bỘ tƯ phÁplegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. du thao to... · web viewcơ sở pháp...

158
BỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Số: /TTr- BCT Hà Nội, ngày tháng năm 2019 TỜ TRÌNH Về việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ để thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương Kính gửi: Chính phủ Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, Bộ Công Thương kính trình Chính phủ hồ sơ xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ để thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) theo trình tự, thủ tục rút gọn như sau: I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH Được sự đồng ý của Bộ Chính trị tại văn bản số 6050-CV/VPTW ngày 02 tháng 3 năm 2018 của Văn phòng Trung ương Đảng và của Chính phủ tại Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2018, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ký Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các văn bản liên quan cùng Bộ trưởng phụ trách kinh tế của các nước Ốt-xtrây-lia, Bru-nây Đa-rút-xa-lam, Ca- na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru và Xinh-ga-po vào ngày 08 tháng 3 năm 2018 tại San-ti-a-gô, Chi-lê. Sau khi ký Hiệp định, các nước sẽ tiến hành thủ tục pháp lý trong nước, bao

Upload: others

Post on 14-Feb-2020

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

BỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập – Tự do – Hạnh phúc

Số: /TTr-BCT Hà Nội, ngày tháng năm 2019

TỜ TRÌNHVề việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ để thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và

Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

Kính gửi: Chính phủ

Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, Bộ Công Thương kính trình Chính phủ hồ sơ xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ để thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) theo trình tự, thủ tục rút gọn như sau:

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH Được sự đồng ý của Bộ Chính trị tại văn bản số 6050-CV/VPTW

ngày 02 tháng 3 năm 2018 của Văn phòng Trung ương Đảng và của Chính phủ tại Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2018, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ký Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các văn bản liên quan cùng Bộ trưởng phụ trách kinh tế của các nước Ốt-xtrây-lia, Bru-nây Đa-rút-xa-lam, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru và Xinh-ga-po vào ngày 08 tháng 3 năm 2018 tại San-ti-a-gô, Chi-lê. Sau khi ký Hiệp định, các nước sẽ tiến hành thủ tục pháp lý trong nước, bao gồm việc phê chuẩn Hiệp định theo quy định của pháp luật nước mình để Hiệp định có hiệu lực.

Tại Báo cáo số 522/BC-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ về thuyết minh Báo cáo về Hiệp định CPTPP gửi Quốc hội, theo đó đối với các văn bản luật được kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhưng chưa đưa được vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và năm 2019 (gồm Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Kinh doanh bảo hiểm) và có các cam kết phải thực hiện ngay khi Hiệp định có hiệu lực (Luật An toàn thực phẩm), đề nghị bổ sung sớm vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và trong trường hợp khả thi thì đưa vào “một luật sửa nhiều luật” và Luật này sẽ được trình lên Quốc hội theo trình tự, thủ tục rút gọn để Chính phủ có thể trình dự luật này ra Quốc hội ngay tại kỳ họp thứ 7 vào tháng 5 năm 2019.

Sau khi xem xét Báo cáo thuyết minh về Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan số 522/BC-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ; Báo cáo thẩm tra số 2905/BC-

Page 2: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

UBĐN14 ngày 30 tháng 10 năm 2018 của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội và trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018 Phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan, theo đó tại Phụ lục 3 của Nghị quyết ban hành danh mục các luật cần phải sửa đổi, bổ sung theo lộ trình cam kết trong Hiệp định CPTPP (trong đó có Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật An toàn thực phẩm).

Để thực thi Hiệp định CPTPP, tổng số luật cần phải sửa đổi, bổ sung là 08 luât, gồm: Bộ luật Lao động; Luật Phòng, chống tham nhũng (đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV và nội dung đã đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định CPTPP); Luật Tố cáo (đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV và nội dung đã đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định CPTPP); Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Kinh doanh bảo hiểm; Luật Sở hữu trí tuệ; Luật An toàn thực phẩm.

Ngày 24 tháng 12 năm 2018, Văn phòng chính phủ có Công văn số 12477/VPCP-QHQ thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về hoàn thiện kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTTP “giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài chính, Khoa học và Công nghệ, Tư pháp và các Bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng Luật sửa một số Luật để thực hiện Hiệp định CPTPP để trình Quốc hội cho phép thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn và trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp tháng 5 năm 2019”.

1. Đối với Luật Kinh doanh bảo hiểmLuật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 có hiệu lực thi hành kể từ

ngày 01/4/2001 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010 bằng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm số 61/2010/QH12, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011). Sau đó, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành 47 văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Hệ thống các văn bản này đã: (i) tạo khung khổ pháp lý minh bạch cho thị trường bảo hiểm trong nước; (ii) tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp; (iii) đảm bảo chặt chẽ từ khâu cấp phép đến quản lý các hoạt động của doanh nghiệp, xử lý vi phạm hành chính; (iv) đảm bảo hài hòa giữa quản lý giám sát thận trọng và tạo chủ động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã phát sinh một số vấn đề liên quan đến hoạt động phụ trợ bảo hiểm dẫn đến phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm như sau:

1.1. Yêu cầu nội luật hóa Hiệp định Hợp tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP)

Việt Nam đã gia nhập WTO và tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do, gần đây nhất là Hiệp định CPTPP, theo đó Việt Nam cam kết mở cửa thị trường đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12/11/2018 của Quốc hội phê chuẩn Hiệp định CPTPP, đã ban hành danh mục các luật cần phải sửa đổi, bổ sung theo lộ trình cam kết trong Hiệp định CPTPP,

2

Page 3: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

trong đó có Luật Kinh doanh bảo hiểm (bổ sung quy định về dịch vụ phụ trợ bảo hiểm). Vì vậy, việc nội luật hóa Hiệp định để hoàn thiện pháp luật về hoạt động phụ trợ bảo hiểm là cần thiết nhằm thực hiện các cam kết quốc tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát triển thị trường bảo hiểm trong nước, giúp Việt Nam mở cửa thị trường một cách chủ động và hiệu quả.

1.2. Vai trò và xu hướng phát triển hoạt động phụ trợ bảo hiểmHoạt động phụ trợ bảo hiểm đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ, có vai

trò quan trọng thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển lành mạnh, giúp các bên tham gia giảm thiểu rủi ro; đề phòng, hạn chế tổn thất; hạn chế gian lận bảo hiểm; tăng cường tính chuyên nghiệp của thị trường; tối ưu hóa chi phí, nguồn lực cho doanh nghiệp bảo hiểm; chi trả tiền bảo hiểm, bồi thường nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời, bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Tại hầu hết các quốc gia, hoạt động này đang đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của nền kinh tế, giúp gia tăng năng lực cạnh tranh; tạo thêm nhiều cơ hội kinh doanh, khởi nghiệp; tăng cường áp dụng công nghệ, kết nối nội ngành và liên ngành; bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người tiêu dùng.

Tại Việt Nam, thị trường bảo hiểm đang sử dụng các hoạt động phụ trợ gồm: hoạt động tư vấn bảo hiểm; đánh giá rủi ro bảo hiểm; tính toán bảo hiểm; giám định tổn thất bảo hiểm, hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có khung khổ pháp lý về hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Điều này dẫn đến sự khó khăn, lúng túng trong quá trình thực thi và áp dụng pháp luật, cản trở hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

Qua khảo sát kinh nghiệm và pháp luật một số nước, vùng lãnh thổ trên thế giới và trong khu vực (như Anh, Ấn Độ, Canada, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Mỹ, New Zealand, Nhật Bản, Pháp, Singapore, Thái Lan, Úc...) cho thấy, hầu hết đều có quy định cụ thể, rõ ràng về hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Các quy định này đã tạo hành lang pháp lý trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và sự phát triển của thị trường bảo hiểm; đồng thời tạo cơ sở để cơ quan quản lý bảo hiểm có đủ thẩm quyền, công cụ quản lý, giám sát hiệu quả hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

Từ những lý do nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm là cần thiết.

2. Đối với Luật Sở hữu trí tuệĐiều 3 Nghị quyết số 72/2018/QH14 giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối

cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan theo thẩm quyền tiến hành rà soát các dự án luật tại Phụ lục 3 của Nghị quyết và các văn bản pháp luật khác để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới kịp thời, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và đúng lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định CPTPP.

Theo Mục 2 Phụ lục 3 Nghị quyết số 72/2018/QH14, Luật Sở hữu trí tuệ phải được sửa đổi để thực hiện một số nghĩa vụ về sở hữu trí tuệ trong Hiệp định

3

Page 4: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

CPTPP. Trong số này, một số nghĩa vụ phải thực hiện ngay từ khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực và một số nghĩa vụ có thời gian chuyển tiếp từ 3 đến 5 năm.

Theo đó, có 2 nội dung liên quan tới nhãn hiệu, 1 nghĩa vụ liên quan đến tên miền, 3 nghĩa vụ liên quan đến chỉ dẫn địa lý, 1 nghĩa vụ liên quan đến sáng chế và 5 nghĩa vụ liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Đối với nghĩa vụ liên quan đến tên miền, nghĩa vụ này lại được chia thành hai nghĩa vụ nhỏ hơn, bao gồm: (i) bảo đảm thủ tục giải quyết tranh chấp tên miền thích hợp tương tự như các nguyên tắc đã được quy định trong Chính sách thống nhất giải quyết tranh chấp tên miền, được Tổ chức cấp phát số hiệu và tên trên Internet (ICANN) thông qua; hoặc (ii) có chế tài thích hợp để xử lý trường hợp một người đăng ký hoặc nắm giữ tên miền trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nhằm thu lợi bất chính.

Nghĩa vụ này đã được đáp ứng theo các quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, việc thi hành các chế tài hành chính theo Nghị định này còn nhiều bất cập do vướng quy định của Thông tư liên tịch số 14/2016/TTLT-BTTTT-BKHCN ngày 08 tháng 6 năm 2016 hướng dẫn trình tự, thủ tục thay đổi, thu hồi tên miền vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Việc xử lý xâm phạm tên miền nên được xử lý theo thủ tục về tranh chấp quyền sử dụng tên miền quy định tại Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng. Bộ Thông tin Truyền thông sẽ trình việc sửa đổi Nghị định này để đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP. Vì vậy, không cần đặt ra chính sách sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ để thi hành nghĩa vụ này.

Đối với 4 nghĩa vụ có thời gian chuyển tiếp 3-5 năm (bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, bảo đảm thông tin và thời gian cho chủ bằng sáng chế thực thi quyền trước khi sản phẩm được đưa ra thị trường, bảo hộ độc quyền đối với dữ liệu thử nghiệm nông hóa phẩm, thẩm quyền mặc nhiên tiến hành các thủ tục biên giới của cơ quan hải quan), các nghĩa vụ này sẽ bắt đầu phải thi hành từ năm 2022, dự kiến sẽ được đưa vào Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ được trình Quốc hội vào kỳ họp cuối năm 2021 (Bộ Khoa học và Công nghệ dự kiến trình Chính phủ hồ sơ xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ trong quý IV năm 2019. Trên cơ sở đó, Chính phủ trình Quốc hội xem xét đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021).

Việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ cho tương thích với các quy định trong Hiệp định CPTPP là cần thiết để bảo đảm tính thống nhất, hiệu quả, hiệu lực của hệ thống pháp luật Việt Nam và thể hiện tinh thần chủ động, nghiêm túc thực hiện các điều ước quốc tế của Việt Nam.

4

Page 5: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Những vướng mắc, bất cập của Luật Sở hữu trí tuệ khi triển khai thực hiện Hiệp định CPTPP

a) Vướng mắc, bất cập về quy định pháp luật- Thứ nhất, Luật Sở hữu trí tuệ đã có quy định song chưa cụ thểCụ thể: Nghĩa vụ phải quy định cơ quan tư pháp, khi xác định khoản bồi

thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải xem xét bất kỳ cách tính giá trị hợp pháp nào do chủ thể quyền đưa ra, trong đó có thể bao gồm lợi nhuận bị mất, giá trị của hàng hoá hoặc dịch vụ bị xâm phạm tính theo giá thị trường, hoặc theo giá bán lẻ được đề xuất (Điều 18.74.4); Nghĩa vụ trong thủ tục bảo hộ hoặc công nhận chỉ dẫn địa lý, khi có ý kiến của người thứ ba phản đối việc bảo hộ hoặc công nhận chỉ dẫn địa lý này, thì phải quy định chỉ dẫn địa lý sẽ bị từ chối bảo hộ hoặc không công nhận trên cơ sở việc bảo hộ hoặc công nhận chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu là đối tượng của đơn có trước đã được nộp một cách trung thực hoặc với nhãn hiệu đã được bảo hộ tại Việt Nam (Điều 18.32.1.a).

- Thứ hai, Luật Sở hữu trí tuệ không có quy định song đã triển khai thực hiện trong thực tiễn

Cụ thể: Nghĩa vụ cho phép nộp đơn đăng ký và duy trì hiệu lực nhãn hiệu bằng phương tiện điện tử; và có một hệ thống thông tin điện tử có thể truy cập công cộng, bao gồm cơ sở dữ liệu trực tuyến gồm các đơn đăng ký nhãn hiệu và nhãn hiệu đã được đăng ký (Điều 18.24 CPTPP).

- Thứ ba, Luật Sở hữu trí tuệ đã có quy định song trái với quy định tương ứng của Hiệp định CPTPP

Cụ thể: Nghĩa vụ không được yêu cầu đăng ký việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu để xác lập hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng (Điều 18.27 CPTPP).

- Thứ tư, Luật Sở hữu trí tuệ hoàn toàn chưa có quy định như yêu cầu của Hiệp định CPTPP

Cụ thể: Nghĩa vụ nếu bảo hộ hoặc công nhận dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý theo thủ tục hành chính thì thủ tục đó và cơ sở về việc bảo hộ/hủy bỏ phải tương đương/trùng với thủ tục và các cơ sở áp dụng cho chỉ dẫn địa lý thông thường (Điều 18.32.5); nghĩa vụ quy định mức phí nộp đơn yêu cầu kiểm tra, giám sát và tạm dừng thủ tục hải quan, phí lưu kho và phí tiêu hủy không cản trở một cách bất hợp lý việc áp dụng các thủ tục liên quan tới các biện pháp tại biên giới (Điều 18.76.8); nghĩa vụ quy định Toà án có thẩm quyền yêu cầu một bên bồi thường thiệt hại đối với các thiệt hại thực tế (có thể bao gồm cả phí luật sư hợp lý) do việc lạm dụng thủ tục thực thi quyền SHTT của bên đó gây ra (Điều 18.74.15).

b) Vướng mắc, bất cập về nguồn lực, điều kiện bảo đảm thi hành Luật- Thứ nhất, đối với cơ quan xác lập quyền sở hữu trí tuệ (Cục Sở hữu trí

tuệ)

5

Page 6: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Nghĩa vụ cho phép nộp đơn đăng ký và duy trì hiệu lực nhãn hiệu bằng phương tiện điện tử; và có một hệ thống thông tin điện tử có thể truy cập công cộng, bao gồm cơ sở dữ liệu trực tuyến (gồm các đơn đăng ký nhãn hiệu và nhãn hiệu đã được đăng ký) đòi hỏi Cục Sở hữu trí tuệ phải nâng cấp, vận hành hệ thống nộp đơn trực tuyến một cách đồng bộ, ổn định. Trong khi đó, điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng như nguồn lực hiện nay của Cục Sở hữu trí tuệ chưa thể đáp ứng đầy đủ việc thực hiện các cam kết. Do đó, đòi hỏi nhà nước cần đầu tư các nguồn lực thỏa đáng (xây dựng và duy trì cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu, công cụ tra cứu…).

Các nghĩa vụ liên quan đến bảo hộ hoặc công nhận dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý; đánh giá một thuật ngữ có phải là tên gọi chung của hàng hóa tại Việt Nam; mở rộng ngoại lệ đối với tính mới của sáng chế… đặt ra yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ phải xem xét toàn diện các yếu tố để xử lý đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, sáng chế..., do đó, có khả năng làm phức tạp thêm quá trình thẩm định, dễ dẫn tới kéo dài thời hạn thẩm định.

- Thứ hai, đối với các cơ quan thực thi hành chínhNghĩa vụ cung cấp thông tin cho chủ thể quyền trong trường hợp cơ quan

hải quan tạm giữ hàng hoá hoặc xác định hàng hoá là giả mạo quyền SHTT sau khi đã tạm dừng thông quan sẽ làm tăng khối lượng công việc và chi phí cho cơ quan hải quan.

Nghĩa vụ bảo đảm thủ tục giải quyết tranh chấp tên miền thích hợp cũng như có chế tài thích hợp để xử lý trường hợp một người đăng ký hoặc nắm giữ tên miền trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nhằm thu lợi với ý đồ xấu đòi hỏi cán bộ các cơ quan thực thi phải có trình độ chuyên môn sâu về SHTT, như khi xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi tên miền xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý chẳng hạn. Trong khi đó, trình độ chuyên môn về SHTT của các cơ quan thực thi còn nhiều hạn chế, việc ban hành các quyết định xử lý vi phạm hành chính về SHTT còn phụ thuộc vào ý kiến chuyên môn của Cục Sở hữu trí tuệ hoặc kết quả giám định của Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ.

- Thứ ba, đối với Toà ánViệc sửa đổi các quy định về giải quyết tranh chấp dân sự liên quan đến

quyền SHTT (ví dụ, Tòa án có quyền yêu cầu bên lạm dụng thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ phải bồi thường cho bị đơn do sự lạm dụng thủ tục thực thi quyền; bên thua kiện phải thanh toán cho bên thắng kiện phí luật sư hợp lý trong các vụ xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền liên quan, nhãn hiệu và sáng chế…) có khả năng làm phức tạp thêm các tranh chấp dân sự liên quan đến quyền SHTT tại Toà án, đồng thời gia tăng số lượng các tranh chấp dân sự về quyền SHTT tại Toà án. Quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự này có thể sẽ rất phức tạp, đòi hỏi đội ngũ thẩm phán Toà án phải có năng lực, kiến thức chuyên môn sâu về SHTT. Trong khi đó, hiện nay lại chưa có thẩm phán chuyên trách về SHTT tại các cấp Toà án.

6

Page 7: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Như vậy, để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước và tục hoàn thiện các quy định pháp luật trong nước để thực thi cam kết trong Hiệp định CPTPP và đảm bảo mục tiêu tham gia hiệu quả Hiệp định CPTPP và thi hành các cam kết phải thực thi ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực đối với Việt Nam việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ để thực thi Hiệp định CPTPP là cần thiết.

II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT

1. Mục đích- Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật trong nước để thực thi cam

kết trong CPTPP và đảm bảo mục tiêu tham gia hiệu quả Hiệp định CPTPP và thi hành các cam kết phải thực thi ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực đối với Việt Nam.

- Đảm bảo thống nhất và đồng bộ với nội dung cam kết theo Hiệp định CPTPP đã được Quốc hội phê chuẩn tại Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018.

- Bảo đảm tính ổn định, thống nhất thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống pháp luật phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.

2. Quan điểm chỉ đạoThứ nhất, thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của

Nhà nước về việc thi hành đầy đủ, nghiêm túc các cam kết quốc tế.Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp

cận, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống pháp luật; tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động một cách hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế-xã hội.

Thứ ba, bảo đảm sự tương thích với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Hiệp định CPTPP.

III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬTNgày 24/01/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

121/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP. Thực hiện sự phân công của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện các công việc theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, cụ thể như sau:

1. Thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật An toàn thực phẩm với sự tham gia của đại diện các bộ, ngành Trung ương và các cơ quan, tổ chức liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học (Quyết định 167/QĐ-BCT ngày

7

Page 8: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

25/01/2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương). Ban soạn thảo, Tổ biên tập đã tổ chức nhiều cuộc họp để xây dựng, soạn thảo, cho ý kiến về dự án Luật.

2. Ngày 19 tháng 01 năm 2019, gửi hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật để đưa vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2020, Chương trình điều chỉnh năm 2019 của Chính phủ.

3. Ngày 31 tháng 01 năm 2019, Bộ Tư pháp đã có công văn số 22/BC-BTP về thẩm định đề nghị xây dựng dự án Luật.

4.Trên cơ sở Báo cáo thẩm định của Bộ Tư pháp tại công văn số 22/BC-BTP ngày 31 tháng 01 năm 2019, Bộ Công Thương đã có công văn số 883/BCT-PC ngày 13 tháng 02 năm 2019 giải trình ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

5. Ngày 18 tháng 02 năm 2019, Bộ Công Thương đã hoàn thiện hồ sơ và gửi Bộ Tư pháp về đề nghị xây dựng Luật để tổng hợp vào Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh của Chính phủ năm 2020, điều chỉnh chương trình năm 2019.4.

6. Ngày 25 tháng 02 năm 2019, Văn phòng Chính phủ có công văn số 1520/VPCP-PL thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng theo đó thông qua đề nghị xây dựng dự án Luật và giao Bộ Công Thương chủ trì soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ.

7. Các Bộ quản lý ngành đã thực hiện Báo cáo tổng kết thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ trên cơ sở tổng hợp rà soát, tổ chức hội thảo, đánh giá việc thi hành pháp luật liên quan đến nội dung cần sửa đổi của 2 Luật. Đồng thời, cũng tiến hành nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế (như Anh, Ấn Độ, Canada, Hàn Quốc, Malaysia, Mỹ, New Zealand, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan, Úc...); tổ chức khảo sát, học tập kinh nghiệm về nội dung cần sửa đổi.

8. Ngày ….. , Bộ Tư pháp đã tiến hành thẩm định dự án Luật và cơ quan chủ trì soạn thảo đã tiếp thu, giải trình ý kiến của Hội đồng thẩm định.

Trên cơ sở đó, Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật và các tài liệu kèm theo để trình Chính phủ.

IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT1. Bố cụcĐiều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 07 điều của 05 chương (Chương I, Chương IV, Chương VI, Chương VII, Chương IX) của Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành, cụ thể như sau:

- Sửa đổi, bổ sung 06 điều: Điều 3, 11, 105, 120, 124, 127;- Bổ sung 01 mục: Mục 3 Chương IV;

8

Page 9: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

- Bổ sung 01 điều: Điều 94a.Sau khi sửa đổi, bổ sung thì Luật Kinh doanh bảo hiểm có 09 chương và

130 điều (giữ nguyên số chương và tăng 01 điều so với Luật hiện hành).Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ

Sửa đổi, bổ sung 9 điều của 7 chương (Chương VII, Chương VIII, Chương IX, Chương X, Chương XVI, Chương XVII, Chương XVIII), cụ thể như sau:

- Sửa đổi, bổ sung 8 điều: Điều 60, 80, 89, 136, 148, 198, 205, 218;- Bổ sung 1 điều: Điều 120a

Sau khi sửa đổi, bổ sung thi Luật Sở hữu trí tuệ có 18 Chương và 223 Điều (giữ nguyên số Chương và tăng 01 Điều so với Luật hiện hành)

Điều 3. Hiệu lực thi hành2. Nội dung cơ bản2.1. Đối với Luật Kinh doanh bảo hiểmNội dung sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm tập trung vào một

số vấn đề sau đây:2.1.1. Bổ sung các quy định về giải thích từ ngữ đối với dịch vụ phụ trợ

bảo hiểm; tư vấn bảo hiểm; đánh giá rủi ro bảo hiểm; tính toán bảo hiểm; giám định tổn thất bảo hiểm; hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm

Đây là những từ ngữ mới phát sinh sau khi bổ sung nội dung phụ trợ bảo hiểm theo Hiệp định CPTPP, do đó, dự thảo Luật đã bổ sung 06 khoản để giải thích các từ ngữ này và đã được thể hiện tại các khoản từ 21 đến 26 Điều 3 của Luật Kinh doanh bảo hiểm.

a) Về từ ngữ “dịch vụ phụ trợ bảo hiểm”Đây là một nội dung mới chưa được định nghĩa trong các văn bản quy

phạm pháp luật. Ban soạn thảo xây dựng khái niệm dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trên cơ sở xác định rõ bản chất của dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, chủ thể, mục tiêu hoạt động và không chỉ liệt kê nội dung các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm cụ thể theo Hiệp định CPTPP và Nghị quyết số 72/2018/QH14 mà còn xác định thêm những dịch vụ phụ trợ bảo hiểm khác có thể nảy sinh trong thực tiễn hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Khái niệm này bảo đảm được việc nội luật hóa Hiệp định CPTPP theo tinh thần Nghị quyết số 72/2018/QH14, đồng thời bảo đảm tính dự báo tình huống phát sinh có thể xảy ra để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

b) Về các từ ngữ: tư vấn bảo hiểm; đánh giá rủi ro bảo hiểm; tính toán bảo hiểm; giám định tổn thất bảo hiểm; hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm

Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế, thực tiễn hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại thị trường Việt Nam, Ban soạn thảo đã khái quát hóa và đưa vào dự thảo Luật các khái niệm về tư vấn bảo hiểm; đánh giá rủi ro bảo hiểm; tính toán bảo hiểm; giám định tổn thất bảo hiểm; hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm.

9

Page 10: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

2.1.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về quyền tham gia các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm

Tại Điều 11 Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành đã có quy định doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được tham gia các tổ chức xã hội - nghề nghiệp về kinh doanh bảo hiểm nhằm mục đích phát triển thị trường bảo hiểm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thành viên theo quy định của pháp luật. Do đó, để đảm bảo sự tương đồng về quyền của chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm, dự thảo Luật đã bổ sung quy định về quyền tham gia các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm.

Qua tham khảo kinh nghiệm một số nước (như Anh, Mỹ, Nhật, Pháp, Úc...) cho thấy, các nước này đều ghi nhận quyền tham gia tổ chức xã hội - nghề nghiệp của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp đại diện bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể tham gia kinh doanh trong lĩnh vực này, hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng cơ chế chính sách, đảm bảo chất lượng hoạt động, cạnh tranh lành mạnh thông qua việc ban hành thống nhất các quy chuẩn, tiêu chuẩn; quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp, quy trình nghiệp vụ; tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về bảo hiểm và phụ trợ bảo hiểm.

2.1.3. Bổ sung quy định về cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểmĐể bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, tạo môi trường pháp lý thuận lợi

cho doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm, dự thảo Luật đã bổ sung 01 điều (Điều 94a) để quy định về chủ thể, điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, hợp đồng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; và sửa đổi, bổ sung Điều 105 về cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới, cụ thể như sau:

a) Về cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm (Điều 94a)Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh

bảo hiểm và có tính chất đặc thù. Dịch vụ này có vai trò thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển lành mạnh, giúp các bên tham gia giảm thiểu rủi ro; đề phòng, hạn chế tổn thất; hạn chế gian lận bảo hiểm; tăng cường tính chuyên nghiệp của thị trường; tối ưu hóa chi phí, nguồn lực cho doanh nghiệp bảo hiểm; chi trả tiền bảo hiểm, bồi thường nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời, bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm... Để đảm bảo chất lượng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, khả năng thực hiện thực hiện nghĩa vụ và chịu trách nhiệm của bên cung cấp dịch vụ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, cần quy định cụ thể chủ thể được cung cấp từng loại dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, và cần phải được bảo đảm bằng các điều kiện hoạt động cụ thể. Vì vậy, khoản 1, 2, 3 Điều 94a của dự thảo Luật đã quy định phạm vi hoạt động phụ trợ bảo hiểm tương ứng với từng chủ thể, điều kiện đối với cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm và điều kiện đối với tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm.

10

Page 11: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Bên cạnh đó, dịch vụ phụ trợ bảo hiểm có ảnh hưởng trực tiếp, trọng yếu đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm cốt lõi nên khoản 4 Điều 94a quy định hợp đồng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Quy định này sẽ ràng buộc trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc tham gia hoạt động phụ trợ bảo hiểm, góp phần hạn chế tranh chấp phát sinh, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để hạn chế tình trạng doanh nghiệp lợi dụng “khe hở” để thực hiện các hành vi trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước.

Trên cơ sở các quy định chung và mang tính nguyên tắc, khoản 5 Điều 94a giao cho Chính phủ quy định chi tiết về nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân cung cấp và sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm khác phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm và quản lý nhà nước về phụ trợ bảo hiểm.

b) Về cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới (khoản 2 Điều 105)

Ngoài Hiệp định CPTPP, Việt Nam cũng cam kết mở cửa thị trường đối với các hoạt động phụ trợ bảo hiểm trong nhiều Hiệp định thương mại tự do khác, đặc biệt là Hiệp định GATS trong WTO. Tuy nhiên, Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành mới chỉ quy định về cung cấp dịch vụ qua biên giới đối với hoạt động bảo hiểm và hoạt động môi giới bảo hiểm, chưa quy định đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Do đó, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 105 của Luật Kinh doanh bảo hiểm như sau: “2. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới; tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm qua biên giới theo quy định của Chính phủ.”

2.1.4. Sửa đổi, bổ sung quy định về nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm và điều khoản thi hành

Tương ứng với việc bổ sung các quy định về hoạt động phụ trợ bảo hiểm, khoản 1, khoản 4, khoản 10 Điều 120 của Luật Kinh doanh bảo hiểm đã được sửa đổi, bổ sung quy định về ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phụ trợ bảo hiểm; giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Đồng thời, bổ sung khoản 10a Điều 124 quy định về hành vi vi phạm quy định pháp luật về cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm. Quy định này sẽ tạo cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm quản lý, giám sát và thực hiện thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước, đồng thời, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

Về điều khoản chuyển tiếp, dự thảo Luật đã bổ sung vào Điều 127 của Luật Kinh doanh bảo hiểm khoản 4 như sau: “Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực, các tổ chức, cá nhân đang hoạt động phụ trợ bảo hiểm phải đáp ứng các quy định về điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm theo quy định tại Luật này.”

2.2. Đối với Luật Sở hữu trí tuệ

11

Page 12: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ tập trung vào một số vấn đề sau đây:

2.2.1 Về sáng chếSửa đổi Điều 60 Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng dành cho các đơn nộp vào

Việt Nam hưởng ngoại lệ rộng hơn (không giới hạn về địa điểm bộc lộ và thời gian ân hạn là 12 tháng kể từ ngày thông tin bị bộc lộ), cụ thể như sau:

“3. Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này hoặc người có được thông tin về sáng chế một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ người đó bộc lộ công khai với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời hạn mười hai tháng kể từ ngày bộc lộ.

4. Quy định tại khoản 3 Điều này không áp dụng đối với trường hợp sáng chế được bộc lộ trong các đơn đăng ký quyền sở hữu trí tuệ hoặc văn bằng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã được cơ quan sở hữu trí tuệ công khai cho công chúng tiếp cận trừ trường hợp việc này được thực hiện do sai sót của cơ quan sở hữu trí tuệ hoặc đơn được người thứ ba có được thông tin một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này nộp nhưng không được sự đồng ý của người có quyền đăng ký đó. ”

2.2.2 Về Chỉ dẫn địa lýSửa đổi khoản 1 Điều 80 về cách đánh giá một thuật ngữ là tên gọi chung

của hàng hoá tại Việt Nam và nếu chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ đa thành phần mà có thành phần là tên gọi chung của hàng hóa tại Việt Nam thì không bảo hộ thành phần tên gọi chung đó dưới dạng chỉ dẫn địa lý; Sửa đổi khoản 3 Điều 80 Luật Sở hữu trí tuệ về đánh giá khả năng gây nhầm lẫn của chỉ dẫn địa lý với nhãn hiệu.

Bổ sung Điều 120a về công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế, trong đó xác định việc công bố, xử lý ý kiến cuả người thứ ba, đánh giá khả năng bảo hộ và xác định phạm vi bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý được yêu cầu công nhận và bảo hộ theo điều ước quốc tế được thực hiện theo các quy định tương ứng đối với chỉ dẫn địa lý trong đơn đăng ký được nộp cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.

2.2.3 Về nhãn hiệuBổ sung vào Điều 89 Luật Sở hữu trí tuệ quy định việc nộp đơn nhãn hiệu

bằng phương tiện điện tử. Việc bổ sung quy định này nhằm đáp ứng nghĩa vụ tại Điều 18.24 của Hiệp định CPTPP. Tuy nhiên, trên thực tế, trong khuôn khổ thực hiện Nghị quyết 36A của Chính phủ về cải cách hành chính, Cục Sở hữu trí tuệ đã xây dựng hệ thống nộp đơn điện tử trực tuyến đối với các đối tượng SHCN, trong đó có nhãn hiệu và hệ thống này đã hoạt động từ năm 2017.

Sửa đổi khoản 2 Điều 136 Luật Sở hữu trí tuệ về nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu và sửa đổi khoản 2 Điều 148 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu nhằm đáp ứng quy định của Hiệp định CPTPP về việc không được yêu cầu phải đăng ký để xác định hiệu lực của việc chuyển

12

Page 13: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

quyền sử dụng nhãn hiệu và phải coi việc sử dụng nhãn hiệu của bên được chuyển quyền được coi là sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu liên quan đến các thủ tục xác lập, duy trì và bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu.

2.2.4 Về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệa) Về biện pháp dân sựSửa đổi khoản 1 Điều 205 của Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng bổ sung quy

định về cách tính giá trị trong việc quyết định bồi thường thiệt hại; sửa đổi, bổ sung Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng quy định Toà án có quyền yêu cầu bên thua kiện phải thanh toán cho bên thắng kiện; và bổ sung quy định bồi thường thiệt hại do lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

b) Về kiểm soát biên giớiSửa đổi khoản 1 Điều 218 Luật Sở hữu trí tuệ về nghĩa vụ cung cấp thông

tin cho chủ thể quyền của cơ quan hải quan trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định tạm dừng trong trường hợp chủ thể quyền không yêu cầu kiểm tra giám sát, nhưng yêu cầu làm thủ tục tạm dừng hải quan và đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định. Thông tin cung cấp bao gồm tên và địa chỉ của người gửi hàng, nhà xuất khẩu, người nhận hàng, hoặc nhà nhập khẩu; bản mô tả hàng hoá, số lượng hàng hoá, và nếu biết, nước xuất xứ của hàng hoá cho chủ thể quyền.

2.2.5 Điều khoản chuyển tiếpDự thảo Luật đã bổ sung điều khoản chuyển tiếp như sau:“3. Các quy định về sở hữu trí tuệ tại Luật này được áp dụng đối với: a. Đơn đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn

hiệu, thiết kế bố trí, chỉ dẫn địa lý được nộp cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 trở về sau.

b. Các thủ tục chấm dứt, hủy bỏ hiệu lực của văn bằng bảo hộ được cấp cho đối tượng của đơn được nộp từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 trở về sau, trừ trừ việc chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu thì áp dụng đối với cả văn bằng bảo hộ được cấp cho đơn nộp trước ngày 14 tháng 01 năm 2019;

c. Các thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu thực hiện từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 trở về sau”.

V. NHỮNG VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN CHÍNH PHỦTrong quá trình soạn thảo dự án Luật, vẫn còn một số vấn đề còn ý kiến

khác nhau, cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo xin ý kiến Chính phủ, cụ thể như sau:1. Về nội dung dịch vụ phụ trợ bảo hiểmTheo Hiệp định CPTPP, dịch vụ phụ trợ bảo hiểm: tư vấn, đánh giá rủi ro,

tính toán bảo hiểm (Actuarial), dịch vụ giải quyết bồi thường (claim settlement services). Tuy nhiên, theo quy định tại điểm 5 Phụ lục 3 Nghị quyết số

13

Page 14: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

72/2018/QH14 thì dịch vụ phụ trợ bảo hiểm như tư vấn, đánh giá rủi ro, dịch vụ hỗ trợ và các dịch vụ giám định. Như vậy, giữa Hiệp định CPTPP và Nghị quyết số 72/2018/QH14 chưa thống nhất về tên gọi của các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, cụ thể: tính toán bảo hiểm (Actuarial), dịch vụ giải quyết bồi thường (claim settlement services), dịch vụ hỗ trợ và các dịch vụ giám định.

Qua nghiên cứu, Bộ Tài chính nhận thấy, “tính toán bảo hiểm” trong Hiệp định CPTPP là một trong các “dịch vụ hỗ trợ” bảo hiểm như trong Nghị quyết 72/2018/QH14. “Dịch vụ giải quyết bồi thường” trong Hiệp định CPTPP bao gồm giám định tổn thất bảo hiểm và dịch vụ hỗ trợ giải quyết bồi thường. Nội dung này tương đồng với “dịch vụ hỗ trợ” và “các dịch vụ giám định” như trong Nghị quyết 72/2018/QH14.

Để quy định đầy đủ các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm theo quy định tại Hiệp định CPTPP và Nghị quyết 72/2018/QH14, thì dự thảo Luật đề xuất quy định dịch vụ phụ trợ bảo hiểm gồm 05 loại dịch vụ: tư vấn bảo hiểm; đánh giá rủi ro bảo hiểm; tính toán bảo hiểm; giám định tổn thất bảo hiểm; hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm.

2. Về mối quan hệ giữa việc sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm với Luật Đầu tư

Theo quy định tại Phụ lục 4 của Luật Đầu tư thì trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm đang được xác định là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, có ảnh hưởng trực tiếp, trọng yếu đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm cốt lõi, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. Do vậy, hoạt động dịch vụ này cần được kiểm soát về điều kiện hoạt động kinh doanh.

Để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, cơ quan chủ trì soạn thảo đề nghị Chính phủ cho phép đồng thời với việc sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm thì sửa đổi Phụ lục 4 của Luật Đầu tư tại dự thảo Luật này theo hướng bổ sung ngành nghề “phụ trợ bảo hiểm” là ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

Trên đây là Tờ trình về việc xây dựng dự án Luật sửa đổi một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Công Thương kính trình Chính phủ xem xét, quyết định./.

Nơi nhận:- Như trên;- Thứ trưởng Trần Quốc Khánh (để biết); - VPCP (để phối hợp);- Các Bộ: TP, TC, KHCN (để phối hợp);- Lưu: VT, PC.

BỘ TRƯỞNG

Trần Tuấn Anh

14

Page 15: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

QUỐC HỘI

Luật số: /2019/QH...

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

 

LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU

CỦA LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM, LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh

doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 61/2010/QH12, Luật Sở hữu trí tuệ.

Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 61/2010/QH12 như sau:

1. Bổ sung khoản 21, 22, 23, 24, 25 và 26 Điều 3 như sau:

“21. Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, được thực hiện bởi doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và tổ chức, cá nhân khác nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: tư vấn bảo hiểm; đánh giá rủi ro bảo hiểm; tính toán bảo hiểm; giám định tổn thất bảo hiểm, hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm và các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm khác phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

22. Tư vấn bảo hiểm là hoạt động cung cấp dịch vụ về tư vấn chương trình bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm; tư vấn quản trị rủi ro bảo hiểm và đề phòng, hạn chế tổn thất.

23. Đánh giá rủi ro bảo hiểm là hoạt động nhận diện, phân loại, đo lường rủi ro, đánh giá việc quản trị rủi ro về con người, tài sản, trách nhiệm dân sự làm cơ sở tham gia bảo hiểm.

24. Tính toán bảo hiểm (Actuarial) là hoạt động thu thập, phân tích số liệu thống kê, tính phí bảo hiểm, dự phòng nghiệp vụ, vốn, biên khả năng thanh toán, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh, xác định giá trị doanh nghiệp để đảm bảo an toàn tài chính doanh nghiệp bảo hiểm.

25. Giám định tổn thất bảo hiểm là hoạt động xác định hiện trạng, nguyên nhân, mức độ tổn thất làm cơ sở giải quyết bồi thường bảo hiểm.

15

Dự thảo

Page 16: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

26. Hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm là hoạt động hỗ trợ bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện các thủ tục giải quyết bồi thường bảo hiểm theo đúng hợp đồng bảo hiểm.”

2. Sửa đổi, bổ sung Điều 11 như sau:

“Điều 11. Quyền tham gia các tổ chức xã hội - nghề nghiệp về kinh doanh bảo hiểm

Doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm được tham gia các tổ chức xã hội - nghề nghiệp về kinh doanh bảo hiểm nhằm mục đích phát triển thị trường bảo hiểm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thành viên theo quy định của pháp luật.”

3. Sửa đổi tên Chương IV như sau: “Chương IV. ĐẠI LÝ BẢO HIỂM, DOANH NGHIỆP MÔI GIỚI BẢO HIỂM, PHỤ TRỢ BẢO HIỂM”.

4. Bổ sung Mục 3 Chương IV như sau: “Mục 3. PHỤ TRỢ BẢO HIỂM”.

5. Bổ sung Điều 94a như sau:

“Điều 94a. Cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm

1. Cá nhân, tổ chức đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều này được quyền cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm như sau:

a) Cá nhân được quyền cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm;

b) Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được quyền cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm, đánh giá rủi ro bảo hiểm, tính toán bảo hiểm, hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm;

c) Tổ chức, doanh nghiệp bảo hiểm được quyền cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm, đánh giá rủi ro bảo hiểm, tính toán bảo hiểm, giám định tổn thất bảo hiểm, hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm.

2. Điều kiện đối với cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm: a) Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;b) Có bằng cấp, chứng chỉ đào tạo về bảo hiểm do các cơ sở đào tạo được

thành lập và hoạt động hợp pháp trong và ngoài nước cấp hoặc kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo hiểm.

3. Điều kiện đối với tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm:a) Là tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp;b) Đáp ứng các quy định về tài chính để đảm bảo trách nhiệm đã cam kết

khi cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm;

16

Page 17: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

c) Cá nhân trong tổ chức trực tiếp cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải đáp ứng quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và có bằng cấp, chứng chỉ đào tạo về bảo hiểm phù hợp với từng loại hình dịch vụ phụ trợ bảo hiểm do các cơ sở đào tạo được thành lập và hoạt động hợp pháp trong và ngoài nước cấp hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo hiểm.

4. Hợp đồng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải được lập thành văn bản.

5. Chính phủ quy định chi tiết nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân cung cấp và sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm khác phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm và quản lý nhà nước về phụ trợ bảo hiểm.”

6. Sửa đổi tên Chương VI như sau: “Chương VI. DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM, DOANH NGHIỆP MÔI GIỚI BẢO HIỂM CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI; CUNG CẤP DỊCH VỤ QUA BIÊN GIỚI”.

7. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 105 như sau:

“2. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới; tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm qua biên giới theo quy định của Chính phủ.”

8. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 120 như sau:

“1. Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, phụ trợ bảo hiểm; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam;”

9. Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 120 như sau:

“4. Giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua hoạt động nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm; giám sát việc chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm;”

10. Sửa đổi, bổ sung khoản 10 Điều 120 như sau:

“10. Thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm, hoạt động phụ trợ bảo hiểm; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.”

11. Bổ sung khoản 10a Điều 124 như sau:

“10a. Vi phạm quy định pháp luật về cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm;”12. Bổ sung khoản 4 Điều 127 như sau:

“4. Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực, các tổ chức, cá

17

Page 18: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

nhân đang cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải đáp ứng các quy định về điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm theo quy định tại Luật này.”

Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

1. Sửa đổi khoản 3, bổ sung khoản 4 Điều 60 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

“3. Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này hoặc người có được thông tin về sáng chế một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ người đó bộc lộ công khai với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời hạn mười hai tháng kể từ ngày bộc lộ.

4. Quy định tại khoản 3 Điều này không áp dụng đối với trường hợp sáng chế được bộc lộ trong các đơn đăng ký quyền sở hữu trí tuệ hoặc văn bằng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã được cơ quan sở hữu trí tuệ công khai cho công chúng tiếp cận trừ trường hợp việc này được thực hiện do sai sót của cơ quan sở hữu trí tuệ hoặc đơn được người thứ ba có được thông tin một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này nộp nhưng không được sự đồng ý của người có quyền đăng ký đó. ”.

2. Sửa đổi khoản 1 Điều 80 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

“1. Tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng hoá theo nhận thức của người tiêu dùng có liên quan ở Việt Nam;”

3. Sửa đổi khoản 3 Điều 80 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

"3. Chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đang được bảo hộ, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó được thực hiện thì có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc của sản phẩm;"

4. Bổ sung Điều 120a vào sau Điều 120 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

“Điều 120a. Công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế

Việc công bố, xử lý ý kiến cuả người thứ ba, đánh giá khả năng bảo hộ và xác định phạm vi bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý được yêu cầu công nhận và bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên được thực hiện theo các quy định tương ứng tại Luật này đối với chỉ dẫn địa lý trong đơn đăng ký được nộp cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp”.

5. Bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 89 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

“3. Đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp được nộp ở dạng giấy cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp hoặc các địa điểm tiếp nhận đơn khác do cơ quan này thiết lập hoặc điện tử theo hệ thống nộp đơn trực tuyến do cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp thiết lập.”

18

Page 19: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

6. Sửa đổi khoản 2 Điều 136 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

“Điều 136. Nghĩa vụ sử dụng sáng chế, nhãn hiệu

2. Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu. Việc sử dụng nhãn hiệu bởi bên nhận chuyển quyền theo hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu cũng được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu. Trong trường hợp nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ năm năm trở lên thì Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 95 của Luật này.”

7. Sửa đổi khoản 2, bổ sung khoản 3 Điều 148 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

“Điều 148. Hiệu lực của hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp

2. Đối với các loại quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 6 của Luật này, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thỏa thuận giữa các bên.

3. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp tại khoản 2 của Điều này chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba khi đã được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp, trừ hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu.”

8. Sửa đổi khoản 1 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

“1. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường theo một trong các căn cứ sau đây:

a) Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất;

b) Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện; hoặc

c) Các căn cứ hợp pháp khác do chủ thể quyền đưa ra;

d) Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản này thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng.”

19

Page 20: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

9. Bổ sung khoản 4 Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

”4. Tổ chức, cá nhân là bị đơn trong vụ tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, nếu được Tòa án kết luận là không thực hiện hành vi xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án buộc nguyên đơn thanh toán cho mình chi phí hợp lý để thuê luật sư.”

10. Bổ sung khoản 5 Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

”5. Tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của người khác có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên lạm dụng thủ tục phải bồi thường cho những thiệt hại do việc lạm dụng gây ra, trong đó có chi phí hợp lý để thuê luật sư.”

11. Sửa đổi khoản 1 Điều 218 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

“1. Khi người yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định tại Điều 217 của Luật này thì cơ quan hải quan ra quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với lô hàng. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định tạm dừng, cơ quan hải quan cung cấp thông tin về tên và địa chỉ của người gửi hàng, nhà xuất khẩu, người nhận hàng, hoặc nhà nhập khẩu; bản mô tả hàng hoá, số lượng hàng hoá, và nước xuất xứ của hàng hoá (nếu biết) cho chủ thể quyền”.

Điều 3. Hiệu lực thi hành

1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày … tháng … năm …

2. Các hoạt động thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này, phát sinh trước thời điểm Luật này có hiệu lực được thực hiện theo quy định của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.

3. Bổ sung ngành nghề “phụ trợ bảo hiểm” vào Phụ lục 4 của Luật Đầu tư.

Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa ..., kỳ họp thứ ... thông qua ngày ... tháng ... năm 2019.

20

Page 21: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

BỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: /BC-BCT Hà Nội, Ngày tháng năm 2019

BÁO CÁO TỔNG KẾTLuật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ

A. ĐỐI VỚI LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂMNghị quyết số 72/2018/QH14 về việc phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn

diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP) đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 6, thông qua ngày 12 tháng 11 năm 2018, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 14 tháng 1 năm 2019.

Triển khai nhiệm vụ soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm để thực thi Hiệp định CPTPP về dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, hoạt động phụ trợ bảo hiểm bao gồm: hoạt động tư vấn bảo hiểm, đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm và giám định bảo hiểm. Từ kết quả đánh giá việc sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm, Bộ Tài chính đã tiến hành tổng kết đánh giá hiện trạng hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay trên 3 nội dung chính sau đây:

- Quy định pháp luật về hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay.

- Đánh giá hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam.- Đánh giá công tác quản lý nhà nước về hoạt động phụ trợ bảo hiểm.I. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG PHỤ TRỢ BẢO HIỂM

TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Quy định pháp luật về hoạt động phụ trợ bảo hiểm1.1. Các cam kết quốc tế về hoạt động phụ trợ bảo hiểm mà Việt Nam

đã tham giaNăm 2007, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì

hoạt động phụ trợ bảo hiểm cũng là một trong các nội dung Việt Nam cam kết thực hiện. Quy định về Bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm bao gồm:

a. Direct insurance (a) Life insurance, excl. health insurance services (b) Non-life insurance services

a. Bảo hiểm gốc   (a) Bảo hiểm nhân thọ, trừ bảo hiểm y tế  (b) Bảo hiểm phi nhân thọ 

21

Page 22: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

b. Reinsurance and retrocession

c. Insurance intermediation (such as brokerage and agency) d. Services auxiliary to insurance (such as consultancy, actuarial, risk assessment and claim settlement)

b. Tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm  c. Trung gian bảo hiểm (như môi giới bảo hiểm và đại lý bảo hiểm)  d. Dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm (như tư vấn, dịch vụ tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường). 

  Hiệp định CPTPP cũng đã quy định các nội dung liên quan đến hoạt động phụ trợ bảo

hiểm cụ thể như sau:

Insurance and insurance-related services(a) direct insurance (including co-insurance):

(i) life; (ii) non-life;

 (b) reinsurance and retrocession; (c) insurance intermediation, such as brokerage and agency; and (d) services auxiliary to insurance, such as consultancy, actuarial, risk assessment and claim settlement services;

Các dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm(a) bảo hiểm trực tiếp (bao gồm hoạt động đồng bảo hiểm):

(i) nhân thọ;(ii) phi nhân thọ;

(b) tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm;(c) nghiệp vụ trung gian bảo hiểm như môi giới và đại lý; và(d) các dịch vụ phục vụ cho hoạt động bảo hiểm như tư vấn, xác định phí bảo hiểm, đánh giá rủi ro và các dịch vụ giải quyết quyền lợi bảo hiểm;

Tại Nghị quyết số 72/2018/QH14, Quốc hội cũng đã phê chuẩn Hiệp định CPTPP. Cam kết tại Hiệp định CPTPP về mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng đã bổ sung quy định về hoạt động phụ trợ bảo hiểm như dịch vụ tư vấn, đánh giá rủi ro, dịch vụ hỗ trợ và các dịch vụ giám định bảo hiểm.

1.2. Quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hoạt động phụ trợ bảo hiểm

1.2.1 Quy định về hoạt động phụ trợ bảo hiểm trong hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm

Hệ thống pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm chưa có các quy định cụ thể, chi tiết về các hoạt động phụ trợ bảo hiểm như hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm, hoạt động giám định bảo hiểm. Các quy định hiện hành đối với các hoạt động này như sau:

Luật Kinh doanh bảo hiểm cũng đã đề cập đến hoạt động giám định bảo

22

Page 23: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

hiểm. Nhưng hoạt động giám định bảo hiểm được đề cập đến chỉ bao gồm nội dung về giám định tổn thất và quy định giám định tổn thất là một trong các nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Cụ thể, tại Điều 48 quy định về giám định tổn thất: “1. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm hoặc người được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền thực hiện việc giám định tổn thất để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Chi phí giám định tổn thất do doanh nghiệp bảo hiểm chịu.; 2. Trong trường hợp các bên không thống nhất về nguyên nhân và mức độ tổn thất thì có thể trưng cầu giám định viên độc lập, trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được việc trưng cầu giám định viên độc lập thì một trong các bên được yêu cầu Toà án nơi xảy ra tổn thất hoặc nơi cư trú của người được bảo hiểm chỉ định giám định viên độc lập. Kết luận của giám định viên độc lập có giá trị bắt buộc đối với các bên.” và Khoản 1 Điều 60 quy định về nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm: “1. Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm: a) Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm; b) Đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất; c) Giám định tổn thất; d) Đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn; đ) Quản lý quỹ và đầu tư vốn; e) Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.” Tuy nhiên, các quy định này chỉ mang tính chất chung, chưa quy định cụ thể chi tiết về điều kiện, tiêu chuẩn, nội dung hoạt động giám định bảo hiểm.

Đối với các hoạt động phụ trợ bảo hiểm còn lại bao gồm hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm như theo quy định tại Nghị quyết số 72/2018/QH14 của Quốc hội phê chuẩn Hiệp định CPTPP thì pháp luật về kinh doanh bảo hiểm hiện hành chưa có quy định.

1.2.1 Quy định về hoạt động phụ trợ bảo hiểm trong hệ thống văn bản pháp luật khác

Hiện nay, chưa có quy định về hoạt động phụ trợ bảo hiểm như hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm, hoạt động giám định bảo hiểm trong hệ thống các văn bản pháp luật khác. Các quy định hiện nay chỉ mang tính chất chung, áp dụng đối với nhiều lĩnh vực, ngành nghề trong đó có bảo hiểm. Các doanh nghiệp đang hoạt động theo sự điều chỉnh trực tiếp của hệ thống các văn bản pháp luật như sau:

- Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành.- Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành.* Đối với các hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo

hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm: - Khái niệm, nội dung hoạt động thì trong hệ thống văn bản pháp luật

chưa có quy định.- Cấp phép thành lập và hoạt động: thực hiện đăng ký thành lập doanh

nghiệp và đăng ký ngành nghề kinh doanh theo quy định tại Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành.

23

Page 24: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

- Về điều kiện, tiêu chuẩn hoạt động: chưa có quy định.- Riêng đối với hoạt động tư vấn đấu thầu bảo hiểm: hiện đang thực hiện

theo quy định của Luật Đấu thầu.* Đối với hoạt động giám định bảo hiểm:- Chưa có khái niệm, nội dung hoạt động giám định bảo hiểm mà trong

quy định của hệ thống văn bản pháp luật chỉ quy định về giám định và dịch vụ giám định thương mại tại Điều 254 và Điều 255 Luật Thương mại.

- Cấp phép thành lập và hoạt động: thực hiện đăng ký thành lập doanh nghiệp và đăng ký ngành nghề kinh doanh theo quy định tại Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Về điều kiện, tiêu chuẩn hoạt động: chưa có quy định về điều kiện, tiêu chuẩn đối với hoạt động giám định bảo hiểm mà mới chỉ có quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ giám định thương mại và tiêu chuẩn giám định viên tại ĐIều 257 và 259 Luật Thương mại.

Ngoài ra, hệ thống ngành kinh tế Việt Nam theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg đã có quy định phân ngành 662 về hoạt động bổ trợ bảo hiểm. Hoạt động hỗ trợ bảo hiểm bao gồm các hoạt động của đại lý (môi giới) trong việc bán hợp đồng bảo hiểm, cung cấp những lợi ích khác cho người lao động, các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm như điều chỉnh bồi thường thiệt hại, quản lý người bán bảo hiểm..., cụ thể:

+ 6621: Đánh giá rủi ro và thiệt hại: các dịch vụ quản lý bảo hiểm như định giá bồi thường bảo hiểm; định giá rủi ro; thanh toán bồi thường bảo hiểm…

+ 6622: Hoạt động của đại lý và môi giới bảo hiểm: bán bảo hiểm, thương lượng bảo hiểm, tư vấn về chính sách bảo hiểm;

+ 6629: Hoạt động hỗ trợ khác: các hoạt động có liên quan hoặc liên quan chặt chẽ đến bảo hiểm và trợ cấp hưu trí như quản lý cứu hộ, dịch vụ thống kê bảo hiểm…

Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam có định danh các hoạt động hỗ trợ bảo hiểm, về bản chất là các hoạt động liên quan chặt chẽ đến kinh doanh bảo hiểm. Như vậy, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm cũng tương đồng với hoạt động phụ trợ bảo hiểm, cùng có nghĩa là trợ giúp cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

Hoạt động phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, không phải là hoạt động độc lập, không tách rời hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một hoạt động kinh doanh có điều kiện theo quy định tại Phụ lục 4 Luật Đầu tư. Nhưng hiện nay, các đơn vị cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm chưa chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành.

2. Đánh giá2.1. Mặt đượcLuật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh

24

Page 25: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

doanh bảo hiểm năm 2010 đã đề cập đến hoạt động giám định tổn thất. Điều này thể hiện rõ phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của quá trình kinh doanh bảo hiểm và là một hoạt động không thể tách rời trong quá trình phát triển của thị trường bảo hiểm.

Quy định về hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại cam kết khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế và quy định tại Hiệp định CPTPP là tương đồng, không mâu thuẫn với nhau.

Đồng thời, các quy định pháp luật hiện nay cũng thể hiện rõ mong muốn và quyết tâm của Việt Nam trong việc xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động phụ trợ bảo hiểm nhằm tuân thủ các cam kết và Hiệp định quốc tế.

2.2. Mặt hạn chế Hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm chưa có quy định cụ thể,

mang tính chuyên biệt hóa về hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Điều này đã và đang gây ra một số cản trở cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm do thiếu các quy định về nội dung hoạt động; tiêu chuẩn, điều kiện hoạt động; nguyên tắc hoạt động; nội dung hợp đồng dịch vụ; điều kiện cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm qua biên giới.

Hệ thống pháp luật chung cũng chưa có quy định cụ thể về các hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Các tổ chức cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm chỉ thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp về đăng ký kinh doanh. Một số hoạt động phụ trợ bảo hiểm như giám định bảo hiểm đang hoạt động theo quy định chung về giám định thương mại tại hệ thống văn bản pháp luật về Luật Thương mại, tư vấn đấu thầu bảo hiểm đang hoạt động theo quy định tại Luật Đấu thầu. Trong khi đó, Luật Thương mại hiện nay quy định về điều kiện của giám định viên nhưng chưa chi tiết, chưa có điều kiện chuyên biệt hóa đối với bảo hiểm; Luật Đấu thầu có quy định về tiêu chuẩn liên quan đến thực hiện hoạt động đấu thầu nhưng không có quy định áp dụng đối với bảo hiểm. Điều này dẫn tới sự vận hành tổng thể của thị trường bảo hiểm chưa được hiệu quả.

Khung khổ pháp lý về hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam còn thiếu, chưa đồng bộ. Hoạt động phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm hiện hành chưa quy định cụ thể về hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Cơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với hệ thống pháp luật chung điều chỉnh hoạt động phụ trợ bảo hiểm là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự phát triển hiệu quả của hoạt động phụ trợ bảo hiểm Việt Nam nói riêng và thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung.

Hoạt động phụ trợ bảo hiểm hiện chưa chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu và thiếu những quy định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện, nội dung hoạt động phụ trợ bảo hiểm như một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Đây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn tới chất lượng của hoạt động phụ trợ bảo hiểm chưa được đảm bảo.

Hệ thống văn bản pháp luật và văn bản chi tiết để hướng dẫn thi hành hoạt

25

Page 26: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

động phụ trợ bảo hiểm đang thiếu các quy định cụ thể quy định về vấn đề này nên gây ra tình trạng thiếu tính thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và gây khó khăn cho các đối tượng tham gia hoạt động này (chất lượng của báo cáo giám định bảo hiểm, tình trạng tranh chấp, quyền và lợi ích của các bên tham gia hoạt động không được đảm bảo..).

Hệ thống văn bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm cũng chưa quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm, gây khó khăn cho hoạt động quản lý, giám sát, thanh tra và kiểm tra đối với hoạt động này. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm chưa được quy định thẩm quyền để tiến hành quản lý nhà nước cụ thể về hoạt động này.

Quy định về hoạt động phụ trợ bảo hiểm chưa theo kịp sự phát triển của thị trường bảo hiểm; chưa đáp ứng được các yêu cầu của quá trình hội nhập thương mại quốc tế.

II. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG PHỤ TRỢ BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM

Các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm hiện nay đều có sử dụng hoạt động phụ trợ bảo hiểm ở các mức độ khác nhau tùy theo nhu cầu của đơn vị mình. Sự phát triển hoạt động phụ trợ bảo hiểm đi kèm với sự phát triển của thị trường bảo hiểm. Đi kèm với sự phát triển về nhu cầu của hoạt động phụ trợ bảo hiểm là sự phát triển của các nhà cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

1. Tình hình chung về hoạt động phụ trợ bảo hiểm Các doanh nghiệp bảo hiểm đã chi trả gần 400 tỷ đồng cho các hoạt động

phụ trợ bảo hiểm trong 3 năm gần đây. Trong đó, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chi trả khoảng 132 tỷ, tương đương 34,5% số tiền chi trả của toàn thị trường. Các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ chi trả khoảng 268 tỷ đồng, tương đương 65,5% số tiền chi trả của toàn thị trường.

Các doanh nghiệp có thị phần lớn trên thị trường cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm có thể kể đến như:

+ Công ty TNHH Insmart cung cấp hoạt động hỗ trợ bảo hiểm, đứng thứ nhất, chiếm thị phần lên tới 6% trong hoạt động phụ trợ bảo hiểm đang được cung cấp trên thị trường. Công ty cung cấp dịch vụ quản lý và giải quyết bồi thường bảo hiểm dưới sự ủy quyền của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Các doanh nghiệp đang sử dụng dịch vụ của Insmart như Bảo Minh, MIC, PTI, PJICO, VNI, Manulife, Fubon Life…

+ Công ty TNHH giám định và tư vấn kỹ thuật (Raco) và Công ty TNHH Mc Larens là hai công ty cung cấp hoạt động giám định bảo hiểm đứng đầu trên thị trường.

Trong 4 nội dung hoạt động phụ trợ bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm là hoạt động được chi trả nhiều nhất, chiếm 39% số tiền chi trả của các doanh nghiệp bảo hiểm trong 3 năm qua. Hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động tư vấn bảo hiểm và giám định bảo hiểm lần lượt chiếm 22%, 20% và 19%.

Trong 3 năm qua, mức độ sử dụng các hoạt động phụ trợ bảo hiểm của

26

Page 27: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

các doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng tăng lên. Cụ thể như sau: hoạt động giám định bảo hiểm được đến 70% các doanh nghiệp bảo hiểm đang sử dụng các đơn vị cung cấp dịch vụ để xác định nguyên nhân tổn thất, mức độ tổn thất, tình trạng tổn thất, xác định tổn thất có thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm…65% các doanh nghiệp được khảo sát có sử dụng dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm để tiết kiệm chi phí và quản lý có hiệu quả hơn các hoạt động liên quan đến hỗ trợ giải quyết bồi thường, quản lý hồ sơ, quản lý đại lý….Gần 40% các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường đều sử dụng hoạt động tư vấn bảo hiểm và hoạt động đánh giá rủi ro để hỗ trợ cho các công đoạn trong quá trình kinh doanh của mình.

2. Nội dung hoạt động phụ trợ bảo hiểm các đơn vị đang cung cấp và sử dụng tại thị trường Việt Nam hiện nay

2.1. Về hoạt động tư vấn bảo hiểm- Nội dung hoạt động tư vấn bảo hiểm các đơn vị đang cung cấp trên thị

trường bao gồm: + Tư vấn về quản trị rủi ro: đưa ra ý kiến tư vấn giúp khách hàng lựa chọn

biện pháp, cách thức để quản trị, quản lý rủi ro, lựa chọn phương án quản lý rủi ro, chuyển giao rủi ro thay thế, lựa chọn danh mục tài sản cần bảo hiểm;

+ Tư vấn đề phòng, hạn chế tổn thất: đưa ra ý kiến tư vấn về các biện pháp giảm thiểu rủi ro, đề phòng hạn chế tổn thất;

+ Tư vấn xây dựng, thiết kế chương trình, sản phẩm bảo hiểm: thiết kế chương trình bảo hiểm cho nhóm đối tượng khách hàng có chung nhu cầu về bảo hiểm hoặc thiết kế sản phẩm bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm mới hoặc sản phẩm có tiềm năng phát triển trong tương lai;

27

Page 28: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

+ Tư vấn nội dung sản phẩm bảo hiểm, điều kiện, điều khoản của hợp đồng bảo hiểm;

+ Tư vấn về bồi thường: tư vấn về hồ sơ, thủ tục, trình tự giải quyết bồi thường; tư vấn xác định tổn thất có thuộc phạm vi hợp đồng bảo hiểm.

+ Tư vấn đấu thầu bảo hiểm: tư vấn xây dựng hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, lựa chọn nhà thầu, đàm phán thương thảo ký kết hợp đồng.

2.2. Về hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm- Nội dung hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm các đơn vị đang cung cấp

trên thị trường bao gồm: + Nhận diện rủi ro, xác định các rủi ro có thể xảy ra đối với đối tượng có

nhu cầu tham gia bảo hiểm.+ Phân loại rủi ro, phân nhóm các rủi ro theo tiêu chuẩn định sẵn.+ Đánh giá rủi ro: Đo lường định tính và định lượng; xác định mức độ,

tần suất xảy ra rủi ro, dự báo khả năng xảy ra rủi ro, nguyên nhân gây ra rủi ro.+ Quản trị rủi ro: đưa ra các công cụ, phương pháp theo tiêu chuẩn định

sẵn để quản trị đối với rủi ro của đối tượng được đánh giá. 2.3. Về hoạt động hỗ trợ bảo hiểm- Nội dung hoạt động hỗ trợ bảo hiểm các đơn vị đang cung cấp trên thị

trường bao gồm:+ Dịch vụ tính toán bảo hiểm (Actuarial Service): tính toán phí bảo hiểm,

tính trích lập dự phòng cho doanh nghiệp bảo hiểm.+ Hỗ trợ giải quyết bồi thường: bao gồm việc thu thập, rà soát đối chiếu

hồ sơ, thực hiện chi trả tiền bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm theo quyết định bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm; Thu thập hồ sơ, quản lý, thực hiện các thủ tục để yêu cầu đòi bồi thường thay bên tham gia bảo hiểm.

+ Quản lý hồ sơ, hợp đồng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm và cho bên tham gia bảo hiểm;

+ Quản lý đại lý bảo hiểm đối với đại lý của doanh nghiệp bảo hiểm.+ Thu phí bảo hiểm: Thay mặt doanh nghiệp bảo hiểm để thực hiện việc

thu phí bảo hiểm từ bên tham gia bảo hiểm.2.4. Hoạt động giám định bảo hiểmNội dung hoạt động giám định bảo hiểm các đơn vị đang cung cấp trên thị

trường bao gồm: giám định bảo hiểm xác định hiện trạng, mức độ, nguyên nhân tổn thất, thiệt hại làm cơ sở giải quyết bồi thường bảo hiểm.

3. Đánh giá 3.1. Mặt được

28

Page 29: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Các công ty tham gia cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm trên thị trường đều được thành lập dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên… Có thể kể đến các công ty đang nắm giữ thị phần lớn trên thị trường như: Công ty TNHH Insmart, Công ty TNHH giám định và tư vấn kỹ thuật (Raco) và Công ty TNHH Mc Larens, Công ty cổ phần giám định và dịch vụ Đại Việt, Công ty cổ phần giám định Eurocontrol …

Số lượng các đơn vị cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm trên thị trường đang ngày càng phát triển. Các cá nhân tham gia vào hoạt động phụ trợ bảo hiểm cũng đang ngày càng tăng lên. Cá nhân tham gia vào thị trường dưới hình thức nhân viên công ty, nhà đầu tư hoặc cộng tác viên của các đơn vị cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm. Các đơn vị có nhu cầu sử dụng hoạt động có nhiều lựa chọn và có sự lựa chọn tối ưu nhất về chất lượng dịch vụ giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ. Điều này dẫn tới hoạt động phụ trợ bảo hiểm ngày càng phát triển và ngày càng có tác động mạnh mẽ đối với sự ổn định, lành mạnh của thị trường bảo hiểm, quyền lợi của người tham gia sử dụng hoạt động phụ trợ bảo hiểm và giải quyết vấn đề việc làm cho xã hội.

Các hoạt động phụ trợ bảo hiểm cung cấp ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Các hoạt động phụ trợ bảo hiểm không chỉ giúp người tiêu dùng thông qua việc hỗ trợ bên tham gia bảo hiểm lựa chọn được sản phẩm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phù hợp nhất, đảm bảo quyền lợi của người được bảo hiểm mà còn giúp doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thẩm định bảo hiểm, góp phần hạn chế gian lận bảo hiểm, giúp cho việc chi trả tiền bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm nhanh chóng, đầy đủ, chính xác, kịp thời, hạn chế trục lợi bảo hiểm.

3.2. Mặt hạn chế Các hoạt động phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh

doanh bảo hiểm, và là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm mới chỉ quy định điều kiện đối với doanh nghiệp bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, mà chưa có quy định chi tiết về điều kiện, tiêu chuẩn, trách nhiệm và các vấn đề liên quan về hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm, hoạt động giám định bảo hiểm. Do vậy, chất lượng hoạt động phụ trợ bảo hiểm đang không được kiểm soát gây nên một số ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển của thị trường bảo hiểm nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói riêng.

Các doanh nghiệp bảo hiểm gặp nhiều khó khăn khi tìm hiểu thông tin của các đơn vị cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Hiện nay, công tác thống kê, tổng hợp về hoạt động phụ trợ bảo hiểm chưa có do thiếu nguồn thông tin mang tính chính xác và và các thông tin hiện có thì độ tin cậy không cao. Điều này dẫn tới quyền và lợi ích của các bên tham gia sử dụng hoạt động phụ trợ bảo hiểm không được đảm bảo.

Các đơn vị cung cấp và sử dụng hoạt động phụ trợ bảo hiểm chưa được kiểm tra, hướng dẫn để hoạt động có hiệu quả và tuân thủ đúng quy định của

29

Page 30: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

pháp luật. Do vậy, trong quá trình hoạt động các đơn vị này chưa tuân thủ một số quy định của pháp luật do không được sự hướng dẫn, nhắc nhở của cơ quan quản lý. Điều này sẽ dẫn tới những ảnh hưởng lâu dài tới quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp và sử dụng hoạt động này

Một số đơn vị cung cấp hoạt động này tại các thị trường bảo hiểm phát triển với những ưu thế về kinh nghiệm, đội ngũ chuyên gia nhưng gặp khó khăn khi muốn gia nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam. Nguyên nhân do hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm hiện đang thiếu khung khổ pháp lý quy định chi tiết và cụ thể về hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Thị trường cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay đang rất thiếu các nhà cung câp hoạt động phụ trợ bảo hiểm đến từ các nước có thị trường bảo hiểm phát triển như Anh, Mỹ, Canada, Nhật Bản…

Quy định hiện hành tại Điều 89 Luật Kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là doanh nghiệp thực hiện các nội dung hoạt động môi giới bảo hiểm. Các công ty môi giới bảo hiểm tại Việt Nam, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, có thế mạnh và khả năng thực hiện các hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm. Quy định như hiện tại đang bó hẹp hoạt động của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đối với việc được thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Các công ty môi giới bảo hiểm đang chưa có cơ sở pháp lý để thực hiện các hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

Còn riêng đối với hoạt động giám định bảo hiểm thì đây là hoạt động trung lập, khách quan. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là đại diện cho khách hàng, hỗ trợ khách hàng trong công tác giải quyết bồi thường. Do vậy, để tránh xung đột về lợi ích, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm không thực hiện hoạt động giám định bảo hiểm. Hoạt động giám định bảo hiểm sẽ do một công ty độc lập thực hiện để đảm bảo bình đẳng cho các chủ thể tham gia thị trường.

Các công ty môi giới bảo hiểm tại Việt Nam, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, có thế mạnh và khả năng thực hiện các hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm, các công ty môi giới bảo hiểm nhưng chưa có cơ sở pháp lý để cung cấp hoạt động này trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.

Hoạt động tư vấn đầu thầu bảo hiểm hiện được cung cấp bởi các nhà tư vấn đấu thầu chuyên nghiệp và các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Mặc dù hoạt động đấu thầu bảo hiểm là hoạt động tư vấn mang tính chất đặc thù, tính kỹ thuật, chuyên môn cao, nhưng pháp luật mới chỉ có quy định về việc đào tạo và cấp chứng chỉ đấu thầu chung, chưa có quy định về việc phải đáp ứng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực bảo hiểm. Do vậy, chất lượng của hoạt động tư vấn đấu thầu bảo hiểm chưa được đảm bảo.

4. Đề xuất, kiến nghị Rà soát các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động phụ trợ bảo hiểm

và đưa ra những quy định pháp luật mang tính chất khuyến khích, tạo điều kiện

30

Page 31: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm nhưng cũng phải đảm bảo chất lượng hoạt động này.

Căn cứ thực trạng hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam, để thực hiện các cam kết trong Hiệp định CPTPP, Bộ Tài chính đề nghị cho phép xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm với các nội dung chủ yếu như sau:

- Quy định chung về nội dung hoạt động phụ trợ bảo hiểm: phạm vi, đối tượng áp dụng, định nghĩa, nội dung hoạt động.

- Quy định về tiêu chuẩn, điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm; nguyên tắc hoạt động phụ trợ bảo hiểm; nội dung hợp đồng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; điều kiện cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm qua biên giới.

- Bổ sung quy định doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được thực hiện hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm.

- Quy định về quản lý nhà nước về hoạt động phụ trợ bảo hiểm: quản lý, giám sát, thanh tra, kiểm tra, chế độ báo cáo.

III. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG BỔ TRỢ BẢO HIỂM

1. Kết quả đạt được Môi trường đầu tư thuận lợi do chưa có khung khổ pháp lý quy định về

điều kiện, tiêu chuẩn của từng hoạt động phụ trợ bảo hiểm nên tạo điều kiện cho các đơn vị cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm được cấp phép thành lập và hoạt động dễ dàng. Điều này dẫn tới số lượng các doanh nghiệp cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm đang tăng lên nhanh chóng.

2. Mặt hạn chế Hoạt động phụ trợ bảo hiểm đang nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật

Kinh doanh bảo hiểm. Khung khổ pháp lý về hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam còn thiếu, chưa đồng bộ. Hoạt động phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tuy nhiên hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm hiện hành chưa quy định cụ thể về hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Cơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với hệ thống pháp luật chung điều chỉnh hoạt động phụ trợ bảo hiểm là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự phát triển hiệu quả của hoạt động phụ trợ bảo hiểm Việt Nam nói riêng và thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung.

Hệ thống pháp luật đang thiếu cơ sở pháp lý và chưa trao thẩm quyền cho các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác quản lý, giám sát, thanh tra, kiểm tra về hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Công tác quản lý, giám sát đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm bao gồm hoạt động quản lý, giám sát về nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro, việc chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân thuộc tổ chức hoạt động phụ trợ bảo hiểm đều chưa được quy định. Do vậy, cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm đang gặp khó

31

Page 32: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

khăn trong công tác quản lý các đơn vị sử dụng và cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Đồng thời, cơ quan nhà nước quản lý bảo hiểm chưa tiến hành được việc kiểm tra, thanh tra chuyên ngành về việc tuân thủ các quy định liên quan đến bảo hiểm của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động phụ trợ bảo hiểm để nâng cao năng lực quản lý rủi ro thị trường, đảm bảo thị trường hoạt động an toàn, lành mạnh, bền vững và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật trên thị trường; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, khách hàng và sự an toàn của cả hệ thống, tiết giảm chi phí xã hội.

Môi trường pháp lý chưa rõ ràng, chi tiết, minh bạch nên chưa thu hút các nhà cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm hàng đầu thế giới tại các thị trường đã phát triển. Thị trường hoạt động phụ trợ bảo hiểm hiện nay đang thiếu động lực hỗ trợ nâng cao chất lượng của các nhà cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm trong nước, tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam.

Chất lượng dịch vụ và tính chuyên nghiệp hóa của hoạt động phụ trợ bảo hiểm chưa được quan tâm do thiếu sự quản lý của cơ quan nhà nước quản lý về vấn đề này. Nếu không được quản lý thống nhất về hoạt động phụ trợ bảo hiểm sẽ gây ra tình trạng chồng chéo về chức năng quản lý nhà nước giữa các Bộ, ngành. Trong một số trường hợp, chức năng quản lý nhà nước vừa trùng lặp vừa thiếu với các đối tượng tham gia và sử dụng hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Do thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc hoạch định và ban hành chính sách để tháo gỡ khó khăn nên gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của đối tượng sử dụng và cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trên thị trường.

Các cơ quan nhà nước đang chưa có hệ thống báo cáo về tình hình sử dụng và cung cấp hoạt động bổ trợ bảo hiểm. Tình trạng thiếu dữ liệu về thông tin của các đơn vị cung cấp, mức độ tín nhiệm, hình thức doanh nghiệp, số lượng lao động…Đồng thời, các dữ liệu này nếu có thì độ tin cậy chưa cao nên gây khó khăn trong công tác dự báo xu hướng phát triển của thị trường.

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm ngày càng được tăng cường cả về chiều rộng và chiều sâu. Việc tiếp thu và thực hiện các điều ước, Hiệp định, cam kết quốc tế gặp nhiều khó khăn, chưa được thực hiện nghiêm túc. Khuôn khổ pháp lý cụ thể, chi tiết về hoạt động phụ trợ bảo hiểm được quy định sẽ giúp Việt Nam chủ động mở cửa thị trường đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm theo lộ trình phù hợp đối với các nhà cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm từ nước ngoài. Chính sách về hoạt động phụ trợ bảo hiểm quy định những tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể khi cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới, định hướng thu hút những tổ chức cung cấp hoạt động hàng đầu thế giới hoạt động tại Việt Nam, tăng cường năng lực thị trường, tạo động lực để các tổ chức cung cấp hoạt động trong nước chuyên nghiệp hóa, nâng cao chất lượng hoạt động. Đồng thời, điều kiện, tiêu chuẩn cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới tạo điều kiện cho các tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm nội địa có thời gian, lộ trình nâng cao năng lực cạnh tranh, có thể hoạt động và phát triển trong điều kiện có sự tham gia thị trường của những tổ chức cung cấp hoạt động chuyên nghiệp quốc tế.

32

Page 33: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Trên đây là các nội dung chính của Báo cáo hiện trạng hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam. Để phát triển của hoạt động phụ trợ thì một trong các điều kiện cần thiết là phải xây dựng được hành lang pháp lý quản lý hoạt động này. Các hoạt động phụ trợ bảo hiểm cần được quản lý thống nhất nhằm đảm bảo không có sự mâu thuẫn lợi ích giữa các nhà cung cấp dịch vụ với các chủ thể tham gia thị trường. Hoạt động phụ trợ bảo hiểm giúp nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nên cần phải có sự quản lý, theo dõi của cơ quan quản lý bảo hiểm.

Qua đánh giá hiện trạng của hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam đã chỉ ra đây là một thị trường đang phát triển với nhiều tiềm năng. Đồng thời phát triển hoạt động bổ trợ bảo hiểm có tác động tích cực đến sự phát triển thị trường bảo hiểm nói riêng và nền kinh tế nói chung. Quản lý nhà nước về hoạt động phụ trợ bảo hiểm có tác động tích cực đến các bên tham gia thị trường bảo hiểm nhằm đề phòng, hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng hoạt động. Tuy nhiên do thiếu khung khổ pháp lý quản lý nhà nước về vấn đề này nên hoạt động phụ trợ bảo hiểm chưa phát triển đồng bộ; chất lượng dịch vụ; quyền và trách nhiệm của các bên tham gia vào hoạt động phụ trợ bảo hiểm chưa được quy định rõ nên dễ gây tranh chấp giữa các bên. Trong bối cảnh đất nước ta đang trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế càng sâu và rộng thì việc sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm về hoạt động phụ trợ bảo hiểm là hết sức cần thiết và kịp thời để tạo hành lang pháp lý vững chắc làm lành mạnh hoạt động phụ trợ bảo hiểm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia và góp phần thuận lợi cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước./.

B. ĐỐI VỚI LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆNghị quyết số 72/2018/QH14 về việc phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện

và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP) đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 6, thông qua ngày 12 tháng 11 năm 2018, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 14 tháng 1 năm 2019.

Triển khai nhiệm vụ soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tiến hành tổng kết đánh giá hiện trạng của một số chính sách đề nghị sửa đổi trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ tại Việt Nam hiện nay với các nội dung chính sau đây:

1. Quy định về mở rộng ngoại lệ đối với tính mới của sáng chế;2. Quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý liên quan đến tên gọi chung của hàng

hóa tại Việt Nam và dạng phiên âm, phiên tự của chỉ dẫn địa lý;3. Quy định về khả năng phản đối việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý trùng/tương tự

với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam trên cơ sở việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm với nhãn hiệu;

4. Quy định về bảo hộ và công nhận chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế;

33

Page 34: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

5. Quy định về nộp đơn nhãn hiệu bằng phương tiện điện tử;6. Quy định về yêu cầu đăng ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu

và hành vi sử dụng nhãn hiệu của bên nhận chuyển quyền;7. Quy định về cách tính giá trị trong việc quyết định bồi thường thiệt hại;8. Quy định Toà án có quyền yêu cầu bên thua kiện phải thanh toán cho

bên thắng kiện;9. Quy định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do lạm dụng thủ tục bảo vệ

quyền sở hữu trí tuệ;10. Quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin cho chủ thể quyền của cơ

quan hải quan;11. Quy định về nguyên tắc hợp lý trong việc xác định mức phí tiến hành

các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.1. Quy định về mở rộng ngoại lệ đối với tính mới của sáng chế1.1 Thực trạng pháp luật Luật Sở hữu trí tuệ (Khoản 3 Điều 60) quy định sáng chế chỉ được xem là

không mất tính mới nếu:- Được bộc lộ trong 03 trường hợp: (i) Sáng chế bị người khác công bố

nhưng không được phép của người có quyền đăng ký; (ii) Sáng chế được người có quyền đăng ký công bố dưới dạng báo cáo khoa học; (iii) Sáng chế được người có quyền đăng ký trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức.

- Với điều kiện là đơn sáng chế phải được nộp trong vòng 6 tháng kể từ ngày bộc lộ.

Trong việc đánh giá trình độ sáng tạo, Luật Sở hữu trí tuệ (Điều 61) quy định “Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng”.

Như vậy, các thông tin được bộc lộ công khai liên quan đến đơn sáng chế cũng sẽ được sử dụng làm tài liệu đối chứng trong việc đánh giá trình độ sáng tạo.

1.2 Cam kết quốc tế Nghĩa vụ theo Điều 18.38 của Hiệp định CPTPP: Trong quá trình đánh giá

tính mới và trình độ sáng tạo của sáng chế, phải bỏ qua ít nhất là các thông tin đã bộc lộ công khai nếu việc bộc lộ công khai này: (i) do người nộp đơn sáng chế hoặc người có được thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp từ người nộp đơn sáng

34

Page 35: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

chế; và (ii) xảy ra trong vòng 12 tháng trước ngày nộp đơn trong lãnh thổ của Bên đó.

Như vậy, so với pháp luật hiện hành của Việt Nam, Hiệp định CPTPP mở rộng điều kiện (i) ra tất cả các trường hợp mà người nộp đơn hoặc người có được thông tin từ người nộp đơn (bằng bất cứ hình thức nào, trực tiếp hay gián tiếp, được phép hay không được phép) đã bộc lộ công khai. Đồng thời, Hiệp định CPTPP cũng cho phép thời gian được hưởng ngoại lệ dài hơn (từ 6 tháng lên 12 tháng).

1.3 Đánh giáĐể được hưởng ngoại lệ về thời gian ân hạn đối với tính mới và trình độ

sáng tạo, người nộp đơn phải nộp các tài liệu chứng minh cho ngày bị bộc lộ và nội dung cụ thể của đối tượng bị bộc lộ. Tuy nhiên, do bị giới hạn bởi ba tình huống bộc lộ như đã nêu ở trên, việc chứng minh thông tin đã bộc lộ còn có những hạn chế nhất định, nhất là trong việc xác định thế nào là “công bố đưới dạng báo cáo khoa học” và “trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia hoặc quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức”.

Bên cạnh đó, những người nộp đơn Việt Nam, thông thường khi có các sản phẩm nghiên cứu hay công trình khoa học, thường mang đi tham dự các hội thảo quốc tế hoặc đăng công bố quốc tế mà không để ý tới thời gian ân hạn chỉ có 6 tháng kể từ ngày thông tin bị bộc lộ nếu muốn nộp đơn đăng ký sáng chế liên quan đến công trình khoa học, sản phẩm nghiên cứu đó. Theo đó, các đơn đăng ký sáng chế bị từ chối vì không đáp ứng yêu cầu về tính mới (do bộc lộ quá 6 tháng trước ngày nộp đơn và không rơi vào các tính huống được hưởng ân hạn) chủ yếu rơi vào đơn của người Việt Nam.

Việc cam kết kéo dài thời gian hưởng ân hạn từ 6 tháng lên 12 tháng đã được cân nhắc trên cơ sở đảm bảo tiến trình hội nhập, đồng thời vẫn đảm bảo được lợi ích cho người nộp đơn Việt Nam có đủ thời gian chuẩn bị và hoàn thiện việc nộp đơn sáng chế của mình nếu có nhu cầu.

1.4 Đề xuất, kiến nghịMở rộng điều kiện hưởng ngoại lệ ra tất cả các trường hợp mà thông tin

liên quan đến sáng chế bị bộc lộ công khai và kéo dài thời gian ân hạn cho việc nộp đơn đăng ký sáng chế kể từ khi thông tin bị bộc lộ cho các đơn nộp vào Việt Nam như yêu cầu của Hiệp định CPTPP.

2. Quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý liên quan đến tên gọi chung của hàng hóa tại Việt Nam và dạng phiên âm, phiên tự của chỉ dẫn địa lý

2.1 Thực trạng pháp luật a) Các quy định liên quan đến tên gọi chungLuật Sở hữu trí tuệ quy định nếu tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung

của hàng hóa ở Việt Nam thì sẽ không được bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý (khoản 1 Điều 80). Tuy nhiên, pháp luật về sở hữu trí tuệ không có quy định rõ ràng về việc bảo hộ thuật ngữ đã trở thành tên gọi chung trong chỉ dẫn địa lý

35

Page 36: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

là thuật ngữ đa thành phần và cũng không có quy định về việc đánh giá một thuật ngữ là tên gọi chung của hàng hóa ở Việt Nam.

b) Quy định về bảo hộ dạng dịch nghĩa, phiên âm hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý

Hiện tại pháp luật Việt Nam không có quy định về việc bảo hộ dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý cũng như không có quy định riêng cho các chỉ dẫn địa lý ở ngôn ngữ không thuộc ngữ hệ Latin.

2.2 Cam kết quốc tế - Nghĩa vụ theo Điều 18.33 của Hiệp định CPTPP: Khi đánh giá một thuật

ngữ có phải là tên gọi chung của hàng hóa tại Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền phải có quyền xem xét xem người tiêu dùng hiểu thuật ngữ đó tại Việt Nam như thế nào.

- Nghĩa vụ theo Điều 18.34 của Hiệp định CPTPP: Không bảo hộ một thành phần của một thuật ngữ đa thành phần được bảo hộ dưới dạng chỉ dẫn địa lý nếu thành phần đó là tên gọi chung của hàng hoá có liên quan.

- Nghĩa vụ theo Điều 18.32.5 của Hiệp định CPTPP: Nếu bảo hộ hoặc công nhận dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý theo thủ tục hành chính thì thủ tục đó và cơ sở về việc bảo hộ/hủy bỏ phải tương đương hoặc trùng với thủ tục và các cơ sở áp dụng cho chỉ dẫn địa lý thông thường.

2.3 Đánh giáa) Về tên gọi chungTheo quy định tại điểm h Khoản 2 Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ thì chủ sở

hữu, cá nhân, tổ chức được trao quyền sử dụng hoặc quản lý chỉ dẫn địa lý “không có quyền ngăn cấm người khác sử dụng một cách trung thực “dấu hiệu mô tả chủng loại” hàng hóa hoặc dịch vụ”. Quy định này có thể được diễn giải theo hướng không bảo hộ riêng đối với thuật ngữ đã trở thành dấu hiệu mô tả chủng loại hàng hóa.

Tuy nhiên, “chủng loại” hàng hóa có phải là “tên gọi chung” của hàng hóa thì còn có ý kiến khác nhau. Thêm vào đó, pháp luật hiện hành cũng chưa có quy định về việc đánh giá một thuật ngữ là tên gọi chung của hàng hóa ở Việt Nam. Việc đánh giá một thuật ngữ là tên gọi chung của hàng hóa ở Việt Nam tùy thuộc vào thẩm định viên đối với từng trường hợp cụ thể và chủ yếu được đánh giá theo quan điểm của thẩm định viên mà không dựa vào hiểu biết của người tiêu dùng.

b) Về dạng dịch nghĩa, phiên âm, phiên tự của chỉ dẫn địa lýTrên thực tế, các chỉ dẫn địa lý bằng ngôn ngữ không thuộc ngữ hệ Latin

không được bảo hộ (vì người tiêu dùng Việt Nam khó có thể phân biệt những chỉ dẫn địa lý ở các ngôn ngữ đó) mà bảo hộ bản dịch, phiên âm hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý sang Tiếng Việt hoặc ngữ hệ Latin. Đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý ở các ngôn ngữ không thuộc ngữ hệ Latin ở dạng dịch nghĩa, phiên âm hoặc

36

Page 37: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

phiên tự được xử lý như đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý thông thường. Điều này cũng gây ra một số bất cập như không tương ứng với quy định về

việc chỉ dẫn địa lý phải được bảo hộ tại nước xuất xứ, chủ thể quyền chỉ dẫn địa lý không có quyền ngăn cấm người khác sử dụng chính chỉ dẫn địa lý của mình bằng ngôn ngữ gốc (đối với các chỉ dẫn địa lý dùng cho sản phẩm ngoài rượu).

2.4 Đề xuất, kiến nghịBổ sung quy định làm rõ việc không bảo hộ riêng thành phần của một chỉ

dẫn địa lý là thuật ngữ đa thành phần nếu thành phần đó đã trở thành tên gọi chung của hàng hoá có liên quan; thẩm quyền trong việc đánh giá một thuật ngữ có phải là tên gọi chung hàng hóa ở Việt Nam và việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý bằng ngôn ngữ ngoài ngữ hệ Latin sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các thủ tục xác lập và thực thi quyền đối với chỉ dẫn địa lý đồng thời đảm bảo thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định CPTPP.

3. Quy định về khả năng phản đối việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý trùng/tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam trên cơ sở việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm với nhãn hiệu

3.1 Thực trạng pháp luật Luật Sở hữu trí tuệ quy định chỉ dẫn địa lý có thể bị từ chối bảo hộ theo

pháp luật hiện hành là việc sử dụng chỉ dẫn địa lý sẽ gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam (Khoản 3 Điều 80).

3.2 Cam kết quốc tế Nghĩa vụ theo Điều 18.32.1.b của Hiệp định CPTPP: Trong thủ tục bảo hộ

chỉ dẫn địa lý, phải quy định chỉ dẫn địa lý có thể bị từ chối khi có ý kiến của người thứ ba phản đối việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý này trên cơ sở việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam.

3.3 Đánh giáQuy định tại Khoản 3 Điều 80 Luật Sở hữu trí tuệ có thể hiểu theo hai

hướng: (i) chỉ dẫn địa lý chỉ bị từ chối khi có bằng chứng rõ ràng liên quan đến việc sử dụng chỉ dẫn địa lý sẽ gây nhầm lẫn cho nhãn hiệu đang được bảo hộ; (ii) việc chỉ dẫn địa lý trùng/tương tự với nhãn hiệu đã là cơ sở để đặt ra giả định là việc sử dụng chỉ dẫn địa lý sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, trừ khi có bằng chứng chứng minh ngược lại. Cách hiểu thứ hai thì tương ứng với yêu cầu của Hiệp định CPTPP: từ chối bảo hộ chỉ dẫn địa lý trùng/tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu. Trên thực tế, các thẩm định viên thực hiện theo cách hiểu thứ 2 là chủ yếu.

3.4 Đề xuất, kiến nghịSửa đổi quy định của Luật Sở hữu trí tuệ để bảo đảm khả năng từ chối việc

bảo hộ chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại

37

Page 38: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Việt Nam trên cơ sở việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu.

4. Quy định về bảo hộ và công nhận chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế

4.1 Thực trạng pháp luật Hiện nay, Luật Sở hữu trí tuệ không đề cập đến việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý

theo điều ước quốc tế. Điều 13 Nghị định 103/2006/NĐ-CP về xác lập quyền sở hữu công nghiệp

trên cơ sở các điều ước quốc tế về việc thừa nhận bảo hộ lẫn nhau quy định như sau:

“1. Trong trường hợp điều ước quốc tế liên quan đến sở hữu công nghiệp mà Việt Nam là thành viên có quy định về thừa nhận, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của tổ chức, cá nhân của các thành viên thì quyền sở hữu công nghiệp của tổ chức, cá nhân của các thành viên khác được thừa nhận, bảo hộ tại Việt Nam.

Quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ trong phạm vi, thời hạn phù hợp với quy định của điều ước quốc tế và không phải thực hiện thủ tục đăng ký theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.

2. Bộ Khoa học và Công nghệ công bố mọi thông tin cần thiết liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp được thừa nhận, bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế”.

4.2 Cam kết quốc tế Nghĩa vụ theo Điều 18.36 của Hiệp định CPTPP: Việc công nhận và bảo hộ

chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế phải tuân thủ các nguyên tắc về công bố, thủ tục phản đối, thông tin cho các Bên, cơ sở phản đối việc bảo hộ như sau:

Thủ tục: (i) công bố thông tin phục vụ việc phản đối và quy định các thủ tục cho việc phản đối việc công nhận và bảo hộ (bao gồm cả dạng dịch nghĩa và phiên tự, thành phần bị loại trừ (không bảo hộ) đối với thuật ngữ đa thành phần); (ii) dành khoảng thời gian hợp lý và cơ hội cho những người có lợi ích liên quan phản đối hoặc tham gia vào quy trình phản đối; và (iii) thông tin cho các nước trong CPTPP về cơ hội phản đối, không muộn hơn thời điểm bắt đầu thủ tục phản đối.

Căn cứ phản đối (trừ chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang và rượu mạnh): (i) chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu trong đơn đăng ký hoặc nhãn hiệu đang được bảo hộ; (ii) chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ chỉ tên gọi chung cho hàng hoá liên quan.

4.3 Đánh giáĐiều 13 Nghị định 103/2006/NĐ-CP mới chỉ thừa nhận về việc quyền đối

với chỉ dẫn địa lý được xác lập theo điều ước quốc tế, hoàn toàn chưa có quy

38

Page 39: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

định về điều kiện bảo hộ, công nhận cũng như thủ tục xử lý các yêu cầu bảo hộ, công nhận các chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế.

Tuy nhiên, trong đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu, về cơ bản, việc xử lý các yêu cầu công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý được thực hiện theo các quy định về điều kiện bảo hộ, công bố, phản đối, cơ sở phản đối như đối với các chỉ dẫn địa lý được đăng ký theo thủ tục quốc gia.

4.4 Đề xuất, kiến nghịBổ sung quy định về điều kiện bảo hộ, thủ tục xử lý yêu cầu công nhận và

bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế theo hướng dẫn chiếu đến các quy định tương ứng áp dụng cho đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý được nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ theo thủ tục thông thường.

5. Quy định về nộp đơn nhãn hiệu bằng phương tiện điện tử5.1 Thực trạng pháp luật Điều 108 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về việc “tiếp nhận đơn đăng ký sở

hữu công nghiệp”. Tuy nhiên, nội hàm của Điều này lại chỉ quy định về các thông tin và tài liệu tối thiểu phải có tại thời điểm tiếp nhận đơn mà không quy định về cách thức tiếp nhận đơn.

Điểm 21.1 Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định “Đơn có thể được nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ hoặc tại các địa điểm tiếp nhận đơn khác do Cục Sở hữu trí tuệ thiết lập. Đơn cũng có thể được gửi qua bưu điện tới các địa điểm tiếp nhận đơn nói trên”.

Như vậy, có thể hiểu rằng hiện nay có hai cách thức tiếp nhận đơn đăng ký SHCN (trong đó có nhãn hiệu) là: nộp đơn trực tiếp và nộp qua đường bưu điện. Việc tiếp nhận đơn trực tuyến chưa được quy định trong bất kỳ văn bản pháp luật nào về SHTT.

5.2 Cam kết quốc tế Theo quy định tại Điều 18.24 của Hiệp định CPTPP thì: các bên phải quy

định hệ thống nộp đơn nhãn hiệu bằng phương tiện điện tử.5.3 Đánh giáTrong khuôn khổ thực hiện Nghị quyết 36A của Chính phủ về Chính phủ

điện tử, trong đó có chỉ tiêu “ứng dụng công nghệ trong quản lý và cung cấp dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo rút ngắn quy trình xử lý, giảm số lượng và đơn giản hóa, chuẩn hóa nội dung hồ sơ, giảm thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hành chính”, Cục Sở hữu trí tuệ đã xây dựng hệ thống nộp đơn điện tử trực tuyến cho 38 thủ tục hành chính liên quan đến các đối tượng SHCN, trong đó có nhãn hiệu. Hệ thống này đã hoạt động từ tháng 01 năm 2017.

Để thực hiện được việc nộp đơn điện tử trực tuyến, công dân truy cập vào địa chỉ http://dvctt.noip.gov.vn:888/HomePage.do để điền và gửi mẫu trực tuyến các mẫu văn bản, hồ sơ. Dịch vụ công trực tuyến có giao diện cho phép công dân

39

Page 40: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

khai báo đầy đủ các thông tin như Tờ khai giấy, được lưu trữ trên hệ thống dưới dạng doc và pdf. Dịch vụ công trực tuyến ứng dụng chữ ký số điện tử vào các giao dịch số nhằm bảo mật và chứng thực các tài liệu, văn bản của công dân.

Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Khi công dân gửi đơn trực tuyến thành công, hệ thống sẽ sinh ra một mã tiếp nhận đơn gửi vào tài khoản và email của công dân. Công dân mang mã tiếp nhận đơn trực tuyến đến Cục Sở hữu trí tuệ để tiến hành nộp phí. Sau khi nộp phí thành công, hệ thống tiếp nhận đơn sẽ sinh ra một số đơn đăng ký SHCN duy nhất.

Từ khi triển khai hệ thống nộp đơn trực tuyến, trong năm 2017 (từ ngày 24/2/2017 – 31/12/2017), Cục SHTT đã tiếp nhận tổng số 5.494 các loại đơn đăng ký sở hữu công nghiệp, trong đó đơn đăng ký nhãn hiệu là 2.195 đơn, Trong năm 2018 (tính từ ngày 01/01/2018 đến ngày 31/12/2018), Cục Sở hữu trí tuệ đã tiếp nhận 11.084 các loại đơn đăng ký sở hữu công nghiệp, trong đó đơn đăng ký nhãn hiệu là 4.572 đơn.

Thực tế, số lượng đơn đăng ký các đối tượng SHCN, trong đó có nhãn hiệu chưa nhiều, cụ thể, tổng số đơn đăng ký nhãn hiệu nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ trong năm 2017 là 43.970 đơn nhưng đơn nhãn hiệu nộp trực tuyến chỉ có 2.195 đơn, năm 2018 là 46.369 đơn nhưng đơn nhãn hiệu nộp trực tuyến chỉ 4.572 đơn.

Với việc triển khai việc nộp đơn bằng phương tiện điện tử, cơ quan tiếp nhận đơn đăng ký sở hữu công nghiệp là Cục Sở hữu trí tuệ giảm bớt được các công việc liên quan đến việc tiếp nhận đơn thông thường (bằng hồ sơ giấy), giảm được các công việc liên quan đến nhập (thủ công) dữ liệu đơn vào hệ thống cơ sở dữ liệu, kiểm tra dữ liệu đã nhập, v.v, từ đó giảm được số lượng người lao động trong quy trình tiếp nhận đơn và nhập dữ liệu, kéo theo đó là giảm được chi phí về tiền lương phải trả cho người lao động, chi phí về điện, nước, in ấn, v.v..

Tuy nhiên, việc triển khai cách thức tiếp nhận đơn điện tử đòi hỏi phải đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đồng bộ, hiện đại để có thể tiếp nhận được số lượng đơn nhãn hiệu có xu hướng ngày càng tăng, đồng thời đảm bảo được sự thông suốt, liên tục, không gián đoạn của hệ thống tiếp nhận đơn này.

5.4 Đề xuất, kiến nghịDo Hiệp định CPTPP yêu cầu các nước phải mở rộng cách thức tiếp nhận

đơn, không chỉ bao gồm nhận hồ sơ bằng giấy mà phải có cả hình thức nộp đơn nhãn hiệu qua hình thức điện tử, vì vậy cần phải bổ sung quy định tương ứng để bảo đảm phù hợp với nghĩa vụ của Hiệp định CPTPP.

6. Quy định về yêu cầu đăng ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu và hành vi sử dụng nhãn hiệu của bên nhận chuyển quyền

6.1 Thực trạng pháp luật Khoản 2 Điều 148 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về hiệu lực của hợp đồng

40

Page 41: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

chuyển quyền sử dụng: “….Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thoả thuận giữa các bên, nhưng chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba khi đã được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp”.

Khoản 5 Điều 124 Luật Sở hữu trí tuệ quy định sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện các hành vi sau đây: (i) Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; (ii) Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ; và (iii) Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.

Hiện nay, Cục Sở hữu trí tuệ vẫn đang tiến hành thủ tục ghi nhận hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Theo đó, để được ghi nhận hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu, tổ chức, cá nhân phải nộp một bộ hồ sơ bao gồm: 01 bản Tờ khai; 02 bản hợp đồng (bản gốc hoặc bản sao có chứng thực theo quy định) bản dịch hợp đồng sang tiếng Việt trong trường hợp hợp đồng làm bằng tiếng nước ngoài và bản dịch sang tiếng Việt phải có cam kết của chủ đơn hoặc đại diện chủ đơn đảm bảo bản dịch hợp đồng sang tiếng Việt là dịch chính xác từ bản gốc; Giấy ủy quyền trường hợp người nộp đơn nộp thông qua đại diện SHCN; Phí/lệ phí. Sau hai tháng thẩm định, nếu hồ sơ hợp lệ, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Nếu không hợp lệ, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ ra thông báo các thiếu sót để người nộp đơn sửa chữa, khắc phục.

Số lượng đơn liên quan đến chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp nộp vào Cục qua các năm ngày càng tăng (kể cả với đối tượng là nhãn hiệu), năm sau tăng cao hơn năm trước, thể hiện qua số liệu thống kê trong 3 năm (2016-2018), cụ thể là:

Năm Tổng số đơn ghi nhận hợp đồng chuyển quyền sử dụng

Số đơn yêu cầu ghi nhận hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu

2016 168 143 (466)

2017 240 235 (606)

2018 221 216 (400)

Số đơn (số VBBH nhãn hiệu yêu cầu ghi nhận trong đơn)Với các số liệu nói trên có thể thấy rằng, trong số những đơn yêu cầu ghi

nhận hợp đồng chuyển quyền sử dụng các đối tượng SHCN được nộp vào Cục theo từng năm thì số đơn yêu cầu ghi nhận hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu chiếm phần lớn, các đối tượng khác (sáng chế/giải pháphữu ích, kiểu dáng công nghiệp) chiếm một phần rất nhỏ. Với chi phí yêu cầu ghi nhận là 520.000 đồng đối với mỗi nhãn hiệu theo hợp đồng chuyển quyền sử dụng, đây cũng là một nguồn thu không nhỏ của Cục Sở hữu trí tuệ mỗi năm.

6.2 Cam kết quốc tế

41

Page 42: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Theo quy định tại Điều 18.27 của Hiệp định CPTPP thì các bên phải quy định:

- Việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu có hiệu lực theo thỏa thuận của các bên mà không cần phải đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp.

- Việc sử dụng nhãn hiệu của bên nhận chuyển quyền sử dụng theo hợp đồng chuyển quyền sử dụng được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu đó trong việc xác lập quyền, duy trì quyền và thực thi quyền đối với nhãn hiệu.

6.3 Đánh giáKhoản 5 Điều 124 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về hành vi sử dụng nhãn

hiệu nhưng không đề cập đến hành vi sử dụng nhãn hiệu của bên nhận chuyển quyền theo hợp đồng chuyển quyền sử dụng là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu.

Do đó, với quy định về việc đăng ký hợp đồng chuyển quyền để có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba tại Điều 148 Luật Sở hữu trí tuệ, việc sử dụng nhãn hiệu của bên được chuyển quyền sẽ không được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu liên quan đến các thủ tục xác lập, duy trì và bảo vệ quyền nếu hợp đồng liên quan không được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ.

6.4 Đề xuất, kiến nghịSửa đổi quy định của Luật Sở hữu trí tuệ để khẳng định hiệu lực của việc

chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu là theo thỏa thuận giữa các bên và việc sử dụng nhãn hiệu của bên được chuyển quyền được coi là sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu liên quan đến các thủ tục xác lập, duy trì và bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu.

7. Quy định về cách tính giá trị trong việc quyết định bồi thường thiệt hại

7.1 Thực trạng pháp luật Trong thủ tục thực thi dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ quy định:“Điều 204. Nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí

tuệ1. Thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: a) Thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về

thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại;

b) Thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng.

42

Page 43: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

2. Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra.

Điều 205. Căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

1. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường theo một trong các căn cứ sau đây:

a) Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất;

b) Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện;

c) Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản này thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng.

2. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại.

3. Ngoài khoản bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu Toà án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư”.

7.2 Cam kết quốc tế Nghĩa vụ theo Điều 18.74.4 của Hiệp định CPTPP: Toà án khi xác định

khoản bồi thường thiệt hại để đền bù cho tổn thất mà chủ thể quyền phải gánh chịu do hành vi xâm phạm quyền SHTT do người xâm phạm đã thực hiện khi biết hoặc có cơ sở hợp lý để biết điều đó, phải xem xét bất kỳ cách tính giá trị hợp pháp nào do chủ thể quyền đưa ra, trong đó có thể bao gồm lợi nhuận bị mất, giá trị của hàng hoá hoặc dịch vụ bị xâm phạm tính theo giá thị trường, hoặc theo giá bán lẻ được đề xuất.

7.3 Đánh giáPháp luật SHTT quy định trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được

hành vi xâm phạm quyền SHTT đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường. Thiệt hại vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận... Mức độ thiệt hại

43

Page 44: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

được xác định trên cơ sở tổn thất thực tế mà chủ thể quyền phải chịu, và mức độ này được căn cứ trên những chứng cứ về thiệt hại do các bên cung cấp.

Tuy nhiên, pháp luật SHTT chưa quy định cụ thể thẩm quyền xem xét của Toà án đối với các cách tính bồi thường thiệt hại do chủ thể quyền đưa ra.

7.4 Đề xuất, kiến nghịSửa đổi Luật SHTT theo hướng bổ sung thẩm quyền xem xét các cách tính

giá trị hợp pháp do chủ thể quyền đưa ra của Toà án khi quyết định mức bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHTT mà người xâm phạm đã thực hiện khi biết hoặc có cơ sở hợp lý để biết điều đó.

8. Quy định Toà án có quyền yêu cầu bên thua kiện phải thanh toán cho bên thắng kiện

8.1 Thực trạng pháp luật Luật Sở hữu trí tuệ chỉ quy định việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm

quyền sở hữu trí tuệ tại các Khoản 1, 2, 3 Điều 205, theo đó:“1. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm

quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường theo một trong các căn cứ sau đây:

a) Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất;

b) Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện;

c) Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản này thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng.

2. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại.

3. Ngoài khoản bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu Toà án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư”.

8.2 Cam kết quốc tế Nghĩ vụ theo Điều 18.74.10: Khi kết thúc thủ tục tố tụng dân sự, ít nhất

trong các vụ kiện xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền liên quan, xâm phạm

44

Page 45: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, Toà án có thẩm quyền yêu cầu bên thua kiện phải thanh toán cho bên thắng kiện chi phí hoặc phí toà án và phí luật sư thoả đáng, hoặc bất kỳ chi phí nào khác được quy định theo luật pháp của bên đó.

8.3 Đánh giáLuật SHTT quy định trong thủ tục xử lý xâm phạm quyền SHTT bằng biện

pháp dân sự, nếu nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền SHTT đã gây thiệt hại cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường, bao gồm cả chi phí hợp lý để thuê luật sư.

Tuy nhiên, Luật SHTT chưa điều chỉnh trường hợp Toà án kết luận không có hành vi xâm phạm quyền SHTT. Khi đó bên bị đơn sau khi đã chứng minh được mình không xâm phạm thì cũng không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại do bên nguyên đơn gây ra, bao gồm các tổn thất do phải theo kiện, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, mất uy tín, bạn hàng, chi phí thuê luật sư…

Vì vậy, quy định tại Hiệp định CPTPP cân bằng hơn so với quy định trước đây, trong đó nếu Tòa xác định không có hành vi xâm phạm xảy ra thì bị đơn có thể được thanh toán chi phí thuê luật sư, bù đắp một phần tổn thất phải chịu khi rơi vào tình trạng bị kiện tụng trong khi trên thực tế bên đó không thực hiện hành vi xâm phạm quyền của nguyên đơn.

8.4 Đề xuất, kiến nghịSửa đổi quy định về bồi thường thiệt hại trong các vụ việc tranh chấp về

quyền SHTT theo hướng trong các vụ việc tranh chấp về quyền SHTT, Toà án có quyền yêu cầu bên thua kiện phải thanh toán cho bên thắng kiện chi phí hợp lý để thuê luật sư.

9. Quy định bồi thường thiệt hại do lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

9.1 Thực trạng pháp luật Bộ luật Dân sự 2015 quy định cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng

quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật, theo đó, nếu không tuân thủ, Tòa án căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm mà có thể buộc bồi thường nếu gây thiệt hại (Điều 10).

Luật Sở hữu trí tuệ chưa có quy định về việc bồi thường thiệt hại do việc lạm dụng các thủ tục bảo vệ quyền SHTT.

9.2 Cam kết quốc tế Nghĩa vụ theo Điều 18.74.15 Hiệp định CPTPP: Toà án có thẩm quyền yêu

cầu một bên, mà theo yêu cầu của bên này các biện pháp được thực hiện và đã lạm dụng thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả và quyền liên quan, phải bồi thường thỏa đáng cho bên bị áp dụng hoặc bị cản trở một

45

Page 46: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

cách sai trái cho những thiệt hại đã phải chịu do việc lạm dụng đó. Toà án cũng phải có thẩm quyền quyết định buộc nguyên đơn trả cho bị đơn các chi phí, bao gồm cả phí luật sư hợp lý.

9.3 Đánh giáMặc dù pháp luật dân sự đã đề ra nguyên tắc bồi thường thiệt hại nếu

quyền dân sự (trong đó bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ) bị lạm dụng gây thiệt hại cho người khác, nhưng nguyên tắc này chưa được cụ thể hóa trong pháp luật sở hữu trí tuệ.

Bên cạnh đó, hiện có nhiều tranh luận về sự khác biệt giữa việc lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ và lạm dụng thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ, dẫn đến việc có sử dụng các quy định về lạm dụng quyền để xử lý các vụ việc lạm dụng thủ tục thực thi quyền trong thực tiễn xét xử hay không.

Qua nghiên cứu, một số trường hợp sau đây có thể bị coi là lạm dụng thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ: (i) Khởi kiện xâm phạm quyền SHTT nhằm đạt được lợi thế trái pháp luật hoặc không lành mạnh (kiện xâm phạm quyền SHTT khi đã biết không có xâm phạm quyền SHTT xảy ra trong thực tế); (ii) Sử dụng các thủ tục thực thi quyền SHTT chủ yếu nhằm mục đích thu thập thông tin; Buộc một bên phải theo đuổi vụ kiện khi bên đó không đủ năng lực tài chính để theo đuổi vụ kiện; (iii) Tiếp tục khởi kiện đối với các vấn đề đã được toà án đưa ra phán quyết cuối cùng và tìm cách hạn chế các chi phí bồi thường trong các vụ kiện về lạm dụng thủ tục mà có sự chênh lệch đáng kể giữa chi phí theo phán quyết của toà án và chi phí thực tế của vụ kiện.

Do đó, có thể bổ sung vào Luật Sở hữu trí tuệ quy định về một số trường hợp điển hình có thể bị coi là lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền SHTT như trên.

9.4 Đề xuất, kiến nghịQuy định thẩm quyền của Tòa trong việc yêu cầu bên lạm dụng các thủ tục

bảo vệ quyền SHTT phải bồi thường thỏa đáng (bao gồm cả các chi phí mà bị đơn phải chịu, trong đó có thể bao gồm phí luật sư hợp lý) cho bị đơn do sự lạm dụng thủ tục thực thi quyền.

10. Quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin cho chủ thể quyền của cơ quan hải quan

10.1 Thực trạng pháp luật Luật Sở hữu trí tuệ quy định trong trường hợp chủ thể quyền sở hữu trí tuệ

có đề nghị kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thì khi phát hiện lô hàng có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, cơ quan hải quan phải thông báo ngay cho người đó (Điều 219 Luật Sở hữu trí tuệ).

Luật Hải quan quy định khi phát hiện lô hàng có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, cơ quan hải quan tạm dừng làm thủ tục hải quan và thông báo ngay bằng văn bản cho người đề nghị kiểm tra, giám sát biết (Điểm a Khoản 1 Điều 76). Thông báo được làm theo mẫu số 06-SHTT với các thông tin bao gồm

46

Page 47: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

tên hàng, số lượng, trị giá, xuất xứ, người nhập khẩu, người xuất khẩu, số invoice. Trong vòng 5 ngày, nếu người đề nghị kiểm tra, giám sát có yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan và nộp các tài liệu và chứng từ bảo lãnh, cơ quan hải quan sẽ ra quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan (Điều 14 Thông tư số 13/2015/TT-BTC quy định về kiểm tra, giám sát, tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; kiểm soát hàng giả và hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ).

Thời hạn tạm dừng làm thủ tục hải quan là 10 ngày kể từ ngày ra quyết định. Thời hạn này có thể được gia hạn thêm 10 ngày theo yêu cầu của chủ thể quyền, hoặc cho đến khi nhận được kết quả giám định hoặc ý kiến chuyên môn trong trường hợp phát sinh việc trưng cầu giám định hoặc tham khảo ý kiến chuyên môn (Khoản 2 Điều 10 Thông tư số 13/2015/TT-BTC).

Kết thúc thời hạn tạm dừng, trên cơ sở trưng cầu giám định hoặc ý kiến chuyên môn (nếu có) và chứng cứ của chủ thể quyền, nếu khẳng định hàng hóa tạm dừng là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, cơ quan hải quan ra quyết định thụ lý vụ việc và thực hiện xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa xâm phạm quyền sở trí tuệ theo quy định của pháp luật (Điểm a Khoản 4 Điều 10 Thông tư số 13/2015/TT-BTC).

10.2 Cam kết quốc tế Nghĩa vụ theo Hiệp định CPTPP (Điều 18.76.4):Cơ quan hải quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho chủ thể quyền SHTT

hoặc: - không chậm trễ quá mức khi đã thu giữ hoặc đình chỉ thông quan hàng

hóa bị nghi ngờ giả mạo nhãn hiệu hoặc sao chép lậu quyền tác giả; hoặc - trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thu giữ hoặc từ ngày xác định hàng hoá

là giả mạo nhãn hiệu hoặc sao chép lậu quyền tác giả, ít nhất đối với hàng nhập khẩu.

10.3 Đánh giáPháp luật về hải quan đã quy định sau khi có yêu cầu kiểm tra giám sát, nếu

phát hiện hàng hóa nghi ngờ xâm phạm quyền, cơ quan hải quan tạm thời tạm dừng thông quan và thông báo ngay cho chủ thể quyền là người đã có yêu cầu kiểm tra giám sát. Nếu chủ thể quyền yêu cầu tạm dừng thì cơ quan hải quan mới chính thức ra quyết định tạm dừng. Nếu chủ thể quyền yêu cầu không tạm dừng, hoặc không thực hiện thủ tục tạm dừng thì hàng hóa tiếp tục được thông quan.

Pháp luật về hải quan cũng quy định trong trường hợp không có thông tin yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nhưng trong quá trình kiểm tra hồ sơ hải quan, kiểm tra thực tế hàng hóa, cơ quan hải quan phát hiện hàng hóa nhập khẩu có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thì có thể tạm giữ hàng hóa nếu xác định dấu hiệu vi phạm, nhưng lại không quy định rõ trong trường hợp này có thông báo thông tin cho chủ thể quyền hay không (Khoản 3 Điều 14 Thông tư số

47

Page 48: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

13/2015/TT-BTC).Như vậy, mặc dù pháp luật hải quan đã đáp ứng nghĩa vụ cung cấp thông

tin cho chủ thể quyền trong trường hợp có đơn yêu cầu tạm dừng, nhưng lại chưa đáp ứng trong trường hợp không có đơn yêu cầu bảo vệ quyền.

10.4 Đề xuất, kiến nghịBổ sung quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin cho chủ thể quyền của cơ

quan hải quan trong trường hợp ra quyết định tạm dừng theo yêu cầu của chủ thể quyền khi không có yêu cầu giám sát.

11. Quy định về nguyên tắc hợp lý trong việc xác định mức phí tiến hành các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ

11.1 Thực trạng pháp luật Phí hải quan kiểm tra giám sát, hoặc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là 200.000 đồng/1 đơn (Theo biểu mức thu phí hải quan, lệ phí hàng hoá, phương tiện quá cảnh ban hành kèm theo Thông tư số 274/2016/TT-BTC).

Về phí tiêu huỷ, pháp luật có quy định tổ chức cá nhân vi phạm hành chính có nghĩa vụ phải tiêu huỷ tang vật thuộc đối tượng bị tiêu hủy. Trường hợp không tự nguyện thực hiện việc tiêu huỷ thì bị cưỡng chế thực hiện (Điều 33 của Luật Xử lý vi phạm hành chính). Tuy nhiên phí tiêu hủy chưa được quy định cụ thể trong pháp luật về sở hữu trí tuệ và hải quan.

11.2 Cam kết quốc tế Nghĩa vụ theo Hiệp định CPTPP (Điều 18.76.8):Nếu một bên thiết lập hoặc ấn định các mức phí liên quan đến các thủ tục

kiểm soát tại biên giới như phí nộp đơn, phí lưu kho hoặc phí tiêu hủy thì các khoản phí này phải được quy định ở mức không cản trở một cách bất hợp lý việc áp dụng các thủ tục.

11.3 Đánh giáĐối với mức phí kiểm tra giám sát, hoặc tạm dừng làm thủ tục hải quan,

mức 200.000 đồng/1 đơn cho yêu cầu giám sát trong khoảng thời gian 02 năm hiện nay được đánh giá là quá thấp.

Đối với phí tiêu hủy, hiện chưa được quy định chi tiết nên chưa có cơ sở xác định mức độ hợp lý của chi phí này.

Vì vậy, việc bổ sung quy định mang tính nguyên tắc khi xây dựng các loại phí hoặc mức phí không được cản trở một cách bất hợp lý việc áp dụng các thủ tục liên quan theo nghĩa vụ của Hiệp định CPTPP giúp việc ban hành các quy định về phí, lệ phí được khoa học, chính xác và khả thi, đồng thời tạo thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức cũng như doanh nghiệp trong việc tiến hành các thủ tục liên quan đến việc bảo vệ quyền SHTT tại biên giới.

11.4 Đề xuất, kiến nghị

48

Page 49: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Luật SHTT có quy định tổ chức, cá nhân phải nộp phí, lệ phí khi tiến hành các thủ tục liên quan đến quyền SHTT theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, chưa đưa ra được nguyên tắc của việc nộp phí, lệ phí. Do đó, cần bổ sung quy định mang tính nguyên tắc này.

KT. BỘ TRƯỞNGTHỨ TRƯỞNG

Trần Quốc Khánh

49

Page 50: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

BỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: /BC-BCTHà Nội, ngày tháng năm 2019

BÁO CÁOĐánh giá tác động của chính sách dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ

A. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ BẤT CẬP TỔNG THỂ

1. Bối cảnh quan hệ xã hội đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật

Được sự đồng ý của Bộ Chính trị tại văn bản số 6050-CV/VPTW ngày 02 tháng 3 năm 2018 của Văn phòng Trung ương Đảng và của Chính phủ tại Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2018, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ký Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các văn bản liên quan cùng Bộ trưởng phụ trách kinh tế của các nước Ốt-xtrây-lia, Bru-nây Đa-rút-xa-lam, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru và Xinh-ga-po vào ngày 08 tháng 3 năm 2018 tại San-ti-a-gô, Chi-lê. Sau khi ký Hiệp định, các nước sẽ tiến hành thủ tục pháp lý trong nước, bao gồm việc phê chuẩn Hiệp định theo quy định của pháp luật nước mình để Hiệp định có hiệu lực.

Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các văn kiện có liên quan chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2019. Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP giúp ta thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với cải cách và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, khẳng định vai trò và vị thế địa – chính trị quan trọng của chúng ta trong khu vực Đông Nam Á cũng như Châu Á – Thái Bình Dương, thực sự nâng cao vị thế của nước ta trong khối ASEAN, trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Đặc biệt trong bối cảnh tình hình chính trị, an ninh thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường, tham gia Hiệp định CPTPP vừa giúp ta có điều kiện nâng cao nội lực để ứng phó, vừa giúp củng cố vị thế để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa đi đôi với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Hiệp định CPTPP khi đi vào triển khai thực thi sẽ góp phần tăng cường sự đan xen lợi ích, làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa ta với các nước thành viên CPTPP, đặc biệt là các nước thành viên có mối quan hệ đối tác chiến lược với ta.

50

Page 51: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Bên cạnh những thuận lợi mà CPTPP mang lại, cũng đặt ra không ít những thách thức cho chúng ta về kinh tế - xã hội, thu ngân sách, hoàn thiện khung khổ pháp lý. Việc mở cửa các hoạt động kinh tế, đi kèm với các quy định về lao động, minh bạch hóa, chống tham nhũng…đòi hỏi chúng ta cần chủ động, nỗ lực đổi mới, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật, thiết lập các cơ chế quản lý để vừa phù hợp với điều ước quốc tế nhưng cũng đảm bảo vững chắc sự ổn định về chính trị - xã hội của Việt Nam.

Để đảm bảo thực thi Hiệp định CPTPP, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành rà soát, hoàn thiện danh mục các luật, pháp lệnh, nghị định cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới để phù hợp với các cam kết trong CPTPP. Trong đó giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành rà soát, hoàn thiện Danh mục các luật, pháp lệnh, nghị định cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới để phù hợp với cam kết trong CPTPP, kiến nghị lộ trình cụ thể, ưu tiên các văn bản phải ban hành ngay để đảm bảo việc thực thi Hiệp định.

Tại Báo cáo số 522/BC-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ về thuyết minh Báo cáo về Hiệp định CPTPP gửi Quốc hội, theo đó đối với các văn bản luật được kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhưng chưa đưa được vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và năm 2019 (gồm Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Kinh doanh bảo hiểm) và có các cam kết phải thực hiện ngay khi Hiệp định có hiệu lực (Luật An toàn thực phẩm), đề nghị bổ sung sớm vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và trong trường hợp khả thi thì đưa vào “một luật sửa nhiều luật” và Luật này sẽ được trình lên Quốc hội theo trình tự, thủ tục rút gọn để Chính phủ có thể trình dự luật này ra Quốc hội ngay tại kỳ họp thứ 7 vào tháng 5 năm 2019.

Sau khi xem xét Báo cáo thuyết minh về Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan số 522/BC-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ; Báo cáo thẩm tra số 2905/BC-UBĐN14 ngày 30 tháng 10 năm 2018 của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội và trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018 Phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan, theo đó tại Phụ lục 3 của Nghị quyết ban hành danh mục các luật cần phải sửa đổi, bổ sung theo lộ trình cam kết trong Hiệp định CPTPP (trong đó có Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật An toàn thực phẩm).

Ngày 24 tháng 12 năm 2018, Văn phòng chính phủ có Công văn số 12477/VPCP-QHQ thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về hoàn thiện kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTTP “giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài chính, Khoa học và

51

Page 52: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Công nghệ, Tư pháp và các Bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng Luật sửa một số Luật để thực hiện Hiệp định CPTPP để trình Quốc hội cho phép thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn và trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp tháng 5 năm 2019”.

1.1. Bất cập trong thi hành pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm

Thị trường bảo hiểm Việt Nam đang sử dụng các hoạt động phụ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, gồm hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm, hoạt động giám định bảo hiểm, gọi chung là hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

Hoạt động phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh bảo hiểm và hỗ trợ sự phát triển của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Đối với lĩnh vực bảo hiểm, hoạt động phụ trợ bảo hiểm đóng vai trò quan trọng giúp thị trường bảo hiểm phát triển lành mạnh, giúp các bên tham gia giảm thiểu rủi ro; đề phòng, hạn chế tổn thất; hạn chế gian lận bảo hiểm; tối ưu hóa nguồn lực; chi trả tiền bảo hiểm, bồi thường nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Hoạt động phụ trợ bảo hiểm đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của nền kinh tế, giúp gia tăng năng lực cạnh tranh; tạo thêm nhiều cơ hội kinh doanh, khởi nghiệp; tăng cường áp dụng công nghệ trong hoạt động, kết nối nội ngành và liên ngành; bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người tiêu dùng.

Tại nhiều thị trường bảo hiểm phát triển trên thế giới, hoạt động phụ trợ bảo hiểm có tác động mạnh mẽ tới chất lượng, hiệu quả hoạt động và sự phát triển của thị trường bảo hiểm. Quy định pháp lý về hoạt động phụ trợ bảo hiểm cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện để hỗ trợ tốt thị trường bảo hiểm, tạo hành lang pháp lý để cơ quan quản lý bảo hiểm có đủ thẩm quyền, công cụ quản lý, giám sát hiệu quả hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

Trong thời gian qua, hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam đã xuất hiện những vướng mắc, hạn chế và tồn tại cần được khắc phục. Khung khổ pháp lý về hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam còn thiếu, chưa đồng bộ. Hoạt động phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tuy nhiên hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm hiện hành chưa quy định cụ thể về hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

Thiếu cơ sở pháp lý cho sự quản lý nhà nước đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm của cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, thiếu quy định cụ thể về hoạt động phụ trợ bảo hiểm dẫn tới chất lượng hoạt động phụ trợ bảo hiểm không đảm bảo, ảnh hưởng tới quyền lợi khách hàng và các bên liên quan; không có hướng dẫn chi tiết cho các chủ thể tham gia thị trường;

52

Page 53: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

khó khăn trong công tác thống kê thông tin do thiếu thông tin về hoạt động phụ trợ bảo hiểm và độ tin cậy của thông tin chưa cao…

Cơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với hệ thống pháp luật chung điều chỉnh hoạt động phụ trợ bảo hiểm là điều kiện đảm bảo sự phát triển hiệu quả của hoạt động phụ trợ bảo hiểm Việt Nam nói riêng và thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung.

Bổ sung quy định về hoạt động phụ trợ bảo hiểm vào hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, gồm Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành, đang là yêu cầu cần thiết của thị trường bảo hiểm, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho hoạt động kinh doanh và quản lý, giám sát của cơ quan quản lý; đảm bảo sự thống nhất, phù hợp với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện nay và tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động này phát triển tại Việt Nam; đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia và nâng cao năng lực cạnh tranh của thị trường; góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, duy trì tăng trưởng kinh tế.

Tại Nghị quyết số 72/2018/QH14, Quốc hội đã phê chuẩn Hiệp định Hợp tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Cam kết tại CPTPP về mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm phù hợp với yêu cầu hiện nay của thị trường bảo hiểm Việt Nam về hoạt động này. Việc bổ sung quy định về hoạt động phụ trợ bảo hiểm, vừa đáp ứng yêu cầu của thị trường bảo hiểm trong nước, vừa đảm bảo thực hiện chủ động cam kết về mở cửa dịch vụ phụ trợ bảo hiểm tại các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã tham gia.

Môi trường pháp lý rõ ràng, chi tiết, minh bạch sẽ giúp thu hút các nhà cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm hàng đầu thế giới tại các thị trường đã phát triển, tạo động lực hỗ trợ nâng cao chất lượng của các nhà cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trong nước, tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam. Thêm vào đó, quy định pháp lý được xây dựng, bổ sung khi Việt Nam chủ động mở cửa, sẽ bao gồm các yêu cầu cụ thể về cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới, phù hợp với lộ trình hội nhập của hoạt động phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam, tạo điều kiện để các nhà cung cấp dịch vụ nội địa có đủ thời gian nâng cao năng lực cạnh tranh với các nhà cung cấp dịch vụ quốc tế.

1.2. Bất cập trong thi hành pháp luật về Sở hữu trí tuệCuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ cùng với

xu thế phát triển kinh tế tri thức và toàn cầu hóa, sự tăng trưởng kinh tế của các

53

Page 54: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

nước trên thế giới được thúc đẩy bởi tiến bộ công nghệ dựa trên tri thức. Trong đó, sở hữu trí tuệ được xem là động lực thúc đẩy sự tiến bộ của công nghệ. Vì vậy, vấn đề sở hữu trí tuệ hiện nay không còn là mối quan tâm của riêng các quốc gia phát triển, mà các quốc gia đang phát triển như Việt Nam cũng đang nỗ lực để xây dựng một hệ thống sở hữu trí tuệ phù hợp với các mục tiêu phát triển của mình.

Tại Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018, Quốc hội đã phê chuẩn Hiệp định Hợp tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Hiệp định có những yêu cầu về sở hữu trí tuệ mà pháp luật quốc gia chưa có hoặc đã có nhưng quy định khác. Những yêu cầu này chủ yếu là để bảo đảm hệ thống sở hữu trí tuệ minh bạch, hiện đại và cân bằng. Việc bổ sung quy định nhằm thực hiện các nghĩa vụ đó vừa tạo thuận lợi cho quá trình xác lập và thực thi quyền cho các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp trong và ngoài nước vừa đáp ứng yêu cầu thể chế hóa cam kết tại CPTPP. Môi trường pháp lý rõ ràng, chi tiết, minh bạch; hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả sẽ giúp thu hút chuyển giao công nghệ của nước ngoài để nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam trong ngắn hạn và tạo điều kiện từng bước nâng cao năng lực công nghệ nội sinh của ta trong dài hạn, đồng thời cũng là động lực để các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư nhiều hơn nữa vào việc tạo ra quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có hoạt động sáng tạo nhằm đổi mới công nghệ. Qua đó, góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, hướng tới việc phát triển nền kinh tế tri thức.

Hiệp định CPTPP có những yêu cầu về sở hữu trí tuệ Việt Nam phải thi hành từ ngày 14/01/2019 mà pháp luật quốc gia chưa có hoặc đã có nhưng quy định khác. Việc xây dựng chính sách được thực hiện để bảo đảm việc thi hành các nghĩa vụ này đồng thời bảo đảm sự cân bằng của hệ thống sở hữu trí tuệ quốc gia nhằm phục vụ mục tiêu phát triển nội tại.

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm ngày càng được tăng cường cả về chiều rộng và chiều sâu. Việc tiếp thu và thực hiện các điều ước, Hiệp định, cam kết quốc tế phải thực hiện nghiêm túc, theo đúng lộ trình đã cam kết.

54

Page 55: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Điều 3 Nghị quyết số 72/2018/QH14 giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan theo thẩm quyền tiến hành rà soát các dự án luật tại Phụ lục 3 của Nghị quyết và các văn bản pháp luật khác để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới kịp thời, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và đúng lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định CPTPP.

Theo Mục 2 Phụ lục 3 Nghị quyết số 72/2018/QH14, Luật Sở hữu trí tuệ phải được sửa đổi để thực hiện một số nghĩa vụ về sở hữu trí tuệ trong Hiệp định CPTPP. Trong số này, một số nghĩa vụ phải thực hiện ngay từ khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực và một số nghĩa vụ có thời gian chuyển tiếp từ 3 đến 5 năm.

Theo đó, có 2 nội dung liên quan tới nhãn hiệu, 1 nghĩa vụ liên quan đến tên miền, 3 nghĩa vụ liên quan đến chỉ dẫn địa lý, 1 nghĩa vụ liên quan đến sáng chế và 5 nghĩa vụ liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Đối với nghĩa vụ liên quan đến tên miền, nghĩa vụ này lại được chia thành hai nghĩa vụ nhỏ hơn, bao gồm: (i) bảo đảm thủ tục giải quyết tranh chấp tên miền thích hợp tương tự như các nguyên tắc đã được quy định trong Chính sách thống nhất giải quyết tranh chấp tên miền, được Tổ chức cấp phát số hiệu và tên trên Internet (ICANN) thông qua; hoặc (ii) có chế tài thích hợp để xử lý trường hợp một người đăng ký hoặc nắm giữ tên miền trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nhằm thu lợi bất chính.

Nghĩa vụ này đã được đáp ứng theo các quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, việc thi hành các chế tài hành chính theo Nghị định này còn nhiều bất cập do vướng quy định của Thông tư liên tịch số 14/2016/TTLT-BTTTT-BKHCN ngày 08 tháng 6 năm 2016 hướng dẫn trình tự, thủ tục thay đổi, thu hồi tên miền vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Việc xử lý xâm phạm tên miền nên được xử lý theo thủ tục về tranh chấp quyền sử dụng tên miền quy định tại Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng. Bộ Thông tin Truyền thông sẽ trình việc sửa đổi Nghị định này để đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP. Vì vậy, không cần đặt ra chính sách sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ để thi hành nghĩa vụ này.

55

Page 56: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Đối với 4 nghĩa vụ có thời gian chuyển tiếp 3-5 năm (bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, bảo đảm thông tin và thời gian cho chủ bằng sáng chế thực thi quyền trước khi sản phẩm được đưa ra thị trường, bảo hộ độc quyền đối với dữ liệu thử nghiệm nông hóa phẩm, thẩm quyền mặc nhiên tiến hành các thủ tục biên giới của cơ quan hải quan), các nghĩa vụ này sẽ bắt đầu phải thi hành từ năm 2022, dự kiến sẽ được đưa vào Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ được trình Quốc hội vào kỳ họp cuối năm 2021 (Bộ Khoa học và Công nghệ dự kiến trình Chính phủ hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ trong quý IV năm 2019. Trên cơ sở đó, Chính phủ trình Quốc hội xem xét đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021).

Việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ cho tương thích với các quy định trong Hiệp định CPTPP là cần thiết để bảo đảm tính thống nhất, hiệu quả, hiệu lực của hệ thống pháp luật Việt Nam và thể hiện tinh thần chủ động, nghiêm túc thực hiện các điều ước quốc tế của Việt Nam.

Những vướng mắc, bất cập của Luật Sở hữu trí tuệ khi triển khai thực hiện Hiệp định CPTPP

a) Vướng mắc, bất cập về quy định pháp luật

- Thứ nhất, Luật Sở hữu trí tuệ đã có quy định song chưa cụ thể

Cụ thể: Nghĩa vụ phải quy định cơ quan tư pháp, khi xác định khoản bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải xem xét bất kỳ cách tính giá trị hợp pháp nào do chủ thể quyền đưa ra, trong đó có thể bao gồm lợi nhuận bị mất, giá trị của hàng hoá hoặc dịch vụ bị xâm phạm tính theo giá thị trường, hoặc theo giá bán lẻ được đề xuất (Điều 18.74.4); Nghĩa vụ trong thủ tục bảo hộ hoặc công nhận chỉ dẫn địa lý, khi có ý kiến của người thứ ba phản đối việc bảo hộ hoặc công nhận chỉ dẫn địa lý này, thì phải quy định chỉ dẫn địa lý sẽ bị từ chối bảo hộ hoặc không công nhận trên cơ sở việc bảo hộ hoặc công nhận chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu là đối tượng của đơn có trước đã được nộp một cách trung thực hoặc với nhãn hiệu đã được bảo hộ tại Việt Nam (Điều 18.32.1.a).

- Thứ hai, Luật Sở hữu trí tuệ không có quy định song đã triển khai thực hiện trong thực tiễn

Cụ thể: Nghĩa vụ cho phép nộp đơn đăng ký và duy trì hiệu lực nhãn hiệu bằng phương tiện điện tử; và có một hệ thống thông tin điện tử có thể truy cập công cộng, bao gồm cơ sở dữ liệu trực tuyến gồm các đơn đăng ký nhãn hiệu và nhãn hiệu đã được đăng ký (Điều 18.24 CPTPP).

56

Page 57: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

- Thứ ba, Luật Sở hữu trí tuệ đã có quy định song trái với quy định tương ứng của Hiệp định CPTPP

Cụ thể: Nghĩa vụ không được yêu cầu đăng ký việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu để xác lập hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng (Điều 18.27 CPTPP).

- Thứ tư, Luật Sở hữu trí tuệ hoàn toàn chưa có quy định như yêu cầu của Hiệp định CPTPP

Cụ thể: Nghĩa vụ nếu bảo hộ hoặc công nhận dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý theo thủ tục hành chính thì thủ tục đó và cơ sở về việc bảo hộ/hủy bỏ phải tương đương/trùng với thủ tục và các cơ sở áp dụng cho chỉ dẫn địa lý thông thường (Điều 18.32.5); nghĩa vụ quy định mức phí nộp đơn yêu cầu kiểm tra, giám sát và tạm dừng thủ tục hải quan, phí lưu kho và phí tiêu hủy không cản trở một cách bất hợp lý việc áp dụng các thủ tục liên quan tới các biện pháp tại biên giới (Điều 18.76.8); nghĩa vụ quy định Toà án có thẩm quyền yêu cầu một bên bồi thường thiệt hại đối với các thiệt hại thực tế (có thể bao gồm cả phí luật sư hợp lý) do việc lạm dụng thủ tục thực thi quyền SHTT của bên đó gây ra (Điều 18.74.15).

b) Vướng mắc, bất cập về nguồn lực, điều kiện bảo đảm thi hành Luật

- Thứ nhất, đối với cơ quan xác lập quyền sở hữu trí tuệ (Cục Sở hữu trí tuệ)

Nghĩa vụ cho phép nộp đơn đăng ký và duy trì hiệu lực nhãn hiệu bằng phương tiện điện tử; và có một hệ thống thông tin điện tử có thể truy cập công cộng, bao gồm cơ sở dữ liệu trực tuyến (gồm các đơn đăng ký nhãn hiệu và nhãn hiệu đã được đăng ký) đòi hỏi Cục Sở hữu trí tuệ phải nâng cấp, vận hành hệ thống nộp đơn trực tuyến một cách đồng bộ, ổn định. Trong khi đó, điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng như nguồn lực hiện nay của Cục Sở hữu trí tuệ chưa thể đáp ứng đầy đủ việc thực hiện các cam kết. Do đó, đòi hỏi nhà nước cần đầu tư các nguồn lực thỏa đáng (xây dựng và duy trì cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu, công cụ tra cứu…).

Các nghĩa vụ liên quan đến bảo hộ hoặc công nhận dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý; đánh giá một thuật ngữ có phải là tên gọi chung của hàng hóa tại Việt Nam; mở rộng ngoại lệ đối với tính mới của sáng chế… đặt ra yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ phải xem xét toàn diện các yếu tố để xử lý đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, sáng chế..., do đó, có khả năng làm phức tạp thêm quá trình thẩm định, dễ dẫn tới kéo dài thời hạn thẩm định.

- Thứ hai, đối với các cơ quan thực thi hành chính

57

Page 58: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Nghĩa vụ cung cấp thông tin cho chủ thể quyền trong trường hợp cơ quan hải quan tạm giữ hàng hoá hoặc xác định hàng hoá là giả mạo quyền SHTT sau khi đã tạm dừng thông quan sẽ làm tăng khối lượng công việc và chi phí cho cơ quan hải quan.

Nghĩa vụ bảo đảm thủ tục giải quyết tranh chấp tên miền thích hợp cũng như có chế tài thích hợp để xử lý trường hợp một người đăng ký hoặc nắm giữ tên miền trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nhằm thu lợi với ý đồ xấu đòi hỏi cán bộ các cơ quan thực thi phải có trình độ chuyên môn sâu về SHTT, như khi xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi tên miền xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý chẳng hạn. Trong khi đó, trình độ chuyên môn về SHTT của các cơ quan thực thi còn nhiều hạn chế, việc ban hành các quyết định xử lý vi phạm hành chính về SHTT còn phụ thuộc vào ý kiến chuyên môn của Cục Sở hữu trí tuệ hoặc kết quả giám định của Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ.

- Thứ ba, đối với Toà án

Việc sửa đổi các quy định về giải quyết tranh chấp dân sự liên quan đến quyền SHTT (ví dụ, Tòa án có quyền yêu cầu bên lạm dụng thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ phải bồi thường cho bị đơn do sự lạm dụng thủ tục thực thi quyền; bên thua kiện phải thanh toán cho bên thắng kiện phí luật sư hợp lý trong các vụ xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền liên quan, nhãn hiệu và sáng chế…) có khả năng làm phức tạp thêm các tranh chấp dân sự liên quan đến quyền SHTT tại Toà án, đồng thời gia tăng số lượng các tranh chấp dân sự về quyền SHTT tại Toà án. Quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự này có thể sẽ rất phức tạp, đòi hỏi đội ngũ thẩm phán Toà án phải có năng lực, kiến thức chuyên môn sâu về SHTT. Trong khi đó, hiện nay lại chưa có thẩm phán chuyên trách về SHTT tại các cấp Toà án.

Do vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ để đảm bảo sự phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Từ những phân tích nêu trên, để đảm bảo hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, thực hiện chỉ đạo tại Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12/11/2018 của Quốc hội phê chuẩn Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan và các văn bản chỉ đạo khác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ là cần thiết.

2. Mục tiêu xây dựng chính sách

58

Page 59: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

- Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật trong nước để thực thi cam kết trong CPTPP và đảm bảo mục tiêu tham gia hiệu quả Hiệp định CPTPP và thi hành các cam kết phải thực thi ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực đối với Việt Nam.

- Đảm bảo thống nhất và đồng bộ với nội dung cam kết theo Hiệp định CPTPP đã được Quốc hội phê chuẩn tại Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018.

- Bảo đảm tính ổn định, thống nhất thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống pháp luật phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.

B. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH

I. LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM

Để đạt được các mục tiêu như đã đặt ra ở trên, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm tập trung vào bổ sung nội dung Chính sách “Quy định đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm”, gồm 02 nhóm vấn đề chính: (1) Quy định đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm như hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm, hoạt động giám định bảo hiểm; (2) Quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm và điều khoản chuyển tiếp.

Chính sách này sẽ bao gồm đề xuất cụ thể để bổ sung, cụ thể hóa quy định hiện hành và có các nội dung mới được đề xuất.

1. Xác định vấn đề

Ngoài lĩnh vực môi giới bảo hiểm, lĩnh vực đại lý bảo hiểm, còn nhiều hoạt động phụ trợ bảo hiểm khác như hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm, hoạt động giám định bảo hiểm. Hiện nay, nhu cầu sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm ngày càng tăng. Cụ thể như:

- Hoạt động tư vấn bảo hiểm:

Là việc sử dụng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ để đưa ra ý kiến độc lập, khách quan và chuyên nghiệp về các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo yêu cầu của khách hàng. Đối tượng khách hàng của hoạt động tư vấn bao gồm doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tham gia bảo hiểm. Nội dung các hoạt động tư vấn bảo hiểm hiện có trên thị trường như:

59

Page 60: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

+ Tư vấn về quản trị rủi ro: đưa ra ý kiến tư vấn giúp khách hàng lựa chọn biện pháp, cách thức để quản trị, quản lý rủi ro, lựa chọn phương án quản lý rủi ro, chuyển giao rủi ro thay thế, lựa chọn danh mục tài sản cần bảo hiểm;

+ Tư vấn đề phòng, hạn chế tổn thất: đưa ra ý kiến tư vấn về các biện pháp giảm thiểu rủi ro, đề phòng hạn chế tổn thất;

+ Tư vấn xây dựng, thiết kế chương trình, sản phẩm bảo hiểm: thiết kế chương trình bảo hiểm cho nhóm đối tượng khách hàng có chung nhu cầu về bảo hiểm hoặc thiết kế sản phẩm bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm mới hoặc sản phẩm có tiềm năng phát triển trong tương lai;

+ Tư vấn nội dung sản phẩm bảo hiểm, điều kiện, điều khoản của hợp đồng bảo hiểm;

+ Tư vấn về bồi thường: tư vấn về hồ sơ, thủ tục, trình tự giải quyết bồi thường; tư vấn xác định tổn thất có thuộc phạm vi hợp đồng bảo hiểm.

+ Tư vấn đấu thầu bảo hiểm: tư vấn xây dựng hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, lựa chọn nhà thầu, đàm phán thương thảo ký kết hợp đồng.

- Hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm:

Là việc nhận diện, phân loại, đánh giá, quản trị rủi ro nhằm xác định tình trạng khách quan của rủi ro về con người, tài sản, trách nhiệm dân sự có nhu cầu tham gia bảo hiểm. Đối tượng khách hàng của hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm bao gồm doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tham gia bảo hiểm.

Hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm bao gồm các nội dung:

+ Nhận diện rủi ro, xác định các rủi ro có thể xảy ra đối với đối tượng có nhu cầu tham gia bảo hiểm.

+ Phân loại rủi ro, phân nhóm các rủi ro theo tiêu chuẩn định sẵn.

+ Đánh giá rủi ro: Đo lường định tính và định lượng; xác định mức độ, tần suất xảy ra rủi ro, dự báo khả năng xảy ra rủi ro, nguyên nhân gây ra rủi ro.

+ Quản trị rủi ro: đưa ra các công cụ, phương pháp theo tiêu chuẩn định sẵn để quản trị đối với rủi ro của đối tượng được đánh giá.

- Hoạt động hỗ trợ bảo hiểm:

60

Page 61: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Là việc thay mặt cho khách hàng để thực hiện một hoặc nhiều nội dung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo ủy quyền của khách hàng. Đối tượng khách hàng của hoạt động hỗ trợ là doanh nghiệp bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm.

Nội dung hoạt động hỗ trợ bảo hiểm hiện có trên thị trường nhu:

+ Dịch vụ tính toán bảo hiểm (Actuarial): hỗ trợ tính toán phí bảo hiểm, tính trích lập dự phòng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định của pháp luật.

+ Hỗ trợ giải quyết bồi thường: bao gồm việc thu thập, rà soát đối chiếu hồ sơ, thực hiện chi trả tiền bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm theo quyết định bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm; Thu thập hồ sơ, quản lý, thực hiện các thủ tục để yêu cầu đòi bồi thường thay bên tham gia bảo hiểm.

+ Quản lý hồ sơ, hợp đồng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm và cho bên tham gia bảo hiểm;

+ Quản lý đại lý bảo hiểm đối với đại lý của doanh nghiệp bảo hiểm.

+ Thu phí bảo hiểm: Thay mặt doanh nghiệp bảo hiểm để thực hiện việc thu phí bảo hiểm từ bên tham gia bảo hiểm.

- Hoạt động giám định bảo hiểm:

Là việc sử dụng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ để xác định chính xác tình trạng thực tế, mức độ tổn thất liên quan đến phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm. Đối tượng khách hàng của hoạt động giám định bảo hiểm bao gồm doanh nghiệp bảo hiểm, bên tham gia bảo hiểm hoặc theo yêu cầu của bên thứ 3 (trọng tài thương mại, nhà tái bảo hiểm…).

Nội dung hoạt động giám định bảo hiểm hiện có trên thị trường: Hoạt động giám định bảo hiểm xác định hiện trạng, mức độ, nguyên nhân tổn thất, thiệt hại làm cơ sở giải quyết bồi thường bảo hiểm.

Hoạt động phụ trợ là bộ phận cấu thành hoạt động cốt lõi của các ngành kinh tế. Hoạt động phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành và ngày càng tác động lớn tới kết quả, chất lượng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động phụ trợ bảo hiểm chưa được điều chỉnh tại hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, chưa được quản lý thống nhất và chưa được kiểm soát về tiêu chuẩn, chất lượng.

Hệ thống pháp luật chung chưa có quy định về các hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Hiện tại, hoạt động phụ trợ bảo hiểm thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp về đăng ký kinh doanh. Một số hoạt động phụ trợ bảo hiểm như giám định bảo hiểm đang hoạt động theo quy định chung về giám định thương mại tại hệ thống Luật Thương mại, chưa phù hợp với sự vận hành tổng thể của

61

Page 62: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

thị trường bảo hiểm. Pháp luật hiện hành về bảo hiểm chưa có quy định đối với việc quản lý nhà nước đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm; thanh tra, kiểm tra, quản lý, giám sát đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Các vấn đề bất cập đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm được xác định như sau:

- Vấn đề 1: Cần xác định thẩm quyền quản lý nhà nước của cơ quan quản lý bảo hiểm trong việc quản lý hoạt động phụ trợ bảo hiểm, đặc biệt là việc quản lý, giám sát, thanh tra, kiểm tra hoạt động phụ trợ bảo hiểm để đảm bảo chất lượng về điều kiện, tiêu chuẩn đối với các hoạt động phụ trợ cung cấp trên thị trường. Đồng thời, không tách rời quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh bảo hiểm cốt lõi và hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Trên thực tế, thị trường bảo hiểm tùy từng thời kỳ sẽ có nhu cầu sử dụng cũng như chịu tác động của những hoạt động phụ trợ khác nhau, và những chủ thể hoạt động phụ trợ bảo hiểm cũng thường đồng thời có những hoạt động kinh tế khác, do vậy cần quy định nguyên tắc tại Luật, tạo cơ sở pháp lý để các văn bản dưới Luật linh hoạt trong hướng dẫn tiêu chuẩn, điều kiện, chủ thể cung cấp dịch vụ của từng hoạt động phụ trợ bảo hiểm trong từng thời kỳ.

- Vấn đề 2: Phạm vi điều chỉnh của Luật Kinh doanh bảo hiểm chưa bao gồm hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Do vậy, cần sửa đổi, bổ sung phạm vi điều chỉnh của Luật để đảm bảo tính thống nhất, gắn kết trong vận hành, sự phát triển và quản lý của hoạt động phụ trợ bảo hiểm với thị trường bảo hiểm.

- Vấn đề 3: Chưa có quy định về khái niệm, nội dung của các hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

- Vấn đề 4: Chưa có tiêu chuẩn, điều kiện để đảm bảo chất lượng hoạt động phụ trợ bảo hiểm, bảo vệ quyền hợp pháp của bên mua bảo hiểm và các bên tham gia hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Chưa có nguyên tắc đảm bảo phân định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm các bên tham gia hoạt động phụ trợ bảo hiểm, nội dung hợp đồng cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm.

- Vấn đề 5: Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là một chủ thể có khả năng cung cấp dịch vụ, thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Tuy nhiên chưa có cơ sở pháp lý để doanh nghiệp môi giới bảo hiểm cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm.

- Vấn đề 6: Chưa có điều kiện về cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới để đảm bảo chất lượng của các tổ chức nước ngoài khi thực hiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam và bảo vệ thị trường, doanh nghiệp trong nước.

- Vấn đề 7: Đối với các doanh nghiệp đã và đang hoạt động phụ trợ bảo hiểm trên thị trường thì thực hiện áp dụng chính sách mới như thế nào.

62

Page 63: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

2. Mục tiêu giải quyết vấn đề

Thị trường bảo hiểm đã phát triển vượt bậc so với giai đoạn đầu, các hoạt động phụ trợ bảo hiểm bên cạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm cần hoàn thiện quy định đã có của thị trường cũng như bổ sung các quy định mới để đáp ứng sự phát triển của thị trường. Hoạt động phụ trợ bảo hiểm ngày càng có tác động lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm như giám định bồi thường, hỗ trợ bồi thường, thiết kế sản phẩm…, kiểm soát thống nhất thông qua tiêu chuẩn, điều kiện, giám sát sẽ góp phần phát triển lành mạnh thị trường bảo hiểm.

Hiệp định CPTPP không yêu cầu Việt Nam phải nội luật hóa về hoạt động phụ trợ bảo hiểm, mặt khác hoạt động phụ trợ bảo hiểm dù chưa có quy định pháp lý cụ thể nhưng đã và đang diễn ra trên thị trường. Tuy nhiên, thị trường đã xuất hiện và cần thiết phải giải quyết các vấn đề bất cập nêu trên nhằm mục đích:

+ Tạo môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch, khuyến khích doanh nghiệp hoạt động phụ trợ bảo hiểm phát triển, thu hút các doanh nghiệp, nhà đầu tư cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, người tiêu dùng sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm;

+ Nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa, quy chuẩn hóa của hoạt động phụ trợ bảo hiểm và hoạt động kinh doanh bảo hiểm;

+ Tăng hiệu lực, hiệu quả đối với công tác quản lý nhà nước. Việc trao thẩm quyền cho Bộ Tài chính (cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm) để thống nhất quản lý trong tổng thể vận hành của thị trường bảo hiểm. Việc quản lý, giám sát trực tiếp, thực hiện thanh tra, kiểm tra về hoạt động phụ trợ bảo hiểm sẽ đảm bảo dịch vụ phụ trợ bảo hiểm hoạt động kinh doanh lành mạnh, thị trường phát triển hiệu quả..

+ Thực hiện quyền của Việt Nam khi chủ động mở cửa cho các doanh nghiêp, nhà đầu tư nước ngoài gia nhập thị trường trong nước, nhằm bảo vệ thị trường nội địa.

+ Quy định thời gian chuyển tiếp để các tổ chức, cá nhân thuộc tổ chức đang hoạt động phụ trợ bảo hiểm khi có chính sách mới sẽ có đủ thời gian để đáp ứng các quy định mới, đảm bảo tính khả thi của chính sách và không làm ảnh hưởng tới quyền lợi của tổ chức, cá nhân thuộc tổ chức đang hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề

Phương án 1: Giữ nguyên chính sách hiện tại

63

Page 64: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Phương án 2: (i) Bổ sung quy định về khái niệm các hoạt động phụ trợ bảo hiểm, nội dung hoạt động phụ trợ bảo hiểm; nguyên tắc hoạt động phụ trợ bảo hiểm; hợp đồng cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; điều kiện, tiêu chuẩn khi thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm; điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới; doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thực hiện một số hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

(ii) Bổ sung quy định về thẩm quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm; bổ sung quy định về quản lý, giám sát đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm như giám sát thông qua quy định về chế độ báo cáo, quy trình nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản trị doanh nghiệp và việc chấp hành pháp luật bằng các hình thức thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính. Quy định về thời gian chuyển tiếp áp dụng quy định mới đối với các tổ chức, cá nhân thuộc tổ chức đang hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

Phương án 3: (i) Bổ sung quy định về khái niệm các hoạt động phụ trợ bảo hiểm, nội dung hoạt động phụ trợ bảo hiểm; nguyên tắc hoạt động phụ trợ bảo hiểm; hợp đồng cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; điều kiện, tiêu chuẩn hoạt động phụ trợ bảo hiểm, bao gồm việc phải được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm khi đăng ký ngành nghề kinh doanh; điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới; doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thực hiện một số hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

(ii) Bổ sung quy định về thẩm quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm; bổ sung quy định về quản lý, giám sát đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm bằng các hình thức thanh tra, kiểm tra và việc cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Quy định về thời gian chuyển tiếp áp dụng quy định mới đối với các tổ chức, cá nhân thuộc tổ chức đang hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan

Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách này là tổ chức, cá nhân hoạt động phụ trợ bảo hiểm; đối tượng sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm (các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tham gia bảo hiểm, bên tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm); nhà nước (bao gồm cơ quan quản lý nhà nước và ngân sách nhà nước).

4.1. Phương án 1: Giữ nguyên chính sách hiện tại

a. Tác động kinh tế

Tác động kinh tế đối với chính sách hiện tại bao gồm:

64

Page 65: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

- Đối với nhà nước:

Không phát sinh thêm chi phí quản lý nhà nước đối với các hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Chỉ phát sinh chi phí thực hiện thủ tục hành chính về đăng ký ngành nghề kinh doanh như quy định hiện tại.

Ngân sách nhà nước: Không phát sinh thêm khoản thu đối với ngân sách nhà nước. Chỉ đóng góp vào ngân sách nhà nước khoản thuế từ lợi nhuận hoạt động kinh doanh dịch vụ phụ trợ bảo hiểm

- Đối với tổ chức, cá nhân hoạt động phụ trợ bảo hiểm:

Không phát sinh thêm chi phí. Chính sách hiện tại chỉ phát sinh chi phí đăng ký ngành nghề kinh doanh đối với tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm (tư vấn, đánh giá rủi ro, hỗ trợ, giám định bảo hiểm), và chi phí đảm bảo đáp ứng điều kiện đối với hoạt động giám định.

- Đối với đối tượng sử dụng dịch vụ: Không phát sinh thêm chi phí sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm.

b. Tác động xã hội

- Đối với nhà nước:

+ Thiếu cơ sở pháp lý để điều chỉnh các quan hệ xã hội và không đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế.

+ Do môi trường pháp lý chưa minh bạch, rõ ràng và chất lượng hoạt động phụ trợ bảo hiểm chưa được kiểm soát dẫn tới hạn chế trong việc thu hút đầu tư.

+ Cơ quản quản lý nhà nước về bảo hiểm không có cơ sở pháp lý, thẩm quyền để quản lý, giám sát về chất lượng của các hoạt động phụ trợ bảo hiểm được cung cấp trên thị trường, tạo rủi ro tiềm ẩn cho sự phát triển ổn định của thị trường bảo hiểm, cho quyền lợi của các bên liên quan, đặc biệt là khách hàng sử dụng dịch vụ.

+ Khó khăn trong công tác quản lý, giám sát hoạt động phụ trợ bảo hiểm do chưa có công cụ pháp lý về quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Cơ quản quản lý nhà nước thiếu thẩm quyền trong công tác thanh tra, kiểm tra về hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

+ Thiếu sự đồng bộ, thống nhất trong quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, chồng chéo về chức năng quản lý nhà nước giữa các Bộ, ngành.

+ Các cơ quan nhà nước đang chưa có báo cáo về việc sử dụng và cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Tình trạng thiếu dữ liệu, độ tin cậy không cao về thông tin của các đơn vị cung cấp, mức độ tín nhiệm, hình thức doanh

65

Page 66: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

nghiệp, số lượng lao động..., gây khó khăn trong công tác dự báo xu hướng phát triển thị trường.

- Đối với tổ chức cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm:

+ Môi trường đầu tư thuận lợi do chưa có khung khổ pháp lý quy định về điều kiện, tiêu chuẩn của từng hoạt động phụ trợ bảo hiểm nên tạo điều kiện cho các đơn vị cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm được cấp phép thành lập và hoạt động dễ dàng. Điều này dẫn tới số lượng các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm đang tăng lên nhanh chóng. Phương án này đảm bảo quyền tự do hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do không bị ràng buộc về các điều kiện, tiêu chuẩn, trách nhiệm về tài chính và con người.

+ Chất lượng dịch vụ và tính chuyên nghiệp hóa của các hoạt động này chưa được quan tâm do chưa có cơ quan nhà nước quản lý về vấn đề này.

+ Chưa có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và đối tượng sử dụng dịch vụ, đối tượng cung cấp dịch vụ trong việc hỗ trợ về cơ chế chính sách, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động kinh doanh, không khuyến khích hoạt động phụ trợ bảo hiểm phát triển.

+ Không kiểm soát được chất lượng cung cấp dịch vụ của các tổ chức nước ngoài, không bảo vệ được thị trường trong nước khi các tổ chức nước ngoài được tự do cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam.

+ Không phát huy được hết thế mạnh, tiềm năng của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Theo quy định hiện hành tại Điều 89 Luật Kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là doanh nghiệp thực hiện các nội dung hoạt động môi giới bảo hiểm. Trong khi đó, các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có khả năng và năng lực để thực hiện các hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Quy định hiện hành bó hẹp hoạt động của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm do không cụ thể về việc doanh nghiệp môi giới được thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

- Đối với đối tượng sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm:

+ Chất lượng của hoạt động phụ trợ bảo hiểm không được kiểm soát do không có cơ sở pháp lý, không có quy định về điều kiện, tiêu chuẩn, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm và quyền lợi của bên tham gia bảo hiểm và các bên liên quan, tạo rủi ro tiềm ẩn cho sự phát triển ổn định của thị trường bảo hiểm.

+ Khách hàng không có điều kiện để sử dụng các dịch vụ có chất lượng tốt. Thiếu niềm tin và nhu cầu sử dụng hoạt động phụ trợ bảo hiểm do không được đảm bảo về quyền và lợi ích hợp pháp từ việc chưa có cơ quan quản lý, giám sát của nhà nước đối với các hoạt động này.

66

Page 67: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

c. Tác động về giới

Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d. Tác động về thủ tục hành chính

Phương án này không phát sinh thủ tục hành chính do giữ nguyên quy định hiện tại.

e. Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Phương án này không có tác động tới bộ máy nhà nước.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Phương án này không có tác động tới các điều kiện cần thiết để đảm bảo việc thi hành.

- Quyền cơ bản của công dân: Phương án này ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Phương án này không phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành do thiếu cơ sở pháp lý, tính đầy đủ của hệ thống pháp lý về hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Phương án này không thực thi được Hiệp định CPTPP do không có chính sách, quy định cụ thể về việc cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm theo các nội dung quy định tại Hiệp định.

4.2. Phương án 2:

(i) Bổ sung quy định về khái niệm, nội dung hoạt động; nguyên tắc hoạt động phụ trợ bảo hiểm; hợp đồng cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; điều kiện, tiêu chuân khi thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm; điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới; doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được thực hiện một số hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

(ii) Bổ sung quy định về thâm quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm; bổ sung quy định về quản lý, giám sát đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm như giám sát thông qua quy định về chế độ báo cáo, quy trình nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản trị doanh nghiệp và việc chấp hành pháp luật bằng các hình thức thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính. Quy định về điều khoản chuyển tiếp.

Nội dung chính sách bao gồm:

(i) Nội dung về quy định chung đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm:

67

Page 68: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

- Định nghĩa hoạt động: quy định chi tiết cho từng hoạt động phụ trợ bảo hiểm gồm hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm, hoạt động giám định bảo hiểm;

- Nội dung chi tiết từng hoạt động sẽ giao Chính phủ hướng dẫn;

- Chủ thể cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm: quy định là tổ chức; doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được thực hiện hoạt động tư vấn bảo hiểm, hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm, hoạt động hỗ trợ bảo hiểm.

- Tiêu chuẩn, điều kiện của tổ chức hoạt động phụ trợ bảo hiểm:

Tiêu chuẩn, điều kiện chung đối với 04 hoạt động gồm:

+ Tiêu chuẩn, điều kiện đối với cá nhân thuộc tổ chức trực tiếp thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm: quy định về bằng cấp, chứng chỉ đào tạo về bảo hiểm và chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với hoạt động phụ trợ bảo hiểm dự kiến cung cấp. Chính phủ sẽ quy định chi tiết về bằng cấp, chứng chỉ đào tạo về bảo hiểm.

+ Tiêu chuẩn, điều kiện đối với tổ chức: quy định về tài chính để đảm bảo trách nhiệm đã cam kết, trách nhiệm phát sinh trong quá trình hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

Chính phủ sẽ quy định chi tiết về điều kiện tài chính đối với từng hoạt động phụ trợ bảo hiểm như mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, ký quỹ, bảo lãnh thanh toán, bảo hiểm bảo lãnh. Quy định về ký quỹ chỉ áp dụng đối với các hoạt động ảnh hưởng đến trực tiếp đến quyền lợi của khách hàng (như hoạt động thu phí bảo hiểm hộ doanh nghiệp bảo hiểm).

- Nguyên tắc hoạt động của các hoạt động phụ trợ bảo hiểm: tuân thủ pháp luật, đạo đức nghề nghiệp, minh bạch với khách hàng, không xung đột lợi ích, bảo mật thông tin, trách nhiệm bồi hoàn thiệt hại.

- Nội dung hợp đồng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm: các nội dung cơ bản phải có của hợp đồng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, gồm nội dung công việc, quyền lợi, trách nhiệm của các bên, cơ chế giải quyết tranh chấp.

- Điều kiện cung cấp dịch vụ qua biên giới:

Kế thừa các quy định hiện hành về cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm và Nghị định số 73/2016/NĐ-CP của Chính phủ, bao gồm:

+ Chỉ cho phép các tổ chức có trụ sở chính tại các nước là thành viên của các Hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia ký kết có cho phép về cung cấp dịch vụ qua biên giới. Chính phủ quy định chi tiết đối tượng cung cấp và sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới.

68

Page 69: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

+ Tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới phải đáp ứng điều kiện về tình trạng pháp lý, tài chính, kinh nghiệm, chuyên môn nghiệp vụ, và thông qua một tổ chức có chuyên môn, nghiệp vụ làm dịch vụ phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam. Chính phủ quy định chi tiết về tình trạng pháp lý, điều kiện tài chính, chuyên môn nghiệp vụ, phương thức thực hiện, điều kiện đảm bảo khả năng xử lý tổn thất, trách nhiệm của các bên liên quan khi cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới.

(ii) Nội dung đối với quản lý nhà nước đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm:

- Bổ sung quy định thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm (Bộ Tài chính) trong việc quản lý, giám sát đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Các nội dung giám sát gồm hoạt động nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro, việc chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân thuộc tổ chức hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

- Không quy định mới về nội dung đăng ký kinh doanh, cấp phép thành lập tổ chức hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Việc đăng ký kinh doanh, thành lập thực hiện theo các hệ thống pháp luật khác như hiện hành, không tạo thêm thủ tục hành chính.

- Cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm sẽ quản lý bằng quy định pháp luật, giám sát từ xa qua chế độ báo cáo và minh bạch thông tin, kiểm tra tại chỗ, có thẩm quyền thanh tra chuyên ngành về việc tuân thủ các quy định liên quan đến bảo hiểm của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

- Thời gian chuyển tiếp để áp dụng các quy định mới đối với tổ chức, cá nhân thuộc tổ chức đang hoạt động phụ trợ bảo hiểm là 3 năm kể từ ngày quy định có hiệu lực.

a. Tác động kinh tế

- Đối với nhà nước:

+ Đối với ngân sách nhà nước: Tăng thu ngân sách nhà nước từ việc tăng trưởng và hoạt động hiệu quả của thị trường. Doanh thu từ hoạt động phụ trợ tăng, tăng lợi nhuận hoạt động kinh doanh do giảm chi phí bồi thường, kiểm soát và sử dụng chi phí hiệu quả hơn khi thực hiện tư vấn hoặc thuê ngoài; giảm chi phí tổn thất của khách hàng do nhận thức đầy đủ, chính xác và có biện pháp quản lý rủi ro thích hợp...

Đồng thời, tăng thu ngân sách nhà nước từ việc thu hút đầu tư do môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch, nhu cầu sử dụng hoạt động phụ trợ bảo hiểm tăng.

69

Page 70: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

+ Phương án này không phát sinh chi phí về thủ tục hành chính do không phát sinh thêm, không phải sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính.

Phương án này phát sinh chi phí đối với ngân sách nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật.

Phương án này phát sinh thêm chi phí trong việc quản lý, giám sát, thực hiện thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm, bao gồm chi phí nhân sự, bộ máy nhà nước... Tuy nhiên, chi phí này là chi phí hợp lý, được sử dụng từ nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Không phát sinh chi phí mới từ việc bổ sung chính sách mới này.

+ Phát sinh nguồn thu và chi phí từ việc tổ chức đào tạo để đảm bảo điều kiện về tiêu chuẩn hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Về cơ bản quy định về điều kiện nhằm nâng cao chất lượng của thị trường nên lợi ích kinh tế sẽ không thay đổi do mức phí thu từ các khóa đào tạo sẽ ngang bằng với chi phí tổ chức đào tạo.

- Đối với tổ chức, cá nhân hoạt động phụ trợ bảo hiểm trong nước:

+ Thu được lợi ích kinh tế do nhận thức của khách hàng về vai trò của hoạt động phụ trợ được tăng cường, nhu cầu sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm tăng cao do chất lượng được đảm bảo, thị trường hoạt động phụ trợ bảo hiểm được mở rộng.

Các tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trong nước thu được lợi ích kinh tế do được nhà nước bảo vệ, kiểm soát các tổ chức nước ngoài cung cấp tại thị trường trong nước; cơ quan quản lý nhà nước sẽ khuyến khích phát triển thị trường, và đảm bảo sự phát triển lành mạnh, chuyên nghiệp hóa, đa dạng hóa hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

Doanh nghiệp môi giới phát huy thế mạnh, mở rộng hoạt động kinh doanh, thu được lợi ích kinh tế.

+ Phương án này ngoài việc phát sinh chi phí đăng ký ngành nghề kinh doanh tương tự như Phương án 1, các tổ chức hoạt động phụ trợ không phát sinh thêm chi phí khác từ việc quản lý nhà nước về hoạt động phụ trợ bảo hiểm, do không thay đổi quy định về đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký ngành nghề kinh doanh.

Phát sinh chi phí để đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện khi thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm, bao gồm chi phí để đảm bảo các điều kiện về tài chính (mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, ký quỹ, bảo lãnh thanh toán, bảo hiểm bảo lãnh) và chi phí để tham gia các khóa đào tạo, thi lấy chứng chỉ, bằng cấp về bảo hiểm, chuyên môn, nghiệp vụ theo từng hoạt động phụ trợ bảo hiểm dự kiến cung cấp.

70

Page 71: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Tuy nhiên, chi phí này là hợp lý, là chi phí cần thiết để đảm bảo và nâng cao chất lượng của dịch vụ cung cấp.

- Đối với tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới:

Phát sinh chi phí để đảm bảo đáp ứng các điều kiện chung về cung cấp dịch vụ qua biên giới, như chi phí về đáp ứng điều kiện tài chính, chuyên môn, nghiệp vụ, chi phí chứng minh về kinh nghiệm, xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính.

- Đối với đối tượng sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm:

+ Đối với doanh nghiệp bảo hiểm:

Thu được lợi ích kinh tế từ việc giảm chi phí bồi thường do giám định tổn thất đầy đủ, chính xác, giám định tình trạng thực tế của đối tượng có nhu cầu bảo hiểm trung thực, đầy đủ, đánh giá toàn diện rủi ro về đối tượng được bảo hiểm; thu lợi ích từ việc giảm thiểu rủi ro, đề phòng hạn chế tổn thất; tiết kiệm chi phí, tối ưu hóa nguồn lực, chi phí khi sử dụng các hoạt động thuê ngoài.

+ Đối với các tổ chức, cá nhân trên thị trường:

Thu được lợi ích kinh tế, được cung cấp dịch vụ có chất lượng đảm bảo, tương xứng giữa giá cả và chất lượng. Thu được lợi ích kinh tế từ việc hiểu biết về rủi ro và bảo hiểm, quản trị tốt hơn về rủi ro giúp tiết kiệm chi phí, lựa chọn được sản phẩm bảo hiểm phù hợp; ổn định sản xuất kinh doanh; thu lợi ích từ việc giảm thiểu rủi ro, đề phòng hạn chế tổn thất. Chất lượng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm được nâng cao, hoạt động phụ trợ bảo hiểm được minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, phát triển, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đa dạng hóa lựa chọn, được đảm bảo quyền lợi khi sử dụng dịch vụ.

+ Về ngắn hạn, phương án này có thể phát sinh thêm chi phí đối với đối tượng sử dụng dịch vụ khi các nhà cung cấp tăng giá dịch vụ do phát sinh thêm chi phí đảm bảo điều kiện, tiêu chuẩn hoạt động; tuy nhiên, về dài hạn chi phí này tương xứng với chất lượng được đảm bảo, đem lại lợi ích kinh tế cho đối tượng sử dụng dịch vụ.

b. Tác động xã hội

- Đối với nhà nước:

+ Đảm bảo cơ sở pháp lý để điều chỉnh các quan hệ xã hội và tương thích với các cam kết quốc tế.

71

Page 72: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

+ Môi trường pháp lý minh bạch, rõ ràng và chất lượng hoạt động phụ trợ bảo hiểm được kiểm soát dẫn tới môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước gia nhập thị trường.

+Việc đưa dịch vụ phụ trợ bảo hiểm vào trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm giúp cho việc quản lý nhà nước đối với dịch vụ phụ trợ bảo hiểm hiệu quả hơn trong tổng thể quản lý, giám sát hoạt động của thị trường bảo hiểm, hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động của thị trường bảo hiểm.

+ Đảm bảo tính thống nhất trong quản lý các hoạt động của thị trường bảo hiểm, hỗ trợ sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm Việt Nam, gắn liền việc quản lý, giám sát các hoạt động kinh doanh bảo hiểm cốt lõi và hoạt động phụ trợ bảo hiểm trong tổng thể thị trường. Cơ quan quản lý có cơ sở pháp lý để thực hiện kiểm tra, giám sát trực tiếp với các bên tham gia và hoạt động dịch vụ phụ trợ bảo hiểm..., tăng cường kiểm soát chất lượng của hoạt động phụ trợ bảo hiểm cung cấp trên thị trường.

+ Bổ sung thêm nhiệm vụ cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm.

- Đối với tổ chức cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm trong nước:

+ Chất lượng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm được kiểm soát góp phần thúc đẩy tính chuyên nghiệp của các tổ chức cung cấp dịch vụ.

+ Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, được tạo điều kiện để khuyến khích phát triển. Cạnh tranh lành mạnh, công bằng giữa các chủ thể tham gia thị trường do các đối tượng hoạt động không tốt sẽ bị áp dụng các biện pháp trừng phạt.

+ Được Nhà nước bảo vệ quyền lợi, tạo môi trường pháp lý minh bạch, công bằng cho cả bên cung cấp dịch vụ trong nước và các tổ chức cung cấp dịch vụ từ nước ngoài.

+ Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có cơ sở pháp lý rõ ràng, minh bạch để thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm, đảm bảo quyền tự do kinh doanh, phát huy tiềm năng, năng lực của các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm

Theo quy định hiện hành tại Điều 89 Luật Kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là doanh nghiệp thực hiện các nội dung hoạt động môi giới bảo hiểm. Trong khi đó, các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có khả năng và năng lực để thực hiện các hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Quy định hiện hành bó hẹp hoạt động của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm do không cụ thể về việc doanh nghiệp môi giới được thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

72

Page 73: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Hoạt động giám định bảo hiểm là hoạt động trung lập, khách quan, trong khi đó doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là đại diện cho khách hàng. Để tránh xung đột về lợi ích, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm chỉ được thực hiện các hoạt động phụ trợ bảo hiểm, ngoại trừ hoạt động giám định bảo hiểm.

+ Tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm có thể gặp khó khăn trong việc tuyển dụng và sử dụng các nhân sự đáp ứng đủ điều kiện về bằng cấp, chứng chỉ đào tạo về bảo hiểm. Tuy nhiên, quy định về thời gian chuyển tiếp đảm bảo tính khả thi của chính sách mới. Thời hạn 03 năm đủ để các doanh nghiệp có thời gian để chuẩn bị đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn và chuẩn bị các điều kiện về tài chính.

Hiện nay Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm, trực thuộc Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, là tổ chức đào tạo được thành lập và hoạt động hợp pháp, đã và đang tổ chức các khóa đào tạo chuyên ngành về bảo hiểm, tổ chức thi và cấp chứng chỉ cho các cá nhân, doanh nghiệp có nhu cầu. Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm sẵn sàng cung ứng các khóa đào tạo phù hợp với nội dung hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

- Đối với tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới:

+ Thúc đẩy sự tham gia thị trường của các nhà cung cấp dịch vụ có chất lượng chất lượng cao, hạn chế sự tham gia thị trường của các đối tượng không đảm bảo chất lượng.

+ Gặp khó khăn trong việc phải đảm bảo các điều kiện về cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới khi cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm tại thị thường Việt Nam.

- Đối với đối tượng sử dụng dịch vụ phụ trợ bảo hiểm:

Tăng cường hình ảnh tích cực về thị trường bảo hiểm và lòng tin của người tham gia bảo hiểm; kích thích nhu cầu sử dụng dịch vụ; thu hút sự tham gia của người dân vào một thị trường bảo hiểm an toàn, lành mạnh; đảm bảo an toàn hơn về tài chính, tăng tính ổn định và niềm tin cho các nhà đầu tư.

+ Hoạt động tư vấn bảo hiểm: Giúp nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh về bảo hiểm, về rủi ro; đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân sinh được ổn định; tăng cường hiểu biết về các sản phẩm bảo hiểm và các dịch vụ có liên quan; hiểu biết và nâng cao chất lượng đề phòng hạn chế tổn thất; giúp bên tham gia bảo hiểm lựa chọn sản phẩm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phù hợp nhất.

+ Hoạt động đánh giá rủi ro bảo hiểm: Giúp tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp nhận diện, hiểu biết, đánh giá đầy đủ về các rủi ro, quản trị được rủi ro

73

Page 74: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

qua đó lựa chọn phương pháp, cách thức quản lý rủi ro tối ưu, lựa chọn danh mục bảo hiểm phù hợp; giúp doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thẩm định được bảo hiểm, góp phần hạn chế gian lận bảo hiểm.

+ Hoạt động hỗ trợ bảo hiểm: Trong quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện nhiều công đoạn từ đánh giá, xem xét, chấp thuận bảo hiểm, giải quyết bồi thường. Hoạt động hỗ trợ bảo hiểm giúp các doanh nghiệp bảo hiểm giảm bớt công đoạn để tối ưu hóa nguồn lực, tập trung vào việc phát triển, nâng cao chất lượng các dịch vụ cốt lõi như phát triển sản phẩm bảo hiểm, chất lượng công tác bồi thường. Hoạt động hỗ trợ cũng góp phần chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa thị trường bảo hiểm.

+ Hoạt động giám định bảo hiểm: Hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm thẩm định hiện trạng của đối tượng có nhu cầu tham gia bảo hiểm để có căn cứ xem xét, chấp nhận bảo hiểm, đưa ra mức phí, điều kiện điều khoản phù hợp. Giám định tổn thất góp phần chi trả tiền bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm nhanh chóng, đầy đủ, chính xác, kịp thời.

c. Tác động về giới

Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d. Tác động về thủ tục hành chính

- Phương án này không phát sinh thủ tục hành chính đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ trong nước do giữ nguyên quy định hiện tại đối với việc đăng ký ngành nghề kinh doanh, không bổ sung quy định về điều kiện khi thành lập doanh nghiệp, đăng ký ngành nghề kinh doanh.

Tổ chức cung cấp dịch vụ tự chịu trách nhiệm trong việc đảm bảo về điều kiện, tiêu chuẩn khi tiến hành hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Cơ quan quản lý nhà nước không phát sinh thêm thủ tục hành chính xem xét về điều kiện, tiêu chuẩn trước khi thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm của các tổ chức cung cấp dịch vụ.

- Phương án này không phát sinh thủ tục hành chính đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài do không quy định về trình tự, thủ tục, hồ sơ, quy định về cấp phép đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.

e. Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước:

Phương án này tác động tới cơ quan nhà nước về bảo hiểm, trao thẩm quyền và trách nhiệm quản lý, giám sát đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

74

Page 75: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

- Các điều kiện bảo đảm thi hành:

Phương án này không có tác động tới các điều kiện cần thiết để đảm bảo việc thi hành, do cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm đã có bộ máy quản lý, nhân sự và đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ tương tự.

- Quyền cơ bản của công dân:

+ Phương án này không tác động tới các quyền cơ bản của cá nhân và tổ chức. Đối tượng cung cấp hoạt động phụ trợ quy định là tổ chức, tuy nhiên cá nhân có thể tham gia cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua tổ chức bằng nhiều hình thức như là nhà đầu tư, là người lao động trong tổ chức, là chuyên gia hoặc cộng tác viên của tổ chức. Nguyên tắc này vẫn đảm bảo quyền tự do hoạt động kinh doanh của các cá nhân theo Hiến pháp, và tránh được những hạn chế hiện nay khi cá nhân cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm độc lập, đó là tính thiếu ổn định, tiêu chuẩn nghề nghiệp chưa đồng nhất, khó xử lý về trách nhiệm phát sinh.

+ Phương án này tác động tích cực tới quyền tự do kinh doanh của các đối tượng có khả năng cung cấp hoạt động phụ trợ bảo hiểm trên thị trường, đặc biệt là mở rộng quyền hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.

- Phù hợp hệ thống pháp luật:

Phương án này phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành. Không cần thiết phải sửa đổi ngay Luật Đầu tư và không ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật hiện hành khi bổ sung chính sách về hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

Hoạt động phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thực hiện các nội dung, công đoạn của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, như công đoạn tư vấn về sản phẩm bảo hiểm; công đoạn về xử lý hồ sơ bồi thường bảo hiểm; công đoạn về giám định tổn thất để làm cơ sở cho bồi thường bảo hiểm…Hoạt động phụ trợ bảo hiểm không phải là hoạt động độc lập, không tách rời hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Do đó, hoạt động phụ trợ bảo hiểm thuộc danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định tại Phụ lục 4 Luật Đầu tư.

Tuy nhiên, khi Luật Đầu tư thực hiện sửa đổi, bổ sung có thể xem xét để bổ sung thêm nội dung hoạt động phụ trợ bảo hiểm vào danh mục hoạt động kinh doanh có điều kiện Luật Đầu tư để quy định rõ ràng và tương đồng với quy định đối với đại lý và môi giới bảo hiểm.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế:

Phương án này đảm bảo việc thực thi được Hiệp định CPTPP do quy định cụ thể về chính sách hoạt động phụ trợ bảo hiểm theo các nội dung quy định tại Hiệp định. Đồng thời, phương án này cũng tương thích với các Hiệp định

75

Page 76: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

thương mại quốc tế khác (như WTO) do cam kết về dịch vụ phụ trợ bảo hiểm của Việt Nam tại Hiệp định CPTTT tương đồng, không mâu thuẫn với các cam kết quốc tế khác.

4.3. Phương án 3:

(i) Bổ sung quy định về khái niệm, nội dung hoạt động; nguyên tắc hoạt động phụ trợ bảo hiểm; hợp đồng cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; điều kiện, tiêu chuân hoạt động phụ trợ bảo hiểm, bao gồm việc phải được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm khi đăng ký ngành nghề kinh doanh; điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới; doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được thực hiện một số hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

(ii) Bổ sung quy định về thâm quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm; bổ sung quy định về quản lý, giám sát đối với hoạt động phụ trợ bảo hiểm bằng các hình thức thanh tra, kiểm tra và việc cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

Nội dung chính sách tương tự như phương án 2, tuy nhiên phương án này bổ sung thêm quy định như sau:

- Bổ sung thầm quyền của cơ quan quản lý nhà nước trong việc cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm khi doanh nghiệp thành lập, sửa đổi, bổ sung đăng ký ngành nghề kinh doanh phụ trợ bảo hiểm.

a. Tác động kinh tế

Phương án này có tác động kinh tế tương tự như Phương án 2, thu được lợi ích kinh tế từ việc đa dạng hóa các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, giúp tăng cường phòng ngừa, hạn chế rủi ro, hạn chế tổn thất, từ đó giảm thiểu chi phí cho các thành phần tham gia thị trường bảo hiểm nói riêng và nền kinh tế - xã hội nói chung. Tuy nhiên, phương án này có sự khác biệt về việc cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Phương án này có thêm các tác động kinh tế như sau:

- Đối với nhà nước:

+ Tăng thu ngân sách nhà nước từ lệ phí cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm (trong trường hợp phát sinh lệ phí cấp).

+ Phát sinh thêm chi phí đối với cơ quan quản lý nhà nước do phát sinh về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính đối với việc cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm, trong việc Sở Kế hoạch và Đầu tư rà soát về điều kiện, tiêu chuẩn; chi phí gửi hồ sơ thẩm định sang Bộ Tài chính và công

76

Page 77: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

văn đầu ra của Bộ Tài chính gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư (trong trường hợp xin ý kiến của Bộ Tài chính).

- Đối với tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm:

Phát sinh thêm chi phí đối với tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm như chi phí để đảm bảo các điều kiện, chi phí về hồ sơ trong việc thực hiện thủ tục hành chính bổ sung để đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp đã và đang hoạt động phụ trợ bảo hiểm, phát sinh thủ tục liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung ngành nghề đăng ký kinh doanh.

b. Tác động xã hội

Tương tự như phương án 2, phương án này có tác động tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các tổ chức, cá nhân liên quan đến dịch vụ phụ trợ bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm có thêm nhân tố hỗ trợ sự phát triển lành mạnh, đặc biệt với xu hướng gia tăng việc sử dụng các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tăng cường hình ảnh tích cực về thị trường bảo hiểm và lòng tin của người tham gia bảo hiểm, thu hút sự tham gia của người dân vào một thị trường bảo hiểm an toàn, lành mạnh.

c. Tác động về giới : Tương tự như phương án 2, chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d. Tác động của thủ tục hành chính

Phương án này phát sinh về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính đối với tổ chức cung cấp dịch vụ về hồ sơ, trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết thủ tục hành chính. Phương án này phát sinh thủ tục hành chính mới đối với việc cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động.

e. Tác động đối với hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Phương án này tác động tới bộ máy quản lý nhà nước do phát sinh thêm thủ tục hành chính, phải tăng cường nhân sự và cơ quan quản lý đối với việc cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Phương án này tác động tới các điều kiện cần thiết để đảm bảo việc thi hành như nhân sự, chi phí, bộ máy quản lý nhà nước...

- Quyền cơ bản của công dân: Phương án này không có tác động tới các quyền cơ bản của công dân.

77

Page 78: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Phương án này không phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành do chưa có quy định về cơ quan thực hiện cấp phép Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Phương án đưa ra chính sách, quy định cụ thể về việc cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm theo các nội dung quy định tại Hiệp định, đảm bảo việc thực thi cam kết của Việt Nam tại Hiệp định.

4.4. Kiến nghị giải pháp lựa chọn

So sánh 03 (ba) phương án nêu trên, Phương án 2 là phương án có nhiều tác động tích cực nhất, thu được lợi ích kinh tế nhưng không phát sinh thêm thủ tục hành chính và chi phí phát sinh ít nhất. Do đó, đề xuất lựa chọn Phương án 2 để sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm. Thẩm quyền ban hành chính sách thuộc về Quốc hội.

II. LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ

1. Chính sách 1: Mở rộng ngoại lệ về tính mới đối với sáng chế

1.1 Xác định vấn đề

Nghĩa vụ theo Điều 18.38 của Hiệp định CPTPP: Trong quá trình đánh giá tính mới và trình độ sáng tạo của sáng chế, phải bỏ qua ít nhất là các thông tin đã bộc lộ công khai nếu việc bộc lộ công khai này: (i) được thực hiện bởi người nộp đơn sáng chế hoặc người có được thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp từ người nộp đơn sáng chế; và (ii) xảy ra trong vòng 12 tháng trước ngày nộp đơn trong lãnh thổ của Bên đó.

Luật Sở hữu trí tuệ (Khoản 3 Điều 60) quy định sáng chế chỉ được xem là không mất tính mới nếu:

- Được bộc lộ trong 03 trường hợp: (i) Sáng chế bị người khác công bố nhưng không được phép của người có quyền đăng ký; (ii) Sáng chế được người có quyền đăng ký công bố dưới dạng báo cáo khoa học; (iii) Sáng chế được người có quyền đăng ký trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức.

- Với điều kiện là đơn sáng chế phải được nộp trong vòng 6 tháng kể từ ngày được bộc lộ.

Như vậy, so với pháp luật hiện hành của Việt Nam, Hiệp định CPTPP mở rộng điều kiện (i) ra tất cả các trường hợp mà người nộp đơn hoặc người có được thông tin từ người nộp đơn (bằng bất cứ hình thức nào, trực tiếp hay gián tiếp, được phép hay không được phép) đã bộc lộ công khai. Đồng thời, Hiệp định CPTPP cũng cho phép thời gian được hưởng ngoại lệ dài hơn (từ 6 tháng

78

Page 79: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

lên 12 tháng).

1.2 Mục tiêu giải quyết vấn đề

Mở rộng điều kiện hưởng ngoại lệ ra tất cả các trường hợp mà thông tin liên quan đến sáng chế bị bộc lộ công khai và kéo dài thời gian ân hạn cho việc nộp đơn đăng ký sáng chế kể từ khi thông tin bị bộc lộ cho các đơn nộp trực tiếp tại Việt Nam như yêu cầu của Hiệp định CPTPP.

Các thông tin bộc lộ công khai nêu trên cũng không được lấy làm tài liệu đối chứng trong việc đánh giá trình độ sáng tạo của sáng chế đó.

1.3 Giải pháp giải quyết vấn đề

Sửa đổi Điều 60 Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng dành cho các đơn nộp vào Việt Nam hưởng ngoại lệ rộng hơn (không giới hạn về địa điểm bộc lộ và thời gian ân hạn là 12 tháng kể từ ngày thông tin bị bộc lộ).

1.4 Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan

Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách này là tổ chức, cá nhân nộp đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam; và cơ quan quản lý nhà nước.

a) Tác động kinh tế

Tác động kinh tế đối với chính sách hiện tại bao gồm:

- Đối với cơ quan quản lý nhà nước: không phát sinh thêm chi phí quản lý nhà nước do vẫn thuộc quy trình thẩm định đơn sáng chế.

- Đối với tổ chức, cá nhân nộp đơn đăng ký sáng chế: Không phát sinh thêm chi phí.

- Đối với đại diện SHCN: Không phát sinh thêm chi phí.

b) Tác động xã hội

- Đối với cơ quan quản lý nhà nước: bảo đảm cơ sở pháp lý phù hợp với các cam kết quốc tế.

- Đối với tổ chức, cá nhân nộp đơn đăng ký sáng chế:

+ Được hưởng lợi hơn so với quy định cũ vì thời gian ân hạn được kéo dài 12 tháng so với 6 tháng, giúp cho người nộp đơn có thêm thời gian để tính toán lợi ích khi đăng ký sáng chế cũng như thời gian hoàn thiện hồ sơ đơn sáng chế.

+ Việc mở rộng ra mọi tình huống giúp cho đơn sáng chế gần như không bị ảnh hưởng bởi thông tin bị bộc lộ, đồng thời việc chứng minh tình huống bộc lộ cũng trở nên dễ dàng hơn.

79

Page 80: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

- Đối với các tổ chức đại diện SHCN: giảm thiểu thời gian và tài chính trong việc chuẩn bị chứng cứ chứng minh các tình huống bộc lộ để được coi là ngoại lệ cho khách hàng.

c) Tác động về giới

Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d) Tác động về thủ tục hành chính:

Giải pháp này không phát sinh thủ tục hành chính do vẫn giữ nguyên quy trình thẩm định hiện tại.

đ) Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Giải pháp này không có tác động tới bộ máy nhà nước.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Giải pháp này không có tác động tới các điều kiện cần thiết để bảo đảm việc thi hành.

- Quyền cơ bản của công dân: Giải pháp này không có tác động tới các quyền cơ bản của công dân.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Giải pháp này phù hợp với hệ thống pháp luật vì chỉ thay đổi điều kiện xem xét ngoại lệ chứ không thay đổi quy trình thẩm định.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Giải pháp này phù hợp với nghĩa vụ của Hiệp định CPTPP.

2. Chính sách 2: Làm rõ một số quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý

2.1 Xác định vấn đề

- Nghĩa vụ theo Điều 18.33 của Hiệp định CPTPP: Khi đánh giá một thuật ngữ có phải là tên gọi chung của hàng hóa tại Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền phải có quyền xem xét xem người tiêu dùng hiểu thuật ngữ đó tại Việt Nam như thế nào.

- Nghĩa vụ theo Điều 18.34 của Hiệp định CPTPP: Không bảo hộ một thành phần của một thuật ngữ đa thành phần được bảo hộ dưới dạng chỉ dẫn địa lý nếu thành phần đó là tên gọi chung của hàng hoá có liên quan.

- Nghĩa vụ theo Điều 18.32.5 của Hiệp định CPTPP: Nếu bảo hộ hoặc công nhận dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý theo thủ tục hành chính thì thủ tục đó và cơ sở về việc bảo hộ/hủy bỏ phải tương đương hoặc trùng

80

Page 81: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

với thủ tục và các cơ sở áp dụng cho chỉ dẫn địa lý thông thường.

Luật Sở hữu trí tuệ quy định nếu tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng hóa ở Việt Nam thì sẽ không được bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý (khoản 1 Điều 80). Tuy nhiên, pháp luật về sở hữu trí tuệ không có quy định rõ ràng về việc bảo hộ thuật ngữ đã trở thành tên gọi chung trong chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ đa thành phần và cũng không có quy định về việc đánh giá một thuật ngữ là tên gọi chung của hàng hóa ở Việt Nam. Việc đánh giá một thuật ngữ là tên gọi chung của hàng hóa ở Việt Nam tùy thuộc vào thẩm định viên đối với từng trường hợp cụ thể.

Hiện tại pháp luật Việt Nam không quy định thủ tục bảo hộ dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, trên thực tế, ta không bảo hộ các chỉ dẫn địa lý ở ngữ hệ khác (vì người tiêu dùng Việt Nam khó có thể phân biệt những chỉ dẫn địa lý ở các ngôn ngữ đó) mà bảo hộ bản dịch, phiên âm hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý sang Tiếng Việt hoặc ngữ hệ Latin. Đơn đăng ký dạng dịch nghĩa, phiên âm hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý được xử lý như đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý thông thường.

Các vấn đề cần làm rõ hơn trong Luật như sau:

Vấn đề 1: Bảo hộ chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ đa thành phần có chứa thành phần đã trở thành tên gọi chung của hàng hóa tại Việt Nam

Vấn đề 2: Thẩm quyền tính đến hiểu biết của người tiêu dùng tại Việt Nam khi đánh giá một thuật ngữ có phải là tên gọi chung của hàng hoá tại Việt Nam

Vấn đề 3: Bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở ngôn ngữ ngoài ngữ hệ Latin

2.2 Mục tiêu giải quyết vấn đề

Bổ sung quy định làm rõ việc không bảo hộ riêng thành phần của một chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ đa thành phần nếu thành phần đó đã trở thành tên gọi chung của hàng hoá có liên quan; thẩm quyền trong việc đánh giá một thuật ngữ có phải là tên gọi chung hàng hóa ở Việt Nam và việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở ngôn ngữ ngoài ngữ hệ Latin sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các thủ tục xác lập và thực thi quyền đối với chỉ dẫn địa lý.

2.3 Giải pháp giải quyết vấn đề

Bổ sung quy định làm rõ việc không bảo hộ riêng thành phần của một chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ đa thành phần nếu thành phần đó đã trở thành tên gọi chung của hàng hoá có liên quan; thẩm quyền trong việc đánh giá một thuật ngữ có phải là tên gọi chung hàng hóa ở Việt Nam và việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở ngôn ngữ ngoài ngữ hệ Latin.

81

Page 82: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

2.4 Tác động của giải pháp

Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách này là tổ chức, cá nhân đăng ký chỉ dẫn địa lý, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cung cấp các hàng hóa trùng/tương tự với hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý.

a) Tác động kinh tế

Tác động kinh tế đối với chính sách hiện tại bao gồm:

- Đối với nhà nước: không làm phát sinh chi phí đối với ngân sách nhà nước vì các nội dung này đã bao gồm trong quy trình xử lý đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý.

- Đối với tổ chức, cá nhân đăng ký chỉ dẫn địa lý: Không phát sinh thêm chi phí.

- Đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa trùng/cùng nhóm với hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý: Không phát sinh thêm chi phí.

b) Tác động xã hội

- Đối với nhà nước:

+ Bảo đảm cơ sở pháp lý để xử lý các đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý và đáp ứng cam kết quốc tế.

+ Quy định làm rõ đối tượng bảo hộ, quyền của chủ sở hữu/tổ chức, cá nhân quản lý chỉ dẫn địa lý; làm rõ thẩm quyền trong việc đánh giá tên gọi chung của hàng hoá tại Việt Nam; hướng xử lý đối với đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý ở ngôn ngữ khác ngữ hệ Latin. Điều này giúp cho quá trình áp dụng pháp luật được thống nhất, nhanh chóng, giúp đẩy nhanh quá trình thẩm định đơn nhằm đáp ứng nhu cầu đăng ký của xã hội.

- Đối với tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa trùng/cùng nhóm với hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý:

Quyền được sử dụng thuật ngữ đã trở thành tên gọi chung của hàng hóa (trong chỉ dẫn địa lý) là rõ ràng, khuyến khích các tổ chức, cá nhân này đầu tư, kinh doanh các sản phẩm liên quan tại thị trường Việt Nam.

- Đối với người tiêu dùng hàng hóa liên quan:

Người tiêu dùng có điều kiện để tiếp cận hàng hóa từ nhiều nguồn khác nhau.

c) Tác động về giới

Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung,

82

Page 83: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

không mang tính phân biệt.

d) Tác động về thủ tục hành chính: Phương án này không phát sinh thủ tục hành chính do nội dung thuộc phạm vi công việc phải thực hiện của thẩm định viên.

đ) Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Phương án này không có tác động tới bộ máy nhà nước.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Phương án này không có tác động tới các điều kiện cần thiết để bảo đảm việc thi hành.

- Quyền cơ bản của công dân: Phương án này không có tác động tới các quyền cơ bản của công dân.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Phương án này phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Phương án này bảo đảm việc thực thi được Hiệp định CPTPP.

3. Chính sách 3: Quy định khả năng phản đối việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý trùng/tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam trên cơ sở việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm với nhãn hiệu

3.1 Xác định vấn đề

- Nghĩa vụ theo Điều 18.32.1.b của Hiệp định CPTPP: Trong thủ tục bảo hộ chỉ dẫn địa lý, phải quy định chỉ dẫn địa lý có thể bị từ chối khi có ý kiến của người thứ ba phản đối việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý này trên cơ sở việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam.

- Luật Sở hữu trí tuệ đã cho phép người thứ ba có ý kiến phản đối đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, cơ sở để chỉ dẫn địa lý có thể bị từ chối bảo hộ theo pháp luật hiện hành là việc sử dụng chỉ dẫn địa lý sẽ gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam (Khoản 3 Điều 80).

3.2 Mục tiêu giải quyết vấn đề

Sửa đổi quy định của Luật Sở hữu trí tuệ để bảo đảm khả năng từ chối việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam trên cơ sở việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu.

3.3 Giải pháp giải quyết vấn đề

83

Page 84: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng có thể từ chối bảo hộ chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu.

3.4 Tác động của giải pháp

Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách này là tổ chức, cá nhân đăng ký chỉ dẫn địa lý, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cung cấp các hàng hóa trùng hoặc cùng nhóm với hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý.

a) Tác động kinh tế

Tác động kinh tế đối với chính sách hiện tại bao gồm:

- Đối với nhà nước: không làm phát sinh chi phí đối với ngân sách nhà nước vì chỉ thay đổi nội dung đánh giá từ “sẽ gây nhầm lẫn” sang đánh giá “có khả năng gây nhầm lẫn”.

- Đối với tổ chức, cá nhân đăng ký chỉ dẫn địa lý: Không phát sinh thêm chi phí.

- Đối với chủ nhãn hiệu đang được bảo hộ: Không phát sinh thêm chi phí.

b) Tác động xã hội

- Đối với nhà nước:

+ Bảo đảm cơ sở pháp lý để xử lý các đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý và đáp ứng cam kết quốc tế.

+ Quy định giúp cho quá trình áp dụng pháp luật được thống nhất; đồng thời hạn chế được các xung đột quyền có thể xảy ra khi chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu được sử dụng trên thị trường..

- Đối với chủ nhãn hiệu trùng/tương tự:

Chủ sở hữu nhãn hiệu có thể yên tâm hơn trong hoạt động kinh doanh hàng hóa mang nhãn hiệu do quyền được bảo đảm hơn (trong mối tương quan với chỉ dẫn địa lý).

c) Tác động về giới

Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d) Tác động về thủ tục hành chính:

Phương án này không phát sinh thủ tục hành chính do nội dung thuộc phạm vi công việc phải thực hiện của thẩm định viên.

84

Page 85: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

đ) Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Phương án này không có tác động tới bộ máy nhà nước.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Phương án này không có tác động tới các điều kiện cần thiết để bảo đảm việc thi hành.

- Quyền cơ bản của công dân: Phương án này không có tác động tới các quyền cơ bản của công dân.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Phương án này phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Phương án này bảo đảm việc thực thi được Hiệp định CPTPP.

4. Chính sách 4: Bảo hộ và công nhận chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế

4.1 Xác định vấn đề

Nghĩa vụ theo Điều 18.36 của Hiệp định CPTPP: Việc công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế phải tuân thủ các nguyên tắc về công bố, thủ tục phản đối, thông tin cho các Bên, cơ sở phản đối việc bảo hộ như sau:

Thủ tục: (i) công bố thông tin phục vụ việc phản đối và quy định các thủ tục cho việc phản đối việc công nhận và bảo hộ (bao gồm cả dạng dịch nghĩa và phiên tự, thành phần bị loại trừ (không bảo hộ) đối với thuật ngữ đa thành phần); (ii) dành khoảng thời gian hợp lý và cơ hội cho những người có lợi ích liên quan phản đối hoặc tham gia vào quy trình phản đối; và (iii) thông tin cho các nước trong CPTPP về cơ hội phản đối, không muộn hơn thời điểm bắt đầu thủ tục phản đối.

Căn cứ phản đối (trừ chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang và rượu mạnh): (i) chỉ dẫn địa lý đó có khả năng gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu trong đơn đăng ký hoặc nhãn hiệu đang được bảo hộ; (ii) chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ là tên gọi chung cho hàng hoá liên quan.

Nhìn chung, các yêu cầu về việc công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế của CPTPP (trừ nghĩa vụ thông báo cho các thành viên Hiệp định CPTPP) tương tự như quy định về công bố, thủ tục phản đối, cơ sở phản đối như đối với các chỉ dẫn địa lý được đăng ký theo thủ tục quốc gia.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam mới chỉ thừa nhận quyền đối với chỉ dẫn địa lý được xác lập theo điều ước quốc tế (Điều 13 Nghị định 103/2006/NĐ-CP), hoàn toàn chưa có quy định về điều kiện bảo hộ, công nhận cũng như thủ

85

Page 86: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

tục xử lý các yêu cầu bảo hộ, công nhận các chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế. Tuy nhiên, trong đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu, về cơ bản, việc xử lý các yêu cầu công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý được thực hiện theo các quy định về công bố, phản đối, cơ sở phản đối như đối với các chỉ dẫn địa lý được đăng ký theo thủ tục quốc gia.

Vấn đề: Điều kiện bảo hộ, thủ tục xử lý đối với chỉ dẫn địa lý được yêu cầu công nhận hoặc bảo hộ theo điều ước quốc tế.

4.2 Mục tiêu giải quyết vấn đề

Làm rõ điều kiện bảo hộ, thủ tục xử lý yêu cầu công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế như yêu cầu của Hiệp định CPTPP.

4.3 Giải pháp giải quyết vấn đề

Bổ sung quy định về điều kiện bảo hộ, thủ tục xử lý yêu cầu công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế theo hướng dẫn chiếu đến các quy định tương ứng áp dụng cho đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý được nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ theo thủ tục thông thường.

4.4 Tác động của giải pháp

a) Tác động kinh tế

- Đối với nhà nước: không phát sinh chi phí.

- Đối với tổ chức, cá nhân đăng ký chỉ dẫn địa lý: Không phát sinh thêm chi phí vì chỉ quy định áp dụng tương tự các thủ tục dành cho các chỉ dẫn địa lý đăng ký trực tiếp tại Cục Sở hữu trí tuệ .

b) Tác động xã hội

- Đối với nhà nước:

Bảo đảm cơ sở pháp lý để xử lý các chỉ dẫn địa lý được công nhận bảo hộ theo các điều ước quốc tế.

Việc quy định về công bố, phản đối, cơ sở phản đối giữa chỉ dẫn địa lý được bảo hộ theo quyết định cấp văn bằng bảo hộ của Cục Sở hữu trí tuệ với chỉ dẫn địa lý được công nhận và bảo hộ theo điều ước quốc tế nhằm tạo điều kiện công bằng về cơ hội có ý kiến của những bên có liên quan trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cho dù chỉ dẫn địa lý được bảo hộ theo thủ tục quốc gia hay thủ tục quốc tế.

Quy định này cũng mở cơ hội cho việc đăng ký chỉ dẫn địa lý qua đàm phán điều ước quốc tế thông qua việc không áp dụng tương tự các thủ tục về đại diện, trình tự và thời hạn liên quan đến thẩm định hình thức và nội dung như đối

86

Page 87: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

với đăng ký chỉ dẫn địa lý theo thủ tục quốc gia.

Vì vậy, người nộp đơn có thêm cơ hội lựa chọn giữa thủ tục đăng ký quốc gia hay đàm phán quốc tế trên cơ sở cân đối thời gian và lợi ích giữa hai thủ tục.

c) Tác động về giới

Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d) Tác động về thủ tục hành chính: Phương án này không phát sinh thủ tục hành chính vì chỉ dẫn chiếu đến việc áp dụng thủ tục tương tự đã có.

đ) Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Phương án này không có tác động tới bộ máy nhà nước.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Phương án này không có tác động tới các điều kiện cần thiết để bảo đảm việc thi hành.

- Quyền cơ bản của công dân: Phương án này không có tác động tới các quyền cơ bản của công dân.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Phương án này phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Phương án này bảo đảm việc thực thi được Hiệp định CPTPP.

5. Chính sách 5: Bổ sung quy định việc nộp đơn nhãn hiệu bằng phương tiện điện tử

5.1 Xác định vấn đề

Theo quy định tại Điều 18.24 của Hiệp định CPTPP thì: các bên phải quy định hệ thống nộp đơn nhãn hiệu bằng phương tiện điện tử.

Hiện nay, Luật Sở hữu trí tuệ chỉ có Điều 108 quy định về việc “tiếp nhận đơn đăng ký sở hữu công nghiệp”. Tuy nhiên, Điều này lại không quy định về cách thức tiếp nhận đơn mà chỉ quy định về các thông tin và tài liệu tối thiểu phải có tại thời điểm tiếp nhận đơn.

Điểm 21.1 Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 của Bộ KH&CN quy định “Đơn có thể được nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ hoặc tại các địa điểm tiếp nhận đơn khác do Cục Sở hữu trí tuệ thiết lập. Đơn cũng có thể được gửi qua bưu điện tới các địa điểm tiếp nhận đơn nói trên”.

Trên thực tế, trong khuôn khổ thực hiện Nghị quyết 36A của Chính phủ

87

Page 88: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

về cải cách hành chính, Cục Sở hữu trí tuệ đã xây dựng hệ thống nộp đơn điện tử trực tuyến đối với các đối tượng SHCN, trong đó có nhãn hiệu và hệ thống này đã hoạt động từ năm 2017.

Vấn đề: Pháp luật SHTT hiện hành chỉ quy định hai cách thức tiếp nhận đơn (hai cách thức nộp đơn) đó là: nộp đơn trực tiếp và nộp qua đường bưu điện, chưa quy định về việc nộp đơn trực tuyến.

5.2 Mục tiêu giải quyết vấn đề

Do Hiệp định CPTPP yêu cầu các nước phải mở rộng cách thức tiếp nhận đơn, không chỉ bao gồm nhận hồ sơ bằng giấy mà phải có cả hình thức nộp đơn nhãn hiệu qua hình thức điện tử, vì vậy cần phải bổ sung quy định tương ứng để bảo đảm phù hợp với nghĩa vụ của Hiệp định CPTPP.

5.3 Giải pháp giải quyết vấn đề

Bổ sung vào Luật Sở hữu trí tuệ quy định về các cách thức nộp đơn sở hữu công nghiệp, trong đó có hình thực nộp đơn bằng phương tiện điện tử.

5.4 Tác động của giải pháp:

Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách này là tổ chức, cá nhân nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam; các đại diện sở hữu công nghiệp (SHCN); và cơ quan quản lý nhà nước.

a) Tác động kinh tế

- Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Việc triển khai cách thức tiếp nhận đơn điện tử đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đồng bộ, hiện đại để có thể tiếp nhận được số lượng đơn nhãn hiệu có xu hướng ngày càng tăng, đồng thời bảo đảm được sự thông suốt, liên tục, không gián đoạn của hệ thống tiếp nhận đơn này.

Tuy nhiên, với việc triển khai việc nộp đơn bằng phương tiện điện tử, cơ quan tiếp nhận đơn đăng ký sở hữu công nghiệp là Cục Sở hữu trí tuệ sẽ giảm bớt được các công việc liên quan đến việc tiếp nhận đơn thông thường (bằng hồ sơ giấy), giảm được các công việc liên quan đến nhập (thủ công) dữ liệu đơn vào hệ thống cơ sở dữ liệu, kiểm tra dữ liệu đã nhập, v.v, từ đó giảm được số lượng người lao động trong quy trình tiếp nhận đơn và nhập dữ liệu, kéo theo đó là giảm được chi phí về tiền lương phải trả cho người lao động, chi phí về điện, nước, in ấn, v.v..

- Đối với các tổ chức, cá nhân, đại diện sở hữu công nghiệp: với hệ thống công nghệ thông tin phát triển, hệ thống mạng Internet được triển khai một cách rộng khắp, khi triển khai việc nộp đơn trực tuyến, các tổ chức, cá nhân không

88

Page 89: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

phải tốn thời gian đi lại, họ có thể nộp đơn ở bất kỳ đâu, bất kỳ thời điểm nào. Ngoài ra, việc nộp đơn trực tuyến cũng làm giảm bớt chi phí về in ấn các loại giấy tờ, thuê lao động trong việc đi nộp đơn, chi phí đi lại cho các tổ chức, cá nhân.

b) Tác động xã hội

Với việc nộp đơn trực tuyến, khi các đầu mục tài liệu cho mỗi thủ tục được khai đầy đủ cùng với số tiền phí, lệ phí tương ứng, số đơn sẽ tự động cấp, giúp người nộp đơn có được sự chắc chắn và bảo đảm về đơn đã được nộp của mình, đồng thời, giảm thiểu các sai sót không đáng có trong quá trình nhập dữ liệu đơn.

c) Tác động về giới

Chính sách này không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d) Tác động về thủ tục hành chính

Chính sách này không phát sinh thủ tục hành chính. Thủ tục hành chính liên quan đến việc nộp đơn nhãn hiệu sẽ được bổ sung thêm cách thức nộp đơn bằng phương tiện điện tử.

đ) Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Chính sách này không có tác động tới bộ máy nhà nước.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Trên thực tế, việc nộp đơn điện tử đã được triển khai. Trong thời gian tới, cách thức nộp đơn này tiếp tục được hoàn thiện hơn trên cơ sở triển khai phương thức nộp phí, lệ phí trực tuyến và đầu tư bổ sung cơ sở vật chất (máy móc, thiết bị công nghệ thông tin).

- Quyền cơ bản của công dân: Chính sách này bảo đảm quyền tự do, quyền bình đẳng của tổ chức, cá nhân trong hoạt động đăng ký quyền sở hữu công nghiệp.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Chính sách này phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.

89

Page 90: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Chính sách này bảo đảm việc thực thi nghĩa vụ trong Hiệp định CPTPP (Điều 18.24).

6. Chính sách 6: Loại bỏ quy định yêu cầu đăng ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu tại cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp để có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba và bổ sung quy định về việc sử dụng nhãn hiệu của bên nhận chuyển quyền cũng được coi là việc sử dụng của chủ sở hữu nhãn hiệu liên quan đến các thủ tục xác lập, duy trì và bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu

6.1 Xác định vấn đề

Theo quy định tại Điều 18.27 của Hiệp định CPTPP thì các bên phải quy định:

- Việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu có hiệu lực theo thỏa thuận của các bên mà không cần phải đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp.

- Việc sử dụng nhãn hiệu của bên nhận chuyển quyền sử dụng theo hợp đồng chuyển quyền sử dụng được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu đó trong việc xác lập quyền, duy trì quyền và thực thi quyền đối với nhãn hiệu.

Vấn đề: Khoản 2 Điều 148 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng là “….Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thoả thuận giữa các bên, nhưng chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba khi đã được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp”.

Với quy định như vậy, việc sử dụng nhãn hiệu của bên được chuyển quyền cũng không được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu liên quan đến các thủ tục xác lập, duy trì và bảo vệ quyền nếu hợp đồng liên quan không được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ.

6.2 Mục tiêu giải quyết vấn đề

Do Hiệp định CPTPP quy định không được yêu cầu phải đăng ký để xác định hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu và phải coi việc sử dụng nhãn hiệu của bên được chuyển quyền được coi là sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu liên quan đến các thủ tục xác lập, duy trì và bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu nên phải sửa đổi quy định hiện hành để đáp ứng nghĩa vụ theo Hiệp định CPTPP.

6.3 Giải pháp giải quyết vấn đề

90

Page 91: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Sửa đổi quy định của Luật Sở hữu trí tuệ để khẳng định hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu là theo thỏa thuận giữa các bên và việc sử dụng nhãn hiệu của bên được chuyển quyền được coi là sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu liên quan đến các thủ tục xác lập, duy trì và bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu.

6.4 Tác động của giải pháp

Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách này là tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu nhãn hiệu và người được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu; và cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp.

a) Tác động kinh tế

- Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Với việc không yêu cầu phải đăng ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu tại Cục Sở hữu trí tuệ, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ không phải tiến hành thủ tục ghi nhận hợp đồng cũng như các thủ tục có liên quan như ghi nhận gia hạn, sửa đổi, chấm dứt trước thời hạn hiệu lực hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Theo đó, ngân sách nhà nước sẽ mất đi nguồn thu từ các thủ tục ghi nhận này. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến việc nhà nước không phải tổ chức các nguồn lực (nhân lực và tài chính, cơ sở vật chất) để thực hiện thủ tục này.

- Đối với các tổ chức, cá nhân:

+ Các bên trong hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu sẽ không phải mất thời gian và chi phí cho việc đăng ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng tại Cục Sở hữu trí tuệ, cụ thể: chi phí cho việc đăng ký hợp đồng khi chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu là 520.000 đồng đối với mỗi nhãn hiệu theo hợp đồng chuyển quyền, thời gian xử lý hồ sơ yêu cầu ghi nhận là 2 tháng.

+ Với quy định coi việc sử dụng nhãn hiệu của bên được chuyển quyền cũng là việc sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu sẽ bảo đảm được ý nghĩa thực sự của yêu cầu sử dụng nhãn hiệu liên quan đến thủ tục xác lập, duy trì và bảo vệ quyền.

b) Tác động xã hội

Bản thân hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu khi đã được ký giữa hai bên đã có giá trị pháp lý. Theo đó, khi thực hiện các giao dịch cũng như nếu có các tranh chấp phát sinh với bên thứ ba, bên thứ ba không được yêu cầu hợp đồng đó phải được đăng ký tại Cục SHTT.

c) Tác động về giới

91

Page 92: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Chính sách này không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d) Tác động về thủ tục hành chính

Chính sách này không phát sinh thủ tục hành chính.

đ) Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Chính sách này không có tác động tới bộ máy nhà nước.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Chính sách này chỉ loại bỏ một thủ tục được quy định trong Luật SHTT. Do đó, chính sách này không đặt ra vấn đề liên quan đến các điều kiện bảo đảm thi hành.

- Quyền cơ bản của công dân: Chính sách này bảo đảm quyền tự do, quyền bình đẳng của tổ chức, cá nhân trong hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Các quy định trong hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ phải được sửa đổi, bổ sung để thực thi chính sách này, đó là các quy định về xác lập quyền, chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu và bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Chính sách này bảo đảm việc thực thi nghĩa vụ trong Hiệp định CPTPP (Điều 18.27).

7. Chính sách 7: Quy định thâm quyền của Toà án về việc xem xét bất các cách tính giá trị hợp pháp nào do chủ thể quyền đưa ra khi xác định khoản bồi thường thiệt hại để đền bù cho tổn thất mà chủ thể quyền phải gánh chịu trong các vụ cố ý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

7.1 Xác định vấn đề

Nghĩa vụ theo Điều 18.74.4 của Hiệp định CPTPP: Toà án khi xác định khoản bồi thường thiệt hại để đền bù cho tổn thất mà chủ thể quyền phải gánh chịu do hành vi xâm phạm quyền SHTT do người xâm phạm đã thực hiện khi biết hoặc có cơ sở hợp lý để biết điều đó, phải xem xét bất kỳ cách tính giá trị hợp pháp nào do chủ thể quyền đưa ra, trong đó có thể bao gồm lợi nhuận bị mất, giá trị của hàng hoá hoặc dịch vụ bị xâm phạm tính theo giá thị trường, hoặc theo giá bán lẻ được đề xuất.

Pháp luật SHTT quy định trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền SHTT đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường. Thiệt hại vật chất bao gồm

92

Page 93: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận... Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở tổn thất thực tế mà chủ thể quyền phải chịu, và mức độ này được căn cứ trên những chứng cứ về thiệt hại do các bên cung cấp.

Tuy nhiên, pháp luật SHTT chưa quy định cụ thể thẩm quyền xem xét của Toà án đối với các cách tính bồi thường thiệt hại do chủ thể quyền đưa ra.

7.2 Mục tiêu giải quyết vấn đề

Quy định về thẩm quyền xem xét của Toà án đối với các cách tính bồi thường thiệt hại do chủ thể quyền đưa ra khi quyết định mức bồi thường thiệt hại như yêu cầu của Điều 18.74.4 đối với các vụ việc cố ý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

7.3 Giải pháp giải quyết vấn đề

Sửa đổi Luật SHTT theo hướng bổ sung thẩm quyền xem xét các cách tính giá trị hợp pháp do chủ thể quyền đưa ra của Toà án khi quyết định mức bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHTT mà người xâm phạm đã thực hiện khi biết hoặc có cơ sở hợp lý để biết điều đó.

7.4 Tác động của giải pháp:

Đối tượng chịu tác động trực tiếp của quy định này là Tòa án, các bên liên quan đến tranh chấp.

a) Tác động kinh tế

- Đối với nhà nước: Việc sửa đổi quy định này đòi hỏi Tòa án phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn để đưa ra mức bồi thường thỏa đáng, do đó, có thể làm gia tăng chi phí đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực SHTT cho thẩm phán tại Toà án nhằm đáp ứng các yêu cầu của công tác xét xử.

- Đối với chủ thể quyền sở hữu trí tuệ: Việc sửa đổi quy định này theo hướng mở rộng các cách tính thiệt hại mà chủ thể quyền được sử dụng khi đề xuất mức bồi thường tạo thuận lợi cho chủ thể quyền trong việc khắc phục những thiệt hại mà hành vi xâm phạm quyền gây ra. Điều này, góp phần xây dựng hệ thống thực thi quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả, từ đó khuyến khích hoạt động sáng tạo đổi mới.

b) Tác động xã hội

- Đối với nhà nước: Việc sửa đổi quy định này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho trong quá trình xét xử các tranh chấp dân sự về quyền SHTT và có thể rút ngắn thời gian xét xử tại Toà án do Toà án sẽ có nhiều căn cứ hơn để xem xét mức bồi thường thiệt hại.

- Đối với tổ chức, cá nhân: Quy định này có thể dẫn đến việc tăng mức

93

Page 94: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

bồi thường thiệt hại mà bên có hành vi xâm phạm phải trả cho chủ thể quyền. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thận trọng hơn khi sản xuất kinh doanh để tránh xâm phạm quyền của người khác, góp phần dần dần tạo ra văn hóa tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ và ý thức xây dựng và tạo ra tài sản trí tuệ cho riêng mình. Tuy nhiên, việc tăng mức bồi thường thiệt hại cũng có thể dẫn đến nguy cơ rơi vào tình trạng phá sản (do mức bồi thường thiệt hại vượt quá khả năng thanh toán) đối với những doanh nghiệp nhỏ, vào mới tham gia thị trường, chưa có kinh nghiệm về sở hữu trí tuệ.

c) Tác động về giới

Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d) Tác động về thủ tục hành chính

Phương án này không phát sinh thủ tục hành chính do nội dung sửa đổi không liên quan đến thủ tục hành chính.

đ) Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Phương án này không tác động tới tổ chức bộ máy của Toà án.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực SHTT cho đội ngũ thẩm phán.

- Quyền cơ bản của công dân: Phương án này không có tác động tới các quyền cơ bản của công dân.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Phương án này phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Phương án này bảo đảm việc thực thi được Hiệp định CPTPP.

8. Chính sách 8: Quy định thâm quyền của Toà án trong việc yêu cầu bên thua kiện phải thanh toán cho bên thắng kiện phí luật sư hợp lý trong các vụ xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền liên quan, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và sáng chế

8.1 Xác định vấn đề

Nghĩ vụ theo Điều 18.74.10: Khi kết thúc thủ tục tố tụng dân sự, ít nhất trong các vụ kiện xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền liên quan, xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, Toà án có thẩm quyền yêu cầu bên thua kiện phải thanh toán cho bên thắng kiện chi phí hoặc phí

94

Page 95: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

toà án và phí luật sư thoả đáng, hoặc bất kỳ chi phí nào khác được quy định theo luật pháp của bên đó.

Theo quy định của pháp luật dân sự thì cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật. Trong trường hợp không tuân thủ thì Tòa án căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm mà có thể buộc bồi thường nếu gây thiệt hại.

Pháp luật về tố tụng dân sự quy định chi phí cho người phiên dịch, luật sư do người có yêu cầu chịu, trừ trường hợp các bên đương sự có thoả thuận khác.

Theo quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án thì nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận.

Luật SHTT quy định trong thủ tục xử lý xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp dân sự, nếu nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền SHTT đã gây thiệt hại cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường, bao gồm cả chi phí hợp lý để thuê luật sư. Tuy nhiên, Luật SHTT chưa điều chỉnh trường hợp Toà án kết luận không có hành vi xâm phạm quyền SHTT. Theo Hiệp định CPTPP, trong trường hợp này, Toà án có thẩm quyền yêu cầu nguyên đơn phải thanh toán cho bị đơn chi phí toà án, phí luật sư hợp lý hoặc các chi phí khác theo quy định của pháp luật.

8.2 Mục tiêu giải quyết vấn đề

Sửa đổi Luật SHTT để làm rõ nghĩa vụ của bên thua kiện phải thanh toán cho bên thắng kiện chi phí hợp lý để thuê luật sư cũng như thẩm quyền xem xét của Toà án trong các tranh chấp dân sự.

8.3 Giải pháp giải quyết vấn đề

Sửa đổi quy định về bồi thường thiệt hại trong các vụ việc tranh chấp về quyền SHTT theo hướng trong các vụ việc tranh chấp về quyền SHTT, Toà án có quyền yêu cầu bên thua kiện phải thanh toán cho bên thắng kiện chi phí hợp lý để thuê luật sư.

8.4 Tác động của giải pháp:

Đối tượng chịu tác động trực tiếp của quy định này là Tòa án, các bên liên quan đến tranh chấp.

95

Page 96: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

a) Tác động kinh tế

- Đối với nhà nước: Hầu như không có tác động về mặt kinh tế do theo quy định của pháp luật hiện hành Tòa án phải xem xét yêu cầu bên xâm phạm quyền thanh toán chi phí thuê luật sư cho nguyên đơn.

- Đối với tổ chức, cá nhân: Quy định này cân bằng hơn so với quy định trước đây, trong đó nếu Tòa xác định không có hành vi xâm phạm xảy ra thì bị đơn có thể được thanh toán chi phí thuê luật sư, bù đắp một phần tổn thất phải chịu khi rơi vào tình trạng bị kiện tụng trong khi trên thực tế bên đó không thực hiện hành vi xâm phạm quyền của nguyên đơn.

b) Tác động xã hội

- Đối với nhà nước: Không có tác động.

- Đối với tổ chức, cá nhân: Việc bổ sung quy định này sẽ giúp cân bằng quyền lợi/ nghĩa vụ giữa các bên trong các tranh chấp dân sự về quyền SHTT. Nó cũng đòi hỏi các bên phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn khi nộp đơn yêu cầu Tòa án thực thi quyền của mình.

c) Tác động về giới

Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d) Tác động về thủ tục hành chính

Phương án này không phát sinh thủ tục hành chính do nội dung sửa đổi không liên quan đến thủ tục hành chính.

đ) Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Phương án này không có tác động tới tổ chức bộ máy của Toà án.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Tăng cường công tác đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực SHTT cho thẩm phán.

- Quyền cơ bản của công dân: Phương án này không có tác động tới các quyền cơ bản của công dân.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Phương án này phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Phương án này bảo đảm việc thực thi được Hiệp định CPTPP.

9. Chính sách 9: Quy định thâm quyền (của Tòa án) yêu cầu bên lạm

96

Page 97: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

dụng thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ bồi thường thỏa đáng (bao gồm cả các chi phí mà bị đơn phải chịu, trong đó có thể bao gồm phí luật sư hợp lý) cho bị đơn do sự lạm dụng thủ tục thực thi quyền đó gây ra

9.1 Xác định vấn đề

Nghĩa vụ theo Điều 18.74.15 Hiệp định CPTPP: Toà án có thẩm quyền yêu cầu một bên, mà theo yêu cầu của bên này các biện pháp được thực hiện và đã lạm dụng thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả và quyền liên quan, phải bồi thường thỏa đáng cho bên bị áp dụng hoặc bị cản trở một cách sai trái cho những thiệt hại đã phải chịu do việc lạm dụng đó. Toà án cũng phải có thẩm quyền quyết định buộc nguyên đơn trả cho bị đơn các chi phí, bao gồm cả phí luật sư hợp lý.

Theo quy định của pháp luật dân sự thì cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật. Trong trường hợp không tuân thủ thì Tòa án căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm mà có thể buộc bồi thường nếu gây thiệt hại.

Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có quy định về việc bồi thường thiệt hại do việc lạm dụng các thủ tục bảo vệ quyền SHTT.

9.2 Mục tiêu giải quyết vấn đề

Quy định thẩm quyền của Tòa trong việc yêu cầu bên lạm dụng các thủ tục bảo vệ quyền SHTT phải bồi thường thỏa đáng (bao gồm cả các chi phí mà bị đơn phải chịu, trong đó có thể bao gồm phí luật sư hợp lý) cho bị đơn do sự lạm dụng thủ tục thực thi quyền.

9.3 Giải pháp giải quyết vấn đề

Bổ sung quy định về bồi thường thiệt hại do sự lạm dụng thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ vào điều về bồi thường thiệt hại trong các vụ việc tranh chấp về quyền SHTT hoặc điều về quyền tự bảo vệ quyền SHTT của chủ thể quyền SHTT theo hướng tổ chức, cá nhân khi bị thiệt hại do hành vi lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền SHTT của người khác thì có quyền yêu cầu bồi thường cho những thiệt hại do việc lạm dụng gây ra, bao gồm cả chi phí hợp lý để thuê luật sư.

Đồng thời bổ sung quy định về một số trường hợp điển hình có thể bị coi là lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền SHTT.

9.4 Tác động của giải pháp:

97

Page 98: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

Đối tượng chịu tác động trực tiếp của quy định này là Tòa án, các bên liên quan đến tranh chấp.

a) Tác động kinh tế

- Đối với nhà nước: Tòa án phải xem xét thêm yêu cầu bồi thường của bên bị thiệt hại do hành vi lạm dụng thủ tục thực thi quyền của nguyên đơn. Tuy nhiên, lại giảm được khối lượng công việc do các chủ thể quyền phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn khi đi yêu cầu thực thi quyền.

- Đối với tổ chức, cá nhân: Chủ thể quyền nếu có hành vi lạm dụng thủ thực thi quyền sẽ phải bồi thường.

b) Tác động xã hội

- Đối với nhà nước: Không có tác động.

- Đối với tổ chức, cá nhân: Quy định này cân bằng hơn so với quy định trước đây, hạn chế được các hành vi cản trở hoạt động kinh doanh hợp pháp.

c) Tác động về giới

Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d) Tác động về thủ tục hành chính

Phương án này không phát sinh thủ tục hành chính do nội dung sửa đổi không liên quan đến thủ tục hành chính.

đ) Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Phương án này không có tác động tới tổ chức bộ máy của Toà án.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Tăng cường công tác đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực SHTT cho thẩm phán.

- Quyền cơ bản của công dân: Phương án này không có tác động tới các quyền cơ bản của công dân.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Phương án này phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành ở quy định nội dung, nhưng không hợp lý về mặt cấu trúc.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Phương án này bảo đảm việc thực thi được Hiệp định CPTPP.

10. Chính sách 10: Nghĩa vụ cung cấp thông tin cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thu giữ hoặc từ ngày xác định

98

Page 99: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

hàng hoá là giả mạo nhãn hiệu hoặc sao chép lậu quyền tác giả đối với hàng nhập khâu

10.1 Xác định vấn đề

Cơ quan hải quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho chủ thể quyền SHTT hoặc:

- Không chậm trễ quá mức khi đã thu giữ hoặc đình chỉ thông quan hàng hóa bị nghi ngờ giả mạo nhãn hiệu hoặc sao chép lậu quyền tác giả; hoặc

- Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thu giữ hoặc từ ngày xác định hàng hoá là giả mạo nhãn hiệu hoặc sao chép lậu quyền tác giả, ít nhất đối với hàng nhập khẩu.

Luật SHTT quy định trong trường hợp chủ thể quyền SHTT có đề nghị kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT thì khi phát hiện lô hàng có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT, cơ quan hải quan phải thông báo ngay cho người đó.

Luật Hải quan quy định khi phát hiện lô hàng có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT, cơ quan hải quan tạm dừng làm thủ tục hải quan và thông báo ngay bằng văn bản cho người đề nghị kiểm tra, giám sát biết. Trong vòng 5 ngày, nếu người đề nghị kiểm tra, giám sát có yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan và nộp các tài liệu và chứng từ bảo lãnh, cơ quan hải quan sẽ ra quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan.

Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định nghĩa vụ của cơ quan hải quan phải cung cấp các thông tin liên quan đến hàng hoá, người gửi hàng, nhà xuất khẩu, người nhận hàng, hoặc nhà nhập khẩu... cho chủ thể quyền nếu chủ thể quyền không yêu cầu kiểm tra giám sát, nhưng yêu cầu làm thủ tục tạm dừng hải quan. Vì vậy cần sửa đổi quy định pháp luật để thể hiện rõ nghĩa vụ này của cơ quan hải quan.

10.2 Mục tiêu giải quyết vấn đề

Bổ sung quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin cho chủ thể quyền của cơ quan hải quan trong trường hợp ra quyết định tạm dừng theo yêu cầu của chủ thể quyền khi không có yêu cầu giám sát.

10.3 Giải pháp giải quyết vấn đề

Bổ sung quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định tạm dừng trong trường hợp chủ thể quyền không yêu cầu kiểm tra giám sát, nhưng yêu cầu làm thủ tục tạm dừng hải quan và đã thực

99

Page 100: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định. Thông tin cung cấp bao gồm tên và địa chỉ của người gửi hàng, nhà xuất khẩu, người nhận hàng, hoặc nhà nhập khẩu; bản mô tả hàng hoá, số lượng hàng hoá, và nếu biết, nước xuất xứ của hàng hoá cho chủ thể quyền.

10.4 Tác động của giải pháp:

a) Tác động kinh tế

- Đối với nhà nước: Việc sửa đổi quy định này sẽ gia tăng khối lượng công việc và chi phí cho cơ quan hải quan do phải gửi thông báo cung cấp thông tin cho chủ thể quyền.

- Đối với tổ chức, cá nhân: Việc sửa đổi quy định này không có tác động kinh tế đối với tổ chức, cá nhân.

b) Tác động xã hội

- Đối với nhà nước: Việc sửa đổi quy định này làm gia tăng khối lượng công việc của các cơ quan hải quan do phải gửi thông báo cung cấp thông tin cho chủ thể quyền.

- Đối với tổ chức, cá nhân: Việc sửa đổi quy định này giúp chủ thể quyền được cung cấp đầy đủ thông tin giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

c) Tác động về giới

Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d) Tác động về thủ tục hành chính

Giải pháp này không có tác động về thủ tục hành chính vì không phát sinh thủ tục nào đối với chủ thể quyền.

đ) Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Giải pháp này không có tác động tới tổ chức bộ máy của cơ quan hải quan do nội dung sửa đổi không liên quan đến tổ chức bộ máy.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Giải pháp này không đòi hỏi các điều kiện bảo đảm thi hành nhưng phải có nhân lực thực hiện.

- Quyền cơ bản của công dân: Giải pháp này không có tác động tới các quyền cơ bản của công dân.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Giải pháp này không phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.

100

Page 101: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Giải pháp này bảo đảm việc thực thi được Hiệp định CPTPP.

11. Chính sách 11: quy định mức phí nộp đơn yêu cầu kiểm tra, giám sát và tạm dừng thủ tục hải quan, phí lưu kho và phí tiêu hủy không cản trở một cách bất hợp lý việc áp dụng các thủ tục liên quan tới các biện pháp tại biên giới

11.1 Xác định vấn đề

Nếu một bên thiết lập hoặc ấn định các mức phí liên quan đến các thủ tục kiểm soát tại biên giới như phí nộp đơn, phí lưu kho hoặc phí tiêu hủy thì các khoản phí này phải được quy định ở mức không cản trở một cách bất hợp lý việc áp dụng các thủ tục.

Hiện nay, phí hải quan kiểm tra giám sát, hoặc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo hộ quyền SHTT là 200.000 đồng/1 đơn.

Về phí tiêu huỷ, pháp luật có quy định tổ chức cá nhân vi phạm hành chính có nghĩa vụ phải tiêu huỷ tang vật thuộc đối tượng bị tiêu hủy. Trường hợp không tự nguyện thực hiện việc tiêu huỷ thì bị cưỡng chế thực hiện. Tuy nhiên phí tiêu hủy chưa được quy định cụ thể trong pháp luật về SHTT và hải quan.

11.2 Mục tiêu giải quyết vấn đề

Luật SHTT có quy định tổ chức, cá nhân phải nộp phí, lệ phí khi tiến hành các thủ tục liên quan đến quyền SHTT theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, chưa đưa ra được nguyên tắc của việc nộp phí, lệ phí. Do đó, cần bổ sung quy định mang tính nguyên tắc này.

11.3 Giải pháp giải quyết vấn đề

Bổ sung quy định mang tính nguyên tắc khi xây dựng các loại phí hoặc mức phí không được cản trở một cách bất hợp lý việc áp dụng các thủ tục liên quan.

11.4 Tác động của giải pháp

a) Tác động kinh tế

- Đối với nhà nước: Không có tác động vì chưa có mức phí.

- Đối với tổ chức, cá nhân: Quy định này giúp các tổ chức, cá nhân cũng như doanh nghiệp tiết kiệm được các chi phí khi thực hiện các thủ tục liên quan đến việc bảo vệ quyền SHTT tại biên giới do mức phí, lệ phí đã được nghiên cứu, cân nhắc kĩ lưỡng trước khi ban hành.

101

Page 102: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

b) Tác động xã hội

- Đối với nhà nước: Quy định này giúp việc ban hành các quy định về phí, lệ phí được khoa học, chính xác và khả thi, qua đó, góp phần nâng cao chất lượng của công tác xây dựng chính sách, pháp luật.

- Đối với cá nhân tổ chức: Quy định này tạo thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức cũng như doanh nghiệp trong việc tiến hành các thủ tục liên quan đến việc bảo vệ quyền SHTT tại biên giới.

c) Tác động về giới

Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không mang tính phân biệt.

d) Tác động về thủ tục hành chính

Giải pháp này không phát sinh thủ tục hành chính do nội dung sửa đổi không liên quan đến thủ tục hành chính.

đ) Tác động tới hệ thống pháp luật

- Bộ máy nhà nước: Giải pháp này không có tác động tới tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước do nội dung sửa đổi không liên quan đến tổ chức bộ máy.

- Các điều kiện bảo đảm thi hành: Giải pháp này không có tác động tới các điều kiện cần thiết để bảo đảm việc thi hành.

- Quyền cơ bản của công dân: Giải pháp này không có tác động tới các quyền cơ bản của công dân.

- Phù hợp hệ thống pháp luật: Giải pháp này phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.

- Tương thích với các Điều ước quốc tế: Giải pháp này bảo đảm việc thực thi được Hiệp định CPTPP./.

KT. BỘ TRƯỞNGTHỨ TRƯỞNG

Trần Quốc Khánh

102

Page 103: BỘ TƯ PHÁPlegal.moit.gov.vn/data/documents/bills/939-1. Du thao To... · Web viewCơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết, chuyên sâu về bảo hiểm, đồng bộ với

103