atld&bvmt. phan 2

102
MỤC LỤC CHƯƠNG IV: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ KTAT.................3 4.1.Mục đích, ý nghĩa, tính chất của công tác bảo đảm AT & VSLĐ3 4.1.1. Mục đích của công tác BHLĐ......................3 4.1.2. Ý nghĩa của công tác BHLĐ.......................3 4.1.3. Tính chất của công tác BHLĐ......................4 4.2.Một số khái niệm cơ bản........................5 4.2.1. Điều kiện lao động.............................5 4.2.2. Khái niệm về vùng nguy hiểm.....................6 4.2.3. Các yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh trong sản xuất 6 4.2.4. Tai nạn lao động...............................6 4.2.5. Nguyên nhân gây tai nạn lao động.................7 4.2.6. Các biện pháp và phương tiện kỹ thuật an toàn cơ bản.8 4.3.Hệ thống luật pháp, chế độ chính sách về AT&VSLĐ ở Việt Nam 11 CHƯƠNG V: VỆ SINH LAO ĐỘNG.........................13 5.1.Các vấn đề chung về VSLĐ......................13 5.1.1. Đối tượng và nhiệm vụ của vệ sinh lao động........13 5.1.2. Các yếu tố tác hại nghề nghiệp trong sản xuất.......13 5.1.3. Các bệnh nghề nghiệp.........................13 5.1.4. Các biện pháp đề phòng bệnh nghề nghiệp.........14 5.2.Ảnh hưởng của vi khí hậu trong sản xuất.......14 5.2.1. Định nghĩa.................................. 14 5.2.2. Phân loại................................... 15 5.2.3. Các yếu tố vi khí hậu...........................15 5.2.4. Điều hoà thân nhiệt ở người.....................16 5.2.5. Ảnh hưởng của vi khí hậu đối với cơ thể người......17 5.2.6. Các biện pháp phòng chống vi khí hậu xấu..........18 5.3.Tiếng ồn và rung động trong sản xuất..........19 5.3.1. Tiếng ồn....................................19 5.3.2. Rung động.................................. 22 5.4.Phòng chống nhiễm độc trong sản xuất..........25 5.4.1. Đặc tính chung của hoá chất độc.................25 5.4.2. Tác hại của hoá chất độc........................25 5.4.3. Các biện pháp phòng tránh và cấp cứu.............27

Upload: gacose

Post on 04-Jul-2015

184 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: ATLD&BVMT. phan 2

MỤC LỤC

CHƯƠNG IV: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ KTAT...........................................34.1. Mục đích, ý nghĩa, tính chất của công tác bảo đảm AT & VSLĐ.....3

4.1.1. Mục đích của công tác BHLĐ.........................................................34.1.2. Ý nghĩa của công tác BHLĐ...........................................................34.1.3. Tính chất của công tác BHLĐ........................................................4

4.2. Một số khái niệm cơ bản.......................................................................54.2.1. Điều kiện lao động...........................................................................54.2.2. Khái niệm về vùng nguy hiểm.........................................................64.2.3. Các yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh trong sản xuất.............64.2.4. Tai nạn lao động..............................................................................64.2.5. Nguyên nhân gây tai nạn lao động.................................................74.2.6. Các biện pháp và phương tiện kỹ thuật an toàn cơ bản................8

4.3. Hệ thống luật pháp, chế độ chính sách về AT&VSLĐ ở Việt Nam 11

CHƯƠNG V: VỆ SINH LAO ĐỘNG.............................................................135.1. Các vấn đề chung về VSLĐ................................................................13

5.1.1. Đối tượng và nhiệm vụ của vệ sinh lao động...............................135.1.2. Các yếu tố tác hại nghề nghiệp trong sản xuất............................135.1.3. Các bệnh nghề nghiệp...................................................................135.1.4. Các biện pháp đề phòng bệnh nghề nghiệp..................................14

5.2. Ảnh hưởng của vi khí hậu trong sản xuất.........................................145.2.1. Định nghĩa.....................................................................................145.2.2. Phân loại........................................................................................155.2.3. Các yếu tố vi khí hậu.....................................................................155.2.4. Điều hoà thân nhiệt ở người.........................................................165.2.5. Ảnh hưởng của vi khí hậu đối với cơ thể người...........................175.2.6. Các biện pháp phòng chống vi khí hậu xấu.................................18

5.3. Tiếng ồn và rung động trong sản xuất...............................................195.3.1. Tiếng ồn..........................................................................................195.3.2. Rung động......................................................................................22

5.4. Phòng chống nhiễm độc trong sản xuất.............................................255.4.1. Đặc tính chung của hoá chất độc.................................................255.4.2. Tác hại của hoá chất độc...............................................................255.4.3. Các biện pháp phòng tránh và cấp cứu........................................27

5.5. Phòng chống bụi trong sản xuất.........................................................285.5.1. Định nghĩa và Phân loại...............................................................285.5.2. Tác hại của bụi...............................................................................295.5.3. Các biện pháp phòng tránh bụi.....................................................29

5.6. Phòng chống phóng xạ và điện từ trường tần số cao........................305.7. Chiếu sáng trong sản xuất...................................................................36

5.7.1. Một số khái niệm về Ánh sáng và sinh lý mắt người...................365.7.2. Kỹ thuật chiếu sáng.......................................................................38

5.8. Thông gió công nghiệp........................................................................40

Page 2: ATLD&BVMT. phan 2

5.8.1. Mục đích của thông gió công nghiệp............................................405.8.2. Các biện pháp thông gió................................................................405.8.3. Các hệ thống thông gió..................................................................415.8.4. Lọc sạch bụi trong không khí........Error! Bookmark not defined.

CHƯƠNG VI: KỸ THUẬT AN TOÀN..........................................................426.1. Các yếu tố nguy hiểm gây chấn thương trong xưởng sản xuất.......426.2. Kỹ thuật an toàn với thiết bị áp lực...................................................42

6.2.1. Khái niệm về thiết bị nồi hơi áp lực..............................................426.2.2. Nguyên nhân hư hỏng và nổ vỡ các thiết bị áp lực......................436.2.3. Yêu cầu về ATLĐ đối với thiết bị nồi hơi và thiết bị áp lực.........45

6.3. Kỹ thuật an toàn với thiết bị nâng hạ................................................476.4. Kỹ thuật an toàn điện..........................................................................52

6.4.1. Khái niệm cơ bản về an toàn điện.................................................526.4.2. Các dạng tai nạn điện....................................................................546.4.3. Các biện pháp an toàn khi sử dụng điện......................................55

6.5. Phòng chống cháy nổ...........................................................................616.5.1. Khái niệm về cháy nổ.....................................................................616.5.2. Những nguyên nhân gây cháy nổ. Error! Bookmark not defined.6.5.3. Phòng và chống cháy nổ................Error! Bookmark not defined.

6.6. An toàn khi sử dụng một số máy móc thường gặp trong cơ khí giao thông67

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động – PGS.TS. Nguyễn Thế Đạt2. Kỹ thuật an toàn và môi trường – Đinh Đắc Hiến, Trần Văn Địch3. An toàn sức khoẻ nơi làm việc – BS. Nguyễn Đức Đãn, TS. Nguyễn Quốc Triệu4. Bảo hộ lao động trong ngành xây dựng – Bộ Xây dựng

Page 3: ATLD&BVMT. phan 2

CHƯƠNG IV: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ KTAT

4.1. Mục đích, ý nghĩa, tính chất của công tác bảo đảm AT & VSLĐ

4.1.1. Mục đích của công tác BHLĐ

An toàn lao động là việc ngăn ngừa sự cố tai nạn xảy ra trong quá trình lao động, gây thương tích đối với cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động.

Vệ sinh lao động là việc ngăn ngừa bệnh tật do những chất độc hại tiếp xúc trong quá trình lao động gây ra, đối với nội tạng cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động.

ATLĐ không tốt thì gây ra tai nạn lao động, VSLĐ không tốt thì gây ra bệnh nghề nghiệp.

Thông qua các biện pháp về khoa học kỹ thuật, tổ chức, kinh tế, xã hội để loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh trong quá trình lao động, sản xuất của con người;

Từ đó cải thiện điều kiện lao động, tạo điều kiện thuận lợi, an toàn trong lao động, ngăn ngừa bệnh nghề nghiệp, hạn chế ốm đau làm giảm sút sức khoẻ cũng như những thiệt hại khác đối với người lao động;

Nhằm bảo vệ sức khoẻ, đảm bảo an toàn về tính mạng người lao động và cơ sở vật chất, góp phần bảo vệ và phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động.

4.1.2. Ý nghĩa của công tác BHLĐ

Lao động tạo ra của cải vật chất, làm cho xã hội tồn tại và phát triển. Bất cứ dưới chế độ xã hội nào, lao động của con người cũng là yếu tố quyết định nhất. Xây dựng quốc gia, xã hội giàu có, tự do, dân chủ cũng là nhờ người lao động. Tri thức mở mang cũng nhờ lao động (lao động trí óc).

Vì vậy lao động là động lực chính của sự tiến bộ loài người.

Bảo hộ lao động (BHLĐ) trước hết là phạm trù của lao động sản xuất, do yêu cầu của sản xuất và gắn liền với quá trình sản xuất.

Bảo hộ lao động mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người nên nó mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Mặt khác, nhờ chăm lo sức khoẻ của người lao động mà công tác BHLĐ mang lại hiệu quả xã hội và ý nghĩa nhân đạo rất cao.

BHLĐ là nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được trong các dự án, từ khâu thiết kế, điều hành đến triển khai sản xuất. BHLĐ mang lại những lợi ích về kinh tế, chính trị và xã hội.

BHLĐ là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước,

Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, hướng dẫn về công tác BHLĐ. Các ngành chức năng của Nhà nước (Bộ LĐ và TBXH, Bộ Ytế, TLĐ LĐVN,... ) đã có nhiều cố gắng trong công tác BHLĐ. Tuy nhiên, hệ thống tổ chức quản lý về BHLĐ từ trung ương đến địa phương chưa được củng cố. Các văn bản pháp luật về BHLĐ chưa được hoàn chỉnh, việc thực hiện chưa nghiêm chỉnh. Nhiều cơ quan, doanh nghiệp chưa nhận thức một cách nghiêm túc công tác BHLĐ; coi nhẹ hay thậm chí vô trách nhiệm với công tác BHLĐ. Điều kiện làm việc còn nhiều nguy cơ đe doạ về ATLĐ; điều kiện VSLĐ bị xuống cấp nghiêm trọng. Tình hình tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp còn là thách thức lớn đối với nước ta.

Page 4: ATLD&BVMT. phan 2

Ngày nay, công tác bảo hộ đã được nâng lên một tầm cao mới. Hàng tuần công nhân chỉ phải làm việc 5 ngày, các công xưởng, xí nghiệp phải được kiểm tra công tác bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động định kỳ và chặt chẽ. Tổng Công đoàn Việt nam có các Phân Viện BHLĐ đóng ở các miền để kiểm tra và đôn đốc việc thực hiện công tác bảo đảm AT&VSLĐ.

4.1.3. Tính chất của công tác BHLĐ

Có 3 tính chất chủ yếu là: Pháp lý, Khoa học kỹ thuật và tính Quần chúng.

a/ BHLĐ mang tính Pháp lý

Những quy định và nội dung về BHLĐ được thể chế hoá thành những luật lệ, chế độ chính sách, tiêu chuẩn và được hướng dẫn cho mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức và cá nhân nghiêm chỉnh thực hiện.

Những chính sách, chế độ, quy phạm, tiêu chuẩn,... được ban hành trong công tác BHLĐ là luật pháp của Nhà nước. Xuất phát từ quan điểm: “Con người là vốn quý nhất”, nên luật pháp về BHLĐ được nghiên cứu, xây dựng nhằm bảo vệ con người trong sản xuất, mọi cơ sở kinh tế và mọi người tham gia lao động phải có trách nhiệm tham gia nghiên cứu và thực hiện.

Nếu để xảy ra tai nạn đến con người hay thiệt hại cho tài sản, sản xuất, các tổ chức nhà nước, các tổ chức xã hội, người sử dụng lao động và người lao động trong các thành phần kinh tế phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Đó là tính pháp lý của công tác bảo hộ lao động .

b/ BHLĐ mang tính KHKT

Mọi hoạt động của BHLĐ hiện đã và đang áp dụng những thành tựu của KHKT để phát hiện nhằm loại trừ các yếu tố nguy hiểm, có hại, phòng và chống tai nạn, các bệnh nghề nghiệp..., ngăn ngừa những trường hợp đáng tiếc trong lao động cũng như bảo vệ sức khỏe cho người lao động.

Các hoạt động điều tra, khảo sát, phân tích điều kiện lao động, đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố độc hại đến con người từ đó đề ra các giải pháp chống ô nhiễm, giải pháp đảm bảo an toàn đều là những hoạt động dựa trên cơ sở KHKT.

Ví dụ:Trong quá trình kiểm tra mối hàn bằng tia gamma (γ), nếu không hiểu biết về tính chất và tác dụng của các tia phóng xạ thì không thể có biện pháp phòng tránh có hiệu quả.

Nghiên cứu các biện pháp an toàn khi sử dụng cần trục, không thể chỉ có hiểu biết về cơ học, sức bền vật liệu mà còn nhiều vấn đề khác như sự cân bằng của cần cẩu, tầm với, cơ cấu điều khiển điện, tốc độ nâng chuyển v.v...

Muốn biến điều kiện lao động cực nhọc thành điều kiện làm việc thoải mái, muốn loại trừ tai nạn lao động trong sản xuất, phải giải quyết nhiều vấn đề tổng hợp phức tạp không những phải có hiểu biết về kỹ thuật chiếu sáng, kỹ thuật thông gió, cơ khí hoá, tự động hoá v.v... mà còn cần có các kiến thức về tâm lý lao động, thẩm mỹ công nghiệp, xã hội học lao động v.v...

Vì vậy công tác bảo hộ lao động mang tính chất KHKT tổng hợp.

Page 5: ATLD&BVMT. phan 2

c/ BHLĐ mang tính Quần chúng

BHLĐ có liên quan đến tất cả mọi người tham gia sản xuất. Tất cả mọi người từ người sử dụng lao động đến người lao động đều là đối tượng cần được bảo vệ. Đồng thời họ cũng là chủ thể phải tham gia vào công tác BHLĐ để bảo vệ mình và bảo vệ người khác.

Công nhân, người lao động là những người thường xuyên tiếp xúc với máy móc, trực tiếp thực hiện các quá trình công nghệ, v.v... Do đó họ có nhiều khả năng phát hiện những sơ hở trong công tác bảo đảm ATLĐ, đóng góp xây dựng các biện pháp về KTAT, tham gia ý kiến về chuẩn mực, quy cách dụng cụ phòng hộ, quần áo làm việc v.v...

Mặt khác dù các quy trình, quy phạm an toàn được đề ra tỉ mỉ đến đâu, nhưng công nhân chưa được học tập, chưa được thấm nhuần, chưa thấy rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của nó thì rất dễ vi phạm.

Muốn làm tốt công tác bảo hộ lao động, phải vận động được đông đảo mọi người tham gia. Cho nên BHLĐ chỉ có kết quả khi được mọi cấp, mọi ngành quan tâm, được mọi người lao động tích cực tham gia và tự giác thực hiện các luật lệ, chế độ, tiêu chuẩn, biện pháp để cải thiện điều kiện làm việc, phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

BHLĐ là hoạt động hướng về cơ sở sản xuất và con người mà trước hết là người trực tiếp lao động. Nó liên quan tới quần chúng lao động, bảo vệ quyền lợi và hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà, cho toàn xã hội.

Vì thế BHLĐ luôn mang tính quần chúng sâu rộng.

Tóm lại: Ba tính chất trên đây của công tác bảo hộ lao động: tính pháp lý, tính khoa học kỹ thuật và tính quần chúng có liên quan mật thiết với nhau và hỗ trợ lẫn nhau.

4.2. Một số khái niệm cơ bản

4.2.1. Điều kiện lao động

Là tập hợp tổng thể các yếu tố tự nhiên, kỹ thuật, tổ chức, kinh tế, xã hội được biểu hiện thông qua các công cụ và phương tiện lao động, đối tượng lao động, quy trình công nghệ, môi trường lao động, và sự sắp xếp bố trí cũng như các tác động qua lại của chúng trong mối quan hệ với con người tạo nên những điều kiện nhất định cho hoạt động của con người trong quá trình lao động. Điều kiện lao động có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ và tính mạng con người.

Điều kiện lao động nên xét cả về hai mặt: công cụ, phương tiện lao động và đối tượng lao động. Những công cụ và phương tiện tạo tiện nghi, thuận lợi hay gây khó khăn nguy hiểm cho người lao động (?); Đối tượng lao động rất đa dạng như dòng điện, chất nổ, phóng xạ,... cũng ảnh hưởng đến người lao động

Những ảnh hưởng đó còn phụ thuộc quy trình công nghệ, trình độ sản xuất (thô sơ hay hiện đại, lạc hậu hay tiên tiến), môi trường lao động (có nhiều yếu tố tiện nghi, thuận lợi hay ngược lại rất khắc nghiệt, độc hại), tất cả đều có tác động lớn đến sức khoẻ của người lao động.

Page 6: ATLD&BVMT. phan 2

4.2.2. Khái niệm về vùng nguy hiểm

Là khoảng không gian trong đó các nhân tố nguy hiểm có ảnh hưởng trực tiếp hay luôn đe doạ đối với sự sống và sức khoẻ của người lao động.

Vùng nguy hiểm có thể là:

• Phạm vi hoạt động của các cơ cấu truyền động: Bộ truyền bánh răng, mâm cặp, ...

• Phạm vi chuyển động của các bộ phận máy như đầu bào (theo phương ngang), đầu máy búa (theo phương thẳng đứng) v.v...

• Phạm vi hoạt động của các bộ phận quay: Bán kính quay đánh búa khi rèn, ...

• Phạm vi mà các vật gia công, phoi, bột đá mài v.v... có thể văng ra, phạm vi mà các ngọn lửa hàn, giọt kim loại lỏng bắn toé v.v...

• Phạm vi mà cần cẩu đang hoạt động, xe, cầu trục chuyển động qua lại...

• Khu vực điện cao thế, nơi đặt các thiết bị điện ...

• Khu vực có vật dễ cháy, nổ ...

• Khu vực có nguồn phóng xạ.

4.2.3. Các yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh trong sản xuất

Trong một điều kiện lao động cụ thể, bao giờ cũng xuất hiện các yếu tố vật chất có ảnh hưởng xấu, nguy hiểm, có nguy cơ gây tai nạn hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động, ta gọi đó là các yếu tố nguy hiểm và có hại. Cụ thể:

• Các yếu tố vật lý: nhiệt độ, độ ẩm, tiếng ồn, rung động, các bức xạ có hại, bụi,...

• Các yếu tố hoá học: hoá chất độc, các loại hơi, khí, bụi độc, các chất phóng xạ,...

• Các yếu tố sinh vật, vi sinh vật: các loại virut, vi khuẩn, siêu vi, ký sinh trùng, nấm, côn trùng, rắn,...

• Các yếu tố bất lợi về tư thế lao động, không tiện nghi do không gian chỗ làm việc, nhà xưởng chật hẹp, mất vệ sinh.

• Các yếu tố tâm lý không thuận lợi...

...đều là những yếu tố nguy hiểm và có hại.

4.2.4. Tai nạn lao động

Tai nạn lao động là tai nạn không may xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ lao động, gây tổn thương, ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ, làm giảm khả năng lao động hay chết người.

Tai nạn lao động được phân chia ra: chấn thương, nhiễm độc nghề nghiệp và bệnh nghề nghiệp

• Chấn thương: là tai nạn mà kết quả gây nên những vết thương hay huỷ hoại một phần cơ thể người lao động, làm tổn thương tạm thời hay mất khả năng lao động vĩnh viễn hay thậm chí gây tử vong. Chấn thương thường xảy ra đột ngột.

• Nhiễm độc nghề nghiệp: là sự huỷ hoại sức khoẻ do tác dụng của các chất độc xâm nhập vào cơ thể người lao động trong quá trình lao động, sản xuất. Sự tác động lâu dài với những liều lượng nhỏ của các chất độc lên cơ thể con người gây ra nhiễm độc mãn tính. Nhiễm độc đột ngột với liều lượng lớn của chất độc gọi là nhiễm độc cấp tính.

Page 7: ATLD&BVMT. phan 2

• Bệnh nghề nghiệp: là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động tới người lao động. Biểu hiện là sự suy yếu dần dần sức khoẻ, làm ảnh hưởng đến khả năng làm việc và sinh hoạt của người lao động. Đó là kết quả do tác dụng của những điều kiện làm việc bất lợi (tiếng ồn, rung,...) hoặc do thường xuyên tiếp xúc với các chất độc hại như sơn, bụi,... Bệnh nghề nghiệp thường có ảnh hưởng làm suy yếu sức khoẻ một cách từ từ và lâu dài.

4.2.5. Nguyên nhân gây tai nạn lao động

a/ Nhóm các nguyên nhân kỹ thuật

- Các trang thiết bị sản xuất, máy móc, các quá trình công nghệ chứa đựng các yếu tố nguy hiểm, có hại như bụi độc, ồn, rung, bức xạ, điện áp cao,...

- Máy móc thiết kế không phù hợp đặc điểm tâm sinh lý của người sử dụng;

- Độ bền của chi tiết máy không đảm bảo, gây sự cố trong quá trình sử dụng;

- Thiếu các thiết bị che chắn an toàn;

- Không có hệ thống phát tín hiệu an toàn, các cơ cấu phòng ngừa quá tải, như van an toàn, phanh hãm, cơ cấu khống chế hành trình,...

- Không thực hiện hay thực hiện không đúng các quy tắc an toàn, chẳng hạn thiết bị chịu áp lực không được kiểm nghiệm trước khi đưa vào sử dụng...

- Không thực hiện cơ khí hoá, tự động hoá những khâu lao động nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại, vận chuyển vật nặng lên cao...

- Thiếu các phương tiện phòng hộ cá nhân thích hợp; chẳng hạn dùng thảm cách điện không đúng tiêu chuẩn, dùng nhầm mặt nạ phòng độc...

b/ Nhóm các nguyên nhân về tổ chức

- Bố trí chỗ làm việc không hợp lý: chật hẹp, tư thế thao tác khó ...

- Bố trí các trang thiết bị trên mặt bằng sai nguyên tắc, dễ gây ra nguy hiểm

- Không thực hiện nguyên tắc an toàn khi bảo quản thành phẩm và bán thành phẩm. (ví dụ: xếp các đồ vật quá cao gây đổ vỡ)

- Thiếu các phương tiện đặc chủng phù hợp cho người lao động làm việc

- Không tổ chức huấn luyện, giáo dục cho người lao động theo đúng yêu cầu.

c/ Nhóm các nguyên nhân về vệ sinh công nghiệp

- Vi phạm các yêu cầu về vệ sinh công nghiệp khi thiết kế nhà xưởng, chẳng hạn bố trí nguồn khí độc ở đầu hướng gió, không khử độc, lọc bụi trước khi xả thải

- Để bụi, khí độc rò rỉ;

- Điều kiện vi khí hậu xấu, vi phạm tiêu chuẩn cho phép;

- Chiếu sáng không hợp lý.

- Độ ồn rung vượt quá tiêu chuẩn cho phép.

- Trang bị phòng hộ cá nhân không đảm bảo, không phù hợp.

- Không thực hiện các yêu cầu vệ sinh cá nhân.

Page 8: ATLD&BVMT. phan 2

4.2.6. Các biện pháp và phương tiện kỹ thuật an toàn cơ bản

a/ Biện pháp dự phòng đối với người lao động

• Thao tác lao động, nâng và mang vác nặng đúng nguyên tắc an toàn, tránh các tư thế cúi, gập người, lom khom, vặn mình... giữ cột sống thẳng, tránh vi chấn thương cột sống,v.v...

• Đảm bảo không gian thao tác, vận động trong tầm với tối ưu, tư thế làm việc thuận lợi với các cơ cấu điều khiển,... ghế ngồi phù hợp; giữ khoảng cách với vùng nguy hiểm;

• Đảm bảo điều kiện thị giác, tầm quan sát: khả năng nhìn rõ quá trình làm việc, nhìn rõ các phương tiện thông tin, cơ cấu điều khiển, các ký hiệu, biểu đồ, màu sắc.

• Đảm bảo điều kiện sử dụng thông tin thính giác, xúc giác.

• Đảm bảo tải trọng thể lực, tâm lý phù hợp, tránh quá tải hay đơn điệu.

b/ Thiết bị che chắn an toàn

Thiết bị an toàn là những dụng cụ thiết bị nhằm phòng ngừa những tai nạn có thể xảy ra trong sản xuất. Nhờ có thiết bị che chắn an toàn mà công nhân được bảo vệ khỏi bị ảnh hưởng của các nhân tố có hại trong quá trình sản xuất như phóng xạ, bức xạ, vật rắn bắn vào người,...

Thiết bị che chắn an toàn là thiết bị ngăn cách người lao động với vùng nguy hiểm, cách ly các bộ phận quay, chuyển động,... không cho công nhân tiếp xúc hoặc đi vào vùng có thể gây nguy hiểm. Thiết bị che chắn có các loại tấm kín, lưới hoặc rào chắn.

Có thể chia thành 2 loại: tạm thời và cố định.

• Thiết bị che chắn tạm thời được sử dụng ở những nơi làm việc không ổn định. Ví dụ: ở những nơi đang sửa chữa, lắp đặt thiết bị, ...

• Che chắn cố định đối với các bộ phận chuyển động của máy như dây cua-roa, các bộ truyền bánh răng, xích, vít quay, trục truyền, các khớp truyền động,...

Loại kín có các dạng hộp giảm tốc, hộp tốc độ,...

Loại hở dùng cho những cơ cấu cần theo dõi, xem xét sự làm việc của các chi tiết phía bên trong và thường được làm bằng lưới sắt hoặc bằng thép tấm rồi bắt vít vào khung để che chắn. bộ truyền đai, chắn xích và các cơ cấu con lăn cấp phôi, ...

Yêu cầu đối với thiết bị che chắn: hình dáng, cấu tạo, vật liệu chế tạo của các thiết bị che chắn rất khác nhau, phụ thuộc vào công dụng và điều kiện làm việc của nó. Chúng đều phải đảm bảo các yêu cầu sau:

+ Ngăn ngừa được tác động xấu do các bộ phận của thiết bị sản xuất gây ra;

+ Không gây cản trở cho thao tác của người lao động;

+ Không gây ảnh hưởng đến công suất của thiết bị và năng suất lao động.

c/ Thiết bị và cơ cấu phòng ngừa

Đây là các cơ cấu đề phòng sự cố của thiết bị có liên quan đến điều kiện an toàn của công nhân. Sự cố và hỏng hóc của thiết bị có thể do các nguyên nhân kỹ thuật khác nhau. Có thể do quá tải, do bộ phận chuyển động đã đi quá vị trí giới hạn, do nhiệt độ, vận tốc chuyển động, cường độ dòng điện vượt quá giá trị giới hạn cho phép. Nhiệm vụ của cơ cấu phòng ngừa là tự động ngắt máy, thiết bị, hoặc bộ phận của máy khi có một thông số nào

Page 9: ATLD&BVMT. phan 2

đó vượt quá giá trị giới hạn cho phép. Theo cách phục hồi lại khả năng làm việc của thiết bị, máy móc cơ cấu phòng ngừa được chia ra làm 3 loại:

Các hệ thống có thể tự động phục hồi khả năng làm việc khi thông số kiểm tra đã giảm đến mức quy định như ly hợp ma sát, rơle nhiệt, ly hợp vấu, lò xo, van an toàn kiểu đối trọng hoặc lò xo, v.v...

Ví dụ: Các loại ly hợp an toàn có tác dụng cắt chuyển động của xích truyền động, trục quay khi máy quá tải, rồi lại tự động đóng chuyển động của xích truyền động khi tải trọng trở về mức bình thường. Ly hợp an toàn có ưu điểm hơn các chốt cắt và then cắt quá tải vì chúng không bị phá hỏng mà chỉ bị trượt.

Các hệ thống phục hồi khả năng làm việc bằng cách thay thế cái mới như cầu chì, chốt cắt, then cắt... Các bộ phận này thường là yếu nhất trong hệ thống.

Các hệ thống phải phục hồi khả năng làm việc bằng tay: Rơle đóng ngắt điện, cầu dao điện, v.v...

Không một máy móc thiết bị nào được coi là hoàn thiện và đưa vào hoạt động nếu không có các thiết bị phòng ngừa thích hợp.

d/ Các cơ cấu điều khiển và phanh hãm

Với những tiến bộ của KHKT, người ta có thể ứng dụng việc cơ khí hoá, tự động hoá thay thế cho người lao động ở những vị trí làm việc không tốt cho con người, chẳng hạn như khu vực chịu nhiệt độ cao, có bức xạ, phóng xạ... Cơ khí hoá, tự động hoá với mục đích tạo ra năng suất lao động cao hơn đồng thời giải phóng người lao động khỏi những công việc nặng nhọc nguy hiểm. Có thể cơ khí hoá, tự động hoá từng phần hay toàn bộ quá trình sản xuất.

• C ơ cấu điều khiển gồm các nút mở, đóng máy, hệ thống tay gạt, các vô lăng điều khiển, v.v... cần phải làm việc tin cậy, dễ với tay tới, dễ phân biệt, v.v... Đối với những núm quay có đường kính nhỏ hơn 20mm, mômen lớn nhất không nên quá 1,5N.m; Các tay quay cần quay nhanh, tải trọng đặt không nên quá 20N; các tay gạt ở các hộp tốc độ lực yêu cầu không nên quá 120N. Các nút bấm “điều khiển” nên sơn màu để phân biệt. Nút bấm “mở máy” nên sơn màu đen hoặc xanh và làm thụt vào thân hộp 3mm, trái lại nút bấm “ngừng máy” nên sơn đỏ và làm thò ra 3÷5mm.

• Phanh hãm là bộ phận dùng cho hãm nhanh những bộ phận đang chuyển động của máy để có thể ngăn chặn kịp thời những trường hợp hỏng hóc hoặc tai nạn. Yêu cầu cơ cấu phanh phải gọn, nhẹ, nhanh nhạy, không bị trượt, không bị kẹt,... Phanh không rạn nứt, không tự động đóng mở khi không có sự điều khiển.

• Khóa liên động là cơ cấu tự động loại trừ khả năng gây ra nguy hiểm cho thiết bị và công nhân trong khi sử dụng máy nếu vì một lý do nào đó thao tác không đúng các nguyên tắc an toàn. Khoá liên động có thể dùng điện, cơ khí, thuỷ lực, điện-cơ kết hợp hoặc dùng tế bào quang điện.

Ví dụ: máy hàn khi chưa đóng cửa che chắn, khi quạt làm mát chưa làm việc thì máy không làm việc được.

• Điều khiển từ xa: có tác dụng tách người lao động ra khỏi vùng nguy hiểm đồng thời giảm nhẹ điều kiện lao động nặng nhọc như điều khiển đóng mở hoặc điều chỉnh các van trong công nghiệp hoá chất, điều khiển sản xuất từ phòng điều khiển trung tâm ở nhà máy điện,...

Page 10: ATLD&BVMT. phan 2

e/ Tín hiệu an toàn

Là các thiết bị phát ra tín hiệu nhằm báo trước nguy cơ hư hỏng hay có trục trặc sắp xảy ra khi vận hành máy để công nhân đề phòng và kịp thời xử lý. Tín hiệu có thể bằng ánh sáng (màu sắc) và tín hiệu bằng âm thanh.

Tín hiệu bằng màu sắc thường dùng trong giao thông: đèn đỏ, xanh, vàng; thiết bị điện (đỏ là có điện nguy hiểm hay mức điện áp cao nguy hiểm, xanh là an toàn; nhiệt độ cao thì đèn sáng đỏ, ...).

Tín hiệu âm thanh thường sử dụng là còi, chuông dùng cho các xe nâng hạ qua lại, các phương tiện giao thông vận tải, chuông báo hiệu tàu sắp chạy qua, chuông báo động khi có sự cố, ...

Dấu hiệu/Ký hiệu (Màu sơn, hình vẽ, chữ) có tác dụng nhắc nhở đề phòng tai nạn. Các dấu hiệu này thường được đặt trên bảng điều khiển, trên vùng đất sản xuất, trên từng máy, nơi đang sửa chữa, ở các vùng nguy hiểm,...

f/ Biển báo phòng ngừa

Là các bảng báo hiệu cho người lao động biết nơi nguy hiểm để cẩn thận khi đi quan lại hay cấm qua lại. Có 3 loại:

Bảng, biển báo hiệu: “Nguy hiểm chết người”, “STOP”;

Biển cấm: “Khu vực cao áp, cấm đến gần”, “Cấm đóng điện đang sửa chữa”, “Cấm hút thuốc lá”...

Bảng hướng dẫn: Khu vực làm việc, khu vực cấm hút thuốc lá, hướng dẫn đóng mở các thiết bị, ...

Ví dụ: biển báo giao thông...

g/ Phương tiện bảo vệ cá nhân:

Là những vật dụng dành cho công nhân để sử dụng nhằm bảo vệ cơ thể khỏi bị tác động của các yếu tố nguy hiểm và được phân theo các nhóm chính:

Trang bị bảo vệ mắt: kính bảo hộ trong suốt, kính màu, kính hàn;

Trang bị bảo vệ cơ quan hô hấp: khẩu trang, mặt nạ phòng độc, bình oxy,...

Bảo vệ thính giác: nút tai chống ồn, chụp tai chống ồn.

Bảo vệ đầu: các loại mũ mềm/cứng, mũ cho công nhân hầm lò, mũ chống mưa nắng, mũ chống lửa, mũ chống va chạm mạnh,...

Bảo vệ tay: găng tay các loại, bảo vệ chân: giầy, ủng, dép các loại,...

Bảo vệ thân thể: áo quần bảo hộ loại thường, loại chống nóng, chống cháy,...

Các trang bị bảo vệ cá nhân được sản xuất theo tiêu chuẩn của Nhà nước. Việc cấp phát và sử dụng phải theo quy định của pháp luật.

h/ Kiểm nghiệm dự phòng thiết bị

Kiểm nghiệm độ bền độ tin cậy của máy, thiết bị, công trình, các bộ phận của chúng trước khi đưa vào sử dụng.

Mục đích của kiểm nghiệm dự phòng là đánh giá chất lượng của thiết bị về các mặt tính năng, độ bền, độ tin cậy trước khi đưa thiết bị vào sử dụng.

Page 11: ATLD&BVMT. phan 2

Kiểm nghiệm dự phòng được tiến hành định kỳ, hoặc sau những kỳ sửa chữa, bảo dưỡng.

Ví dụ:• Thử nghiệm độ tin cậy của phanh hãm.

• Thử nghiệm độ bền, phát hiện rạn nứt của đá mài

• Thử nghiệm độ bền (tĩnh hoặc động) theo tải trọng và thời gian của cáp, xích.

• Thử nghiệm độ bền, độ kín khít của thiết bị áp lực, đường ống, van an toàn.

• Thử độ cách điện của các dụng cụ kỹ thuật điện và phương tiện bảo vệ cá nhân

4.3. Hệ thống luật pháp, chế độ chính sách về AT&VSLĐ ở Việt Nam

Trong thập niên 90 nhằm đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chúng ta đã đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật nói chung và pháp luật BHLĐ nói riêng. Đến nay chúng ta đã có một hệ thống văn bản pháp luật chế độ chính sách BHLĐ tương đối đầy đủ. Hệ thống pháp luật BHLĐ gồm 3 phần:

a/ Phần I: Bộ Luật Lao động và các luật khác có liên quan đến ATVSLĐ.

Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân (1989) có đề cập đến vệ sinh trong sản xuất, bảo quản, vận chuyển và bảo vệ hoá chất, vệ sinh các chất thải trong công nghiệp và trong sinh hoạt, vệ sinh lao động.

Pháp lệnh qui định về việc quản lý nhà nước đối với công tác PCCC (1961).

Luật Công đoàn (1990). Trong luật này trách nhiệm và quyền Công đoàn trong công tác BHLĐ được nêu rất cụ thể trong điều 6 chương II, từ việc phối hợp nghiên cứu ứng dụng KHKT BHLĐ, xây dựng tiêu chuẩn quy phạm ATLĐ, VSLĐ đến trách nhiệm tuyên truyền giáo dục BHLĐ cho người lao động, kiểm tra việc chấp hành pháp luật BHLĐ, tham gia điều tra tai nạn lao động...

Luật Hình sự (1999). Có nhiều điều liên quan đến ATLĐ, VSLĐ như Điều 227. Tội vi phạm quy định về ATLĐ, VSLĐ...; Điều 229. Tội vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng; Điều 236, 237 liên quan đến chất phóng xạ; Điều 239, 240 liên quan đến chất cháy, chất độc và vấn đề phòng cháy...

b/ Phần II: Nghị định 06/CP và các nghị định khác liên quan đến AT&VSLĐ.

Nghị định 06/CP ngày 20/1/1995 qui định chi tiết một số điều của Bộ Luật Lao động về AT&VSLĐ.

Nghị định 195/CP (31/12/1994) qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động về thời giờ làm việc, thời gian nghỉ ngơi.

Nghị định 38/CP (25/6/1996) qui định về xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động trong đó có những qui định liên quan đến hành vi vi phạm về AT&VSLĐ.

Nghị định 46/CP (6/8/1996) qui định xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về y tế, trong đó có một số quy định liên quan đến hành vi vi phạm về VSLĐ.

c/ Phần III: Các thông tư, Chỉ thị, Tiêu chuẩn qui phạm ATVSLĐ.

Chỉ thị số 237/TTg (19/4/1996) của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp thực hiện công tác PCCC.

Page 12: ATLD&BVMT. phan 2

Chỉ thị số 13/1998/CT-TTg (26/3/1998) của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác BHLĐ trong tình hình mới.

Thông tư liên tịch số 14/1998/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN hướng dẫn việc tổ chức thực hiện công tác BHLĐ trong doanh nghiệp, cơ sở SXKD.

Thông tư số 10/1998/TT-LĐTBXH hướng dẫn thực hiện chế độ trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân.

Thông tư số 13/TT-BYT (24/10/1996) của Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện quản lý vệ sinh lao động, quản lý sức khoẻ của người lao động, bệnh nghề nghiệp.

Thông tư số 10/1999/TTLT-BLĐTBXH-BYT hướng dẫn thực hiện chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật đối với người lao động làm việc trong điều kiện có yếu tố nguy hiểm, độc hại.

Page 13: ATLD&BVMT. phan 2

CHƯƠNG V: VỆ SINH LAO ĐỘNG

5.1. Các vấn đề chung về vệ sinh lao động

5.1.1. Đối tượng và nhiệm vụ của VSLĐ

Vệ sinh lao động (VSLĐ) là môn khoa học dự phòng, nghiên cứu điều kiện thiên nhiên, điều kiện sản xuất, sức khoẻ con người, ngưỡng sinh lý cho phép và những ảnh hưởng của điều kiện lao động, quá trình lao động, nguyên nhân gây tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. VSLĐ chủ yếu đi sâu nghiên cứu các tác hại nghề nghiệp, từ đó mà có biện pháp phòng ngừa các tác nhân có hại một cách có hiệu quả, nhằm bảo vệ sức khoẻ của người lao động đồng thời nâng cao năng suất lao động.

5.1.2. Các yếu tố tác hại nghề nghiệp trong sản xuất

Phát hiện các yếu tố tác hại nghề nghiệp và đánh giá mức độ ảnh hưởng của nó đối với cơ thể người lao động là nội dung quan trọng của VSLĐ.

Các yếu tố tác hại nghề nghiệp có thể chia thành

a/ Tác hại liên quan đến quá trình sản xuất:

Các yếu tố vật lý (tiếng ồn, độ rung, áp suất)Các yếu tố hoá học (khí, bụi có hoá chất độc)Các yếu tố sinh vật (Vi khuẩn, siêu vi khuẩn, ký sinh trùng)

b/ Tác hại liên quan đến tổ chức lao động

Thời gian lao động không hợp lý: làm việc liên tục, thông ca...Cường độ lao động không phù hợp với sức khoẻ người lao động.Điều kiện chỗ làm việc không đúng tiêu chuẩn quy định.Công cụ và phương tiện lao động không phù hợp.

c/ Tác hại liên quan đến điều kiện vệ sinh và an toàn

Chiếu sáng không hợp lýThiếu các phương tiện phòng hộ lao độngKhông có các hệ thống thông gió, chống bụi, chống nóng, tiếng ồn,...

Môi trường sản xuất cơ khí và ảnh hưởng của nó đến sức khoẻ của người lao động có thể kể đến các yếu tố: vi khí hậu, tiếng ồn, rung động, nhiệt độ nóng lạnh nơi làm việc, bức xạ ion hoá, bụi, hoá chất, độ ẩm, chế độ chiếu sáng, hệ thống thông gió, v.v...

5.1.3. Các bệnh nghề nghiệp

Từ tháng 2/1997 đến nay, Nhà nước Việt Nam đã công nhận 21 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm, đó là:

Nhóm I: Các bệnh bụi phổi và phế quản1. Bệnh bụi phổi - silic2. Bệnh bụi phổi atbet hay bệnh bụi phổi amiăng3. Bệnh bụi phổi – bông4. Bệnh viêm phế quản mãn tính nghề nghiệp

Nhóm II: Các bệnh nhiễm độc nghề nghiệp1. Bệnh nhiễm độc chì và các hợp chất chì2. Bệnh nhiễm độc benzen và các đồng đẳng của benzen3. Bệnh nhiễm độc thủy ngân

Page 14: ATLD&BVMT. phan 2

4. Bệnh nhiễm độc mangan5. Bệnh nhiễm độc TNT (Trinitrotoluen)6. Bệnh nhiễm độc Asen và các hợp chất Asen nghề nghiệp7. Bệnh nhiễm độc nicotin nghề nghiệp8. Bệnh nhiễm độc hóa chất trừ sâu

Nhóm III: Các bệnh nghề nghiệp do yếu tố vật lý1. Bệnh do quang tuyến X và các tia phóng xạ2. Bệnh điếc do tiếng ồn (điếc nghề nghiệp)3. Bệnh rung chuyển nghề nghiệp4. Bệnh giảm áp

Nhóm IV: Các bệnh da nghề nghiệp1. Bệnh sạm da2. Bệnh loét da, loét vách ngăn mũi, viêm da, chàm tiếp xúc.

Nhóm V: Các bệnh nhiễm khuẩn nghề nghiệp1. Bệnh lao nghề nghiệp2. Bệnh viêm gan virus nghề nghiệp3. Bệnh do leptospira nghề nghiệp

5.1.4. Các biện pháp đề phòng bệnh nghề nghiệp

Loại trừ các yếu tố tác hại nghề nghiệp là một vấn đề rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều bộ phận như: kỹ thuật sản xuất, an toàn lao động, y tế, thiết kế thi công,…

Biện pháp kỹ thuật công nghệ: ứng dụng các tiến bộ KHKT, đổi mới công nghệ, cơ khí hoá và tự động hoá những khâu có thể gây nguy hại cho con người.

Biện pháp bảo đảm vệ sinh lao động: ứng dụng kỹ thuật để thực hiện các giải pháp vệ sinh lao động như thông gió, chiếu sáng, chống ồn, chống rung...

Biện pháp tổ chức lao động khoa học: việc tổ chức lao động khoa học phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính chất công việc, khả năng và thể trạng của người lao động, điều kiện và phương tiện lao động.

Biện pháp y tế bảo vệ sức khoẻ người lao động: thực hiện đúng các quy định về bảo vệ sức khoẻ cho người lao động: khám, giám định khả năng lao động định kỳ, điều chỉnh giữa khả năng lao động và nhiệm vụ lao động cho phù hợp...

Biện pháp phòng hộ lao động cá nhân: mỗi người lao động được trang bị dụng cụ phòng hộ cá nhân thích hợp đảm bảo đạt yêu cầu sử dụng tốt nhất. Đây là biện pháp bổ trợ nhưng đóng vai trò rất quan trọng khi các biện pháp cải tiến công nghệ, biện pháp kỹ thuật vệ sinh chưa thực hiện được.

5.2. Ảnh hưởng của vi khí hậu trong sản xuất

5.2.1. Định nghĩa

Vi khí hậu là trạng thái lý học của không khí trong khoảng không gian thu hẹp gồm các yếu tố nhiệt độ không khí, độ ẩm tương đối của không khí, vận tốc chuyển động không khí và bức xạ nhiệt.

Điều kiện vi khí hậu trong sản xuất phụ thuộc vào tính chất của quá trình công nghệ và khí hậu địa phương.

Page 15: ATLD&BVMT. phan 2

5.2.2. Phân loại

Tuỳ theo tính chất toả nhiệt của quá trình sản xuất người ta chia ra 3 loại vi khí hậu:

• Vi khí hậu tương đối ổn định, nhiệt toả ra khoảng 20kcal/m3không khí/giờ (trong xưởng cơ khí, dệt v.v...).

• Vi khí hậu nóng, nhiệt toả ra hơn 20kcal/m3kk/giờ (trong xưởng đúc, rèn, cán, luyện gang thép v.v...).

• Vi khí hậu lạnh, nhiệt toả ra dưới 20kcal/m3kk/giờ (trong xưởng lên men rượi bia, nhà ướp lạnh, chế biến thực phẩm v.v...).

Về mặt vệ sinh, vi khí hậu có ảnh hưởng đến sức khoẻ, bệnh tật của công nhân. Làm việc lâu trong điều kiện vi khí hậu lạnh và ẩm có thể mắc bệnh thấp khớp, viêm đường hô hấp trên, viêm phổi và làm cho bệnh lao nặng thêm. Vi khí hậu lạnh và khô làm cho rối loạn vận mạch thêm trầm trọng, gây khô niêm mạc, nứt nẻ da. Vi khí hậu nóng ẩm làm giảm khả năng bay hơi mồ hôi, gây ra rối loạn thăng bằng nhiệt, nhanh mệt mỏi, nó còn tạo điều kiện cho vi sinh vật phát triển, gây các bệnh ngoài da...

5.2.3. Các yếu tố vi khí hậu

a/ Nhiệt độ không khí

Nhiệt độ là yếu tố khí tượng quan trọng trong sản xuất, phụ thuộc vào các nguồn phát nhiệt: lò nung, ngọn lửa, năng lượng điện hoặc cơ biến thành nhiệt, phản ứng hoá học sinh nhiệt, bức xạ nhiệt của mặt trời,v.v... chúng có thể làm cho nhiệt độ không khí lên đến 50÷60oC.

Khi nhiệt độ tăng cơ thể người có các hiện tượng: tăng sự mệt mỏi, giảm khả năng lao động, tim đập nhanh, huyết áp tăng, giảm hoạt động các cơ quan tiêu hoá, tăng sự phân bổ máu ở da, tăng sự bài tiết mồ hôi. Điều lệ quy định nhiệt độ tối đa cho phép ở nơi làm việc của công nhân về mùa hè là 30oC và không được vượt quá nhiệt độ bên ngoài từ 3÷5oC. Nơi sản xuất nóng như xưởng đúc, luyện cán thép, ... nhiệt độ không được vượt quá 40oC. Khi nhiệt độ cao hơn sẽ sinh ra các biến đổi về sinh lý và bệnh lý. Lao động ở nhiệt độ lạnh dễ gây bệnh thấp khớp, viêm đường hô hấp (viêm phế quản...), khô niêm mạc, gây cảm lạnh,...

b/ Độ ẩm

Độ ẩm tuyệt đối là lượng hơi nước (tính bằng gram) có trong 1m3 không khí.

Độ ẩm cực đại (ở nhiệt độ nhất định) là lượng hơi nước bão hoà (tính bằng gram) trong 1m3 không khí.

Độ ẩm tương đối là thương số của độ ẩm tuyệt đối và độ ẩm cực đại của không khí tại nhiệt độ tương ứng.

Độ ẩm là nhân tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến sức khoẻ của công nhân:

Khi độ ẩm quá cao, lượng ôxy mà cơ thể hít vào phổi bị giảm do hàm lượng hơi nước trong không khí tăng, làm cho cơ thể thiếu ôxy, sinh ra uể oải, phản xạ chậm, dễ gây tai nạn. Khi độ ẩm cao còn làm tăng sự đọng nước, làm cho việc đi lại trên nền xi măng bị trơn, dễ ngã. Độ ẩm cao còn tăng khả năng truyền dẫn điện, dễ chạm mát đối với mạch điện của các máy điện và truyền điện vào môi trường ẩm, gây ra tai nạn điện giật. Khi độ ẩm quá cao có thể bố trí hệ thống thông gió với lượng không khí khô thích hợp để điều chỉnh độ ẩm.

Page 16: ATLD&BVMT. phan 2

Khi độ ẩm thấp, không khí hanh khô, da khô nẻ, nhất là những người tiếp xúc với dầu mỡ, lớp mỡ trên da bị dầu mỡ hoà tan càng làm mặt da khô cứng, càng dể bị khô nứt. Các vết nứt nẻ trên da làm cho chân tay bị đau đớn, giảm độ linh hoạt và đó cũng là nguyên nhân xảy ra các tai nạn lao động.

Độ ẩm tương đối thích hợp khoảng 75÷85 %.

c/ Vận tốc chuyển động không khí

Tiêu chuẩn cho phép vận tốc chuyển động của không khí không quá 3m/s; vận tốc trên 5m/s có thể gây kích thích bất lợi cho cơ thể.

d/ Bức xạ nhiệt

Bức xạ nhiệt là những hạt năng lượng truyền trong không khí dưới dạng dao động sóng điện từ bao gồm tia hồng ngoại, tia sáng thường và tia tử ngoại.

Khi nung các vật thể kim loại tới 500oC chỉ phát ra tia hồng ngoại, nung tới 1800÷2000oC phát ra tia sáng thường và tia tử ngoại, nung tiếp đến 3000oC lượng tia tử ngoại phát ra càng nhiều.

Về mặt vệ sinh, cường độ bức xạ nhiệt được biểu thị bằng cal/m2.phút và được đo bằng nhiệt kế cầu (Tiêu chuẩn vệ sinh cho phép 1 cal/m2.phút). Ở các xưởng rèn, đúc, cán,... cường độ bức xạ nhiệt lên đến 5÷10 cal/m2.phút.

Để đánh giá tác dụng tổng hợp của các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm và vận tốc gió của môi trường không khí đối với cảm giác nhiệt của cơ thể con người, người ta đưa ra khái niệm về “Nhiệt độ hiệu quả tương đương” ký hiệu là thqtđ.

Nhiệt độ hiệu quả tương đương của không khí ở nhiệt độ t, độ ẩm tương đối φ và vận tốc gió v là nhiệt độ của không khí bão hoà hơi nước (φ=100%) và không có gió (v=0) mà gây ra cảm giác nhiệt giống hệt như cảm giác gây ra bởi không khí với t, φ, v đã cho.

Đối với cơ thể người Việt Nam có thể lấy vùng ôn hoà dễ chịu về mùa hè là thqtđ = 23÷27oC và mùa đông là thqtđ = 20÷25oC.

5.2.4. Điều hoà thân nhiệt ở người

Cơ thể người có nhiệt độ không đổi trong khoảng 37 ± 0,5oC là nhờ 2 quá trình điều nhiệt do trung tâm chỉ huy điều nhiệt điều khiển:

Để duy trì thăng bằng thân nhiệt trong điều kiện vi khí hậu nóng, cơ thể thải nhiệt thừa bằng cách giãn mạch ngoại biên và tăng cường tiết mồ hôi. Chuyển một lít máu từ nội tạng ra ngoài da thải được khoảng 2,5 kcal và nhiệt độ giảm được 3oC. Một lít mồ hôi bay hơi hoàn toàn thải ra được chừng 580 kcal.

Còn trong điều kiện vi khí hậu lạnh cơ thể tăng cường quá trình sinh nhiệt và hạn chế quá trình thải nhiệt để duy trì sự cân bằng nhiệt.

Thăng bằng nhiệt chỉ có thể thực hiện được trong phạm vi trường điều nhiệt. Vượt quá giới hạn này về phía dưới cơ thể sẽ bị nhiễm lạnh, ngược lại về phía trên sẽ bị nóng.

a/ Điều nhiệt hoá học

Page 17: ATLD&BVMT. phan 2

Nhiệt hoá là nhiệt sinh ra do sự ôxy hoá các chất dinh dưỡng. Điều nhiệt hoá học là nhờ biến đổi quá trình chuyển hoá theo nhiệt độ không khí bên ngoài và trạng thái lao động hay nghỉ ngơi của cơ thể. Quá trình chuyển hoá tăng khi nhiệt độ bên ngoài thấp và lao động nặng, ngược lại quá trình giảm khi nhiệt độ môi trường cao và cơ thể ở trạng thái nghỉ ngơi.

b/ Điều nhiệt lý học

Điều nhiệt lý học là tất cả các quá trình thải nhiệt của cơ thể gồm truyền nhiệt, đối lưu, bức xạ và bay hơi mồ hôi v.v...

Thải nhiệt bằng truyền nhiệt là hình thức mất nhiệt của cơ thể khi nhiệt độ của không khí và các vật thể mà ta tiếp xúc có nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ ở da. Khi da có nhiệt độ cao hơn nhiệt độ môi trường sẽ xảy ra quá trình truyền nhiệt ngược lại.

5.2.5. Ảnh hưởng của vi khí hậu đối với cơ thể người

a/ Ảnh hưởng của vi khí hậu nóng

Biến đổi về sinh lý: Nhiệt độ da (đặc biệt là vùng trán) rất nhạy cảm đối với nhiệt độ không khí bên ngoài. Biến đổi về cảm giác của da trán như sau:

28,0 ÷ 29,0oC → cảm giác lạnh;

29,0 ÷ 30,0oC → cảm giác mát;

30,0 ÷ 31,0oC → cảm giác dể chịu;

31,5 ÷ 32,5oC → cảm giác nóng;

32,5 ÷ 33,5oC → cảm giác rất nóng;

> 33,5oC → cảm giác cực nóng.

Thân nhiệt (ở dưới lưỡi) nếu thấy tăng thêm 0,3÷1oC là cơ thể có sự tích nhiệt. Thân nhiệt ở 38,5oC coi là nhiệt báo động nguy hiểm, sinh chứng say nóng.

Chuyển hoá nước: lượng nước cần cung cấp hàng ngày cho cơ thể khoảng 2÷3lít (kể cả phần thức ăn). Nước thải ra qua thận từ 1÷1,5lít, 0,2lít qua phân, lượng còn lại theo mồ hôi và hơi thở để ra ngoài. Nếu nhiệt độ quá cao, cơ thể phải tiết mồ hôi để hạ nhiệt độ, lượng nước có thể bị mất nhiều (có khi tới 5÷7lít sau 8 giờ lao động) làm cho cơ thể giảm sút trọng lượng. Khi thoát mồ hôi cơ thể mất theo muối khoáng: K, Na, I, Fe, các vitamin C, B1, B2,... Do mất nước nên tỷ trọng máu tăng lên, tim phải làm việc nhiều để thải lượng nhiệt thừa của cơ thể làm cho người mệt mỏi. Lượng nước bài tiết qua thận giảm chỉ còn khoảng 10÷15% so với lúc bình thường làm cho chức năng hoạt động của thận bị ảnh hưởng. Trong nước tiểu xuất hiện hồng cầu. Lúc này nếu uống nhiều nước, dịch vị sẽ bị loãng nên mất cảm giác thèm ăn, ăn không ngon, khả năng diệt trùng của dịch vị giảm sút làm đường ruột dễ bị viêm nhiễm.

Trong điều kiện vi khí hậu nóng, các bệnh thường tăng lên gấp đôi so với lúc bình thường. Rối loạn bệnh lý do vi khí hậu nóng thường gặp là chứng say nóng và chứng co giật, làm cho con người bị chóng mặt, đau đầu, buồn nôn và đau thắt lưng. Thân nhiệt có thể lên cao tới 39÷40oC, mạch nhanh, nhịp thở nhanh. Trường hợp nặng cơ thể bị choáng, mạch nhỏ, thở nông.

b/ Ảnh hưởng của vi khí hậu lạnh

Page 18: ATLD&BVMT. phan 2

Nhiệt độ môi trường xung quanh xuống thấp làm cho cơ thể mất nhiệt nhiều, nhịp tim, nhịp thở giảm và tiêu thụ ôxy tăng; làm các mạch máu co thắt sinh cảm giác tê cóng chân tay vận động khó khăn.

Trong điều kiện vi khí hậu lạnh thường xuất hiện một số bệnh viêm dây thần kinh, viêm khớp, viêm phế quản, hen và một số bệnh mãn tính khác do máu lưu thông kém và sức đề kháng của cơ thể giảm.

c/ Ảnh hưởng của bức xạ nhiệt

Trong các phân xưởng nóng, các dòng bức xạ chủ yếu do các tia hồng ngoại có bước sóng đến 10μm, hấp thụ tia này sẽ toả ra nhiệt, bức xạ nhiệt phụ thuộc vào độ dài bước sóng, cường độ bức xạ, thời gian chiếu xạ, diện tích bề mặt bị chiếu, vùng bị chiếu, góc chiếu, luồng bức xạ gián đoạn hay liên tục...

Tia hồng ngoại bước sóng ngắn (đặc biệt là loại có bước sóng khoảng 3μm) rọi sâu vào dưới da đến 3mm, gây bỏng da, rộp phồng da, ngoài ra còn gây ra bệnh đục nhân mắt.

Làm việc ngoài trời nóng, im gió, oi bức, tia bức xạ nhiệt có thể xuyên qua hộp xương sọ vào tổ chức não, hun nóng tổ chức não, màng não gây ra các biến đổi quan trọng mà ta gọi là say nắng.

Tia tử ngoại có 3 loại:

Loại A có bước sóng từ 400 => 315 nm;

Loại B có bước sóng từ 315 => 280 nm;

Loại C có bước sóng nhỏ hơn 280 nm.

Tia tử ngoại loại A thường có trong tia lửa hàn, đèn dây tóc, đèn huỳnh quang; tia tử ngoại B xuất hiện trong đèn thuỷ ngân, lò hồ quang,v.v... Tia tử ngoại làm bỏng da, phá huỷ giác mạc, gây đau đầu, chống mặt, ung thư da.

5.2.6. Các biện pháp phòng chống vi khí hậu xấu

a/ Biện pháp kỹ thuật

Áp dụng các tiến bộ KHKT như điều khiển từ xa, cơ khí hoá, tự động hoá các quá trình sản xuất, thực hiện điều hoà không khí, thông gió tốt, đảm bảo nơi làm việc thông thoáng.

Cách ly nguồn nhiệt đối lưu và bức xạ ở nơi lao động, bằng cách dùng những vật liệu cách nhiệt để bao bọc quanh lò, quanh ống dẫn; dùng màn nước để hấp thụ các tia bức xạ ở trước cửa lò.

b/ Biện pháp vệ sinh y tế

Trước hết cần quy định chế độ lao động thích hợp cho các ngành nghề có môi trường làm việc trong điều kiện vi khí hậu xấu. Khám tuyển khi nhận người, khám kiểm tra sức khoẻ định kỳ để kịp thời phát hiện bệnh và điều trị.

c/ Biện pháp tổ chức

Tổ chức lao động, chế độ ăn uống, bồi dưỡng, nghỉ ngơi hợp lý để nhanh chóng phục hồi sức lao động. Trang bị đầy đủ các phương tiện BHLĐ như áo quần chống nóng, chống lạnh, khẩu trang, kính mắt v.v...

5.3. Tiếng ồn và rung động trong sản xuất

Page 19: ATLD&BVMT. phan 2

5.3.1. Tiếng ồn

a/ Khái niệm về tiếng ồn

Tiếng ồn là tập hợp những âm thanh khác nhau về cường độ và tần số không có nhịp điệu, không phù hợp với mong muốn của người nghe, gây cho con ngươì cảm giác khó chịu.

Về mặt vật lý, âm thanh là dao động sóng của môi trường đàn hồi gây ra bởi sự dao động của các vật thể, không gian trong đó có sóng âm lan truyền gọi là trường âm. Áp suất dư trong trường âm gọi áp suất âm p, đơn vị dyn/cm2 hoặc bar.

Cường độ âm I là số năng lượng sóng âm truyền qua diện tích 1cm2 vuông góc với phương truyền sóng trong một giây (erg/cm2.s hoặc w/cm2). Cường độ âm và áp suất âm liên hệ với nhau theo biểu thức:

(erg/cm2.s)

ρ - mật độ của môi trường, g/cm3.

Trong không gian tự do cường độ âm tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách r đến nguồn âm:

Ir - cường độ âm cách nguồn điểm một khoảng r.

Tai chúng ta tiếp nhận âm nhờ dao động của áp suất âm, áp suất âm tỷ lệ với biến đổi cường độ âm nhưng trong khi cường độ âm I biến đổi n lần thì áp suất âm biến đổi lần. Để đánh giá cảm giác nghe, chỉ những đặc trưng vật lý là chưa đủ vì tai chúng ta phân biệt cảm giác nghe không theo sự tăng tuyệt đối của cường độ âm (hay áp suất âm) mà theo sự tăng tương đối của nó.

Cũng vì thế người ta không đánh giá cường độ âm và áp suất âm theo đơn vị tuyệt đối mà theo đơn vị tương đối và dùng thang logarit thay cho thang thập phân để thu hẹp phạm vi trị số đo. Khi đó ta có mức cường độ âm đo bằng đêxiben (dB):

(dB)

trong đó, I - cường độ âm;

I0 - cường độ âm ở ngưỡng nghe được, gọi là mức âm.

Mức âm I0 là mức cường độ âm tối thiểu mà tai người cảm nhận được, tuy nhiên ngưỡng nghe được thay đổi theo tần số.

Tương tự ta có mức áp suất âm:

(dB)

trong đó, P0 - ngưỡng quy ước, P0 = 2.10-5N/m2.

Mức công suất âm:

(dB)

Page 20: ATLD&BVMT. phan 2

trong đó, W0 - ngưỡng không hay ngưỡng quy ước, W0 = 10-12.

Như vậy khi âm thanh có áp lực P0 = 2.10-5N/m2 hay cường độ I0 = 10-12 w/m2 thì có mức âm bằng 0(dB).

Tần số âm f được thể hiện bằng Hertz (Hz), bước sóng λ, vận tốc lan truyền c, biên độ y. Chúng có liên hệ với nhau qua công thức:

c = λ.f (m/s).

Vận tốc lan truyền sóng âm phụ thuộc vào các tính chất và mật độ môi trường. Ví dụ ở nhiệt độ 0oC vận tốc sóng âm trong không khí là 330m/s, trong nước là 1440m/s, trong thép, nhôm, thuỷ tinh là 5000m/s, trong đồng 3500m/s, trong cao su 40÷50m/s.

Dao động âm nghe được có tần số từ 16Hz ÷ 20kHz. Giới hạn này ở mỗi người không giống nhau, tuỳ theo lứa tuổi và cơ quan thính giác.

Dao động có tần số dưới 16Hz gọi là hạ âm, tai người không nghe được; dao động có tần số trên 20kHz gọi là siêu âm, tai người cũng không nghe được.

b/ Phân loại tiếng ồn

Trong thực tế người ta phân ra nhiều loại tiếng ồn, tuy nhiên theo đặc tính của nguồn ồn có thể phân ra:

Tiếng ồn cơ học: sinh ra do sự chuyển động của các chi tiết hay bộ phận máy móc có khối lượng không cân bằng. ví dụ tiếng ồn của máy phay.

Tiếng ồn va chạm: sinh ra do một số quy trình công nghệ, ví dụ: rèn, tán.

Tiếng ồn khí động: sinh ra khi hơi chuyển động với vận tốc cao, như động cơ phản lực, máy nén khí.

Tiếng nổ hoặc xung: sinh ra khi động cơ đốt trong làm việc...

Trị số mức ồn của một số nguồn:Tiếng ồn va chạm:

Xưởng rèn: 98 dBXưởng đúc: 112 dBXưởng gò, tán: 113÷117 dB

Tiếng ồn cơ khí:Máy tiện: 93÷96 dBMáy bào: 97 dB

Tiếng ồn khí động:Môtô: 105 dBMáy bay tuốc bin phản lực: 135 dB

Để đánh giá sơ bộ tiếng ồn có thể dùng mức ồn tổng cộng đo theo thang A của máy đo tiếng ồn gọi là mức âm theo đơn vị dBA.

c/ Tác hại của tiếng ồn

Trị số cường độ tối thiểu của tiếng ồn có thể gây ra tác dụng mệt mỏi đối với cơ quan thính giác phụ thuộc vào tần số của nó. Đối với âm tần số 2000÷4000 Hz, tác dụng mệt mỏi sẽ bắt đầu từ 80 dB, đối với âm 5000÷6000 Hz thì từ 60 dB.

Page 21: ATLD&BVMT. phan 2

Tiếng ồn gây mệt mỏi thính lực, đau tai, mất trạng thái cân bằng, ngủ chập chờn, giật mình, mất ngủ, loét dạ dày, tăng huyết áp, hay cáu gắt, giảm sức lao động sáng tạo, giảm sự nhạy cảm, đầu óc mất tập trung, rối loại cơ bắp...

Tiếng ồn gây điếc nghề nghiệp với đặc điểm là điếc không phục hồi được, điếc không đối xứng và không tự tiến triển khi công nhân thôi tiếp xúc với tiếng ồn. Tiếng ồn tác dụng vào các cơ quan bộ phận của cơ thể, lâu ngày làm cho cơ quan này mất trạng thái cân bằng. Kết quả là cơ thể bị suy nhược, máu lưu thông bị hạn chế, tai bị ù, đầu óc bị căng thẳng, khả năng lao động sẽ bị giảm, sự chú ý của con người cũng bị giảm sút và từ đó có thể gây ra tai nạn.

Những cơ thể khác nhau thì tác hại của tiếng ồn cũng khác nhau. Con người có khả năng thích nghi với điều kiện làm việc có tiếng ồn nhưng mức độ thích nghi này chỉ giới hạn trong khoảng nhất định.

Khi làm việc lâu trong môi trường có tiếng ồn thì khả năng nghe sẽ bị rối loạn, mất khả năng nghe những âm thanh có tần số cao, thanh bổng, khả năng phục hồi thính giác rất thấp.

Tiếng ồn lớn hơn cường độ 70 dB thì không còn nghe tiếng nói của người với nhau nữa và mọi sự thông tin bằng âm thanh của con ngườì trở nên vô hiệu.

Bảng: Tiếng ồn phương tiện giao thông đường bộMức ồn tối đa cho phép (TCVN 5948 - 1995)

STT Tên phương tiện vận tải Mức ồn tối đa, dB

1 Xe máy đến 125 cm3 80

2 Xe máy trên 125 cm3 85

3 Xe máy ba bánh 85

4 Xe ôtô con, xe taxi, xe khách đến 12 chỗ ngồi 80

5 Xe khách trên 12 chỗ ngồi 85

6 Xe tải đến 3,5 tấn 85

7 Xe tải trên 3,5 tấn 87

8 Xe tải công suất trên 150 KW 88

9 Máy kéo, xe ủi đất, xe tải đặc biệt lớn 90

Bảng: Thời gian chịu đựng của mức ồn trong ngày

Thời gian tác động trong ngày

(giờ)Mức ồn (dB)

Thời gian tác động trong ngày

(giờ)Mức ồn (dB)

8643

90929597

21.51

0.5

100102105110

Page 22: ATLD&BVMT. phan 2

5.3.2. Rung động

a/ Khái niệm

Khi các máy móc và động cơ làm việc không chỉ sinh ra các dao động âm tai ta nghe được mà còn sinh ra các dao động cơ học dưới dạng rung động của các vật thể và các bề mặt xung quanh.

Rung động là dao động cơ học của vật thể đàn hồi sinh ra khi trọng tâm hoặc trục đối xứng của chúng xê dịch trong không gian hoặc do sự thay đổi có tính chu kỳ hình dạng mà chúng có ở trạng thái tĩnh.

Rung động của một tần số vòng nào đấy được đặc trưng bằng 3 thông số: biên độ dịch chuyển λ, biên độ của vận tốc γ và biên độ của gia tốc β.

Mức vận tốc dao động của rung động:

(dB)

trong đó, γ0 = 5.10-8m/s - ngưỡng quy ước của biên độ vận tốc dao động.

Các bề mặt dao động bao giờ cũng tiếp xúc với không khí xung quanh nó. Khi bề mặt dao động sẽ hình thành những sóng âm trong lớp không khí kề sát với nó. Mức to của âm này được đo bằng áp suất âm hình thành.

Tiêu chuẩn cho phép:

Bảng: Rung cục bộ khi điều khiển trong 8 giờ

Tần số (Hz)Vận tốc rung (cm/s)

Rung đứng Rung ngang

1631.563125250

4.02.82.01.41.0

4.02.82.01.41.0

Bảng: Rung cục bộ của dụng cụ cầm tay trong 8 giờ

Tần số (Hz)Vận tốc rung

(cm/s)

816

31.56312525050010002000

5.05.03.52.51.81.20.90.630.45

Bảng: Rung toàn thân

Page 23: ATLD&BVMT. phan 2

Tần số (Hz)Vận tốc rung (cm/s)

Rung đứng Rung ngang

124816

31.563125250

12.67.12.51.31.11.11.11.11.1

53.53.23.23.23.23.23.23.2

Bảng: Thời gian cho rung cục bộ và toàn thân

Vượt quá tiêu chuẩn

Tổng thời gian rung cho phép trong ca làm việc (phút)

Dụng cụ cầm tayVị trí làm việc

(toàn thân)

Trên 1 lầnTrên 1,4 lầnTrên 2 lầnTrên 2,8 lầnTrên 4 lần

320160804020

480180603016

b/ Tác hại của rung động

Phạm vi dao động mà ta thu nhận như rung động âm nằm trong giới hạn từ 12÷8000 Hz. Theo hình thức tác động, người ta chia ra chấn động chung và chấn động cục bộ. Rung động chung gây ra dao động cho toàn cơ thể, còn chấn động cục bộ chỉ làm cho từng bộ phận cơ thể dao động. Trong nhiều trường hợp người lao động có thể chịu tác động của cả rung động chung và rung động cục bộ gọi là rung động tổ hợp.

Khi chịu tác dụng của rung động, thần kinh sẽ bị suy mòn, rối loạn dinh dưỡng, con người nhanh chóng cảm thấy uể oải và thờ ơ, lãnh đạm, tính thăng bằng ổn định bị tổn thương. Chấn động cũng gây ra bệnh ở khớp xương, làm rối loạn hệ thần kinh ngoại biên và trung ương.

Tần số thấp (<2Hz) gây nên say, tần số từ 2÷20Hz thường gây nên tổn thương cột sống và một số bệnh khác. Tần số từ 20÷1000Hz rung cục bộ thường gây nên bệnh rung nghề nghiệp điển hình. Nếu rung toàn thân thường gây nên rối loạn thần kinh, tuần hoàn và hội chứng tiền đình.

Các biểu hiện bệnh lý rung động nghề nghiệp:

+ Rối loạn vận mạch

Hay gặp ở công nhân sử dụng dụng cụ cầm tay có tần số trên 40Hz, biên độ 0.5-5mm. Khi nặng gây bệnh ngón tay trắng hay còn gọi là bệnh Raynaud

Page 24: ATLD&BVMT. phan 2

Raynaud Maurice, nhà nội khoa người Pháp) (Còn gọi là bệnh Raynaud, bệnh hoại thư Raynaud, hoại thư cân đối) Rối loạn tuần hoàn kịch phát ở tay và chân, cân đối hai bên, kèm các dấu hiệu hoại thư thứ phát: các cơn co thắt động mạch gây đau cân đối cả hai bên, chủ yếu ở ngón tay, kèm theo tê bì và thay đổi mầu sắc. Trên da có các mụn nước, hoại thư thì hiếm hơn. Đôi khi thấy có các dấu hiệu này ở mũi, tai, cằm. Dùng phương pháp soi mao mạch thấy rất nhiều các mao mạch cuộn ngoằn ngoèo, thậm chí tạo thành nút thắt. Đôi khi trên X quang có xương sườn cổ. Bị bệnh đa số là phụ nữ.

Dấu hiệu của bệnh mạch máu: các cơn xanh tím hoặc nhợt thiếu máu ở các ngón tay (đôi khi cả ở mũi và tai) khi bị lạnh hoặc kích động tinh thần.

+ Gây tổn thương gân, cơ, thần kinh. Tổn thương này xảy ra ở tần số 300Hz, đau cơ gân, nặng hơn là teo cơ

+Tổn thương xương, khớp

5.3.3. Các biện pháp phòng chống tiếng ồn và rung động

(1880) Robert Koch, nhà y học người Đức, đã cảnh báo về tiếng ồn như sau: Một ngày nào đó con người sẽ phải đấu tranh với tiếng ồn như đã từng đấu tranh chống lại bệnh dịch tả hay dịch hạch.

Một nhà chuyên môn khác nói: Nếu chúng ta không tiêu diệt tiếng ồn thì tiếng ồn sẽ tiêu diệt ta.

Vì vậy chống ồn là nhiệm vụ rất quan trọng. Các biện pháp chủ yếu là:

i. Làm giảm hay triệt tiêu tiếng ồn ngay từ nơi phát sinh

Đây là biện pháp chống ồn chủ yếu bao gồm việc lắp ráp có chất lượng các máy móc và động cơ, sửa chửa các máy móc đã cũ hay bị rơ.

Thay đổi tính đàn hồi và khối lượng của các bộ phận máy móc để thay đổi tần số dao động riêng của chúng tránh hiện tượng cộng hưởng.

Thay thép bằng chất dẻo, cao su,v.v... hoặc quét mặt các chi tiết bằng sơn hoặc dùng các hợp kim ít vang hơn khi va chạm.

Tự động hoá quá trình công nghệ và áp dụng hệ thống điều khiển từ xa.

Bố trí các xưởng ồn làm việc vào thời gian các khu khác có ít người làm việc.

Nâng cao độ chính xác của các khâu truyền động

Nâng cao độ cứng, vững của hệ thống công nghệ

Dùng bộ tắt rung động lực: khi một vật có khối lượng m1 dao động dưới tác dụng của lực F, để làm tắt rung động người ta có thể lắp thêm một khối lượng m 2 nhờ lo xo có độ cứng C thích hợp để tắt hoàn toàn dao động của m1.

ii. Giảm tiếng ồn trên đường lan truyền

Áp dụng các nguyên tắc hút âm và cách âm.

Năng lượng âm lan truyền trong không khí thì một phần năng lượng bị phản xạ một phần bị vật liệu của kết cấu hút và một phần xuyên qua kết cấu sang phòng bên cạnh.

Sự phản xạ và hút âm phụ thuộc vào tần số và góc tới của sóng âm, nó xảy ra do sự biến đổi cơ năng mà các phần tử không khí mang theo thành nhiệt năng do ma sát nhớt của

Page 25: ATLD&BVMT. phan 2

không khí trong các mao quản nhỏ của vật liệu xốp, hoặc do ma sát trong của vật liệu chế tạo các tấm mỏng chịu dao động dưới tác dụng của sóng âm.

Vật liệu hút âm có các loại: vật liệu có nhiều lỗ nhỏ; vật liệu có nhiều lỗ nhỏ đặt sau tấm đục lỗ; kết cấu cộng hưởng; tấm hút âm đơn.

Để cách âm thông thường là làm vỏ bọc động cơ, máy nén và các thiết bị công nghiệp khác. Vỏ bọc làm bằng kim loại, gỗ, chất dẻo, kính và các vật liệu khác. Để giảm dao động truyền từ máy vào vỏ bọc, liên kết giữa chúng không làm cứng. Vỏ bọc nên đặt trên đệm cách chấn động làm bằng vật liệu đàn hồi.

Để chống tiếng ồn khí động người ta có thể sử dụng các buồng tiêu âm, ống tiêu âm và tấm tiêu âm.

Đưa vào hệ dao động một liên hệ đàn hồi trung gian như:

Đặt một lớp vật liệu cách rung dưới bệ máy

Tạo nền móng có khe hở được nhét đầy vật liệu xốp

Đặt giữa máy và nền một hệ thống giằng cứng nhờ cơ cấu đàn hồi để giảm rung từ nguồn đến nền

iii. Dùng phương tiện bảo vệ cá nhân

Cần sử dụng các loại dụng cụ như cái bịt tai làm bằng chất dẻo, cái che tai và bao ốp tai để chống ồn. Để chống rung động sử dụng các bao tay có đệm đàn hồi, giày có đế chống rung.

5.4. Phòng chống nhiễm độc trong sản xuất

5.4.1. Đặc tính chung của hoá chất độc

Chất độc công nghiệp là những chất dùng trong sản xuất, khi xâm nhập vào cơ thể dù chỉ một lượng nhỏ cũng gây nên tình trạng bệnh lý. Bệnh do chất độc gây ra trong sản xuất gọi là nhiễm độc nghề nghiệp. Khi độc tính chất độc vượt quá giới hạn cho phép, sức đề kháng của cơ thể yếu, độc chất sẽ gây ra nhiễm độc nghề nghiệp.

Các hoá chất độc có trong môi trường làm việc có thể xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp, tiêu hoá và qua tiếp xúc với da. Các loại hoá chất có thể gây độc hại: CO, C2H2, MnO, ZnO2, hơi sơn, hơi ôxid Crôm (mạ), hơi các axit.

• Tính độc hại của các hoá chất phụ thuộc vào các loại hoá chất, nồng độ, thời gian tồn tại trong môi trường mà người lao động tiếp xúc với nó.

• Các chất độc càng dễ tan vào nước thì càng độc vì chúng dể thấm vào các tổ chức thần kinh của người và gây tác hại.

• Trong môi trường sản xuất có thể cùng tồn tại nhiều loại hoá chất độc hại. Nồng độ của từng chất có thể không đáng kể, chưa vượt quá giới hạn cho phép, nhưng nồng độ tổng cộng của các chất độc cùng tồn tại có thể vượt quá giới hạn cho phép và có thể gây trúng độc cấp tính hay mãn tính.

5.4.2. Tác hại của hoá chất độc

a/ Phân loại các nhóm hoá chất độc

Nhóm 1: Chất gây bỏng, kích thích da, niêm mạc: như axit đặc, kiềm đặc và loãng (vôi tôi, NH3),... Nếu bị trúng độc nhẹ thì dùng nước lã dội rửa ngay.

Page 26: ATLD&BVMT. phan 2

Chú ý bỏng nặng có thể gây choáng, mê man, nếu trúng mắt có thể bị mù.Nhóm 2: Các chất kích thích đường hô hấp trên và phế quản: hơi clo (Cl2), NH3, SO3

--, NO, SO2, hơi flo (F2), hơi crôm v.v... Các chất gây phù phổi: NO2, NO3

-, Các chất này thường là sản phẩm cháy các hơi đốt ở nhiệt độ trên 800oC.Nhóm 3: Các chất làm người bị ngạt do làm loãng không khí như: CO2, C2H5, CH4, N2, CO...Nhóm 4: Các chất độc đối với hệ thần kinh như các loại hydro cacbua, các loại rượu, xăng, H2S, CS2, v.v...Nhóm 5: Các chất gây độc với cơ quan nội tạng như hydrocacbon, clorua metyl, bromua metyl v.v... Chất gây tổn thương cho hệ tạo máu: Benzen, phenol. Các kim loại và phi kim độc như chì, thuỷ ngân, mangan, asen, v.v...

b/ Một số chất độc và các dạng nhiễm độc nghề nghiệp thường gặp

Nhiễm độc chì :Tác hại của chì (Pb) là làm rối loạn việc tạo máu, làm rối loạn tiêu hoá và làm suy

hệ thần kinh, viêm thận, đau bụng chì, thể trạng suy sụp.

Nhiễm độc chì mản tính có thể gây mệt mỏi, ít ngủ, ăn kém, nhức đầu, đau cơ xương, táo bón ở thể nặng có thể liệt các chi, gây tai biến mạch máu não, thiếu máu, phá hoại tuỷ xương. Nhiễm độc chì có thể xảy ra khi in ấn, khi làm ắc quy, ...

Chì còn có thể xuất hiện dưới dạng Pb(C2H5)4, hoặc Pb(CH3)4. Những chất này pha vào xăng để chống kích nổ, song khí xả động cơ có chì có thể xâm nhập cơ thể qua đường hô hấp, đường da (rất dễ thấm qua lớp mỡ dưới da). Với nồng độ các chất này ≥ 0,182ml/lít không khí thì có thể làm cho súc vật thí nghiệm chết sau 18 giờ.

Nhiễm độc thuỷ ngân:Thuỷ ngân (Hg) dùng trong công nghiệp chế tạo muối thuỷ ngân, làm thuốc giun,

thuốc lợi tiểu, thuốc trừ sâu thâm nhập vào cơ thể bằng đường hô hấp, đường tiêu hoá và đường da.

Thường gây ra nhiễm độc mãn tính: gây viêm lợi, viêm miệng, loét niêm mạc,viêm họng, run tay, gây bệnh Parkinson, buồn ngủ, kém nhớ, mất trí nhớ, rối loạn thần kinh thực vật.

Nhiễm độc asenCác hợp chất của asen như As2O3 dùng làm thuốc diệt chuột; AsCl3 để sản xuất đồ

gốm; As2O5 dùng trong sản xuất thuỷ tinh, bảo quản gỗ, diệt cỏ, nấm. Chúng có thể gây ra:

• Nhiễm độc cấp tính: đau bụng, nôn, viêm thận, viêm thần kinh ngoại biên, suy tuỷ, cơ tim bị tổn thương và có thể gây chết người.

• Nhiễm độc mãn tính: gây viêm da mặt, viêm màng kết hợp, viêm mũi kích thích, thủng vách ngăn mũi, viêm da thể chàm, dầy sừng và xạm da, gây bệnh động mạch vành, thiếu máu, gan to, xơ gan, ung thư gan và ung thư da.

Nhiễm độc crôm:Gây loét da, loét mạc mũi, thủng vách ngăn mũi, kích thích hô hấp gây ho, co thắt

phế quản và ung thư phổi.

Nhiễm độc mangan:Gây rối loạn tâm thần và vận động, nói khó và dáng đi thất thường, thao cuồng và

chứng Parkinson, rối loạn thần kinh thực vật, gây bệnh viêm phổi, viêm gan, viêm thận.

Page 27: ATLD&BVMT. phan 2

Cacbon monoxit (CO)Cácbon ôxid là thứ hơi không màu, không mùi, không vị. Rất dễ có trong các phân

xưởng đúc, rèn, nhiệt luyện, và có cả trong khí thải của ô tô hoặc động cơ đốt trong. CO gây ngạt thở, hoặc làm cho người bị đau đầu, ù tai; ở dạng nhẹ sẽ gây đau đầu ù tai dai dẳng, sút cân, mệt mỏi, chống mặt, buồn nôn, khi bị trúng độc nặng có thể bị ngất xỉu ngay, có thể chết.

Benzen (C6H6)Benzen có trong các dung môi hoà tan dầu, mỡ, sơn, keo dán, trong xăng ô tô,...

Benzen gây chứng thiếu máu, chảy máu răng lợi, khi bị nhiễm nặng có thể bị suy tuỷ, nhiễm trùng huyết, nhiễm độc cấp có thể gây cho hệ thần kinh trung ương bị kích thích quá mức.

Xianua (CN-)Xianua xuất hiện dưới dạng hợp chất với NaCN khi thấm cácbon và thấm nitơ. Đây

là chất rất độc. Nếu hít phải hơi NaCN ở liều lượng 0,06g có thể bị chết ngạt. Nếu ngộ độc xianua thì xuất hiện các chứng rát cổ, chảy nước bọt, đau đầu tức ngực, đái dắt, ỉa chảy,... Khi bị ngộ độc xianua phải đưa đi cấp cứu ngay.

Axit cromic (H2CrO4)Loại này thường khi mạ crôm cho các đồ trang sức, mạ bảo vệ các chi tiết máy. Hơi

axit crômic làm rách niêm mạc gây viêm phế quản, viêm da.

Hơi ôxit nitơ ( NO2 )Chúng có nhiều trong các ống khói các lò phản xạ , trong khâu nhiệt luyện thấm

than, trong khí xả của động cơ Diezel và trong khi hàn điện. Hơi NO2 làm đỏ mắt, rát mắt, gây viêm phế quản, tê liệt thần kinh, hôn mê.

Khi hàn điện có thể các các hơi độc và bụi độc : FeO, Fe2O3, SiO2, MnO, CrO3, ZnO, CuO, ...

5.4.3. Các biện pháp phòng tránh và cấp cứu

a/ Cấp cứu:

• Đưa bệnh nhân ra khỏi nơi nhiễm độc, thay quần áo bị nhiễm độc, ủ ấm cho nạn nhân.

• Cho ngay thuốc trợ tim, hay hô hấp nhân tạo, nếu bị bỏng do nhiệt phải cấp cứu bỏng, rửa da bằng xà phòng nơi bị thấm chất độc kiềm, axit phải rửa ngay bằng nước sạch.

• Nếu bệnh nhân bị nhiễm độc nặng đưa cấp cứu bệnh viện.

b/Biện pháp chung đề phòng về kỹ thuật

• Cấm để thức ăn, thức uống và hút thuốc gần khu vực sản xuất.

• Các hoá chất phải bảo quản trong thùng kín, phải có nhãn rõ ràng.

• Chú ý công tác phòng cháy chữa cháy.

• Tự động hoá quá trình sản xuất hoá chất.

• Tổ chức hợp lý hoá quá trình sản xuất: bố trí riêng các bộ phận toả ra hơi độc, đặt ở cuối chiều gió. Phải thiết kế hệ thống thông gió hút hơi khí độc tại chỗ.

Page 28: ATLD&BVMT. phan 2

c/ Dụng cụ phòng hộ cá nhân

Phải trang bị đủ dụng cụ bảo hộ lao động: mặt nạ phòng độc, găng tay, ủng, khẩu trang, v.v ...

d/ Biện pháp vệ sinh - ytế

• Xử lý chất thải trước khi đổ ra ngoài.• Có kế hoạch kiểm tra sức khoẻ định kỳ, có chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật.

5.5. Phòng chống bụi trong sản xuất

5.5.1. Định nghĩa và Phân loại

a/ Định nghĩa

Bụi là tập hợp nhiều hạt có kích thước lớn, nhỏ khác nhau, tồn tại lâu trong không khí dưới dạng bụi bay, lơ lửng, bụi lắng và các hệ khí dung nhiều pha (gồm hơi, khói, mù).

khi những hạt bụi nằm lơ lửng trong không khí gọi là aerosol, khi chúng đọng lại trên bề mặt vật thể nào đó gọi là aerogel.

b/ Phân loại

- Theo nguồn gốc: bụi kim loại (Mn, Si, gỉ sắt,...); bụi cát, bụi gỗ; bụi động vật (bụi lông, bụi xương); bụi thực vật (bụi bông, bụi gai, phấn hoa); bụi hoá chất (grafit, bột phấn, bột hàn the, bột xà phòng, vôi,...)

- Theo kích thước hạt bụi:

Bụi bay có kích thước từ 0,001÷10 μm;

các hạt từ 0,1÷10 μm gây ra (khói/sương) mù;

các hạt từ 0,001÷0,1 μm tạo thành khói; chúng chuyển động Brao trong không khí.

Bụi lắng có kích thước >10 μm thường gây tác hại cho mắt.

- Theo tác hại: Bụi gây nhiễm độc (Pb, Hg, benzen...); bụi gây dị ứng; bụi gây ung thư (nhựa đường, phóng xạ, các chất brôm); bụi gây xơ phổi (bụi silic, amiăng)...

c/ Tính chất lý hoá của bụi

Độ phân tán của bụi: là trạng thái của bụi trong không khí, nó phụ thuộc vào kích thước, trọng lượng của hạt bụi và vào sức cản không khí. Với hạt bụi có kích thước nhỏ hơn 0,1m thì có chuyển động Brawn trong không khí.

Tính chất này cho thấy rõ ảnh hưởng của hạt bụi đến việc xâm nhập vào cơ quan hô hấp và đến phương pháp xử lý bụi.

Sự nhiễm điện của bụi: Dưới tác động của một điện trường mạnh, các hạt bụi bị nhiễm điện và bị hút với những vận tốc khác nhau phụ thuộc vào kích thước hạt bụi. Tính chất này được ứng dụng để lọc bụi bằng phương pháp tĩnh điện.

Tính cháy nổ của bụi: hạt bụi càng nhỏ thì diện tích tiếp xúc với oxy càng lớn, hoạt tính hoá học càng mạnh và dễ bốc cháy trong không khí. Ví dụ bột cacbon, bột sắt, bột coban, bông vải,... có thể tự bốc cháy trong không khí nếu có những mồi lửa như tia lửa điện.

Page 29: ATLD&BVMT. phan 2

Tính lắng trầm nhiệt của bụi: Cho một luồng khói bụi đi qua một ống dẫn từ vùng nóng chuyển sang vùng lạnh hơn, phần lớn khói bị lắng trên bề mặt buồng lạnh, hiện tượng này là do các phân tử khí bị giảm vận tốc từ vùng nóng sang vùng lạnh. Sự lắng trầm của bụi được ứng dụng để lọc bụi.

5.5.2. Tác hại của bụi

Bụi có tác hại đến da, mắt, cơ quan hô hấp, cơ quan tiêu hoá, các hạt bụi này bay lơ lửng trong không khí, khi bị hít vào phổi chúng sẽ gây thương tổn đường hô hấp.

Khi chúng ta thở nhờ có lông mũi và niêm mạc của đường hô hấp mà những hạt bụi có kích thước lớn hơn 5μm bị giử lại ở hốc mũi tới 90%. Các hạt bụi kích thước ~2.5μm dể dàng theo không khí vào tới phế quản, phế nang, ở đây bụi được các lớp thực bào bao vây và tiêu diệt khoảng 90% nữa, số còn lại đọng ở phổi gây nên bệnh bụi phổi và các bệnh khác (bụi silic, bụi amiăng/asbestos,...).

Bệnh phổi nhiễm bụi thường gặp ở những công nhân khai thác chế biến, vận chuyển quặng đá, kim loại, than v.v...

Bệnh silicose là bệnh do phổi bị nhiễm bụi silic ở thợ khoan đá, thợ mỏ, thợ làm gốm sứ, vật liệu chịu lửa v.v... Bệnh này chiếm 40÷70% trong tổng số các bệnh về phổi. Ngoài còn có các bệnh asbestose (nhiễm bụi amiăng), aluminose (bụi bôxit, đất sét), siderose (bụi sắt).

Bệnh đường hô hấp: viêm mũi, viêm họng, phế quản, viêm teo mũi do bụi crôm, asen.

Bệnh ngoài da: bụi có thể dính bám vào da làm viêm da, bịt kín các lỗ chân lông và ảnh hưởng đến bài tiết; bụi có thể bịt các lỗ của tuyến nhờn gây ra mụn; lở loét ở da; viêm mắt, giảm thị lực, mộng thịt.

Bệnh đường tiêu hoá: Các loại bụi sắc cạnh nhọn vào dạ dày có thể làm tổn thương niêm mạc dạ dày, gây rối loạn tiêu hoá.

Bụi hoạt tính dễ cháy nếu nồng độ cao, khi tiếp xúc với tia lửa dễ gây cháy, nổ rất nguy hiểm.

Bụi còn gây ra chấn thương mắt: bụi kiềm, axit có thể gây ra bỏng giác mạc làm giảm thị lực.

5.5.3. Các biện pháp phòng tránh bụi

a/ Biện pháp kỹ thuật

Bao kín thiết bị và dây chuyền sản xuất.

Cơ khí hoá và tự động hoá quá trình sản xuất sinh bụi để công nhân không phải tiếp xúc với bụi.

Thay đôi phương pháp công nghệ: làm sạch bằng nước thay cho việc làm sạch bằng phun cát.

Sử dụng hệ thống thông gió, hút bụi trong các phân xưởng có nhiều bụi.

b/ Biện pháp y học

Khám kiểm tra sức khoẻ định kỳ, phát hiện sớm bệnh để chữa trị, phục hồi chức năng làm việc cho công nhân.

Page 30: ATLD&BVMT. phan 2

Dùng các phương tiện bảo vệ cá nhân (quần áo, mặt nạ, khẩu trang).

5.5.4. Lọc bụi trong sản xuất công nghiệp

Trong các nhà máy xí nghiệp sản xuất (ví dụ các nhà máy hoá học, các nhà máy luyện kim v.v...) thải ra một lượng khí và hơi độc hại đối với sức khoẻ con người và động thực vật. Vì vậy, để đảm bảo môi trường trong sạch, các khí thải công nghiệp trước khi thải ra bầu khí quyển cần được lọc tới những nồng độ cho phép. Có các phương pháp làm sạch khí thải sau:

• Phương pháp ngưng tụ: chỉ áp dụng được khi áp suất hơi riêng phần trong hỗn hợp khí cao;

• Phương pháp đốt cháy có xúc tác: (tạo thành CO2 và H2O) có thể đốt cháy nhiều loại chất hữu cơ;

• Phương pháp hấp thụ: chất hấp thụ là nước, hoặc dung dịch kiềm.

• Phương pháp hấp phụ: thường dùng silicagen để hấp thụ khí và hơi độc. Cũng có thể dùng than hoạt tính, thường dùng để lọc sạch các chất hữu cơ rất độc.

Để lọc bụi người ta sử dụng các thiết bị lọc bụi, các thiết bị này được phân ra các nhóm chính sau đây:

- Buồng lắng bụi: dựa vào tác dụng của trọng lực.

- Thiết bị lọc bụi kiểu quán tính: lợi dụng quán tính khi thay đổi chiều hướng chuyển đọng để tách bụi ra khỏi không khí.

- Thiết bị lọc bụi kiểu ly tâm (xiclon).

- Lọc bụi bằng vải, lưới thép, giấy, vật liệu xốp... trong các thiết bị lọc bụi này các lực quán tính, trọng lực và cả lực khuếch tán đều phát huy tác dụng.

- Thiết bị lọc bụi tĩnh điện: dưới tác dụng của điện trường với điện áp cao, các hạt bụi được tích điện và bị hút vào các bản cực khác dấu.

-

5.6. Phòng chống phóng xạ

5.6.1. Các chất phóng xạ và tia phóng xạ

Tia phóng xạ là những tia mắt thường không nhìn thấy được và có khả năng ion hoá vật chất, được phát ra do sự biến đổi bên trong hạt nhân nguyên tử của một số nguyên tố. Những nguyên tố này gọi là những nguyên tố phóng xạ.

Hạt nhân nguyên tử có thể phát ra những tia phóng xạ sau đây:

Tia là chùm hạt nhân 24He, mang điện tích dương. Khả năng đâm xuyên của tia

yếu nhưng khả năng iôn hoá lại rất lớn. Trong không khí đi được khoảng 10÷20 cm, tạo được 6000 iôn/1mm đường đi.

Tia - là chùm các hạt electron, có khả năng đâm xuyên mạnh hơn tia

Tia + là những hạt có khối lượng bằng khối lượng e, mang điện tích dương, được tạo nên do sự phân huỷ của một số đồng vị phóng xạ

Page 31: ATLD&BVMT. phan 2

Tia là sóng điện từ có bước sóng rất ngắn (dưới 0,1 nm), cũng là hạt phôtôn có năng lượng cao, có khả năng đâm xuyên rất lớn, có thể đi qua lớp chì dày vài dm, gây nguy hiểm cho con người

Tia Rơnghen (tia X) về bản chất cũng là bức xạ điện từ giống tia nhưng có bước sóng dài hơn, khả năng đâm xuyên và iôn hoá tương tự tia

Tia nơtron là chùm tia gồm những hạt nơtron chứa trong hạt nhân nguyên tử của các nguyên tố (trừ H2), không mang điện tích, khối lượng bằng 1.

Tia phóng xạ có tính oxi hoá mạnh và có khả năng đâm xuyên qua các vật chất. Các chất đồng vị phóng xạ ngày nay được ứng dụng rộng rãi trong nông nghiệp, công nghiệp, y tế... trong kỹ thuật BHLĐ dùng tia phóng xạ P210 để ion hoá không khí và trung hoà các điện tích tĩnh điện xuất hiện bên trong phân xưởng nóng và nhiễm bụi để chống cháy nổ; dùng khí phóng xạ Ar để xác định hiệu quả của hệ thống thông gió.

5.6.2. Tác hại của tia phóng xạ

Làm việc với các chất phóng xạ có thể bị nhiễm xạ.

Khi tia bức xạ chiếu từ bên ngoài vào bề mặt cơ thể thì gọi là nhiễm độc ngoại chiếu. Khi các chất phóng xạ xâm nhập vào cơ thể (qua đường hô hấp, tiếu hoá, và qua da) tới tận các tổ chức của cơ thể đồng thời gây ra tác dụng chiếu xạ thì gọi là nhiễm độc nội chiếu.

Có trường hợp là tác dụng hỗn hợp của cả nội chiếu và ngoại chiếu. Nhiễm xạ do nội chiếu nguy hiểm hơn vì sự đào thải chất phóng xạ ra khỏi cơ thể không dễ dàng, thời gian bị chiếu xạ lâu hơn.

a/ Tác hại của nhiễm xạ

i. Ảnh hưởng sớm - nhiễm phóng xạ cấp tính

Nhiễm xạ cấp tính xảy ra sớm vài giờ hoặc vài ngày sau khi cơ thể bị nhiễm xạ toàn thân trong một lúc với liều lượng phóng xạ trên 200Rem. Khi bị nhiễm xạ cấp tính thường có các triệu chứng sau:

- Chức năng thần kinh trung ương bị rối loạn- Da bị bỏng, tấy đỏ ở chỗ tia phóng xạ chiếu vào- Cơ quan tạo máu bị tổn thương nặng- Gầy sút cân, chết dần mòn trong tình trạng suy kiệt.

Nhiễm xạ cấp tính thường ít gặp trong sản xuấtvà nghiên cứu mà chủ yếu xảy ra từ các vụ nổ hạt nhân.

ii. Ảnh hưởng muộn - nhiễm phóng xạ mãn tính

Khi nhiễm xạ mãn tính, các triệu chứng bệnh xuất hiện muộn, có thể tới hàng năm, hàng chục năm kể từ khi bị chiếu tia phóng xạ hoặc nhiễm chất phóng xạ với liều lượng nhỏ hơn 200Rem. Có các triệu chứng sau:

- Suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể- Rối loan các chức năng tạo máu- Có hiện tượng đục nhân mắt, ung thư da, ung thư xương.

b/ Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu ứng chiếu xạ

Page 32: ATLD&BVMT. phan 2

Tổng liều chiếu xạ càng lớn thì càng nguy hiểm. Nếu nhiễm 600Rem trở lên sẽ dẫn đến tử vong. Nếu nhiễm xạ khoảng 300Rem, bệnh nhẹ có thể chữa được. Cùng một tổng liều chiếu xạ, nếu được chiếu phân tán thành nhiều liều nhỏ thì tác hại sẽ ít hơn khi bị chiếu gộp vào một lần.

Về tác hại đối với gen thì những liều chiếu xạ dù nhỏ nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần thì vẫn nguy hiểm. Trong tự nhiên luôn tồn tại một mức phóng xạ gọi là nền phóng xạ tự nhiên do tia vũ trụ và do trên Trái Đất có các chất phóng xạ. Liều phóng xạ tự nhiên càng tăng khi lên cao so với mặt đất và gần nơi có mỏ quặng phóng xạ.

- Diện tích cơ thể bị chiếu xạ: càng lớn thì càng nguy hiểm, bị chiếu toàn thân nguy hiểm hơn bị chiếu ở một bộ phận. Mức độ nặng nhẹ còn tuỳ thuộc vào vùng bị chiếu xạ, nguy hiểm nhất là vùng đầu, vùng bụng.

- Các tế bào ung thư, tế bào non của thai nhi mẫn cảm với tia phóng xạ hơn những tế bào già. Người ở lứa tuổi 25-30 chịu đựng phóng xạ tốt hơn.

- Ngoài ra tác động của nhiễm xạ còn phụ thuộc vào trạng thái cơ thể, chẳng hạn nếu có bệnh, nhiễm độc, nhiễm trùng thì sức chống đỡ với nhiễm xạ kém.

- Bản chất vật lý của tia phóng xạ và đặc tính lý hoá của chất phóng xạ: tia X và tia nơtron iôn hoá mạnh hơn tia ; chất phóng xạ Na24 tác dụng đến toàn thân nhưng thời gian tác dụng ngắn, chất Sr40 tích luỹ ở xương,…

-

5.6.3. Các yêu cầu vệ sinh và an toàn khi làm việc tiếp xúc với tia phóng xạ

Nguồn phóng xạ được chia ra nguồn phóng xạ kín và nguồn phóng xạ hở.

Trước khi sử dụng các chất phóng xạ cần nắm vững những yêu cầu về an toàn vệ sinh, cần xác định liều lượng giới hạn cho phép. Độ nhiễm xạ tự nhiên khoảng 100mR trong một năm, có vùng cao hơn đến 600mR trong một năm. Trong tính toán người ta lấy nền nhiễm xạ tự nhiên bằng 0,01mR/giờ.

Một trong những con đường xâm nhập của các chất phóng xạ vào cơ thể là hô hấp. Vì thế cần khống chế nồng độ các chất phóng xạ trong không khí ở giới hạn cho phép gọi là nồng độ giới hạn cho phép. Nồng độ này tuỳ thuộc vào độc tính phóng xạ của các chất.

Bảng: Nồng độ cho phép trong không khí của các nhóm chất phóng xạ khác nhau

Các nhóm Nồng độ cho phép

Độc tính rất caoĐộc tính caoĐộc tính trung bìnhĐộc tính thấp

1.10-10 Ci/m3

>1.10-10 Ci/m3 – 1.10-8 Ci/m3

>1.10-8 – 1.10-6 Ci/m3

>1.10-6 Ci/m3

a/ Tiếp xúc với nguồn phóng xạ kín

Nguồn phóng xạ kín là nguồn mà chất phóng xạ được bọc kín trong một vỏ bọc nào đó hoặc ở trong một trạng thái vật lý đảm bảo cho chất đó không thoát ra ngoài môi trường khi sử dụng nó.

Tiếp xúc với nguồn phóng xạ kín là tiếp xúc với tia phóng xạ chứ không phải trực tiếp đụng chạm đến chất phóng xạ trong quá trình làm việc. Ví dụ: dùng tia Rơnghen để

Page 33: ATLD&BVMT. phan 2

chẩn đoán và điều trị bệnh; dùng tia của Co60 để kiểm tra những vết rạn nứt ở kim loại

hoặc đường ống,... Trong điều kiện bình thường không xuất hiện phóng xạ nhưng cần đề phòng tia phóng xạ có thể rò rỉ ra ngoài.

Để hạn chế đến mức tối thiểu tác dụng của tia phóng xạ đối với cơ thể cần thực hiện những biện pháp sau đây:

Các chất phóng xạ để trong hộp chì kín với bề dày khác nhau, khi dùng chỉ hé độ mở cần thiết, không nên mở quá rộng

Bóng phát tia Rơnghen phải bọc bớt lại bằng vỏ chì

Trong thao tác càng xa nguồn càng tốt vì cường độ chiếu xạ tỷ lệ nghịch với khoảng cách từ cơ thể đến nguồn; khoảng cách xa gấp 2, cường độ chiếu giảm 4 lần.

Các buồng sử dụng tia phóng xạ phải có kích thước đủ lớn, không được để nhiều đồ đạc để tránh các tia phóng xạ thứ phát

Thao tác nhanh nhẹn để giảm thời gian tiếp xúc với tia phóng xạ

Sử dụng trang bị BHLĐ phù hợp (găng tay cao su, ủng cao su, đeo kính,…)

b/ Tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở

Nguồn phóng xạ hở là nguồn mà chất phóng xạ trong một trạng thái vật lý mà chất đó có thể thoát ra ngoài.

Khi tiếp xúc với các quặng phóng xạ, dung dịch lỏng, khí, pin phóng xạ, nhân viên công tác sẽ chịu ảnh hưởng của cả tác dụng ngoại chiếu và nội chiếu.

Thông thường đối tượng tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở này là: nhân viên các phòng thì nghiệm phóng xạ; công nhân khai thác, vận chuyển và chế biến quặng phóng xạ.

c/ Yêu cầu an toàn với các buồng thí nghiệm phóng xạ

PTN phải bố trí riêng biệt trừ những PTN dùng chất phóng xạ có hoạt tính thấp, có chu vi bảo vệ từ 50÷300 m tuỳ theo độc tính và khối lượng chất phóng xạ sử dụng; diện tích tối thiểu là 4,7 m2/1 thí nghiệm viên.

Kiến trúc và trang thiết bị của PTN cần hết sức giảm bớt tính hấp thụ phóng xạ, dễ cọ rửa và tẩy xạ; phòng càng kín càng tốt.

Nhân viên tiếp xúc với chất phóng xạ ở PTN phải được trang bị các phương tiện phòng hộ cá nhân cần thiết như: găng tay cao su, quần áo công tác, mặt nạ, tất và giầy, khẩu trang phòng bụi phóng xạ,…

Phải có kế hoặc tẩy xạ cho người, quần áo, bàn làm việc,…

d/ Yêu cầu VSAT khi khai thác, chế biến, vận chuyển quặng phóng xạ

Tổ chức thông gió tốt

Phải sử dụng các trang thiết bị phòng hộ cá nhân đầy đủ

Không hút thuốc, ăn uống ở dưới mỏ

Phải tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo trước khi về

Page 34: ATLD&BVMT. phan 2

5.7. Phòng chống điện từ trường tần số cao

5.7.1. Tác hại của điện từ trường

Ở các thiết bị điện, đặc biệt các thiết bị cao tần, siêu cao tần, tạo ra một trường điện từ có hại đối với sức khoẻ con người. Đáng lo ngại ở chỗ là cơ thể con người không có cảm giác gì dưới tác dụng của điện từ trường.

Gần nguồn cao tần hình thành hai vùng: cảm ứng và bức xạ. Cách nguồn với khoảng cách bằng 1/6 bước sóng là vùng cảm ứng chiếm ưu thế, ngoài vùng này là vùng bức xạ

Ở trong vùng cảm ứng con người chịu tác động của từ trường và điện trường thay đổi theo chu kỳ

Ở vùng bức xạ thì con người chịu tác động của một điện trường với các thành phần điện, từ thay đổi đều đặn

Cường độ điện từ trường nơi làm việc có thể thay đổi phụ thuộc vào công suất máy phát sóng, khoảng cách tới nguồn và sự phản xạ các bề mặt bao quanh.

Mức độ tác động của điện từ trường lên cơ thể con người phụ thuộc vào độ dài bước sóng, chế độ làm việc của nguồn (xung hay liên tục), cường độ bức xạ, thời gian tác dụng, khoảng cách từ nguồn tới cơ thể và sự cảm thụ riêng của từng người. Tần số càng cao, năng lượng điện từ mà cơ thể hấp thụ càng tăng.

Tác hại của sóng điện từ không chỉ phụ thuộc vào năng lượng bức xạ bị hấp thụ mà còn phụ thuộc vào độ thấm sâu của sóng bức xạ vào cơ thể. Độ thấm sâu càng cao thì tác hại càng nhiều, độ thấm sâu này phụ thuộc vào bước sóng điện từ.

Loại sóng Độ thấm sâu

Loại mmLoại cmLoại dmLoại m

Bề mặt lớp daDa và các tổ chức dưới daVào sâu trong các tổ chức khoảng 10-15cmVào sâu lớn hơn 15 cm

Dưới tác dụng của điện từ tần số cao, các ion của các tổ chức của cơ thể sẽ chuyển động, trong các tổ chức này sẽ xuất hiện một dòng điện cao tần. Do đó, một phần năng lượng của trường điện từ bị thấm hút.

Chịu tác dụng của điện từ trường với tần số khác nhau và cường độ lớn hơn cường độ giới hạn cho phép một cách có hệ thống và kéo dài sẽ dẫn tới sự thay đổi một số chức năng của cơ thể như hệ thống thần kinh trung ương, chủ yếu là làm rối loạn hệ thần kinh thực vật và rối loạn hệ thống tim mạch, gây ra nhức đầu, mệt mỏi, suy yếu toàn thân... Ngoài ra nó còn gây ra giảm áp lực máu, đau tim, khó thở, ảnh hưởng đến gan, lá lách...

Với năng lượng điện từ tần số siêu cao có thể làm biến đổi máu, biến đổi nhân mắt... phụ nữ chịu tác hại của sóng điện từ nhiều hơn nam giới.

Page 35: ATLD&BVMT. phan 2

Đánh giá tác hại của điện từ trường bằng cường độ tác dụng của trường, biểu thị bằng vôn/mét. Trị số giới hạn cho phép ở chỗ làm việc là 5V/m; còn đối với các lò cảm ứng để tôi, đúc kim loại thì cho phép đến 10V/m do điều kiện không bao che được thiết bị.

Ngoài ra người ta còn dùng mật độ dòng công suất được xác định bằng số năng lượng truyền qua diện tích 1cm2 vuông góc với phương truyền sóng trong 1 giây. Đơn vị tính toán là W/cm2, mW/cm2, W/cm2.

Trị số cường độ bức xạ giới hạn cho phép của trường điện từ tần số cực cao tại chỗ làm việc được xác định như sau:

- Khi chịu tác động cả ngày thì cường độ bức xạ phải nhỏ hơn 10 W/cm2;

- Khi chịu tác động không quá 2 giờ thì nhỏ hơn 100W/cm2;

- Khi chịu tác động không quá 15-20 phút trong ngày thì nhỏ hơn 1mW/cm2.

5.7.2. Các biện pháp phòng chống

Khi sử dụng các thiết bị cao tần cần tuân thủ quy tắc an toàn, phần kim loại của thiết bị phải được nối đất. Các thiết bị cao tần cần có rào chắn bao bọc. Để bao bọc vùng có điện từ trường người ta dùng các màn chắn kim loại có độ dẫn điện cao, xung quanh các thiết bị cao tần không nên có những vật dụng bằng kim loại nếu không cần thiết, vì nó sẽ tạo ra nguồn bức xạ điện từ thứ cấp.

Bức xạ RF là dạng bức xạ không Ion hoá.  Bức xạ không Ion hoá không gây tác hại trực tiếp lên các phân tử, các mô sống hoặc không phá vỡ cấu trúc dây liên kết các phân tử trong tế bào sống để tạo nên sự Ion hoá (tức là nó không tích điện dương và âm lên các phân tử, mô sống).

Ảnh hưởng trước tiên của bức xạ RF là nung nóng các vật thể ở trong trường bức xạ của nó nếu mức công suất đủ lớn.  Cơ chế hoạt động như sau :  khi ta đứng trong trường bức xạ RF có cường độ mạnh thì các phân tử bị điện trường mạnh tác động buộc chúng dao động ở tần số bức xạ.  Dao động này làm cho các phân tử va đập vào nhau tạo ra nhiệt nung nóng chính các phân tử.  Năng lượng để từng phân tử trong cơ thể sống dao động phụ thuộc cường độ điện trường, bức xạ có cường độ mạnh hơn sẽ tạo ra năng lượng lớn hơn cho các phân tử dao động.  Ví dụ một người đứng đối diện một antenna phát xạ tín hiệu ở tần số 10MHz với công suất rất lớn thì các phân tử trong cơ thể sẽ dao động ở tần số 10MHz (tức là dao động 10 triệu lần trong một giây - bằng các giác quan bình thường con người không thể nhận biết được dao động ấy) gây ra va chạm giữa các phân tử và sinh nhiệt nung nóng cơ thể.  Các lò nướng siêu cao tần hoạt động theo nguyên lý này.

Như đã nói ở trên, bức xạ RF nung nóng trên cơ thể sống, có thể là dạng nung nóng từng phần hoặc toàn thân.  Chẳng hạn như toàn bộ cơ thể bị nung nóng thì ta dễ nhận biết theo kinh nghiệm là nóng ở tay, chân và bàn chân.  Các bộ phận cơ thể bị tác động bởi các bức xạ RF khác nhau vì vậy xảy ra hiện tượng bị nung nóng từng phần, có thể nhận biết nóng ở tay và ngón tay.  Khi đứng trong trường bức xạ RF cơ thể con người giống như một anten,  nếu được tiếp đất tốt thì được coi như anten một phần tư bước sóng cộng hưởng ở tần số từ 35MHz đến 40MHz.  Nếu không được tiếp đất (lơ lửng trong không gian hoặc đứng trên thảm cách điện) thì giống như một antenna nửa bước sóng, cộng hưởng trong khoảng tần số từ 70MHz đến 80MHz.

Page 36: ATLD&BVMT. phan 2
Page 37: ATLD&BVMT. phan 2

5.8. Chiếu sáng trong sản xuất

5.8.1. Một số khái niệm về Ánh sáng và sinh lý mắt người

a/ Một số khái niệm về ánh sáng

Là nhân tố ngoại cảnh rất quan trọng đối với sức khoẻ và khả năng làm việc của công nhân. Trong sinh hoạt và lao động con mắt đòi hỏi phải được chiếu sáng thích hợp.

Chiếu sáng thích hợp tránh mệt mỏi thị giác, tránh tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

Ánh sáng thấy được: là những bức xạ (photon) có bước sóng trong khoảng 380÷760 μm (tương ứng với 7 dải màu tím, chàm, lam, lục, vàng, da cam, đỏ).

Mắt chúng ta nhạy với bức xạ đơn sắc màu vàng lục λ = 555μm. Để đánh giá độ sáng tỏ của các loại bức xạ khác nhau, người ta lấy độ sáng tương đối của bức xạ vàng lục làm chuẩn để so sánh.

Quang thông (Φ): là đại lượng để đánh giá khả năng phát sáng của vật, là phần công suất bức xạ có khả năng gây ra cảm giác sáng cho thị giác của con người.

Bức xạ ánh sáng của một nguồn vào không gian trước hết được đánh giá bằng năng lượng bức xạ, đo bằng watt (W). Các thực nghiệm về ánh sáng cho thấy cùng một năng lượng nhưng bức xạ dưới các bước sóng khác nhau lại không gây hiệu quả giống nhau trong mắt chúng ta, do vậy cần phải hiệu chỉnh đơn vị đo theo độ nhạy cảm phổ của mắt người.

Nếu gọi công suất bức xạ ánh sáng đơn sắc bước sóng λ của vật là Fλ, thì quang thông (Φ) do chùm tia đơn sắc đó gây ra là:

Φλ = C.Fλ.Vλ

trong đó, Vλ - độ sáng tỏ tương đối của ánh sáng đơn sắc λ;

C - hằng số phụ thuộc vào đơn vị đo.

Quang thông được đo bằng lumen (lm), công suất bức xạ Fλ đo bằng watt thì hằng số C = 638.

Ví dụ:Quang thông của một vài nguồn sáng:

• Đèn dây tóc nung 60w = 850 lm.

• Đèn dây tóc nung 100w = 1600 lm.

Cường độ sáng (I):

Quang thông của một nguồn sáng nói chung phân bố không đều theo các phương do đó để đặc trưng cho khả năng phát sáng theo các phương khác nhau của nguồn người ta dùng đại lượng cường độ sáng.

Cường độ sáng theo phương n là mật độ quang thông bức xạ phân bố theo phương n đó. Cường độ sáng In là tỷ số giữa lượng quang thông bức xạ dΦ trên vi phân góc khối dω theo phương n:

Đơn vị cường độ ánh sáng là candela (cd).

Page 38: ATLD&BVMT. phan 2

Độ rọi (E):

Độ rọi là đại lượng để đánh giá độ sáng của một bề mặt được chiếu sáng. Độ rọi tại một điểm M trên bề mặt được chiếu sáng là mật độ quang thông của luồng ánh sáng tại điểm đó:

[lux] = [lm/m2]

Máy đo ánh sáng là luxmet

Ví dụ:• Nắng giữa trưa: 100.000 lux.

• Trời nhiều mây: 1.000 lux.

• Đủ để đọc sách: 30 lux

• Đủ để làm việc tinh vi: 500 lux.

• Đủ để lái xe: 0,5 lux.

Độ chói (B):

Độ chói nhìn theo phương n là tỷ số giữa cường độ phát sáng theo phương n trên diện tích hình chiếu mặt sáng xuống mặt phẳng thẳng góc với phương n:

[nt] = [cd/m2]

Đơn vị đo độ chói là nit (nt).

Ví dụ: Độ chói của một vài vật:

• Đội chói nhỏ nhất mắt người có thể nhận biết: 10-6 nt.

• Mặt trời giữa trưa:: 2.109 nt.

• Dây tóc của bóng đèn: 106 nt.

• Đèn neon: 1000 nt.

b/ Quan hệ giữa chiếu sáng và sự nhìn của mắt

Ánh sáng yêu cầu vừa phải, không quá sáng làm loá mắt, gây đầu óc căng thẳng; hoặc quá tối, không đủ sáng, nhìn không rõ cũng dễ gây tai nạn. Nhu cầu ánh sáng đối với một số trường hợp cụ thể như sau:

Phòng đọc sách: 200 lux;

Xưởng dệt: 300 lux;

Nơi sửa chữa đồng hồ: 400 lux.

Sự nhìn rõ của mắt liên hệ trực tiếp với những yếu tố sinh lý của mắt, cần phân biệt thị giác ban ngày và thị giác ban đêm.

Thị giác ban ngày:

Thị giác ban ngày liên hệ với sự kích thích của tế bào hữu sắc. Khi độ rọi E đủ lớn, với E ≥ 10 lux (ánh sáng ban ngày) thì tế bào hữu sắc cho cảm giác màu sắc và phân biệt chi tiết của vật quan sát. Như vậy khi độ rọi E ≥ 10 lux thì thị giác ban ngày làm việc.

Thị giác ban đêm:

Page 39: ATLD&BVMT. phan 2

Thị giác ban đêm liên hệ với sự kích thích của các tế bào vô sắc. Khi độ rọi E ≤ 10 lux (ánh sáng ban đêm) thì tế bào vô sắc làm việc.

Thông thường 2 thị giác đồng thời tác dụng với mức độ khác nhau, nhưng E ≤ 0,01 lux thì chỉ có tế bào vô sắc làm việc. Khi E = 0,01÷10 lux thì cả 2 tế bào cùng làm việc.

Quá trình thích nghi

Khi chuyển từ độ rọi lớn qua độ rọi nhỏ, tế bào vô sắc không thể đạt ngay độ hoạt động cực đại mà cần có thời gian quen dần, thích nghi và ngược lại từ môi trường tối sang môi trường sáng mắt cũng cần thời gian làm quen nhất định, thời gian đó gọi chung là thời gian thích nghi. Thời gian đó khoảng 15÷20 phút từ sáng qua tối còn ngược lại thì khoảng 8÷10 phút.

Tốc độ phân giải của mắt

Quá trình nhận biết một vật của mắt không xảy ra ngay lập tức mà phải qua một thời gian nào đó. Tốc độ phân giải phụ thuộc vào độ chói và độ rọi sáng trên vật quan sát. Tốc độ phân giải tăng nhanh với độ rọi từ 0 đến 1200 lux sau đó tăng không đáng kể.

Người ta đánh giá khả năng phân giải của mắt bằng góc nhìn tối thiểu αng mà mắt có thể nhìn thấy được vật. Mắt có khả năng phân giải trung bình nghĩa là có khả năng nhận biết được 2 vật nhỏ nhất dưới góc nhìn αng = 1’ trong điều kiện chiếu sáng tốt.

c/ Độ tương phản giữa vật quan sát và nền

Tỷ lệ độ chói giữa vật quan sát và nền chỉ mức độ khác nhau về cường độ sáng giữa vật quan sát và nền của nó.

Tỷ lệ này biểu thị bằng hệ số tương phản K:

trong đó, Bn - độ chói của nền;

Bv - độ chói của vật.

Giá trị K nhỏ nhất mà mắt có thể phân biệt được vật quan sát gọi là ngưỡng tương phản hay độ phân biệt nhỏ nhất Kmin = 0,01. Nghịch đảo của nó gọi là độ nhạy tương phản Smin đặc trưng cho độ nhạy của mắt khi quan sát.

Độ nhạy tương phản phụ thuộc vào mắt và với mức độ khá lớn, phụ thuộc vào độ chói của nền. Độ chói của nền bé, độ tương phản tăng khá nhanh và đạt cực đại khi Bn = 103 nit, Bn tăng lên nữa độ nhạy tương phản giảm và giảm nhanh, vì khi đó độ chói đã gây ra hiện tượng loá mắt.

5.8.2. Kỹ thuật chiếu sáng

Trong sản xuất người ta thường dùng hai nguồn sáng: ánh sáng tự nhiên và ánh sáng điện. Ánh sáng mặt trời đi qua bầu khí quyển là ánh sáng có sẵn, thích hợp và có tác dụng tốt về mặt sinh lý đối với con người, song thất thường phụ thuộc vào thời tiết thiên nhiên.

Độ rọi do ánh sáng tán xạ của bầu trời gây ra trên mặt đất về mùa hè đạt đến 60.000÷70.000 lux; về mùa đông cũng đạt tới 8.000 lux.

Dùng điện thì có thể điều chỉnh được ánh sáng một cách chủ động nhưng lại rất tốn kém.

Page 40: ATLD&BVMT. phan 2

a/ Chiếu sáng tự nhiên

Ánh sáng mặt trời khi chiếu xuống Trái Đất đi xuyên qua lớp khí quyển bị các hạt trong tầng khí hấp thụ nên các tia truyền thẳng một mặt bị yếu đi, mặt khác bị khuếch tán sinh ra ánh sáng tán xạ.

Bức xạ trực tiếp là những tia truyền thẳng xuống mặt đất tạo nên độ rọi trực xạ Etx. Trong khí quyển thường xuyên có những hạt lơ lửng làm khuếch tán và tán xạ ánh sáng mặt trời tạo nên nguồn ánh sáng khuếch tán với độ rọi Ekt. Ngoài ra sự phản xạ của mặt đất và các bề mặt xung quanh ta có độ rọi do phản xạ Ep. Như vậy ở một nơi quang đãng và một điểm bất kỳ nào ngoài nhà độ rọi sẽ là:

Eng = Etx + Ekt + Ep

Độ rọi Eng thay đổi thường xuyên theo từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm và theo từng vị trí địa lý từng vùng, theo thời tiết khí hậu vì thế ánh sáng trong phòng cũng thay đổi theo.

Hệ thống cửa chiếu sáng trong nhà công nghiệp thường dùng là cửa sổ, cửa trời (cửa mái), cửa sổ - cửa trời hỗn hợp. Cửa sổ chiếu sáng thường dùng là loại cửa sổ một tầng, cửa sổ nhiều tầng, cửa sổ liên tục hoặc gián đoạn. Cửa trời chiếu sáng là loại cửa trời hình chữ nhật, hình M, hình thang, hình chỏm cầu, hình răng cưa v.v... Do điều kiện khí hậu ở nước ta, thích hợp nhất là kiểu mái hình răng cưa là tốt nhất.

Thiết kế chiếu sáng tự nhiên cho phòng phải dựa vào đặc điểm và tính chất của nó, yêu cầu thông gió thoát nhiệt cùng với những giải pháp che mưa nắng mà chọn hình thức cửa chiếu sáng thích hợp.

Cần tính toán diện tích cửa lấy ánh sáng đầy đủ, các cửa phân bố đều, cần chọn hướng bố trí cửa Bắc-Nam; cửa chiếu sáng đặt về hướng bắc, cửa thông gió mở rộng về phía nam để tránh chói loá, phải có kết cấu che chắn hoặc điều chỉnh được mức độ chiếu sáng.

b/ Chiếu sáng nhân tạo

Chiếu sáng điện cho sản xuất phải tạo ra trong phòng một chế độ ánh sáng đảm bảo điều kiện nhìn rõ, nhìn tinh và phân giải nhanh các vật nhìn của mắt trong quá trình lao động.

Nguồn sáng (điện)

Đèn điện chiếu sáng thường dùng đèn nung nóng, đèn huỳnh quang, đèn thuỷ ngân cao áp.

- Đèn nung sáng: Phát sáng theo nguyên lý các vật rắn khi được nung trên 500oC sẽ phát sáng. Đèn này có nhiều loại với công suất 1÷1.500 W. Đèn phát ánh sáng rất phù hợp với tâm sinh lý con người vì chứa nhiều màu đỏ, vàng, lại rẻ tiền, dễ chế tạo, dễ bảo quản và sử dụng. Nhưng có hiệu suất phát quang thấp.

- Đèn huỳnh quang: là nguồn sáng nhờ phóng điện trong chất khí, có nhiều loại như đèn thuỷ ngân thấp/cao áp; đèn huỳnh quang thấp/cao áp; và các đèn phóng điện khác. Chúng có ưu điểm hiệu suất phát sáng cao, thời gian sử dụng dài, có quang phổ gần giống ánh sáng ban ngày. Tuy nhiên giá thành cao, sử dụng phức tạp hơn, lại khó nhìn.

Page 41: ATLD&BVMT. phan 2

Phương thức chiếu sáng cơ bản

- Chiếu sáng chung: trong toàn phòng có một hệ thống chiếu sáng từ trên xuống gây ra một độ chói không gian nhất định và một độ rọi nhất định trên toàn bộ các mặt phẳng lao động.

- Chiếu sáng cục bộ: chia không gian lớn của phòng ra nhiều không gian nhỏ, mỗi không gian nhỏ có một chế độ chiếu sáng khác nhau.

- Chiếu sáng hỗn hợp: vừa chiếu sáng chung vừa kết hợp với chiếu sáng cục bộ.

Dụng cụ chiếu sáng

Bao gồm toàn bộ những thiết bị, phụ kiện kèm theo nguồn sáng, hình thành hệ thống chiếu sáng hoàn chỉnh, một mặt đảm bảo những điều kiện làm việc tối ưu của đèn, mặt khác đảm bảo nâng cao hiệu quả của nguồn sáng.

- Phân bố ánh sáng của nguồn phù hợp với mục đích chiếu sáng

- Bảo vệ, không để mắt nhìn thấy độ chói quá cao của nguồn sáng.

- Bảo vệ nguồn sáng không bị hư hỏng do tác động cơ học, bám bụi, che mưa, nắng, gió.

- Để cố định và đưa điện vào nguồn sáng.

5.9. Thông gió công nghiệp

5.9.1. Mục đích của thông gió công nghiệp

Môi trường không khí có tính chất quyết định đối với việc tạo ra cảm giác dễ chịu, không bị ngột ngạt không bị nóng bức hay quá lạnh.

Môi trường làm việc luôn bị ô nhiễm bởi các hơi ẩm, bụi bẩn, các chất khí do hô hấp thải ra và bài tiết của con người: CO2, NH3, hơi nước, ... Ngoài ra còn các chất khí khác do quá trình sản xuất sinh ra như CO, NO2, các hơi axít, bazơ,... Cho nên thông gió có 2 mục đích hết sức quan trọng:

chống nóng;

khử bụi, khử hơi khí độc;

đảm bảo cho môi trường làm việc trong sạch.

5.9.2. Các biện pháp thông gió

a/ Thông gió tự nhiên

Thông gió tự nhiên là trường hợp thông gió mà sự lưu thông không khí từ bên ngoài vào nhà và từ trong nhà thoát ra ngoài, thực hiện được nhờ những yếu tố tự nhiên như nhiệt thừa và gió.

Sử dụng và bố trí hợp lý các cửa gió vào và ra. Các cửa có cấu tạo lá chớp khép mở được để làm lá hướng dòng và thay đổi diện tích cửa. Như vậy ta có thể thay đổi được hướng và hiệu chỉnh được lưu lượng gió vào, ra.

Khi thông gió tự nhiên, phạm vi tác dụng của luồng không khí trao đổi hầu như đều khắp vùng làm việc hay không gian của nhà.

b/ Thông gió cơ khí (nhân tạo)

Page 42: ATLD&BVMT. phan 2

Thông gió cơ khí là thông gió có sử dụng máy quạt chạy bằng động cơ điện để làm không khí vận chuyển từ chỗ này đến chỗ khác.

Bằng hệ thống đường ống dẫn, người ta có thể lấy không khí sạch ngoài trời thổi vào trong nhà hoặc hút không khí nóng và ô nhiễm bên trong nhà thải ra ngoài. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà trong một công trình có thể bố trí cả hai hệ thống thổi và hệ thống hút hoặc chỉ bố trí một trong hai hệ thống đó. Hệ thống hút thường được áp dụng khi lưu lượng không khí cần trao đổi không lớn hoặc khi trong phân xưởng có một số nguồn thải độc hại nhưng không nhiều.

Trong thực tế thường dùng hệ thống thông gió cơ khí thổi khí vào và hút khí ra.

5.9.3. Các hệ thống thông gió

a/ Hệ thống thông gió chung

Là hệ thống thông gió thổi vào hoặc hút ra có phạm vi tác dụng trong toàn bộ không gian của phân xưởng. Nó phải có khả năng khử nhiệt thừa và các chất độc hại toả ra trong phân xưởng. Có thể sử dụng thông gió tự nhiên hoặc cơ khí.

b/ Hệ thống thông gió cục bộ

Là hệ thống thông gió có phạm vi tác dụng trong từng vùng hẹp riêng biệt của phân xưởng.

Hệ thống thổi cục bộ: gọi là hoa sen không khí, thường được bố trí để thổi không khí sạch và mát vào những vị trí thao tác cố định của công nhân, mà tại đó toả nhiều hơi khí có hại và nhiều nhiệt.

Hệ thống hút cục bộ: là hệ thống dùng để hút các chất độc hại ngay tại nguồn sản sinh ra chúng và thải ra ngoài, không cho lan toả ra các vùng chung quanh trong phân xưởng. Đây là biện pháp thông gió tích cực và triệt để nhất để khử độc hại.

Page 43: ATLD&BVMT. phan 2

CHƯƠNG VI: KỸ THUẬT AN TOÀN

6.1. Các yếu tố nguy hiểm gây chấn thương trong xưởng sản xuất

• Các bộ phận và cơ cấu sản xuất: cơ cấu chuyển động, trục, khớp nối truyền động, đồ gá, các bộ phận chuyển động tịnh tiến.

• Các mảnh dụng cụ, vật liệu gia công văng bắn ra: dụng cụ cắt, đá mài, phôi, chi tiết gia công v.v...

• Điện giật: phụ thuộc các yếu tố như cường độ dòng điện, đường đi của dòng điện qua cơ thể, thời gian tác đông, đặc điểm cơ thể v.v...

• Các yếu tố về nhiệt: kim loại nóng chảy,vật liệu được nung nóng, thiết bị nung, khí nóng, hơi nước nóng ... có thể làm bỏng các bộ phận của cơ thể.

• Chất độc công nghiệp.

• Các chất lỏng hoạt tính: các axít và kiềm ăn mòn.

• Bụi công nghiệp: gây các tổn thương cơ học, bụi độc hay nhiễm độc sinh ra các bệnh nghề nghiệp, cháy nổ, hoặc ẩm điện gây ngắn mạch.

• Nguy hiểm nổ: nổ hoá học và nổ vật lý.

• Những yếu tố nguy hiểm khác: làm việc trên cao không đeo dây an toàn, vật rơi từ trên cao xuống, trượt trơn vấp ngã khi đi lại.

6.2. Kỹ thuật an toàn với thiết bị áp lực

6.2.1. Khái niệm về thiết bị nồi hơi áp lực

Thiết bị chịu áp lực là những thiết bị dùng để tiến hành các quá trình nhiệt học, hoá học, cũng như dùng để chứa đựng khi vận chuyển, bảo quản các môi chất ở trạng thái có áp suất như khí nén, khí hoá lỏng, khí hoà tan và các chất lỏng khác. Thiết bị áp lực gồm nhiều loại với tên gọi khác nhau: Chai, bể (xitec), bình liên hợp, thùng, bình hấp của các nhà máy bia, nước giải khát có ga, bính khí axêtylen, chai ôxy v.v...

Nồi hơi là một thiết bị (hoặc tổ hợp thiết bị) dùng để tạo hơi có áp suất lớn hơn áp suất khí quyển để phục vụ các mục đích khác nhau nhờ năng lượng được tạo ra do đốt nhiên liệu trong buồng đốt. Nồi đun nước nóng là thiết bị có buồng đốt nóng nhiên liệu, nhiệt năng do quá trình cháy trong buồng đốt tạo thành dùng để tạo ra hơi hay nước nóng có áp suất lớn hơn áp suất khí quyển để phục vụ các nhu cầu sản xuất và đời sống. Nồi hơi có loại cố định được lắp đặt cố định trên nền móng; nồi hơi di động được lắp đặt trên các giá di chuyển được. Nồi hơi ống nước: nước được tuần hoàn trong các ống được đốt nóng. Nồi hơi ống lò là loại nồi hơi trong đó sản phẩm của các quá trình cháy chuyển động trong các ống đặt trong bao hơi. Lò hơi có loại lò ghi (nhiên liệu rắn), lò đốt buồng (nhiên liệu rắn, lỏng, khí).

Theo áp suất làm việc của môi chất công tác có nồi hơi hạ áp, cao áp và siêu cao áp. Về mặt kỹ thuật an toàn người ta chia ra nồi hơi có áp suất dưới 0,7at và trên 0,7at.

Page 44: ATLD&BVMT. phan 2

6.2.2. Nguy cơ hư hỏng và nổ vỡ các thiết bị áp lực

a/ Nguy cơ nổ

Thiết bị áp lực làm việc trong điều kiện môi chất chứa trong đó có áp suất khác áp suất khí quyển (lớn hơn – áp suất dương, nhỏ hơn – áp suất âm), giữa chúng (môi chất công tác và môi trường bên ngoài) luôn có xu hướng cân bằng áp suất kèm theo sự giải phóng năng lượng khi điều kiện cho phép (độ bền của thiết bị không đảm bảo do những nguyên nhân khác nhau) dưới dạng các vụ nổ.

Các thiết bị áp lực bị nổ vỡ khi độ bền của nó không chịu nổi tác dụng của chênh lệch áp suất giữa môi chất trong bình và môi trường bên ngoài.

Có hai dạng: nổ vật lý và nổ hoá học.

Nổ vật lý là hiện tượng phá huỷ thiết bị để cân bằng áp suất giữa trong và ngoài khi áp suất môi chất trong thiết bị vượt quá trị số cho phép đã được tính trước đối với loại vật liệu đã chọn hoặc do vật liệu chọn không đúng, cũng như khi vật liệu làm thành bì ăn mòn...

Nổ hoá học có mối nguy hiểm gấp nhiều lần do quá trình gia tăng áp suất trước khi thiết bị bị phá huỷ bởi sự nổ vật lý diễn ra rất nhanh và áp suất nổ lớn hơn nhiều lần áp suất ban đầu trong thiết bị. Công sinh do nổ hoá học rất lớn và phụ thuộc chủ yếu vào bản thân chất nổ, tốc độ cháy của hỗn hợp, phương thức lan truyền của sóng nổ. Vì vậy khi tính toán độ bền của thiết bị phải chú ý đến khả năng chịu lực khi có nổ hoá học, khả năng thoát khí qua van an toàn.

Hiện tượng nổ hoá học có thể xảy ra tại nhiều điểm bên trong thiết bị, còn nổ vật lý chỉ làm vỡ thiết bị tại vùng kém bền nhất của thiết bị.

b/ Nguy cơ bỏng

Thiết bị áp lực làm việc với môi chất có nhiệt độ cao dẫn đến gây ra nguy cơ bỏng nhiệt. Hiện tượng bỏng nhiệt xảy ra do nhiều nguyên nhân: xì hở môi chất, nổ vỡ thiết bị, tiếp xúc với các thiết bị có nhiệt độ cao không được bọc hoặc bị hỏng cách nhiệt, do vi phạm chế độ vận hành, vi phạm quy trình xử lý sự cố, do cháy...

Bên cạnh đó ta còn gặp hiện tượng bỏng do nhiệt độ thấp ở các thiết bị mà môi chất được làm lạnh lâu ở áp suất lớn; hiện tượng bỏng do các hoá chất, chất lỏng có hoạt tính cao (axit, chất oxy hoá mạnh, kiềm ...)

c/ Các yếu tố nguy hiểm có hại khác

Các thiết bị áp lực sử dụng trong công nghiệp thường có yếu tố nguy hiểm do các chất hoặc sản phẩm có tính nguy hiểm, độc hại như bụi, hơi, khí độc được sử dụng hay tạo ra trong quá trình sử dụng, khai thác thiết bị.

6.2.3. Nguyên nhân sự cố đối với các các thiết bị áp lực

* Nguyên nhân kỹ thuật

- Thiết bị được thiết kế và chế tạo không đảm bảo quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật, kết cấu không phù hợp, dùng sai vật liệu, tính toán sai làm cho thiết bị không đủ khả năng chịu lực, không đáp ứng yêu cầu an toàn khi làm việc lâu dài dưới tác động của các thông số vận hành tạo nguy cơ sự cố.

- Thiết bị quá cũ, hư hỏng nặng, không được sửa chữa kịp thời, chất lượng sửa chữa kém.

Page 45: ATLD&BVMT. phan 2

- Không có thiết bị kiểm tra đo lường hoặc thiết bị kiểm tra đo lường không đủ tin cậy.

- Không có cơ cấu an toàn hoặc cơ cấu an toàn không làm việc theo chức năng yêu cầu.

- Đường ống và thiết bị phụ trợ không đảm bảo đúng quy định.

- Tình trạng nhà xưởng, hệ thống chiếu sáng, thông tin không đảm bảo khả năng theo dõi, vận hành xử lý sự cố một cách kịp thời.

*Nguyên nhân tổ chức

Người quản lý thiếu quan tâm đến vấn đề an toàn trong khai thác, sử dụng thiết bị chịu áp lực, đặc biệt là thiết bị làm việc với áp lực thấp, thiết bị có công suất và dung tích nhỏ, dẫn tới tính trạng quản lý chủ quan, lỏng lẻo, nhiều khi không đăng kiểm vẫn đưa vào hoạt động.

6.2.4. Những biện pháp phòng ngừa sự cố thiết bị chịu áp lực

* Biện pháp tổ chức

- Quản lý thiết bị chịu áp lực theo các quy định trong tài liệu tiêu chuẩn, quy phạm

- Đào tạo huấn luyện: người vận hành phải được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật an toàn, nắm vững thao tác khi vận hành và cách xử lý khi có sự cố xẩy ra.

- Xây dựng các tài liệu kỹ thuật: Các tiêu chuẩn, quy phạm hướng dẫn vận hành là những phương tiện giúp cho việc quản lý kỹ thuật, khai thác thiết bị một cách có hiệu quả và an toàn, ngăn ngừa sự cố, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

* Biện pháp kỹ thuật

- Thiết kế chế tao: đây là giải pháp được xem xét ngay từ khâu đầu tiên: thếit kế, chế tạo. Các giải pháp đó lao gồm việc chọn kết cấu, tính độ bền, vật liệu, giải pháp gia công. Mục tiêu của khâu thiết kế chế tạo là đảm bảo khả năng làm việc an toàn lâu dài, loại trừ khả năng hình thành các nguy cơ sự cố và tai nạ lao động

- Kiểm nghiệm dự phòng: Được áp dụng khi thiết bị mới chế tạo lắp đặt hoặc sau khi sửa chữa lớn, khám nghiệm định kỳ, khám nghiệm bất thường.

+ kiểm tra, xem xét bên trong và bên ngoài thiết bị dể xác định tình trạng kỹ thuật, phát hiện những hư hỏng, khuyết tật...

+Thử nghiệm độ bền bằng áp lực chất lỏng để xác định khả năng chịu lực của thiết bị.

+Thử nghiệm độ kín của thiết bị bằng khí nèn

+ Kiểm tra xác định chiều dài của thiết bị, khuyết tật, mối hàn

- Sửa chữa phòng ngừa: Việc sửa chữa kịp thời sẽ góp phần đáng kể vào việc giảm sự cố, tai nạn lao động và tăng tuổi thọ của thiết bị

+ Sửa chữa sự cố: để khắc phục những hư hỏng nhỏ xảy ra trong quá trình vận hành, sử dụng thiết bị.

+ Sửa chữa định kỳ: Sửa chữa vừa hoặc sửa chữa lớn nhằm thay thế từng phần hoạc thay thế toàn bộ thiết bị không còn khả năng làm việc an toàn.

Page 46: ATLD&BVMT. phan 2

6.2.5. Yêu cầu về ATLĐ đối với thiết bị nồi hơi và thiết bị áp lực

• Chấp hành các quy phạm về vận hành các thiết bị nồi hơi và áp lực. (phải có tài liệu kỹ thuật về thiết bị, phải có hồ sơ đăng ký tại cơ quan thanh tra kỹ thuật an toàn - đăng kiểm).

• Trên tất cả các thiết bị áp lực cần đặt áp kế để đo áp suất trong bình, áp kế phải chính xác thường dùng loại 2 kim trong đó một kim chỉ áp suất thực tế, còn kim kia chỉ áp suất lớn nhất mà thiết bị đã từng làm việc.

• Sử dụng các van an toàn để phòng ngừa quá áp.

• Thực hiện chế tạo và sửa chữa theo đúng quy phạm, thực hiện quy phạm về phòng chống cháy và nổ.

• Thường xuyên khám nghiệm, kiểm tra định kỳ và giám sát việc thực hiện quy phạm về an toàn lao động (bình áp lực 3 năm khám nghiệm toàn bộ 1 lần, 1 năm thử áp lực 1 lần).

• Đào tạo, huấn luyện công nhân vận hành máy về kỹ thuật an toàn.

6.2.5.1. Yêu cầu về mặt quản lý thiết bị

- Nồi hơi và thiết bị chịu áp lực phải được đăng ký tại cơ quan thanh tra kỹ thuật an toàn nồi hơi chịu trách nhiệm khám nghiệm thiết bị đó.

- Nồi hơi và thiết bị chịu áp lực phải được đăng kiểm trước khi vận hành, đồng thời trong quá trình làm việc nó c ũng ph ải được kiểm tra định kỳ theo quy định.

1. Yêu cầu đối với thiết kế, chế tạo, lắp đặt và sửa chữa

Yêu cầu đối với thiết kế

- Việc thiết kê, chọn kết cấu của thiết bị phải xuất phát từ đặ tính của môi chất công tác, quá trình hoạt động của thiết bị.

- Kết cấu của thiết bị phải đảm bảo độ vững, độ ổn đinh, thao tác thuận tiện và đủ độ tin cậy, tháo lắp dễ và dễ kiểm tra bên trong cũng như bên ngoài.

- Kết cấu, kích thước của thiết bị đảm bảo độ bền (cơ học, hoá học và nhiệt học).

Yêu cấu chế tạo sửa chữa

Việc chế tạo và sửa chữa nồihơi - thiết bị chịu áp lực chỉ được phép tiến hành ở những nơi có đầy đủ các điều kiện về con người, máy mcó, thiết bị gia công, công nghệ và điều kiện kiểm tra thử nghiệm đảm bảo như các quy định trong tiêu chuẩn, quy phạm và phải được cấp có thẩm quyền cho phép.

Việc chế tạo sửa chữa phải đảm bảo dung sai cho phép đối với các kích thước của chi tiết.

Công việc liên quan tới hàn phải do thợ hàn có bằng hàn áp lực tiến hành. Phải kiểm tra đánh giá mối hàn theo các tiêu chuẩn, quy phạm

Yêu cầu đối với lắp đặt

- Sử dụng các vật liệu đã quy định trong thiết kế

- Không được tự ý cải tiến, thay đổi, hoặc vứt bỏ các bộ phận chi tiết của thiết bị.

- Đảm bảo kích thước, khoảng cách giữa các thiết bị với nhau, giữa các thiết bị với tường xây và các kết cấu khác của nhà xưởng.

Page 47: ATLD&BVMT. phan 2

- Kiểm tra các bộ phận, chi tiết trước khi lắp đặt. Đối với các bộ phận được bảo quản bằng dầu, mỡ thì phải có biện pháp làm sách trước khi lắp.

6.2.5.2. Yêu cầu đối với dụng cụ kiểm tra đo lường

Việc trang bị các dụng cụ đo lường là bắt buộc đối với nồi hơi và thiết bị chịu áp lực, để giúp cho người vận hành theo dõi các thông số làm việc của thiết bị nhằm loaị trừ những thay đổi có khả năng gây sự cố thiết bị.

Dụng cụ kiểm tra đo lường gồm:

+ Dụng cụ đo áp suất, chân không

+Dụng cụ đo nhiệt độ

+Dụng cụ đo mức, đo lưu lượng

+ Trang bị kiểm tra và đo biến dạng, đo tác động của áp suất và nhiệt độ.

- Dụng cụ kiểm tra đo lường đối với từng dạng thiết bị khác nhau là khác nhau về kiểu cách, chủng loại và số lượng.

- -Để thực hiện các chức năng, các dụng cụ kiểm tra đo lường phải thoả mãn các yêu cầu sau:

+ Có cấp chính xác phù hợp

+Có thang đo phù hợp

+Có khả năng kiểm tra sự hoạt động cũng như độ chính xác các số chỉ.

+Dễ quan sát.

- Ngoài ra cần chú ý

+ Không được sử dụng lẫn lộn các loại đồng hồ cho các loại môi chất khác nhau

+Không được sử dụng các dụng cụ kiểm tra đo lường nếu không có niêm chì hoặc dấu hiệu kiểm tra.

+Không được sử dụng các loại thiết bị kiểm tra, đo lường đã quá hạn kiểm chuẩn.

+Không được sử dụng các loại dụng cụ đã hư hỏng

6.2.5.3. Yêu cầu đối với cơ cấu an toàn

- Cơ cấu an toàn là phương tiện bảo vệ bắt buộc đối với nồi hơi và thiết bị chịu áp lực kỏi bị phá huỷ khi áp suất và nhiệt độ của môi chất công tác vượt quá giới hạn cho phép.

- Cơ cấu an toàn có rất nhiều loại, hoạt động theo nhiều nguyên lý khác nhau như: tác động trực tiếp, tác động gián tiếp, van kiểu đệm, màng nổ phá huỷ... Về mặt cấu tạo, cơ cấu an toàn có thể là van kiểu lò so, kiểu đối trọng, màng xé nổ, màng lật nổ,...

- Van an toàn, theo nguyên lý tác động và cấu tạo là những cơ cấu an toàn không phá huỷ (khi tác động thì các chi tiết của nó không thay đổi về hình dạng) và có khả năng tái lập lại độ kín khít để duy trì sự hoạt động của thiết bị.

- Màng an toàn cũng có nhiều dạng khác nhau, đinh chì thuộc loại cơ cấu an toàn có bộ phận bị phá huỷ khi hoạt động và nó không có khả năng tái lập lại độ kín khít để thiết bị hoạt động trở lại, sau mỗi lần tác động phải ngừng máy để thay thể bộ phận hay thiết bị đã bị phá huỷ.

Page 48: ATLD&BVMT. phan 2

- Để đảm bảo khả năng bảo vệ chống nổ, vỡ thiết bị, các cơ cấu an toàn phải thoả mãn các yêu cầu cơ bản sau:

+ Đảm bảo độ tin cậy khi hoạt động

+ Đạt độ chính xác theo yêu cầu

+ Đảm bảo khả năng thông thoát

- Nhưng quy định cụ thể về cách chọn, quy định về lắp đặt cơ cấu an toàn xem trong các tiêu chuẩn và quy phạm QPVN –2-75, QPVN –23-81

- Để đảm bảo khả năng an toàn, cần phải:

+ Không được sử dụng các cơ cấu an toàn chưa được kẹp chì, kiẻm định

+Phải thường xuyên kiểm tra khả năng hoạt động của cơ cấu an toàn, kịp thời thay thế các màng an toàn, đinh chì khi hết thời hạn sử dụng (kể cả khi cơ cấu chưa bị phá huỷ)

+Khi lắp đặt các cơ cấu an toàn phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của quy phạm hoặc của thiết kế.

6.2.5.4. Yêu cầu đ ối với phụ tùng đư ờng ống

Các loaị van khoá, van tiết lưu, van một chiều, vòi p, phụ kiện đường ống là những chi tiết, bộ phận cho sự vận hành an toàn của thiết bị áp lực.

Chất lượng của van, phụ tùng, đường ống, cách bố trí lắp đặt chúng... có ý nghĩa lớn trong việc đảm bảo an toàn cho người và thiết bị. Để đảm bảo mục tiêu này, các cơ cấu đóng mở, phụ tùng đường ống phải:

+ Đảm bảo độ kín khít đóng mở.

+ Không có khuyết tật, không rạn nứt, ren không bị hư hỏng

+Van phải có kết cấu phù hợp, thao tác thuận tiện.

+Van và phụ tùng đường ống phải có nhãn hiệu rõ ràng, trên tay van phải có mũi tên chỉ chiều chuyển động của môi chất, đường kính trong quy ước, áp suất quy ước, nhiệt độ cho phép.

- Khi sử dụng van phụ tùng đường ống phải lưu ý trong cách trọng cách chọn kiểu van, vị trí và cách lắp đặt.

Việc chọn van, phụ tùng đường ống được căn cứ vào môi chất sử dụng ( khí, hơi, lỏng), tính chất của môi chất (ăn mòn hay không ăn mòn). Thông số làm việc của môi chất (áp suất, nhiệt độ...), lưu lượng của môi chất, chức năng của van (van chặt hay tiết lưu). Khi lắp đặt phải đúng chiều chuyển động của môi chất, đúng vị trí và số lượng.

6.3. Kỹ thuật an toàn với thiết bị nâng hạ

6.3.1. Những khái niệm cơ bản

Thiết bị nâng hạ là những thiết bị dùng để nâng, hạ tải.

Theo TCVN 4244-86 thì các thiết bị nâng hạ bao gồm:

+ Máy trục;

+ Xe tời chạt trên đường ray ở trên cao;

+ Palăng điện, thủ công;

Page 49: ATLD&BVMT. phan 2

+ Tời điện, thủ công;

+ Máy nâng.

6.3.2. Những sự cố tai nạn thường xảy ra của thiết bị nâng:

+ Rơi tải trọng : chủ yếu do nâng quá tải làm đứt cáp nâng tải, nâng cần, moc buộc tải; do công nhân lái khi nâng hoặc lúc quay cần tải bị vướng vào các vật xung quanh; phanh của cơ cấu nâng bị hỏng, má phanh mòn quá mức quy định, mô men phanh quá bé, dây cáp bị mòn hoặc bị đứt, mối nối cáp không đảm bảo.

+ Sập cần: là sự cố thường xảy ra và gây chết người, do nối cáp không đúng kỹ thuật, khoá cáp mất, hỏng phanh, có thể do cần quá tải ở tầm với xa nhất làm đứt cáp.

+ Đổ cầu: Do vùng đất mặt bằng làm việc không ổn định, đất bị lún hoặc mặt phẳng có góc nghiêng quá quy định. Cầu quá tải hoặc tải bị vướng vào các vạt xung quanh.

+ Tai nạn về điện : tai nạn về điện có thể xảy ra do:

Cần cẩu chạm vào đường dây mang điện hay bị phóng điện hồ quang do vi phạm khoảng cách an toàn đối với điện cao áp.

Thiết bị được nâng đè lên dây cáp mang điện

6.3.3. Yêu cầu an toàn đối với một số chi tiết, cơ cấu quan trọng của thiết bị nâng

6.3.3.1. Cáp: Là chi tiết quan trong trong bất kỳ máy trục nào

*Chọn cáp:

- Cáp sử dụng phải có khả năng chịu lực phù hợp với lực tác dụng lên cáp.

- Cáp có cáu tạo phù hợp với tính năng sử dụng của nó.

- Cáp có đủ chiều dài cần thiết. Đối với cáp dùng để buộcthì phải đảm bảo góc taọ thành giữa các nhánh cáp không lớn hơn 900. Đối với cáp sử dụng ở các cơ cấu nâng, hạ tải hoặc cần thì cáp phải có độ dài sao cho khi tải hoặc cần ở vị trí thấp nhất thì trên tang cuộn cáp vẫn còn lại một số vòng dự trữ cần thiết phụ thuộc vào cách cố định đầu cáp.

*Loại bỏ cáp: Sau một thời gian sử dụng, cáp sẽ bị mòn do ma sát, gỉ và bị gẫy, dứt các sợi do bị cuốn vào tang và qua ròng rọc, hiện tượng đó phát triển dần và đến một lúc nào đó thì cáp mới bị đứt hoàn toàn. Ngoài ra cáp còn bị hỏng do thắt nút, kẹp... do đó phải thường xuyên kiểm tra tình trạng dây cáp, căn cứ vào quy phạm hiện hành để loại bỏ cáp không còn đủ tiêu chuẩn.

6.3.3.2. Xích: Các loại xích được sử dụng là xích hàn và xích lá.

Xích phải được chọn loại có khả năng chịu lực phù hợp với lực tác dụng lên xích. Khi mắt xích đã mòn quá 10% kích thước ban đầu thì không sử dụng được nữa.

6.3.3.3. Tang và ròng rọc

- Tang: dùng cuộn cáp và cuộn xích. Yêu cầu của tang:

+ Đảm bảo đường kính theo yêu cầu

+Cấu tạo tang phải đảm bảo với yêu cầu làm việc

+Tang phải loại bỏ khi rạn nứt.

Page 50: ATLD&BVMT. phan 2

- Ròng rọc: dùng thay đổi hướng chuyển động của cáp hay xích để làm lợi về lực hay tốc độ. Yêu cầu của ròng rọc:

+ Đảm bảo đường kính puli theo yêu cầu

+Cấu tạo phù hợp với chế độ làm việc

+Ròng rọc phải loại bỏ khi rạn, nứt hay mòn sâu quá 0.5mm đường kính cáp.

6.3.3.4. Phanh: được sử dụng ở tất cả các loại máy trục và ở hầu hết các cơ cấu của chúng. Tác dụng của phanh là dùng để ngừng chuyển động của một cơ cấu nào đó hoặc thay đổi tốc độ của chúng. Phanh được chia thành các loại phanh má, phanh đai, phanh đĩa, phanh côn.

Trong đó phanh má là loại phanh được sử dụng nhiều nhất trong máy trục. Momen của phanh má được tạo ra bằng các lực ma sát giã hai má phanh và bánh phanh.

Phanh đai có cấu tạo đơn giản, mô mem phanh do lực ma sát giữa đai phanh và bánh phanh sinh ra. Nhưng phanh đai có mức an toàn thấp, hay gây sự cố nên ít sử dụng.

Phanh đĩa và phanh côn là những phanh tạo nên do ma sát giữa các đĩa hoặc côn với nhau. Chúng chỉ làm phanh phụ ở các cơ cấu

Phanh được loại bỏ trong các trường hợp sau:

- Với má phanh phải loại bỏ khi mòn không đều, má phanh không mở đều, má mòn tới đinh vít giữ má phanh, bánh phanh bị mòn sâu quá 1mm, phanh có vết rạn nứt, khi phanh làm việc má phanh chỉ tiếp xúc với bánh một góc nhỏ hơn 80% góc quy định, độ hở của má phanh và bánh phanh vượt quá quy định.

- Đối với phanh đai, phải loại bỏ khi có vwts ở đai phanh, khi độ hở giữa đai phanh và bánh phanh lớn hơn 4mm, khi bánh phanh bị mòn hơn 30% chiều dày ban đầu của thnàh bánh phanh, khi đai phanh bị mòn quá 50% chiều dày ban đầu, khi phanh làm việc đai phanh chỉ tiếp xúc với bánh phanh một góc nhỏ hơn 80% góc tính toán, khi đai phanh và bánh phanh mòn không đều

6.3.4. Các yêu cầu đối với thiết bị an toàn trên máy

Để ngăn ngừa sự cố và tai nạn lao động trong quá trình sử dụng thiết bị nâng thì mỗi thiết bị nâng phải được trang bị một hệ thống an toàn phù hợp. Gồm có:

- Thiết bị khống chế quá tải: dùng để tự động ngắt dẫn động của cơ cấu nâng tải khi trọng lượng vượt quá 110% trọng tải

- Thiết bị hạn chế góc nâng cần: nhằm mục đích ngắt dẫn động của cơ cấu nâng, hạ cần khi góc tạo nên giữa cần và phương nằm ngang đạt trị số giới hạn.

- Thiết bị hạn chế hành trình xe con, máy trục

- Thiết bị hạn chế góc quay

- Thiết bị chống máy trục di chuyển tự do

- Thiết bị hạn chế độ cao nâng tải

- Thiết bị đo góc nghiêng của mặt bằng đáy trục và báo hiệu khi góc nghiêng lớn hơn góc nghiêng cho phép

- Thiết bị báo hiệu máy trục đi vào vùng nguy hiểm của đường dây tải điện

Page 51: ATLD&BVMT. phan 2

Thiết bị chỉ tầm với và tải trọng cho phép tương ứng

6.3.5. Những yêu cầu về an toàn khi lắp đặt, vận hành và sửa chữa thiết bị nâng

An toàn khi lắp đặt

- Phải lắp đặt thiết bị nâng ở vị trí tránh được sự cần thiết phải kéo lê tải trước khi nâng và có thể nâng cải cao hơn chướng ngại vật 0.5m.

- Nếu là thiết bị nâng dùng nam châm điện để mang tải thì cấm đặc chúng làm việc trên nhà, các công trình thiết bị.

- Khoảng cách giữa các máy trục với nhau, với các chướng ngại vật ( hố đào, hào, đường dây tải điện...) phải đảm bảo theo tiêu chuẩn.

Yêu cầu khi vận hành

- Trước khi cho thiết bị nâng hoạt động phải kiểm tra kỹ tình trạng kỹ thuật của cơ cấu và các chi tiết quan trọng. nếu phát hiện có hư hỏng phải khắc phục xong mới đưa vào sử dụng.

- Phát tín hiệu cho những người xung quanh biết trước khi cho cơ cấu hoạt động.

- Tải được nâng không lớn hơn trọng tải của thiết bị nâng. Tải phải được giữ chắc chắn không bị rơi, trượt trong quá trình nâng chuyển tải.

- Cấm để người đứng trên tải tải khi nâng chuyển hoặc dùng người để cân bằng tải.

- Tải phải nâng cao hơn các chướng ngại vật ít nhất là 0.5m

- Cấm đưa tải qua đầu người

- Không được vừa nâng tải, vừa quay hoặc di chuyển thiết bị, khi nhà chế tạo không quy định trong hồ sơ kỹ thuật.

- Chỉ được phép đón và điều chỉnh tải ở cách bề mặt người móc tải đứng một khoảng cách không lớn hơn 200mm và ở độ cao không lớn hơn 1m tính từ mặt sàn công nhân đứng.

- Tải phải được hạ xuống ở nơi quy định và đảm bảo sao cho tải không bị đổ, trượt rơi. Các bộ phận giữ tải chỉ được thép tháo ra khi tải đã ở tình trạng ổn định

- Cấm dùng thiết bị nâng để tháo dây đang bị đè nặng

- Khi xếp hoặc dỡ tải lên các phương tiện vận tải phải tiến hành sao cho không làm mất ổn định của phương tiện.

- Cấm kéo hoặc đẩy tải khi đang treo

Yêu cầu sửa chữa:

Đây là công tác phải tiến hành định kỳ theo yêu cầu sử dụng bảo dưỡng đã ghi trong tài liệu kèm theo máy.

An toàn điện trong thiết bị nâng:

- Trong trường hợp mạng điện có điểm trung tính nguồn không nối đất thì thực hiện nối đất bảo vệ (phần kim loại không mang điện của máy đều phải nối đất với điện trở nhỏ)

- Trường hợp mạng điện có điểm trung tính nguồn trực tiếp nối đất thì phải tực hiện nối “không” (phần kim loại không mang điện của máy đều phải nối với dây trung tính của nguồn điện)

Page 52: ATLD&BVMT. phan 2

6.3.6. Khám nghiệm thiết bị nâng

- Kiểm tra bên ngoài: dùng mắt để phát hiện các khuyết tật, hư hỏng biểu hiện ra bên ngoài.

- Thử không tải: Thử tất cả các cơ cấu, các thiết bị an toàn (trừ thiết bị khống chế quá tải), các thiết bị điện, thiết bị điều khiển, chiếu sáng, thiết bị chỉ báo.

- Thử tải tĩnh: Nhằm kiểm tra khả năng chịu lực của các kết cấu thép, tình trạng làm việc của các chi tiết và cơ cấu nâng tải, nâng cần, hãm phanh... trong máy trục có tầm với thay đổi còn kiểm tra tình trạng ổn định của máy.

- Thử tải động: bao gồm thử tải động cho cơ cấu nâng và cho tất cả các cơ cấu khác của trục. Phương pháp thử tải động là cho máy trục mang tải thử bằng 110% trọng tải và tạo ra các động lực để thử từng cơ cấu của máy trục. Sau mỗi lần thử tải động cho từng cơ cấu phải kiểm tra tình trạng của máy trục. Nếu sau khi thử không có vết rạn nứt và các hư hỏng khác thì máy trục coi như đạt yêu cầu.

6.3.7. Quản lý thiết bị nâng

Thiết bị nâng là thiết bị có mức nguy hiểm cao, do đó yêu cầu việc quản lý chặt chẽ ngay từ khi chế tạo cho đến quá trình sử dụng và sửa chữa.

- Các thiết bị nâng phải được lập hồ sơ quản lý ở cơ sở. Gồm có:

+ Lý lịch thiết bị nâng

+Thuyết minh hướng dẫn kỹ thuật lắp đặt, bảo quản và sử dụng an toàn.

- Phải tổ chức bảo dưỡng và sửa chữa định kỳ

- Tổ chức khám nghiệm thiết bị nâng

Đối với các thiết bị nâng, chuyển cần có các biện pháp an toàn sau:

• Việc vận chuyển nội bộ trong xí nghiệp và phân xưởng phải được hết sức coi trọng an toàn, đặc biệt là vận chuyển bằng cần cẩu, cầu trục. Đối với việc vận chuyển mặt đất, các đường vận chuyển khi xây dựng phải để ý tới đặc điểm trọng lượng và kích thước của phôi liệu, sản phẩm và phải phù hợp với phương tiện vận chuyển cơ giới thô sơ. Tất cả các vật liệu phải chuyên chở, nếu có trọng tâm cao thì phải được chằng buột cẩn thận. Các phôi hay sản phẩm hình tròn, hình ống khi chất hàng cần có giỏ hoặc thùng bao đựng. Đối với các chi tiết cồng kềnh nên vận chuyển vào thời gian nghỉ làm việc của công nhân.

• Đường vận chuyển thường xuyên trong phân xưởng không được cắt đường công nghệ sản xuất theo giây chuyền và phải có đủ chiều rộng. Việc điều khiển, ra tín hiệu vận chuyển và bốc dỡ hàng nặng phải do những người đã được huấn luyện chuyên môn về kỹ thuật và an toàn thực hiện.

• Đối với các thiết bị nâng chuyển trên không như cầu trục, cẩu lăn, cẩu côngxôn v.v... phải được thường xuyên kiểm tra tình trạng kỹ thuật. Các móc phải có các chốt hàm cáp hoặc xích. Việc treo móc phải cân, đúng trọng tâm của vật và không được treo móc lệch. Khi các kiện hàng được móc cẩu phải treo tín hiệu, đèn báo cảnh giới. Cấm cẩu móc hàng di chuyển trên khu vực có công nhân đang làm việc. Việc chằng buộc cáp vào móc phải thực hiện đúng kỹ thuật. Chọn cáp, dây xích, phanh, chọn vị trí đặt cẩu, chọn tải trọng và

Page 53: ATLD&BVMT. phan 2

tầm với của cẩu cho phù hợp. Chú ý tầm với và đường chuyển động của cẩu để không vướng các đường dây điện.

• Đối với các thiết bị nâng chuyển chỉ cho phép những người chuyên trách đã được huấn luyện mới được điều chỉnh. Tất cả các phương tiện nâng hạ cơ khí hoặc điện khí đều phải có lý lịch và quy định rõ quy trình vận hành an toàn. Thường xuyên kiểm tra máy, thử máy.

6.4. Kỹ thuật an toàn điện

6.4.1. Khái niệm cơ bản về an toàn điện

Điện là nguồn năng lượng cơ bản trong các công xưởng, xí nghiệp, từ nông thôn đến thành thị. Số người tiếp xúc với điện ngày càng nhiều. Thiếu các hiểu biết về an toàn điện, không tuân theo các quy tắc về an toàn điện có thể gây ra tai nạn. Vì vậy vấn đề an toàn điện đang trở thành một trong những vấn đề quan trọng của công tác bảo hộ lao động.

Dòng điện đi qua cơ thể con người gây nên phản ứng sinh lý phức tạp như làm huỷ hoại bộ phận thần kinh điều khiển các giác quan bên trong của người làm tê liệt cơ thịt, sưng màng phổi, huỷ hoại cơ quan hô hấp và tuần hoàn máu. Trường hợp chung thì dòng điện có thể làm chết người có trị số khoảng 100mA. Tuy vậy có trường hợp trị số dòng điện chỉ khoảng 5÷10mA đã làm chết người tuỳ thuộc điều kiện nơi xảy ra tai nạn và trạng thái sức khoẻ của nạn nhân.

a/ Điện trở của người

Thân thể người gồm có da thịt xương, thần kinh, máu.v.v.. tạo thành. Lớp da có điện trở lớn nhất mà điện trở của da lại do điện trở của lớp sừng trên da (dày khoảng 0,05÷0,2mm) quyết định, xương và da có điện trở tương đối lớn còn thịt và máu có điện trở bé. Điện trở của người rất không ổn định và không chỉ phụ thuộc vào trạng thái sức khoẻ của cơ thể từng lúc mà còn phụ thuộc vào môi trường xung quanh, điều kiện tổn thương...

Khi khô ráo điện trở của người là 10.000÷100.000 Ω. Nếu mất lớp sừng trên da thì điện trở người còn khoảng 800÷1000 Ω. Điện trở người phụ thuộc vào độ dày lớp sừng da, trạng thái thần kinh của người.

Mặt khác nếu da người bị dí mạnh trên các cực điện, điện trở da cũng giảm đi. Với điện áp bé 50÷60 V có thể xem điện trở tỷ lệ nghịch với diện tích tiếp xúc. Khi có dòng điện đi qua người, da bị đốt nóng, mồ hôi thoát ra và làm điện trở người giảm xuống.

Thí nghiệm cho thấy:

• Với dòng điện 0,1 mA điện trở người Rng = 500.000 Ω.

• Với dòng điện 10 mA điện trở người Rng = 8.000 Ω.

Điện trở người giảm tỷ lệ với thời gian tác dụng của dòng điện, vì da bị đốt nóng và có sự thay đổi về điện phân. Ngoài ra còn có hiện tượng chọc thủng khi U > 250 V (có khi chỉ cần 10÷30V) lúc này điện trở người xem như tương đương bị bóc hết lớp da ngoài.

b/ Tác dụng của dòng điện đối với cơ thể con người

Khi con người tiếp xúc với mạng điện, sẽ có dòng điện chạy qua người và dòng điện sẽ tác dụng vào cơ thể con người.

Page 54: ATLD&BVMT. phan 2

Dòng điện là yếu tố vật lý trực tiếp gây ra tổn thương khi bị điện giật. Điện trở của thân người, điện áp đặt vào người chỉ là những đại lượng làm biến đổi trị số dòng điện nói trên mà thôi. Tuỳ theo trị số dòng điện, hoàn cảnh xảy ra tai nạn và sức phản xạ của nạn nhân mà xác định mức độ nguy hiểm của điện giật. Hiện nay với dòng điện xoay chiều tần số 50÷60 Hz trị số dòng điện an toàn lấy bằng 10mA; với dòng một chiều trị số này lấy bằng 50mA.

c/ Ảnh hưởng của thời gian điện giật

Thời gian điện giật càng lâu, điện trở người càng bị giảm xuống vì lớp da bị nóng dần lên và lớp sừng trên da bị chọc thủng ngày càng tăng dần. Và như vậy tác hại của dòng điện với cơ thể người càng tăng lên.

Khi dòng điện tác động trong thời gian ngắn, thì tính chất nguy hiểm phụ thuộc vào nhịp tim đập. Mỗi chu kỳ giãn của tim kéo dài độ 1 giây. Trong chu kỳ có khoảng 0,1 giây tim nghỉ làm việc (giữa trạng thái co và giãn) và ở thời điểm này tim rất nhạy cảm với dòng điện đi qua nó.

Nếu thời gian dòng điện qua người lớn hơn 1 giây thế nào cũng trùng với thời điểm nói trên của tim. Thí nghiệm cho thấy rằng dù dòng điện lớn (gần bằng 10mA) đi qua người mà không gặp thời điểm nghỉ của tim cũng không có nguy hiểm gì.

Căn cứ vào lý luận trên, ở các mạng cao áp 110kV, 35kV, 10kV, và 6kV... tai nạn do điện gây ra ít dẫn đến trường hợp tim ngừng đập hay ngừng hô hấp. Với điện áp cao dòng điện xuất hiện trước khi người chạm vào vật mang điện, dòng điện này tác động rất mạnh vào người và gây cho cơ thể người một phản xạ tức thời. Kết quả là hồ quang điện bị dập tắt ngay (hoặc chuyển qua bộ phận bên cạnh), dòng điện chỉ tồn tại trong khoảng vài phần của giây. Với thời gian ngắn như vậy rất ít khi làm tim ngừng đập hay hô hấp bị tê liệt.

Tuy nhiên không nên kết luận điện áp cao không nguy hiểm vì dòng điện lớn này qua cơ thể trong thời gian ngắn nhưng có thể đốt cháy nghiêm trọng và làm chết người. Hơn nữa khi làm việc trên cao do phản xạ mà dể bị rơi xuống đất rất nguy hiểm.

Thời gian và điện áp người bị điện giật: theo Uỷ ban Điện quốc tế (IEC) quy định điện áp và thời gian tiếp xúc cho phép:

Điện áp tiếp xúc (V)Thời gian tiếp xúc (s)

Dòng điện xoay chiều Dòng điện 1 chiều

< 50 < 120

50 120 5

75 140 1

90 160 0,5

110 175 0,2

150 200 0,1

220 250 0,05

280 310 0,03

Page 55: ATLD&BVMT. phan 2

d/ Đường đi của dòng điện qua người

Người ta đo phân lượng dòng điện qua tim người để đánh giá mức độ nguy hiểm của các con đường dòng điện qua người.

Qua thí nghiệm nhiều lần và có kết quả sau:

• Dòng điện đi từ tay qua tay sẽ có 3,3% của dòng điện tổng đi qua tim.

• Dòng điện đi từ tay phải qua chân sẽ có 6,7% của dòng điện tổng đi qua tim.

• Dòng điện đi từ chân qua chân sẽ có 0,4% của dòng điện tổng đi qua tim.

• Dòng điện đi từ tay trái qua chân sẽ có 3,7% của dòng điện tổng đi qua tim.

e/ Ảnh hưởng của tần số dòng điện

Tổng trở của cơ thể con người giảm xuống lúc tần số dòng điện tăng lên. Tuy nhiên trong thực tế thì ngược lại tần số càng tăng thì mức độ nguy hiểm càng giảm. Tần số từ 50÷60 Hz là nguy hiểm hơn cả. Khi trị số của tần số bé hoặc lớn hơn trị số nói trên mức độ nguy hiểm sẽ giảm xuống.

f/ Điện áp cho phép

Dự đoán trị số dòng điện qua người trong nhiều trường hợp không làm được. Xác định giới hạn an toàn cho người không dựa vào “dòng điện an toàn” mà phải theo “điện áp cho phép”. Dùng “điện áp cho phép” rất có lợi vì với mỗi mạng điện có một điện áp tương đối ổn định.

Tiêu chuẩn điện áp cho phép mỗi nước một khác:

• ở Ba lan, Thuỵ Sỹ, điện áp cho phép là 50V.

• ở Hà lan, Thuỵ Điển, điện áp cho phép là 24V.

• ở Pháp, điện áp xoay chiều cho phép là 24V.

• ở Nga, tuỳ theo môi trường làm việc điện áp cho phép có thể có các trị số khác nhau: 65V, 36V, 12V.

• Theo TCVN điện áp cho phép được quy định 42V (xoay chiều), 110V (một chiều).

6.4.2. Các dạng tai nạn điện

Tai nạn điện được phân thành 2 dạng: chấn thương do điện và điện giật

a/ Các chấn thương do điện

Chấn thương do điện là sự phá huỷ cục bộ các mô của cơ thể do dòng điện hoặc hồ quang điện.

• Bỏng điện: Bỏng gây nên do dòng điện qua cơ thể con người hoặc do tác động của hồ quang điện, một phần do bột kim loại nóng bắn vào gây bỏng.

• Co giật cơ: khi có dòng điện qua người, các cơ bị co giật.

• Viêm mắt do tác dụng của tia cực tím.

b/ Điện giật

Page 56: ATLD&BVMT. phan 2

Dòng điện qua cơ thể sẽ gây kích thích các mô kèm theo co giật cơ ở các mức độ khác nhau:

• Cơ bị co giật nhưng không bị ngạt.

• Cơ bị co giật, người bị ngất nhưng vẫn duy trì được hô hấp và tuần hoàn.

• Người bị ngất, hoạt động của tim và hệ hô hấp bị rối loạn.

• Chết lâm sàng (không thở, hệ tuần hoàn không hoạt động).

Điện giật chiếm một tỷ lệ rất lớn, khoảng 80% trong tai nạn điện và 85% số vụ tai nạn điện chết người là do điện giật.

6.4.3. Các biện pháp an toàn khi sử dụng điện

a/ Các quy tắc chung để đảm bảo an toàn điện

Để đảm bảo an toàn điện cần phải thực hiện đúng các quy định:

• Nhân viên phục vụ điện phải hiểu biết về kỹ thuật điện, hiểu rõ các thiết bị, sơ đồ và các bộ phận có thể gây ra nguy hiểm, biết và có khả năng ứng dụng các quy phạm về kỹ thuật an toàn điện, biết cấp cứu người bị điện giật.

• Khi tiếp xúc với mạng điện, cần trèo cao, trong phòng kín ít nhất phải có 2 người, một người thực hiện công việc còn một người theo dõi và kiểm tra và là người lãnh đạo chỉ huy toàn bộ công việc.

• Phải che chắn các thiết bị và bộ phận của mạng điện để tránh nguy hiểm khi tiếp xúc bất ngờ vào vật dẫn điện.

• Phải chọn đúng điện áp sử dụng và thực hiện nối đất hoặc nối dây trung tính các thiết bị điện cũng như thắp sáng theo đúng quy chuẩn.

• Nghiêm chỉnh sử dụng các thiết bị, dụng cụ an toàn và bảo vệ khi làm việc.

• Tổ chức kiểm tra vận hành theo đúng các quy tắc an toàn.

• Phải thường xuyên kiểm tra dự phòng cách điện của các thiết bị cũng như của hệ thống điện.

Thứ tự không đúng trong khi đóng, ngắt mạch điện là nguyên nhân của sự cố

nghiêm trọng và tai nạn nghiêm trọng cho người vận hành. Vì vậy cần vận hành các thiết bị điện theo đúng quy trình với sơ đồ nối dây điện của các đường dây bao gồm tình trạng thực tế của các thiết bị điện và những điểm có nối đất. Các thao tác phải được tiến hành theo mệnh lệnh, trừ các trường hợp xảy ra tai nạn mới có quyền tự động thao tác rồi báo cáo sau.

b/ Các biện pháp kỹ thuật an toàn điện

• Trước khi sử dụng các thiết bị điện cần kiểm tra cách điện giữa các pha với nhau, giữa pha và vỏ. Trị số điện trở cách điện cho phép phụ thuộc vào điện áp của mạng điện. Đối với mạng điện dưới 1000V thì điện trở cách điện phải lớn hơn 1000Ω/V. Ví dụ với mạng điện áp 220V, điện trở cách điện ít nhất phải là: Rcđ = 1000 x 220 = 220.000 Ω = 0,22 MΩ. Nhưng để đảm bảo an toàn, quy phạm an toàn điện quy định điện trở cách điện của các thiết bị điện có điện áp tới 500V là 0,5 MΩ/V.

• Ở những nơi có điện nguy hiểm để đề phòng người vô tình tiếp xúc vào cần sử dụng tín hiệu, khoá liên động và phải có hàng rào bằng lưới, có biển báo nguy hiểm.

Page 57: ATLD&BVMT. phan 2

• Sử dụng điện áp thấp, máy biến áp cách ly.

• Sử dụng máy cắt điện an toàn.

• Hành lang bảo vệ đường dây điện cao áp trên không giới hạn bởi hai mặt đứng song song với đường dây, có khoảng cách đến dây ngoài cùng khi không có gió:

Điện áp (kV) ≤ 20kV 35÷66 110 220/230 500

Dây bọc Dây trần

Khoảng cách (m) 0,6 1 2 3 4 7

Khoảng cách thẳng đứng tại mọi vị trí tới dây cuối cùng tối thiểu:

Điện áp (kV) 1÷20 35, 66, 110 220/230 500

Khoảng cách tối thiểu (m) 3 4 5 8

• Trong tất cả các thiết bị đóng mở điện như cầu dao, công tắc, biến trở của các máy công cụ phải che kín những bộ phận dẫn điện. Các bảng phân phối điện và cầu dao điện phải đặt trong các hộp tủ kín, bằng kim loại, có dây tiếp đất và phải có khoá hoặc then cài chắc chắn. Phải ghi rõ điện áp sử dụng ở các cửa tủ chứa phân phối điện.

• Khi đóng mở cầu dao ở bảng phân phối điện phải đi ủng cách điện. Các cần gạt cầu dao phải làm bằng vật liệu cách điện và khô ráo. Tay ướt hoặc có nhiều mồ hôi cấm được đóng mở cầu dao bảng phân phối điện. Chỗ đứng của công nhân thao tác công cụ phải có bục gỗ thoáng và chắc chắn.

• Đề phòng điện rò ra các bộ phận khác và để tản dòng điện vào trong đất và giữ mức điện thế thấp trên các vật ta nối không bảo vệ, nối đất an toàn và cân bằng thế. Nối đất nhằm bảo vệ cho người khi chạm phải vỏ các thiết bị điện trong trường hợp cách điện của thiết bị bị hư.

Bảo vệ nối đất:

Mục đích nối đất là để đảm bảo an toàn cho người lúc chạm vào các bộ phận có mang điện áp.

Khi cách điện bị hư hỏng những phần kim loại của thiết bị điện hay các máy móc khác thường trước kia không có điện bây giờ có mang hoàn toàn điện áp làm việc. Khi chạm vào chúng người có thể bị tổn thương do dòng điện gây nên. Nối đất là để giảm điện áp đối với đất của những bộ phận kim loại của thiết bị điện đến một trị số an toàn đối với người, đó là nối đất an toàn.

Những bộ phận này bình thường không mang điện áp nhưng có thể do cách điện bị chọc thủng nên có điện áp xuất hiện trên chúng. Như vậy nối đất là sự chủ định nối điện các bộ phận của thiết bị điện với hệ thống nối đất.

Hệ thống nối đất bao gồm các thanh nối đất và dây dẫn để nối đất.

Ngoài những nối đất để đảm bảo an toàn cho người còn có loại nối đất với mục đích xác định chế độ làm việc của thiết bị điện. Ví dụ: nối đất trung tính máy biến áp, máy phát điện, nối đất chống sét..

Page 58: ATLD&BVMT. phan 2

Nối đất riêng lẻ cho từng thiết bị là rất nguy hiểm mà phải nối chung lại thành một hệ thống nối đất.

Giả thiết thiết bị điện được nối vào mạch điện một pha hay mạch điện một chiều, vỏ thiết bị được nối vào mạch điện và được nối đất.

Người có điện dẫn gng khi chạm vào vỏ thiết bị có dòng điện bị chọc thủng sẽ mắc song song với điện dẫn của nối đất gđ và điện dẫn của dây dẫn 1 g1 và đồng thời nối tiếp với điện dẫn g2 của dây dẫn 2 đối với đất. Ký hiệu g’ = g1 + gng + gđ.

Điện dẫn tổng mạch điện:

21

21

2

2)(

'

'

gggg

gggg

gg

ggg

dng

dng

Điện áp đặt vào người được xác định:

21

2.

gggg

gUU

dngng

Dòng điện đi qua người (bỏ qua g1, g2, gng vì chúng rất bé so với gd):

d

ngngngng g

ggUgUI

.. 2

Kết luận:

Muốn giảm trị số dòng điện qua người thì có thể hoặc hoặc giảm điện dẫn của người gng

hoặc giảm điện dẫn cách điện của dây dẫn g2, hoặc tăng điện dẫn của vật nối đất gđ. Việc tăng điện dẫn của vật nối đất là dễ dàng đơn giản ta có thể làm được.

Ý nghĩa của nối đất ở đây là tạo nên giữa vỏ thiết bị và đất một mạch điện có mạch độ dẫn điện lớn để cho dòng điện đi qua người khi chạm vào vỏ thiết bị có cách điện bị chọc thủng trở nên không nguy hiểm đối với người.

Từ Hình vẽ chúng ta thấy là bảo vệ nối đất tập trung đạt yêu cầu khi:

txcpddd

dng UrI

g

IU

Khi trị số gđ bé, hệ thống nối đất chỉ đem lại nguy hiểm khi một trong các thiết bị bị chọc thủng cách điện qua vỏ thì toàn bộ thế hiệu nguy hiểm sẽ đặt vào hệ thống nối đất. Điều kiện an toàn có thể thực hiện bằng 2 cách:

• Giảm dòng điện Iđ bằng cách tăng cách điện của mạng điện.

Page 59: ATLD&BVMT. phan 2

• Giảm điện trở nối đất rđ bằng cách dùng nhiều cực nối đất cắm trong đất có điện dẫn lớn.

Bảo vệ nối dây trung tính:

+ Ý nghĩa của bảo vệ nối dây trung tính

Bảo vệ nối dây trung tính tức là nối các bộ phận không mang điện (vỏ thiết bị điện) với dây trung tính, dây trung tính này được nối đất ở nhiều chỗ. Trong lưới điện 3 pha 4 dây điện áp thấp 380/220V và 220/110V thì sử dụng nối dây trung tính thay cho bảo vệ nối đất và nếu dây trung tính của các mạng điện này trực tiếp nối đất.

Ý nghĩa của việc thay thế này là xuất phát từ chỗ bảo vệ nối đất dùng cho mạng điện dưới 1000V khi trung tính có nối đất không đảm bảo điều kiện an toàn.

Hình vẽ sơ đồ bảo vệ nối đất cho mạng điện dưới 1000V. Lúc cách điện của thiết bị bị chọc thủng ra, vỏ sẽ cho dòng điện đi vào đất tính theo biểu thức gần đúng:

0rr

UI

dd

trong đó, U - điện áp pha của mạng điện;

rd - điện trở của thanh nối đất;

r0 - điện trở nối đất làm việc.

Trị số dòng điện này lúc điện áp dưới 1000V không phải lúc nào cũng đủ để cho dây cháy của cầu chì bị cháy hay làm cho bảo vệ tác động cắt chỗ bị hư hỏng.

Ví dụ: ta có mạng điện 380/220V, r0 = rđ = 4 Ω. Như vậy dòng điện đi qua đất:

AId 5,2744

220

Với trị số dòng điện như vậy chỉ làm cháy được dây cháy cầu chì bé hơn dòng điện định mức:

AIccdm )1114(5,22

5,27

Nếu dòng điện nói trên tồn tại lâu trên vỏ thiết bị có điện áp:

d

rdddd rr

urIU

0

Page 60: ATLD&BVMT. phan 2

Nếu r0 = rđ điện áp có trị số bằng nửa điện áp pha và ở điều kiện khác còn có thể có trị số lớn hơn. Giảm điện áp này đến mức độ an toàn bằng cách chọn đúng sự tương quan giữa r0 và rđ :

40

400

U

r

r

d

Trị số 40V là điện áp giáng trên vỏ thiết bị nếu xảy ra chạm vỏ. Theo quy trình điện trở r đ

= 4Ω cho mạng điện có điện áp bé hơn 1000V. Dòng điện đi qua vỏ thiết bị vào đất, trị số lớn nhất là 10A. Vì thế Uđ = 10.4 = 40V.

Tuy nhiên cần phải chú ý là khi xảy ra chạm vỏ thiết bị một pha, điện áp của 2 pha còn lại đối với đất có thể tăng lên đến trị số không cho phép. Với mạng điện 380/220V điện áp này bằng 347V. Nếu chúng ta có thể tăng dòng điện Iđ đến trị số nào đấy để bảo vệ có thể cắt nhanh chỗ sự cố thì mới đảm bảo được an toàn. Biện pháp đơn giản nhất là dùng dây dẫn nối vỏ thiết bị với dây trung tính.

Mục đích nối dây trung tính là biến sự chạm vỏ thiết bị thành ngắn mạch một pha để bảo vệ làm việc cắt nhanh chỗ bị hư hỏng.

+ Phạm vi ứng dụng bảo vệ nối dây trung tính

• Bảo vệ nối dây trung tính dùng cho mạng điện 4 dây điện áp bé hơn 1000V có trung tính nối đất không phụ thuộc vào môi trường xung quanh.

• Với mạng điện 4 dây cấp điện áp 220/127V việc bảo vệ nối dây trung tính chỉ cần thiết trong các trường hợp: xưởng đặc biệt về mặt an toàn; thiết bị đặt ngoài trời.

• Ngoài ra với điện áp 220/127V cũng dùng bảo vệ nối dây trung tính cho các chi tiết bằng kim loại mà người hay chạm đến như tay cầm, tay quay, vỏ động cơ điện nếu chúng nối trực tiếp với các máy phay, bào, tiện.

c/ Bảo vệ chống sét

Sét là hiện tượng phóng điện trong khí quyển giữa đám mây dông mang điện tích với đất hoặc giữa các đám mây dông mang điện tích trái dấu nhau. Điện áp giữa mây dông và đất có thể đạt tới trị số hàng vạn V thậm chí hàng triệu V, còn dòng điện sét từ hàng chục ngàn A đến hàng trăm ngàn A, trị số cực đại của dòng điện sét đạt đến 200÷300kA. Khoảng cách phóng điện thay đổi trong phạm vi một vài tới hàng chục km.

ở nước ta, số ngày có giông sét, mật sét như sau:

• Số ngày giông trung bình (ngày/năm) là 44÷61,6

• Mật độ sét trung bình (lần/km2.năm) là 3,3÷6,47

Những vùng sét hoạt động là: đồng bằng ven biển miền Bắc, miền núi và Trung du miền Bắc, đồng bằng miền Nam, ven biển và cao nguyên miền Trung.

Để bảo vệ chống sét người ta sử dụng các hệ thống chống sét bằng cột thu lôi hoặc lưới chống sét. Nội dung chống sét bao gồm:

• Bảo vệ chống sét đánh trực tiếp (đánh thẳng).

• Bảo vệ chống sét cảm ứng (cảm ứng tĩnh điện và cảm ứng điện từ).

• Bảo vệ chống sét lan truyền.

Page 61: ATLD&BVMT. phan 2

Để bảo vệ chống sét đánh trực tiếp vào các công trình thường dùng các tháp hoặc cột thu lôi có chiều cao lớn hơn độ cao của công trình cần bảo vệ. Trên đỉnh cột có gắn mũi nhọn kim loại gọi là kim thu sét. Kim này được nối với dây dẫn sét xuống đất để đi vào vật nối đất. Không gian chung quanh cột thu lôi được được bảo vệ bằng cách thu sét vào cột được gọi là phạm vi bảo vệ.

Cột thu lôi có thể đặt độc lập hoặc đặt ngay trên trên các thiết bị cần bảo vệ có tiết diện của dây dẫn không được nhỏ hơn 50mm2. Những mái nhà lợp bằng tôn không cần có thu lôi mà chỉ cần nối đất với mái tốt. Những mái nhà không dẫn điện được bảo vệ bằng lưới thép với ô kích thước 5x5 m, mạng lưới phải nối đất tốt và dây dùng làm lưới phải có Φ7÷8m. Điện trở tiếp đất < 4 Ω.

Khi hx < 2h/3 thì:

h

hhr x

x 8,015,1

Khi hx > 2h/3 thì:

h

hhr x

x 175,0

Thực tế cho thấy nên dùng nhiều cột có độ cao không lớn để bảo vệ thay cho một cột có độ cao quá lớn.

Page 62: ATLD&BVMT. phan 2

Bảo vệ chống sét lan truyền người ta kết hợp các giải pháp:

• Các đoạn đường cáp điện, đường ống khi dẫn vào công trình thì đặt dưới đất.

• Nối đất các kết cấu kim loại, vỏ cáp, dây trung tính.

• Đặt các khe hở phóng điện ở đầu vào để kết hợp bảo vệ các thiết bị điện.

6.5. Phòng chống cháy nổ

6.5.1. Khái niệm

Định nghĩa về cháy

Quá trình cháy là một phản ứng hoá học, có toả nhiệt và phát sinh ánh sáng.

Quá trình cháy là quá trình hoá lý phức tạp, trong đó xảy ra các phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát sáng. Cháy chỉ xảy ra khi có 3 yếu tố:

Chất cháy (than, gỗ, xăng, dầu, khí mêtan, hydrô, monoxit cacbon CO);

Ôxy trong không khí > 14÷15%;

Nguồn nhiệt thích ứng (ngọn lửa, thuốc lá hút dở, chập điện,...).

Đây là 3 dấu hiệu đặc trưng cho quá trình cháy, là căn cứ để phân biệt cháy với các hiện tượng hoá, lý khác. Do toả nhiệt lớn nên có nhiệt độ cao và phát sáng được.

- Quá trình cháy gồm hai quá trình cơ bản:

+ Quá trình hoá học: là phản ứng giữa chất cháy và chất oxy hoá

+Quá trình vật lý: gồm hai quá trình: quá trình khuyếch tán khí ( khuyếch tán khí oxy từ không khí vào phản ứng cháy và khuyếch tán sản phẩm chát từ vùng cháy ra ngoài) và quá trình truyền nhiệt giữa vùng đang cháy ra ngoài.

- Tốc độ của quá trình cháy phụ thuộc vào tốc độ của phản ứng hoá học và tốc độ của quá trình vật lý.Trong thực tế quá trình cháy xảy ra ở nhiệt độ khá cao, nên tốc độ của phản ứng hoá học rất lớn còn tốc độ khuyếch tán khí và truyền nhiệt nhỏ hơn nhiều, khi ấy tốc độ quá trình cháy được xác định bằng tốc tộ khuyếch tán khí và truyền nhiệt

- Nhiệt độ bắt cháy: là nhiệt độ mà ở đó ta đưa mồi lửa vào vật cháy thì vật bùng cháy.

Page 63: ATLD&BVMT. phan 2

- Nhiệt độ tự bốc cháy là nhiệt độ thấp nhất mà tại đó hỗn hợp có thể cháy được mà không cần mồi lửa từ bên ngoài..

Định nghĩa về nổ

Một số phản ứng cháy có kèm theo nổ, các phản ứng này có tác hại lớn vì khi nổ sẽ sinh ra sóng áp suất phá huỷ các công trình, thiết bị xung quanh.

Có nhiều hiện tượng nổ, nhưng căn cứ vào tính chất nổ, người ta chia thành 2 loại:

Nổ lý học: là những trường hợp nổ do áp suất trong một thể tích tăng cao, vỏ thể tích không chịu được áp suất nén nên bị nổ. Nói cách khác hiện tượng nổ này xảy ra do sự mất cân bằng áp lực giữa hai khối khí hoặc hơi một cách đột ngột. Ví dụ: nổ của bóng bay, săm xe đạp,…

Nổ hoá học: là hiện tượng nổ do cháy cực nhanh gây ra. Trong khi nổ hoá học có đủ dấu hiệu của quá trình cháy. Ví dụ: quá trình nổ của thuốc súng, bom đạn.

Giới hạn nồng độ nổ: Nồng độ thấp nhất của khi và hơi ở trong không khí có thể gây ra nổ gọi là giới hạn nổ dưới, nồng độ cao nhất của khí và hơi ở trong không khí có thể gây ra nổ gọi là giới hạn nổ trên. Khoảng nằm giữa 2 giới hạn nổ trên và nổ dưới gọi là khoảng nổ hay khoảng bắt cháy. Khoảng nổ của một chất không phải là một hằng số, nó biến đổi tuỳ theo nhiệt độ, áp suất, mồi bắt cháy và chủ yếu phụ thuộc vào nồng độ khí trơ có trong hỗn hợp.

6.5.2. Điều kiện cần thiết cho quá trình cháy

Để quá trình cháy xuất hiện và phát triển được cần phải có 3 yếu tố: chất cháy, chất oxy hoá và mồi bắt cháy ( nguồn nhiệt). Thiếu một trong 3 điều kiện này thì sự cháy sẽ ngừng.

- Chất cháy: là những chất khi bị oxy hoá sẽ toả nhiệt và phát quang. Nó tồn tại ở cả 3 thể rắn, lỏng, khí.

- Chất oxy hoá có thể ở dạng rắn, lỏng hoặc khí.Chất oxy hoá có thể là oxy nguyên chất, không khí, clo, flo, lưu huỳnh, và hợp chất chứa oxy khi bị nung nóng sẽ phân huỷ và tạo ra oxy tự do...

Tỷ lệ pha trộn giữa chất cháy và chất oxy hoá có ý nghĩa quan trọng vì hỗn hợp quá nghèo hoặc giầu chất cháy đều không thể cháy được.

- Mồi bắt cháy có nhiều dạng như ngọn lửa trần, tia lửa điện, hồ quang điện, tia lửa sinh ra do ma sát, va đập hay chập mạch, những tàn lửa hồng. Ngoài ra mồi bắt cháy cũng có thể không phát sáng như nhiệt sinh ra do phản ứng hoá học, do nén ép đoạn nhiệt, do ma sát hoặc do tiếp xúc và nhận nhiệt từ một bề mặt nóng của thiết bị....

Không phải bất cứ một mồi bắt cháy nào cũng có thể gây ra sự cháy của hỗn hợp chất cháy và chất oxy hoá. Sự cháy chỉ xẩy ra khi lượng nhiệt cần cung cấp cho hỗn hợp đủ để cho phản ứng cháy bắt đầu và lan rộng ra. Do đó mồi bắt cháy phải có dự trữ năng lượng tối thiểu. Mồi bắt cháy phải có khả năng gia nhiệt cho một thể tích tối thiểu hỗn hợp cháy lên đến nhiệt độ tự bắt cháy.

Nhiệt độ bắt cháy: là nhiệt độ mà ở đó

6.5.3. Những nguyên nhân gây cháy

6.5.3.1. Cháy do tác dụng của ngọn lửa trần hoặc tia lửa, tàn lửa

Page 64: ATLD&BVMT. phan 2

Đây là nguyên nhân cháy phổ biến vì nhiệt độ của ngọn lửa trần rất cao. Ví dụ: nhiệt độ của que diêm là 750 – 8000C, ngọn lửa đèn dầu là 760 – 10000C. Trong khi đó, nhiệt độ tự bốc cháy của một số chất như sau: gỗ thông 2500C, giấy 1840C, vải sợi hoá học 1800C.

6.5.3.2. Cháy do ma sát và va chạm giữa các vật rắn

Đây cũng là nguyên nhân thường gặp trong các trường hợp máy móc không được bôi trơn tốt, các ổ bi, cổ trục cọ sát vào nhau sinh ra nhiệt hoặc có khi phát ra tia lửa gây cháy.

6.5.3.3. Cháy do tác dụng của hoá chất

Trong khâu sản xuất, bảo quản, vận chuyển và sử dụng hoá chất người ta đề ra những quy định hết sức nghiêm ngặt để phòng các sự cố gây tai nạn cho con người và môi trường.

Về mặt phòng cháy chữa cháy, phải chú ý thường xuyên các phản ứng hoá học toả nhiệt hoặc phát sinh ngọn lửa. Người ta phân định như sau:

Các hoá chất tác dụng với nhau sinh nhiệt hoặc hình thành ngọn lửa có thể dẫn đến cháy nếu không chủ động kiểm soát. Ví dụ: clo với amoniac, clo với hyđro

Hoá chất gặp không khí, gặp nước có khả năng gây cháy như: photpho trắng, bụi kẽm, bụi nhôm,… dễ gây phản ứng trong không khí và nước.

6.5.3.4. Cháy do tác dụng của năng lượng điện

Đây cũng là trường hợp chuyển hoá từ điện năng sang nhiệt năng.

Trong trường hợp chập mạch điện, nhiệt độ trên dây dẫn tăng cao có thể gây cháy vỏ cách điện rồi cháy sang các vật khác.

Các trường hợp sinh ra tia lửa điện như đóng ngắt cầu dao, cháy cầu chì, mối nối dây không chặt cũng là những nguồn gây cháy.

Nguyên nhân gây cháy nổ trong thực tế rất nhiều và đa dạng. Ví dụ như sét cũng là nguyên nhân gây ra cháy. Sét là hiện tượng phóng điện giữa các đám mây có điện tích trái dấu hoặc giữa đám mây và mặt đất. Điện áp giữa đám mây và mặt đất có thể đạt hàng triệu hay hàng trăm triệu vôn. Nhiệt độ do sét đánh rất cao, hàng chục nghìn độ vượt quá xa nhiệt độ tự bắt cháy của các chất cháy được.

6.5.4. Các biện pháp, nguyên lý và các phương pháp phòng chống cháy nổ ở các xí nghiệp

6.5.4.1. Các biện pháp quản lý phòng chống cháy nổ ở cơ sở

Phòng cháy là khâu quan trọng nhất, vì nếu để xảy ra cháy thì ít nhiều cũng sẽ gây ra thiệt hại. Việc phòng chống cháy nổ có các biện pháp sau:

Biện pháp kỹ thuật

Cần có sự lựa chọn công nghệ và trang thiết bị phù hợp, vật liệu kết cấu, vật liệu xây dựng, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống báo hiệu và chữa cháy. Giải pháp công nghệ đúng là phải ưu tiên trước hết bảo vệ con người và tài sản. Ở những vị trí cần thiết cần đặt các trang bị phòng chống cháy nổ như van 1 chiều, van chống nổ, các bộ phận chắn lửa, tường ngăn cách...

Biện pháp tổ chức

- Lập phương án phòng chống cháy nổ cho từng cơ sở

- Thành lập đội phòng cháy chữa cháy

Page 65: ATLD&BVMT. phan 2

- Huấn luyện, tuyên truyền, giáo dục người lao động trong công tác phòng cháy chữa cháy

- Phổ biến các quy định và pháp luật về phòng cháy chữa cháy

-

6.5.4.2. Nguyên lý phòng chống cháy

Nguyên lý phòng cháy : “Nếu tách rời 3 yếu tố: chất cháy, chất oxy hoá và mồi bắt lửa thì cháy nổ không thể xảy ra được”

Nguyên lý chữa cháy: hạ thấp tốc độ cháy của vật liệu đang cháy tới mức tối thiểu và phân tán nhanh nhiệt lượng của đám cháy ra môi trường xung quanh. Trong đó:

Giảm tốc độ phát nhiệt hoặc ngừng phát nhiệt trong vùng cháy có thể đạt được bằng cách ức chế phản ứng cháy bằng phương pháp hoá học, pha loãng chất cháy bằng chất không cháy hoặc cách lý chất phản ứng ra khỏi vùng cháy.

Tăng tốc độ truyền nhiệt từ vùng cháy ra ngoài môi trường xung quanh bằng cách làm lạnh nhanh chóng vùng cháy hoặc chất phản ứng.

Để thực hiện hai nguyên lý trên trong thực tế người ta dùng nhiều giải pháp khác nhau:

- Hạn chế khối lượng chất cháy, hoặc chất oxy hoá đến mức tối thiểu cho phép về phương diện kỹ thuật, vấn đề này liên quan đến kích thước và áp suất của các thiết bị phản ứng hay bể chứa khí, các sản phẩm dạng lỏng như xăng, cồn.. với các chất đốt dạng rắn như than, các chất nổ công nghiệp... dễ bén lửa thì kích thước kho chứa, thùng chứa rất cần được quan tâm. Các kích thước này có quy định theo tiêu chuẩn quốc gia.

- Ngăn cách sự tiếp xúc của chất cháy và chất oxy hoá khi chúng chưa tham gia vào quá trình sản xuất.

- Cách ly các nguồn phát sinh tia lửa như bơm, quạt, máy nén khí, động cơ điện, cầu dao... ra khỏi khu vực sản xuất.

- Các thiết bị có khả năng sinh tĩnh điện phải được nối đất.

- Các quá trình sản xuất có liên quan đến sử dụng ngọn lửa trần, những vật nung đỏ như kim loại, than đang cháy dở, hồ quang điện, không được tiến hành trong môi trường có khí cháy.

Dựa trên nguyên lý thứ 2 để chữa cháy ta có các loại phương án chữa cháy sau:

Làm loãng chất tham gia phản ứng bằng cách đưa vào vùng cháy những chất không tham gia phản ứng cháy như CO2, N2,…

ức chế phản ứng cháy bằng cách đưa vào vùng cháy những chất có tham gia phản ứng nhưng có khả năng biến đổi chiều của phản ứng từ phát nhiệt thành thu nhiệt như brommetyl, brometyl,…

Ngăn cách không cho oxy thâm nhập vào vùng cháy như dùng bọt, cát, …

Làm lạnh vùng cháy đến nhiệt độ bắt cháy của các chất cháy.

Phương pháp tổng hợp. Ví dụ: đầu tiên chữa cháy bằng phương pháp làm lạnh tổng hợp, sau đó dùng phương pháp cách ly.

Page 66: ATLD&BVMT. phan 2

6.5.4.3. Các phương tiện chữa cháy

a) Các chất chữa cháy

Các chất chữa cháy là các chất đưa vào đám cháy nhằm dập tắt nó Có nhiều loại chất chữa cháy ở dạng rắn, lỏng, khí. Các yêu cầu của chất chữa cháy là:

- Có hiệu quả chữa cháy cao, nghĩa là tiêu hao chất chữa cháy trên một đơn vị diện tích cháy trong một đơn vị thời gian phải nhỏ nhất, kg/m2.s.

- Dễ kiếm và rẻ

- Không gây độc hại trong sử dụng và bảo quản

- Không làm hư hỏng thiết bị cứu chữa và các thiết bị đồ vật được cứu chữa.

Ở nước ta hiện nay có nhiều chất chữa cháy đã được sử dụng, dưới đây là một số chủng loại chính:

*Nước: Nước có ẩn nhiệt hoá hơi lớn làm giảm nhanh nhiệt độ nhờ bốc hơi. Lượng nước phun vào đám cháy phụ thuộc vào diện tích và cường độ đám cháy. Để giảm thời gian phun nước người ta thêm một vài hợp chất hoạt động để giảm sức căng bề mặt của vật liệu ( lông, len....) khi đó nước thấm nhanh vào vật liệu. Nước được sử dụng rộng rãi để chống cháy và giá thành rẻ. Tuy nhiên không thể dùng nước để chữa cháy các kim loại hoạt động như K, Na, Ca, đất đèn và các đám cháy có nhiệt độ cao hơn 17000C.

*Bụi nước: Phun nước thành dạng bụi làm tăng đáng kể bề mặt tiếp xúc của nó với đám cháy. Sự bay hơi nhanh các hạt nước làm nhiệt độ đám cháy giảm nhanh và pha loảng nồng độ chất cháy, hạn chế sự thâm nhập của oxy vào vùng chát. Bụi nước chỉ được sử dụng khi dòng bụi nước chùm kín được bể mặt đám cháy.

*Hơi nước: được sử dụng trong công nghiệp. Hơi nước công nghiệp thường có áp suất cao nên khả năng dập tắt đám cháy tương đối tốt. Tác dụng chính của hơi nước là pha loãng nồng độ chất cháy và ngăn cản nồng độ oxy đi vào vùng cháy. Thực nghiệm cho thấy lượng hơi nước cần thiết phải chiếm 35% thể tích nơi cần chữa cháy thì mới có hiệu quả.

*Bọt chữa cháy: Còn được gọi là bọt hoá học. Nó được tạo ra bởi phản ứng giữa hai chất Sunfat nhôm Al2(SO4 )3 và bicacbonat natri NaHCO3. Cả hai hoá chát tan trong nước và bảo quản trong các bình riêng. Khi sử dụng ta trộn hai dung dịch với nhau, khi đó có các phản ứng:

Al2(SO4) 3 + 6H2O 2Al(OH)3 + 3H2SO4

H2SO4 + 2NaHCO3 Na2SO4+ 2H2O + 2 CO2

Hydroxyt nhôm Al(OH)3 là kết tủa ở dạng hạt màu trắng tạo ra các màng mỏng và nhờ có CO2 là một loại khí mà tạo ra bọt. Bọt có tác dụng cách ly đám cháy với không khí bên ngoài, ngăn cản sự xâm nhập của oxy vào vùng cháy. Do vậy tác dụng chính của bọt hoá học là cách ly. Ngoài ra nó còn có tác dụng phụ là làm lạnh vùng cháy vì ở đây có dùng nước trong dung dịch tạo bọt. Để làm tăng độ bền của bọt người ta có dùng thêm một số chất ví dụ như sunfat sắt.

Bọt hoá học được sử dụng để chữa cháy xăng dầu hay các chất lỏng khác. Muốn sử dụng bọt hoá học cần phải có các thiết bị như bơm nước, phễu tạo bọt, cầu phun bọt. Các thiết bị này được đặt cố định ở các kho xăng dầu. Thiết bị này còn được bố trí trên các xe chữa cháy chuyên nghiệp.

Page 67: ATLD&BVMT. phan 2

Bọt hoá học còn được nạp vào các bình chữa cháy sử dụng rộng rãi ở các xí nghiệp, nhà ở, kho tàng...

Không được phép sử dụng bọt hoá học để chữa cháy các đám cháy của kim loại, đất đèn, các thiết bị điện hoặc các đám cháy có nhiệt độ lớn hơn 17000C.

Cũng thuộc loại bọt chữa cháy người ta còn chế tạo một loại nọt khác gọi là nọt hoà không khí. Loại bọt này được sản xuất bằng cách khuấy trộn không khí (từ bình không khí nén) với dung dịch tạo bọt. Bọt hoà không khí tạo ra thể tích lớn hơn khoảng 2 lần so với bọt hoá học nên hiệu quả chữa cháy tốt. Bọt hoà không khí cũng dùng để chữa cháy xăng dầu và các chất lỏng khác.

* Bột chữa cháy: Là chất chữa cháy rắn. Đó là các hợp chất vô cơ và hữu cơ không cháy nhưng chủ yếu là các chất vô cơ. Bột chữa cháy dùng để chữa cháy kim loại, các chất rắn và các chất lỏng. Dùng khí nén để vận chuyển bột chữa cháy vào đám cháy. Cường độ bột tiêu thụ cho một đám cháy khoảng 6.2-7kg/m2.s.

*Các loại khí: là các chất chữa cháy thể khí như CO2, N2, .... tác dụng chính của các chất này là pha loảng nồng độ chất cháy. Ngoài ra nó còn có tác dụng làm lạnh đám cháy, vì các khí CO2, N2 thoát ra từ bình khí nén có áp suất cao, khi giảm áp suất đột ngột đến áp suất khí quyển thì bản thân khí lạnh đi theo chu trình dãn khí đoạn nhiệt.

Không được dùng khí chữa cháy để chữa những đám cháy mà chất cháy có thể kết hợp với nó thành những chất cháy nổ mới. VD không dùng CO2 để chữa cháy phân đạm, kim loại kiềm, kiềm thổ, các hợp chất tecmit hoặc thuốc súng...

*Các hợp chất halogen: Các hợp chất halogen có hiệu quả rất lớn khi chữa cháy. Tác dụng chính của nó là kìm hãm tốc độ cháy. Các chất này dễ thấm ướt vào vật cháy nên hay dùng để chữa cháy các chất khó thấm ướt như bông, vải sợi...

Trong thực tế để nâng cao hiệu quả chữa cháy người ta hay dùng các biện pháp tổng hợp, ví dụ như vừa kìm hãm tốc độ cháy, vừa làm lạnh vùng cháy, vừa pha loãng nồng độ chất cháy...

b) Xe chữa cháy chuyên dụng

Xe chữa cháy chuyên dụng được trangbị cho các đội chữa cháy chuyên nghiệp của thành phố hoặc thị xã. Xe chữa cháy loại này gồm nhiều loại như xe chữa cháy, xe thông tin, xe phun bọt hoá học, xe rải vòi, xe thang.... trong đó xe chữa cháy là quan trọng nhất.

c) Phương tiện chữa cháy

1. Phương tiện báo và chữa cháy tự động

Các phương tiện báo cháy và chữa cháy tự động thường được đặt ở những mục tiêu quan trọng cần được bảo vệ. Phương tiện báo cháy tự động dùng để phát hiện cháy từ đầu và báo ngay về trung tâm chỉ huy chữa cháy. Báo cháy tự động còn bao gồm cả thông tin liên lạc hai chiều giữa đám cháy và trung tâm chỉ huy, giữa đám cháy và hệ thống máy tính để có những thông số kỹ thuật về chữa cháy như chọn đường đi đến đám cháy, số lượng phương tiện, hoá chất cần dùng và lựa chọn phương án chữa cháy tối ưu.

2. Các phương tiện, trang bị chữa cháy tại chỗ

Ngoài hệ thống báo cháy và chữa cháy tự động đã nêu ở trên còn có các dụng cụ chữa cháy thô sơ. Đó là các loại bình bọt, bình CO2, bơm tay, cát, xẻng, thùng, xô đựng nước,

Page 68: ATLD&BVMT. phan 2

câu liêm... Các dụng cụ này chỉ có tác dụng chữa cháy ban đầu và được trang bị rộng rãi cho các cơ quan, xí nghiệp, kho tàng.

Tất cả các loại bình chữa cháy cần được bảo quản ở nơi mát, dễ thấy và dễ lấy. Không bảo quản ở nơi có axit và kiềm để tránh ăn mòn van và vỏ bình.

6.6. An toàn khi sử dụng một số máy móc thường gặp trong cơ khí giao thông

6.6.1. Những nguyên nhân gây ta tai nạn lao động khi sử dụng máy móc, thiết bị

Mối nguy hiểm trong cơ khí là nơi và nguồn phát sinh nguy hiểm do hình dạng, kích thước, chuyển động của các phương tiện làm việc, phương tiện trợ giúp, phương tiện vận chuyển cũng như chi tiết bị thay đổi trong quá trình gá đặt, gia công và chuyển động... gây ra tổn thương với người lao động.

Mức độ tổn thương của mối nguy hiểm trong cơ khí tuỳ thuộc vào năng lượng của hệ thống tác động (máy móc thiết bị); năng lượng của con người (các hoạt động của con người trong quá trình lao động).

Những đại lượng đặc trưng gây ra mối nguy hiểm trong cơ khí là:

- Trạng thái hình học của các vật thể, chi tiết hay bộ phận máy móc, thiết bị (chẳng hạn các vật nhọn, sắc, các dạng bề mặt nghiêng, dễ trượt...)

- Năng lượng dự trữ trong các vật thể, bộ phận (chẳng hạn lò xo đang ở trạng thái nén, một vật thể đặt trên cao có một thế năng nhất định..)

- Các yếu tố về nhân trắc học (tư thế lao động không phù hợp có thể gây ra tai nạn cho người lao động )

6.6.2. Các giải pháp kỹ thuật an toàn trong cơ khí

Những mối nguy hiểm trong cơ khí

Năng lượng chuyển động của đối tượng lao động Năng lượng chuyển động do hoạt động của

con người

Các chuyển động bắt buôc:

Các chuyển động

khi gia công trên

máy ( cắt, ép, cấp

phôi...)

Các chuyển động

gây ra sự cố ( gãy,

vỡ...)

Các chuyển động tự do:

Nâng hạ

Cuốn

Lắc

Quay tròn

Trượt

Các chuyển động vận chuyển:

Sự thay đổi vị trí

của các phương tiện

làm việc

Tốc độ vận chuyển

thay đổi ( có gia tốc)

Mối nguy hiểm khi tiếp xúc với các vật thể:

Vật có cạnh sắc,

nhọn

Bề mặt thô

Phần nhô ra

Khả năng bám

dính của bề mặt

Mối nguy hiểm do không đủ an toàn:

Mặt không phẳng

Chiều cao chênh lệch

Vị trí làm việc trên

cao

Sự sơ xuất của người

lao động

Page 69: ATLD&BVMT. phan 2

1. Giải pháp ưu tiên:

Xoá mối nguy hiểm từ nguồn xuất hiện, đồng thời giảm tối thiểu nguồn năng lượng của hệ thống bằng các biện pháp:

- Ứng dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến hơn

- Thực hiện các biện pháp an toàn

- Trang bị cơ cấu an toàn

- Thực hiện việc kiểm tra định kỳ

2. giải pháp tức thời

- Hạn chế các mối nguy hiểm thông qua phương tiện an toàn

- Ngăn chặn những sai sót

- Trang bị các phương tiện hãm

- Sử dung các biện pháp bảo vệ kỹ thuật

-

6.6.3. An toàn khi sử dụng một số máy công cụ

1. An toàn trên máy tiện

Trong các nhà máy cơ khí, máy tiện chiếm khoảng 30% tổng số các máy. Trên máy tiện có nhiều bộ phận chuyển động như trục viét me, trục trơn, các bánh răng, mâm cặp... các bộ phận này có thể gây ra các mối nguy hiểm cho người lao động nếu không có những biện pháp an toàn thích hợp.

Phoi cắt trên máy tiện cũng dễ gay ra tai nạ. Khi tiện thép thương sinh ra phoi dây dài và sắc nên dễ gây đứt tay chân và có thể cuộn vào chi tiết gia công là giảm độ nhẵn bóng bề mặt của chi tiết gây khó khăn cho việc gia công; để khắc phục hiện tượng này người ta phải htiết kế chế tạo các cơ cấu bẻ phoi.

Người ta cũng có thể chọn các thông số hình học của dao hợp lý (như góc cắt chính, góc nâng, góc trước) để bẻ phoi khi tiện.

Khi vật liệu tiện giòn (VD như gang xám), phoi vụn bắn lung tung dễ gây bỏng và bắn vào mắt.

Khi gia công các chi tiết dài và yếu, dưới tác dụng của lực ly tâm phôi có thể bị văng ra hoặc uống cong, vì vậy các chi tiết gia công phải có giá đỡ phía sau.

Không được gá dao công xon quá dài, gá phôi không tròn, kém vững.... sẽ là những nguyên nhân gây ra rung động, trường hợp này dễ sinh ra gãy dao, mảnh dao bắn ra gây nguy hiểm cho con người.

2. An toàn trên máy mài

Đá mài gồm những hạt mài được liện kết lại bằng chất dính kết (như backelit, gốm...), đá mài chịu kéo yếu nhưng thương lại làm việc ở tốc độ cao, vì vậy khi đá quay với tốc độ cao sẽ sinh ra lực li tâm lớn. Nếu đá mài không đảm bảo khả năng liên kết tốt sẽ gây vỡ đá rất nguy hiểm.

Một yêu cầu đối với đá mài là sự cân bằng của đá để đảm bảo giảm rung động khi nó quay với tốc độ cao. Trong quá trình mài, phoi mài ở dạng bụi cùng với nước làm lạnh cũng ở

Page 70: ATLD&BVMT. phan 2

dạng bụic ó thể gây ra tổn thương cho mắt và cả cơ quan hô hấp (nguy hiểm nhất là các loại đá mài dùng vật liệu chứa nhiều SiO2).

Tất cả các đá mài trước khi đem sử dụng đều phải được kiểm tra, VD đối với đá có đường kính từ D30-90 cần phải kiểm tra với tốc độ cao hơn tốc độ định mức là 50%trong vòng 3 phút.

Lắp đá mài lên trục đá phải đảm bảo được cân bằng tĩnh và cân bằng động, thường cân bằng động sẽ tốt hơn cân bằng tĩnh. Khe hở trục và lỗ đá phải đảm bảo khoảng từ 2-5% đường kính lỗ để đề phòng trục giãn nở nhiệt trong quá trình làm việc.

Vỏ che chắn của đá mài phải thiết kế sao cho nó có thể ngăn không cho đá mài khi vỡ bắn ra ngoài. Khe hở giữa đá mài và mặt bên trong của khe chắn nằm trong khoảng 10-15mm. Chiều dài vật che chắn đá không quá mỏng và phải làm theo tiêu chuẩn.

Chọn đá mài phải phù hợp với vật liệu gia công, nếu chọn đá không đúng có thể ra ứng suất nhiệt lớn dẫn đến vỡ đá; góc mở của vỏ che chắn chọn sao cho nhỏ nhất để tránh tai nạn.

6.7. Kỹ thuật an toàn điện

6.7.1. Những khái niệm cơ bản về an toàn điện

1- Tác động của dòng điện đối với cơ thể con người

Dòng điện đi qua cơ thể con người gây ra phản ứng sinh lý phức tạp, làm huỷ hoại các bộ phân trong cơ thể con người như thần kinh, làm tê liệt các cơ bắp, cơ quan hô hấp, tuần hoàn máu. Tác động của dòng điện còn tăng lên với những người hay uống rượu.

Tác hại của dòng điện phụ thuộc vào độ lớn và loại dòng điện. điện trở của người và đường đi của dòng điện qua cơ thể, vào thời gian tác dụng và tình trạng sức khoẻ

Bảng 9 : Tác động của cường độ dòng điện lên cơ thể con người

Cường độ dòng điện

(mA)

Tác động của dòng điện xoay chiều 50-60Hz

Tác động của dòng điện 1 chiều

0.6-1.5

2-3

5-7

Ngón tay bắt đầu tê

Ngón tay tê mạnh

Bắp thịt co lại và rung

Chưa có cảm giác

Chưa có cảm giác

Đau như kim châm, cảm giác nóng

8-10 Tay khó rời khỏi vật có điện. Ngón tay, lòng bàn tay đau

Nóng tăng lên

20-25 Tay không rời được khỏi vật có điện, đau, khó thở

Nóng càng tăng lên, thịt co quắp lại nhưng chưa mạnh

50-80 Thở bị tê liệt, tim đập mạnh Nóng mạnh, bắp thịt co quắp mạnh, khó thở

90-100 Thở bị tê liệt, kéo dài 3 giây hoặc lâu hơn tim bị tê liệt dẫn đến ngừng đập

Thở bị tê liệt

Page 71: ATLD&BVMT. phan 2

6.7.2. Các dạng tai nạn điện

Tai nạn điện phân ra thành 2 dạng: chấn thương do điện và điện giật

a) Các chấn thương do điện

Chấn thương điện sự phá huỷ cục bộ các mô của cơ thể do dòng điện hay hồ quang gây ra (thường là ở da hay một phần mềm khác hoặc ở xương). Chấn thương do điện sẽ ảnh hưởng đến sức khở và khả năng lao động, một số trường hợp dẫn đến tử vong.

Các đặc trung của chất thương điện gồm có:

Bỏng điện: bỏng gây nên do dòng điện qua cơ thể con người hoặc do tác động của hồ quang điện, do tác động đốt nóng của tia lửa hồ quang, một phân do bộet kim loại nóng bắn và gây bỏng.

Dấu vết điện: dòng điện sẽ để lại dấu vết trên bề mặt da khi nó đi qua

Kim loại hoá bề mặt da: do các hạt kim loại nhỏ bắn với tốc độ lớn thấm sâu vào trong da, gây bỏng.

Co giật cơ

Viêm mắt do tác động của tia cực tím, tia hồng ngoại do hồ quang điện sinh ra.

b) Điện giật

Điện giật chiếm tỷ lệ rất lớn, khoảng 80% tổng số tai nạn điện, 85 – 87% số vụ tai nạn điện chể người là do điện giật. Tuỳ theo mức độ tác động mà có thể xảy ra các trường hợp sau:

- Cơ co giật nhưng chưa bị ngạt

- Cơ co giật, người bị ngất nhưng vẫn duy trì được hô hấp và tuần hoàn.

- Người bị ngất, hoạt động của tim và hệ hô hấp bị rối loan.

- Chết lâm sàng (không thở, hệ tuần hoàn không hoạt động)

6.7.3. Phân loại nơi đặt thiết bị theo mức độ nguy hiểm

Mức độ nguy hiểm đối với người làm việc ở các thiết bị điện do dòng điện gây ra phụ thuộc vào môi trường: nhiệt độ, độ ẩm, bụi….

Theo quy định nơi đặt thiết bị điện được phân loại như sau:

* Nơi nguy hiểm là nơi có một trong các yếu tố sau:

- Ẩm với độ ẩm không vượt quá 75% trơng thời gian dài hoặc có bụi dẫn điện bám vào dây dẫn, thanh dẫn hay lọt vào trong thiết bị

- Nền nhà dẫn điện ( bằng kim loại, bê tông cốt thép)

- Nhiệt độ cao (có nhiệt độ vượt quá 350C trong một thời gian dài)

- Những nơi người có thể đồng thời tiếp xúc với các kết cấu kim loại và các thiết bị điện

* Nơi đặc biệt nguy hiểm

- Rất ẩm (độ ẩm tương đối khoảng 100%)

- Môi trường có hoạt tính hoá học (có chứa hơi, khí, chất lỏng trong thời gian dài, có thể phá huỷ chất cách điện và các bộ phận mang điện)

Page 72: ATLD&BVMT. phan 2

* Nơi ít nguy hiểm: là những nơi không thuộc hai loại trên

6.7.4. Các biện pháp an toàn khi sử dụng điện

Các biện pháp về tổ chức quản lý

Đây là biện pháp quan trọng, bao gồm sự phân công trách nhiệm từ giám đốc đến người công nhân vận hành, các quy định về vận hành, về thủ tục giao nhận ca, về quản lý hồ sơ, quy định về tổ chức, kiểm tra, quy định về giám sát...

Các biện pháp kỹ thuật

1. Chống chạm vào các bộ phận mang điện

- Bọc cách điện: cách điện của mỗi thiết bị điện phải phù hợp với cấp điện áp mà thiết bị đó sử dụng và phải có độ bền vững cao chống lại sự phá hoại của các yếu tố điện cơ và khí hậu.

- Che chắn, rào: đảm bảo cho người không chạm vào các phần dẫn điện hoặc vi phạm khoảng cách an toàn, có thể là loịa che chắn cố định hay di động được, bằng tấm liền hay lưới.

- Giữa khoảng cách an toàn: Theo dúng các quy định TCVN2622-78

2. Chống chạm vào điện ở các bộ phận bình thường không mang điện: Thiết bị điện khi chế tạo, lắp đặt đều phải đảm bảo an toàn. Do tác dộng của môi trường có thể gây ra cách điện hư hỏng và sinh ra chạm điện ở vỏ dẫn đến sự cố và tai nạn.

3. Kỹ thuật nối đất: tác dụng của nối đất là để tản dòng điện vào trong đất và giữ mức điện thế thấp trên các vật được nối đất.

4. Kỹ thuật chống sét cho các công trình và nhà ở