bỘ vĂn hÓa, thỂ thao vÀ du lỊchdatafile.chinhphu.vn/files/duthaovbpl/2017/05/bc danh...

62
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH _______________________________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc __________________________________________________________ Hà Nội, ngày tháng năm 2017 BÁO CÁO Đánh giá tác động chính sách trong dự án Luật thư viện ________________________ Mục A XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ BẤT CẬP TỔNG QUAN I. BỐI CẢNH XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH 1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về thư viện Ngay từ năm 2001, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định “Tạo điều kiện để nhân dân ngày càng nâng cao trình độ thẩm mỹ và thưởng thức nghệ thuật, trở thành những chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời hưởng thụ ngày càng nhiều các thành quả văn hóa. Nâng cao chất lượng hệ thống bảo tàng lịch sử, bảo tàng cách mạng; đẩy mạnh xây dựng thư viện, nhà văn hóa, nhà thông tin…” 1 . Nhiệm vụ này cũng được Đảng và Nhà nước xác định cụ thể qua việc thực hiện các hoạt động sau: - Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả. Hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế. - “…Phát triển mạng lưới thư viện, hiện đại hóa công tác thư viện, lưu trữ…” 2 . - “…Tổ chức hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia, các thư viện điện tử theo hướng hiện đại. Mở rộng mạng thông tin để đưa tri thức khoa học đến với mọi người” 3 . 1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. –H.: NXB Chính trị quốc gia.-Tr 114. 2 Trích Báo cáo của BCH Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. –H.: NXB Chính trị quốc gia.-Tr 208. DỰ THẢO LẦN 2

Upload: others

Post on 08-Feb-2020

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

_______________________________

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc__________________________________________________________

Hà Nội, ngày tháng năm 2017

BÁO CÁOĐánh giá tác động chính sách trong dự án Luật thư

viện________________________

Mục AXÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ BẤT CẬP TỔNG QUAN

I. BỐI CẢNH XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về thư việnNgay từ năm 2001, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định “Tạo điều kiện để nhân dân ngày càng nâng cao trình độ thẩm mỹ và thưởng thức nghệ thuật, trở thành những chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời hưởng thụ ngày càng nhiều các thành quả văn hóa. Nâng cao chất lượng hệ thống bảo tàng lịch sử, bảo tàng cách mạng; đẩy mạnh xây dựng thư viện, nhà văn hóa, nhà thông tin…”1.

Nhiệm vụ này cũng được Đảng và Nhà nước xác định cụ thể qua việc thực hiện các hoạt động sau:

- Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả. Hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế.

- “…Phát triển mạng lưới thư viện, hiện đại hóa công tác thư viện, lưu trữ…”2.- “…Tổ chức hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia, các thư

viện điện tử theo hướng hiện đại. Mở rộng mạng thông tin để đưa tri thức khoa học đến với mọi người”3.

- “Chăm lo phát triển nhu cầu văn hóa đọc của các tầng lớp nhân dân, tổ chức và phát triển các lực lượng, mạng lưới phát hành xuất bản phẩm đảm bảo đáp ứng đầy đủ, đúng đối tượng và địa bàn, đặc biệt quan tâm vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và miền núi”, “Tập trung củng cố và phát triển hệ thống thư viện, các loại phòng đọc, trước hết ở cơ sở”4.

1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. –H.: NXB Chính trị quốc gia.-Tr 114.2 Trích Báo cáo của BCH Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 -2010. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. –H.: NXB Chính trị quốc gia.-Tr 208.3 Trích Kết luận của Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương khóa IX về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo - khoa học và công nghệ từ nay đến 2005 và đến năm 2010. Báo Nhân dân ngày 22 tháng 8 năm 2002.4 Chỉ thị số 42/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 25 tháng 8 năm 2004 về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản.

DỰ THẢO LẦN 203.5.2017

Page 2: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định “xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa... Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng nhà truyền thống, thư viện, phòng đọc, điểm bưu điện-văn hóa xã, khu vui chơi, giải trí… bảo vệ và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ”5.

Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Hội nghị lần thứ Chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (sau đây gọi là Nghị quyết số 33-NQ/TW) đã xác định mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân-thiện-mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong đó xác định rõ mục tiêu cụ thể hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam.

Đảng và Nhà nước cũng xác định rõ ràng định hướng xây dựng và phát triển chính sách văn hóa là: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội… Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa... Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, giữa các giai tầng xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng hoàn thiện đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa… nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa. Xác định rõ quan điểm phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Trong đó, nhấn mạnh việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, nâng cao trí lực, bồi dưỡng trí thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông; đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam; tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa, xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm. Các địa phương, các cơ quan, công sở, trường học, khu công nghiệp, doanh nghiệp, khu dân cư… có thiết chế văn hóa phù hợp (thư viện, nhà văn hóa, công trình thể thao…)6.

Hiến pháp năm 2013 cũng đã chỉ ra: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập” (Điều 39) và “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” (Điều 41). Xây dựng xã hội học tập, phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng qua đó hoàn thiện nhân cách con 5 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X – H.: NXB Chính trị quốc gia, 2006, Tr106-1076 Nghị quyết Hội nghị lần thứ Chín Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW)

2

Page 3: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

người đang được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo. Phát triển sự nghiệp thư viện là góp phần để công dân có đủ điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ đó, đảm bảo cho người dân được tiếp cận các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại, thực hiện học tập suốt đời để làm cho cuộc sống của mình tốt đẹp hơn. Để hướng tới xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, có ý thức tôn trọng pháp luật, có hiểu biết sâu sắc về lịch sử, văn hóa dân tộc, biết tiếp nhận tinh hoa văn hóa của thế giới, biết trân trọng và vươn tới cái đúng, cái tốt đẹp, cao thượng; dám đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; tích cực ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam, có nhiều việc cần phải thực hiện trong đó đẩy mạnh việc học tập và tăng cường khả năng tiếp nhận, ứng dụng tri thức thông qua sách, báo có một ý nghĩa quan trọng như khẳng định của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) về mạng lưới thư viện nói chung, đặc biệt hệ thống thư viện công cộng nói riêng “mở ra sự tiếp cận tới tri thức ở cơ sở (đại phương) đảm bảo những khả năng (điều kiện) chủ yếu cho việc học tập liên tục cho việc tự mình đưa ra các quyết định và cho sự phát triển văn hóa của cá nhân và các nhóm xã hội”7, “là lực lượng tích cực tác động đến việc phổ cập (truyền bá) giáo dục, văn hóa và thông tin cũng như là yếu tố quan trọng nhất giúp củng cố hòa bình và cuộc sống tinh thần trong tâm trí của đàn ông và đàn bà”8.

Việc xây dựng và ban hành Luật thư viện thay thế Pháp lệnh thư viện - mở rộng phạm vi điều chỉnh, đảm bảo tính thống nhất với một số văn bản luật mới là một hoạt động để thực hiện nhiệm vụ “hoàn thiện thể chế và các cơ chế, chính sách” góp phần “hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam”, “phát triển giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp” mà Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW đã đề ra.

2. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật thư việnPháp lệnh thư viện được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 28

tháng 12 năm 2000, chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 4 năm 2001 đã mở ra một thời kỳ phát triển mới của sự nghiệp thư viện Việt Nam. Thư viện đã khẳng định vị thế, trở thành một thiết chế văn hóa, thông tin, giáo dục ngoài nhà trường không thể thiếu trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, góp phần nâng cao dân trí. Pháp lệnh thư viện đã quy định những vấn đề cơ bản về thể chế thư viện Việt Nam: xác lập những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động thư viện, bao gồm: quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động thư viện; quản lý nhà nước và chính sách của Nhà nước đối với thư viện. Với những quy định đó, Pháp lệnh thư viện đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng làm cho hoạt động thư viện đi vào nền nếp, định hướng và thúc đẩy sự nghiệp thư viện Việt Nam phát triển, đáp ứng với yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

7+8 Tuyên ngôn của UNESCO về thư viện công cộng

8

3

Page 4: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Pháp lệnh thư viện trong những năm gần đây đã cho thấy hoạt động thư viện có nhiều thay đổi cơ bản, đặt ra yêu cầu hành lang pháp lý phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa. Bốn vấn đề đặt ra là:

Thứ nhất, những thay đổi, phát triển trong nội dung hoạt động thư viện đòi hỏi Luật thư viện phải góp phần thực hiện mục tiêu, giải pháp phù hợp với sự thay đổi đó.

Về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, Pháp lệnh thư viện chủ yếu điều chỉnh hệ thống thư viện công lập, trong khi hiện nay có nhiều loại hình mới xuất hiện, hoạt động có hiệu quả nhưng chưa được quy định hoặc được điều chỉnh bằng văn bản dưới luật nên hiệu quả chưa cao. Nổi bật: hệ thống thư viện ngoài công lập (thư viện tư nhân, tủ sách gia đình, dòng họ, thư viện của tổ chức và cá nhân nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam). Hiện nay, trực tiếp điều chỉnh các hoạt động về thư viện mới có Pháp lệnh Thư viện, trong khi một số lĩnh vực có liên quan hoặc tương đồng như xuất bản, bảo tàng, điện ảnh đã có Luật điều chỉnh như Luật xuất bản, Luật di sản văn hóa, Luật điện ảnh… Các hoạt động thư viện được điều chỉnh bởi các văn bản dưới luật thông tư, quyết định của Bộ trưởng nên hiệu lực pháp lý không cao, ví dụ: trong 10 lĩnh vực chuyên ngành văn hóa, gia đình, vấn đề quy hoạch phát triển ngành thư viện đang được thực hiện theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin ban hành năm 2007, trong khi các lĩnh vực khác như bảo tàng (2005), điện ảnh mỹ thuật, nghệ thuật biểu diễn (2014)… việc phê duyệt quy hoạch phát triển đều do Thủ tướng Chính phủ ký quyết định ban hành; các vấn đề tư nhân tham gia các hoạt động về bảo tàng, di sản văn hóa, bảo tàng, điện ảnh… đều được quy định trong Luật, nhưng trong lĩnh vực thư viện, các vấn đề thư viện tư nhân mới được quy định tại Nghị định và đang thực hiện theo Nghị định số 02/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2009 nên hiệu lực còn hạn chế.

Bên cạnh đó, quy định về việc đăng ký hoạt động thư viện không còn phù hợp với chương trình cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ. Nhiều vấn đề cơ bản về quản lý, tổ chức, hoạt động thư viện chưa được quy định trong Pháp lệnh như: thủ tục thành lập, giải thể thư viện, quy hoạch thư viện; vấn đề thư viện tư nhân - mới được quy định tại Nghị định của Chính phủ, hiệu lực còn hạn chế; vấn đề xếp hạng thư viện công cộng - quy định tại Thông tư của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch từ năm 2006 bộc lộ quá nhiều bất cập, triệt tiêu động lực phấn đấu của các thư viện, kìm hãm sự phát triển của thư viện... cần phải sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn; các quy định về chính sách của Nhà nước đối với thư viện còn chung chung, dàn trải, chưa có quy định cụ thể, rõ ràng nên các chính sách của Nhà nước chưa thực sự đi vào thực tiễn, sự đầu tư của Nhà nước chưa đáp ứng được với yêu cầu phát triển của ngành; ví dụ: quy định về “ưu tiên giải quyết đất xây dựng thư viện” trên thực tế không chỉ khó đối với chính các thư viện công lập (nhiều thư viện công lập bị lấy lại trụ sở, chuyển đến nơi xa trung tâm) mà đối với thư viện tư nhân cũng chưa được thực hiện…

Về hoạt động thực tiễn, bên trong thư viện, các quy trình công tác cũng có nhiều thay đổi: tin học hóa, số hóa thư viện, phát triển thư viện điện tử là một xu hướng chủ đạo của thư viện thế giới; các nguồn tài liệu cũng đa dạng và phong

4

Page 5: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

phú hơn do sự ứng dụng nhanh các thành tựu của khoa học công nghệ để tạo ra các định dạng tài liệu mới; phương thức tiếp cận thư viện của bạn đọc có nhiều thay đổi đòi hỏi thư viện phải có những phương thức cung ứng dịch vụ mới. Sự hình thành và phát triển của thư viện điện tử/thư viện số đang đặt ra nhu cầu quản lý của Nhà nước. Các cơ chế xây dựng thư viện liên thông, nguồn cơ sở dữ liệu mở, cơ chế tự chủ tài chính, xã hội hóa các dịch vụ công đang đặt ra những yêu cầu buộc các thư viện phải tự thay đổi. Hiện nay, thư viện không chỉ làm các nghiệp vụ thư viện truyền thống (như đọc, mượn… tài liệu) mà còn triển khai nhiều dịch vụ khác, trong đó có các dịch vụ được liệt kê trong hệ thống phân loại sản phẩm chủ yếu của Liên Hợp Quốc – CPC như: dịch vụ tài liệu, dịch vụ khôi phục tài liệu; các dịch vụ thông tin… dựa trên nguồn tài liệu phong phú của mình.

Đến nay, 02 loại hình thư viện cơ bản ở nước ta là thư viện công cộng (với Thư viện Quốc gia Việt Nam, 63 thư viện tỉnh/thành, 659 thư viện cấp huyện và hàng nghìn thư viện/tủ sách cấp xã và cơ sở) và thư viện đa ngành, chuyên ngành (với gần 400 thư viện các trường đại học hoặc tương đương; thư viện các trường phổ thông các cấp khoảng 26.000 thư viện; thư viện các cơ quan nhà nước trên 100 thư viện, bên cạnh đó là hệ thống thư viện quân đội nhân dân và công an nhân dân)9 đã có những bước phát triển vượt bậc, góp phần đắc lực vào việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng, nâng cao nguồn nhân lực cho đất nước. Vì vậy, cần có quy định mới phù hợp hơn cho các hoạt động được vận hành thuận lợi.

Kết quả tổng kết thi hành Pháp lệnh thư viện trong năm 2016 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chỉ ra những vướng mắc, bất cập của Pháp lệnh thư viện cần phải hoàn thiện trong giai đoạn mới. Các kết quả tổng kết đã được lấy ý kiến rộng rãi thông qua tổ chức hội thảo tổng kết Pháp lệnh thư viện tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch đã tiếp thu và hoàn thiện kết quả tổng kết trên cơ sở tiếp thu các ý kiến nhận được và đã trình Thủ tướng Chính phủ tại Tờ trình số /TTr-BVHTTDL ngày tháng năm 2017.

Như vậy có thể thấy, Pháp lệnh thư viện chưa đề cập toàn diện các hoạt động thư viện, nhiều yếu tố mới xuất hiện cần điều chỉnh, nhiều nội dung quan trọng trong hoạt động thư viện đang được điều chỉnh bằng các văn bản dưới luật dẫn đến tình trạng hiệu lực pháp lý bị hạn chế. Việc ban hành Luật thư viện là cần thiết và đúng thời điểm.

Thứ hai, thực trạng hoàn thiện nhà nước pháp quyền, thể chế, hệ thống pháp luật có tác động mạnh đến việc xây dựng nội dung chi tiết của Luật thư viện.

Trong thời gian qua, Quốc hội đã ban hành, sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật quan trọng có liên quan đến hoạt động thư viện và quyền hưởng thụ của nhân dân; như: Hiến pháp năm 2013, Luật giáo dục đại học, Luật xuất bản; Luật khoa học công nghệ, Luật công nghệ thông tin, Luật điện ảnh, Luật di sản văn hóa, Luật sở hữu trí tuệ; Luật ngân sách nhà nước, Luật tiếp cận Thông tin… Những quy định trong Pháp lệnh thư viện không tương thích với những quy định liên quan tại các luật này dẫn tới yêu cầu phải sửa đổi Pháp lệnh để đảm bảo tính thống nhất, đồng

9 Báo cáo Tổng kết 15 năm thi hành Pháp lệnh Thư viện.

5

Page 6: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

bộ giữa các luật, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn, qua đó tăng cường tính khả thi của văn bản.

Hiến pháp năm 2013 được ban hành với các quy định về quyền con người, quyền hưởng thụ văn hóa, đòi hỏi Luật thư viện phải tuân thủ Hiến pháp, cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ và biện pháp thực hiện, nhất là việc cung cấp các dịch vụ công. Đặc biệt, Điều 14 quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Trong khi như phân tích ở trên, Pháp lệnh Thư viện đã hạn chế rất nhiều quyền liên quan đến hoạt động thư viện, thậm chí có tình trạng điều chỉnh bằng văn bản dưới luật (như vấn đề thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng).

Các quy định về quản lý tài chính của thư viện công lập khi sử dụng ngân sách nhà nước; vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập (trong đó có thư viện) trong Luật ngân sách đã khiến các quy định trong Pháp lệnh về cơ chế quản lý và chính sách tài chính của thư viện không còn phù hợp; việc đầu tư không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn do thiếu văn bản quy định… Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi đổi mới căn bản mô hình tổ chức và hoạt động của các thư viện để tăng cường thu hút nguồn lực của xã hội, đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo của các thư viện, phục vụ tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế xã hội cũng như nhu cầu đọc sách, báo của nhân dân.

Luật Tiếp cận thông tin quy định rõ “mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin” và “việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin phải do luật định trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng” (Điều 3). Vì vậy, việc quy định các đối tượng phục vụ, phương thức hoạt động và xây dựng quy chế của các thư viện trong Pháp lệnh thư viện cần phải được thay đổi cho phù hợp để đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc này góp phần đảm bảo quyền con người về tiếp cận/truy cập thông tin và tri thức.

Vấn đề nộp lưu chiểu xuất bản phẩm đối với Thư viện Quốc gia Việt Nam, được quy định trong Pháp lệnh thư viện (Điều 28) không còn phù hợp với Luật xuất bản (Điều 17); quy định việc chuyển giao xuất bản phẩm địa phương cho thư viện cấp tỉnh không còn phù hợp với tình hình thực tế khi có sự chia tách, sáp nhập giữa ngành văn hóa và thông tin.

Thứ ba, tác động của sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, sự quan tâm đầu tư của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa nói chung và lĩnh vực thư viện nói riêng, đã có những tác động mạnh làm thay đổi cả về số lượng và chất lượng hoạt động thư viện.

Chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, nâng cao tri thức, xây dựng xã hội học tập đã dẫn đến nhu cầu đọc trong người dân ngày càng cao, đặc biệt các vấn đề về chất lượng, nguồn thông tin, tư liệu cần tiếp cận của người

6

Page 7: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

dân. Xu thế phát triển của thế giới trong lĩnh vực thư viện, việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông vào hoạt động thư viện đang diễn ra rộng khắp trong các thư viện Việt Nam đã làm thay đổi thói quen tra cứu, sử dụng nguồn thông tin, tư liệu của người dân; người sử dụng thư viện cũng có những động thái phát triển mới. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang có tác động toàn diện đến lĩnh vực thư viện. Như phân tích ở trên, có thế thấy một số vấn đề chính như: Một là, thư viện điện tử đang trở thành xu hướng phát triển mạnh và bền vững trong tương lai. Ứng dụng công nghệ đã thâm nhập vào toàn bộ quá trình vận hành của một thư viện, các vấn đề liên thông thư viện, hệ thống cơ sở dữ liệu số, mã nguồn mở… đang làm thay đổi trong chính bản thân các thư viện. Các phần mềm tích hợp, phầm mềm quản trị thư viện điện tử đã được triển khai ứng dụng: Libol, Ilib, Kipost; Dspace… Hai là, sử dụng thông tin của người dùng đã có những thay đổi lớn không chỉ là yêu cầu ngày càng cao về thông tin khai thác, với sự hỗ trợ của các thiết bị thông minh (như smartphone, laptop…) thay đổi cả thói quen tra cứu, sử dụng thư viện của người dùng. Ba là, nguồn dữ liệu ngày càng phong phú, hình thành các hệ thống siêu dữ liệu cho phép tra cứu và khai thác thông tin dữ liệu ngày càng chính xác và nhanh chóng. Người dân có thể dùng các thiết bị điện tử cá nhân để sử dụng các dịch vụ thư viện ở mọi nơi, mọi lúc qua mạng internet với một nguồn lực thông tin không giới hạn. Tổ chức số hóa tài liệu trong phạm vi quốc gia và nền công nghiệp nội dung đã triển khai. Bốn là, vấn đề đảm bảo quyền tác giả trong thư viện điện tử đang đặt ra cho các thư viện vừa đảm bảo cung cấp thông tin dịch vụ cho người sử dụng thư viện, vừa đảm bảo bản quyền đối tài liệu. Hiện nay, một số thư viện điện tử đã có những ứng dụng trong việc kiểm soát số lượt truy cập, download tài liệu và kiểm soát việc sử dụng tài liệu, điển hình như ở Malaysia đã có những phần mềm cho phép người đọc có thể download thông tin về máy cá nhân và sử dụng trong vòng 02 ngày, sau 02 ngày tài liệu sẽ tự động hủy… (tương tự hệ thống DCP trong lĩnh vực điện ảnh). Những ưu điểm, thành tựu này là ưu thế của CMCN 4.0 mang tới cho các thư viện điện tử. Năm là, hoạt động của thư viện điện tử, tạo lập và phát triển kho số hóa tài liệu, liên thông liên kết, trao đổi thông tin đang làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước và phương thức vận hành của các thư viện.

Hiện nay, hoạt động của thư viện được thực hiện trên nguyên tắc không vì mục đích lợi nhuận, tuy nhiên, cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường, việc coi thông tin như một thứ hàng hóa, triển khai các dịch vụ thu phí đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho các thư viện. Chủ trương xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa, người dân tham gia tích cực vào việc cung cấp các dịch vụ công nói chung và các hoạt động thư viện nói riêng, đáp ứng nhu cầu thông tin-tri thức, góp phần xây dựng và phát triển văn hóa đọc của cộng đồng không những tác động đến cơ cấu tổ chức mô hình thư viện mà còn hình thành và phát sinh nhu cầu kinh doanh, đặc biệt mô hình kinh doanh khai thác các nguồn tài nguyên vốn tài liệu để

7

Page 8: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

sinh lời của các tổ chức, cá nhân theo Luật Thương mại cũng đang cần xem xét và quản lý.

Luật thư viện cần tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động thư viện phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội, với những đòi hỏi ngày càng cao của người dân.

Thứ tư, quá trình Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và toàn diện có nhiều tác động đến đời sống xã hội đòi hỏi Luật thư viện phải thích ứng thực tế và chủ động hạn chế những tác động tiêu cực.

Việc xây dựng Luật thư viện cũng là yêu cầu cấp bách khi Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường, gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chính thức thực hiện cam kết của cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC - từ ngày 31/12/2015), nhiều hiệp định song phương, đa phương về văn hóa đã được ký kết, việc giao lưu, hội nhập với các nước trên thế giới ngày càng tăng cường và mở rộng. Nhiều tổ chức, cá nhân nước ngoài có nhu cầu thành lập thư viện để phục vụ nhu cầu người nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và cộng đồng người Việt Nam. Ngoài việc chưa có căn cứ pháp lý để quản lý, việc khai thác nguồn lực để phát triển sự nghiệp thư viện chưa có chính sách phù hợp để phát huy. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng đang tạo cơ hội cho các thư viện trong nước hòa nhập vào không gian thông tin thư viện chung của thế giới để có thể tận dụng và chia sẻ nguồn lực thông tin-thư viện phong phú.

Vì vậy, cần thiết lập hệ thống khung pháp lý mới là cơ sở để hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường pháp chế về thư viện. Đó là nhiệm vụ trọng tâm của công tác quản lý Nhà nước về thư viện trong giai đoạn hiện nay, giữ vai trò điều tiết vĩ mô hệ thống thư viện từ trung ương đến cơ sở, tiêu chuẩn hóa đối với công tác thư viện, điều chỉnh hệ thống thư viện Việt Nam hiện chủ yếu đang hoạt động theo phương thức truyền thống chuyển đổi theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

3. Mục tiêu xây dựng chính sácha) Mục tiêu tổng quát:- Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động thư viện theo hướng

bình đẳng, đảm bảo đầu tư cho những hoạt động cung cấp dịch vụ cùng song hành với tăng cường tính tự chủ, nhưng vẫn phải bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, bảo vệ quyền lợi của người dân trong việc tiếp cập thông tin, phục vụ nghiên cứu, học tập suốt đời.

- Giúp cơ quan có thẩm quyền có đủ thông tin để quyết định thông qua đề nghị xây dựng Luật.

b) Mục tiêu cụ thể gồm:Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công

nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong hoạt động văn hóa, quản lý thống nhất hoạt động thư viện từ trung ương tới địa phương tránh mâu thuẫn, chồng chéo trong công tác quản lý nhà nước và tổ

8

Page 9: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

chức thực hiện. Tiếp tục thể chế hóa tư tưởng, quan điểm của Đảng tại Nghị quyết số 33-NQ/TW; thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020, Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06 tháng 5 năm 2009.

Thứ hai, bổ sung, hoàn thiện cơ sở pháp lý điều chỉnh các hoạt động thư viện hiện đại hiện có xu hướng tồn tại và phát triển lâu dài như thư viện điện tử, các dịch vụ liên thông thư viện, chia sẻ dữ liệu, tài nguyên mở... nhằm đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo quyền và trách nhiệm của các thư viện, đảm bảo và bảo vệ quyền lợi của nhân dân trong sử dụng thư viện. Hoàn thiện hệ thống chính sách đối với hoạt động thư viện, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính đối với thư viện; xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của thư viện theo hướng chuẩn hóa về cơ sở vật chất, trang thiết bị, chuyên môn, nghiệp vụ, đội ngũ cán bộ; đẩy mạnh xã hội hóa, phát huy mọi nguồn lực của xã hội trong hoạt động thư viện.

Thứ ba, thống nhất và đồng bộ với các sửa đổi có liên quan tại Luật giáo dục đại học, Luật xuất bản; Luật khoa học công nghệ, Luật công nghệ thông tin, Luật điện ảnh, Luật di sản văn hóa, Luật sở hữu trí tuệ; Luật ngân sách nhà nước, Luật tiếp cận Thông tin… cũng như nội dung các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Mục B ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH

Nội dung đánh giá tác động của từng chính sách/vấn đề trong đề nghị xây dựng Luật thư viện dựa trên các nội dung: xác định vấn đề bất cập; mục tiêu để giải quyết vấn đề; các giải pháp đề xuất; đánh giá tác động của giải pháp đề xuất; kiến nghị, lựa chọn giải pháp trên cơ sở phân tích, so sánh tác động tích cực, tiêu cực của từng giải pháp.

I. CHÍNH SÁCH 1. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT THƯ VIỆN: ĐA DẠNG HÓA CÁC LOẠI HÌNH THƯ VIỆN NHẰM PHÁT HUY NGUỒN LỰC VỐN TÀI LIỆU TRONG XÃ HỘI VÀ PHÙ HỢP VỚI XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN

Bổ sung cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất cho các đối tượng, loại hình hoạt động thư viện để điều chỉnh toàn diện và phù hợp với xu hướng phát triển.

1. Xác định vấn đề bất cập chungPháp lệnh thư viện chủ yếu điều chỉnh hệ thống thư viện công lập. Các hoạt

động thư viện đã phát triển ngày càng đa dạng với nhiều hình thức mới mẻ so với các loại hình được quy định tại Pháp lệnh thư viện. Cùng với sự phát triển của kinh tế-xã hội, thực tế ở nước ta nhiều người có vốn tài liệu đáp ứng yêu cầu của một thư viện, trong đó có nhiều tài liệu quý hiếm. Xã hội có nhu cầu khai thác vốn tài liệu đó, người sở hữu có mong muốn được phục vụ nhu cầu của xã hội và có điều kiện tổ chức phục vụ nhưng Pháp lệnh thư viện chưa thừa nhận thì chưa có căn cứ pháp lý để quản lý và khai thác. Bên cạnh đó việc xã hội hóa cung ứng dịch

9

Page 10: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

vụ thư viện, coi thông tin là một loại hàng hóa đặc biệt vừa là nhu cầu, vừa là xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường.

Các hoạt động này đòi hỏi phải bổ sung, tạo hành lang pháp lý điều chỉnh mới hoặc sửa đổi cách thức điều chỉnh tại Luật thư viện để phù hợp với sự phát triển của hoạt động này cũng như mục tiêu quản lý trong giai đoạn mới. Nếu không bổ sung quy định pháp luật phù hợp thì sẽ không có cơ sở pháp lý để các cá nhân, tổ chức hoạt động, cũng như không đảm bảo các hoạt động thư viện diễn ra lành mạnh, minh bạch, đảm bảo và mở rộng quyền tiếp cận thông tin cho người dân.

Mặt khác nếu chỉ đầu tư riêng cho hệ thống thư viện công cộng, không có các hình thức hỗ trợ khác sẽ là một gánh nặng cho Nhà nước.

2. Mục tiêu giải quyết vấn đề- Tạo điều kiện cho mọi người dân được tiếp cận với các loại hình thư viện,

phục vụ việc học tập suốt đời và mở rộng khả năng tiếp cận thông tin cho mọi tầng lớp nhân dân.

- Đảm bảo mọi thành phần xã hội (cá nhân, tổ chức Việt Nam và nước ngoài) đều được tham gia hoạt động thư viện.

- Khuyến khích và đảm bảo quyền và hoạt động chia sẻ nguồn vốn tư liệu của cá nhân, tổ chức giữa các thư viện, tạo cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên liên quan cũng như tăng cường sự quản lý cần thiết của nhà nước.

- Tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường quản lý nhà nước, đưa ra các cơ chế xây dựng hệ thống thư viện Việt Nam trở thành trung tâm thông tin, văn hóa, giáo dục hữu ích, thân thiện, bình đẳng.

3. Các giải pháp giải quyết vấn đềĐể giải quyết vấn đề bất cập nêu trên, từ đặc thù của hoạt động thư viện

được điều chỉnh tại Pháp lệnh thư viện, mở rộng đối tượng điều chỉnh: thư viện tư nhân và thư viện có yếu tố nước ngoài; thư viện điện tử/thư viện số; mô hình tủ sách cơ sở; theo đó:

3.1. Bổ sung quy định về tổ chức và hoạt động của thư viện tư nhân3.1.1. Thực trạng và giải pháp:Trong bối cảnh đất nước ta còn nhiều khó khăn, sự đầu tư của Nhà nước cho

các thư viện công cộng chưa thật sự đáp ứng với nhu cầu xã hội, thì sự ra đời của mô hình thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng đã đáp ứng một phần nhu cầu đọc của nhân dân ở cơ sở, góp phần quan trọng trong việc xây dựng và hình thành thói quen đọc trong nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, cải thiện và nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần và vật chất cho nhân dân (nhất là ở vùng nông thôn) - một mục tiêu phấn đấu, một giải pháp không thể thiếu để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.

Thực tiễn, những năm qua, nhiều tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước đã nỗ lực, hết mình xây dựng mô hình tủ sách ở cơ sở vì mục tiêu đẩy mạnh việc đọc

10

Page 11: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

trong cộng đồng, phong trào xây dựng các tủ sách đang được nhân rộng và phát triển mạnh mẽ trong xã hội. Năm 2007, từ sáng kiến của anh Nguyễn Quang Thạch tủ sách dòng họ đã được xây dựng và phát triển. Đến năm 2012, đã vận động nguồn kinh phí, sách báo từ các tổ chức xã hội, trong, ngoài nước và tiến hành tổ chức, xây dựng được hơn 100 tủ sách dòng họ trên 20 tỉnh/thành cả nước, chủ yếu ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Nhóm anh Phạm Bắc Cường, Nguyễn Văn Quân, chị Kiều Bạch Tuyết đã đưa ra sáng kiến thành lập “Không gian đọc” tại tỉnh Thái Nguyên đến nay đã phát triển thành một chuỗi gồm hơn 10 điểm thư viện miễn phí đặt tại nhà dân. Bên cạnh đó, hơn 4.000 tủ sách phụ huynh, tủ sách lớp học đã được thành lập; một số dự án do các cá nhân tâm huyết đã được thực hiện “Sách ơi mở ra”, “Sách cho em”...

Trước thực tế đó, do nhu cầu cấp thiết của xã hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đồng ý để Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2009 quy định về tổ chức và hoạt động của thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng; trong đó có quy định rõ các hoạt động thư viện, quyền và nghĩa vụ của thư viện tư nhân và của người đứng tên thành lập thư viện, điều kiện, thủ tục thành lập, giải thể, đình chỉ hoạt động và thu hồi giấy chứng nhận... của thư viện tư nhân; chính sách của Nhà nước đối với thư viện tư nhân.

Từ khi có Nghị định đến nay đã có hơn 60 thư viện tư nhân được ra đời và hoạt động. Bình quân mỗi thư viện, tủ sách có từ 2.500 đến 3.500 cuốn và từ 12 đến 25 loại báo, tạp chí. Có thư viện tư nhân có tới 24.000 cuốn (thư viện của ông Phạm Thế Cường - thành phố Hồ Chí Minh), 22.144 cuốn (Thư viện Hải Đà - Hà Nội), 20.000 cuốn (thư viện của ông Phạm Chí Thiện - Hải Dương), 10.000 cuốn (thư viện của ông Bùi Đình Thăng - Hưng Yên và thư viện Minh Ân - Yên Bái). Các thư viện này tổ chức phục vụ đọc tại chỗ và cho mượn về nhà.10

Tuy nhiên, do tầm hiệu lực của văn bản (Nghị định) còn hạn chế, các chính sách ưu đãi được quy định nhưng khó thực hiện trong thực tế nên chưa khuyến khích được những người có điều kiện vật chất và vốn tài liệu thành lập thư viện để đưa ra phục vụ cộng đồng. Bên cạnh đó, việc phân cấp cấp phép hoạt động cho thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng cần được điều chỉnh cho phù hợp, tương ứng với việc phân cấp quản lý thư viện công cộng hiện nay.

Giải pháp: có 04 giải pháp: Giải pháp 1: nâng quy định hiện hành lên thành Luật: quyền thành lập thư

viện có phục vụ cộng đồng của công dân; Giải pháp 2: bổ sung việc cấp phép đối với thư viện có từ 30.000 bản sách

trở lên giao cho Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch thực hiện.Giải pháp 3: kết hợp Giải pháp 1 và Giải pháp 2.Giải pháp 4: giữ nguyên như quy định hiện hành.3.1.2. Đánh giá tác động của giải pháp:3.1.2.1 Giải pháp 1. Nâng quy định hiện hành lên thành Luật.

10 Báo cáo tổng kết 10 năm (2006-2016) việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về xã hội hóa dịch vụ công

11

Page 12: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

a) Về kinh tế, xã hộiHuy động tối đa nguồn vốn tư liệu trong nhân dân để phục vụ cộng đồng.

Các nguồn lực trong xã hội cùng tham gia xây dựng cải thiện và nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần và vật chất cho nhân dân, nhất là vùng nông thôn - một mục tiêu phấn đấu, một giải pháp không thể thiếu để thực hiện việc xây dựng xã hội học tập, phát triển văn hóa đọc góp phần xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam.

Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về xã hội hóa dịch vụ công. Qua đó nâng cao hiệu quả quản lý và uy tín nhà nước trong đảm bảo cam kết khuyến khích phát triển dịch vụ công ích lành mạnh phục vụ nhu cầu nhân dân.

b) Đối với các đối tượng chịu sự tác động của chính sách- Đối với Nhà nước: không chịu sự tác động lớn vì các chính sách đã được

quy định trong Nghị định số 02/2009/NĐ-CP, theo đó về cơ bản Nhà nước hỗ trợ về cơ chế chính sách, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, không phải đầu tư cơ sở hạ tầng hay tài chính.

- Đối với cá nhân, tổ chức: khi được quy định trong Luật, thư viện tư nhân, đặc biệt là thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng:

+ Sẽ trở thành một trong những bộ phận cấu thành hệ thống tổ chức thư viện và chính sách của Nhà nước đối với mô hình thư viện này sẽ bảo đảm căn cứ pháp lý cao nhất, tạo điều kiện cho mô hình thư viện này phát triển.

+ Đảm bảo quyền tham gia cung cấp dịch vụ công của công dân. Các hoạt động thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng được diễn ra lành mạnh, huy động và bảo vệ tài sản nói chung, nguồn vốn tư liệu nói riêng của cá nhân đặc biệt là chủ nhân các thư viện tư nhân khi tham gia phục vụ cộng đồng.

- Đối với người dân: người dân được hưởng lợi hoàn toàn từ chính sách này. c) Về hệ thống pháp luậtNhà nước có được một chính sách toàn diện, hình thành sự đồng bộ, thống

nhất khuôn khổ pháp lý về lĩnh vực thư viện. Đảm bảo quyền cơ bản của con người, quyền công dân trong Hiến pháp;

đảm bảo cam kết khuyến khích người dân tham gia vào phát triển dịch vụ công ích lành mạnh, phục vụ nhu cầu của cộng đồng, của người dân.

d) Về thủ tục hành chính: - Các nội dung này chủ yếu được rà soát và nâng cấp từ Nghị định số

02/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2009 quy định về tổ chức và hoạt động của thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng nên về cơ bản không phát sinh (hoặc phát sinh không đáng kể so với chi phí để kiểm tra, kiểm soát) điều kiện, chi phí mới thủ tục hành chính. Các chi phí thủ tục hành chính hiện nay:

Tên thủ tục hành chính: Cấp giấy phép cho hoạt động thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng có số bản sách từ 500-2.000 bản sách

12

Page 13: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

STTCác công việc khi thực hiện

TTHC

Thời gian thực hiện (giờ)

Mức TNBQ/ 01 giờ

làm việc (đồng)

Mức chi phí thuê tư vấn, dịch vụ (đồng)

Mức phí, lệ

phí, chi phí

khác (đồng)

Số lần thực hiện/

01 năm

Số lượng

đối tượng tuân

thủ/01 năm

Chi phí thực hiện

TTHC (đồng)

Tổng chi phí thực

hiện TTHC/01 năm (đồng)

Ghi chú

1 Chuẩn bị hồ sơ 19.8 184.950 0.0 58500.0 1 5 465,390 2,326,952  

2 Nộp hồ sơ 4.0 20,550     1 5 82,200 411,000  

3 Nộp phí, lệ phí 0.0 20,550   0 1 5 0 0  

4 Nhận kết quả 2.0 20,550     1 5 41,100 205,500  

  Tổng         588,690 2,943,452  

Tên thủ tục hành chính: Cấp giấy phép cho hoạt động thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng có số bản sách từ 2.000-dưới 20.000

STTCác công việc khi thực hiện

TTHC

Thời gian thực hiện (giờ)

Mức TNBQ/ 01 giờ

làm việc (đồng)

Mức chi phí

thuê tư vấn,

dịch vụ (đồng)

Mức phí, lệ phí,

chi phí khác

(đồng)

Số lần thực hiện/

01 năm

Số lượng

đối tượng tuân

thủ/01 năm

Chi phí thực hiện

TTHC (đồng)

Tổng chi phí thực

hiện TTHC/01 năm (đồng)

Ghi chú

1 Chuẩn bị hồ sơ 19.8 184,950 0 78,500 9.0 27.0 485390.0 1456172.0  

2 Nộp hồ sơ4.0 20,550     1 3 82,200 246,600  

0.0 20,550     1 3 0 0  

3 Nộp phí, lệ phí 0.0 20,550   0 1 3 0 0  

4 Nhận kết quả2.0 20,550     1 3 41,100 123,300  

0.0 20,550     1 3 0 0  

Tổng 1   608,690 1,826,072

Tên thủ tục hành chính: Cấp giấy phép cho hoạt động thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng có số bản sách từ 20.000-dưới 30.000

STTCác công việc khi thực hiện

TTHC

Thời gian thực hiện (giờ)

Mức TNBQ/ 01 giờ

làm việc

(đồng)

Mức chi phí thuê tư

vấn, dịch vụ (đồng)

Mức phí, lệ

phí, chi phí

khác (đồng)

Số lần

thực hiện/

01 năm

Số lượng

đối tượng tuân

thủ/01 năm

Chi phí thực hiện

TTHC (đồng)

Tổng chi phí thực

hiện TTHC/01 năm (đồng)

Ghi chú

1 Chuẩn bị hồ sơ 19.8 184950 0.0 108,500 9.0 2 515,390 1,030,782  

2 Nộp hồ sơ4.0 20,550     1 2 82,200 164,400  

0.0 20,550     1 2 0 0  

3 Nộp phí, lệ phí 0.0 20,550   0 1 2 0 0  

4 Nhận kết quả2.0 20,550     1 2 41,100 82,200  

0.0 20,550     1 2 0 0  

  Tổng         1   638,690 1,277,382  

(có bản tính toán chi tiết kèm theo)

Phát sinh chi phí cho xây dựng văn bản cho Nhà nước.13

Page 14: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

3.1.2.2 Giải pháp 2. Bổ sung thẩm quyền cấp phép của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đối với thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng có từ 30.000 bản sách trở lên.

a) Về hệ thống pháp luậtĐiều chỉnh lại việc thẩm quyền cấp giấy phép đăng ký hoạt động của thư viện

tư nhân có phục vụ cộng đồng căn cứ trên cơ sở số lượng bản sách có trong thư viện sẽ đảm bảo thống nhất, phù hợp, tương ứng với việc phân cấp quản lý thư viện công cộng hiện nay. Cụ thể: Cấp giấy phép cho hoạt động thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng có số bản sách: từ 500 bản đến dưới 1.000 bản gửi hồ sơ đến Ủy ban nhân dân cấp xã; từ 1.000 bản đến dưới 20.000 bản gửi hồ sơ đến Ủy ban nhân dân cấp huyện; từ 20.000 bản đến dưới 30.000 gửi hồ sơ đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Đối với những thư viện có từ 30.000 bản sách gửi hồ sơ đến Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vì với một quy mô với 30.000 bản sách để tổ chức, khai thác sử dụng có hiệu quả cần có những hướng dẫn của cơ quan quản lý chuyên ngành đủ tầm để giúp việc phát triển thư viện đúng định hướng, điều này cũng sẽ phù hợp với xu hướng thành lập thư viện có yếu tố nước ngoài.

b) Về thủ tục hành chính: Hiện nay, chỉ có 01 thư viện tư nhân có bản sách trên 30.000 bản đăng ký

nên không phát sinh (hoặc phát sinh không đáng kể) chi phí đăng ký lại hoặc chi phí mới về thủ tục hành chính để xử lý các trường hợp đã cấp. Dự kiến trong những năm tới, số lượng thư viện tư nhân có số bản sách trên 30.000 bản là không nhiều (khoảng 1-2 thư viện/năm hoặc không có thư viện đăng ký).

Các chi phí dự kiến phát sinh liên quan đến thủ tục hành chính khi có thư viện mới đăng ký hoạt động:

Tên thủ tục hành chính: Cấp giấy phép cho hoạt động thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng có số bản sách từ 30.000 bản sách trở lên.

STTCác công việc khi thực hiện

TTHC

Thời gian thực hiện (giờ)

Mức TNBQ/ 01 giờ

làm việc

(đồng)

Mức chi phí thuê tư

vấn, dịch vụ (đồng)

Mức phí, lệ

phí, chi phí

khác (đồng)

Số lần

thực hiện/

01 năm

Số lượng

đối tượng tuân

thủ/01 năm

Chi phí thực hiện

TTHC (đồng)

Tổng chi phí thực

hiện TTHC/01 năm (đồng)

Ghi chú

1 Chuẩn bị hồ sơ 19.8 184,950 0.0 158,500 1 2 565,390 1,130,782  

2 Nộp hồ sơ 4.0 20,550 1 2 82,200 164,400  

3 Nộp phí, lệ phí 0.0 20,550 0 1 2 0 0  

4 Nhận kết quả 2.0 20,550 1 2 41,100 82,200  

  Tổng 688,690 1,377,382  

(có bản tính toán chi tiết kèm theo)

Bên cạnh đó, phát sinh chi phí về xây dựng văn bản cho nhà nước.

14

Page 15: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

3.1.2.3 Giải pháp 3. Kết hợp Giải pháp 1 và Giải pháp 2.

(1) Tác động tích cực: khắc phục được những bất cập và phát huy được những ưu thế, tác động tích cực của cả 02 giải pháp trên.

(2) Tác động tiêu cực: Phát sinh chi phí về xây dựng văn bản cho nhà nước.

3.1.2.4 Giải pháp 4. Giữ nguyên như quy định hiện hành.

(1) Tác động tích cực: không phát sinh chi phí về xây dựng văn bản cho nhà nước.

(2) Tác động tiêu cực:

Hiện nay, căn cứ để điều chỉnh thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng là Nghị định của Chính phủ nên tầm hiệu lực hạn chế nên chưa khuyến khích những người có điều kiện vật chất và vốn tài liệu thành lập thư viện để phục vụ cộng đồng.

Quy định về phân cấp đối với cấp phép cho hoạt động của thư viện tư nhân chưa phù hợp và tương ứng với việc phân cấp quản lý thư viện công cộng cấp tỉnh, huyện, xã.

Không giải quyết được vấn đề bất cập khác, không phát huy được những tác động tích cực đã nêu.

3.1.3 Kiến nghị: Lựa chọn Giải pháp 33.2. Về tủ sách pháp luật ở xã, tủ sách của điểm bưu điện-văn hóa xã, tủ

sách từ chương trình sách hóa nông thôn, thư viện trong các trung tâm học tập cộng đồng, tủ sách, thư viện của các tổ chức tôn giáo có phục vụ cộng đồng…

3.2.1. Thực trạng và giải phápThư viện được điều chỉnh theo Luật khi đáp ứng được hai đặc trưng chủ yếu

là “có vốn tài liệu” và “đưa vốn tài liệu đó ra phục vụ công chúng”. Như vậy một số tủ sách trên thực tế như tủ sách pháp luật ở xã, tủ sách của điểm bưu điện-văn hóa xã, tủ sách từ chương trình sách hóa nông thôn, tủ sách, thư viện trong các trung tâm học tập cộng đồng... đều cần phải được đưa vào điều chỉnh trong Luật. Việc xây dựng, hình thành và quản lý “tủ sách pháp luật ở xã”, tủ sách của điểm bưu điện-văn hóa xã, tủ sách từ chương trình sách hóa nông thôn đều được quy định trong các văn bản hiện hành và triển khai trên thực tế trong những giai đoạn khác nhau, do các bộ chủ quản khác nhau nên đang phân tán và hoạt động theo những cơ chế riêng. Tính riêng chương trình triển khai dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam” do Quỹ Bill và Melinda Gates tài trợ không hoàn lại, từ năm 2011 đến nay đã có 500 thư viện xã của xã nông thôn mới được xây dựng; 8.123 điểm bưu điện-văn hóa xã (miền núi, hải đảo: 3780 điểm; biên giới: 343 điểm; đặc biệt khó khăn:1723 điểm; vùng công ích: 2861 điểm; đô thị hóa: 379 điểm) thuộc 40 tỉnh đã được cung cấp, lắp đặt và vận hành hệ thống máy tính kết nối mạng Internet cùng với hệ thống thư viện cấp xã trở thành nơi cung cấp, khai thác thông tin, tư liệu hữu hiệu.

15

Page 16: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

Thực tế cho thấy, với mô hình thư viện công cộng hiện nay để xây dựng được thư viện, phòng đọc sách cơ sở đòi hòi Nhà nước phải đầu tư cả về cơ sở vật chất và nhân sự. Để đảm bảo xây dựng, quản lý đồng thời có mô hình phù hợp ở cơ sở, cần đa dạng hóa các thiết chế cung cấp tài liệu, phục vụ cộng đồng. Đối với cơ sở đủ đáp ứng đủ điều kiện thành lập thành thư viện (bao gồm cả các điều kiện phù hợp với quy hoạch) thì thành lập thư viện hoặc phòng đọc sách cơ sở; các loại hình còn lại đưa vào thành một mô hình thiết chế cùng với các hình thức xã hội hóa để mở rộng điều kiện và khả năng tiếp cận tri thức, thông tin cho cộng đồng, phát triển văn hóa đọc.

Các giải phápCó 02 giải pháp giải quyết vấn đề: Giải pháp 1: bổ sung vào đối tượng điều chỉnh của Luật thư viện và triển khai

rà soát, thu gọn đầu mối, bố trí lại các loại hình này.Giải pháp 2: giữ nguyên như quy định hiện hành.3.2.2. Đánh giá tác động của giải pháp:3.2.2.1 Giải pháp 1. Bổ sung vào đối tượng điều chỉnh của Luật thư viện và

triển khai rà soát, thu gọn đầu mối, bố trí lại các loại hình này.a) Về kinh tế, xã hộiCùng với sự hỗ trợ của hệ thống thư viện công cộng cấp xã, các hình thức,

mô hình này đã khơi dậy và đảm bảo cho văn hóa đọc được nuôi dưỡng và phát triển trong dân, thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng về xã hội hóa dịch vụ công, giảm gánh nặng về tổ chức, bộ máy, kinh phí cho mạng lưới thư viện cấp xã - một thiết chế văn hóa quan trọng trực tiếp phục vụ người dân tại cơ sở.

Thu gọn các mô hình đầu tư quản lý sách, báo, tài liệu hiện nay chuyển về một đầu mối quản lý sẽ thuận tiện cho cả tổ chức bộ máy cũng như người dân đến khai thác sử dụng.

Cùng với giải pháp kiện toàn lại thư viện công cộng các cấp, các mô hình này sẽ hỗ trợ để Nhà nước có thể tập trung nguồn lực, xây dựng phương thức tổ chức và lộ trình phát triển hợp lý đối với loại hình thư viện cơ sở đặc biệt là mô hình thư viện cấp xã. Có thể thời gian đầu sẽ phát sinh chi phí rà soát, kiện toàn lại, hợp nhất các mô hình hiện có về một đầu mối quản lý để tổ chức quản lý và vận hành theo hướng: đối với những nơi, loại hình đã được đầu tư, cần có biện pháp quản lý và duy trì tốt cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, nguồn vốn tài liệu đã được trang bị; tiếp tục duy trì các chế độ chính sách hiện đang có (ví dụ: đối với tủ sách pháp luật là 2 triệu đồng/năm); tăng cường duy trì bền vững thông qua việc thực hiện chính sách mở rộng xã hội hóa. Tuy nhiên, sau khi đánh giá và hợp nhất xong đưa vào hoạt động, nhà nước sẽ có được bức tranh tổng thể đối với mô hình thư viện cấp xã, có phương án tận dụng, hỗ trợ đầu tư để hoàn chỉnh những cơ sở đã có; điều này giúp đỡ rất lớn cho việc Nhà nước giảm chi phí đầu tư, giảm bộ máy cho thư viện tuyến xã; sẽ chỉ phải tập trung đầu tư, xây dựng thư viện tuyến xã tại những vùng trọng tâm, trọng điểm chưa có thư viện. Như vậy sẽ phát sinh chi phí

16

Page 17: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

xây dựng văn bản cho Nhà nước và chi phí rà soát thực trạng các mô hình tổ chức tủ sách hiện nay. Tuy nhiên những chi phí này thực sự cần thiết và tiết kiệm hơn so với chi phí đầu tư dàn trải như hiện nay.

b) Về các đối tượng chịu tác động của chính sách:- Đối với Nhà nước: việc kiện toàn lại các thiết chế văn hóa cơ sở này giúp

đa dạng hóa mô hình ở địa phương, giảm việc xây dựng mới thư viện cơ sở, giúp nhà nước củng cố lại các thiết chế đã có, căn cứ vào điều kiện thực tiễn ở địa phương để có thiết chế thư viện phù hợp (phòng đọc sách, tủ sách...) không chỉ phù hợp với khả năng kinh tế mà còn đặc biệt đảm bảo phù hợp với đặc thù địa lý (hải đảo, miền núi, trung tâm...) của địa phương từng vùng, miền.

Chính sách này trực tiếp tác động đến các Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục, đào tạo, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Lao động, thương binh và xã hội... Do đó cần có kế hoạch phối hợp triển khai, rà soát và xây dựng lộ trình hợp nhất; xử lý các chính sách, đầu mối liên quan đến các chương trình này do các Bộ đang chủ trì triển khai.

- Đối với các đơn vị đang được giao quản lý tủ sách: chịu tác động trực tiếp khi có sự thay đổi này. Tuy nhiên, các vấn đề kiện toàn sắp xếp là cần thiết tránh tình trạng tản mạn như hiện nay.

- Đối với người dân: người dân hoàn toàn được hưởng lợi từ chính sách này.c) Về hệ thống pháp luậtĐảm bảo việc quản lý đối với tất cả các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực

thư viện. Thống nhất phương thức, mô hình, quản lý, huy động khai thác vốn tài liệu đang nằm trong cộng đồng.

d) Về thủ tục hành chính: Đây là một trong những biện pháp để sắp xếp, kiện toàn lại các hệ thống

“thiết chế”, mô hình hiện có và đều do cơ quan nhà nước (hoặc được nhà nước ủy quyền) quản lý nên không phát sinh những thủ tục hành chính. Vì vậy, thực tế, sau khi ra soát, đối với các nội dung về đăng ký hoạt động, chính sách tài chính, nhân lực: các nội dung này chủ yếu được nâng cấp từ các quy định hiện hành nên về cơ bản không phát sinh chi phí hành chính hoặc phát sinh không đáng kể so với chi phí đầu tư duy trì các loại hình tủ sách như hiện nay.

3.2.2.2 Giải pháp 2. Giữ nguyên như quy định hiện hành(1) Tác động tích cực: không phát sinh chi phí xây dựng văn bản và triển

khai thực hiện.(2) Tác động tiêu cực: Không giải quyết được những vấn đề bất cập đã nêu,

ảnh hưởng đến tính thống nhất, minh bạch của hệ thống pháp luật làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước.

3.2.3. Kiến nghị: lựa chọn Giải pháp 1.3.3. Về thư viện có yếu tố nước ngoài.

17

Page 18: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

3.3.1. Thực trạng và giải pháp Hiện nay, Thư viện có yếu tố nước ngoài có phục vụ người Việt Nam là thư

viện được thành lập trên cơ sở hiệp định hợp tác quốc tế song phương mà Việt Nam đã ký kết hoặc trên cơ sở thỏa thuận phi lợi nhuận giữa tổ chức, cá nhân nước ngoài với tổ chức văn hóa, giáo dục Việt Nam; theo đó phía nước ngoài đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, việc vận hành do phía Việt Nam thực hiện như: dự án Giáo dục đại học với sự hỗ trợ từ tổ chức từ thiện của Mỹ - Atlantic Philanthropies – RMIT Việt Nam.

Thư viện có yếu tố nước ngoài có phục vụ người Việt Nam là thư viện do bên nước ngoài chịu chi phí toàn bộ trong việc xây dựng, vận hành cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức và điều hành các hoạt động của thư viện đó. Điển hình hệ thống thư viện, phòng đọc của Viện Goethe, Thư viện của Hội đồng Anh (British Council), Thư viện của Liên hợp quốc (UN) tại Việt Nam..., các phòng đọc, thông tin tư liệu của Trung tâm Văn hóa Pháp, Ngôi nhà Ý-Casa Italia, Trung tâm Khoa học và văn hóa Nga, Trung tâm Văn hóa Hàn quốc, Trung tâm Giao lưu văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam...

Các thư viện có yếu tố nước ngoài này đã bổ sung cập nhật nhiều nguồn tư liệu quý giá mà Việt Nam hiện chưa có khả năng đầu tư, đã thu hút lượt người Việt Nam khai thác, sử dụng rất lớn. Tuy nhiên, hiện nay, trên thực tiễn, Việt Nam không quản lý được danh mục, nội dung các thông tin trong các tài liệu tại hệ thống thư viện này. Trong khi nhu cầu tra cứu thông tin tại các thư viện này không chỉ của người nước ngoài mà ngay với cả người Việt Nam ngày càng tăng, nhất là khi việc vào sử dụng thư viện được miễn phí (trừ in sao tài liệu, thông tin).

Các giải phápĐối với việc thành lập thư viện có yếu tố nước ngoài hoạt động tại Việt Nam

có phục vụ người Việt Nam tuy trong thời gian qua chưa có những nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện hay chuyên sâu, nhưng xét từ thực tiễn và xét đến xu hướng phát triển của thư viện trên thế giới, việc đưa loại hình này vào quy định trong Luật thư viện sẽ xem xét dưới 02 góc độ:

- Đối với các thư viện được thành lập như là một bộ phận trong các cơ sở văn hóa nước ngoài (Trung tâm, Viện, Nhà Văn hóa...) theo hoặc trên cơ sở văn bản thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia (sau đây gọi chung là văn bản thỏa thuận) có ptham gia phục vụ người Việt Nam (bao gồm các thư viện, trung tâm thông tin tư liệu của các đại sứ nước ngoài, các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam).

- Đối với các thư viện được thành lập không theo văn bản thỏa thuận mà theo sự điều tiết từ nhu cầu của thị trường.

Khi đó để quản lý hoạt động đối với các thư viện có yếu tố nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có phục vụ người Việt Nam, có 03 giải pháp:

Giải pháp 1: bổ sung vào đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng của Luật thư viện mô hình thư viện có yếu tố nước ngoài được thành lập theo văn bản thỏa thuận và quy định thủ tục đăng ký hoạt động.

18

Page 19: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

Giải pháp 2: bổ sung vào đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng của Luật thư viện mô hình thư viện có yếu tố nước ngoài được thành lập không theo văn bản thỏa thuận và quy định thủ tục đăng ký hoạt động. Trong giải pháp này có 02 phương án: Phương án 2A: chỉ cho phép thành lập khi liên kết với cá nhân hoặc tổ chức Việt Nam; Phương án 2B: cho phép thành lập thư viện và đăng ký hoạt động.

Giải pháp 3: thực hiện đồng thời Giải pháp 1 và Giải pháp 2 (Phương án 2B).Giải pháp 4: giữ nguyên như quy định hiện hành3.3.2. Đánh giá tác động của giải pháp.3.3.2.1 Giải pháp 1. Đối với loại hình thư viện được thành lập theo văn bản

thỏa thuận.Đối với các thư viện này khi đáp ứng đủ điều kiện của 01 thư viện quy định

tại Luật này sẽ do người có thẩm quyền của tổ chức đó quyết định thành lập; khi thành lập phải thông báo với phía Việt Nam - cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, thể thao và du lịch cấp tỉnh nơi thư viện có trụ sở trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày có quyết định thành lập hoặc ít nhất trước 7 ngày trước khi phục vụ người Việt Nam. Thời hạn hoạt động của thư viện theo quy định của bản thỏa thuận hoặc quy định pháp luật hiện hành.

a) Đối với các chủ thể chịu sự tác động của chính sáchĐối với Nhà nước: đảm bảo các loại hình thư viện được hình thành và hoạt

động trên lãnh thổ Việt Nam; huy động được các nguồn vốn tư liệu từ nước ngoài; nhà nước có thể thống kê, theo sát các hoạt động của các tổ chức này thông qua việc quy định nội dung thông báo của tổ chức nước ngoài (quy mô, đối tượng phục vụ, danh mục tài liệu...).

Phù hợp với các quy định hiện hành về thực hiện các điều ước quốc tế hoặc thỏa thuận song phương, đa phương.

Đối với tổ chức nước ngoài: đảm bảo thực hiện theo quy định hiện nay của văn bản thoả thuận. Thêm nhiệm vụ cho tổ chức nước ngoài khi làm thủ tục thông báo cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành trên địa bàn đặt trụ sở, tuy nhiên điều này là cần thiết vì các cơ sở này có hoạt động phục vụ người Việt Nam.

b) Về thủ tục hành chính: Việc quy định “có trách nhiệm thông báo” không phát sinh các thủ tục

hành chính đối với các tổ chức nước ngoài. Bên cạnh đó, đảm bảo trách nhiệm của tổ chức nước ngoài với cơ quan quản lý sở tại.

3.3.2.2 Giải pháp 2. Bổ sung vào đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng của Luật thư viện mô hình thư viện có yếu tố nước ngoài được thành lập không theo văn bản thỏa thuận và quy định thủ tục đăng ký hoạt động.

Có 02 giải pháp cụ thể:Giải pháp 2A: Cá nhân, đơn vị nước ngoài được thành lập thư viện tại Việt

Nam có phục vụ người Việt Nam chỉ cho phép theo một hình thức đó là liên kết với tổ chức, cá nhân Việt Nam có hoạt động trong lĩnh vực thư viện.

19

Page 20: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

Do hoạt động thư viện với chức năng thu thập, lưu giữ tài liệu là một trong những công cụ hữu hiệu truyền bá tư tưởng, văn hóa có khả năng tác động mạnh mẽ đến xã hội, dễ bị các thế lực xấu lợi dụng để chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Do vậy, để có cơ sở pháp lý cho việc tăng cường quản lý nhà nước dự kiến theo Luật sẽ bổ sung quy định về thư viện có yếu tố nước ngoài theo hướng: tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập thư viện tại Việt Nam khi có đủ điều kiện thành lập theo quy định tại Luật này phải liên kết với tổ chức của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực thư viện, không được phép thành lập và hoạt động độc lập.

(1) Tác động tích cực:

Kiểm soát được các thư viện có yếu tố nước ngoài, việc quản lý nhà nước thuận lợi hơn khi đối tác chịu trách nhiệm chính là cá nhân, tổ chức người Việt Nam. Tăng cường quản lý nhà nước đối với thư viện có yếu tố nước ngoài, hạn chế việc lợi dụng thư viện là công cụ để truyền bá tư tưởng chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta như đã phân tích.

(2)Tác động tiêu cực:

Việc bắt buộc liên kết với 01 cá nhân, tổ chức Việt Nam có thể gây nhiều khó khăn và là rào cản khi thu hút đầu tư của nước ngoài. Không khuyến khích được cá nhân, tổ chức nước ngoài chủ động đầu tư xây dựng thư viện ở Việt Nam. Bên cạnh đó, nếu quy định chỉ có liên kết với lý do như trên thì mức độ đóng góp mỗi bên như thế nào, bên nước ngoài được quyền góp tối đa là bao nhiêu % , được điều hành thư viện như thế nào... là một bài toán không đơn giản.

Mặt khác, theo quy định về về các cam kết Việt Nam đã tham gia, dù Việt Nam không có nghĩa vụ mở cửa thị trường dịch vụ thư viện, nhưng nếu đồng ý mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài – đặc biệt là hoạt động hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ thư viện với mục đích thương mại và thu lợi nhuận, thì phải đối xử bình đẳng như đối xử với các nhà đầu tư trong nước theo quy định của Luật đầu tư. Do đó, việc quy định phải liên kết với cá nhân, tổ chức Việt Nam là không có cơ sở pháp lý vững chắc.

Giải pháp 2B: Cá nhân, đơn vị nước ngoài được phép thành lập thư viện và đăng ký với theo quy định.

Theo đó dự thảo Luật sẽ quy định theo điều kiện thành lập thư viện của tổ chức, cá nhân Việt Nam và thư viện yếu tố nước ngoài. Giao Chính phủ quy định trình tự, thủ tục thành lập và thông báo về hoạt động thư viện.

a) Về các chủ thể chịu tác động của chính sách:- Đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam: đảm bảo cơ sở pháp lý mở rộng quyền

tiếp cận thông tin cho người dân, quyền được liên doanh liên kết với nước ngoài để phục vụ nhu cầu của xã hội; bảo vệ quyền lợi của các bên trong hoạt động thư viện.

20

Page 21: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

- Đối với tổ chức, cá nhân người nước ngoài: đảm bảo cơ sở pháp lý, môi trường đầu tư thuận lợi, bảo vệ quyền và tài sản của cá nhân, tổ chức khi tham gia đầu tư vào Việt Nam.

b) Về hệ thống pháp luật và cam kết quốc tế:- Đảm bảo việc quản lý đối với tất cả các chủ thể hoạt động. Đảm bảo môi

trường thu hút đầu tư đối với các tổ chức, cá nhân muốn tham gia cung cấp các dịch vụ hoạt động thư viện mà vẫn đảm bảo yêu cầu về chính trị.

- Phù hợp với quan điểm trong xây dựng Nghị định quy định về thành lập, hoạt động của cơ sở văn hóa nước ngoài tại Việt Nam đang được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch soạn thảo (dự kiến trình Chính phủ ban hành trong năm 2017)

- Phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như các cam kết chính trị mà Việt Nam đã đưa ra tại các diễn đàn đa phương vì: Theo cam kết trong WTO, Việt Nam không có nghĩa vụ phải mở cửa thị trường dịch vụ thư viện. Theo cam kết WTO và các điều ước kinh tế quốc tế đa phương và song phương khác, trong trường hợp Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ thư viện chỉ phải đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, Việt Nam có toàn quyền ban hành chính sách thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thư viện.

c) Về thủ tục hành chính:Phát sinh chi phí xây dựng văn bản cho Nhà nước và chi phí về thủ tục hành

chính nhưng không đáng kể so với lợi ích thu được khi các loại hình này tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực thư viện.

Chi phí thủ tục hành chính tạm tính đối với cấp Giấy phép hoạt động cho thư viện có yếu tố nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có phục vụ người Việt Nam không theo văn bản thỏa thuận:

Đối với mô hình thư viện liên kết: về cơ bản các thủ tục sẽ do đơn vị phía Việt Nam triển khai tiến hành nên cơ bản các chi phí có thể tham khảo từ cách tính đối với thư viện tư nhân (có phục vụ cộng đồng) ở trên.

Đối với mô hình thư viện độc lập, dự kiến chi phí hành chính:Tên thủ tục hành chính: Cấp giấy phép cho hoạt động thư viện có yếu tố

nước ngoài

STTCác công việc khi thực hiện

TTHC

Thời gian thực hiện (giờ)

Mức TNBQ/ 01 giờ làm việc

(đồng)

Mức chi phí thuê tư

vấn, dịch vụ (đồng)

Mức phí, lệ

phí, chi phí

khác (đồng)

Số lần

thực hiện/

01 năm

Số lượng

đối tượng tuân

thủ/01 năm

Chi phí thực hiện

TTHC (đồng)

Tổng chi phí thực

hiện TTHC/01 năm (đồng)

Ghi chú

1 Chuẩn bị hồ sơ 175.8 246,600 0.0 302,000 1 2 3,914,690 7,829,382  

2 Nộp hồ sơ 4.0 20,550   1 2 82,200 164,400  

3 Nộp phí, lệ phí 0.0 20,550   0 1 2 0 0  

4 Nhận kết quả 2.0 20,550     1 2 41,100 82,200  

21

Page 22: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

  Tổng         1 2 4,037,990 8,075,982  

(có bản tính toán chi tiết kèm theo)

Lựa chọn phương án: Chọn phương án 2B.

3.3.2.3 Giải pháp 3: Thực hiện đồng thời Giải pháp 1 và Giải pháp 2B.

Phát huy được các mặt tích cực của các giải pháp và hạn chế tối đa các tác động tiêu cực đã phân tích ở trên.

3.3.2.4. Giải pháp 4: Giữ nguyên như quy định hiện hành.

(1) Tác động tích cực: Không phát sinh chi phí xây dựng văn bản và triển khai thực hiện.

(2) Tác động tiêu cực: Không giải quyết được những vấn đề bất cập đã nêu.

3.3.3. Kiến nghị: Chọn Giải pháp 3

3.4. Về Thư viện điện tử/Thư viện số

3.4.1. Thực trạng và giải pháp

Thư viện điện tử, thư viện số hay thư viện ảo còn nhiều quan điểm khác nhau, một số cho rằng đây là 03 cấp độ khác nhau, số khác cho rằng các thuật ngữ này là đồng nghĩa. Ở Việt Nam, nhu cầu nghiên cứu về thư viện điện tử bắt đầu từ khi hoạch định chiến lược phát triển thông tin-thư viện giai đoạn 2010-2020, trước xu thế của sự chuyển hướng toàn cầu xã hội thông tin và sự xuất hiện của thời đại công nghệ thông tin. Ngoài ra, vấn đề không gian lưu trữ các tư liệu truyền thống dưới dạng ấn phẩm lớn tại các thư viện Việt Nam đã trở lên cấp bách khiến cho nhiều người đã mơ ước thực hiện các giải pháp cứu cánh: số hóa kho tư liệu. Một số thư viện số mới được hình thành tại Việt Nam.

Thư viện Quốc gia Việt Nam đã thực hiện Dự án xử lý và tạo lập cơ sở dữ liệu với khoảng 23.423 biểu ghi có ở kho Đông Dương trong dự án Thư viện điện tử bằng tiếng Pháp cho vùng Châu Á – Thái Bình Dương (BEFAP), dự án số hóa tài liệu Hán Nôm đã đưa lên trang web của thư viện cơ sở dữ liệu toàn văn tài liệu Hán Nôm của Thư viện quốc gia. Thư viện số của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam là Dự án do Trung tâm Thông tin tư liệu của Viện xây dựng và phát triển từ tháng 9/2008. Trong khoảng một thập niên gần đây, thư viện đại học Việt Nam đang từng bước đổi mới, nhờ được quan tâm đầu tư và nhất là trước đòi hỏi của chính quá trình đổi mới giáo dục đại học, nhiều chính sách và quan tâm chỉ đạo, đầu tư cả vật chất và con người để phát triển sự nghiệp thông tin-thư viện nói chung và hệ thống các thư viện đại học nói riêng. Nhiều thư viện đại học đã được trang bị các thiết bị hiện đại, nhất là thiết bị về công nghệ thông tin để thực hiện mục tiêu tin học hóa các khâu nghiệp vụ, dịch vụ thông tin thư viện. Hiện nay nhiều thư viện các trường đại học lớn của Việt Nam đã và đang tiến dần đến hoàn thiện việc tự động hóa như: Thư viện đại học Đà Nẵng, đại học Đà Lạt, đại học Cần Thơ, Đại học Thái Nguyên, Đại học Nông nghiệp, đại học Quốc gia thành phố Hồ

22

Page 23: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

Chí Minh... Mới đây nhất, dự án “xây dựng thư viện điện tử tại Học viện cảnh sát nhân dân” được chính thức khởi động từ tháng 01/2015.

Bên cạnh đó, một số tổ chức, cá nhân đã thực hiện tổ chức và khai thác cơ sở dữ liệu như một thư viện nhưng tổ chức dưới dạng một bộ phận trang tin điện tử tổng hợp và thực hiện đăng ký hoạt động với Bộ Thông tin và Truyền thông theo quy định của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng và Thông tư số 09/2014/TT-BTTTT ngày 19 tháng 8 năm 2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông về quy định chi tiết về hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên trang thông tin điện tử và mạng xã hội. Ví dụ: Thư viện giáo án điện tử (http://giaoan.violet.vn/), thư viện pháp luật (http://thuvienphapluat.vn/), cơ sở dữ liệu văn bản luật (www. luatvietnam .vn/ ) hay trang http://tailieu.vn/ cung cấp toàn diện các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước; hàng chục trang điện tử cung cấp sách đọc miễn phí cho độc giả như: Gacsach.com; Isach.info; Sstruyen.com; Vnthuquan.net; wattpad.com; Sachtot.vn; Webtruyen.com; docsachtructuyen.vn… trong đó waka.vn được coi như thư viện sách và tạp chí điện tử bản quyền lớn nhất Việt Nam, đọc sách mọi lúc mọi nơi trên mọi thiết bị, ebook phong phú cập nhật hàng ngày; với mục tiêu xây dựng nên một thư viện sách điện tử thông minh và hữu ích cho người dùng thì docsachtructuyen.vn đã tạo dựng được một kho sách phong phú và đa dạng về nhiều thể loại và nội dung, người sử dụng hoàn toàn có thể tận dụng được mọi lúc mọi nơi, chỉ cần có kết nối internet là có thể đọc sách để giải trí, để giết thời gian hoặc để nâng cao kiến thức chuyên sâu hơn trong nhiều lĩnh vực. Những kho sách của docsachtructuyen.vn; sachhayonline.com; Tructuyen.net.vn… đã thu hút hàng triệu lượt truy cập và tải về. Bên cạnh đó, như phân tích ở trên, cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang có tác động toàn diện đến lĩnh vực thư viện và chỉ ra xu thế phát triển của thư viện số đang là tất yếu.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc xây dựng và phát triển thư viện số còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong chọn lựa và lưu trữ tài liệu số hóa, hỗ trợ người dùng tin, vấn đề bản quyền... Việc phát triển, đổi mới của các thư viện diễn ra còn chậm chạp, phân tán và chưa đồng bộ; hầu hết các thư viện đều có sử dụng máy tính, nhưng sự tự động hóa thì không nhiều.Việc ứng dụng phần mềm quản lý thư viện chưa có sự chỉ đạo thống nhất từ cấp quản lý chuyên môn nên hầu hết các thư viện tiến hành theo khả năng và hiểu biết của mình. Một trong những thách thức khác của thư viện đại học, đặc biệt là thư viện số là năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ nghiệp vụ còn yếu, cán bộ thì nhiều nhưng lại thiếu người có năng lực.11

Về công tác quản lý nhà nước: tại Việt Nam, khái niệm thư viện điện tử/thư viện số còn tương đối mới đối với cộng đồng thư viện Việt Nam. Hiện chưa có một đánh giá tổng quát và kỹ đối với loại hình thư viện này, việc kiểm tra thống kê số liệu thư viện điện tử hiện chưa được thực hiện một cách đồng bộ, khoa học,

11 Tổng quan tình hình phát triển thư viện số các trường đại học Australia và Việt Nam – Thư viện Quốc gia Việt Nam

23

Page 24: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

chính thức. Một số hội thảo về thư viện số đã được thực hiện những chỉ ở quy mô nhỏ, cấp cơ sở (trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Trung tâm Thông tin thư viện Đại học Quốc gia Việt Nam...). Việc đăng ký hoạt động thư viện điện tử hiện nay chưa có quy định cụ thể, các thư viện truyền thống thì thực hiện việc số hóa và xây dựng thư viện điện tử trên nguồn tư liệu sẵn có, tổ chức liên thông với nhau và với tổ chức thư viện quốc tế; việc xây dựng các thư viện số/thư viện điện tử của các tổ chức, cá nhân khác được thực hiện dưới dạng trang tin điện tử tổng hợp và đăng ký hoạt động tại Bộ Thông tin, Truyền thông.

Các giải pháp:

Việc đưa ra các giải pháp được căn cứ trên cách hiểu về khái niệm thư viện số/thư viện điện tử.

Giải pháp 1. Thư viện điện tử là thư viện trong đó việc thu thập, lưu giữ, xử lý, tổ chức, bảo quản, trao đổi, sử dụng thông tin được thực hiện bằng các phương tiện điện tử.

Giải pháp 2. Thư viện số là một bộ sưu tập trực tuyến của các vật thể số với chất lượng đảm bảo, được tạo ra hoặc thu thập và quản lý theo nguyên tắc được chấp nhận quốc tế về phát triển bộ sưu tập và tạo khả năng truy cập một cách chặt chẽ và bền vững, được hỗ trợ bởi các dịch vụ cần thiết để người dùng có thể tra tìm và khai thác các tài nguyên đó.12

3.4.2. Đánh giá tác động của giải pháp

3.4.2.1 Giải pháp 1. Thư viện điện tử là thư viện trong đó việc thu thập, lưu giữ, xử lý, tổ chức, bảo quản, trao đổi, sử dụng thông tin được thực hiện bằng các phương tiện điện tử.

Coi thư viện điện tử thực chất là các thư viện truyền thống có sử dụng các phương tiện điện tử trong việc lưu giữ, tổ chức, quản lý và sử dụng nguồn lực thông tin của thư viện. Theo giải pháp này khái niệm sẽ được đưa ra trong phần định nghĩa trong dự thảo Luật thư viện và trong những quy định hướng dẫn về nghiệp vụ, chuyên môn (được đề cập tại Giải pháp 2 của Chính sách 2 trong Báo cáo này) sẽ có phần quy định cụ thể.

a) Về đối tượng chịu sự tác động:

- Đối với Nhà nước:

Đa số các thư viện hiện nay đều là đơn vị sự nghiệp thuộc cơ quan, đơn vị nhà nước. Nội dung quan trọng nhất của thư viện điện tử chính là Kho tư liệu số hóa của bản thân thư viện. Trong phạm vi quốc gia, Nhà nước cần có chiến lược đầu tư và triển khai kế hoạch tổng thế trong việc số hóa đối với các nguồn tin quan trọng, có ý nghĩa lâu dài từ đó tiến tới xây dựng nền công nghiệp nội dung; xác lập và hình thành một mạng lưới các tổ chức số hóa tài liệu; nghiên cứu, lựa chọn và

12 Tuyên ngôn chung giữa  IFLA và UNESCO về thư viện số "IFLA/UNESCO Manifesto for Digital Libraries -Tuyên ngôn IFLA/UNESCO về thư viện số" được thông qua tại Phiên họp thứ 36 của UNESCO.

24

Page 25: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

xác lập những chuẩn, những quy định chung trong việc số hóa tài liệu; bên cạnh đó cần có cơ chế bảo vệ thiết thực bản quyền tác giả đối với các cơ sở dữ liệu cũng như các thông tin mà cá nhân, tổ chức sỡ hữu; đảm bảo bí mật quốc gia. Do đó Nhà nước chỉ điều chỉnh lại chính sách: tập trung cho các thư viện truyền thống trong việc định hướng, nghiên cứu, lựa chọn và xác lập những chuẩn, những quy định chung về nghiệp vụ, tiêu chuẩn nói chung, trong việc số hóa tài liệu nói riêng khi thực hiện số hóa (đã đề cập ở phần hoạt động chuyên môn nghiệp vụ - giải pháp 2 Chính sách 2) và chính sách ưu tiễn hỗ trợ cho việc số hóa tài liệu.

Không làm ảnh hưởng đến việc phân cấp quản lý và cấp phép hiện nay - do Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện.

- Đối với các thư viện: các thư viện công lập tiến hành các bước số hóa theo lộ trình đã được phê duyệt; các thư viện ngoài công lập tiến hành theo chiến lược phát triển đã xác định.

- Đối với các trang tin điện tử hiện có các cơ sở dữ liệu được tổ chức theo mô hình thư viện: không bị tác động.

b) Về thủ tục hành chính

Không phát sinh các vấn đề về thủ tục hành chính vì bản thân các thư viện truyền thống (trong và ngoài công lập) đều thành lập theo quy định (đã có Giấy phép hoạt động), việc xây dựng thư viện điện tử, thư viện số tại các thư viện này là giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật vào các bước quy trình thực hiện công tác chuyên môn nghiệp vụ thư viện; trong đó nổi bật là việc triển khai số hóa tài liệu.

c) Về kinh tế-xã hội, hệ thống pháp luật:

Việc quy định theo hướng này phù hợp với các thuật ngữ hiện nay đang được sử dụng ở Việt Nam (electronic library) và thuật ngữ tài liệu điện tử trong Luật xuất bản.

Không quản lý được hết các loại hình thư viện điện tử hiện có. Không giải quyết hoặc có cơ chế kiểm soát được các vấn đề bất cập đã nêu. Các chủ thể ngoài công lập tham gia hoạt động tự do phát triển theo khả năng và năng lực của mình.

3.4.2.2 Giải pháp 2. Thư viện số là một bộ sưu tập trực tuyến của các vật thể số với chất lượng đảm bảo, được tạo ra hoặc thu thập và quản lý theo nguyên tắc được chấp nhận quốc tế về phát triển bộ sưu tập và tạo khả năng truy cập một cách chặt chẽ và bền vững, được hỗ trợ bởi các dịch vụ cần thiết để người dùng có thể tra tìm và khai thác các tài nguyên đó.

Có 02 giải pháp:

Giải pháp 2A. Giữ nguyên như quy định hiện hành: cấu trúc trang web có liên kết đến các nguồn tin được số hóa trên các trang tin điện tử của các cá nhân, tổ chức xây dựng thư viện điện tử không xuất phát từ thư viện truyền thống là các

25

Page 26: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

trang tin điện tử tổng hợp và được quản lý, đăng ký hoạt động theo các quy định của Luật báo chí.

(1) Tác động tích cực:

Không làm phát sinh quan hệ pháp luật về hoạt động thư viện, các cá nhân, tổ chức chỉ xin phép Bộ Thông tin và Truyền thông như hiện nay. Tự do phát triển và xây dựng cơ sở dữ liệu được theo khả năng và tư duy của người sáng lập.

(2) Tác động tiêu cực:

Không khắc phục được những bất cập đã nêu ở phần thực trạng.

Giải pháp 2B. Thư viện số cần phải đăng ký hoạt động và và có quy định riêng để quản lý cho phù hợp.

Việc quy định thư viện điện tử/thư viện số khi đáp ứng các yêu cầu về thư viện số được coi là thư viện số phải đăng ký xin phép. Đối với việc xây dựng và tổ chức cung ứng, khai thác cơ sở dữ liệu trên các trang tin điện tử với mô hình thư viện đều phải xin phép theo quy định về kinh doanh có điều kiện; quy định rõ trình tự, thủ tục, thẩm quyền và các biện pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động thư viện điện tử, thư viện số.

Các tổ chức, cá nhân xây dựng và vận hành các cơ sở dữ liệu được xây dựng đáp ứng các yêu cầu của một thư viện điện tử phải đăng ký hoạt động. Việc tổ chức hoạt động của các thư viện trên nguyên tắc: nếu hoạt động vì mục đích phi lợi nhuận đăng ký như thư viện có phục vụ cộng đồng; các hoạt động nhằm mục đích kinh doanh, cung cấp dịch vụ có thu phí và kinh doanh có lợi nhuận thì phải tuân theo các quy định về phí, lệ phí kể cả thu thuế theo quy định của nhà nước.

a) Về các chủ thể chịu tác động của chính sách

- Đối với Nhà nước:

+ Đảm bảo việc quản lý đối với tất cả các chủ thể hoạt động, quản lý được phần hoạt động kinh doanh khai thác vốn tài liệu. Đảm bảo được những nội dung tích cực đã nêu trên, đặc biệt vấn đề bản quyền tác giả, quyền lợi chính đáng của các bên có liên quan và người sử dụng thư viện điện tử, tạo tiền đề và cơ sở hòa nhập với xu thế chung của sự phát triển thư viện trên thế giới.

+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo lập, tổ chức, phát triển số hóa tài liệu trong phạm vi quốc gia và tiến tới xây dựng nền công nghiệp nội dung;

+ Phát sinh chi phí xây dựng văn bản cho Nhà nước.

- Đối với các tổ chức, cá nhân đăng ký hoạt động:

Đảm bảo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi của các bên trong hoạt động thư viện. Có thể phát sinh chi phí thủ tục hành chính và lệ phí khi đăng ký hoạt động nhưng là cần thiết và giúp tránh chi phí xã hội phát sinh khi chủ thể tham gia vào

26

Page 27: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

các hoạt động vi phạm hoặc gây thất thoát thuế khi hoạt động mà không đăng ký hoặc vi phạm bản quyền.

Có cơ sở pháp lý để tham gia vào cung cấp các dịch vụ theo chủ trương xã hội hóa, đảm bảo được hoạt động ổn định, có định hướng lâu dài, được đảm bảo quyền lợi theo quy định.

- Đối với người dân: Được hưởng lợi hoàn toàn từ giải pháp này.

b) Về hệ thống pháp luật

Đảm bảo đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành: Luật công nghệ thông tin, Luật báo chí, Luật thương mại.

Theo khái niệm này, các mô hình cấu trúc trang thông tin điện tử có liên kết đến các nguồn tin được số hóa trên các trang tin điện tử của các cá nhân, tổ chức xây dựng thư viện điện tử không xuất phát từ thư viện truyền thống đảm bảo các tiêu chí trên sẽ được coi là thư viện số và cần phải quản lý vì đặc thù - khả năng lan tỏa nhanh chóng của công nghệ thông tin hiện nay, ngoài việc quản lý được vấn đề bản quyền, việc đảm bảo tuân thủ các mẫu chuẩn dữ liệu và các quy tắc mã hóa tài liệu đảm bảo nền tảng cơ sở dữ liệu cho việc xây dựng một ngành công nghiệp nội dung.

Đảm bảo sự hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực vì định nghĩa và quan niệm của quốc tế về thư viện số này đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) và Liên đoàn các tổ chức và hiệp hội Thư viện quốc tế (IFLA) là 02 tổ chức quốc tế chuyên ngành và có uy tín nhất đưa ra.

c) Về thủ tục hành chính:

Đối với các thư viện truyền thống hiện nay khi ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng thư viện số không phát sinh thủ tục hành chính mới.

Đối với các loại hình mới xuất hiện việc đăng ký thủ tục hành chính đối với cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành văn hóa, thể thao và du lịch, được thực hiện như đối với các loại hình kinh doanh có điều kiện khác. Có thể tham khảo các chi phí thủ tục hành chính đối với việc thành lập thư viện hoặc xác nhận đủ điều kiện thành lập thư viện.

3.4.3 Kiến nghị: Lựa chọn Giải pháp 1 và Giải pháp 2BII. CHÍNH SÁCH 2. ĐỔI MỚI CƠ CHẾ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THƯ VIỆN

THEO HƯỚNG CHUẨN HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ.

Sửa đổi, bổ sung các hoạt động thư viện đã được quy định tại Pháp lệnh nhưng còn vướng mắc, bất cập, chưa phù hợp với hoạt động thực tiễn, xu hướng phát triển, thông lệ quốc tế cũng như tương thích đối với pháp luật chuyên ngành có liên quan.

1. Xác định vấn đề bất cập

27

Page 28: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

- Thư viện là hoạt động sự nghiệp, trong hệ thống thư viện hiện tại và tương lai, các thư viện chủ yếu vẫn do cơ quan nhà nước thành lập và hoạt động bằng ngân sách nhà nước. Khi nhà nước ta chuyển sang kinh tế thị trường, thư viện ít được quan tâm hơn so với các hoạt động sản xuất, kinh doanh, mức ngân sách nhà nước cấp cho thư viện rất thấp do vậy các thư viện gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển vốn tài liệu, cơ sở vật chất trang thiết bị nghèo nàn, đời sống cán bộ gặp nhiều khó khăn, không thu hút được nhân lực chất lượng cao, vấn đề chuẩn hóa, hiện đại hóa và liên thông thư viện chưa được quan tâm đầy đủ... Nguồn lực để giúp thư viện tiếp tục đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, học tập, nghiên cứu của số đông những người cần nâng cao kiến thức, nhận thức vẫn chủ yếu qua nguồn tài liệu của thư viện. Với xu thế phát triển của khoa học công nghệ, các thiết bị thông minh, con người có thể tra cứu thông tin trên mạng, thay đổi thói quen của người sử dụng thư viện; nền kinh tế thị trường với chủ trương mở cửa đối với các chính sách hoạt động dịch vụ thư viện... đang tác động mạnh mẽ và toàn diện lên các mặt hoạt động của thư viện.

- Hiện nay, các quy định về hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của thư viện chưa được Pháp lệnh thư viện đề cập đến mà được điều chỉnh bởi các văn bản dưới luật (thông tư của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Bên cạnh đó, thực tế, tại một số thư viện trong cả nước đang lưu giữ những tài liệu, bộ sưu tập tài liệu quý hiếm, có giá trị lịch sử, văn hóa, nhưng do bảo quản chưa tốt nên không ít tài liệu đã thất lạc hoặc bị hư hỏng. Không ít tổ chức, cá nhân có những bộ sưu tập tài liệu quý hiếm muốn chuyển lại cho Nhà nước để lưu giữ và khai thác nhưng chưa có quy định chế độ bảo quản và chính sách bổ sung vốn tài liệu thư viện có giá trị. Vì vậy cần bổ sung vào Luật các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, chú trọng là các hoạt động cơ bản trong hệ thống thư viện như: số hóa vốn tài liệu thư viện, luân chuyển sách trong hệ thống thư viện. Đặc biệt cần có các quy định về chế độ bảo quản và chính sách bổ sung vốn tài liệu thư viện có giá trị, cơ chế hợp tác, chia sẻ vốn tài liệu thư viện trong từng mạng lưới và với cả hệ thống thư viện.

Xác định cơ chế vận hành của thư viện không chỉ về đổi mới hoạt động của thư viện hiện tại, mà vấn đề định hướng mục đích hoạt động thư viện trong thời gian tới cũng đang cần quan tâm định hướng phát triển và quản lý. Đối với thư viện, do tính đặc thù và nhiệm vụ đảm bảo tính chính trị, hoạt động của các thư viện theo nguyên tắc chủ yếu là phi lợi nhuận. Tuy nhiên, cũng tính từ nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế thị trường, sự phát triển của thư viện số, xu thế nhu cầu mua quyền truy cập cơ sở dữ liệu, việc coi thông tin là hàng hóa đặc biệt... sẽ dẫn đến các dịch vụ thư viện có phát sinh lợi nhuận.

2. Mục tiêu giải quyết vấn đề- Thu hút nhiều người đến với nguồn tài liệu trong thư viện, xây dựng và

phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng, nâng cao trình độ, trí tuệ của người dân.

- Tạo cơ chế đảm bảo tính năng động cho các thư viện khai thác tối đa vốn tài liệu và cơ sở vật chất hiện có, tăng thêm nguồn lực để tái đầu tư cho các hoạt động chuyên môn; giảm gánh nặng từ ngân sách.

28

Page 29: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

- Cần tạo hành lang pháp lý về chế độ bảo quản và chính sách bổ sung vốn tài liệu thư viện có giá trị.

- Quản lý các hoạt động dịch vụ thư viện, đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và các vấn đề liên quan đến bản quyền tác giả.

3. Các giải pháp giải quyết vấn đềĐể giải quyết vấn đề bất cập nêu trên và có cơ chế tháo gỡ hiệu quả thì cần sửa

đổi cơ chế hoạt động của thư viện hiện nay và bổ sung những hoạt động chuyên môn nghiệp vụ vào Luật thư viện; theo đó:

Giải pháp 1: sửa đổi cơ chế để hoạt động của thư viện không chỉ là nơi thu thập, tàng trữ tài liệu cung cấp thông tin mà còn là nơi sinh hoạt, không gian học tập sáng tạo của cộng đồng.

Giải pháp 2: bổ sung các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ.Giải pháp 3: tiến hành cả 02 giải pháp trên.Giải pháp 4: giữ nguyên như quy định hiện hành.Giải pháp 5: cơ chế hoạt động vì mục lợi nhuận của một số dịch vụ thư viện.Giải pháp 6: kiện toàn hệ thống thư viện công cộng cấp huyện, xã đáp ứng

yêu cầu quản lý Nhà nước về thư viện trong tình hình mới.3.1. Giải pháp 1. Sửa đổi cơ chế hoạt động của thư việnChuyển đổi từ phương thức hoạt động truyền thống sang hướng chuẩn hóa,

hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Luật thư viện cần có những quy định mới về cơ chế hoạt động cho thư viện để tạo tính sáng tạo, tự chủ bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ đảm bảo là thiết chế quan trọng của nhà nước trong việc cung cấp thông tin cho cộng đồng. Theo đó, thư viện không chỉ là nơi thu thập, tàng trữ tài liệu cung cấp thông tin mà còn là nơi sinh hoạt, không gian học tập sáng tạo của cộng đồng; với một số các hoạt động tiêu biểu như: phát triển thư viện trở thành điểm truy cập thông tin: điểm truy cập thông tin bình đẳng; tiếp cận thông tin tạo ra cơ hội phát triển của cộng đồng; cập nhật các kỹ năng cho lực lượng lao động...; thư viện trở thành điểm hỗ trợ thông tin: tập hợp, xử lý và phân phối nội dung thông tin nhằm tạo ra các sản phẩm, dịch vụ thông tin phù hợp với nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của người sử dụng...; thư viện trở thành điểm hỗ trợ học tập (trung tâm học suốt đời của mọi người dân; đầu mối hỗ trợ cho việc học tập của người dân với nguồn lực thông tin và tri thức toàn cầu; nơi phổ cập thông tin và kỹ năng công nghệ thông tin cho người dân…); trung tâm văn hóa năng động của cộng đồng (nơi lưu giữ, giữ gìn văn hóa của địa phương và của quốc gia; bảo quản di sản văn hóa thành văn quí hiếm thông qua việc ứng dụng CNTT; nơi sinh hoạt văn hóa thỏa mãn nhu cầu về đời sống tinh thần, nhu cầu hưởng thụ, chia sẻ các giá trị văn hóa; là nơi người dân có thể giao lưu gặp gỡ, chia sẻ thông tin của mọi tầng lớp nhân dân…). Phát triển các dịch vụ trong thư viện (dịch vụ sử dụng máy tính và truy nhập internet công cộng; dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ hỗ trợ học tập), tiếp cận nguồn tri thức trong nước và thế giới, hướng dẫn sử dụng máy tính

29

Page 30: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

và truy nhập internet...; dịch vụ văn hóa, giải trí (lưu giữ, bảo quản di sản văn hóa thành văn).

Quy định cụ thể chính sách đầu tư của Nhà nước và chính sách xã hội hóa tập trung các nội dung thúc đẩy thư viện phát triển theo hướng hiện đại hóa, trong đó có hình thành thư viện điện tử, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật trong lưu trữ, quản lý tài liệu thư viện, cải thiện điều kiện làm việc, môi trường hoạt động của thư viện tạo điều kiện cho thư viện nhất là thư viện trọng điểm bổ sung tài liệu đáp ứng yêu cầu phục vụ bạn đọc và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức.

Bên cạnh đó, theo nghiên cứu của các nhà khoa học, kể từ cuối thập niên 1970 trên thế giới, nghề thư viện (Library Science) được đổi thành nghề thông tin thư viện (Library and Information Science). Hoạt động của nghề này bao gồm hoạt động thông tin (Information Activity) và công tác thư viện (Library Task), trong đó hoạt động thông tin trở nên rất quan trọng. Cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường, việc coi thông tin như một thứ hàng hóa, triển khai các dịch vụ thu phí đang là thách thức; xã hội thông tin ngày càng phát triển, các thư viện đang hướng đến các hoạt động theo xu hướng là cơ quan cung cấp dịch vụ thông tin. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin của thư viện không những phục vụ cho công tác thư viện, mà thực sự đã trở thành dịch vụ xuất khẩu của nhiều thư viện trên thế giới. Nhiều thư viện Việt Nam hàng năm bỏ ra số tiền không nhỏ để mua các cơ sở dữ liệu điện tử để phục vụ công tác nghiệp vụ và bạn đọc.

Trong Chiến lược xuất khẩu dịch vụ đến năm 2030, dịch vụ thư viện được xác định không chỉ nhằm mục đích cung cấp, phục vụ cá nhân, văn hóa, giải trí mà là cơ hội cho các thư viện chủ động hội nhập, giao lưu văn hóa, tri thức với các tổ chức quốc tế, là kênh thông tin quan trọng nhằm quảng bá lịch sử, văn hóa… Việt Nam ra quốc tế. Tiềm năng ấy, thể hiện trong việc hiện hệ thống thư viện Việt Nam đang lưu giữ nhiều tư liệu quý, hiếm và có giá trị, việc xây dựng, phát triển cơ sở dữ liệu thành nguồn thông tin phục vụ dịch vụ xuất khẩu là hoàn toàn có tính khả thi. Tiêu biểu: Thư viện Quốc gia Việt Nam: đang có nguồn tư liệu hoặc bộ sưu tập số đặc thù/riêng có của Việt Nam, hiện nay đang xây dựng các CSLD toàn văn trực tuyến trên Internet: Báo, tạp chí Đông Dương, Sách Đông Dương, Sách Hán Nôm, Tóm tắt Luận án tiến sĩ ); bên cạnh đó báo, tạp chí, một số sách nghiên cứu về văn hóa, lịch sử, tài liệu nghiên cứu khoa học... là thế mạnh. Thư viện Khoa học xã hội với lịch sử hơn 100 năm (tiền thân là Thư viện Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp) hiện lưu giữ khoảng 1.000.000 đầu tài liệu thuộc các lĩnh vực khác nhau, trong kho tư liệu truyền thống có hơn 160 tập thần tích, thần sắc, 1.225 bản hương ước được viết bằng chứ Hán, chữ Nôm, bút lông trên giấy gió của gần 9000 làng Việt, bên cạnh đó có bộ sưu tập sách Nhật cổ có 11.223 bản, Trung Quốc cổ có 31.175 bản … nhiều bản sách cổ như bộ “Vĩnh lạc đại điển”, một phần bộ “tứ khố toàn thư” có giá trị đặc biệt mà ngay cả nơi sinh ra nó là Trung Quốc cũng không có đủ, với kho ảnh 58.000 ảnh về các di tích lịch sử, kiến trúc, khảo cổ, sinh hoạt văn hóa… trong đó có 40.000 ảnh về Việt nam, Lào, Campuchia được hình thành từ các công trình nghiên cứu của người Pháp và người Việt nam đang được UNESCO đề nghị làm hồ sơ đăng ký công nhận là Ký ức thế giới…

30

Page 31: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

Thư viện Khoa học và công nghệ quốc gia hiện đã có CSDL công bố khoa học và công nghệ Việt Nam với trên 20.000 biểu ghi đa số là biểu ghi toàn văn về lĩnh vực khoa học công nghệ, các bài báo, nghiên cứu đã đăng trên các báo, tạp chí khoa học, kỷ yếu hội nghị, hội thảo; CSDL về nhiệm vụ khoa học và công nghệ Việt Nam với 22.000 biểu ghi gồm các báo cáo nhiệm vụ nghiên cứu các cấp đã được giao nộp tại Cục Thông tin khoa học công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và công nghệ… đây là nguồn thông tin có giá trị góp phần giúp các nhà khoa học Việt Nam hoặc thế giới tra cứu, góp phần nâng cao năng suất nghiên cứu và tăng cường mức độ ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu đối với trong nước và quốc tế. Hệ thống thư viện công cộng 63 tỉnh thành đang có các nội dung tài liệu quốc chí, địa chí về Việt nam đất nước, con người ở cả bình diện khái quát cũng như các bình diện cụ thể tại các địa phương là cơ sở để xây dựng cơ sở dữ liệu Việt Nam – đất nước, con người. Hệ thống thư viện trường đại học, thư viện bộ ngành, các viện nghiên cứu, đào tạo cũng có nhiều tư liệu phục vụ học sinh, sinh viên, người nghiên cứu, chuyên gia…

Đổi mới cơ chế hoạt động của thư viện không chỉ tạo điều kiện cho các thư viện chủ động, phát huy thế mạnh của mình, còn là cơ sở, tiền đề xem xét đến cơ chế hoạt động vì lợi nhuận của một số dịch vụ thư viện (Giải pháp 5 trong Chính sách này).

Tác động của giải pháp: (1) Tác động tích cực:

Đảm bảo cơ sở pháp lý ở cấp Luật cho các hoạt động thư viện, cho phép các thư viện nâng cao tính chủ động, sáng tạo, tự chủ đáp ứng được yêu cầu thực hiện, hội nhập quốc tế.

Chủ động góp phần giảm gánh nặng hỗ trợ từ nhà nước, tận dụng hết công năng vốn có của thư viện.

Các nội dung này chủ yếu được rà soát và nâng cấp từ các quy định hiện hành về quyền tự chủ tài chính và thông tư hướng dẫn về các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ nên về cơ bản không phát sinh điều kiện mới.

(2) Tác động tiêu cực: phát sinh chi phí xây dựng văn bản cho nhà nước.3.2. Giải pháp 2. Bổ sung các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụNgoài việc nâng cấp các quy định về hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ từ

quy định hiện hành (Thông tư), bổ sung quy định về hoạt động của thư viện điện tử, thư viện số và tài nguyên mở trong đó quy định định nghĩa các nguyên tắc hoạt động của thư viện số, vấn đề số hóa tài liệu để bảo quản và chia sẻ, các phương thức tổ chức, khai thác hoạt động nguồn vốn thư viện trong đó chú trọng vấn đề bản quyền số hóa tài liệu, quyền truy cập tài liệu số, vấn đề liên kết, chia sẻ nguồn lực thông tin và các biểu ghi thư mục, vấn đề liên thông thư viện, các dịch vụ mượn liên thư viện giữa các thư viện trong và ngoài nước; quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động thư viện điện tử và đảm bảo quyền lợi của xã hội và các bên có liên quan. Bên cạnh đó, việc phát triển thư viện điện tử với việc sử dụng các tài liệu điện tử trong và ngoài nước nếu không cẩn trọng dễ bị lọt các tài

31

Page 32: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

liệu không đảm bảo về nội dung; với công nghệ hiện đại việc phát tán tài liệu sẽ được diễn ra với tốc độ chóng mặt, không dễ kiểm soát vì vậy các nghiệp vụ chuyên môn nghiệp vụ cần phải được quy định chặt chẽ mang tính phòng, tránh để hạn chế tối đa việc phải xử lý, khắc phục hậu quả.

Tác động của giải pháp: 3.2.1. Về kinh tế:

Bản thân việc quy định các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ không trực tiếp phát sinh các tác động. Nhưng để thực hiện được các hoạt động đó đòi hỏi phải có điều kiện nhất định. Để thực hiện chức năng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, giá trị vốn tài liệu thư viện, nhiệm vụ thu thập, lưu giữ và bảo quản tài liệu là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của thư viện. Với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, trong bối cảnh “bùng nổ thông tin”, cùng với thời gian, khối lượng tài liệu bổ sung vào trong các thư viện ngày càng tăng cả ở dạng in truyền thống cũng như dạng điện tử. Mặt khác, thư viện là một thiết chế cung ứng dịch vụ công, phục vụ mọi đối tượng bạn đọc nên diện tích dành cho việc phục vụ bạn đọc với các phòng chuyên biệt cũng hết sức cần thiết. Do vậy, nhu cầu đầu tư xây dựng, mở rộng kho lưu giữ tài liệu chuyên dụng, bảo đảm các yêu cầu về bảo quản tài liệu, bảo đảm diện tích, không gian phục vụ bạn đọc là yêu cầu luôn được đặt ra đối với các thư viện trong quá trình xây dựng quy hoạch, cũng như kế hoạch của các cơ quan quản lý nhà nước về thư viện. Yêu cầu này càng trở nên cấp thiết khi mà còn hơn 40% số địa phương chưa có trụ sở thư viện cấp tỉnh, hơn 70% thư viện cấp huyện chưa có trụ sở độc lập, một số thư viện tỉnh, phần lớn thư viện cấp huyện vẫn phải chung trụ sở với cơ quan, đơn vị khác. Hầu hết trụ sở của thư viện chưa đáp ứng với công năng sử dụng rất đặc thù của thư viện, kể cả những thư viện được xây dựng mới, đưa tới tình trạng lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản.

Đầu tư trang thiết bị kỹ thuật để bảo quản, tổ chức sử dụng vốn tài liệu thư viện, hiện đại hóa phương thức hoạt động cũng như phục vụ của thư viện theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Hiện nay, loại hình tài liệu trong thư viện không chỉ có tài liệu dạng in mà còn có cả tài liệu điện tử, vấn đề số hóa tài liệu để bảo quản và chia sẻ đang trở thành xu thế phát triển tất yếu của thư viện. Để số hóa, các thư viện rất cần các máy móc và phần mềm chuyên dụng; để bảo quản các loại hình tài liệu, thư viện cần có giá kệ, bộ nhớ, vật ghi âm, ghi hình, hệ thống phòng, chống, báo cháy, hệ thống thông gió, hút ẩm, thiết bị khử trùng, khử axit, thiết bị nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng các biện pháp kỹ thuật bảo quản…; để tổ chức các sản phẩm, dịch vụ nhằm sử dụng vốn tài liệu, thư viện phải có hệ thống máy chủ, máy tính, phần mềm chuyên dụng để tích hợp, quản lý, tra tìm tài liệu có trong thư viện cũng như nằm ở các thư viện khác, thiết bị sao chụp tài liệu, thiết bị trưng bày, triển lãm tài liệu v.v…

Các vấn đề này không chỉ đòi hỏi phải có hành lang pháp lý để hình thành, phát triển mà cần có nền tảng để tổng quát và có những định hướng đầu tư, chính sách phù hợp với từng giai đoạn. Cùng với đó là những lộ trình để từng bước thực hiện đồng bộ với chiến lược phát triển công nghệ thông tin, xã hội hóa.

32

Page 33: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

3.2.2. Về hệ thống pháp luật Đảm bảo cơ sở pháp lý ở cấp Luật cho các hoạt động thư viện, xác định

những hoạt động nghiệp vụ cơ bản giúp cho việc thống nhất quản lý hoạt động thư viện và tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng thư viện.

Các quy định này hiện đang thực hiện theo văn bản dưới luật (gồm: Thông tư số 21/2012/TT-BVHTTDL ngày 28 tháng 12 năm 2012, Thông tư số 18/2014/TT-BVHTTDL ngày 8/12/2014 và Thông tư số 13/2016/TT-BVHTTDL ngày 09 tháng 12 năm 2016 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) nên khi được quy định trong dự án Luật thư viện về cơ bản không phát sinh điều kiện hay thủ tục hành chính.

3.3. Giải pháp 3. Tiến hành cả 02 giải pháp trênTác động của giải pháp:(1) Tác động tích cực: Đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất. Phát huy được

tính tích cực của cả 02 giải pháp trên.(2) Tác động tiêu cực: Phát sinh chi phí xây dựng văn bản cho Nhà nước.3.4. Giải pháp 4. Giữ nguyên như quy định hiện hànhTác động của giải pháp: (1) Tích cực: Không phát sinh chi phí xây dựng văn bản cho Nhà nước.(2) Tiêu cực: Không giải quyết được các vấn đề bất cập đã nêu, tạo thêm

gánh nặng ngân sách đối với Nhà nước. 3.5. Giải pháp 5. Cơ chế hoạt động vì lợi nhuận của

một số dịch vụ thư viện.Đa số hiện nay, tại Việt Nam các mô hình thư viện đang hoạt động vì mục

đích phi lợi nhuận điều này cũng phù hợp nguyên tắc hoạt động cơ bản của nhiều nước trên thế giới.

Với xu hướng coi thông tin là một loại hàng hóa đặc biệt, việc triển khai các dịch vụ thư viện có thu phí đang đặt ra những vấn đề cho phép thư viện triển khai các dịch vụ đến đâu và cần quản lý khi mở cửa thị trường văn hóa nói chung, thư viện nói riêng.

Dự kiến trong dự thảo Luật, các thư viện hoạt động vì mục đích lợi nhuận được thành lập theo quy định pháp luật về đầu tư và kinh doanh và coi đây là một loại hình kinh doanh có điều kiện (khi đăng ký cần có ý kiến đồng thuận của cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực thư viện). Khi đó các điều kiện để thành lập và đảm bảo cho hoạt động của một thư viện được đối chiếu với các quy định tại Luật này. Trong đó:

Việc thành lập thư viện dưới hình thức doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005;

33

Page 34: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

Việc thành lập thư viện dưới hình thức doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Đầu tư năm 2005.

Đối với các thư viện hoạt động không vì mục đích lợi nhuận thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về lập và hoạt động của các cơ sở văn hóa, giáo dục nước ngoài tại Việt Nam (Nghị định số 18/2001/NĐ-CP ngày 04 tháng 5 năm 2001).13 (đối với thư viện có yếu tố nước ngoài có văn bản thỏa thuận) hoặc theo các quy định của Luật thư viện (bao gồm cả các thư viện có yếu tố nước ngoài không có văn bản thỏa thuận).

Đánh giá tác động:

(1) Tác động tích cực:

Đảm bảo mọi quyền của cá nhân, tổ chức. Thực hiện chủ trương, chính sách của nhà nước về Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam trong lĩnh vực thư viện, từng bước hình thành và xây dựng cơ chế tự chủ cho thư viện theo lộ trình chung của Chính phủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Hạn chế các hình thức né tránh hiện nay, thu được thuế, phí cho ngân sách nhà nước.

Về thủ tục hành chính: đã được phân tích kỹ trong mỗi loại hình nêu trên.

(2) Tác động tiêu cực: Phát sinh chi phí xây dựng văn bản cho Nhà nước.3.6. Giải pháp 6. Kiện toàn hệ thống thư viện công cộng cấp huyện, xã

đáp ứng các yêu cầu quản lý về thư viện trong tình hình mới.3.6.1. Thực trạng và giải phápa) Về cơ sở hạ tầngMạng lưới thư viện công lập hiện nay Việt Nam bao gồm hệ thống thư viện

công cộng, thư viện chuyên ngành, đa ngành và thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng. Trong đó, hệ thống thư viện công lập hiện được xây dựng trên cơ sở mạng lưới hệ thống thư viện công cộng các cấp. Tại cấp tỉnh có 63 thư viện; tại cấp huyện có 663 thư viện; cấp xã với 2.716 thư viện; 14.606 phòng đọc sách cơ sở (thôn, làng, bản, ấp). Các cán bộ thư viện được đào tạo và có kỹ năng cơ bản về thư viện, về cơ bản có khả năng và đáp ứng được các yêu cầu thực hiện vận hành thư viện. Hệ thống thư viện công cộng đang là hệ thống chủ yếu đảm bảo thực hiện hoạt động thư viện và cung cấp dịch vụ thư viện cho người dân trên toàn quốc. Nhiều thư viện đã kêu gọi, hình thành một số loại hình xã hội hóa, tuy nhiên do thiếu chính sách khuyến khích, chưa đồng bộ, việc xã hội hóa chưa được quan tâm đúng mức, chưa tận dụng được nguồn nhân lực hiện có hoặc “cản trở” việc mở rộng loại hình và nâng các chất lượng dịch vụ.

Hệ thống thư viện công cộng còn có nhiều hạn chế, tồn tại. Đó là cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhiều thư viện còn thiếu thốn, chất lượng dịch vụ còn hạn chế, yếu tố con người không đồng đều. Chính sách động viên các cơ sở này nâng 13 Hiện Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang được giao xây dựng Nghị định quy định về thành lập, hoạt động của cơ sở văn hóa nước ngoài tại Việt Nam dự kiến ban hành trong năm 2017 (hiện đang lấy ý kiến góp ý dự thảo). Nghị định áp dụng đối với cơ sở văn hóa nước ngoài hoạt động vì mục đích phi lợi nhận tại Việt Nam.

34

Page 35: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

cao chất lượng, tham gia vào quá trình xã hội hóa cung cấp dịch vụ thư viện còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng.

Mạng lưới thư viện cấp tỉnh vẫn còn gặp khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí hoạt động. Cho tới nay vẫn có không ít thư viện tỉnh có trụ sở nằm chung với cơ quan khác (Hòa Bình, Hà Nam); nhiều thư viện tỉnh đang nằm chờ phê duyệt thiết kế để xây dựng, hoặc đã được phê duyệt thiết kế, nhưng chưa có kinh phí xây dựng... nên không được đầu tư nâng cấp, do vậy tình trạng xuống cấp về trụ sở, trang thiết bị lạc hậu, cũ kỹ còn chiếm tỷ lệ không phải là nhỏ. Kinh phí chi cho hoạt động chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển của thư viện.

Mạng lưới thư viện cấp xã và cơ sở tuy phát triển nhanh, song chưa bền vững, do thiếu nhân lực, nguồn kinh phí duy trì hoạt động thường xuyên của thư viện.

- Mặc dù trong những năm qua, các thư viện đã có rất nhiều cố gắng để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, song nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được với nhu cầu của bạn đọc, với yêu cầu phát triển của ngành. So với các nước phát triển trong khu vực có khoảng cách khá xa về trình độ phát triển. Nguy cơ tụt hậu đang tiềm ẩn.

- Các thư viện mất khá nhiều thời gian, công sức, tiền của để triển khai áp dụng các chuẩn nghiệp mới với mục tiêu thống nhất-chuẩn hóa-hội nhập, song hiệu quả chưa thật sự đạt mục tiêu như mong muốn.

- Việc liên kết chia sẻ nguồn lực thông tin giữa các thư viện chưa được các thư viện quan tâm đúng mức.

- Khả năng thích ứng của đội ngũ cán bộ thư viện với sự thay đổi còn hạn chế.b) Nguồn nhân lực ngành thư viện Đối với hoạt động sự nghiệp thư viện: Bảo đảm biên chế và tổ chức bộ máy

hợp lý cho các thư viện triển khai đầy đủ các hoạt động chuyên môn.+ Về biên chế cán bộ: Đến năm 2015, đối với thư viện cấp tỉnh bình quân

26 biên chế sự nghiệp/thư viện, như vậy, số lượng cán bộ thư viện cấp tỉnh khoảng 1.260; thư viện cấp huyện là 1,7 biên chế sự nghiệp/thư viện, như vậy số lượng cán bộ thư viện cấp huyện khoảng 939; thư viện cấp xã chủ yếu là kiêm nhiệm hoặc phục vụ tự nguyện. Với số lượng cán bộ như hiện nay, các thư viện mới chỉ tập trung triển khai các hoạt động phục vụ tại chỗ, chưa đủ nguồn nhân lực để triển khai các hoạt động phục vụ ngoài thư viện và nhiều hoạt động chuyên môn, dịch vụ thư viện khác.

+ Về tổ chức bộ máy: Thực tế hiện nay tổ chức thư viện cấp huyện trong cả nước là không thống nhất,

cụ thể: hiện nay, tổ chức thư viện cấp huyện trong cả nước trực thuộc 3 cơ quan, đơn vị khác nhau; có địa phương trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện (tỷ lệ 0,5%); có địa phương trực thuộc Phòng Văn hóa, Thông tin (tỷ lệ 45%); có địa phương trực thuộc Trung tâm Văn hóa, đây thực sự là một bất cập rất lớn, một đơn vị sự nghiệp ngang cấp lại nằm trong một đơn vị sự nghiệp ngang cấp khác. Với chủ trương tinh giảm biên chế, thu gọn đầu mối hiện nay, dự kiến trong thời gian tới

35

Page 36: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

các thiết chế cơ sở trong đó có cả văn hóa như thư viện, trung tâm văn hóa, điện ảnh được quy về một mối, không còn tính độc lập, các thư viện cấp huyện, xã đánh mất vai trò là trung tâm học tập của cộng đồng trên địa bàn.

Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đềCác giải pháp đưa ra nhằm đảm bảo bộ máy thực hiện công tác thư viện

công cộng các cấp để thực hiện hiệu quả trong tình hình mới. Đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao chất lượng các thư viện nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về khai thác, sử dụng thông tin, sản phẩm thư viện và các dịch vụ thư viện có chất lượng cho người dân đảm bảo quyền tiếp cận thông tin, tính bền vững của việc xây dựng và phát triển văn hóa đọc.

Có 2 giải pháp: Giải pháp 6A. Giữ nguyên hiện trạngGiải pháp 6B. Kiện toàn, củng cố hệ thống thư viện công cộng cấp huyện,

cấp xã với các mô hình thiết chế đã có; việc thành lập mới chỉ được thực hiện tại các địa phương thực sự có nhu cầu và điều kiện cho phép.

3.6.2. Đánh giá tác động3.6.2.1. Giải pháp 6A. Giữ nguyên hiện trạng theo quy định pháp luật hiện hành(1) Tác động tích cực: Không gây xáo trộn về tổ chức, bộ máy trong việc thực hiện công tác thư viện

và thực hiện cung cấp dịch vụ thư viện tại các cấp.(2) Tác động tiêu cực: Không đáp ứng được yêu cầu về cung cấp dịch vụ thư viện có chất lượng,

thuận tiện cho người dân; nhất là vùng sâu, vùng xa...Chưa kiện toàn, tập trung được những tuyến thư viện quan trọng để tạo điều

kiện phát triển.3.6.2.2. Giải pháp 6B. Kiện toàn, củng cố hệ thống thư viện công cộng cấp

huyện, cấp xã và các mô hình thiết chế đã có; việc thành lập mới chỉ được thực hiện trong điều kiện đặc biệt.

Giải pháp này chủ yếu tác động đến các nguồn lực đảm bảo cho các hoạt động của hệ thống thư viện công cộng: nguồn nhân lực (đối với hoạt động quản lý và sự nghiệp như đã phân tích ở trên) và nguồn lực tài chính. Đối tượng chịu tác động chủ yếu là Nhà nước và hệ thống thư viện công cộng các cấp.

a) Về các đối tượng chịu sự tác động của chính sách:- Đối với Nhà nước: Không phải đầu tư mới, tập trung tăng cường nâng cao

trình độ nguồn nhân lực. Phải tăng cường nguồn lực tài chính để thực hiện các nhiệm vụ sự nghiệp thư viện:

Hiện nay, để bảo đảm kinh phí cho các thư viện thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa thành văn, vốn tài liệu trong các thư viện, mỗi thư viện tỉnh cần được cấp kinh phí bình quân tối thiểu 2,5 tỷ

36

Page 37: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

đồng/năm; thư viện cấp huyện 50 triệu đồng/năm; thư viện cấp xã 20 triệu đồng/năm. Để bảo đảm định mức này, Dự thảo Luật sẽ quy định chính sách đầu tư của Nhà nước đối với thư viện công cộng và thư viện thuộc các cơ sở giáo dục. Những quy định này sẽ là căn cứ để xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện, xây dựng định mức cấp kinh phí cho hoạt động thư viện được tăng theo có lộ trình, theo sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Mặt khác, trong dự thảo Luật thư viện sẽ quy định cụ thể các chính sách khuyến khích đầu tư cho thư viện. Với chính sách này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho các thư viện, đặc biệt là đầu tư cho hệ thống thư viện công cộng và thư viện thuộc các cơ sở giáo dục. Với nguồn đầu tư này, cùng với ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ, tăng cường thêm nguồn lực tài chính cho các thư viện.

Đối với mạng lưới thư viện cấp xã - mạng lưới thư viện cơ sở trực tiếp phục vụ người dân, cần khuyến khích thành lập. Tuy nhiên, nếu thành lập đồng bộ, chính quy thì Nhà nước phải đầu tư ngân sách lớn cho việc xây dựng trụ sở, bố trí cán bộ và duy trì hoạt động của thư viện nên sẽ có phương thức tổ chức và lộ trình phát triển hợp lý. Để đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của loại hình thư viện này, tránh thành lập tràn lan, không đảm bảo chất lượng, bên cạnh việc kiện toàn, chấn chỉnh và phối hợp với các mô hình khác được phân tích ở chính sách 1, thư viện cấp xã do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định được thành lập theo quy hoạch, việc xây dựng quy hoạch căn cứ nhu cầu, khả năng thực tế ở cơ sở theo lộ trình thời gian thích hợp và gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới của Chính phủ, giảm gánh nặng của Nhà nước.

- Đối với hệ thống thư viện công cộng các cấp:Khắc phục được sự bất cập đã nêu, tạo nên sự đồng bộ, thống nhất đối với

tổ chức thư viện cấp huyện - một mắt xích quan trọng trong hệ thống thư viện công cộng Việt Nam - tạo điều kiện cho mô hình thư viện này phát triển có trọng tâm, trọng điểm.

- Đối với người dân: Người dân hoàn toàn được hưởng lợi từ việc khai thác và sử dụng thư viện.b) Về kinh tế-xã hội:Cùng với việc kiện toàn lại hệ thống thư viện công cộng các cấp, việc đa

dạng hóa các loại hình thư viện như đã phân tích ở trên đảm bảo vừa là một giải pháp huy động đóng góp của xã hội tăng đầu tư cho công tác thư viện để thực hiện mục tiêu phát triển sự nghiệp thư viện, hình thành thói quen đọc sách và phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng. Xây dựng được mạng lưới vững chắc để thực hiện việc cung cấp thông tin, phát huy nguồn lực vốn tài liệu trong nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Hệ thống mạng lưới thư viện cơ bản được giữ nguyên, không phát sinh thêm biên chế làm tăng gánh nặng, ngân sách nhà nước; chỉ phải đầu tư những nơi thực sự cần thiết.

Chi phí đầu tư của Nhà nước có thể tăng nhưng ý nghĩa và hiệu quả về các mặt chính trị - kinh tế - xã hội do thư viện mang lại là vô giá – đầu tư cho thư viện

37

Page 38: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

là tiết kiệm và hiệu quả kinh tế nhất trong các hoạt động đưa sách báo tới quần chúng nhân dân.

3.6.2.3. Kiến nghị: Lựa chọn giải pháp 6B3.6.3. Kiến nghị: Lựa chọn tiến hành đồng bộ các Giải pháp 3, Giải pháp 5

và Giải pháp 6B.

III. CHÍNH SÁCH 3. TĂNG CƯỜNG CHỨC NĂNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN

1. Xác định vấn đề bất cậpQuản lý nhà nước về thư viện trong những năm qua đạt được hiệu quả hiệu

lực nhất định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các thư viện cần phải được tổ chức, phân loại một cách khoa học, hợp lý để có thể có chính sách quản lý, đầu tư cho phù hợp. Pháp lệnh thư viện mới chỉ quy định và phân loại đối với các thư viện công lập. Quy định về phân loại thư viện trong Pháp lệnh cũng chưa hợp lý, chưa phù hợp với phân loại của quốc tế, nên chưa được sự đồng tình của những người làm công tác thư viện, các nhà nghiên cứu về thư viện học, cụ thể: Thư viện Quốc gia Việt Nam nằm trong loại hình thư viện công cộng và thư viện thuộc cơ sở giáo dục nằm trong loại hình thư viện chuyên ngành, đa ngành là chưa hợp lý. Qua tìm hiểu quy định một số nước, thư viện chủ yếu được phân loại thành 02 loại là hệ thống thư viện công lập và ngoài công lập; đối với hệ thống thư viện thuộc cơ sở giáo dục, Các liên đoàn quốc tế của Hiệp hội thư viện và các cơ sở giáo dục (IFLA) chia thành hai loại hình riêng là thư viện thuộc cơ sở giáo dục và thư viện các trường phổ thông…

Việc xếp hạng hiện nay cũng mới chỉ được quy định tại Thông tư số 67/2006/TT-BVHTT ngày 10/8/2006 của Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn phân hạng và thực hiện chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo trong các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công lập hoạt động văn hóa-thông tin của Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và thực hiện đối với thư viện công lập, dựa trên các tiêu chí về địa danh hành chính (thư viện thuộc thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hạng II, các thư viện tỉnh còn lại là hạng III). Do đó, dẫn đến tình trạng, cùng là một thiết chế văn hóa tương đương, việc phân hạng bảo tàng do đã được quy định trong Luật Di sản văn hóa, nên khi so với bảo tàng, một loạt các thư viện cùng cấp bị tụt hạng và đã ảnh hưởng tới sự đầu tư của chính quyền địa phương đối với thư viện (việc phân bổ ngân sách dựa trên hạng thư viện).

Về vấn đề quy hoạch, hiện quy hoạch ngành thư viện đang được thực hiện theo Quyết định số 10/2007/QĐ-BVHTT ngày 4 tháng 5 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành thư viện Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Quá trình thực hiện cho đến nay cho thấy Quy hoạch được phê duyệt năm 2007 đã không còn phát huy hiệu lực của nó do sự phát triển của hệ thống thư viện đã được đặt trên một tầm mức phát triển mới; nhiều yếu tố kinh tế, xã hội, khoa học và công nghệ đã ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thống thư viện. Theo báo cáo của các địa phương cho đến nay mới có khoảng 20% số địa phương phê duyệt đề án phát triển mạng lưới thư

38

Page 39: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

viện ở địa phương, 30% số địa phương đang triển khai xây dựng còn lại 50% chưa triển khai thực hiện. Nhìn chung việc triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển ngành thư viện còn chậm so với yêu cầu. Hạn chế căn bản của Quy hoạch đó là hiệu lực pháp lý của văn bản còn chưa cao, vì vậy chưa bao quát được các loại hình thư viện thuộc nhóm thư viện chuyên ngành đa ngành bao gồm: thư viện của viện, trung tâm nghiên cứu khoa học, thư viện của trường và các cơ sở giáo dục (thư viện trường phổ thông và thư viện các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp), thư viện lực lượng vũ trang dẫn đến việc thực thi các mục tiêu phát triển tại Quy hoạch được nêu ra cho từng loại hình thư viện còn gặp nhiều bất cập. Sự phối hợp liên ngành giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với các Bộ, Ngành khác trong việc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về thư viện còn chưa được cụ thể rõ ràng, dẫn đến sự chồng chéo trong công tác quản lý đối với các loại hình thư viện này. Trong số 10 lĩnh vực chuyên ngành văn hóa, gia đình, các lĩnh vực bảo tàng (2005), điện ảnh, mỹ thuật, nghệ thuật biểu diễn (2014) quy định phê duyệt quy hoạch đều do Thủ tướng Chính phủ ký quyết định ban hành trên cơ sở Luật chuyên ngành.

Bên cạnh đó, trong thời đại hội nhập toàn cầu hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ thông tin với sự hình thành thư viện điện tử đã được phân tích ở trên, vấn đề liên thông thư viện là một nội dung rất quan trọng và cần thiết trong hoạt động thư viện, không chỉ quy định bắt buộc các thư viện công lập phải có trách nhiệm thực hiện liên thông thì các thư viện cần phải áp dụng chuẩn nghiệp vụ thống nhất trong toàn hệ thống để thực hiện liên thông, trao đổi, chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin với các thư viện trong nước và quốc tế. Do vậy việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho người làm công tác thư viện là hết sức cần thiết. Pháp lệnh thư viện quy định “đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ thư viện cho đội ngũ những người làm công tác thư viện” thuộc nội dung quản lý nhà nước về thư viện, nhưng việc hướng dẫn nghiệp vụ thư viện do Thư viện Quốc gia Việt Nam và thư viện do UBND các cấp thành lập thực hiện. Quy định này không phù hợp với Luật Viên chức, theo đó đơn vị sự nghiệp không có chức năng quản lý nhà nước

2. Mục tiêu giải quyết vấn đềĐảm bảo tính khả thi, thống nhất của quy định, xây dựng hệ thống thư viện,

phân loại thư viện một cách khoa học, đảm bảo phù hợp với thực tiễn hoạt động, xu hướng phát triển, thông lệ quốc tế cũng như tương thích đối với pháp luật chuyên ngành có liên quan

3. Các giải pháp giải quyết vấn đềĐể giải quyết vấn đề bất cập nêu trên thì cần xây dựng các quy định về phân

loại và xếp hạng thư viện và điều chỉnh nội dung quản lý nhà nước về thư viện.3.1. Về Quy hoạch thư viện có 02 giải pháp được lựa chọn:Giải pháp 1: Bổ sung nội dung xây dựng quy hoạch thư viện vào Luật thư

viện.Giải pháp 2: Giữ nguyên như hiện hành.

39

Page 40: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

3.1.1. Giải pháp 1. Bổ sung nội dung xây dựng quy hoạch thư viện vào Luật thư viện

Quy định nguyên tắc xây dựng quy hoặc và trách nhiệm thực hiện việc quy hoạch thư viện, và trở thành 01 điều kiện cho phép thành lập thư viện - “Phải phù hợp với quy hoạch mạng lưới thư viện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”

(1) Tác động tích cực:Việc xây dựng quy hoạch thư viện Phù hợp với các quy định hiện hành và

đáp ứng các yêu cầu về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội và được quy định như một nội dung về quản lý nhà nước trong Luật thư viện. Tránh thành lập thư viện tràn lan (nhất là thư viện công cộng), nhằm đảm bảo cho việc đầu tư, quản lý thư viện và chất lượng thư viện.

Tạo nền tảng và cơ sở thống nhất sự phát triển ngành thư viện trong những năm sắp tới phù hợp với Chiến lược phát triển văn hóa đến 2020 đã được Chính phủ phê duyệt, các định hướng phát triển văn hóa đọc, phát triển thông tin và truyền thông gần đây của Đảng, nhà nước và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Đảm bảo tính tương thích đối với các Luật chuyên ngành khác. Các Luật di sản, Luật điện ảnh và cả dự thảo Luật du lịch cũng đã đưa nội dung quy hoạch vào Luật.

Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong việc phát triển ngành thư viện đảm bảo hiệu quả, thống nhất trong cả nước. Nâng cao hiệu quả phục vụ và phát triển bền vững ngành thư viện trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách, phương thức quản trị, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và phát triển kết cấu hạ tầng ngành, gắn liền đổi mới công nghệ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về thông tin và tri thức cho mọi tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.

Làm cơ sở cho các Bộ, ngành cùng phối hợp, các địa phương lập quy hoạch ngành và phát triển ngành văn hóa, thể thao và du lịch nói chung và quy hoạch phát triển thư viện trên địa bàn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và quy hoạch tổng thể phát triển ngành thư viện Việt Nam.

(2)Tác động tiêu cực: Chi phí xây dựng văn bản cho nhà nước.3.1.2. Giải pháp 2: giữ nguyên như hiện hành(1) Tác động tích cực: Không phát sinh bất kể loại chi phí nào. Phù hợp với trường hợp, nếu Luật

quy hoạch ban hành và theo đó các luật chuyên ngành không quy định lại.(2) Tác động tiêu cực: Không phù hợp với yêu cầu thực tiễn và các quy định pháp luật hiện hành,

đặc biệt các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị quản lý nhà nước và không khắc phục được những bất cập đã nêu ở trên.

40

Page 41: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

3.1.2. Kiến nghị lựa chọn giải pháp: Lựa chọn giải pháp sẽ phụ thuộc vào việc Luật quy hoạch được ban hành để có quy định phù hợp.

3.2. Về phân loại và xếp hạng thư viện: có 02 giải pháp được lựa chọnGiải pháp 1: sửa đổi bổ sung quy định về phân loại và xếp hạng thư việnGiải pháp 2: giữ nguyên như quy định hiện hành3.2.1. Giải pháp 1. Sửa đổi quy định về phân loại và xếp hạng thư việnNgoài việc phân loại thư viện theo tiêu chí chung của thế giới như: thư viện

Quốc gia, thư viện công cộng, thư viện đại học, thư viện chuyên ngành, thư viện trường học, bổ sung quy định về phân loại thư viện theo hình thức sở hữu theo đó có 02 loại hình thư viện là: thư viện công lập và thư viện ngoài công lập.

Về xếp hạng thư viện: Thư viện được phân làm 5 hạng như sau: thư viện hạng I (cấp quốc gia), thư viện hạng II, thư viện hạng III, thư viện hạng IV và thư viện hạng V. Việc xếp hạng thư viện căn cứ vào các tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể về: mục tiêu, chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và nhân lực của thư viện; phạm vi phục vụ của thư viện, vốn tài liệu thư viện; mức độ ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của thư viện; cơ sở vật chất và trang thiết bị, nguồn lực tài chính của thư viện, chất lượng các sản phẩm, dịch vụ thông tin thư viện và mức độ, hiệu quả sử dụng các sản phẩm, dịch vụ này. Giao Chính phủ quy định cụ thể tiêu chí từng hạng thư viện.

Giải pháp 1A. Xếp hạng được áp dụng với tất cả các loại hình thư viện.Tác động của giải pháp:a) Đối với các chủ thể chịu sự tác động(1) Tác động tích cực: + Đối với Nhà nước: đảm bảo tính khoa học, phù hợp với cách thức phân

loại hiện hiện nay của các nước trên thế giới, là căn cứ để Nhà nước xem xét đầu tư ngân sách, nhân lực (đối với thư viện công lập) hoặc có chính sách ưu đãi nhất định đối với từng loại thư viện nhất là thư viện ngoài công lập có thứ hạng cao nhằm khuyến khích các thư viện phát triển.

+ Đối với các thư viện: đối với thư viện đảm bảo việc xếp hạng sẽ trả các thư viện về đúng vị trí, tầm vóc của mình, tạo động lực phát triển và thu hút nguồn lực tài trợ cho các thư viện.

(2) Tác động tiêu cực: Phát sinh chi phí xây dựng văn bản cho Nhà nước và phát sinh thủ tục hành

chính đối với thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng. Tuy nhiên, các chi phí này cần thiết và hiệu quả hơn so với các hình thức đầu tư dàn trải, tràn lan hiện nay và tạo động lực cho các thư viện phấn đấu để nâng cao hiệu quả hoạt động.

b) Về hệ thống pháp luật: Việc phân hạng thư viện ngay trong Luật để đảm bảo sự tương thích với các

quy định về bảo tàng trong Luật di sản văn hóa, Luật sửa đổi, bổ sung của Luật di

41

Page 42: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

sản văn hóa năm 2009 và giải quyết được các bất cập trong việc phân hạng như hiện nay. Đảm bảo tính bình đẳng giữa khu vực công lập và ngoài công lập.

c) Đối với thủ tục hành chính:Về cơ bản việc xếp hạng thư viện được thực hiện đối với các mạng lưới thư

viện công lập (hệ thống thư viện công cộng, thư viện chuyên ngành, đa ngành), đây là các đơn vị hành chính sự nghiệp nên không phát sinh thủ tục hành chính.

Vì vậy, chỉ phát sinh thủ tục hành chính đối với các thư viện tư nhân khi có nhu cầu. Dự kiến chi phí thủ tục hành chính:Tên thủ tục hành chính: Xếp hạng đối với thư viện ngoài công lập

STT

Các công việc khi thực hiện

TTHC

Thời gian thực hiện (giờ)

Mức TNBQ/ 01 giờ

làm việc (đồng)

Mức chi phí thuê tư

vấn, dịch vụ

(đồng)

Mức phí, lệ

phí, chi phí

khác (đồng)

Số lần thực hiện/

01 năm

Số lượng

đối tượng tuân

thủ/01 năm

Chi phí thực hiện

TTHC (đồng)

Tổng chi phí thực

hiện TTHC/01 năm (đồng)

Ghi chú

1 Chuẩn bị hồ sơ 185.4 143.850 0.0 157.500 1 2 3.967.470 7.934.942  

2 Nộp hồ sơ4.0 20,550   1 2 82.200 164.400  

0.0 20,550     1 2 0 0  3 Nộp phí, lệ phí 0.0 20,550   0 1 2 0 0  

4 Nhận kết quả2.0 20,550     1 2 41.100 82.200  0.0 20,550     1 2 0 0  

  Tổng         1   4.090.770 8.181.542  

(có bản tính toán chi tiết kèm theo)

Giải pháp 1B. Chỉ tiến hành xếp hạng đối với thư viện công lập.(1) Tích cực: - Không làm phát sinh thủ tục hành chính, Nhà nước có lựa chọn và quyết

định mức đầu tư thích hợp đối với các thư viện công lập có sử dụng ngân sách hoặc các nguồn tài chính của nhà nước.

- Phù hợp với thực tiễn xếp hạng hiện nay đối với một số loại hình như lĩnh vực khác như: đối với bảo tàng tuy Luật, Nghị định có quy định và hướng dẫn rõ quy trình thủ tục xếp hạng đối với cả bảo tàng ngoài công lập những thực tiễn chưa có bảo tàng ngoài công lập nào được xếp hạng; đối với bệnh viện hiện chỉ tiến hành xếp hạng đối với đơn vị công lập.

- Hơn nữa, nếu xếp hạng đối với thư viện tư nhân, cần có được chính sách khuyến khích thiết thực nếu không không những không thu hút được nguồn lực mà còn làm cho chủ nhân các thư viện ngoài công lập cảm thấy thủ tục rắc rối hơn và chỉ mang tính hình thức.

(2) Tiêu cực: nếu không quy định trong luật dẫn tới việc hiểu chưa có sự đối xử công bằng giữa thư viện công lập và thư viện ngoài công lập.

3.2.2. Giải pháp 2. Giữ nguyên hệ thống hiện hành

42

Page 43: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

Tác động của giải pháp: (1) Tác động tích cực: Không phát sinh chi phí xây dựng văn bản cho Nhà nước.(2) Tiêu cực: Không giải quyết được các vấn đề bất cập đã nêu, ảnh hưởng

đến tính khả thi của quy định. Qua đó làm giảm hiệu quả của công tác quản lý nhà nước và ảnh hưởng tới hoạt động của các thư viện, dẫn tới sự không đồng bộ giữa các thiết chế cùng cấp, đồng thời không khuyến khích được các thư viện phát triển đúng tầm vóc, vị thế của mình do không được hỗ trợ hiệu quả.

3.2.3. Kiến nghị: Lựa chọn Giải pháp 1A.3.3. Về điều chỉnh nội dung quản lý nhà nước về thư viện: Có 02 giải pháp được lựa chọn3.3.1. Giải pháp 1: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện nhiệm vụ

“đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ thư viện cho đội ngũ những người làm công tác thư viện” và xây dựng quy trình, phương thức tổ chức hoạt động này.

Đánh giá tác động của giải pháp(1) Tác động tích cực: - Đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật, vai trò quản

lý nhà nước của cơ quan tham mưu quản lý nhà nước. - Về các chí phí, kính phí: trên thực tế, đây là việc điều chỉnh chức năng

nhiệm vụ từ Thư viện Quốc gia Việt Nam - đơn vị trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vì vậy không phát sinh thủ tục hành chính hay làm phình bộ máy.

(2) Tác động tiêu cực: không có tiêu cực nào đáng kể.3.3.2.Giải pháp 2: Giữ nguyên như quy định hiện hànhTác động của giải pháp: (1) Tác động tích cực: Không phát sinh chi phí xây dựng văn bản cho Nhà nước.(2) Tiêu cực: Không giải quyết được các vấn đề bất cập đã nêu.3.3.3. Kiến nghị: Lựa chọn Giải pháp 1.3.4. Quy định cụ thể về điều kiện thành lập, giải thể thư việnCó 02 giải pháp được lựa chọn

3.4.1. Giải pháp 1. Giữ nguyên như quy định của pháp luật hiện hành.Pháp lệnh Thư viện đã quy định về thẩm quyền giải thể thư viện, trách nhiệm

của tổ chức giải thể, sáp nhập thư viện. Tuy nhiên, do các thư viện công lập là 01 đơn vị sự nghiệp trực thuộc 01 cơ quan nhà nước nên việc sáp nhập, giải thể hiện nay được thực hiện theo quy định về thành lập, giải thể của đơn vị sự nghiệp và do cơ quan chủ quản – cơ quan thành lập thư viện quyết định. Sự ràng buộc trách nhiệm của cơ quan quản lý thư viện đối với nguồn tài liệu thư viện được đặt ra tuy nhiên chưa đảm bảo được tính đặc thù của hoạt động thư viện.

43

Page 44: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

(1) Tác động tích cực: không làm phát sinh thủ tục hành chính, chi phí xây dựng văn bản của nhà nước.

(2) Tác động tiêu cực: không bảo vệ được nguồn vốn tư liệu trong thư viện. 3.4.2. Giải pháp 2. Quy định cụ thể về điều kiện thành lập, giải thể thư

viện trong Luật thư việnQuy định các điều kiện thành lập và giải thể thư viện theo đó các thư viện

khi giải thể ngoài các điều kiện chung như hiện nay cần lưu ý đến: xác định đủ điều kiện thành lập thư viện của cơ quan quản lý chuyên ngành đối với thư viện ngoài công lập và trách nhiệm của cơ quan quản lý khi giải thể thư viện đối với việc bảo vệ nguồn tài liệu trong thư viện.

a) Về chủ thể chịu tác động của chính sách:Đối với Nhà nước: phát sinh trách nhiệm trong việc quản lý chặt chẽ các

điều kiện cho thư viện hoạt động đảm bảo đúng tiêu chuẩn quy định, đặc biệt các tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ nguồn vốn tài liệu. Đảm bảo trách nhiệm của cơ quan quản lý thư viện đối với nguồn tài liệu có giá trị do cơ quan quản lý, đảm bảo việc đưa vào khai thác, phát huy gía trị của vốn tài liệu đó, xác định rõ mô hình tổ chức thư viện phù hợp với cơ quan, không tuỳ tiện trong việc thành lập, giải thể thư viện.

Đối với các thư viện, cá nhân, tổ chức thành lập thư viện: phát sinh trách nhiệm đối với việc bảo quản vốn tài liệu của thư viện, tránh mất mát, hao hụt, không phát huy được giá trị.

Đối với người dân: được hưởng lợi từ chính sách này.b) Về hệ thống pháp luật

Đảm bảo tính đồng bộ đối với các Luật chuyên ngành như điện ảnh, di sản văn hóa và các luật khác.

b) Về thủ tục hành chính: Đối với việc cần có cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa xác định đủ điều

kiện thành lập thư viện là cơ sở để thành lập thư việc chủ yếu áp dụng đối với thư viện ngoài công lập.

Tên thủ tục hành chính: Xác nhận đủ điều kiện thành lập thư viện

STTCác công việc khi thực hiện

TTHC

Thời gian thực hiện (giờ)

Mức TNBQ/ 01 giờ

làm việc

(đồng)

Mức chi phí thuê tư

vấn, dịch vụ

(đồng)

Mức phí, lệ phí, chi phí

khác (đồng)

Số lần

thực hiện/

01 năm

Số lượng đối

tượng tuân

thủ/01 năm

Chi phí thực hiện

TTHC (đồng)

Tổng chi phí thực

hiện TTHC/01 năm (đồng)

Ghi chú

1 Chuẩn bị hồ sơ 49,4 102.750 50.500 1 15 10.65.670 15.985.052  

2 Nộp hồ sơ 4,0 20.550     1 15 82.200 1.233.000  

44

Page 45: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCHdatafile.chinhphu.vn/files/DuthaoVBPL/2017/05/BC Danh gia... · Web view+ Chuẩn bị nền tảng, định hướng xây dựng và tạo

3 Nộp phí, lệ phí 0,0 20.550   0 1 15 0 0  

4 Nhận kết quả 2,0 20.550     1 15 41.100 616.500  

  Tổng         1   1.188.970 17.834.552  

(có bản tính toán chi tiết kèm theo)Việc quy định xây dựng phương án xử lý, bảo quản tài liệu sau khi giải thể

thư viện về cơ bản không phát sinh thủ tục hành chính. 3.4.3. Kiến nghị: Lựa chọn giải pháp 2.

Mục CLẤY Ý KIẾN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG

Ngày tháng năm 2017 , Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức cuộc họp/gửi hồ sơ tới các bộ, cơ quan ngang bộ, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao, Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Quân đội, Thư viện Công an, đại diện thư viện bộ ngành, đa ngành, thư viện công cộng và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan để lấy ý kiến về dự thảo Báo cáo đánh giá tác động chính sách và các tài liệu kèm theo hồ sơ đề nghị xây dựng Luật thư viện.

Bên cạnh đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đăng tải toàn văn dự thảo hồ sơ đề nghị trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ và Cổng thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để lấy ý kiến rộng rãi đối với mọi đối tượng. Sau khi đăng tải trong 30 ngày, nhận được.... ý kiến góp ý của công dân, tổ chức.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổng hợp và giải trình tiếp thu ý kiến góp ý của các Bộ, ban, ngành có liên quan.

Trên cơ sở ý kiến góp ý, Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch đã chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Báo cáo đánh giá tác động các chính sách trong dự thảo Luật thư viện và hồ sơ đề nghị xây dựng Luật thư viện.

IV. GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ

1. Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành chính sáchVụ Thư viện Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan, tổ chức khác

có liên quan.2. Cơ quan giám sát thực hiện chính sách- Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.- Bộ Tài chính.- Bộ Nội vụ.- Bộ Tư pháp.

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

45