tuongminhcenter.edu.vntuongminhcenter.edu.vn/wp-content/uploads/2018/05/noi-dung-chinh.docx · web...
Post on 28-May-2020
2 Views
Preview:
TRANSCRIPT
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
TRẺ EM VÀ GIA ĐÌNH. NHỮNG QUAN HỆ ĐẦU TIÊN” của Donad Winnicott
Mục lục1 Mở đầu............................................................................................................................................3
1.1. Tác giả Donad Winnicott (1896 – 1971)...............................................................................3
1.1.1. Tiểu sử về Donad Winnicott...........................................................................................3
1.1.2. Liệu pháp quan hệ đối tượng / Lý thuyết quan hệ đối tượng (Object relations therapy) ..........................................................................................................................................6
1.2. Tác phẩm / cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên”, người dịch Vũ Thị Chín..............................................................................................................................................7
1.3. Ý nghĩa / Tính thời sự của cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” ........................................................................................................................................11
I. Nội dung cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên”.....................................14
2 Chương 1. Người mẹ thông thường tận tâm và đứa con bé.....................................................14
1.1. Cơ sở lý luận cho việc tìm hiểu tác phẩm “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” ................................................................................................................................................14
1.1.1. Trẻ em trong gia đình và trong sự phát triển xã hội...................................................14
1.1.2. Đặc điểm tâm lý của trẻ em..........................................................................................15
1.2. Gia đình và chức năng của gia đình...................................................................................16
2.1.1 Khái niệm gia đình:......................................................................................................17
2.1.2 Một số quan niệm về gia đình......................................................................................19
2.1.3 Các chức năng cơ bản của gia đình.............................................................................20
2.2 Một nam giới quan tâm đến việc làm mẹ..............................................................................21
2.3 Gắn bó mẹ - con trong những năm đầu đời...........................................................................22
2.4 Giai đoan sơ sinh...................................................................................................................25
1.2.1. Những phản ứng của trẻ sơ sinh.................................................................................27
1.2.2. Cảm giác của trẻ sơ sinh...............................................................................................29
1.2.3. Phát triển tâm lý – xã hội.............................................................................................30
1.3. Nguyên lí sống còn ở trẻ bé.................................................................................................32
1.4. Nhu cầu tâm lý của trẻ........................................................................................................34
1.5. Cho trẻ bú mẹ.......................................................................................................................36
1.5.1. Những lợi ích của sữa mẹ:...........................................................................................36
1.5.2. Cai sữa...........................................................................................................................37
1.5.3. Thức ăn đi đâu:.............................................................................................................40
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 1
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
1.6. Ý thức đạo đức bẩm sinh:...................................................................................................41
3 Chương 2 Gia đình......................................................................................................................42
2.1. Người cha..............................................................................................................................42
2.2. Vai trò của người cha..........................................................................................................43
2.2.1. Uy quyền của người cha...............................................................................................46
2.2.2. Người cha hỗ trợ người mẹ..........................................................................................47
2.2.3. Không nhận ra vai trò người cha........................................................................52
2.2.4. Hậu quả thiếu hut uy quyền người cha.......................................................................53
2.2.5. Những thiếu hut uy quyền người cha.................................................................56
2.2.6. Những trẻ bé và những người khác.............................................................................58
2.3. Hiểu thế nào là trẻ bình thường.........................................................................................60
2.4. Phân loại theo thứ tự sinh trong gia đình:.........................................................................63
2.4.1. Con cả............................................................................................................................63
2.4.2. Con thứ..........................................................................................................................63
2.4.3. Con út (có 3 con trở lên)...............................................................................................64
2.4.4. Anh em sinh đôi............................................................................................................65
2.4.5. Con một.........................................................................................................................65
2.4.6. Con nuôi........................................................................................................................68
2.5. Các phong cách làm cha mẹ................................................................................................71
2.5.1. Phong cách độc đoán:..................................................................................................71
2.5.2. Phong cách cha mẹ dân chủ:.......................................................................................72
2.5.3. Phong cách cha mẹ tự do.............................................................................................72
2.5.4. Phong cách cha mẹ thờ ơ.............................................................................................72
2.7. Giúp các bố mẹ bình thường...............................................................................................74
II. KẾT LUẬN...................................................................................................................................77
1. Tóm tắt nội dung cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” của tác giả Donad Winnicott, người dịch: Vũ Thị Chín..................................................................................77
2. Hậu quả của sang chấn đối vớii sự phát triển tâm lý trẻ em...................................................79
3. Cảm nhận khi đọc cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” của tác giả Donad Winnicott, người dịch: Vũ Thị Chín”....................................................................................82
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 2
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
1 Mở đầu
1.1. Tác giả Donad Winnicott (1896 – 1971)
1.1.1. Tiểu sử về Donad Winnicott
Donad Winnicott sinh ngày 07 tháng 4 năm 1896, mất ngày 28 tháng 1 năm
1971 tại Plymouth (một thị trấn đơn nhất trên bờ biển phía nam của quận Devon, phía
tây nam của London, Anh). Ông là một bác sĩ nhi khoa và là nhà tâm lý học theo
trường phái Phân tâm học với lý thuyết “Quan hệ đối tượng”, và ông cũng là một
thành viên quan trọng của Hội phân tâm học Anh.
Sau Freud, D.W. Winnicott, một bác sĩ phân tâm chuyên trách về nhi đồng, một
người gốc Anh sinh ra tại Ấn Độ, qua nghiên cứu của mình ông đã cho phép chúng ta
thấy được “con đường tất yếu để làm người”, làm chủ thể phải xuất phát từ quan hệ
Mẹ Con.
Theo ông: “Người Mẹ là bài học đầu tiên và cơ bản nhất cho phép đứa con kiến
dựng một nhân cách vững mạnh. Chính người Mẹ tạo điều kiện thuận lợi cho đứa con
chuyển hóa từ từ, trên con đường thành nhân, với bảy hình thái khác nhau.
Tư tưởng của D.W. Winnicott được tóm lược trong những điểm sau đây:
Thứ nhất, sự có mặt tích cực của người Mẹ - hay là một người thay thế Mẹ - bên
cạnh đứa con là con đường tất yếu, phải có, trong ba năm đầu đời, để đứa con có cơ
năng trở thành một chủ thể tự tồn, độc lập vào tuổi thành nhân. Từ được dùng trong
tiếng Anh là "Self" có nghĩa là một nhân cách vững vàng, nguyên chất. "False self",
trái lại, là nhân cách "trình diễn", giả tạo, bắt chước. Chỉ là lớp sơn ở bề mặt. Không
phải là thực chất, thực hiệu.
Thứ hai, ngay lúc đầu, nhất là vào lứa tuổi từ hai tháng trở lên, khi đứa bé có khả
năng "sống một mình, chơi một mình" trong một vài khoảnh khắc, tách rời ra khỏi
vòng tay ôm của mẹ, đó là dấu hiệu cụ thể, khách quan và rõ ràng cho chúng ta thấy :
đứa bé đang ở trên tiến trình học tập trưởng thành. "Khả năng sống một mình" trong
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 3
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
tiếng Anh của D.W. Winnicott là "To be there". Cách nói này bao gồm hai yếu tố : To
be : có mặt, hiện hữu một cách tích cực, như một chủ thể độc lập. Tuy nhiên, khả năng
ấy còn rất hạn hẹp, lệ thuộc vào điều kiện thời gian và không gian, được diễn tả trong
trạng từ "There", ở đó
Thứ ba, theo ông điều kiện do bà mẹ tạo nên. Sở dĩ đứa con bắt đầu biết sống
một mình, làm chủ thể, là nhờ bà mẹ đã và đang có mặt tích cực với nó, từ ngày nó
mới sinh ra. Mỗi lần đứa bé sơ sinh từ từ đi ra khỏi giấc ngủ triền miên, suốt ngày ...
nó vừa mở mắt, bà mẹ đã có đó, to be there. Nhờ đó, nó học nhìn, học nghe, học tiếp
xúc ...Nó đã có khả năng làm người, nó đã có mặt như một chủ thể, trong lúc ấy, trong
không gian ấy, với điều kiện ấy, to be there. Nhờ mẹ có mặt với con, cho nên đứa con
sẽ từ từ có mặt như một chủ thể sinh động trong cuộc đời làm người. Nhờ mẹ tạo điều
kiện cho phép nó chủ động, học làm người, nó mới có khả năng thành người.
Thứ bốn, để giúp bà mẹ hiểu được một cách rõ ràng cụ thể bà phải "làm" những
gì, khi có mặt một cách tích cực với đứa con, D.W. Winnicott đã đề xuất ba chiều
hướng tác động, ba hình thức quan hệ với đứa con. Đó là Holding, Handling và Object
presenting. Nói được đây là ba cách bà mẹ thuyên giải cuộc sống làm người của đứa
con, để giúp con có khả năng thành người.
Ông bắt đầu sự nghiệp của mình như là bác sĩ nhi khoa và sử dụng kinh nghiệm
của mình với trẻ để phát triển ý tưởng sáng tạo của ông. Ông đã có những đóng góp to
lớn và lâu dài cho lý thuyết phân tâm học, đặc biệt là trong hệ thống của Lý thuyết
quan hệ đối tượng, bắt nguồn tự lý thuyết của Melanie Klein. Giống như Fairbairn,
Winnicott đưa ra khái niệm về các mối quan hệ với cha mẹ ảnh hưởng tới sự phát triển
tâm lý trẻ em. Theo ông một đứa trẻ tự phát triển, lành mạnh, đúng nghĩa khi người
mẹ phải là một “người mẹ đủ tốt”, liên quan đến những “mối bận tâm chính của mẹ”.
Theo cách nhìn của tác giả Donald Winnicott, nhờ được bồng bế thương yêu nhờ
được cư xử và đối đãi như một con người quan trọng, có giá trị (Handling), cũng như
nhờ được nuôi nấng, dạy dỗ theo từng cấp độ phát triển và tăng trưởng (Object
presenting), một đứa bé mới có khả năng từ từ trở thành một con người tự tin. Khi lớn
khôn, nó sẽ ý thức mình là con người có giá trị, được thương yêu và kính trọng. Đồng
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 4
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
thời, tùy vào những giai đọan học tập và phát triển, nó sẽ hội nhập những kỹ năng,
nghĩa là biết làm, biết sống, biết tiếp xúc và trao đổi, biết thích ứng với mỗi người và
mỗi hoàn cảnh, trong đời sống giao tế.
Trong lăng kính ấy, khi tự tin, tôi biết : Tôi là ai ? Tôi xuất phát từ đâu ? Tâm
điểm của cuộc đời tôi là gì ? Ở vào vị trí hiện tại, tôi có những khả năng và khuyết
điểm nào? Tôi có những ước mơ và hoài bảo như thế nào ? Để biến ước mơ thành
hiện thực, tôi cần thực hiện những động tác cụ thể nào ? Và khi hoạt động, tôi biết
đánh giá những thành quả khách quan theo ba chiều hướng : Trường hợp tôi thành
công, tôi biết rõ con đường cần tiếp tục đi tới là đâu. Khi thất bại, tôi biết chuyển
hướng như thế nào. Khi sai lầm, tôi biết can đảm dừng lại, rút tỉa những bài học và
kinh nghiệm. Nói tóm lại, trong quan hệ giữa người với người, tôi chỉ lo tập luyện làm
người về phía tôi. Tôi không đánh mất tính người và tình người, cho dù người bên kia
chưa làm người.
1.1.2. Liệu pháp quan hệ đối tượng / Lý thuyết quan hệ đối tượng (Object
relations therapy)
Mặc dù được huấn luyện theo trường phái của Klein, nhưng Winnicott lại làm
việc theo liệu pháp quan hệ đối tượng theo kiểu Anh, cùng với Fairbairn, Dicks và
Bowlby. Ông đã phát triển riêng cho mình một kiểu tiếp cận có tính thuyết phục cao
trong làm việc với trẻ em. Ông xem chơi là trung tâm của những trải nghiệm có tính
trị liệu và tin rằng hoạt động chơi ở trẻ em có một sự liên tục trực tiếp với điều mà ông
gọi là “khu vực trung gian” (intermediate area) trong các trải nghiệm ở người lớn như
nghệ thuật và tôn giáo, nơi mà “sức căng” trong việc xử lý sự chuyển tiếp giữa thực
tại bên trong và bên ngoài tương đối không quá thách thức và vì thế không gây lo âu
nhiều. Vì thế, theo quan điểm của ông, chơi là phương tiện để đứa trẻ quản lý sự
chuyển tiếp giữa thế giới nội tâm bên trong và thực tại bên ngoài, vì thế nó luôn ở trên
lằn ranh giữa cái chủ quan và những gì mà trẻ nhận thức được một cách khách quan
(Winnicott, 1988).
Mặc dù làm việc chủ yếu dựa trên những tư liệu được trẻ trình bày thông qua
chơi, cách tiếp cận của Winnicott có thể được xếp vào loại liệu pháp có hướng dẫn và
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 5
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
có tính diễn giải cao (directive and interpretive). Có tính hướng dẫn là vì nhà trị liệu
đôi lúc chọn lựa một hình thức chơi đặc biệt nào đó như một phương tiện giao tiếp
chính, chẳng hạn trò chơi “vẽ tiếp nét” (squiggle game) rất nổi tiếng của Winnicott
trong đó nhà trị liệu và thực hiện luân phiên thực hiện những nét vẽ cho đến khi hoàn
tất một bức tranh và cho những lời bình về những gì mà mình đã vẽ. Có tính diễn giải
là vì khi đáp ứng lại với những nội dung chơi hoặc giấc mơ của trẻ nhà trị liệu sẽ phát
biểu thành lời những liên hệ giữa những hành vi được biểu hiện nơi đứa trẻ với những
cảm xúc có thể còn ẩn giấu bên trong vô thức. Trọng tâm chính của liệu pháp là nhằm
bộc lộ một cách có hệ thống những tư liệu bên trong vô thức, nhưng các tư liệu được
bộc lộ này phải giới hạn lại bên trong thời hạn cho phép của phiên trị liệu.
Winnicott cũng thừa nhận một số cách thức tiếp cận khác trong làm việc với trẻ
em. Đôi khi ông xem hoạt động chơi ở trẻ em như sự phản ánh lại các trải nghiệm
được mô tả lại bởi những người chăm sóc trẻ, thường là người mẹ; đôi khi ông diễn
giải điều này cho trẻ, đôi khi lại không; có lúc ông đáp ứng lại các giao tiếp của trẻ
bằng chính những ngôn từ và ẩn dụ của trẻ mà không khám phá các ý nghĩa biểu
tượng chứa đựng bên trong chúng, có lúc ông lại diễn giải và liên hệ chúng với những
tư liệu trong lịch sử của trẻ. Cách tiếp cận của Winnicott đôi lúc lại khá giống với liệu
pháp chơi không hướng dẫn; và thực vậy khi thừa nhận rằng “tâm lý trị liệu chiều sâu
có thể được thực hiện mà không cần sử dụng cách diễn giải”, Winnicott đã trích dẫn
và chấp nhận Axline (Winnicott, 1988). Hơn nữa, ý kiến của ông về vai trò của chơi
trong việc giúp trẻ giao tiếp và làm chủ những thực tại bên ngoài cũng như bên trong
nội tâm trẻ đã giúp người ta thấu hiểu hơn về tiến trình trị liệu.
Ngoài đóng góp về “Lý thuyết quan hệ đối tượng”, Winnicott còn xây dựng “ý
niệm về các đối tượng chuyển tiếp và không gian chuyển tiếp giữa người mẹ và đứa
con”. Ông tin rằng trẻ em lớn lên và phát triển thông qua việc sử dụng các đối tượng
chuyển tiếp và cũng thông qua kinh nghiệp về không gian chuyển tiếp giữa người mẹ
và đứa con (Cattanach, 1992).
Theo ông, không gian chuyển tiếp là không gian trong đó người mẹ chơi với con
trong quá trình giúp con rời xa mẹ để thành một thực thể riêng và việc trị liệu đối với
trẻ giống như không gian chuyển tiếp.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 6
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Với một số trẻ thì các buổi tham vấn và mối liên hệ với người điều trị tự nó cũng
đủ giúp trẻ vượt qua các vấn đề vô thức.
1.2. Tác phẩm / cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên”,
người dịch Vũ Thị Chín.
Là hội viên của Hội phân tâm học Anh, ông đã dành cả cuộc đời mình để nghiên
cứu “sự phát triển của trẻ và thanh thiếu niên”. Với những nghiên cứu của mình,
Donad Winnicott đã đóng góp cho ngành Tâm lý lâm sàng những khái niệm hết sức
“độc đáo”, hình ảnh của ông “chiếm một vị thế trung tâm trong trường phái phân tâm
học”.
Theo hướng nghiên cứu của Freud, qua làm việc với Anna Freud, Melahie Klien,
John Bowlby..., Donad Winnicott đã tìm ra những yếu tố mới trong các nghiên cứu
của ông. Nếu như Melanie Klein nói về khái niệm “sự bình thường được đặc trưng bởi
sức mạnh cá tính, khả năng giải quyết các xung đột cảm xúc, khả năng trải nghiệm sự
vui thú không có xung đột, và khả năng yêu”. Thì Donad Winnicott đã tìm đặt các giả
thuyết về quan hệ theo hướng nghiên cứu phân tâm với khái niệm sinh học và tâm
sinh lý. Ông mở rộng công trình nghiên cứu với những ca “giáp ranh”, “chống đối xã
hội” hoặc “loạn tâm”, ông cố gắng tái lập lại động thái của tuổi bé tí, đặc biệt là thời
kỳ đứa trẻ lệ thuộc vào mẹ. Từ đó cung cấp một lý thuyết phông phú về những bài học
cho lĩnh vực phân tâm học hiện đại.
Cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” của Donad Winnicott
là tập hợp những bài viết mà Donad Winnicott đã chuẩn bị cho đài BBC (đài phát
thanh và truyền hình Anh quốc). Tác phẩm là những lời giới thiệu của tác giả về
những khía cạnh khác nhau của lý thuyết và thức hành việc chăm sóc trẻ. Đó là các
cuộc nói chuyện của ông dành cho các bậc cha mẹ, đặc biệt là cho các bà mẹ về việc
chăm sóc con trẻ. Qua các cuộc nói chuyện tác giả còn cung cấp cho các bậc cha mẹ
những suy ngẫm và những lời khuyên rất cụ thể về việc chăm sóc cho sự phát triển
của con em họ.
Ông nổi tiếng một phần vì ông đã sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, và cũng từ
chương trình phát sóng của mình trên đài BBC. Với cách viết sinh động và súc tích,
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 7
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
qua cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” ông đã vẽ ra trước mắt
chúng ta những khung bên trong và bên ngoài tác động đến sự phát triển của những
đứa trẻ và nhất là mối quan hệ mẹ - con.
Qua việc nghiên cứu cuốn sách, chúng ta có thể nhận thấy những khái niệm
chính mà tác giả Donad Winnicott đưa ra như:
Khái niệm về “Các đối tượng chuyển tiếp” : Đối với tiện nghi và xác định
không phải tôi.
Khái niệm về “Người mẹ tốt đủ” : Cung cấp môi trường tổ chức và tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi.
Khái niệm về “Tự đúng sự thật, tự sai” : Tính toàn vẹn và tăng trưởng.
Khái niệm về “Giai đoạn phát triển ” của Winnicott : Đoàn kết, quá trình
chuyển đổi, độc lập.
Khái niệm về “Chơi” : Phát triển và học tập.
Các không gian giữa : Thay vì xem xét thế giới bên ngoài và bên trong,
Winnicott lại quan tâm nhiều hơn trong không gian chuyển tiếp giữa các lĩnh vực
này. Là một thế giới ảo, đó là lý tưởng để vui chơi và sáng tạo.
Ego phát triển : Ông thấy lòng như phát sinh từ các mối đe dọa nguyên thủy để
tồn tại và phát triển liên tục của thực thể ", khả năng của người mẹ đủ tốt .
"Các tổ chức bản ngã đầu tiên xuất phát từ kinh nghiệm của các mối đe dọa của
sự hủy diệt mà không dẫn đến sự hủy diệt và từ đó, liên tục, có phục hồi." (Winnicott,
1956)
"Với sự chăm sóc mà nó nhận được từ mẹ của nó, mỗi trẻ sơ sinh có thể có một
cuộc sống cá nhân, và để bắt đầu xây dựng những gì có thể được gọi là một sự liên
tục. Trên cơ sở này sự liên tục là tiềm năng di truyền dần dần, từ việc một trẻ sơ sinh
phát triển thành cá nhân. Nếu chăm sóc của bà mẹ là không đủ tốt, thì sau này trẻ sơ
sinh sẽ không thực sự đi vào sự tồn tại, vì không có tính liên tục của sự sống, thay vì
tính cách trở nên được xây dựng trên cơ sở các phản ứng va đập môi trường
". (Winnicott, 1960)
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 8
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Xâm lăng hay Hung hăng theo ông là : Hung hăng ở trẻ được xem như là một
phần tự nhiên của sự phát triển khi trẻ kiểm tra các giới hạn về tính cách của trẻ. Trẻ
đá và la hét trong cơn giận dữ. Xâm lăng hay Hung hăng ở trẻ cũng có thể là việc trẻ
kiểm tra môi trường và giúp trẻ liên quan (thích nghi) đến trẻ.
(1) Chủ đề liên quan đến đối tượng (2) đối tượng là quá trình được tìm thấy thay
vì được đặt bởi các chủ đề trên thế giới. (3) Theo tiêu diệtđối tượng. (4) Object sống
sót phá hủy. (5) Tiêu đề có thể sử dụng đối tượng "(Winnicott, 1969).
Khi đối tượng là bà mẹ, đây là một thời gian rất cố gắng cho bà. Người mẹ hoạt
động như một 'container' cho xâm lược của con, nếu duy trì bình tĩnh, giúp cho trẻ em
để có được sự xâm lược.
Điều trị : Đối với Winnicott, nhiệm vụ của chuyên gia trị liệu vì thế trở thành để
cung cấp một môi trường tổ chức cho khách hàng để họ có cơ hội để đáp ứng nhu cầu
bị bỏ quên cái tôi và cho phép con người thật của họ xuất hiện. Một trong những thuộc
tính quan trọng nhất của nhà điều trị là đơn giản, kiên nhẫn.
"Nếu chúng ta chỉ có thể chờ đợi, bệnh nhân đến sự hiểu biết sáng tạo và với
niềm vui bao la ... Nguyên tắc là nó là bệnh nhân và chỉ có bệnh nhân, những người có
câu trả lời." (Winnicott, 1969)
Winnicott tiếp tục nguyên tắc của học chơi như một cách để hiểu trẻ Klein .
Tóm lại, một số ý tưởng chính của Winnicott như sau:
Đứa trẻ sẽ phát triển khỏe mạnh tự sai , tùy thuộc vào chất lượng chăm sóc sớm
từ người mẹ đủ tốt . Nếu không, nó sẽ phát triển một giả tự không lành mạnh.
Ban đầu, vai trò của người chăm sóc là để hỗ trợ những ảo ảnh của một hợp
nhất, thống nhất không phân biệt .
Người chăm sóc sau đó dần dần và thận trọng cho phép sự vỡ mộng nơi mà
đứa trẻ nhận ra của nó (và đó là người chăm sóc của) cá nhân.
Việc tách biệt này xảy ra thông qua chơi và sử dụng của một đối tượng chuyển
đổi .
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 9
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Winnicott và Lacan
Winnicott khác từ Lacan trong việc sử dụng của các đối tượng chuyển tiếp để
xác định tự, mặc dù Lacan cũng sử dụng một bên ngoài khác trong sự hình thành của
bản ngã. Ông cũng sử dụng một cách tiếp cận nuôi dưỡng hơn trong phân tâm
học. Ông có gương, như ánh mắt yêu thương của người chăm sóc (mẹ hay cách khác),
phản ánh nhận thức của người chăm sóc em bé chứ không phải là một ảo tưởng bản
thân. Bản ngã được tách ra từ từ, không mạnh như với Lacan.
"Trong phát triển tình cảm cá nhân, tiền thân của gương mặt của mẹ .... bé không
nhìn thấy gì khi họ nhìn vào khuôn mặt của mẹ tôi đang gợi ý rằng, thông thường,
những gì con nhìn thấy bản thân mình." (Winnicott, 1967)
Ông không đồng ý với nguyên tắc kết nối đầu với mẹ trong một giai đoạn sơ sinh như
là một "liền mạch nhất”. Winnicott kêu gọi các bà mẹ để hỗ trợ nhu cầu của đứa trẻ
để kết nối với người mẹ trong giai đoạn này.
Winnicott và Klein
Klein thấy trạng thái tâm linh hoạt động ở mức độ bất tỉnh sự lạm dụng ảo
tưởng và do đó bị ngắt kết nối từ thế giới bên ngoài. Winnicott có quan điểm rằng bạn
không thể xem xét sự phát triển của đứa trẻ mà không có tính đến môi trường bên
ngoài, đặc biệt trong tương tác với con số cha mẹ khác nhau.
Ông được xem các chi tiết của trẻ sơ sinh khi chuyển tiếp từ sự thống nhất
không phân biệt độc lập và thực hiện của người mẹ như là một người riêng biệt.
1.3. Ý nghĩa / Tính thời sự của cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan
hệ đầu tiên”
Winnicott được sinh ra ở Plymouth. Cha ông là Devon Sir John Frederick
Winnicott, một thương gia, được phong tước hiệp sĩ vào năm 1924 và mẹ của ông là
bà Elizabeth Martha (Woods) Winnicott.
Theo ông: “Gia đình thịnh vượng và bề ngoài có vẻ hạnh phúc”, nhưng đằng sau
lớp mặt, Winnicott thấy mình bị áp bức bởi mẹ của mình, những người có xu hướng
hướng trầm cảm, cũng như hai chị em của mình và vú em của mình. Ông nói về
những kinh nghiệm thời thơ ấu của mình và cố gắng để làm "sống" bằng cách giữ mẹ
mình còn sống ". Ảnh hưởng của người cha của ông là của một tự do tư tưởng tiến
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 10
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
thủ, khuyến khích sự sáng tạo của con trai mình. Winnicott tự mô tả mình như là một
vị thành niên bị xáo trộn, phản ứng chống lại "lòng tốt" của mình. “Tự sai” có được từ
cố gắng để làm dịu tâm trạng đen tối của mẹ mình. Nó được xem như là những hạt
giống cho sự tự nhận thức và trở thành cơ sở lợi ích của ông trong làm việc với các rắc
rối của người trẻ.
Winnicott (1965) đề nghị, trị liệu tái tạo một "môi trường đang nắm giữ, mà
giống như là của các bà mẹ và trẻ sơ sinh. Winnicott mô tả tỉ mỉ, sự lựa chọn để chăm
sóc một em bé ... thu thập của mình với nhau, và cách kỹ thuật mà các bà mẹ đang
nắm giữ, tắm, cho ăn, tất cả mọi thứ người mẹ đã làm cho em bé, thêm ý tưởng đầu
tiên của con với người mẹ. Winnicott coi các "con có khả năng cảm nhận cơ thể các
địa điểm nơi các đời sống tinh thần không có thể đã được phát triển mà không có 1 kỹ
thuật phù hợp xử lý". Ông thấy một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển lành mạnh
và tiếp tục nắm giữ đáng tin cậy về các vòng tròn luôn mở rộng của gia đình, trường
học và đời sống xã hội
Trong các tác phẩm của mình, ông đã phát triển niềm tin tiếp theo đó là một
trong những yếu tố điều trị sâu sắc nhất trong một phân tích là mức độ mà một nhà
phân tích nhạy cảm song song ... các mối quan hệ đầu tiên giữa một người mẹ đáp ứng
và trẻ sơ sinh của cô - song song một biểu tượng . Winnicott đã viết: "Một giải thích
chính xác và đúng lúc trong một điều trị phân tích đưa ra một ý thức được tổ chức về
thể chất đó là thực tế hơn ... hơn nếu một nắm giữ hoặc cho con bú thực sự đã xảy ra
hiểu biết đi sâu hơn”
Con người phát triển, nhờ vào sự tác động qua lại mật thiết gữa ba thành tố
khác nhau là : quả tim, cơ thể và trí tuệ. Vô thức có mặt và tác động rất sớm. Ở giữa
mạng lưới và ảnh hưởng của vô thức tập thể và gia đình, vô thức cá nhân của đứa trẻ
được kiến dựng và thành hình.
Hẳn thực, đứa trẻ sinh ra, mang sẵn trong mình một lịch sử : lịch sử của bào
thai. Nó cũng sinh ra ở giữa một lịch sử : lịch sử của từng cá nhân cha hoặc mẹ, và
lịch sử của cặp vợ chồng. Tất cả nằm trong một hệ thống gia đình nới rộng bao trùm
nhiều thế hệ và cùng thuộc về một nền văn hóa.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 11
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Không phải vì đứa trẻ đã sinh ra, về mặt thể lý, mà nó đương nhiên được kể là
người. Nó cần được kẻ khác nhìn nhận là người (mới có thể lớn lên thành người ). Ở
Sénégal, chẳng hạn, bảy ngày sau khi lọt lòng mẹ, đứa bé mới được kể là đã sinh ra.
Trước đó, nó còn thuộc về một ‘‘cõi khác’’, một nơi khác.
Sự cố ‘‘sinh ra’’làm gián đoạn một tình trạng thư thái, dễ chịu (của bào thai ).
Từ giây phút ấy, con người không ngừng tìm kiếm một tình trạng thư thái mới, bằng
cách thực hiện những nhịp cầu thỏa hiệp, nối kết thực tế và những sở thích hoặc ước
vọng của mình.
Tiến trình phát triển của con người bao gồm nhiều giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn,
con người học hỏi, tiếp thu và đón nhận nhiều điều mới lạ. Nhưng đồng thời, con
người cũng phải đánh mất đi một số điểm đã đắc thủ và từ bỏ những gì mình thân
quen. Trong lối nhìn của tôi, những giai đoạn kinh qua nầy được coi như những
‘‘cơn khủng hoảng’’.
Sự cố sinh ra là một cơn khủng hoảng đầu tiên. Tôi từ biệt cung lòng ấm cúng
của mẹ. Tôi đánh mất tình trạng được mẹ che chở tối đa. Nhưng cũng nhờ vậy, tôi
được diễm phúc có mặt trong trời đất này. Vào lúc bỏ bú, tôi từ biệt nấm vú của mẹ.
Nhưng cũng nhờ đó, tôi khám phá những loại của ăn đặc và cứng. Đồng thời, tôi
cũng biết ngồi vào bàn, như mọi người, cầm chén để ăn như mọi người. Ngày tôi biết
đi, tôi đánh mất hơi ấm được gần gũi, được bồng ẵm. Nhưng cũng nhờ đó, tôi được
tự lập. Khi tôi biết nói, người khác không còn phải dò dẫm phỏng đoán. Khi kinh qua
những giai đoạn chuyển tiếp như vậy…
-Trẻ em nào có khả năng xây dựng những quan hệ vững bền, đầy tin tưởng..
-Trẻ em nào biết CẢM, trước khi hiểu…
-Trẻ em nào có khả năng hiểu, trước khi nói…
-Trẻ em nào biết vui đùa, biết chơi…
Những trẻ em như vậy đang lớn lên và phát triển.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 12
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Khổ đau, trái lại, khi quá lớn, sẽ xuất hiện ra ngoài, trước tiên bằng những dấu
hiệu thể lý như : rối loạn tâm-thân (psycho-somatique), khó ngủ, khó ăn, khó tiêu
hóa… Tiếp theo đó, thể thức bộc lộ ra ngoài là hành vi, tác phong như : rụt rè, dao
động, lăng xăng hay là gây gổ, đánh đập, tấn công kẻ khác. Sau cùng, phương tiện
diễn tả chính mình là lời nói, ngôn ngữ.
Mặt khác, khi đứng trước khổ đau của người khác, trẻ em sẽ không lạnh lùng,
lãnh đạm. Trái lại, trẻ sẻ từ từ biết cảm, biết đoán, biết thuyên giải – có nghĩa là tìm ra
ý nghĩa - theo cách chủ quan, riêng biệt của mình. Trong lĩnhh vực này, nếu người lớn
thuộc môi trường gia đình và giáo dục, có tập quán giữ im lặng, không biết tìm cách
cung cấp cho trẻ em những tin tức cần thiết, để chúng nó từ từ học ‘‘đồng cảm’’ với
kẻ khác… cách làm ấy có thể gây ra nhiều tổn hại, cho sự phát triển hài hòa, tốt đẹp
của trẻ em. Trẻ em nào có những quan hệ sâu đậm, trung thực, dễ dàng với những
người đang có vai trò giáo dục – như cha mẹ, thầy cô…- những trẻ em ấy sẽ phát huy
những tình cảm trung tín, nhất là với hai cha mẹ sinh ra mình, từ những ngày thơ ấu.
I. Nội dung cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên”
Qua đọc và nghiên cứu tác phẩm “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên”
của tác giả Donad Winnicott , em nhận thấy trong cuốn sách tác giả đề cập tới rất
nhiều vấn đề quan trọng về đề tài “Trẻ em và gia đình”. Song trong bài tiểu luận này
em chỉ đề cập và nhấn mạnh tới điểm trọng tâm mà tác giả đề cập xuyên suốt tác
phẩm đó là “Mối quan hệ Mẹ - con” trong những năm đầu đời của trẻ.
2 Chương 1. Người mẹ thông thường tận tâm và đứa con bé
1.1. Cơ sở lý luận cho việc tìm hiểu tác phẩm “Trẻ em và gia đình. Những
quan hệ đầu tiên”
1.1.1. Trẻ em trong gia đình và trong sự phát triển xã hội
Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất
định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Đó là những người chưa trưởng
thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ và chăm
sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý. Về vị thế xã hội, trẻ em là một
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 13
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
nhóm thành viên xã hội ngày càng có khả năng hội nhập xã hội với tư cách là chủ thể
tích cực, có ý thức, nhưng cũng là đối tượng cần được gia đình và xã hội quan tâm bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục.
Khái niệm “Trẻ em” đã được đề cập trong tuyên bố Giơnevơ (1924) và tuyên bố
của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em (1959). Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị (1966). Tuyên ngôn về quyền con người (1968).. Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ
em (1990)...
Theo điều I của Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em, “Trẻ em có nghĩa là
mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi
thành niên sớm hơn” [2, tr.15]. Tuy nhiên, luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở
nước ta (15/6/2004) xác định trẻ em là “Công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [17, tr.21].
Từ những ý kiến đã nêu trên về phương diện pháp lý có thể đi đến thống nhất
khái niệm trẻ em theo pháp luật Việt Nam là: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16
tuổi” là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ
nhận thức và kinh nghiệm sống của trẻ bị hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh
tự lập khả năng kiềm chế chưa cao, dễ bị kích động lôi kéo vào hoạt động phiêu lưu
mạo hiểm.
Quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi sẽ tạo điều kiện tập trung
hơn cho những đối tượng thuộc nhóm tuổi nhỏ. Quy định này sẽ là căn cứ chính để
xây dựng chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong giai đoạn tới. Tuy
nhiên, trong thực tiễn hoạt động, lứa tuổi 16 - 18 vẫn cần được coi là trẻ em vì đây là
lứa tuổi thuộc nhóm vị thành niên mà công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
cần đặc biệt quan tâm. Để làm rõ khái niệm về trẻ em, cần phân tích đặc điểm tâm lý
trẻ em.
1.1.2. Đặc điểm tâm lý của trẻ em
Tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan bằng hoạt động của bản thân mỗi người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, thế giới khách quan là tất cả những gì tồn
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 14
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
tại ngoài ý thức của con người. Các hiện tượng tâm lý cảm giác, ý thức của chúng ta chỉ
là hình ảnh của thế giới bên ngoài.
Tâm lý người là một loại hiện tượng tinh thần được tạo ra do thực tại khách quan
tác động vào não của một người cụ thể bằng hoạt động của người Êy. Tâm lý người
bao giờ cũng là cái “riêng” của từng người, nhưng “cái riêng” Êy tõ “cái chung” của
loài người, dân tộc, địa phương gia đình mà ra, “cái riêng” là “cái chung” ở trong mét
con người cụ thể. Bằng giáo dục, vui chơi, lao động, giao tiếp, gia đình hay xã hội
truyền đạt các tri thức ấy từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi người lĩnh hội vốn liếng
đó, biến thành vốn sống kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, tình cảm, ý chí…của
riêng mình. Đó chính là tâm lý của bản thân mỗi người, cuộc sống phức tạp đa dạng
sinh động chừng nào thì tâm lý phức tạp, đa dạng, sinh động chừng đó.
Trẻ em bắt đầu bằng các quan hệ với cha mẹ, sau dần giao tiếp với các thành
viên khác trong gia đình… bạn bè, làng xóm, thầy cô…Trẻ em tiếp thu nếp sống hàng
ngày thói quen tập tục của gia đình, làng xóm, địa phương biến thành vốn sống, kỹ
năng kỹ xảo, ý chí tình cảm, động cơ thái độ của riêng, đó là quá trình hình thành tâm
lý. Trẻ em là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, sự non nớt của trẻ em
về mặt tâm sinh lý, những thiếu hụt và khiếm khuyết mà bản thân trẻ em không thể tự
giải quyết được luôn luôn tồn tại như những đặc điểm của lứa tuổi. Do đó đòi hỏi
người lớn phải có sự quan tâm đúng mức để tạo ra định hướng tích cực cho sự phát
triển nhân cách ở trẻ em từ đó bảo vệ, chăm sóc hỗ trợ trẻ.
Khi còn nhỏ mối quan hệ xã hội của trẻ chủ yếu là gia đình hoạt động giao tiếp
cảm xúc trực tiếp của trẻ đầu tiên là người mẹ. Trẻ em phụ thuộc hầu như hoàn toàn
vào môi trường bên ngoài, chúng cần có sự đáp ứng về vật chất và sự chăm sóc trực
tiếp của cha mẹ.
Lớn lên trẻ em mở rộng các mối quan hệ ra bên ngoài như bạn bè thầy cô giáo,
những người trong khu phố, lối xóm…Trong giai đoạn này trẻ rất háo hức và sẵn sàng
học nhiều điều mới, hay bắt chước những người lớn tuổi mà chúng kính phục. Các em
thường xây dựng cho mình những thần tượng hoặc hình mẫu để phấn đấu theo. Các
em có tình cảm vô tư trong sáng tin yêu ở cha mẹ và người lớn.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 15
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
1.2. Gia đình và chức năng của gia đình
2.1.1 Khái niệm gia đình:
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi cuội nguồn sinh ra và lớn lên, nơi trẻ em được
chăm lo về thể chất trí tuệ, đạo đức và nhân cách để hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Trong mét chế độ xã hội nhất định tuy gia đình không phải là thiết chế duy nhất có vai
trò trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhưng chúng ta còng khẳng định
rằng: Gia đình là môi trường đầu tiên và có tầm quan trọng quyết định việc hình thành
nhân cách của trẻ ảnh hưởng lâu dài và toàn diện với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời,
nhà trường, xã hội là nền tảng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em rất quan trọng,
song vai trò của nó chỉ có thể được phát huy có hiệu quả khi lấy bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em ở gia đình làm nền tảng.
Gia đình là được xem là môi trường phát triển tốt nhất trong những năm đầu
đời của một đứa trẻ: Trong những năm đầu tiên của cuộc đời đứa trẻ (0-3 tuổi) trẻ
phát triển rất nhanh chóng. Trong giai đoạn này đứa trẻ bắt đầu phát triển hệ thống
ngôn ngữ của gia đình, phát triển về thể chất, nhận thức, tình cảm và những kỹ
năng cần thiết để thực hiện các kỹ năng trong xã hội.
Mọi người đều cho rằng gia đình là môi trường thích hợp nhất để trẻ phát
triển những kỹ năng trên. Và mọi người cũng đều cho rằng cha mẹ và gia đình có
đầy đủ năng lực và khả năng để giúp trẻ phát triển trong những năm đầu tiên.
Không còn đắn đo gì, cha mẹ và gia đình là những người thích hợp nhất đảm
đương những nhiệm vụ này. Có những lý do rất rõ ràng để giải thích cho nhận định
gia đình là môi trường thuận lợi hơn bất cứ môi trường khác để trẻ phát triển sớm.
Trước tiên, trong những năm đầu, phần lớn thời gian của trẻ là ở với các
thành viên trong gia đình. Xét trên phương diện thời gian, gia đình có nhiều cơ hội
nhất để chăm sóc sự phát triển của trẻ.
Thứ hai là, không có ai có thể có được tình yêu thương trẻ như là gia đình đối
với bé. Bởi vì gia đình là người nhạy bén nhất đối với trẻ và phản ứng rất chính xác
và ngẫu nhiên với những nhu cầu và cố gắng giao tiếp của trẻ.
Gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng, những chủ đề nghiên cứu về gia đình luôn
thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế
giới. Tuy nhiên đến nay khái niệm về gia đình vẫn chưa được xác định một cách thống
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 16
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
nhất và rõ ràng nhưng nhiều quốc gia đồng thuận một cách hiểu chung nhất:“Gia đình
là đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và
hạnh phúc của mỗi thành viên, nhất là trẻ em” (Tuyên bố của Liên hiệp quốc về tiến
bộ xã hội trong phát triển).
Theo C. Mác “…hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt
đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha
mẹ và con cái, đó là gia đình” [19, tr.41].
Với quan điểm này khái niệm về gia đình được nhìn nhận với 3 nội dung:
Một là, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sù ra đời và tồn tại của xã hội loài
người, con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì đồng thời cũng
tái tạo ra gia đình.
Hai là, chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở con người.
Ba là, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu; quan hệ hôn nhân (chồng,
vợ), quan hệ huyết thống (cha mẹ con cái).
Tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc đã quyết định lấy năm 1994 là năm quốc
tế gia đình và thống nhất khẳng định: “Gia đình là một yếu tố tự nhiên cơ bản, một
đơn vị kinh tế xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân
loại, cần được giữ gìn và phát huy” trên tinh thần đó UNESCO đã đưa ra định nghĩa:
“Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách
chung với các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi
về mọi mặt được pháp luật thừa nhận”.
Ở Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về gia đình. Xét từ góc độ xã hội học một
định nghĩa về gia đình được thừa nhận: Gia đình là một nhóm xã hội hình thành trên
cơ sở các quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng các thành viên
trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình
cảm) giữa họ, là những quan hệ có tính pháp lý được nhà nước thừa nhận và bảo vệ,
đồng thời có những qui định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong
quan hệ tình dục giữa các thành viên trong gia đình [1, tr.190].
Xét từ góc độ tâm lý học: Gia đình là một nhóm xã hội có quan hệ gắn bó về hôn
nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có chung những giá trị vật chất, tinh thần, ổn định
trong các thời điểm lịch sử. Gia đình là một đơn vị nhỏ nhất của xã hội có mối quan
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 17
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
hệ chặt chẽ với xã hội và là tấm gương phản chiếu mọi thành tựu, cũng như mâu thuẫn
của xã hội.
Tổng hợp và toàn diện hơn các nội dung trên tác giả Lê Thi cho rằng: Khái niệm
gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân
và huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái,
ông bà, họ hàng, nội ngoại), gia đình có thể bao gồm mét số người được gia đình nuôi
dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống, các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau
về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những điều
ràng buộc bởi tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật
hôn nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời trong gia đình có những quy định rõ
ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành
viên [33, tr.20-21].
2.1.2 Một số quan niệm về gia đình
Qua một số quan niệm về gia đình của các tác giả chúng ta có thể thấy gia đình
được nhận diện trên các khía cạnh sau đây:
Một là, gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước hết trên cơ sở của
quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân là sự liên kết lại các cá nhân (Nam - nữ) theo
quy định của luật pháp, nhằm để cùng sống với nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc.
Quan hệ hôn nhân được biểu hiện là một loại quan hệ xã hội gắn liền với thân nhân đó
là quan hệ vợ chồng kết hợp với nhau để sinh sản và cùng nuôi dạy con cái. Trong các
xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Mỗi
hình thái kinh tế xã hội có các kiểu hôn nhân đặc trưng và các giai cấp thống trị dùng
luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý chí và lợi Ých của gia cấp
mình.
Hai là, quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con cái, là sự tiếp tục và
là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân, nó chỉ phát triển tốt đẹp dựa trên quan hệ tình
yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp.
Ba là, quan hệ nuôi dưỡng là loại quan hệ hình thành giữa chủ thể và đối tượng
được nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau vì trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ, được họ
hàng ủng hộ và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 18
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Như vậy, không thể có một định nghĩa duy nhất về gia đình cho mọi nền văn
hóa, song với quan niệm như trên chúng ta có thể thống nhất về cơ bản: Gia đình là
một cộng đồng người được xây dựng trên cơ sở hai mối quan hệ cơ bản là hôn nhân
và huyết thống, được xã hội thừa nhận.
2.1.3 Các chức năng cơ bản của gia đình
Do khái niệm về gia đình không đồng nhất cho nên cũng có nhiều cách lý giải về
chức năng của gia đình, tuy nhiên trong các tài liệu chính thức thường trình bày những
chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, chức năng tái sản xuất ra con người.
Đây là chức năng đặc thù của gia đình, chức năng này đáp ứng nhu cầu tình cảm
riêng, rất tự nhiên của các cá nhân là sinh con đẻ cái, đồng thời mang ý nghĩa chung
lớn lao là cung cấp lớp người mới, đảm bảo sự phát triển liên tục và trường tồn của xã
hội loài người.
Thứ hai, chức năng kinh tế.
Chức năng kinh tế là chức năng cơ bản của mỗi gia đình góp phần nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho mỗi thành viên trong gia đình và nó tạo điều kiện cho các
chức năng khác thực hiện có hiệu quả, đồng thời qua chức năng này sẽ đóng góp cho sự
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Thứ ba, chức năng tiêu dùng.
Việc tiêu dùng của gia đình hướng vào mua sắm những sản phẩm phục vụ đời sống
vật chất cũng như đời sống tinh thần của gia đình. Chức năng này thường phụ thuộc
nhiều vào thu nhập và đóng góp chung tõ kết quả lao động của các thành viên trong
hoạt động kinh tế gia đình hoặc xã hội.
Thứ tư, chức năng giáo dục.
Sinh con, nuôi con,, dạy dỗ con cái là những hoạt động không thể tách rời nhau
trong gia đình. Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng giáo dục con cái, chăm lo
việc học tập và sự phát triển lành mạnh của con cái về cả thể chất lẫn tinh thần chúng
ta khẳng định đây là một chức năng hết sức quan trọng của gia đình, góp phần tạo ra
những thế hệ công dân mới có ích cho gia đình và cho xã hội, là lớp người kế cận lớp
người đi trước, là những chủ nhân tương lai của đất nước.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 19
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Thứ năm, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm trong gia đình.
Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu thương gắn
bó giữa các thành viên của gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh phúc lứa đôi, tổ ấm của
gia đình vừa là điểm xuất phát cho con người trưởng thành, vững tin để bước vào cuộc
sống xã hội đồng thời cũng là niềm bao dung an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủi ro
sóng gió của cuộc đời. Sống trong một gia đình tâm lý được thoải mái, tình cảm lành
mạnh, trong sáng, trẻ em sẽ lớn lên với tâm hồn trong sáng.
2.2 Một nam giới quan tâm đến việc làm mẹ
Làm mẹ vốn đã là bản năng của người phụ nữ, ngay từ khi còn là một đứa trẻ,
bản năng làm mẹ đó đã được thể hiện qua việc bé gái chơi và chăm sóc cho búp bê.
Người mẹ tự động biết cách chăm sóc đứa con của mình, đáp ứng nhu cầu của nó kể
cả khi đứa bé chưa có khả năng nói ra những nhu cầu của mình (giai đoạn còn nhỏ).
Và những phiền hà gặp phải khi chăm sóc con mình không là vấn đề gì đối với người
mẹ.
Theo tác giả, để trở thành một người mẹ hiền là một điều diễn ra tự nhiên, không
phụ thuộc vào sự thông thái. Và việc đứa bé trở thành một con người trưởng thành
lành mạnh, độc lập và được xã hội hóa phụ thuộc nhiều vào việc chúng có một sự khởi
đầu tốt hay không, đó chính là sự gắn kết mẹ - con.
Tác giả nhấn mạnh đến khía cạnh về tình yêu thương trong gia đình: Đó phải
chăng là tình yêu thương bao dung mà người mẹ dành cho đứa con yêu của mình;
Người mẹ là người đầu tiên mang lại tình yêu thương cho con thông qua việc cho con
bú. Thời kỳ mang thai, trẻ là một phần cơ thể của mẹ nên khi sinh ra trên phương diện
bản năng mẹ rất yêu quý con. Với thiên chức làm mẹ, tình cảm yêu thương của mẹ
thông qua cử chỉ âu yếm, vỗ về, ân cần. Mẹ là cầu nối giữa con và thế giới xung
quanh, trong 3 năm đầu đời người mẹ có ảnh hưởng gấp 10 lần người bố. Tình yêu
thương của trẻ giúp trẻ tự tin khám phá thế giới, tình yêu thương của mẹ cũng là một
chuẩn mực xã hội: Quan hệ mẹ con có biến đổi theo thời đại; Tình cảm của con biến
đổi theo độ tuổi; Tình cảm của con biến đổi theo giới tính; Quan hệ mẹ con là quan hệ
theo chuẩn mức xã hội
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 20
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
2.3 Gắn bó mẹ - con trong những năm đầu đời
Tìm hiểu con bạn: Đối với một người phụ nữ bình thường có con là một sự kiện
quan trọng, làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của người mẹ, bắt đầu ngay từ khi
người mẹ vừa mới mang thai.
Người mẹ và đứa con có những hiểu biết nhất định về nhau: Ngay từ giai đoạn
mang thai, người mẹ đã đón nhận được niềm vui từ những tín hiệu đầu tiên củ sự sống
trong tử cung mình (đạp). và ngược lại, trẻ cũng có những cảm nhận riêng về người
mẹ thông qua những trải nghiệm của người mẹ như lo hãi, kích động hay trầm tĩnh,
yên bình,… “ trước khi bạn kịp nghe tiếng khóc đầu tiên của nó và đủ khỏe để nhìn và
bế nó, nó đã biết nhiều về bạn hơn là bạn biết về nó.”
Sau khi ra đời, sự phát triển của sự gắn kết mẹ - con là một việc quan trọng trong
sự phát triển nhân cách của trẻ sau này. Người mẹ cần tìm hiểu con ở hai khía cạnh:
Khi được thỏa mãn: lúc ngủ; Khi bị kích động: đói. Với mục đích là: Đáp ứng kịp thời
khi trẻ có nhu cầu; Giúp trẻ chế ngự được những lúc chuyển tiếp giữa đi ngủ - thức
dậy và sự háu ăn.
Ảnh hưởng của mẹ đến nhân cách trẻ:
Mối quan hệ mẹ con: Những giờ đầu sau đẻ là một thời điểm bà mẹ rất nhạy bén
để bắt đầu quan hệ mẹ con (Sự gắn bó mẹ con (Attachment)).
Chia tay với đứa con tưởng tượng, mơ ước; bà mẹ dễ dàng hoặc khó khăn đi tới
chấp nhận đứa con thật, bằng xương thịt. Vượt qua khoảng cách với đứa con tưởng
tượng để đầu tư vào đứa con thật
Quan hệ gắn bó:
Con thuộc về mẹ, mẹ thuộc về con: Mẹ quen dần đặc tính của con: tiếng khóc,
hơi con, da thịt. Con bén hơi mẹ: mùi sữa, tiếng nói, nhịp tim, khoảng 2 tuần tuổi, trẻ
thích giọng nói của con người hơn những âm thanh khác; khoảng 4 tuần tuổi trẻ thích
giọng nói của mẹ hơn giọng nói của người khác. Vào tháng thứ 2, giao tiếp mắt được
thiết lập/ gắn bó được thấy khi trẻ hướng về phía người chăm sóc/ báo hiệu các nhu
cầu của trẻ. Trong giai đoạn kế tiếp, từ 3 đến 6 tháng tuổi, trẻ bắt đầu biểu lộ sự vui
thích trong tương tác với con người thông qua nụ cười xã hội
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 21
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Giữa 6-9 tháng, trẻ gia tăng khả năng phân biệt được người chăm sóc trẻ và
những người lớn khác và dành phần thưởng cho người đặc biệt này bằng “nụ cười ưu
ái”.
Từ 12-24 tháng tuổi, bò và bước đi cho phép trẻ điều chỉnh được sự gần gũi hoặc
khoảng cách xa đối với người chăm sóc.
Tình mẹ con
Vai trò đầu tiên ở người mẹ là tình yêu thương, chính tình yêu này dần dần sắp
xếp các mối quan hệ. Trước hết trẻ quan hệ với mẹ, sau đó đến các thành viên trong
gia đình, trong quan hệ mẹ con, tình yêu là cái quan trọng nhất (nhưng không phải duy
nhất), vì người mẹ có cả uy quyền
Tình yêu mẹ con vừa tự nhiên vừa mù quáng, do đó đứa trẻ biết nó được chấp
nhận theo như vốn có. Quan hệ mẹ con là quan hệ sinh học, xã hội (cả khi bào thai cả
khi được sinh ra). Tình mẹ con ảnh hưởng đến đời sống tình cảm sau này khi trẻ trở
thành người lớn.
Có lẽ, không có giai đoạn nào mà mối quan hệ Mẹ – Con lại có những tác động
mạnh đến quá trình phát triển của trẻ bằng giai đoạn này, nếu người mẹ hình thành và
duy trì được mối quan hệ lành mạnh, yêu thương với trẻ, thì trẻ sẽ có được những yếu
tố tích cực về cả tâm lý lẫn sinh lý, ngược lại, nếu người mẹ không quan tâm đến con
do hoàn cảnh ( ít tiếp xúc với trẻ, hay có những vấn đề trong quan hệ vợ chồng) hoặc
do tâm – sinh lý ( Bị đau ốm hay có tâm lý từ chối không muốn nhìn nhận trẻ ) thì trẻ
có thể bị những tác động không nhỏ đến cả sự phát triển lẫn sức khỏe.
Quan hệ Mẹ – Con bắt đầu ngay từ khi người mẹ mang thai, 12 tuần sau khi thụ
thai, người mẹ đã cảm nhận được sự vận động của con và trong suốt thời kỳ có thai,
người mẹ dần dần sẽ thiết lập nên những mối quan hệ với con về mặt tâm lý và sinh lý
. Sự giao tiếp giữa mẹ và con là trực tiếp và thường xuyên. ( Đây là thời kỳ Cộng
sinh )
Khi sinh ra, em bé có sẵn khả năng cho phép tiếp xúc với những người xung
quanh qua ba hình thức :
Giao lưu phi ngôn ngữ : Là những biểu hiệu thông qua các cử động, nét mặt, ánh
mắt, sự vuốt ve giữa mẹ và con. Nụ cười và tiếng khóc của trẻ là những biểu hiệu rõ
ràng nhất.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 22
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Giao lưu mang tính chủ động : Đứa trẻ càng ngày cành nhận biết một cách hoàn
hảo các khuôn mặt và những đồ vật quen thuộc .
Giao lưu ngôn ngữ : Ở đứa trẻ, tiếng ba ( người cha – papa ) thừơng xuất hiện
trước tiếng mẹ ( mama ) có thể là do dễ phát âm hay do việc tiếp xúc của người cha
khiến trẻ thích thú hơn. Đến khoảng 9 – 11 tháng tuổi thì trẻ có thể hiểu được một số
từ đơn giản .
Vào khoàng nửa tiếng đồng hồ sau khi mở mắt chào đời, ánh mắt của trẻ thường
có khuynh hướng chập chờn rung động khi nghe tiếng của mẹ nói với nó. Sau một
tuần lễ, trẻ có thể nhận ra tiếng nói của mẹ và sau hai tuần tuổi, trẻ đã biết nhận ra mẹ.
Nếu khoảng cách khi cùng trò chuyện giữa người mẹ và trẻ từ 20 đến 25 cm (tức 8
đến 10 inches), nó có thể nhìn thấy khuôn mặt của bà và sẽ mấp máy mắt, miệng như
muốn trả lời bạn.
1 tháng tuổi: Trẻ có thể đáp lại âm điệu của giọng nói của mẹ, trở nên im lặng
khi nghe tiếng nói dịu dàng hoặc tỏ buồn khi giọng nói của bà trở nên gắt gỏng, cau
có… Trẻ cũng tỏ ra kích động và thường nảy mạnh người lên mỗi khi nó muốn cố
gắng như để “nói” cho bà mẹ nghe. Ngoài ra trẻ còn biết dõi mắt theo một vật đang
chuyển động.
2 tháng tuổi: Trẻ biết cười thật tươi để trả lời những biểu cảm trên khuôn mặt và
giọng nói của mẹ. Nó cũng biết nhìn theo hướng phát ra những âm thanh và nhìn
chăm chú đến những đồ vật xung quanh nó.
3 tháng tuổi: Trẻ dần cảm nhận được cơ thể của nó, biết nhìn vào bàn tay của
mình và cử động chúng. Trẻ còn biết trả lời khi bà mẹ nói chuyện với nó bằng cách
mỉm cười ríu rít và cử động thân hình của nó.
4 tháng tuổi: Trẻ tỏ vẻ hiếu kỳ về những cảnh vật, âm thanh và mọi người xung
quanh nó. Trẻ thích được ngồi tựa lên nệm để quan sát mọi thứ xunh quanh. Lúc này,
trẻ đã biết nhận ra những đồ vật quen thuộc trong gia đình và nhớ cả những công việc
diễn ra hằng ngày, nó tỏ ra kích động hơn khi thấy bà mẹ chuẩn bị cho nó bú hoặc khi
nhìn thấy bình sữa.
5 tháng tuổi: Lúc này, trẻ đã biết quan sát mọi vật nhiều hơn, điều này có nghĩa
là sự tập trung của nó đang dần phát triển. Trẻ biết quay sang hướng những âm thanh
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 23
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
mà nó không thể nghe được và cử động hai cánh tay, chân của nó để lôi kéo sự chú ý
của mọi người.
6 tháng tuổi: Trẻ biết tạo ra những âm thanh để gây sự chú ý cũng như biết đưa
cao hai tay vòi vĩnh sự quan tâm. Ngoài ra, trẻ còn biết nói chuyện và mỉm cười khi
nhìn thấy bóng của nó phản chiếu trong gương soi. Trẻ có thể biết bắt đầu mắt cỡ
trước người lạ.
2.4 Giai đoan sơ sinh
Giai đoạn này còn gọi là lứa tuổi Nhũ nhi (Trẻ bú tí ) hay tuổi bế bồng từ 0 – 1
tuổi. Đây là một giai đoạn yếu đuối, chịu nhiều tác động nhất của môi trường bên
ngoài, việc bế bồng, ôm ấp là điều quan trọng nhất và sẽ có nhiều tác động ảnh hưởng
lên cá tính của đứa trẻ trong suốt cuộc đời . Vì thế có nhiều hành vi của một thiếu
niên, thanh niên hay một người lớn chỉ có thể cắt nghĩa nếu biết được những dấu ấn đã
xảy ra cho họ trong lứa tuổi sơ sinh .
Hình thành một đứa trẻ:
Sau khi thụ tinh, trứng của người mẹ sẽ kết hợp với tinh trùng của người cha để
phát triển thành bào thai và định hình dần :
- 4 tuần tuổi : Não hình thành
- 8 tuần tuổi : Hình thành vỏ não
- 18 tuần tuổi : Vỏ não chia làm hai lớp : lớp trong xốp, dày. Lớp ngoài
mỏng, chắc.
Trong giai đoạn nằm trong bụng mẹ, bào thai có thể lắng nghe, biết phản ứng
trước ánh sáng, tiếng nói hay cử chỉ vuốt ve âu yếm của những người thân, và chịu
ảnh hưởng sâu sắc đối với những cảm xúc không tốt, như giận dữ, sợ hãi, buồn phiền
thái quá của người mẹ .
Đến khi sinh ra, có thể nói đây là một biến cố đầu đời hết sức lớn lao của con
người, đang ở trong một môi trường ấm áp, an toàn là bụng mẹ, nay lại phải chuyển
sang một môi trường xa lạ, chói chang, đầy những âm thanh phức tạp và phải tập thở
bằng phổi (Dù chỉ là phản xạ tự động ) cho nên trẻ nào cũng khóc ! Nhà thơ Nguyễn
Gia Thiều đã có một câu thơ hết sức xác thực:
“ Thảo nào khi mới chôn nhau - đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra …”
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 24
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Để nói lên một cách ý nhị cái nỗi đau khổ mà một kiếp người phải đa mang,
ngay từ lúc mới sinh ra, đã phải cất ngay tiếng khóc để chào đời. Nhưng nếu trẻ sơ
sinh mà không khóc, có khi còn khổ hơn nữa vì có thể đã gặp phải những vấn đề về hô
hấp hay thần kinh trong thời kỳ còn là thai nhi hay trong quá trình sinh nở ! Nếu có
những tổn thương về thần kinh, tâm lý trong giai đoạn này sẽ để lại những di chứng
rất khó và rất lâu mới có thể khắc phục được .
Do đó, đứng trước một đứa trẻ có những bất ổn về trí tuệ, tâm lý thì chúng ta
cần phải chú ý, hỏi thăm người mẹ về giai đoạn mang thai và quá trình sinh nở .
Một đứa trẻ khi sinh ra sẽ có một hệ thống phản xạ bẩm sinh rất cần thiết cho
cuộc sống như: Phản xạ điều khiển các cơ quan nội tạng, phản xạ bú, mút, phản xạ tự
vệ như : Hắt hơi, nhắm mắt, cầm nắm .
Mgoài ra, nguồn sữa mẹ là nguồn kích thích quan trọng nhất để có thể hình
thành những phản xạ có điều kiện . Hơn thế nữa, sữa mẹ có khả năng cung cấp cho trẻ
những chất dinh dưỡng cần thiết, đặc biệt là cho não bộ. Tuy nhiên khả năng này chỉ
có thể trở thành hiện thực nếu trẻ khỏa mạnh, được gần mẹ và được cho bú sớm. Do
khi một đứa trẻ không được bú mẹ thì ngoài những bất lợi về thể chất như :
Không có những bạch cầu như lymphô bào, tương bào, không có khả năng
kháng sinh, không có chất lactoferrin có tác dụng miễn dịch mà ngoài sữa mẹ không
có ở bất cứ một loại thực phẩm nào
Đứa trẻ còn có những thiếu sót về mặt tâm lý, sẽ trở nên khó thích nghi
với môi trường mới, khi không được vuốt ve, bú mớm trẻ sẽ có cảm giác hụt hẫng,
thiếu an toàn, kém tự tin. Nếu trầm trọng có thể có triệu chứng về hội chứng vắng mẹ
(hôpitalisme ) với tính trạng còi cọc về thể chất và suy nhược về trí tuệ.
Điều bà mẹ biết và điều bà mẹ học:
Một bà mẹ trẻ có nhiều điều phải học: về chế độ ăn, thức ăn, việc cho bú...
Giai đoạn thứ nhât: đứa bé ít giao tiếp: đó là một đứa bé đang được sống trong
không gian bao bộc, nó chẳng biết gì ngoài bản thân.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 25
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Giai đoạn hai: đầu bé động đậy vai, đầu gối hoặc duỗi người ra một tý. Khoong
gian đã dc vượt qua. Đứa bé đã chộp được môi trường.
Giai đoạn ba: bạn đang bế đứa trẻ và bạn hơi giật mình vì có tiếng chuông ở cửa
hoặc vì song nước đang sôi. Không gian lại được vượt qua. Lần này là môi trường tự
nhiên.
1.2.1. Những phản ứng của trẻ sơ sinh
Trẻ sẽ phản ứng khi ánh sáng đủ mạnh, thấy một điểm sáng, trẻ sẽ chăm chú nhìn,
trẻ có phản ứng với những mùi khó chịu, và có những mùi khiến nó thích thú. Trong
giai đoạn này, trẻ chưa có tri giác, vì tri giác là một quá trình xây dựng, chịu ảnh
hưởng bởi những tác nhân bên ngoài .
Trong năm đầu tiên, em bé dần dần ngủ ít đi và thức lâu hơn, chuyển từ tư thế nằm
ngang sang tư thế thẳng đứng, từ thói quen nhận sang thói quen cho. Có thay đổi xảy
ra trong thời gian này: Đầu tiên, người lớn cần hướng dẫn trẻ sơ sinh tương tác, sau đó
em bé sẽ dần dần học cách lôi kéo người khác cùng chơi. Về thể chất, bé sơ sinh (từ 0
đến 6 tháng tuổi) chưa thể cầm được đồ vật, nhưng bé sẽ phát triển các kỹ năng cơ bản
để sử dụng bàn tay. Thêm vào đó, khả năng giao tiếp của bé cũng mở rộng, bé thích
mỉm cười, cười thành tiếng và khóc để diễn đạt các thông tin quan trọng. Những điều
kiện tiên quyết cho cuộc sống, các mối quan hệ xã hội và các kỹ năng khác sẽ hình
thành trong năm đầu tiên.
Chúng ta thường nghĩ rằng, trẻ sơ sinh là một sinh vật thụ động, cho gì ăn nấy, đặt
đâu nằm đấy và chủ yếu là chỉ có những phản ứng mang tính sinh lý, đói thì khóc,
lạnh cũng khóc, còn no thì ngủ khì. Nhưng thực ra, ngay từ khi lọt lòng mẹ, trẻ sơ sinh
đã là một chủ thể có những khả năng rõ rệt về giác quan, có thể chủ động trong sự
phát triển cũng như trong việc tạo ra mối quan hệ với bà mẹ. Hơn thế nữa, trẻ còn có
khả năng khắc phục những hoàn cảnh khó khăn và thích nghi với môi trường xung
quanh.
Các nguyên nhân làm cho trẻ khóc:
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 26
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Khóc gần như là ngôn ngữ duy nhất mà trẻ sơ sinh có thể gửi đến bà mẹ hầu báo
cho bà biết các nhu cầu rất đa dạng, thường là các lý do chủ yếu sau:
- Bé đói : Đây là nguyên nhân dễ phát hiện nhất, khi bế bé lên sẽ thấy cái miệng
chóp chép đòi ăn và nếu đưa vào lòng mẹ thì bé sẽ sục sạo đi tìm bầu vú mẹ ngay.
- Bé bị ướt: Có nhiều em khá sạch sẽ, cái tã ướt sẽ là lý do trẻ kêu lên.
- Bé bị lạnh: Trẻ sơ sinh thường được quấn chặt trong nhiều lớp khăn vì thế đôi
khi trẻ rất khó chịu vì nóng, và cũng có khi vô ý thay quần áo cho bé ở những nơi
trống trải, hay có nhiều gió lùa, khiến trẻ bị lạnh.
- Bé muốn bế: Khứu giác của trẻ sơ sinh rất nhạy cảm, khi ngửi thấy hơi mẹ là
muốn được mẹ bế vào lòng ngay, chúng ta nên đáp ứng đầy đủ vì nhu cầu này sẽ thay
đổi theo sự phát triển tự nhiên.
- Bé bị làm phiền: Không hiếm trường hợp lúc nào cũng có người xúm xít
chung quanh bé, khiến bé sẽ khó chịu vì sự bao vây hay chăm sóc thái quá. Đó là
thông điệp đầu tiên muốn nói đến một nhu cầu sau này: xin để con yên! Sự yên tĩnh sẽ
dễ dàng giúp bé ổn định và thư giãn.
- Bé bị sốt: Sau các lý do trên mà bé vẫn khóc, thì nên kiểm tra thân nhiệt cho
bé. Những bà mẹ có kinh nghiệm có thể phân biệt được tiếng khóc của một bé có nhu
cầu và một bé bị ốm.
- Bé bị đau bung: Đôi khi trẻ khóc mà không có lý do rõ ràng, thì có thể đó là
một vấn đề của cơ quan tiêu hóa.
Khi đã xác định được lý do thì việc giải quyết không khó khăn gì, nhưng ta có thể
áp dụng các biện pháp chung :
- Bế lên và đung đưa nhẹ nhàng
- Ủ ấm và vuốt ve, xoa bóp nhẹ phần lưng, bụng của bé
- Cho bé ngậm ti nhựa, vì dù trẻ đã no nhưng vẫn có nhu cầu bú.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 27
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
1.2.2. Cảm giác của trẻ sơ sinh
Trong quá trình phát triển, những tác động từ bên ngoài sẽ tạo ra cảm giác nơi trẻ,
có nhiều loại cảm giác khác nhau. Từ trong nội tạng, đặc biệt là ở các bộ phận tiêu hóa
xuất hiện những cảm giác gọi là nội cảm (intéro-ceptif), để phân biệt với những cảm
giác xuất phát từ những sự tiếp xúc với môi trường bên ngoài thông qua các giác quan
như mắt, tai, mũi…gọi là ngoại cảm (extérocetif), có nhiều người gọi ngoại cảm là
khả năng cảm nhận đặc biệt của một số người trong việc tìm kiếm người mất tích hay
dò tìm mạch nước… ta nên gọi đó là linh cảm (prémonition) thì đúng hơn. Ngoài ra,
ở trẻ còn có một khả năng gọi là tự cảm (proprioceptif), do những cảm nhận xuất phát
từ những cơ khớp và tiền đình về những tư thế vận động của toàn thân và của từng bộ
phận trên cơ thể. Trong giai đoạn sơ sinh thì nội cảm và tự cảm chiếm ưu thế, nhưng
vẫn chưa có sự phân định rõ ràng với nhiều cảm giác hỗn hợp, những phản ứng của
trẻ là những phản ứng mơ hồ về những vận động của cơ thể nhưng đó vẫn là những
vận động có tính chủ động, tích cực và đáp ứng thích hợp với những tác động từ bên
ngoài. Đây là thời kỳ hòa mình với đồ vật và người tiếp xúc với trẻ, là giai đoạn kế
tiếp của thời kỳ cộng sinh (symbiosis) ở trong bụng mẹ.
Các khả năng cảm nhận và vận động của trẻ đều liên quan đến tình trạng tỉnh thức
của bé, khác với người lớn trẻ sơ sinh chưa có một nhịp điệu rõ rệt giữa thức và ngủ,
mà là một chuỗi các trạng thái nối tiếp nhau:
Trạng thái ngủ sâu (1): Trẻ thở đều, không cử động ngoại trừ một vài chuyển
động bất thần ở ngón tay, môi và mí mắt.
Trạng thái ngủ nông (2): Ngủ với sự chuyển động nhanh ở mắt, hơi thở nhanh và
không đều, có những cử động cơ thể chủ yếu là ở mặt.
Trái thái ngủ lơ mơ (3): Mắt nhắm hay hé mở, nhìn lơ mơ, tay chân thỉnh thoảng
nhúc nhích.
Trạng thái tỉnh thức thu động (4): Trẻ mở mắt, yên lặng và bắt đầu chú ý xung
quanh
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 28
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Trạng thái tỉnh thức tích cực (5): Trẻ thức và hoạt động tích cực, ngọ nguậy
không yên, đây là giai đoạn mà trẻ tiếp nhận tốt nhất sự chăm sóc của người mẹ.
Trạng thái tỉnh thức náo động (6): Nếu không nhận được sự quan tâm, trẻ có thể
kêu khóc, vùng vẫy, mặt mày nhăn nhó…
Như vậy trẻ có 3 giai đoạn ngủ và 3 giai đoạn thức tỉnh, người mẹ cần nhận biết và
chăm sóc đúng vào những trạng thái thích hợp từ khi trẻ tỉnh thức thụ động(4) đến khi
bắt đầu chuyển sang tình trạng náo động (5) Các trạng thái này có những thời điểm
xuất hiện và kết thúc khác nhau tùy từng trẻ, nên sự chăm sóc cũng cần mang tính cá
biệt và phải dựa theo kinh nghiệm của người mẹ cũng như sự đáp ứng của trẻ.
Chính khả năng đáp ứng của trẻ là cơ sở để cho người mẹ tạo ra những điều kiện
thuận lợi, giúp trẻ tham gia một cách tích cực trong việc xây dựng năng lực bản thân.
Chúng ta không nên bỏ qua những đáp ứng của trẻ và cũng không nên săn sóc thái
quá, mà hãy để cho trẻ tự vận động trong một số trường hợp. Điều này sẽ giúp trẻ
phát triển tốt hơn. Những hiểu biết về tâm lý của trẻ sơ sinh sẽ giúp cho người mẹ
không quá lo âu về trách nhiệm của mình, có sự mạnh dạn hơn trong việc trao đổi và
thiết lập mối quan hệ với trẻ, từ đó dần dần sẽ đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của
đứa con.
1.2.3. Phát triển tâm lý – xã hội
Phát triển quan hệ tình cảm giữa em bé và những người xung quanh là một quá
trình lâu dài, em bé sẽ gắn bó với một hay vài người qua ba giai đoạn :
Gắn bó với người khác chứ không phải đồ vật
Phân biệt người lạ với người quen
Tỏ rõ sự gắn bó với một vài người nào đó.
Gắn bó là buớc đầu để đi đến tự lập, thường kéo dài đến 2 tuổi, gắn bó quá lâu
là một tình trạng lệch lạc hay bệnh lý .
Lúc đầu, người mẹ đóng vai trò chủ động, nhưng dần dần em bé tiến lên với tính
năng động, dần dần mẹ con tách biệt vì người mẹ còn có những trách nhiệm khác.
Đứa trẻ có thể tìm sự bù trừ việc xa rời mẹ bằng cách mút tay, hay bằng những trò
chơi tưởng tượng trong lúc chờ mẹ trở lại. Sự tách biệt với mẹ là cần thiết vì từ đó trẻ
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 29
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
mới có điều kiện tìm hiểu thế giới xung quanh, đó cũng là sự mở đầu cho việc xã hội
hóa .
Mối quan hệ của trẻ với những người chung quanh, đặc biệt là với người mẹ có
thể chia thành hai giai đoạn là :
Tư 0 – 3 tháng: Giai đoạn bất phân:
Trong giai đoạn này trẻ chuyển từ đời sống phôi thai trong lòng mẹ qua đời
sống cộng sinh với người mẹ, đây là giai đoạn mà trẻ có sự đeo bám chặt chẽ vào
người mẹ và người mẹ cũng cần có sự gắn bó chặt chẽ với đứa con để dần dần hình
thành những mối quan tâm, tình yêu thương của bản năng làm mẹ. Chỉ nhờ sự chăm
sóc, tác động của người mẹ mà trẻ có thể chuyển từ tình trạng sống thụ động và cảm
giác tự thu nhận sang nhận thức những tác động dồn dập từ bên ngoài. Sự điều bình
(tự bình ổn bên trong : Homeostasique) trong đứa trẻ chỉ được thực hiện do những
hoạt động phối hợp giữa thể chất và tâm lý. Trong giai đoạn này, trẻ chưa phân biệt
được đâu là bản thân, đâu là người mẹ, trẻ với mẹ có những quan hệ tiếp xúc lẫn lộn.
Những sự chia lìa sớm với trẻ trong giai đoạn này của người mẹ, sẽ đem lại những hậu
quả có khi rất nghiêm trọng trong việc phát triển tâm lý cho trẻ.
Tư 3 tháng – 1 tuổi: Giai đoạn của sự Phân hóa – tách rời:
Khi trẻ bắt đầu biết bò, rồi dần dần có thể đứng thẳng lên và chậm chững biết đi,
thì trẻ bắt đầu có nhu cầu tách rời khỏi sự bồng bế, ôm ấp của người mẹ. Trẻ đã dần
dần nhận biết cái tôi và có những hành vi hay phản ứng đôi khi là những tình huống
nguy hiểm cho trẻ, nhất là đối với các tay siêu quậy khiến người mẹ phải thường
xuyên can thiệp, quan hệ mẹ con dần dần thay đổi, từ chỗ đáp ứng mọi nhu cầu , mẹ
bắt đầu cấm đoán, rầy la, mẹ thường phải nói KHÔNG , vừa nói vừa lắc đầu ngăn giữ
con, đó là một tín hiệu và là một khái niệm trừu tượng đầu tiên mà một đứa trẻ phải
nhận biết.
Sự xuất hiện khái niệm đầu tiên này đi đôi với sự hẫng hụt về mặt tình cảm , em
bé lúc này đã có tính chủ động và lại bị ngăn cấm trong một số chuyện. Trẻ bắt đầu
mâu thuẫn với mẹ, trong quá trình phát triển tâm lý , đây là một bước quyết định .
Những hành động cụ thể trực tiếp tác động đến sự vật được thay thế bằng những cử
động hay lời nói có một ý nghĩa nhất định, đây là nguồn gốc cho sự giao tiếp bằng
ngôn ngữ , khiến đứa trẻ từ một sinh vật trở thành một con người .
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 30
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Nụ cười của trẻ:
Nụ cười đầu tiên của trẻ có ý nghĩa rất quan trọng trong mối liên hệ giữa hai mẹ
con. Đây là tính hiệu tốt cho biết trẻ đang trong giai đoạn phát triển về tinh thần. Khi
trẻ bắt đầu cười, có nghĩa là trẻ đang cố gắng biểu lộ việc nó có thể nhận ra mẹ và
muốn cùng bà trò chuyện, một hình thức giao tiếp xã hội đầu tiên của trẻ. Trẻ sẽ bắt
đầu bày tỏ dấu hiệu như muốn trả lời khi bà nói bằng cách mỉm cười, vì nó phần nào
hiểu rằng điều này làm mẹ vui lòng và muốn làm cho bà nói chuyện với nó nhiều hơn
nữa. Đó là những cố gắng ban đầu của cuộc đối thoại giữa trẻ và mẹ.
Nụ cười là tín hiệu quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của trẻ và bày tỏ ước
muốn giao tiếp với người xung quanh. Các chuyên gia về tâm lý cho biết, khi một đứa
trẻ biết cười sớm để thể hiện sự giao tiếp của nó đó là những biểu hiện ban đầu của
một trí thông minh vượt trội.
Để Giúp trẻ phát triển chúng ta có thể:
Nuôi dưỡng sự hiếu kỳ của trẻ: Với trẻ sơ sinh, mọi thứ xunh quanh nó đều mới
lạ và đầy sức hấp dẫn, vì thế bà mẹ cần chỉ cho trẻ nhìn thấy nhiều đồ vật và cho cho
trẻ có cơ hội để cầm lấy chúng. Khi trẻ được 2 tháng tuổi, trẻ có khuynh hướng thích
được cho ngồi tựa người lên để nó có thể nhìn ngắm mọi thứ xunh quanh. Hãy đặt
nhiều món đồ chơi nhỏ, mềm ngay trong tầm tay của trẻ để nó có thể nhìn và sờ mó
chúng. Đồng thời bà mẹ cần thường xuyên nói chuyện với trẻ.
Kích thích sự nhận thức bản thân: sự khám phá của trẻ về thân thể của chính nó
là quá trình phát triển dần dần. Khi trẻ lên 8 tuần tuổi, bà mẹ có thể bắt đầu chỉ cho
cho trẻ nhìn thấy hai bàn tay của nó và cùng chơi với trẻ những trò chơi thể chất mang
tính đơn giản.
Sự nhận thức của trẻ: Trẻ nhận thức mọi vật nhờ vào các giác quan, cũng giống
như chúng ta vậy. Tuy nhiên, trẻ cũng cần học hỏi cách để chọn lọc ra những gì quan
trọng và những gì không quan trọng. Hãy giúp trẻ tiếp xúc với những thông tin bằng
cách vận dụng nhiều giác quan khác nhau, chẳng hạn như chỉ cho trẻ thấy chiếc lục
lạc, cho trẻ sờ vào nó, sau đó rung lục lạc lên để lôi kéo sự chú ý của trẻ. việc sờ mó
vào đồ vật là một trong những cách tốt nhất giúp trẻ có cơ hội khám phá môi trường
xunh quanh nó, vì thế bạn cần cho trẻ tiếp xúc với nhiều đồ vật kết cấu khác nhau
1.3. Nguyên lí sống còn ở trẻ bé
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 31
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Mối quan hệ gắn bó giữa mẹ - con trong giai đoạn đầu là hết sức quan trọng. trẻ
sơ sinh trong giai đoạn đầu gắn bó chặt chẽ với mẹ. đến một giai đoạn nhất định , trẻ
sẽ tự động tách ra để tự phát triển độc lập.
Có thể nói rằng, sự phát triển và hài hòa về nhân cách của trẻ tuỳ thuộc vào việc
thiết lập các mối quan hệ tương tác giữa mẹ và con. Nhiều bà mẹ chú trọng đặc biệt
đến các loại sữa bột với quan đểm càng đắt thì càng tốt.
Họ đòi hỏi cách pha chế sữa và thức ăn cho trẻ phải cực kỳ vệ sinh, thậm chí có
người còn dùng cả nước khoáng để pha sữa… mà quên đi cách thức cho ăn, sự giao
tiếp giữa mẹ và con khi ăn cũng quan trọng không kém, nếu không muốn nói là hơn cả
sự kỹ lưỡng về vệ sinh và hơn hẳn những chất bổ dưỡng trong các loại sữa đắt tiền.
Sự quan trọng trong mối tương giao mà cụ thể là ở cách cho con bú, cho thấy trẻ
sơ sinh không chỉ là một cái ống tiêu hóa, hay một cái túi chứa thực phẩm mà còn là
một con người với đầy đủ các thẩm quyền để đòi hỏi một mối tương giao lành mạnh
với người mẹ dựa trên một trạng thái gọi là sự gắn bó (attachement) giữa mẹ và con.
Đây là một khái niệm tâm lý học do các nhà tâm lý người Mỹ như Bowlby,
Ainsworth đề xướng từ năm 1970, sau đó được Zazzo và một số tác giả khác đưa vào
nghiên cứu ở châu Âu. Theo khái niệm này thì qua sự tiếp xúc thường xuyên từ lúc lọt
lòng, tuỳ mức độ đòi hỏi của em bé và sự đáp ứng của người mẹ, sẽ tạo ra một mối
quan hệ gắn bó tốt xấu, đậm nhạt khác nhau. Đây là một sự tác động qua lại giữa mẹ
và con, mà người mẹ ở đây không nhất thiết là bà mẹ sinh ra trẻ, đó có thể chỉ là bà
mẹ nuôi trẻ, vì vậy nếu người mẹ vì một lý do nào đó không đích thân chăm sóc trẻ
trong những ngày tháng đầu đời, mà lại giao cho người nhũ mẫu thì sau này khi trẻ đã
lớn, khi người mẹ quay lại chăm sóc con sẽ gặp phải những phản ứng “tẩy chay” của
trẻ, dẫn đến những rối nhiễu, lệch lạc trong ứng xử của trẻ, cho dù người mẹ sau đó đã
rất cố gắng chăm sóc con, nhưng cũng khó có thể lấy lại tình cảm và sự thương yêu
mà trẻ đã “lỡ”dành cho người nhũ mẫu.
Theo Bowlby, sự gắn bó này được hình thành qua 3 thời kỳ:
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 32
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Giai đoạn sơ sinh: Trẻ sẽ chủ động tìm sự quan hệ với bất kỳ ai chăm sóc,
quan tâm đến bé.
Giai đoạn phân biệt lạ-quen: Trên 2 tháng là trẻ đã có khả năng phân biệt lạ –
quen với những người xung quanh.
Giai đoạn bám mẹ: Từ 6 tháng trẻ sẽ tìm cách bám lấy mẹ, sự quan tâm của trẻ
sẽ tập trung vào một người, khi mẹ bỏ đi trẻ sẽ tìm kiếm, khi mẹ trở lại trẻ tỏ ra vui
mừng, và trẻ sẽ phân biệt được mẹ với những người chăm sóc khác.
Chính vì vậy, ở những trẻ mồ côi từ lúc sơ sinh, nếu không thiết lập được sự gắn
bó với một bà mẹ nào đó, là người chăm sóc trẻ thường xuyên trong một thời gian trên
6 tháng, sẽ xuất hiện một rối nhiễu tâm lý gọi là hội chứng vắng mẹ (hospitalism), trẻ
sẽ chậm nói, chậm phát triển về tâm lý vận động mặc dù vẫn được nuôi ăn đầy đủ.
Tuy nhiên, theo sự phát triển của tâm –sinh lý, sau một thời gian thiết lập được
sự gắn bó với mẹ, thì khi được 2-3 tuổi trẻ lại bước vào một giai đoạn muốn tách
biệt (détachement) với mẹ, cũng với những bước chân chập chững là một tâm lý tự
chủ, tự khẳng định mình. Đó là một trạng thái phát triển tâm lý cần thiết, mà nếu một
người mẹ không am hiểu vì lòng thương con cứ tiếp tục quyến luyến, ôm ấp và làm
thay cho con quá nhiều khiến cho trẻ không phát triển được về tâm lý và đôi khi tình
trạng này kéo dài cho đến tận tuổi…trưởng thành! Lúc đó, bề ngoài tuy đã là một
trang thanh niên lưng dài vai rộng, hay một cô thiếu nữ yểu điệu dịu dàng, nhưng tâm
lý vẫn chỉ là một đứa trẻ, không dám tự mình quyết định một việc gì, không dám
đương đầu với những thách thức của cuộc sống và thường dễ bị cuốn hút bởi những
trào lưu xã hội ( Mà thường là những trào lưu xấu mới khổ)
1.4. Nhu cầu tâm lý của trẻ
Bất cứ một em bé nào sinh ra, đều phải được trưởng thành từ một mái ấm gia
đình, không một tình cảm nào nuôi dưỡng được một trẻ sơ sinh tốt bằng lòng mẹ,
cũng không một sự chăm sóc nào tốt cho bằng sự ấp ủ của người mẹ và sự quan tâm
của người cha. Sự chăm sóc và giáo dục của gia đình đóng một vai trò quan trọng
trong việc hình thành nhân cách cho một con người. Đó là điều không ai phủ nhận.
Chính vì thế, những sai lầm, thiếu sót hay sự lơ là trong các mối quan hệ - ứng xử với
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 33
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
trẻ của gia đình cũng sẽ để lại những đổ vỡ, những tổn thất không gì bù đắp được cho
sự phát triển nhân cách. Hầu hết những tội phạm, những kẻ nghiện ngập, thường có
một gia đình tan vỡ hay bất hòa. Cả những lối sống ích kỷ, tha hóa, lao đầu vào cuộc
sống yêu cuồng sống vội, cũng là hậu quả của những quan điểm cứng nhắc, độc đoán
hay thờ ơ của các bậc phụ huynh mà trẻ đã tiếp nhận từ lúc ấu thơ.
Những rối nhiễu tâm lý cũng trở nên trầm trọng hơn nếu bố mẹ không có nhận
thức đúng đắn về vai trò của mình. Vì thế, sự điều chỉnh kịp thời với những nhận định
hợp lý và phương pháp chăm sóc phù hợp cũng sẽ góp phần không nhỏ vào việc giúp
cho trẻ em có vấn đề về tâm lý giảm bớt đi những khó khăn trong việc nâng cao nhận
thức, kỹ năng của mình.
Chúng ta có câu: “ dạy con từ thủa lên ba…” nói lên nhận định là phải dạy con
ngay từ khi còn nhỏ, chứ không đợi đến 6,7 tuổi là tuổi đi học mới bắt đầu dạy, e là đã
muộn. Thế nhưng, những hiểu biết về tâm lý ngày nay lại cho rằng chúng ta phải dạy
con ngay từ khi mới mở mắt chào đời, vì một trẻ sơ sinh cũng đã có rất nhiều khả
năng để sẵn sàng tiếp nhận một sự “huấn luyện” ra trò !
Hiện nay, các nhà chuyên môn về tâm thần và thần kinh học nhận ra rằng những
sự quan tâm chăm sóc mà trẻ được tiếp nhận ngay từ khi chào đời và trong suốt giai
đoạn sơ sinh có một ảnh hưởng rất quan trọng trong sự phát triển về trí tuệ và tâm lý
Các yếu tố mà trẻ cần được cung cấp:
Trẻ cần được cảm nhận sự quan tâm, tôn trọng để thấy được giá trị của bản
thân.
Trẻ cần được cảm thấy an toàn
Trẻ cần được cảm thấy tự tin về những gì mà trẻ mong đợi.
Trẻ cần có một kinh nghiệm quân bình về tự do và giới hạn.
Trẻ cần được sống trong một môi trường đa dạng và phong phú với ngôn ngữ,
trò chơi, và khám phá thế giới qua sách báo, âm nhạc và đồ chơi thích hợp.
Điều này cho thấy cách chăm sóc của cha mẹ và những tác động trong môi
trường gia đình sẽ ảnh hưởng đến cảm xúc của trẻ, cách trẻ tương tác với người khác
và cả về khả năng phát triển về thể chất của trẻ. Sự quấy khóc, biếng ăn, khóc đêm,
khó ngủ … là những phản ứng của trẻ về tình trạng bất ổn mà trẻ đang phải chịu đựng.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 34
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Thế nào là một môi trường ổn định và thích hợp: Đó là môi trường lấy trẻ làm
trọng tâm và cung cấp những cơ hội và điều kiện thích hợp cho sự phát triển, sở thích
và nhân cách của trẻ em. Môi trường này bao gồm:
Được hưởng chế độ dinh dưỡng phù hợp
Gia đình có người chăm sóc nồng ấm, đáp ứng và yêu thương
Có thời gian vui chơi thoải mái và vui nhộn với bố mẹ
Có những hoạt động củng cố tích cực về khả năng nhận thức
Có sách tốt để đọc, âm nhạc phù hợp để nghe
Tự do khám phá và học hỏi từ những người xung quanh
Qua đây, chúng ta thấy rằng một chế độ chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ tối ưu thì
giá trị vật chất ( từ các loại thực phẩm, sữa, thuốc bổ ) không quan trọng bằng cách
chăm sóc của người mẹ - Việt Nam có câu : "của cho không bằng cách cho " cũng là
một điều mà các bà mẹ nên cân nhắc nếu muốn con có một nền tảng tốt đẹp để phát
triển sau này
1.5. Cho trẻ bú mẹ
Cho con bú là việc làm đầu tiên quan trọng trong việc thiết lập mối quan hệ mẹ -
con. Nếu một đứa bé sinh ra đủ tháng, khỏe mạnh, trong một gia đình bình thường,
mối quan hệ mẹ - con sẽ vận hành một cách tốt đẹp, đứa trẻ sẽ tự biết dùng số lượng
sữa chính xác với một tốc độ phù hợp, điều ày có nghĩa là trẻ có thể tự quyết định một
số điều . do đó, thuận theo tự nhiên, không có sự can thiệp theo giờ quy định là cách
nuôi dưỡng tốt nhất để trẻ có sự phát triển.
1.5.1. Những lợi ích của sữa mẹ:
Sữa mẹ cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của trẻ
gồm mỡ, tinh bột, đạm, vitamin, chất khoáng giúp trẻ tăng trưởng tốt và tránh suy
dinh dưỡng. Đặc biệt, trong sữa mẹ có những chất rất có ích cho cơ thể bé như:
- Casein: giúp ngăn ngừa bệnh tiêu chảy, viêm hô hấp, viêm tai
- Sắt: bé dễ hấp thu chất sắt trong sữa mẹ hơn bất cứ loại sữa nào khác
- Latose, Vitamin C: giúp việc hấp thu chất sắt của bé dễ dàng hơn
- DHA: giúp bé phát triển não và mắt.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 35
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Trong 6 tháng đầu đời, sữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ vì ruột của
bé chỉ tiêu hóa tốt sữa mẹ. Trẻ sẽ dễ bị rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy nếu được nuôi
bằng thức ăn khác
Sữa mẹ chứa nhiều kháng thể, là những chất giúp bé chống lại các bệnh nhiễm
khuẩn. Đặc biệt là kháng thể IgA trong sữa mẹ giúp chống khuẩn tại chỗ, tránh các
bệnh dị ứng sau này như chàm, suyễn.
Yếu tố bifidus có trong sữa mẹ giúp phát triển Lacto – bifidus có lợi cho hệ tiêu
hóa và hạn chế vi khuẩn E.coli có hại cho ruột.
Sữa mẹ còn chứa nhiều chất diệt khuẩn giúp trẻ tránh được bệnh tật như
lactoferrin, lysozyme, oligosaccharide, các axít béo
Sữa mẹ có ảnh hưởng tốt đến trí thông minh của trẻ do có chất galactose và axít
béo linoleic, arachidonic có vai trò myelin hóa các dây thần kinh, giúp não bộ trưởng
thành. Những chất này không có trong sữa bò
Sữa mẹ góp phần làm giảm đau đớn cho trẻ sơ sinh, đặc biệt là những trẻ nằm
viện sau sinh
Sữa non (sữa mẹ ở 6 ngày đầu sau sanh) là nguồn thức ăn đặc biệt hữu ích cho
trẻ mới sinh vì giàu năng lượng giúp trẻ chống đói rét, chứa nhiều chất kháng khuẩn,
giàu vitamin A, ít calcium và phosphor phù hợp với hoạt động chưa tốt của thận
trong những ngày đầu
Khi cho con bú, tình cảm mẹ con được thắt chặt và được cụ thể hoá. Tình cảm
này giúp trẻ mau chóng thích nghi với môi trường bên ngoài
Khi cho con bú mẹ, người mẹ sẽ không có kinh nguyệt trong 8 tháng, nhờ vậy
thực hiện được kế hoạch sau sinh.
1.5.2. Cai sữa.
Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng hoàn hảo cho trẻ phát triển nhưng rồi cũng đến lúc
cần cai sữa cho bé
Nhìn chung chí những ai hường nhiều nhất chính là những người từ bỏ dễ dàng
nhất. Đối với những ai không hưởng đủ nhũng hạn chế là rất khó khăn. Những ai đến
muộn hơn và khong hề biết những cái gì đó, chẳng hề luyến tiếc.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 36
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Một kinh nghiệm tốt đẹp về bú mẹ sẽ tạo nền tảng cho việc cai sữa, bú mẹ thực
sự là một kinh nghiệm phong phú hơn là bú bình, cả cho mẹ lẫn cho con,.
Điều bà mẹ biết và điều bà mẹ học: Một bà mẹ trẻ có nhiều điều phải học: về chế
độ ăn, thức ăn, việc cho bú...
Giai đoạn thứ nhât: đứa bé ít giao tiếp: đó là một đứa bé đang được sống trong
không gian bao bộc, nó chẳng biết gì ngoài bản thân.
Giai đoạn hai: đăú bé động đậy vai, đầu gối hoặc duỗi người ra một tý. Khoong
gian đã dc vượt qua. Đứa bé đã chộp được môi trường.
Giai đoạn ba: bạn đang bế đứa trẻ và bạn hơi giật mình vì có tiếng chuông ở cửa
hoặc vì song nước đang sôi. Không gian lại được vượt qua. Lần này là môi trường tự
nhiên.
Việc cai sữa nên tiến hành từ từ bằng cách thay dần các bữa bú bằng bột, cháo
(phải có thịt, cá, trứng, dầu, mỡ, rau quả tươi để đủ dinh dưỡng). Cần chế biến sao cho
hợp khẩu vị, thường xuyên thay đổi món để trẻ ăn được hết suất.
Khi nào có thể cai sữa cho con, cai sữa như thế nào để không ảnh hưởng đến sức
khỏe của con... là nỗi băn khoăn của nhiều bà mẹ trẻ.
Trước hết, phải khẳng định rằng với trẻ dưới 4-6 tháng tuổi, sữa mẹ là thức ăn
hoàn chỉnh nhất, thích hợp nhất. Không cần cho trẻ ăn gì thêm trong thời gian này.
Sau giai đoạn đó, trẻ tăng trưởng rất nhanh. So với lúc mới đẻ, trẻ 5-6 tháng tuổi
đã nặng gấp đôi, trẻ 12 tháng tuổi nặng gấp ba. Sau đó, cứ mỗi tuổi, cân nặng của trẻ
lại tăng 1,5 kg. Nhu cầu dinh dưỡng tăng nhanh trong khi nguồn sữa mẹ có chiều
hướng giảm cả về lượng và chất. Do vậy, từ tháng thứ 5, ngoài việc tiếp tục cho trẻ bú
để tận dụng nguồn sữa mẹ, trẻ cần được ăn bổ sung rồi dần dần cho cai sữa. Không
được cai trước 12 tháng tuổi vì việc ăn sữa ngoài hoặc ăn bổ sung quá sớm rất dễ gây
tiêu chảy. Mặt khác, do hệ tiêu hóa của trẻ chưa được làm quen với thức ăn ngoài sữa
mẹ nên khả năng tiêu hóa, hấp thu kém, trẻ dễ bị suy dinh dưỡng.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 37
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Ở tuổi cai sữa, trẻ đã mọc răng nhưng cơ nhai còn yếu. Vì vậy, các món ăn phải
mềm, dễ tiêu (như bột, cháo, cơm nát), và chỉ nên cho trẻ ăn ít một, 4-5 bữa/ngày.
Không nên bắt ép trẻ ăn quá nhiều, dễ gây ức chế bài xuất các men tiêu hóa.
Tránh cai sữa đột ngột vì dễ làm cho trẻ bị sang chấn tinh thần và dễ sinh biếng
ăn. Không nên cai sữa vào mùa hè hoặc khi trẻ ốm vì đây là lúc trẻ hay bị biếng ăn,
khó thích nghi với chế độ ăn mới. Nếu trẻ đang bị tiêu chảy thì càng bất lợi vì hệ tiêu
hóa của trẻ vốn non yếu nay lại bị bệnh, khả năng hấp thụ thức ăn giảm sút, bệnh tiêu
chảy dễ nặng thêm, trẻ càng biếng ăn và dẫn đến suy dinh dưỡng.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, nếu tất cả trẻ sơ sinh đều được bú sữa mẹ, hơn một
triệu rưỡi trẻ em trên thế giới sẽ được cứu sống mỗi năm.
Đó là lý do Bộ Y tế khuyên các bà mẹ nên cho con bú sữa mẹ hoàn toàn đến sáu
tháng tuổi. Sau thời gian này, trẻ vẫn nên bú mẹ bên cạnh chế độ dinh dưỡng mới cho
đến ít nhất hai tuổi.
Nguyên tắc chung để cai sữa cho con là giảm thời gian bú, cho bé bú thưa dần
hoặc ăn no trước khi bú. Nhưng làm thế nào bạn biết đã đến lúc nên và có thể cai sữa
cho bé? Những dấu hiệu sau sẽ giúp bạn
Bé có thể ngồi thẳng và lăn trái bóng ra trước, không cần sự trợ giúp bên ngoài
Khi có thể làm được những động tác này, trẻ dã gần một tuổi. Hệ thần kinh và hệ
vận động phát triển tương đối, trẻ cứng cáp, đã có khả năng tự đề kháng nếu thiếu sữa
mẹ.
Bé nói được thêm hai đến ba từ ngoài “bố”, “mẹ” hay đã có thể nói được một
câu ngắn
Câu nói của bé khi này chỉ bao gồm vài từ đơn giản nhưng có đầy đủ chủ ngữ, vị
ngữ và đi thẳng vào vấn đề như; “Mẹ bế”, “Bố đi chơi”. Thời điểm này, hệ thần kinh,
thính giác trẻ phát triển. Đây cũng là giai đoạn trẻ muốn khẳng định sự hiện diện của
mình bằng vốn từ ít ỏi.
Giai đoạn này, bạn cần bổ sung thêm nhiều thực phẩm mới để giúp thực đơn của
bé thêm đa dạng. Lượng sữa ngoài bé cần bổ sung khi này khoảng 500 - 600ml/ ngày.
Trẻ ăn được cháo và cơm nhão
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 38
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Khi trẻ có khả năng nhai, nuốt nghĩa là hệ tiêu hóa đã phát triển. Lúc này trẻ đã
được một tuổi rưỡi đến hai tuổi.
Bạn nên cho trẻ ngồi vào bàn ăn cùng với gia đình. Điều này rất có lợi trong việc
phát triển trí tuệ của bé cũng như để thắt chặt thêm tình cảm trong gia đình.
Khi bé có thể nhận biết và có ấn tượng với màu sắc
Bằng cách thay đổi màu sắc đầu vú, bạn có thể cai sữa cho bé. Cách thức dân
gian này chỉ hiệu quả khi bé bắt đầu biết phân biệt màu sắc. Khi không còn thấy màu
sắc quen thuộc của núm vú, bé sẽ dần dần ngưng bú.
Bạn chỉ nên dùng những màu tự nhiên để “nhuộm” đầu vú. Chẳng hạn như dùng
nghệ tạo màu vàng, củ dền để lấy màu đỏ…
Trẻ đã có thể leo lên, leo xuống cầu thang
Đạt đến mức độ này, trẻ đã gần hai tuổi hoặc hơn hai tuổi. Đây là độ tuổi được
các bác sĩ dinh dưỡng cũng như bác sĩ nhi khoa khuyên nên cai sữa.
Trường hợp đặc biệt
Trong những trường hợp sau, trẻ cần được cai sữa ngay: mẹ mắc bệnh truyền
nhiễm hay những bệnh lý liên quan đến bầu vú như nứt nẻ đầu vú.
1.5.3. Thức ăn đi đâu:
Khi các trẻ bé sắp đói sẽ có 1 điều gì đó xảy ra nơi chúng và xâm chiếm tâm hồn
chúng.
Sự chảy dãi ở trẻ nhỏ như là một sự báo hiệu cho mọi người thấy là chúng quan
tâm đến những thứ mà chúng có thể chiếm lấy bằng mồm.
Ví dụ: các bạn có thấy trẻ nào lớn hơn 20 tuổi mà tiết nước bọt 1 cách không
kiểm soát không?..chẳng hạn như rất nhiều chàng trai mắt chữ O –mồm chữ A và thả
ra nước miếng khi có 1 bóng hồng nóng bỏng nào đó đi qua…haha..
Riêng bà mẹ, việc thích nghi với những nhu cầu của một đứa con có thể trở
thành một sở thích đặc biệt..như là nấu cho con 1 bát cháo với đầy đủ hương vị và
theo đủ loại công thức của đủ thứ lời khuyên từ những bà mẹ có kinh nghiệm khác…
nhiều khi sự lo lắng, quan tâm cho 1 đứa con thái quá trở thành 1 “nghi thức ám ảnh”
ở các bà mẹ.. Sở dĩ như vậy cũng đơn thuần là xuất phát từ tình yêu thương vô bờ bến
của 1 người mẹ.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 39
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Kết thúc quá trình tiêu hóa
Kết quả của quá tình tiêu hóa là tất cả thức ăn không được hấp thu 1 cách trọn
vẹn, 1 phần trong số đó sẽ được “rũ” xuống phần dưới của ruột cho tới 1 chỗ hở gọi là
hậu môn….quá trình này có thể khiến cho trẻ có cảm giác cực kì thoải mái, hoặc cũng
có thể vô cùng khó chịu, thậm chí là đau đớn khi chất thải không được đưa ra ngoài
một cách trơn tru, có rất nhiều trẻ bị táo bón!
Việc bà mẹ can thiệp vào hành vi bài tiết chất thải của trẻ là 1 vấn đề quan
trọng.. nên thiết lập cho trẻ giới hạn có thể được phép..ví dụ: hành động “sùy …
sùy..sùy..” để cho đứa trẻ đi tiểu hoặc đi cầu mà người lớn hay áp dụng.. theo kiểu: có
kích thích thì có phản ứng, và cho trẻ nhận ra là không phải khi nào mọi đòi hỏi của
chúng cũng được đáp ứng, nhu cầu của chúng phải được cung cấp đúng nơi, đúng
chỗ… tuy nhiên không nên đặt ra giới hạn quá hà khắc…sẽ làm cho trẻ mất đi 1 số
trải nghiệm thú vị.
1.6. Ý thức đạo đức bẩm sinh:
Biết cách làm cho con bạn ngoan, sạch sẽ, vâng lời, dễ quan hệ, đạo đức và tất
cả, ở mọi trẻ những khái niệm liên quan đến tốt xấu, xuất hiện từ bên trong, sự lệ
thuộc dính tới khung cảnh bạn cung cấp (chăm sóc cá nhân, thái độ đều đặn, thích
nghi nhu cầu tích cực với nhu cầu của trẻ...), có những xu hướng bảm sinh vè một ý
thức đạo đức và về những kiểu thái độ khác nhau mà bản thân bạn coi trọng. Cuối
cùng trẻ có khả năng chấp nhận những chuẩn mực của bạn (khi bạn dạy nó cảm ơn...).
Sự chú ý nhạy bén của ba mẹ đối với các tín hiệu hưng phấn hoạc đau khổ cho
phép bà ta biến thành riêng tư và tốt đẹp.
Bà mẹ sẽ quyết định giao tiếp theo thiên hướng riêng của bạn và theo đứa trẻ mà
bạn có. Bạn cho phép sự tồn tại của những xu hướng bẩm sinh theo ngjiax đạo đức.
Nhờ sự chú ý nhạy bén của ba mẹ, cho tiinhf yêu của bà ta, những cội rễ của ý thức
đạo đức riêng của trẻ dc bảo vệ, gìn giữ.
Bản năng và nhữn g khó khăn bình thường:
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 40
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Điều một bà mẹ cần khi con ốm là một người thầy thuốc có thể khám cho đứa bé
và nói chuyện với bà.
Nếu đứa bé phát triển tốt chúng cũng liên quan đến tình yêu. Dần dần nó trở
thành một con người có khả năng yêu những con người và cảm thấy được yêu như
một con người. Có một sự ràng buộc rất mạnh mẽ giữa mẹ và bé, bố và những người
khác xung quanh.
Những ý niệm kèm theo các xung năng yêu nguyen thủy chủ yếu là hủy hoại và
phối hợp chặt chẽ với các cơn tức giận. Ở những trẻ bình thường những khó khăn
trong ăn uống thường xảy ra, và các bà mẹ thường phải đi tói chịu đựng bực dọc hàng
tháng trời và thậm chí hàng năm trong đó đứa trẻ sẽ phí phạm tất cả khẩ năng của họ
để cho nó ăn ngon
3 Chương 2 Gia đình
2.1. Người cha
Người cha đi vào cuộc sống của trẻ với tư cách người cha, những tình cảm mà
trẻ đã có đối với một số đức tính của mẹ được dồn cho cha và đối với bà mẹ, như đã
trút được gánh nặng khi người cha có thể thừa kế theo cách đó.
Người cha biết hay không biết về đứa con của mình tùy thuộc vào bà mẹ, vì
người cha khó có thể hiểu một đứa trẻ trong khi người chăm lo, chăm sóc chủ yếu cho
chúng là bà mẹ.
Theo D.W.Winnicott một người cha có giá trị hay không được ông xét theo các
cách sau đây: Người cha cần ở nhà để giúp cho bà mẹ cảm thấy thoải mái trong cơ
thể và sung sướng trong tâm hồn. Sự thống nhất giữa bố và mẹ giúp trẻ cảm thấy an
toàn; Người cha cần cung cấp cho bà mẹ một sự hỗ trợ tinh thần, hỗ trợ trong quyền
uy của bà mẹ. người cha là hiện thân của luật lệ và trật tự mà bà mẹ đưa vào cuộc
sống của trẻ; Người cha cần cho con những đặc tính tích cực của ông và những yếu tố
phân biệt ông với những nam giới khác. Trẻ em học tập được rất nhiều thông qua
người cha của mình, chúng tự tạo dụng một ý tưởng, ít nhất là từng phần của ý tưởng
đó từ những gì trông thấy,hoặc nghĩ là nhìn thấy qua quan sát người cha.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 41
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Sống và còn sống trong những năm đầu đời của các con là một trong những điều
mà người cha làm cho đứa con của mình ( sống cùng với cha trẻ học được nhiều kinh
nghiệm đồng thời hiểu về cha của mình,..)
Việc người cha và người con có hiểu được nhau hay không là tùy thuộc chủ yếu
vào sự giúp đỡ của người mẹ hay việc tạo điều kiện của người mẹ.
Đối với việc chăm sóc trẻ sơ sinh, thuật ngữ "mẹ" là tương đương với "môi
trường" và do đó bao gồm các cha nếu ông chăm sóc trẻ sơ sinh. Người cha can thiệp
trong hai cách: như một người mẹ, khi tiếp xúc và chăm sóc trẻ và bảo vệ bà mẹ và trẻ
từ những gì có thể can thiệp vào giữa hai cha con.
2.2. Vai trò của người cha
Người ta có thể ngạc nhiên vì số trang dành cho người cha tương đối ngắn. Đó là
vì 3 lẽ: Việc nghiên cứu chi tiết về tổ ấm gia đình và những sự ly tán của gia đình cho
phép hình dung nhiều dạng khác nhau của vai trò dành cho người cha trong gia đình;
Những điều chúng tôi nói về bà mẹ trong vài trường hợp có thể áp dụng cho ông bố
nhưng phải có sự những sự điều chỉnh cần thiết; Đối với trẻ em, ít ra ở những năm đầu
tiên ông bố không có vai trò trực tiếp quan trọng ngang bà mẹ tuy vai trò gián tiếp vẫn
cần thiết vì là thành viên của tổ ấm gia đình và nhất là chỗ dựa về kinh tế cho gia đình.
Vai trò người cha ảnh hưởng tới trẻ khác vai trò của mẹ: Vai trò của cha không
bằng mẹ; Ảnh hưởng của người cha đứng hàng 2; Sự ảnh hưởng của người cha sau
người mẹ; Lúc trẻ còn nhỏ, cha ảnh hưởng dán tiếp thông qua người mẹ, khi trẻ lớn sẽ
ảnh hưởng trực tiếp; Ảnh hưởng của người cha tăng dần theo sự lớn khôn của trẻ và
đến khi trẻ trưởng thành thì vai trò của cha mẹ là như nhau
Trẻ học ở cha cách kiềm chế, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp xã hội:
Người cha đại diện cho sức mạnh lý trí, nếu người cha không đủ uy tín với con thì trẻ
khó hình thành siêu tôi; Nều người mẹ là đối tượng để trẻ thỏa mãn nhu cầu, thì cha là
người ngăn cản hoặc điều chỉnh nhu cầu ở trẻ
Tính cương quyết của người cha tạo ra sự cân bằng trong gia đình: Tính nghiêm
khắc, cương quyết giúp trẻ trai phát triển nam tính và giúp trẻ gái tìm bạn đời của
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 42
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
mình sau này. Nếu người cha không thực hiện được vai trò của mình sẽ tạo cho trẻ
tính nhút nhát, hay lo sợ, bướng bỉnh, ngỗ ngược, ....
Sự nhập cuộc của người cha
Trong thời gian dài người ta đã thừa nhận người cha có vai trò quan trọng ngang hàng
với người mẹ trong quan hệ với con, chủ yếu là do quan tâm đến sự tương xứng hơn là do
hiểu biết khách quan trên thực tế.
Những năm gần đây, những nhận xét khoa học chặt chẽ khẳng định tính chất sinh học
cần thiết của sự chăm sóc con của người mẹ đã bỗng nhiên đẩy người cha xuống hàng thứ
hai của gia đình đến nỗi một số người còn cho rằng người cha không có vai trò gì cho đến
khi con đạt 7 tuổi. Tóm lại người ta trở lại quan niệm cổ đại về trẻ em (chủ yếu là với con
trai) phó mặc nơi khuê phòng bên các bà cho đến khi 7 tuổi mới giao cho các ông để rèn
luyện theo nam tính từ tuổi đó.
Người cha bị tước bỏ dần những vai trò xã hội, tâm lý và giáo dục vì lợi ích của người
mẹ, đến nỗi người ta tự hỏi rằng liệu người cha có còn cần thiết hay không vai trò sinh học
của sự truyền giống cũng đến lượt giảm đi trước những tiến bộ của sự thụ tin nhân tạo và sự
sinh sản được gây ra.
Hai quan niệm nói trên đều sai lầm cũng như tất cả những thuyết tuyệt đối cứng nhắc.
Vai trò người cha không tìm thấy trong sự bình đẳng giả tạo với người mẹ, cũng không chia
một cách căn bản theo thời gian.
Những ảnh hưởng của người cha người mẹ khác nhau về chất, tầm quan trọng biến đổi
theo tuổi của con và trong mọi lúc đều dính nhằng nhịt một cách sâu sắc trong những tác
động và những hậu quả của chúng.
Theo D. Burlingham và A. Freud, bắt đầu từ năm thứ hai, tình cảm mà đứa con dành
cho cha sát nhập vào đời sống tình cảm của nó và trở thành một thành phần cần thiết của
những lực phức tạp góp phần tạo nên tính tình và nhân cách đứa con.
Theo H. Codet và Laforgue thì việc người cha gia nhập đời sống đứa bé rõ ràng là bất
lợi:
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 43
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
“Tư lúc cai sữa, người mẹ rút khỏi đứa con, thường đi về phía người cha và đứa bé
phải học nhường người cha… Người cha là sự tượng trưng, dạng đầu tiên của thế giới bên
ngoài mà tất cả đều hội tụ vào đó. Người cha không thuộc về đứa con như người mẹ nuôi
dưỡng; ngược lại ông ta thống trị gia đình và do đó đứa bé thấy ông như một người cạnh
tranh mà nó muốn chống lại… Nếu như người cha không làm cho con yêu mình… sự xung
đột sẽ xảy ra với đứa con người cha hiện ra như một kẻ thù, hình ảnh đó ăn sâu vào trí nhớ
của nó”.
Nếu người ta muốn hình dung một cách năng động và thực dụng về tầm quan trọng
của những quan hệ riêng bình thường của người cha người mẹ với đứa con trong quá trình
tiến triển, người ta có thể xác định gần như vậy. Lúc trẻ mới ra đời, vai trò người mẹ đi từ
đỉnh cao và giảm dần một cách từ từ cho đến lúc mất hẳn khi đứa con đạt đến tuổi trưởng
thành. Vai trò người cha, lúc trẻ mới sinh rất nhỏ tuy không phải là số không, tăng dần lên
cùng lúc với sự giảm dần của vai trò người mẹ. Từ quãng đứa trẻ lên 7 tuổi thì vai trò của
cha mẹ ngang nhau và cả hai giảm dần một cách song song cho đến khi đứa trẻ đạt mục tiêu
mong muốn là sự tự lập hoàn toàn của đứa con cho phép thay thế quan hệ trẻ con đối với
cha mẹ bằng quan hệ giữa người lớn với người lớn.
Quan hệ cha con
Khái niệm: quan hệ cha con là quan hệ gắn bó với nhau bởi tình cảm lý trí, uy tín,
uy quyền
Đặc điểm:
Quan hệ cha con là quan hệ theo chiều dọc: trên cơ sở huyết thống, mối quan hệ
này được phát triển, củng cố tăng dần theo năm tháng, từ việc tác động dán tiếp thông
qua người mẹ, sau đến trực tiếp.
Quan hệ cha con mang tính uy quyền: Do đặc tính sinh học người đàn ông to lớn
hơn đàn bà, tác phong nhanh nhẹn, mạnh khỏe. Do địa vị kinh tế, vì người đàn ông
mang lại cho gia đình kinh tế tài chính. Do xã hội quy định.
Uy tín của người cha có được: Tình thương của cha đến mẹ và con; Tính dứt
khoát, quyết đoán của người cha; Tính nhanh chóng: nói ngắn gọn, rõ ràng, đủ ý; Tính
kên quyết: khi ra quyết định phải thi hành.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 44
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Tính công bằng: Do người cha là người giữ kỷ cương, nề nếp trong gia đình;
Công bằng sẽ khuyến khích sự tự do trong suy nghĩ và hành động của các con; Sự áp
đặt vừa phải của cha đến con, giúp con hiểu được sự không công băng và sau này
kinh nghiệm này giúp trẻ chấp nhận ở xã hội.
Tình cảm lý trí: Dạy cho trẻ sự quyết đoán trong suy nghĩ và hành động; Cho con
biết được thế nào là tình cảm yêu thương của người mẹ và tình cảm lý trí của cha; Trẻ
học được những giới hạn căn bản cho cuộc sống (không nên buông thả theo tình cảm);
Trẻ hiểu được tình thương và sự nghiêm khắc; Loại tình cảm này do xã hội quy định
cho người cha
2.2.1. Uy quyền của người cha
Các kiểu quan hệ cha – con
Người cha sử dụng uy quyền đúng mực là tấm gương cho con học theo. Người
cha nhân nhượng: cha biết chấp nhận ý kiến của con; Người cha nghiêm khắc: thể
hiện thái độ khi trẻ làm sai; Người cha công bằng: thưởng, phạt công minh; biết cách
khen chê. Vóc dáng người cha có ảnh hưởng tới uy quyền
Người cha lạm dụng uy quyền: Bảo vệ trẻ thái quá, hạn chế sự tự do của trẻ;
Làm cho trẻ sợ hãi, lo âu, nhút nhát, khép lép; Yêu cầu quá về con; Kiểu người cha
thiếu kìm chế; Kiểu người cha thù ghét con.Thiếu uy quyền người cha
Khách quan: Do vắng mặt: đi làm xa, đi tù, ly dị; Cha chết; Không có cha
Chủ quan: Không sử dụng uy quyền do không quan tâm đến trẻ; Do người cha
quá kém cỏi; Do quá nhu nhược.
Uy quyền của người cha
Đứa trẻ trông mong tình yêu thương của người mẹ còn với người cha trước tiên là uy
quyền.
Tình yêu thương của mẹ và uy quyền của cha là 2 trong những nền tảng cần thiết để có
sự cân bằng tốt trong những quan hệ gia đình. Chúng tôi nhắc lại là điều đó không ngăn cản
người mẹ có một mức uy quyền nào đó đối với các con cũng như người cha biểu lộ sự trìu
mến của mình. Nhưng thứ bậc của các vai trò mỗi người cần được tôn trọng vì lợi ích duy
nhất của đứa con.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 45
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Uy quyền không phải là chuyên chế. Michaux đã xác định như sau:
“Hầu hết trẻ em thích được cảm thấy trên chúng có sự bảo vệ của một thứ uy quyền,
nhưng chúng thích cái đó có mức độ vưa phải và công bằng vì trong thực tế cũng như trong
cuộc chơi, chúng có sự ham thích những kỷ luật quân đội có thứ bậc. Trẻ em luôn luôn
khinh và thường là ghét những người áp chế chúng và cả những người bảo vệ đương nhiên
mà sự bất lực làm cho nó thiếu chỗ dựa mong muốn. “Làm sao cho tôi yêu được mẹ tôi? Bà
tha thứ cho tôi tất cả” một đứa trẻ nói với chúng tôi như vậy. Đứa bé này áp chế mẹ nó tư
khi cha nó bị bắt làm tù binh và những rối loạn ở nó biến hết khi cha nó trở về nước. Câu
suy nghĩ đó đặc biệt gợi cho chúng ta phải ngẫm nghĩ. Đứa trẻ không nói “Làm sao tôi sợ
mẹ?” hay “Làm sao tôi kính trọng mẹ?” mà lại nói “Làm sao tôi yêu được mẹ?”. Đối với
nhiều trẻ em hư thì sợ, kính trọng, yêu thương đồng nghĩa với nhau hay ít nhất những khái
niệm kề nhau, không rời nhau không có tình yêu mà không có sự kính trọng, không có kính
trọng mà không sợ và ngược lại; không có nhu nhược mà không có khinh thường, không có
khinh thường mà không ghét”.
Uy quyền và tình yêu thương không có gì mâu thuẫn nhau mà hòa hợp với nhau, bổ
xung lẫn nhau và đôi khi ảnh hưởng lẫn nhau. Khái niệm công bằng phải là cơ sở của uy
quyền vì trẻ em không thể chịu đựng dù chỉ một chút bất công. Uy quyền cũng cần có mức
độ là tất nhiên là cũng phải có thứ bậc; nó không thể cho vung phí và cũng không được phân
phát một cách mù quáng.
2.2.2. Người cha hỗ trợ người mẹ
Trong thời kỳ đầu tiên của tuổi thơ sự ứng xử của người cha đối với con cũng
không quan trọng hơn những người thân ân cần khác như người bà, người giúp việc
v.v… Trên thực tế người mẹ chiếm hết trường tình cảm của đứa bé và người cha có
thể lộ rõ tác động của mình vào đứa bé một cách gián tiếp thông qua người mẹ. Một
người vợ được yêu thương và hạnh phúc, không có những lo âu chính về gia đình, có
rất nhiều khả năng cho con mình một tình thương lành mạnh, trong sáng, cân bằng,
không thái quá trong khi người vợ bị đau khổ, vì sự vũ phu, sự vô tâm hay sự lăng
nhăng của chồng không thể cho con được. Chính những người chồng xấu tạo ra những
bà mẹ lạm dụng.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 46
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Vai trò gián tiếp của người cha không giảm đi khi vai trò trực tiếp tăng lên. Người cha
đứng bên cạnh hay đứng sau lưng người mẹ thì hay hơn, để mà giúp đỡ và an ủi những lúc
mẹ mệt mỏi và lo âu, đó là những phản ứng bình thường do vai trò yêu thương làm cho sự
nhạy cảm phải vận dụng thường xuyên.
Người cha cũng phải đứng sau người mẹ khi người mẹ có tác động giáo dục đối với
con. Nhưng có hai mối trở ngại cần tránh. Cái thứ nhất là muốn bao biện tất cả; cần phải để
người mẹ chăm sóc những cái tỉ mỉ thông thường và những sự trừng phạt nho nhỏ mà đứa
bé dễ chấp nhận vì nó mơ hồ cảm thấy là những cái đó thật sự không làm nguy hại đến tất
cả tình mẹ. Cái thứ hai là trở thành ông bố dữ tợn, đáng gờm, mù quáng, không có lòng
thương xót, một ông bố “dữ đòn”. Không phải đã quá lâu cái thời roi vọt được gắn liền với
ông bố và “cho vài roi” được coi như là biện pháp phòng ngừa đáng kể. Việc đe dọa mách
cho bố biết những “lỗi” của con có thể hữu ích với điều kiện là được sử dụng có ý thức và
không thái quá để tránh gây cho trẻ lo hãi quá mức và cũng phải đôi khi thi hành để khỏi
gây cho trẻ một sự thờ ơ diễu cợt trước một quả pháo xịt ngòi.
Với mục đích đó, trong mọi trường hợp và mọi giả thiết, dù ý kiến riêng ra sao,
người cha nên tán thành mù quáng và ủng hộ mà không nói ra những ý kiến và những
quyết định của người mẹ trước mặt con dù sau đó phải bàn cãi đối đầu với người mẹ.
Chúng tôi không nhắc lại ở đây những sự cần thiết rất tầm thường như vậy về mặt
giáo dục nếu như chúng tôi không nhận thấy rằng những cái đó mới chỉ được áp dụng
trong một số ít gia đình mà thôi. Người cha có điều kiện thuận lợi để phê phán người
mẹ về những sai lầm hay những vụng về mà bà mẹ không thể tránh khỏi trong khi
phải có những tác động liên tục và đôi khi mệt nhoài với các con. Không dính dáng
trực tiếp vào những chi tiết nhỏ có thể giúp cho việc phán xét được khách quan hơn
nhưng cái đó lại tước đi mọi quyền phê phán nếu không phải là ân cần và ngoài tai trẻ
con. Chúng tôi nhắc lại là tất cả những gì bộc lộ một sự rạn nứt trong khối thống nhất
cha mẹ dù là bề ngoài hay thực sự, xét đến cùng đều có hại đối với con dù ý định ban
đầu có tốt đến mấy. Về điểm này vai trò người cha là luôn luôn ủng hộ người mẹ và
chỉ khi nào không có các con mới nhẹ nhàng và ân cần “gẩy cái mảnh rơm mà ông ta
ngỡ thấy trong mắt vợ, không quên rằng trước hết hãy loại bỏ cái dầm trong mắt
mình”.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 47
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Những sự can thiệp trực tiếp của người cha
Vai trò hơi lu mờ bề ngoài, hành động “vì người mẹ cho mượn tên” thường khó thực
hiện hoặc là sự mờ nhạt của người cha gần giống như sự vô tâm, hoặc là ngược lại những
can thiệp trở nên quá thường xuyên, nhỏ nhặt và chuyên chế. Tuy nhiên người cha cũng có
một vai trò trực tiếp đối với các con. Khi sự can thiệp là cần thiết, trong chừng mực có
thể dứt khoát, nhanh, kiên quyết, tức thời và có mức độ: dứt khoát vì phải áp dụng vào sự
việc rõ ràng và hiện hành chứ không cho phép nhắc lại hàng loạt những lỗi lầm đã qua hoặc
sẽ tới; nhanh vì những điều nói rõ càng ngắn càng tốt thì những hình phạt cũng vậy, kiên
quyết vì một khi đã ra quyết định, ngay cả bởi người mẹ trước đó, cần được thi hành một
cách không thô bạo cũng như không bỏ dỡ; tức thời bởi vì một hình phạt, nếu có thể, không
được làm u sầu thời gian sắp tới trước mắt đứa trẻ; có mức độ bởi vì nó phải tương ứng với
lỗi lầm cũng như với nhân cách đứa bé: người ta không phạt một tội như nhau ở trẻ lỳ và trẻ
đa cảm vì đứa trẻ đa cảm đã bị trừng phạt bởi chính sự lo lắng của nó; với lỗi lầm như nhau,
việc phạt nặng hơn đối với trẻ lớn hơn và đứa đã hiểu rõ hơn quan niệm về trách nhiệm.
Thật là những đòi hỏi lớn lao mà những tình cảm và tính khí người cha đã từng chịu đựng
nhiều biến đổi bởi nguyên nhân bên ngoài, phải cố gắng thích ứng.
Uy quyền người cha tất nhiên là then chốt của sự hòa hợp trong gia đình. Nhưng nó
đòi hỏi một sự điều chỉnh tế nhị biết bao; có những người sử dụng uy quyền như bàn tay sắt,
những người khác dễ dãi và nhu nhược cả hai đều không đúng. Một người cha quan tâm
đến việc giáo dục con cái một cách thông minh không điều khiển con bằng cách áp đặt cho
nó cách suy nghĩ, cách cảm nhận mà phải quên cá nhân mình đi để đi sâu vào tâm tư tình
cảm của con như đó là của chính mình. Người cha mang những ánh sáng của trí tuệ và kinh
nghiệm của mình đến với con người non trẻ mà ông ta mỗi lúc đều chia sẻ những cảm xúc
và tình cảm. Xung đột sẽ xảy ra khi người nọ không đặt mình vào địa vị người kia. Trái tim
người cha và trái tim người con không bao giờ hòa cùng một nhịp. Cả cuộc đời ngăn cách
họ” (G. Robin)
Đó là cách ứng xử lý tưởng đề xuất cho người cha có lòng nhân từ, với kiểu đó vai trò
uy quyền có vẻ khá bạc bẽo. Câu ngạn ngữ dân gian: “yêu cho roi cho vọt” chứng tỏ là
không có quyền uy thực sự. mà không có tình yêu thương. Tình yêu thương của người cha
có thể biểu lộ cách khác hơn là trong việc thi hành những hành động tỏ rõ uy quyền cần
thiết. Có hàng nghìn cách biểu lộ. Đó là một công việc khó hơn là người ta suy nghĩ để biết,
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 48
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
thí dụ như lắng nghe một đứa trẻ với tất cả sự chú ý mà đứa bé mong muốn. Trẻ con quan
tâm đến những chi tiết nhỏ nhặt, về nhiều vấn đề không thật sự quan trọng đối với người
lớn, nhưng chính sự thu nhận những chi tiết đó, việc giải đáp những vấn đề giả đó sẽ biến
đổi đầu óc trẻ con thành trí tuệ người lớn. Với sự quan tâm được duy trì và lòng kiên nhẫn
không mệt mỏi, người cha có thể giúp cho sự phát triển hài hòa trí khôn trẻ em. Khi bị lôi
cuốn vào việc trò chuyện hay tranh luận với con, người cha có một xu hướng vừa tự nhiên
vừa đáng tiếc là muốn giải quyết tất cả mà không cần tranh luận với con, thậm chí khinh
thường những ý nghĩ phi lý và những ý kiến của trẻ có thể bắt bẻ lại mà áp đặt ý kiến của
mình không cần lôi thôi. Người cha cũng không được làm mất uy tín và uy quyền của mình
bằng cách sa đà vào những cuộc cãi vã với trẻ con, không đè bẹp nhân cách của con mới
được hình thành bằng sức nặng kinh nghiệm và uy quyền của mình. Tất cả là vấn đề mức
độ.
Người cha là người nắm quyền hành cũng nắm luôn công lý. Vì vậy những cách giải
quyết dễ dãi của ông bố đề ra có nguy cơ sa vào độc đoán. Ở đây cũng có hai mối nguy:
hoặc cắt ngang bằng một câu “cứ thế vì phải như thế” đôi khi cần thiết hoặc sa vào trò cãi
vã không dứt vì những vấn đề không có gì là quan trọng cả: chia một cái bánh ra những
phần bằng nhau hay những chuyện nhỏ nhặt giữa trẻ con với nhau. Đại diện cho công lý,
người cha cần phải làm cho con chấp nhận những bất công tương đối để trẻ biết rằng một sự
công bằng tuyệt đối không bao giờ có trong đời sống xã hội mà đời sống gia đình tượng
trưng cho một quy mô thu nhỏ của đời sống xã hội. Những sự bất công không tránh khỏi và
cần thiết giữa trẻ ở lứa tuổi khác nhau và giữa trai và gái sẽ được trẻ dễ chấp nhận hơn nếu
chúng thấy được thừa nhận bởi người cha mà chúng vẫn tin vậy về sự công bằng thường
ngày.
Người cha, đối tượng của sự đồng nhất
Trong thời kỳ Ơ-đíp, tương tự như người mẹ đối với con trai, người cha cũng được con
gái gắn bó tha thiết. Tất cả cách ứng xử, tất cả những sự can thiệp trực tiếp hay gián tiếp
cũng sẽ phải hướng cho con trai của mình một hình tượng đồng nhất hóa đủ giá trị để nó
vượt qua mối xung đột nhất thời thù địch-cảm phục, tiến tới chấp nhận hoàn toàn nam tính
tượng trưng ở người cha. Uy tín của người cha ít phụ thuộc vào những gì ông ta làm hoặc
nói mà vào tất cả những gì ông ta thực sự có. Người ta không lừa dối được lâu dài một đứa
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 49
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
trẻ mà hung tính của nó thúc đẩy nó đi tìm điểm yếu ngay trong lúc nó sẵn sàng thán phục
một người mà nó muốn tự đồng nhất. Giá trị và thành đạt về nghề nghiệp, đời sống đạo đức,
dáng đi đứng, những năng lực trí tuệ, sự ham thích mạo hiểm, sức mạnh uy quyền, tất cả
đều góp phần vào việc xây dựng nhân vật lý tưởng. Nếu có thể, người cha còn mệt mới làm
được để đáp ứng những đòi hỏi đó.
Một trong những mối nguy hiểm nhỏ nhất không phải là cái việc muốn làm thiên thần
thì lại thành con vật và phô cho con trai mình hình tượng một “người cha cao quý” thuộc
loại làm kho danh mục, nhân vật này sẽ bị sụp đổ biến thành trò cười ngay khi đứa trẻ đủ
khả năng tự suy xét, nghĩa là trước khi quá trình tự đồng nhất kết thúc vai trò của nó.
Những năm gần đây đặc biệt từ 1968 người ta đã nói nhiều, viết nhiều về việc xem xét
lại uy quyền, vai trò chính của người cha. Với một số người, những phản ứng mãnh liệt thể
hiện một sự phẫn nộ hơi chậm đối với uy quyền tượng trưng bởi người cha khi mà mặc cảm
Ơ-đíp lẽ ra phải kết thúc. Với những người khác, đặc biệt là với A. Stéphane không còn là
vấn đề vượt qua những sự sợ hãi Ơ-đíp mà ngược lại là tránh mặc cảm Ơ-đíp tấn công người
cha, làm mất uy tín ông ta có nghĩa là chối bỏ hoàn toàn tự đồng nhất với người cha, có thể
không phải là gắn với ý muốn chiếm chỗ người cha mà sự loại bỏ đơn thuần chức năng làm
cha và một mưu toan tiêu diệt tận gốc cái ham muốn vô thức sẽ đến lượt “làm cha”. Kết quả
của sự tránh né mặc cảm Ơ-đíp nghĩa là tránh uy quyền người cha và sự đụng độ với uy
quyền đó, đứa trẻ có nguy cơ nhảy qua một quá trình cần thiết cho một sự trưởng thành bình
thường.
Năm 1972, G. Deleuze và F. Guattari đã có những quan điểm chống ngay cả khái niệm
mặc cảm Ơ-đíp. Với những tác giả này “phân tâm học là một sự đồi bại lớn lao, một thứ
thuốc độc, một sự cắt đứt cơ bản với thực tế, bắt đầu bằng thực tế về ham muốn, một sự ái
kỷ một sự tự tỏa quái đản. Phải tiêu diệt Ơ-đíp, hành động của cái Tôi, bóng ma Siêu
Tôi…”. Đối với họ, phải sớm trút bỏ cái chủ nghĩa gia đình của thế kỷ 19 đã áp đặt cái ách
người cha cho tất cả, đó là sự cưỡng chế của trật tự thiết lập. Phân tâm học được tưởng như
là kỹ thuật và thực hành của sự giải phóng thực ra không đóng góp gì cho việc thiết lập tự
do xã hội.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 50
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
2.2.3. Không nhận ra vai trò người cha
Một người cha bình thường, có mặt ở trong gia đình một thời gian bình thường
và quan tâm khá đầy đủ đến gia đình hiếm khi là người cha quá nhu nhược.
Trong một số trường hợp, người cha không thể thực hiện vai trò đương nhiên
dành cho mình ở trong gia đình vì ông ta không đủ khả năng. Thí dụ, nếu như quá
trình tiến triển về tình cảm của chính ông bị ngăn bởi một bà mẹ chiếm hữu hay bởi
một người cha nhu nhược thì ông ta không thể thích ứng hoàn toàn với chức năng
quyền uy. Cũng sẽ xảy ra như thế nếu bà vợ không hiểu vai trò của ông ta và muốn
thay thế ông trong nhiệm vụ đó.
Trong thực tế, thường là không nhận ra vai trò và tính chất đúng đắn của những
quan hệ giữa người cha và các con mà một người cha có nguy cơ không thực hiện một
cách đúng đắn và trọn vẹn vai trò của mình.
Thường người cha hay mắc sai lầm đối với con trai của mình. Nhiều người cha
không tự tin rằng mình buộc phải nghiêm trị lại không biết chịu đựng hung tính mà
các con trai thường có xu hướng đem chống lại ông ta ở một vài giai đoạn tiến triển
tình cảm của trẻ. Tuy thái độ của con trai hoàn toàn bình thường vì đó là phác họa
hung tính của nam giới cần phải được định hướng và tập trung lại, và cũng vì nó thể
hiện tính chất hai mặt trong những tình cảm mà con trai dành cho cha, người bảo vệ
đương nhiên, đáng sợ và đáng yêu cùng một lúc và bên cạnh mẹ, đó là đối thủ cần
phải vượt lên… Phải thừa nhận là sự tiến triển tốt về tâm lý của con trai có thể phụ
thuộc vào sự thông cảm với tính chất của những xung năng đó, thường khi rất vụng
về. Dĩ nhiên là không thể cho qua tất cả, nhưng cũng không được trừng phạt nghiêm
khắc tất cả nếu không thì phải biện minh một cách hợp lý cho cái hung tính thiếu ý
thức đó. Từ đó nảy sinh những sự bất phục tùng vô lý ở con cái, những lời nguyền rủa
trịnh trọng đôi khi hơi kỳ cục. Đang chơi bài với con trai, trong lúc hứng chí ông bố
kêu lên: “Mình thật ngu xuẩn” – “Đến bây giờ bố mới nhận ra điều đó à?”, đứa con vô
tình trả lời như vậy trước khi suy nghĩ. Chỉ cần một cái tát, không cần thêm thắt cũng
đủ để giải quyết cái hỗn xược vô ý đó. Nhưng sự kiêu căng của người cha đôi khi thúc
đẩy ông ta gán một tầm quan trọng thái quá về những phản ứng rất trẻ con không quan
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 51
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
trọng gì trong thực tế. Đôi khi cũng phải dẹp tự ái trước những câu khẳng định ngây
thơ: “Con yêu cha” một đứa bé hôn âu yếm bố nó và nói như vậy trong khi người cha
vui sướng đã làm khơi dậy được tình cảm trìu mến… “Vì cha là em của người cha đỡ
đầu con”, đứa con kết thúc như vậy vì nó luôn luôn sùng bái thật sự ông bác đỡ đầu
của nó.
Cũng không phải là không nguy hiểm khi một người cha đáp ứng thiếu dè dặt
trước những sự hăm hở nhiệt tình mà con gái của ông ta bộc lộ đối với ông. Hầu như
tất cả muốn “lấy bố” khi chúng lớn lên. Không nên dễ dãi xem thường và đùa bỡn với
mong muốn đó. Tất cả sự ứng xử tình dục của một trong những bệnh nhân của chúng
tôi đã bị sai lạc vì lúc nhỏ người cha của cô đã thấy thú vị thêu dệt những ao ước Ơ-
đíp của con gái trong nhiều năm liền; Một sự kiện có lẽ đặc biệt gây chấn thương tâm
lý cho cô; khi cô bảy tuổi rưỡi, cha cô đã thỏa thuận với một ông bạn là người bán
hàng va-li để dàn một cảnh như sau: ông bạn này khẳng định với cô bé và cô đã vui
sướng là cha cô sẽ ra đi cùng với cô mãi mãi và không có mẹ cô cùng đi. Cái ảo tưởng
này bị mất đi quá phũ phàng và những hậu quả của nó thật tai hại.
2.2.4. Hậu quả thiếu hut uy quyền người cha
Việc lạm dụng uy quyền của người cha đôi khi có thể tai hại cho con một cách
gián tiếp. Đó là trường hợp những người cha rất quan tâm đến con cái, đôi khi còn nhu
nhược với chúng nhưng lại cư xử với vợ như với người tôi tớ xoàng. Họhạ thấp hình
tượng người mẹ trước mặt con và ngăn cản mọi sự tiến triển tình cảm bình thường ở
trẻ.
Thường thường người cha lạm dụng uy quyền của mình khi trực tiếp chống lại con cái.
Có một số trường hợp chỉ là một sự bảo vệ con quá đáng. Người ta hiểu rằng một người mẹ
có xu hướng ấp ủ con trai và tránh cho chúng những khó khăn nhỏ nhặt trong đời sống hàng
ngày. Còn người cha có nhiệm vụ hàng đầu là dạy các con, nhất là với các con trai, sự ham
thích mạo hiểm. Nếu như việc của người cha là quan tâm xem những sự nguy hiểm xảy ra
sao cho tương xứng với những khả năng phản ứng của đứa trẻ, ông ta không được sử dụng
uy quyền để tiêu diệt mọi óc sáng kiến và táo bạo. Sự bảo vệ thái quá sản sinh ra tính nhút
nhát, nỗi sợ trước cuộc đời, nỗi e sợ những trách nhiệm mà sau này đứa trẻ sẽ phải chịu
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 52
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
đựng. Uy quyền của người cha phải giúp cho trẻ hiểu giá trị của tự do. Nên nhớ việc thực
tập bao giờ cũng làm hỏng một ít nguyên liệu ban đầu. Người thợ cả dạy trẻ học việc không
bao giờ làm thay nó. Một con mắt “bầm tím” hay một sự chạm tự ái đều có giá trị giáo dục
hơn hẳn những lời thuyết giáo của những người cha muốn dùng uy quyền của mình để bảo
vệ con trai thoát khỏi những khó khăn bên ngoài.
Có một số người cha làm cho các con phải khiếp sợ, một cách có ý thức hay không,
do quá lời và những biểu hiện bên ngoài của một sự áp chế che dấu vụng về, việc thiếu
quyền uy thực sự của mình. Có những người cha dễ quên những lời hò hét và những roi vọt
đối với con. Trong khi với trẻ thì lại khác, nó cho là mọi sự đều nghiêm túc và tin tất cả đều
đã dứt khoát. Từ đó nảy sinh những mối lo lắng buộc sự phát triển tâm lý của trẻ phải gánh
chịu nặng nề sau này. Trong số đó có sự ứng xử của các ông bố nghiện rượu. Vấn đề không
phải là vẽ ra một lần nữa bức tranh người cha nghiện rượu trở về nhà. Cũng có loại ảnh
hưởng của ông bố nghiện kín đáo hơn, không ồn ào, không say nhưng với kiểu cáu kỉnh và
kiểu xung động quá quen thuộc ở người nghiện rượu, ông ta trở thành đao phủ ở nhà mình,
không bao giờ bằng lòng, không ngừng thúc bách vợ con, gây giông bão và đánh đập không
tiếc tay. Trong loại này cũng phải xếp những ông bố không nghiện ngập nhưng làm quá sức
do đó hay cáu gắt, muốn đạt được sự yên tĩnh trong nhà bằng sợ hãi hoặc khiếp đảm hơn là
khi về nhà cố gắng thêm để sử dụng uy quyền một cách khéo léo hơn.
Có những trường hợp người cha bày tỏ không kiềm được sự tàn ác và thù ghét lại càng
nghiêm trọng hơn. Đôi khi chỉ là sự tàn ác và hợp đạo đức, khôn khéo và tinh tế. Một trong
những bệnh nhân của chúng tôi, lúc nhỏ mơ ước được tham gia hội hóa trang hàng năm ở
tỉnh nhưng gia đình từ chối chưa cho khi con chưa đủ 10 tuổi. Đến năm đủ 10 tuổi, em gái
này chuẩn bị trong nhiều tháng bộ hóa trang của mình và đến chính ngày hội ông bố lại đòi
hỏi một kiểu tàn ác có tính toán, cô con gái phải lau sạch tất cả các cửa kính trong nhà suốt
cả ngày và đặc biệt là những người hóa trang sẽ đi qua mà cô gái bao lâu nay lấy làm vui
sướng được nhập cuộc diễu hành với họ. Sự kiện này chỉ là một tình tiết trong một thời thơ
ấu bị dày vò một cách lạnh lùng để rồi dẫn đến một sự ứng xử nhiễu tâm sau này mà chúng
tôi không thể trình bày ở đây.
Thường cũng xảy ra những hành hạ thể xác. Mục những “trẻ em bị hành hạ” đã cung
cấp khá nhiều và cũng chỉ báo hiệu những sự hành hạ đặc biệt đáng phẫn nộ. Hàng năm ở
nước Pháp có 700 trường hợp bị buộc tội vì hung bạo, hành hạ về thể xác hoặc xúc phạm
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 53
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
đến trẻ em dưới 15 tuổi. Những đòi hỏi của một số cha mẹ thúc bách kèm theo đe dọa và
trừng phạt. Người ta phải ngạc nhiên về những đòn khủng bố con cái bằng lửa như xiên
nung đỏ, đốt trực tiếp v.v… Điều lạ lùng hơn cả có lẽ là sự hèn nhát và im lặng của hàng
xóm láng giềng khi chính điều này không phải là điều thỏa mãn đối với họ.
Uy quyền thái quá chỉ gây nên những hậu quả nghiêm trọng khi đến một ngưỡng nào
đó theo những điều kiện biểu lộ và nhất là nhân cách đứa bé là nạn nhân. Một sự giám định
gần đây cho thấy một thủ lĩnh của một băng nổi tiếng được mệnh danh là “vua vượt ngục”
lúc nhỏ đã từng là nạn nhân của một ông bố tai quái, ghen tức tình yêu thương của con trai
dành cho mẹ và em gái. Khi bà mẹ chết, ông hành hạ hai anh em bằng đủ chuyện phiền
nhiễu và đánh đập chúng. Đứa con gái chết sau mẹ một năm. Còn con trai tìm lối thoát bằng
con đường phạm pháp. Và đó là lần vượt ngục đầu tiên của nó.
Cũng có một loại ông bố làm hại con một cách vô thức đôi khi hại cả thể xác con.
Nhưng người cha này thể hiện một kiểu uy quyền cứng nhắc, ít thông cảm. Con trai thường
nhạy cảm, quá xúc cảm và không thể thoát khỏi sự giám hộ của người cha, sợ không có khả
năng để sánh với một người cha đã thành công rực rỡ trên đời.
Trước là họa sĩ, Cézanne trong thời gian dài chịu ảnh hưởng của một người cha chiếm
đoạt, không gì lay chuyển nổi, là giám đốc một ngân hàng đầu tiên ở Aix. Ông này không
thể hình dung cho con trai một nghề gì khác hơn nghề tài chính. Khi con trai tỏ ý thích hội
họa, ông bố nói ngay: “Hãy nghĩ đến tương lai – Người ta chết với tài năng nhưng người ta
sống với tiền bạc”. Nhưng thí dụ nổi bật là trường hợp nhà văn Franz Kafda một người mà
lúc nhỏ ông bố đã dọa là “xé xác như một con cá” và tác phẩm thể hiện một tình cảm tội lỗi
mang tính chất nhiễu tâm nặng nề mà ông ta dần dần nhận thức được điều đó. Người ta biết
rằng ông đã dự kiến cho tác phẩm của mình cái tên chung “Thử thoát khỏi lĩnh vực ảnh
hưởng của người cha” . Bức thư gửi người cha năm 1919 là một tư liệu xót xa (ông bạn
thân Max Brod không dám đưa trực tiếp mà chuyển cho bà mẹ Kafka và bà đã trả lại con).
Trong thư có đoạn như sau:
“Nghị lực, lòng quả quyết, sự tin cậy và niềm vui mà con cảm thấy khi tiếp xúc với việc
này việc khác không thể kéo dài khi đã bị cha chống đối hoặc chỉ là do con tưởng rằng cha
chống đối và làm cái gì con cũng nghĩ rằng cha chống đối…Trước mặt cha… con bắt đầu
ấp úng, diễn đạt lộn xộn; cuối cùng là con im lặng, trước hết có lẽ do thách thức, sau đó vì
sự có mặt của cha làm cho con không thể nào suy nghĩ cũng như nói năng được nữa… Và vì
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 54
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
cha đã là người giáo dục con thật sự nên con còn chịu ảnh hưởng của cha trên mọi lĩnh vực
và suốt đời… Trước mặt cha, con mất hết tự tin và tự giác chịu một tình cảm tội lỗi vô bờ
bến”.
2.2.5. Những thiếu hut uy quyền người cha
Uy quyền người cha là chức năng hàng đầu của người cha cũng như tình yêu thương là
chức năng hàng đầu của mẹ. Việc thiếu hụt cái này hay cái kia đều dẫn đến những hậu quả
nặng hơn là việc lạm dụng thái quá vì dù sao sự quá mức cũng nằm trong chức năng này.
Một người cha nhu nhược còn hại hơn một người mẹ nhu nhược, ngược lại người cha thiếu
tình thương ít hại hơn so với người mẹ. Sự nhu nhược của người cha hầu như luôn luôn có
nguồn gốc là sự vắng mặt ở gia đình, vắng thực hoặc vắng giả.
Vắng thực sự
Việc vắng mặt kéo dài có thể do nguyên nhân người cha chết, bị tù đày, hoặc phải cách
ly do bệnh tật (phải điều trị ở nhà điều dưỡng vì lao hay bị giữ vì bệnh tâm thần). Những
khó khăn về mặt vật chất sau khi người cha vắng mặt ở gia đình cũng có tác động dội lại về
mặt tâm lý. Khi đó, nguyên tắc uy quyền đối với trẻ không còn là sự nâng đỡ bình thường vì
người mẹ phải đảm nhiệm thay và vai trò này chỉ là thứ yếu đối với bà mẹ. Trường hợp mất
cha, người con bị thiệt thòi vì thiếu những cắm chốt cần thiết liên tiếp nhau: người con trai
phải bám vào mẹ và có nguy cơ thiếu nam tính vì hình ảnh của người đã khuất không thể
thay thế người cha bằng xương bằng thịt. Sự cắm chốt đầu tiên của con gái đối với người
cha cũng không thể thực hiện được. Sau này lớn lên cô gái tự đồng nhất với mẹ, nhìn nhận
người mẹ không chỉ là mẹ mình mà còn là người vợ có những đứa con của người đàn ông
mà mình yêu quý. Sự vắng mặt của người cha làm cho việc này khó hình dung. Sau chiến
tranh, kinh nghiệm của những người tù binh chiến tranh trở về nhà đã cho phép nhận rõ sự
tai hại của việc thiếu uy quyền người cha. Nó là điều kiện sản sinh ra nhiều chuyện đồi bại
do bản năng. Phần nhiều nó dẫn đến việc kém thích ứng xã hội thể hiện hoặc là không có
khả năng lập gia đình một cách đúng đắn nhất là không duy trì được tổ ấm hoặc là nảy sinh
hàng loạt các kiểu phạm pháp ở vị thành niên và sau đó là ở người lớn.
Một số người cha vắng mặt trong thời gian dài nhưng có chu kỳ do nghề nghiệpđòi hỏi
như các thủy thủ và những người làm thương mại. Việc trở về nhà có định kỳ cho phép giải
quyết những xung đột quan trọng và những khó khăn chính, đề ra những chỉ dẫn để thực
hiện khi vắng nhà thời gian tới. Tính chất khác thường và có phần trịnh trọng của cách làm
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 55
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
đó có thể củng cố thêm uy tín và ảnh hưởng của người cha ngay cả khi ông ta vắng nhà.
Nhưng người ta cũng e rằng người mẹ phải đảm đương vai trò người cha, khó có thể hoàn
thành tốt đẹp một nhiệm vụ không phải của mình. Từ đó nảy sinh những xung đột về uy
quyền không tránh khỏi mỗi khi người cha trở về, những xung đột này có hại gấp đôi vì
chúng phá vỡ uy quyền bề ngoài mà bà mẹ đã xây dựng và vì đứa trẻ mất hết lòng tin ở uy
quyền của cha mẹ khi cha mẹ có những ý kiến trái ngược nhau và trẻ có thể lợi dụng chỗ bất
đồng đó để khôn khéo thoát ra tình trạng khó xử như chúng ta đã từng thấy.
Ngoài ra, khi sự vắng mặt của người cha kéo dài khá lâu, người con trai cảm thấy mẹ
là của nó tất cả, không có đối thủ, mỗi khi người cha trở về, nó sẽ cảm thấy mẹ nó phản bội
lại nó khi bộc lộ tình cảm yêu thương đối với chồng. Nó coi như cha nó đã tiếm vị không
khác gì tình trạng bố dượng.
Sự “vắng mặt giả”:
Người cha bận công việc quá nhiều thường về nhà mệt nhoài, hay cáu kỉnh, thúc bách
các con để khỏi bị quấy nhiễu. Ngược lại có những người cha muốn yên ổn đã chấp nhận sự
đầu hàng trước mọi chuyện, tìm cách trốn tránh không thèm nghe những lời kêu ca chính
đáng của người vợ liên quan đến cách cư xử của các con, lấy cớ là mình không muốn bị coi
là người tra tấn.
Có những người cha sống trong gia đình nhưng lại “đào ngũ” khỏi gia đình. Trong
những trường hợp kể trên, tuy sự có mặt của người cha trong gia đình rất ít và không liên
tục còn quan tâm đến con cái thì dù bị ngắt quãng hay không khớp nhưng vẫn có thực.
Ngược lại, sự đào ngũ ngay tại nhà, trong thời bình thật khó tha thứ so với những cảnh bỏ
nhà như chúng tôi đã nói ở phần nghiên cứu các gia đình ly tán vì ở đây hoàn cảnh chỉ do
thói ích kỷ của người cha. Cố tình thờ ơ với những gì có thể quấy nhiễu đến những thói
quen và gây trở ngại cho những chứng tật của mình, khi ở nhà, người cha sa đà vào những
công việc mình thích như sưu tập, đọc sách, nghe đài, hì hục sửa chữa cái này cái khác mà
không hề quan tâm đến số phận những người thân và những vấn đề của họ.
Chủ yếu hội chứng thiếu hụt uy quyền có thể dẫn đến sơ đồ quen thuộc của một bộ ba
triệu chứng:
- Nhu nhược và không vững chắc của một nhân cách được tập hợp sai lạc.
- Cô độc về tình cảm, không có khả năng gắn bó và thâm nhập sâu sắc, lâu bền.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 56
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
- Thiếu an toàn hay đúng hơn là không an toàn, đặc biệt dễ đi đến tự tử – ít ra là chấp
nhận khả năng có thể xảy ra – trước những sự cưỡng chế nhỏ nhặt hoặc những khó khăn của
đời sống.
Thực tế, người ta cũng chẳng ngạc nhiên để thấy ở đây, tuy dưới dạng hơi khác, điều
mà theo chúng tôi là nét cơ bản của sự thiếu hụt tình cảm lâu dài ở trẻ thơ: cá nhân không có
khả năng thiết lập những quan hệ xã hội bình thường. Gia đình là một xã hội thu nhỏ, thông
thường một sự nhiễu loạn trong đời sống gia đình sẽ phóng chiếu những hậu quả của nó vào
đời sống xã hội mai sau của đứa trẻ.
2.2.6. Những trẻ bé và những người khác
Những người khác ở đây có thể là những nhân vật thực trong đời sống của trẻ như
chính cha mẹ của chúng nhưng cũng có thể là những nhân vật mà chúng hóa thân từ việc
đồng nhất với cha mẹ của chúng, những xung năng tác động lớn đối với chúng như xung
năng bản năng, xung năng yêu đương, ăn uống (bú )...
Vào khoảng cuối chín tháng, đứa trẻ thiết lập được mối quan hệ tốt đối với một
nhân tố bên ngoài, và đó là việc nó nhận ai là mẹ nó. Như vậy có thể hiểu đối tượng
có ảnh hưởng lớn nhất và quan trọng nhất đối với trẻ đó chính là bà mẹ. Trong thời kì
trẻ chào đời bà mẹ chính là những nhà chuyên môn, chính họ là người tìm thấy đứa bé
và cho phép đứa bé tìm thấy họ. Và lúc này ngay cả Bác sĩ có chuyên môn hay một y
tá cừ khôi cũng chỉ đứng ở vai trò là những người phụ tá. Chính mối quan hệ giữa trẻ
và mẹ giúp thiết lập nền móng tinh thần cho trẻ nếu như chúng có được loại kinh
nghiệm mà mẹ chúng đã cố gắng tạo dựng cho chúng.
Bà mẹ thích nghi tính tích cực trong cuộc sống một cách phong phú, cung cấp
cho trẻ một cơ sở để tiếp xúc với thế giới, làm giàu thêm mối quan hệ của trẻ với thế
giới. Mối quan hệ ban đầu này của trẻ ( mối quan hệ với bà mẹ ) có ý nghĩa rất quan
trọng đối với sự phát triển của trẻ, đó là những kinh nghiệm bản năng trẻ học được và
những ý nghĩ kích thích được phép có.
M ố i quan h ệ anh ch ị em trong gia đình
Khái niệm:
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 57
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
- Là những người sống cùng một thê hệ trong gia đình, là mối quan hê huyết
thống hoặc con nuôi, bị ràng buộc bởi các chuẩn mực gia đình
- Là mối quan hệ của hai hay nhiều người cùng một thê hệ được xây dựng trên
cơ sở tình thương yêu gắn bó và sự ganh đua lẫn nhau
Đặc điểm:
- Tính tương đối bình đẳng trong giao tiếp
- Tình thương yêu gắn bó với nhau
- Sự ganh đua
- Cùng ảnh hưởng bởi đặc trưngvăn hóa gia đình
Vai trò của anh chị em trong gia đình:
• Tác dụng xã hội hóa lẫn nhau
• Phát triển phẩm chất tâm lý
• Cân bằng mối quan hệ trong hệ thống gia đình
• Tham gia vào sản xuất kinh tế
• Phát huy tính bền vững của gia đình
Các đặc trưng tâm lý của anh chị em trong gia đình:
Giới tính của anh chị em
- Toàn anh em trai:
• Biểu hiện nam tính rất mạnh
• Tinh thần bảo vệ nhau rất cao, đặc biệt đối với sự đe dọa từ bên ngoài
• Thường kích động, dễ a dua lôi cuốn
• Tính ganh đua cao, dễ xảy ra xung đột
• Gặp khó khăn khi giao tiếp với người khác giới, bạn gái
• Có thể có một người em biểu hiện nữ tính
- Toàn chị em gái:
• Biểu hiện nữ tính mạnh
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 58
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
• Chị cả bên ngoài nhỏ nhẹ, nhưng bên trong có phẩm chất tâm lý mạnh, liều
lĩnh
• Hay cãi nhau, ghen tị ngấm ngầm
• Khó khăn khi tiếp xúc với người khác giới
• Chị cả thường lấy chồng muộn
- Anh trai cả và một vài em gái:
• Anh trai có tính trách nhiệm cao, bảo ban em gái
• Thường quán xuyến mọi việc trong gia đình
• Rất dễ tự ái
• Đóng vai trò như một người cha, tính gia trưởng
• Em gái bề ngoài thì sợ, nhưng trong suy nghĩ thì không sợ
• Anh thường tự mãn, vì cho mình là chủ gia đình
2.3. Hiểu thế nào là trẻ bình thường
Theo Winnicott: “Bình thường ở đây không có nghĩa là bình thường về thể lý
bởi vì thể lý thì có những tiêu chuẩn khoa học để xem xét mức độ thế nào là bình
thường. Và bình thường về thể lý khác rất xa với bình thường về mặt nhân cách. Và
một “trẻ bình thường” được hiểu ở đây là một trẻ phát triển bình thường về nhân
cách”. Chúng ta có thể quy chiếu vào hành vi và so sánh một trẻ với những trẻ khác
cùng tuổi. Một trẻ bình thường là trẻ có khả năng sử dụng bất cứ phương tiện nào do
thiên nhiên cung cấp để tự phòng vệ với lo hãi và một sự xung đột không chịu nổi
hoặc tất cả. Các phương tiện sử dụng có liên quan với sự giúp đỡ sẵn có. Những đứa
trẻ bình thường nó biết đòi hỏi thức ăn khi đói, hoặc thể hiện nhu cầu gì đó ở trong độ
tuổi cho phép chúng có thể làm như vậy. Một trẻ phát triển bình thường trong xã hội
này nhưng có thể không bình thường trong xã hội khác khi ta xem xét góc độ về văn
hóa. Sự bất thường được biểu hiện trong một “sự hạn chế và một sự cứng nhắc” tương
đối trong khả năng của trẻ sử dụng các triệu chứng và sự thiếu vắng tương đối của
quan hệ giữa các triệu chứng và sự giúp đỡ có thể chờ đợi.
Nhìn từ góc độ tâm lý học, trẻ em là những con người chưa phát triển hoàn
thiện về mặt tâm lý, sinh lý và chưa trưởng thành về mặt xã hội. Theo cách hiểu này,
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 59
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
trẻ em cần được dạy dỗ, giáo dục từ phía gia đình và nhà trường để trở thành những
con người như xã hội đương thời mong muốn.
Trong quá trình giáo dục trẻ, cùng với sự tăng dần theo năm tháng, phần lớn các
cha mẹ không chờ đợi, không ưa thích một số nét tính cách sau ở con mình, như:
Không vâng lời, bướng bỉnh khó bảo, cãi cọ, nghịch nghợm, nói dối, tắt mắt, lười học,
ích kỷ. Ngoài ra, có một số nét tính cách khác như: ỷ lại, cầu thả, hèn, khôn lỏi,
nhút nhát, chậm chạp cũng không được một số cha mẹ hoan nghênh. Nếu một đứa trẻ
có một số nhược điểm như kể trên, có thể gọi là trẻ chưa ngoan. Thực chất, trẻ chưa
ngoan là những trẻ khó bảo, chưa biết nghe và làm theo lời cha mẹ. Nhìn chung, đó là
những đứa trẻ chưa làm cho người lớn hài lòng, vì không vâng lời người lớn.
Lý giải về nguyên nhân chưa ngoan của trẻ, hầu hết các ông bố, bà mẹ (làm nông
ở Hà Bắc) cho rằng: "Nhược điểm của trẻ là do trẻ khi còn bé chưa hiểu gì nên ai
dạy gì, bảo gì thì nó bắt chước nấy"; hoặc, "Đó là do sự giáo dục của cha mẹ"; cũng
có người nói rằng "Đó là cái bản chất rất tự nhiên ở mỗi đứa trẻ, vì thế trẻ cần có sự
giáo dục của người lớn"!
Xem xét những nguyên nhân làm cho trẻ trở thành hư, đa số kết quả điều tra đều
tập chung vào lỗi của cha mẹ trẻ - những người vì các khả năng và điều kiện khác
nhau đã không dạy dỗ được trẻ "nên người". Sau đây là các nguyên nhân chính, mà
những người được điều tra thường gặp thấy trong cuộc sống:
Bố mẹ bất hoà, cãi vã, đánh chửi nhau: 58,1%
Bố mẹ ly dị, ly thân: 51,6%.
Bố mẹ mải làm ăn, không có thời giờ dạy con: 48,4%.
Bố mẹ không quan tâm, coi trọng việc giáo dục con: 45,2%.
Bố mẹ quá nuông chiều con: 35,4%.
Bố mẹ làm ăn bất chính, nghiện hút, cờ bạc..: 32,2%.
Gia đình quá nghèo: 17,4%.
Bố hoặc mẹ mất: 8,7%.
Ngoài những nguyên nhân từ sự thiếu quan tâm dạy dỗ, hoặc từ cuộc sống
không mẫu mực của cha mẹ, kết quả điều tra còn chỉ ra nguyên nhân từ phía xã hội.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 60
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Đó là: Trẻ bị bạn bè xấu lôi kéo :54,8% và Ảnh hưởng của sách báo, phim ảnh
không lành mạnh : 29%.
Thực tế cho thấy, phần lớn những đứa trẻ được đánh giá là có tư cách, đạo
đức tốt; có khả năng thành đạt trong xã hội đều xuất phát từ trong những gia đình có
sự phối hợp thống nhất giữa cha - mẹ trong giáo dục con và có sự thăng bằng về tình
yêu thương trong mối quan hệ cha - mẹ - con. Xét từ góc độ tâm lý gia đình, những
cha mẹ ly dị, ly thân; cha mẹ sống bất hoà, đánh chửi nhau; cha mẹ không quan tâm,
giáo dục con cái một cách nghiêm túc; cha mẹ sống không tôn trọng chuẩn mực xã
hội.v.v...đều là những nguyên nhân làm trẻ bị tổn thương tình cảm, dẫn đến có ý muốn
chống đối gia đình và xã hội. Không ít trong số những trẻ được gọi là hư hỏng, vì
chúng đã học được cách ứng xử lạnh cảm và ích kỷ; chúng đứng giữa bố mẹ để đòi
hỏi và lợi dụng; chúng sống theo ham muốn của bản thân... để trả thù những thái độ
ứng xử thất thường của cha mẹ, những mất mát tình cảm mà người lớn đã vô tình lấy
đi của chúng.
" Một đứa trẻ ngoan trở thành hư thì rất dễ. Vì, chỉ cần sự lơi là quan tâm của
cha mẹ tới trẻ là được. Nhưng làm thế nào để biến một đứa trẻ hư trở thành trẻ ngoan
là cả một vấn đề lớn. Nhân cách của đứa trẻ được tạo nên là do sự dạy dỗ của gia đình.
Chính vì vậy muốn cho đứa trẻ hư trẻ thành trẻ ngoan, thì việc dạy dỗ của cha mẹ là
một điều quan trọng. Đó là thái độ của cha mẹ đối với con và có biện pháp đúng đắn
để giáo dục con mình, nhất là khi nó đã trở thành một đứa trẻ hư. Các bậc cha mệ
hãy luôn quan tâm và yêu quý trẻ. Chỉ bảo cho chúng việc nào là đúng, việc nàp là sai,
nên làm gì và không nên làm gì. Từ đó tạo cho trẻ có thói quen cho mỗi hành động
của mình. Hãy luôn vỗ về an ủi trẻ, cho trẻ biết rằng mình rất yêu quý nó. Nhưng
không nên nhầm lẫn với sự nuông chiều thái quá. Hãy sắp xếp thời gian học tập cho
trẻ, để tăng thêm sự hiểu biết và khả năng nhận thức của trẻ. Cha mẹ cố gắng hiểu
con mình và đánh gíá đúng về con mình. Nếu trẻ làm sai phải chỉ bảo, giảng giải.
Ngược lại, nếu trẻ đạt thành tích phải biết khen thưởng, khuyến khích. Mắng chửi và
đánh đập trẻ không phải là biện pháp tốt nhất để dạy trẻ hư. Cha mẹ cần phải tôn trọng
con cái, kể cả khi nó đang là một đứa trẻ hư. Tóm lại, cha mẹ muốn on cái trở nên
tốt, hãy là một người bạn tốt của trẻ ".
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 61
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
2.4. Phân loại theo thứ tự sinh trong gia đình:
2.4.1. Con cả
- Bị đặt kỳ vọng quá nhiều
- Được chăm sóc quá kỹ và thiếu ổn định
- Nhiều người quan tâm
- Được cho quá nhiều và cũng bị lấy đi quá nhiều (khi có em).
- Phải nhường nhịn, hy sinh
• Ghen ti với các em, ghen ngấm ngầm
• Khi có em mà gia đình không biết cách chăm sóc sẽ có thể:
+ rối loạn cảm xúc
+ mặc cảm do thiếu tình thương
+ mức độ nhẹ: bực dọc, cãi lãi ,ưu mì, chịu chấp nhận
+ mức độ nặng: đập phá đồ vật hoặc chọc ghẹo em gây sư chú ý,hay khóc to, la
to.
+ mức rất nặng: nhiễu tâm, ước em chết, hành vi ác với em.
Đứa con cả hầu hết thườn được nhận một phần nhiều sự quan tâm, và trong
thời gian mà nó là đứa con duy nhất, thường thì đứa con này được nuông chiều như là
trung tâm của sự chú ý. Nó thường có thể tin cậy được và chăm chỉ và phấn đấu để
tiến tới trước. Khi một người em trai hoặc em gái mới ra đời, đứa con này sẽ nhận ra
rằng mình đã bị đuổi khỏi vị trí đặc biệt của mình. Nó không còn là độc nhất hoặc đặc
biệt. Nó có thể dễ dàng tin rằng kẻ mới đến (hoặc kẻ xâm pha) sẽ chiếm mất tình yêu
mà nó đã quen với.
2.4.2. Con thứ
• Lúc nhỏ tâm lý cân bằng do:
+ cha mẹ đã có kinh nghiệm chăm sóc con cả
+ cha mẹ không có nhiều thời gian để can thiệp vào mọi chuyện của trẻ
• Con thư khôn khéo hơn, xoay sơ tốt hơn do:
+ trên là anh/chị, dưới là em
+ tâm lý cân bằng
• Lôi kéo cha mẹ bằng tình cảm
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 62
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
• Sử dụng kỹ năng mềm trong cạnh tranh hơn sức mạnh
• Ganh ti với con cả khi con cả thành đạt
• Thể hiện sự thù ghét ngầm khi con cả thành đạt
• Nếu thành đạt thì thường thành đạt ở lĩnh vực thiếu hụt của con cả để gây chú
ý
• Con thứ thường cô gắng ngầm và ý chí ngầm nhưng mạnh mẽ
• Trong thực tế con thứ có nhiều thành đạt so với con cả
• Con cả thường thành đạt ở góc độ khoa học, kỹ thuật, nghiên cứu;con Thứ
thành đạt ở góc độ quyền lực.
• Trong gia đình giáo dục không tốt, con thứ có thể là thành phần chống đối
ngầm, trung tâm gây mất đoàn kết cả gia đình
Đứa con thứ hai của chỉ 2 đúa con nằm trong một vị trí khác. Từ khi được sinh
ra, nó đã phải chia sẻ sự quan tâm với một đứa trẻ khác. Một đứa con thứ hai thông
thường hành động như thể nó đang trong một cuộc đưa và dần dần phải đua hết tốc
lực mọi lúc. Như thế rằng đứa con thứ hai đang được rèn luyện để vượt qua anh/ chị
lớn của mình. Cuộc tranh đấu giữa hai đứa con đầu ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
Đứa con nhỏ hơn thường phát triển thói quen tìm kiếm những điểm yếu của đứa lớn
hơn và dần dần đạt được sự khen thường từ cả cha mẹ và thầy cô bằng cách đạt được
những thành công mà đứa con lớn hơn đã thất bại. Nếu một đứa có tài năng trong một
lĩnh vực, thì đứa con lại sẽ phấn đấu để được công nhận bằng cách phát triển những kỹ
năng khác. Đứa con thứ hai thường đối lập lại với đứa con đầu.
2.4.3. Con út (có 3 con trở lên)
• Được nuông chiều
• Ít dùng uy quyền trong giáo dục
• Trong gia đình khoảng cách sinh thấp, thường bị anh chi bắt nạt, chọc ghẹo
• Trong gia đình khoảng cách sinh cao, anh chị cả bảo vệ, che chở
• Tâm lý yếu đuối, dựa dẫm, ỉ lại, thích được chiều
• Nêu trong gia đình mà các anh chị đã có gia đình hoặc trong gia đình toàn chị
gái thì con út lại như con cả.
• Con con út sinh sau các anh chị trên 5 năm dễ trở thành con một, vì không có
ganh đua
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 63
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
• Chỉ số khôn của con út thường hạn chế (do mẹ sinh khi tuổi đã lớn)
• Con út thường cân cù hơn sáng tạo (cha mẹ thường chia gia tài cho con út
nhiều hơn)
Đứa con út luôn luôn là em bé của gia đình và thường là đứa được nuông chiều
nhất. Đứa con này có một vai trò đặc biệt, đối với tất cả những đứa con trước.
2.4.4. Anh em sinh đôi
Sinh đôi cùng trứng:
• Về sinh học hai trẻ này giống nhau
• Tính cách, sở thích, thói quen khá giống nhau
• Sự ganh đua giữa hai trẻ nay rất cao
• Rất bảo về nhau khi gặp nguy hiểm
Sinh đôi khác trứng có hai giới:
• Đặc trưng giới bồc lộ rất rõ
• Khả năng thích ứng với cuộc sống cao
• Trẻ gái rất yêu thương anh/em trai
• Trẻ trai hung tính, ngay cả với chị, em gái
• Biểu hiện trong thời kỳ ơdip không rõ như chị e bình thường
• Sinh đôi tạo sự phát triển hoàn hảo về giới tính 2 đứa trẻ và là điều kiện tốt cho
phát triển nhân cách
2.4.5. Con một
• Được chăm sóc, nuông chiều thái quá
• Được bảo về quá mức
• Không có ai để đối chiếu các phản ứng tâm lý
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 64
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
• Sự tự ý thức bản thân rất cao (cho mình là của quý)
• Thường nhắm vào bản thân để gây áp lực với người khác
• Khó khăn khi tiếp xúc với bạn bè
• Nhưng khi đã biết cách hòa nhập xã hội thì rất thích
• Con một ít có tinh thần cộng đồng
• Hay đặt lợi ích cá nhân lên trên người khác
• Thích chỉ huy
• Quá keo kiệt hay qua rộng rãi để lôi kéo sự tuân phục
Đứa con một có một vấn dề riêng của bản thân mình. Mặc dù nó chia sẻ một số
đặc điểm chung của đứa con cả (ví dụ, mong muốn thành đạt cao), nó có thể không
học được cách chia sẻ và hợp tác với những đứa trẻ khác. Nó sẽ học để đối mặt với
người lớn rất tốt, khi họ tạo nên thế giới gia đình ban đầu của nó. Thường thì, đứa con
một sẽ được cưng chiều bởi cha mẹ mình và có thể trở nên phụ thuộc vào một hoặc cả
hai cha mẹ. Nó có thể mong muốn được là trung tấm suốt, và nếu vị trí của nó bị thử
thách, nó sẽ cảm thấy không công bằng.
Thứ tự sinh và cách diễn giải vị trí của một người trong gia đình có một ảnh
hưởng lớn tới cách mà người lớn tương tác với thế giới. Mỗi cá nhân đạt được một
phong cách đặc biệt liên quan tới người khác thời thơ ấu và hình thành một hình ảnh
rõ ràng về bản thân mình mà họ đem theo vào những mối liên hệ khi lớn. Trong liệu
pháp Adler, khi làm việc với năng động gia đình, đặc biệt là những mối quan hệ giữa
anh chị em ruột, hãy đưa ra một vai trò chính. Mặc dù việc tránh định khuôn những
cá nhân là quan trọng, nhưng nó vẫn giúp hiểu một số đặc tính nhân cách bắt đầu từ
thời thơ ấu là một kết quả của việc tranh đua giũa anh chị em ruột gây ảnh hưởng đến
cá nhân cả cuộc đời.
Theo Winnicott: “Con một thường tỏ ra khôn sớm: đứa trẻ trong gia đình chỉ có
một con thường có cơ hội được giao tiếp nhiều với bố mẹ, được bố mẹ yêu thương
cưng chiều bởi vì xung quanh trẻ không có anh chị em để tranh giành sự yêu thương.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 65
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Do có cơ hội được tiếp xúc nhiều với những người lớn trong gia đình trẻ thường có xu
hướng tiếp thu rất nhanh những câu chuyện lời nói của cha mẹ có những kinh nghiệm
gián tiếp nên chúng học hỏi được nhiều hơn và thường tỏ ra khôn sớm hơn”.
Bố mẹ dồn sức tập trung về các mặt cho con. Con cái giống như phương tiện để
thực hiện tiếp những ước mơ… dang dở của cha mẹ. Cho nên đứa trẻ được trang bị
những gì mà cha mẹ cảm thấy tốt nhất, tạo điều kiện để trẻ phát huy năng lực của
mình. Đặt lên vai đứa trẻ những trọng trách nặng nề trong việc thể hiện những ước
vọng mà cha mẹ đã không thực hiện nổi thời trai trẻ. Hoặc xem đó là “ kho tàng” của
mình, lúc nhỏ thì chiều chuộng, và khi trẻ lớn lên, có khi còn đi đến thái độ tôn thờ,
nếu trẻ thành công trong việc học. Vì thế, trẻ con một thường rất dễ rơi vào tình trạng
“ đòi gì được nấy”. Đây chính là một trong những yếu tố dẫn trẻ đến tình trạng hư
hỏng. Nếu sống trong gia đình mà cha mẹ có định hướng tốt thì những trẻ này sẽ phát
triển đầy đủ và toàn diện nhất. Còn ngược lại trẻ sinh trong gia đình mà cha mẹ có
định hướng giáo dục không đúng đắn như nuông chiều quá mức, trẻ muốn gì được nấy
thì sau này trẻ có xu hướng không xem ai ra gì, tôi đây là nhất.
Đứa trẻ sẽ nhận tình thương của cha mẹ một cách đầy đủ nhất
Những đứa trẻ con một thường được mọi người trong gia đình dành sự yêu
thương chăm sóc một cách tốt nhất để bù đắp việc trẻ không có anh chị em bên cạnh
hoặc cha mẹ rút kinh nghiệm sự thiếu thốn tình cảm trong thời quá khứ của mình nên
cố gắng làm những điều gì tốt nhất có thể cho con.
Thiếu bạn chơi và không có trải nghiệm trong quan hệ với anh chị em của trẻ:
Những đứa trẻ này lớn lên trong sự bảo bọc của cha mẹ, nên mất hẳn cơ hội học tập
những kỹ năng sinh tồn quan trọng như: chấp nhận, thích nghi, xử lý tình huống, hòa
giải, dàn xếp, linh hoạt, kiềm chế v.v… Trẻ chỉ biết đòi hỏi, sống lắt léo, nịnh bợ để
đạt được yêu sách. Trẻ lớn lên với ý thức trong đầu “tôi là cái rốn của vũ trụ” nên sẽ
chẳng coi ai ra gì.
Thiếu kinh nghiệm trong việc nhận ra sự đe dọa của một đứa trẻ khác bởi vì nó
được bảo bọc trong mối quan hệ an toàn với ba mẹ. Những đứa trẻ sống trong gia đình
có nhiều anh chị em thì không ít thì nhiều trẻ có cơ hội va chạm thông qua cuộc sống
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 66
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
hằng ngày như chơi trò chơi, tranh cãi với nhau… để phát triển kỹ năng xã hội của
mình. Trong khi những đứa trẻ con một lại không có được cơ hội như vậy, chúng làm
gì cũng được ba mẹ quan tâm, lo lắng, sợ con làm không được. Dần dần những đứa trẻ
này sẽ bị tiêu nhiễm vào trong ý thức của mình khả năng không thể làm việc gì đó làm
chúng mất dần sự tự lập và bị lệ thuộc hoàn toàn vào ba mẹ trong cuộc sống hàng
ngày.
Không thể đóng được các vai trò khác nhau điều cần thiết để chuẩn bị cho cuộc
sống khi tham gia vào những nhóm quan trọng hơn. Trẻ con một thường được ba mẹ
bảo bọc kỹ lưỡng, đối với những gia đình khá giả con cái hầu như bị hạn chế tiếp xúc
bên ngoài nên cơ hội chơi với bạn bè rất hạn chế làm cho trẻ thiếu khả năng sắm vai
thông qua các trò chơi với nhóm bạn. Những nhóm nhỏ làm nền tảng cho có quan hệ
xã hội sau này
Khó khăn trong việc tiếp xúc với các bạn đồng trang lứa một cách vô tư, trẻ có
xu hướng luôn đi tìm kiếm một mối quan hệ “ổn định”. Do đặc tính được che chở bởi
cha mẹ ngay từ nhỏ, trẻ không được trang bị sự tự lập cũng như sự mạnh mẽ để có thể
đương đầu với các khó khăn trong cuộc sống. Trẻ thường có xu hướng đi tìm kiếm
những mối quan hệ có thể thỏa mãn để đảm bảo cho sự an toàn được định hình ngay
từ nhỏ.
2.4.6. Con nuôi
• Ảnh hưởng lẫn nhau của anh chị em phụ thuộc vào ứng xữ của cha mẹ, đặc biệt
là tính công bằng.
• Trong gia đình không công bằng thì con nuôi có mặc cảm tự ti và chán nản.
• Nếu trong gia đình có các con ruột, thì con nuôi tư chối các tiếp xúc xã hội.
• Khi lớn ý thức về thân phận của mình rất mạnh
• Tìm chổ dựa ngoài gia đình
• Tính tư lập rất cao
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 67
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Những đứa trẻ sinh đôi có ngoại hình giống hệt nhau nhưng không khó để phân
biệt chúng bởi chúng có những nhân cách khác nhau, chúng không muốn bị mọi người
coi là giống nhau và luôn luôn muốn khẳng định sự “độc lập” của mình.
Những đứa trẻ sinh đôi chúng luôn có anh chị em để đương đầu vì vậy chúng
không hề có sự quyết tâm chấp nhận sự cộng thêm vào gia đình.
Trong việc dạy trẻ sinh đôi, điều rắc rối nhất là việc dạy làm sao để trẻ có thể
nhận ra được bản sắc của chúng trong mối quan hệ tưởng chừng như đồng nhất. Một
điều quan trọng cần được hiểu về việc chăm sóc trẻ sinh đôi đó là chúng là những cá
thể khác nhau. Cho dù trẻ sinh đôi nhà bạn giống hệt nhau thì bạn không nên so sánh
chúng với nhau. Mỗi đứa trẻ có điểm mạnh và điểm yếu, có sở thích và sở ghét riêng.
Bạn cần khuyến khích những khác biệt của trẻ sinh đôi để giảm đến mức tối thiểu sự
cạnh tranh và so sánh.
Không giống như những trường hợp trẻ có hoàn cảnh đặc biệt được bố trí nuôi
dưỡng (foster care) tạm thời hoặc dài hạn ở những cơ sở nuôi dưỡng trẻ, việc nhận
con nuôi là một tình trạng hoàn toàn khác. Nhận con nuôi là một tình trạng được
quy định bởi pháp luật và đòi hỏi có những cam kết đặc biệt. Nhận con nuôi là việc
bố trí một đứa trẻ, theo những nguyên tắc luật định, vào một môi trường sống
thường xuyên với bố mẹ nuôi (một người hoặc một cặp vợ chồng) không phải bố
mẹ ruột của trẻ. Trong quá trình chuyển giao này, quyền nuôi con của bố mẹ ruột
thường phải được chấm dứt hẳn. Cha mẹ nuôi khi đó phải đảm nhận đầy đủ các
trách nhiệm đối với đứa trẻ trước pháp luật. Và đứa trẻ sẽ hưởng đủ những quyền
lợi như một người con được sinh ra bởi cha mẹ nuôi.
Việc nhận con nuôi có nghĩa là mối liên hệ giữa cha mẹ nuôi và trẻ có tính
quy định bởi pháp luật và điều này được ràng buộc cho cả hai phía chứ không đơn
thuần chỉ để tạo thuận tiện. Sẽ là phạm tội nếu người nhận nuôi trẻ sau đó ruồng bỏ
trẻ. Luật cũng quy định việc cha mẹ nuôi phải thực hiện những quyết định một cách
nghiêm túc về những việc có ảnh hưởng đến số phận của trẻ, kể cả việc chọn
trường, chọn tôn giáo cho trẻ đến phương pháp giáo dục và kỷ luật đối với trẻ...
Những người nhận nuôi trẻ tạm thời hoặc ngẫu nhiên thì không có cùng những
trách nhiệm luật định như vậy.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 68
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Nói chung, nhận con nuôi là một việc có liên quan đến rất nhiều thủ tục giấy
tờ, cần đến sự hỗ trợ của luật sư, nhân viên xã hội và thẩm quyền quyết định của
tòa. Nhận con nuôi là một tình trạng sắp xếp đứa trẻ sống chung với cha mẹ nuôi
một cách dài hạn giống như mối quan hệ cha mẹ và con cái ruột thịt vậy. Đối với
phần lớn gia đình nhận con nuôi, đây thường là một việc dựa trên tình yêu thương
và khát khao làm phong phú đời sống gia đình của họ, vì thế đời sống của đứa trẻ sẽ
trở thành một phần của gia đình đó.
Có nhiều lý do khiến người ta nhận con nuôi. Những bà mẹ cho đứa con ruột
của mình để người khác nhận nuôi phần đông thường là những bà mẹ đơn thân. Một
số trường hợp, trẻ có đủ bố mẹ, nhưng vẫn được cho làm con nuôi chủ yếu là do
những khó khăn về tài chính không thể nuôi đứa trẻ đó hoặc phải nuôi quá nhiều
con. Một phụ nữ trẻ cũng có thể xem xét việc cho con mình khi biết mình mang thai
với một người không có quan hệ tình cảm chắc chắn, hoặc bản thân người phụ nữ
ấy không sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm làm mẹ đơn thân. Một số thấy mình còn
quá trẻ, chưa sẵn lòng cho việc nuôi con. Trong những trường hợp như thế, người
mẹ có thể nhận thấy cách tốt nhất là tìm cách cho con mình để người khác nhận
nuôi.
Một số tình huống khác có thể xảy ra là khi người mẹ ruột vì lý do gì đó đã bị
chấm dứt quyền nuôi con bời pháp luật, ví dụ: do bà mẹ có những hành vi thiếu
trách nhiệm, hoặc ngược đãi đứa trẻ, lạm dụng ma túy hoặc một số tình huống khác
gây tổn hại cho đời sống đứa trẻ. Nếu người mẹ không chứng minh khả năng cũng
như sự sẵn lòng thay đổi những hành vi hiện có (ví dụ: không bỏ ma túy hoặc vẫn
tiếp tục hành hạ đứa trẻ), quyền nuôi con có thể bị chấm dứt bởi pháp luật và đứa
trẻ có thể được bố trí vào các cơ sở nuôi dưỡng trẻ hoặc bố trí được nhận nuôi bởi
một gia đình khác. Cách thức làm việc này có thể khác nhau ở các quốc gia và các
nền văn hóa khác nhau.
Về phần gia đình nhận con nuôi thì cũng có nhiều lý do khác nhau để họ có
quyết định này, và quá trình thực hiện cũng có thể diễn ra theo nhiều hướng khác
nhau một khi nó đã bắt đầu. Trong mọi trường hợp, có thể sẽ xuất hiện các chủ đề
cần được nhận diện và giải quyết kể từ lúc nhận đứa trẻ vào gia đình cho đến khi cả
hệ thống gia đình trở nên hài hòa. Tuy nhiên, với sự hướng dẫn, hỗ trợ, với nguyện
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 69
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
vọng và nỗ lực, gia đình cha mẹ nuôi và đứa trẻ có thể làm nên những bước tiến lớn
và xây dựng được một gia đình mà họ hằng mơ ước.
2.5. Các phong cách làm cha mẹ
Câu hỏi đặt ra là “Phong cách nuôi dạy con cái có ảnh hưởng như thế nào đến sự
phát triển của trẻ?” Bên cạnh nghiên cứu của Baumrind trên 100 trẻ em mẫu giáo, các
nhà nghiên cứu sau này đã tiến hành nhiều nghiên cứu khác và đã đưa ra một số kết
luận về tác động của phong cách làm cha mẹ đối với trẻ em.
Có 4 phong cách làm cha mẹ điển hình. Đó là phong cách độc đoán, dân chủ, tự
do và thờ ơ.
Trong suốt đầu những năm 60, nhà tâm lý học Diana Baumrind đã tiến hành nghiên
cứu trên 100 trẻ em trước tuổi đến trường (Baumrind, 1967). Nghiên cứu đã sử dụng
các phương pháp như quan sát trong môi trường tự nhiên, phỏng vấn các phụ huynh,
và một số các phương pháp nghiên cứu khác, từ kết quả nghiên cứu của mình, tác giả
đã xác định 4 khía cạnh quan trọng trong phong cách làm cha mẹ:
Chiến lược kỷ luật
Ấm áp và chăm sóc
Các cách thức giao tiếp với con
Kỳ vọng về sự trưởng thành của con cái và cách thức kiểm soát
Dựa trên các khía cạnh này, Baumrind cho rằng phần lớn các cha mẹ đang có 1
trong 3 phong cách khác nhau trong việc nuôi dậy con cái. Tuy nhiên, một nghiên cứu
sâu hơn của Maccoby và Martin đã bổ sung thêm 1 phong cách làm cha mẹ (Maccoby
& Martin, 1983). Dưới đây là 4 phong cách làm cha mẹ:
2.5.1. Phong cách độc đoán:
Đối với cha mẹ có phong cách độc đoán, trẻ em luôn phải thực hiện theo các quy tắc
do họ đặt ra một cách nghiêm ngặt. Nếu không tuân theo những quy định này, trẻ sẽ bị
cha mẹ trừng phạt. Cha mẹ độc đoán không giải thích lý do của việc đưa ra các quy
tắc này. Nếu yêu cầu giải thích, cha mẹ có phong cách độc đoán có thể chỉ trả lời đơn
giản "Bởi vì mẹ/bố muốn vậy". Các bậc phụ huynh theo phong cách này thường có
những yêu cầu cao, nhưng lại không phù hợp với con của mình. Theo Baumrind, với
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 70
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
các cha mẹ phong cách độc đoán "tuân thủ những yêu cầu và luôn mong muốn con
của mình tuân thủ theo các quy định mà không cần giải thích" (1991).
2.5.2. Phong cách cha mẹ dân chủ:
Giống như cha mẹ có phong cách độc đoán, những cha mẹ mang phong cách dân chủ
cũng thiết lập các quy tắc và hướng dẫn con cái của mình phải tuân theo. Tuy nhiên,
phong cách nuôi dưỡng con cái của nhóm cha mẹ này dân chủ hơn. Cha mẹ có phong
cách dân chủ luôn đáp ứng cho con họ và sẵn sàng lắng nghe câu hỏi. Khi trẻ không
đáp ứng sự mong đợi, cha mẹ mang phong cách dân chủ thường khuyến khích và tha
thứ hơn là trừng phạt. Baumrind cho rằng, các cha mẹ phong cách dân chủ "quản lý và
truyền đạt các tiêu chuẩn một cách rõ ràng để hướng dẫn con họ. Những cha mẹ mang
phong cách này quyết đoán, nhưng không bắt trẻ phải chịu đựng hoặc bị hạn chế.
Phương pháp kỷ luật của họ hỗ trợ, chứ không phải là trừng phạt. Điều họ muốn là
con cái của họ trở nên quyết đoán cũng như có trách nhiệm xã hội, và tự điều chỉnh
cũng như khả năng hợp tác với người khác" (1991).
2.5.3. Phong cách cha mẹ tự do
Cha mẹ dễ dãi, đôi khi còn được gọi là cha mẹ nuông chiều, ít có đòi hỏi đối với
con cái của họ. Những cha mẹ này hiếm khi kỷ luật con cái của họ, vì họ có những kỳ
vọng tương đối thấp về sự trưởng thành và tự kiểm soát của con cái. Theo Baumrind,
cha mẹ phong cách tự do đáp ứng nhiều hơn yêu cầu. Họ không theo truyền thống và
có lòng khoan dung. Họ không đòi hỏi con cái phải có những hành vi chuẩn xác, mà
cho phép trẻ tự điều chỉnh. Những cha mẹ này thường tránh đối đầu với con cái"
(1991). Cha mẹ tự do thường nuôi dưỡng và giao tiếp với con cái của họ, giống như
một người bạn hơn là cha mẹ.
2.5.4. Phong cách cha mẹ thờ ơ
Phong cách làm cha mẹ thứ 4 là thờ ơ được đặc trưng bởi ít yêu cầu, đáp ứng
thấp và giao tiếp ít. Các cha mẹ mang phong cách này thường chỉ đáp ứng nhu cầu cơ
bản của đứa trẻ, họ thường tách ra khỏi cuộc sống của đứa trẻ. Trong trường hợp cực
đoan, những bậc cha mẹ theo phong cách này thậm chí có thể từ chối hoặc bỏ qua các
nhu cầu của con cái họ.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 71
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
2.6. Ứng xứ trong gia đình và tính cách của trẻ:
Trong quá trình nghiên cứu các yếu tố hình thành nên tính cách, người ta phát
hiện rằng ngoài yếu tố di truyền ra, môi trường giáo dục ở trường, gia đình và xã hội
luôn luôn có tính chất quyết định đối với sự hình thành tính cách một con người.
Hoàn toàn có thể khẳng định là trong những năm đầu đời, gia đình đóng vai trò
quan trọng nhất trong sự hình thành tính cách. Những năm gần đây, các công trình
nghiên cứu "theo dõi" của giới khoa học giáo dục các nước chứng minh, giai đoạn từ
khi mới sinh đến 7 tuổi là thời kỳ phát triển tâm sinh lý, nhất là phát triển não mạnh
mẽ nhất.
Trong giai đoạn này, tiềm năng phát triển bộ não của trẻ em hình thành tính cách
và khả năng học tập, công tác sau này. Các yếu tố thái độ nuôi dạy, phương pháp giáo
dục của cha mẹ, địa vị của trẻ trong gia đình, không khí gia đình; đặc trưng tính cách
và hành động thực tiễn của bản thân cha mẹ trong thời kỳ này đều tác dụng rất quan
trọng đối với sự hình thành tính cách của trẻ.
Cha mẹ quá cưng chiều, quá tán dương con là một trong những nguyên nhân tạo
nên tính kiêu ngạo và ương bướng ở trẻ em. Cách nuôi dưỡng, giáo dục không thích
hợp ở gia đình cũng là nguyên nhân tạo nên tính tự cao tự đại, ích kỷ, cố chấp, thiếu tự
lập...
Nếu quá nghiêm khắc với trẻ, thường xuyên khiển trách, đánh chửi trẻ,... thì sẽ
làm cho trẻ cảm thấy gia đình thiếu ấm cúng, từ đó sẽ tạo nên tính cách cô độc, u uất
và cố chấp. Hành vi của các trẻ em này thường có tính bộc phát và hay va chạm với
người khác, thậm chí biến thành người lạnh lùng, tàn nhẫn.
Không quan tâm đến trẻ sẽ hình thành trong trẻ tính độ kỵ, tính tình không ổn
định, thiếu khả năng sáng tạo, thậm chí có khuynh hướng chán đời.
Cha mẹ đối xử dân chủ thì trẻ sẽ trở nên độc lập, thẳng thắn, có tinh thần hợp
tác, thân thiện, có tính tập thể, nhanh nhẹn vui vẻ, kiên cường, can đảm, có nghị lực và
tinh thần sáng tạo.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 72
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Cha mẹ bát đồng ý kiến mỗi người một phách, cũng làm cho nghi hoặc bối rối,
không biết nên làm sao; như thế, trẻ em sẽ trở nên dễ nổi nóng và rất cảnh giác, thậm
chí còn biết lợi dụng mâu thuẫn giữa người lớn để che giấu khuyết điểm, sai sót của
mình, hoặc là hình thành các thói quen xấu như bợ đỡ, đầu cơ, nói dối,..
2.7. Giúp các bố mẹ bình thường
Sự phát triển của trẻ sơ sinh theo Winnicott
Một trẻ sơ sinh mà không có rối loạn về thể chất hoặc thần kinh có một xu
hướng bẩm sinh phát triển thành một người hoàn toàn, sáng tạo, tự tin trong cuộc
sống. Nếu xu hướng này có thể được thể hiện, nó là cần thiết và đầy đủ rằng môi
trường trong đó sẽ phát triển, tăng trưởng và phát triển trẻ sơ sinh đúng cách là tốt
chương trình, từ quan điểm của mình với anh ta.
Trong giai đoạn sau sinh, các đơn vị, điều này không phải là em bé, nhưng toàn
bộ người-môi trường . Đây là mẹ của đứa trẻ là tốt nhất có thể cung cấp một môi
trường tốt.
Tại thời điểm này, thuật ngữ "mẹ" là tương đương với "môi trường" và do đó
bao gồm các cha nếu ông chăm sóc trẻ sơ sinh.Người cha can thiệp trong hai cách:
như một người mẹ, khi giao dịch với trẻ sơ sinh và bảo vệ bà mẹ và trẻ em của những
gì có thể can thiệp vào giữa hai. Đối với người mẹ thực sự có khả năng cung cấp một
điều như vậy, nó là cần thiết mà cô có thể và sẽ tiếp tục được hưởng lợi một môi
trường có chất lượng nhất định.
"Để thực hiện vai trò này, nó là cần thiết rằng mối quan hệ của nó với người cha
của em bé và cũng là mối quan hệ của mình với gia đình và vòng tròn bao giờ rộng
lớn hơn xung quanh gia đình và xã hội của mình là cung cấp cho các mẹ một cảm giác
an toàn, cảm giác được yêu thương . "
Trong thời gian mang thai, nó có được khả năng (mối bận tâm chính của
mẹ) để cống hiến mình hoàn toàn cho em bé trong bụng cô, sau đó dần dần mất khả
năng để đo lường sự phát triển của em bé.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 73
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
"Lúc đầu, thai nhi và trẻ sơ sinh phụ thuộc hoàn toàn vào những gì cung cấp cho
họ mẹ sống, cho dù tử cung của cô chăm sóc bà mẹ của cô . "
Theo các điều kiện mô tả ở trên, xu hướng này sẽ phát triển các đặc điểm sau
đây. Đây là những quá trình khác nhau đương đại của mỗi khác, tất nhiên liên quan
đến nhau, nhưng có thời gian riêng của họ.
Trong một nhà nước nơi em bé thậm chí không biết bị lệ thuộc (Winnicott gọi là
"sự phụ thuộc tuyệt đối" hay "phụ thuộc đôi"), sau đó sẽ trải nghiệm một tình trạng
phụ thuộc, ông là có ý thức để đạt được, hay đúng hơn là có xu hướng hướng tới độc
lập.
Ban đầu, môi trường sẽ hiển thị hoàn toàn phù hợp là trẻ sơ sinh được hỗ trợ
trong sự phát triển của nó, rằng "cảm giác vẫn tiếp tục tồn tại" được bảo tồn. Lấn
chiếm hoặc thất bại trên một phần của môi trường của nó sẽ buộc các trẻ sơ sinh để
đáp ứng, không hành động, sẽ phá vỡ tính liên tục của sự tồn tại. Tại sự phụ thuộc
tuyệt đối ", ... tất cả mọi thứ nắm cho câu hỏi thiết yếu nhất: cuộc xâm lược, cuộc xâm
lược của cuộc sống không-trẻ sơ sinh ... " . Môi trường phải là giống như không khí
em bé thở: nó không nhận ra không khí đó là có, nhưng để cho anh ta đến để bỏ lỡ ...
Trong thời gian này phụ thuộc tuyệt đối, người mẹ cho thấy một sự thích nghi rất
nhạy cảm với nhu cầu của em bé sau đó đã có kinh nghiệm (ảo giác) của một đấng
toàn năng . Tuy nhiên, người mẹ nên chắc chắn không phải là hoàn hảo. Cô (hoặc môi
trường của mẹ) chỉ là một người mẹ đủ tốt (có nghĩa là nó cũng không kém phần xấu
không phải là quá tốt), một người mẹ dành tầm thường, trong những lời của
Winnicott.
Điều này có nghĩa rằng những kinh nghiệm của một đấng toàn năng rất quan
trọng cho trẻ mới biết đi, có thể hoặc nên là vĩnh viễn. Thực sự thất bại của bà mẹ là
nguyên nhân của sự vỡ mộng không thể tránh khỏi và cần thiết với việc phát hành ban
đầu cộng sinh và công nhận dần dần của thực tế khắc nghiệt. Nhưng nếu, ở giai đoạn
này, những thất bại của mẹ quá nhiều về cường độ và thời gian của trẻ sơ sinh không
có thể cảm thấy tức giận vis-à-vis các đối tượng mặc định cần thiết và không thể khôi
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 74
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
phục lại ý nghĩa của nó liên tục bị. Đó là sau đó một con mồi để "giẫy giụa nguyên
thủy" như các cuộc gọi Winnicott.
Họ là những lo âu tâm thần của sự hủy diệt và tan rã. Ông không có giải pháp
khác trong những trường hợp này để phân biệt giữa " tự mình "(dịch nghĩa đen
của tự đã được bảo quản trong tiếng Anh trong trường hợp này) và trong tự tự sai sự
thật, che dấu đầu tiên và bảo vệ thứ hai để đặt nó vĩnh viễn miễn dịch xâm lấn của môi
trường chịu trách nhiệm "lo lắng vô danh" của nó theo để Winnicott. Kết quả trong
suốt cuộc đời, đôi khi, một cảm giác không thực sự sống hoặc không được thực sự, ở
những người này cắt từ "thật tự" chính hãng, tự nhiên và bản năng ngay cả khi thành
công xã hội của họ là tuyệt vời.
Dần dần, em bé có biện pháp phụ thuộc và thích ứng với khả năng của mình để
thông báo cho môi trường của nó khi nó cần nó.Thật vậy, khả năng của trẻ sơ sinh để
thông báo cho môi trường của nó những gì nó cần không phải là một khả năng mua
lại, mặc dù nó phát triển với những kinh nghiệm mà trẻ sơ sinh là trong môi trường
này. Winnicott nói về cử chỉ tự nhiên của trẻ sơ sinh để cho biết rằng trẻ sơ sinh, từ
ngày sinh của ông, là một lần một hoạt động tâm thần phức tạp cho phép anh ta để
giao tiếp nhu cầu của mình để môi trường của mình làm mẹ. Thực tế này đã được
quan sát thấy trong công việc của Jean Piaget và xác nhận bởi các công việc của nhà
tâm lý học nói về kỹ năng bẩm sinh của trẻ sơ sinh.
"Lúc đầu, trẻ sơ sinh là do nhận thức cảm giác và một số giai đoạn động cơ. " "
"Em bé có thể tìm thấy nhà nước này không tích hợp khi ở phần còn lại và không
có lo lắng như là" môi trường mẹ "phản ứng chính xác nhu cầu của họ. Nó hỗ trợ các
em bé và chứng minh tính nhất quán và độ tin cậy. còn tất cả những cảm giác này sẽ
dần dần được tích hợp vào một đơn vị.
Đó là sự phát triển của trí tuệ cho phép không phù hợp tiến bộ của môi trường
trong ý nghĩa rằng em bé bù đắp bằng sự hiểu biết những gì nếu không sẽ được kinh
nghiệm là thích ứng không đủ. Ví dụ, bé đói, anh ta không ăn gì chưa, nhưng ông
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 75
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
nghe thấy mẹ của ông đã sẵn sàng, và ông biết rằng điều này là sự khởi đầu của bữa
ăn, trẻ hơn, ông sẽ không có thể hiểu và đã sống kỳ vọng này như phá sản.
Nguồn gốc của "tự sai" là một khoảng thời gian khi em bé vẫn không phân biệt
"tự" và "không phải là tôi". Nó được chủ yếu là không được tích hợp, và khi nó là, nó
không phải là hoàn toàn. Đôi khi sau đó, phác họa một em bé cử chỉ tự nhiên (mà "...
thể hiện một sự thúc đẩy tự phát ..." Điều này cho thấy rằng có một tiềm năng con
người thật. Theo khả năng của người mẹ vai trò của nó, nó sẽ thúc đẩy việc thành lập
của con người thật, hoặc ngược lại, tự sai.
Nếu người mẹ phản ứng với những gì xuất hiện như là sự biểu hiện của sự toàn
năng của trẻ sơ sinh, trong mọi cơ hội, nó mang lại ý nghĩa và giúp thiết lập tự
đúng. Vì vậy, nó cho phép các em bé để trải nghiệm những ảo ảnh của một đấng toàn
năng. Kinh nghiệm này của ảo tưởng, như một điều kiện có khả năng thích ứng tích
cực của người mẹ, là một điều kiện tiên quyết cho những kinh nghiệm của các hiện
tượng chuyển tiếp, từ đó sáng tạo ban đầu.
Nếu thay vào đó, mẹ không thể để đáp ứng sự kiện này, nó thay thế cử chỉ tự
nhiên của em bé, mà bên đó được buộc phải nộp.Điều này thường được lặp đi lặp lại,
tham gia tự sai này phát triển.
II. KẾT LUẬN
1. Tóm tắt nội dung cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu
tiên” của tác giả Donad Winnicott, người dịch: Vũ Thị Chín
Hầu như toàn bộ cuốn sách tác giả tập trung chia sẽ cho chúng ta thấy về sự quan trọng
cuả tình mẹ - con. Khi đó vai trò đầu tiên của người mẹ là yêu thương, người mẹ là người
đầu tiên đem lại yêu thương mà như ta đã nêu ở trên, đó là một trong ba trụ cột tạo ra sự yên
ổn cần thiết cho sự phát triển tình cảm của đứa con. Chính xung quanh tình yêu này mà dần
dần được sắp xếp các mối quan hệ, trước hết với mẹ, rồi sau đó với các thành viên khác
trong gia đình. Trong các mối quan hệ mẹ-con, tình yêu là cái quan trọng nhất; nó không
phải là duy nhất. Người mẹ cũng cần có một uy quyền nào đó, nó không xung khắc với tình
yêu thương. Nhưng ở người mẹ, tình yêu thương có vai trò quan trọng hơn uy quyền.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 76
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Tình yêu có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Tình mẹ-con vừa ân cần, dịu dàng và
thông hiểu, nghĩa là tình yêu trực giác biểu hiện và chấp nhận. Tình yêu đó vừa tự nhiên vừa
mù quáng. Đứa trẻ biết là nó được chấp nhận theo như nó vốn có.
Tình yêu này không phải là một mục đích tự thân, chỉ nhằm để thỏa mãn cho người mẹ
mà thôi. Tình cảm sau này của đứa trẻ phụ thuộc vào tính chất của tình mẹ-con và được
định hình bởi người mẹ và ảnh hưởng đó duy trì mãi mãi trong tâm khảm người con khi đã
trưởng thành.
Đứa con không phải là một cơ thể xa lạ bỗng dưng được đặt bên cạnh một người đàn
bà hay một cặp vợ chồng. Trước khi ra đời, đứa trẻ không chỉ nằm trong mẹ mà là mẹ nó
một cách vật chất hơn hết. Chủ đề tình cảm “da thịt của da thịt tôi” thể hiện một thực tế sinh
học sâu sắc. Những đám tế bào li ti hình thành sau khi có sự phân bào đầu tiên của trứng
mới thụ tinh là gì nếu không phải là một phần nhỏ nảy nở của mẹ? Đứa trẻ sơ sinh là một
mảnh của người mẹ xuất hiện ra chưa hề có một sự tự lập nào về sự sống.
G. Heuyer cho rằng tư 1 đến 3 tuổi người ta có thể nói rằng môi trường tự nhiên mà
đứa trẻ sống là sự kéo dài của giai đoạn thai nhi; mặc dù đã thắt dây rốn, đứa bé chưa rời
lòng mẹ.
Dần dần sự phụ thuộc hữu cơ từ tuyệt đối lúc ở trong dạ con chuyển sang tương đối
sau khi sinh, giảm dần rồi mất hẳn. Sự phụ thuộc tình cảm tiến triển song song theo cách
như vậy nhưng có sự chênh lệch vì hình như chỉ bắt đầu từ khi sinh ra.
Sự phụ thuộc đó làm cho người mẹ thâu tóm tất cả vấn đề quan hệ gia đình đối với
đứa bé còn trứng nước. Nhân cách của bà mẹ, cách xử sự với con có ảnh hưởng quyết định
đến đời sống tâm lý của nó trong tương lai. Nhiều khi người ta còn chưa biết rằng người mẹ
cũng cần tiếp xúc với con như con cần với mẹ.
Mặt khác, cách cư xử của người mẹ phụ thuộc phần lớn vào những quan hệ khác của
bà ta trong gia đình, nhất là quan hệ với chồng, nói tóm lại là sự cân bằng nội tại trong tổ ấm
gia đình. Rút cục, những quan hệ đầu tiên của đứa bé bề ngoài có khi chỉ chuyên với mẹ
nhưng phần lớn lại phụ thuộc vào tất cả những quan hệ nội tại trong gia đình.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 77
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Khi trẻ lớn lên thì vai trò người mẹ có sắc thái khác đi. Nó vẫn là nguồn tình cảm yêu
thương, với đứa trẻ mà những đòi hỏi thơ bé bớt chuyên chế đi vì cùng với sự mở rộng sự
quan tâm của nó đến môi trường xung quanh thì sự chuyên chú vào mẹ cũng bớt đi.
Để giữ gìn tình yêu của mẹ, đứa bé sẽ chấp nhận phải kiềm chế hung tính tự nhiên. D.
Burlingham và A. Freud đã kiểm chứng nhận định bằng thực nghiệm. Trong những cơ sở
đón nhận những trẻ em người Anh là nạn nhân chiến tranh và phải xa rời cha mẹ; đầu tiên
người ta cố gắng phiên chế chúng vào tổ chức và hướng dẫn chúng và coi như chúng là
những con người máy. Làm như vậy cũng thất bại tương tự như họ thử cách thứ hai: tạo ra
những cộng đồng trẻ em, như thế cũng không ổn vì chúng quá nhỏ để có thể trở nên tốt hơn
giữa chúng với nhau. Trái lại, khi người ta thiết lập những nhóm có những bà mẹ “nhân tạo”
thì “kết quả thật đặc biệt”. Người mẹ sẽ trở thành đối tượng gắn bó tha thiết đối với con trai
ở giai đoạn ơ-đíp và là đối thủ được yêu và bị ghen cùng một lúc đối với con gái của mình
trước khi trở thành đối tượng để tự đồng nhất lý tưởng của nó để giúp nó không chỉ chấp
nhận còn mong muốn vừa làm vợ vừa làm mẹ, thì trước tiên người mẹ phải mong muốn,
chấp nhận và sống một cách đầy đủ cả hai vai trò đó.
Người ta chỉ có thể đứng về phía Freud đưa ra ý kiến tranh cãi của Rank và cho rằng
sự ra đời không có ý nghĩa tâm lý rõ ràng. Ông nhấn mạnh là không có một công trình
nghiên cứu có giá trị nào chứng minh được, thí dụ một ca đẻ khó bằng foóc-xép có thể gần
gũi một cách không phải tranh luận với sự phát triển bệnh nhiễu tâm. Ngay Pearson còn
khẳng định là những rối loạn nhiễu tâm thường gặp ở những trẻ đẻ nhanh hơn là những trẻ
đẻ lâu và khó. Nhưng ở đây cũng thuộc lĩnh vực những giả thuyết chưa được chứng minh
2. Hậu quả của sang chấn đối vớii sự phát triển tâm lý trẻ em
Đây là một vấn đề rất có tính thời sự, được nói đến nhiều trong những năm
gần đây, không chỉ trong giới các nhà chuyên môn mà còn trong cả xã hội dân sự.
Đã có sự thành lập nhiều hội, hiệp hội, nhằm cứu trợ những trẻ em là nạn nhân của
nhiều loại sang chấn, từ các sang chấn chiến tranh, các cuộc mưu hại, đến những
thảm họa thiên nhiên hoặc sự ngược đãi do con người. Các hội này cũng cứu trợ
cho cả người lớn.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 78
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Suốt một thời gian dài, sự bảo vệ gia đình và xã hội đã quan trọng hơn sự bảo
vệ những cá nhân con người. Ngày nay, quyền được hưởng hạnh phúc đã trở thành
yêu cầu đòi hỏi của mỗi người. Chính phủ các nước tự nhận thấy mình có trách
nhiệm giải quyết những yêu cầu đòi hỏi đó, nhất là về phương diện sự bình đẳng và
thừa hưởng các cơ hội. Các chính phủ buộc phải đền bù những hậu quả tâm lý của
những sang chấn mà họ đã không thể ngăn cản để các công dân của họ được hưởng
hạnh phúc.
Gia đình không còn là một lĩnh vực dành riêng như trước đây, tính dục cũng
không còn là điều cấm kỵ và những điều bí mật cũng có thể được nêu ra không
giấu giếm. Người ta giảm bớt sự bảo vệ tính sâu kín riêng tư mà ngược lại có
khuynh hướng phơi bày chúng ra trước công chúng (chẳng hạn như các “bày tỏ
thực tế trên truyền hình” ở phương Tây). Một đứa con có thể khiếu nại chống lại bố
mẹ. Sau cùng, gần đây, Bản Tuyên ngôn của thế giới về quyền trẻ em mà các nước
đã ký Công ước thỏa thuận đã buộc các nước này, tùy theo phương tiện và khả
năng mình có, phải bảo vệ các trẻ em là nạn nhân của những sang chấn được nhận
dạng như vậy, dù sang chấn xuất phát từ gia đình hay từ xã hội.
Trong bài viết nhan đề Tình trạng lệ thuộc của đứa con trong khuôn khổ
chăm sóc của người mẹ và trong tình huống phân tâm, Winnicott đã nêu rõ: “Các
nhà phân tâm lúc đầu chán ghét viết về nhân tố môi trường, vì họ thường thấy rằng
những ai không biết đến hoặc phủ nhận ý nghĩa của các căng thẳng nội tâm, lại
xem các nhân tố bên ngoài là tai hại và coi đó như là nguyên nhân gây bệnh trong
tâm thần học trẻ em. Tuy nhiên, ngày nay, khi mà phân tâm học đã phát triển ổn
định, có thể cho phép chúng ta nghiên cứu thêm về các nhân tố bên ngoài”.
Từ điển Robert đưa ra ba định nghĩa:
o Định nghĩa y học: Là toàn bộ những rối loạn về thể chất hoặc tâm lý gây ra
cho cơ thể con người do một chấn thương.
o Định nghĩa tâm lý học và thường dùng: Sang chấn tâm lý là toàn bộ những
rối loạn do một sốc cảm xúc mãnh liệt gây ra.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 79
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
o Định nghĩa phân tâm học: Sự kiện phát động ở đương sự một luồng dồn dập
các kích thích vượt quá ngưỡng dung nạp của bộ máy tâm trí.
Chúng ta hãy thử mô tả những loại nguyên nhân khác nhau của sang chấn tâm
lý. Có thể xác định chúng theo các loại sau:
- Các sang chấn liên quan đến thảm họa thiên nhiên
- Các sang chấn liên quan đến chiến tranh
- Các sang chấn gây ra do một hoặc nhiều người được nhận dạng và có liên
quan đến một người, đặc biệt là một đứa trẻ. Thường là do các hành vi hung
bạo hoặc sang chấn tình dục.
Loại sang chấn (1) đặt đứa trẻ đối mặt với cái chết và mất mát những người
thân mà em yêu. Nhưng trẻ không đặt vấn đề thảo luận lại quan niệm của em về
những con người hoặc về bản thân em. Em có thể vẫn tiếp tục suy ngẫm về bản
thân và về người khác như là những người tốt bụng hay cứu giúp.
Loại sang chấn (2) cũng đặt đứa trẻ đối mặt trực tiếp với cái chết, sự chia ly
và mất mát. Nhưng loại này đặt vấn đề thảo luận lại quan niệm của mỗi người và,
trong trường hợp của đứa trẻ, quan niệm của bố mẹ, liên quan đến tính chất có căn
cứ của chiến tranh (cả chiến tranh nói chung lẫn một cuộc chiến cụ thể) cũng như
về các phương tiện chiến tranh. Tuy nhiên, trong các tình huống này, có cái trung
gian là nhóm văn hóa chứ không riêng gia đình.
Ở loại sang chấn (3), đó là một quan hệ liên can rất riêng vì sang chấn liên
quan đến một cá nhân (ở đây nói về một đứa trẻ). Dù trẻ là nạn nhân, trẻ cũng là
người cùng tham gia vào sự kiện, vì em là đối tượng, là nguyên nhân. Việc trẻ có
thể trông đợi vào sự đảm đương trách nhiệm của xã hội, nếu có, cũng không thể có
tác động như nhau. Chính những quan niệm của trẻ về gia đình mình, về con người
nói chung và về bản thân, và cả cấu trúc nhân cách của em lúc sự kiện gây sang
chấn xảy ra cũng có thể thực sự bị thay đổi.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 80
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
Còn có một loại sang chấn mà ngày nay ta khảo sát. Đó là những sang chấn
mà đứa trẻ phải gánh chịu do tình trạng dưỡng dục tồi tệ. Trong quan hệ sớm mẹ-
con, có những điều “thiếu thốn” hoặc những thứ “quá thừa” mà đứa trẻ cảm sống
như những sang chấn thực sự.
3. Cảm nhận khi đọc cuốn sách “Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu
tiên” của tác giả Donad Winnicott, người dịch: Vũ Thị Chín”
Qua nghiên cứu sách và tài liệu em nhận thấy cuốn sách này rất có ý nghĩa,
không chỉ đối với mỗi bà mẹ, mỗi gia đinh mà đối với mỗi chúng ta cũng cần phải
học, phải biết...
Ngày nay, vai trò của người mẹ luôn được đặt ở vị trí quan trọng nhất cho sự
ra đời và phát triển của trẻ. Là một người mẹ cần phải thương yêu con mình ngay
khi trẻ nằm trong bụng cho tới khi trẻ phát triển.
Mẹ không chỉ cho chúng ta dòng sữa mát, ngon mà mẹ còn cho chúng ta tình
yêu, tình thương bao la....
Tình thương yêu mẹ – con là một sự trao đổi giữa mẹ và con. Tuy nhiên việc trao đổi
đó lại chỉ do một mình bà mẹ khởi động và định hướng. Chính tình cảm của người mẹ điều
chỉnh trên thực tế tính chất và chất lượng của tình yêu người mẹ dành cho con và tình yêu
của con đáp lại mẹ. Sự tiến triển tình cảm lúc nhỏ của người mẹ ít nhất sẽ có vai trò tương
đương với tình hình quan hệ vợ chồng mà thường thì cái này lại được qui định bởi cái trên.
Có những bà mẹ-trẻ con không trưởng thành cũng như có những bà mẹ-quá ư là mẹ mà
thiếu vai trò làm vợ. Những bà mẹ đa nghi, những bà mẹ lo lắng, những bà mẹ đau khổ, suy
sụp thường là nạn nhân của những xung đột nhiễu tâm cũng đồng dạng với những bà mẹ
chiếm hữu con, những bà mẹ hung tính và những bà mẹ đầy nam tính.
Có bao nhiêu bà mẹ thì có bấy nhiêu kiểu tình thương yêu mẹ-con. Tất cả những biến
động về số lượng và chất lượng đều có thể xảy ra. Việc đánh giá tình me-con phụ thuộc vào
ảnh hưởng tình cảm đó đối với đứa con. Việc mất hay thiếu hụt tình cảm của người mẹ là
một tai họa thực sự đối với đứa bé vì nó là nạn nhân của sự thiếu hụt đó. Nhưng tình thương
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 81
Tiểu luận nhóm môn Tâm lý Gia đình
yêu mẹ-con thái quá tạo ra những bà mẹ lạm dụng không kém tai hại. Trong những trường
hợp rất hiếm, sự biến dạng của tình cảm mẹ-con có thể dẫn tới lòng căm ghét.
Tình mẹ-con có thể thiếu hụt vì 2 lý do: vắng mặt hay thờ ơ. Những bó buộc về vật
chất hay nghề nghiệp đòi hỏi một số phụ nữ phải xa rời tổ ấm, dù họ lấy làm tiếc, và việc
này gây tác hại đối với đứa trẻ trong trường hợp nó làm giảm khẩu phần tình cảm mà trẻ có
quyền trông mong ở mẹ nó.
Nhưng cũng có những bà mẹ thật sự thờ ơ. Sự thờ ơ này có thể che dấu một sự thù
nghịch không nói ra đối với đứa con. Đôi khi bà mẹ thể hiện một sự ích kỷ điên khùng;
chúng tôi đã nói đến sự ích kỷ tay đôi của cặp vợ chồng nguyên khởi không thích có con.
Cũng kể đến những phụ nữ không đủ chín chắn để có con và sau đó bỏ rơi con cho mẹ mình
chăm sóc hay cho một người làm thuê vì sợ không làm nổi nhưng phần lớn vì đứa trẻ làm
vướng víu, gây cản trở cho việc theo đuổi một đời sống xã hội phù hoa thường chỉ là bề
ngoài.
Việc vắng mẹ hoàn toàn, nhất là việc mất mẹ, có những hậu quả vô cùng nghiêm trọng,
và càng sâu sắc khi đứa trẻ càng nhỏ. Ở đây chúng tôi nhấn mạnh dạng này vì sự thiếu hụt
một phần tình cảm chỉ gây những rối loạn cường độ nhẹ hơn nhiều so với trường hợp thiếu
hụt hoàn toàn.
Tuổi của đứa trẻ, một vài yếu tố cá nhân, những sự bù đắp có thể được, làm cho những
hậu quả của sự hẫng hụt không phải bao giờ cũng giống nhau ngay cả đối với những trẻ em
trong cùng một gia đình. Những hậu quả không chỉ liên quan đến tâm lý của đứa trẻ mà còn
cả về sự phát triển thể chất. Không phải bao giờ cũng bi đát hay thấy ngay mà sự quan sát
hàng ngày những trẻ em và người lớn, thường với trí xét đoán tốt, cũng dễ phát hiện ra biết
bao cuộc đời nào đó, cách cư xử nào đó đã bị lệch lạc nếu không phải là lầm lạc do sự ly tán
của hoàn cảnh gia đình.
Những công trình đầu tiên có một cơ sở khoa học vững chắc liên quan đến tầm quan
trọng của những yếu tố tình cảm trong sự phát triển về mặt sinh học của trẻ em đã được ghi
từ đầu thế kỷ 20. Bakwin đã làm thống kê năm 1942. Nhất là sau đại chiến thế giới lần thứ
hai có nhiều công trình chi tiết hơn và khoa học hơn đã được xuất bản với số lượng ngày
càng nhiều.
Nhóm 7. Cu n sách : “ố Trẻ em và gia đình. Những quan hệ đầu tiên” Trang 82
top related