tiểu luận triết học
Post on 27-Dec-2015
38 Views
Preview:
TRANSCRIPT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức....................
1.1 Hoàn cảnh ra đời.................................................................................3
1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức............................4
II.Phép biện chứng duy tâm Hêghen – thành tựu và hạn chế
.......................................................................................................................6
2.1. Vài nét về cuộc đời và triết học Hêghen...........................................6
2.2. Thành tựu và hạn chế của phép biện chứng duy tâm
Hêghen....................................................................................................10
III. Chủ nghĩa duy vật trong triết học cổ điển Đức, thành
tựu và hạn chế............................................................................................16
3.1. Vài nét về cuốc đời và triết học LudWig Feuerbach
.................................................................................................................16
3.2. Chủ ghĩa duy vật nhân bản LudWig Feuerbach –
đóng góp và hạn chế...............................................................................17
KẾT LUẬN.............................................................................................20
.................................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIÊU THAM KHẢO................................................21
1
MỞ ĐẦU
Khái niệm “Triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết
học của nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX. Triết
học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng
Tây Âu và thế giới cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Đây là đỉnh cao của
thời kì triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới
triết học hiện đại.
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện
của chế độ chuyên chế nhà nước Phổ và nó là sự bảo vệ về mặt tư tưởng
cho chế độ đó. Thời kì cuối thế kỉ XVIII, cuộc cách mạng Tư sản Pháp
(1789) ảnh hưởng mạnh đến nước Phổ, và Hêghen là một người tán
dương cuộc cách mạng đó. Đồng thời xã hội Phổ lúc này với những điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt đã làm nảy sinh hệ tư tưởng có tính chất tiểu
tư sản, thỏa hiệp. Tất cả cái đó tạo nên nét riêng của triết học cổ điển
Đức. Triết học cổ điển Đức là một trong những nguồn gốc lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng. Rõ
ràng nhất đó là phương pháp luận biện chứng của Hêghen và thế giới
quan duy vật của Phoi-ơ- bắc. Nghiên cứu Triết học cổ điển Đức, không
thể không quan tâm đến “những thành tựu và hạn chế trong phép biện
chứng Hêghen và chủ nghĩa duy vật Phoi-ơ- bắc”.
2
NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC CỔ
ĐIỂN ĐỨC.
1. 1 Hoàn cảnh ra đời của triết học cổ điển Đức.
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản được thiết lập
và phát triển mạnh mẽ hầu hết ở các nước Tây Âu như Italia, Anh, Pháp
đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử. Những
thành tựu kinh tế và văn hoá mà đỉnh cao là Cách mạng công nghiệp ở
Anh càng khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo
thế giới. Cùng với cuộc cách mạng tư sản Pháp làm rung chuyển cả
châu Âu đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh công nghiệp trong lịch sử
nhân loại. Thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu đã tạo
ra bước nhảy đột biến trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khẳng
định tính ưu việt hơn hẳn của chủ nghĩa tư bản so với tất cả các xã hội
trước đó. Trong khi đó nước Đức vẫn đang ì ạch trong chế độ phong
kiến. Xu hướng phát triển theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa đã bị chế
độ phong kiến quan liêu chuyên chế cản trở. Nhà nước liên bang chỉ tồn
tại trên danh nghĩa, gồm 360 công quốc nhỏ bé làm cho đất nước Đức trở
thành một quốc gia manh mún, yếu kém về mọi mặt như Ănghen đã gọi
nó là “sự cùng khổ Đức” của lịch sử nước Đức. Ở Đức lúc đó giai cấp tư
sản đã xuất hiện nhưng là giai cấp yếu hèn, không có bản lĩnh, không đủ
sức mạnh để làm cách mạng lật đổ, thủ tiêu chế độ phong kiển lúc bấy
giờ.
Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị, nước Đức thời kỳ này đạt được
sự phát triển chưa từng có về triết học, văn hoá và nghệ thuật. Đây là quê
hương của nhiều nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thế giới như
Hécđơ, Gớt, Sinlơ, Cantơ…Họ, một mặt tiếp thu những di sản tư tưởng
3
và văn hoá Đức truyền thống, kế thừa quan niệm của các nhà khai sáng.
Tư tưởng triết học cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là sự
kế thừa và phát huy những tư tưởng tiến bộ của những khuynh hướng
triết học tiên tiến thế kỷ XVII, XVIII. Đó là tư tưởng của các nhà triết
học lỗi lạc như Đêcactơ, Xpinôda, Lépnit…Cách mạng tư sản Pháp là
hậu thuẫn thực tiễn thức tỉnh giai cấp tư sản Đức đấu tranh vì một trật tự
xã hội mới ở Đức.
Cùng với tình hình kinh tế - xã hội ở trong nước sự phát triển của
khoa học, đặc biệt là sự phát triển của khoa học tự nhiên ngày càng
chứng tỏ sự hạn chế của tư duy siêu hình thống trị trong tư tưởng Tây Âu
suốt thế kỷ XVII, XVIII. Việc các nhà khoa học phát hiện ra điện và cách
sử dụng điện nặn, phát hiện ra ô xy, tế bào…đòi hỏi phải có cách lý giải
mới về các hiện tượng tự nhên và tiến trình lịch sử nhân loại, về khả năng
và hoạt động của con người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng
sứ mạng lịch sử đó không chỉ riêng nước Đức mà cả Phương Tây nói
chung.
1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp Tư
sản Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Như tình trạng nước Đức lúc
bấy giờ trong tư tưởng và hệ thống của các triết gia Đức có tính hai mặt.
Do các nhà triết học phần lớn xuất thân từ tầng lớp xã hội thượng lưu,
gắn bó mật thết phong trào quý tộc về lợi ích kinh tế, địa vị chính trị, vì
thế một mặt họ mong muốn thống nhất đất nước, phồn vinh, nhưng một
mặt họ sợ sức mạnh của quần chúng lao động mà thoả hiệp với các quý
tộc phong kiến dẫn đến tư tưởng bảo thủ, cải lương về mặt chính trị - xã
hội, mâu thuẫn với tính cách mạng và tính khoa học.
4
Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò, vị trí tích cực của con
người. Kế thừa và phát huy những tư tưởng thời kỳ Phục Hưng và Cận
đại, các nhà triết học cổ điển Đức đã khẳng định con người là chủ thể, là
kết quả là sản phẩm của hoạt động tự nó, cho nó vì nó cho nên thực tiễn
cao hơn lý luận, lịch sử chỉ là phương thức tồn tại của con người, cá nhân
có thể làm chủ được vận mệnh của mình và cao hơn là tư tưởng con
người trong bản chất xã hội. Như vậy triết học cổ điển Đức đã làm một
bước rẽ trong việc hình thành, phát triển của triết học. Nếu như trước đây
triết học phương Tây lấy những vấn đề nhận thức luận, bản thể luận…
làm nền tảng, thì trong bối cảnh đầy sự biến động cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX con người lại trở thành xuất phát điểm của mọi vấn đề triết
học. Tuy vậy trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và ảnh hưởng to
lớn của nó đến đời sống kinh tế - văn hoá – xã hội đã đưa đến quan niệm
sùng bái và tuyệt đối hoá vai trò của lý tính, của tư duy. Biến tư duy của
con người thành một thực thể độc lập đối với đời sống thực của nó, thực
thể tinh thần tối cao làm căn nguyên để giải thích cho tất cả mọi cái, mọi
hiện tượng đang hiện tồn.
Triết học cổ điển Đức dựa trên một cách nhìn biện chứng về thế
giới hiện thực. Trước những phát triển như vũ bão của khoa học và thực
tiễn xã hội ở Châu Âu cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX cho thấy
hạn chế của bức tranh cơ học về thế giới, các nhà triết học cổ điển Đức
tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong các di sản triết học truyền
thống từ thời cổ đại, xây dựng phép biện chứng trở thành một phương
pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã
hội.
Trong triết học cổ điển Đức thực tiễn và khoa học đã đặt ra yêu cầu
là cần phải có phương pháp tư duy để phản ánh chân thực về tồn tại mà
5
lại thể hiện được tinh thần cách mạng của thời đại. Các nhà triết học cổ
điển Đức đã tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong di sản triết học
truyền thống để xây dựng nên phép biện chứng của mình. Lần đầu tiên
phép biện chứng tồn tại là một phương pháp nhận thức có tính đồng kết,
được biểu hiện chặt chẽ qua hệ thống các khái niệm phạm trù. Mặc dù là
phép biện chứng duy tâm những vẫn được các nhà sáng lập ra chủ nghĩa
Mác - Lênin đánh giá cao. Đó là một trong những cơ sở lý luận của triết
học Mácxit.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức.
Luận điểm của Mác coi những đặc điểm của triết học cổ điển Đức là “ lý
luận của ngưòi Đức về cách mạng tư sản Pháp” một mặt cho thấy đặc
điểm riêng của triết học cổ điển Đức so với triết học Pháp thế kỷ XVIII,
dù giữa chúng có sự kế thừa to lớn ; mặt khác khẳng định giá trị tư tưởng
vĩ đại của triết học cổ điển Đức.
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN - THÀNH
TỰU VÀ HẠN CHẾ.
2.1. Khái quát vài nét về cuộc đời và triết học Hêghen.
Gioócgiơ Vinhem Phriđrích Hêghen là nhà biện chứng lỗi lạc bậc
tiền bối của triết học Mác xít. Theo nhận xét của Ph. Ăngghen, ông
“không chỉ là một nhà thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri
thức bách khoa, nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại”.
G.V.Ph. Hêgghen sinh năm 1770 trong một gia đình quan
chức cao cấp ở Stútga thuộc Đức, sau đó theo học khoa triết học và thần
học ở đại học tổng hợp Tubingen. Thời trẻ, ông chủ yếu quan tâm nghiên
cứu các vấn đề lịch sử, pháp quyền và tôn giáo. Những năm 1800 – 1803,
Hêghen làm quen và kết bạn với Senlinh. Từ đây, ông bắt đầu chủ yếu
6
say mê các vấn đề triết học. Ông mất năm 1831 vì bệnh tả. Các tác phẩm
lớn của Hêghen:
- Hiện tượng học tinh thần (1807)
- Khoa học lôgíc (1812 – 1814)
- Bách khoa toàn thư các khoa triết học (1817)
- Triết học pháp quyền (1821)
Ông còn là nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu xuất sắc của
triết học cổ điển Đức, người xây dựng nên phép biện chứng duy tâm.
Triết học của Hêghen là đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm Đức cuối thế kỉ
XVIII - đầu thế kỉ XIX.
Là một nhà biện chứng duy tâm khách quan nên triết học của
Hêghen chứa đựng đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông
là hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển thì hệ
thống triết học duy tâm của ông lại phủ nhận tính chất khách quan của
những nguyên nhân bên trong, vốn có của sự phát triển tự nhiên và xã
hội.
Triết học Hêghen gồm ba bộ phận cơ bản: Lôgic học; Triết học tự
nhiên và Triết học tinh thần.
Khoa học lôgíc là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống Hêghen,
vì nó nghiên cứu tinh thần tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhất, nhưng là
điểm xuất phát và nền tảng của toàn bộ hệ thống. Cũng như các nhà lôgíc
truyền thống, Hêghen coi lôgíc là “khoa học về tư duy, về những phạm
trù và quy luật của tư duy”. Tư duy với tư cách là đối tượng của khoa học
lôgíc được Hêghen hiểu là tư tưởng thuần túy, là tinh thần tuyệt đối.
Hêghen phân biệt hai dạng tư duy:
7
Thứ nhất, tư duy tự nó, chính là tinh thần tuyệt đối tạo thành bản
chất của toàn bộ hiện thực.
Thứ hai, tư duy cho nó, tức tư duy con người, đây là tư duy tự nó ở
giai đoạn phát triển cao nhất, là giai đoạn tư duy có ý thức.
Luận điểm xuyên suốt toàn bộ lôgíc học cũng như hệ thống của
Hêghen là “ cái gì hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”.
Theo Hêghen, nhiệm vụ của khoa học lôgíc là đào thải những hình
thức của tư tưởng không thể hiện đúng bản chất đích thực của tư duy
sống động, đồng thời vũ trang cho con người một phương pháp tư duy
biện chứng nhằm khám phá ra chân lý, đi tới tự do.
Triết học tự nhiên
Theo Hêghen: là sự nghiên cứu lý luận giới tự nhiên được hiểu như
tồn tại khách quan của tinh thần, hay sự tồn tại của tinh thần dưới dạng
các sự vật vật chất.
Thế giới chúng ta, theo cách hiểu của Hêghen, là một chỉnh thể
thống nhất trong đó mọi sự vật đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau,
không ngừng vận động và phát triển. Triết học tự nhiên gồm ba phần:
Thế giới cơ học: Trong thế giới này, Hêghen đã nghiên cứu, phân
tích phạm trù như không gian, thời gian, vật chất, vận động. Ông đã nhìn
thấy mối quan hệ khăng khít không thể tách rời giữa vật chất và vận
động. Theo ông “không có vận động nào là vận động thiếu vắng vật chất
và cũng không hoàn toàn giống như không có vật chất nào là vật chất
không vận động”.
Tuy nhiên, ông chỉ dừng lại ở quan niệm di rời vị trí trong không
gian, hoặc sự lặp lại tuần hoàn của cái đã có từ trước. Và những phạm trù
trên vẫn bị ông giải thích một cách duy tâm.
Thế giới vật lý học: Hêghen trình bày các quan niệm của ông về
các vật thể của vũ trụ, về ánh sáng, về nhiệt, về các quá trình hóa học,…
8
Dưới con mắt của các nhà duy tâm, ông đã xem tất cả những mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và các quá trình ở trong thế giới chỉ là
sự biểu hiện nối tiếp nhau của bản nguyên tinh thần đã sản sinh ra chúng.
Thế giới các cơ thể sinh học: địa chất học, thực vật học, động vật
học,… Theo Hêghen, việc chuyển từ vô sinh lên hữu sinh là kết thúc của
quá trình tự nhiên, tự nhiên chỉ là tồn tại thấp, là sự biểu hiện và tự nhận
thức ở cấp độ thấp của ý niệm tuyệt đối. Giới tự nhiên, đối tượng của triết
học tự nhiên về bản chất chỉ là một thế giới ngưng đọng không phát triển,
sở dĩ chúng như thế này hay như thế khác là do sự vận động và phát triển
của ý niệm tuyệt đối quy định.
Sự phát triển của giới tự nhiên không phải là sự phát triển của thế
giới vật chất mà là biểu hiện “sự biến đổi khái niệm” mà thôi
Nhìn chung, triết học tự nhiên của Hêghen, bên cạnh nhiều tư
tưởng tích cực bởi ý đồ của nó muốn đem lại cho con người một cách
nhìn biện chứng về tự nhiên, nhưng theo ý kiến của nhiều nhà nghiên
cứu, là khâu thiết yếu nhất trong hệ thống của ông.
Triết học tinh thần:
Là tác phẩm triết học lớn của Hêghen, đánh dấu sự chín muồi
trong thế giới quan triết học của ông.
Những nguyên tắc xây dựng hệ thống:
Tinh thần tuyệt đối là điểm xuất phát và nền tảng trong quan niệm
về hiện thực. Hêghen coi nền tảng thế giới quan triết học của mình là tinh
thần tuyệt đối được hiểu như đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên và con
người. Con người là sản phẩm và cũng là giai đoạn phát triển cao nhất
của tinh thần tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con
người chính là công cụ để tinh thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân
mình.
9
Nguyên lý phát triển: Sự thống nhất giữa tư duy và tồn tại, tư
tưởng và hiện thực là sự phát triển về chất. Như vậy, Hêghen đã không
coi sự phát triển chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về lượng hay sự dịch
chuyển vị trí của trong không gian mà đó là một quá trình phủ định biện
chứng, trong đó liên tiếp diễm ra cái mới thay thế cho cái cũ, nhưng đồng
thời kế thừa những yếu tố của cái cũ mà vẫn có khả năng thúc đẩy phát
triển.
Xuất phát từ quan niệm coi sự phát triển như một quá trình vận
động liên tục theo quy luật phủ định của phủ định, Hêghen coi một trong
những nguyên tắc xây dựng hệ thống triết học của mình nhằm thể hiện
quá trình phát triển của tinh thần tuyệt đối là tam đoạn thức: chính đề -
phản đề - hợp đề, trong đó giữa các yếu tố đều có mối liên hệ hữu cơ,
chuyển hóa lẫn nhau.
Ý thức con người là sản phẩm của lịch sử: Trong “Hiện tượng học
tinh thần”, Hêghen đã tiếp cận được quan niệm coi nhân cách, ý thức con
người là sản phẩm của lịch sử. Lịch sử nhân loại mặc dù được thực hiện
thông qua hoạt động của các cá nhân cụ thể, nhưng đồng thời lại là nền
tảng và thực thể của ý thức các cá nhân đó.
Xuất phát từ quan niệm trên, Hêghen coi nhiệm vụ cơ bản của hiện
tượng học tinh thần là tái diễn lại toàn bộ tiến trình lịch sử mà nhân loại
đã trải qua.
Tư tưởng chủ đạo của Hêghen ở đây là: thứ nhất, tư duy và ý thức
con người chỉ phát triển trong mối quan hệ và giải quyết mâu thuẫn: con
người - tự nhiên. Thứ hai, ý thức con người là sản phẩm của tiến trình
lịch sử nhân loại được coi là hiện thân của tinh thần tuyệt đối.
2.2. Phép biện chứng duy tâm Hêghen – thành tựu và hạn chế
Công lao to lớn của Hêghen sư với các bậc tiền bối cùng thời là
ông đã xây dựng được phép biện chứng duy tâm nhưng chứa đựng
10
những hật nhân hợp lý mà những người trước đó và cùng thời với ông
chưa làm được. Phép biện chứng của Hêghen được thể hiên ở cả ba bộ
phận trong triết học của ông nhưng biểu hiện tập trung nhất trong lôgic
học. Thực chất của lôgic biện chứng là phép biện chứng hay linh hồn của
lôgic học là phép biện chứng.
Đối tượng của lôgic học như đã trình bày ở trên là “ ý niệm tuyệt
đối” hay nói một cách chính xác là sự vận động của “ ý niệm tuyệt đối”.
Lôgic học thực chất là học thuyết về các phạm trù của tư duy, Công lao
của Hêghen so với các bậc tiền bối là ở chỗ: ông đã dựa vào sự phân tích
một cách sâu sắc để khái quát tất cả những phạm trù quan trọng nhất của
triết học và sáng tạo ra 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy tâm
( 3 quy luật của tư duy) đó là:
- Học thuyết về tồn tại
- Học thuyết về bản chất
- Học thuyết về khái niệm
Trong học thuyết về tồn tại, Hêghen đã trình bày các khái niệm về
“chất”, “lượng”, “độ” và khái quát quy luật những thay đổi về lượng
chuyển hoá thành những thay đổi về chất và ngược lại. Tuy nhiên, ở quy
luật này, ông nói về sự chuyển hoá của các khái niệm chất, lượng chứ
không phải là sự chuyển hoá của chất, và lượng trong hiện thực. Mặc dù
còn mang nặng thế giới quan duy tâm, học thuyết về tồn tại của Hêghen
đã trình bày quy luật chuyển hoá những thay đổi về lượng chuyển hoá
thành những thay đổi về chất và ngược lại như là quy luật của tư duy
nhưng thông qua đó, Hêghen đã phỏng đoán được quy luật phát triển phổ
biến của hiện thực.
Trong học thuyết về bản chất, Hêghen trình bày quy luật mâu thuẫn.
Điều quý giá nhất trong học thuyết về bản chất là sự dự đoán của ông về
mâu thuẫn. Hêghen cho rằng mâu thuẫn là nguồn gốc bên trong của sự
11
vận động và phát triển. Theo Hêghen, mâu thuẫn vốn có sẵn bên trong
các khái niệm, nhờ đó mà những khái niệm vận động và phát triển được.
Hêghen cho rằng lúc đầu bản chất là sự đồng nhất giữa những thể hiện
khác nhau, giữa những mặt khác nhau, rồi sự đồng nhất đó lại thể hiện ra
những sự khác biệt, những khác biệt đó lại chuyển thành những mặt đối
lập và cuối cùng xuất hiện mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn là mối quan
hệ giữa những mặt đối lập. Theo Hêghen cái tồn tại thật sự là những khái
niệm, phạm trù chứ không phải thế giới hiện thực - đây là hạn chế của
ông, nhưng Hêghen biện chứng ở chỗ ông cho rằng các khái niệm, phạm
trù luôn vận động, biến đổi. Trong biện chứng của những khái niệm,
Hêghen đã dự đoán được quan niệm về sự vận động, biến đổi là có tính
quy luật.
Đặc điểm của phương pháp biện chứng của Hêghen là ở chõ: nó
không nói đến những mâu thuẫn thực sự của các hiện tượng tự nhiên, xã
hội mà lại nói về những mâu thuẫn trong sự phát triển của “ ý niệm tuyệt
đối”. Đồng thời những mâu thuẫn sẽ đựơc giải quyết bằng cách hoà bình,
cái mới thoả hiệp với cái cũ. Ông cho rằng phát triển không đưa đến sự
giải quyết mâu thuẫn theo lối cách mạng . Đến những giai đoạn phát triển
cao của “ ý niệm tuyệt đối” thì sẽ diễn ra loại vận động biện chứng mà ở
trong đó những mặt đối lập lại phù hợp với nhau một cách nhịp nhàng.
Mặc dù Hêhgen đã thần bí hoá quá trình phát triển khách quan nhưng tư
tưởng của ông về sự phát triển thông qua những mâu thuẫn đã chứa đựng
sự dự đoán về những quy luật thật sự của thế giới vật chất.
Cũng trong học thuyết về bản chất, Hêghen đã nêu ra tư tưởng hợp lý cho
rằng: hiện tượng và bản chất có mối quan hệ biện chứng với nhau; bản
chất được thể hiện ra trong hiện tượng còn hiện thực là sự thống nhất
giữa hiện tượng và bản chất. Hê ghen kết thúc học thuyết về bản chất
bằng cách phân tích một cách biện chứng khái niệm hiện thực. Ông cho
12
rằng hiện thực là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Hê ghen đã
phê phán tư duy siêu hình về những phạm trù: Khả năng và hiện thực; tất
yếu và ngẫu nhiên; nguyên nhân - kết quả; nội dung - hình thức. Trên cơ
sở đó, ông đã xem xét chúng trong mối quan hệ biện chứng.
Học thuyết về khái niệm là học thuyết về quá trình nhận thức lý luận
được Hêghen đưa ra như là giai đoạn phát triển cao nhất của tự ý thức
của “ ý niệm tuyệt đối”. Ông cho rằng “ý niệm tuyệt đối” là kết quả của
toàn bộ quá trính nhận thức. Hoạt động của “ý niệm tuyệt đối” bản chất
của nó là tư duy về chính bản thân mình, Nó vừa là chủ thể, vừa là khách
thể; vừa là chủ thể tư duy, vừa là đối tượng của tư duy.
Trong học thuyết về khái niệm, hêghen đã trình bày quy luật phủ định
của phủ định, quy luật này xuyên suốt toàn bộ lôgic học của ông. Theo
Hêghen quá trình phủ định của phủ định là qúa trình lôgic thuần tuý được
hình thành sao cho đầu tiên tư tưởng dựa vào nó, sau đó lại đối lập với
bản thân mình và cuối cùng bị thay thế bởi tư tưởng tổng hợp cao nhất.
Khi phát hiện ra nội dung quy luật phủ định của phủ định, Hêghen cho
rằng phủ định biện chứng không phải là phủ định trần trụi mà là phủ định
có kế thừa, nó thể hiện như là yếu tố của mối liện hệ cái thấp đến cao,
như là sự vận động tiến lên, sự phát triển, Hêgen đã sơ đồ hoá quy luật
phủ định của phủ định thành tam đoạn thức ( Luận đề - Phản đề - Hợp
đề). Theo Lênin, Hêghen đã hình dung ra sự vận động, phát triển không
phải theo đường thẳng vô tận mà là theo đường xoáy trôn ốc. Cái kết thúc
dường như trở về cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.
Trong học thuyết về khái niệm, Hêghen đã đưa ra tư tưởng về sự thống
nhất giữa lôgic học, phép biện chứng và lý luận nhận thức. Đây là
tư tưởng tiến bộ và quý giá của học thuyết triết học Hêghen. Thực
chất của lôgic học là phép biện chứng. Phép biện chứng chính là sự
13
vận động của các khái niệm trong lĩnh vực lôgic thể hiện qua 3 quy
luật và các cặp phạm trù trong triết học Hêghen.
* Đánh giá thành tựu của phép biện chứng Hêghen
Cho dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học
Hêghen song không thể phủ nhận được rằng cái có giá trị nhất và có
sức sống mạnh mẽ nhất trong triết học của ông chính là phép biện
chứng mà thực chất đó là học thuyết về sự phát triển toàn diện với tư
cách là sự vận động tiến tới và sự chuyển hoá về chất, với tư cách là
sự đi lên theo thang bậc lôgích có tuần tự về tính chất mâu thuẫn
của sự phát triển bao gồm sự tương tác giữa các mặt đối lập sự phủ
định tồn tại hiện có và đồng thời là sự giữ lại cái tích cực từ quá khứ.
Phép biện chứng được Hêghen lý giải là phương pháp đúng đắn
để nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư duy biện chứng
được ống nghiên cứu một cách đầy đủ nhất và có căn cứ vững chắc là
phương pháp chưa từng thấy trong lịch sử triết học trước Mác.
Trong triết học Hêghen phép biện chứng biểu hiện ra là lý luận nhận
thức và là hình thức cao nhất của lôgíc học của tư duy lôgíc. Đồng
thời nó cũng chế định một thế giới quan đặc biệt cần đặt trên niềm
tin vào tính tất yếu của sự tiến bộ với tư cách là kết, quả của sự phát
triển hợp quy luật.
Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động
hoà với trật tự xã hội phổ hiện tồn thời đó mà Hêghen đã có những kết
luận mâu thuẫn và không nhất quán. Trái với các nguyên tắc xuất phát
của mình. Hêghen đã đặt ra một giới hạn cho sự phát triển của nhân
loại kể cả cho sự phát triển của triết học sau khi tuyên bố rằng học
thuyết của mình là sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của tư tưởng triết
học.
14
C. Mác không những đã chỉ phê phán một cách sâu sắc phép biện
chứng của Hêghen mà còn kế thừa “hạt nhân hợp lý” , cải tạo phép
biện chứng đó để xây dựng nên phép biện chứng duy vật.
C.Mác viết: "Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở
trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành
người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình
thái vận động chung của phép biện chứng ấy ở Hêghen phép biện
chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện
được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí”.
Trên cơ sở “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng duy tâm, C.
Mác và Ph.Ăngghen không gán ghép hay hợp nhất một cách đơn giản
phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật trước đó, trước
hết là chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc. Trên thực tế các ông đã phải
tiến hành một công việc hết sức phức tạp và đồ sộ là chỉnh lý cải tạo
một cách duy vật đối với phép biện chứng duy tâm của Hêghen; chỉnh
lý và cải tạo một cách biện chứng đối với chủ nghĩa duy vật máy móc
và siêu hình. Trong triết học Mác phép biện chứng và chủ nghĩa duy
vật không phải là các bộ phận cấu thành riêng biệt tách rời nhau mà
chúng chuyến hoá lẫn nhau xâm nhập vào nhau và tạo thành một
chỉnh thế hữu cơ. Chủ nghĩa duy vật trong hệ thống triết học mácxít
không những là lý luận mà còn là phương pháp nghiên cứu duy vật.
Đồng thời phép biện chứng mác xít không chỉ là phương pháp mà
còn là lý luận hơn thế nữa là lý luận hoàn thiện nhất đầy đủ nhất toàn
diện nhất và không phiến diện nhất về sự phát triển.
*Những hạn chế của phép biện chứng duy tâm Hêghen
Phép biện chứng của Hêghen ngoài những đóng góp to lớn nói trên
chưa có những hình thức khoa học hợp lý. Đó là hình thức kinh viện và
thần bí của phép biện chứng đó đã làm lộn ngược tất cả mọi vật (theo
15
cách ví von của Mác thì phép biện chứng của Hêghen như một cái cây
gốc ở trên trời ngọn ở dưới đất, nên cần phải dựng ngược nó lại). Phép
biện chứng của Hêghen quay về quá khứ, chứ không hướng vào hiện tại
hay tương lai, trong hệ thống triết học Hêghen thì sự phát triển sau khi
đạt đến một trình độ nhất định nào đó thì ngưng lại, v.v…
Trong các quan điểm xã hội, Hêghen đứng trên lập trường chủ
nghĩa Sôvanh đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước
Đức là "hiện thân của tinh thần vũ trụ mới" muốn duy trì nhà nước Phổ
phản động, xem nó như là đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp
luật. Hơn nữa, nội dung khoa học trong phép biện chứng của Hêghen là
mâu thuẫn với triết học duy tâm của ông.
Nói chung, Hêghen đã có những đóng góp to lớn trong địa hạt lí
luận về nhận thức, trong cuộc đấu tranh chống "thuyết không thể biết"
(bất khả tri luận). Hệ thống duy tâm, bảo thủ, khép kín và giả tạo của triết
học Hêghen mâu thuẫn sâu sắc với phương pháp biện chứng có tính chất
cách mạng của triết học này. Quan điểm chính trị phản động của Hêghen,
đặc biệt trong thời kì hoạt động cuối đời của ông, phản ánh tình trạng
mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả hiệp của nó với
các thế lực phong kiến. Hêghen ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh
vực nhà nước quân chủ phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao của sự phát
triển xã hội.
III. CHỦ NGHĨA DUY VẬT CỔ ĐIỂN ĐỨC - THÀNH TỰU VÀ
HẠN CHẾ.
3.1 Vài nét về cuộc đời và triết học của Ludwig Feuerbach
Ludwig Feuerbach (1804-1872) - đại biểu cuối cùng của triết học
cổ điển Đức, sự kết thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường
16
của nền triết học Đức - nhà duy vật và khai sáng. Triết học Feuerbach là
sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới, hình thành vào cuối những
năm 30 - đầu những năm 40 của thế kỷ XIX. Đó là thời kỳ nhen nhóm
tình thế cách mạng ở nhiều nơi trên nước Đức. Chủ nghĩa duy vật của
Feuerbach là chủ nghĩa nhân bản.
L.Feuerbach sinh trưởng trong một gia đình trí thức có tên tuổi.
Năm 1823 với mục đích nghiên cứu tôn giáo, Feuerbach vào học tại khoa
thần học của trường đại học Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa
thần học và chuyển đến Berlin, nơi Hegel đang giảng triết học. Chẳng
mấy chốc Feuerbach trở thành người học trò nghiêm túc của Hegel. Tại
trường đại học Erlangen, Feuerbach trình bầy logic học và siêu hình học,
đồng thời nhen nhóm tư tưởng nhân bản mà về sau trở thành nội dung
chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc trưng - chủ nghĩa duy vật nhân bản.
Ông mất năm 1872, tức là sau công xã Paris(1871) thất bại.
3.2. Chủ nghĩa duy vật nhân bản Ludwig Feuerbach – những đóng
góp và hạn chế.
Feuerbach là nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức, bậc
tiền bối của triết học Mác. Ban đầu Feuerbach chịu ảnh hưởng lớn của
triết học Hêghen, ông tham gia phái Hêghen trẻ (trong đó có Mác), ông
tin rằng tôn giáo, các khái niệm của tinh thần thế giới thống trị thế giới
hiện thực. Nhưng về sau do ảnh hưởng của các nhà triết học duy vật Pháp
thế kỷ XVIII và sự phát triển của thực tiễn xã hội và khoa học đầu thế kỷ
XIX Feuerbach đã từ bỏ triết học Hêghen. Feuerbach có công lớn trong
việc phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen cũng như chủ nghĩa duy
tâm và tôn giáo nói chung, khôi phục vị trí xứng đáng của triết học duy
vật.
17
Feuerbach là nhà triết học duy vật vì ông khẳng định vật chất là
tính thứ nhất; ý thức, tư duy là tính thứ hai. Song là nhà duy vật nhân
bản, ông coi con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề
quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất của con người, vì thế,
đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của triết học. Chủ nghĩa
duy vật nhân bản của Feuerbach là đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh
chống lại việc giải thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa
duy tâm tầm thường về vấn đề con người. Song, nguyên lý nhân bản học
của Feuerbach không triệt để, vì ông hiểu con người chỉ là những cá nhân
trừu tượng, là thực thể thuần túy tự nhiên - sinh vật. Ông không thấy
được mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi hiện thực.
Triết học Feuerbach mang tính nhân bản. Nó chống lại chủ nghĩa
nhị nguyên luận về sự tách rời giữa tinh thần và thể xác, ông coi ý thức,
tinh thần cũng là một thuộc tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là bộ
óc người. Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Feuerbach là sự đấu
tranh chống lại những quan điểm tôn giáo chính thống của đạo thiên
chúa, đặc biệt quan niệm về thượng đế. Triết học của ông ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình chuyển tiếp từ thế giới quan duy tâm trong triết học của
Mác sang thế giới quan duy vật của Mác.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach đã để lại cho di sản văn hóa
nhân loại vô cùng quý giá. Là một người có tư tưởng cách tân triết học,
Feuerbach cho rằng triết học là một khoa học về thực tại trong chân lý và
tính tổng thể của nó. Tính tổng thể của thực tại không là gì khác ngoài
giới tự nhiên, và điều này chỉ biết được nhờ sự cảm nhận thông qua sự
tác động của các hiện tượng khác từ bên ngoài. Điều này không có nghĩa
là triết học phải hy sinh cho những khoa học chuyên biệt cụ thể như toán,
lý, hóa, sinh, tâm lý, sinh lý học. Bên cạnh đó Feuerbach còn đưa ra
18
nhiều nét độc đáo trong chủ nghĩa vô thần trong tư tưởng triết học của
mình Feuerbach đều viết về tôn giáo, và khi viết về mảng này thì ông
nghiên cứu phán xét tôn giáo là cơ sở, điều kiện tất yếu để khám phá bản
tính của con người và ngược lại. Nghiên cứu một cách căn bản lịch sử
hình thành và phát triển của tôn giáo đã cho Feuerbach cơ sở lý luận
vững vàng để khẳng định rằng: Chủ nghĩa phiếm thần và tôn giáo đa thần
phản ánh sự lệ thuộc của con người vào giới tự nhiên cũng như nhân cách
hóa các hiện tượng tự nhiên, từ đó mà phát sinh ra biểu tượng về thần
sông, thần núi... như đã miêu tả trong thần thoại Hy Lạp.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach là đóng góp to lớn vào cuộc
đấu tranh chống lại việc giải thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả
chủ nghĩa duy tâm tầm thường về vấn đề con người.
* Những hạn chế trong triết học của Feuerbach
Triết học của Feuerbach bộc lộ những hạn chế khi ông đòi hỏi triết
học mới - triết học nhân bản, phải gắn liền với tự nhiên thì đồng thời phải
đứng trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng
thuộc về con người và xã hội. Con người trong quan niệm của ông là con
người trừu tượng, phi xã hội mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh.
Triết học nhân bản của ông chứa đựng những yếu tố duy tâm. Ví dụ như
quan điểm thay thế thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên,
cần xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Feuerbach
đã vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Mặc dù có những hạn chế
triết học ông vẫn có ý nghĩa to lớn trong lịch sử triết học và trở thành một
trong những nguồn gốc lý luận của triết học Mác.
19
KẾT LUẬN
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội
và tiến trình lịch sử nhân loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của
con người. Khắc phục triết học truyền thống phương Tây. Nó coi con
người là chủ thể hoạt động như là vấn đề nền tảng, xuất phát điểm của
một vấn đề triết học.
Một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức là nó
khẳng định rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực
con người nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời
là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo ra, nghiên cứu
tiến trình lịch sử nhân loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con người - tự
nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây
dựng nên các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng,
lôgic biện chứng, học thuyết về các quá trình phát triển, mà tìm tòi lớn
nhất trong tất cả cá tìm tòi của họ đó là phép biện chứng. Hạt nhân hợp lý
trong phép biện chứng duy tâm được C.Mác, Ănghen kế thừa, cải tạo,
phát triển để xây dựng phép biện chứng duy vật - linh hồn sống của chủ
nghĩa Mác.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản trong triết học cổ điển Đức đã có đóng
to lớn đối với kho tàng tư tưởng nhân loại trong việc đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm, tôn giáo về bản chất của thế giới; về giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học, về con người. Nó là một trong những nguồn gốc lý luận
của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Có thể nói triết học cổ điển Đức đã phát triển một cách vượt bậc về
mọi mặt trong lịch sử triết học phương Tây. Đây là thời kỳ phát triển
20
mạnh mẽ của triết học phương Tây và nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
triết học hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
F SÁCH:
1.Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2006), Giáo trình Triết học (dùng
cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
ngành triết học) - NXB Chính trị - hành chính.
2.Bộ Giáo dục và Đào tạo,(2006), Giáo trình Triết học Mác-
Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3.GS,TS Nguyễn Hữu Vui (2002), Lịch sử triết học, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21
top related