo của
TW, chi nhánh đã chủ động tính toán, cân đối
xác định lượng tiền mặt tồn quỹ phù hợp. Chủ
động trong công tác lập kế hoạch nguồn tiền
mặt, căn cứ doanh số giao dịch tiền mặt
thường xuyên hàng ngày, lượng tiền xuất đầu
ngày cho các PGD, quỹ tiết kiệm, lượng tiền
nạp cho máy ATM để cân đối nguồn tiền mặt,
giảm thiểu lượng tiền mặt tồn tại quỹ, nâng
cao hiệu suất sử dụng vốn và hiệu quả kinh
doanh của chi nhánh. Công tác tiền tệ kho quỹ
Nguyễn Thị Kim Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 79 - 85
83
luôn đảm bảo an toàn tuyệt đối với tinh thần
trách nhiệm cao, nghiêm chỉnh chấp hành các
quy định về chế độ giao nhận, bảo quản, vận
chuyển tiền mặt, tài sản quý, giấy tờ có giá trị.
Lượng tiền VNĐ thu vào năm 2010 là
614,915 tỷ đồng, đến cuối năm 2011 tăng
19%, tương ứng lượng tiền chi tại quầy vào
năm 2012 cũng tăng 9% so với năm 2011.
Có thể thấy hoạt động từ dịch vụ ngân quỹ rất
mạnh, lượng tiền thu chi tăng đều qua các
năm. Lượng tiền VNĐ thu vào năm 2010 là
614,915 tỷ đồng, đến cuối năm 2011 tăng
19%, tương ứng lượng tiền chi tại quầy vào
năm 2012 cũng tăng 9% so với năm 2011.
Các dịch vụ khác như : E-Banking, bankplus,
Bảo lãnh ngân hàng, Dịch vụ kiều hối, Dịch
vụ chuyển tiền du học đều có những bước
tăng trưởng đáng kể.
Có thể thấy, đóng góp đáng kể của mảng dịch
vụ trong tỷ trọng lợi nhuận của ngân hàng
BIDV chi nhánh Thái Nguyên đã tăng đáng
kể qua các năm. Phát triển dịch vụ là hướng
đi bền vững cho ngân hàng thương mại nói
chung và BIDV Thái Nguyên nói riêng.
Trong ba lĩnh vực hoạt động chính của BIDV
(tín dụng, đầu tư và dịch vụ), hoạt động tín
dụng là hoạt động truyền thống đã được khai
thác một cách triệt để. Qua các kết quả đã đạt
được, có thể thấy, đóng góp đáng kể của
mảng dịch vụ trong tỷ trọng lợi nhuận của
ngân hàng BIDV chi nhánh Thái Nguyên đã
tăng đáng kể qua các năm nhờ đó giúp bù đắp
một phần sự sụt giảm từ mảng tín dụng (xem
biểu đồ).
Một số đề xuất nhằm phát triển dịch vụ
bán lẻ của BIDV Thái Nguyên
Trong thị trường dịch vụ ngân hàng đầy sôi
động và cạnh tranh như hiện nay thì Chất
lượng - Tiện ích - Tính đa dạng sản phẩm -
Mạng lưới phân phối rộng khắp là điều mà
khách hàng đòi hỏi ở dịch vụ Ngân hàng
nhiều hơn là giá cả dịch vụ. Vì thế, để phát
triển hoạt động dịch vụ theo hướng mới và
hiện đại, BIDV Thái Nguyên cần chủ động
nghiên cứu để có giải pháp phù hợp đối với
từng mảng dịch vụ, cụ thể:
Đối với dịch vụ thẻ ATM: Khai thác tất cả các
lợi thể tiện ích của thẻ về các ưu điểm: số tiền
rút được nhiều, giao dịch tại máy ATM để trả
tiền dịch vụ cung ứng qua thẻ, các chính sách
khuyến mãi, chăm sóc khách hàng đi kèm.
Đặc biệt khai thác ưu thế công nghiệp thẻ
chip. Sử dụng triệt để các phương thức
khuyến mãi, tạo giá trị gia tăng để khai thác
khách hàng tập thể tại các trường học, cơ
quan, doanh nghiệp, tổ chức..., phát triển
mạnh dịch vụ trả lương qua ATM bán chéo
các sản phẩm như: bảo hiểm, cho vay thấu
chi... Đi đôi với tăng lượng máy ATM, soát
xét lại từng vị trí đặt máy bảo đảm các yêu
cầu hiệu quả như: thuận tiện cho khách, có
sức thu hút, tăng tối đa thời gian giao dịch,
bảo đảm an toàn, trang trí maquette đẹp,
thống nhất đặc trưng thương hiệu thẻ của đơn
vị và khai thác triệt để khả năng quảng cáo
hình ảnh thương hiệu trên màn hình chờ của
máy. Cùng với kênh phân phối mới này là
vấn đề bảo mật và an toàn, vì đây là rủi ro của
DVNH và vấn đề chuyên viên kỹ thuật để bảo
hành công nghệ.
Đối với dịch vụ ngoại hối và thẻ tín dụng
quốc tế: Củng cố bàn đổi ngoại tệ trực tiếp tại
các chi nhánh ngân hàng, phòng giao dịch.
ngân hàng căn cứ tỷ giá thông báo đầu ngày
của Hội sở để yết giá mua, bán từng loại
ngoại tệ hợp lý, có tính cạnh tranh trên địa
bàn nhằm thu hút khách hàng giao dịch ngoại
tệ cả tiền mặt lẫn chuyển khoản. Các phòng
giao dịch đủ điều kiện nên kết hợp tổ chức
mua bán đổi ngoại tệ.
Đối với dịch vụ Ngân hàng về du học: Nghiên
cứu, tổng kết mô hình dịch vụ du học khép
kín từ nghiệp vụ cho vay, phát hành thư bảo
lãnh đến nghiệp vụ chuyển tiền học phí ra
nước ngoài, các dịch vụ hỗ trợ dịch thuật, xác
nhận số dư..., từ đó triển khai thành quy trình
nghiệp vụ chung trong toàn chi nhánh.
Nguyễn Thị Kim Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 79 - 85
84
Biểu đồ kết quả hoạt động kinh doanh tại chi nhánh BIDV Thái Nguyên
Một điểm quan trọng tiếp theo là cần kết hợp
dịch vụ hỗ trợ để tạo ra các sản phẩm mang
tính tổng hợp. Dịch vụ này sẽ giúp ngân hàng
tạo lập và duy trì quan hệ với những khách
hàng có thể tạo triển vọng sinh lời, mang lại
thành công ổn định, lâu dài cho ngân hàng,
đồng thời có thể thu hút thêm nhiều khách
hàng của các công ty bảo hiểm sử dụng sản
phẩm và dịch vụ ngân hàng.
Bên cạnh việc thực hiện các giải pháp đồng
bộ đã nêu trên để đối với các mảng dịch vụ,
BIDV Thái Nguyên cần đổi mới về nhiều
mặt: quản trị điều hành; bổ sung chỉ tiêu định
lượng trong hệ thống chỉ tiêu kế hoạch; về
công tác marketing, chăm sóc khách hàng;
phát triển về công nghệ ngân hàng tạo điều
kiện cho BIDV Thái Nguyên có điều kiện
phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ ngân
hàng; tăng cường năng lực hoạt động và tài
chính của ngân hàng; phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực để thu hút nhân
tài, cán bộ nghiệp vụ và cán bộ quản lý có
trình độ cao đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh
doanh trong xu thế hội nhập thông qua xây
dựng hệ thống khuyến khích và chế độ quản
lý lao động phù hợp; xây dựng các hình thức
quảng bá đa dạng như: phát hành bản tin,
trang website, tham gia quảng cáo... để lôi
cuốn hướng dẫn khách hàng cũng như
khuyếch trương hình ảnh của mình.
KẾT LUẬN
Thái Nguyên là một môi trường kinh tế năng
động, đang trên đà phát triển ở nhịp độ cao
với nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng hiện
đại lớn. Trong tương lai không xa, doanh số
và lợi nhuận của hoạt động dịch vụ sẽ dần
chiếm tỷ trọng đáng kể và trở nên quan trọng
trong kinh doanh của BIDV Thái Nguyên. Vì
vậy, phát triển dịch vụ là một hướng đi bền
vững, lâu dài cho NHTMCP Đầu tư và phát
triển chi nhánh Thái Nguyên.
Bài viết với nội dung phát triển dịch vụ bán lẻ
của BIDV Thái Nguyên đã tập trung giải
quyết một số vấn đề sau.
- Vai trò của dịch vụ ngân hàng trong nền
kinh tế
- Phản ánh thực trạng phát triển dịch vụ ngân
hàng bán lẻ tại BIDV chi nhánh Thái Nguyên.
- Đưa ra một số đề xuất phát triển dịch vụ bán
lẻ tại BIDV chi nhánh Thái Nguyên
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn (2010), Tiền Tệ
Ngân Hàng, Nhà xuất bản Thống kê
2. PGS.TS. Nguyễn Minh Kiều, (2012), Nghiệp
vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Lao
động-xã hội.
3. Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển chi
nhánh Thái Nguyên (2010,2011,2012), Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh, Thuyết minh báo
cáo tài chính đã được kiểm toán.
4. Quốc hội, Luật tổ chức tín dụng số
47/2010/QH12 ban hành ngày 01/01/2011.
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
1.Tổng
nguồn vốn
2. Nguồn
vốn tự huy
động
3. Tổng dư
nợ
4. Lợi nhuận
trước thuế
5. Thu dịch
vụ ròng
Tốc độ phát triển
bìnhquân(%)
Năm2012
Năm2011
Năm 2010
Nguyễn Thị Kim Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 79 - 85
85
SUMMARY
DEVELOPING RETAIL BANKING SERVICES AT BIDV
(BANK FOR INVESTMENT AND DEVELOPMENT OF VIETNAM)
- THAI NGUYEN BRANCH
Nguyen Thi Kim Nhung*, Chu Thi Thuc College of Economic and Business Administrations - TNU
The trend toward international intergration has brought many opportunities and challenges for
Vietnam’s economy in general and finance – banking in particular. In addition, the commercial
banking system maintains a rapid and stable development continuously which will bring out a
fiercely competition for the banks. Currently, the most of present income of commercial banks
come from credit sector and itself contains implicit risks. Therefore, orientation of wide - open for
Vietnamese commercial banks especially retail services in the near future. Being aware of that
change. Not out of that trend, in recent years, joint Stock commercial Bank for Investment
and Development of Vietnam branch of Thai Nguyen has opened new directions to develop
retail services.
Keywords: serviece development, retail bank, BIDV
Ngày nhận bài:14/4/2014; Ngày phản biện:27/4/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Hoàng Thị Thu – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0917 007223, Email: Khanhha24507@gmail.com
Nguyễn Thị Kim Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 79 - 85
86
Nguyễn Thị Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 87 - 94
87
NGHIÊN CỨU CƠ CẤU ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
Nguyễn Thị Nhung*
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh - ĐH Thái nguyên
TÓM TẮT Hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ trong những thập kỷ gần đây và thực sự
trở thành một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế hiện đại. Đối với từng quốc gia, đầu tư ra nước
ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, sự vận động của nó có tác dụng to lớn và ảnh hưởng trực tiếp
đến tốc độ phát triển và tính bền vững của kinh tế toàn cầu. Với những lợi ích to lớn đó, các doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập cũng đã mạnh dạn tham gia vào thị trường này từ năm
1989 và đến nay đã đạt được những thành công bước đầu, tuy nhiên vẫn còn khá nhiều bất cập.
Trong khi Việt Nam vẫn rất cần vốn từ trong nước để phát huy nội lực thì vẫn có tới gần 70% vốn
đầu tư ra nước ngoài thuộc các tập đoàn của Nhà nước với gần 69% vốn đầu tư dưới hình thức
100% vốn Việt Nam và đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm tới 78,74% tổng vốn đầu tư ra nước
ngoài… Để thấy rõ hơn về thực trạng hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam từ 1989 đến
nay, tác giả nghiên cứu cơ cấu đầu tư theo ngành; cơ cấu đầu tư theo quốc gia, vùng lãnh thổ; cơ cấu
đầu tư theo tỉnh, thành phố của nước đầu tư và cuối cùng là nghiên cứu cơ cấu đầu tư theo hình thức,
chủ thể đầu tư từ đó chỉ ra những cơ cấu đầu tư cần điều chỉnh trong thời gian tới căn cứ vào điều kiện
kiện tại của Việt Nam cũng như từ những kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới.
Từ khóa: đầu tư, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, cơ cấu đầu tư
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế đang diễn ra nhanh chóng đã và đang
tác tộng mạnh mẽ đến sự vận động, phát triển
của nền kinh tế thế giới và nền kinh tế của các
quốc gia. Song song với việc thu hút vốn đầu
tư trực tiếp từ bên ngoài (FDI), đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài (OFDI) là phương thức
không thể thiếu được ở một quốc gia thực
hiện chính sách kinh tế mở để hội nhập kinh
tế quốc tế. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thực
chất là việc chuyển các nguồn lực có lợi thế
so sánh hay sản xuất dư thừa ở trong nước
như vốn, lao động, công nghệ,... ra bên ngoài
phạm vi quốc gia để tạo thế cạnh tranh, nâng
cao năng lực sản xuất, tìm nguồn tài nguyên
thay thế, hạn chế ô nhiễm môi trường ở trong
nước và mở rộng thị trường tiêu thụ nhằm thu
được lợi ích cao nhất trong kinh tế. Do vậy,
sự vận động của nó có tác dụng to lớn và ảnh
hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển và tính
bền vững của kinh tế toàn cầu. Đối với từng
quốc gia, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có ý
* Tel: 0984 238716, Email: Nhung76qtkd@yahoo.com.vn
nghĩa cực kỳ quan trọng vì nó không chỉ được
coi là “chiếc bánh thứ hai” cho nền kinh tế mà
qua đó nó còn tạo điều kiện để các doanh
nghiệp tự hoàn thiện mình để nâng cao vị thế
của doanh nghiệp trên thị trường, góp phần
phát triển kinh tế, hoàn thiện các chính sách
kinh tế của đất nước. Năm 1989, Việt Nam
bắt đầu tiến hành hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài với duy nhất một dự án là dự án
giữa đối tác Việt Nam với một đối tác Nhật
Bản với số vốn đăng ký là 563 380 USD. Tuy
số vốn đăng ký của dự án không nhiều nhưng
đây được coi là dự án có tính chất mở đường
cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của nước ta. Đến nay, hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã có những khởi sắc, hiện
Việt Nam đã có 742 dự án của các doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ra 59 quốc gia và
vùng lãnh thổ, với tổng vốn đầu tư đăng ký
đạt trên 33,48 tỷ USD, trong đó phần vốn của
nhà đầu tư Việt Nam đã vượt 15,5 tỷ USD[2].
Trong khi câu chuyện thu hút và hấp thụ vốn
FDI của nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn
đang gây tranh cãi, thì hiệu quả của những dự
án đầu tư ra nước ngoài cũng là một vấn đề
Nguyễn Thị Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 87 - 94
88
“nóng” khác. Trên thực tế, trong khoảng vài
năm trở lại đây, có nhiều dự án đầu tư ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra
khá hiệu quả. Đó là các dự án đầu tư trong
các lĩnh vực như công nghệ, viễn thông, hàng
không,... Bên cạnh đó, không phải không có
những trường hợp lập dự án ảo để chuyển
ngoại tệ ra nước ngoài một cách hợp pháp cho
nhiều mục đích khác nhau nhằm mục đích
tránh thuế, rửa tiền hoặc không phù hợp với
định hướng. Chính vì thế, để có thể nhìn nhận
rõ ràng hơn về hoạt động đầu tư ra nước
ngoài, cần có những cơ chế “lọc”, xem xét cơ
cấu dòng vốn này một cách hợp lý tức là
trước hết ta phải nghiên cứu được cơ cấu đầu
tư để thấy được tính hợp lý hay bất hợp lý,
tính phù hợp với điều kiện hiện tại, có theo
đúng quy luật phát triển kinh tế hay không?
Thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng
phương pháp tổng hợp, phân tích so sánh-
một phương pháp cơ bản trong nghiên cứu cơ
cấu đầu tư để thấy rõ được thực trạng, những
cơ cấu đầu tư cần điều chỉnh trong thời gian
tới căn cứ vào điều kiện kiện tại của Việt
Nam cũng như từ những kinh nghiệm của các
nước khác trên thế giới.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Tình hình đâu tư ra nước ngoài của Việt
Nam giai đoạn 1989 - 2013
Tính đến ngày 20/3/2013 đã có 742 dự án đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt
15,5 tỷ USD. Như vậy, nếu tính quy mô bình
quân vốn một dự án thì so với dự án FDI quy
mô vốn bình quân chỉ là 14,5tr$/dự án thì với
dự án OFDI bình quân lên tới trên 45,1tr$/dự
án, nếu dựa theo số vốn thực hiện là 15,5tỷ$
thì bình quân cũng lên tới 20,89tr$/dự án [2].
Điều này cho thấy hoạt động OFDI của Việt
Nam không còn manh mún, nhỏ lẻ.
Qua số liệu trên cho thấy, từ năm 2000 đặc
biệt từ năm 2006 đến nay có sự bùng nổ mạnh
mẽ về số dự án mà doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư ra nước ngoài, điều này có được là do
chính sách mở cửa của nền kinh tế nước ta
đặc biệt từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Nghiên cứu cơ cấu đâu tư ra nước ngoài
của Việt Nam giai đoạn 1989 – 2013
Để thấy rõ phần nào thực trạng của hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam, ta nghiên
cứu cơ cấu đầu tư theo ngành, địa bàn đầu tư,
địa bàn chủ đầu tư, và theo chủ thể, hình thức
đầu tư.
Bảng 1: Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1989 – 2013
Năm Số dự
án Tổng vốn
(USD) Vốn bình
quân 1 dự án Năm Số dự
án Tổng vốn
(USD) Vốn bình
quân 1 dự án
1989 1 563380 563380 2002 15 721726576 48115105
1990 0 0 (-) 2003 24 312690970 13028790
1991 3 4000 1333.333 2004 15 10760923 717394.9
1992 3 5282051 1760684 2005 35 549321749 15694907
1993 4 691 172.7078 2006 35 150558728 4301678
1994 3 1306811 435603.7 2007 80 1067558005 13344475
1995 0 0 (-) 2008 105 3051673234 29063555
1996 0 0 (-) 2009 90 2176537203 24183747
1997 0 0 (-) 2010 108 14501623055 134274287
1998 2 1850000 925000 2011 78 2384425566 30569559
1999 9 12177793 1353088 2012 84 1414416528 16838292
2000 15 7165370 477691.3 T3/2013 20 7115376388
355768819,4
2001 13 7696452 592.0348 Tổng 742 33,485,026,751 45128068.4
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch Đầu tư)
Nguyễn Thị Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 87 - 94
89
Biểu đồ 1: Biểu đồ phản ánh tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam theo thời gian (1989 -2013)
Bảng 2: Cơ cấu đầu tư ra nước ngoài phân theo ngành
TT Ngành Số dự án Cơ cấu
(%)
Vốn đâu tư của dự
án ở nước ngoài
(USD)
Cơ cấu
(%)
Công nghiệp 261 35.18 26,365,155,942 78.74
1 Khai khoáng 99 13.34 23,471,679,986 70.10
2 CN chế biến,chế tạo 124 16.71 718,562,144 2.15
3 SX,pp điện,khí,nước,đ.hòa 9 1.21 2,117,875,678 6.32
4 Xây dựng 29 3.91 57,038,134 0.17
Nông nghiệp 80 10.78 2052822766 6.13
5 Nông,lâm nghiệp;thủy sản 80 10.78 2,052,822,766 6.13
Dịch vụ 401 54.04 5067048043 15.13
6 Thông tin và truyền thông 42 5.66 1,494,470,243 4.46
7 Tài chính,n.hàng,bảo hiểm 28 3.77 572,844,000 1.71
8 Dvụ lưu trú và ăn uống 29 3.91 545,136,549 1.63
9 KD bat động sản 29 3.91 466,640,259 1.39
10 Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa 158 21.29 294,845,159 0.88
11 Vận tải kho bui 19 2.56 269,149,379 0.80
12 Y tế và trợ giúp XH 5 0.67 79,180,471 0.24
13 HĐ chuyên môn, KHCN 63 8.49 44,848,783 0.13
14 Nghệ thuật và giải trí 5 0.67 1,239,215,000 3.70
15 Hành chính và dvụ hỗ trợ 11 1.48 38,780,000 0.12
16 Cấp nước;xử lý chat thải 2 0.27 8,900,000 0.03
17 Dịch vụ khác 7 0.94 4,722,500 0.01
18 Giáo dục và đào tạo 3 0.40 8,315,700 0.02
Tổng số 742 100.00 33,485,026,751 100.00
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch Đầu tư)
0
20
40
60
80
100
120
Nguyễn Thị Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 87 - 94
90
Cơ cấu đầu tư theo ngành
Đến năm 2013, các dự án đầu tư của Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài ở ngành công
nghiệp với 261 dự án với 26.365.155.942
USD vốn đăng ký, trong đó lại tập trung phần
lớn vào ngành công nghiệp khai khoáng với
99 dự án, chiếm tới 70% vốn đầu tư. Như
vậy, các dự án đầu tư thuộc ngành công
nghiệp chiếm khoảng 1/3 tổng số dự án
nhưng chiếm tới gần 4/5 vốn đầu tư đăng ký.
Điều này cho thấy mức độ tập trung vốn vào
ngành này là rất lớn. Tuy nhiên, vốn đầu tư
vào ngành này cũng có xu hướng giảm dần,
năm 2007 chiếm tới 84,54% tổng vốn đầu tư
nhưng đến năm 2011 giảm xuống chỉ còn
63,72% vốn thực hiện năm 2013 trong khi đó
ngành nông nghiệp và dịch vụ tuy chiếm số
vốn đầu tư ít hơn nhưng đang có xu hướng
tăng đặc biệt là ngành dịch vụ có tỷ lệ vốn
đầu tư thực hiện tăng nhanh nhất từ 8,83%
năm 2007 tăng lên 27,25% năm 2011.Tiếp
theo là ngành nông, lâm, thủy sản chế biến
với 80 dự án, tổng vốn đầu tư 1,9 tỷ USD
(chiếm 10,8% số dự án và 12,6% tổng vốn
đầu tư). Ngành dịch vụ, đến năm 2013 có tới
401 dự án chiếm trên 54% nhưng vốn đầu tư
chỉ chiếm 15,13% tổng vốn đăng ký.
Qua phân tích ở trên cho thấy, đầu tư ra nước
ngoài của Việt Nam là khá đa dạng về lĩnh
vực, ngành nghề kinh doanh nhưng chủ yếu
vẫn tập trung vào những ngành có công nghệ
sản xuất thấp để tận dụng nguồn nhân công
giá rẻ, tận dụng nguồn tài nguyên dồi dào của
các nước điều này phản ánh thực trạng về
tài chính và công nghệ của các doanh
nghiệp Việt Nam và sự thiếu hụt về năng
lượng, nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất
trong nước.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một trong
những biện pháp quan trọng để mở rộng tiêu
thụ sản phẩm và chủ động được nguồn
nguyên liệu, tài nguyên, khoáng sản, năng
lượng cung cấp về trong nước, góp phần thúc
đẩy sản xuất trong nước phát triển trong dài
hạn. Do vậy, trong thời gian đầu, nước ta tập
trung đầu tư vào ngành công nghiệp là khá
hợp lý. Hơn nữa, trong giai đoạn đầu thì hoạt
động đầu tư ra nước ngoài thường gắn với các
tập đoàn nhà nước mà để phát huy lợi thế
chuyên môn, ngành nghề của doanh nghiệp
thì thường cũng là các lĩnh vực, công nghiệp
khai khoáng, sản xuất phân phối điện, công
nghiệp chế tạo nên cơ cấu vốn đầu tư ra nước
ngoài chiếm gần 80% ở lĩnh vực này vẫn là
phù hợp. Tuy nhiên, khi hoạt động đầu tư của
các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước giảm
dần mà chuyển sang các loại hình khác thì cơ
cấu đầu tư cũng cần chuyển sang lĩnh vực
phát triển hệ thống phân phối sản phẩm,
ngành dịch vụ, đây là những ngành không đòi
hỏi vốn đầu tư nhiều và rủi ro không lớn như
ngành công nghiệp khai khoáng.
Bảng 3: 10 quốc gia có số dự án đầu tư của Việt Nam lớn nhất tính đến năm 2013
TT Quốc gia Số dự án Cơ cấu (%) Vốn đâu tư (USD) Cơ cấu (%)
1 Lào 227 30.59 4,994,334,586 14.92
2 Campuchia 129 17.39 2,924,868,170 8.73
3 Hoa Kỳ 97 13.07 378,563,626 1.13
4 Singapore 46 6.20 1,022,967,701 3.06
5 Hàn Quốc 23 3.10 10,618,500 0.03
6 Liên bang Nga 17 2.29 4,630,851,831 13.83
7 Nhật Bản 17 2.29 4,294,167 0.01
8 Australia 15 2.02 187,994,540 0.56
9 Hồng Kông 14 1.89 15,998,875 0.05
10 Trung Quốc 12 1.62 15,071,900 0.05
Tổng 10 quốc gia 597 80.46 14185563896 42.36
Tổng 59 quốc gia 742 100.00 33,485,026,751 100.00
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch Đầu tư)
Nguyễn Thị Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 87 - 94
91
Bảng 4: Tỷ trọng số dự án và vốn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam theo các châu lục
Châu lục Cơ cấu theo số dự án (%) Cơ cấu phân theo vốn đâu tư (%)
Châu Á 69,90 55,19
Châu Mỹ 14,60 29,20
Châu Âu 10,20 8,73
Châu Phi 3,30 5,72
Châu Úc 2,00 1,16
Tổng 100,00 100,00
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch Đầu tư)
Cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ
Tính đến năm 2013, các doanh nghiệp Việt
Nam hiện cũng không chỉ tập trung vào đầu
tư ở các nước láng giềng hay đối tác quen
thuộc như Lào, Campuchia hay Nga mà phát
triển ra những khu vực xa hơn như các nước
khu vực Châu Phi, Châu Mỹ, thậm chí cả
những nước kinh tế phát triển như Australia,
Mỹ, Singapore, Nhật Bản… với tổng số là 59
quốc gia và vùng lãnh thổ.
Với số liệu trên cho thấy, Lào và Campuchia
là hai quốc gia láng giềng có số dự án đầu tư
tập trung nhiều nhất lên tới 356 dự án chiếm
tỷ lệ 47,98% tổng số dự án đầu tư, tuy nhiên
các dự án vào hai quốc gia này với quy mô
vốn đầu tư tương đối nhỏ, chỉ chếm 23,65%
tổng vốn đầu tư. Quốc gia thứ ba mà các
doanh nghiệp Việt Nam cũng chú trọng tới là
Hoa Kỳ, đây là thị trường rất tiềm năng, có
nhiều dự án hấp dẫn đặc biệt là sau khi Việt
Nam gia nhập WTO. Bên cạnh đó là Hàn
Quốc và Trung Quốc, đây là các thị trường
cũng được đánh giá là có tiềm năng nhưng
hiện tại mức độ khai thác từ hai quốc gia này
vẫn tương đối hạn chế. Tuy nhiên, nếu xét về
quy mô vốn đầu tư thì Lào đứng vị trí thứ
nhất với 227 dự án với tổng vốn đầu tư gần 5
tỷ USD (chiếm 30,6% số dự án và 14,9% vốn
đầu tư), Campuchia đứng vị trí thứ 2 với 129
dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 2,9 tỷ
USD (chiếm 17,4% số dự án và 8,37% vốn
đầu tư), tiếp theo là Liên bang Nga và
Venezuela.
Như vậy, đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài
thời gian qua chủ yếu tập trung vào các nước
thuộc khu vực Châu Á 518 dự án chiếm
69,9% tổng số dự án được cấp phép với số
vốn đăng ký vào khu vực này tương ứng
chiếm 55,19% tổng vốn đầu tư việt Nam đầu
tư ra nước ngoài[1]. Sở dĩ các nhà đầu tư tập
trung đầu tư nhiều vào Châu Á mà cụ thể là
Lào và Campuchia là do nguồn tài nguyên
thiên nhiên ở các nước này khá dồi dào, giá
thuê nhân công tương đối rẻ, điều kiện đi lại
thuận tiện, chi phí thấp cũng như có nhiều nét
tương đồng về văn hóa,…Với Châu Phi và
Châu Úc, đây là hai địa bàn khá mới mẻ với
Việt Nam, khoảng cách địa lý xa, phong tục
tập quán có nhiều khác biệt,…. Tuy nhiên đến
nay đã có một số doanh nghiệp Việt Nam
mạnh dạn đầu tư vào hai thị trường này, và
đây được coi là thị trường rất có triển vọng
mà các doanh nghiệp Việt Nam trong thời
gian tới cần chú ý do đại đa số các quốc gia ở
khu vực này là các nước đang phát triển, có
trình độ phát triển kinh tế thấp hơn Việt Nam.
Ta thấy, địa bàn đầu tư của các doanh nghiệp
Việt Nam ngày càng được mở rộng, Việt
Nam đã đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài
với 59 quốc gia trên cả 5 châu lục, điều này
phần nào cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam
đã trưởng thành không ngừng và đã nhanh
chóng hòa nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Với trình độ công nghệ, năng lực kinh doanh
và tiềm lực tài chính hiện nay thì hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam tập trung
nhiều vào các nước đang phát triển (Châu Á,
Châu Phi) mà đặt biệt là Lào và Campuchia,
đây là hướng đi đúng tuy nhiên qua nghiên
cứu cơ cấu đầu tư này cũng cho thấy Trung
Quốc là một quốc gia đông dân hàng đầu thế
giới, là thị trường tiêu thụ khổng lồ, nhiều
tiềm năng, đặc biệt, với nước ta đó là một thị
trường có chi phí vận chuyển thấp, có nhiều
điểm tương đồng về văn hóa thế nhưng hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam vào
Nguyễn Thị Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 87 - 94
92
thị trường này chưa phát triển mạnh, chỉ đứng
thứ 10 trong số 59 quốc gia với lượng vốn
đầu tư rất khiêm tốn, chỉ khoảng 0,05% tổng
vốn đầu tư của Việt Nam. Như vậy, cơ cấu đầu
tư về địa bàn, lãnh thổ cần được khuyến khích
điều chỉnh sẽ mang lại nhiều cơ hội và lợi ích
rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Cơ cấu đầu tư ra nước ngoài phân theo tỉnh,
thành phố của nước chủ nhà
Đến nay, Việt Nam đã có 48 tỉnh, thành phố
trong cả nước có đơn vị có dự án đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài trong đó tập trung nhiều
vào 10 tỉnh, thành phố đã có số dự án là 575
dự án chiếm 77,49% tổng số dự án tương ứng
với số vốn đầu tư là 26.117.748.611 USD
chiếm 78% vốn đầu tư ra nước ngoài của cả
nước. Với số liệu trên cho thấy, các doanh
nghiệp, tập đoàn lớn tập trung chủ yếu ở Hà
Nội với 236 dự án chiếm 31,81% với vốn đầu
tư ra nước ngoài tương ứng là 20.395.024.211
USD chiếm tới trên 60% tổng vốn đầu tư.
Điều này cho thấy, các dự án có vốn lớn vẫn
tập trung ở các đơn vị ở Hà Nội, trung bình
một dự án là 86.419.594 USD trong khi đó,
thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm kinh
tế lớn của cả nước cũng có số dự án tương
đối, chiếm tới 28,98% tổng số dự án nhưng
xét về vốn đầu tư lại chỉ chiếm 6,36%. Điều
này cho thấy, các dự án đầu tư của các đơn vị
trên địa bàn này chủ yếu đầu tư vào các dự án
ngành dịch vụ với nhu cầu vốn đầu tư không
cao, trung bình chỉ là 9.901.113 USD bằng
11,45% vốn bình quân một dự án của các đơn
vị đầu tư ở Hà Nội.
Cơ cấu đầu tư theo hình thức và chủ thể
đầu tư
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có rất nhiều
nhân tố tác động đến như môi trường kinh
doanh trong nước, môi trường kinh doanh
nước nhận đầu tư, môi trường kinh doanh
quốc tế nên hoạt động này tương đối phức
tạp, thực ra khi các doanh nghiệp tham gia
hoạt động đầu tư ra nước ngoài có thể lựa
chọn các hình thức liên doanh liên kết, đầu tư
trực tiếp 100% vốn hoặc bằng cách mua lại và
sáp nhập. Tuy nhiên, trong thời gian qua các
nhà đầu tư Việt Nam chủ yếu lựa chọn hình
thức liên doanh và đầu tư trực tiếp 100% vốn.
Trong những năm đầu (năm 2001) liên doanh
chiếm 46,2% số dự án, đầu tư trực tiếp 100%
vốn chiếm 53,8%, đến những năm gần đây
(năm 2011) liên doanh chiếm 31,2% số dự án
còn hình thức đầu tư 100% vốn Việt Nam
chiếm tới 68,8%. Như vậy, hình thức đầu tư
trực tiếp luôn chiếm tỷ lệ cao và có xu hướng
tăng lên do hình thức này cho phép các doanh
nghiệp Việt Nam chủ động hơn khi tiến hành
đầu tư và không bị ràng buộc vào các đối tác
ở nước chủ nhà ngoài nước, tuy nhiên với các
dự án có nhiều rủi ro, nhu cầu vốn lớn như ở
lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, khai
thác khoáng sản,… cũng vẫn ưu tiên hình
thức liên doanh để cùng chia sẻ rủi ro nếu có.
Bảng 5: 10 tỉnh, thành phố có số dự án đầu tư ra nước ngoài lớn nhất tính đến năm 2013
TT Quốc gia Số dự
án Cơ cấu (%) Vốn đâu tư của dự
án Cơ cấu (%)
1 Hà Nội 236 31.81 20,395,024,211 60.91 2 TP Hồ Chí Minh 215 28.98 2,128,793,446 6.36 3 Nghệ An 29 3.91 293,721,156 0.88 4 Bình Dương 21 2.83 188,572,697 0.56 5 Gia Lai 20 2.70 920,266,786 2.75 6 Đồng Nai 15 2.02 1,232,878,197 3.68 7 Hải Phòng 13 1.75 20,535,818 0.06 8 Đà Nẵng 9 1.21 853,244,283 2.55 9 Kon Tum 9 1.21 80,448,428 0.24
10 An Giang 8 1.08 4,263,589 0.01 Tổng 10 tỉnh, thành phố 575 77.49 26,117,748,611 78.00 Tổng 48 tỉnh, thành phố 742 100.00 33,485,026,751 100.00
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch Đầu tư)
Nguyễn Thị Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 87 - 94
93
Về chủ thể đầu tư ra nước ngoài của việt Nam
cũng khá đa dạng, như các tập đoàn, doanh
nghiệp tư nhân, công ty liên doanh,… nhưng
theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
vốn đầu tư của 5 tập đoàn lớn: Tập đoàn Dầu
khí quốc gia Việt Nam; Tập đoàn Sông Đà,
Tập đoàn Viễn thông quân đội, Tập đoàn than
& Khoáng sản Việt Nam; Tập đoàn Công
nghiệp Cao su Việt Nam đã chiếm tới 69,9%
tổng số vốn đầu tư.
Theo tác giả nghiên cứu cho thấy, trong giai
đoạn đầu hoạt động đầu tư ra nước ngoài chủ
yếu được thực hiện bởi các công ty, tập đoàn,
doanh nghiệp nhà nước để nhà nước phát huy
được lợi thế cạnh tranh, nâng cao hiệu quả
đầu tư, đảm bảo lợi ích cho các quốc gia là
phù hợp. Song, đến nay, sau gần 25 năm tham
gia trên trường quốc tế, hoạt động đầu tư ra
nước ngoài của Việt Nam không còn non trẻ
thì nhà nước nên tạo cơ hội để đẩy mạnh các
thành phần kinh tế sở hữu vốn ngoài nhà
nước đầu tư ra nước ngoài vì thực tế cho thấy,
các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp
tư nhân thường có hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh cao hơn. Do vậy, cơ cấu đầu
tư ra nước ngoài theo chủ thể hiện nay ở nước
ta chưa thật hợp lý mà cần tăng tỷ lệ vốn đầu
tư tư nhân tham gia vào hoạt động này trong
thời gian tới.
KẾT LUẬN
Qua phân tích cơ cấu đầu tư của hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam những
năm qua, có thể thấy làn sóng đầu tư ra nước
ngoài đã và đang gia tăng mạnh mẽ. Làn sóng
này đã mở ra một mặt trận kinh tế thứ hai
nhằm khai thác thị trường và lợi thế cạnh
tranh của các nước khác để bổ sung, hỗ trợ sự
phát triển kinh tế trong nước và nâng cao vị
thế kinh tế của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của
Việt Nam vẫn còn gặp không ít những khó
khăn thách thức, cơ cấu đầu tư đã đến lúc cần
phải chuyển hướng. Cơ cấu đầu tư trong giai
đoạn đầu được đánh giá là tương đối phù hợp
với quy luật, ban đầu khi các doanh nghiệp
trong nước chưa đủ mạnh thì nhà nước
khuyến khích các tập đoàn, tổng công ty,
doanh nghiệp nhà nước đầu tư vốn sang các
nước láng giềng, các nước đang phát triển với
lĩnh vực chủ yếu là công nghiệp, khai khoáng,
viễn thông, những lĩnh vực kinh doanh chủ
yếu của các công ty, tập đoàn lớn mạnh của
đất nước với hình thức đầu tư chủ yếu là liên
doanh. Đến nay, khi Việt Nam bắt đầu có
được vị thế trên trường quốc tế, tuy còn
khiêm tốn nhưng các doanh nghiệp Việt Nam
đã tạo được chỗ đứng trên thương trường thì
Việt Nam cần duy trì sự hoạt động của các dự
án đã đầu tư và khuyến khích dần sang các
lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực phân phối sản
phẩm sang thị trường các nước Châu Phi,
châu Úc và dần tiếp cận thị trường các nước
kinh tế phát triển với chủ thể đầu tư đa dạng
hơn và chuyển dần sang cơ cấu vốn đầu tư
của các doanh nghiệp tư nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ kế hoạch & Đầu tư, Cục Đầu tư nước ngoài,
Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài Quý I
2013, 2012, 2011, Hà Nội.
2. Bộ kế hoạch & Đầu tư, Cục Đầu tư nước ngoài
(2013), Tình hình đầu tư của Việt Nam ra nước
ngoài lũy kế đến QI năm 2013, Hà Nội
3. Đỗ Đức Bình (2012), Giáo trình Đầu tư quốc
tế, trường Đại học KTQD, Nxb Khoa học kỹ thuật,
Hà Nội.
4. Đinh Trọng Thịnh, 2006, Thúc đẩy doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài,
Nxb Tài chính
5. Nguyễn Hữu Huy Nhựt, 2010, Chiến lược đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2009), Kinh nghiệm
đầu tư ra nước ngoài của các nước đông Nam Á và
bài học cho Việt Nam, Tạp chí Phát triển kinh tế,
(220), tr 33-38.
Nguyễn Thị Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 87 - 94
94
SUMMARY
STRUCTURE REARSEARCH OUTWARD
FOREIGN DIRECT INVESTMENT OF VIET NAM
Nguyen Thi Nhung* College of Economic & Business Administration - TNU
International Investment activity is growing strongly in recent decades and actually become a
fundamental characteristic of modern economies. For each country, outward foreign investment is
extremely important sence, the movement of its works great and direct impact to the growth and
sustainability of the global economy. With the enormous benefits that enterprises in Viet Nam
intergration process has also strongly involved in this market since 1989 and has achieved initial
success, however, is still pretty much and counter. While Viet Nam is still in need of capital from
the country to promote internal strength is still almost 70% of outward foreign investment capital
of state corporations with nearly 69% of outward foreign investment capital in the form of a 100%
Viet Nam capital and invested in industry accounted for 78.74% of total outward foreign
investment…To find out more about the current status of outward foreign direct investment in Viet
Nam from 1989 until the present, the author studies the structure investment by country of territory; by
province and finally investment research structure in the form of investment, the investor can then only
the investment structure should be adjusted in the future based on conditions in the event of Viet Nam
as well as from the experiences of other countries in the world.
Keywords: investment, outward foreign direct investment, the investment structure
Ngày nhận bài:31/12/2013; Ngày phản biện:10/1/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Yến – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0984 238716, Email: Nhung76qtkd@yahoo.com.vn
Lê Quang Đăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 95 - 100
95
PHÂN TICH HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
DU LỊCH THÁI NGUYÊN QUA MA TRẬN SWOT
Lê Quang Đăng*, Đỗ Thị Nga
Trường Đại học Công nghệ thông tin và truyền thông – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Thái Nguyên được đánh giá là mảnh đất có tiềm năng phát triển du lịch to lớn. Trong những năm
qua, kinh tế du lịch Thái Nguyên đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt tích cực, du lịch Thái Nguyên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và khó khăn nhất định. Để
khai thác triệt để tiềm năng nhằm đưa du lịch Thái Nguyên trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
tỉnh thì vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. Bài viết dưới đây tập trung vào phân
tích một số điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ và thách thức của kinh tế du lịch Thái Nguyên thông qua
ma trận SWOT để từ đó đưa ra một số giải pháp gợi mở chính sách và chiến lược phát triển kinh tế
du lịch Thái Nguyên trong thời gian tới.
Từ khóa: Thái Nguyên, du lịch, kinh tế du lịch, phát triển du lịch, ma trận swot.
GIỚI THIỆU VỀ MA TRẬN SWOT*
SWOT là tập hợp viết tắt những chữ cái đầu
tiên của các từ Tiếng Anh: Strengths (điểm
mạnh), Weaknesses (điểm yếu),
Opportunities (cơ hội), Threats (đe dọa hay
thách thức). SWOT là một mô hình nổi tiếng
trong phân tích kinh doanh của doanh nghiệp
xuất hiện vào khoảng thập niên 60, 70 của thế
kỷ XX do nhóm tác giả: Marion Dosher, Otis
Benepe, Albert Humphrey, Robert F. Stewart
thuộc viện nghiên cứu Standford, Melo Park,
California xây dựng nhằm mục đích tìm hiểu
quá trình lập kế hoạch của doanh nghiệp, tìm
ra giải pháp giúp các nhà lãnh đạo đồng thuận
và tiếp tục thực hiện việc hoạch định chiến
lược, thay đổi cung cách quản lý [1]. Cho đến
nay, mô hình SWOT đã được sử dụng rộng
rãi trong nhiều lĩnh vực của kinh tế học. Mô
hình SWOT mang lại một cách nhìn toàn diện
về các vấn đề của kinh tế để từ đó các nhà
quản lý, nhà hoạch định chính sách có thể sử
dụng làm căn cứ cho những quyết định mang
tính chiến lược. Phân tích SWOT là việc đánh
giá một cách chủ quan các dữ liệu được sắp
xếp theo định dạng SWOT dưới một trật tự
lô-gíc dễ hiểu, dễ trình bày, dễ thảo luận và có
thể được sử dụng trong mọi quá trình ra quyết
định. Mẫu phân tích SWOT được trình bày
* Tel: 0987 860183, Email: lqdang@ictu.edu.vn
dưới dạng một ma trận 2 hàng 2 cột, chia làm
4 phần: S – W (yếu tố bên trong) và O - T
(yếu tố bên ngoài - Hình 1).
Hình 1: Mô hình ma trận SWOT
PHÂN TÍCH DU LỊCH THÁI NGUYÊN
QUA MA TRẬN SWOT
Yếu tố bên trong (S – W)
- Điểm mạnh (Strengths):
+ Tiềm năng du lịch đa dạng, phong phú:
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi
phía Bắc có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên,
khí hậu thuận lợi, cùng với những giá trị lịch
sử truyền thống lâu đời và sự hội tụ tinh hoa
văn hóa của nhiều dân tộc anh em đã tạo nên
cho Thái Nguyên những tiềm năng du lịch vô
cùng phong phú và đa dạng. Tính đến nay,
tỉnh Thái Nguyên có 780 di tích, với 474 di
tích lịch sử, 12 di tích khảo cổ, 43 di tích
thắng cảnh, 26 di tích kiến trúc nghệ thuật,
225 di tích tín ngưỡng tôn giáo. Trong số đó
Lê Quang Đăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 95 - 100
96
có 36 di tích lịch sử, văn hóa, địa danh du lịch
thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia và 72
di tích lịch sử, văn hóa, địa danh du lịch được
xếp hạng cấp tỉnh [2]. Đây là những lợi thế
không nhỏ để Thái Nguyên để có thể khai
thác và thu hút du khách trong và ngoài nước.
+ Thương hiệu và hình ảnh của du lịch Thái
Nguyên: Thái Nguyên là mảnh đất giàu
truyền thống từ lâu đã được nhiều người biết
đến. Nhắc đến Thái Nguyên hẳn du khách
không thể không nhắc đến những địa danh nổi
tiếng đã từng đi vào thơ ca, sự tích và được
lưu truyền trong những câu ca: “Thái Nguyên
– Huyền thoại Hồ Núi Cốc”, “Thái Nguyên –
Thủ đô gió ngàn”, “Thái Nguyên – Đệ nhất
danh trà”... Thông qua việc đăng cai năm du
lịch quốc gia (2007) và tổ chức những lễ hội,
sự kiện (festival Trà Quốc tế - 2011, 2013) đã
đưa thương hiệu du lịch Thái Nguyên lên một
tầm cao mới. Với những lợi thế này, du lịch
Thái Nguyên hằng năm đã thu hút lượng lớn
du khách trong và ngoài nước. Năm 2009,
lượng du khách trong nước đến với Thái
Nguyên là 1,3 triệu lượt và du khách quốc tế
là 31.000 lượt, đến năm 2011 số du khách nội
địa tăng lên 1,5 triệu lượt và du khách quốc tế
là 36.000 lượt (Bảng 1).
Bảng 1: Số lượt khách đến Thái Nguyên [3]
2009 2010 2011
Nội địa 1.324.500 1.448.320 1.563.600
Quốc tế 31.000 21.680 36.200
Tổng 1.355.500 1.470.000 1.600.000
+ Các sản phẩm du lịch đa dạng, hấp dẫn:
Hiện nay du lịch Thái Nguyên đang tập trung
mạnh vào một số nhóm sản phẩm đặc thù
như: Du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng – vui
chơi, giải trí; du lịch sinh thái gắn với văn hóa
lịch sử; du lịch lễ hội; du lịch tham quan làng
nghề… Trong đó có rất nhiều sản phẩm du
lịch nổi tiếng đang được khai thác như: Hồ
Núi Cốc, Hang Phượng Hoàng – Suối Mỏ Gà;
Không gian văn hóa chè Tân Cương; Di tích
khảo cổ học Thần Sa; Khu di tích ATK Định
Hóa… Cùng với việc phát triển các sản phẩm
du lịch, tỉnh Thái Nguyên cũng quan tâm đầu
tư xây dựng phát triển các dịch vụ phụ trợ cho
ngành du lịch đáp ứng nhu cầu ngủ nghỉ, vui
chơi giải trí của du khách. Hiện nay, trên toàn
tỉnh có khoảng 160 cơ sở kinh doanh lưu trú,
hệ thống khách sạn, nhà nghỉ gần 2700 phòng
trong đó có khoảng 800 phòng nghỉ cao cấp,
nhiều khách sạn 2-3 sao [4].
- Điểm yếu (Weaknesses):
+ Hiệu quả khai thác tiềm năng du lịch chưa
thực sự tốt: Mặc dù Thái Nguyên sở hữu tài
nguyên du lịch vô cùng phong phú và đa
dạng, tuy nhiên việc khai thác những tài
nguyên này vẫn còn chưa thực sự hiệu quả,
chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, thế
mạnh vốn có. Nhiều di tích lịch sử và địa
danh du lịch đang bị suy thoái và hủy hoại bởi
những điều kiện tự nhiên gây ra. Thêm vào
đó, một số địa danh do ý thức chưa tốt của
người dân và du khách đã làm cho tốc độ và
phạm vi bị tàn phá rộng hơn, nhiều rừng
nguyên sinh bị tàn phá, nhiều loại động thực
vật quý hiếm bị săn bắn, sự ô nhiễm môi
trường ở khu du lịch… là những vấn đề lớn
mà du lịch Thái Nguyên đang gặp phải.
+ Chính sách đầu tư chưa đáp ứng được nhu
cầu phát triển du lịch: Mặc dù trong những
năm qua, tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều ưu
tiên trong chính sách phát triển du lịch, nhiều
dự án trọng điểm được triển khai; nhiều di
tích, địa danh được đầu tư tu bổ, tôn tạo;
nhiều tuyến đường giao thông được mở mới,
sửa chữa và nâng cấp. Tuy nhiên, do đặc thù
về địa hình phức tạp và kinh phí thi công còn
thấp nên chất lượng cũng như số lượng hạ
tầng cơ sở được xây dựng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu thực tế cho phát triển du lịch. Ở
một số điểm du lịch vấn đề giao thông, hệ
thống nước sạch, thông tin liên lạc, vấn đề xử
lý rác thải và cơ sở phục vụ lưu trú, ăn uống,
giải trí vẫn còn rất thiếu và yếu [5].
+ Chất lượng sản phẩm du lịch chưa thực sự
cao, nhiều loại hình du lịch chưa được khai
thác: Sản phẩm du lịch là yếu tố quan trọng,
có ý nghĩa sống còn cho sự tồn tại và phát
triển của du lịch. Mặc dù Thái Nguyên đã có
Lê Quang Đăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 95 - 100
97
một số sản phẩm du lịch đặc thù trở thành
thương hiệu riêng có như Hồ Núi Cốc, ATK
Định Hóa, không gian văn hóa chè Tân
Cương… Tuy nhiên, việc khai thác các sản
phẩm du lịch của Thái Nguyên là vẫn còn rất
hạn chế, những sản phẩm du lịch vẫn còn rất
nghèo nàn chưa có sức hấp dẫn. Nhiều tài
nguyên du lịch chưa được tận dụng khai thác
như: du lịch mua sắm; du lịch thể thao leo
núi, thể thao mặt nước; du lịch công nghiệp
và du lịch MICE…
Yếu tố bên ngoài (O – T)
- Cơ hội (Opportunities):
+ Tính bền vững, ổn định tương đối của các
sản phẩm du lịch truyền thống và nhu cầu du
lịch hiện thời: Không giống với những tỉnh
thành phố có lợi thế về du lịch biển, đảo, Thái
Nguyên là tỉnh có thế mạnh về du lịch sinh
thái – nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa lịch sử, du
lịch thắng cảnh, du lịch lễ hội, du lịch làng
nghề… đây là những loại hình du lịch ít chịu
ảnh hưởng của của sự thay đổi khí hậu, thời
tiết theo mùa, vì thế tỉnh Thái Nguyên có thể
tận dụng lợi thế này để tập trung đầu tư, phát
triển các loại hình du lịch và khai thác tài
nguyên du lịch quanh năm. Hơn thế, trong
giai đoạn hiện nay loại hình du lịch “về
nguồn” đang rất được coi trọng, thu hút mọi
đối tượng du khách tham quan. Thái Nguyên
được mệnh danh là “thủ đô gió ngàn” – đại
bản doanh một thời của chiến khu Việt Bắc
với nhiều địa danh diễn ra những sự kiện lịch
sử quan trọng của Đảng và Chính phủ, Vì thế,
Thái Nguyên sẽ là điểm đến được nhiều du
khách lựa chọn trong thời gian tới. Tính bền
vững, ổn định tương đối và nhu cầu du lịch
hiện thời vẫn là cơ hội tốt để Thái Nguyên tập
trung khai thác, phát huy thế mạnh của mình.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế tạo môi trường
kinh doanh, mở rộng thị trường và thu hút du
khách: Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, du lịch Thái Nguyên đứng trước
nhiều cơ hội to lớn mà trước hết là cơ hội mở
rộng thị trường du lịch, quảng bá thương hiệu,
đưa hình ảnh du lịch của tỉnh Thái Nguyên
vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia.
Thực tế cho thấy, kể từ khi Việt Nam gia
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO),
lượng khách quốc tế đến với Thái Nguyên đã
có sự biến chuyển rõ rệt. Nếu năm 2005
lượng khách quốc tế đến Thái Nguyên là
10.000 lượt thì đến năm 2012, con số này đã
tăng lên 32.705 lượt. Ngoài ra, hội nhập kinh
tế quốc tế còn tạo cơ hội để Thái Nguyên tổ
chức các sự kiện và thực hiện các hoạt động
giao lưu văn hóa, thể thao, du lịch với các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới, qua
đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút du
khách nước ngoài đến với Thái Nguyên.
Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng tạo điều
kiện để Thái Nguyên học hỏi, trao đổi kinh
nghiệm phát triển du lịch, thu hút đầu tư và
đón nhận sự giúp đỡ của các quốc gia có nền
kinh tế du lịch phát triển lâu đời trên thế giới.
+ Đầu tư vào ngành du lịch đang trở thành
một xu thế của xã hội: Hiện nay du lịch đang
được coi là một xu hướng phổ biến trên toàn
cầu và là một ngành mang lại lợi nhuận cao.
Được mệnh danh là ngành “công nghiệp
không khói”, “công nghiệp đẻ trứng vàng”,
kinh tế du lịch đang thu hút mạnh mẽ sự quan
tâm đầu tư của các cá nhân, tổ chức và xã hội.
Đây là cơ hội tốt để Thái Nguyên kêu gọi, thu
hút nguồn vốn đầu tư trong nước và quốc tế
cho ngành du lịch của tỉnh. Thu hút đầu tư
vào du lịch không chỉ góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh mà còn là một
biện pháp hữu hiệu để phát triển bền vững
kinh tế - xã hội ở địa phương, góp phần xóa
đói giảm nghèo và nâng cao đời sống cho
nhân dân ở các khu du lịch.
+ Nhu cầu du lịch trong nước và trên thế giới
ngày càng tăng cao: Trong giai đoạn hiện
nay, khi đời sống vật chất của con người ngày
càng được nâng cao thì nhu cầu nghỉ dưỡng,
giải trí, nhu cầu đi du lịch của con người cũng
tăng lên mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê của
tổ chức du lịch thế giới của Liên Hợp Quốc
(UNWTO) tổng lượt du khách trên thế giới
đạt mức 982 triệu lượt trong năm 2011 và
tăng lên 1 tỷ lượt trong năm 2012 [6]. Còn
Lê Quang Đăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 95 - 100
98
theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê
Việt Nam, số lượt khách nội địa có sự tăng
lên liên tục trong những năm gần đây. Cụ thể:
năm 2009 số lượt du khách nội địa là 25 triệu
lượt, đến năm 2012 là 32,5 triệu lượt và ước
tính trong năm 2013 sẽ là 35 triệu lượt.
- Thách thức (Threats):
+ Áp lực cạnh tranh đối với những vùng có
sản phẩm du lịch tương đồng: Mặc dù Thái
Nguyên có lợi thế về tiềm năng du lịch to lớn,
song do tính chất tương đồng về điều kiện tự
nhiên, giá trị lịch sử và văn hóa nên một số
tỉnh trong khu vực trung du miền núi phía
Bắc như Bắc Kạn, Cao Bằng, Tuyên Quang…
cũng có những gói sản phẩm du lịch tương
đồng với Thái Nguyên. Điều này đã ảnh
hưởng lớn đến thị phần du lịch của Thái
Nguyên và đặt ra thách thức lớn trong cạnh
tranh thu hút du khách. Không chỉ thế, hội
nhập quốc tế còn làm cho tính chất của cạnh
tranh thêm phức tạp hơn khi Thái Nguyên
phải cùng lúc đối diện với nhiều “đối thủ”
như: cạnh tranh với các tỉnh lân cận, cạnh
tranh với các tỉnh trong khu vực, cạnh tranh
với các tỉnh thành phố trong nước, cạnh tranh
với các quốc gia trên thế giới...
+ Sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế,
chính trị trong nước, trong khu vực và trên
thế giới cũng là mối đe dọa lớn cho sự phát
triển kinh tế du lịch Thái Nguyên. Khủng
hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với
những bất ổn, tranh chấp chính trị trong khu
vực, đặc biệt là tranh chấp trên Biển Đông là
những lý do có thể ảnh hưởng trực tiếp tới
lượng du khách quốc tế đến với Việt Nam nói
chung và Thái Nguyên nói riêng. Số lượng du
khách quốc tế đến Thái Nguyên trong những
năm gần đây có thay đổi bất thường. Năm
2009 số du khách đến Thái Nguyên là 31.000
lượt, đến năm 2010 giảm xuống còn 21.000
lượt, năm 2011 lại tăng lên 36.000 lượt, trong
khi năm 2012 giảm xuống còn 32.605 lượt
(Bảng 1). Ngoài ra, biến đổi khí hậu toàn cầu
và vấn đề môi trường cũng là mối đe lớn đối
với du lịch Thái Nguyên. Nó không những
góp phần làm giảm lượng du khách đến với
Thái Nguyên mà còn là nguyên nhân gây nên
sự hủy hoại tự nhiên đối với môi trường, cảnh
quan và các di tích lịch sử, làm suy giảm tính
hấp dẫn của các địa danh du lịch.
+ Sự phát triển của KHCN đặc biệt là
CNTT&TT đã tác động trực tiếp tới những
hoạt động du lịch và trở thành nhân tố thúc
đẩy kinh tế du lịch phát triển. Các địa
phương, tỉnh, thành phố trong nước đang đẩy
mạnh ứng dụng CNTT đối với ngành du lịch
cũng là mối đe dọa tới du lịch Thái Nguyên
bởi nếu không kịp thời ứng dụng CNTT cho
công tác quản lý du lịch, quảng bá du lịch, đặt
tour và thanh toán trực tuyến, trao đổi thông
tin trực tuyến… thì du lịch Thái Nguyên sẽ bị
tụt hậu và mất thị phần du lịch vào tay các
“đối thủ” cạnh tranh.
Thiết lập ma trận SWOT
Từ những phân tích về hiện trạng kinh tế du
lịch Thái Nguyên, ta có các thông số (biến số)
đầu vào được thể hiện trên bảng ma trận, đó
là các biến số về các yếu tố bên trong (S – W)
và biến số về các yếu tố bên ngoài (O – T).
Việc kết hợp các biến số của S – W với các
biến số của O – T sẽ tạo thành bảng biến số
đầu ra gồm bốn thái cực, bốn thái cực này thể
hiện bốn nhóm chiến lược cơ bản (cụ thể xem
Bảng 2).
Bốn nhóm chiến lược này là những gợi ý cho
các nhà quản lý trong việc hoạch định chính
sách và lập kế hoạch phát triển du lịch. Tùy
thuộc vào mục đích sử dụng và điều kiện cụ
thể, các nhà quản lý có thể cùng lúc khai thác
đồng thời cả bốn nhóm chiến lược hoặc khai
thác tập trung từng nhóm chiến lược.
HAI GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC PHÁT
TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH THÁI NGUYÊN
Từ bốn nhóm chiến lược trên, bằng phương
pháp phân tích, đánh giá và khảo sát thực
nghiệm, bài báo rút ra 2 chiến lược mang tính
quyết định nhất làm tham vấn cho chính sách
phát triển kinh tế du lịch Thái Nguyên trong
thời gian tới.
Lê Quang Đăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 95 - 100
99
Bảng 2: Giải pháp chiến lược phát triển du lịch Thái Nguyên thông qua ma trận SWOT
Ma trận
SWOT
Cơ hội: O (Opportunities)
1. Tính bền vững, ổn định tương đối
của các sản phẩm du lịch truyền
thống và nhu cầu du lịch hiện thời.
2. Hội nhập quốc tế tạo lập môi
trường kinh doanh, mở rộng thị
trường và du khách.
3. Đầu tư vào ngành du lịch đang
trở thành một xu thế của xã hội.
4. Nhu cầu du lịch trong nước và
trên thế giới ngày càng tăng cao.
Thách thức: T (Threats)
1. Áp lực cạnh tranh đối với
những vùng có sản phẩm du lịch
đồng dạng.
2. Sự biến đổi phức tạp của tình
hình kinh tế, chính trị, vấn đề
môi trường và vấn đề biến đổi
khí hậu toàn cầu.
3. Sự tác động mạnh mẽ của
KHCN, đặc biệt là CNTT&TT
đối với ngành du lịch.
Điểm mạnh: S (Strengths)
1. Tiềm năng du lịch đa dạng,
phong phú.
2. Thương hiệu và hình ảnh
du lịch nổi tiếng, được nhiều
người biết đến.
3. Sản phẩm du lịch đa dạng,
hấp dẫn.
S – 0:
- Chiến lược xây dựng và phát triển
thương hiệu du lịch qua các sản
phẩm du lịch đặc thù.
- Chiến lược thu hút vốn đầu tư để
phát triển du lịch tỉnh Thái Nguyên.
- Chiến lược mở rộng thị trường,
thu hút du khách.
S – T:
- Chiến lược cải tiến nâng cao
chất lượng và sức hấp dẫn của
các sản phẩm du lịch.
- Chiến lược phát triển sản phẩm
du lịch, đa dạng hóa các loại hình
du lịch.
- Chiến lược ứng dụng CNTT
cho ngành du lịch Thái Nguyên
Điểm yếu: W (Weaknesses)
1. Hiệu quả khai thác tiềm
năng du lịch chưa thực sự tốt.
2. Chính sách đầu tư du lịch
chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển du lịch.
3. Chất lượng sản phẩm du
lịch chưa thực sự cao, nhiều
loại hình du lịch chưa được
khai thác.
W – O:
- Chiến lược liên doanh liên kết với
nước ngoài, hợp tác đầu tư phát
triển du lịch Thái Nguyên.
- Chiến lược liên kết, học tập kinh
nghiệm quản lý và phát triển du lịch
từ các nước có nền du lịch phát
triển.
- Chiến lược thu hút đầu tư để khai
thác và phát triển du lịch.
W – T:
- Chiến lược liên doanh, liên kết,
hợp tác phát triển du lịch.
- Chiến lược phát triển sản phẩm,
đa dạng hóa và khác biệt hóa các
loại hình du lịch.
- Chiến lược đổi mới, cải cách cơ
chế quản lý nhà nước về du lịch.
- Chiến lược ứng dụng CNTT
vào công tác quản lý nhà nước.
Hai giải pháp chiến lươc cơ bản:
1. Chiến lược thu hút vốn đầu tư của xã hội cho sự phát triển kinh tế du lịch Thái Nguyên.
2. Chiến lược quảng bá thương hiệu và giới thiệu hình ảnh du lịch Thái Nguyên.
Chiến lươc thu hút vốn đâu tư của xã hội
cho sự phát triển kinh tế du lịch của tỉnh
Thái Nguyên
Du lịch là ngành kinh tế mang tính xã hội hóa
và tính liên ngành cao vì thế cần có chiến
lược để thu hút vốn đầu tư của toàn xã hội.
Ngoài việc thu hút những nguồn đầu tư từ
ngân sách nhà nước, ngân sách của tỉnh, đầu
tư FDI, ODA, đầu tư của doanh nghiệp nội
địa… thì cũng cần phát huy nguồn đầu tư của
đại bộ phận cư dân trên địa bàn tỉnh. Thu hút
đầu tư dân cư là một giải pháp chiến lược
quan trọng, cơ bản và lâu dài bởi nó không
chỉ giúp tăng nguồn vốn đầu tư vào ngành du
lịch mà còn là giải pháp để kêu gọi sự tham
gia của nhân dân bản địa vào các hoạt động
kinh doanh du lịch, nâng cao mức thu nhập,
cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo và góp
phần bảo vệ môi trường cảnh quan ở các khu
du lịch. Việc kêu gọi, thu hút đầu tư cũng cần
phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan
quản lý trong việc lập kế hoạch, chiến lược và
quản lý các gói đầu tư để vừa đảm bảo đầu tư
vào những khu du lịch trọng điểm lại vừa đảm
bảo đầu tư khai thác, phát triển tổng thể tiềm
năng du lịch trên toàn tỉnh.
Chiến lươc quảng bá thương hiệu, giới
thiệu hình ảnh du lịch Thái Nguyên
Ngoài chiến lược thu hút vốn đầu tư phát triển
du lịch, chiến lược quảng bá thương hiệu và
giới thiệu hình ảnh du lịch Thái Nguyên cũng
giữ vị trí vô cùng quan trọng bởi nó là công
cụ mang thông tin, truyền tải thông điệp về du
lịch đến với du khách trong nước và quốc tế.
Có nhiều hình thức để quảng bá thương hiệu
du lịch như: sử dụng các hình thức marketing
Lê Quang Đăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 95 - 100
100
truyền thống (thông qua báo, đài, vô tuyến,
tuyên truyền, cổ động, hội thảo…), marketing
online (sử dụng CNTT và internet, các
website, mạng xã hội, thư điện tử, forum…)
và thông qua tổ chức các lễ hội, sự kiện
(festival, lễ hội văn hóa, thể thao…). Ngày
nay, dưới tác động mạnh mẽ của KHCN hiện
đại việc ứng dụng CNTT và internet trong
quảng bá và giới thiệu hình ảnh du lịch là một
yêu cầu tất yếu khách quan nhằm nâng cao
sức cạnh tranh của du lịch tỉnh Thái Nguyên,
mở rộng thị trường du lịch, thu hút du khách
trong và ngoài nước đến với Thái Nguyên. Vì
thế trong thời gian tới tỉnh Thái Nguyên cần
tích cực đẩy mạnh ứng dụng CNTT để phát
triển kinh tế du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Để làm được điều này đòi hỏi tỉnh
Thái Nguyên cần tập trung đầu tư xây dựng,
nâng cấp và phát triển hạ tầng CNTT, thu hút
và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có
khả năng sử dụng thành thạo CNTT và đổi
mới cơ chế quản lý từ quản lý hành chính thủ
công sang quản lý hành chính điện tử, đáp
ứng nhu cầu phát triển của du lịch trong bối
cảnh mới, tình hình mới.
KẾT LUẬN
Sử dụng mô hình SWOT để phân tích một
hoạt động kinh doanh, một quá trình hay một
vấn đề kinh tế tuy không phải là việc làm quá
mới mẻ, song việc sử dụng SWOT để phân
tích hiện trạng kinh tế du lịch Thái Nguyên
vẫn mang lại những hiệu quả nhất định.
Thông qua mô hình SWOT, những mặt “tốt”,
“xấu” của du lịch Thái Nguyên được đưa ra
phân tích một cách cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ
quan sát và dễ so sánh. Đặc biệt, thông qua
ma trận SWOT ta có thể dễ dàng phát hiện và
đưa ra các giải pháp chiến lược từ sự kết hợp
các yếu tố bên trong và bên ngoài tác động tới
sự phát triển kinh tế du lịch Thái Nguyên.
Đây là những căn cứ làm tham vấn chính sách
cho các nhà quản lý và các nhà hoạch định
chính sách phát triển du lịch của tỉnh Thái
Nguyên trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Humphrey Albert, (2005), “SWOT analysis for
Management Consulting”, SRI international
(Stanford Research Institute).
2. Sở văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Thái
Nguyên, (2011), Số liệu thống kê du lịch.
3. Cục thống kê Thái Nguyên, (2013), Niên giám
thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2012, Nhà xuất
bản Thống kê.
4. Bộ văn hóa thể thao và du lịch, Tổng cục du
lịch Việt Nam, (2012), Du lịch Thái Nguyên khởi
sắc,http://www.dulichvn.org.vn/index.php?categor
y=1005&itemid=18627
5. Tạ Thị Kim Niên, (2009), Tiền năng du lịch
Thái Nguyên nhìn từ góc độ lịch sử, văn hóa, Luận
văn Thạc sĩ, Số hóa bởi Trung tâm học liệu - Đại
học Thái Nguyên, tr.65-66.
6. Đại Hải, (2012), Lượng du khách trên thế giới
đạt kỷ lục, http://ww.vietnamplus.vn
SUMMARY
ANALYSIS STATUS AND PROPOSED SOLUTIONS
TO DEVELOP THAI NGUYEN’S TOURISM ECONOMY
THROUGH SWOT MATRIX
Le Quang Dang*, Do Thi Nga College of Information and Communication Technology - TNU
Thai Nguyen is assessed a potentially huge tourism land. In recent years, Thai Nguyen’s tourism
economy has made encouraging achievements, but besides that still exist many difficulties and
limitations. To exploit fully the tourism potential in order to make Thai Nguyen's tourism becomes
spearhead economic sector of the province still poses a lot of problems. Through the SWOT
model, the article focuses on analysing of the strengths, weaknesses, opportunities and challenges
of ThaiNguyen tourism economy, from there propose some solutions to suggest policy and
strategy for the development of Thai Nguyen's tourism in the future.
Keywords: Thai Nguyen, tourism, tourism economy, development tourism, SWOT matrix
Ngày nhận bài:28/2/2014; Ngày phản biện:11/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Văn Huân – Trường ĐH Công nghệ Thông tin & Truyền thông - ĐHTN
* Tel: 0987 860183, Email: lqdang@ictu.edu.vn
Trần Thị Thanh Xuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 101 - 110
101
NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI,
DỊCH VỤ BỀN VỮNG CHO TỈNH THÁI NGUYÊN
Trân Thị Thanh Xuân* Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải (Cơ sở ĐT Thái Nguyên)
TÓM TẮT Trong những năm qua, cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá cao, cơ cấu kinh tế của tỉnh có
sự chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp – xây dựng và dịch vụ trong tốc độ tăng trưởng
kinh tế (GDP) có xu hướng tăng lên và tỷ trọng nông, lâm, nghiệp có xu hướng giảm. Tuy nhiên
sự chuyển dịch kinh tế của tỉnh vẫn còn chậm, trong đó có giá trị gia tăng khu vực dịch vụ thấp
hơn so với chỉ tiêu phát triển ngành. Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ chính trị về
phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du miền núi
Bắc Bộ đến năm 2020. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVIII,
nhiệm kỳ 2010-2015 diễn ra trong các ngày từ 20 đến 23-10-2010 đưa ra. Để đạt được mục tiêu,
tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm tới tăng 12-13%, GDP bình quân đầu người đến năm
2015 đạt 45 triệu đồng. Vậy đâu là giải pháp thương mại, dịch vụ của tỉnh phát triển bền vững?
Mục tiêu của nghiên cứu là tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thương mại, dịch vụ và
trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ các siêu thị bán lẻ
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Nguồn dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu được lấy từ việc phỏng vấn
ngẫu nhiên 200 khách hàng đến siêu thị mua sắm. Các phương pháp được sử dụng để phân tích dữ
liệu thu thập là: thống kê mô tả, phân tích số, phân tích nhân tố và phân tích chéo.
Từ khóa: Siêu thị, chất lượng dịch vụ, Trung tâm thương mại
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Tỉnh Thái Nguyên nằm ở phía Bắc tiếp giáp
với thủ đô Hà Nội, phía Tây tiếp giáp với tỉnh
Vĩnh Phúc và tỉnh Tuyên Quang. Tỉnh Thái
Nguyên có diện tích tự nhiên 3.541 km2 và
dân số hơn 1 triệu người, với 8 dân tộc anh
em chủ yếu sinh sống. Thái Nguyên có địa
hình đặc trưng là đồi núi xen kẽ với ruộng
thấp, chủ yếu là núi đá vôi và đồi dạng bát úp.
Thái Nguyên một tỉnh ở đông bắc Việt Nam
là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà
Nội. Thái Nguyên được coi là một trung tâm
đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ 3 sau Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh. Tỉnh còn là thành
phố loại I trực thuộc tỉnh, phấn đấu năm 2020
thành phố Thái Nguyên - tỉnh Thái Nguyên
trực thuộc Trung ương. Chính vì thế có nhiều
điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại
và dịch vụ.
Đặc biệt trong thời gian qua tuyến đường cao
tốc Quốc lộ 3 mới được xây dựng và đưa vào
lưu thông (12/2013) nối liền tuyến giao thông
* Tel:
với các tỉnh miền núi phía Bắc và cả nước.
Trong những năm gần đây Tỉnh có nhiều
chuyển biến tích cực trong hoạt động thương
mại, dịch vụ năm 2013 tổng mức bán lẻ hàng
hóa dịch vụ đạt 16.531 tỷ đồng trong đó
thương mại chiếm 88%. Tuy nhiên ngành
dịch vụ thương mại vẫn còn nhiều hạn chế:
Chưa xứng tầm là một trung tâm thương mại
cấp khu vực, tốc độ phát triển dịch vụ thương
mại chưa có sự quy hoạch dẫn đến nhiều vấn
đề bất cập, các dịch vụ thương mại ở nông
thôn còn chậm… Song trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, với
vai trò là “một trung tâm kinh tế - xã hội lớn
của khu vực đông bắc hay cả Vùng trung du
và miền núi phía bắc”. Tỉnh Thái Nguyên cần
vượt qua những khó khăn hiện tại và thách
thức để xây dựng chiến lược phát triển ngành
thương mại, dịch vụ bền vững.
NỘI DUNG, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được thực trạng hoạt động thương
mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Trần Thị Thanh Xuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 101 - 110
102
- Đánh giá được lợi thế, khó khăn ảnh hưởng
đến sự phát triển thương mại, dịch vụ trong
tỉnh Thái Nguyên
- Số liệu điều tra phải khách quan và phải
đàm bảo độ tin cậy
- Đưa ra được định hướng phát triển ngành
thương mại, dịch vụ bền vững cho Thái Nguyên.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu để thực hiện
phát triển thương mại dịch vụ bền vững cho
tỉnh Thái Nguyên.
Đối tương nghiên cứu:
Hệ thống siêu thị, chợ trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên (chọn mẫu 3 siêu thị: Siêu thị Minh
Cầu; siêu thị Tôn Mùi và siêu thị điện máy
Thanh Niên).
Nội dung nghiên cứu:
- Phân tích thực trạng và đánh giá phát triển
thương mại, dịch vụ của tỉnh trong năm
2012-2013.
- Tìm ra những hạn chế và nguyên nhân
trong chính sách phát triển thương mại dịch
vụ của Tỉnh.
- Đề xuất định hướng phát triển ngành thương
mại, dịch vụ của tỉnh Thái Nguyên trong thời
gian tới.
Phương pháp nghiên cứu:
- Điều tra số liệu thực tế tại cơ sở trên địa bàn
nghiên cứu bằng phiếu điều tra và phỏng vấn
hỏi trực tiếp sinh viên với 200 phiếu.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
THỰC TRẠNG NGÀNH THƯƠNG MẠI,
DỊCH VỤ TỈNH THÁI NGUYÊN
Những đóng góp của ngành thương mại và
dịch vụ trong phát triển kinh tế xã hội của
Thái Nguyên
Cùng góp phần tăng trưởng của kinh tế của
Tỉnh năm 2013, tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 16.531 tỷ
đồng, trong đó ngành thương mại đạt:
14.547,28 tỷ đồng và 1.818,41 tỷ đồng từ dịch
vụ thương mại.
Hoạt động bán lẻ ở tỉnh Thái Nguyên: Hệ
thống các siêu thị phát triển khá nhanh trong
Tỉnh nhưng chủ yếu tập trung ở địa bàn khu
vực thành phố. Năm 2004 siêu thị đầu tiên
được thành lập với hình thức là siêu thị tổng
hợp Tôn Mùi tại TP Thái Nguyên và chỉ sau 6
năm đã có hơn 15 siêu thị kinh doanh các loại
trong đó có 8 siêu thị kinh doanh tổng hợp
(Siêu thị điện máy Thanh niên, Tôn Mùi,
Minh cầu1,2 , Do’s Mart, Dung Quang, Siêu
thị chợ Phú Thái) và 7 siêu thị chuyên doanh
(2 siêu thị thế giới số; Siêu thị sách Thái
Nguyên, Máy tính IEC,…) với tổng diện tích
đất xây dựng của các siêu thị trên 14.000m2,
tổng diện tích sàn trên kinh doanh hơn
12.500m2 Tổng doanh thu thương mại đạt
bình quân khoảng hơn 105 tỷ đồng/năm.
Ngoài ra còn có các chuỗi cửa hàng tiện lợi
và có 137 chợ truyền thống. Năm 2013 doanh
thu từ hoạt động bán lẻ đạt: 16.531 tỷ đồng.
Qua đó có thể thấy rằng hoạt động bán lẻ có
vai trò quan trọng đối với ngành thương mại,
dịch vụ của Tỉnh Thái Nguyên.
Bảng 1: Tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội năm 2013
Ngành kinh tế Năm 2012
(tỷ đồng)
Năm 2013
(tỷ đồng)
Cơ cấu
(%)
Năm 2013 so
với năm
2012(%)
Tổng số 13,771.5 16.531 100 +15
Phân theo loại hình kinh tế
Kinh tế nhà nước 1,067.5 1.171 7 +13.2
Kinh tế dân doanh 12,704.0 15.360 93 +20,5
Phân theo ngành kinh doanh
Thương nghiệp 12,364.2 14.547,28 88 +14,8
Dịch vụ lưu trú, nhà hàng 926.2 1.157,17 7.5 +14,9
Dịch vụ khác 481.1 661,24 4.5 +15
Nguồn: Sở công thương Thái Nguyên, 2013
Trần Thị Thanh Xuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 101 - 110
103
Bảng 2: Một số siêu thị điển hình trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Tên Siêu thị Địa điểm
Năm
hoạt
động
Xếp
hạng
Diện tích kinh
doanh(m2) Ghi chú
Tôn mùi P. Phan Đình Phùng, P. Thịnh đán 2004 3 >1.000
Nội thất Hoàng Bình Đường Bắc Kạn – TPTN 2006 3 1.000
Minh cầu 1 P. Phan Đình Phùng 2006 3 >1.000
Thế giới số -cơ sở 1 127- Đường cách mạng tháng 8 -TPTN 2006 3 >500
Dung Quang TT Ba hàng – Phổ Yên – TN 2008 3 2.500
Thanh niên Plaza P. Tân Thịnh- TPTN 2011 3 >1.000
……
Nguồn: Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Thái Nguyên, 2013
Bảng 4: Lý do khách hàng chọn siêu thị
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu khảo sát 12/2013
Hiện tại, tỉnh đang xây dựng trung tâm
thương mại Minh Cầu giai đoạn 2. Tạo nên
một bức tranh về sự cạnh tranh và năng động
trong tỉnh. Theo qui hoạch phát triển hệ thống
chợ, siêu thị và trung tâm thương mại Sở
Công thương tỉnh Thái Nguyên thông qua đến
năm 2020 trên địa bàn tỉnh sẽ có 178 chợ,
Trung tâm thương mại 16, siêu thị 35.
Xây dựng vận tải: Với vốn đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng và được huy động từ nhiều
nguồn và đầu tư xây dựng hợp lý. Tỉnh Thái
Nguyên tập chung chủ yếu xây dựng các công
trình hạ tầng giao thông và các công trình
phúc lợi. Đặc biệt công trình Quốc lộ 3 mới
với mức đầu tư trên 10.000 tỷ đồng sau khi xây
dựng đưa vào hoạt động (1/2014) và hệ thống
đường trong thành phố giúp lưu thông tiện lợi,
việc phân phối hàng hóa trở nên dễ dàng.
Tài chính và tín dụng: Hệ thống ngân hàng
tỉnh Thái Nguyên trong năm 2013 đã thành
lập thêm 1 chi nhánh ngân hàng thương mại,
nâng tổng số lên 12 địa điểm có giao dịch
ngân hàng.
Giáo dục đào tạo và chuyển giao khoa học
kỹ thuật: Tỉnh Thái Nguyên có nhiều chuyển
biến tích cực cả về quy mô số lượng và chất
lượng. Tỉnh Thái Nguyên là trung tâm văn
hóa với trên 20 trường đại học, cao đẳng,
trường nghề, viện nghiên cứu. Là nơi đào tạo
tri thức và chuyển giao khoa học công nghệ
và kỹ thuật cho các tỉnh miền núi phía Bắc và
cả nước. Trong đó phải kể đến các đơn vị
Trường thuộc Đại học Thái Nguyên, Cao
đẳng kinh tế Thái Nguyên… là nơi đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao cho khu vực
miền núi phía Bắc.
Kết quả khảo sát ý kiến người tiêu dùng
khi mua sắm tại các siêu thị
Lý do khách hàng chọn siêu thị là nơi mua sắm
Qua điều tra cho thấy: hàng hóa đa dạng, chất
lượng đảm bảo là nguyên nhân chủ yếu để
0
20
40
60
80
100
120
140
160
Gần nhà, gần trung tâm
Gía cả niêm yết đúng
Hàng hóa đa dạng, chất lượng
đảm bảo
Văn minh lịch sự Không gian sạch sẽ, tiện lợi
Tự do chọn lựa Chương trình khuyến mãi, quà tặng, giảm giá tốt
Số
ng
ườ
i trả
lới
Lý do
Trần Thị Thanh Xuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 101 - 110
104
khách hàng lựa chọn siêu thị là nơi mua sắm.
Trong tổng số 200 phiếu hỏi thì có tới 142
lượt người chọn lý do này, chiếm tỷ lệ 71%.
Bên cạnh đó việc được tự do lựa chọn hàng
thỏa mái theo ý muốn cũng là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến khách
hàng lựa chọn mua sắm tại siêu thị có 148
người lựa chọn lý do này, chiếm 74,1%.
Ngoài ra không gian sạch sẽ, thoáng mát, đội
ngũ nhân viên phục vụ tận tình và có các
chương trình giảm giá, khuyễn mãi, quà
tặng… cũng được khách hàng đặc biệt quan
tâm chiếm tỷ lệ 52,4%.
Chủng loại hàng hoa mà khách hàng
thường lựa chọn và quyết định mua
Qua tham khảo lấy ý kiến của các nhân viên
bán hàng và các chuyên gia kết hợp với phân
tích trên phiếu cho thấy ngành thực phẩm,
hóa mỹ phẩm được khách hàng lựa chọn
nhiều nhất với tổng số 971 điểm, tiếp đến là
đồ dùng gia đình với 890 điểm và đứng thứ 3
là đồ may mặc 636 điểm. Hàng điện máy và
giày dép chiếm tỷ lệ nhỏ cho thấy rằng khách
hàng đến siêu thị không lựa chọn mặt hàng
này nhiều, điều này phản ánh khá thực nếu
mua hàng điện máy hay giầy dép thì phần lớn
khách hàng sẽ đến các siêu thị chuyên doanh
hoặc các cửa hàng đại lý.
Đánh giá của khách hàng về chất lượng
dịch vụ tại các siêu thị
Kết quả thống kê cho thấy nhìn chung vấn đề
về chất lượng và giá cả ở các siêu thị đều thực
hiện khá tốt về giá cả chúng thể hiện tương
đối đồng đều nhau không có sự biến động
lớn. Nhìn chung khách hàng đánh giá ở mức
hài lòng.
Mặt khác về thái độ phục vụ của đội ngũ nhân
viên không quá lớn trong số những siêu thị
khảo sát tốp đầu vẫn dẫn điểm đó là siêu thị
Minh Cầu, tiếp đến là Tôn Mùi và Siêu thị
Thanh niên. Các siêu thị sở hữu bởi “vị trí
vàng” cả hai hệ thống cửa hàng đều nằm
trung tâm thành phố theo nhận xét của khách
hàng thì đây là nơi rất thuận tiên cho việc
mua sắm khi họ tranh thủ đi làm về và đưa
đón con đi học dù có về muộn xong đi mua
hàng hóa trong siêu thị vẫn rất yên tâm không
lo bị hết hàng như là đi chợ. Hơn nữa trong
siêu thị trưng bày hàng hóa chính là bộ mặt và
tạo ấn tượng ban đầu của bất kỳ doanh nghiệp
nào trong mắt người tiêu dùng. Điều này tuy
đơn giản nhưng nó thật sự rất quan trọng đối
với việc việc nghiên cứu sắp xếp, sự sáng tạo
và nghiên cứu tâm lý thói quen… của khách
hàng. Tuy nhiên sự đánh giá hài lòng của
khách hàng lại hướng về sự tiện lợi của siêu
thị Tôn mùi là hơn cả về tính thuận tiện. Siêu
thị này có mặt tiền rộng chỗ bãi đậu xe rộng
cửa ra vào lớn.
Bảng 5: Thứ tự ưu tiên trong lựa chọn hàng hóa
Thứ tự
ưu tiên
Thang
điểm
Thực phẩm Hóa mỹ phẩm
Đồ dùng
gia đình Đồ may mặc Điện máy Giây dép
Tân
số Điểm
Tân
số Điểm
Tân
số Điểm
Tân
số Điểm
Tân
số Điểm
Tân
số Điểm
1 6 102 612 102 612 55 330 8 48 3 18 2 12
2 5 38 190 38 190 85 425 17 85 5 25 7 35
3 4 26 104 26 104 22 88 72 288 8 32 5 20
4 3 9 27 9 27 12 26 41 164 7 21 11 33
5 2 13 26 13 26 15 30 29 38 35 70 72 144
6 1 12 12 12 12 9 9 13 13 142 142 103 103
Tổng 200 971 200 971 200 896 200 636 200 308 200 347
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu khảo sát 2/2013
Trần Thị Thanh Xuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 101 - 110
105
Bảng 7: Mối liên hệ giữa mức độ hài lòng và việc lựa chọn siêu thị để mua sắm
Siêu thị
Mức độ hài lòng
Tổng Rất hài lòng Tương đối hài lòng Không hài lòng
Minh câu 42 52 8 102
Tỷ lệ % 41 51 8 100
Tôn mùi 38 22 5 65
Tỷ lệ % 58.5 34 7.5 100
Thanh niên 21 9 3 33
Tỷ lệ % 64 27 9 100
Mối liên hệ giữa mức độ hài lòng và việc lựa
chọn siêu thị để mua sắm
Kết quả thống kê ở Bảng 7 cho thấy, trong
200 khách hàng được phỏng vấn ưu tiên thứ
nhất cho siêu thị Minh Cầu về việc mua sắm
có 102 khách hàng, 65 khách hàng chọn Tôn
Mùi và 33 khách hàng chọn Điện máy Thanh
Niên. Hầu hết khách hàng đánh giá ở mức độ
rất hài lòng và khá hài lòng, không có khách
hàng nào đánh giá siêu thị ở mức độ hoàn
toàn không hài lòng.
Tuy nhiên, vẫn còn có một số khách hàng
đánh giá chất lượng dịch vụ của siêu thị ở
mức không hài lòng. Tại Minh cầu có 8/102
khách hàng đến siêu thị không hài lòng chiếm
8% tương tự như với Tôn mùi và Thanh niên.
Nguyên nhân qua tìm hiểu cho thấy chủ yếu
là khâu gửi xe, thanh toán tiền và không
hướng dẫn cụ thể đối với từng loại sản phẩm,
hay thái độ còn thờ ơ của nhân viên…
Vậy các siêu thị cần nâng cao chất lượng dịch
vụ hơn nữa để làm gia tăng con số “hài lòng,
rất hài lòng” và làm giảm số lượng khách
hàng “ không hài lòng”. Theo kết quả khảo
sát cho thấy khách hàng sẽ loại bỏ không sử
dụng nếu dịch vụ đó tồi.
Đánh giá chung về thực trạng phát triển
thương mại, dịch vụ trong thời gian qua.
Những mặt được
Trong những năm vừa qua, chính sách
khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành
phần và bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế đã góp phần quan trọng thúc đẩy
sự phát triển các hoạt động thương mại, dịch
vụ trên địa bàn tỉnh, nên đã hỗ trợ cho việc
sản xuất, kinh doanh phát triển thuận lợi hơn,
khu vực kinh tế dân doanh tăng nhanh, hàng
hóa mua bán trao đổi trên thị trường ngày
càng đa dạng, phong phú, phục vụ tương đối
tốt nhu cầu của nhân dân địa phương và
khách du lịch.
Sự phát triển các siêu thị và nâng cấp xây mới
các chợ truyền thống trên địa bàn tỉnh, đã tạo
điều kiện cho đồng bào các dân tộc mua được
các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời
sống với giá cả không chênh lệch nhiều so với
vùng đồng bằng, vùng đô thị. Ngược lại nhân
dân cũng có điều kiện để bán được một phần
sản phẩm do họ tự sản xuất ra góp phần giảm
bớt khó khăn trong sản xuất và trong đời
sống, phát triển sản xuất hàng hóa và thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Việc phát triển thương mại, dịch vụ trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên góp phần giải quyết
việc làm, thực hiện phân công lại lao động
trong tỉnh.
Bên cạnh những đóng góp của ngành thương
mại Thái Nguyên phải kể đến chức năng quản
lý của Sở công thương tỉnh Thái Nguyên. Sở
Công thương Thái Nguyên là cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Thái Nguyên có chức
năng tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về thương mại
dịch vụ, được đổi mới cơ bản về chức năng
nhiệm vụ. Công tác quản lý Nhà nước về
Công thương trên địa bàn đã có nhiều chuyển
biến tích cực, vai trò tham mưu cho cấp ủy và
chính quyền địa phương được đề cao và phát
huy, đặc biệt là công tác lập, hướng dẫn triển
khai và giám sát thực hiện các quy hoạch
chương trình, đề án, kế hoạch, cơ chế chính
sách, chỉ đạo định hướng chiến lược phát
Trần Thị Thanh Xuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 101 - 110
106
triển, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh.
Sự phát triển của thương mại, dịch vụ trên địa
bàn tỉnh trong thời gian qua đã giúp các hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu của tỉnh đạt
được những bước tiến tích cực. Kim ngạch
xuất khẩu tăng liên tục, cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu được chuyển dịch theo hướng tăng
nhanh các mặt hàng chế biến, chế tạo, hạn chế
xuất khẩu hàng hóa chưa chế biến, thị
trường xuất khẩu hàng hóa ngày càng được
mở rộng, góp phần tiêu thụ sản phẩm hàng
hóa của địa phương và thúc đẩy các ngành
sản xuất phát triển.
Hạn chế và tồn tại của ngành thương mại
dịch vụ tỉnh Thái Nguyên
Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh
tế, ngành thương mại dịch vụ tỉnh Thái
Nguyên cũng gặp phải không ít khó khăn, đặc
biệt là hoạt động kinh doanh tại các siêu thị
và chợ truyền thống. Phần lớn các siêu thị,
chợ tập trung chủ yếu ở các trung tâm thành
phố bán kính dưới 5km. Vì vậy sức cạnh
tranh vô cùng khốc liệt, một số siêu thị, cửa
hàng bán lẻ đã phải đóng cửa hay hoạt động
cầm chừng vì không hoạt động hiệu quả.
Trong khi các huyện thị xã thì vắng bóng các
siêu thị. Từ đó cho thấy mạng lưới bán lẻ của
tỉnh chưa phát triển đồng bộ. Mặt khác, hệ
thống chợ vẫn còn nhiều bất cập đặc biệt là cơ
sở hạ tầng và mạng lưới phát triển, các chợ
cóc, chợ tạm tự phát mọc ra ảnh hưởng rất
nhiều đến hoạt động quản lý thương mại dịch
vụ của tỉnh.
Tỉnh Thái Nguyên đóng vai trò vị trí chiến
lược, là cầu nối giữa các vùng trung du Miền
núi phía Bắc. Tuy nhiên qua nhiều năm sử
dụng và không được duy tu bảo dưỡng
thường xuyên cũng như chính sách phát triển
cơ sở hạ tầng nên các tuyến đường trong và
ngoài tỉnh đã bị xuống cấp nghiêm trọng.
Lòng đường hẹp, nhiều ổ gà… khó đảm bảo
ATGT. Từ đó khiến cho ngành dịch vụ vận
tải mất nhiều thời gian và tốn kém chi phí.
Đặc biệt là tình trạng ngập lụt đường khi mùa
mưa đến hệ thống thoát nước không đảm bảo.
Các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng
chưa đạt kết quả như mong muốn đã làm hạn
chế sự phát triển hệ thống thương mại dịch
vụ. Mối liên kết kéo dài giữa thương mại với
sản xuất, giữa doanh nghiệp với thương mại
với doanh nghiệp sản xuất để hình thành hệ
thống lưu thông ổn định, xây dựng thị trường
cung ứng và tiêu thụ vững chắc chưa được
thiết lập, đặc biệt là trên những khu vực nông
thôn miền núi và vùng cao. Việc tổ chức cung
ứng vật tư, giống và thu mua nông sản,
nguyên liệu còn yếu, giá cả bất lợi cho người
nông dân, việc cung cấp, tiêu thụ hàng hóa
còn chưa phù hợp với sức mua và thị hiếu của
từng địa bàn trong tỉnh.
Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề nêu trên chủ
yếu là do:
- Thu nhập bình quân đầu người tính chung toàn
tỉnh đang ở mức thấp, sức mua của dân không
cao đã hạn chế sự phát triển thị trường, dẫn đến
sự chậm phát triển thương mại, dịch vụ.
- Đa phần các doanh nghiệp trên địa phương
của tỉnh có quy mô vừa và nhỏ, vốn ít, cơ sở
vật chất nghèo nàn nên gặp nhiều khó khăn
trong quá trình mở rộng sản xuất và phát triển
thương mại, dịch vụ. Đồng thời, sự phối hợp
giữa các ngành trong việc nghiên cứu thị
trường, hướng dẫn, chỉ đạo, tiêu thụ sản phẩm
còn bị hạn chế.
- Hệ thống cơ chế chính sách chưa hoàn chỉnh
và đồng bộ hiện nay đã ảnh hưởng lớn đến
công tác quản lý Nhà nước và hiệu quả đầu tư
vào phát triển thương mại, dịch vụ trong tỉnh.
- Hạ tầng cơ sở của Thái Nguyên (đường sá,
cầu cống, điện, nước…) chưa đồng bộ đã tác
động đến tốc độ phát triển thương mại, dịch
vụ của toàn tỉnh.
- Đầu tư của tỉnh vào lĩnh vực thương mại
những năm qua còn ít so với yêu cầu đòi hỏi
của sự phát triển. Các doanh nghiệp, các hộ
kinh doanh thương mại chỉ đầu tư ngắn hạn
chưa có đầu tư dài hạn và theo chiều sâu.
Hiện mới chỉ có 1 trung tâm mua sắm Minh
Cầu đang thực hiện ở giai đoạn 2.
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH
THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ
Qua phân tích thực trạng cho thấy, ngành
thương mại và dịch vụ của tỉnh Thái Nguyên
Trần Thị Thanh Xuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 101 - 110
107
đã có sự phát triển tương đối nhanh và đóng
vai trò quan trọng trong khu vực và cả nước.
Tuy nhiên hệ thống này chưa đáp ứng được
nhu cầu của một thành phố, trung tâm khu
vực với hơn 1 triệu dân. Để phát triển ngành
thương mại và dịch vụ tỉnh Thái Nguyên cần
xứng tầm với vai trò trung tâm động lực của
các tỉnh miền núi phía Bắc.
Định hướng chung:
- Phát triển dịch vụ với tốc độ nhanh, có chất
lượng hơn hẳn các năm trước với tốc độ tăng
trưởng cao hơn tốc độ tăng GDP của toàn
tỉnh. Nhanh chóng đưa Thái Nguyên trở thành
một trung tâm phát triển dịch vụ lớn của vùng
Trung du miền núi Bắc Bộ. Tốc độ GDP
dịch vụ tăng 13,2%/năm, lao động dịch vụ
đạt khoảng 157.100 người, và đạt 250.800
người vào năm 2020 (chiếm 30,9% lao
động xã hội). (Nguồn: Công thương tỉnh
Thái Nguyên, 2013)
- Nâng dần thị phần và tầm ảnh hưởng của
một số phân ngành dịch vụ, sản phẩm dịch vụ
có thế mạnh của Thái Nguyên trên thị trường.
Đảm bảo cho những năm tiếp theo một số sản
phẩm dịch vụ của tỉnh có vị thế quan trọng
trong vùng và cả nước (du lịch, thương mại,
giáo dục, giao thông vận tải, hành chính…).
Ưu đãi về chính sách, ưu tiên về các nguồn
lực cho một số ngành, sản phẩm dịch vụ chủ
lực, có lợi thế, được xác định là ngành, sản
phẩm có tính đột phá trong giai đoạn này.
- Nâng cao hơn nữa vai trò của dịch vụ đối
với kinh tế tỉnh, đảm bảo nâng tỷ trọng ngành
dịch vụ chiếm 39,5% GDP toàn tỉnh vào năm
2014 và trên 42% vào năm 2020, tăng phần
đóng góp cho ngân sách và có vai trò thúc đẩy
các ngành, lĩnh vực khác phát triển.
- Chuyển dịch cơ cấu khu vực dịch vụ theo
hướng tăng nhanh các dịch vụ chủ lực, hình
thành các phân ngành, các sản phẩm dịch vụ
mới có giá trị tăng cao, phù hợp với lợi thế
của tỉnh, phù hợp với yêu cầu phát triển của
vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, tăng dần các
dịch vụ cao cấp, dịch vụ chất lượng cao, tăng
tỷ trọng khu vực tư nhân trong cung cấp các
loại dịch vụ trên địa bàn tỉnh.
Phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh
thái, cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn và phát
huy giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa, hài
hòa lợi ích kinh tế và ổn định chính trị - xã
hội và quốc phòng an ninh toàn địa bàn.
- Dịch vụ trung tâm thương mại, siêu thị, chợ:
Để phục vụ các nhu cầu xã hội. Do vậy, trung
tâm thương mại, siêu thị, chợ phải được qui
hoạch, tổ chức xây dựng và quản lý trên cơ
sở: Phù hợp với qui hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, đặc biệt là qui hoạch
đô thị giao thông phát triển các vùng dân cư
và các khu vực sản xuất hàng hóa tập trung,
làng nghề truyền thống; Phát triển mạng lưới
trên cơ sở cải tạo và nâng cấp đảm bảo văn
minh hiện đại, điều kiện mua bán thuận tiện
nhưng vẫn giữ bản sắc dân tộc, đúng pháp
luật hiện hành nhưng phải phù hợp với tập
quán tiêu dùng của cư dân trên địa bàn.
Bên cạnh đó còn phát triển thêm một số
ngành dịch vụ khác như:
- Dịch vụ du lịch: Phấn đấu doanh thu dịch
vụ - khách sạn – nhà hàng đạt trên 1.200 tỷ
đồng năm 2014 và đạt 5.000 tỷ đồng vào năm
2020 (tăng bình quân trên 18%/năm). Số lượt
khách đến du lịch Thái Nguyên khoảng 3
triệu lượt (trong đó khách quốc tế trên 70
nghìn lượt) tăng 13,4%/năm. Số khách lưu trú
đạt bình quân 2 ngày/lượt khách.
- Dịch vụ tài chính ngân hàng: Xây dựng
dịch vụ đa năng, hiệu quả phù hợp hệ thống
ngân hàng cả nước, tạo điều kiện thuận lợi để
các ngân hàng lớn trong và ngoài nước thành
lập các chi nhánh tại Thái Nguyên, nâng cao
chất lượng và đổi mới hoạt động của hệ thống
ngân hàng trong tỉnh, khuyến khích phát triển
các hình thức ngân hàng cổ phần tín dụng
ngoài quốc doanh để phát triển các dịch vụ
tiền tệ. Mở rộng phát triển đa dạng các dịch
vụ tiện ích ngân hàng và bảo hiểm, phát triển
các hình thức thanh toán không dùng tiền
mặt, phát triển thị trường chứng khoán, đa
dạng hóa các dịch vụ ngân hàng nhận gửi cho
vay, cho thuê tài chính, thanh toán và chuyển
tiền, thế chấp và cam kết giao dịch qua tài
khoản, môi giới cho vay quản lý tài sản… Mở
rộng các loại hình dịch vụ bảo hiểm trong mọi
Trần Thị Thanh Xuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 101 - 110
108
lĩnh vực sản xuất, đời sống. Hiện đại hóa cơ
sở vật chất kỹ thuật, tăng cường hợp tác quốc
tế, nâng cao chất lượng, trình độ các dịch vụ
tài chính, ngân hàng đạt tới các tiêu chuẩn
quốc tế và khu vực.
- Dịch vụ bưu chính viễn thông: Phát triển
nhanh chóng theo hướng đổi mới nâng cao
trình độ thiết bị, công nghệ tốc độ cao, đa
phương thức, hạ giá cước, tăng chất lượng
dịch vụ chăm sóc khách hàng, đảm bảo thông
tin liên tục, thông suốt, an toàn, văn minh,
tiện lợi, phát triển mạng, bưu cục, điểm bưu
điện một cách hợp lý. Nâng cao chất lượng
dịch vụ bưu chính, phát triển các dịch vụ mới,
tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật. Phát triển
nhanh, mạnh, vững chắc các dịch vụ có hàm
lượng chất xám cao như: Dịch vụ tư vấn, dịch
vụ khoa học công nghệ, kinh doanh tài sản,
đầu tư… Đảm bảo chất lượng dịch vụ dần
theo kịp với các trung tâm dịch vụ khác trong
cả nước. Đặc biệt cần chuyển dần từng bước
các hoạt động sự nghiệp công ích như:
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ, y tế, giáo
dục, văn hóa, thể thao, dịch vụ đô thị… sang
cơ chế hoạt động phù hợp với kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Giải pháp chủ yếu để thực hiện phát
triển thương mại dịch vụ bền vững cho
tỉnh Thái Nguyên
Một là, tăng cường công tác tổ chức và
quản lý:
Tăng cường hiệu quả công tác quản lý Nhà
nước về thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên được tiến hành thông qua việc
hoàn thiện các qui định pháp luật, chính sách
và cơ chế quản lý thương mại, dịch vụ sử
dụng công cụ (hành chính, thuế…) để điều
tiết hoạt động thương mại… Sở công thương
Thái Nguyên là cơ quan quản lý Nhà nước về
thương mại trên địa bàn, có trách nhiệm tổ
chức, hướng dẫn thi hành các văn bản hướng
dẫn thi hành luật Thương mại các qui định
khác của pháp luật về phát triển thương mại
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các
qui định của Nhà nước hướng dẫn công tác
quản lý thị trường, thanh tra, chống buôn lậu
và gian lận thương mại… cho phù hợp với
tình hình thực tiễn ở địa phương.
Các cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước
về thương mại, thị trường trên địa bàn tỉnh,
tập trung nghiên cứu dự báo thị trường, qui
hoạch và kế hoạch phát triển dịch vụ, kiểm
tra, kiểm soát thị trường. Đồng thời phải gắn
việc quản lý trên phạm vi toàn tỉnh với đặc
thù của riêng các huyện, thị xã, thành phố.
Trong phạm vi chức năng quyền hạn được
giao, các cơ quan này cần chủ động đề xuất
với cơ quan tỉnh và ngành về việc thực hiện
hệ thống các văn bản pháp luật, cơ chế chính
sách liên quan đến phát triển thương mại, dịch
vụ trên địa bàn, góp phần ổn định thị trường.
Hai là, Xúc tiến thương mại và phát triển
trên thị trường:
- Tăng cường công tác xúc tiến thương mại:
Xây dựng chương trình xúc tiến thương mại
định hướng xuất khẩu hàng hóa cho từng giai
đoạn. Xây dựng trang thông tin thương mại,
nghiên cứu thị trường, xây dựng cơ sở dữ liệu
các thị trường xuất khẩu trọng điểm theo các
ngành hàng, tuyên truyền xuất khẩu và quảng
bá ngành hàng, chỉ dẫn địa lý nổi tiếng của thị
trường Thái Nguyên ra thị trường nước ngoài.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả của sàn giao
dịch thương mại điện tử tạo cầu nối giữa các
doanh nghiệp trong tỉnh với các doanh nghiệp
ngoài tỉnh và cộng đồng doanh nghiệp quốc tế
thông qua mạng internet, góp phần vào công
tác xúc tiến, thông tin thị trường các nước,
thông tin về xuất nhập khẩu, về vấn đề pháp
luật vấn đề quảng bá giới thiệu tiềm năng của
tỉnh, định hướng phát triển những cơ chế
chính sách hỗ trợ, thu hút các nhà đầu tư, giúp
các doanh nghiệp giới thiệu hình ảnh của
doanh nghiệp, xây dựng gian hàng ảo giới
thiệu sản phẩm của mình, chào mua, chào
bán, tìm đối tác bên ngoài, góp phần nâng cao
sức cạnh tranh trên thị trường…
Đào tạo tập huấn ngắn hạn trong và ngoài
nước nhằm nâng cao nghiệp vụ xúc tiến
thương mại cho các doanh nghiệp, Hợp tác xã
dịch vụ thương mại…
Tổ chức các hoạt động bán hàng, thực hiện
chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, các
khu công nghiệp, khu đô thị… thông qua các
doanh nghiệp kinh doanh theo ngành hàng,
hợp tác xã cung ứng dịch vụ trên địa bàn.
Trần Thị Thanh Xuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 101 - 110
109
- Thúc đẩy và nâng cao hiệu quả liên kết giữa
thị trường Thái Nguyên với thị trường nước
ngoài. Đẩy mạnh quá trình liên kết giữa thị
trường Thái Nguyên với thị trường các tỉnh,
thành phố khác và với các thị trường ngoài
nước trên cơ sở phát huy lợi thế và bảo đảm
lợi ích của các bên tham gia. Đây là một trong
những giải pháp quan trọng để tạo ra thị
trường ổn định hơn trong điều kiện nền kinh
tế thị trường luôn biến động, hơn nữa giải
pháp này cũng góp phần khắc phục tình trạng
thiếu vốn, thiếu thông tin, hỗ trợ năng lực
hoạt động marketing còn non kém của doanh
nghiệp trong tỉnh.
Đối với thị trường trong nước: Ưu tiên hàng
đầu cho việc thiết lập các mối quan hệ liên kết
giữa thị trường Thái Nguyên với Hà Nội,
Quảng Ninh, Hải Phòng… vì đây là thị
trường có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh
tế, thương mại của tỉnh, giúp tỉnh nâng cao vị
thế khi tiếp xúc với các thị trường khác trong
cả nước. Đồng thời duy trì và mở rộng mối
quan hệ với các tỉnh phụ cận: Vĩnh Phúc,
Lạng Sơn, Bắc Giang, Tuyên Quang, Bắc
Kạn… cũng như các tỉnh địa phương khác
trong cả nước để tạo liên kết bổ sung và phân
tán rủi ro.
Đối với thị trường ngoài nước: Cần chủ động
trong việc tạo lập các mối liên kết song
phương, đa cấp độ và đa hình thức. Các mối
liên kết chủ yếu với thị trường ngoài nước.
Phát triển thị trường tiêu thụ một số sản phẩm
chủ lực của Thái Nguyên: Thị trường chè, thị
trường tiêu thụ hoa quả và sản phẩm chăn
nuôi, thị trường tiêu thụ sản phẩm may, thị
trường tiêu thụ sản phẩm cơ khí, máy móc
thiết bị, công cụ, dung cụ, nhóm hàng khoáng
sản kim loại….
Ba là, giải pháp về cơ chế chính sách thu
hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương
mại dịch vụ trên địa bàn tỉnh
Năm qua tỉnh Thái Nguyên đứng thứ 2 trong
cả nước về thu hút vốn đầu tư. Đây là nguồn
vốn tạo thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng để tỉnh tạo điều kiện nâng cấp hệ thống
đầu tư xây dựng chợ, đầu tư xây dựng hạ tầng
kỹ thuật, chính sách kinh doanh kết cấu hạ
tầng thương mại. Để tỉnh Thái Nguyên trở
thành trung tâm thương mại cấp vùng, đầu
mối cho mọi hoạt động thương mại vùng và
liên vùng. Nghiên cứu giải pháp khuyến khích
hợp tác công tư trong việc nâng cấp trang
thiết bị hệ thống dịch vụ y tế tuyến huyện thị,
nâng cấp hệ thống trường lớp các cấp. Ngoài
ra cần đầu tư nâng cấp giao thông ở các tuyến
đường quan trọng của tỉnh. Giải quyết ngay
hệ thống thoát nước, không để tình trạng còn
ngập lụt tái diễn mỗi khi trời mưa to.
Bốn là, giải pháp phát triển nguồn nhân lực
hoạt động trong lĩnh vực thương mại:
Khuyến khích thu hút các nhà quản trị kinh
doanh trong và ngoài nước vào ngành thương
mại. Để doanh nghiệp thương mại phát triển
trên thị trường đòi hỏi phải có biện pháp nâng
cao năng lực của các nhà quản trị doanh
nghiệp để từng bước tăng cường khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại.
UBND tỉnh có chính sách ưu đãi để mời gọi,
chiêu mộ việt kiều từ các nước là những nhân
tài hiểu biết về thị trường của các nước phát
triển làm việc, công tác hoặc tư vấn cho các
doanh nghiệp của Thái Nguyên.
Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực trong ngành
thương mại tỉnh Thái Nguyên để khuyến
khích phát triển tiềm năng cho các nhà kinh
doanh, thúc đẩy nâng cao trình độ công nghệ
kinh doanh, tăng cường khả năng ứng dụng
công nghệ thông tin trong quản lý. Tổ chức
các lớp đào tạo, bồi dưỡng để trang bị về
những kiến thức cần thiết trước hết là cho các
doanh nhân.
Hỗ trợ kinh phí tổ chức các lớp học để nâng
cao kiến thức và kỹ năng quản lý, các chương
trình tư vấn về kinh doanh, phát triển thương
hiệu… dành cho các doanh nghiệp thương
mại tư nhân.
KẾT LUẬN
Qua phân tích thực trạng ngành thương mại
và dịch vụ tỉnh Thái Nguyên đưa ra một số
kết luận như sau:
Thứ nhất, ngành thương mại, dịch vụ của
tỉnh Thái Nguyên có nhiều đóng góp đáng
Trần Thị Thanh Xuân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 101 - 110
110
chú ý cho sự phát triển kinh tế của tỉnh Thái
Nguyên, góp phần củng cố vị thế trung tâm
kinh tế của vùng miền núi Bắc Bộ. Trong đó
phải kể đến các ngành quan trọng như: Ngành
bán lẻ, tài chính, giáo dục…
Thứ hai, bên cạnh những mặt đạt được ngành
thương mại dịch vụ cũng còn tồn tại những
khó khăn hạn chế cần khắc phục: cơ sở hạ
tầng phục vụ cho thương mại và dịch vụ,
công tác quản lý thương mại và dịch vụ…
Dựa trên thực trạng, thành tựu đạt được và
khó khăn tồn tại cần khắc phục. Tôi đề xuất
một số giải pháp phát triển ngành thương mại
và dịch vụ tỉnh Thái Nguyên. Từ đó, giúp
kinh tế tỉnh Thái Nguyên phát triển mạnh mẽ
hơn, ngành thương mại và dịch vụ phát triển
bền vững, xứng đáng với vai trò là trung tâm
động lực của khu vực miền núi Bắc Bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của
Bộ chính trị về phương hướng phát triển kinh tế -
xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung
du miền núi Bắc Bộ đến năm 2020. năm 2004.
2. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng Bộ tỉnh
Thái Nguyên lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2010-
2015, năm 2010.
3. Quy hoạch phát triển KCHTTM gồm: chợ, siêu
thị, trung tâm thương mại, trung tâm phân phối
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2009-
2020, UBND tỉnh Thái Nguyên, năm 2009
4. Quy hoạch phát triển thương mại Tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 2011-2020, năm 2011.
5. Báo cáo tình hình hoạt động ngành công
thương 11 tháng đầu năm, ước thực hiện cả năm
2013, kế hoạch 3 năm 2011-2013 và dự kiến
xây dựng kế hoạch năm 2014, kế hoạch 2 năm
2014-2015, năm 2013
6. Niên gián thống kê, năm 2012.
7. Báo cáo kinh tế công thương, Sở công thương
Thái Nguyên, năm 2013
SUMMARY
RESEARCH TO DEVELOP COMMERCIAL SOLUTIONS
AND SERVICES FOR A SUSTAINABLE THAINGUYEN PROVINCE
Tran Thi Thanh Xuan*
University of Transport Technology
In recent years, along with the economic growth rate was high, the province's economic structure
shift in the right direction, the proportion of industry - construction and services in Gross Dometic
Product(GDP) tend to increase and the proportion of agriculture, forestry, industry tends to
decrease. However, the shift of the provincial economy is still slow, including value-added
services sector is lower than the industry development targets. The resolution No. 37-NQ/TW
dated 01/7/2004 of the Ministry of Politics about the direction of economic development - social
and ensuring national defense and security in the northern midland 2020. The Resolution of 18th
Thai Nguyen Congress Party, took place from October 20 to 23 2010 in the 2010-2015 term, offer:
To achieve the goal, the economic growth average rate in 5 years increase 12-13 %, per capita
GDP in 2015 reaches 45 million. So what is sustainable development solution of the province for
commerce and services?
The objective of the study was to find out the factors affecting the commercial quality, service, and
on this basis propose some contributory solutions to improving the quality of service retail
supermarkets in Thai Nguyen. Data sources for the study obtained from interviews with 200
random customers shopping in supermarket. The method is used to analyze and collect the data
are: descriptive statistics, analysis, factor analysis and cross analysis.
Keywords: Suppermarket, Service quality, commercial center
Ngày nhận bài:02/5/2014; Ngày phản biện:19/5/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Đỗ Anh Tài – Đại học Thái Nguyên
* Tel:
Hà Thị Thanh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 111 - 114
111
GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
CỦA HUYỆN PHU LƯƠNG - TỈNH THÁI NGUYÊN
Hà Thị Thanh Hoa*, Dương Thị Thuý Hương Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Nông nghiệp, nông thôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, nhất là với một đất nước có 70% dân số sống ở nông thôn như Việt Nam. Phát triển nông
nghiệp, nông thôn là một yêu cầu cấp bách được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Bài viết đề
cập đến hiện trạng phát triển nông nghiệp, nông thôn huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên và từ đó
đề xuất những giải pháp giúp huyện nhanh chóng hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới,
làm bài học kinh nghiệm thực tế hữu ích cho các huyện khác áp dụng.
Từ khóa: nông thôn mới, nông nghiệp, Phú Lương
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Nông nghiệp, nông thôn có vai trò rất quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, nhất là với Việt Nam, là nước nông
nghiệp, dân số sống ở khu vực nông thôn
chiếm 70% dân số cả nước. Vì vậy, phát triển
nông nghiệp, nông thôn là một yêu cầu cũng
như thách thức trong quá trình phát triển.
Nhận thức được vấn đề đó, Đảng và Nhà
nước đã rất quan tâm đến vấn đề này. Ngày
05/08/2008 Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết
số 26 – NQ/TW về nông nghiệp, nông dân
nông thôn. Mục tiêu của Nghị quyết, đến năm
2020: “… Giải quyết cơ bản việc làm, nâng
cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên
2,5 lần so với hiện nay. Lao động nông
nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ
lao động nông thôn thông qua đào tạo đạt
trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới
khoảng 50%; phát triển đồng bộ kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn…”
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN
MỚI Ở HUYỆN PHÚ LƯƠNG - TỈNH
THÁI NGUYÊN
Giới thiệu về huyện Phú Lương
* Vị trí địa lý
Phú Lương là huyện miền núi, nằm ở vùng
phía Bắc của tỉnh Thái Nguyên. Phía Bắc giáp
* Tel: 0949 330585
với huyện Chợ Mới (tỉnh Bắc Kạn); phía Nam
và Đông Nam giáp T.P Thái Nguyên; phía
Tây giáp huyện Định Hóa; phía Tây Nam
giáp huyện Đại Từ; phía Đông giáp huyện
Đồng Hỷ. Huyện lỵ đặt tại thị trấn Đu, cách
trung tâm T.P Thái Nguyên 22km về phía
Bắc. Huyện Phú Lương có 16 đơn vị hành
chính cấp xã/phường gồm 2 thị trấn và 14 xã.
Với vị trí địa lý thuận lợi, huyện Phú Lương
có điều kiện để thúc đẩy giao thương hàng
hóa, tạo điều kiện thuận lợi để sớm thực hiện
thành công mục tiêu nông thôn mới do Chính
phủ đề ra, qua đó đây sẽ là bài học kinh
nghiệm thực tế hữu ích cho các địa phương
khác trong tỉnh áp dụng.
* Đặc điểm kinh tế - xã hội
Nông nghiệp trồng lúa nước chiếm vị trí quan
trọng trong nền kinh tế huyện Phú Lương.
Ngoài ra, nhân dân huyện còn trồng các loại
cây hoa màu khác như chè, lạc, đỗ tương ...
và các cây công nghiệp như chè, các cây lấy
gỗ, trong đó, cây chè chiếm vị trí chủ đạo
trong nền kinh tế.
Ngoài trồng trọt, nhân dân Phú Lương còn
đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm như:
trâu, bò, lợn, gà... để cung cấp nguồn thực
phẩm, sức kéo và phân bón cho đồng ruộng.
Cùng với phát triển sản xuất nông nghiệp và
chăn nuôi, huyện Phú Lương còn đẩy mạnh
trồng cây lâu năm nhằm cung cấp cho
ngành công nghiệp trong và ngoài tỉnh như
gỗ, tre, nứa, ...
Hà Thị Thanh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 111 - 114
112
Phú Lương là huyện có nhiều nghề thủ công,
giỏi nghề đan lát, làm trống, sản xuất gạch ngói.
Thực trạng xây dựng nông thôn của huyện
Phú Lương
* Kết quả phát triển kinh tế nông thôn của
huyện giai đoạn 2010 – 2012
Kết quả phát triển kinh tế trong nông thôn của
huyện năm 2013 là 284.605 triệu đồng trong
đó ngành nông nghiệp là 254.072 triệu đồng,
chiếm 89,27%, thu công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp là 21.781 triệu đồng chiếm 7,75%, thu
dịch vụ là 8.752 triệu đồng chiếm 3,07%.
Qua bảng trên ta thấy rằng ở khu vực nông
thôn tổng thu nhập về nông nghiệp là rất lớn
tốc độ phát triển bình quân là 113,3%, còn thu
nhập của công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
cũng phất triển rất nhanh và cao là 149,1%,
thu dịch vụ là 126,9% thể hiện ở nông thôn
huyện Phú Lương, thu nhập của người dân
tăng đều qua các năm.
* Kết quả hoạt động sản xuất nông nghiệp
của địa phương
Biểu đồ trên cho biết kết quả hoạt động sản
xuất nông nghiệp của địa phuơng được thể
hiện qua các số liệu. Chúng ta thấy rằng thu
về trồng trọt và lâm nghiệp tốc độ phát triển
mạnh hơn so với các ngành khác ngành trồng
trọt năm 2010 tổng thu là 120.545 triệu đồng
năm 2012 là 186.012 triệu đồng, ngành lâm
nghiệp năm 2010 là 19.700 triệu đồng năm
2012 là 27.361 triệu đồng còn các ngành khác
như chăn nuôi, thủy sản, dịch vụ nông nghiệp
thu nhập còn rất thấp.
Bảng 01. Kết quả phát triển kinh tế nông thôn của huyện qua 3 năm
STT Chỉ tiêu ĐVT 2010 2011 2012 TD
PTBQ
I Tổng thu nhập Tr.đ 213.018 231.623 284.605 115.6%
1 Thu Nông nghiệp 197.793 208.112 254.072 113,3%
2 Thu CN – TTCN 9.792 16.636 21.781 149,1%
3 Thu dịch vụ 5.433 6.875 8.752 126,9%
II Cơ cấu %
Tổng số 100,00 100,00 100,00
1 Thu nông nghiệp 48% 46% 42,7%
2 Thu CN – TTCN 32% 37% 40,3%
3 Thu dịch vụ 20% 17% 17%
Nguồn: Chi cục thống kê huyện Phú Lương (năm 2012)
Hình 1. Kết quả hoạt động sản xuất nông nghiệp của nông thôn huyện
118.4% 124.2%
107.9% 101.8%
117.9%
106.6%
0.0%
20.0%
40.0%
60.0%
80.0%
100.0%
120.0%
140.0%
Tổng thu
nhập
Trồng trọt Chăn nuôi Thủy sản Lâm nghiệp Thu dịch vụ
nông
nghiệp
Series1
Hà Thị Thanh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 111 - 114
113
* Tình hình phát triển xã hội nông thôn của địa phương
STT Chỉ tiêu ĐVT 2010 2011 2012 TĐPTBQ
1 Thu nhập bq/ng Tr.đ 5.25 6.55 8.50 127.2%
2 Thu nhập bq/ld - 5.50 7.00 9.15 129.0%
3 Số hộ nghèo Hộ 2.300 2.184 2.811 110.6%
4 Tỷ lệ hộ nghèo % 0.06 0.06 0,07 108.0%
Nguồn: Chi cục thống kê huyện Phú Lương (năm 2012)
Hình 2. Tình hình phát triển kinh tế nông thôn của địa phương
Qua bảng trên ta thấy, thu nhập bình quân đầu
người tại nông thôn còn rất thấp tốc độ phát
triển không cao trong 3 năm tốc độ phát triển
là 127,2%, tổng thu nhập bình quân lao động
tại khu vực này đạt 129,0%, tỉ lệ hộ nghèo
khu vực nông thôn huyện năm 2010 đến năm
2011 có giảm đi một ít là năm 2010 có 2.300
hộ năm 2011 giảm xuống còn 2.184 tỉ lệ giảm
không đáng kể nhưng đến năm 2012 thì tăng
đột biến lên 2.811 hộ. Điều này có thể giải
thích do sự dịch chuyển của chuẩn nghèo, lạm
phát, khủng hoảng kinh tế khiến hàng hóa
tăng giá cao, trong khi thu nhập của người
dân không được cải thiện, dẫn đến tình trạng
khá nhiều hộ nông dân tái nghèo.
GIẢI PHÁP
Tuyên truyền, vận động, giáo dục để tất cả
các cấp các ngành và người dân tham gia
xây dựng nông thôn mới
Là huyện miền núi, trình độ dân trí thấp, lao
động việc làm khó khăn, vì vậy trước hết phải
được sự đồng lòng đoàn kết của toàn dân. Để
dân hiểu, dân làm, huyện Phú Lương phải tổ
chức tuyên truyền, vận động và giáo dục
người dân biết tầm nhìn quan trọng và ý nghĩa
của xây dựng nông thôn mới. Các cấp các
ngành được nâng cao nhận thức cùng tham
gia, thực hiện xây dựng nông thôn mới.
Huyện ủy lãnh đạo chính quyền và các tổ
chức chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội
triển khai nâng cao nhận thức và thực hiện
xây dựng nông thôn mới. Các cơ quan tuyên
truyền thực hiện nhiều phương pháp và nâng
cao tần suất tuyên truyền, vận động các
phương tiện thông tin đại chúng.
Nâng cao trình độ cán bộ và dân trí của
người dân địa phương
Thực trạng điều tra cho thấy trình độ cán bộ
xã, thôn còn rất thấp so với yêu cầu về xây
dựng nông thôn mới. Từ kinh nghiệm của một
số nước trên thế giới và tiêu chí cần phải đạt
về xây dựng nông thôn mới thì huyện phải có
chủ trương thu hút nhân tài, quy hoạch và đào
tạo cán bộ xã, cán bộ thôn nâng cao trình độ
để tiếp thu, triển khai các chiến lược, chính
sách của Đảng và Nhà nước đồng thời có khả
năng vận động người dân áp dụng tiến bộ
khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
127.2% 129.0%
108.0%
95.0%
100.0%
105.0%
110.0%
115.0%
120.0%
125.0%
130.0%
Tổng thu nhập
bq/người
Tổng thu nhập bq/lđ Tỷ lệ hộ nghèo
Hà Thị Thanh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 111 - 114
114
Thực trạng lao động của huyện, trình độ dân
trí còn thấp và chủ yếu là người dân tộc thiểu
số trình độ canh tác, sản xuất lạc hậu vì vậy
cần triển khai nâng cao trình độ dân trí của
nông dân thông qua các lớp đào tạo, bồi
dưỡng tập huấn, các chương trình khuyến
nông, khuyến lâm.
Triển khai công tác quy hoạch nông thôn
Hiện nay ở huyện Phú Lương chưa có quy
hoạch nông thôn, trong khi đó xây dựng nông
thôn mới yêu cầu đặt ra trước tiên phải có quy
hoạch nông thôn theo hướng tiên tiến hiện
đại. Vì vậy việc cấp bách là phải triển khai
ngay công tác quy hoạch nông thôn theo tiêu
trí quy hoạch trong bộ tiêu chí.
Căn cứ vào tiêu chí và tình hình thực tế của
xã để xây dựng quy hoạch tổng thể và quy
họach chi tiết cho xã, thôn bản gồm:
Quy hoạch sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ.
Quy hoạch hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội
cần thiết theo tiêu chuẩn quy định bao gồm:
Điện, giao thông, trường học, nhà văn hóa,
khu thể thao xã...
Quy hoạch chi tiết phát triển các khu dân cư;
quy hoạch môi trường (cây xanh, hồ ao, nghĩa
địa, khu xử lý rác thải, hệ thống thoát nước
thải và khu xử lý nước thải.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BCH trung ương Đảng Việt Nam (2008), “Nghị
quyết số 26-NQ/T.Ư Về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn”
2. Bộ NN & PTNT, “Chương trình phát triển
nông thôn làng xã mới giai đoạn 2006-2010”, Nà
Nội 9/2005
3. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
(2009), thông tư số: 54/2009/TT-BNNPTNT
“Về hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia
về nông thôn mới”
4. TS. Mai Thanh Cúc – TS. Quyền Đình Hà –
THS. Nguyễn Thị Tuyết Lan – THS. Nguyễn
Trọng Đắc (2005). Giáo trình phát triển nông thôn.
Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
5. Cục thống kê tỉnh Thái Nguyên (2010), Niên
giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2010
6. Cục thống kê tỉnh Thái Nguyên (2011), Niên
giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2011
7. Cục thống kê tỉnh Thái Nguyên (2012), Niên
giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2012
SUMMARY
SOLUTIONS FOR NEW RURAL RECONSTRUCTION
AT PHU LUONG DISTRICT, THAI NGUYEN PROVINCE
Ha Thi Thanh Hoa*, Duong Thi Thuy Huong College of Economics and Business Administration - TNU
Agriculture and rural area play a very important role in social and economic development of each
country, especially for a country with 70% of people live in rural area as Vietnam. Agricultural
and rural development is urgent requirement that attracts much attention of Communist Party and
Vietnamese Government. This paper studies the real state of agriculture and rural development at
Phu Luong District, Thai Nguyen Province and since then some solutions are proposed to help this
district to accomplish its goals of new rural reconstruction quickly. The results from applying these
solutions may be considered as an useful experience lesson for other districts when implementing
new rural reconstruction.
Keywords: new rural, agriculture, Phu Luong
Ngày nhận bài:17/3/2014; Ngày phản biện:30/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Phạm Công Toàn – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0949 330585
Nguyễn Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 115 - 119
115
MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ VIỆC VẬN DỤNG MÔ HÌNH KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
CHI PHÍ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Nguyễn Phương Thảo*
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Thực tế áp dụng các mô hình kế toán quản trị chi phí tại các quốc gia trên thế giới rất phong phú.
Mặc dù các lý thuyết kế toán quản trị chi phí có sự phát triển từ các mô hình truyền thống tới các
mô hình hiện đại, nhưng trên thực tế các mô hình kế toán quản trị chi phí truyền thống vẫn đang
được áp dụng phổ biến ở nhiều nơi, nhất là tại các quốc gia đang phát triển. Bài viết sau đây tập
trung đánh giá việc sử dụng mô hình kế toán quản trị chi phí tại Mỹ, Nhật và một số quốc gia đang
phát triển tại Châu Á, từ đó xây dựng định hướng vận dụng các mô hình này cho các doanh nghiệp
tại Việt Nam.
Từ khóa: Kế toán quản trị, mô hình, vận dụng, chi phí, quản lý
MỞ ĐẦU*
Kế toán quản trị (KTQT) đã trở thành công cụ
quản lý hữu hiệu trong nền kinh tế hiện đại. Ở
Việt Nam, việc xây dựng và áp dụng mô hình
kế toán quản trị còn khá mới mẻ, đặc biệt tại
các doanh nghiệp sản xuất. Việc tìm hiểu kinh
nghiệm vận dụng mô hình quản trị chi phí của
các nước trên thế giới là một phương pháp
hữu ích nhằm nâng cao ý thức đánh giá tầm
quan trọng của kế toán quản trị chi phí trong
công tác quản lý.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Kinh nghiệm vận dụng mô hình kế toán
quản trị chi phí ở Mỹ
Mỹ là một quốc gia có bề dày phát triển kế
toán quản trị chi phí cả về lý luận và thực
tiễn. Các doanh nghiệp Mỹ hầu hết đều áp
dụng mô hình kết hợp giữa kế toán quản trị và
kế toán tài chính, hoặc mô hình phối hợp với
hệ thống kế toán quản trị chi phí được tách
riêng. Về các phương pháp kế toán quản trị
chi phí, theo kết quả điều tra các doanh
nghiệp sản xuất ở Mỹ năm 1987 của Hội Kế
toán quốc gia (NAA), 38% các doanh nghiệp
áp dụng phương pháp phân bổ chi phí sản
xuất chung theo từng bộ phận sản xuất là một
tỷ lệ tương đối cao so với các nền kinh tế
tương đối phát triển lúc bấy giờ (ở Nhật Bản
chỉ có 15% và Hàn Quốc là 24%). Một đặc
* Tel: 0988 090796, Email: thaonp.tueba@gmail.com
điểm nổi bật nữa của hệ thống kế toán quản
trị chi phí áp dụng tại các doanh nghiệp Mỹ là
phương pháp chi phí thông thường được áp
dụng phổ biến và phương pháp chi phí thực tế
hầu như không được áp dụng.
Mặc dù các lý thuyết về phương pháp kế toán
chi phí theo hoạt động (ABC) được phát triển
ở Mỹ từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ trước và
được đánh giá là phương pháp chi phí duy
nhất đúng trong việc xác định giá phí sản
phẩm trong môi trường hoạt động phức tạp vì
phương pháp này sẽ giúp phát hiện các hoạt
động không gia tăng giá trị và có thể cắt giảm
chi phí cho doanh nghiệp. Phương pháp này
còn được đánh giá là một công cụ để kết nối
hệ thống xác định giá phí sản phẩm với các
mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp, tuy
nhiên việc áp dụng nó ngay tại nước Mỹ còn
khá hạn chế. Việc áp dụng phương pháp ABC
cũng đã tăng lên trong những năm gần đây.
Theo kết quả cuộc điều tra các doanh nghiệp
sản xuất năm 2003 tại Mỹ, có 35% các doanh
nghiệp áp dụng các phương pháp kế toán chi
phí truyền thống, 8% áp dụng phương pháp
ABC, 30% áp dụng cả các phương pháp
truyền thống và phương pháp ABC, 26% áp
dụng phương pháp chi phí biến đổi. Như vậy,
tổng cộng kết quả điều tra năm 2003 có 38%
các doanh nghiệp áp dụng phương pháp ABC,
một tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với kết quả của
các cuộc điều tra trước, tuy nhiên các phương
Nguyễn Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 115 - 119
116
pháp xác định chi phí truyền thống cũng vẫn
được áp dụng khá phổ biến trong các doanh
nghiệp Mỹ.
Rõ ràng là tại Mỹ các doanh nghiệp đang tiếp
tục áp dụng các phương pháp kế toán chi phí
khác nhau. Lý do của thực tế này là các
phương pháp kế toán chi phí khác nhau có
bản chất và phạm vi thông tin cung cấp khác
nhau. Tuy nhiên kết quả điều tra cho thấy
không có sự khác biệt rõ ràng về cơ cấu chi
phí, mức độ phức tạp của quá trình sản xuất
giữa các doanh nghiệp Mỹ áp dụng các
phương pháp chi phí khác nhau. (Cơ cấu chi
phí sản phẩm bình quân của các doanh nghiệp
sản xuất ở Mỹ là 53% nguyên vật liệu, 18%
nhân công và 28% chi phí sản xuất chung.
Về vấn đề xác định giá bán sản phẩm, kết quả
điều tra cho thấy 62% các doanh nghiệp xác
định giá bán sản phẩm trên cơ sở giá thị
trường, chỉ có 17% xác định giá trên cơ sở chi
phí, tuy nhiên có mối quan hệ rất rõ ràng giữa
mức độ cạnh tranh về giá và nỗ lực của doanh
nghiệp để cắt giảm chi phí.
Kinh nghiệm vận dụng mô hình kế toán
quản trị chi phí ở Nhật Bản
Mặc dù không có một bề dày phát triển như ở
các nước Anh, Mỹ, nhưng kế toán quản trị chi
phí ở Nhật Bản đã có sự vươn dậy mạnh mẽ.
Tại Nhật Bản khái niệm kế toán nội bộ được
hiểu đồng nghĩa với khái niệm kế toán chi
phí. Hệ thống kế toán quản trị chi phí trong
các doanh nghiệp Nhật Bản thường được xây
dựng tách rời với hệ thống kế toán tài chính.
Nhật Bản có một ban soạn thảo các nguyên
tắc kế toán chi phí (Japanese Cost Accounting
Principles Board), mặc dù các nguyên tắc này
không phải là một phần trong hệ thống luật
pháp của Nhật Bản nhưng nó được Bộ Tài
chính giám sát chặt chẽ. Các doanh nghiệp
sản xuất Nhật Bản đánh giá hệ thống kế toán
chi phí có vai trò quan trọng trong việc quản
lý chi phí, lập và kiểm soát dự toán và có vai
trò không lớn trong việc xác định giá bán sản
phẩm cũng như ra các quyết định kinh doanh.
Hệ thống kế toán chi phí tiêu chuẩn cũng
được áp dụng khá rộng rãi ở Nhật Bản với
mục đích chủ yếu là để kiểm soát chi phí và
cắt giảm chi phí. Hệ thống chi phí tiêu chuẩn
tại các doanh nghiệp Nhật Bản được xem xét
lại thường xuyên bình quân 6 tháng một lần.
Việc lập dự toán ở các doanh nghiệp Nhật
Bản không được thực hiện đầy đủ. Có khoảng
50% các doanh nghiệp điều tra chỉ lập mỗi dự
toán kết quả kinh doanh và kỳ lập dự toán của
các doanh nghiệp Nhật Bản là hàng năm và
nửa năm, chỉ có 4% các doanh nghiệp lập dự
toán theo tháng và quí.
Phương pháp kế toán chi phí trực tiếp không
được áp dụng phổ biến trong các doanh
nghiệp Nhật Bản, chỉ có 31% các doanh
nghiệp điều tra áp dụng phương pháp này.
Phương pháp này được các doanh nghiệp
Nhật Bản chủ yếu áp dụng để hoạch định lợi
nhuận và lập dự toán trong khi các doanh
nghiệp Anh, Mỹ chủ yếu sử dụng phương
pháp này để ra các quyết định về giá, hoạch
định lợi nhuận và kiểm tra các dự án đầu tư.
Vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX và
những năm đầu của thế kỷ XXI, các phương
pháp kế toán chi phí truyền thống vẫn giữ vai
trò quan trọng trong hệ thống kế toán quản trị
chi phí trong các doanh nghiệp Nhật Bản, thí
dụ như phương pháp chi phí toàn bộ. Đối với
việc phân bổ các chi phí sản xuất chung, mặc
dù phương pháp kế toán theo hoạt động đã
được khuyến khích áp dụng nhưng tiêu thức
phân bổ theo thời gian lao động hoặc chi phí
nhân công vẫn được áp dụng chủ yếu trong
các doanh nghiệp Nhật Bản (57%). Hơn nữa
việc phân bổ chi phí sản xuất chung chủ yếu
được thực hiện cho một nhóm các bộ phận
sản xuất, chứ không phân bổ theo từng bộ
phận sản xuất: có đến 68% các doanh nghiệp
điều tra phân bổ chi phí chung theo phương
pháp này.
Tuy nhiên đóng góp của hệ thống kế toán
quản trị chi phí vào sự thành công của các
doanh nghiệp Nhật Bản là không thể phủ
nhận và một trong những nguyên nhân của sự
thành công này đó là những nhân viên kế toán
quản trị có sự hiểu biết sâu sắc về doanh
Nguyễn Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 115 - 119
117
nghiệp của mình. Trước khi là nhân viên kế
toán quản trị các nhân viên này phải làm việc
trong nhiều lĩnh vực khác của doanh nghiệp,
như bộ phận sản xuất, bộ phận marketing,
thiết kế,… Số nhân viên kế toán quản trị trong
một doanh nghiệp Nhật Bản cũng lớn hơn so
với các nước khác. Theo kết quả điều tra,
bình quân có 18 nhân viên kế toán quản trị
trong một doanh nghiệp sản xuất Nhật Bản,
còn chỉ có 9 nhân viên kế toán quản trị trong
các doanh nghiệp sản xuất Anh, và ở các
nước khác con số này còn nhỏ hơn rất nhiều.
Ngoài ra, hệ thống kế toán quản trị chi phí
trong các doanh nghiệp Nhật Bản tham gia rất
chặt chẽ vào quá trình ước tính chi phí cho
các sản phẩm mới. Việc ước tính chi phí cho
các sản phẩm mới trong các doanh nghiệp
Nhật Bản được tiến hành rất sớm, ngay từ giai
đoạn lập kế hoạch. Trong giai đoạn sản xuất
sản phẩm các doanh nghiệp Nhật Bản lại áp
dụng phương pháp chi phí Kaizen để quản lý
và cắt giảm chi phí, đặc biệt là trong các
doanh nghiệp sản xuất ô tô.
Kinh nghiệm vận dụng mô hình kế toán
quản trị chi phí tại các nước khác ở châu Á
Tại các nước như Xing-ga-po, Ma-lai-xi-a,
Ấn Độ hay Trung Quốc kế toán quản trị chi
phí đang có sự phát triển cả về lý luận và thực
tiễn. Các lý thuyết về kế toán quản trị chi phí
tưởng là đã lạc hậu nhưng vẫn được áp dụng
khá phổ biến ở các nước này.
Việc sử dụng dự toán như là một công cụ
kiểm soát chi phí và đánh giá hoạt động khá
phổ biến ở các nước này. Trước năm 1979,
nhận thức và thực tiễn áp dụng kế toán quản
trị tại Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi cơ chế
quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các
nhà quản lý không thấy có trách nhiệm trong
việc lập kế hoạch doanh thu, lợi nhuận. Tuy
nhiên việc mở cửa nền kinh tế là tiền đề để
Trung Quốc nhận thấy tầm quan trọng cũng
như học tập các cách thức kế toán quản trị chi
phí của phương Tây. Mặt khác, do mở cửa
nền kinh tế, các công ty nước ngoài hoạt động
kinh doanh tại Trung Quốc đã mang các hệ
thống kế toán quản trị chi phí của họ du nhập
vào Trung Quốc. Các lý thuyết về phân biệt
giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi, phân
tích lợi nhuận gộp, phân tích chi phí – khối
lượng – lợi nhuận, dự toán linh hoạt ngày
càng được nhìn nhận là hữu ích và được áp
dụng trong thực tiễn tại Trung Quốc.
Phương pháp chi phí tiêu chuẩn cũng được sử
dụng khá phổ biến tại các nước đang phát
triển ở châu Á. Tỷ lệ các doanh nghiệp sử
dụng phương pháp chi phí tiêu chuẩn ở Ấn
Độ là 68%, ở Xing-ga-po là 56% và ở Ma-lai-
xi-a là 70%. Phương pháp chi phí tiêu chuẩn
được các doanh nghiệp này sử dụng để xác
định giá phí sản phẩm, lập dự toán, kiểm soát
chi phí và đánh giá hoạt động. Tại Trung
Quốc tỷ lệ các doanh nghiệp áp dụng phương
pháp chi phí tiêu chuẩn đặc biệt cao (93%) do
từ những năm 1950 Trung Quốc đã áp dụng
mô hình kế toán quản trị chi phí của Liên Xô
cũ với các lý thuyết về chi phí tiêu chuẩn, tuy
nhiên hệ thống chi phí tiêu chuẩn thời kỳ này
chỉ được sử dụng chủ yếu là công cụ để lập kế
hoạch. Ngày nay, hệ thống chi phí tiêu chuẩn
ngày càng được sử dụng như là một công cụ
kiểm soát hoạt động, đặc biệt là trong các
doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp
liên doanh ở Trung Quốc. Phân tích chi phí -
khối lượng - lợi nhuận mặc dù có nhiều hạn
chế và có nhiều nhà quản lý cho rằng ít có ích
trong thực tế nhưng cũng được áp dụng khá
phổ biến ở các nước đang phát triển ở châu Á.
Tỷ lệ các doanh nghiệp tiến hành phân tích
chi phí – khối lượng – lợi nhuận ở Xing-ga-po
là 66% và ở Ma-lai-xi-a là 65%.
Việc đánh giá kết quả hoạt động là một chức
năng quan trọng của kế toán quản trị chi phí
và cũng được áp dụng khá phổ biến ở các
nước đang phát triển ở châu Á. Tại Ấn Độ,
100% các doanh nghiệp điều tra tiến hành
đánh giá hoạt động trên cơ sở chỉ tiêu ROI,
tuy nhiên việc sử dụng chỉ tiêu này để đánh
giá kết quả hoạt động ở Ma-lai-xi-a rất hạn
chế: chỉ có 17% các doanh nghiệp điều tra sử
dụng chỉ tiêu ROI để đánh giá hiệu quả quản
Nguyễn Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 115 - 119
118
lý, tỷ lệ này ở Xing-ga-po là 56%. Tại Trung
Quốc khái niệm kế toán trách nhiệm của
phương Tây được vận dụng khá nhiều với sự
đánh giá cao của các nhân viên kế toán, tuy
nhiên các doanh ngiệp Trung Quốc thường sử
dụng kết hợp chỉ tiêu ROI với các phương
pháp khác để đánh giá hiệu quả quản lý.
Phương pháp ABC được coi là một phương
pháp kế toán quản trị chi phí hiện đại nhưng
việc áp dụng phương pháp này tại các nước
đang phát triển ở châu Á còn khá khiêm tốn
so với các phương pháp truyền thống. Tại
Xing-ga-po chỉ có 13% các doanh nghiệp
điều tra áp dụng phương pháp này, với mục
đích chủ yếu là để xác định các nguồn hoạt
động phát sinh chi phí. Tại Ma-lai-xi-a tỷ lệ
này là 18% năm 2002, tăng rất nhiều so với
4% năm 1998. Tại Trung Quốc tỷ lệ này vô
cùng thấp, chỉ khoảng từ 1% tới 2%.
Kinh nghiệm vận dụng kế toán quản trị chi
phí ở các nước trên thế giới cho thấy mặc dù
các lý thuyết về kế toán quản trị chi phí có
những bước phát triển rất dài nhưng việc áp
dụng các lý thuyết đó vào thực tế ở các nước
rất đa dạng. Không phải tất cả những lý
thuyết kế toán quản trị hiện đại khi ra đời đều
được áp dụng ngay và cũng không phải tất cả
các lý thuyết kế toán quản trị cổ điển đều
không còn giá trị thực tiễn, mà việc áp dụng
các lý thuyết kế toán quản trị phụ thuộc vào
môi trường kinh doanh, điều kiện kinh tế và
trình độ của các nhân viên kế toán.
KẾT LUẬN
Theo kinh nghiệm áp dụng kế toán quản trị ở
các nước trên thế giới, ngay tại các nước có
nền kinh tế phát triển, có bề dày phát triển kế
toán quản trị chi phí trên cả hai phương diện
lý luận và thực tiễn thì việc áp dụng những lý
thuyết kế toán quản trị chi phí hiện đại còn
khá hạn chế. Chính vì vậy, với điều kiện kinh
tế thấp hơn và nền móng về kế toán quản trị
chi phí hầu như chưa có, những lý thuyết về
kế toán quản trị chi phí hiện đại (phương pháp
ABC, phương pháp chi phí mục tiêu, phương
pháp chi phí Kaizen…) chưa thể áp dụng
được ngay một cách triệt để trong các doanh
nghiệp Việt Nam. Trước mắt, các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ từng bước áp dụng các lý
thuyết kế toán quản trị chi phí truyền thống
nhưng vẫn rất có ích trong việc xây dựng hệ
thống thông tin quản trị doanh nghiệp. Có thể
tin tưởng rằng, xuất phát từ tính cạnh tranh
ngày càng cao trong hoạt động kinh doanh,
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tự thấy nhu
cầu thiết yếu đối với hệ thống thông tin kế
toán quản trị chi phí và sẽ có những vận dụng
linh hoạt các lý thuyết kế toán quản trị chi phí
cho phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh
doanh của đơn vị mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Phạm Văn Dược, TS Huỳnh Lợi,
(2009), Mô hình và cơ chế vận hành kế toán quản
trị, Nxb Tài chính
2. Drury (2001), Management Accounting for
Business Decisions, Thomson Learning, United
Kingdom.
3. Garrison (1991), Managerial Accounting:
Concepts for Planning, Control, Decision Making,
Irwin, Boston.
4. Godfrey, Hodgson & Holmes (1997), Accounting
Theory, Jacaranda Wiley Ltd., Australia.
5. Ghosh, B. C., Hong Chung Lai, Yoong Wan
Chew, (1987), “Management Accounting in
Singapore”, Management Accounting, Dec. Vol.
65. Iss. 11, page 28.
6. Kim Il-Woon, Song Ja (1990), “U.S., Korea, &
Japan: Accounting Practices in Three Countries”,
Management Accounting, Aug. Vol.72. Iss. 2.
Page 26.
7. Maliah Sulaiman, Nik Nazli Nik Ahmad &
Norhayati Alwi (2004), “Management
accounting practice in selected Asian countries:
A review of the literature”, Managerial Auditing
Journal, Vol. 19, Is. 4. Page 493-508.
8. Michael Jones, Max Munday & Tony Brinn
(1998), “Speculations on barriers to the
transference of Japanese management accounting”,
Accounting, auditing & Accountability Journal, Vol.
11, Iss. 2, page 204-215.
9. Mike Jones, Jason Xiao (1999),
“Management Accounting in China Changes,
Problems and the Future”, Management
Accounting, Jan. Vol.77. Iss. 1, page 48-49.
10. Susan B Hughes & Kathy A Paulson Gjerde
(2003), “Do Different Cost Systems make a
Nguyễn Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 115 - 119
119
Difference?”, Management Accounting Quarterly,
Fall. Vol. 5, Iss. 1, page 22.
11. PGS.TS Nguyễn Ngọc Quang, Kế toán quản
trị, Nxb Đại học kinh tế quốc dân
12. Yoshikawa Takeo, Innes John & Mitchell
Falconer (1989), “Japanese Management
Accounting: a Comparative Survey”, Management
Accounting, Nov. Vol. 67. Iss. 10. Page 20.
SUMMARY
SOME COMMENTS ON THE APPLICATION ON COST MANAGEMENT
ACCOUNTING MODEL IN SOME COUNTRIES IN THE WORLD
Nguyen Phuong Thao* College of Economics and Business Administration - TNU
The application of cost management accounting model in countries around the world is very
plentiful. Although the theory on cost management accounting has developed from traditional
model to modern model, but in fact, the traditional one is still commonly applied in many areas,
especially in developing countries. The following paper focuses on assessing the use of cost
management accounting models in the U.S, Japan and some developing countries in Asia, which
built the direction to apply of these models for enterprises in Vietnam.
Keywords: Managerial accounting, Model, Application, Expense, Management
Ngày nhận bài:14/2/2014; Ngày phản biện:28/2/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Đoàn Quang Thiệu – Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - ĐHTN
* Tel: 0988 090796, Email: thaonp.tueba@gmail.com
Nguyễn Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 115 - 119
120
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
121
NGHIÊN CỨU SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
Võ Thy Trang*, Nguyễn Thu Hà
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Các khu công nghiệp đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của từng địa
phương và cả nước. Phát triển khu công nghiệp đã có tác động tích cực như đẩy mạnh huy động
các nguồn vốn đầu tư, giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế... Bên cạnh đó nó cũng tạo ra nhiều thách thức cho môi trường và xã hội cần giải
quyết. Vì vậy việc nghiên cứu phát triển bền vững các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên là hết sức cần thiết. Bài viết đã xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá sự phát triển bền
vững của khu công nghiệp. Trên cơ sở đó đã tập trung phân tích thực trạng phát triển bền vững các
khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2012 thông qua đánh giá phát
triển bền vững nội tại khu công nghiệp như tình hình thu hút đầu tư, hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp trong KCN; Đánh giá tác động lan tỏa về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Qua đó
đã đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm phát triển bền vững các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên
theo hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa.
Từ khóa: Phát triển, Phát triển bền vững, Khu công nghiệp, bền vững nội tại, tác động lan tỏa
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Ở Việt Nam phát triển Khu công nghiệp là
nhu cầu khách quan, phù hợp với tiến trình
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX
của Đảng cũng định rõ “Hình thành các KCN
tập trung tạo địa bàn thuận lợi cho xây dựng
các cơ sở công nghiệp mới” và “Phát triển
từng bước và nâng cao hiệu quả các Khu
công nghiệp”. Hơn 20 năm xây dựng và phát
triển mô hình khu công nghiệp (KCN), trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã hình thành một
mạng lưới các KCN và đã có những đóng góp
nhất định vào sự phát triển kinh tế của các địa
phương, vùng và cả nước. Tuy nhiên nó cũng
tạo ra nhiều thách thức, đặc biệt là tính bền
vững trong phát triển các KCN. Vì thế việc
đánh giá thực trạng hoạt động của các KCN
trên địa bàn tỉnh Thái nguyên trên theo quan
điểm phát triển bền vững. Từ đó đề xuất các
giải pháp đảm bảo sự phát triển bền vững các
KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là hoàn
toàn cấp thiết.
* Tel: 0915 259889, Email: Thytrangkt@yahoo.com
QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
KHU CÔNG NGHIỆP
Phát triển bền vững KCN là việc bảo đảm sự
tăng trưởng kinh tế ổn định, có hiệu quả ngày
càng cao trong bản thân KCN, gắn liền với
việc bảo vệ và nâng cao chất lượng môi
trường sống, cũng như những yêu cầu về ổn
định xã hội, an ninh quốc phòng trong khu vực
có KCN. Như vậy, bảo đảm phát triển bền vững
KCN phải được xét trên hai góc độ [8]
(1) Bảo đảm duy trì tính chất bền vững và
hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh
và dịch vụ của bản thân KCN
(2) Tác động lan tỏa của KCN đến hoạt động
kinh tế, xã hội và môi trường của địa phương
có KCN
Mô hình phát triển bền vững của World Bank
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
122
HỆ THỐNG CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU
Vấn đề Tiêu chí Chỉ số
1. Nghiên cứu bền vững về kinh tế
1.1. Bền vững
kinh tế nội tại
KCN
(1) Vị trí đặt KCN Khả năng tiếp cận về cơ sở hạ tầng như đường xá, sân bay,
bến cảng
(2) Quy mô KCN Đối chiếu với quy mô bình quân, cơ cấu diện tích KCN có
hiệu quả
(3) Tỷ lệ lấp đầy KCN - Tỷ lệ diện tích đất có thể cho thuê/diện tích tự nhiên
- Tỷ lệ diện tích đã cho thuê/diện tích đất có thể cho thuê
(4) Hiệu quả hoạt
động của DN trong
KCN
- Năng suất lao động tính theo doanh thu: doanh thu/lao
động
- Tỷ suất lợi nhuận: Lợi nhuận/doanh thu
- Doanh thu trên một đơn vị diện tích
(5) Trình độ công
nghệ
- Qui mô vốn đầu tư/ dự án
- Tỷ lệ vốn/lao động
- Tính chất công nghệ
(6) Hoạt động liên kết
sản xuất của DN
- Năng lực liên kết trong sản xuất của các DN trong KCN
- Tính chất chuyên ngành của KCN
(7) Nhóm chỉ tiêu
phản ánh mức độ đáp
ứng nhu cầu đầu tư
- Chất lượng hệ thống CSHT của địa phương, CSHT trong
và ngoài KCN
- Năng lực của các ngành công nghiệp phụ trợ
1.2. Bền vững
về kinh tế địa
phương có
KCN
(1) Đóng góp của
KCN vào tăng trưởng
kinh tế địa phương
- Giá trị SXCN của KCN đóng góp vào giá trị SXCN của
địa phương
- Qui mô và giá trị XK của KCN chiếm trong giá trị XK của
địa phương
- Tỷ lệ giá trị SXCN/ diện tích KCN của địa phương
- Tỷ lệ giá trị XK/ diện tích KCN của địa phương
(2) Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của địa
phương
- Cơ cấu ngành kinh tế trong địa phương
- Tỷ trọng các ngành trong giá trị gia tăng của địa phương
- Đo lường sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương
(3) Tác động đến hệ
thống hạ tầng kinh tế
địa phương
- Tác động của KCN đến thay đổi về hạ tầng ngoài hàng rào
KCN: hệ thống đường xá, các công trình điện, nước, hệ
thống thông tin ở KCN
2. Nghiên cứu bền vững về xã hội
2.1. Chất
lương mức
sống của
người lao
động trong
KCN
(1) Thu nhập của
người lao động
- Mức thu nhập bình quân /tháng/người so sánh với lao động
cùng ngành nghề của KCN khác
(2) Đời sống vật chất
của người lao động
- Điều kiện, môi trường làm việc của người lao động
- Các trang thiết bị phục vụ sinh hoạt hàng ngày của người
lao động
- Số lượng và chi phí thiệt hại cho người lao động trong
KCN do hỏa hoạn, tai nạn lao động…
(3) Đời sống tinh thần
của người lao động
- Số điểm văn hóa, vui chơi, giải trí phục vụ người lao động
- Số lượt tổ chức các hoạt động văn hóa do DN, KCN tổ
chức hàng năm
2.2. Địa
phương bị
ảnh hưởng có
KCN phát
triển
(1) Chuyển dịch cơ
cấu lao động địa
phương
- Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, tính chất công
việc và trình độ lao động
- Tỷ lệ sử dụng lao động địa phương trong tổng số lao động
KCN
(2)Thay đổi về đời
sống vật chất của
người dân
- Thu nhập của người dân địa phương trước và sau khi có
KCN
- Tốc độ đô thị hóa tại địa phương có KCN
(3) Tình hình an ninh,
trật tự
- Số vụ gây rối trật tự, số lượng nghiên ngập, phát sinh các tệ
nạn xã hội… trong KCN
- Số lượng và tỷ lệ gia tăng các vụ án hình sự trong KCN
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
123
3. Nghiên cứu bền vững về môi trường
Tác động của
việc phát
triển KCN
đến môi
trường trong
và ngoài
KCN
(1) Đánh giá việc xử
lý nước thải các KCN
- Quy mô hệ thống xử lý nguồn nước thải tập trung của toàn
bộ KCN, của từng DN
- Mức độ xử lý các nguồn thải từ KCN so với tỷ lệ đạt tiêu
chuẩn
(2) Đánh giá việc xử
lý chất thải rắn các
KCN
- Tỷ lệ các KCN có hệ thống xử lý và phân loại chất thải rắn,
hệ thống tái chế chất thải rắn, hệ thống xử lý tại chỗ rác thải
- Tỷ lệ được các DN xử lý trước khi thải ra môi trường bên
ngoài, đặc biệt là các chất thải nguy hại
(3) Ô nhiễm về không
khí
- Các chỉ số phản ánh chất lượng không khí trong và ngoài
KCN như nồng độ SO2, NO2, chì….
- Quy mô giá trị đầu tư các trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi
trường không khí của các DN trong KCN trước khi xả thải
ra môi trường bên ngoài.
KHUNG PHÂN TÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH
PHÂN TÍCH MA TRẬN SWOT
Ma trận phân tích SWOT
Opportinities (Cơ hội)
- Xu thế tăng trưởng cao của các
tỉnh lân cận: Hà Nội, Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc...
- Sản phẩm có cơ hội thâm nhập
vào thị trường quốc tế
- Được ưu tiên, chú trọng phát triển
theo Nghị quyết số 37/NQ- TW
của Bộ Chính trị
Threats (Thách thức)
- Tụt hậu so với các địa
phương khác trong cả nước.
- Sản phẩm không có khả năng
cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập
và thực hiện các cam kết trong
khuôn khổ AFTA, WTO...
- Phá vỡ cảnh quan, môi
trường, khai thác cạn kiệt các
nguồn tài nguyên thiên nhiên
Nghiên cứu lý luận
phát triển bền vững
khu công nghiệp
Tiêu chí đánh giá
PTBV KCN
Hệ thống chỉ tiêu PTBV KCN
Khảo sát,
thu thập số
liệu
Đánh giá PTBV các KCN trên địa bàn Tỉnh Thái
Nguyên
Nghiên cứu kinh nghiệm của
các địa phương về
PTBVKCN
Bài học về PTBVKCN trên
địa bàn Tỉnh TN
PHƯƠNG PHÁP
CHUYÊN GIA
PHƯƠNG PHÁP
SWOT
Xác định các yếu tố AH đến
PTBVKCN
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
124
Strengths (điểm mạnh)
- Có nhiều cơ sở đào tạo, đảm bảo
có nguốn nhân lực có chất lượng
cao.
- Có nguồn tài nguyên và nguyên
liệu phong phú cho phát triển công
nghiệp.
- Có vị trí địa lý thuận lợi.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của 1 số
ngành công nghiệp tương đối phát
triển: cơ khí, luyện kim, sản xuất
vật liệu xây dựng, khai thác chế
biến khoáng sản.
*Kết hợp điểm mạnh và cơ hội
- Xác định ngành công nghiệp mũi
nhọn là ngành cơ khí chế tạo, bên
cạnh đó vẫn ưu tiên chú trọng các
ngành công nghiệp truyền thống và
có thế mạnh khác của địa phương:
luyện kim, sản xuất vất liệu xây
dựng, chế biến...
- Bước đầu xây dựng và dần hình
thành các khu công nghiệp mới, có
kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại như:
công nghệ thông tin, sản xuất vật liệu
mới...
*Kết hơp điểm mạnh và nguy
cơ
- Nâng cao năng lực cạnh tranh
của các ngành công nghiệp
truyền thống.
- Việc phát triển các ngành
công nghiệp truyền thống phải
gắn với yêu cầu PTBV bằng
cách thực hiện đầy đủ và
nghiêm túc các biện pháp
BVMT, giải quyết thích đáng
các vấn đề xã hội.
Weeknesses (điểm yếu)
- Nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng phục vụ phát triển KCN còn
hạn chế.
- Năng lực tài chính và quản lý các
nhà đầu tư còn hạn chế
- Thâm dụng tài nguyên, nguyên liệu
sẽ có tác động rất lớn đến môi trường,
đe dọa đến sự PTBV của địa phương
cũng như các khu vực lân cận.
*Kết hơp điểm yếu và cơ hội:
- Huy động mọi nguồn vốn đầu tư
của để phát triển cơ sở hạ tầng
đồng bộ các KCN.
- Có chính sách ưu đãi để thu hút
đầu tư vào KCN
*Kết hơp điểm yếu và nguy
cơ:
- Phát triển KCN không vì lợi
ích trước mắt
- Tập trung nguồn lực để đầu
tư phát triển KCN công nghệ
cao.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KCN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
Đánh giá phát triển bền vững nội tại trong
khu công nghiệp
Công tác xây dựng quy hoạch KCN
Theo Quyết định số 1107/QĐ – TTg ngày
21/8/2006; Văn bản số 1854/TTg – KTN
ngày 08/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ và
Văn bản số 1645/TTg – KTN ngày
15/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc
điều chỉnh bổ sung một số KCN của tỉnh Thái
Nguyên đến năm 2020. Tỉnh Thái Nguyên có
06 KCN bao gồm KCN Sông Công I; KCN
Sông Công II; KCN Nam Phổ Yên; KCN Yên
Bình I; KCN Điềm Thụy, KCN Quyết Thắng.
Riêng KCN Tây Phổ Yên sẽ quy hoạch sau
năm 2020. Đến nay, có 4/6KCN đã có quy
hoạch chi tiết được duyệt bao gồm: Điềm
Thụy, Nam Phổ Yên, Sông Công I, Sông
Công II; còn lại 02 KCN Yên Bình I và KCN
Quyết Thắng đã cơ bản hoàn thành công tác
quy hoạch và đang trong quá trình hoàn tất hồ
sơ quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 để
trình duyệt [1].
Các KCN được quy hoạch với tính chất là
KCN đa ngành. Các ngành nghề chủ yếu thu
hút đầu tư vào KCN là: Luyện cán thép kim
loại, gia công cơ khí, y cụ, phụ tùng, chế biến
nông sản thực phẩm, vật liệu xây dựng, may
mặc, điện tử... Với diện tích quy hoạch đã
được duyệt của các KCN đảm bảo đáp ứng về
quỹ đất với tính chất, chức năng hoạt động
của các KCN. Tuy nhiên, những diện tích trên
của các khu công nghiệp chỉ là trên quy hoạch
còn trên thực tế thì trong số đó phần diện tích
là quỹ đất sạch còn rất hạn chế do đó còn gây
nhiều khó khăn trong quá trình đầu tư. Nhiều
KCN còn đang thu hút chủ đầu tư hạ tầng, các
nhà đầu tư thứ cấp vào KCN chủ yếu là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa nên chưa tạo ra
được hiệu quả kinh tế - xã hội mang tính chất
đột phá.
Công tác đền bù giải phóng mặt bằng tại các
khu công nghiệp
Diện tích đất quy hoạch của các KCN đã đảm
bảo điều kiện cần thiết cho KCN cấp tỉnh
nhưng diện tích đất đã được GPMB chưa
nhiều và chậm, có nhiều khó khăn trong quá
trình GPMB do đơn giá trả đền bù còn thấp.
Nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng việc giải tỏa
đền bù là do người dân đòi giá đền bù cao,
khu tái định cư chưa sẵn sàng tiếp nhận di
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
125
dời, chính quyền thị xã Sông Công chưa có
biện pháp kiên quyết kịp thời. Điều này sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến khả năng đạt hiệu quả
và phát triển bền vững cho các KCN. Điều
này gây nhiều khó khăn trong quá trình đầu
tư dẫn đến chưa thu hút được các nhà đầu tư
lớn, chưa đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội
lớn cho tỉnh.
* Tỷ lệ lấp đầy của các KCN trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên còn thấp. Cụ thể KCN Sông
Công I là 41,7%, KCN Nam Phổ Yên là 11%.
Hầu hết các KCN mới đang hoàn thiện cơ sở
hạ tầng và đi vào hoạt động, số còn lại đang
trong giai đoạn giải phóng mặt bằng, tốc độ
giải phóng mặt bằng chậm, điều này đã gây
khó khăn cho các nhà đầu tư khi tiếp cận đất
đai để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đi vào
hoạt động. Bên cạnh đó, với sự phát triển ồ ạt
các KCN của các tỉnh cũng là một trong nguyên
nhân dẫn đến khó khăn hơn trong thu hút đầu tư
vào các KCN của tỉnh Thái Nguyên.
Tình hình thu hút đầu tư vào các KCN
Tính đến tháng 12/2012, KCN Sông Công I
đã thu hút được 69 dự án, vốn đầu tư thực
hiện chưa cao (vốn đầu tư đăng ký đạt 5701,1
tỷ đồng và 2387 triệu USD, tổng vốn thực
hiện là 1902,75 tỷ đồng và 4,32 triệu USD).
Trong đó có 30 dự án đi vào hoạt động với
tổng số vốn đăng ký là 2353,1 tỷ đồng và
17,476 triệu USD; Vốn thực hiện đạt 77% đối
với doanh nghiệp trong nước và 16% đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các
dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư
nhưng đang trong thời gian xây dựng cơ sở hạ
tầng, thực hiện bồi thường GPMB hoặc chưa
triển khai nên chưa có số vốn đầu tư thực
hiện. Điều này thể hiện tiến độ triển khai hạ
tầng các chủ đầu tư còn chậm, chưa bố trí
kinh phí đúng mức đã gây ảnh hưởng đến
việc thu hút nhà đầu tư thứ cấp và tiến độ
thực hiện dự án vào KCN.
Bảng 01: Tình hình GPMB của KCN trên địa bàn tỉnh TN
TT Tên KCN
Diện tích
quy hoạch
(ha)
Diện tích đã
BTGPMB (ha)
Diện tích chưa
GPMB (ha)
Tỷ lệ diện tích chưa
GPMB (%)
2011 2012
2011 2012 2011 2012
1 KCN Sông Công I 220 72,27 89,1 147,73 130,9 67,72 65,5
2 KCN Sông Công II 250 Hoàn thành lập quy hoạch chi tiết
3 KCN Nam Phổ Yên 200 69 70 131 130 65,5 65
4 KCN Điềm Thụy 350 10 30 340 320 97,2 91,42
5 KCN Quyết Thắng 200 Đang hoàn thành lập quy hoạch chi tiết
6 KCN Yên Bình I 200 - 100 100 - 50
(Nguồn: Ban Quản lý KCN tỉnh Thái Nguyên)[4]
Bảng 02: Tình hình đầu tư tại KCN Sông Công I (tính đến tháng 12/2012)
Chỉ tiêu DN FDI
(tr USD) DN DDI
(tỷ đồng)
Tỷ lệ so sánh (%)
DN FDI DN DDI
Đang
hoạt
động
Số doanh nghiệp 2 28 50 43
Vốn đăng kí 17,476 2353,1 0,72 41,3
Vốn thực hiện 2,82 1820,75 65 32
Đang
XDCB
Số doanh nghiệp 1 4 25 6,2
Vốn đăng kí 2367 286 99,16 5
Vốn thực hiện 1,5 82 4,3
Chưa
triển
khai
Số doanh nghiệp 1 33 25 50,8
Vốn đăng kí 3,0 3062 0,12 53,7
Vốn thực hiện 0 0 0 0
(Nguồn: Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Nguyên) [5]
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
126
Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN
Bảng 03: Hiệu quả sản xuất kinh doanh các DN tại KCN trên địa bàn tỉnh TN
Chỉ tiêu ĐVT 2010 2012 Chênh lệch 2012/2010
Mức %
I. KCN Sông Công I
I.1 Các dự án DDI
Vốn đầu tư thực hiện Tỷ đồng 1531,52 1820,75 +289,23 + 18,8
Lao động Người 5682 5223 - 459 - 8,07
Diện tích sử dụng Ha 62 64 +2 +3,22
Doanh thu Tỷ đồng 3883,19 3455,1 -428,1 -11,02
Xuất khẩu 379,31 540,4 + 161,1 + 42,46
Nhập khẩu 686,32 458,14 -228,18 - 33,24
Lợi nhuận Tỷ đồng 19,8 0,23 -19,57 - 98
Nộp ngân sách Tỷ đồng 36,809 38,1 +1,29 + 3,5
Vốn đầu tư/Diện tích Tỷ đồng/ha 24,7 28,4492 +3,75 15,17
Lao động/ Diện tích Người/ha 91,65 81,6093 -10,04 - 11
Nộp ngân sách/ Diện tích Tr. đồng/ha 593,6 595,3 -0,3 - 0,05
Doanh thu/Vốn đầu tư lần 2,5355 1,8976 -0,6379 - 25,15
Doanh thu/Lao động Tr.đồng/Người 683,4 661,5 -21,9 -0,032
Lợi nhuận/Vốn đầu tư % 1,29 0,01 -1,28 -99
Lợi nhuận/Lao động 1000đ/Người 3400 44 - 3356
I.2. Các dự án FDI
Vốn đầu tư thực hiện Tr. USD 3,21 2,82 -0,39 - 12,14
Lao động Người 164 327 + 163 + 99
Diện tích sử dụng Ha 6,5 9 +2,5 + 38
Doanh thu Tr. USD 7,9 4,07 - 3,83 - 48
Xuất khẩu Tr. USD - 1,285
Nhập khẩu Tr. USD - 0,091
Nộp ngân sách Tỷ VNĐ 0,129 0,335 + 0,2
Lợi nhuận Tr. USD 0,05 -
Vốn đầu tư /Diện tích Tr. USD/ha 0,4938 0,3133 - 0,228
Lao động/Diện tích Người/ha 25 37 + 12 + 48
Nộp ngân sách/Diện tích Tr. USD/ha 19 37,2 + 12,2 + 64
Doanh thu/Vốn đầu tư lần 2,46 1,4432 -1,01 + 41
Doanh thu/Lao động Tr. USD/người 0,048 0,0124 -0,03 -74
II. KCN Nam Phổ Yên
Các dự án DDI
Vốn đầu tư thực hiện Tỷ đồng 100 100 0 0
Lao động Người 100 70 -30 -30
Diện tích sử dụng Ha 7,1 7,1 0 0
Doanh thu Tỷ đồng 24 25,58 +1,58 6,5
Nộp ngân sách Tỷ đồng 2,2 2,5 +0,3 1,36
Vốn đầu tư/Diện tích Tỷ đồng/ha 14,08 14,08 0 0
Lao động/Diện tích Người/ha 14,08 10 -4,08 29
Nộp ngân sách/ Diện tích Tỷ đồng/ha 0,31 0,3521 +0,4
Doanh thu/Vốn đầu tư % 24 25,58 +1,58 +6,5
Doanh thu/Lao động Tr đ/Người 240 365,4 +125,4 +52
(Nguồn: [5] và phần tự tính toán của tác giả)
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
127
So sánh năm 2012 so với năm 2010 ta thấy,
các doanh nghiệp DDI có xu hướng tăng dần
thể hiện qua vốn đầu tư và nộp ngân sách trên
1ha đất công nghiệp nhưng doanh thu và lợi
nhuận có xu hướng giảm rõ rệt. Điều này dẫn
đến hiệu suất sử dụng vốn, lao động và đất
chưa cao, giá trị nộp ngân sách còn thấp. Các
doanh nghiệp FDI không ổn định, vốn đầu tư
thực hiện giảm - 0,39 triệu USD (tương ứng
giảm 12%); số lao động thu hút vào khối doanh
nghiệp này có xu hướng tăng nhưng doanh thu
lại có xu hướng giảm. Điều này phán ánh tính
thiếu bền vững trong phát triển KCN.
- Về trình độ công nghệ và ứng dụng công
nghệ trong KCN
Tiêu chí này phản ánh khả năng cạnh tranh và
sử dụng công nghệ của các doanh nghiệp (đặc
biệt việc sử dụng công nghệ ở những ngành
nghề chính của KCN) trong nội bộ khu công
nghiệp cũng như giữa các KCN với nhau.
Thực tế tại KCN Sông Công I các doanh
nghiệp hoạt động trên lĩnh vực luyện cán kim
loại đen chủ yếu sử dụng công nghệ lò nấu
thép trung tần và hồ quang, loại lò này chỉ
dùng được những nguyên liệu đầu vào là thép
phế, sỉ và phôi gang đúc sẵn không sử dụng
được nguyên liệu đầu vào là quặng (một
nguyên liệu có sẵn tại Thái Nguyên) mà phải
nhập hoặc mua lại phôi gang; đối với ngành
luyện cán kim loại mầu thì chỉ có 02 doanh
nghiệp là CN HTX CN& VT Chiến Công và
Nhà máy kẽm điện phân TN có công nghệ
luyện nấu sử dụng nguyên liệu từ quặng. Như
vậy có thể nói việc sử dụng công nghệ của
các doanh nghiệp trong KCN chủ yếu vẫn là
công nghệ trung bình, có nguy cơ ảnh hưởng
không tốt đến môi trường KCN.
- Mức độ hợp tác và liên kết kinh tế
Các DN hoạt động trong KCN chủ yếu tập
trung ở một số ngành: Chế biến nông sản,
thực phẩm, Vật liệu xây dựng, Cơ khí chế tạo,
May mặc, điện tử.... Ngoài ra, có một số DN
hoạt động trong lĩnh vực DV: vận tải, dịch vụ
khách sạn, dịch vụ ăn uống, sân chơi thể thao,
kho bãi, xuất nhập khẩu, ngân hàng... Trong
các KCN đều quy hoạch diện tích dùng để
đầu tư xây dựng hệ thống kho bãi, kho trung
chuyên hàng hoá... thu hút các DN DV vận
tải, cho thuê kho đầu tư, tổ chức hoạt động
phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của
các DN KCN. KCN Sông Công I được đầu tư
xây dựng các trạm biến áp, hệ thống điện
động lực, chiếu sáng; Trạm cấp nước sạch, hệ
thống cấp nước sạch; Hệ thống thoát nước
mưa, nước thải; Trạm xử lý nước thải, với
công suất thiết kế đảm bảo nhu cầu của các
nhà đầu tư.
- Về mức độ thỏa mãn nhu cầu các nhà đầu tư
Xét một cách tổng thể, KCN Sông Công I
chưa thật sự làm hài lòng các nhà đầu tư. Mặc
dù có nhiều yếu tố thuận lợi nhưng còn nhiều
vấn đề cần phải được giải quyết. Cụ thể: hoàn
thiện hạ tầng KCN (có khu nhà ở cho công
nhân, hoàn thiện các công trình còn đang thi
công dang dở…); có chính sách đào tạo
nguồn lao động theo nhu cầu tuyển dụng của
nhà đầu tư; chính sách khuyến khích phát
triển các ngành công nghiệp phụ trợ….
Mối quan hệ liên kết giữa các KCN với nhau,
giữa các doanh nghiệp trong KCN còn hạn
chế, sự liên kết trong sản xuất kinh doanh còn
ít, chủ yếu là liên kết sử dụng các sản phẩm
hỗ trợ phục vụ sản xuất, cung cấp dịch vụ.
Mối quan hệ liên kết kinh tế chủ yếu được
thực hiện giữa các DN sản xuất với các DN
dịch vụ trong các lĩnh vực vận tải, kho bãi....
Tình hình lao động và thu nhập tại các doanh
nghiệp trong KCN
Tính đến thời điểm 31/12/2012, tổng số lao
động hiện trong KCN là 5570 lao động (lao
động của các doanh nghiệp trong nước là
5223 lao động và 347 lao động trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); thu
nhập bình quân đạt 2,8 triệu đồng
/người/tháng; thực hiện chế độ BHXH,
BHYT và quyền lợi khác đạt 100%. Năm
2011, tổng số lao động trong KCN là 5049 lao
động, số lao động trong năm 2012 tăng lên
521 lao động, nhưng thu nhập bình quân giảm
240.000 đồng/người/tháng (thu nhập bình
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
128
quân năm 2011 là 3,040 triệu
đồng/người/tháng). Mức thu nhập này cũng
tạm đủ sống với nhu cầu tối thiểu của người
lao động. [2]
* Tình hình tai nạn lao động trong các doanh
nghiệp trong KCN như sau:
Trong năm 2012 có tổng số 12 vụ tai nạn,
trong đó Công ty Đầu tư và Thương mại TNG
là 10 vụ và Nhà Máy Gạch Ốp lát Việt – Ý là
2 vụ. Trong các vụ tai nạn đó không có tai
nạn chết người, chỉ có bị thương nhẹ và chủ
yếu là nữ ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi. Nguyên
nhân dẫn đến các vụ tai nạn chủ yếu do không
sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân hoặc bảo
hộ lao động. Người bị nạn vi phạm quy trình,
biện pháp đảm bảo an toàn trong sản xuất.
Tổng số ngày nghỉ vì tai nạn lao động là 169
ngày, tổng số ngày thiệt hại năm 2012 giảm
xuống so với năm 2011 (năm 2011 là 566
ngày); Tổng chi phí thiệt hại là 93.562 (nghìn
đồng). Điều này báo động đến các doanh
nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến công tác
bảo hộ an toàn lao động. [3]
Về khía cạnh môi trường
Trong 06 KCN thì chỉ có KCN Sông Công I
là có hệ thống xử lý nước thải, còn các KCN
còn lại chưa xây dựng hệ thống xử lý nước
thải. Trong đó KCN Nam Phổ Yên triển khai
xây dựng cơ sở hạ tầng từ năm 2009 và đã có
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh từ 2010
nhưng đến nay vẫn chưa xây dựng Hệ thống xử
lý nước thải. Khi nghiên cứu nội tại KCN Sông
Công I đã chỉ ra rằng đây lại là yếu tố phát triển
thiếu tính bền vững. Cụ thể như sau:
Toàn bộ các doanh nghiệp trong KCN Sông
Công I đã thực hiện xả nước thải vào hệ thống
xử lý tập trung của KCN, tuy nhiên chỉ có 03
doanh nghiệp thực hiện xả thải có hợp đồng
xử lý, có thiết kế điểm đấu nối, có đồng hồ đo
lưu lượng nước thải. Các doanh nghiệp còn
lại xả thải vào hệ thống xử lý còn thiếu đồng
hồ đo lưu lượng và hợp đồng xử lý. Các
doanh nghiệp khi đi vào hoạt động đều thực
hiện quan trắc giám sát môi trường định kì,
tuy nhiên tần suất thực hiện chỉ đạt 70% nội
dung đã cam kết.
Khu công nghiệp Sông Công I đi vào hoạt
động từ năm 2000 nhưng đến tháng 11/2010
hệ thống xử lý nước thải tập trung toàn khu
công nghiệp mới được đưa vào hoạt động.
Biểu đồ diễn biến chất lượng môi trường
không khí ổn định. So sánh với QCVN 05:
2009/BTNMT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
chất lượng không khí xung quanh cho thấy
không có chỉ tiêu nào vượt so với quy định.
Có đến 80% các doanh nghiệp trong KCN sản
xuất kinh doanh trong ngành cơ khí như là
Nhà máy kẽm điện phân Thái Nguyên, Nhà
máy luyện thép Sông Công… Vấn đề môi
trường lớn nhất là nguy cơ gây ô nhiễm từ
nước thải, khí thải và chất thải rắn do công
đoạn luyện cán thép kim loại, nhuộm, tẩy do
sử dụng hóa chất và tiếng ồn, bụi... từ quá
trình gia công sản phẩm cơ khí. Hiện tại công
trình xử lý nước thải của KCN Sông Công I
chưa xử lý được các chỉ tiêu kim loại trong
nước thải đạt quy chuẩn QCVN 40: 2011/
BTNMT (cột B) khi thải ra môi trường. Theo
kết quả phân tích chất lượng nước thải đầu ra
của nhà máy xử lý nước thải tập trung của
KCN Sông Công quý II năm 2012 và so sánh
với QCVN 40: 2011/BTNMT (cột B) cho
thấy: có 03 thông số kim loại nặng là không
đạt quy chuẩn, cụ thể là: thông số Cadimi
(Cd) vượt 9,25 lần, Mangan (Mn) vượt 21,8
lần và kẽm (Zn) vượt 27,2 lần. [6],[7]
Đánh giá tác động lan tỏa của KCN
Đánh giá sự tác động lan tỏa về mặt kinh tế
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân
5 năm (năm 2005-2010) thị xã Sông Công đạt
19,19%, tỉnh Thái Nguyên đạt 11,11%, của
Việt Nam là 7%; GDP bình quân đầu người
giai đoạn năm 2005 - 2010 của thị xã Sông
Công là 1.117 USD (Kế hoạch đề ra là 1.000
USD), tỉnh Thái Nguyên 800 USD (Năm
2010 đạt 950USD), ở Việt Nam là 1.168
USD, như vậy có thể nói KCN Sông Công đã
góp phần không nhỏ làm tăng tốc độ tăng
trưởng GDP, GDP bình quân đầu người của
thị xã Sông Công và tỉnh Thái Nguyên trong
những năm qua.
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
129
- Thu ngân sách Nhà nước hàng năm tăng
bình quân của thị xã Sông Công là 20%, tỉnh
Thái Nguyên 18%. Số thu ngân sách về thuế
tại KCN Sông Công hàng năm tăng, trong
năm 2010, đạt 36,52 tỷ đồng, bằng 3% thu
ngân sách của tỉnh và bằng 56,6% số thu ngân
sách của thị xã Sông Công.
- Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Kết quả
chuyển dịch cơ cấu kinh tế 5 năm 2005 - 2011
cho thấy cơ cấu kinh tế của tỉnh và của thị xã
Sông Công đã chuyển dịch đúng hướng theo
hướng CNH - HĐH, đó là tăng tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng, dịch vụ; giảm tỷ trọng
nông lâm nghiệp trong GDP. Cụ thể năm
2005 cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp -
xây dựng 38,64%; dịch vụ 34,82%; nông -
lâm nghiệp - thuỷ sản 26,54%, năm 2011 cơ
cấu kinh tế đạt được như sau: công nghiệp -
xây dựng 41,54% (tăng 2,9%); dịch vụ
36,73% (tăng 1,91%), nông lâm nghiệp - thuỷ
sản: 21,73 % (giảm 4,81%); tại thị xã Sông
Công còn có sự chuyển dịch mạnh hơn: ngành
công nghiệp tăng 5%; dịch vụ tăng 2,5% và
nông lâm nghiệp - thuỷ sản giảm 7,5%.
Đánh giá sự tác động lan tỏa về mặt xã hội
- Về giải quyết việc làm: Sự phát triển của
KCN là yếu tố quan trọng tác động đến việc
làm, đời sống người lao động… Tính đến thời
điểm 31/12/2012, tổng số lao động hiện trong
KCN là 5570 lao động (lao động của các
doanh nghiệp trong nước là 5223 lao động và
347 lao động trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài); thu nhập bình quân đạt
2,8 triệu đồng /người/tháng; thực hiện chế độ
BHXH, BHYT và quyền lợi khác đạt 100%.
KCN đã góp phần tạo công ăn việc làm cho
người lao động đặc biệt là những người dân bị
mất đất do xây dựng KCN. Điều này vừa thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, vừa làm
tăng thu nhập bình quân đầu người và là dấu
hiệu chứng tỏ phát triển KCN có yếu tố của
sự phát triển bền vững.
- Thu nhập bình quân của người lao động:
Mức thu nhập này đã đáp ứng tối thiểu đời
sống của người lao động và cao hơn so với
thu nhập của người nông dân. Tuy nhiên
muốn trở thành lao động trong các khu công
nghiệp thì người dân cần phải đạt một trình
độ nhất định nào đó về tay nghề. Mức thu
nhập thấp đã không chỉ ít hẫp dẫn nhân lực,
kể cả nhân lực phổ thông, mà còn là một
nguyên nhân khiến trong những năm qua, người
lao động đã không có cơ hội tự đào tạo và nâng
cao chất lượng nhân lực cho doanh nghiệp.
Đánh giá sự tác động lan tỏa về mặt về môi trường
Trong KCN không có tình trạng ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng do các doanh nghiệp tập
trung trong một khu vực, đã có hệ thống xử lý
chất thải chung. Trên địa bàn có KCN, người
dân tương đối hài lòng về sự tồn tại của KCN
và chưa có phàn nàn gì về vấn đề môi trường
trong cũng như ngoài KCN. Tuy nhiên, vẫn
có một số doanh nghiệp chưa thực hiện đầy
đủ các kết về xử lý chất thải: Khói bụi, tiếng
ồn… Một chỉ tiêu khác của yếu tố bền vững
về môi trường là tiết kiệm tài nguyên, việc
khai thác tài nguyên luôn được sự kiểm tra,
giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng
nên nhìn chung hợp lý, không có vi phạm
nghiêm trọng xảy ra, đảm bảo yếu tố phát
triển bền vững và cân bằng sinh thái.
MỘT SỐ HẠN CHẾ TỒN TẠI
Qua phân tích trên cho thấy sự phát triển
KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên phát triển
còn thiếu tính bền vững. Cụ thể là:
- Năng lực tài chính của các chủ đầu tư hạ
tầng hạn chế dẫn đến tiến độ triển khai bồi
thường giải phóng mặt bằng và xây dựng kết
cấu hạ tầng chậm và không thực hiện theo
đúng cam kết
- Các dự án thứ cấp thu hút đầu tư vào KCN
giai đoạn 2010 – 2012 chủ yếu là các doanh
nghiệp có dự án quy mô đầu tư vừa và nhỏ,
công nghệ trung bình, năng lực sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, giá trị lợi
nhuận và tỷ suất lợi nhuận còn khiêm tốn. Do
đó hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế -
xã hội tạo ra cho KCN còn thấp và chưa
tương xứng với tiềm năng và mức độ sử
dụng nguồn lực.
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
130
- Trong KCN, việc thiếu nguồn lực tập trung
cho công tác bồi thường giải phóng mặt bằng,
tạo quỹ đất sạch gắn với đầu tư xây dựng
đồng bộ về kết cấu hạ tầng đã là một cản trở
rất lớn trong việc lựa chọn và thu hút các nhà
đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn, nâng
cao tỷ lệ lấp đầy các KCN.
- Quá trình đầu tư thiết bị và công nghệ trong
các doanh nghiệp sản xuất còn hạn chế, dẫn
đến sự cố về môi trường, có những tác động
không tốt đến môi trường sống tại KCN và
xung quanh KCN.
- Những vấn đề khó khăn phát sinh của các
doanh nghiệp trong KCN liên quan đến nhiều
ngành, nhiều cấp chưa được giải quyết triệt
để, thời gian giải quyết còn kéo dài như Thủ tục
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lập
thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác
động môi trường của các dự án trong KCN.
- Về tổ chức của Bộ máy quản lý của BQL
KCN Thái Nguyên thiếu tính ổn định (10 năm
thay đổi 05 thủ trưởng Ban) đã ảnh hưởng
không nhỏ đến công tác quản lý KCN và xúc
tiến thu hút đầu tư vào KCN
- Hệ thống pháp luật liên quan đến phát triển
KCN đã có sửa đổi, bổ sung nhưng trên thực
tế khi triển khai thực hiện còn có sự chồng
chéo, mẫu thuẫn giữa các văn bản và giữa các
cơ quan quản lý.
- Quá trình chuyển dịch trong nội bộ ngành
công nghiệp diễn ra theo hướng tăng dần tỷ
trọng công nghiệp chế biến. Tuy nhiên, xu
hướng chuyển dịch còn chậm, có sự mất cân
đối lớn giữa công nghiệp thượng nguồn và
các ngành công nghiệp phụ trợ, chưa có nhiều
sản phẩm mang tính đột phá, các ngành có
trình độ cao. Cơ cấu công nghiệp theo ngành
còn thiếu thân thiện với môi trường và tiềm
ẩn nguy cơ không bền vững cao do tập trung
chủ yếu vào các ngành thâm dụng tài
nguyên, sử dụng nhiều năng lượng, có tác
động lớn đến môi trường như luyện kim,
sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác
khoáng sản, sản xuất giấy...
- Quá trình sản xuất của phần lớn các doanh
nghiệp công nghiệp trong KCN chưa đáp ứng
được yêu cầu về quá trình Sản xuất sạch hơn,
sản phẩm thân thiện môi trường, một phần là
do công nghệ sản xuất, một phần là do ý
thức của chủ doanh nghiệp trong việc
BVMT chưa tốt, ô nhiễm môi trường đã có
biểu hiện gia tăng.
- Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp còn
hạn chế. Nhiều doanh nghiệp đã không thực
hiện đầy đủ các biện pháp BVMT, đảm bảo
điều kiện làm việc cho người lao động, các
chính sách đãi ngộ và bảo hộ lao động cho
công nhân, thiếu quan tâm đến các vấn đề về
phát triển cộng đồng... Bên cạnh đó, việc thực
hiện trách nhiệm xã hội thông qua áp dụng
các bộ quy tắc ứng xử và các tiêu chuẩn như
SA 8000, WRAP, ISO 14000 trong các doanh
nghiệp của Thái Nguyên chưa được quan tâm
đúng mức.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KCN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
Đâu tư xây dựng đồng bộ hạ tâng kỹ thuật
Một trong những điểm yếu nổi bật của các
KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là hệ
thống hạ tầng kỹ thuật chưa hoàn thiện. Cụ
thể: Không có quỹ đất sạch, không có hạ tầng
sẵn cho doanh nghiệp thuê, chưa trồng cây
xanh đầy đủ, chưa có khu nhà ở công
nhân…Vì vậy trong thời gian tới cần đẩy
nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, xây dựng
hạ tầng tạo quỹ đất sẵn sàng cho doanh
nghiệp thuê, trồng cây xanh, khu nhà ở công
nhân; Tập trung huy động mọi nguồn lực hỗ
trợ các nhà thầu xây lắp và vốn ứng trước của
các nhà đầu tư thứ cấp để tạo ra quỹ đất sạch
từ 30 – 50 ha thường xuyên tại các KCN gắn
với kết cấu hạ tầng đồng bộ để tạo động lực
thu hút đầu tư các dự án có chất lượng vào
các KCN.
Nâng cao chất lượng công tác xúc tiến đầu tư
Đổi mới nâng cao chất lượng công tác xúc
tiến đầu tư và lựa chọn dự án đầu tư theo
hướng tập trung vận động, thu hút chủ yếu
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
131
các dự án FDI đầu tư trong lĩnh vực công
nghệ cao, hiệu quả kinh tế xã hội lớn, có sức
tác động lan tỏa vào các KCN làm hạt nhân
và gắn liền với thu hút các dự án công nghiệp
phụ trợ để tạo ra sản phẩm hoàn thiện tại
KCN, nâng cao tỷ lệ diện tích lấp đầy KCN
đã hoàn thiện tương đối đồng bộ về cơ sở hạ
tầng KCN như KCN Sông Công I.
- Xây dựng chiến lược thu hút đầu tư một
cách hiệu quả, đặc biệt là đầu tư nước ngoài
trong từng giai đoạn.
- Phối hợp với các tổ chức thương mại quốc
tế và các cơ quan xúc tiến đầu tư tại tỉnh tiến
hành công tác xúc tiến đầu tư có mục tiêu, có
địa chỉ cụ thể đối với các quốc gia có tiềm
năng về vốn đầu tư và công nghệ.
- Liên kết chặt chẽ với các tỉnh trong vùng lân
cận trong công tác thu hút đầu tư và phân bố
ngành nghề hợp lý căn cứ trên lợi thế cạnh
tranh của từng tỉnh.
- Phối hợp với các cơ quan chức năng, các tổ
chức quốc tế, các hiệp hội trên địa bàn tỉnh
định kỳ tiến hành tổ chức các hội chợ công
nghệ - thiết bị tại các KCN, giao lưu giữa các
doanh nghiệp trong, ngoài KCN, từng bước
đẩy nhanh quá trình chuyển giao đổi mới
công nghệ, nâng cao trình độ công nghệ kỹ
thuật trong KCN lên trình độ tiên tiến.
Nâng cao hiệu quả quản lý của Ban quản lý
KCN tỉnh Thái Nguyên
- Thực hiện cải cách hành chính theo hướng
đơn giản hóa các thủ tục và rút ngắn thời gian
thực hiện các thủ tục hành chính có liên quan
đến xây dựng và hoạt động sản xuất kinh
doanh trong KCN. Cải cách hợp lý hoá các
quy trình nghiệp vụ tại Ban quản lý theo
hướng nâng cao hiệu quả trong công tác quản
lý điều hành KCN.
- Tiếp tục rà soát đối với dự án đã đăng kí đầu
tư nhưng triển khai chậm hoặc không triển
khai để đánh giá, phân loại và kiên quyết xử
lý thu hồi đối với các dự án không triển khai.
- Nâng cao chất lượng công tác đối thoại với
doanh nghiệp định kỳ, phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh và
các Bộ ngành trung ương trong việc tháo gỡ
các khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp.
- Tăng cường công tác kiểm tra giám sát cơ
sở trên các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư, xây
dựng, môi trường... Kiên quyết trong xử lý
các trường hợp vi phạm nhằm đảm bảo sự
phát triển ổn định và bền vững.
- Tiếp tục rà soát để điều chỉnh quy hoạch
phát triển KCN theo các tiêu chí PTBV, gắn
quy hoạch KCN với phát triển kinh tế - xã
hội, quy hoạch đô thị với quy hoạch hệ thống
giao thông
Tăng cường đào tạo nguồn lao động cung
cấp cho DN trong KCN
Lực lượng lao động chưa đáp ứng được yêu
cầu của các doanh nghiệp. Vì vậy nhiều
doanh nghiệp KCN không sử dụng lao động
địa phương. Giải pháp cho vấn đề này là trên
cơ sở quy hoạch, định hướng phát triển các
ngành nghề, tiến hành khảo sát thăm dò nhu
cầu nhân công của các doanh nghiệp đã, đang
và sẽ đầu tư vào KCN để tổ chức đào tạo lao
động một cách hợp lý; BQL KCN cần nghiên
cứu xây dựng, ban hành các chính sách thu
hút, đãi ngộ đào tạo nghề trong các ngành
công nghệ cao và ngành kinh tế mũi nhọn. Có
chính sách cụ thể thu hút lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao là người địa
phương làm việc tại KCN.
Xây dựng nhà ở tập trung cho công nhân và
các công trình hạ tầng ngoài hàng rào KCN
Đến nay các KCN đang có doanh nghiệp hoạt
động vẫn chưa có khu nhà ở cho công nhân.
Trong khi đó số lượng lao động đang làm việc
trong KCN khoảng 6.000 người phải thuê trọ
trong các khu dân cư nên cuộc sống còn khó
khăn. Do đó, cần sớm có khu nhà ở dành
riêng cho công nhân góp phần giải quyết khó
khăn về chỗ ở của người lao động đồng thời
hạn chế những tệ nạn xã hội trên địa bàn
KCN. Bởi đó là vấn đề cấp thiết không thể
kéo dài trong sự chờ đợi mòn mỏi của hàng
ngàn người lao động. Đến thời điểm này BQL
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
132
KCN mới đang trong giai đoạn xây dựng quy
hoạch các Khu tái định cư và khu nhà ở cho
người lao động của các KCN.
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp
- Có chính sách hỗ trợ vay vốn để các doanh
nghiệp đẩy nhanh quá trình triển khai dự án, tổ
chức sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ,
hỗ trợ đào tạo tay nghề cho người lao động.
- Hỗ trợ doanh nghiệp trong xúc tiến thương
mại, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường
thông qua các chương trình xúc tiến thương
mại trong và ngoài nước, tăng cường công tác
tiêu thụ sản phẩm.
- Cung cấp những thông tin cơ bản về doanh
nghiệp trong KCN như: địa chỉ, ngành nghề
hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ: vận tải,
xuất nhập khẩu, cung cấp thiết bị quản lý,
trình độ quản lý, xử lý vệ sinh môi trường góp
phần nâng cao mối liên kết giữa các doanh
nghiệp trong và ngoài KCN.
Giải pháp về bảo vệ môi trường trong KCN
- Thu hút đầu tư vào KCN cần được tiến hành
theo hướng ưu tiên những ngành công nghiệp
sạch, ít ô nhiễm, đảm bảo cơ cấu ngành nghề
phù hợp với khả năng và thực tế giải quyết ô
nhiễm của tỉnh. Những dự án có cùng ngành
nghề và gây ô nhiễm cao nên được bố trí vào
một khu vực thuận tiện cho công tác xử lý
chất thải.
- Việc thẩm định yếu tố bảo vệ môi trường
trong các dự án đầu tư vào KCN có ý nghĩa
rất quan trọng. Nó là cơ sở để các cơ quan
quản lý Nhà nước thanh tra, giám sát thậm chí
xử lý các vi phạm về môi trường sinh thái của
các chủ đầu tư trong các KCN. Vì vậy, giải
pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án
thành lập KCN và dự án đầu tư vào KCN rất
cần thiết. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp
phần đáng kể giảm thiểu các ô nhiễm môi
trường trong KCN.
KẾT LUẬN
Phát triển bền vững vừa là nhu cầu tất yếu và
vừa tạo ra nhiều thách thức lớn trong tiến
trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước. Trong đó phát triển bền vững
KCN sẽ tạo ra tiền đề vững chắc cho phát
triển công nghiệp bền vững, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu thế hội
nhập quốc tế. Ở quy mô địa phương, việc
nghiên cứu PTBV KCN trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên đang thu hút được sự quan tâm của
các cấp quản lý nhà nước. Bài viết đã xây
dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá sự phát
triển bền vững của KCN. Trên cơ sở đó đã tập
trung phân tích thực trạng PTBV KCN trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 –
2012 thông qua đánh giá phát triển bền vững
nội tại KCN như tình hình thu hút đầu tư,
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp
trong KCN; Đánh giá tác động lan tỏa về mặt
kinh tế, xã hội và môi trường. Qua đó đã đề
xuất một số giải pháp thiết thực nhằm phát
triển bền vững các KCN trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên. Với mong muốn sự phát triển
các KCN sẽ trở thành động lực thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái
Nguyên trong giai đoạn tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban quản lý Khu Công Nghiệp Thái nguyên,
Báo cáo quá trình xây dựng và phát triển các
KCN trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên, số 156/BC –
BQL ngày 02 tháng 4 năm 2013.
2. Ban quản lý Khu Công Nghiệp Thái nguyên,
Báo cáo lao động năm 2011, số 70/BQL - QLLĐ
ngày 29 tháng 02 năm 2012.
3. Ban quản lý Khu Công Nghiệp Thái nguyên,
Báo cáo lao động năm 2012, số 65/BQL - QLLĐ
ngày 28 tháng 01 năm 2013.
4. Ban quản lý Khu Công Nghiệp Thái nguyên,
Tổng kết công tác chuyên môn năm 2012, số
49/BC – BQL, ngày 23 tháng 01 năm 2013.
5. Ban quản lý Khu Công Nghiệp Thái nguyên,
Báo cáo định kì tình hình xây dựng và phát triển
KCN năm 2012, số 60/BQL - ĐTDN ngày 24
tháng 01 năm 2013.
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
133
6. Ban quản lý Khu Công Nghiệp Thái nguyên,
Báo cáo tình hình thực hiện công tác bảo vệ môi
trường các KCN, số 569/BQL – QH & MT, ngày
28 tháng 11 năm 2011.
7. Ban quản lý Khu Công Nghiệp Thái nguyên, Báo
cáo công tác bảo vệ môi trường các KCN năm 2011,
số 28/BQL – BC, ngày 17 tháng 01 năm 2012.
8. Lê Thế Giới, “Hệ thống đánh giá phát triển bền
vững các KCN Việt nam”, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ (2008), Hà nội.
SUMMARY
RESEARCH ON SUSTAINABLE DEVELOPMENT
OF INDUSTRIAL ZONE IN THAI NGUYEN PROVINCE
Vo Thy Trang*, Nguyen Thu Ha
Collecge of Economics & Business Administration - TNU
Industrial zones have made significant contributions to economic and social development of the
country and local areas. Developing industrial zones had positive impacts such as promoting
investment, creating jobs, generating income for workers and promoting economic
restructuring....Besides, it also creates challenges for environment and society that need to be
solved. Therefore, the study about sustainable development of industrial zones in Thai Nguyen
province is extremely essential. This paper has built a system of criteria for evaluating the
sustainable development of industrial zones. Based on that, the study have focused on analyzing
the real situation of sustainable development of Thai Nguyen Province’s industrial zones in period
2010 - 2012 by assessing the internal sustainable development of industrial zones such as the
status of attracting investment, the performance of the businesses in the industrial zone; doing
assessment on pervasive impact for economic, society and environment. Thereby the author has
proposed some practical solutions to develope sustainably industrial zones in Thai Nguyen,
contribute to the process of economic restructuring of Thai Nguyen province in the direction of
industrialization and modernization.
Key words: Development, Sustainable development, Industrial zone, Internal sustainable,
pervasive impact
Ngày nhận bài:06/12/2013; Ngày phản biện:20/12/2013; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Phạm Công Toàn – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0915 259889, Email: Thytrangkt@yahoo.com
Võ Thy Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 121 - 133
134
Đỗ Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 135 - 138
135
BÀN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Đỗ Thị Thu Hằng*, Trân Tuấn Anh, Đỗ Thị Thuý Phương Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Kiểm toán nội bộ (KTNB) là một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị tiến hành công việc
kiểm tra, đánh giá và đưa ra các đề xuất về chất lượng hoạt động cần được kiểm toán phục vụ yêu
cầu quản trị nội bộ đơn vị. Sự ra đời của bộ phận KTNB nhằm mục đích: Giám sát một cách độc
lập các hoạt động chức năng trong doanh nghiệp; Xem xét các số liệu tài chính, các thủ tục thực
hiện và đưa ra các nhận xét, đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin kinh tế - tài chính;
Trợ giúp cho hệ thống quản lý doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu lực hoạt động, đẩy mạnh và
phát huy hệ thống kiểm soát nội bộ, thực hiện các điều tra đặc biệt đáp ứng yêu cầu quản lý và bảo
vệ tài sản của doanh nghiệp.
Từ khóa: Kiểm toán, KTNB, sai phạm, kiểm soát nội bộ, công ty
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Kiểm toán nội bộ (KTNB) là một bộ phận độc
lập được thiết lập trong đơn vị tiến hành công
việc kiểm tra, đánh giá và đưa ra các đề xuất
về chất lượng hoạt động cần được kiểm toán
phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ đơn vị.
KTNB có vai trò hết sức to lớn trong việc hỗ
trợ ban quản lý và các bộ phận khác hoàn
thành nhiệm vụ và mục tiêu của doanh nghiệp
đã đề ra một cách có hiệu quả, tiết kiệm.
KTNB là một công cụ quản lý có hiệu quả và
là sự bổ sung cần thiết cho công việc ngoại
kiểm của hoạt động kiểm toán từ bên ngoài
đối với đơn vị kinh doanh. KTNB ra đời xuất
phát từ nhu cầu quản lý doanh nghiệp. Để
quản lý, điều hành có hiệu quả, các nhà quản
lý phải thiết lập một hệ thống kiểm tra, kiểm
soát đối với các hoạt động thuộc phạm vi
quản lý. Với nội dung chủ yếu là kiểm toán
hoạt động tại đơn vị cơ sở nên có tác dụng rất
lớn trong việc sớm phát hiện, ngăn chặn và xử
lý các hành vi tiêu cực, gian lận trong quản lý
và điều hành, nâng cao hiệu quả sử dụng tài
sản và các nguồn lực trong đơn vị, hoàn thiện
đổi mới môi trường làm việc trong cơ quan.
CÔNG TÁC KTNB TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM
Trên thế giới, KTNB đã ra đời từ lâu nhưng
chỉ phát triển từ sau các vụ gian lận tài chính
* Tel: 0977 814119, Email: dohang.tueba@gmail.com
ở Công ty Worldcom và Enron (Mỹ) những
năm 2000-2001 và đặc biệt là khi Luật
Sarbanes-Oxley của Mỹ ra đời năm 2002.
Luật này quy định các công ty niêm yết trên
thị trường chứng khoán Mỹ phải báo cáo về
hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ công
ty. Để trong khi hoạt động của kiểm toán độc
lập giới hạn ở việc kiểm tra báo cáo tài chính
(mức độ trung thực và hợp lý), hoạt động của
KTNB không bị giới hạn ở bất kỳ phạm vi
nào trong công ty, từ mua hàng, sản xuất, bán
hàng đến quản lý tài chính, nhân sự hay công
nghệ thông tin. Mục đích của KTNB là phục
vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp, chứ
không phải cho đối tác bên ngoài. KTNB
không chỉ đánh giá các yếu kém của hệ thống
quản lý mà còn đánh giá các rủi ro cả trong và
ngoài công ty.
KTNB có thể đem lại cho DN rất nhiều lợi
ích. Đây là công cụ giúp phát hiện và cải tiến
những điểm yếu trong hệ thống quản lý của
DN. Thông qua công cụ này, ban giám đốc và
hội đồng quản trị có thể kiểm soát hoạt động
tốt hơn, quản lý rủi ro tốt hơn, tăng khả năng
đạt được các mục tiêu kinh doanh. Còn tại
Việt Nam, thời gian gần đây, KTNB đã được
nhắc đến nhiều như là một công cụ hoặc một
chức năng quản trị DN. Trong khi chưa có
các quy định hoặc yêu cầu từ phía các cơ
quan chức năng, các hiệp hội chuyên nghiệp
hoặc các thể chế về KTNB, thì nhiều DN
Đỗ Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 135 - 138
136
cũng đã bắt đầu xây dựng cho mình một cơ
chế KTNB như là một phần của công tác
hoạch định chiến lược kinh doanh và quản trị
DN. Hiện nay, khung pháp lý cao nhất cho
hoạt động KTNB là Luật Doanh nghiệp 2005.
Khái niệm đầu tiên liên quan đến KTNB quy
định trong luật là ban kiểm soát do cổ đông
bầu ra. Tuy nhiên, vai trò, chức năng, trách
nhiệm của ban kiểm soát còn quá mơ hồ, làm
công việc của thanh tra mang tính chất đột
xuất, theo yêu cầu hơn là thường xuyên. Các
doanh nghiệp nhà nước có thêm một quy
định, hướng dẫn về vấn đề KTNB - Quyết
định 832/TC/QQĐ/CĐKT năm 1997. Theo
đó, phòng KTNB vẫn báo cáo lên tổng giám
đốc như một bộ phận thuộc sự điều hành của
tổng giám đốc. Điều này làm giảm tính độc
lập của phòng KTNB, vì toàn bộ hệ thống
quản lý trong doanh nghiệp đều là đối tượng
đánh giá của KTNB. Trong khi đó, theo thông
lệ phổ biến trên thế giới, phòng KTNB chịu
trách nhiệm báo cáo trực tiếp lên cho ban
kiểm soát hoặc hội đồng quản trị, tức là cấp
cao hơn ban giám đốc.
KTNB phải xác định, phân tích, đánh giá
những rủi ro và xây dựng hồ sơ rủi ro cho
từng hoạt động của tổ chức tín dụng. Kết quả
đánh giá rủi ro sẽ là căn cứ để trưởng KTNB
làm việc với Ban kiểm soát, Tổng giám đốc
và Hội đồng quản trị trong quá trình lập kế
hoạch KTNB hàng năm. Các rủi ro sẽ được
xếp hạng theo thứ tự từ cao đến thấp, trong đó
những hoạt động được coi là có rủi ro cao sẽ
được ưu tiên tập trung nhiều nguồn lực, thời
gian hơn để kiểm toán, được kiểm toán trước
và được kiểm toán thường xuyên hơn các hoạt
động có rủi ro thấp hơn.
Kế hoạch KTNB phải được xây dựng dựa trên
kết quả đánh giá rủi ro và phải được cập nhật,
thay đổi, điều chỉnh phù hợp với các diễn biến,
thay đổi trong hoạt động của tổ chức tín dụng và
sự thay đổi của các rủi ro đi kèm theo.
Trong không ít trường hợp, KTNB vẫn
thường trực thuộc một bộ phận quản lý nhất
định, không có được tính độc lập khách quan
và cũng chưa được xem là một mắt xích của
quản trị DN. Vai trò của KTNB trong việc
đưa ra đảm bảo và đưa ra các tư vấn cho DN.
Cụ thể:
Với vai trò đưa ra đảm bảo: Các tổ chức và
doanh nghiệp thường kỳ vọng KTNB sẽ cung
cấp được các dịch vụ mang tính đảm bảo cho
hệ thống nội bộ của mình. Trong nền kinh tế
thị trường có mức độ cạnh tranh gay gắt như
hiện nay, các doanh nghiệp đều hướng tới
nhiều mục tiêu cùng một lúc bao trùm cả các
mảng quản trị, kinh tế, đạo đức kinh doanh,
xã hội và môi trường... KTNB cần phải có đủ
các kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để đưa
ra được các đảm bảo cho doanh nghiệp về
việc doanh nghiệp đã và đang vận hành một
cách hiệu quả nhằm đạt được đồng thời các
mục tiêu đề ra. Các đảm bảo do KTNB mang
lại chủ yếu tập trung vào quản trị doanh
nghiệp thông qua quản trị rủi ro và kiểm soát
nội bộ; và các vấn đề về đạo đức kinh doanh
và trách nhiệm xã hội (bao gồm cả các vấn đề
môi trường và các vấn đề tuân thủ). Trong khi
ban giám đốc và lãnh đạo doanh nghiệp chịu
trách nhiệm thiết lập và duy trì hệ thống kiểm
soát nội bộ thì hoạt động KTNB đưa ra đảm
bảo cho ban giám đốc và Ủy ban kiểm toán
(hoặc HĐQT) các đảm bảo là hệ thống kiểm
soát nội bộ được vận hành một cách hiệu quả
như kỳ vọng. Để tránh xung đột về lợi ích và
đảm bảo tính độc lập, KTNB thường chịu
trách nhiệm trực tiếp trước HĐQT hoặc đại
diện của HĐQT như Ủy ban kiểm toán;
Với vai trò tư vấn: Công việc của KTNB bao
gồm từ đánh giá phương châm cũng như văn
hóa quản lý rủi ro của một doanh nghiệp đến
xem xét và báo cáo tính hiệu quả của việc
thực hiện các chính sách quản lý. Dựa trên
các công việc đó, KTNB được kỳ vọng sẽ đưa
ra các khuyến nghị để hoàn thiện các bộ phận
có cơ hội phát triển hoặc có những khiếm
khuyết cần khắc phục. Mặt khác, KTNB cũng
có thể cung cấp các dịch vụ tư vấn trợ giúp
một cách riêng biệt cho tất cả các cấp trong
đơn vị nhằm thực hiện trách nhiệm của mình
một cách hiệu quả.
Đỗ Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 135 - 138
137
Việc tư vấn của KTNB trong nhiều doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay thường chỉ dừng
lại ở các khuyến nghị xuất phát từ kết quả của
các công tác kiểm tra, kiểm soát cụ thể. Tính
độc lập giữa vai trò tư vấn và kiểm toán cũng
chưa được đặt thành vấn đề với chức năng
KTNB.
KTNB ở Việt Nam đang trong giai đoạn hình
thành và hoàn thiện. Việc hình thành kiểm
toán nội bộ trong các doanh nghiệp ở nước ta
hiện nay là một vấn đề tất yếu cần thiết để
đảm bảo tính trung thực của báo cáo tài chính
trong doanh nghiệp cũng như tính tuân thủ,
tính hoạt động của Doanh nghiệp. Nhận thức
tầm quan trọng KTNB nên đã có nhiều công
ty lớn áp dụng kiểm toán nội bộ trong việc
kiểm tra việc tuân thủ các quy định kiểm soát
liên quan đến một số hoạt động, chẳng hạn
như: Tổng công ty cổ phần may 10, Tổng
công ty may Thăng Long, Tổng công ty xây
dựng công trình giao thông 4, công ty cổ phần
Gang thép Thái Nguyên…Tuy nhiên vẫn còn
rất nhiều doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa áp
dụng KTNB vào đơn vị mình.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
Một là, nhận thức về KTNB: Quyền hạn và
trách nhiệm của KTNB cần phải được chia sẻ
và đồng tình của các bên có liên quan cũng
như các cấp quản lý. Đặc biệt việc giải quyết
xung đột lợi ích của ban giám đốc liên quan
đến chức năng kiểm soát của KTNB. Thường
thì ban giám đốc sẽ có ý kiến không tán đồng
về quyền hạn cũng như chức năng KTNB nếu
họ thấy không có quyền kiểm soát trực tiếp
bộ phận này.
Hai là, nguồn nhân lực cho KTNB: Tạo điều
kiện cho các nhân viên có được bằng cấp
chuyên môn cùng với việc chuyển giao kiến
thức từ các công ty cung cấp dịch vụ chuyên
nghiệp là một điểm cần lưu ý trong việc phát
triển nguồn nhân lực cho KTNB.
Ba là, kế hoạch đầu tư: Việc đầu tư vào xây
dựng (nhân sự, tuyển dụng, cơ sở vật chất
v.v.) và đào tạo KTNB cần được xem xét. Lợi
ích của việc tăng cường quản trị doanh nghiệp
bao gồm cả quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ…
cần được cân nhắc với chi phí đầu tư và duy
trì bộ máy KTNB.
Bốn là, hoàn thiện bộ máy KTNB: Chức năng,
nhiệm vụ của kiểm soát nội bộ và KTNB cần
được phân biệt rõ, các cấp lãnh đạo và nhân
viên ngân hàng cần hiểu rõ sự khác biệt giữa
hai bộ phận này. Tách bạch hoạt động KTNB
và kiểm soát nội bộ trên cơ sở: Bộ phận
KTNB thực hiện đánh giá một cách độc lập
hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ; rà soát,
đánh giá mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu
quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ;
tính đầy đủ, kịp thời, trung thực và mức độ
chính xác của hệ thống hạch toán kế toán và
các báo cáo tài chính; cơ chế, quy định, quy
trình quản trị, điều hành, tác nghiệp của ngân
hàng; các biện pháp đảm bảo an toàn tài sản;
đánh giá tính kinh tế và hiệu quả các các hoạt
động, tính kinh tế và hiệu quả của việc sử dụng
các nguồn lực, qua đó xác định mức độ phù hợp
giữa kết quả đạt được và mục tiêu đề ra;
Năm là, các thông lệ và các chuẩn mực:
Trong khi Việt Nam chưa có quy định hoặc
hướng dẫn cụ thể thì việc tham khảo các
thông lệ trên thế giới hoặc việc đầu tư xây dựng
quy chế KTNB của riêng mình qua các đơn vị
tư vấn chuyên nghiệp sẽ được cân nhắc.
Sáu là, quản lý và giám sát chất lượng: Hiện
tại đây vẫn là hạn chế cho một doanh nghiệp
Việt Nam khi muốn đầu tư vào KTNB. Câu
hỏi đặt ra là làm thế nào để HĐQT và ban
giám đốc điều hành doanh nghiệp đánh giá
được và đảm bảo chất lượng của bộ máy
KTNB của mình. Hiệp hội Kế toán Công Hoa
Kỳ (AICPA) cũng giới thiệu một bộ công cụ
cho Ủy ban kiểm toán để giúp đánh giá chức
năng KTNB. Các doanh nghiệp có thể tham
khảo bộ công cụ này cũng như tham khảo tư
vấn của các công ty dịch vụ chuyên nghiệp
trong việc quản lý và giám sát chất lượng
KTNB.
Vì vậy, hoạt động của KTNB tại các doanh
nghiệp Việt Nam bởi vậy nên tập trung vào
các nội dung chính sau:
Đỗ Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 135 - 138
138
- Đánh giá các rủi ro: KTNB sẽ phải nhận
diện các hoạt động chủ chốt của DN cùng các
rủi ro có liên quan và sẽ đánh giá mức độ
trọng yếu của các rủi ro này. KTNB nên lưu ý
việc thay đổi các điều hiện kinh doanh và
hoạt động của doanh nghiệp sẽ có tác động
đến cách thức đánh giá các rủi ro mình.
Phương pháp tiếp cận của hoạt động KTNB
sẽ chuyển dịch từ hình thức thụ động dựa trên
các thủ tục kiểm soát sang hình thức chủ động
hơn dựa trên các rủi ro. Cách thức này sẽ giúp
KTNB nắm bắt trước được các vấn đề và các cơ
hội trong tương lai, đồng thời nhận diện các tồn
tại hiện hữu trong quản trị doanh nghiệp.
- Đánh giá các thủ tục kiểm soát và khuyến
nghị hoàn thiện các thủ tục kiểm soát ở tất cả
các cấp: Các phòng ban, chi nhánh, số lượng
và phạm vi mẫu… sẽ được thực hiện theo kế
hoạch kiểm toán được xây dựng dựa trên các
đánh giá rủi ro. KTNB sẽ phải báo cáo về các
phát hiện liên quan đến tính hiệu quả của các
thủ tục kiểm soát được đánh giá cùng với các
khuyến nghị và kế hoạch hành động phù hợp
để hoàn thiện các thủ tục này.
- Phân tích hoạt động và thông tin liên quan:
Doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu về
nhân lực, các chu trình và các hệ thống hỗ trợ
để có thể đạt được các mục tiêu kinh doanh
cũng như quản lý được các nguồn lực của
mình một cách hiệu quả. KTNB sẽ phối hợp
cùng các cấp quản lý để đánh giá các hoạt
động của doanh nghiệp và báo cáo các phát
hiện liên quan. Để làm được việc đó thì
KTNB phải hiểu một cách thấu đáo về mục
đích chiến lược của doanh nghiệp, từ đó sẽ
nắm bắt được việc vận hành của bất kỳ một
bộ phận nào trong doanh nghiệp trong toàn bộ
hoạt động của doanh nghiệp đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ tài chính, “Quy chế kiểm toán nội bộ” áp
dụng cho DNNN ban hành kèm theo quyết định số
832 TC/QĐ/CĐKT ngày 20/10/1997 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính.
2. Hoàng Đức Hùng: Kiểm toán nội bộ với việc
nâng cao quản trị DN.
3. Khuyến nghị của Ernt & Young Việt Nam về
việc thực hiện quy định về tỷ lệ an toàn đảm bảo,
phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tại các tổ
chức tín dụng;
4. Quyết định 36/2006/QĐ – NHNN ngày
01/08/2006 và Quyết định 37/2006/QĐ – NHNN
ngày 01/08/2006 của Ngân hàng Nhà nước ban
hành Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của tổ
chức tín dụng và Quy chế KTNB của tổ chức tín
dụng.
5. Victor Z.Brink & Herbert Witt, ( 2000), Kiểm
toán nội bộ hiện đại, Nxb Tài chính.
SUMMARY
STUDYING INTERNAL AUDIT IN VIETNAMESE ENTERPRISES
Do Thi Thu Hang*, Tran Tuan Anh, Do Thi Thuy Phuong College of Economics and Business Administration - TNU
Internal audit is an independent appraisal function of an organisation to review the performance of
internal operations for management requirement. The roles of internal audit are independent
assessment of functional operations in the organisation; review the quality and confidence of
economic and financial information; assist the management function through strengthening the
internal control system and conduct special assessments required. Therefore, the establishment of
internal audit is essential for any company.
Key words: Audit, Internal audit, Errors, Mistakes, Internal control, company
Ngày nhận bài:18/12/2013; Ngày phản biện:25/12/2013; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Đình Tuấn – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0977 814119, Email: dohang.tueba@gmail.com
Nguyễn Thị Phương Thảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 139 - 143
139
CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TẠI DỰ ÁN XÂY DỰNG HỒ KHE VÁN
XÃ PHỦ LÝ - HUYỆN PHU LƯƠNG TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Phương Thảo1*, Phạm Văn Hải1,
Nguyễn Tiến Đông1, Lương Văn Hinh2
1Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật – ĐH Thái Nguyên, 2Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt sau khi là thành thành viên của Tổ chức
thương mại Thế giới WTO, nước ta có nhiều triển vọng về phát triển kinh tế xã hội. Trong những
năm qua Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, văn hoá, xã hội... Các nhà đầu tư trong và ngoài nước đang đầu tư một cách mạnh mẽ vào thị
trường Việt Nam đầy tiềm năng. Những dự án đầu tư xây dựng các công trình đang được phát triển
trên tất cả các vùng trong cả nước. Để dự án đầu tư xây dựng có tính khả thi, xây dựng đúng tiến độ
thì công tác bồi thường giải phóng mặt bằng (GPMB) là vấn đề hết sức quan trọng ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng vốn của chủ đầu tư.
Từ khóa: Giải phóng mặt bằng,Tổ chức Thương mại Thế giới, Hồ Khe Ván, Phủ Lý, Phú Lương
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong năm qua công tác BT & GPMB huyện
Phú Lương đã tổ chức thực hiện công tác
thống kê, lập phương án BT theo đúng quy
trình, trình tự, thủ tục, đảm bảo yêu cầu dân
chủ, công khai. Tất cả các dự án thực hiện
công tác BT&GPMB đều thực hiện theo đúng
quy trình. Các dự án đều đã được các cấp
chính quyền quán triệt thống nhất và thông
báo công khai cho toàn thể nhân dân được
biết thông qua các hội nghị của xã phường, để
mọi cán bộ Đảng viên được hiểu về lợi ích
của các dự án, những đóng góp của dự án vào
sự phát triển kinh tế xã hội. Trên cơ sở đó thu
hút sự ủng hộ của nhân dân trong việc thực
hiện dự án. Khi dự án được triển khai trên địa
bàn thì cấp Uỷ đảng đã xây dựng và triển khai
tổ chức thực hiện công tác GPMB phục vụ dự
án. Đã kịp thời giải quyết những vướng mắc,
có sự phối hợp với các ngành, hội đồng BT
cấp tỉnh giải quyết những khiếu nại liên quan
đến công tác BT&GPMB. Nhìn chung công
tác GPMB các công trình xây dựng cơ bản
trên địa bàn huyện Phú Lương được hoàn
thành tương đối tốt.
Trong năm 2010 trên địa bàn huyện tổng số
dự án đã và đang thực hiện là 22 dự án, tổng
* Tel: 01685 149693
số diện tích đất bị thu hồi là 112,50 ha, với
tổng số tiền bồi thường là 48.691 triệu đồng.
Tổng số bị ảnh hưởng là 322 hộ. Trong đó, số
hộ thuộc diện phải bố trí tái định cư là 207 hộ.
Với hàng loạt các dự án lớn nhỏ, huyện Phú
Lương dường như đã được thay da đổi thịt
trong những năm gần đây nhờ vào việc xây
dựng các dự án.
NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nội dung nghiên cứu
- Thực trạng công tác bồi thường GPMB tại
dự án xây dựng hồ Khe Ván xã Phủ Lý,
huyện Phú Lương.
- Kết quả thực hiện công tác bồi thường
GPMB của dự án.
- Một số nhận xét và các đề xuất phương án
giải quyết.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra số liệu thứ cấp: Thu
thập các tài liệu thứ cấp từ các cơ quan hữu
quan thực hiện và quản lý dự án và đối soát
với hệ thống văn bản pháp quy hiện hành của
Nhà nước.
- Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp: Phương
pháp phỏng vấn trực tiếp, xin ý kiến của các
chuyên gia trong từng lĩnh vực để phản ánh
kết quả.
Nguyễn Thị Phương Thảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 139 - 143
140
- Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có
sự tham gia của người dân (PRA): trên cơ sở
xây dựng các câu hỏi được xếp đặt trên cơ sở
các nguyên tắc, tâm lý, logic và theo nội dung
nhất định để phản ánh kết quả phản hồi của
người dân trong vùng dự án.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thực trạng công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng dự án hồ Khe Ván xã Phủ Lý,
huyện Phú Lương, tỉnh Thái nguyên
Đối tượng và điều kiện bồi thường
Bảng 1 phản ánh kết quả như sau, hầu hết các
hộ gia đình, cá nhân đều đủ điều kiện bồi
thường. Trong đó có 21 hộ có GCNQSD đất,
09 hộ có giấy chuyển nhượng và giấy tờ mua
bán hợp lệ khác. Có 02 trường hợp không
được bồi thường đó là hộ gia đình ông Bùi
Quốc Thửa và Bùi Công Thức đều đại diện
cho xóm. Vì 02 trường hợp này được Nhà
nước giao đất mà không phải nộp tiền sử
dụng đất theo quy định tại khoản 4 Điều 22
Luật sửa đổi, bổ sung 1 số điều Luật Đất đai
năm 2001 và khoản 2 Điều 7 Nghị định 197
nhưng sau khi bị thu hồi đất được giao đất
mới và được đền bù thiệt hại về tài sản gắn
liền trên đất.
Kết quả công tác bồi thường giải phong mặt
bằng dự án xây dựng hồ Khe Ván xã Phủ
Lý, huyện Phú Lương được thể hiện qua các
bảng số liệu bên dưới.
Bảng 1: Đối tượng và điều kiện bồi thường
STT Điều kiện BT
Đối tương BT Diện tích
(m2) Ghi chú Hộ gia đình Tổ
chức
1 Có GCN QSDĐ 21 0 86.370,6 Đủ điều kiện BT
2 Có giấy chuyển nhượng QSD đất
và các giấy tờ liên quan khác 09 0 5.847,4 Đủ điều kiện BT
3 Có các loại giấy tờ về viêc giao đất 0 0 0 Không đủ điều kiện
BT
Bảng 2: Kết quả Bồi thường đất nông nghiệp
Đơn vị tính: nghìn đồng/m2
STT Loại đất Số hộ Diện tích (m2) Đơn giá Thành tiền
1 Đất trồng lúa nước còn lại 15 19.939,3 37 737.754,1
2 Đất bằng trồng cây hàng năm khác 05 2.184,0 33 72.072
3 Đất có rừng trồng sản xuất 20 29.191,8 10 291.918
4 Đất trồng cây công nghiệp lâu năm 08 11.183,7 31 346.694,7
5 Đất trồng cây lâu năm khác VT1, KV2 03 3.420,8 34 116.307,2
6 Đất trồng cây lâu năm khác VT2, KV2 04 6.750,2 31 209.256,2
7 Đất nuôi trồng thủy sản 04 15.913,2 24 381.916,8
Tổng 88.583 2.155.919
Bảng 3: Kết quả bồi thường đất phi nông nghiệp
STT
Họ và tên
Diện tích
(m2)
Đơn giá
(đồng/m2) Thành tiền (đồng)
1 Hoàng Văn Hành 400 170.000 68.000.000
2 Lưu Thị Lần 108,7 170.000 18.479.000
3 Hoàng Văn Khánh 400 170.000 68.000.000
4 Bùi Quốc Thửa 1.000 170.000 170.000.000
5 Bùi Công Thức 1.000 170.000 170.000.000
6 Nguyễn Thanh Toàn 400 170.000 68.000.000
7 Hoàng Quốc Việt 98 170.000 16.660.000
8 Nguyễn Thanh Hội 228,3 170.000 38.811.000
Tổng 3.635 617.950.000
Nguyễn Thị Phương Thảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 139 - 143
141
Bảng 4: Kết quả bồi thường tài sản gắn liền với đất
STT Chỉ tiêu Thành tiền (đồng)
1 Cây cối và hoa màu 616.909.000
2 Nhà cửa và vật kiến trúc 657.551.705
1.174.460.705
Bảng 5: Tổng hợp kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng
STT Hạng mục bồi thường, hỗ trơ Thành tiền (đồng) Tỷ lệ (%)
1 Bồi thường đất 2.773.869.000 26,98
2 Bồi thường tài sản 1.174.460.705 11,42
3 Hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm 4.933.245.000 47,98
4 Hỗ trợ ổn định đời sống 518.917.300 5,05
5 Thưởng bàn giao mặt bằng 69.291.500 0,67
6 Hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ tự tái định cư 171.000.000 1,67
7 HT đất vườn cùng thửa hoặc có nguồn gốc cùng thửa đất ở 500.735.000 4,87
8 Hỗ trợ hộ nghèo 71.280.000 0,69
9 Hỗ trợ thuê nhà, di chuyển chỗ ở 53.000.000 0,52
10 Hỗ trợ đất mượn thi công 15.639.000 0,15
Tổng 10.281.437.505 100,00
Bảng 6: Tổng hợp kết quả từ phiếu điều tra
STT Chỉ tiêu Số phiếu Tỷ lệ
1
Mức bồi thường đã: 30 100,00
Thỏa đáng 12 40,00
Chưa thỏa đáng 18 60,00
2
Mức hỗ trơ đã: 30 100,00
Thỏa đáng 9 30,00
Chưa thỏa đáng 21 70,00
Tổng hợp kết quả từ phiếu điều tra
Khi thực hiện đề tài để đánh giá công tác bồi
thường GPMB dự án hồ Khe Ván xã Phủ Lý,
huyện Phú Lương, điều tra thực tế từ 30 phiếu
thăm do ý kiến người dân trong khu vực
GPMB phản hồi sau công tác bồi thường
GPMB tại dự án này, kết quả được tổng hợp
trong bảng 6.
Một số nhận xét
Kết quả đạt được
- Các văn bản, quyết định thực hiện chính
sách của Nhà nước về BT và hỗ trợ khi Nhà
Nước thu hồi đất được cập nhật thường xuyên
để sát với thực tế.
- Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao và
kịp thời của tỉnh, Đơn vị chủ đầu tư và các
ngành chuyên môn nên các vướng mắc trong
công tác BT & GPMB đã được giải quyết tốt,
đặc biệt là công tác tuyên truyền, vận động để
người dân hiểu về chủ trương của Đảng, chế
độ chính sách của nhà nước và thực hiện.
- Trình độ dân trí của người dân ngày càng
được nâng cao nên việc tuyên truyền, vận
động người dân trở nên thuận lợi hơn.
- Lực lượng chuyên môn với năng lực ngày
càng cao giúp cho công tác thống kê BT diễn
ra nhanh, chính xác, đảm bảo lợi ích của cả
Nhà nước và người dân.
Khó khăn và tồn tại
- Do giá BT đất, cây cối, hoa màu và tài sản
còn thấp so với thực tế trên thị trường nên
nhiều hộ dân chưa hài lòng dẫn đến các hộ
dân chậm nhận tiền, có nhiều đơn đề nghị,
khiếu nại về xem xét lại đơn giá bồi thường
về đất vì vậy Hội đồng BT&GPMB phải đề
nghị UBND tỉnh điều chỉnh bổ sung đơn giá
đất và ra thêm nhiều quyết định BT bổ sung.
- Nhận thức và ý thức chấp hành Pháp luật
của một số người dân còn hạn chế nên gây
khó khăn trong công tác thống kê. Tình trạng
đơn thư khiếu nại mặc dù đã được trả lời
Nguyễn Thị Phương Thảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 139 - 143
142
xong vẫn tái diễn gây phiền hà cho cơ quan
chuyên môn.
- Do Ban BT&GPMB mới thành lập nên trình
độ chuyên môn vẫn còn hạn chế nên sau khi
thẩm định và công bố kết quả thì vẫn chưa
được người dân chấp nhận khiến tiến độ dự
án chậm lại.
- Khi chủ đầu tư lập dự án chưa tính đến di
dân tái định cư nên khi triển khai công tác
BT&GPMB còn vướng mắc trong công tác bố
trí tái định cư, tính đến nay vẫn còn 07 hộ
chưa được giao đất tái định cư.
Đề xuất một số giải pháp
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng chậm
tiến độ GPMB là do các chính sách về
BT&GPMB, chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ,
đơn giá BT lại thấp hơn so với giá thực tế
khiến người dân cảm thấy không hài lòng. Để
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác
BT&GPMB thì cần thực hiện tốt một số nội
dung sau:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, chính sách của Nhà nước để từng
bước nâng cao nhận thức của cộng đồng trong
lĩnh vực quản lí, sử dụng đất đai nói chung từ
đó chấp hành tốt các Quyết định của Nhà
nước liên quan đến công tác BT&GPMB.
- Nên có những chính sách, cơ chế thưởng
phạt nghiêm minh đối với các hộ bị thu hồi
đất, các hộ cố tình mưu lợi cá nhân, chống
đối, gây khó khăn cho công tác GPMB.
- Công tác đo vẽ bản đồ hiện trạng, bản đồ
trích đo địa chính của cơ quan chuyên môn
cần có độ chính xác cao, tránh sai sót giúp
cho việc thu hồi đất và bồi thường thiệt hại
nhanh chóng, thuận lợi, chính xác.
- Tổ chức công khai quy hoạch của dự án, chế
độ chính sách bồi thường, kế hoạch di chuyển.
- Sắp xếp, bố trí cán bộ ở các cấp cơ sở có đủ
năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần
trách nhiệm cao để thực hiện công việc.
- Tiếp thu, xem xét ý kiến đóng góp của người
dân, từ đó mới tạo được lòng tin của nhân dân.
Điều đó sẽ giúp cho công tác BT&GPMB được
diễn ra nhanh chóng, thuận lợi.
- Ban quản lý các dự án phải tính trước đến
phương án tái định cư bố trí chỗ ở ổn định cho
người dân bị thu hồi đất, kết hợp với việc hỗ trợ,
thưởng cho những người chấp hành tốt.
- Chính quyền địa phương phối hợp với các
cơ quan chuyên môn trong việc xác định rõ
một số hạng mục đất có tính phức tạp của các
gia đình nằm trong diện GPMB công trình
được giải quyết nhanh, chính xác để người
dân không thắc mắc, khiếu kiện.
- UBND tỉnh cần ban hành khung giá các loại
đất phù hợp với từng vị trí tuỳ vào thời điểm
nhất định. Đơn giá BT tài sản, cây cối và hoa
màu phải hợp lí với khả năng sinh lời mà
chúng mang lại. Các chính sách hỗ trợ phải
xem xét đến tình hình thực tế cuộc sống của
người dân.
- Cần phải có sự lãnh đạo tập trung, thống
nhất, đồng bộ giữa các cấp, ngành liên quan.
UBND tỉnh, các cơ quan liên quan quan tâm
đầu tư và có chính sách tốt hơn cho công tác
thực hiện GPMB như điều chỉnh chế độ
hưởng % của công trình. Đề nghị UBND
huyện giao nhiệm vụ cho Ban BT&GPMB
theo đúng tính chất về nhiệm vụ bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban bồi thường GPMB huyện Phú Lương (2011),
“Báo cáo kết quả công tác bồi thường GPMB tại dự
án xây dựng hồ Khe Ván, xã Phủ Lý”.
2. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-
CP ngày 29/10/2004 của chính phủ về thi hành
Luật Đất đai 2003.
3. Chính phủ (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-
CP ngày 03/12/2004 của chính phủ về bồi thường,
hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
4. Chính phủ (2010), Quyết định 01/2010/QĐ-CP
ngày 05 tháng 01 năm 2010 của Chính Phủ về việc
ban hành quy định thực hiện bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên.
Nguyễn Thị Phương Thảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 139 - 143
143
SUMMARY
GROUND CLEARANCE WORK PROJECTS
AT CONSTRUCTION KHE VAN LAKE PHU LY TOWN
PHU LUONG DISTRICT - THAI NGUYEN PROVINCE
Nguyen Thi Phuong Thao1*, Pham Van Hai1,
Nguyen Tien Dong1, Luong Van Hinh2 1College of Economics and Technology – TNU,
2College of Agriculture and Forestry - TNU
In the integration into the world economy, especially after being a member of the World Trade
Organization (WTO), our country has great potential for economic and social development. In
recent years, Vietnam has achieved critical success in all areas: economy, culture, society, etc.
Domestic and foreign investors are investing strongly into Vietnam-potential market. Investment
projects for construction are being developed in all regions of the country. To make investment
projects for construction feasible, constructed on schedule, the compensation and ground clearance
is a very important issue which affects on the efficiency of invested capital.
Key word: Ground clearance, WTO, Khe Van Lake, Phu Ly, Phu Luong
Ngày nhận bài:31/1/2014; Ngày phản biện:25/2/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Duy Lam – Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật - ĐHTN
* Tel: 01685 149693
Nguyễn Thị Phương Thảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 139 - 143
144
Nguyễn Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 145 - 149
145
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIAO, CHO THUÊ ĐẤT CỦA CÁC TÔ CHỨC
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thùy Linh1, Phạm Văn Hải1,
Nguyễn Tiến Đông1, Lương Văn Hinh2 1Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật – ĐH Thái Nguyên,
2Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên,
TÓM TẮT Thành phố Thái Nguyên là đô thị loại I, nằm ở trung tâm vùng Trung du miền núi Đông Bắc bộ,
Thành phố đã và đang có những chế độ ưu đãi đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu
tư vào thành phố. Nhằm cải thiện môi trường đầu tư, UBND thành phố đã tích cực cải tiến các thủ
tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư tham gia đầu tư tại thành phố. Với
84 tổ chức, khu đất với tổng diện tích là 1.664.069,02 m2 trong giai đoạn 2010-2012. Trong giai
đoạn này UBND tỉnh Thái Nguyên đã tiến hành giao đất cho 4 loại hình tổ chức là cơ quan hành
chính nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức sự nghiệp công, tổ chức kinh tế với tổng diện tích là
1.183.818,70; tiến hành cho thuê đất đối với 61 tổ chức kinh tế với tổng diện tích là 434.234,60.
Từ khóa: Tổ chức, giao đất, cho thuê đất, sử dụng đất, Thành phố Thái Nguyên
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Với thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố Thái Nguyên trong những năm gần
đây cũng như dự báo phát triển kinh tế - xã
hội trong tương lai theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nhu cầu sử dụng đất cũng
như công tác quản lý, sử dụng đất đai ở thành
phố Thái Nguyên nói chung, của các tổ chức
trên địa bàn thành phố nói riêng đang là một
thách thức lớn đối với công tác quản lý nhà
nước về đất đai. Vì vậy việc đánh giá thực
trạng giao đât, cho thuê đất của các tổ chức là
việc làm có ý nghĩa thiết thực trong công tác
quản lý Nhà nước về đât đai, để kịp thời đưa
ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng đất, tránh để lãng phí thất thoát
nguồn tài nguyên hữu hạn vô giá này
NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nội dung nghiên cứu của đề tài
(i) Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã
hội có ảnh hưởng tới quá trình sử dụng đất
của các tổ chức.
(ii) Đánh giá tình hình giao đất, cho thuê đất
đối với các tổ chức trên địa bàn thành phố
Thái Nguyên.
(iii) Đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng đất
của các tổ chức.
* Tel: 0986704654; Email:rlinh0909@gmail.com
Phương pháp nghiên cứu
(i) Phương pháp điều tra, thu thập số liệu thứ
cấp: Là các số liệu từ các công trình nghiên
cứu trước thu thập từ các cơ quan liên quan
thuộc UBND TP Thái Nguyên được lựa chọn
sử dụng vào mục đích phân tích, minh họa rõ
nét về nội dung nghiên cứu.
(ii) Phương pháp điều tra, thu thập số liệu sơ
cấp: Phương pháp phỏng vấn trực tiếp,
Phương pháp chuyên gia
(iii) Phương pháp xử lý số liệu: sử dụng
phương pháp thống kê so sánh, Phương pháp
tổng hợp, phân tích xử lý số liệu bằng phần
mềm Excel, phân tích các tài liệu đã có trên
địa bàn thành phố, các tài liệu có liên quan
đến việc sử dụng đất đai.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Vị trí địa lý
Thành phố Thái Nguyên là đô thị loại I, nằm
ở trung tâm vùng Trung du miền núi Đông
Bắc bộ. Có toạ độ địa lý: 210 đến 22027’ vĩ độ
Bắc và 105025’ đến 106014’ kinh độ Đông,
được bao quanh bởi 5 huyện của tỉnh Thái
Nguyên: Phía Bắc giáp: Huyện Đại Từ, huyện
Phú Lương và huyện Đồng Hỷ. Phía Nam
giáp: Thị xã Sông Công. Phía Tây giáp:
Huyện Đại Từ. Phía Đông nam giáp: Huyện
Phú Bình.
Nguyễn Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 145 - 149
146
Thành phố Thái Nguyên còn có vị trí rất quan
trọng, có tác dụng hỗ trợ và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế cho vùng tam giác kinh tế
trọng điểm phía Bắc nước ta (Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh) [3].
Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội
Thực trạng phát triển kinh tế
Trong những năm qua, thực hiện chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, thành
phố đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Tốc độ phát triển kinh tế năm sau cao hơn
năm trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân nhiệm kỳ (2010 - 2012) đạt 14,90%.
Trong đó, tốc độ tăng trưởng công nghiệp và
xây dựng bình quân cả nhiệm kỳ 2010 - 2012
đạt 15,87%; tốc độ tăng trưởng dịch vụ bình
quân đạt 18,26% và tốc độ tăng trưởng nông
nghiệp bình quân đạt 4,55%. Những năm cuối
nhiệm kỳ, mặc dù chịu tác động của suy giảm
kinh tế, tài chính nhưng thành phố đã tập
trung chỉ đạo quyết liệt nhiều giải pháp đồng
bộ, khuyến khích các thành phần kinh tế phát
triển. Tỷ trọng của khu vực phi nông nghiệp
tăng từ 95,38 % năm 2010 lên 95,94% năm
2012. Trong khi đó tỷ trọng khu vực nông
nghiệp giảm tương ứng từ 4,62% xuống
4,06% [4].
Dân số lao động và việc làm
Tổng số lao động đang làm việc trong khu
vực nhà nước (bao gồm trung ương, địa
phương và hành chính sự nghiệp) là 37.610
người, chiếm tỷ lệ 26,73% và lao động làm
việc ngoài khu vực nhà nước là 103.090
người, chiếm tỷ lệ 73,27%. Lao động qua đào
tạo gồm công nhân kỹ thuật, trung cấp chuyên
nghiệp, đại học, cao đẳng chiếm 55%; lao
động chưa qua đào tạo chiếm 45%. Lao động
có tay nghề khá phổ biến ở các ngành xây
dựng, khai khoáng, sửa chữa, khí đốt… Tỷ lệ
lao động thất nghiệp chiếm 4,46%. [4]
Hiện trạng sử dụng đất
Theo kết quả thống kê năm 2012, tổng diện
tích tự nhiên toàn thành phố là 18.630,56 ha
trong đó đất nông nghiệp là 12.102,74 ha
chiếm 64,96%; đất phi nông nghiệp là
6.160,17 ha chiếm 33,06%; đất chưa sử dụng
là 367,65ha chiếm 1,97% [2].
Trong giai đoạn 2010-2012 toàn thành phố có
1.664.069,20 m2 đất được giao cho các loại
hình tổ chức sử dụng, cụ thể là 4 loại hình tổ
chức: cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ
chức sự nghiệp công, tổ chức kinh tế. Trong
đó đất nông nghiệp là loại đất được sử dụng
nhiều nhất 1.266.717,30 m2 (chiếm 76,12%);
đất phi nông nghiệp là 369.068,70 m2 (chiếm
22,17%), đất chưa sử dụng là 28.283,20m2
(chiếm 1,70%) [5].
Tình hình giao đất, cho thuê đất đối với các
tổ chức trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên giai đoạn 2010-2012
Thời gian qua công tác giao đất, cho thuê trên
địa bàn thành phốThái Nguyên đã được quan
tâm thực hiện, cơ bản phù hợp với quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất được xét duyệt, đáp ứng
đủ quỹ đất phục vụ cho nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi cơ
cấu sử dụng đất. Giai đoạn 2010-2012,
UBND tỉnh đã tiến hành giao đất, cho thuê
đất đối với 92 tổ chức (bao gồm 4 loại hình tổ
chức: cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức
xã hội, tổ chức sự nghiệp công, tổ chức kinh
tế) với tổng diện tích là 1.664.069,20 m2 cụ
thể tại bảng 1.
Tình hình giao đất cho các tổ chức
Trong 2 năm 2010, 2011 UBND tỉnh Thái
Nguyên đã tiến hành giao đất không thu tiền
và có thu tiền sử dụng đất cho 4 tổ chức với
tổng diện tích là 1.183.818,70 m2 chiếm
96,25% tổng diện tích đã giao cho các tổ chức
trong 3 năm, kết quả thể hiện ở bảng 2.
Đạt được kết quả như trên do đây là những
năm tỉnh Thái Nguyên thực hiện cải cách phát
triển kinh tế- xã hội của Tỉnh theo hướng
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên việc dành
quỹ đất cho phát triển hạ tầng đóng vai trò
quan trọng đặc biệt là các dự án có xây dựng
công trình công cộng (y tế, giáo dục, văn hoá,
du lịch…….), trụ sở cơ quan, khu dân cư, khu
đô thị, đất sử dụng vào mục đích an ninh,
quốc phòng, lợi ích quốc gia…
Nguyễn Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 145 - 149
147
Bảng 1: Tổng số tổ chức và diện tích sử dụng đất của các tổ chức giai đoạn 2010-2012
ST
T
Loại hình
tổ chức
Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Tổng số
tổ chức
Tổng diện
tích (m2)
Tổng số
tổ chức
Tổng diện
tích (m2)
Tổng số
tổ chức
Tổng diện
tích (m2))
1 Cơ quan
HC NN 2 3.776,10 2 1.167,70 1 420,00
2 TC xã hội 3 10.943,50 - - - -
3 TC SN
công 4 64.116,40 3 330.811,60 3 45.595,90
4 TC kinh tế 33 301.687,00 18 849.555,80 14 55.995,20
Tổng số 42 380.523,00 23 1.181.533,10 18 102.011,10
Bảng 2: Tình hình giao đất cho các tổ chức
(Đơn vị: m2)
S
T
T
Loại hình tổ
chức
Tổng diện
tích
Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Giao đất
không
thu tiền
Giao đất
có thu
tiền
Giao đất
không
thu tiền
Giao đất
có thu
tiền
Giao đất
không
thu tiền
Giao
đất co
thu
tiền
1 Cơ quan hành
chính nhà nước 5.363,80 3.776,10 - 1.167,70 - 420,00 -
2 Tổ chức xã hội 10.943,50 10.943,50 - - - - -
3 Tổ chức sự
nghiệp công 440.523,90 64.116,40 - 330.811,60 - 45.595,90 -
4 Tổ chức kinh tế 773.003,40 - 145.603,80 353.857,50 273.542,10 - -
Tổng số 1.229.834,60 78.836,00 145.603,80 685.836,80 273.542,10 46.015,90 -
Bảng 3: Tình hình thuê đất của các tổ chức
STT Năm Số tổ chức Diện tích đất cho
thuê (m2) Tỷ lệ (%)
1 Năm 2010 30 156.083,20 35,94
2 Năm 2011 17 222.156,20 51,16
3 Năm 2012 14 55.995,20 12,90
Tổng số 61 434.234,60 100
Năm 2012 chỉ giao không thu tiền sử dụng
đất 46.015,90 m2 cho 2 loại hình tổ chức đó
là cơ quan hành chính nhà nước và tổ chức sự
nghiệp công. Đây là năm Tỉnh đã cơ bản hoàn
thành các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ
cho phát triển kinh tế- xã hội, các dự án chủ
yếu tập trung vào khu vực nông thôn, miền
núi nhằm góp phần cải thiện và nâng cao đời
sống tinh thần của đồng bào các dân tộc miền
núi (một số dự án: xây dựng nhà văn hoá,
trạm y tế, đường giao thông……) và khu tái
định cư cho một số dự án trọng điểm của Tỉnh
Tình hình thuê đất của các tổ chức
Số liệu bảng 3 cho thấy đất do các loại hình tổ
chức thuê sử dụng trên phạm vi toàn thành
phố là 434.234,60 m2, trong đó tất cả đều là
các tổ chức kinh tế sử dụng đất. Trong giai
đoạn này đối với thành phố Thái Nguyên có
tất cả 61 tổ chức kinh tế được UBND tỉnh tiến
hành cho thuê đất. Trong đó năm 2010, 2011
là những năm thu hút được các nhà đầu tư
nhiều nhất với số tổ chức là 47 tổ chức diện
tích sử dụng là 378.239,40 m2 do đây là
những năm Tỉnh đã có những chính sách về
ưu đãi đầu tư nhằm thu hút các nhà đầu tư và
từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, hoàn
thành mục tiêu của Tỉnh đề ra là đưa tỉnh Thái
Nguyên cơ bản trở thành Tỉnh Công nghiệp.
Nguyễn Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 145 - 149
148
Đánh giá chung tình hình giao đất, cho thuê
của các tổ chức
Qua số liệu phân tích cho thấy tình hình quản
lý sử dụng đất của các tổ chức trên địa bàn
tỉnh được Nhà nước giao, cho thuê còn một số
tồn tại như sau:
Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước cũng
còn những điều bất cập như: Diện tích đất
trong quyết định giao đất, cho thuê đất không
trùng với diện tích trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cấp cho tổ chức, quản lý
bằng phần mềm chuyên ngành còn gặp rất
nhiều khó khăn,...
Các chủ đầu tư sau khi được giao đất đã tích
cực trong công tác bồi thường GPMB, sử
dụng đất có hiệu quả, quan tâm đến chính
sách tạo việc làm cho người mất đất. Nhiều
khu đô thị mới được đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng đồng bộ, tạo quỹ đất đáp ứng nhu cầu đất
ở của địa phương (như Khu dân cư số 1
phường Hoàng Văn Thụ, Khu dân cư số 3, số
4 phường Đồng Quang), góp phần tích cực
phát triển kinh tế xã hội của thành phố, tạo
việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu
cho ngân sách địa phương.
Bên cạnh các đơn vị, tổ chức phát huy được
hiệu quả sử dụng đất, còn có một số đơn vị
(chủ yếu là đơn vị thuê đất ý thức chấp hành
pháp luật về đất đai chưa cao, chưa thực hiện
đúng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người sử
dụng đất, sử dụng đất chưa hiệu quả; triển
khai dự án chậm; sử dụng đất sai mục đích .
Ngoài ra, hiện nay tình trạng một số khu dân
cư đang được quy hoạch ồ ạt. Các chủ đầu tư
chưa xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng
nhưng đã bán đất ở quy hoạch cho người dân,
sau đó là tình trạng mua bán trao tay tạo nên
cơn sốt đất ảo. Thực tế những hộ gia đình, cá
nhân thực sự có nhu cầu đất ở không nhiều.
Đối với trường hợp này cần phải có biện pháp
thắt chặt quản lý, nghiên cứu kỹ về nhu cầu
sử dụng đất ở ngay từ khi lập quy hoạch.
KẾT LUẬN
1. Thành phố Thái Nguyên là đô thị loại I,
nằm ở trung tâm vùng Trung du miền núi
Đông Bắc bộ, Thành phố đã và đang có
những chế độ ưu đãi đối với các doanh nghiệp
trong và ngoài nước đầu tư vào thành phố.
Trong những năm gần đây, việc quản lý, sử
dụng đất đai nói chung và đất của các tổ chức
được Nhà nước giao, cho thuê nói riêng đã
được chú ý quản lý, sử dụng đất tiết kiệm và
hiệu quả.
2. Giai đoạn 2010 – 2012 toàn thành phố có
84 tổ chức sử dụng đất trong đó: tổ chức kinh
tế chiếm 72,54% tổng diện tích quản lý sử
dụng đất của các tổ chức, tổ chức sự nghiệp
công chiếm 26,47% tổng diện tích quản lý sử
dụng đất của các tổ chức, cơ quan hành chính
nhà nước chiếm 0,33% tổng diện tích quản lý
sử dụng đất của các tổ chức, các tổ chức xã
hội chiếm 0,66% tổng diện tích quản lý sử
dụng đất của các tổ chức. Diện tích đất của
các tổ chức đang sử dụng hiện nay chủ yếu là
diện tích đất được nhà nước giao đất thu tiền
sử dụng đất thuộc loại hình sử dụng đất của tổ
chức kinh tế. Các tổ chức sử dụng đất theo
hình thức thuê đất trả tiền một lần và trả tiền
hàng năm chủ yếu là tổ chức kinh tế (chiếm
100% diện tích thuê đất).
3. Trình tự, thủ tục giao đất, thuê đất có
vướng mắc nhiều nhất là giai đoạn bồi
thường, giải phóng mặt bằng do các chính
sách của Nhà nước còn nhiều bất cập và luôn
thay đổi. Với việc giải quyết các thủ tục thông
qua “một cửa liên thông” là một bước đột phá
trong công tác cải cách hành chính của thành
phố Thái Nguyên, tạo điều kiện thuận lợi,
giảm chi phí, thời gian cho các tổ chức trong
việc thực hiện các thủ tục hành chính. Nhiều
dự án sau khi được giao đất, cho thuê đất đã
phát huy hiệu quả, góp phần vào sự phát triển
kinh tế, xã hội của địa phương. Bên cạnh đó
vẫn còn một số tổ chức sau khi được giao đất,
cho thuê đất chưa phát huy được hiệu quả sử
dụng đất.
Nguyễn Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 145 - 149
149
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố
Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo thống kê
đất đai năm 2012.
2. Sở TN&MT tỉnh Thái Nguyên, Kết quả giao đất,
cho thuê đất cho các tổ chức trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên năm 2010, 2011, 2012.
3. UBND thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái
Nguyên, Báo cáo QH tổng thể phát triển KT-XH
TP Thái Nguyên đến năm 2020.
4. UBND thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái
Nguyên, Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội năm 2010, phương hướng nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội năm 2011.
5. UBND thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái
Nguyên, Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội năm 2011, phương hướng nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội năm 2012.
SUMMARY
EVALUATION OF LAND ASSIGNMENT AND LAND LEASE
OF ORGANIZATIONS IN THAI NGUYEN CITY
Nguyen Thuy Linh1*, Pham Van Hai1,
Nguyen Tien Dong1, Luong Van Hinh2 1College of Economics and Technology – TNU,
2College of Agriculture and Forestry - TNU
Thai Nguyen City is classified as the first class city in Viet Nam, the city is located in the central
of mountainous and midland of Northeast region. The city have offered priority policies to attract
enterprises and foreigns to invest. In order to improve the investiment environment, much of
administrative procedures have been improved to create the best opportunities for the investors.
From 2010 – 2012, there were 84 organizations with total area of 1.664.069,02 m2. During this
time, Thai Nguyen city people committee (CPC) have assigned land for four types of
organizations, namely state administration, social organizations, publis service and economic
organizations with the total area of 1.183.818,70 m2; Thai Nguyen CPC have also leased 61
economic organizations with total land area of 434.234,60 m2.
Key words: Organization, Land assignment, Land lease, Land use, Thai Nguyen City
Ngày nhận bài:28/1/2014; Ngày phản biện:25/2/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Duy Lam – Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật - ĐHTN
* Tel: 0986704654; Email:rlinh0909@gmail.com
Nguyễn Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 145 - 149
150
Đỗ Quang Quý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 151 - 156
151
VIỆT NAM HƯỚNG TỚI BẢO HIỂM Y TẾ TOÀN DÂN
Đỗ Quang Quý1*, Trân A Hùng2
1Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh – ĐH Thái Nguyên, 2Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
TÓM TẮT
Bảo hiểm y tế toàn dân là giải pháp hữu hiệu thực hiện chủ trương xã hội hóa y tế. Kinh nghiệm
thực hiện Bảo hiểm y tế toàn dân ở các nước: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, cũng
như ở các địa phương cho thấy, luật pháp bắt buộc thực hiện BHYT toàn dân; thời gian hoàn
thành BHYT toàn dân có khác nhau. Ở Việt Nam, chính sách BHYT đã triển khai hơn 20 năm, và
gần 4 năm thực hiện Luật BHYT đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, chính sách BHYT
còn một số tồn tại: Số người tham gia chưa nhiều; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lợi
và mức đóng BHYT… Để BHYT toàn dân đúng nghĩa, đúng lộ trình, theo chúng tôi cần giải
quyết tốt mối quan hệ của 3 đối tượng: đối tượng quản lý quỹ, đối tượng cung cấp dịch vụ y tế, và
đối tượng tham gia.
Từ khóa: Bảo hiểm y tế; Bảo hiểm y tế toàn dân; chính sách Bảo hiểm y tế; Luật Bảo hiểm y tế;
kinh nghiệm Bảo hiểm y tế
BẢO HIỂM Y TẾ*
Khái niệm Bảo hiểm y tế (BHYT), có nhiều
quan điểm. Tuy nhiên, theo Từ điển bách
khoa Việt Nam I xuất bản năm 1995, trang
151 thì "BHYT là loại bảo hiểm do Nhà nước
tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp
của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để
chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chữa bệnh
cho nhân dân" [7]. Cũng như hầu hết các quốc
gia trên thế giới, BHYT là một nội dung thuộc
an sinh xã hội và là loại hình bảo hiểm phi lợi
nhuận, nhằm đảm bảo chi phí y tế cho người
tham gia khi gặp rủi ro, ốm đau, bệnh tật.
Theo Luật BHYT do Quốc hội ban hành ngày
14/11/2008, BHYT là hình thức bảo hiểm
được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức
khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà
nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có
trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật
[1]. Về cơ bản, đó là một cách dành dụm một
khoản tiền trong số tiền thu nhập của mỗi cá
nhân hay mỗi hộ gia đình để đóng vào quỹ do
Nhà nước đứng ra quản lý, nhằm giúp mọi
thành viên tham gia quỹ có ngay một khoản
tiền trả trước cho các cơ sở cung cấp dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, khi người tham gia không
may ốm đau phải sử dụng các dịch vụ đó,
mà không phải trực tiếp trả chi phí khám
* Tel: 0912 290326
chữa bệnh. Cơ quan bảo hiểm xã hội sẽ
thanh toán khoản chi phí này theo quy định
của Luật BHYT.
BHYT là một trong những chính sách an sinh
xã hội quan trọng, là cơ chế tài chính vững
chắc giúp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
nhân dân. Thực hiện BHYT sẽ tạo mọi điều
kiện để mọi người dân được chăm sóc sức
khỏe. Đây là quan điểm nhất quán của Nhà
nước ta hướng tới thực hiện công bằng trong
chăm sóc sức khỏe, tiến tới BHYT toàn dân.
BẢO HIỂM Y TẾ TOÀN DÂN
Bảo hiểm y tế toàn dân, là chương trình bảo
hiểm nhằm đảm bảo cho tất cả mọi người dân
được tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản
(tăng cường sức khỏe, dự phòng, điều trị và
phục hồi chức năng với chi phí hợp lý). Nói
cách khác, BHYT toàn dân là mọi người dân
đều được quyền tham gia và được bảo vệ bởi
hệ thống BHYT. BHYT toàn dân có nghĩa là
tất cả mọi người có thể tiếp cận dịch vụ y tế
chất lượng mà không cần phải lo sợ tới gánh
nặng từ tài chính mang lại.
Theo quan điểm của Tổ chức Y tế thế giới
(WHO), vấn đề BHYT toàn dân phải được
tiếp cận đầy đủ trên cả ba vấn đề về chăm sóc
sức khỏe toàn dân: Bao phủ về dân số, tức là
tỷ lệ dân số tham gia BHYT; Bao phủ gói
quyền lợi về BHYT, tức là phạm vi dịch vụ y
Đỗ Quang Quý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 151 - 156
152
tế được đảm bảo; Bao phủ về chi phí hay mức
độ được bảo hiểm để giảm mức chi trả từ tiền
túi của người bệnh.
Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế điều kiện kinh
tế - xã hội của Việt Nam hiện nay, vấn đề
thực hiện BHYT toàn dân hướng tới việc gia
tăng tỷ lệ dân số tham gia BHYT được xác
định là mục tiêu ưu tiên hàng đầu.
KINH NGHIỆM THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y
TẾ TOÀN DÂN
Ở một số nước
Hàn Quốc, vào những năm 50 thế kỷ trước,
ngay sau khi hết chiến tranh, mặc dù ở thời
điểm cực kỳ khó khăn song Chính phủ Hàn
Quốc xác định càng khó khăn càng sớm phải
thực hiện BHYT toàn dân để mọi người có
thể chia sẻ cho nhau lúc khó khăn ốm đau,
bệnh tật. Hàn Quốc đã kiên trì thực hiện lộ
trình 12 năm để đạt được BHYT toàn dân.
Chính sách BHYT toàn dân của Hàn Quốc đã
phát huy tác dụng tích cực góp phần ổn định
an sinh xã hội. Hiện nay, Hàn Quốc đã thành
công trong việc bao phủ BHYT toàn dân gần
100% dân số [8].
Singapore, tài chính cho y tế triệt để áp dụng
nguyên tắc phát huy trách nhiệm cá nhân,
Nhà nước đảm bảo các dịch vụ y tế thiết yếu,
cá nhân đóng góp chi phí dịch vụ y tế cao.
Singapore áp dụng chương trình tiết kiệm y tế
bắt buộc (Medisave) từ năm 1984, nhằm giúp
cá nhân tiết kiệm tiền cho chi phí y tế. Theo
Medisave, mỗi người lao động phải nộp vào
tài khoản y tế cá nhân 6 – 8% lương và được
sử dụng nguồn tiền này cho bản thân và người
thân khi khám chữa bệnh. Mỗi người được tự
do lựa chọn người cung ứng dịch vụ và tự trả
chi phí khám chữa bệnh cho bệnh viện từ tài
khoản y tế cá nhân của mình. Tuy nhiên, tài
khoản y tế cá nhân không thể đủ trang trải chi
phí y tế lớn do không có sự san sẻ rủi ro theo
nguyên lý bảo hiểm. Do đó 1990, Chính phủ
Singapore triển khai chương trình BHYT
mang tên Medishield. Đây là chương trình
BHYT bán tự nguyện. Tiền đóng BHYT lấy
từ tài khoản y tế cá nhân được trích chuyển tự
động bởi Chính phủ, trừ trường hợp cá nhân
tự làm đơn đề nghị không tham gia. Người
tham gia bảo hiểm nộp 20% cùng chi trả và
phải nộp thêm một khoản tiền đương nhiên
mỗi khi đi khám bệnh. Để tránh lạm dụng
quỹ, pháp luật BHYT Singapore quy định
khoản tiền phải nộp này khá cao. Mức đóng
của khoản tiền này được điều chỉnh để mỗi
năm có không quá 10% tổng số lượt điều trị
nội trú xin thanh toán từ quỹ này và khống
chế thêm bởi trần thanh toán chi phí nội trú là
không quá 120 đô la Singapore/ngày điều trị.
Như vậy, chương trình BHYT bán tự nguyện
Medishield là sự bổ sung không thể thiếu cho
chương trình tiết kiệm y tế Medisave [4].
Nhật Bản là quốc gia châu Á đầu tiên ban
hành Luật BHYT từ năm 1922. Tiếp đó, năm
1938 Nhật Bản ban hành Luật BHYT quốc
gia, năm 1939 ban hành Luật BHYT cho
người lao động, Luật BHYT cho ngư dân và
đến năm 1961, Nhật Bản thực hiện BHYT
cho toàn dân [5]. Đối tượng tham gia BHYT
theo quy định của pháp luật Nhật Bản bao
gồm: những người làm công ăn lương, lao
động tự do, nông dân và người không có nghề
nghiệp. Tuy nhiên, pháp luật BHYT còn có
những quy định phù hợp dành riêng cho từng
đối tượng: BHYT cho người lao động được
thực hiện theo nơi làm việc; BHYT quốc gia
được thực hiện theo vị trí địa lý. Nguồn quỹ
BHYT được hình thành từ sự đóng góp của
người lao động, chủ sử dụng lao động và tài
trợ của Nhà nước. Trách nhiệm đóng BHYT
được thực hiện theo nguyên tắc mức phí đóng
BHYT được chia đều, người lao động đóng
50%, chủ sử dụng lao động đóng 50%. Luật
BHYT Nhật Bản xác định riêng hai loại quỹ
cho các đối tượng để có sự hỗ trợ cho những
đối tượng yếu thế. Quỹ BHYT quốc gia áp
dụng cho lao động tự do, nông dân và người
không có nghề nghiệp. Nhà nước bảo trợ
nhiều hơn cho loại quỹ này, vì đối tượng của
quỹ thường có thu nhập thấp và không ổn
định. Quỹ BHYT của người làm công ăn
lương, đây là đối tượng có thu nhập thường
xuyên và ổn định. Luật BHYT Nhật Bản quy
định bệnh nhân BHYT phải thực hiện trách
nhiệm cùng chi trả. Quy định này nhằm tăng
thêm chi phí cho quỹ BHYT, đồng thời hạn
chế sự lạm dụng quỹ từ phía người thụ
hưởng. Mức cùng chi trả phụ thuộc vào đối
tượng hoặc nhóm đối tượng. Cụ thể: người
Đỗ Quang Quý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 151 - 156
153
lao động tự do trả 30%, công chức trả 20%,
người lao động hưởng lương trả 10% chi phí
khám chữa bệnh.
Thái Lan, từ năm 1975 đến năm 2001, Chính
phủ đã thực hiện BHYT cho nhóm người
nghèo và nhóm người bị thiệt thòi. Đến năm
1981, Chính phủ triển khai chương trình cấp
thẻ cho người có thu nhập thấp (LIC) đến
những người có thu nhập hàng tháng dưới
1.000 baht/tháng. Năm 1983, chương trình
LIC mở rộng đến những người già trên 60
tuổi. Vào năm 1993, LIC được mở rộng đến
trẻ em dưới 12 tuổi và các lãnh đạo tôn giáo.
Với việc ngày càng mở rộng đối tượng, đến
tháng 4 năm 2002 Thái Lan đã thực hiện
thành công BHYT toàn dân.
Ở một số địa phương
Thành phố Hà Nội, trong hai ngày 3/3 và
4/3/2014, đoàn Đại biểu Quốc hội tổ chức
Hội nghị lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Bảo hiểm y tế. Đại diện các sở ban ngành,
quận huyện và các bệnh viện tại Hà Nội tham
gia góp ý vào dự thảo luật. Tại hội nghị, đa số
ý kiến cho rằng, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung
Luật Bảo hiểm y tế cho phù hợp với tình hình
thực tế hiện nay; đề nghị nên quy định Bảo
hiểm Y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10/3/2014 Ủy
ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội phối
hợp với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại
Việt Nam đã tổ chức hội thảo “Đại biểu dân
cử với chính sách pháp luật về bảo hiểm y tế.”
Tại hội thảo, các đại biểu cho rằng, việc thực
hiện bảo hiểm y tế toàn dân là rất cần thiết,
phù hợp với tình hình chung và cần quy định
là hình thức bắt buộc.
Kinh nghiệm các nước, cũng như ở một số địa
phương cho thấy hầu hết luật pháp bắt buộc
thực hiện BHYT toàn dân; đối tượng được
mở rộng dần. Vì thế, thời gian hoàn thành
BHYT toàn dân có khác nhau.
THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y TẾ TOÀN DÂN
Ở VIỆT NAM
Về Chính sách, pháp luật
Chính sách BHYT của Việt Nam được bắt
đầu thực hiện từ ngày 15/8/1992, Chính phủ
ban hành Điều lệ BHYT kèm theo Nghị định
299/HĐBT. Từ khi ra đời Điều lệ BHYT đầu
tiên, nhiều nghị định và các thông tư hướng
dẫn mới đã được ban hành nhằm điều chỉnh,
sửa đổi chính sách BHYT, thể hiện sự quan
tâm của Nhà nước trong việc phát triển
BHYT. Các văn bản sửa đổi, bổ sung trên đã
làm cho chính sách BHYT ngày càng phù hợp
với sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng
thời kỳ của đất nước. BHYT toàn dân là một
nội dung quan trọng trong đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Các Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001),
lần thứ X (2006) và lần thứ XI (2011) của
Đảng đều nhất quán chủ trương “Tiến tới
BHYT toàn dân” và định hướng phải có lộ
trình thực hiện phù hợp, hiệu quả.
Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng,
lộ trình thực hiện BHYT toàn dân đã được
quy định trong Luật BHYT số 25/2008/QH12
do Quốc hội ban hành ngày 14/11/2008. Mục
tiêu đến năm 2020 phấn đấu đạt 80% dân số
tham gia BHYT đã được xác định bởi Nghị
quyết số 15-NQ/TW, ngày 01/6/2012 của Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khoá XI về một số vấn đề về chính sách xã
hội giai đoạn 2012-2020 và Nghị quyết số 21-
NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về
tăng cường lãnh đạo công tác BHXH. Đề án
thực hiện lộ trình BHYT toàn dân đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày
29/03/2013 với một lộ trình cụ thể, đó là:
“Tăng tỷ lệ dân số tham gia BHYT, tiếp tục
duy trì các nhóm đối tượng đã tham gia
BHYT đạt 100%, mở rộng các nhóm đối
tượng để đến năm 2015 trên 70% dân số tham
gia BHYT, đến năm 2020 trên 80% dân số
tham gia BHYT”. Mục tiêu của Đề án là mở
rộng phạm vi bao phủ của BHYT tiến tới
BHYT toàn dân nhằm chăm sóc sức khỏe
nhân dân theo hướng công bằng, hiệu quả,
chất lượng và phát triển bền vững. Ngày
8/5/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định số 705/QĐ-TTg về việc nâng mức hỗ trợ
đóng BHYT cho một số đối tượng thuộc hộ
gia đình cận nghèo, bao gồm các ưu đãi về
BHYT cho hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo
thuộc vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc
biệt khó khăn.
Đỗ Quang Quý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 151 - 156
154
Những kết quả đạt đươc
Về đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế
Theo báo cáo của Bộ Y tế, trong những năm
qua, số người tham gia BHYT gia tăng nhanh
chóng. Từ khi Luật BHYT năm 2008 ra đời
đã mở rộng các đối tượng tham gia lên 25 đối
tượng, bao trùm hầu hết các tầng lớp nhân
dân. Và số người tham gia BHYT cũng gia
tăng (Bảng 1).
Kết quả cho thấy tỷ lệ dân số tham gia BHYT
tăng từ 60,27% (năm 2010), lên 64,65% (năm
2012), nhóm có tỷ lệ tham gia đạt 100% là
nhóm công chức viên chức hành chính sự
nghiệp, người hưu trí, người có công với cách
mạng. Nhóm có tỷ lệ tham gia cao gồm người
nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi. Nhóm có tỷ lệ
tham gia trung bình là học sinh sinh viên, đạt
83%. Nhóm có tỷ lệ tham gia thấp bao gồm:
Doanh nghiệp (53%), cận nghèo (32%), tự
nguyện (47%) [3].
Về tiếp cận dịch vụ y tế và quản lý quỹ
Trong những năm gần đây, số lượt người có
thẻ BHYT đi khám chữa bệnh tăng nhanh cả
về số lượng và tần suất tại tất cả các tuyến y
tế. Năm 2012, ước tính có 121 triệu lượt
người có thẻ BHYT đi khám chữa bệnh, tăng
gần 2,6 triệu lượt so với năm 2011. Tân suất
khám chữa bệnh tăng hàng năm, đặc biệt
là ở tuyến y tế cơ sở, đạt 2,1
lân/người/năm. Tham gia BHYT, mỗi
người dân đã đươc hưởng những quyền lơi
tiếp cận dịch vụ y tế từ nội trú, ngoại trú,
phục hồi chức năng, dự phòng, dịch vụ kỹ
thuật cao. Nguồn thu từ BHYT đã đóng góp
khoảng 80% tổng kinh phí phục vụ khám
chữa bệnh tại các bệnh viện, góp phần nâng
chất lượng khám chữa bệnh cho người dân.
Phần đóng góp của người dân chiếm khoảng
58% trong tổng thu BHYT. Tỷ lệ cùng chi trả
là 0% đối với đối tượng người có công với
cách mạng và trẻ em dưới 6 tuổi; 5% đối với
đối tượng người nghèo, người hưu trí, bảo trợ
xã hội; 20% đối với các đối tượng còn lại. Từ
năm 2010 đến nay, quỹ BHYT kết dư trên 10
ngàn tỷ đồng (Bảng 2).
BHYT Việt Nam sau hơn 20 năm, và gần 4
năm thực hiện Luật BHYT, đã khẳng định:
- Tính đúng đắn và phù hợp trong lựa chọn
chính sách tài chính y tế thông qua BHYT. Số
người tham gia BHYT tăng hàng năm và đã
mở rộng các đối tượng tham gia BHYT. Cùng
với chính sách bảo hiểm xã hội, BHYT đã
góp phần hình thành và phát triển mạng lưới
an sinh xã hội ở nước ta.
- Nguồn kinh phí từ BHYT đã góp phần quan
trọng, ổn định trong việc bảo đảm ngân sách
hoạt động của các bệnh viện và từng bước nâng
cao chất lượng dịch vụ của các cơ sở y tế.
Bảng 1: Số lượng người tham gia Bảo hiểm y tế giai đoạn 2010 – 2012
Chỉ tiêu 2010 2011 2012 Tốc độ phát triển (%)
11/10 12/11 Bq
Dân số (nghìn người) 86950 87840 91519 101,02 104,19 102,59
Số người tham gia BHYT (nghìn người) 52407 57982 59164 110,64 102,04 106,25
Tỷ lệ dân số tham gia (%) 60,27 66,01 64,65 - - -
Nguồn: [2]Báo cáo kết quả giám sát của UBTVQH về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y
tế giai đoạn 2009 – 2012, ngày 9/tháng 9/2013. Bảng 2: Thu, chi Bảo hiểm y tế giai đoạn 2010 – 2012
Chỉ tiêu 2010 2011 2012 Tốc độ phát triển (%)
11/10 12/11 Bq
Thu BHYT (tỷ đồng) 25581 29981 40237 117,20 134,21 125,42
Chi BHYT (tỷ đồng) 19686 25564 35584 129,86 139,20 134,45
Chi /Thu (%) 76,96 85,27 88,44 - - -
Nguồn: [2]-Báo cáo kết quả giám sát của UBTVQH về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y
tế giai đoạn 2009 – 2012, ngày 9/tháng 9/2013.
Đỗ Quang Quý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 151 - 156
155
- Với việc mở rộng cơ sở khám chữa bệnh
BHYT, cả công và tư, BHYT đã tạo thuận lợi
cho người bệnh trong việc lựa chọn cơ sở
khám chữa bệnh. Việc mở rộng khám bệnh,
chữa bệnh BHYT tại tuyến xã đã góp phần
củng cố và phát triển y tế cơ sở, nâng cao chất
lượng chăm sóc sức khoẻ ban đầu và khám
chữa bệnh thông thường tại tuyến y tế cơ sở.
- Chính sách BHYT đã góp phần vào thực
hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo và công
bằng xã hội, góp phần làm thay đổi nhận thức
của người dân trong việc lựa chọn các giải pháp
tài chính để chăm lo sức khỏe của bản thân.
Những bất cập thực hiện BHYT
Về tỷ lệ tham gia BHYT
Hiện vẫn còn hơn 30% dân số chưa tham gia
BHYT, trong đó có cả những người thuộc đối
tượng có trách nhiệm phải tham gia BHYT
theo quy định của pháp luật, người thuộc đối
tượng được Nhà nước hỗ trợ mức đóng
BHYT. Vẫn còn 18 tỉnh có tỷ lệ tham gia
BHYT dưới 60%, 4 tỉnh có tỷ lệ tham gia
BHYT dưới 50% [6]. Dù đã được Nhà nước,
các tổ chức quốc tế hỗ trợ từ 70 - 90% kinh
phí mua thẻ BHYT nhưng hiện mới có gần
1,7 triệu người/khoảng 6 triệu người cận
nghèo tham gia BHYT. Nhóm học sinh - sinh
viên bắt buộc phải tham gia BHYT theo luật
định nhưng tỉ lệ tham gia mới đạt 70%. Nhóm
đối tượng thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có tới
20 triệu người cũng có tỷ lệ tham gia BHYT ở
mức thấp.
Nguyên nhân được nhận định là từ chính sách
pháp luật đến cách thức tổ chức thực hiện như: Thiếu những quy định chặt chẽ, rõ ràng
và đủ mạnh trong Luật BHYT và các văn bản dưới Luật; việc tuân thủ pháp luật về BHYT
và phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong tổ chức thực hiện Luật BHYT còn hạn
chế; công tác truyền thông, tuyên truyền chưa đáp ứng yêu cầu; khả năng đáp ứng, tiếp cận
dịch vụ y tế và chất lượng khám chữa bệnh chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chăm
sóc sức khỏe của nhân dân; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của địa phương còn
thiếu chặt chẽ trong việc triển khai thực hiện
chính sách BHYT. Nhiều ý kiến cho rằng, việc tham gia BHYT ở nước ta đang theo tâm
lý ngược chiều: chỉ khi ốm hoặc sắp ốm, người dân mới thấy xuất hiện nhu cầu mua
thẻ BHYT. Mua BHYT chỉ có lợi khi người bệnh mắc bệnh nặng, nan y, chi phí điều trị
cao. Còn nếu cần khám chữa bệnh mang tính chất kiểm tra sức khỏe hoặc bệnh thông
thường thì người bệnh sẵn sàng chi trả bằng tiền túi để tránh phải chờ đợi
Về chất lượng khám chữa bệnh
Chất lượng khám chữa bệnh BHYT ở tuyến
dưới chưa đáp ứng yêu cầu do hạn chế về
nhân lực chuyên môn và kỹ thuật y tế, gây
quá tải trong khám chữa bệnh BHYT ở các
bệnh viện tuyến trên; tinh thần thái độ và y
đức của cán bộ y tế chưa được cải thiện ở
nhiều nơi, tạo tâm lý lo ngại đối với người
tham gia BHYT. Vẫn còn tồn tại tình trạng
chênh lệch giá thuốc cùng loại giữa các bệnh
viện trong tỉnh, giữa các tỉnh, giữa bệnh viện
với thị trường, tình trạng không công bằng về
chi trả quỹ BHYT cho mỗi ca bệnh ở các
bệnh viện cùng hạng; tình trạng chênh lệch
quá nhiều về tần suất khám chữa bệnh, có nơi
người có thẻ BHYT bình quân sử dụng 3 - 4
lần đi khám chữa bệnh/năm, song có nơi chưa
đến 1 lần/năm. Công tác quản lý cũng như áp
dụng công nghệ thông tin nhằm cải tiến thủ
tục cho người bệnh còn hạn chế. Tình trạng
sai thông tin trên thẻ, cấp chậm, trùng thẻ
BHYT ở nhiều tỉnh với số lượng khá lớn gây
khó khăn cho người có thẻ cũng như lãng phí
ngân sách; thủ tục khám chữa bệnh, thanh
toán BHYT rườm rà, chậm cải tiến…
Thực tế cho thấy, việc cung ứng và chất
lượng dịch vụ còn hạn chế, nhất là ở tuyến cơ
sở. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và cán
bộ chuyên môn chưa đáp ứng. Tình trạng quá
tải còn khá phổ biến, nhất là ở các cơ sở tuyến
tỉnh, tuyến Trung ương và tình trạng chuyển
tuyến khó kiểm soát. Chất lượng khám, chữa
bệnh BHYT, thủ tục hành chính, phân tuyến
kỹ thuật chưa phù hợp.
Tóm lại, bên cạnh những kết quả đã đạt được,
quá trình thực hiện chính sách BHYT còn một
số tồn tại, bất cập sau:
Đỗ Quang Quý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 151 - 156
156
- Đối tượng tham gia BHYT đã mở rộng
nhưng số người tham gia chưa nhiều, mức độ
bao phủ BHYT trong dân số chưa cao, đối
tượng tham gia BHYT hiện tại chủ yếu là
diện bắt buộc. Chưa giải quyết được một số
vấn đề, nhất là trong việc bắt buộc sự tham
gia đầy đủ của các nhóm đối tượng hay của
các chủ sử dụng lao động.
- Một số quy định về quyền lợi của người
tham gia BHYT chưa rõ ràng. Nổi cộm hiện
nay là những vấn đề liên quan đến phạm vi
quyền lợi của người tham gia BHYT; quy
trình thủ tục trong khám chữa bệnh; chuyển
tuyến, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa
bệnh bằng BHYT…
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền
lợi và mức đóng BHYT khi mở rộng phạm vi
bao phủ và quyền lợi, nhất là với các nhóm
được ngân sách nhà nước hỗ trợ và nhóm
tham gia BHYT tự nguyện, ảnh hưởng đến sự
an toàn của quỹ BHYT.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách,
pháp luật BHYT chưa mạnh, chưa đồng bộ,
thiếu tính hấp dẫn; sự phối hợp, hợp tác giữa
BHXH với cơ sở khám chữa bệnh còn hạn
chế, thiếu sự hợp tác vì mục tiêu chung là
công bằng, hiệu quả, cải thiện chất lượng điều
trị và thoả mãn sự hài lòng của người bệnh
BHYT.
Tóm lại, nghiên cứu kinh nghiệm BHYT toàn
dân của các nước, cũng như thực tế ở Việt
Nam cho thấy để BHYT toàn dân đúng nghĩa,
đúng lộ trình, theo chúng tôi cần giải quyết tốt
mối quan hệ của 3 đối tượng chính: đối tượng
quản lý quỹ, đối tượng cung cấp dịch vụ y tế,
và đối tượng tham gia BHYT./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật BHYT số 25/2008/QH12 ngày 14/11/2008
2. Báo cáo kết quả giám sát của UBTVQH về việc
thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế
(BHYT) giai đoạn 2009 – 2012, ngày 9/tháng 9/2013
3. Phan Văn Toàn, Lộ trình/Chiến lược tiến tới
BHYT toàn dân giai đoạn 2012 - 2015 và 2020,
Tài liệu Hội thảo tập huấn "Tìm hiểu các chiến
lược tăng cường tiếp cận thuốc cứu mạng" do
Trung tâm Hỗ trợ sáng kiến phát triển cộng đồng
(SCDI) tổ chức ngày 27 - 28/8/2013
4. Tạp chí bảo hiểm xã hội số 8 năm 2007
5. Tetsuo Fukawa (2002), Public Health
Insuarance in Japan, World Bank Institute,
Washington, D.C.
6. Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, 1995.
7. www.baohiemxahoi.gov.vn
SUMMARY
VIETNAM TOWARDS GLOBAL POPULATION HEALTH INSURANCE
Do Quang Quy1*, Tran A Hung2
1College of Economics and Business Administration - TNU, 2Land development center in Van Don district, Quang Ninh province
The universal health insurance is an effective solution to implement the socialization of health
care. Experience implementing universal health insurance in other countries: Japan, South Korea,
Singapore, Thailand, as well as at the local shows, enforce the law of universal health insurance,
the completion time of universal health insurance different people. In Vietnam, health insurance
policies have developed over 20 years, and nearly 4 years of implementation of the health
insurance Law has made positive changes . However, some health insurance policies also exist:
The number of participants is not much; not resolve the relationship between benefits and health
insurance premiums ... For true universal health insurance, the roadmap, according to our need to
address the relationship of three objects: objects funds management , supply objects medical
services, and audience participation.
Keywords: Health insurance; Universal health insurance; Health insurance policies; Health
Insurance Act; Health insurance experience
Ngày nhận bài:31/3/2014; Ngày phản biện:29/4/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Đàm Thanh Thủy – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 290326
Phạm Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 157 - 163
157
NÂNG CAO KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN
ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Phạm Thị Hồng*, Nguyễn Bích Ngọc,Phạm Quang Tùng Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Có thể nói rằng kỹ năng mềm ngày càng trở nên quan trọng trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Đối
với sinh viên, trình độ kiến thức là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Ngoài kiến thức chuyên môn,
sinh viên cần phải nâng cao kỹ năng mềm cho bản thân mình. Tuy nhiên không phải tất cả các em
đều ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này và chủ động rèn luyện để nâng cao kỹ năng mềm
cho mình. Để đánh giá được thực trạng kỹ năng mềm của sinh viên ĐH Kinh tế và Quản trị kinh
doanh, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn, điều tra 260 sinh viên các khóa gồm k7, k8, k9,
k10 của trường trong năm 2013, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng mềm cho
sinh viên, giúp các em có thể sớm tiếp cận với môi trường làm việc mới một cách hiệu quả nhất.
Từ khóa: sinh viên, kỹ năng mềm, thực trạng, nguyên nhân tác động, giải pháp, ĐH Kinh tế và
Quản trị Kinh doanh
MỞ ĐẦU*
Theo V.A Kruchetxki thì “kỹ năng là thực
hiện một hành động hay một hoạt động nào
đó nhờ sử dụng những thủ thuật, những
phương thức đúng đắn” [1;88]. Ông cho
rằng: chỉ cần nắm vững phương thức hành
động là con người đã có kỹ năng, không cần
xem xét đến kết quả của hành động. Còn
trong Trong Từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng
chủ biên định nghĩa: “Kỹ năng là năng lực
vận dụng có kết quả tri thức về phương thức
hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực
hiện những nhiệm vụ tương ứng” [2; 132]. Kỹ
năng được chia thành hai nhóm: kỹ năng cứng
và kỹ năng mềm.
Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ
năng quan trọng trong cuộc sống con người
như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm
việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian,
thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và
đổi mới… là những vấn đề thường không
được học trong nhà trường, không liên quan
đến kiến thức chuyên môn, không thể sờ nắm,
không phải là kỹ năng cá tính đặc biệt mà phụ
thuộc chủ yếu vào cá tính của từng người [8].
Cuộc sống hiện đại với môi trường làm việc
* Tel: 0948 104288, Email: Phamhongtn@gmail.com
ngày càng năng động, nhiều sức ép và tính
cạnh tranh thì kỹ năng mềm là một yếu tố
không thể thiếu đặc biệt với các bạn trẻ.
Tuy nhiên nhiều sinh viên mới tốt nghiệp ra
trường còn thiếu kinh nghiệm thực tế, yếu về
các kỹ năng nghề nghiệp và các kỹ năng mềm
để thích nghi với môi trường làm việc mới.
Trong hội nghị "Lấy ý kiến doanh nghiệp về
dự thảo chiến lược phát triển dạy nghề giai
đoạn 2011-2020”- do tổng cục dạy nghề (Bộ
LĐ- TB& XH) tổ chức, phần lớn doanh
nghiệp cho rằng nhân lực trình độ cao ở nước
ta còn thiếu, trong đó kỹ năng mềm và ngoại
ngữ vẫn còn rất yếu. Do đó nhiều sinh viên ra
trường mất đi cơ hội việc làm tốt và doanh
nghiệp tuy tuyển được người, nhưng lại mất
khá nhiều thời gian để đào tạo lại.
Trong những năm gần đây, cụm từ "kỹ năng
mềm" đã được nhắc đến nhiều hơn trong môi
trường đại học, nhưng không phải trường đại
học nào cũng có những chính sách đào tạo
đặc biệt về kỹ năng mềm cho sinh viên.
Trường ĐH Kinh tế và Quản trị kinh doanh-
ĐH Thái Nguyên cũng là một trong những
trường giành sự quan tâm tới sự phát triển các
kỹ năng cho sinh viên thông qua việc chuyển
đổi hình thức học tập theo cơ chế tập trung
sang hình thức đào tạo theo tín chỉ. Tuy nhiên
Phạm Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 157 - 163
158
nhà trường chưa có một môn học chính thức
nào về kỹ năng mềm cho sinh viên. Chỉ có
một số em chủ động tìm hiểu thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, hoặc tự đăng
ký học các khóa học về kỹ năng mềm của một
số công ty đào tạo. Nhưng việc học này cũng
không có hệ thống và không có cơ hội được
ứng dụng nhiều.
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tương nghiên cứu
Kỹ năng mềm của sinh viên đại học Kinh tế
và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Trường ĐH Kinh tế và Quản
trị Kinh doanh Thái Nguyên
- Về thời gian: Năm 2013.
- Về nội dung: Kỹ năng mềm của sinh viên ĐH
Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận: Tiếp cận định tính và
định lượng ; tiếp cận cá biệt và so sánh; tiếp
cận nhóm
- Phương pháp nghiên cứu:
+Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập
thông tin thứ cấp từ các xuất bản phẩm, báo
cáo tổng hợp của Phòng CTCT- HSSV,
nguồn số liệu thống kê về vấn đề dạy và học
kỹ năng mềm. Thu thập số liệu sơ cấp bằng
bảng hỏi bán cấu trúc, phỏng vấn sâu và quan
sát. Đề tài đã tiến hành phát phiếu điều tra
cho 260 sinh viên thuộc các khóa k7, k8, k9,
k10 trong năm 2013 và phỏng vấn cán bộ
quản lý, giảng viên trong trường. Cỡ mẫu
được lựa chọn theo công thức Slovin:
n = N/(1+N.e2)
Trong đó: n là cỡ mẫu, N là tổng số sinh viên
các khóa gồm 5783 em gồm (k7: 1333 em,
k8: 1748 em; k9: 1271 em; k10: 1431 em). e
là khả năng sai số. Mức sai số được chọn
trong khảo sát này là 6% .
+ Phương pháp xử lý số liệu: Tổng hợp và xử
lý số liệu: sử dụng máy tính và phần mềm
Excel. Phương pháp phân tích số liệu: phương
pháp thống kê mô tả, phương pháp so sánh,
tổng hợp.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thực trạng nhận thức của cán bộ quản lý,
giảng viên và sinh viên trường ĐH Kinh tế
và Quản trị kinh doanh về kỹ năng mềm
Thực trạng nhận thức của cán bộ quản lý,
giảng viên, sinh viên về tầm quan trọng của
kỹ năng mềm với sinh viên
Để đánh giá về nhận thức của cán bộ quản lý,
giảng viên và sinh viên về kỹ năng mềm,
nhóm nghiên cứu đã tiến hành phát phiếu điều
tra lấy ý kiến của cán bộ quản lý, giảng viên và
sinh viên trong trường về vấn đề này. Kết quả
điều tra được trích dẫn trong bảng 1.
Qua kết quả thống kê ở bảng 1 cho thấy, hầu
hết các đối tượng được điều tra đều thấy vai
trò quan trọng của việc giáo dục kỹ năng
mềm cho sinh viên hiện nay, thể hiện qua
việc: 60 % tất cả đối tượng được điều tra lựa
chọn mức rất quan trọng, 40% cán bộ quản lý
và giảng viên lựa chọn mức quan trọng.
Không có đối tượng được điều tra nào cho
rằng kỹ năng mềm đối với sinh viên là không
quan trọng. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận
sinh viên cho rằng kỹ năng mềm "ít quan
trọng" đối với họ (chiếm khoảng 3%) và
6.92% sinh viên được khảo sát cho rằng, vai
trò của kỹ năng mềm là "bình thường" với họ.
Kết quả này cho thấy vẫn còn có sinh viên
chưa thực sự quan tâm đến việc trang bị kỹ
năng mềm.
Thực trạng nhận thức của cán bộ quản lý,
giảng viên, sinh viên về vai trò của kỹ năng
mềm với sinh viên
Qua việc phát phiếu điều tra cho 260 sinh
viên và 30 cán bộ quản lý, giảng viên, dựa
trên phiếu điều tra thông tin, chúng tôi tổng
hợp lại kết quả như sau:
Phạm Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 157 - 163
159
Bảng 1: Nhận thức về tầm quan trọng của kỹ năng mềm đối với sinh viên
STT Các mức độ
CBQL, giảng viên Sinh viên
Số lương
(người)
Cơ cấu
(%)
Số lương
(người)
Cơ cấu
(%)
1 Không quan trọng 0 0 0 0
2 Ít quan trọng 0 0 8 3.08
3 Bình thường 0 0 18 6.92
4 Quan trọng 12 40 78 30
5 Rất quan trọng 18 60 156 60
Tổng số 30 100 260 100
(Nguồn: tổng hợp từ phiếu điều tra )
010203040506070
Không quan
trọng
Ít quan trọngBình thường Quan trọng Rất quan
trọng
Series1
Series2
Series1: cán bộ quản lý, giảng viên
Series2: sinh viên
Biểu đồ 1: Nhận thức về tầm quan trọng của kỹ năng mềm đối với sinh viên
Bảng 2: Vai trò của kỹ năng mềm đối với sinh viên
Stt Vai trò của kĩ năng mềm
đối với sinh viên
Cán bộ quản lý,
giảng viên Sinh viên
SL
(người)
Cơ cấu
(%)
SL
(người)
Cơ cấu
(%)
1 Nâng cao hiệu quả trong học tập của
sinh viên 27 89 220 84.6
2
Giúp sinh viên tự tin, năng động hơn
trong mọi hoàn cảnh (thuyết trình, giao
tiếp, xin việc...)
24 80 189 72.7
3 Giúp sinh viên đáp ứng yêu cầu của các
nhà tuyển dụng khi đi xin việc 18 62 179 68.8
4 Giúp dễ thăng tiến trong công việc sau này 12 42 155 59.6
5 Giúp tiết kiệm thời gian và sức lực 15 50 146 55.4
(Nguồn: tổng hợp từ phiếu điều tra )
Bảng 3: Mức độ nhu cầu được đào tạo, rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên
STT Các mức độ Số lương
(người)
Cơ cấu
(%)
1 Không mong muốn 6 2.3
2 Ít mong muốn 10 3.8
3 Bình thường 15 5.7
4 Mong muốn 80 30.8
5 Rất mong muốn 149 57.4
Tổng số 260 100
(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra )
Phạm Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 157 - 163
160
Biểu đồ 2: Nhu cầu được đào tạo, rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên
Kết quả ở bảng 2 cho thấy không có đối
tượng được điều tra nào không nhận ra được
vai trò của kỹ năng mềm đối với sinh viên.
Những ý nghĩa được sinh viên đánh giá với tỷ
lệ tương đối cao là: "Nâng cao hiệu quả trong
học tập" (84.6%), "giúp bản thân tự tin, năng
động hơn trong mọi hoàn cảnh" (72.7%), "đáp
ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng" (68.8%).
Những vai trò còn lại của kỹ năng mềm đối
với sinh viên tuy không được đánh giá cao
bằng những ý kiến trên, nhưng kết quả sự lựa
chọn cũng không phải là thấp. Điều đó cho
thấy sinh viên ĐH Kinh tế và Quản trị kinh
doanh đang rất cần có kỹ năng mềm làm hành
trang cho cuộc sống của mình.
Nhu cầu được đào tạo, rèn luyện kỹ năng
mềm của sinh viên ĐH Kinh tế và QTKD
Qua việc phát phiếu điều tra cho 260 sinh
viên, dựa trên phiếu điều tra thông tin, chúng
tôi tổng hợp lại kết quả ở bảng 3.
Bảng số liệu 3 cho thấy sinh viên ĐH Kinh tế
và Quản trị kinh doanh có nhu cầu được học
tập, rèn luyện kỹ năng mềm rất cao (trên
30.8% sinh viên chọn phương án "mong
muốn" và 57.4 % chọn phương án "rất mong
muốn"). Kết quả này cho thấy, sinh viên rất
cần có kỹ năng mềm bởi họ đã nhận thức
được tầm quan trọng và sự cần thiết của nó.
Số sinh viên không có nhu cầu được đào tạo
kỹ năng mềm chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Đây là
một vấn đề mà Nhà trường, Đoàn thanh niên,
Hội sinh viên, các thầy cô giáo cần lưu tâm để
có chính sách khuyến khích sinh viên tìm hiểu
và tạo môi trường thuận lợi để sinh viên có
thể rèn luyện, ứng dụng kỹ năng mềm trong
học tập, cuộc sống.
Một số nhận xét về kỹ năng mềm của sinh
viên trường ĐH Kinh tế và QTKD
Có nhiều cách phân loại kỹ năng mềm, nhưng
trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này
chúng tôi đề cập tới 5 kỹ năng mềm cơ bản
đối với sinh viên là: kỹ năng học và tự học,
kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng thuyết
trình, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết
vấn đề. Qua tổng hợp phiếu điều tra về thực
trạng 5 kỹ năng trên của sinh viên, chúng tôi
rút ra nhận xét như sau:
Ưu điểm
Nhìn chung sinh viên ĐH Kinh tế và Quản trị
Kinh doanh đã biết vận dụng một số kỹ năng
mềm của mình trong quá trình học tập, tham
gia hoạt động tập thể. Việc áp dụng hình thức
học tập, đào tạo theo tín chỉ đã tạo cho các em
tính tự giác, chủ động trong quá trình học.
Các em sinh viên từ năm thứ 2 do đã quen với
môi trường học tập tại bậc đại học nên biết áp
dụng phương pháp học và tự học tốt hơn so
với các sinh viên mới bước vào trường. Trong
các buổi thảo luận, làm việc theo nhóm, sinh
viên biết cách tổ chức, lãnh đạo nhóm để
hoàn thành nhiệm vụ mà các thầy cô giao
phó. Kỹ năng thuyết trình của sinh viên năm
thứ ba và năm thứ tư có sự tiến bộ hơn so với
sinh viên năm thứ nhất.
Các em sinh viên là thành viên của các đơn
vị, tổ đội, câu lạc bộ tình nguyện đều thể hiện
sự năng động, sáng tạo và nhiệt huyết của
2% 4%6%
31%57%
Không mong muốn
Ít mong muốn
Bình thường
Mong muốn
Rất mong muốn
Phạm Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 157 - 163
161
mình thông qua việc tự đứng ra tổ chức, xin
tài trợ cho các chương trình rất ý nghĩa như :
đêm hội của những chiến sĩ Tueba, áo ấm
mùa đông, hiến máu nhân đạo... Bên cạnh đó
đánh giá của một số doanh nghiệp đã tuyển
dụng sinh viên của trường ĐH Kinh tế và
Quản trị Kinh doanh cho biết: đa số sinh viên
tốt nghiệp đều có sự tự tin, bộc lộ được bản
lĩnh nghề nghiệp, một số sinh viên khá nhanh
nhẹn, năng động và có tinh thần cầu tiến.
Tồn tại, hạn chế
Tuy sinh viên ĐH Kinh tế và QTKD đã có ý
thức trong việc rèn luyện kỹ năng mềm, xong
số lượng sinh viên có kỹ năng tốt vẫn còn ít,
chủ yếu chỉ tập trung vào một vài nhóm sinh
viên chăm chỉ, nhiệt tình và năng động trong
lớp. Đa số sinh viên có kỹ năng học và tự học
chưa tốt, chưa chủ động tìm kiếm sách tham
khảo và tập trung đào sâu suy nghĩ về các vấn
đề mà thầy cô đưa ra thảo luận trên lớp.
Chính vì vậy, kết quả học tập của nhiều em
không cao. Và chính các em cũng thừa nhận
về vấn đề này khi kết quả điều tra cho thấy
trên 50% sinh viên được khảo sát có lập kế
hoạch cho công việc của mình nhưng lại trên
60% số sinh viên cho biết họ có rơi vào tình
trạng nhàn rỗi đến nhàm chán rồi lại bù đầu vì
công việc dồn dập, đặc biệt là trong vấn đề
học tập. Trong khi đó, kỹ năng thuyết trình của
sinh viên nhìn chung là yếu, chưa thể hiện sự
giao tiếp với người nghe, nếu có thì cũng chỉ tập
trung ở một số sinh viên nổi trội trong lớp.
Sinh viên ĐH Kinh tế và QTKD còn kém
năng động hơn rất nhiều so với sinh viên của
một số trường đại học lớn trong cả nước như
ít đặt câu hỏi lại cho giảng viên, ít chịu tư duy
về vấn đề đặt ra, hạn chế tra cứu tài liệu trên
thư viện để nâng cao kiến thức chuyên môn
cho mình.
Hoạt động phong trào của sinh viên trong các
tổ đội, câu lạc bộ chưa phong phú, sự sáng
tạo, táo bạo trong đột phá về ý tưởng còn hạn
chế do kỹ năng tư duy sáng tạo còn yếu.
Đối với sinh viên năm thứ ba và năm cuối, đa
số sinh viên chưa chủ động xác định định
hướng nghề nghiệp cho mình, cũng như chưa
chủ động tìm hiểu, luyện tập về những kỹ
năng phục vụ cho việc phỏng vấn nghề
nghiệp sau khi ra trường. Chính vì vậy tỷ lệ
sinh viên đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng
chưa cao, đa số các nhà tuyển dụng cho rằng
sinh viên còn thiếu kiến thức thực tế và yếu
về các kỹ năng mềm.
Nguyên nhân ảnh hưởng tới việc rèn luyện
kỹ năng mềm của sinh viên ĐH Kinh tế và
QTKD
- Nguyên nhân chủ quan
+ Còn một bộ phận sinh viên chưa nhận
thức được hết được tầm quan trọng của kỹ
năng mềm.
+ Ý thức rèn luyện kỹ năng mềm của đa số
sinh viên còn kém, không chủ động nắm bắt
cơ hội trong quá trình học tập và hoạt động
đoàn thể để nâng cao kỹ năng mềm cho bản
thân mình.
- Nguyên nhân khách quan
+ Môi trường rèn luyện kỹ năng mềm cho
sinh viên vẫn còn thiếu
+ Hoạt động đào tạo kỹ năng mềm của nhà
trường: Tuy trường ĐH Kinh tế và QTKD đã
chuyển hình thức đào tạo theo niên chế sang
đào tạo theo tín chỉ, nhưng nhà trường vẫn
chưa có một bộ phận chuyên trách nào phát
triển kỹ năng mềm cho sinh viên. Nhà trường
cũng không có một môn học riêng về kỹ năng
mềm trong chương trình đào tạo chính khóa.
+ Sự liên kết giữa nhà trường và doanh
nghiệp: So với một số trường đại học, cao
đẳng trong cả nước thì trường ĐH Kinh tế và
Quản trị kinh doanh vẫn chưa có sự liên kết
thật chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt
là các doanh nghiệp lớn ngoài tỉnh.
Một số giải pháp nâng cao kỹ năng mềm
cho sinh viên trường ĐH Kinh tế và QTKD
Giải pháp nhằm nâng cao ý thức rèn luyện
kĩ năng mềm của sinh viên
Giáo viên trực tiếp giảng dạy cần nhấn mạnh
về tầm quan trọng của kỹ năng mềm và việc
Phạm Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 157 - 163
162
rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên thông
qua phương pháp học tập, đồng thời hướng
dẫn sinh viên kỹ lưỡng về cách thức làm việc
nhóm, phương pháp thuyết trình, phương
pháp thảo luận trên lớp và phương pháp tự
học, tự nghiên cứu cho sinh viên.
Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên, Trung tâm
tư vấn và hỗ trợ sinh viên cần tăng cường tổ
chức những buổi hội thảo về kỹ năng mềm do
chính sinh viên trong trường tự tổ chức.
Tổ chức các buổi hội thảo, giao lưu với đại
diện các doanh nghiệp để sinh viên thấy rõ
được tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong
môi trường làm việc sau này. Tổ chức các
buổi giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm giữa sinh
viên trong trường với sinh viên các trường khác
ở trong và ngoài tỉnh về cách thức và phương
pháp học tập, rèn luyện kỹ năng mềm.
Giải pháp nhằm tạo môi trường cho sinh
viên được rèn luyện kĩ năng mềm
Đoàn thanh niên và Hội sinh viên của trường
có thể định hướng cho sinh viên thành lập
thêm một số mô hình câu lạc bộ tình nguyện
của sinh viên: như CLB tình nguyện về bảo
vệ môi trường, CLB tình nguyện phòng
chống tệ nạn xã hội, CLB Kỹ năng mềm,
CLB tổ chức sự kiện...với những hoạt động
phong phú và sôi nổi hơn. Tổ chức chương
trình tập huấn kỹ năng giành cho các bạn sinh
viên, giúp các em áp dụng lý thuyết vào thực
hành. Bên cạnh đó nhà trường tạo điều kiện,
khuyến khích các tổ đội, câu lạc bộ tình
nguyện trong trường tự đứng ra tổ chức các
chương trình của sinh viên. Đoàn Thanh niên
và Hội sinh viên cần tăng cường trao quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm cho sinh viên về các
chương trình của mình.
Giải pháp nhằm nâng cao sự liên kết giữa
doanh nghiệp và cơ sở đào tạo thích ứng với
sự phát triển của nền kinh tế
Trường ĐH Kinh tế và Quản trị Kinh doanh
cần chủ động tăng cường sự liên kết với các
doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đồng thời
phối hợp với các doanh nghiệp trong việc tư
vấn kỹ năng mềm cho sinh viên. Tổ chức các
chương trình "Ngày hội việc làm", "Tư vấn
kỹ năng phỏng vấn", kỹ năng nghề nghiệp
cho sinh viên đặc biệt là sinh viên năm cuối
trong đó có sự tham gia của các chuyên gia về
nhân sự, các công ty cung cấp nhân sự chất
lượng cao, đại diện doanh nghiệp trong và
ngoài tỉnh. Bên cạnh đó vấn đề đào tạo theo
yêu cầu của doanh nghiệp cũng đang là vấn
đề được nhiều trường đại học quan tâm, nhằm
đáp ứng nhu cầu tuyển dụng và thực tế làm
việc hiện nay.
Giải pháp về hoạt động đào tạo kỹ năng
mềm cho sinh viên của nhà trường
Trong thời gian tới việc nhà trường ngày càng
hoàn thiện và nâng cao hình thức đào tạo theo
tín chỉ, hình thức đào tạo này sẽ góp phần cải
thiện kỹ năng mềm cho sinh viên. Với những
bài học kinh nghiệm của một số trường đại
học trong và ngoài nước, trường ĐH Kinh tế
và Quản trị kinh doanh có thể xem xét để xây
dựng một đề án giảng dạy kỹ năng mềm cho
sinh viên hoặc nghiên cứu để xây dựng một
chương trình mới, đưa kỹ năng mềm vào
nhóm các môn học tự chọn. Để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực mà trường ĐH Kinh tế
và Quản trị kinh doanh cung cấp, nhà trường
có thể đưa ra tiêu chí chuẩn đầu ra mới trong
đó có yêu cầu sinh viên cần đạt được những
kỹ năng mềm cơ bản cần thiết nhất.
Trung tâm tư vấn, hỗ trợ sinh viên cần liên
kết chặt chẽ hơn nữa với nhiều doanh nghiệp
để tạo môi trường cho sinh viên được ứng
dụng kỹ năng mềm vào công việc thực tế.
Đồng thời thành lập một bộ phận chuyên
trách về đào tạo kỹ năng mềm thuộc trung
tâm để hỗ trợ các chương trình đào tạo kỹ
năng mềm cho sinh viên.
KẾT LUẬN
Nhìn chung sinh viên ĐH Kinh tế và Quản trị
Kinh doanh đã biết vận dụng một số kỹ năng
mềm của mình trong quá trình học tập, tham
gia hoạt động tập thể, hoạt động Đoàn, Hội do
nhà trường và các tổ chức xã hội phát động.
Trong bối cảnh hiện nay khi nhà trường đang
Phạm Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 157 - 163
163
áp dụng hình thức học tập, đào tạo theo tín
chỉ đã tạo cho các e tính tự giác, chủ động
trong quá trình học. Tuy sinh viên ĐH Kinh tế
và Quản trị Kinh doanh đã có ý thức trong
việc rèn luyện kỹ năng mềm, xong số lượng
sinh viên có kỹ năng tốt vẫn còn ít, chủ yếu
chỉ tập trung vào một vài nhóm sinh viên
chăm chỉ, nhiệt tình và năng động trong lớp.
Chính vì vậy đề tài đề xuất giải pháp nâng cao
kỹ năng mềm cho sinh viên ĐH Kinh tế và
Quản trị kinh doanh như sau: nâng cao ý thức
rèn luyện kĩ năng mềm của sinh viên, tạo môi
trường cho sinh viên được rèn luyện kĩ năng
mềm, nâng cao sự liên kết giữa doanh nghiệp và
cơ sở đào tạo thích ứng với sự phát triển của
nền kinh tế và giải pháp về chính sách đào tạo
kỹ năng mềm cho sinh viên của nhà trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kruchexki.V.A , 1982, Những cơ sở tâm lý học
sư phạm, Nxb Giáo dục.
2. Vũ Dũng (chủ biên) (2000), Từ điển Tâm lý
học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
3. Nguyễn Thanh Bình, 2008, Giáo dục Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới, Nxb ĐH Sư Phạm
4. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh
doanh 25 (2009), Mô hình đào tạo gắn với nhu
cầu của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, Phùng
Xuân Nhạ, Trường ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà
Nội.
5. Adam Khoo, 2007, Tôi tài giỏi, bạn cũng thế,
Nxb Phụ nữ
6. http://vi.wikipedia.org
7.http://tamviet.edu.vn
8. http://kynangsong.org
9. http://kynangmem.com
10. www.saga.vn
SUMMARY
IMPROVING SOFT SKILLS FOR THAI NGUYEN UNIVERSITY
OF ECONOMICS AND BUSINESS ADMINISTRATION' STUDENTS
Pham Thi Hong*, Nguyen Bich Ngoc, Pham Quang Tung College of Economics and Business Administration - TNU
It can be say that soft skill becomes more and more important in our life. Knowledge is necessary
condition but it is not sufficient condition for student. In addition, students need to enhance the
soft skills for their self. However, not all of students have awareness of the importance of this
issue, and practice to develop their skills. To evaluate the circumstances of student's soft skills
at Thainguyen university of Economics and Business Administration, a survey that was conducted
by my research group included participation from 260 students of Thainguyen university
(including courses K7, K8, 98, K10, from the freshmen to the final students). During the time of
doing this survey, observation and summarization, my group hopes that the solutions are proposed
hereinafter will help student gain and improve their soft skills and take better approach of
workplace success.
Key words: student, soft skill, the fact, cause and effect, solution, Thainguyen university of
Economics and Business Administration
Ngày nhận bài:03/3/2014; Ngày phản biện:14/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Yến – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0948 104288, Email: Phamhongtn@gmail.com
Phạm Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 157 - 163
164
Hoàng Văn Hải và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 165 - 170
165
AN OVERALL VIEW OF A FIRM’S INTERNATIONALIZATION PROCESS
Hoang Van Hai*, Hoang Thi Thu Hang College of Economics and Business Administration - TNU
SUMMARY In an era of globalization today, more and more companies try to internationalize since they are
aware of the importance of internationalization on the growth and expansion of their capacity and
resource generation. In the attempt to create an overall picture of what the process might be, the
paper provides a set of basic information of a firm’s internationalization process, including the
most prevailing definitions of the process, advantages a firm can gain from internationalization,
the model of internationalization, determining factors for a firm’s internationalization, and
obstacles preventing firms from internationalizing.
Keywords: internationalization, internationalizing firms, host countries, managers, resources
INTRODUCTION*
Vietnam has being integrated global economy
widely and deeply. It is shown through the
integration of the country into ASEAN in
1995, WTO in 2007, participating in Trans-
Pacific Partnership (TPP), negotiating the free
trade agreement with EU as well as Russian,
Belarus, Kazhastan.... With Vietnam’s
business community, internationalization,
therefore, is inevitable. In the effort of
providing a primary understanding of what
the process could be, the paper introduces a
set of basic information related to firms’
internationalization. Of course, these
information can be found in corresponding
literatures, yet they are scattered in lots of
papers instead of one, thus the paper is just a
collection of basic things relative to the
process and hopefully, it will offer readers an
overview of firms’ internationalization within
reasonable amount of time. The paper content
is presented through the following order:
definition of firms’ internationalization
process, advantages a firm can gain from
internationalization, the model of
internationalization, determining factors for a
firm’s internationalization, and obstacles
preventing firms from internationalizing.
DEFINITION OF INTERNATIONALIZATION
PROCESS
The term internationalization was first
introduced in 1920s as the organization
* Tel: 0912 697605, Email: hoanghai@tueba.edu.vn
started creating cross border relation within
the market economies. There is no consensus
among researchers on the definition of firms’
internationalization. To provide a
fundamental concept of what
internationalization process might be, two
following definitions are worth consulting
According to Johanson and Vahlne (1977: 23)
“internationalization of a firm is a process in
which the firms gradually increase
international involvement”[14].
In the same subject, Lehtinen and Penttinen
(1999: 13) indicated that “Internationalization
of a firm of a firm concerns the relationships
between the firm and its international
environment, derives its origin from the
development and utilization process of the
personnel’s cognitive and attitudinal readiness
and concretely manifested in the development
and utilization process of different
international activities, primarily inward,
outward and cooperative operations” [17].
WHY DO FIRMS HAVE TO
INTERNATIONALIZE?
Internationalization offers internationalizing
firms lots of advantages. Of these benefits,
three most prominent advantages are:
Internationalizing firms may be able to select
possible strategies to minimize their costs in
particular locations such as labor intensive
activities in low-wage countries or software
development in India [9][22],
Hoàng Văn Hải và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 165 - 170
166
Internationalizing firms can make use of cross-
national difference dynamically by shifting
production or locations in response to changes
in wage, exchange and tariff rates [20].
Internationalizing firms are able to gain
tremendous learning opportunities through
satisfying various tastes of customers and
responding to different rivals in international
markets [16][26]. This learning can be
transferred to their other affiliates at
negligible additional costs, improving their
performance as a whole [20].
THE STAGES IN THE
INTERNATIONALIZATION
In the subsection, the Uppsala model, which
is developed by Johanson and Widersheim-
Paul in 1975 and then modified by Johanson
and Vahlne in 1977, is chosen to describe
stages of internationalization process since it
is the most accepted one regarding
internationalizing firms. This model describes
the process as slow, sequential and gradual. It
includes four following stages: sporadic
export, export modes, establishment of
foreign sales subsidiary, and foreign
production/manufacturing units [8].
Stage 1
This is a stage when a firm starts export into a
foreign market that has not been familiar
before. Since the firm has no information of
the country’s resource, no market experience
will be drawn.
Stage 2
The stage is marked with the firm’s
establishment of channel to export. Its
products are distributed via local distributors
in the concerned country. At the stage, the
firm consequently gains some superficial
knowledge of the market.
Stage 3
In the stage, the firm set up a sales subsidiary in
the concerned country. Its knowledge of the
market is broadened and the firm, as a result, is
easy to control its business in the country.
Stage 4
The stage is marked with the establishment of
the firm‘s manufacturing unit in the concern
country. Because of having deep knowledge
of the market, the firm itself starts
manufacture there.
Johansson and Vahlne (1990) indicated that
firms sometimes skip some stages and jump
to another stage. For instance, a firm can start
exports with the chosen country and neglect
stage 2 and directly establishes sales
subsidiary in the country. Or in the second
and third stage, a firm can create its
relationship via joint ventures with earlier
representatives. There is a direct relationship
between market knowledge and market
commitment. The more the market
knowledge, the more the firm’s market
commitment [13].
DECISION TO INTERNATIONALIZE
To answer the questions of what are
determining factors for firms’
internationalization process, researchers have
focused on elements triggering a firm’s
decision to make an entry in foreign markets
[2]. Two main following factors drawn from
corresponding literature are: organizational
factors and environment factors [1].
Organization factors
Organizational factors can be divided into two
forces: decision-maker characteristics and
firm-specific factors
Decision-maker characteristics
These characteristics arise from the
recognition by the top managers or the top
management teams of the importance of the
firms’ internationalization process.
According to Reid (1981), the following
characteristics affected positively the
internationalization decision: [21]
Traveling and experiencing abroad. Managers
traveling abroad extensively are more likely
to have open mind and be desirable in foreign
affairs, thus being more eagerness to meet
Hoàng Văn Hải và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 165 - 170
167
foreign managers and build business
partnerships. They are also more
opportunities to recognize advantages offered
by foreign partners and foreign countries,
having a business network abroad, and being
able to contact and negotiate with managers
from various cultures,
Foreign language proficiency. The number of
languages spoken by the top managers is
pivotal to show his or her interest in
international operation. The abilities of
speaking several languages make the top
managers to be eager to travel abroad more,
thus being able to form social and business
contacts, understand business practices,
negotiate and sign good deals for the company.
The decision-maker background. Top
managers who was born, lived, studied, or
worked abroad are more likely to possess
extensive international experience, and have
international orientation,
Personal characteristics. Managers who are
natural risk-takers are more likely to
internationalize than risk-averse ones.
Similarly, high ambition managers are more
motivate in internationalizing than low
ambitions ones.
Firm-specific factors
There are two firm-specific factors [18]:
Firm size. Firms in big size tend to
internationalize more than small ones since
they own more managerial and financial
resources, reach higher level of economics of
scales, and tend to attribute risk to lower level
in international operation,
International appeal. A unique product or
service with an international appeal could as
an engine stimulating for firms’
internationalization process. Take products
like Nike shoes, Levi’s jean, Pepsi,
McDonal’s, and electronics appliances as
good examples. These products have all
crossed global borders as a result of their
international appeal.
Environmental factors
The external business environment has
significant influence on a firm’s strategic
direction. Among external driving forces for
firms’ internationalization process, the most
important factors are showed as follows:
Unsolicited proposals
Some unsolicited proposals from foreign
governments, distributors, or client trigger
firms’ internationalization [33]. Take
automaker Volkswagen as an example. In the
visit to Volkswagen’s headquarters in
Germany in 1978, Chinese delegation
proposed a joint venture with strong support
of the Chinese government. Because of the
attractive proposal, the automaker decided
to enter into Chinese auto market, and later
became China’s largest manufacturer of
cars [18].
Because of the popularity of the internet, a
firms’ internationalization process may be
marked by receiving unsolicited inquiries
through its website. For example, Ekomate,
the Indian software development firm, made
the first international contract with a British
firm as a result of receiving unsolicited
proposal from British partner through the
company’s website by chance. After the first
oversea entry, Ekomate entered into US
market and its clients included multinational
firms such as IBM, Ford, and Citibank [18].
The bandwagon effect
Internationalizing firms can take advantages
from its internationalization process rather
than its competitions in the home markets.
These benefits may include gaining cheap
materials, new knowledge, or large
economies of scale. The internationalization
of a firm, therefore, brings the fear of being
left behind to its rival thus may force the
competitions to mimic the internationalizing
firm’s strategic move to expand abroad
[12][10][15]. It calls bandwagon effect. For
example, seven different US
telecommunications have invested large
amount of capital in the local long distance
market in Mexico at about the same time [10].
Hoàng Văn Hải và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 165 - 170
168
Attractiveness of the host country
Attractiveness describes how desirable the
country’s host market is for the business
activities by foreign firms. Market size of
destination countries is one of the determining
factors influence investment decisions of
foreign firms since it provides
internationalizing firms with greater potential
for growth, profit, and stability of operations.
Aside from market size, per capital income is
a good indicator for a country’s
attractiveness. The higher the per capital
income, the higher the purchasing power and
demand for industrial and consumer good.
Cheap labor, availability of skills, and
proximity to the market are also important
factors attract foreign firms [7][24].
OBSTACLES TO
INTERNATIONALIZATION
The difficulties of internationalizing firms can
be derived from at least four different types of
liabilities
Liability of foreignness. The difficulties is
due to the different norms and rules
conducting human behavior, including
culture, language, religion, and politics. It
prevents companies from operating
successfully in foreign markets due to their
lack of knowledge and social networks to
realize the differences [25][19],
Liability of expansion. The difficulties come
from an increase in the scale of a firm’s
operation. Domestic firms may face problems
of increased transportation, communication,
and coordination due to their expansion.
These problems, however, are usually higher
for multinational companies as a result of
high costs of coordinating in international
operations [11][4],
Liability of smallness. The difficulties
associate with small and medium –sized
enterprises as a result of limited financial
resources for investing abroad, limited
information about the characteristics of
foreign markets, a lack of human resource to
implement relevant business development
work, and less negotiating leverage in relation
to potential business partners and foreign
governments [3][5],
Liability of newness. The difficulties relates
to being new to a market. New domestic
market entrants are in disadvantage position
compared to existing firms, these problems,
however, may be larger for internationalizing
firms due to a lack of experience of foreign
transactions or lack of certain resources
needed in foreign markets [4][6],
When Carrefour, a well-known French
retailer, made expansion in China, it
encountered the liability of foreignness
(Carrefour was boycotted by Chinese
nationalists in 2008 because of being French
company); the liability of expansion
(Carrefour experienced problems of
transportation, communication and
coordination due to China’ vast geographical
size, it, therefore, has to establish eleven
regional procurement centers); and the
liability of newness (At first, Carrefour was
impossible to find the best local supplier and
get along with local government authorities,
therefore it had to be dependent on the
knowledge of local Chinese joint venture
partners) [18].
CONCLUSION
Evidently, internationalization is not easy to
implement, especially with small and medium
sized firms. Yet it is still a vital factor for
enterprises to grow and expand their capacity
and resource generation as well as to improve
their competition in both domestic and
international markets. A basic understanding
of the process is, therefore, helpful for
students who are trained to be either policy
makers or managers because they both have a
key role in accelerating the internationalization
of firms. Of course the paper, as being a
reference, would provides lectures and students
in other majors with useful information related
to their particular interests corresponding to
internationalizing firms.
Hoàng Văn Hải và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 165 - 170
169
REFERENCES 1. Aharoni, Y. (1966)” The Foreign Investment
Decision Process”, Boston, MA: Graduate School
of Business Administration, Harvard University.
2. Albaum, G. (1983) “ Effectiveness of
government export assistance for smaller-sized
manufacturers: some empirical evidence”,
International marketing Review, 1(1): 68-75
3. Aldric, H., and Auster, E. (1986) “Even dwarfs
started small: liabilities of size and age and their
strategic implications”, in B. Staw and L.L.
Cummings (eds), Research in Organizational
Behavior, Vol. 8 (Greenwich: Jai Press): 98-165
4. Cuervo-Cazurra, A., Maloney, M. M., and
Manrakhan, S. (2007)”Causes of the difficulties in
internationalization”, Journal of International
Business Studies, 38(5): 25-709
5. Child, J., Rodrigues, S. B., and Frynas, J. G.
(2009)”Psychic distance, its impact and coping
modes: interpretations of SME decision makers”,
Management International Review, 49(2): 199-224
6. Freeman, J., Carroll, G. R., and Hannan, M. T.
(1983) “ The liability of newness: age dependence
in organization death rates”, American
Sociological Review, 48(5): 692-710
7. Ferdows, K. (1997)”Making the most of foreign
factories”, Harvard Business Review, 75(2):73-28
8. Falvo, F. and Parshad, M. (2005)” The
internationalization process of a firm – the case of
Volvo company”, 23-26.
9. Ghoshal, S. (1987) “Global strategy: An
organizing framework”, Strategic management
Journal, 8: 425-440.
10. Gimeno, J., Hoskisson, R. E., Beal, B. D., and
Wan, W. P. (2005)”Explaining the clustering of
international expansion moves: a critical test in the
U.S telecommunications industry:, Academy of
Management Journal, 48(2): 279-319.
11. Hitt, M. A., Hoskisson, R. E., and Kim, H.
(1997)” International diversification: effects on
innovation and firm performance in product-
diversified firms”, Academy of Management
Journal, 40(4): 98-767.
12. Head, K., Mayer, T., and Ries, J. (2002)
“Revisiting oligopolistic reaction: are decisions on
foreign direct investment strategic complements?”,
Journal of Economics & Management Strategy,
11: 72-453
13. Johanson, J & Vahlne, J. (1990) “ The
Mechanics of Internationalisation”, International
marketing review: Stockholm, Almquist and
wiksell International.
14. Johanson, J. and Vahlne, J. (1997) “ The
internationalization process of the Firm – A Model
of Knowledge Development and Increasing
Foreign Market Commitment”, Journal of
International Business studies.
15. Knickerbocker, F. T. (1973) “Oligopolistic
Reaction and Multinational Enterprise”, (Boston,
MA: Division of research, Graduate School of
Business Administration, Harvard University
16. Kostova, T., & Roth, K. (2002) “ Adoption of
an organizational practice by subsidiaries of
multinational corporations: institutional and
relational effects”, Academy of Management
Journal, 45: 215-233.
17. Lehtinen, U. & Penttinen, H. (1999)”
Definition of the internationalization of the firm,
in Lehtinen, U. & Seristoe, H. (Eds)”, Perspectives
on Internationalization; 3-19
18. “Managing the internationalization process”:
148-182
19. Mezias, J. M. (2002) “Identifying liabilities of
foreignness and strategies to minimize their effects”,
Strategic Management Journal, 23(3): 44-229
20. Pangarkar, N. (2008) “Internationalization
and performance of small – and medium – sized
enterprises”, Journal of World Business, 43: 475
– 485.
21. Reid, R. S. (1981) “The decision-maker and
export entry and expansion”, Journal of
International Business Studies, 12(2): 12-101.
22. Thomas, D. E., & Eden, L. (2004) “What is
the shape of multinationality-performance
relationship”, The Multional Business Review,
12(1): 89-110.
23. Wiedersheim-Paul, F., Olson, H. C., and
Welch, L. A. (1978)” Pre-export activity: the first
steps in internationalization”, Journal of
International Business Studies, 9(1): 47-58.
24. Vereecke, A., and Van Dierdonck, R. (2002) “
The strategic role of the plant: testing Ferdows’s
model”, International Journal of Operations &
Production Management, 22(5): 492-514.
25. Zaheer, S. (1995) “Overcoming the liability of
foreignness”, Academy of Management Journal,
38(2): 63-341
26. Zahra, S.A., Ireland, R.D., & Hitt, M. A.
(2000) “ International expansion by new venture
firms: International diversity, mode of market
entry, technological learning and performance”,
Academy of Management Journal, 43(5): 925-950.
Hoàng Văn Hải và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 165 - 170
170
TÓM TẮT
TÔNG QUAN VỀ TIẾN TRÌNH QUỐC TẾ HÓA CỦA CÔNG TY
Hoàng Văn Hải*, Hoàng Thị Thu Hằng
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, ngày càng nhiều công ty cố gắng quốc tế hóa vì họ nhận
thấy được tầm quan trọng của tiến trình này đối với sự tăng trưởng và mở rộng khả năng sản xuất
cũng như sản sinh nguồn tài nguyên. Với cố gắng để tạo ra một bức tranh chung về quá trình quốc
tế hóa, bài báo cung cấp một tập hợp những thông tin cơ bản của sự quốc tế hóa của một công ty,
bao gồm những định nghĩa phổ biến nhất, những lợi ích mà công ty nhận được từ tiến trình này,
các bước của tiến trình quốc tế hóa, những nhân tố quyết định đến sự quốc tế hóa và những trở
ngại ngăn cản sự quốc tế hóa của công ty.
Từ khóa: quốc tế hóa, công ty quốc tế hóa, nước chủ nhà, tài nguyên.
Ngày nhận bài:05/3/2014; Ngày phản biện:25/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Bùi Nữ Hoàng Anh – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0912 697605, Email: hoanghai@tueba.edu.vn
Nguyễn Nam Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 171 - 175
171
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỐ VẤN HỌC TẬP
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
– ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Nguyễn Nam Hà*, Nguyễn Thị Hà Trang Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Cố vấn học tập có vai trò đặc biệt, không thể thiếu trong đào tạo theo học chế tín chỉ(HCTC), một
trong những thay đổi quan trọng về quản lý đào tạo của học chế tín chỉ là sự thay thế đội ngũ giáo
viên chủ nhiệm bằng hệ thống cố vấn học tập. CVHT là một chức danh được đặt ra để phục vụ
công tác đào tạo và quản lý HSSV. Tuy nhiên, hoạt động này còn khá mới mẻ và gặp nhiều khó
khăn so với công tác chủ nhiệm lớp trước đây đối với hệ niên chế. Bài viết này tập trung phân tích
thực trạng hoạt động cố vấn học tập, từ đó đề xuất một số biện pháp phù hợp với thực tiễn, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động cố vấn học tập tại trường đại học Kinh tế và Quản trị Kinh
doanh- Đại học Thái Nguyên.
Từ khóa: Hoạt động Cố vấn học tập.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Trường ĐH Kinh tế & QTKD đã
chuyển đổi từ hình thức đào tạo từ niên chế
sang đào tạo theo tín chỉ cho hệ đào tạo đại
học chính quy từ năm học 2008-2009. Đào
tạo theo tín chỉ được xây dựng nhằm tạo ra
mối quan hệ mềm dẻo trong quá trình dạy và
học; giữa giảng viên và sinh viên với những
yêu cầu: giảng dạy cụ thể về nội dung chương
trình đào tạo từ phía nhà trường, giảng viên
kết hợp với tính chủ động trong việc tự xây
dựng kế hoạch học tập của cá nhân sinh viên.
Đến nay, sau 5 năm thực hiện, đào tạo theo
học chế tín chỉ đang từng bước đi vào nề
nếp, các quy trình quản lý và các quy định
liên quan cũng đang được xây dựng hoàn
thiện hơn. Và để giúp cho sinh viên có thể
thực hiện quyền tự chủ của mình, một trong
những thay đổi quan trọng về quản lý đào tạo
của học chế tín chỉ là sự thay thế đội ngũ giáo
viên chủ nhiệm bằng hệ thống cố vấn học tập.
CVHT là một chức danh được đặt ra để phục
vụ công tác đào tạo và quản lý HSSV[2]. Hệ
thống này sẽ phụ trách tư vấn học tập cho
sinh viên để giúp các em ra quyết định chọn
ngành học, môn học phù hợp với nhu cầu, khả
* Tel:
năng, sở thích, kế hoạch cá nhân và xã hội ở
hiện tại và tương lai. Chính vì vậy, công tác
cố vấn học tập luôn được Nhà trường xác
định là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đối
với mục tiêu xây dựng môi trường giáo dục
kỷ cương của trường. Việc đề xuất những
biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cố vấn
học tập sẽ góp phần đổi mới hoạt động quản
lý, nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà
trường theo học chế tín chỉ.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỐ VẤN
HỌC TẬP TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH
TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH- ĐHTN
Đánh giá chung
Tự khi chuyển đổi sang học chế tín chỉ, về cơ
bản Nhà trường vẫn áp dụng mô hình quản lý
sinh viên như trong đào tạo theo hình thức
niên chế, công tác quản lý sinh viên được tổ
chức theo từng đơn vị lớp, có tổ chức tương
đối chặt chẽ, ổn định và xuyên suốt qua các
năm học cho đến khi sinh viên ra trường, mỗi
lớp có 01 giáo viên chủ nhiệm kiêm cố vấn
học tập bao quát toàn bộ các lĩnh vực học tập,
phong trào, các hoạt động đoàn thể, hoạt động
xã hội. Nhưng trên thực tế, xuất hiện đồng
thời hai hệ thống tổ chức (lớp sinh viên theo
khoa và lớp theo mỗi học phần).
Trong đó, lớp sinh viên biên chế theo khoa -
nơi hình thành các tổ chức đoàn thể của sinh
Nguyễn Nam Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 171 - 175
172
viên, tổ chức đánh giá kết quả rèn luyện của
sinh viên sẽ được giữ cố định trong cả khóa
học, song chỉ là danh nghĩa và hình thức bởi
phần lớn thời gian ở trường sinh viên lên lớp
theo lớp học phần (lớp học tín chỉ ) theo từng
học kỳ, các lớp này thường là tạm thời, chủ
yếu tập trung vào việc cung cấp các thông tin
về học tập và tổ chức các hoạt động học tập
liên quan đến học phần đó[4]. Đến nay, toàn
trường có 5117 sinh viên hệ chính quy dài
hạn biên chế thành 95 lớp, tương ứng có 95
CVHT, phân bố tại các đơn vị như sau:
TT Khoa
Số lớp
Số sinh
viên
1 Quản trị Kinh doanh 25 1444
2 Kế toán 25 1656
3 Kinh tế 29 1590
4 Ngân hàng - Tài chính 14 326
5 Quản lý - Luật kinh tế 2 101
Tổng cộng 95 5117
(Nguồn: Phòng Công tác HSSV- trường đại học
Kinh tế &Quản trị Kinh doanh)
Điều này cho thấy, sự đa dạng trong công tác
quản lý sinh viên khi chuyển từ hình thức đào
tạo niên chế sang hình thức đào tạo theo tín
chỉ. Quản lý sinh viên trong đào tạo theo tín
chỉ có thể xem như là quản lý “động”. Việc
quản lý theo kiểu “động“ là một khó khăn,
thách thức và đòi hỏi phải thay đổi nhận thức
và cách thức tổ chức đào tạo, cách thức quản
lý sinh viên
Tuy nhiên, được sự quan tâm và chỉ đạo
của các cấp lãnh đạo trường đến CVHT trong
quá trình quản lý sinh viên học tập theo học
chế tín chỉ, hoạt động cố vấn học tập của Nhà
trường trong những năm qua cũng đã đạt
được những kết quả nhất định, đội ngũ cố vấn
học tập đã được hình thành, bước đầu phát
huy tác dụng trong vai trò hướng dẫn sinh
viên về đăng ký môn học về các mặt sinh
hoạt, học tập, và các lĩnh vực khác, nhất là
đối với nhóm sinh viên mới vào trường.
Kết quả thực hiện
Đối với Nhà trường:
Để phát huy vai trò, chức năng và nhiệm vụ
của giảng viên cố vấn học tập, nhà trường đã
ban hành Quy định Công tác Cố vấn học tập
tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh
doanh, trong đó nêu rõ: Nhiệm vụ, Quyền
hạn, Trách nhiệm của cố vấn học tập; Thời
gian và nội dung làm việc với lớp sinh viên;
Tổ chức đội ngũ CVHT; Chế độ báo cáo;
Quyền lợi; Khen thưởng và kỷ luật và Hướng
dẫn tổ chức thực hiện [3],
Nhà trường đã cung cấp các tài liệu, văn bản
liên quan đến công tác CVHT như: Niên giám
trường đại học, sổ tay sinh viên, sổ tay giáo
viên chủ nhiệm, đây là các công cụ rất hữu
ích để CVHT hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất phục vụ cho quá
trình học tập của sinh viên cũng như giúp
CVHT nắm bắp kịp thời những thay đổi trong
HCTC từng bước được quan tâm và đáp ứng
như: Trung tâm học liệu, website điện tử.
Thời gian sinh hoạt lớp được xây dựng thực
hiện trong cùng một khoảng thời gian, tránh
hiện tượng khi sinh hoạt lớp các sinh viên bị
vắng mặt do đang phải tham gia học văn hóa
tại các lớp học phần khác nhau
Đối với Cố vấn học tập
Trong hình thức đào tạo theo niên chế, giáo
viên chủ nhiệm chỉ đóng vai trò là cầu nối
giữa nhà trường và sinh viên, thực hiện nhiệm
vụ của nhà trường trong công tác quản lý sinh
viên, còn trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ,
cố vấn học tập vừa thực hiện nhiệm vụ của
giáo viên chủ nhiệm trước đây, vừa đồng thời
đảm nhận vai trò là người tư vấn, trợ giúp
sinh viên trong học tập và nghiên cứu khoa
học, để giúp các em ra quyết định chọn
chương trình, môn học phù hợp với nhu cầu,
khả năng, sở thích, kế hoạch cá nhân và xã
hội ở hiện tại và tương lai. Hệ thống này có
ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công trong
học tập và lựa chọn nghề nghiệp của người
sinh viên, đồng hành cùng sinh viên trong
suốt quá trình học tập.
Cho đến thời điểm hiện tại, công tác cố vấn
học tập đang bắt đầu đi vào nề nếp, đa phần
giảng viên được phân công làm nhiệm vụ cố
vấn học tập đã quen dần với việc thực hiện
Nguyễn Nam Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 171 - 175
173
những nhiệm vụ theo qui định và sinh viên
cũng ý thức rõ hơn về vai trò của cố vấn học
tập ngay từ khi vào trường cho đến lúc tốt
nghiệp ra trường và những vướng mắc ban
đầu trong việc xử lý những tình huống nảy
sinh đã được giải quyết thông qua sự phối
hợp giữa cố vấn học tập với các đơn vị phòng
ban chức năng. Nhìn chung, những công tác
sau đây đã được thực hiện[1].
- Tổ chức sinh hoạt lớp, nắm danh sách lớp,
thông tin cá nhân sinh viên, cử hoặc tổ chức
bầu Ban cán sự lớp để Khoa phê duyệt. Trả
lời các câu hỏi của sinh viên liên có liên quan
đến việc học tập của sinh viên trong phạm vi
thẩm quyền của mình.
- Tổ chức đánh giá kết quả rèn luyện của sinh
viên vào cuối kỳ.Thực hiện việc đánh giá kết
quả rèn luyện của sinh viên theo đúng qui
trình và thời gian qui định. Tổ chức đánh giá
xếp loại sinh viên. Thông tin cho sinh viên về
các nguồn học bổng
- Tổ chức thảo luận, triển khai cho sinh viên
các quy định, quy chế về học chế tín chỉ, các
văn bản pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
sinh viên; Theo dõi việc đăng ký học phần
của sinh viên.
- Kết hợp với khoa, trường trong việc xử lý
những trường hợp cảnh báo học vụ và sinh
viên có học lực kém. Nhắc nhở sinh viên khi
kết quả học tập của họ bị giảm sút.
- Cung cấp cho sinh viên số điện thoại, Email
và các phương tiện liên lạc khác để hỗ trợ
sinh viên trong trường hợp cần thiết.
Tồn tại
Bên cạnh những kết quả đã đạt đươc, công tác
cố vấn học tập của trường còn những tồn tại
chủ yếu sau :
Đối với Nhà trường
- Một số quy định về công tác cố vấn học tập
chưa thực sự hợp lý, tạo sự quá tải trong
khối lượng công việc mà cố vấn học tập phải
thực hiện trong khi những nhiệm vụ đó lại
trùng lắp với chức năng của một số đơn vị
chức năng trong trường. Việc duyệt kế hoạch
học tập của cố vấn học tập còn mang tính
hình thức, khi mà sinh viên tự đăng ký trên
mạng, đặc biệt là những lớp có sĩ số đông: có
trường hợp khi đến đợt xét tốt nghiệp thì sinh
viên mới biết mình chưa đăng ký một vài học
phần, thậm chí có trường hợp quên đăng ký 6
tín chỉ thay thế khóa luận tốt nghiệp.
- Nhà trường chưa xây dựng được tiêu chuẩn
đánh giá, chưa tổ chức khen thưởng cho
những CVHT hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Đối với Cố vấn học tập
- Đội ngũ đảm nhiệm công tác CVHT hiện
nay của Nhà trường đều là giảng viên kiêm
nhiệm, thời gian làm việc chủ yếu là giảng
dạy đa số đã vượt giờ chuẩn theo quy định
chế độ làm việc đối với giảng viên, nhiều
giảng viên xin không tham gia công tác này,
đặc biệt là các giảng viên lớn tuổi, đã giữ các
chức vụ quản lý khác, số giảng viên trẻ cần
nhiều thời gian cho giảng dạy, nghiên cứu
cũng như học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, ngoại ngữ, tin học… nên phần lớn sẽ
dành ít thời gian cho công việc CVHT.
- Rất nhiều CVHT là những giảng viên trẻ
mới được giữ lại trường chưa lâu, có nhiệt
huyết, trách nhiệm nhưng chưa có kinh
nghiệm, bản thân cũng chưa nắm hết được
những quy định cơ bản của chương trình đào
tạo theo tín chỉ, do đó còn gặp nhiều khó khăn
trong quá trình hướng dẫn và giải đáp những
thắc mắc của sinh viên. Thậm chí còn có
nhiều CVHT còn chưa nắm vững hết quy chế
đào tạo, quy chế quản lý sinh viên cũng như
các quy định khác để tư vấn cho sinh viên về:
+ Phương pháp học đại học, phương pháp tự
học, kỹ năng nghiên cứu khoa học, kỹ năng thu
thập, cập nhật, xử lý thông tin, tài liệu học tập;
+Tính quan trọng của kế hoạch học tập toàn
khóa và việc xây dựng kế hoạch học tập toàn
khóa vì thế đa phần sinh viên chưa quan tâm,
chú trọng xây dựng, lưu giữ kế hoạch học tập
toàn khóa cũng như việc đăng ký học tập theo
kế hoạch học tập của trường;
+Những quy định, ràng buộc về điểm số cần
đạt trong mỗi học kỳ của mỗi năm học cũng
Nguyễn Nam Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 171 - 175
174
như điều kiện để học theo hình thức tín chỉ
chưa rõ ràng, cụ thể nên đã có những trường
hợp đáng tiếc sinh viên đăng ký quá nhiều tín
chỉ nhưng không đảm bảo yêu cầu của trường
nên không đủ điều kiện để học tiếp.
- Chưa có sự liên lạc chặt chẽ giữa CVHT và
sinh viên. Số buổi trao đổi, tư vấn của CVHT
còn ít so với nhu cầu của sinh viên, chưa có
địa điểm làm việc cụ thể của CVHT, thường
chỉ ở những buổi sinh hoạt do Nhà trường xếp
lịch, CVHT lắm lúc chỉ làm việc với ban cán
sự hoặc ban chấp hành chi đoàn. Khoảng thời
gian hạn hẹp đó không thể giúp CVHT đáp
ứng và giải đáp những thắc mắc của sinh viên
một cách đầy đủ được.
- Hiện tại, việc kiểm tra kết quả học tập, phân
loại học lực của từng sinh viên của CVHT
còn chậm, chưa theo dõi được thành tích học
tập của sinh viên khi kết quả học tập của sinh
viên bị giảm sút và trợ giúp sinh viên điều
chỉnh kế hoạch học tập kịp thời, việc nắm bắt
thông tin những sinh viên tự ý bỏ học là rất
khó đặc biệt đối với những cố vấn học tập
không giảng dạy cho lớp sinh viên mình làm
cố vấn, điều này làm hạn chế việc tư vấn cho
sinh viên học tập, đánh giá xếp loại và điều
chỉnh kế hoạch học tập của sinh viên một
cách kịp thời và hiệu quả.
Tất cả những điều này khiến chất lượng công
tác CVHT chưa thật sự đạt hiệu quả như
mong muốn, dẫn đến hoạt động CVHT đôi
khi bị hiểu như chỉ là hình thức.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỐ VẤN HỌC
TẬP TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Đối với Nhà trường
- Hoàn thiện Quy định Công tác Cố vấn học
tập; Xây dựng và ban hành các qui trình giải
quyết công việc cụ thể để CVHT làm cơ sở tư
vấn cho sinh viên trên tinh thần “Tôn trọng
người học, xem người học là trung tâm của
quá trình đào tạo”, công tác sinh viên được
coi như mảng công tác đào tạo, tổ chức của
nhà trường, một mảng hoạt động dịch vụ cộng
đồng của nhà trường, mỗi thành viên trong
Nhà trường từ lãnh đạo, giảng viên đến viên
chức tùy theo chức năng nhiệm vụ của mình
đều phải tham gia công tác “hỗ trợ sinh viên”,
chứ không chỉ “quản sinh viên”.
- Thường xuyên tổ chức tập huấn kỹ năng cho
Cố vấn học tập, thực hiện tốt công tác kiểm
tra, đánh giá, khen thưởng, chế độ đối với
CVHT. Cung cấp đầy đủ, kịp thời các công cụ
dành cho cố vấn học tập
- Định kỳ tổ chức đối thoại với CVHT để
nghe các thông tin phản hồi cũng như các khó
khăn cần giải quyết.
- Nhà trường cần xây dựng được bộ tiêu
chuẩn đánh giá, tổ chức khen thưởng cho
những CVHT hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
Đối với Cố vấn học tập
- Thực hiện tốt Quy định Công tác Cố vấn
học tập của trường [3]
- Cập nhật đầy đủ, kịp thời các văn bản liên
quan đến công tác CVHT của Bộ, ĐHTN và
của trường.
- Nâng cao kỹ năng nghiệp vụ; Tổ chức và
thực hiện tốt công tác quản lý, điều hành lớp
theo đúng nội quy, quy chế của Bộ giáo dục
và Đào tạo[4]
- Thực hiện tốt sự phối hợp giữa BCS lớp -
CVHT - Khoa - Nhà trường, thực hiện công
tác kiểm tra giám sát tình hình học tập, rèn
luyện của sinh viên, giữ mối quan hệ thường
xuyên giữa với giáo viên tham gia giảng dạy
cho lớp trong từng học kỳ;
- Thực hiện tốt công tác tư vấn cho sinh viên,
đặc biệt là học tập theo học chế tín chỉ giúp
sinh viên lựa chọn, đăng ký môn học, nắm
được mục tiêu, nội dung, chương trình đào
tạo của ngành và chuyên ngành, phương pháp
học tập, định hướng nghề cho sinh viên.
KẾT LUẬN
Việc nâng cao hoạt động Cố vấn học tập có
vai trò đặc biệt quan trọng không thể thiếu
trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Tuy nhiên,
Nguyễn Nam Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 171 - 175
175
công tác này còn khá mới mẻ so với công tác
chủ nhiệm lớp trước đây đối với hệ niên chế
nên việc áp dụng những biện pháp nêu trên sẽ
thúc đẩy hoạt động cố vấn học tập tại trường
Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – Đại
học Thái Nguyên ngày càng đổi mới và hiệu
quả, góp phần hoàn thành nhiệm vụ giáo dục,
đào tạo chung của Nhà trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tổng kết công tác cố vấn học tập trường
đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, ngày 2
tháng 4 năm 2012.
2. Quy chế Đào tạo Đại học, Cao Đẳng hệ Chính
quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm theo
Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐTngày 15 tháng
8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo)
3. Quyết định của Hiệu trưởng trường đại học
Kinh tế và Quản trị kinh doanh ngày 27/3/2011 về
việc ban hành Quy định Công tác Cố vấn học tập
tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh
doanh.
4. Quy chế Học sinh, sinh viên các trường đại học,
cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy
(Ban hành kèm theo Quyết định số 42/2007/QĐ-
BGDĐT ngày 13 tháng 8 năm 2007 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
SUMMARY
ENHANCING ACADEMIC ADVISORY
AT THE UNIVERSITY OF ECONOMICS AND BUSINESS ADMINISTRATION
- THAI NGUYEN UNIVERSITY
Nguyen Nam Ha*, Nguyen Thi Ha Trang College of Economics and Business Administration - TNU
Counselors have a special role, integral training of a credit (HCTC), an important change in the
management training of the credit system to replace teachers dean of academic advising system.
CVHT is a title coined to serve and train students to manage. However, this activity is quite new
and difficult than the work before homeroom class for young generation mechanism. This article
analyzes the centralized state academic advising activities, which proposed a number of measures
in accordance with the practice, contribute to improving operational efficiency academic adviser at
the University of Economics and Management Business-Thai Nguyen University.
Keywords: Activity Learning Advisor.
Ngày nhận bài:05/5/2014; Ngày phản biện:21/5/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thanh Minh – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh - ĐHTN
* Tel:
Nguyễn Nam Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 171 - 175
176
Thăng Văn Liêm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 177 - 180
177
ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ ĐỐI TƯỢNG GIÁO DỤC,
GIÁO HÓA CỦA NHO GIÁO
Thăng Văn Liêm*
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Nho giáo là một trong những trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ, trung đại. Vấn đề con
người và đào tạo con người được các nhà Nho đề cao, xem trọng. Tuy nhiên, do là hệ tư tưởng của
giai cấp địa chủ phong kiến nên các quan điểm của Nho giáo cũng vẫn còn những hạn chế nhất
định. Song, ở khía cạnh về giáo dục Nho giáo lại có những đóng góp tích cực. Trong quan niệm về
đối tượng giáo dục, giáo hóa các nhà Nho đã có nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau để từ đó đề
xuất các biện pháp giáo dục, giáo hóa con người nhằm đưa xã hội Trung Quốc bấy giờ thoát khỏi
cảnh loạn lạc, trở nên trật tự, ổn định, phát triển.
Từ khoá: Nho giáo, giáo dục, giáo hoá, con người, Khổng Tử
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Nho giáo (Nho gia) do Khổng Tử sáng lập ra,
là một trong những trường phái triết học lớn
của Trung Hoa cổ đại. Nó ra đời vào thời kỳ
quá độ từ chiếm hữu nô lệ lên xã hội phong
kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm
hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ
đại là những vấn đề thuộc đời sống chính trị -
đạo đức của xã hội. Để trị nước và ổn định
trật tự xã hội, Nho giáo đã đưa ra rất nhiều
các thuyết khác nhau như: nhân trị, đức trị, lễ
trị… Trong đó, vấn đề về giáo dục được Nho
giáo đề cao và coi trọng. Tư tưởng về giáo
dục được các nhà Nho đề cập đến như là một
thành tố trong hệ thống những tư tưởng khác
của Nho giáo. Giáo dục không chỉ là một
thành tố mà còn gắn chặt với tư tưởng chính
trị - xã hội, tư tưởng đạo đức, với đường lối
Đức trị (hay Nhân trị, Lễ trị). Nho giáo coi giáo
hóa con người là phương tiện, biện pháp hiệu
quả nhất để đào tạo con người, hoàn thiện con
người đi đến ổn định, phát triển xã hội.
CƠ SỞ ĐỂ NHO GIÁO ĐỀ RA ĐƯỜNG
LỐI GIÁO DỤC, GIÁO HÓA
Nho giáo xuất hiện vào thời Xuân Thu –
Chiến quốc, loạn lạc, chiến tranh xảy ra liên
miên. Sự tranh giành về quyền lực, địa vị xã
hội đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào sự
hỗn loạn. Khổng Tử nói rằng đó là thời kỳ
* Tel: 0912 797737
“quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử
bất tử” (vua không phải đạo vua, tôi không
phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con
không phải đạo con) [2, tr.483]. Những cuộc
chiến tranh đều nhằm mục đích tranh bá,
tranh vương. Mạnh Tử nói rằng: “đánh nhau
giành đất, giết người thây chất đầy đồng,
đánh nhau giành thành, giết người thây chất
đầy thành”[4, tr.26-27]. Sinh ra và lớn lên
trong thời loạn lạc, Khổng Tử nhận thấy rằng
xã hội bất ổn, có chiến tranh là do con người
“vô đạo” (không có đạo đức), do đó, theo
ông, cần phải đưa con người trở về “hữu
đạo” (có đạo đức) bằng cách “giáo hóa” (giáo
dục). Chính vì thế, Khổng Tử đã rất coi trọng
vấn đề giáo dục. Theo ông mọi người đều cần
được giáo dục; nội dung của giáo dục là đạo
đức và nhân cách để làm hoàn thiện con
người; để đưa xã hội vào một vòng trật tự
nhất định, thịnh vượng, thái bình. Điều này
cho thấy, Nho giáo nói riêng và nhiều trường
phái triết học Trung Hoa thời bấy giờ đã luôn
xem trọng vấn đề giáo dục, giáo hóa con
người, coi đó như một cách thức, biện pháp
góp phần vào sự ổn định xã hội, làm cho xã
hội trở lên tốt đẹp hơn.
Như vậy, cơ sở cũng như xuất phát điểm để
các nhà Nho đề xuất ra đường lối giáo dục,
coi trọng nó chính bắt nguồn từ yêu cầu và lợi
ích của giai cấp địa chủ phong kiến Trung
Quốc trước một thực trạng xã hội hết sức rối
Thăng Văn Liêm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 177 - 180
178
loạn; đồng thời, cũng xuất phát từ quan niệm
của các nhà Nho cho rằng: bằng giáo dục có
thể thay đổi bản tính vốn có của con người.
Chính vì vậy trong sách Luận ngữ, Khổng Tử
đã coi công việc giáo dục là công việc chính
sự quan trọng nhất của nhà cầm quyền, là
biện pháp cần thiết hơn biện pháp kinh tế.
Ông quan niệm “khi dân đã đông thì nhà cầm
quyền phải giúp họ làm giàu. Và khi họ đã
giàu thì phải giáo hóa họ”. [3, tr.203]. Còn
Mạnh Tử coi giáo hóa là công việc quan trọng
nhất của kế sách giữ nước. Ông nói: Thành
quách chẳng hoàn bị, đồ kinh pháp chẳng
nhiều, chẳng phải tai nạn trong nước vậy;
ruộng nương chẳng mở mang, của cải chẳng
tích tụ, chẳng phải là sự nguy hại cho nước
vậy. Người trên không có lễ giáo, người dưới
không có học thức, kẻ dân tàn tặc dấy lên,
nước mất đến nơi.
Từ thời Hán về sau, giáo dục, giáo hóa lại
được chính quyền phong kiến coi như một
công cụ đắc lực nhất để duy trì bảo vệ địa vị
thống trị giai cấp. Chính Đổng Trọng Thư đã
nói: Kìa muôn dân chạy theo cái lợi, như
nước chảy xuống chỗ thấp, nếu không lấy
giáo hóa mà ngăn chặn thì không thể giữ lại
được. Thế cho nên, giáo hóa xây dựng được
thì gian tà đều ngừng lại và việc ngăn ngừa
mới hoàn thành, giáo hóa mà bị phế bỏ thì
gian tà đua nhau mà nảy ra, hình phạt không
thể kể xiết, việc ngăn ngừa bị hỏng. Các bậc
vua xưa hiểu rõ điều đó, thế nên họ cứ ngồi
yên mà trị thiên hạ, không ai coi việc giáo hóa
là việc lớn.
Như vậy, điểm khác biệt rất cơ bản giữa Nho
giáo với các học thuyết đương thời Trung
Quốc là đã coi giáo dục, giáo hóa là một
phương tiện chính trị, là một biện pháp cai trị.
Và chính vì coi trọng giáo dục mà từ thời
Tuân Tử về sau, chính quyền phong kiến đã
đặc biệt khuyến khích giáo dục, thi cử, mở
trường dạy học, tiến cử nhân tài ra làm quan
thông qua con đường học tập, thi cử…
Do đó, theo các nhà Nho, phải giáo dục, giáo
hóa con người hướng về cái thiện, làm theo
điều thiện. Ở khía cạnh này, có thể lý giải vì
sao Nho giáo coi trọng giáo dục, giáo hóa và
coi đó là một công cụ cai trị, thực hiện công
việc giáo hóa cũng là thực hiện các nhiệm vụ
chính trị.
ĐỐI TƯỢNG GIÁO DỤC, GIÁO HÓA CỦA
NHO GIÁO
Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử viết: “Hữu
giáo vô loại” (giáo dục không phận biệt kẻ
sang hèn, kẻ cao người thấp) [2, tr.588]. Tư
tưởng này của Khổng Tử nói riêng và của
Nho giáo nói chung đều muốn khẳng định sự
bình đẳng trong giáo dục đối với mọi người
dân, không phân biệt sang hèn, cao thấp.
Nho giáo không chỉ coi tầng lớp quý tộc,
thống trị là đối tượng của giáo dục, giáo hóa
mà dân, những người bình thường cũng là đối
tượng của giáo dục, giáo hóa. Khổng Tử nói:
“Đối với những người đem lễ xin học từ một
bó nem trở lên, ta chưa hề chối người nào,
không dạy bảo” (Tự hành thúc tu dĩ thượng,
ngô vị thường vô hối dã) [2, tr.347]. Đây là tư
tưởng mang tính tiến bộ của Khổng Tử, thể
hiện tính nhân bản cứu đời của ông. Ở thời
đại ông, sự phân chia đẳng cấp, xã hội còn
nhiều bất công là điều không thể khắc phục
được, ông luôn mong muốn tạo ra những
nhân tố mới, tiến bộ nhằm cải cách dần thể
chế xã hội cũ. Quan điểm giáo dục, đào tạo
con người của Khổng Tử chính là nhằm thực
hiện hoài bão này. Do vậy, đối tượng chủ yếu
trong giáo dục của Nho giáo nói chung và
Khổng Tử nói riêng là đào tạo những người
thuộc giai cấp thống trị; đào tạo những người
thuộc giai cấp khác nhưng có thể bổ sung cho
giai cấp thống trị; đào tạo những người dân
biết “đạo” (đạo lý). Vì thế, cũng đã có không
ít người xuất thân từ tầng lớp thứ dân nhờ vào
việc học tập mà làm quan, hưởng lộc, được
đứng vào tầng lớp thống trị.
Nhưng thực tế thì không phải mọi người dân
đều là đối tượng của giáo dục, giáo hóa. Bởi
vì, thứ nhất, trong xã hội phong kiến không
phải người dân nào cũng có đủ điều kiện để
học tập, đặc biệt là những người nghèo khổ,
Thăng Văn Liêm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 177 - 180
179
những người mà theo Mạnh Tử: chỉ lo cái ăn
còn chưa xong, chứ thời giờ đâu mà học lễ,
nghĩa. Thứ hai, trong sách Luận ngữ, một mặt
ông ta chủ trương “giáo hóa vô loại” mặt
khác, ở nơi khác đối với người nông dân –
những người ông đã gọi là những kẻ tiểu
nhân, hèn kém về đạo đức thì ông ta áp dụng
chính sách ngu dân. Theo ông đối với họ, chỉ
có thể sai khiến họ chứ không thể làm cho họ
hiểu biết được. Ông nói: đối với dân, chuyện
nào cần làm thì khiến họ làm, chớ không nên
giảng giải nghĩa lý sâu xa, vi diệu với họ”
(Dân khả sử do chi, bất khả sử trí tri). [3,
tr.125]. Như vậy, ở Khổng Tử cho dù ông có
chủ trương “Hữu giáo vô loại” nhưng vẫn có
phân biệt và không phải bất cứ ai cũng được
“Hữu giáo vô loại”. Với ông, người dân nào
chấp nhận và nghe theo lời dạy của các bậc
thánh hiền mới là đối tượng của giáo dục,
được ông ta quan tâm trong giáo dục. Trong
thực tế ông cũng đã nói: kẻ tiểu nhân ngu dốt
chẳng hiểu mạng trời, nên chẳng kính sợ, họ
khinh nhạo bậc đại nhân, họ coi rẻ lời dạy của
thánh nhân. Do đó, với hạng người này không
thể là đối tượng của giáo dục. Đây cũng là
hạn chế trong cách quan niệm và phân chia
các hạng người của Khổng Tử. Đặc biệt
Khổng Tử không coi trọng người phụ nữ
trong xã hội phong kiến đây cũng là hạn chế
chung của hệ tư tưởng phong kiến. Khổng Tử
xếp phụ nữ vào hạng tiểu nhân, do đó phụ nữ
không phải là đối tượng của giáo dục và
không được nhận nền giáo dục phong kiến.
Điều này dẫn tới sự bất bình đẳng về giới
trong xã hội phong kiến bấy giờ.
Đến Mạnh Tử, dẫu ông ta có đề ra chính sách
“Dưỡng dân” (trong đó có bảo hàm cả việc
dạy dỗ, giáo dục), “phú nhi hậu giáo” (làm
cho họ giàu rồi mới giáo dục)… nhưng không
phải mọi người dân đều là đối tượng của giáo
dục. Ngoài ra, khi bàn về tính, ông ta cho
rằng, con người khi sinh ra đã có tính sẵn từ
thiện tâm: Trắc ẩn, Tu ố, Cung kính, thị phi –
những cái mà theo ông là “điểm khác nhau
chả mấy tí giữa con người và con vật”. Tức là
trong quan niệm của Mạnh Tử họ là những
con vật và con vật thì không thể là đối tượng
của giáo dục. Hơn nữa, trong vòng cương tỏa
của chế độ phong kiến thì cái được gọi là dân
ấy làm sao “giàu” được để sau đó mà “giáo”.
Đối với Tuân Tử, ông quả quyết rằng kẻ tiểu
nhân sinh ra và mãi mãi là kẻ tàn bạo, gian ác,
thèm muốn của cải mà không biết tu dưỡng,
rèn luyện, chỉ biết thả lỏng tính tình. Do đó,
với những người như vậy, họ cũng không
phải là đối tượng của giáo dục.
Từ thời Hán trở đi, các nhà Nho cũng quan
niệm rằng những kẻ thứ dân, kẻ tiểu nhân
cũng không phải là đối tượng của giáo dục,
không học được. Dù có học được thì dưới con
mắt của các nhà Nho và giới cầm quyền thống
trị, học cũng chỉ là những kẻ hạ ngu, không
nghe theo giáo hóa, khinh thường giáo hóa,
khinh nhờn lời dạy của thánh hiền.
KẾT LUẬN
Như đã phân tích ở trên, Nho giáo đã có rất
nhiều quan niệm khác nhau về đối tượng của
giáo dục, giáo hóa. Ở Khổng Tử, ông xem
mọi người dân đều là đối tượng của giáo dục,
giáo hóa. Song, hạn chế trong cách nghĩ của
ông là ở chỗ ông coi những người bị xếp vào
hạng tiểu nhân lại không phải là đối tượng
của giáo dục, giáo hóa. Đến các học trò của
ông và sau này, những người kế tục phát triển
Nho giáo họ vẫn luôn đề cao giáo dục nhưng
đối tượng để được giáo hóa lại tập trung nhiều
vào những người được coi là quân tử trong xã
hội. Vì thế, nếu so với các trường phái triết
học cùng thời, xét về đối tượng giáo dục, Nho
giáo cũng vẫn thể hiện tính chất bất bình
đẳng, tính giai cấp rõ rệt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học
Trung Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1997
2. Nguyễn Đức Lân (dịch và chú giải), Chu Hy tứ
thư tập chú, Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội,
1998.
3. Đoàn Trung Còn (dịch), Khổng Tử - Luận ngữ,
Sài Gòn, 1950.
Thăng Văn Liêm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 177 - 180
180
4. Đoàn Trung Còn (dịch), Mạnh Tử - quyển hạ,
Trí Đức Tòng Thơ, Sài Gòn, 1950.
5. Nguyễn Hiến Lê - Giản Chi, Tuân Tử, Nxb Văn
hoá, Hà Nội, 1994.
SUMMARY
FEW THINGS TO THINK ABOUT OBJECTS OF EDUCATION,
CIVILIZATION OF CONFUCIANISM
Thang Van Liem* College of Education - TNU
Confucianism is one of the major philosophical schools of Chinese ancient, medieval. Human
problems and human training was upholded and considered importan by Confucians. However,
due to the ideology of the feudal landlord class to the views of Confucianism is still certain
limitations. But, Confucian had positive contributions in aspect of education. In the conception of
the object of education, civilization of the Confucians had different ways about understanding and
explaining from that proposed educational measures, civilized measures people to bring Chinese
society escaped chaos, became orderly, stability and development.
Keyword: Confucianism, education, civilization, human, Khong Tu
Ngày nhận bài:07/5/2014; Ngày phản biện:22/5/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Vũ Minh Tuyên – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN
* Tel: 0912 797737
Phạm Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 181 - 186
181
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Phạm Kim Thoa*
Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Văn hóa ứng xử trong học đường là vấn đề rất quan trọng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo
dục và đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học. Hiện nay, một bộ phận sinh viên thiếu ý thức học
tập và hành vi, thái độ ứng xử trong nhà trường chưa chuẩn mực. Đây là vấn đề đáng lo ngại của
các nhà quản lí giáo dục và toàn xã hội. Bài báo này trình bày về kết quả khảo sát thực trạng và
nguyên nhân dẫn đến những hành vi, thái độ ứng xử thiếu văn hóa của một bộ phận sinh viên
Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông – Đại học Thái Nguyên.
Từ khóa: Văn hóa ứng xử, hành vi, thái độ, sinh viên, cán bộ, viên chức, bộ quy tắc, xây dựng,
Đại học Thái Nguyên
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Những năm gần đây, ý thức học tập, rèn luyện
sút kém và hành vi, thái độ ứng xử thiếu văn
hóa trong nhà trường của một bộ phận sinh
viên là một vấn đề đáng lo ngại của các nhà
quản lí giáo dục và toàn xã hội. Đó là hiện
tượng sinh viên vi phạm các nội quy, quy
định, quy chế như: thiếu lễ phép với thầy cô
và cán bộ, viên chức trong nhà trường, cử chỉ,
ngôn ngữ giao tiếp với bạn bè chưa phù hợp,
nghỉ học tự do, không trung thực trong học
tập, thi cử,…
Văn hóa ứng xử trong nhà trường là một vấn
đề rất quan trọng, nó không chỉ ảnh hưởng
đến chất lượng đào tạo; tinh thần làm việc của
cán bộ, viên chức; ý thức, thái độ học tập, rèn
luyện của sinh viên mà còn tác động đến tư
tưởng của các bậc phụ huynh và dư luận xã
hội. Vì vậy giáo dục văn hoá ứng xử cho sinh
viên Trường Đại học Công nghệ Thông tin và
Truyền thông nói riêng và sinh viên Đại học
Thái Nguyên nói chung là nhiệm vụ cấp thiết
hiện nay của tập thể cán bộ, viên chức toàn
Đại học. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ giúp
các em hiểu rõ các chuẩn mực đạo đức, đạo lí
làm người để từ đó có những hành vi ứng xử
tốt đẹp hơn.
* Tel:
KHÁI NIỆM VĂN HÓA ỨNG XƯ TRONG
NHÀ TRƯỜNG
Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số
quan niệm về văn hóa ứng xử, văn hóa học
đường, văn hóa ứng xử trong nhà trường, ví dụ:
- “Văn hóa ứng xử là thế ứng xử, là sự thể
hiện triết lí sống, các lối sống, lối suy nghĩ,
lối hành động của một cộng đồng người trong
việc ứng xử và giải quyết những mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên, với xã hội từ vi
mô (gia đình) đến vĩ mô (nhân gian)”[3].
-“Văn hóa học đường là hệ thống các chuẩn
mực, giá trị giúp các cán bộ quản lí nhà
trường, các thầy cô, các vị phụ huynh và các
em học sinh, sinh viên có cách thức suy nghĩ,
tình cảm, hành động tốt đẹp"[1].
-“Văn hóa ứng xử trong nhà trường là những
biểu hiện hoạt động của mỗi cá nhân (hoặc
nhóm người), được thể hiện ở lối sống, nếp
sống, suy nghĩ, sự giao tiếp và cách ứng xử
của con người đối với bản thân, với những
người xung quanh, trong công việc và môi
trường hoạt động giáo dục hằng ngày”[2].
Những quan niệm trên cho thấy văn hóa ứng
xử là cách ứng xử của những người trong
cùng một cộng đồng với nhau và với môi
trường xung quanh. Còn văn hóa ứng xử
trong nhà trường thì được hiểu cụ thể hơn, đó
không chỉ là cách thể hiện thái độ, hành động,
Phạm Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 181 - 186
182
lời nói của các thành viên trong nhà trường
với nhau mà còn với mọi người xung quanh,
với cảnh quan môi trường, với hoạt động dạy
và học,... Vì vậy, chúng tôi cho rằng Văn hóa
ứng xử trong nhà trường là những chuẩn mực
đạo đức quy định cách giao tiếp giữa các
thành viên trong nhà trường với nhau (cụ thể,
đó là thái độ giảng dạy, thái độ làm việc, thái
độ học tập và tiếp thu kiến thức, là cách ăn
mặc, cách ứng xử với cảnh quan, môi trường
của cán bộ, viên chức và sinh viên), đồng
thời, là cách giao tiếp giữa các thành viên
trong nhà trường với khách và phụ huynh.
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VĂN HÓA
ỨNG XƯ CỦA SINH VIÊN
Mục tiêu, phạm vi, nội dung, đối tương,
thời gian khảo sát và phương pháp xử lí số
liệu điều tra
Mục tiêu và phạm vi khảo sát
Hiện nay, trong các trường đại học luôn tồn
tại hai nhóm sinh viên: một bên là những sinh
viên có ý thức, thái độ học tập tích cực, chủ
động, có nhận thức đúng đắn về đạo lí thầy
trò, về lễ nghi phép tắc; một bên là những
sinh viên có hành vi ứng xử thiếu văn hóa, có
ý thức, thái độ học tập đáng lên án như chây
ỳ, ỷ lại, thờ ơ, vô trách nhiệm với bản thân,
gia đình và xã hội.
Với mục tiêu tìm ra những biện pháp khắc
phục thiết thực nhất góp phần xây dựng môi
trường giáo dục kỉ cương, lành mạnh, thân
thiện và hiệu quả, trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi chỉ khảo sát về các hành vi vi phạm
văn hóa ứng xử trong nhà trường của sinh
viên, qua đó tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến
tình trạng ứng xử kém văn hóa của sinh viên
hiện nay.
Nội dung khảo sát
Phiếu điều tra về “Văn hóa ứng xử trong học
đường của sinh viên” sử dụng kết hợp hai loại
câu hỏi: câu hỏi trắc nghiệm và câu hỏi mở
với nội dung đan xen và xoay quanh một số
vấn đề sau: Lễ nghi, phép tắc có thực sự cần
thiết trong các trường chuyên nghiệp? Hiện
nay, sinh viên ứng xử với cán bộ, giảng viên,
nhân viên và bạn bè như thế nào? Lí do sinh
viên không chào thầy cô? Sinh viên bình luận
về cán bộ viên chức như thế nào trong và
ngoài Facebook? Những biểu hiện tiêu cực
trong thi cử? Những lỗi sinh viên mắc phải
trong giao tiếp và trong học tập? Nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
khiến văn hóa học đường đang có biểu hiện đi
xuống? Biện pháp khắc phục tốt nhất là gì?
Đối tượng khảo sát
Đối tượng khảo sát là sinh viên các khóa K8,
K9, K10, K11 của các khoa: Khoa Công nghệ
Thông tin, Khoa Hệ thống Thông tin Kinh tế,
Khoa Công nghệ Tự động hóa, Khoa Công
nghệ Điện tử truyền thông của Trường Đại
học Công nghệ Thông tin và Truyền thông –
Đại học Thái Nguyên.
Số lượng phiếu phát ra là 750, số phiếu thất
lạc là 82, số phiếu được khảo sát là 668.
Thời gian khảo sát: Tháng 4 năm 2013
Phương pháp xư lí số liệu điều tra
Vì phiếu điều tra có sử dụng kết hợp cả hai
loại câu hỏi trắc nghiệm và câu hỏi mở nên
chúng tôi xử lí số liệu điều tra bằng phương
pháp thống kê, phân loại.
Kết quả khảo sát
Số liệu khảo sát trong bảng trên sau khi quy
về giá trị tương đối (%) được thể hiện dưới
dạng biểu đồ hình cột. Trong biểu đồ, trục
tung thể hiện số phần trăm trên tổng số 668
sinh viên được khảo sát; trục hoành thể hiện
hành vi vi phạm.
Hình 1. Biểu đồ mức độ vi phạm quy chế, quy
định của sinh viên trong nhà trường
Phạm Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 181 - 186
183
Bảng 1. Kết quả khảo sát một số vi phạm của sinh viên trong nhà trường
STT Hành vi vi phạm Số phiếu Tỷ lệ phiếu
1 Nghỉ học tự do 234/668 35%
2 Đi học muộn (hoặc thường xuyên đi học muộn) 227/668 34%
3 Nhờ người đi điểm danh 117/668 17,5%
4 Trốn học sau khi điểm danh 240/668 36%
5 Ra vào lớp học không xin phép giáo viên 73/668 11%
6 Chưa thực hiện tốt văn hóa chào hỏi 447/668 67%
7 Gây áp lực với giảng viên trẻ 97/668 14,5%
8 Cử chỉ và ngôn ngữ khi giao tiếp không phù hợp 387/668 58%
9 Nói leo, làm việc riêng trong giờ học, ngủ gật 374/668 56%
10 Sử dụng điện thoại trong giờ học 220/668 33%
11 Gian lận trong thi cử 471/668 70,5%
Biểu đồ cho thấy, một số hành vi vi phạm phổ
biến của sinh viên hiện nay là gian lận trong
thi cử (chiếm 70,5%), không tập trung học
tập (chiếm 56%), giao tiếp kém
(chiếm 58%), thiếu lễ phép (chiếm 67%);
một số hành vi vi phạm với tỉ lệ thấp hơn
nhưng có ảnh hưởng lớn đến tinh thần, thái độ
và kết quả học tập của sinh viên đó là nghỉ
học tự do (chiếm 35%), đi học muộn
(chiếm 34%), sử dụng điện thoại trong giờ
học (chiếm 33%), nhờ người điểm danh
(chiếm 17,5%), gây áp lực với giảng viên
trẻ (chiếm 14,5%), ra vào lớp không xin
phép (chiếm 11%).
NGUYÊN NHÂN
Nguyên nhân chủ quan
Do nhận thức
Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của
chính sinh viên. Vì nhận thức xã hội chưa đầy
đủ, chưa đúng đắn, cộng thêm sự thiếu bản
lĩnh nên một bộ phận sinh viên thiếu ý thức
học tập, rèn luyện; thái độ, hành vi trong giao
tiếp chưa chuẩn mực.
Do chất lượng đầu vào
Hiện nay, nhiều sinh viên có điểm đầu vào
không cao. Điều đó không những ảnh hưởng
đến khả năng tiếp nhận kiến thức chuyên môn
sâu mà còn là một trong những nguyên nhân
của thái độ học tập kém.
Nguyên nhân khách quan
Do hiệu quả của giáo dục trong gia đình và
trường phổ thông còn hạn chế
- Sự giáo dục chưa hiệu quả từ gia đình:
Chúng ta biết rằng gia đình là nền tảng văn
hóa của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, không phải
tất cả các bậc phụ huynh đều cư xử đúng mực
và có biện pháp giáo dục con cái một cách
hiệu quả, thậm chí, có những em còn bị ảnh
hưởng xấu từ chính gia đình.
- Sự giáo dục chưa hiệu quả từ trường phổ
thông: Cuộc sống hiện đại ngày càng coi
trọng việc tạo ra của cải vật chất và chú trọng
sinh lời trong đầu tư, kinh doanh, phát triển
nên các môn học về khoa học tự nhiên ngày
càng được hầu hết các trường phổ thông coi
trọng, ngược lại, các môn học chuyên ngành
khoa học xã hội càng lúc càng không được ưa
chuộng như môn Giáo dục công dân, Lịch sử,
Ngữ văn,… Do đó, giáo dục nhân cách cho
học sinh trong các cấp học cũng dần bị coi
nhẹ theo xu hướng này.
Do sự tác động từ môi trường bên ngoài
Hằng ngày, các em phải tiếp xúc với thế giới
bên ngoài với rất nhiều hiện tượng tiêu cực
của xã hội, tiếp nhận biết bao thông tin không
lành mạnh từ những đối tượng xấu, những ấn
phẩm đồi trụy, từ những thông tin truyền
miệng đến những thông tin cập nhật thường
xuyên trên mạng Internet. Điều đó ảnh hưởng
rất lớn đến nhận thức xã hội, đến tư tưởng,
niềm tin của các em vào thế hệ đi trước.
Do sự hạn chế của công tác giáo dục ở
trường đại học
Điều này thể hiện ở hai nguyên nhân sau:
Phạm Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 181 - 186
184
* Nhà trường chưa có biện pháp quản lí chặt
chẽ và chưa xử lí kiên quyết các vi phạm nên
quy chế, quy định, nội quy chưa phát huy hết
tác dụng
- Có tới 61% phiếu (trả lời cho câu hỏi mở)
cho rằng kỉ luật của nhà trường còn thiếu
nghiêm khắc, thiếu sự kiểm tra giám sát của
các phòng ban chức năng. Việc xử lí các
trường hợp vi phạm chưa thực sự triệt để
khiến sinh viên và một số cán bộ, giảng viên,
nhân viên chưa nghiêm túc thực hiện quy chế,
quy định, nội quy, do đó các văn bản này
chưa phát huy được hết tác dụng. Ví dụ: Quy
định về thái độ học tập, làm việc; về giờ giấc;
hành vi ứng xử; về mặc đồng phục, đeo thẻ;
Quy chế thi, kiểm tra,…
* Cán bộ, viên chức chưa thực hiện tốt nhiệm
vụ giáo dục và đào tạo
- Thầy cô chưa thực sự tâm huyết với công
tác giáo dục và đào tạo:
Bên cạnh rất nhiều giảng viên luôn đề cao
nhiệm vụ giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào
tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho người học,
hiện nay vẫn còn một số giảng viên có những
biểu hiện không tốt về đạo đức nghề nghiệp,
chưa tâm huyết với nghề. Chẳng hạn, trước
những biểu hiện xấu của người học, họ thờ ơ,
cho qua, không nhắc nhở hoặc xử lí nghiêm
khắc; để sinh viên thích thì học, không thích
thì thôi. Đồng thời có cả những giảng viên
chưa chuyên tâm vào công tác chuyên môn,
chỉ dạy lí thuyết mà chưa có nội dung thực
hành khiến các em không phục.
Thực tế cho thấy, người học có tập trung
trong giờ học hay không phụ thuộc rất nhiều
vào thái độ và phương pháp giảng dạy của
người thầy. Nhưng vẫn còn những thầy cô có
nghiệp vụ sư phạm hạn chế, phương pháp
truyền đạt kiến thức chưa phù hợp, chưa tạo
được không khí sôi nổi trong giờ học để thu
hút sự chú ý của sinh viên.
- Thầy cô chưa nêu gương về văn hóa ứng xử:
Với lỗi vi phạm quy định về giờ giấc lên lớp
như nghỉ học tự do, đi học muộn, trốn tiết,…
sinh viên cho rằng ngoài lí do ý thức học của
sinh viên kém còn có một lí do khác, đó là có
một số giảng viên chưa thực hiện nghiêm giờ
lên lớp, chẳng hạn: vào muộn nhưng không
xin lỗi học sinh, có chuông báo hết giờ nghỉ giải
lao không vào lớp ngay, thậm chí còn có giảng
viên để sinh viên ngồi chơi không cả giờ.
Một số giảng viên khác thì không xử lí
nghiêm một số hành vi vi phạm như: biết học
trò nghỉ học tự do quá quy định nhưng vẫn
cho thi, học trò đi học quá muộn vẫn cho vào
lớp, học trò đi muộn thường xuyên vẫn không
nhắc nhở, không xử lí nghiêm những người
trốn học sau khi điểm danh.
Với lỗi vi phạm quy định về thái độ học tập,
một số ý kiến cho rằng họ không tập trung
nghe giảng không chỉ vì họ a dua theo các bạn
khác mà còn có lí do khác, đó là có những
sinh viên làm việc riêng trong giờ học nhưng
không bị thầy cô xử lí.
Đối với những hành vi không tôn trọng giảng
viên, các em cho rằng có một vài thầy cô
cũng chưa có thái độ ứng xử chuẩn mực,
nhiều lúc không tôn trọng người học bằng
việc thể hiện thái độ khinh miệt hoặc quát
mắng một cách thái quá, không những không
thể hiện thái độ thân thiện, không sẵn sàng
giúp đỡ mà còn gây áp lực, gây “khó dễ” cho
học trò.
Về những biểu hiện thiếu lễ phép của sinh
viên, một số em chia sẻ (trong phiếu điều tra):
có ba lí do khiến các em chưa thực hiện tốt
“văn hóa chào hỏi”, đó là: ngại chào thầy cô
vì sợ bạn chế nhạo; thầy cô không nhận ra
mình nên không chào; nhiều lần chào hỏi
nhưng một số thầy cô không thể hiện thái độ
gì nên không chào nữa. Thậm chí có ý kiến tiêu
cực còn cho rằng nguyên nhân là do những thầy
cô đó vi phạm đạo đức nghề nghiệp nên không
xứng đáng nhận được lời chào.
- Cán bộ, viên chức chưa nêu gương trong
việc thực hiện quy chế thi, kiểm tra:
Theo phản hồi của sinh viên, hiện nay, một số
nhân viên phòng ban và một số giảng viên
Phạm Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 181 - 186
185
còn gây áp lực với sinh viên, sau đó gợi ý để
sinh viên đến thăm, đưa “quà”. Khóa trước
đồn khóa sau, trường này đồn trường khác
dẫn đến hiện tượng sinh viên gọi điện, nhắn
tin hoặc gặp trực tiếp cán bộ, viên chức để
“chạy điểm”.
Ngoài ra, một số thầy cô khác không có biểu
hiện xấu nhưng khi đón nhận thông tin lại
không có ý kiến phản đối cũng làm cho sinh
viên lầm tưởng là rất nhiều cán bộ, viên chức
có biểu hiện xấu, khiến họ có thái độ coi
thường đội ngũ nhân viên, giảng viên.
Bên cạnh đó, ở một số trường đại học còn có
những giảng viên bất chấp đạo đức nghề
nghiệp, quá coi trọng vật chất và nhu cầu của
bản thân nên dám ngang nhiên “ra giá” với
học trò, vì vậy, sinh viên và gia đình các em
lầm tưởng rằng “học đại học là như thế cả”,
là “học trò cần điểm, giảng viên cần tiền”.
Trả lời về những lỗi vi phạm quy chế thi,
kiểm tra, sinh viên cho rằng “nếu chúng em
không quay cóp thì sẽ thiệt vì nhiều bạn khác
đều quay cóp cả...”. Có phiếu cũng phản hồi
rằng em rất bất bình đối với một số ít cán bộ,
giảng viên làm lộ đề và một số cán bộ coi thi
chưa xử lí nghiêm các trường hợp vi phạm
nên đã tạo nên một môi trường thi cử không
công bằng, thiếu văn hóa, tạo tiền lệ xấu trong
môi trường giáo dục.
- Giáo viên chủ nhiệm chưa thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao:
Từ trước đến nay, giáo viên chủ nhiệm luôn là
người gần gũi, quan tâm sát sao đến việc học
tập, rèn luyện của học sinh, sinh viên. Tuy
nhiên, hiện nay, không phải tất cả các giảng
viên được phân công làm công tác này đều
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Theo phản hồi của sinh viên, một số giáo viên
chủ nhiệm cũng chưa có mối quan hệ mật
thiết với sinh viên lớp chủ nhiệm, chưa làm
tốt nhiệm vụ cố vấn học tập, chưa có tinh thần
trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ mà nhà
trường giao cho, chẳng hạn đến sinh hoạt lớp
một cách miễn cưỡng, không có sự đầu tư cho
nội dung sinh hoạt, thậm chí, nhờ giáo viên
thiếu kinh nghiệm đi sinh hoạt hộ, khiến mối
quan hệ giữa thầy và trò ngày càng trở nên
lỏng lẻo.
KẾT LUẬN
Để khắc phục thực trạng trên và hướng đến
mục tiêu xây dựng môi trường giáo dục kỉ
cương, thân thiện, hiệu quả, ngoài những biện
pháp mà các nhà trường đã và đang triển khai
thực hiện, tác giả bài viết cho rằng Đại học
Thái Nguyên cần xây dựng và ban hành Bộ
quy tắc ứng xử của cán bộ, viên chức và sinh
viên Đại học Thái Nguyên.
Trong môi trường giáo dục đại học, Bộ quy
tắc ứng xử có vai trò vô cùng quan trọng. Nếu
việc hoàn thiện và triển khai áp dụng được
tiến hành triệt để thì Bộ quy tắc sẽ là một
công cụ tạo khả năng minh bạch hóa các hành
vi trong các mối quan hệ trong nhà trường,
đồng thời là khung tham chiếu giúp mọi cá
nhân nhận diện, phát hiện ra các hành vi vi
phạm pháp luật, vi phạm đạo lí, đạo đức nghề
nghiệp để phòng tránh và kịp thời lên án.
Tuy nhiên, để nội dung Bộ quy tắc thực sự
khách quan và phù hợp với tất cả các đơn vị
thành viên thuộc Đại học Thái Nguyên thì cần
có sự quan tâm, chỉ đạo và đóng góp ý kiến
của các cấp lãnh đạo, viên chức, phụ huynh
và sinh viên. Những nội dung này, chúng tôi
sẽ đề cập đến trong những bài viết sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Minh Hạc (2009), Văn hóa học đường:
Khái niệm và việc xây dựng thông qua giáo dục
giá trị, Tạp chí Nghiên cứu Con người - Số
2/2009.
2. Trung tâm Giáo dục Quốc phòng Hà Nội 2, Một
số biện pháp xây dựng nền nếp văn hóa ứng xử
trong nhà trường http://trungtamgdqphanoi2.edu.vn/nghien-cuu-
khoa-hoc/mot-so-bien-phap-xay-dung-nen-nep-
van-hoa-ung-xu-trong-nha-truong-
260.html#.UgmaGJKNhwg 3. Tiểu luận “Văn hóa ứng xử, văn hóa nói”
(2010).http://luanvanfree.com/f/tai-lieu/6994-Van-
hoa-ung-xu-van-hoa-noi.html
Phạm Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 181 - 186
186
SUMMARY
A SURVEY ON THE CURRENT STATUS OF THE STUDENTS’
BEHAVIORAL CULTURE IN COLLEGE OF INFORMATION AND
COMMUNICATION TECHNOLOGY - TNU
Pham Kim Thoa*
College of Information and Communication Technology - TNU
Behavioral culture in school is a very important issue which has a great influence on the quality of
education and training of institutions of higher education. Currently, several students lack of
awareness of study, their behavior and attitudes in schools have not met the standards yet. This is a
worrying issue to education administrators and to the whole society. This paper presents the results
of the survey on the actual situation and the causes of the decline in the behavior and attitudes of
several students at Thai Nguyen University of Information and Communication Technology.
Keywords: behavioral culture, behavior, attitude, student, staff, official, set of rules, to create,
Thai Nguyen University
Ngày nhận bài:03/4/2014; Ngày phản biện:23/4/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Đoàn Đức Hải – Đại học Thái Nguyên
* Tel:
Nguyễn Xuân Tiến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 187 - 190
187
CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG XÂY DỰNG
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN – THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
Nguyễn Xuân Tiến*
Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT Sau gần 4 năm được thành lập theo Nghị định số 31/CP của Chính phủ (4/4/1994), ngày 01-8-
1997, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch tổng thể và đầu tư bước I - Đại học Thái
Nguyên tại Quyết định số 600/TTg.Trong thời gian qua, công tác thu hồi, đền bù, giải phóng mặt
bằng đã phần nào góp phần tích cực vào công tác xây dựng và phát triển ĐHTN. Từ kết quả của
công tác giải phóng mặt bằng ĐHTN đã đầu tư xây dựng nhiều hạng mục công trình. Tuy nhiên,
để đáp ứng được quy mô đào tạo ngày một tăng, đáp ứng nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà
nước giao, cần tiếp tục thực hiện những giải pháp quyết liệt, đồng bộ nêu trên để có thêm quỹ đất
để phục vụ cho các dự án tiếp theo của Đại học Thái Nguyên.
Từ khóa: giải phóng mặt bằng, Đại học Thái Nguyên, quy hoạch
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT
BẰNG XÂY DỰNG ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN*
Quy mô dự án
Sau gần 4 năm được thành lập theo Nghị định
số 31/CP của Chính phủ (4/4/1994), ngày 01-
8-1997, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
quy hoạch tổng thể và đầu tư bước I - Đại học
Thái Nguyên tại Quyết định số 600/TTg.
Theo Quyết định trên, khu vực quy hoạch xây
dựng Đại học Thái Nguyên (ĐHTN) chỉ nằm tại
các 4 phường, xã trên địa bàn T.P thái Nguyên
với tổng diện tích sử dụng đất 300 ha.
Trong quá trình triển khai quy hoạch, đặc biệt
sau khi T.P Thái Nguyên được công nhận là
Đô thị loại II (2002), trên cơ sở đề nghị của
UBND tỉnh Thái Nguyên, Bộ Xây dựng, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
278/2005/QĐ-TTg ngày 02/11/2005 về việc
phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây
dựng T.P Thái Nguyên đến năm 2020, trong
đó cho phép ĐHTN giữ nguyên quỹ đất theo
quy hoạch chung ĐHTN được phê duyệt (QĐ
600/TTg) và bổ sung thêm các cơ sở ngoài
quy hoạch chung được phê duyệt gồm: Đại
học Kỹ thuật công nghiệp; Đại học Y dược và
Trường Cao đẳng Kinh tế kỹ thuật (nguyên là
Trường Công nhân kỹ thuật) với tổng diện
tích sử dụng đất 360 ha.
* Tel: 0913 386027
Đến tháng 8- 2006, Bộ Giáo dục- Đào tạo ký
Quyết định 4158/QĐ-BGDĐT phê duyệt Đề
án “Quy hoạnh phát triển ĐHTN thành Đại
học trọng điểm, trung tâm đào tạo, nghiên cứu
khoa học, chuyển giao công nghệ vùng đến
năm 2020” và xác định ĐHTN sẽ bao gồm:
Khu Trung tâm điều hành; 9 trường đại học
thành viên; 3 viện nghiên cứu và 4 đơn vị trực
thuộc. Trên cơ sở Đề án được phê duyệt,
ĐHTN tiếp tục điều chỉnh quy hoạch tổng thể
và được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định
số 821/QĐ-UBND ngày 21/4/2009 với tổng
diện tích sử dụng đất lên tới 436,5 ha, trong
đó quy mô điều chỉnh là 341,83 ha trải rộng
trên 5 khu, thuộc 6 xã, phường trên địa bàn
Thành phố (xã Quyết Thắng và Phúc Hà;
phường Quang Trung; Tân Thịnh; Thịnh Đán
và Tích Lương.
Kết quả giải phóng mặt bằng
Dự án xây dựng ĐHTN được phê duyệt quy
hoạch từ đầu tháng 8-1997 nhưng đến năm
1999, Chủ đầu tư Đại học Thái Nguyên
(ĐHTN) mới thực hiện công tác GPMB. Giai
đoạn từ năm 1999- 2005, ĐHTN thực hiện
bồi thường GPMB 3 dự án (đường vành đai;
Lô 17 và Lô 18) với tổng diện tích 11,2 ha;
giá trị bồi thường trên 19,3 tỷ đồng. Giai đoạn
2006- 2010, ĐHTN thực hiện GPMB 11 dự
án với tổng diện tích 15,9 ha; giá trị bồi
thường gần 43,5 tỷ đồng, trong đó có 1, 2 ha,
Nguyễn Xuân Tiến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 187 - 190
188
kinh phí gần 1,5 tỷ đồng là nguồn tiền tự có
của Trường Đại học Công nghệ thông tin và
Truyền thông. Trong năm 2011 và 2012, đơn
vị chỉ giải ngân được trên 22,6 tỷ đồng cho
công tác GPMB nhưng chủ yếu tập trung vào
việc giải quyết tồn tại và xây dựng hạ tầng
khu tái định cư. Như vậy, sau 14 năm tiến
hành bồi thường GPMB, Chủ đầu tư mới
GPMB được trên 27 ha.(*)
Hạn chế, tồn tại
Sở dĩ công tác GPMB chỉ mới tiến hành được
một phần rất nhỏ, chậm và kéo dài là do nhiều
nguyên nhân, trong đó nguyên nhân lớn nhất
là thiếu kinh phí GPMB, xây dựng khu tái
định cư. Bên cạnh đó, do chế độ chính sách
về bồi thường, hỗ trợ GPMB, tái định cư của
Nhà nước có nhiều thay đổi (giá đất tăng hàng
năm), công tác quản lý Nhà nước về đất đai
trên địa bàn còn nhiều bất cập cũng là những
nguyên nhân làm ảnh hưởng tới tiến độ thực
hiện GPMB. Một số hộ gia đình, cá nhân
không hợp tác với tổ chức được giao nhiệm
vụ giải phóng mặt bằng trong việc khảo sát,
điều tra, kiểm đếm. Đặc biệt, hiện nay diện
tích đất trong quy hoạch của các Trường: Đại
học Sư phạm (10.000m2); Đại học Y dược
(3.700m2) và Đại học Kỹ thuật công nghiệp
(10.000m2) vẫn bị hàng chục hộ dân lấn
chiếm do công tác quản lý thiếu chặt chẽ của
các trường và địa phương (do nhiều năm
trước các trường đã cấp, cho mượn, nhiều hộ
đã được chính quyền cấp bìa đỏ) nên gây rất
nhiều khó khăn cho công tác thu hồi, GPMB
xây dựng các công trình, dự án.
MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ ĐỀ XUẤT
Định hướng
Để thực hiện được mục tiêu: “Phát triển
ĐHTN thành Đại học trọng điểm, trung tâm
đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao
công nghệ vùng đến năm 2020” theo QĐ số
4158/QĐ-BGDĐT ngày 17/ 8/ 2006 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Đảng, Nhà nước, Bộ
Giáo dục - Đào tạo, UBND tỉnh Thái Nguyên
cần quan tâm bổ sung nguồn kinh phí bồi
thường GPMB và đẩy nhanh tiến độ thi công
các công trình, dự án. Bên cạnh đó, Đại học
Thái Nguyên cũng cần nỗ lực tìm kiếm các
nguồn tài trợ, các đối tượng liêt kết đào tạo,
kêu gọi đầu tư kinh phí để phục vụ cho công
tác xây dựng cơ sở hạ tầng. Đặc biệt ngoài
việc phối hợp với chủ đầu tư làm tốt công tác
bồi thường GPMB, đề nghị các sở, ngành,
UBND T.P Thái Nguyên cần tham mưu cho
UBND tỉnh giành thêm quỹ đất để xây dựng
hạ tầng các khu tái định cư nhằm tạo điều
kiện tốt nhất cho các hộ dân bị ảnh hưởng của
Dự án.
Đề xuất
Về chế độ chính sách
Hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý đất đai,
chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng,
chính sách hỗ trợ cho người dân bị mất đất
sao cho phù hợp với sự phát triển của khu vực
và toàn xã hội.
Thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương đường lối
của Đảng, chính sách của Nhà nước về công
tác đền bù, giải phóng mặt bằng. Kiến nghị
với các cấp có thẩm quyền những ý kiến thắc
mắc chính đáng của nhân dân. Công tác định
giá đất cần phù hợp với từng giai đoạn, từng vị
trí, không nên đánh đồng giá đất theo khu vực.
Biện pháp thực hiện
Tăng cường công tác vận động tuyên truyền
để các hộ dân hiểu rõ hơn nữa về chủ trương
của Đảng, chính sách của Nhà nước trong
công tác thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt
bằng phục vụ các công trình xã hội
Tăng cường nguồn vốn đầu tư cho công tác
thu hồi đất và giải phóng mặt bằng.
Khi triển khai thực hiện dự án đầu tư, ĐHTN
cần phối hợp chặt chẽ với UBND các cấp bàn
về kế hoạch tổ chức thực hiện thu hồi đất,
khảo sát, điều tra, kiểm đếm và các biện pháp
thu hồi đất, giải phóng mặt bằng.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân không hợp
tác với tổ chức được giao nhiệm vụ giải
phóng mặt bằng trong việc khảo sát, điều tra,
kiểm đếm, ĐHTN cần đề nghị với UBND
thành phố Thái Nguyên ra quyết định khảo
Nguyễn Xuân Tiến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 187 - 190
189
sát, điều tra, kiểm đếm bắt buộc để lập hồ sơ,
xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư.
Trường hợp các cơ quan có thẩm quyền đã
tuyên truyền, giải thích, vận động, thuyết
phục nhưng hộ gia đình, cá nhân không nhận
tiền bồi thường, hỗ trợ, không bàn giao mặt
bằng thì chuyển tiền bồi thường, hỗ trợ vào
tài khoản tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước và
thực hiện các biện pháp hành chính để thu hồi
đất theo quy định.
Nâng mức thưởng tiến độ bàn giao mặt bằng
đối với chủ sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân.
KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, công tác thu hồi, đền bù,
giải phóng mặt bằng đã phần nào góp phần
tích cực vào công tác xây dựng và phát triển
ĐHTN. Từ kết quả của công tác giải phóng
mặt bằng ĐHTN đã đầu tư xây dựng nhiều
hạng mục công trình để nâng cấp được 2
trường Đại học là Đại học Khoa học và Đại
học CNTT&TT, chuyển trường Đại học Kinh
tế và QTKD đến cơ sở mới, thành lập thêm 2
cơ sở đào tạo là Khoa Ngoại ngữ và Khoa
Quốc tế, Hệ thống cơ sở hạ tầng được xây
dựng, đảm bảo cảnh quan môi trường. Hệ
thống đường giao thông, sân chơi, nhà ở KTX
sinh viên được mở rộng, tạo điều kiện thuận
lợi cho cán bộ công nhân viên chức và học
sinh sinh viên.
Tuy nhiên, để đáp ứng được quy mô đào tạo
ngày một tăng, đáp ứng nhiệm vụ chính trị
được Đảng và Nhà nước giao, cần tiếp tục
thực hiện những giải pháp quyết liệt, đồng bộ
nêu trên để có thêm quỹ đất để phục vụ cho
các dự án tiếp theo của Đại học Thái Nguyên.
(*) Trong tổng số 436,5 ha đất theo quy hoạch,
hiện ĐHTN mới quản lý được trên 200 ha. Do
kinh phí GPMB được Bộ cấp hàng năm rất ít so
với nhu cầu nên công tác GPMB, tạo quỹ đất sạch
để xây dựng các công trình, dự án trong toàn
ĐHTN gặp rất nhiều khó khăn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 600/TTG ngày 01/8/1997 của Thủ
tướng Chính phủ về việc: QĐ phê duyệt Quy hoạch
tổng thể và đầu tư bước I Đại học Thái Nguyên
2. Luật đất đai ngày 26/11/2003;
3. Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng
12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
4. Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5
năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi
đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
5. Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009
của Chính phủ Quy định bổ sung về quy hoạch sử
dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư;
6. Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày
01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và môi trường quy
định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và
trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất;
7. Quyết định số 01/2010/QĐ-UBND ngày
5/1/2010 của UBND tỉnh Thái Nguyên về việc ban
hành quy định thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên;
8. Quyết định số 4158/QĐ-BGD&ĐT ngày 17/ 8/
2006 của Bộ GD&ĐT về việc phê duyệt Đề án
“quy hoạch phát triển tổng thể ĐHTN thành đại
học trọng điểm trung tâm đào tạo, khoa học của
vùng đến 2020”;
9. Báo cáo tổng kết công tác năm 2013 của Ban
Quản lý CSVC và DAPT Đại học Thái Nguyên.
Nguyễn Xuân Tiến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 187 - 190
190
SUMMARY
THE BUILDING CLEARANCE AT
UNIVERSITY OF THAI NGUYEN - SITUATION AND SOME PROPOSALS
Nguyen Xuan Tien*
Thai Nguyen University
After nearly 4 years of established by Decree of the Government No.31/CP (04/04/1994), dated
01-8-1997, the Prime Minister has approved the master plan and investment steps I - General Thai
Nguyen University in Decision 600/TTg. Last time, the work of recovery, compensation, land
clearance has partly contributed actively in the formulation and development of TNU. From the
results of ground clearance TNU has invested more construction works. However, to scale to meet
increasing training, satisfy political tasks assigned by the Party and the State, should continue to
implement aggressive solutions, sync above for more land to serve for the next project of the
University of Thai Nguyen.
Keyworks: clearance, Thai Nguyen University, planning
Ngày nhận bài:08/5/2014; Ngày phản biện:23/5/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: ThS. Hà Anh Tuấn – Đại học Thái Nguyên
* Tel: 0913 386027
Nguyễn Thu Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 191 - 197
191
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TIN DỤNG TẠI CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CÔ PHẦN QUỐC TẾ THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thu Nga*, Trân Thị Thùy Linh, Đặng Trung Kiên Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam - Chi nhánh Thái Nguyên (gọi tắt là VIB Thái Nguyên) được
thành lập năm 2007 với hoạt động tín dụng là chủ yếu, khẳng định vai trò của hệ thống ngân hàng
là trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Với mục tiêu phát triển bền vững nhất là
trong giai đoạn nền kinh tế hội nhập và đang trong tình trạng ảm đạm hiện nay. Việc tìm ra các
giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng thông qua nghiên cứu và đánh giá hoạt động kinh doanh và
phân tích chất lượng tín dụng của VIB Thái Nguyên sẽ đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của ngân hàng thương mại.
Từ khóa: chất lượng tín dụng, VIB Bank
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng
thương mại Việt Nam nói chung và Ngân
hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam
nói riêng đang đứng trước những thời cơ cũng
như thách thức rất lớn trong quá trình hội
nhập quốc tế. Bên cạnh việc có một hệ thống
ngân hàng khá vững chắc từ Trung ương đến
cơ sở được xây dựng hàng chục năm nay, các
ngân hàng thương mại từng bước được tiếp
cận với các cộng nghệ hiện đại, kinh nghiệm
quản lý và kinh doanh tiên tiến, hệ thống luật
pháp và cơ chế chính sách ngày càng hoàn
thiện góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng.
Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng, các ngân
hàng thương mại cũng đứng trước nhiều khó
khăn thách thức: chất lượng tín dụng còn
thấp, hệ quả là hiệu quả kinh doanh thấp, tình
trạng nợ xấu chiếm tỷ lệ cao và luôn là nguy
cơ tiềm ẩn của khủng hoảng và Chi nhánh
Ngân hàng TMCP Quốc tế Thái Nguyên cũng
không phải là trường hợp ngoại lệ. Trong bối
cảnh đó, vấn đề “Nâng cao chất lượng tín
dụng tại chi nhánh Ngân hàng Thương mại
cổ phần Quốc tế Thái Nguyên” có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn cấp bách
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT
NAM - CHI NHÁNH THÁI NGUYÊN GIAI
ĐOẠN 2010 – 2012
Chỉ tiêu phản ánh quy mô cung cấp vốn tín
dụng của VIB chi nhánh Thái Nguyên
Qua bảng 1, có thể thấy: Cho vay trung, dài
hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn, thường gấp
khoảng từ 1,5 tới xấp xỉ 2 lần so với cho vay
ngắn hạn. Mặc dù cho vay trung, dài hạn đem
lại lợi nhuận cao hơn, nhưng cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro hơn so với cho vay ngắn hạn.
Ngoài ra các khoản cho vay trung, dài thường
tạo ra dư nợ lớn, nên khi rủi ro xảy ra càng
gây tổn thất lớn hơn, đồng thời một lượng lớn
vốn của ngân hàng phải nằm quá lâu trong tay
của khách hàng vay vốn.
Bảng 1: Cơ cấu tín dụng theo thời gian tại VIB Thái Nguyên*
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Số tiền % Số tiền % Số tiền %
Tổng dư nợ bình quân 884,203 100 957,713 100 1.030,867 100
1.Cho vay ngắn hạn: 354,565 40,10 335,295 35,01 384,926 37,34
2.Cho vay trung, dài hạn: 529,638 59,9 622,418 64,99 645,941 62,66
(Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng tại VIB Thái Nguyên giai đoạn 2010-2012)
* Tel: 0915 505626
Nguyễn Thu Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 191 - 197
192
Bảng 2: Tình hình dư nợ giai đoạn 2010 - 2012 phân theo nhóm khách hàng
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm
2010
Năm
2011
Năm
2012
So sánh
2011/2010 2012/2011
+/- (%) +/- +/- (%) +/-
Tổng dư nơ Tỷ đồng 884,203 957,713 1.030,867 73,510 8 73,154 7
Doanh số cho vay DN Tỷ đồng 491,227 536,335 581,357 45,108 9,18 45,022 8,39
Tỷ trọng % 55,55 56,0 56,39
Doanh số cho vay CN Tỷ đồng 392,976 401,378 449,510 8,402 2,13 48,132 12
Tỷ trọng (%) % 44,45 44 43,61
(Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng tại VIB Thái Nguyên giai đoạn 2010-2012)
Từ năm 2010 tới năm 2012, tỷ trọng cho vay
trung và dài hạn của VIB Thái Nguyên đã có
sự thay đổi, nhưng vẫn giữ tỷ trọng cao. Hoạt
động tín dụng của VIB Thái Nguyên được
đánh giá là phát triển cân đối hài hòa trong cơ
cấu danh mục theo kỳ hạn, khách hàng, theo
ngành và chú trọng quản trị rủi ro. VIB Thái
Nguyên đã sử dụng nguồn vốn ngắn hạn tài
trợ cho vay trung dài hạn. Từ đó cho thấy
VIB Thái Nguyên huy động nguồn vốn trung
dài hạn từ cá nhân và tổ chức kinh tế còn hạn
chế. VIB Thái Nguyên cần có chính sách huy
động phù hợp với tốc độ tăng trưởng tín dụng
và phù hợp với tốc độ tăng trưởng và phát
triển kinh tế của đất nước và thế giới.
Chỉ tiêu phản ánh quy mô cung cấp vốn tín
dụng của VIB Thái Nguyên cho nhóm
khách hàng, ngành và thành phân kinh tế
Từ bảng 2 cho ta thấy doanh số cho vay của
chi nhánh không ngừng tăng lên. Cụ thể vào
năm 2010 mức cho vay đối với các doanh
nghiệp trong tổng doanh số cho vay là
55,55% nhưng sang tới năm 2011 tăng lên
56,0% và tiếp tục cho tới năm 2012 là
56,39%. Nhận thấy tỷ trọng này không chênh
lệch nhiều so với Doanh số cho vay cá nhân.
Nếu nhìn vào con số tuyệt đối ta thấy sự tăng
trưởng tín dụng mạnh mẽ nhất vào năm 2011
với sự tăng lên của tổng doanh số cho vay là
73,510 tỷ đồng so với mức 73,154 tỷ đồng
năm 2012. Năm 2012 mức tăng này hạ do
chính sách thắt chặt tiền tệ và hạn chế tăng
trưởng tín dụng của NHNN mà con số cho
vay của chi nhánh ở mức 1.030,867 tỷ đồng
so với mức tăng của năm 2011 thì tốc độ tăng
trưởng giảm đi 1%. Tuy nhiên, nếu xét về
doanh số cho vay doanh nghiệp (DN) thì mức
tăng trưởng có vẻ đều đặn hơn năm 2010 là
491,227 tỷ đồng tăng lên 556,335 triệu đồng
vào năm 2011 và đến năm 2012 là 632,357
triệu đồng. Sự khác biệt này cho thấy VIB đã
thực hiện theo chỉ đạo của NHNN về việc mở
rộng cho vay doanh nghiệp sản xuất, thu hẹp
cho vay tiêu dùng bởi vậy mà tổng doanh số
cho vay có tốc độ tăng ít hơn trong khi doanh số
cho vay DN lại tăng nhiều hơn và ổn định hơn.
Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng
của VIB Thái Nguyên
Hoạt động của một ngân hàng thương mại
được đánh giá là tốt và lành mạnh là thu nhập
từ hoạt động cho vay phải đóng vai trò chủ
đạo trong tổng thu nhập của ngân hàng.
Từ bảng 3, rút ra nhận xét là tỷ trọng của thu
nhập từ hoạt động tín dụng trên tổng thu nhập
của VIB Thái Nguyên luôn ổn định ở mức rất
cao, khoảng 86% mỗi năm. Tỷ lệ này ở mức
như vậy là tốt và hợp lý, vì ngoài hoạt động
tín dụng, VIB Thái Nguyên, nằm giữa trung
tâm thành phố Thái Nguyên, còn thực hiện
những hoạt động, dịch vụ ngân hàng khác của
một ngân hàng hiện đại, và những hoạt động
đó cũng đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho
VIB Thái Nguyên. Điều này cũng thể hiện
việc đa dạng hoá đầu tư hay phân tán rủi ro
tốt của VIB Thái Nguyên.
Nguyễn Thu Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 191 - 197
193
Bảng 3: Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng tại VIB Thái Nguyên
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm
2010
Năm
2011
Năm
2012
2011/2010 2012/2011
+/- (%)+/- +/- (%)+/-
Thu nhập trước thuế từ hoạt động
tín dụng 108,14 167,84 244,71 59,7 35,57 76,87 31,41
Tổng thu nhập trước thuế 138,32 205,41 287,2 67,09 32,66 81,79 28,48
Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín
dụng(%) 84,78 85,84 87,76 1,06 1,23 1,92 2,19
(Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng tại VIB Thái Nguyên các năm 2010 - 2012)
Bảng 4: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tại VIB Thái Nguyên
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm
2010
Năm
2011
Năm
2012
2011/2010 2012/2011
+/- (%)+/- +/- (%)+/-
Tổng dư nợ bình
quân 884,203 957,713 1.030,867 73,51 7,68 73,15 7,1
Tổng dư nợ quá
hạn bình quân 26,526 36,776 36,080 10,25 27,87 -0,696 -1,93
Tỷ lệ quá hạn trên
tổng dư nợ (%) 3 3,84 3,5 0,84 21,88 -0,34 -9,71
(Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng tại VIB Thái Nguyên giai đoạn 2010-2012)
Chỉ tiêu nơ xấu
Các chỉ tiêu về nợ quá hạn là những chỉ tiêu
rất quan trọng và được sử dụng phổ biến nhất
khi người ta đánh giá rủi ro tín dụng cũng như
hiệu quả tín dụng tại ngân hàng thương mại.
Tỷ lệ nợ quá hạn cao hay thấp cho thấy quá
trình cho vay có tăng trưởng lành mạnh hay
không, bởi nếu doanh số cho vay cao hơn, dư
nợ tín dụng lớn hơn nhưng không thu hồi
được nợ thì không hiệu quả bằng việc cho vay
thấp hơn, dư nợ thấp hơn nhưng tỷ lệ nợ lành
mạnh lớn hơn, nợ quá hạn ở mức cho phép.
Qua bảng 4 ta thấy: tỷ lệ nợ quá hạn ngân
hàng dưới 4%, đây là tỷ lệ nợ quá hạn chấp
nhận được, vì là bất kỳ một ngân hàng thương
mại nào cũng phải chấp nhận nợ quá hạn, rủi
ro như là vấn đề tất yếu trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại. Vấn đề mà
ngân hàng thương mại phải giải quyết không
phải là tìm cách nào để loại trừ hoàn toàn nợ
quá hạn, mà là khống chế tỷ lệ nợ quá hạn ở
một mức độ thấp nhất có thể.
Tuy nhiên, VIB Thái Nguyên vẫn cần phải có
những biện pháp để củng cố và nâng cao
những thành tích đã đạt được trong vấn đề về
nợ quá hạn này, để giảm thiểu nợ quá hạn,
cũng như tỷ lệ nợ quá hạn. Muốn vậy, một
trong những công việc đơn vị cần làm là tìm
hiểu sâu về đặc điểm của các khoản nợ đã trở
thành nợ quá hạn.
Đánh giá chung về chất lương tín dụng tại
VIB Thái Nguyên giai đoạn 2010 - 2012
Ưu điểm
Về độ an toàn của hoạt động tín dụng, các chỉ
tiêu đã phân tích cho thấy độ an toàn tín dụng
tại VIB Thái Nguyên những năm vừa qua đã
dần được cải thiện, cụ thể là chỉ tiêu tỷ lệ nợ
quá hạn và chỉ tiêu tỷ lệ mất vốn khá thấp và
có giảm dần qua các nặm.
Về khả năng sinh lời, trong những năm
nghiên cứu, mức sinh lời vốn tín dụng của
VIB Thái Nguyên ở mức khả quan, thu nhập
từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng thu nhập của đơn vị và ngày càng
tăng thêm cùng với sự tăng trưởng dư nợ.
Hoạt động tín dụng của VIB Thái Nguyên
ngày càng được mở rộng, thể hiện ở tốc độ
Nguyễn Thu Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 191 - 197
194
tăng trưởng tín dụng qua các năm, năm sau có
tốc độ tăng trưởng cao hơn năm trước.
Việc mở rộng tín dụng kết hợp với đa dạng
hoá các hình thức tín dụng, cùng với việc mở
rộng đối tượng cho vay đã tạo điều kiện cho
việc tiếp cận giữa vốn tín dụng ngân hàng với
doanh nghiệp được thuận lợi hơn.
Công tác thẩm định và tổ chức quản lý tín
dụng của VIB Thái Nguyên ngày càng được
hoàn thiện và nâng cao, góp phần giảm thiểu
và khống chế rủi ro tín dụng cũng như nâng
cao hiệu quả tín dụng tại đơn vị.
Hạn chế trong hoạt động tín dụng tại VIB
Thái Nguyên
Thứ nhất, tăng trưởng tín dụng của VIB chưa
phù hợp với khả năng huy động vốn qua các
năm. Công tác huy động nguồn vốn trung dài
hạn từ cá nhân và tổ chức kinh tế còn hạn chế
chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn vay trung và dài
hạn của khách hàng để đầu tư hoạt động kinh
doanh. Hoạt động tín dụng của VIB chủ yếu
dựa vào nguồn huy động ngắn hạn tài trợ cho
vay trung dài hạn.
Thứ hai, nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu còn cao, điều
đó cho thấy hoạt động tín dụng tiềm ẩn nhiều
rủi ro, chất lượng tín dụng chưa cao.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực liên quan
đến hoạt động tín dung của ngân hàng còn có
nhiều thiếu sót cần được cải thiện.
Thứ tư, hệ số an toàn vốn (CAR) của VIB
chưa cao so với yêu cầu hội nhập quốc tế.
VIB cần nâng cao tiềm lực tài chính và uy tín
của mình trong nước và trên thế giới
Nguyên nhân những hạn chế
Chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng còn hạn chế
Yêu cầu đối với cán bộ tín dụng là phải hiểu
biết về lĩnh vực chuyên môn mà khách hàng
của mình đang hoạt động sản xuất kinh
doanh. Hiện nay tại VIB Thái Nguyên việc
phân công cán bộ tín dụng được dựa theo địa
bàn hoặc thành phần kinh tế. Với cách phân
công như vậy đã gây khó khăn cho cán bộ
tín dụng trong việc thu thập và xử lý thông
tin tín dụng.
Trình độ thẩm định của cán bộ tín dụng còn
chưa cao. Nhiều cán bộ thẩm định dự án mặc
dù đã được qua đào tạo nhưng trong chưa thích
ứng với cơ chế thị trường, mới ở mức bổ túc
thông tin mới, chưa thực sự đào tạo bài bản.
Công tác thẩm định trước khi cho vay chưa
thực sự hiệu quả
Tại VIB Thái Nguyên, nhiều khoản nợ trở
thành quá hạn còn quá chú trọng vào tài sản
đảm bảo, chưa chú trọng đúng mức đến tính
khả thi, hiệu quả dự án, hoặc đánh giá không
chính xác về giá trị tài sản đảm bảo, dẫn đến
khi rủi ro xảy ra, khó xử lý tài sản đảm bảo và
phát mại tài sản đảm bảo được.
Ngoài ra, trong công tác thẩm định trước khi
cho vay, VIB Thái Nguyên chưa chú ý tìm
hiểu về khách hàng qua các đối tượng có liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
khách hàng đó.
Công tác huy động vốn còn nhiều hạn chế
Các hình thức huy động vốn của VIB Thái
Nguyên hiện nay tuy khá đa dạng nhưng chưa
có sự khác biệt nhiều so với ngân hàng khác,
dẫn đến hiệu quả của công tác huy động vốn
chưa cao, ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả
tín dụng.
Bên cạnh đó, chiến lược Marketing cho công
tác huy động vốn cũng cần được đổi mới, cải
tiến hơn nữa mới có thể góp phần nâng cao
hiệu quả của công tác huy động vốn của VIB
Thái Nguyêntrong thời gian tới.
Chiến lược khách hàng đối với khách hàng tín
dụng còn chưa mang tính năng động
Chiến lược khách hàng của VIB Thái Nguyên
chưa quan tâm đúng mức tới các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, khiến cho tỷ trọng cho
vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn
thấp trong tổng dư nợ. Trong khi đó đây là bộ
phận kinh tế ngày càng linh hoạt, và năng
động, nhiều triển vọng phát triển mạnh với
nhu cầu vốn lớn.
Hiệu quả của hệ thống thông tin tín dụng còn
chưa cao
Hiện VIB Thái Nguyên mới chỉ có phòng
thông tin điện toán, với chức năng chủ yếu là
Nguyễn Thu Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 191 - 197
195
thực hiện công tác duy trì hệ thống, bảo trì,
bảo dưỡng máy tính, đảm bảo thông suốt hoạt
động của hệ thống máy tính của chi nhánh.
Như vậy, VIB Thái Nguyên chưa có bộ phận
chuyên trách thu thập thông tin tín dụng.
Ngoài ra, trong việc khai thác thông tin tín
dụng, VIB Thái Nguyên chưa áp dụng được
những phương tiện, công cụ hiện đại và tiện
ích, theo kịp công nghệ hàng đầu thế giới. Từ
đó, hệ thống thông tin tín dụng chưa có được
sự nhạy bén, hiệu quả để có thể phục vụ đắc
lực cho việc nâng cao hiệu quả tín dụng tại
đơn vị.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI CỔ PHẦN QUỐC TẾ VIỆT NAM CHI
NHÁNH THÁI NGUYÊN ĐẾN NĂM 2015
Đa dạng hóa đối tượng khách hàng
Một ngân hàng thương mại được đánh giá có
chất lượng tốt thể hiện quy mô tín dụng ngày
càng tăng trưởng. Để mở rộng hoạt động tín
dụng, VIB Thái Nguyên cần đa dạng hóa đối
tượng khách hàng:
Đối với doanh nghiệp có uy tín, kinh doanh
có hiệu quả và các doanh nghiệp truyền thống
của ngân hàng thì VIB Thái Nguyên tiếp tục
củng cố mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc
các khách hàng này về ưu đãi lãi suất, phí,
mua bán ngoại tệ, dịch vụ tư vấn, rút ngắn
thời gian giao dịch…
Từ trước đến nay, khách hàng có quan hệ tín
dụng với VIB Thái Nguyên chủ yếu là khách
hàng doanh nghiệp lớn thì thời gian tới VIB
Thái Nguyên cần tập trung hướng tới các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân, hộ kinh
doanh cá thể. Mặc dù quy định về cho vay
thành phần kinh tế này đòi hởi chặt chẽ, đảm
bảo mức an toàn cao nhưng không vì thế mà
ngân hàng không cho vay thờ ơ với khách
hàng, coi những khoản vay này là nhỏ bé…
Trong việc mở rộng đối tượng khách hàng,
chắc chắn sẽ có các khách hàng chuyển quan
hệ tín dụng từ các ngân hàng khác sang quan
hệ tín dụng với ngân hàng, vì vậy VIB Thái
Nguyên cần tuân thủ đúng các quy định tín
dụng hiện hành của Ngân hàng Nhà nước.
Không vì đặt mục tiêu cạnh tranh khách hàng
mà nói lỏng các điều kiện cấp tín dụng. Đảm
bảo mở rộng tín dụng an toàn, hiệu quả.
Bên cạnh đó, thường xuyên tổ chức hội nghị
khách hàng để lắng nghe ý kiến đóng góp của
doanh nghiệp về sản phẩm tín dụng và nhu
cầu phát sinh. Qua đó giúp VIB Thái Nguyên
hoàn thiện quy trình cung ứng sản phẩm tín
dụng và chính sách chăm sóc khách hàng
nhằm hướng đến sự thỏa mãn tốt hơn nhu cầu
của khách hàng.
Chính sách chăm sóc đối với từng đối tượng
khách hàng
Việc đảm bảo sự thành công của bất cứ doanh
nghiệp nào cũng phải kể đến chính sách chăm
sóc khách hàng và đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động kinh doanh hiện nay. Trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường,
chăm sóc khách hàng được xem như một
trong những phương tiện hữu hiệu đảm bảo
cho ngân hàng đạt được hiệu quả kinh doanh.
Một ngân hàng thương mại xây dựng và thực
hiện tốt chính sách chăm sóc cho từng đối
tượng khách hàng là hình thức quảng cáo
miễn phí nhưng mang lại hiệu quả cao cho
ngân hàng.
Đối với khách hàng tiềm năng: Khách hàng
tiềm năng là khách hàng chưa sử dụng sản
phẩm dịch vụ của VIB Thái Nguyên và khách
hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của các tổ
chức tín dung khác. VIB Thái Nguyên căn cứ
vào đặc điểm của mỗi sản phẩm dịch vụ, khảo
sát thị trường, đánh giá kết quả kiểm tra, xác
định thị trường mục tiêu cho mỗi sản phẩm
dịch vụ trên từng địa bàn.
Đối với khách hàng vừa và nhỏ: Ngân hàng
nên thực hiện điều tra, nghiên cứu nhu cầu
một số khách hàng tiêu biểu nhằm tìm hiểu và
nắm bắt các yêu cầu của khách hàng. Thực
hiện các giải pháp tiếp thị, quảng cáo trực tiếp
tới khách hàng nhằm duy trì khách hàng sử
dụng sản phẩm dịch vụ của mình. Thực hiện
các hoạt ðộng chãm sóc khách hàng nhý các
Nguyễn Thu Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 191 - 197
196
hình thức khuyến mãi riêng; tặng quà nhân
dịp các sự kiện lớn.
Đối với khách hàng chủ yếu: VIB Thái
Nguyên cần quan tâm chăm sóc các khách
hàng hiện có nhằm tạo quan hệ tốt với các
khách hàng để kích thích, gia tăng nhu cầu,
giữ vững và phát triển các sản phẩm dịch vụ
tín dụng mới đối với khách hàng.
Đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ tín dụng
Nghiên cứu cung cấp sản phẩm tín dụng mới
phù hợp với từng đối tượng khách hàng dựa
trên việc phân tích cơ cấu thị phần tín dụng,
điểm mạnh và điểm yếu của đối thủ cạnh
tranh. Trên cơ sở đó VIB Thái Nguyên tập
trung vào phát triển sản phẩm có lợi thế và có
thể chiếm thị phần lớn nhất. Thực tế cho thấy
nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ tín dụng
ngân hàng của mỗi loại khách hàng là khác
nhau.Vì vậy, để thu hút được nhiều khách
hàng, VIB Thái Nguyên cần tăng cường thực
hiện các hình thức cấp tín dụng đa dạng và
phù hợp hơn. Hơn nữa, đa dạng hóa sản
phẩm, dịch vụ tín dụng luôn hướng đến.
Trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa
hiện nay, việc VIB Thái Nguyên không xây
dựng và triển khai các hình thức tín dụng đa
dạng đồng nghĩa với việc bản thân ngân hàng
tự loại bỏ cơ hội giảm thiểu rủi ro của mình.
Để góp phần đa dạng hóa hoạt động tín dụng
của mình, VIB Thái Nguyên cần áp dụng thực
hiện các hình thức cấp tín dụng như: đồng tài
trợ, bao thanh toán, bảo lãnh.
+ Nâng cao hoạt động marketing:
Đẩy mạnh hoạt động marketing góp phần
nâng cao uy tín của VIB Thái Nguyên bên
cạnh việc cung cấp các nghiệp vụ phù hợp với
nhu cầu của khách hàng.
+ Hoàn thiện quy trình tín dụng
Quy trình cho vay phải đảm bảo các nguyên
tắc cơ bản sau:
- Phải phù hợp việc cải tiến bộ máy giám sát
chất lượng tín dụng
- Tách bạch các chức năng nhằm đáp ứng
được yêu cầu quản lý rủi ro trong hoạt động:
Khởi tạo tín dụng, rà soát rủi ro trình phê
duyệt tín dụng, quản trị tín dụng, tạo khả năng
kiểm soát và xác định trách nhiệm liên quan
của các thành viên trong bộ máy đối với chất
lượng tín dụng của ngân hàng.
- Xây dựng phương thức quản lý quan hệ tổng
thể với khách hàng bảo đảm tính thông suốt
trong quản lý theo chiều dọc (theo các khối)
và theo chiều ngang (theo chi nhánh) để việc
xử lý các luồng thông tin, báo cáo được nhanh
chóng, rõ ràng và không bị trùng lặp, đảm bảo
tính linh hoạt trong cấp tín dụng cho khách
hàng, đảm bảo tín cạnh tranh của ngân hàng.
+ Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng theo
thông lệ quốc tế
Để nâng cao chất lượng tín dụng và từng bước
chuẩn hóa công tác quản trị rủi ro theo thông lệ
quốc tế thì việc xây dựng và áp dụng một quy
trình chấm điểm tín dụng và phân loại khách
hàng khoa học đóng vai trò quan trọng.
+ Nâng cao công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động
tín dụng là một biện pháp quan trọng vì thông
qua hoạt động này có thể phát hiện, ngăn
ngừa những sai sót trong quá trình thực hiện
nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt động
kiểm tra, kiểm soát cũng phát hiện điều đó
nhằm hạn chế rủi ro nâng cao chất lượng tín
dụng ngân hàng
+ Hoàn thiện chính sách về tài sản đảm bảo
VIB nên thành lập bộ phận chuyên định giá
tài sản đảm bảo. Trong những năm tới, cùng
với sự phát triển của đất nước thì ngày càng
có nhiều doanh nghiệp ra đời và cần vốn vay
ngân hàng bằng hình thức thế chấp tài sản
nhằm mở rộng quy mô kinh doanh, phát triển
sản xuất. Do đó, công việc định giá có ý nghĩa
to lớn trong quyết định cho vay của ngân
hàng nên chỉ có bộ phận chuyên môn, thường
xuyên được bổ sung nguồn kiến thức về mọi
vấn đề có liên quan. Họ phải định giá các tài
sản đảm bảo có cấu trúc phức tạp như công
trình xây dựng, cơ sở hạ tầng… Sau đó, phải
thông báo bằng văn bản cho từng cán bộ tín
Nguyễn Thu Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 191 - 197
197
dụng đã trực tiếp nhận hồ sơ của chính khách
hàng đó.
+ Xây dựng hệ thống thông tin tín dụng
VIB cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu
chứa đựng những thông tin phong phú bổ ích
tạo điều kiện cho mọi cán bộ tín dụng có thể
truy cập để phục vụ tốt nhất cho công việc
được giao. Việc xây dựng hệ thống thông tin
tín dụng phải được thực hiện trên nguyên tắc
“Hiểu biết khách hàng”
Bên cạnh đó, VIB cần nâng cao khả năng sinh
lời và khả năng thanh toán. Mở rộng hoạt
động cho vay đồng thời hạn chế rủi ro tín
dụng và đảm bảo tăng khả năng thanh khoản
trên cơ sở tạo sự cân đối giữa nguồn vốn và
sử dụng vốn, sự phù hợp về cấu trúc giữa tài
sản có và tài sản nợ.
KẾT LUẬN
Bài viết với nội dung giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc tế
VIB Thái Nguyên giải quyết cơ bản những
vấn đề sau:
- Luận giải một cách có hệ thống các chỉ tiêu
phản ánh chất lượng tín dụng và nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng trong việc
nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng
- Đánh giá được thực trạng chất lượng tín
dụng tại VIB - Chi nhánh Thái Nguyên
- Chỉ ra các thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân của hạn chế về thực trạng chất lượng tín
dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam
- Chi nhánh Thái Nguyên
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng tín dụng tại VIB - Chi nhánh
Thái Nguyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Basel II (2008), Sự thống nhất quốc tế về đo lường
và các tiêu chuẩn vốn, Nxb Văn hóa Thông tin
2. Lê Thị Huyền Diệu (2007), Mô hình quản lý rủi
ro tín dụng ở Citibank, số 16 - Tạp chí Ngân hàng
3. Phan Đức Dũng (2009), Phân tích báo cáo tài
chính và định giá doanh nghiệp, Nxb Thống Kê
4. Frederic S. Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng
và thị trường tài chính, Nxb Khoa học Kỹ thuật
5. Ngân hàng Nhà nước (2005), Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 04 năm 2005
của Ngân hàng Nhà nước ban hành quy định về phân
loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong
hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
SUMMARY
SOLUTIONS TO IMPROVE THE LENDING QUALITY IN VIET NAM
INTERNATONAL BANK VIB – THAI NGUYEN BRANCH
Nguyen Thu Nga*, Tran Thi Thuy Linh, Dang Trung Kien College of Economics and Business Administration
Viet Nam International Bank – Thai Nguyen Branch (hereinafter referred to as VIB Thai Nguyen)
was established in 2007 with credit operations primarily, confirming the role of the banking
system is an important financial intermediaries of the economy. With the goal of sustainable
development, especially in the period of integration and economies are in the doldrums today.
Finding solutions that enhance credit quality through researching and evaluating business
operations and credit quality analysis of VIB Thai Nguyen will play an important role in the credit
activity of the banking and business operations of commercial banks.
Key word: lending quality, VIB bank, Thai Nguyen
Ngày nhận bài:12/5/2014; Ngày phản biện:28/5/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Đình Tuấn – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0915 505626
Nguyễn Thu Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 191 - 197
198
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205
199
TÌNH HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
HÀ GIANG TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
Nguyễn Thị Phương Nga1, Nguyễn Xuân Trường2* 1Trường Phổ thông vùng cao Việt Bắc, 2Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT Cùng với sự kiện cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận là công viên địa chất toàn cầu, trong
những năm gần đây, du lịch Hà Giang được biết đến là điểm du lịch đầy mới lạ. Song song với
việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đa dạng hóa loại hình du lịch, khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch
sẵn có, du lịch Hà Giang đã đạt được những thành quả nhất định trong quá trình phát triển. Các chỉ
tiêu hoạt động ngành như: nguồn khách, doanh thu, lao động, cơ sở vật chất kĩ thuật,…đều tăng
trưởng cả về số lượng và chất lượng. Vấn đề đặt ra đối với tỉnh là cần xây dựng một hệ thống các
giải pháp thiết thực và đồng bộ để phát huy tối đa lợi thế của mình nhằm tăng sức hấp dẫn đối với du
khách, chắp cánh cho du lịch Hà Giang đủ sức vươn lên trong xu thế hội nhập.
Từ khóa: Hà Giang, du lịch, hội nhập.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Cùng với sự kiện cao nguyên đá Đồng Văn
được công nhận là công viên địa chất toàn
cầu, trong những năm gần đây, du lịch Hà
Giang được biết đến là điểm du lịch đầy mới
lạ. Được đánh giá là vùng đất nguyên sơ,
thuần khiết, còn nhiều bí ẩn thôi thúc sự khám
phá của du khách, tỉnh Hà Giang đã bước đầu
khơi dậy tiềm năng của địa phương và đặt
mục tiêu với nhiều kỳ vọng cho việc phát
triển ngành kinh tế du lịch nơi địa đầu Tổ
quốc. Với những bước đi ban đầu, cùng với
chính sách đầu tư, hoàn thiện cơ sở hạ tầng,
đa dạng hóa loại hình du lịch, khai thác hiệu
quả tài nguyên du lịch sẵn có, du lịch Hà
Giang đã đạt được những thành quả nhất định
trong quá trình phát triển của mình. Các chỉ
tiêu hoạt động ngành như: nguồn khách,
doanh thu, lao động, cơ sở vật chất kĩ thuật …
đều tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng.
NỘI DUNG
Những lơi thế của du lịch Hà Giang
Hà Giang có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát
triển du lịch so với cả nước nói chung, các
tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng, đó là:
- Sức hấp dẫn, mời gọi của địa danh du lịch
mới trên bản đồ du lịch Việt Nam: Cột cờ
* Tel: 0914 765087
Lũng Cú - Đồng Văn, cảnh quan đẹp và hùng
vĩ của sông Nho Quế và đèo Mã Pì Lèng; chợ
vùng cao Hà Giang, chợ tình Khâu Vai…,
những khối núi đất hùng vĩ với những thửa
ruộng bậc thang nối tiếp nhau ở những huyện
miền Tây (Hoàng Su Phì, Xín Mần), đặc biệt
là cao nguyên đá Đồng Văn đã được
UNESCO công nhận là Công viên địa chất
toàn cầu vào ngày 03/10/2010. Từ đây, hình
ảnh du lịch Hà Giang đã được quảng bá ra thế
giới và trong nước.
- Sức hấp dẫn của một vùng văn hóa đậm đà
bản sắc của cộng đồng các dân tộc. Hà Giang
là nơi hội tụ của 22 dân tộc anh em như
Mông, Dao, Pu Péo, Tày, Nùng, Pu Péo, Cờ
Lao, La Chí, Bố Y… Những nét văn hóa đặc
sắc, hoàn toàn khác biệt so với nhiều địa
phương khác trong vùng cũng như trong cả
nước, đặc biệt là văn hóa thích ứng và ứng xử
với môi trường tự nhiên vùng cao nguyên đá
của đồng bào dân tộc.
- Môi trường sống an toàn và ổn định, người
dân thân thiện. Cộng đồng các dân tộc vùng
cao đa dạng, đa bản sắc văn hóa, hiếu khách,
trung thực cùng với sự hấp dẫn của cảnh quan
thiên nhiên tạo nên một môi trường sống thỏa
mái và thư giãn đối với du khách.
- Sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Trung ương
và địa phương đến phát triển du lịch Hà
Giang. Theo quy hoạch phát triển du lịch Việt
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205
200
Nam tầm nhìn đến năm 2030, để tập trung ưu
tiên phát triển các khu du lịch quốc gia, từ
năm 2013 đến năm 2015, Tổng cục Du lịch
phối hợp với các địa phương sẽ lập quy
hoạch cho 10 khu du lịch trọng điểm quốc
gia, trong đó có Công viên Địa chất Đồng
Văn (Hà Giang).
Với điều kiện về tài nguyên du lịch sẵn có, Hà
Giang có nhiều thuận lợi để đa dạng hóa các
sản phẩm du lịch, tạo ra các sản phẩm đặc
thù. Một số sản phẩm du lịch tiêu biểu của Hà
Giang hiện có: (i) Sản phẩm du lịch văn hóa
lễ hội gắn với các di tích lịch sử văn hóa, các
đặc trưng văn hóa của các dân tộc ít người;
(ii) Sản phẩm du lịch sinh thái (khu bảo tồn
như Tây Côn Lĩnh, Phong Quang, Du Già,
Bát Đại Sơn, Bắc Mê, Khau Ca, rừng nguyên
sinh đèo Gió - thác Tiên; các danh thắng như
núi Cô Tiên, cổng trời Quản bạ); (iii) Sản
phẩm du lịch nghỉ dưỡng gắn với các nguồn
nước khoáng (suối khoáng Thượng Sơn, suối
nước nóng Quảng Ngần (huyện Vị Xuyên),
suối nước nóng Quảng Nguyên (huyện Xín
Mần),…(iv) Sản phẩm du lịch cộng đồng (các
bản dân tộc thiểu số với bản sắc văn hóa đặc
trưng kết hợp môi trường cảnh quan, nghề thủ
công truyền thống tạo thành nguồn tài nguyên
giá trị để phát triển du lịch cộng đồng tỉnh Hà
Giang); (v) Sản phẩm du lịch mạo hiểm (leo
núi Tây Côn Lĩnh, đi thuyền vượt thác hẻm
vực sông Nho Quế,...).
Tình hình phát triển du lịch tỉnh Hà Giang
giai đoạn 2000 - 2012
Thu hút khách du lịch
Trong hơn 10 năm trở lại đây (2000 - 2012),
hoạt động du lịch Hà Giang bước đầu đạt kết
quả đáng khích lệ, đặc biệt là sau năm 2010
khi cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận
là Công viên địa chất quốc tế đầu tiên ở Việt
Nam. Lượng khách du lịch đến Hà Giang
không ngừng tăng với tốc độ tăng trưởng
khách trung bình năm khá nhanh. Số liệu
thống kê qua các năm cho thấy năm 2000, Hà
Giang đón được 30.236 lượt khách, năm 2005
đón 69.408 lượt khách, năm 2008 đón
188.091 lượt khách, năm 2009 đón 250.532
lượt khách, năm 2010 đón 301.330 lượt
khách, năm 2011 đón gần 330.000 lượt khách
và năm 2012 đón 417.809 lượt khách. [3].
Khách du lịch quốc tế
Khách du lịch quốc tế đến Hà Giang du lịch
với mục đích thăm quan vãn cảnh trên cao
nguyên đá, du lịch mạo hiểm (leo núi, đi
xuồng cao su khám phá hẻm vực sông Nho
Quế), du lịch nghiên cứu (khám phá cảnh
quan nguyên sinh, thăm thú hang động), du
lịch văn hoá (tìm hiểu nếp sống văn hoá bản
địa, văn hóa làng bản, chợ vùng cao)... Các
năm 2011, 2012, khách du lịch quốc tế tăng
nhanh và đột biến. Số liệu cho thấy, năm
2000 khách quốc tế đạt 13.796 lượt khách;
năm 2005 đạt 31.868 lượt khách; năm 2010
đạt 48.030 lượt khách, chiếm xấp xỉ 20% tổng
số du khách đến Hà Giang; năm 2012 đạt
126.859 lượt khách, chiếm hơn 30% trong
tổng số khách du lịch.
Khách du lịch quốc tế đến Hà Giang đến từ
nhiều nước khác nhau, đông nhất là thị trường
khách Trung Quốc. Lượng khách từ thị
trường Trung Quốc luôn chiếm từ 89 - 95,5%
(năm 2013 khách Trung quốc chiếm hơn
97%) ; thị trường truyền thống châu Âu chiếm
từ 2,5 - 4%; thị trường Úc chiếm 0,3 - 0,4% ;
Bắc Mỹ từ 0,1 - 0,23%, ngoài ra còn thị trường
Trung Đông, Đông Nam Á và các thị trường
khác chiếm số lượng không đáng kể. [4]
Khách du lịch nội địa
Khách du lịch nội địa đến Hà Giang theo xu
hướng chung tăng nhanh với tốc độ tăng
trưởng trung bình giai đoạn 2000 - 2012 đạt
27%/năm, trong đó nếu chỉ tính cho giai đoạn
2000 - 2010 đạt 34,1%. Số liệu cho thấy, năm
2000 du lịch Hà Giang đón được 16.440 lượt
khách nội địa, năm 2005 đạt 37.450 lượt, năm
2010 đón 253.300 lượt và năm 2012 đón
được 290.950 lượt. [4]
Mặc dù tốc độ tăng trưởng của lượng khách
du lịch cao trong hơn 10 năm, song so với
một số tỉnh, lượng khách đến Hà Giang bằng
1/2 lượng khách của Lào Cai, 1/5 lượng
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205
201
khách của Lạng Sơn (năm 2012). Cả 3 địa
phương trên cùng là địa phương giáp biên,
tuy nhiên số khách quốc tế đến Lạng Sơn cao
hơn gấp hơn 5 lần của Hà Giang, Lào Cai
cũng cao hơn gấp đôi. Điều này cho thấy, khả
năng thu hút khách của Hà Giang còn lớn,
thúc đẩy ngành du lịch cần có định hướng
quảng bá, xây dựng các sản phẩm du lịch độc
đáo, hấp dẫn.
Doanh thu du lịch
Theo số liệu thống kê của ngành du lịch Hà
Giang, tổng thu từ du lịch của tỉnh những năm
qua đã có sự tăng trưởng đáng kể. Năm 2000
mới đạt 17 tỷ đồng, năm 2005 đạt 95 tỷ đồng;
năm 2010 đạt 308 tỷ đồng, năm 2012 đạt 327 tỷ
đồng đạt mức tăng trưởng xấp xỉ 30%/năm. [2]
Mặc dù tốc độ tăng trưởng cao nhưng với
mức 327 tỷ đồng năm 2012, du lịch Hà Giang
chưa khai thác được nhiều mức chi tiêu từ du
khách. Đến nay, do hoạt động lữ hành và vận
chuyển du lịch trên địa bàn Hà Giang còn hạn
chế, nên hầu hết nguồn thu từ hoạt động du
lịch được thu từ các cơ sở lưu trú du lịch. Căn
cứ trên các số liệu tổng thu từ khách du lịch,
sau khi trừ chi phí trung gian (lưu trú: 10 -
15%; ăn uống: 60 - 65%; vận chuyển du lịch:
20 - 25%; bán hàng lưu niệm: 5 - 7%; dịch vụ
khác: 15 - 20), thì khả năng đóng góp GDP
của ngành du lịch Hà Giang năm 2000 đạt
xấp xỉ 11 tỷ đồng, năm 2005 đạt 62 tỷ, năm
2010 đạt 200 tỷ và năm 2012 đạt gần 215 tỷ
đồng.[3].
Về chi tiêu của khách du lịch, theo thống kê
của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà
Giang thì giai đoạn 2000 - 2012, chi tiêu của
khách du lịch quốc tế tăng từ 150.000 VND
(tương đương 10 USD) năm 2000, lên
200.000 VNĐ (tương đương 12 USD) năm
2005 và khoảng 500.000 VNĐ (25 USD) năm
2010, hiện nay ở mức 650.000 – 730.00
VNĐ.[2]. Khách du lịch nội địa chi tiêu trong
khoảng 80.000 đồng/ngày (năm 2000) lên
200.000 đồng (năm 2005) và hiện nay khoảng
500.000 đồng (tương đương 25USD). Khách
du lịch chủ yếu chi tiêu nhiều cho các dịch vụ
lưu trú (dao động từ 50% - 55%) và ăn uống
(tỷ lệ này dao động 24% - 25%). [2]
Nguyên nhân của vấn đề trên là do cơ sở vật
chất kĩ thuật phục vụ du lịch còn hạn chế,
chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng được nhu
cầu của khách du lịch. Ở một số điểm du lịch,
hoạt động dịch vụ gần như không có hoặc
hoạt động không có hiệu quả, dẫn đến thời
gian lưu trú của khách không dài, làm giảm
nguồn thu của ngành.
Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch
Trong giai đoạn 2000 - 2012, hệ thống cơ sở
lưu trú tỉnh Hà Giang đã phát triển với tốc độ
khá nhanh. Năm 2000, cả tỉnh chỉ có 32 cơ sở
lưu trú với 264 buồng, thì đến năm 2005 số
cơ sở lưu trú tăng lên 69 cơ sở với 810 buồng,
năm 2010 toàn tỉnh có 100 cơ sở với 1.340
buồng, năm 2012 có 111 cơ sở với 1.669
buồng [3]. Tốc độ tăng trưởng trung bình cho
giai đoạn 2000 - 2012 về cơ sở lưu trú du lịch là
11%/năm, về số buồng là 16,6%/năm. Điều đó
chứng tỏ quy mô cơ sở lưu trú ngày càng lớn.
Bảng 1: Số lượng khách du lịch của Hà Giang và so sánh với một số địa phương
trong vùng giai đoạn 2000 - 2012 (Đơn vị: Lượt khách)
Tỉnh Khách du lịch 2000 2003 2005 2007 2010 2012
Hà Giang
Quốc tế 13.796 23.502 31.868 44.780 48.030 126.859
Nội địa 16.440 27.500 37.450 121.060 253.300 290.950
Tổng số 30.236 51.002 69.408 165.840 301.330 417.809
Lạng Sơn
Quốc tế 60.000 68.000 85.000 85.000 250.000 247.900
Nội địa 120.000 475.000 850.000 1.307.000 1.650.000 1.760.660
Tổng số 180.000 543.000 935.000 1.392.000 1.900.000 2.008.560
Lào Cai
Quốc tế 141.200 135.000 180.000 223.000 389.007 375.530
Nội địa 69.300 245.000 330.000 409.000 499.390 573.080
Tổng số 210.500 380.000 510.000 632.000 888.397 948.610
Nguồn: Tổng hợp từ [2 ], [3 ]
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205
202
Bảng 2: Số cơ sở lưu trú ở Hà Giang và so sánh với một số địa phương
trong vùng giai đoạn 2005 – 2012
Tỉnh
2005 2009 2010 2012
Cơ sở Buồng Cơ sở Buồng Cơ sở Buồng Cơ sở Buồng
Hà Giang 69 810 98 1.317 100 1.340 111 1.669
Cao Bằng 38 597 56 754 66 869 100 1288
Lào Cai 235 3.477 335 3.877 348 4.112 369 4.640
Vùng TDMNBB 1.281 18.026 1.707 21.765 1.889 24.148 2.298 29.309
Nguồn: Tổng hợp từ [3]
Trong số các cơ sở lưu trú, chủ yếu là cơ sở
được xếp hạng 1 sao, 2 sao, các khách sạn 3
sao trở lên chưa có. Năm 2007, Hà Giang có
1 khách sạn 2 sao, 8 khách sạn 1 sao, đến năm
2012, có 2 khách sạn 2 sao, 8 khách sạn 1 sao.
Như vậy, xét về chất lượng cơ sở lưu trú còn
tăng chậm, chủ yếu là các nhà nghỉ với quy
mô vừa và nhỏ. Số lượng các nhà nghỉ, khách
sạn còn ít so với nhu cầu của khách, đặc biệt là
chất lượng các cơ sở này còn hạn chế, làm ảnh
hưởng đến số ngày lưu trú của khách du lịch.
Công xuất sử dụng phòng bình quân đạt 65 -
70 %. Tuy nhiên, các cơ sở lưu trú phân bố
không đồng đều chủ yếu tập trung ở khu vực
thành phố Hà Giang, ở các huyện số lượng
còn ít, quy mô nhỏ nên thường xuyên thiếu
phòng cho khách du lịch vào các ngày cuối
tuần hoặc các ngày lễ hội như các huyện
Đồng Văn, Mèo Vạc... Trên thực tế, hoạt
động du lịch của Hà Giang tập trung vào một
số thời điểm nhất định chủ yếu vào tháng 10
đến tháng 3 năm sau. Vào những thời điểm này,
lượng khách du lịch đến Đồng Văn khá đông,
dẫn đến việc thiếu nhà nghỉ cho khách, những
thời gian còn lại số phòng trống khá nhiều.
Nhân lực hoạt động trong lĩnh vực du lịch
Lao động trong du lịch bao gồm lao động trực
tiếp và lao động gián tiếp. Lao động trực tiếp
là số lao động làm việc trong các công ty lữ
hành, khách sạn, nhà hàng và các cơ sở dịch
vụ khác. Ở Hà Giang, lao động trực tiếp trong
ngành du lịch còn hạn chế chiếm tỷ lệ thấp.
Theo số liệu thống kê, năm 2000 cả tỉnh có
120 lao động trong ngành du lịch, đến năm
2005 có 613 lao động, năm 2010 có 1.032 lao
động và năm 2012 có 1.038 lao động trực tiếp
trong ngành. Tốc độ tăng trưởng trung bình
lao động trong giai đoạn 2000 - 2012 là
19,6%. [3]
Nguồn nhân lực làm việc du lịch có trình độ
đại học và trên đại học ở mức độ thấp (Năm
2000 chiếm 7,5% năm 2005 chiếm 2,3%, năm
2012 chiếm 5,3% trên tổng số lao động). Lao
động có trình độ cao đẳng và trung học năm
2000 chiếm 12,5%, năm 2005 chiếm gần 5%,
năm 2012 chiếm xấp xỉ 10%. Số lao động
chưa qua đào tạo nghiệp vụ còn cao, trình độ
nghiệp vụ sơ cấp chiếm số lượng lớn.[2]
Số lượng lao động được tăng lên hàng năm
song chất lượng chuyên môn lại chưa được
cải thiện, trình độ ngọai ngữ còn rất thấp,
chưa đáp ứng yêu cầu của ngành. Số lượng
hướng dẫn viên được cấp thẻ còn thấp, năm
2012 có 6 hướng dẫn viên được cấp thẻ, trong
đó có 2 hướng dẫn viên cấp thẻ quốc tế, 4
hướng dẫn viên cấp thẻ nội địa. Như vậy, số
hướng dẫn viên có nghiệp vụ đáp ứng được
yêu cầu còn rất ít, ảnh hưởng lớn đến chất
lượng dịch vụ du lịch.
Đầu tư phát triển du lịch
Nhờ những chính sách đúng đắn, Hà Giang đã
huy động được một nguồn vốn ngày càng
tăng của Nhà nước và tư nhân đầu tư vào phát
triển du lịch, đặc biệt là đầu tư vào các điểm
du lịch tiềm năng của tỉnh. Năm 1999, tổng số
vốn đầu tư vào phát triển du lịch là 42,4 tỷ
đồng, trong đó đầu tư vào các điểm du lịch
37,5 tỷ đồng (chiếm 88,0% tổng số vốn đầu
tư); năm 2010, tổng số vốn đầu tư vào phát
triển du lịch là 566,0 tỷ đồng, đầu tư vào các
điểm du lịch chiếm 90,0% tổng số vốn đầu tư.
Bên cạnh đó, Hà Giang còn đang đầu tư xây
dựng một số công trình vui chơi, giải trí hiện
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205
203
đại có quy mô lớn như: Công viên nước Hà
Phương, khu du lịch núi Cấm, khu du lịch
Suối Tiên, Khu vui chơi Thạch Lâm Viên,...
Nhiều điểm du lịch đã được các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư xây dựng,
nâng cấp. Tuy nhiên với nguồn vốn còn hạn
chế cùng với việc thiếu các dự án quy hoạch
cụ thể cho từng khu, điểm du lịch nên thực tế
các điểm du lịch đó chưa được xây dựng hoàn
chỉnh và chưa khai thác được tiềm năng du
lịch ở đó. Một khâu không kém phần quan
trọng và đang được đầu tư chưa hợp lý chính
là Hà Giang chưa chú trọng vào xây dựng một
số cơ sở sản xuất các mặt hàng lưu niệm như:
lanh, lụa, tơ tằm, thổ cẩm,... vốn là một trong
những thế mạnh sẵn có của tỉnh.
Công tác Maketing và xúc tiến du lịch
Cùng với Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch,
trong thời gian qua các cơ quan chức năng và
chính quyền địa phương của tỉnh Hà Giang đã
chú trọng và có nhiều nỗ lực trong công tác
Maketing và quảng bá du lịch ở trong nước
cũng như ở nước ngoài.
Trong giai đoạn 2006- 2011, ngành du lịch
tỉnh đã tổ chức và tham gia tổ chức các hội
thảo làm việc với cán bộ ngành Trung ương,
các tỉnh bạn, các doanh nghiệp trong và ngoài
tỉnh nhằm tuyên truyền các chính sách của
tỉnh, khuyến khích các tổ chức cá nhân đầu tư
vào lĩnh vực hoạt đông kinh doanh du lịch
trên địa bàn tỉnh. Tổ chức được nhiều đoàn
Famtrip đến khảo sát du lịch tại Hà Giang,
tăng cường xúc tiến du lịch với tỉnh Vân Nam
(Trung Quốc). Tích cực tham gia nhiều hội
chợ quảng bá du lịch trong và ngoài nước.
Năm 2009, tham gia gian hàng quảng bá tại
Đồng Mô, trung tâm triển lãm Giảng Võ (Hà
Nội), hội chợ du lịch Sầm Sơn (Thanh Hóa);
Năm 2010, phối hợp với Trung tâm Văn hóa -
Triển lãm tham gia gian hàng hội chợ du lịch
tổ chức tại đền Hùng, tham gia gian hàng
triển lãm Festival sinh viên các dân tộc thiểu
số Việt Nam (Hà Nội), tham dự lễ hội văn
hóa ẩm thực thế giới Vũng Tàu - Việt Nam,
tham gia liên hoan du lịch quốc tế Thăng
Long - Hà Nội (Hà Nội)…Phối hợp với các
Công ty, các tập đoàn du lịch tổ chức xây
dựng sản phẩm du lịch, quảng bá hình ảnh và
con người Hà Giang đến với khách du lịch
châu Âu. Tăng cường các nội dung quảng bá
hình ảnh du lịch về danh lam thắng cảnh, di
tích, bản sắc dân tộc Hà Giang trên website
của ngành du lịch và website của Công viên
địa chất Đồng Văn.
Những hạn chế trong phát triển du lịch
- Xuất phát điểm du lịch của Hà Giang quá
thấp, cơ sở vật chất nơi đây vẫn khá nghèo nàn,
chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư,
làm giảm hiệu quả hoạt động của ngành.
- Việc quy hoạch và đầu tư du lịch chưa được
thực hiện bài bản, vẫn còn mang tính chất
phong trào và chưa có chiều sâu, điển hình
như việc đầu tư xây dựng dàn trải các làng
(thôn, bản) văn hóa du lịch tại các huyện, việc
đầu tư các khu vui chơi giải trí ở thành phố
Hà Giang rơi vào tình trạng đình đốn.
- Du lịch Hà Giang chưa tạo được bản sắc
riêng của mình, sản phẩm du lịch còn nghèo.
Công tác xúc tiến du lịch chưa được đầu tư
đúng mức, hình thức quảng bá chưa phong
phú, thiếu tính chuyên nghiệp. Thương hiệu
du lịch cũng chưa được chú trọng xây dựng
đúng mức để du khách có ấn tượng.
- Nguồn nhân lực cho ngành du lịch còn thiếu
và yếu, chưa thực sự tâm huyết với nghề.
Chất lượng đội ngũ làm du lịch còn thấp.
Ngoài ra, khả năng ngoại ngữ của đội ngũ lao
động còn hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến việc
thu hút khách du lịch nước ngoài.
- Việc liên kết phát triển du lịch giữa các địa
phương, các tỉnh lân cận nhằm khai thác đồng
bộ các điểm, tuyến du lịch và phát huy thế
mạnh của mỗi địa phương còn yếu, điều này
ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch Hà
Giang nói riêng và các địa phương trong
vùng nói chung.
- Hà Giang là tỉnh miền núi có nhiều dân tộc
anh em cùng nhau sinh sống, mức sống thấp,
trình độ dân trí của đồng bào còn nhiều hạn
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205
204
chế. Vì vậy nhận thức của đồng bào về du
lịch còn nhiều bất cập, chưa khai thác, kinh
doanh được những sản phẩm du lịch sẵn có ở
địa phương theo hướng du lịch cộng đồng.
TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN
- Xu thế hội nhập quốc tế đem đến nhiều cơ
hội phát triển cho du lịch cả nước nói chung
và Hà Giang nói riêng. Lượng khách du lịch
quốc tế đến Việt Nam và Hà Giang ngày càng
tăng mạnh. Việc gia nhập vào tổ chức WTO
đem đến cho Việt Nam nói chung và Hà
Giang nói riêng nhiều cơ hội tiếp cận với
những thị trường tiềm năng để thu hút khách
du lịch, đồng thời còn là yếu tố thuận lợi để
thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực du lịch.
- Công viên đá Đồng Văn được Hội đồng
mạng lưới Công viên Địa chất toàn cầu thuộc
UNESCO chính thức công nhận là thành viên
từ ngày 03/10/2010. Nhận thức của người dân
trong việc giữ gìn di sản thiên nhiên và bảo
tồn bản sắc văn hóa được nâng lên, hoạt động
du lịch, dịch vụ cũng tạo ra nhiều cơ hội việc
làm và nguồn thu cho nhân dân. Từ đây, hình
ảnh du lịch Hà Giang đã được quảng bá ra thế
giới và trong nước.
- Hà Giang có biên giới tiếp giáp với nước
bạn Trung Quốc. Do tính chất về vị trí địa lí
này nên Hà Giang có nhiều cửa khẩu như
Thanh Thủy (đã quy hoạch thành khu kinh tế
cửa khẩu), Săm Pun, Phó Bảng, Xín
Mần…Đây là một thuận lợi để Hà Giang có
thể mở rộng giao lưu kinh tế và thu hút nguồn
khách du lịch từ nước bạn (Trung Quốc).
Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá
Đồng Văn cũng đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể bảo tồn,
tôn tạo và phát huy giá trị giai đoạn 2012-
2020 và tầm nhìn 2030” theo Quyết định số
310/QĐ-TTg ngày 7/2/2013. Các dự án đầu
tư của quốc tế và nhà nước bảo tồn và phát
huy giá trị Công viên địa chất Đồng Văn, quy
hoạch khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, các
làng văn hóa dân tộc, sự cải thiện của hệ
thống đường giao thông là những cơ hội to
lớn của Hà Giang trong phát triển du lịch.
KẾT LUẬN
Hà Giang là địa phương có nhiều tiềm năng
và lợi thế để phát triển du lịch. Vì thế để khai
thác hợp lý nguồn tài nguyên quý giá này cần
có một chiến lược phát triển du lịch. Vấn đề
đặt ra đối với tỉnh là cần xây dựng một hệ
thống các giải pháp thiết thực và đồng bộ để
phát huy tối đa lợi thế của mình. Trong đó,
trước hết là xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng,
cơ sở lưu trú đáp ứng được yêu cầu của khách
du lịch, đồng thời cần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực du lịch; đa dạng hóa sản
phẩm du lịch dựa trên nguồn tài nguyên du
lịch. Rà soát và điều chỉnh lại quy hoạch và
quản lí quy hoạch du lịch. Tăng cường quảng
bá du lịch để hình ảnh Hà Giang trở nên quen
thuộc với mọi người trong và ngoài nước.
Ngành du lịch cần đầu tư đa dạng hóa sản
phẩm du lịch, tăng cường xây dựng mới và
nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch, đặc
biệt các dịch vụ làm tăng khả năng chi tiêu
của khách. Thực hiện công tác liên kết phát
triển du lịch giữa Hà Giang và các tỉnh Lào
Cai, Phú Thọ, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Thái Nguyên. Đồng thời, cần phối hợp
với các ngành liên quan, các doanh nghiệp, xã
hội hóa hoạt động du lịch, tăng sức hấp dẫn
đối với du khách, chắp cánh cho du lịch Hà
Giang đủ sức vươn lên cạnh tranh trong xu
thế hội nhập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đặng Văn Bào và nk (2011), Công viên địa chất
cao nguyên đá Đồng Văn- khả năng khai thác cho
phát triển kinh tế và bảo tồn. Kỷ yếu hội thảo
khoa học “Vì Hà Giang phát triển”, UBND tỉnh
Hà Giang, 2011.
2. Cục thống kê Hà Giang, Niên giám thống kê Hà
Giang năm 2011,2012.
3. Trung tâm thông tin du lịch - Tổng cục du lịch
(2013), Số liệu thống kê chủ yếu ngành du lịch
giai đoạn 2000 -2012, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
4. UBND tỉnh Hà Giang (2013), Quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch Hà Giang đến năm 2020,
định hướng 2030.
5. Nguyễn Xuân Trường (2012), Xây dựng chiến
lược Marketing lãnh thổ nhằm thu hút du khách và
thúc đẩy phát triển du lịch tỉnh Hà Giang, Kỷ yếu
Hội nghị Khoa học Địa lý toàn quốc lần thứ VI -
Huế, 2012, Nxb Khoa học tự nhiên và Công nghệ,
Hà Nội.
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205
205
SUMMARY
SITUATION AND PROSPECTS TOURISM DEVELOPMENT
OF HA GIANG IN INTEGRATION PROCESS
Nguyen Thi Phuong Nga1, Nguyen Xuan Truong2*
1Viet Bac High School, 2Thai Nguyen University
In recent years, with events Dong Van stone plateau is recognized as a global geological park,
tourism of Ha Giang is known to be full of new points. With these initial steps, with the innovation
path, complete infrastructure, diversify the types of tourism, exploitation of tourism resources
effectively available, tourism of Ha Giang has achieved certain results during its development. The
target sector activities such as tourists, revenue, labor, material and technical basis, ... are growing
both in number and quality. At issue is the need for the province to build a system of practical
solutions and synchronized to maximize their advantage in order to increase the attractiveness for
tourists, the tourism of Ha Giang enough rising competition in the integration trend .
Key words: Ha Giang, tourism, Integration
Ngày nhận bài:26/4/2014; Ngày phản biện:27/5/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: ThS. Lê Tiến Dũng – Đại học Thái Nguyên
* Tel: 0914 765087
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205
206
Dương Thị Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 207 - 212
207
NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CHO SINH VIÊN
TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
Dương Thị Hoa*, Vũ Thị Hằng Nga Đại học Nông nghiệp Hà Nội
TÓM TẮT Trong những năm gần đây, với xu thế mở rộng đào tạo và đáp ứng nguồn nhân lực cho nhu cầu
của xã hội, nhiều trường đại học đã mở thêm một số ngành đào tạo bên cạnh những ngành trọng
điểm của nhà trường. Chính vì vậy mà lượng sinh viên hằng năm được tuyển sinh tăng lên nhanh
chóng. Cùng với đó là nhu cầu cấp thiết về một số dịch vụ (DV) cung cấp cho sinh viên như chỗ ở,
dịch vụ ăn uống, thông tin thư viện, tài liệu,… Sự hài lòng của sinh viên về dịch vụ trong nhà
trường là điều rất quan trọng để đánh giá chất lượng dịch vụ trong các trường đại học.
Từ khóa: hoạt động dịch vụ, sinh viên, trường đại học nông nghiệp Hà Nội
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nắm bắt được nhu cầu cấp thiết về việc cung
cấp dịch vụ cho sinh viên trong giai đoạn hiện
nay, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
cũng như nhiều hộ gia đình ở các khu vực lân
cận đã chuyển sang một lĩnh vực kinh doanh
mới là kinh doanh dịch vụ như: cho thuê
phòng trọ, ăn uống, internet, cho thuê giáo
trình tài liệu.... Đi đến bất kì một con đường
nào thuộc khu vực trong và ngoài trường ta
đều dễ dàng bắt gặp những loại hình dịch vụ
này. Vậy thực trạng kinh doanh dịch vụ cho
sinh viên ở đây như thế nào? Số lượng, chất
lượng, giá cả các dịch vụ ra sao? Có những
thuận lợi và nguy cơ tiềm ẩn nào qua các dịch
vụ đó?
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp
Gồm những tài liệu đã được công bố như
sách, báo, nghị quyết, các công trình nghiên
cứu, niêm giám thông kê,…và các tài liệu liên
quan đến chất lượng dịch vụ và giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ. Đây là
nhưng tài liệu rất quan trọng làm cơ sở để xây
dựng phương pháp luận và thực tiễn của đề
tài, ngoài ra thông qua đó để biết thêm thông
tin về vấn đề đang nghiên cứu.
Số liệu sơ cấp
Phỏng vấn trực tiếp sinh viên đang học năm
thứ nhất, thứ 2, thứ 3 và thứ 4 đang sử dụng
các dịch vụ của trường Đại học Nông nghiệp
Hà Nội. Các sinh viên này được lựa chọn để
thu thập các thông tin cần thiết thông qua các
mẫu điều tra đã được chuẩn bị sẵn. Việc
phỏng vấn nhằm thu thập thông tin về vấn đề
chất lượng của các hoạt động dịch vụ, đồng
thời muốn biết thêm về nhu cầu và mong
muốn của họ đối với các dịch vụ đang phát
triển tại trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
Cụ thể số lượng mẫu điều tra phỏng vấn mỗi
đối tượng như bảng sau:
Bảng 1. Số lượng mẫu điều tra *
Đối tương phỏng vấn Số phiếu
Sinh viên năm thứ nhất (K57) 15
Sinh viên năm thứ 2 (K56) 15
Sinh viên năm thứ 3 (K55) 15
Sinh viên năm thứ 4 (K54) 15
Tổng 60
* Tel:
Dương Thị Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 207 - 212
208
Phương pháp tổng hơp số liệu
Sử dụng công cụ trợ giúp: thực hiện xử lý
toàn bộ số liệu điều tra bằng chương trình
excel và Stata.
Phương pháp phân tích số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để
nghiên cứu hoạt động dịch vụ đối với sinh
viên của trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Một số loại hình dịch vụ của Nhà trường
Dịch vụ nhà ở
Trường đã đầu tư xây dựng một hệ thống ký
túc xá (KTX) sạch sẽ, thoáng mát nằm trong
khuôn viên trường ngay từ những ngày đầu
thành lập trường. Hiện nay, KTX của trường
gồm 10 khu: A1, A2, A3, B2, B3, B4, C2, C3
và khu lưu học sinh (sinh viên nước ngoài),
khu sinh viên cao học. Trong đó, chỉ có A3 là
khu vệ sinh chung, còn lại các khu khác có
khu phụ khép kín. Ngoài khu C2 và khu lưu
học sinh có 5 tầng, khu C3 có 7 tầng, các khu
khác đều có 3 tầng.
KTX của trường rộng 14. 373 m2 với 3.450
sinh viên/ hơn 22.000 sinh viên toàn trường,
mở cửa từ 5h đến 23h. Hiện tại, ký túc có 430
phòng đang sử dụng. Theo như Ban quản lý,
trong thời gian tới khu A3 sẽ được tu sửa lại.
Khu lưu học sinh là tòa nhà 5 tầng, gồm sinh
viên các nước Lào, Campuchia, Mông Cổ,
Bangladess, trong đó chủ yếu là sinh viên Lào
Và Campuchia. Khu có 40 phòng, mỗi phòng
hai sinh viên. Điều đặc biệt là ở khu này sinh
viên có chỗ tự nấu ăn.
Dịch vụ ăn uống
Nhà ăn của KTX phục vụ sinh viên hai bữa
chính: trưa và tối. Giá một xuất ăn tại đây
cũng rất ưu đãi từ 10.000 - 20.000 đồng/ xuất,
với đa dạng các món, đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm. Sau mỗi lượt sinh viên ăn xong
đều có nhân viên phục vụ dọn dẹp bát đũa,
giấy ăn và lau bàn. Vì vậy, trong nhà ăn luôn
sạch sẽ.
Dịch vụ gửi xe
Để phục vụ cho nhu cầu gửi xe của cán bộ và
sinh viên trong toàn trường, trường đã xây
dựng 9 bãi để xe phục vụ nhu cầu đó. Trong
đó có 7 bãi gửi xe ở các giảng đường, phục vụ
việc trông xe buổi tối và 2 bãi gửi xe ở KTX,
phục vụ việc trông xe cho sinh viên qua đêm.
Chi phí gửi xe: 1000 đồng/ xe đạp và 2000
đồng/xe máy.
Dịch vụ phục vụ dạy và học
Trường đã trang bị hệ thống máy chiếu hiện
đại cho mỗi phòng học ở các giảng đường
giúp cho việc dạy và học của giảng viên và
sinh viên thuận lợi hơn. Với mỗi giảng
đường, mỗi ca làm việc đều có cán bộ trực
giảng đường thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Đun nước, vệ sinh ấm chén, pha trà; mở cửa,
đóng cửa phòng học; vệ sinh phòng chờ và
WC phòng chờ; vệ sinh bục giảng, bàn giáo
viên, phòng học (nhặt giấy, rác thường
xuyên); vệ sinh xunh quanh giảng đường; vệ
sinh WC công cộng, xối nước thường xuyên
WC; cho mượn - quản lý dụng cụ, trang thiết
bị phục vụ học tập, cấp phấn cho phòng học
có nhu cầu; bấm chuông vào/ra cho mỗi tiết
học. Bên cạnh cán bộ trực giảng đường,
Trung tâm bố trí các kĩ thuật viên trợ giúp về
mặt kĩ thuật, tin học cho cán bộ giảng viên và
sinh viên khi cần thiết. Nhờ sự trang bị cơ sở
vật chất đầy đủ, cán bộ phục vụ dạy và học
chuyên nghiệp đã nâng cao hiệu quả học tập
trong mỗi tiết học. Ngoài ra, để sinh viên có
một không gian học tập tốt, Ban quản lý của
Trung tâm dịch vụ trường học đã tổ chức đã
tổ chức tạo mỗi tầng KTX có một phòng tự
học. Sinh viên khi đến phòng tự học phải thực
hiện đúng quy định tại phòng, trong giờ tự
học sinh viên không được tiếp khách trong
phòng, có ý thức giữ trật tự chung để tạo
không gian yên tĩnh, nghiêm túc để học tập có
hiệu quả. Sinh viên trong KTX có thể dùng
mạng tìm kiếm tài liệu bằng Wifi hoặc có thể
đến thư viện Lương Định Của đặt ngay trong
ký túc để mượn tài liệu học tập.
Dịch vụ vui chơi giải trí
Sinh viên tham gia vào một số các hoạt động
vui chơi giải trí, thể dục thể thao do Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên tổ chức hoặc tự tổ
Dương Thị Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 207 - 212
209
chức thành các nhóm nhỏ để chơi bóng rổ,
bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông, đá cầu,
chạy,… Dịch vụ vui chơi giải trí cho sinh
viên chưa có nhiều hoạt động đa dạng đáp
ứng nhu cầu của các em.
Thực trạng sử dụng dịch vụ của các đối
tương điều tra
Đối tượng điều tra
Nhóm nghiên cứu lựa chọn 60 mẫu điều tra,
với đối tượng là sinh viên trường đại học
Nông nghiệp Hà Nội, tập trung chủ yếu vào
sinh viên nội trú (70%) và sinh viên ngoại trú
(30%) là những sinh viên đã và đang trực tiếp
sử dụng dịch vụ của trung tâm dịch vụ trường
học để từ đó tìm hiểu sự hài lòng của sinh
viên trong việc sử dụng dịch vụ của trường.
Sinh viên sử dụng các dịch vụ của nhà trường
- Một số loại hình dịch vụ sinh viên sử dụng
Thông qua bảng thống kê 2 ta thấy được số
lượng sinh viên sử dụng dịch vụ học tập,
nghiên cứu là cao nhất, 57 sinh viên (95%)
trong tổng số sinh viên điều tra và dịch vụ vui
chơi giải trí là dịch vụ có số lượng sinh viên sử
dụng ít, chỉ có 23 sinh viên (38,33%); có nhiều
lý do để lý giải cho vấn đề này như: dịch vụ vui
chơi giải trí còn ít các hoạt động, chưa phát
triển, chưa gắn kết được sinh viên,…
Trong thời gian trở lại đây nhà trường đã liên
tục có các hoạt động dịch vụ để nâng cao chất
lượng học tập cho sinh viên như: tổ chức các
hoạt động nghiên cứu khoa học, nâng cao
chất lượng dịch vụ của thư viện nhằm đáp
ứng nhu cầu đọc sách cho sinh viên,.. điều đó
khiến cho sinh viên ngày càng tiếp cận được
với các dịch vụ học tập nghiên cứu có chất
lượng, vì thế số lượng sinh viên sử dụng dịch
vụ này ngày càng gia tăng.
Bảng 2: Số lượng sinh viên tham gia phỏng vấn
Đối tương phỏng vấn Số lương
Sinh viên trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội 60
Trong đó: - Sinh viên chính quy 60
+ Ngoại trú 18
+ Nội trú 42
- Sinh viên tại chức 0
- Sinh viên, học viên khác 0
( Nguồn: Số liệu điều tra, 2012)
Bảng 3: Một số loại hình dịch vụ sinh viên sử dụng
Đối tương Số lương Tỷ lệ (%)
Tổng số SV điều tra 60 100,00
SL SV sử dụng dịch vụ nhà ở
SL SV ở ngoại trú
SL SV ở nội trú
60
18
42
100,00
30,00
70,00
2. SL SV sử dụng dịch vụ điện nước, vệ sinh 60 100,00
3. SL SV sử dụng internet 60 100,00
4. SL SV sử dụng dịch vụ ăn uống 39 65,00
5. SL SV sử dụng dịch vụ học tập, nghiên cứu 57 95,00
6. SL SV sử dụng dịch vụ gửi xe 46 76,67
7. SL SV sử dụng dịch vụ vui chơi, giải trí 23 38,33
(Nguồn: Số liệu điều tra, 2012)
Dương Thị Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 207 - 212
210
100% sinh viên được điều tra đều sử dụng
dịch vụ điện nước, vệ sinh của Nhà trường.
Đây là các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu thiết
yếu của sinh viên. Dịch vụ Internet của Nhà
trường cũng được rất nhiều sinh viên sử dụng
trong việc học tập, tìm kiếm tài liệu cũng như
thông tin liên lạc. Số lượng sinh viên sử dụng
dịch vụ ăn uống là 39 sinh viên chiếm 65%
trong tổng số sinh viên điều tra, so sánh với
con số 42 sinh viên ở nội trú chiếm 70% trong
tổng số sinh viên điều tra thì con số này vẫn
thấp hơn 5%; thêm vào đó, một phần số sinh
viên ngoại trú vẫn sử dụng dịch vụ này của
nhà trường. Từ đó có thể thấy 1 thực trạng
vẫn còn một số sinh viên nội trú sử dụng các
dịch vụ ăn uống bên ngoài hoặc tự động nấu
ăn trong KTX, việc này dễ gây ra cháy nổ
trong kí túc xá. Vì vậy, Ban quản lý KTX cần
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối
với sinh viên trong KTX.
- Mức độ sử dụng các dịch vụ của sinh viên
Bảng thống kê 4 cho ta thấy dịch vụ điện
nước, vệ sinh, Internet được sinh viên sử
dụng rất thường xuyên hoặc thường xuyên vì
đây là loại dịch vụ thiết yếu, có 55 sinh viên
trong tổng số sinh viên điều tra chiếm 92% rất
thường xuyên sử dụng dịch vụ điện nước, vệ
sinh và 50 sinh viên chiếm 83% rất thường
xuyên sử dụng dịch vụ internet. Dịch vụ gửi
xe, dịch vụ học tập nghiên cứu được cả sinh
viên nội trú và cả sinh viên ngoại trú sử dụng
rất thường xuyên, vì thế nhà trường cần đặc
biệt chú trọng vào việc nâng cao chất lượng
của hai dịch vụ này.
- Mức độ hài lòng của sinh viên khi sử dụng
các dịch vụ
Sử dụng mô hình hồi quy để đo mức độ hài
lòng của sinh viên về dịch vụ trường học. Mô
hình sử dụng 7 biến:
1. Sự thuận tiện của cấp dịch vụ
2. Sự đảm bảo của dịch vụ
3. Yếu tố tạo sự chú ý của dịch vụ (Sự khác
biệt của DV)
4. Giá của dịch vụ
5. Thời gian chờ đợi để sử dụng dịch vụ
6. Thái độ phục vụ
7. Trang thiết bị phục vụ dịch vụ
Bảng 4: Mức độ sinh viên sử dụng dịch vụ của nhà trường
Mức độ
Dịch vụ
Rất
thường
xuyên
Thường
xuyên
Bình
thường
Không
thường
xuyên
Không
sử dụng
1. Dịch vụ nhà ở (nội trú) 25 16 1 0 18
2. Dịch vụ điện nước, vệ sinh 55 5 0 0 0
3. Dịch vụ Internet 50 5 5 0 0
4. Dịch vụ ăn uống 12 9 10 8 21
5. Dịch vụ học tập, nghiên cứu 18 17 10 8 7
6. Dịch vụ gửi xe 15 14 14 2 15
7. Dịch vụ vui chơi, giải trí 4 4 17 13 22
(Nguồn: Số liệu điều tra, 2012)
Kết quả chạy mô hình
_cons -1.310576 .340771 -3.85 0.000 -1.994383 -.626769 tangibility .1677995 .0787795 2.13 0.038 .0097169 .325882 attitude .3513941 .0624861 5.62 0.000 .2260065 .4767817 time .1412186 .0747744 1.89 0.065 -.0088272 .2912644 price .0416314 .0900788 0.46 0.646 -.139125 .2223877 difference -.2120272 .1242215 -1.71 0.094 -.4612959 .0372414 assurance .1990866 .0752086 2.65 0.011 .0481694 .3500037 convenience .0642724 .0847674 0.76 0.452 -.1058258 .2343706 satisfaction Coef. Std. Err. t P>|t| [95% Conf. Interval]
Dương Thị Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 207 - 212
211
Kết quả chạy tương quan giữa các biến
Kết quả trên cho thấy sự thuận tiện và sự đảm
bảo có sự tương quan tới 57,27%; sự khác
biệt và sự đảm bảo tương quan là 50,63%....
Điều đó giải thích cho mô hình hồi quy ở trên,
chỉ có 4 biến ảnh hưởng nhiều đến sự hài lòng
của sinh viên, 3 biến còn lại có mức độ ảnh
hưởng ít hoặc rất ít.
Giải pháp nâng cao hoạt động dịch vụ
Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở trang thiết bị của một đơn vị là một
trong những điều kiện để thực hiện dịch vụ.
Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đòi hỏi phải có một
hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng,
các dịch vụ của trường Đại học Nông nghiệp
Hà Nội cũng nằm trong quy luật đó. Hệ thống
cơ sở vật chất cần phải đảm bảo: tiện nghi,
thẩm mỹ, an toàn và vệ sinh.
Nhà trường cần đảm bảo đủ về số lượng cung
cấp cũng như chất lượng phòng KTX cho sinh
viên, đặc biệt vào thời điểm đầu năm học. Về
cơ bản, các phòng hiện nay khá khang trang,
đẹp đẽ; cần tiến hành tu bổ thường xuyên để
đảm bảo cơ sở vật chất cho sinh viên khi sử
dụng, đặc biệt là khu vực KTX A3, đây là
KTX có từ rất lâu và đã xuống cấp từ nhiều
năm nay. Nhà trường cần có các biện pháp để
cải thiện tình hình này
Nâng cao chất lượng đội ngũ lao động
Mỗi năm nhà trường cần tăng cường, tạo điều
kiện cho từng bộ phận được đi học các lớp về
chuyên môn nghiệp vụ. Đơn vị có thể hỗ trợ
toàn bộ kinh phí hoặc một phần kinh phí cho
người học và yêu cầu người lao động phải
quay về phục vụ sau khi hoàn thành khóa học.
Tạo sự đa dạng, phong phú đối với các loại
hình dịch vụ
Đối tượng phục vụ của nhà trường là sinh
viên, vì vậy các hình thức dịch vụ ở đây cần
tạo sự đa dạng về nội dung, đảm bảo chất
lượng để phù hợp với sinh viên. Một điểm
khác biệt của trường Đại học Nông nghiệp Hà
Nội đó là trường nằm cách khá xa trung tâm
thành phố, vì vậy cần chú ý tăng thêm các
dịch vụ về thể thao, văn hóa vừa tạo sân chơi
bổ ích, vừa rèn luyện sức khỏe cho sinh viên
nhà trường.
KẾT LUẬN
Dịch vụ trong giáo dục chính là dịch vụ đào
tạo và dịch vụ hỗ trợ sinh viên; trong đó dịch
vụ đào tạo thường được các Trường rất chú
trọng còn dịch vụ hỗ trợ cho sinh viên đôi khi
chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, việc
nghiên cứu sự thỏa mãn của sinh viên đối với
các dịch vụ hỗ trợ trong nhà trường là rất cần
thiết, giúp cho việc nắm bắt nguyện vọng của
sinh viên và hạn chế những khó khăn khi
cung cấp các dịch vụ này, nhằm nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho sinh viên.
Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng dịch vụ
trong các trường đại học cần phải có các biện
pháp đối với đơn vị cung cấp dịch vụ và
người sử dụng dịch vụ sao cho thật hợp lý.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dương Thị Hoa (2004), Tìm hiểu thực trạng và
đề ra một số định hướng chủ yếu giải quyết vấn đề
việc làm thêm cho sinh viên trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học,
trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
tangibility 0.5048 0.5883 0.5072 0.3622 0.1136 0.1136 0.0462 attitude 0.0486 -0.0612 0.3323 0.1143 0.4722 0.4722 1.0000 time -0.0607 -0.1528 0.2593 0.4264 1.0000 1.0000 time -0.0607 -0.1528 0.2593 0.4264 1.0000 price 0.1216 0.1147 0.2076 1.0000 difference 0.3660 0.5063 1.0000 assurance 0.5727 1.0000 convenience 1.0000 > > tangib~y conven~e assura~e differ~e price time time attitude
Dương Thị Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 207 - 212
212
2. Quỳnh Như, Thương mại – dịch vụ ở Mỹ Phước
(Bến Cát): chuyển mình theo phát triển công
nghiệp, http://www.baobinhduong.org.vn.
3. Trí Quang, “Dịch vụ đời sống” ở làng Đại học,
http://vietbao.vn.
4. Nguyễn Hữu Tiến, Dịch vụ nông nghiệp vùng
đồng bằng sông Hồng thực trạng và giải pháp,
Nxb Nông nghiệp.
5. Nguyễn Trung Thành, diễn đàn sinh viên làm
thêm nên hay không,
http://www1.thanhnien.com.vn.
6. Bài giảng điện tử, Vai trò và các nhân tố ảnh
hưởng đến đặc điểm ngành dịch vụ,
http://baigiang.bachkim.vn.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình Kinh tế
chính trị, Trường TH quản lý và công nghệ.
8. Giáo trình kinh tế phát triển (1999) tập I,
Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
9. Học viện ngân hàng, Giáo trình marketing dịch
vụ, Nxb Thống kê.
10. Quyết định của UBND tỉnh Phú Thọ về việc
quy hoạch phát triển mạng lưới thương mại – dịch
vụ giai đoạn 1998 – 2010 trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ, http://laws.dongnai.gov.vn
11. Tin địa phương, Kinh tế thương mại dịch vụ
Hải Phòng, http://www.haiphong.gov.vn
12. Tin địa phương, Hoà Nam: phát triển kinh tế
thương mại dịch vụ,
http://nguoinongdan.vietnamgateway.org
SUMMARY
ENHANCING SERVICE ACTIVITIES FOR STUDENTS
IN HANOI UNIVERSITY OF AGRICULTURE
Duong Thi Hoa*, Vu Thi Hang Nga Hanoi University of Agriculture
In recent years, the trend extended training and human resources to meet society's needs, many
universities have opened several training programs besides the key sectors of the university.
Therefore, the amount of annual student enrollment is increasing rapidly. Along with that is an
urgent need for some services (DV) as provided for student housing, food services, library
information, materials, ... student satisfaction in the service school is very important to evaluate the
service quality in universities.
Từ khóa: service activities, students, Hanoi University of Agriculture
Ngày nhận bài:13/4/2014; Ngày phản biện:23/5/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Đoàn Đức Hải – Đại học Thái Nguyên
* Tel:
oµ soT Tạp chí Khoa học và Công nghệ
SOCIAL SCIENCES - BEHAVIOR
Content Page
Le Thi Ngan - After reading novel Sau phut sinh ly of Le Van Truong, think about fine line between general and
aquatic betrayal 3
Nguyen Dieu Linh, Nghiem Thi Ho Thu, Duong Ngoc Thuy - Decoding the meaning of some games in the
work “Give me a ticket back to childhood” of the author Nguyen Nhat Anh 9
Nguyen Thi Thanh Huyen - Using folk – songs and rhymes in language development of kindergarten chilfren 15
Ngo Thi Thanh Nga - The similarity of talented male and beautiful female characters in the works Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú and Hoa tiên kí story 19
Luong Thi Hanh - The conception of the Tay people in Bac Kan life and death 23
Nguyen Minh Tuan, Le Van Hieu - Commite of a party’s role in Thai Nguyen province is with development
agriculture economy problem according to in dustry and contemporary period 1997 to 2005 29
Pham Quoc Tuan - Structure narrative – romance of Tay people Tong tan - Cuc hoa
35
Nguyen Mau Duc - Department of the pedagogic profession with formation of the pedagogic professional
capacity for students 41
Dinh Duc Hoi, Nguyen Thi Yen - Emotional intellectural development to student private school 49
Phan Thi Hoa, Hoang Thi Nhung - Difficulties in teaching and developing reading abilities of second year non
-english major students of Thai Nguyen University of Sciences 55
Nguyen Thi Que, Phung Thi Hai Van - Proposed seven -step action plans in implementing problem -based learning projects for english teachers in NFLP 2020 training programs at Thai Nguyen University 61
Ngo Huu Hoang - Hedges as a “compensation” mean of the violations of politeness principles (based on English
and Vietnamese pragmatic) 65
Ngo Thi Huyen Trang, Tran Thi Tuyet, Nguyen Thi My Hanh - Human resource in three star hotels in Thai Nguyen province 73
Nguyen Thi Kim Nhung, Chu Thi Thuc - Developing retail banking services at BIDV (Bank for Investment
and Development of Vietnam) - Thai Nguyen branch 79
Nguyen Thi Nhung - Structure rearsearch outward foreign direct investment of Viet Nam 87
Le Quang Dang, Do Thi Nga - Analysis status and proposed solutions to develop Thai Nguyen’s tourism
economy through SWOT matrix 95
Tran Thi Thanh Xuan - Research to develop commercial solutions and services for a sustainable Thai
Nguyen province 101
Ha Thi Thanh Hoa, Duong Thi Thuy Huong - solutions for new rural reconstruction at Phu Luong district,
Thai Nguyen province 111
Nguyen Phuong Thao - Some comments on the application on cost management accounting model in some
countries in the world 115
Vo Thy Trang, Nguyen Thu Ha - Research on sustainable development of industrial zone in Thai Nguyen province 121
Do Thi Thu Hang, Tran Tuan Anh, Do Thi Thuy Phuong - Studying internal audit in Vietnamese enterprises 135
Journal of Science and Technology
121(07)
2014
Nguyen Thi Phuong Thao, Pham Van Hai, Nguyen Tien Dong, Luong Van Hinh - Ground clearance work
projects at construction Khe Van lake Phu Ly town PhuL district - Thai Nguyen province 139
Nguyễn Thùy Linh, Phạm Văn Hải, Nguyễn Tiến Đông, Lương Văn Hinh - Evaluation of land assignment
and land lease of organizations in Thai Nguyen city 145
Do Quang Quy, Tran A Hung - Vietnam towards global population health insurance 151
Pham Thi Hong, Nguyen Bich Ngoc, Pham Quang Tung - Improving soft skills for Thai Nguyen University
of Economics and Business Administration' students 157
Hoang Van Hai, Hoang Thi Thu Hang - An overall view of a firm’s internationalization process 165
Nguyen Nam Ha, Nguyen Thi Ha Trang - Enhancing academic advisory at the College of Economics and
Business Administration - Thai Nguyen University 171
Thang Van Liem - Few things to think about objects of education, civilization of confucianism 177
Pham Kim Thoa - A survey on the current status of the students’ behavioral culture in College of Information and Communication Technology - TNU 181
Nguyen Xuan Tien - The building clearance at University of Thai Nguyen - situation and some proposals 187
Nguyen Thu Nga, Tran Thi Thuy Linh, Dang Trung Kien - Solutions to improve the lending quality in Viet
Nam Internatonal Bank VIB – Thai Nguyen branch 191
Nguyen Thi Phuong Nga, Nguyen Xuan Truong - Situation and prospects tourism development of Ha Giang
in integration process 199
Duong Thi Hoa, Vu Thi Hang Nga - Enhancing service activities for students in Hanoi University of
Agriculture 207
top related