bữa cơm trên đồi thông - quảng nam province · web viewbác lo cho con người từ cái...

172
ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH BAN CHẤP HÀNH HUYỆN ĐIỆN BÀN ----------

Upload: others

Post on 28-Dec-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINHBAN CHẤP HÀNH HUYỆN ĐIỆN BÀN

-----�������-----

BỮA CƠM TRÊN ĐỒI THÔNG

Nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Ðại đoàn Bông Lau về việc trở lại xây dựng Ðiện Biên xong, Bác bắt nhịp cho toàn đơn vị hát bài "Giải phóng Ðiện Biên". Tiếng hát như cất lên từ hàng trăm lồng ngực, vang mãi tận lớp lớp núi đồi Hưng Hóa.

Giữa lúc mọi người đang say sưa với bản đồng ca, Bác vui vẻ rời khỏi hội trường ra thăm doanh trại. Nhìn những dãy nhà thẳng tắp, đường sá lượn quanh các ngọn đồi thoai thoải nối tiếp nhau, Bác rất hài lòng.

Nhân lúc Bác vui, các đồng chí trong Bộ tư lệnh ngỏ ý mời Bác ở lại ăn cơm. Bác chưa trả lời, Người bảo đồng chí chính ủy đưa sang thăm các đồng chí anh nuôi.Từ nhà bếp, mùi xào nấu bay ra thơm phức. Từng chồng bát đĩa men trắng, lấp lánh xếp gọn trên bàn.

Bác cười, bảo: "Cỗ to đấy!"Thoáng thấy Bác, các đồng chí anh nuôi đã chạy ra đón. Người vui vẻ hỏi ngay:- Cỗ có mấy món, các chú?- Thưa Bác, có sáu món ạ!- Những món gì ?- Dạ... có gà quay, chim tần, chân giò hầm...Ðồng chí chính ủy hơi đỏ mặt, đưa mắt ra hiệu.Ðồng chí tiểu đội trưởng cấp dưỡng chợt hiểu ý, dừng lại, mỉm cười chữa thẹn:- Dạ, còn món rau và canh nữa ạ!

Bác cười, rồi thân mật bảo các đồng chí anh nuôi:- Bác cảm ơn các chú đã săn sóc Bác, nhưng vì Bác bận nhiều việc, nên để đến

khi nào xây dựng Ðiện Biên thắng lợi, Bác sẽ tới liên hoan với các chú.Bác bắt tay đồng chí tiểu đội trưởng và vẫy chào anh em, rồi đi về phía ô-tô đang đợi.Một đồng chí anh nuôi khẩn khoản:

- Chúng cháu thức suốt đêm qua để chuẩn bị đón Bác, Bác không ở lại xơi cơm với chúng cháu được thì xin Bác nhận cho chúng cháu một chút quà.

Không đợi Bác trả lời, mấy anh em khác vội vàng mang quà đặt vào xe. Bác ra hiệu ngăn lại, nhưng không kịp.Nhân lúc Bác đang dặn dò thêm đồng chí chính ủy sư đoàn, đồng chí phụ trách khẽ nhắc tôi:

- Ðồng chí đi trước, tìm chỗ nào "sơn thủy hữu tình" chuẩn bị ăn cơm trưa ở đó. Ngừng lại, suy nghĩ một lúc, rồi đồng chí ấy ghé sát tai tôi, nói nhỏ: Từ đây về Hà Nội chỉ độ một giờ, đồng chí cứ liệu xem... Nếu không có chỗ nào thuận tiện, thì ta về thẳng nhà là tốt nhất!

Tôi lên xe.Chiếc xe nổ máy, lượn theo con đường quanh ven sườn đồi, rồi lướt nhanh qua

thị trấn Hưng Hóa. Thị trấn Hưng Hóa lúc này, trừ dăm ba gian nhà lá mới dựng và vài đoạn đường nhựa, còn đều là những đống gạch vụn ngập trong rừng chuối. Ngôi nhà thờ lớn đứng trơ vơ, mái sập, tường vỡ loang lổ. Ðó là dấu vết tội ác mà giặc Pháp để lại, trước khi chúng thua chạy khỏi nơi đây.

Qua bến Trung Hà, tôi bắt đầu tìm nơi "sơn thủy hữu tình" như lời đồng chí phụ trách đã dặn.

Phong cảnh ở đây thật là đẹp. Ven theo sông Ðà, suốt từ Trung Hà tới dãy Tản Viên, núi đồi thoai thoải. Dãy "Năm Voi" như một đàn voi theo nhau đủng đỉnh đi về núi Tản. Phía sông Hồng, từ Trung Hà trở xuống, bóng tre xanh đang vươn lên trùm lấy những mái rạ vàng, vừa được dựng lên sau chiến tranh. Ven đường, gió vờn những cánh đồng ngô, lúa như những đợt sóng xanh từ chân trời xô lại.

Thế nhưng, tìm cho ra một nơi "sơn thủy hữu tình" nào gần đường, mà lại bảo đảm yên tĩnh để Bác nghỉ trưa thì thật là khó. Chỉ còn cách Sơn Tây chừng bảy cây số mà tôi vẫn chưa tìm ra nơi nghỉ. Tôi suy tính: "Từ đây về Hà Nội, toàn đồng bằng, làng mạc, nhân dân đông đúc. Thấy Bác, nhân dân sẽ đến, làm sao mà bảo đảm được trật tự, lại còn ăn cơm, nghỉ ngơi... Thôi, cứ theo kế hoạch của đồng chí phụ trách về nhà là tốt nhất".

Quay lại, thấy xe Bác cách xe chúng tôi chừng bốn trăm thước. Tôi quyết tâm thực hiện ý định của mình, nên bảo đồng chí lái xe:

- Về Hà Nội! Tăng tốc độ lên sáu mươi cây số giờ.Ðồng chí lái xe hiểu ý, mỉm cười, dấn ga. Núi, đồi, thôn xóm đưa nhau chạy về

phía sau. Mấy cô gái Sơn Tây áo trắng, chạy tạt sang bên đường cười, nhìn theo xe, lắc đầu chỉ trỏ... Chắc là các cô ấy đang kêu: "Xe anh bộ đội chạy nhanh quá".Chừng được ba cây số, tôi quay lại thì không thấy xe Bác, tôi vội hỏi đồng chí lái xe:

- Chậm lại, xe Bác cách xa quá!- Ðúng rồi, Bác tự tìm lấy nơi nghỉ ăn cơm rồi - Ðồng chí lái xe nhanh trí nghĩ ra,

vừa nói vừa quay xe lại.Khi xe chúng tôi quay lại, đã thấy xe Bác đỗ ven đường. Bác và các đồng chí

cùng đi, đang lên một ngọn đồi cách đường chừng năm mươi thước. Chúng tôi dừng xe, chạy theo. Thấy tôi, Bác liền hỏi:

- Chú định tìm "sơn thủy hữu tình" ở Hà Nội hay sao?Tôi vội đáp :- Thưa Bác, chỗ này gần làng quá, cháu sợ không yên tĩnh - Nói xong tôi vội chạy

đi giúp đồng chí cấp dưỡng già bày thức ăn.

Chúng tôi chọn khoảnh đất tương đối bằng, giữa đỉnh đồi, dưới gốc mấy cây thông, cây trám, cành lá la đà làm nơi nghỉ ăn cơm. Mấy đồng chí đi nhặt gạch ở cái lô cốt cũ vỡ, xếp làm ghế ngồi.

Trong lúc cùng nhau bày món ăn, đồng chí cấp dưỡng già thủ thỉ tâm sự:- Bữa ăn của Bác thanh đạm lắm. Cá kho sao cho khô đanh và thơm thịt. Canh

cua đồng nấu cho vừa, điểm chút rau thơm, rau ghém, quả ớt đỏ, cơm dẻo nóng sốt là được rồi. Nếu đổi món thì rau muống luộc  cho xanh, trứng luộc hơi lòng đào, thêm mấy quả cà pháo muối kiểu xứ Nghệ... Chúng tôi đang mải chuyện, chợt thấy đồng chí phụ trách lại bảo tôi:

- Bác hỏi tình hình chiến đấu ở đây trước kia, mình không hoạt động trên chiến trường này, nên không rõ.Tôi vội đến cạnh Bác và thưa :

- Cháu cũng không còn nhớ được mấy ạ.Bác bảo:

- Ðược, chú nhớ đâu nói đấy!Tôi lần lượt kể các trận đánh của Ðại đoàn Ðồng Bằng trong chiến dịch Trung Du, đã tiêu diệt gần một tiểu đoàn của giặc, thu cả đại bác 105 ly và hàng trăm súng các loại trên chặng đường này. Rồi chiến dịch Hòa Bình, trận phục kích trên đường 87 dưới chân Ba Vì, tiểu đoàn 115, tiểu đoàn 428 thuộc sư đoàn Sông Lô đã phá hủy hai xe tăng, tiêu diệt gọn hai đại đội địch, phần lớn là hạ sĩ quan da trắng. Tới trận kỳ tập điểm cao 600 trên sườn núi Ba Vì, thì tôi hứng khởi hẳn lên. Trong điều kiện ta chỉ có vũ khí bộ binh, địch có pháo binh và phi cơ tới thả pháo sáng, yểm hộ, mà chỉ trong vòng gần hai tiếng đồng hồ, quân ta đã dũng cảm tiêu diệt gọn hai đại đội địch.Bác gật đầu tỏ ý hài lòng và hỏi thêm:

- Chú có biết những trận chiến đấu, hoặc đấu tranh của nhân dân địa phương ở đây không?

Trước câu hỏi của Bác, tôi chưa biết trả lời ra sao, thì mâm cơm đã bày xong, đồng chí cấp dưỡng già đến mời Bác lại. Trong lúc tới chỗ ăn cơm, Bác thân mật bảo chúng tôi:

- Chiến sĩ cảnh vệ chẳng những làm công tác cảnh vệ, còn phải biết lịch sử chiến đấu của nhân dân ta trong kháng chiến, lịch sử đấu tranh của cha ông mình trước kia và hiểu được cái giàu đẹp của đất nước, thì trong công tác cảnh vệ của mình mới hứng thú.

Chúng tôi vâng lời dạy bảo của Người.Tới bàn ăn (tạm gọi như vậy), Bác bảo chúng tôi cùng ngồi quây chung quanh,

Người nói đùa:- "Sơn thủy hữu tình" thế này, mà có thơ nữa thì thật là tuyệt.- Tiếc quá, anh Tố Hữu mà cùng đi, chúng cháu lại được nghe thơ.

Bác mỉm cười nhìn sang đồng chí vừa thưa với Bác.Tôi nhủ thầm: Bác khéo chọn thật! Mình đã nhìn vào ngọn đồi này, nhưng không

thấy ra. Bây giờ ngồi trên đỉnh đồi mà ngắm cảnh mới thấy là đẹp: sóng lúa ở đây như

sóng lượn ngoài khơi khi gió nhẹ. Có thôn xóm, những mái trường ngồi xa trông như những chiếc phao đỏ, lập lờ bên những hòn đảo xanh. Những mương máng ở chân đồi, và các ruộng mía xếp hàng tăm tắp. Dãy Tản Viên, dãy Tam Ðảo hướng về xuôi như hai pháo đài khổng lồ bảo vệ đồng bằng.

Cuối bữa, đồng chí cấp dưỡng già toan đặt chuối vào mâm, Bác ngăn lại:- Khoan chú, ta dành món chuối phần các chú ở nhà, để các chú ấy cũng được

cùng chúng mình hưởng chút quà cho vui. Còn các chú ở đây, Bác thưởng mỗi người một điếu thuốc lá...

Chúng tôi sung sướng đón nhận phần thuốc Bác cho.Tay nhận thuốc, lòng tôi cứ nao nao. Bác thương anh em mình hết chỗ nói. Ở Hà

Nội, sau những bữa tiệc, Bác cũng nghĩ tới anh em. Nhiều thì ai nấy đều có phần, ít thì đồng chí cận vệ, đồng chí lái xe được hưởng. Giờ đây, chút quà nhỏ vậy, Người cũng nghĩ đến các đồng chí ở nhà.

Thấy một số đồng chí toan thôi, Bác bảo:- Bác đã dặn nấu cơm cả suất của các chú rồi đấy. Còn quà của đại đoàn cho,

không phải "ăn trông nồi, ngồi trông hướng" đâu!Chợt như nhớ ra điều gì, Bác quay lại hỏi đồng chí đội trưởng:- Chú có báo cho các chú ở đại đoàn là chúng ta đã mang cơm theo rồi chứ?- Dạ, có ạ!Ðoán được câu hỏi của Bác, một đồng chí vội đỡ lời:- Thưa Bác, các đồng chí trong đại đoàn muốn nhân dịp Bác tới thăm, mời Bác ở

lại xơi cơm, để trong khi ăn cơm, còn có thể tranh thủ xin ý kiến của Bác.Bác lắng nghe đồng chí đó, rồi chậm rãi trả lời:

- Bác hiểu, và cũng muốn thế, nhưng bây giờ mình còn phải tiết kiệm. Bác đến, anh em qúy Bác, chả lẽ dọn mâm cơm thường? Nhiều anh em cũng muốn ăn cơm với Bác cho vui, thế là có chuyện.

Bác ngừng lại, mỉm cười nhìn chúng tôi một lượt rồi Người nói đùa:- Cán bộ về xã mà không khéo giữ mình thì thành cán bộ "thịt gà lá chanh". Còn

Bác mà không khéo giữ, thì Chủ tịch ra lệnh không được lạm sát trâu bò, nhưng Chủ tịch tới đâu, bò non, lợn béo bị lạm sát tới đó!

Nói xong, Người cười rất vui, chúng tôi cũng không thể nín được cười.Những lời nói vui của Bác, đã xóa tan sự suy nghĩ giản đơn của tôi.Ăn cơm xong, chúng tôi trải vải bạt mời Bác nghỉ trưa ngay trên đồi.Bác tựa lưng vào gốc thông, lắng nghe đồng chí cán bộ văn phòng báo cáo về

chương trình xây dựng các nông trường của quân đội ta, và những thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện...

Tôi ngồi gần đó, thoáng nghe những lời báo cáo, lòng suy nghĩ miên man. Những hình ảnh Ðiện Biên, Mộc Châu, Than Uyên, v.v... lần lượt hiện ra trong óc, những trận chiến đấu trong các chiến dịch Lý Thường Kiệt, Tây Bắc, Ðiện Biên cũng hiện lên theo...

Tôi đang suy nghĩ, bỗng một làn gió mạnh thổi tới. Trong tiếng lá thông reo, tôi nghe thấy đồng chí cán bộ văn phòng nói to hơn một chút:

- Anh em, về nhận thức đều nhất trí với Ðảng là phải xây dựng Tây Bắc. Nhưng tới khi hành quân thì có hàng trăm sợi dây vô hình của đồng bằng giữ lại. Có đồng chí chưa thông, nhưng vẫn lên đường. Có đồng chí ra đi mà lòng đầy băn khoăn...

Có tiếng Bác:- Rồi không lâu đâu, chính các đồng chí ấy sẽ nói: "Ðảng chủ trương rất đúng và

còn phê bình ta chậm đặt vấn đề củng cố Tây Bắc là khác".Tôi càng suy nghĩ, càng thấy rõ tầm quan trọng của việc Bác tới thăm sư đoàn và

ý nghĩa của việc các đồng chí mình trở lại Tây Bắc. Chắc là từ nay trên tấm bản đồ trong phòng làm việc, dấu chì đỏ của Người sẽ theo sát bước đi của quân ta trên chiến trường mới.

MỘT BỮA ĂN TỐI CỦA BÁC

Tháng 4 -1946, giữa lúc đất nước đang bề bộn công việc, thì Bác vẫn dành những thì giờ quý báu về Ninh Bình dàn xếp những vấn đề đối nội, đối ngoại có lợi cho quốc gia. Vào khoảng ngày 10 đến 12, Bác đi qua thị xã Ninh Bình để xuống Phát Diệm. Lúc đó tôi là Quyền Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh. Một dịp may hiếm có được đón Bác về tỉnh, nghĩ vậy, tôi mời đồng chí Uỷ viên thư ký kiêm Phó Chủ tịch và Chánh Văn phòng đến hội ý. Hai đồng chí cũng cùng chung một ý nghĩ như tôi.

Tôi phân công đồng chí Phó Chủ tịch huy động nhân dân ra tập trung đón Bác, đồng chí Chánh Văn phòng chuẩn bị cơm mời Bác, còn tôi phụ trách việc dọn dẹp văn phòng, chuẩn bị chỗ nghỉ và chỗ ngủ cho Bác qua đêm.

Quả như tôi dự đoán, sáu giờ chiều thì xe Bác về đến phía Nam thị xã Ninh Bình. Nhân dân đã vẫy cờ, hô khẩu hiệu rồi ùa xuống lòng đường đón Bác. Bác ra khỏi xe vẫy chào nhân dân. Nhân lúc đó chúng tôi mời Bác vào trụ sở Uỷ ban hành chính tỉnh.Trước sự nhiệt tình của nhân dân thị xã, không nỡ từ chối, Bác đã vào gặp Uỷ ban hành chính tỉnh Ninh Bình.

Đến cổng cơ quan, Bác bảo đồng chí lái xe dừng lại rồi xuống đi bộ. Vừa đi Bác vừa hỏi tình hình đời sống của nhân dân, đặc biệt đồng bào ở vùng công giáo. Chúng tôi báo cáo với Bác về những khó khăn trong tỉnh, một số nơi nông còn bị đói.Bác căn dặn chúng tôi phải chú ý đoàn kết lương giáo, động viên bà con tích cực tăng gia sản xuất để chống đói, chú ý công tác diệt giặc dốt, mở nhiều lớp bình dân học vụ vào buổi trưa, buổi tối, vận động bà con đi học.

Chúng tôi mới Bác nghỉ lại cơ quan cho đỡ mệt rồi dùng bữa tối. Thực ra bữa cơm chúng tôi chuẩn bị cho Bác không có gì ngoài một con gà giò luộc, nước luộc gà nấu bí đao, vì lúc đó kinh phí của Uỷ ban hành chính tỉnh cũng hết sức khó khăn.Bác nói:

- Hàng ngàn đồng bào đang chờ Bác ngoài kia, Bác không thể nghỉ ở đây để ăn cơm được vì 9 giờ tối Bác đã có việc ở Phủ Chủ tịch. Bây giờ các chú giúp Bác: một

chú ra tập hợp đồng bào vào một ngã tư rộng gần đây để Bác ra nói chuyện với đồng bào mười phút, một chú ra cửa hàng bánh mua cho Bác một cặp bánh giò. Còn các chú đi với Bác tranh thủ ăn cơm trước. Nói chuyện xong, Bác ngược ra Hà Nội ngay cho kịp hẹn. Trong xe Bác sẽ ăn bánh vừa đỡ tốn kém, vừa tiết kiệm được thời gian cho Bác.

Chúng tôi vâng lời Bác làm theo.Nói chuyện với đồng bào Ninh Bình hôm đó, Bác nhấn mạnh:- Đồng bào chú ý đoàn kết lương giáo vì âm mưu của kẻ thù luôn tìm cách chia rẽ

đồng bào lương giáo.- Đồng bào tích cực tăng gia sản xuất chống giặc đói, chống giặc dốt.- Đồng bào chuẩn bị tinh thần chịu đựng gian khổ để chống giặc ngoại xâm bảo

vệ Tổ quốc.Kết thúc, Bác hỏi:- Đồng bào có đồng ý thực hiện ba điều tôi nêu ra không?- Đồng ý! Đồng ý! Hồ Chủ tịch muôn năm.Hàng ngàn nắm tay gân guốc giơ lên hưởng ứng. Tiếng hô và tiếng vỗ tay râm

ran.Bác vẫy tay chào đồng bào rồi lên xe về Hà Nội. Xe đi được một quãng Bác mới

bắt đầu dùng "bữa ăn tối" của mình.

CHÚ CÒN TRẺ, CHÚ VÀO HẦM TRÚ ẨN TRƯỚC ĐI

Một ngày tháng 7-1967 ở Hà Nội, đồng chí Mai Văn Bộ được Bác Hồ gọi đến mời cơm tiễn chân trước khi đồng chí lên đường đi Paris nhận nhiệm vụ Tổng đại diện Chính phủ ta bên cạnh Chính phủ Pháp.

Trong bữa cơm, Bác kể chuyện về khu Luýcxămbua, Môngpacnát, nơi Bác có nhiều kỷ niệm. Bác nói Bác rất yêu Paris, Paris đã dạy cho Người nhiều điều...Bỗng tiếng còi báo động rú lên. Một chiến sĩ bảo vệ yêu cầu Bác và các đồng chí khác xuống hầm. Ít phút sau đã nghe tiếng đạn nổ.

- Thưa Bác, tác chiến báo cáo chúng nó đánh cầu Long Biên. Mời Bác vào hầm trú ngay cho.

Bác quay lại đồng chí Bộ, nói:- Bác già rồi, chẳng bom đế quốc nào ném đâu. Chú còn trẻ, chú cần vào hầm trú

ẩn trước.Rồi Bác đẩy đồng chí Bộ đi trước, sau đó đến đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí cảnh vệ.

Bác là người vào hầm trú ẩn sau cùng.

ĐẠO ĐỨC NGƯỜI ĂN CƠM

Một chiến sĩ bảo vệ Bác - sau này được phong quân hàm cấp tướng- có lần nói rằng: “Bác thường dạy quân dân ta “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, Bác dạy phải làm gương trước. Bác dạy phải nêu cao đạo đức cách mạng. Có cán bộ nghĩ rằng “đạo đức” cách mạng là để áp dụng trong công tác thôi. Bản thân tôi, được gần Bác thấy ngay trong khi ăn cơm. Bác cũng dạy cho chúng tôi thế nào là “đạo đức”.

Thứ nhất, Bác không bao giờ đòi hỏi là Chủ tịch nước phải được ăn thứ này, thứ kia. Kháng chiến gian khổ đã đành là Bác sống như một người bình thường, khi hòa bình lập lại có điều kiện Bác cũng không muốn coi mình là “vua” có gì ngon, lạ là “cống, hiến”.

Thứ hai, món ăn của Bác rất giản dị, toàn là các món dân tộc, tương cà, cá kho..., thường là chỉ 3 món trong đó có bát canh, khá hơn là 4 - 5 món thôi.

Thứ ba, Bác thường bảo chúng tôi, ăn món gì cho hết món ấy, không đụng đũa vào các món khác. Gắp thức ăn phải cho có ý. Cắt miếng bơ cũng phải cho vuông vức. Nhớ lần đi khu IV, đồng chí Bí thư và Chủ tịch Quảng Bình ăn cơm với Bác, trong mâm có một bát mắm Nghệ hơi nhiều. Bác dùng bữa xong trước, ngồi bên mâm cơm. Hai cán bộ tỉnh ăn tiếp rồi buông đũa. Bác nhìn bát mắm nói:

- Hai chú xẻ bát mắm ra, cho cơm thêm vào ăn cho hết.Hai “quan đầu tỉnh” đành phải ăn tiếp, vừa no, vừa mặn... Chiều hôm đó, hai

đồng chí đưa bác đi thăm bờ biển, trời nắng, ăn mặn nên khát nước quá.Lần khác, một cán bộ ngoại giao cao cấp người Hà Tĩnh được ăn cơm với Bác, đã

gắp mấy cọng rau muống cuối cùng vào bát tương ăn hết. Tưởng là đã “hoàn thành nhiệm vụ” nào ngờ Bác lại nói:

Tương Nghệ đồng bào cho Bác, ngon lắm. Cháu cho thêm ít cơm vào bát “quẹt” cho hết...

Thứ tư, có món gì ngon không bao giờ Bác ăn một mình, Bác sẻ cho người này, người kia rồi sau cùng mới đến phần mình, thường là phần ít nhất. Ăn xong thu xếp bát đũa gọn gàng, để đỡ vất vã cho người phục vụ.

Thứ năm, tôi có cảm giác là đôi khi ăn cơm có những giây phút Bác cầm đôi đũa, nâng bát cơm, Bác như tư lự về điều gì đó. Tưởng như Bác nghĩ đến đồng bào, cụ già, em bé đói rách ở đâu đấy. Tưởng như Bác nhớ lại những ngày lao động ở xứ người kiếm từng mẩu bánh để ăn, để uống, để làm cách mạng... Hay là Bác nghĩ đến những lần tù đày không có gì ăn. Thật khó hiểu mà càng khó hiểu, tôi lại càng thương Bác quá. Bây giờ vào những bữa tiệc cao lương, mỹ vị, rượu bia thức ăn bày la liệt, quái lạ tôi lại nhớ đến Bác rồi... có ăn cũng chẳng thấy ngon như khi xưa ngồi vào mâm cơm đạm bạc với Bác”.

Theo cuốn: Tấm lòng của Bác.

YÊU AI YÊU BẰNG CẢ TẤM LÒNG.

Lần Bác sang thăm nước Cộng hòa Dân chủ Đức, các đồng chí ở Bộ Y tế nước bạn mời Bác đi thăm một số bệnh viện, trường Đại học Y khoa và cơ sở nghiên cứu khoa học ở Béclin.

Đến một phòng học, các bác sĩ giới thiệu với Hồ Chủ tịch mô hình một người thủy tinh trong suốt, có đầy đủ các bộ phận cơ thể và có thể lấy ra, đặt vào phục vụ cho việc nghiên cứu bài giải phẫu.

Khi cầm que chỉ vào trái tim, đồng chí bác sĩ nước bạn nói vui:- Trái tim này còn chứa đựng bao nhiêu tình yêu...

Bác cười nói với đồng chí người Đức:- Ở nước chúng tôi, người ta không nói yêu nhau bằng trái tim đâu. Đố đồng chí

biết đấy!Bác sĩ xin chịu.Cầm lấy que chỉ, Bác khoanh một vòng tròn vào bụng người mẫu thủy tinh, rồi

nói:- Chúng tôi yêu ai yêu bằng cả tấm lòng này này

Mọi người cười rộ lên...Theo: Minh Anh

MÊNH MÔNG QUÁ.

Bác Hồ của chúng ta là Chủ tịch nước, nhưng trong cuộc sống hàng ngày Bác không coi nhẹ, coi thường các việc nhỏ. Bác thương yêu đồng bào qua từng việc nhỏ. Bác thương yêu đồng bào cả nước, kiều bào ở nước ngoài, các dân tộc anh em bị áp bức. Một em bé da đen bị đói, một người con gái ở nước Pháp bị án tử hình đều làm Bác xúc động.

Bác không bằng lòng nhiều cán bộ “ra vẻ hăng hái”, “kiên trung”, thấy bạn bè, đồng đội, đồng bào có lầm lỗi, chưa phân tích đầy đủ nguyên nhân khách quan, chủ quan, mức độ, đã “vơ đũa cả nắm”, “đánh một đòn chết tươi”. Thường là, nếu cán bộ, đồng bào có điều gì không phải Bác lại nhận lỗi ấy về mình “mong được lượng thứ”.

Đầu năm 1960, trong một cuộc họp cán bộ, có đồng chí “lên án” gay gắt “bệnh lười biếng”, “công thần”, đòi phải “xử lý”... Bàn cãi hồi lâu, sắp hết giờ họp, Bác “xin được phát biểu”. Bác nói đại ý:

- Bể cũng là nước, giọt nước cũng là nước. Trong Đảng hàng ngày là giọt nước hay là bể. Nếu nói lười biếng, công thần cũng là tư tưởng tư sản thì mênh mông quá.Theo cuốn: Bác Hồ - con người và phong cách

LÀM CHO CÁC CHÁU ĂN NO, CÓ QUẦN ÁO MẶC

Tháng 8/1945, Ủy ban Cách mạng họp ở đình Tân Trào, có đại biểu khắp nơi đến dự để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc. Bác Hồ và các đại biểu đang ngồi họp ở

đình Tân Trào thì đồng bào địa phương - đại biểu các dân tộc Tày, Trại, Nùng đến chào mừng, thăm hỏi. Hôm đó có khoảng 2, 3 em nhỏ chừng ba, bốn tuổi trong xóm ra chơi trước đình.

Các em đều xanh gầy, bụng ỏng, đít teo, lại trần truồng, lấm lem, đi chân đất. Bác Hồ trông thấy rất thương, xúc động, chỉ các cháu, Bác nói với đại biểu đến dự đại hội Tân Trào:

- Nhiệm vụ của chúng ta là làm sao cho các cháu được ăn no, có quần áo mặc. Câu nói đó của

Người mãi mãi ghi sâu trong trí nhớ mọi người có mặt trong buổi họp và ai cũng thấy trách nhiệm thiêng liêng chăm lo đời sống trẻ em được cơm no, áo ấm.

Theo lời kể của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

ĐIỀU BÁC HỒ YÊU NHẤT, GHÉT NHẤT

Trong kháng chiến chống Pháp, một nhóm người Pháp tiến bộ, cùng với một số hàng binh đã dứng về phía Việt Nam, chiến đấu với lá cờ giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ thành lập một tờ báo lấy tên là Bạn chiến đấu, bằng tiếng Pháp xuất bản tại chiến khu Việt Bắc, phát hành bí mật trong quân đội Pháp.  Phóng viên Bạn chiến đấu đã có cuộc phỏng vấn Hồ Chủ tịch. Báo Cứu quốc số 938, ngày 25/5/1948 - Chi nhánh số 6 in tại Liên khu X, đã đăng lại bài trả lời của Bác.

- Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch ghét gì nhất?- Trả lời: Điều ác.- Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch yêu gì nhất?- Trả lời: Điều thiện.- Hỏi: Chủ tịch cầu mong gì nhất?- Trả lời: Nền độc lập của nước tôi và của tất cả các nước trên hoàn cầu.- Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch sợ cái gì nhất?- Trả lời: Chẳng sợ gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì.Theo cuốn: Bác Hồ - Con người và phong cách

THI ĐUA VỀ LÒNG YÊU NƯỚC THÌ TA THẮNGNhững bức ảnh Bác Hồ chúng ta biết được đến ngày nay, thường là không thấy

Bác mặc comlê, thắt càvạt. Nhớ lại khoảng tháng 10/1945, khi đi thăm tỉnh Thái Bình, Bác gặp một đội viên bảo vệ chân đi giầy ghệt, thắt lưng to bản (bấy giờ gọi là xanhtuyarông) và thắt cả càvạt nữa. Bác dừng lại nói:

- Chú mà cũng phải thắt cái này à?Trong Bắc bộ phủ, thấy có một số cán bộ từ chiến khu mới về đã “xúng xính”,

Bác nhẹ nhàng:- Trông các chú ra dáng người thành phố rồi...

Bác bao giờ cũng mong muốn đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được học hành. Rồi Bác còn mong các cháu có áo đẹp, cụ già có khăn lụa... Bác không bao giờ lấy ý mình áp đặt cho người khác, không bắt ai cứ phải theo mình.

Lần sang thăm một nước bạn, một cán bộ ngoại giao xin phép Bác ra phố. Bác bắt cán bộ đó mặc quần áo, thắt càvạt nghiêm chỉnh rồi mới cho phép đi.Bác nói:

- Đời sống khá hơn thì ăn mặc cũng được khá lên. Nhưng phải tùy cảnh, tùy thời."Thời” và “cảnh” năm 1945 là đa số đồng bào ta vừa qua 80 năm bị áp bức nô lệ, qua cơn đói Ất Dậu, vừa bị lụt bão, miếng cơm, củ khoai chưa đủ ăn, áo không đủ mặc. Thế mà các cán bộ - là những người đầy tớ của nhân dân, như lời Bác dạy - lại mặc những quần áo sang trọng, đắt tiền, không phải lúc, thì “khó coi”. Khi Bác đi thăm đồng bào nông dân, Bác đi dép, tới ruộng, Bác bỏ dép, xắn quần lội ruộng, tát nước với bà con. Trong khi đó, có anh đi giầy bóng loáng, chỉ có thể đứng trên bờ hỏi thăm.

Báo Nhân dân ngày 18/5/1994, có đăng một bài, nội dung tóm tắt như sau:Chuyện rằng vào khoảng cuối tháng 4/1946, do tình hình thực dân Pháp không

chịu từ bỏ ý đồ xâm lược trở lại Việt Nam, để tạo điều kiện, thời gian chuẩn bị kháng chiến, Bác và phái đoàn do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, sang thăm Pháp điều đình với Chính phủ Pháp.

Trước ngày ra đi, vẫn thấy Bác làm việc đúng thời gian biểu đã định, chẳng thấy Bác “sắm sửa gì”. Trong khi đó, một số cán bộ trong phái đoàn lo tìm hiểu “mốt” Paris, lo may mặc những bộ comlê, sơ mi, càvạt, đóng giầy mới, và có người còn lo cả khoản nước hoa.

Việc làm ấy của các cán bộ cũng là điều tốt. Nhưng có điều chắc là các “vị” đi hơi xa, hay có thể hơi “ồn ào”, có vẻ như một cuộc thi đua may sắm. Chuyện đó đến tai Bác.

Thương yêu, bình đẳng, nhưng không thể không nhắc nhở, Bác nói:- Các chú muốn thi đua với Tổng thống, Thủ tướng nước ngoài về ăn mặc thì thua

họ thôi. Bác cháu ta thi đua với họ về lòng yêu nước, thương dân thì ta mới thắng.

LÀM VIỆC NƯỚC NẶNG NỀ, KHÓ KHĂN NÊN PHẢI HẾT SỨC CẨN THẬN

Hồi Bác Hồ ở Pắc Bó, để giữ bí mật, nước được đựng trong những ống dài để trong hang. Trừ những khi ốm đau, sáng nào Bác cũng đi “kỉn” nước. (Tiếng Tày “kỉn” là lấy).

Ống nước là một ống luồng, hoặc bương (loại tre lớn) sẵn trong rừng, đục thông các “mắt” lấy dây thừng hay mây buộc lại đầu trên và dưới, để gánh bằng đòn. Có ống không cần buộc dây, để vác thẳng lên vai.

Một sáng sớm, trời còn sương, mặt trời chưa lên tỏ, Bác và một đồng chí bảo vệ, mỗi người hai ống trên vai ra suối “kỉn” nước. Bác đặt chân nhẹ nhàng lên các hòn đá, vục ống xuống lấy đầy nước, đựng vào một hòn đá, khỏa nước rửa chân tay. Đồng chí

bảo vệ tuy là người miền núi, địa phương nhưng bước đi không vững, trên vai lại ống nước nặng, đặt ống không thăng bằng, nên vấp đá, chẳng may trượt ngã.Bác đến nâng đồng chí dậy, dạy cách đặt, cách vác ống nước, cách đi trên đá. Rồi hai Bác cháu ra về.Lên bờ Bác nói:

- “Làm việc nước nặng nề, khó khăn nên phải hết sức cẩn thận cháu ạ”.BÁC HỒ ĐẾN VỚI CÁC CHÁU MỒ CÔI Ở TRẠI KIM ĐỒNG

 Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu ở trại Kim Đồng. Ngay từ phút

đặt chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối. Nói với các cán bộ phụ trách giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía:  - Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô, các chú lại rào dây thép gai như một nhà tù thế này?  Chú Thuận thưa:  - Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ!  Bác lắc đầu: Các cô, các chú phảI tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai của các cháu.  Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui hơi. Bác khen: “Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn – Bác hỏi cán bộ phụ trách trại – còn thế nào, các cô, các chú biết không?  Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp:  - Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ.  Bác Hồ mỉm cười:  - Chú nói mới đúng một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu mồ côi, điều lớn nhất là phải bù đắp tình thương. Các cháu đã không còn bố mẹ, thì các cô, các chú ở đây là bố, là mẹ của các cháu. Các cô, các chú nuôi dạy các cháu thì phải đem cả tấm lòng làm mẹ, làm cha mà cư xử, mà săn sóc, mà dạy bảo. Bác thấy ở đây, đối với các cháu, còn cái vẻ “trại lính”, thiếu cái ấm cúng của gia đình. Dạy cho các cháu vào khuôn phép, sống có kỷ luật, trật tự là đúng. Nhưng không được để các cháu mất cái hồn nhiên, mất cái vui tươi, thoải mái. Đừng biến các cháu thành các “ông cụ non”. Các cô, các chú phảI làm sao cho các cháu thấy trại Kim Đồng là gia đình của các cháu, đi xa các cháu nhớ, lúc ở nhà các cháu vui. Được như vậy thì cần gì phải rào dây thép gai, phải canh phòng nghiêm ngặt với các cháu?  Bác lại hỏi:  - Những cháu kém có nhiều không?  - Thưa Bác, còn nhiều lắm ạ.  - Nhiều là bao nhiêu?  Đồng chí phụ trách hơi bối rối. Bác nói ngay:  - Quản lý các cháu thì cần biết cụ thể từng cháu một, biết chắc chắn cái dở, cái hay của mỗi đứa. Có như vậy thì dạy mới có kết quả tốt.

  Bác bảo chú Thuận đứng lên:  - Cho Bác gặp cháu nào kém nhất trại.  Em Quốc đứng khoanh tay trước mặt Bác, Bác cúi xuống vuốt ve nhè nhẹ tóc em. Bác hỏI:  - Tên cháu là gì? - Thưa Bác tên cháu là Quốc lủi ạ! Bác nhìn em, ái ngại: - Ai đặt cho cháu cái tên ấy? - Dạ thưa, các bạn gọi cháu thế ạ. - Vì sao các bạn gọi cháu là Quốc lủi? - Thưa Bác…Cháu…Cháu hay trốn trại. Cháu chui qua hàng rào, lủi vào các ngõ phố ạ. Sao cháu không chịu ở trong trại mà lại trốn ra bên ngoài? - Thưa Bác… ở trong trại khổ cực lắm ạ. - Khổ cực như thế nào? - Dạ chúng cháu bị gò bó đủ thứ ạ. - Cháu nói rõ sự gò bó cho Bác nghe nào? - Thưa Bác…  Quốc nhìn Bác Hồ mà nước mắt trào ra, nghẹn ngào không nói lên lời. Bác xoa đầu em, Bác đã hiểu thấu tất cả, dù em chưa nói ra được những điều muốn thưa với Bác. Bác khuyên Quốc: “Từ nay cháu phải phấn đấu bỏ cái tên “lủi”, giữ lại cái tên Quốc…”. Nước mắt càng giàn giụa trên hai má Quốc.  Bác Hồ cầm tay em Quốc đi ra chỗ cả trại đang tập hợp đón đợi Bác. Bác thân mật kể cho các em nghe một số gương tốt của thiếu nhi trong kháng chiến chống Pháp, gương tốt của thiếu nhi ở Liên Xô và các nước bạn. Các em đã không cầm được nước mắt khi nghe Bác kể về thời niên thiếu của Bác, Bác đã từng thèm một cái đồ chơi, ước ao một bộ quần áo mới để mặc Tết. Bác cũng đã mồ côi mẹ từ năm lên chín, lên mười. Bác đã phải bế em trèo trẹo bên hông đi xin sữa cho em sau ngày mẹ qua đời.  Bác căn dặn các em như ông dặn cháu:  - Các cháu phải vâng lời các cô, các chú phụ trách. Thiếu nhi thì phải ngoan, phải thật thà, lễ phép với người lớn, kính trọng người già, giúp đỡ người tàn tật yếu đau. Các cháu ở trong tập thể với nhau càng phảI thương yêu nhau như anh chị em ruột thịt. Và phải dũng cảm sửa chữa những khuyết điểm, những thói hư tật xấu để lớn lên làm người chủ của đất nước, đừng để mình là cái gánh nặng của xã hội…  Rồi Bác bảo:  - Các cháu có hứa làm được điều Bác căn dặn không nào?  Một tiếng “có” vang lên, đều khắp và sôi nổi. Bác còn dặn thêm các em là noi gương dũng cảm của liệt sĩ Kim Đồng trong học tập và rèn luyện, em nào đạt kết quả tốt, được ban phụ trách báo lên Bác, Bác sẽ gửi phần thưởng. Và Bác thân mật hẹn: “Nếu cả trại cùng tiến bộ vượt bậc, Bác sẽ còn về thăm các cháu nhiều lần nữa”.

  Ngày hôm ấy, Bác đã để lại rất nhiều quà để chia cho các em. Nhận phần quà của Bác cho, nhiều em đã không ăn, cất làm kỷ niệm.  Từ hôm đó trong từng đôi mắt của các em, ngời lên niềm vui nhận quà Bác. Em Quốc không lủi ra ngoài trại nữa mà giữ gìn mình như giữ gìn kỷ niệm của Bác trong trái tim.

LÍNH CANH TRỜI KỂ CHUYỆN BÁC HỒ

Trong khuôn viên nhỏ của đơn vị, một sân khấu nổi ghép bằng những tấm phản được bộ đội dựng lên, cùng với bộ phận âm thanh, ánh sáng tăng cường từ Lữ đoàn PPK H.83, làm cho không khí của ngày hội “Lính canh trời kể chuyện Bác Hồ” của phân đội 2 thêm sinh động.

Ngay sau khi có hướng dẫn, cuộc thi tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của Hồ Chủ tịch đã được các đơn vị trong Lữ đoàn H.83 (Quân khu 4) nhiệt tình hưởng ứng. Để cho cuộc thi đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức và sinh động trong cách thể hiện. Ban Chính trị lữ đoàn đã hướng dẫn theo hướng tập trung vào chủ đề Học tập và làm theo tấm gương tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Thiếu tá Lê Hải Duy cho biết, hội thi của phân đội 2 gồm các phần: Trình bày và bình một tác phẩm hát hoặc múa về Bác Hồ; thi trắc nghiệm về cuộc đời và sự nghiệp của Bác; thi kể các mẩu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong các nội dung trên, phần sân khấu hóa các mẩu chuyện về Bác được xem là nội dung khó nhất.

Điều lôi cuốn được khán giả trong hội thi của phân đội 2 là thu hút được đông đảo lực lượng đoàn viên đơn vị kết nghĩa cùng tham gia. Với cơ cấu mỗi đội được một phần ba đơn vị kết nghĩa được tham gia đã thổi vào hội thi một luồng sinh khí mới. Các chi đoàn đã tận dụng các “tài năng” của đơn vị bạn để mang về ưu thế cho chi đội mình.

Vài phút trước khi khai mạc, các nữ sinh trường THPT nội trú thành phố Vinh, đoàn viên phường Trung Nghĩa, trường THPT dân lập Nguyễn Trường Tộ, trường Tiểu học xã Hưng Đông... xúng xính trong bộ váy hoa sen miệt mài chuốt lại những câu hát, bài múa lần cuối, bộ đội đứng quanh vỗ tay làm nhịp, sức nóng đã được hâm lên ngay từ thời điểm đó.

Trong 5 đội dự thi chi đoàn Tiểu đoàn bộ có vẻ nhỉnh hơn, bởi “khéo dùng người”, bài hát đội lựa chọn là Những bông hoa trong vườn Bác cũng rất hợp người, hợp cảnh lại được thể hiện bởi một giọng ca thiết tha – Thùy Dung đến từ đoàn phường Trung Nghĩa.

Phần kể chuyện về Bác của chi đoàn tiểu đoàn bộ cũng có sự cầu kỳ trong trang phục, đạo cụ, nhưng còn mắc lỗi đối thoại, diễn xuất không có hồn. Còn chi đoàn 4 thì có sáng tạo trong việc thể hiện lời bình bài hát Người về thăm quê trên nền nhạc bài hát, nhưng rất tiếc lời bình chưa sắc và chưa bình trúng nội dung cốt lõi tác phẩm.

Chi đoàn 6 đã khắc phục được yếu điểm của chi đoàn 4 nhưng lại không thoát ly được tài liệu nên chưa gây được ấn tượng cho khán giả. Ngoài ra, cũng phải kể đến sự

công phu, trau chuốt trong màn hát múa của chi đoàn 5, với một dàn diễn viên trẻ trung, xinh đẹp, uyển chuyển trong múa phụ họa đã làm cho cảm xúc bài hát dâng trào.

Trong hội thi này cũng đáng khen cho sự ứng biến linh hoạt của cặp MC Thu Hà đến từ Công viên Trung tâm thành phố Vinh và Đại úy Nguyễn Quốc Hiên – Chính trị viên phó tiểu đoàn. Không chỉ đơn giản là giới thiệu, khớp nối, dẫn dắt chương trình, hai MC này đã đưa ra những lời bình hóm hỉnh, khúc chiết, tạo được niềm hứng khởi, tự tin cho các đội dự thi.

Riêng với Thu Hà, ngay sau thành công hội thi cô đã nhận được rất nhiều bó hoa tươi thắm từ những người lính trẻ, Thu Hà bẽn lẽn: “Tôi thấy rất tự hào và hạnh phúc khi được tham gia vào các hoạt động của người lính”.

BÁC HỒ TĂNG GIA RAU CẢI

Mùa đông năm 1952, lúc đó tôi đang công tác ở Văn phòng Trung ương Đảng. Trụ sở cơ quan đóng tại đèo Re (núi Rồng). Cơ quan Phủ Chủ tịch cũng ở sát ngay cạnh đó. Sau Hội nghị chính quyền lần thứ 5 (tháng 3 - 1952), Chính phủ đã phát động phong trào tăng gia, sản xuất, tiết kiệm trong toàn quốc.

Ở Trung ương, cơ quan này thi đua tăng gia với cơ quan khác. Vì hai cơ quan gần nhau, tôi được công đoàn cử ra thi đua với cơ quan bên Phủ Chủ tịch. Bên Văn phòng Phủ Chủ tịch lại cử Bác là đại diện các nhân thi đua tăng gia với cơ quan Văn phòng Trung ương.

Buổi lễ phát động thi đua diễn ra thật sôi nổi. Tôi đang sức trẻ nên thay mặt anh em đứng lên thách thức thi đua: cùng một khoảng đất như nhau 36m2, trong một thời gian nhất định, tôi xin trồng rau ăn với sản lượng cao nhất. Bác cũng đứng lên: Bác nhận thách thức thi đua tăng gia với chú Thông, với mảnh đất 36m2 trong một thời gian bằng nhau, đạt sản lượng rau nhiều hơn chú Thông. Mọi người vỗ tay hoan hô. Một số đồng chí xì xào: một cuộc thi đua không cân sức. Bác vừa già, vừa bận nhiều việc, địch sao được với cậu Thông khỏe như voi, trồng rau đã quen. Có người nêu: "Giải thưởng thi đua là một con gà trống 2kg". Mọi người lại hoan hô tán thưởng. Mấy đồng chí ở Văn phòng Trung ương nói to: "Nhất định chuyến này chúng ta được ăn thịt gà của Chủ tịch thì phải tích cực tăng gia để có nhiều rau xanh cung cấp cho nhà bếp cơ quan".

Tôi về suy nghĩ: để chắc ăn và có năng suất cao thì trồng cải củ, vì cải củ ở vùng này củ rất to, rất nặng. Tôi trao đổi với anh em công đoàn, mọi người ủng hộ, cho là sáng kiến.

Sau một tuần, tôi đã làm đất và trồng xong 36m2 cải củ. Ngay sát mảnh đất của tôi, Bác và anh em bên Phủ Chủ tịch làm rất kỹ, đất nhỏ, mịn và sạch cỏ. Hơn một tuần thì Bác gieo hạt cải mào gà (cải xanh lá xoan). Anh em văn phòng Phủ Chủ tịch làm chỗ đi tiểu gần nhà và mua một nồi hông lớn để hứng nước tiểu. Phía Văn phòng Trung ương tôi cũng huy động anh em làm nhà tiêu để lấy phân bón.

Sau một tuần các cây cải mọc đều và đẹp. Bác lấy nước tiểu pha loãng tưới. Còn tôi lấy phân bắc tưới hòa ra tưới. Mỗi lần tưới cả cơ quan bịt mũi.

Sau một tháng, hai vạt rau tốt ngang nhau. Nhiều người ủng hộ tôi cho rằng tôi sẽ thắng vì củ cải lớn rất nhanh.

Một hôm Bác nhổ rau bán cho nhà bếp chỉ được 15kg. Bác để lại những cây to, khỏe, mỗi cây cách nhau chừng hai gang. Một số anh em lo lắng vì thấy vườn rau Bác nhổ đi xơ xác mà chỉ được có 15kg rau cải con. Ba buổi chiều liền, sau giờ làm việc Bác đều ra vườn dùng chiếc dầm xới đất cho cải và tưới nước giải đều.

Sau hai tháng 10 ngày thì củ cải của tôi đã to bằng bắp tay và có cây đã cho nụ. Tôi nhổ và cân cho nhà bếp được 60kg. Tôi vui mừng vì thắng lợi. Nhưng cũng lúc đó, cây cải mào gà của Bác đã to bằng cái nơm, chứ năm ngày một lần Bác tỉa tàu cân cho nhà bếp khoảng 10kg. Kỳ lạ thay cải mào gà càng tỉa cây càng lớn, tàu càng to và càng trẻ lâu. Sau 2 tháng rưỡi cải mới có ngồng. Lúc đó Bác nhổ cả cây cho nhà bếp muối dưa. Bác còn đem biếu cụ già dân tộc gần đó 2 cây rất to làm giống. Cụ già sung sướng khoe với mọi người: "Rau cải Cụ Hồ tốt thật".

Mở sổ nhà bếp ra cộng- Cải con: 15kg- Tàu cải canh: 14 lần x 10kg = 140kg- Cây cải làm dưa nén: 20kgCộng: 175kgVậy tôi thua đã rõ ràng. Công đoàn Văn phòng Trung ương phải nộp con gà trống

nuôi được cho công đoàn Văn phòng Phủ Chủ tịch. Nhờ có rau tăng gia mà cả mùa đông nhà bếp đủ rau nấu, không phải ra dân mua. Buổi tổng kết thật vui vẻ. Tôi đứng dậy xin nhận thua. Bác nói chuyện với anh em: khi tăng gia, các cô, các chú phải lưu ý bốn điều kiện: giống, cần, phân, nước. Giống: nên chọn loại rau trồng một lần, ăn nhiều lần, củ cải dễ trồng, năng suất cao, nhưng chỉ được ăn một lần thì không bằng cải mào gà, trẻ lâu, tỉa ăn được nhiều lần. Cần: người trồng rau phải chăm chỉ, chọn đúng thời vụ trồng loại rau cho hợp khí hậu, rau mới tốt. Vun xới phải đúng cách. Cải mào gà khi tốt cứ 10 ngày xới một lần cho rễ con đứt, chúng ta nhiều nhánh rễ hơn và hút được nhiều phân bón, muối khoáng trong đất. Phân: phải chọn loại phân bón thích hợp. Cải canh rất hợp nước tiểu pha loãng. Thứ phân tươi chú Thông bón cũng tốt đấy nhưng mất vệ sinh lắm. Nước: phải tưới đều và tưới đủ độ ẩm rau mới trẻ lâu và xanh tốt.Lần ấy thua Bác, tôi hết chủ quan và rút được bài học mới về tăng gia

BÀI HỌC LỚN TỪ NHỮNG CHUYỆN NHỎMột sớm đầu tháng 5/1976, mươi anh em giảng viên trong tổ Văn học Việt Nam

hiện đại trường ĐH Sư phạm Hà Nội chúng tôi có buổi tọa đàm với ông Vũ Kỳ - người thư ký riêng thân cận, gắn bó với Bác trong hai mươi năm, từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.

Nơi tọa đàm thật đặc biệt: ngay ở tầng trệt của ngôi nhà sàn nhỏ bé nơi Bác sống 12 năm, kể từ sau chuyến đi thăm hữu nghị Indonesia. Cuối buổi làm việc, ông dẫn chúng tôi lên lầu, thăm phòng ngủ và phòng làm việc của Hồ Chủ tịch.

Thấy chúng tôi có vẻ thắc mắc về cái vỏ lọ thủy tinh nhỏ vốn đựng bột penicillin, có cắm một nửa điếu thuốc lá để trên bàn làm việc của Hồ Chủ tịch, bên cạnh cuốn chuyên khảo Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông để mở (chắc là Người đang đọc dở), ông Vũ Kỳ cười và giải thích: Hồ Chủ tịch nghiện thuốc lá, đến tuổi 70, bác sĩ khuyên Người nên hút ít đi. Hồ Chủ tịch nghe theo. Trước kia Người hút mỗi ngày hàng chục điếu, nay hạn chế chỉ bốn năm lần, mỗi lần nửa điếu là dụi tắt. Được một, hai ngày Bác bảo tôi kiếm cho bác một cái lọ penicillin nhỏ, loại 1 cc. Chưa biết ý định của lãnh tụ, nhưng ông Vũ Kỳ làm ngay việc Bác giao. Lúc ấy Hồ Chủ tịch vui vẻ lấy trong hộp ra một điếu thuốc, bật quẹt hút rất khoan khoái. Hút khoảng nửa điếu, thay vì dụi tắt và vứt đi, Người cắm đầu đang đỏ lửa của nửa điếu thuốc còn lại vào miệng lọ penicillin. Thuốc tắt. Hồ Chủ tịch bảo ông Vũ Kỳ: "Chiều sẽ hút tiếp, cho đỡ phí, chú ạ!".

Thấy chúng tôi đang thẫn thờ suy nghĩ, ông Vũ Kỳ lại đưa tay về phía đầu giường - cái giường rộng khoảng 1m20, không drap, không nệm, chỉ trải một chiếc chiếu cói đậu - cầm lên cái quạt giấy. Chúng tôi lại thắc mắc, vì ở góc phòng khá xa giường có một cái quạt máy. Đã có quạt máy, còn cần quạt giấy làm gì? Ông Vũ Kỳ kể, năm 1964, Chủ tịch Mao Trạch Đông gửi tặng Bác Hồ một sản phẩm mới của ngành công nghiệp nhẹ ở Thượng Hải: chiếc quạt bàn nhãn hiệu Đông Phong. Bác bảo Vũ Kỳ gọi mấy anh cảnh vệ lên, rồi cho mở quạt. Mấy bác cháu vừa xem vừa bình phẩm, nhận xét về hình dáng, tính năng. Được dăm phút, Người bảo tắt đi, để quạt vào góc phòng rồi nói: "Trên gác này thoáng mát, khi cần dùng quạt giấy cũng đủ. Dùng quạt máy làm gì cho phí điện". Từ đó đến lúc qua đời, Người không dùng đến nó và chỉ lưu giữ trân trọng như một món quà kỷ niệm. Ông Vũ Kỳ xòe quạt ra. Một cái quạt quá độc đáo: trên mặt chiếc quạt cũ kỹ có dán khá nhiều miếng băng keo. Ông Kỳ giải thích, ông đã mua chiếc quạt này từ đầu mùa hè 1955 - hè đầu tiên Hồ Chủ tịch về thủ đô. Dù giữ gìn cẩn thận thì sau 4 - 5 năm quạt vẫn bị sờn rách. Ông định mua chiếc khác, Bác Hồ gạt đi: "Mua làm gì cho tốn tiền. Chú xin chú y sĩ cho Bác một mẩu băng keo". Người lấy băng keo dán vào chỗ quạt rách và tiếp tục dùng một cách bình thường. Và cứ như thế, chiếc quạt giấy kia thủy chung bên vị lãnh tụ của chúng ta suốt 15 mùa hè oi nồng ở miền Bắc.

Trên mặt quạt, tôi không kịp đếm, nhưng chắc phải có vài mươi mẩu băng keo.Ông Vũ Kỳ còn kể, ông "nhân nhượng" Bác Hồ rất nhiều trong việc hạn chế mua sắm các đồ dùng, nhưng đến cái vỏ áo bông rách kia thì ông không chịu được nữa, nên đã hậm hực phản ứng: "Bác là lãnh tụ tối cao của Đảng, của đất nước, mặc áo bông vá sao tiện?". Hồ Chủ tịch cười, ôn tồn giải thích: "Lãnh tụ tối cao mà mặc áo bông vá càng có phúc cho dân, cho nước chứ sao! Chú không nên băn khoăn".

Bình sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều ân cần nhắc nhở đến những điều cơ bản của đạo đức: Cần - Kiệm - Liêm - Chính. Người không những nhắc nhở, giáo dục đồng bào đồng chí mà luôn quán triệt những yêu cầu đó trong hành động, ứng xử, nếp sống đời thường của chính mình; luôn giữ cho mình "đời tư trong sáng, tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy" như Người đã suy nghĩ và viết về V.I.Lenin (xem Mãi mãi đi theo con đường của Lênin - NXB Sự thật, 1970, trang 14).

Một nhà văn, nhà thơ lớn của Cuba - Phêlích Pita Rôđrighết - sau khi đi thăm ngôi nhà sàn lịch sử của Hồ Chủ tịch hồi đầu tháng 5.1975 đã suy tư rất chí lý: "Đó là sự khắc khổ ư? Không, từ này không phải, không định nghĩa đúng điều ta muốn nói. Bởi sự khắc khổ có thể là một cái gì cường điệu. Đó là sự giản dị, khiêm nhường, khiêm tốn ư? Những từ này cũng không thể hiện được đúng những điều chúng ta cảm thấy. Có thể nói đó là tinh thần chí công vô tư. Người chỉ sử dụng cho mình những gì tối cần thiết chứ không phải bất cứ cái gì cần thiết".

“Chí công vô tư. Đó là tinh thần phục vụ quên mình vì tất cả mọi người. Đó là việc lãng quên đi tất cả mọi điều có thể làm trở ngại cho tinh thần phục vụ vô điều kiện của Người" (Ngôi nhà của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Báo Văn nghệ, Hà Nội, 10.5.1975).Trong cao trào phòng chống lãng phí và tham nhũng hiện nay của nước ta, nhắc lại mấy mẩu chuyện trên, kể cũng không thừa.      

NÂNG NIU TẤT CẢ CHỈ QUÊN MÌNH

Một lần một người bạn nước ngoài hỏi Bác về tài sản riêng Bác vui vẻ chỉ đàn cá Bác đang cho ǎn và nói: "Đây là tài sản của tôi". Bác sống trọn cuộc đời cống hiến, ra đi không để lại chút gì riêng tư, từ nguồn vui gia đình sản phẩm tinh thần quý giá của con người bình thường, đến tài sản vật chất.

Suốt cuộc đời Bác chỉ nghĩ đến giải phóng những người lao động cần lao, nghĩ đến nhân dân mình, dân tộc mình. Lo từ việc nhỏ bình thường đến đại sự quốc gia. Quan tâm từ miếng ǎn cho người nghèo đến sự thái bình cho dân tộc. Nhớ hồi làm phụ bếp bên Anh, khi rửa bát đĩa, Bác để riêng những thức ǎn thừa còn lại, gói vào một gói, khi về mang ra cho những người nghèo khổ ǎn xin ngoài đường. Khi dự tiệc chiêu đãi ở Pari, ra về Bác dành quả táo cho em nhỏ. Khi mùa hè đến mồ hôi thấm áo, Người nghĩ đến những chiến sỹ phòng không trên trận địa nóng bỏng. Khi đi công tác ở nước ngoài được biết có loại cây lá xanh quanh nǎm không rụng lá, Bác nghĩ tới chị lao công đêm đêm vất vả quét lá nên Bác khuyên tìm cách đưa loại cây ấy về nước. Khi đi thǎm hồ Suối Hai thấy nhà nghỉ của Tỉnh ủy xây to đẹp, Bác bảo phải lo xây nhà cho nhân dân lao động trước. Lúc đi công tác xa lâu ngày Bác nghĩ đến những người phục vụ mình ở nhà, Bác dặn những ngày Bác đi xa các chú tranh thủ về thǎm quê hương gia đình. Đối với người phục vụ, Bác quý trọng xem như những người thân thiết nhất, Bác không có gia đình riêng, họ là những người gần gũi với Bác như những người ruột thịt. Đầu tháng

5 - 1948, đồng chí Lộc, người nấu ǎn cho Bác không may bị sốt rét ác tính mất. Bác thương xót, và đã khóc như mất đi một người ruột thịt. Đến ngày kỷ niệm sinh nhật Bác, anh em tìm một bó hoa rừng chúc mừng sinh nhật Người. Trong phút giây xúc động, Bác rơm rớm nước mắt:

- Cảm ơn các chú, nhưng bó hoa này ta mang ra đặt lên mộ đồng chí Lộc.Và Bác kể cho mọi người nghe về cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí

Lộc. Đồng chí vốn là Việt kiều ở Thái Lan, gặp Bác bên đó, đồng chí đã đi theo giúp việc Bác. Hai người thường quẩy hai bồ thuốc giả làm người đi bán thuốc rong, đi đến nơi có bà con Việt kiều để tuyên truyền cách mạng. Bác sang Trung Quốc đồng chí Lộc cũng theo sang, rồi cùng về nước với Bác. Đồng chí lo công việc ǎn uống cho Bác. Hồi đó sinh hoạt khó khǎn, có lúc phải ǎn ngô bung, hoặc cơm độn ngô, đồng chí Lộc bao giờ cũng dành phần nhiều cơm cho Bác. Bữa nào đồng chí cũng chắt lấy nước cơm đặc, nài nỉ Bác uống cho kỳ được. Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí xung phong ở lại xây dựng công binh xưởng cho cách mạng. Theo Bác hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tới khi cách mạng thành công đồng chí Lộc vẫn an tâm vui vẻ làm một công việc hết sức bình thường - nấu cơm cho Bác.

Phục vụ Bác có nhiều anh em dân tộc ở Cao Bằng. Có đồng chí được một thời gian nhớ nhà và cũng vì hoàn cảnh gia đình nên xin Bác cho về giúp gia đình. Bác rất muốn đồng chí cùng ở lại nhưng vì hoàn cảnh gia đình và ý nguyện của họ, Bác đồng ý. Khi có ai đi công tác lên vùng đó Bác nhờ ghé vào thǎm, nhắc nhở địa phương giúp đỡ đồng chí khi gặp khó khǎn. Thời gian ở Pắc Bó có lần Bác nhận được gói quà có đường và lạc. Bác cho làm kẹo và báo đồng chí Cáp mang vào trong bản phân phát cho các cháu. Mọi người rất muốn để lại cho Bác bồi dưỡng, biết ý Bác nói: "Người già nên để kẹo cho các cháu". Trước lý lẽ của Bác, đồng chí Cáp phải mang kẹo vào cho các cháu. Hồi ở Tân Trào, đồng chí Thắng mới được cử về phục vụ Bác. Đồng chí có một bộ quần áo vải mộc. Khi làm việc với Bác đồng chí cố nén không ho, nhưng vừa ra khỏi nhà đồng chí ho rũ rượi, thấy vậy Bảc bảo: "Chú Thắng ốm à". "Sao trông người chú khác thế". Nói rồi Bác đứng dậy lấy chiếc áo trấn thủ của mình đưa cho đồng chí và dặn: "Chú mặc tạm cho đỡ lạnh, mùa đông cốt nhất phải giữ ngực cho ấm". Đồng chí Thắng ngần ngại không dám cầm, vì thấy Bác không có áo ấm tốt mà Bác cũng phải mặc độn nhiều áo. Thấy vậy Bác giục, rồi Bác hiền từ giúp đồng chí cài từng chiếc nút áo. Có lần Bác đến thǎm đồng chí Lê Trọng Tấn, gia đình làm bánh mời Bác, Bác ǎn một miếng thấy ngon, Bác xin một ít mang về cho anh em phục vụ. Hồi ở Việt Bắc, kỹ sư Trần Đại Nghĩa dồn hết trí tuệ tâm huyết để nghiên cứu vũ khí mới cho quân đội. Biết kỹ sư thường làm việc ban đêm, có khi làm việc suốt sáng, lại nghiện thuốc lá Bác dành một phần thuốc của mình đến biếu kỹ sư. Sau đó Bác chỉ thị cho hậu cần dù khó khǎn cũng cố tìm thuốc lá đủ hút cho kỹ sư. Có lần về ban đêm đồng chí bảo vệ đứng gác nơi ở của Bác không may trượt chân rơi xuống hầm tránh máy bay. Nghe tiếng động Bác vội chạy ra không kịp đi dép và mặc áo ấm Bác giúp đồng chí lên khỏi miệng hầm, Bác nắn bóp chân cho đồng chí ấy rồi ân cần bảo: "Chú cứ ngồi yên cho đỡ đau, để Bác gác cho".

Đồng chí cảm động nói không nên lời, chỉ biết làm theo. Về mùa đông Bác ở gác hai trên nhà sàn nên gió lạnh, cơ quan tìm cho Bác chiếc lò sưởi điện. Một lần nửa đêm gió lạnh, Bác thức giấc dậy nghe tiếng người gác ho phía dưới. Bác cầm chiếc lò sưởi điện và tự tay nối dây điện từ trên gác hai xuống cho đồng chí bảo vệ, và nói: "Bác nằm trên nhà đã có chǎn đắp ấm rồi!". Một buổi trưa, thấy đã quá giờ đổi gác bình thường, Bác mang chuối xuống mời, đồng chí bảo vệ thưa với Bác đang bận gác không đặt súng xuống được, xin Bác lúc khác. Bác bảo đưa súng Bác cầm gác cho: "Ăn đi kẻo đói, cốt là ǎn lúc này". Đồng chí Tùng vừa được chuyển từ một đơn vị ở chiến trường về làm nhiệm vụ bảo vệ Bác. Một hôm Bác đang cho cá ǎn, đồng chí đứng gác từ xa. Bác gọi lại hỏi thǎm sức khoẻ gia đình vợ con... Bác nói "Thế là chú về chỗ Bác được 3 tháng rồi đấy nhỉ? Dạo này chú đã hết sốt rét chưa?", đồng chí Tùng không cầm được nước mắt không ngờ Bác bận trǎm công nghìn việc mà vẫn chú ý đến một chiến sĩ bình thường như mình. Bác không những nhớ mặt, nhớ tên từng người mà còn hiểu rõ hoàn cảnh gia đình, tâm tư tình cảm của họ. Bác không những quan sát đến đời sống sinh hoạt hàng ngày mà còn lo lắng tới sự tiến bộ trong công tác của từng người - Bác thường nhắc nhở mỗi người mỗi việc cố gắng tiến bộ không ngừng. Bác ân cần hỏi đồng chí Tùng "Chú về đây đã khá lâu, thế chú có biết cầu thang lên xuống nơi cạnh chú đứng có mấy bậc?". Những việc tưởng bình thường nhưng đối với người công an, bảo vệ càng cần phải tỷ mỉ, sâu sát cụ thể. Một đêm, lúc khoảng hai giờ mưa phùn gió bấc, Bác thức giấc đi xuống cầu thang đến cạnh đồng chí bảo vệ, Bác hỏi: "Chú gác từ mấy giờ?", "Chú mặc thế có đủ ấm không?", Bác đến gần sửa lại vành mũ và kéo lại cổ áo cho kín và bảo "Lần sau chú gác đêm giá lạnh nhớ đi giày, nếu đi dép phải có tất cho đủ ấm, đi dép chân không đêm sương giá lạnh dễ bị ốm".

Thời gian sau ngày giải phóng, mới về Hà Nội nhân ngày Tết cổ truyền, các đồng chí bảo vệ, phục vụ mang bó hoa đến chúc Tết Bác. Bác rất vui mừng và nói "Các chú khéo vẽ chuyện, Bác và các chú sống bên nhau hàng ngày, việc gì phải hoa. Từ nay các chú tǎng gia được rau, xu hào, bắp cải, Tết đến chọn mấy cây đẹp cho vào chậu cảnh mang tới biếu Bác, Bác sẽ để trước cửa phòng khách, khách đến Bác sẽ giới thiệu của các chú biếu Bác, thế là Bác có quà tặng, các chú lại được Bác tuyên truyền cho. Hết Tết các chú lại mang về chén, như vậy chẳng mất gì cả". Từ đó thành thông lệ, hàng nǎm Tết đến anh em chọn 4 cây bắp cải, 4 cây xu hào loại to đẹp nhất tới chúc Tết Bác. Những cây xu hào bắp cải xen lẫn với gốc quất, gốc đào góp thêm thi vị bên ngôi nhà Bác ở. Nhớ lại đầu nǎm 1946, nơi nghỉ của anh em bảo vệ Bác ở Bắc Bộ phủ, về mùa hè nóng ẩm vì ở nhà kho cũ, chật chội. Thấy thế, Bác cho lên phòng khách ngủ cho thoáng mát, ở phòng khách anh em sơ ý làm vỡ mặt đá của chiếc bàn lớn. Đồng chí cán bộ phụ trách cáu gắt nặng nề và không cho anh em lên đó ngủ nữa. Bác nghiêm khắc bảo "Cái bàn quý hơn hay anh em chiến sỹ quý hơn. Vỡ sau ta tìm cái khác, chỉ cần giáo dục anh em có ý thức bảo vệ của công. Chú mở cửa cho anh em vào ngủ tiếp". Tuy bận nhưng Bác vẫn thường xuyên xuống nhà bếp, khu vệ sinh để kiểm tra xem có sạch sẽ không. Bữa ǎn có những món gì phải mua, món gì tǎng gia cải thiện được. Nhớ ngày

Tết cuối cùng của Bác, Bác và Bác Tôn chụp ảnh chung với anh em trong đội bảo vệ có đồng chí Cương ít tuổi nhất được Bác rất quý. Trước khi chụp ảnh Bác gọi "Viên kim cương của Bác đâu, lại đây đứng bên Bác" - Bác quan tâm từ cái lớn, sâu sát từ cái nhỏ đời thường của anh em. Ở chiến khu việt Bắc, tối ngủ anh em thường để dép lộn xộn khi báo động hoặc sáng dậy, lẫn dép lung tung. Trước khi ngủ Bác đi kiểm tra một vòng, sắp xếp lại gọn gàng đôi nào đôi nấy sáng ra ai cũng ngạc nhiên, sau mới biết tối qua Bác kiểm tra và xếp lại. Từ đó trở đi nội vụ từ đôi dép đến đồ dùng cá nhân anh em đều sắp xếp ngǎn nắp. Bác đi thǎm nhiều nơi, nhưng không qua loa đại khái, Bác quan tâm đến tập thể nhưng không quên cái nhỏ nhất của người dân. Bác không những rất ghét tội tham ô ǎn cắp của dân mà còn phê bình gay gắt bệnh hình thức dối cấp trên lừa dân. Bác đến thǎm một cơ quan thấy đèn trang trí từ cổng vào nhà hội trường sáng trưng, xung quanh khẩu hiệu đèn xanh đèn đỏ loè loẹt, Bác đi thẳng vào nơi ǎn ở khu vệ sinh của cán bộ thấy tối tǎm chật chội. Bác cho tập trung cán bộ chủ chốt trong cơ quan, Bác chỉ nói "Các chú không thương quần chúng". Khi duyệt các chủ trương, chỉ thị Bác sửa chữa nhiều nhất chú ý nhiều nhất ở chỗ có quan tâm đến lợi ích, đời sống sinh hoạt của quần chúng hay không. Có lần đồng chí Nguyễn Tạo lên báo cáo Bác về phong trào trồng cây. Khi nghe xong được biết các cụ có thành tích rất lớn, Bác hỏi "Thế công sá đối với các cụ thế nào", đồng chí Tạo trả lời Bác "Thưa Bác, các cụ ǎn theo công điểm của hợp tác xã ạ". Bác hỏi cụ thể và được biết các loại cây như nhãn, vải, cam, quít. Khi thu hoạch các cụ không được hưởng phần nào, Bác phê bình, đồng chí thưa với Bác sẽ về nhắc các địa phương dành một phần thu hoạch biếu các cụ. Bác nói ngay "Không phải biếu mà các cụ có quyền hưởng, người nào làm nhiều hưởng nhiều, hợp tác xã chia cho các cụ như vậy là không công bằng, không theo nguyên tắc phân phối lao động xã hội chủ nghĩa - ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít".

Nǎm 1963, Bác về thǎm tỉnh Vĩnh Phú, trên đường Bác rẽ vào một gia đình nông dân. Gặp bà cụ già, Bác hỏi thǎm sức khoẻ và kinh tế, cụ thưa gia đình có 5 người được chia 3 tạ thóc. Bác hói "Thế có đủ ǎn không?", cụ già chưa kịp trả lời thì một đồng chí trong tỉnh uỷ trả lời "Thưa Bác, đấy mới là hợp tác xã chia tạm chưa phải chính thức". Bác phê bình ngay "Bác có hỏi chú đâu mà chú trả lời". Như được thêm chỗ dựa lòng tin, cụ già thưa thật với Bác hằng nǎm, nếu ǎn uống theo định lượng tằn tiện, độn thêm ngô sắn thì cũng tạm đủ". Rồi Bác bảo đồng chí có trách nhiệm nghe nói để tính toán lại cho sát đừng để dân quá vất vả thiệt thòi. Nhà nước phải lấy phục vụ dân làm chính. Nǎm 1960, Bác ra thǎm đảo Tuần Châu (Vịnh Hạ Long) khi ca nô vừa rời bến thì trong bờ có tiếng vọng ra: "Sao các ông không cho tôi gặp Cụ Hồ". Biết chuyện Bác cho ca nô quay lại, trên bờ một cụ già trên 70 tuổi bị mù, Bác vội chạy đến chỗ cụ và nói: "Thưa cụ, tôi đây, Cụ có khoẻ không". Nghe tiếng Bác, cụ già đứng không vững nữa, khuỵ xuống trên cánh tay nâng đỡ của Bác: "Bác đây ư Bác Hồ, tôi được gặp Bác thật ư!". Đôi bàn tay xương xẩu của cụ già vuốt trên cánh tay, trên vai Bác, hai dòng nước mắt trào ra từ đôi mắt mù loà của cụ chảy xuống hai gò má nhǎn nheo. Bác đứng lặng hồi lâu, xúc động. Mọi người đứng lặng cảm động trước tình cảm của hai con người.

Một lần đến thǎm bệnh viện Bạch Mai mọi người ra đón và tặng hoa, Bác nhận bó hoa rồi đến tặng một cụ già đang trông xe đạp ở cổng bệnh viện. Bác bảo với cụ và mọi người: "Cụ trông xe đạp cũng rất quan trọng, nếu mà trông không cẩn thận mất xe đạp của các cô các chú, hỏi có ai an tâm công tác không?" Một lần đến thǎm một nhà máy thấy cô công nhân đang chạy máy để bộ tóc dài, Bác ra hiệu dừng máy đến gần ân cần nhắc: "Cháu là gái khi lao động vấn tóc lên và đội mũ bảo hiểm để bảo đảm an toàn, bộ tóc là góc con gái". Lần đi thǎm Vĩnh Phú, trên đường thấy hai chị em ǎn mặc rách rưới, dắt tay nhau đi, Bác cho dừng xe hỏi chuyện hai chị em về hoàn cảnh gia đình, bố mẹ, được biết bố hai em đi bộ đội, Bác hỏi ǎn có đủ không, trưa, sáng ǎn gì, cùng lúc đó có đồng chí tự xưng là cán bộ xã nhanh nhẩu trả lời thay hai em, Bác nhắc nhở: "Bác có hỏi chú đâu, nếu chú là cán bộ xã thì tại sao lại để con cái người đi bộ đội phải ǎn mặc, đói rách thế này". Dọc đường, thấy cột số Km chỉ ghi rõ chữ số 65 còn chữ địa danh bị mờ, Bác nhắc nhở cán bộ giao thông phải chú ý để sửa lại. Đi qua Cổ Nhuế, thấy dân bón rau phân tươi, Bác nhắc phải đề phòng ruồi, bệnh tật vệ sinh. Đến trạm bơm Chèm, thấy chân đê bị sụt lở, Bác nhắc trồng tre để bảo vệ đê. Khi giải quyết các vụ tranh chấp đất đai nhà cửa, các đồng chí phân tích người này sai, người kia có khuyết điểm. Bác kết luận, do chỗ ở quá chật chội nên mới sinh ra tranh chấp, chứ phải người ta ghét bỏ nhau đâu. Khi đến thǎm nhà dân nơi chật chội, ổ chuột, bẩn thỉu, Bác phê bình gay gắt cán bộ không sâu sát dân, quan liêu, không thương dân, phải tìm mọi cách vận động, tổ chức bà con dọn vệ sinh, sửa sang nhà cửa, lối ra vào và phối hợp với cơ quan chức nǎng lo nhà cho dân. Khi về hợp tác xã thǎm nông dân, Bác xuống tận các gia đình để biết mức sống của dân chứ không nghe hoàn toàn các báo cáo. Thǎm xã Nam Chính, Bác vào nhà anh Giao một nông dân lao động cần cù, đứng ngoài sân, Bác hỏi mấy câu chuyện làm ǎn sinh hoạt đời sống rồi vào nhà xem vại gạo, cót thóc, vòng ra phía sau xem chuồng lợn, nhà vệ sinh, thấy hai con lợn đang ăn. Bác khen lợn đẹp, giống lợn thẳng lưng mông to chắc chóng lớn, rồi Bác xem giếng nước, nhà tắm, Bác nhìn xuống giếng và bảo: "Giếng nên có nắp đậy, vừa sạch vừa đề phòng tai nạn". Xem nhà tắm Bác khen xây thế này là tốt nhưng nên đơn giản hơn trong lúc ít gạch, nhà nào không có gạch nên làm bằng cót, trồng cây dâm bụt xung quanh, khi cót hỏng thì dâm bụt đã tạo thành nhà tắm kín đáo mà đẹp.

Nhiều lúc Bác muốn đi dã ngoại bí mật vừa thǎm dân được lâu, rõ hơn và thay đổi không khí. Bác bảo đồng chí phục vụ chuẩn bị thức ǎn, không nói với ai, sáng đi sớm không mang theo bảo vệ và quay phim, chụp ảnh. Hành trình Bác định trước đến đâu thǎm nơi nào, nghỉ ǎn cơm ở đâu, mấy giờ về... Bác thấy đi như vậy thoải mái, thích thú lại đỡ tốn thời gian và tiền bạc. Vì một lần Bác về thǎm một tỉnh nghèo cán bộ tỉnh tổ chức liên hoan linh đình đón Bác, Bác bảo: "Các chú làm thế này thì lần sau dân không ai mong Bác về nữa các chú cho công an, bộ đội đứng gác khắp nơi làm dân họ sợ không dám đến gần Bác. Mà dân có đến cũng là do các chú sắp đặt nên không tự nhiên vui vẻ". Đến thǎm vào mùa rét Bác đội mũ lông, quấn khǎn kín, hôm đó các đồng chí quay phim nhiếp ảnh đông Bác nói vui, hôm nay Bác không biểu diễn đâu, các chú

chẳng có làm ǎn được gì. Hôm đó vui kể chuyện đồng chí bác sĩ người Cửu Long kể ở trong đó có những con tôm to bằng bắp tay, đồng chí Vũ Kỳ không tin, Bác cười góp vui nghe nói Đồng Tháp mười có muỗi to lắm, muỗi đậu ngoài màn người nằm trong màn nắm được chân nó, nó dẫy hai cánh đập như hai cái quạt máy mát lắm, mọi người được phen cười vui vẻ. 

Tết nǎm 1966, Bác về thǎm tỉnh Thái Bình. Ngày 30 Tết Bác đi thǎm và nói chuyện một số nơi. Đêm 30 Tết; Bác tranh thủ làm việc, liên quan đến chương trình mồng Một Tết, Gần đến Giao thừa, đồng chí phục vụ mời Bác đi nghỉ. Bác bảo "Còn ít phút nữa bước sang nǎm mới, cộng việc của nǎm cũ không nên để lại". Xong công việc thời gian đã chuyển sang nǎm mới, biết phòng bên có nhiều người thức dậy đón nǎm mới, Bác xách đèn bão sang thǎm và chúc tết mọi người, sau đó Bác trở về làm việc tiếp. Bác về thǎm tỉnh lần thứ 5, Bác bảo Thái Bình là tỉnh 5 tấn, Bác đã về 5 lần, nếu thêm nhiều tấn nữa Bác sẽ về nhiều nữa.

Lòng tin ở nhân dân trong Bác là tuyệt đối, Bác bảo nếu trong dân còn người xấu, họ chưa yêu cách mạng thì cách mạng phải tỏ rõ lòng khoan dung, thuyết phục chứ tuyệt đối không bắt ép. Có lần Bác về thǎm tỉnh Yên Bái, các đồng chí bố trí mít tinh đón Bác trong doanh trại tỉnh đội Bác không đồng ý, Bác nói mít tinh đón Bác không nên làm trong đơn vị bộ đội, các chú canh gác cẩn mật thì ai dám vào, vả lại nếu mọi người vào được thì còn đâu là cẩn mật. Theo ý Bác nên chọn chỗ nào thuận tiện để mọi người đến được, thành phần đến tham dự là toàn dân. Các đồng chí bảo vệ cứ bǎn khoǎn sợ kẻ xấu lẫn vào, biết được ý nghĩ đó, Bác nói: "Những người xấu cũng cho họ vào, nếu không cho họ nghe chuyện thì làm sao họ giác ngộ được, họ sẽ không làm điều gì xấu đâu". Lần về thǎm mỏ Quảng Ninh công nhân phấn khởi chạy ào ra đón Bác, có chị cũng vội bế con chạy ra đón Bác, vì vội quá nên không kịp thấy trong tay con mình cầm vật gì. Thấy hai mẹ con chạy vội, Bác ôn tồn: "Đi từ từ kẻo ngã" Bác tiến lại gần hai mẹ con, Bác nhẹ nhàng gỡ con dao nhỏ trên tay đứa bé rồi đưa cho chị và ân cần dặn: "Đừng cho trẻ con chơi dao, nguy hiểm" , lúc đó mọi người mới nhận ra. Bác đi thǎm đảo Vạn Hoa, Bác hỏi các chiến sỹ có được xem phim, xem vǎn nghệ thường xuyên không, các chiến sĩ trả lời Bác là 6 tháng được xem phim một lần, còn vǎn nghệ thì chưa lần nào. Bác quay sang đồng chí Lê Trọng Tấn nói: "Hôm nay có ông tướng đi cùng đây "ông" nghĩ thế nào?". Đồng chí hứa với Bác là sẽ sửa chữa khuyết điểm, Bác nói ngay: "Chú hứa chung chung quá" đồng chí hứa với Bác là 6 tháng một lần xem vǎn công còn 3 tháng một lần xem phim, Bác gật đầu, cười đồng ý.Ban Việt kiều đưa lên Bác kế hoạch đón Việt kiều ở Thái Lan về nước Bác phê bình, là chỉ chú trọng đến lễ đón tiếp chứ không chú ý bố trí công ǎn việc làm, nơi ǎn ở cho người về nước, Bác chỉ thị, phải có biện pháp cụ thể cho tương lai của kiều bào, sử dụng hợp lý khả nǎng chuyên môn, công việc của họ, và trường học cho con em Việt Kiều.Bác giáo dục cán bộ đối với nhân dân không được phân biệt, cách biệt, không được có thái độ cho dân vùng này tốt nơi kia xấu, ở đâu, người nào cũng phải bình đẳng, tôn trọng yêu quý nhân dân thì họ mới yêu quý cán bộ. Đối với dân tộc ít người, tôn giáo

hay Việt kiều về nước, tinh thần đại đoàn kết của Bác luôn luôn được mọi tầng lớp mọi giới ủng hộ.

Bác đến thǎm huyện Mường Tè, nơi xa xôi của tỉnh Lai Châu, khi thấy nhân dân còn cực khổ lạc hậu, Bác đi bộ xuống tận bản làng nơi nhân dân đang sống theo tập quán cũ, Bác bảo, chúng ta có Đảng, có Chính quyền nhưng chưa mang ánh sáng vǎn minh đến những vùng cao như ở đây, chúng ta còn có lỗi với dân, rồi Bác chỉ thị cho cán bộ địa phương phải có biện pháp cụ thể giúp đỡ đồng bào cải thiện đời sống, lối sống, để họ dần dần tiến kịp miền xuôi, có như vậy cách mạng mới thực sự của toàn dân, công bằng với mọi nơi. Nǎm 1957 , Bác về thǎm Đồng Hới, khi được biết nguyện vọng của đại biểu Phật giáo, Thiên chúa giáo xin được thǎm Bác. Mặc dầu chương trình rất nhiều, Bác bảo, gặp cán bộ cốt cán, đảng viên thì lúc nào cũng được, bây giờ các chú để Bác được gặp các Cụ. Bác đi bộ đến chỗ các cụ đã tập trung đông đủ, lúc đó có một bà cụ thay mặt mọi người mang bó hoa lên tặng Bác. Bác sung sướng cầm bó hoa và cảm ơn, rồi nhanh nhẹn tách bó hoa làm đôi đi đến tặng cho sư Phổ Minh và cha cố Thông. Những người có mặt lúc đó ai cũng cảm động và quý phục phong cách linh hoạt tài tình của Bác. Một biểu hiện đoàn kết tôn giáo cao quý đẹp đẽ cử chỉ đó của Bác đã nói bao điều mà ai cũng hiểu, ghi nhớ sâu sắc. Hai lần về thǎm quê hương Nghệ An, Bác đều đến thǎm Hội Phật giáo, sư bà Thích Diệu Niệm tặng Bác lẵng hoa làm theo 5 cánh "5 chân lý hợp nhất" và một bài thơ, Bác trân trọng nhận hoa và đọc thơ, xong Bác lấy bút đề tặng lại thơ cho nhà sư nữ và cho cả tǎng ni phật tử Nghệ An. Đến nǎm 1962, Bác đến thǎm trường Hội Phật giáo, lúc đó sư nữ Thích Diệu Niệm cũng ra học, từ xa Bác đã nhận ra, Bác đến nói chuyện hỏi han công việc Hội Phật giáo Nghệ An, nhà sư tặng Bác bài thơ, ý trong bài thơ là làm tốt những điều Bác dặn khi hai lần về thǎm quê, Bác vui vẻ bảo: "Như ri thì sư nhớ lời Bác dặn".

Bác quý trọng nhân cách con người, dù người đó là ai, tầng lớp nào, bên Bác dẫu một lần ai cũng cảm thấy giá trị của cuộc đời được nâng lên. Bác không bao giờ nói "cho" mà chỉ nói "biếu cô", "biếu chú'', "tặng cô", tặng chú"... Bác không ngồi nghe khi người khác đứng nói, sẵn có ghế Bác mời cùng ngồi, nếu không có ghế thì cùng đứng có lần đến thǎm bà con nông dân, có các cụ già đến nghe Bác nói chuyện không có ghế phải ngồi xuống đất, Bác bảo tìm ghế cho các cụ rồi Bác mới bắt đầu nói chuyện với mọi người.

Khi có chút quà ngon, Bác không dành riêng cho mình, mà dẫu ít Bác cũng chia đều cho anh em phục vụ. Bác không quan niệm "lộc bất tận hưởng" một cách máy móc, mà xuất phát từ tấm lòng quý trọng con người. Có đồng chí đi họp ở Pari về, mang biếu Bác gói kẹo mà ở bên Pháp Bác rất thích. Có kẹo ngon, lại hiếm, Bác đem chia đều cho mọi người, có người thấy kẹo của Bác chỉ có ít, muốn để dành cho Bác ǎn, nên từ chối không dám nhận, Bác bảo, ít cũng phải chia đều, mỗi người hưởng một ít. Ở nhà sàn, buổi trưa xung quanh mọi người ngủ trưa yên tĩnh, có việc lên xuống, Bác ghì quả chuông treo ở cầu thang lên xuống cho nó khỏi kêu, làm anh hưởng đến giấc ngủ mọi người. Bác bận nhiều việc lớn của Đảng, của Nhà nước nhưng việc nhỏ Bác không

quên, khi có anh em phục vụ đi phép, Bác đến gửi quà và gửi lời thǎm sức khoẻ gia đình, khi trả phép Bác đến hỏi han tình hình gia đình. Có đồng chí vì bận công tác không về thǎm quê và gia đình được, khi người nhà lên thǎm, Bác biết bao giờ Bác cũng gặp, nếu gặp vào đúng tối thứ bảy có phim, Bác mời xem phim. Có một lần trong buổi xem phim, Bác thấy một cụ già ngồi xem, lúc đó hỏi thǎm không tiện, sau Bác hỏi đồng chí Vũ Kỳ cụ già xem phim là ai mà không báo để Bác biết tiếp chuyện, được biết là bố của bác sĩ Mẫn (người bảo vệ sức khoẻ riêng của Bác) lúc đó cụ già đã lên đường về quê, vì không gặp được cụ, Bác gửi bác sĩ Mẫn một chai mật ong nhờ chuyển về làm quà biếu cụ. Cụ già ở quê rất cảm động khi đón nhận món quà quý giá của Chủ tịch nước gửi. Hàng nǎm đến tối 30 Tết, anh em không về quê đón Tết. Bác tổ chức gặp mặt tất niên. Bác thường bố trí Bác ngồi một bên bàn còn Thủ tướng Phạm Vǎn Đồng ngồi đối diện, anh em ngồi quây quần xung quanh, đêm giao thừa có hai Bác và anh em nên không khí trong Phủ Chủ tịch thêm ấm cúng không khí gia đình. Khi mọi người yên chỗ ngồi, Bác đi một vòng xung quanh kiểm tra xem còn thiếu ai. Nếu thiếu Bác dặn đồng chí cấp dưỡng để phần lại cho anh em đi vắng. Những anh em ngồi cạnh Bác lúc đầu thường e dè, không tự nhiên tay cầm đũa cứ lóng ngóng. Bác chủ động gắp thức ǎn và động viên, có khi Bác pha trò một câu gì đó tạo không khí vui vẻ những lúc đó Bác hiện thân một người Cha bên đàn con yêu quý trong giờ phút thiêng liêng chuyển nǎm cũ sang nǎm mới. Xong buổi liên hoan Bác cùng anh em chụp ảnh lưu niệm và vui vǎn nghệ "cây nhà lá vườn" Bác đi thǎm nước ngoài nhiều lần, họ biếu Bác nhiều tiền và quà , Bác cho vào công quỹ hết, cái nào chia được Bác chia cho anh em. Mỗi lần đi nước ngoài về Bác thường mua quà kỷ niệm cho anh em phục vụ, khi đôi bít tất lúc chiếc khǎn hay gói kẹo.

Bác sống cuộc đời một vị Chủ tịch nước, nhưng mỗi người chúng ta đều thấy một phần cuộc đời mình trong đó, bởi vì Bác là hiện thân cốt cách dân tộc, là cái chung trong mỗi cái riêng. Bác chu tất với mọi người, mọi việc, có lần Bác đi qua nhà ǎn thấy đồng chí Lơ người nấu ǎn cho Bác đang dùng cát để đánh xoong cho sạch, Bác rẽ vào bày cách đánh xoong nồi chóng sạch lại không bị xước mòn. Hồi ở chiến khu khi đi trong rừng gặp trời mưa vắt nhiều, Bác bày cho cách dùng tàn thuốc lá để chống vắt rất hiệu quả Bác thường xuyên khuyên bác sĩ học cách chữa bệnh bằng thuốc nam, ta là người nam hợp với thuốc nam vì cha ông tổ tiên đã để lại kinh nghiệm quý báu đó ta nên phát huy thêm. Bác kể chuyện hồi xưa Bác đi bộ từ Nghệ An vào Huế. Dọc đường chân bị sưng lên đau không đi được nhờ xoa bóp bằng nước tiểu đỡ đau mới đi tiếp được. Khi về già có lần Bác đau ở bả vai, bác sĩ cho chạy vật lý trị liệu mãi không khỏi, Bác lấy lá ngải cứu vò với nước tiểu xoa vào chỗ đau, chỉ mấy lần làm thấy giảm hẳn.Đối với khách là người nước ngoài nếu là người quen biết từ trước, Bác tiếp không những trên cương vị Chủ tịch nước mà còn trên tình cảm anh em gần gũi, khách đến tuy là lần đầu Bác cũng rất chu tất, trước khi khách về nước, Bác đến thǎm, gửi quà... hôm sau Bác lại đến chia tay. Bác bảo họ là khách, mình là chủ làm thế mới có tình có nghĩa. Rời Việt Nam, nhưng khách không quên Việt Nam có Bác Hồ, con người của mọi

người. Một lần có vị quan chức của một nước đi thǎm các nước láng giềng quanh ta, người này có cảm tình với Việt Nam. Lúc đó nước ta đang có chiến tranh, có người đến bàn với Bác, ta lấy cớ không có điều kiện tiếp nên không mời, Bác bảo "Khi người anh em đi qua trước ngõ không mời vào nhà chơi là không lịch sự" Bác đích danh mời vị đó vào thǎm. Khi về nước vị khách hết lòng ca ngợi Việt Nam và tích cực ủng hộ nhân dân Việt Nam chiến đấu.Bác quan tâm con người không chung chung, mà rất cụ thể, không những đối với những người gần gũi bên Bác, những người Bác gặp mà còn đến những người có thể Bác không gặp. Khi đi qua chiếc cầu gập ghềnh hay gặp hòn đá khập khiễng Bác dừng lại cùng anh em sửa sang cho chắc để người đi sau khỏi gặp nguy hiểm. Lội qua suối gặp hòn đá trơn Bác cúi xuống nhặt ném đi xa để người đi sau không bị ngã. Có lần đi chiến dịch, đường đi nhiều ổ gà, phía trước có hòn đá to, đồng chí lái xe cứ cho xe vượt, không ngờ xe va vào hòn đá bị hỏng, Bác xuống xe, chiếu đèn pin giúp cho các đồng chi sửa xe, Bác động viên cứ bình tĩnh chữa cho cẩn thận. Khi xe sửa chữa xong tiếp tục lên đường, bấy giờ Bác mới nói: "Đáng ra lúc nãy chú cho xe dừng lại lǎn hòn đá xuống vực rồi mới đi, có lâu cũng chỉ dǎm phút, không phải dừng sửa chữa mất hơn nửa tiếng, mà lại giúp các xe sau không bị nạn, chú đã "tham đĩa bỏ mâm".

Trên đường ra trận Bác cùng lǎn lộn với anh em, cùng đổ mồ hôi cùng sôi khí thế. Khi đi chỗ đường trơn, suối đá trơn gập ghềnh, anh em bảo vệ muốn giúp Bác kẻo ngã, Bác bảo tự Bác đi dễ hơn, hơn nữa Bác đi nhanh và khéo hơn các chú đấy. Có lần mùa mưa, gặp con suối nước chảy xiết, việc cần gấp phải qua, các đồng chí đang lúng túng không biết làm sao qua được. Bác bảo tìm sợi dây rừng thật chắc buộc chặt vào người rồi dìu dắt nhau qua, Nhớ lần Đại Hội Đảng lần thứ II ở Tuyên Quang, Bác biết chị Quý nhân viên phục vụ Đại hội mới sinh cháu bé được 5 tháng, Bác bảo, Bác sẽ đến thǎm, vì ngại nơi ở xa và chưa chu tất, gia đình muốn bế cháu đến thǎm Bác. Bác bảo, ông phải đến thǎm cháu chứ. Thế rồi Bác tranh thủ thời gian đến thǎm, cho quà và chụp ảnh với cháu. Nhạc sỹ Phong Nhã lên báo cáo với Bác về tình hình thiếu nhi. Nhạc sĩ chuẩn bị nhiều nội dung lớn, nhưng khi lên Bác chỉ hỏi kỹ về việc các cháu con nhà nghèo vào đội ra sao, việc ǎn ở, học hành, vui chơi thế nào, Bác chǎm chú lắng nghe nhạc sĩ kể về các cháu tham gia mít tinh, tuần hành, cổ động. Bác đǎm chiêu nhìn ra trời nắng nóng và nói: "nhưng nhớ đừng để các cháu đi đầu trần dưới nắng dễ bị ốm|". Mùa rét Bác chỉ thị cho Bộ Giáo dục khi nhiệt độ xuống 10 độ C thì cho các cháu học sinh cấp I nghỉ học, xuống dưới 10 độ C cho các cấp các trường nghỉ học.

Có lần Bác đến dự cuộc họp cán bộ cấp cao, khi nghỉ giải lao các đồng chí vào phòng giải khát riêng, còn anh em khác không thuộc diện tiêu chuẩn đứng ngoài uống nước trà, thấy vậy Bác ra mời anh em vào hết, Bác bảo: "Ai đến họp đều có phần như nhau". Cứ mỗi lần chiêu đãi khách khi tan tiệc Bác bảo "Theo tục lệ Việt Nam, khi đi ǎn cỗ thì phải có phần mang về, các chú nhớ lấy phần về chia cho người ở nhà cho các cháu, người được ǎn phải nhớ người ở nhà" . Việc đó thành nếp mãi về sau. Ai được Bác chiêu đãi đều có phần mang về cho người ở nhà.

Về tặng thưởng của Bác thì có nhiều với mọi đối tượng. Hồi mới đầu kháng chiến có một phóng viên nước ngoài gửi tặng Bác mấv bức ảnh, Người không quên gửi tặng lại ảnh có tựa đề thân thiện. Ai có thành tích kháng chiến Bác gửi thư khen ngợi gửi tặng quà là chiếc áo mà đồng bào tặng Bác. Khi cấp dướí ốm đau Bác biết, Bác đến tận giường bệnh hỏi thǎm. Người yêu thơ gửi thơ tặng Bác, Bác gửi tặng lại thơ, những bài thơ đó thường là thơ tức cảnh, là cảm xúc thực, dung dị, xuất phát từ hoàn cảnh thực mà ai nhận được cũng cảm thấy gần gũi, xúc động bởi trái tim và tấm lòng Bác quá bao la, soi rõ tận tâm can xúc cảm của con người. Những ngày cuối cuộc kháng chiến, Bác nhận được thơ của hai cháu thân quen là Hà, Hạnh (con gái nhà vǎn Đặng Thai Mai). Bác viết thư trả lời và gửi kèm "Bài thơ tức cảnh khi thức giấc":Kìa bãi cát, nọ rừng thông,Nước nước, non non, khéo một vùng,Đang đợi người thơ cùng bạn vẽ,Đến chơi cảnh trí với rừng sông.Tay đàn, cặp sách, ông đầu bạc.Hồ rượu, xâu nem, ả má hồng.Được phép ngao du cùng tuế nguyệtVì rằng kháng chiến đã thành công.

Khi biết tin chị Hà có thai, Bác viết thư cǎn dặn. "Phải cẩn thận, nếu không cần kíp lắm thì không nên cưỡi ngựa, lội suối trèo đèo và làm gì nặng nề mệt nhọc quá. Bao giờ có dịp Bác sẽ đến thǎm cháu...". Có lẽ món quà quý nhất đối với người nhận là mấy lời Bác dặn dò chân tình, là câu thơ, bài thơ được Bác viết tặng với một nỗi niềm tâm sự, một cảm xúc tràn đầy tình người, một niềm hy vọng về tương lai tươi sáng cho người nhận cho tất cả đất trời, nhân loại. Khi biết tin cụ già ở Hải Phòng tuổi đã trên trǎm, vẫn cùng con cháu cầm bút cắp sách đi "diệt giặc dốt", Bác viết thư khen ngợi "Cụ đã nêu tấm gương sáng cho con cháu noi theo...". Đọc báo Bác biết tin đội dân quân nữ, đội lão dân quân có thành tích bắn rơi máy bay Mỹ, Bác gửi thư, tặng cờ khen thành tích. Bác tặng cờ thưởng luân lưu cho quân và dân Quân khu IV, cho các tỉnh tuyến đầu "Cờ thưởng luân lưu" của Bác dành thưởng cho những đơn vị bắn rơi nhiều máy bay nhất trong ngày, trong tháng, trong nǎm. Cho nên cờ được chuyền tay nhau đi đến các trận địa nơi nóng bỏng nhất như thêm sức mạnh cho các chiến sĩ "nhằm thẳng quân thù mà bắn", quyết vít cổ "thần sấm", "con ma" thật nhiều dâng Bác, dâng Tổ quốc.

Hàng tháng Bác dặn đồng chí Vượng phụ trách khen thưởng Phủ Thủ Tướng, tổng kết lại trong tháng mỗi tỉnh, mỗi ngành, mỗi bộ, mỗi trường học, đoàn thể được Bác thưởng bao nhiêu huy hiệu. Có con số cụ thể để điều tra xem xét. Vì sao nơi này nhiều nơi kia ít.  Vì sao ít, có phải vì phong trào kém hay vì chưa có báo cáo kịp thời, để nhắc nhở những nơi đó. Hàng ngày Bác đọc báo, có tin người tốt việc tốt Bác thấy thưởng được huy hiệu là Người vòng tròn bên cạnh, đồng chí giúp việc Bác dựa trên những đánh dấu đó mà gửi tặng huy hiệu. Đặc biệt khi thưởng huy hiệu Bác chú ý nhất là những người đi đầu khởi xướng phong trào, còn khi đã thành phong trào thì phải có

thành tích cao và liên tục. Chị Phạm Thị Vách người đi đầu trong phong trào thuỷ lợi của tỉnh Hải Hưng Bác gửi thưởng huy hiệu cho chị Vách, còn sau đó đã thành phong trào có người đạt thành tích cao hơn chị Vách nhưng Bác chưa thưởng. Lúc đầu chuyên gia nước bạn sang giúp ta còn ít, Bác tặng huy hiệu của Người. Về sau sang đông, nhiều nước khác nhau, ta chủ trương tặng huy hiệu hữu nghị. Họ không thích, họ bảo huy hiệu Bác Hồ quý hơn. Đi xuống địa phương để khuyến khích phong trào trồng cây, Bác chỉ cây đa to ngoài đồng với các đồng chí cán bộ địa phương: "Các chú biết không khi xưa các cụ ta trồng cây đa ngoài đồng là để khi làm mệt, trời nóng người ta tránh nóng, hồi xưa các cụ đã làm được thế, ngày nay chẳng lẽ con cháu không biết noi theo, trồng nhiều cây hơn để khi đi trên đường đâu cũng có bóng mát. Khi biết những nơi chưa có phong trào trồng cây tốt có nơi trồng nhiều nhưng không chǎm sóc để cây chết và bị hỏng nhiều, nên hiệu quả thấp, thấy vậy Bác phát động phong trào "Các cụ trồng, các cháu chǎm", Từ đó miền Bắc phong trào trồng cây phát triển vững chắc hơn.

Bác đặc biệt quan tâm đến ngành giáo dục, vì nước muốn mạnh dân trí phải cao. Đầu tư, quan tâm đến giáo dục là việc làm cho tương lai, sau khi cách mạng thành công Bác viết lá thư đầu tiên là lá thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam mới. Trong số lần đi thǎm các cơ quan đơn vị, địa phương... Bác dành nhiều lần, nhiều thời gian về thǎm các trường học. Bác quan tâm đến ngành giáo dục không chỉ trên giấy tờ mà ở những chính sách. Bác cǎn dặn các cán bộ từ Trung ương đến địa phương, các ngành, các đoàn thể phải xem giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, thể hiện ở trong các chủ trương, chính sách phải được thực thi trong cơ chế thích hợp. Bác tặng thưởng cho giáo viên dạy giỏi, cho học sinh học giỏi. Giải thưởng là một cuốn sổ đặt tên là "Giải thưởng Bác Hồ". Khi làm cuốn sổ thưởng Bác dặn, đây là giải thưởng nhưng nên có giấy cho các cháu dùng, sổ phải kẻ hàng cho các cháu dễ viết, in tên trường, lớp, tên học sinh. Trên trang đầu in 5 điều Bác Hồ dạy thiếu nhi. Những quyển sổ giải thưởng đó ra đời nǎm đầu tiên của chính quyền cách mạng, là nguồn động viên lớn lao cho thầy và trò lập thành tích trên mặt trận giáo dục. Sau này ngành giáo dục đề ra tiêu chuẩn đạt giải thưởng Bác Hồ quá cao, các môn học phải đạt điểm 10 và đạo đức tốt. Bác có ý kiến đối với các cháu học sinh dân tộc ít người nên châm chước có thể có điểm 9 vẫn được thưởng. Từ khi phát động phong trào đến nǎm 1968 tổng kết lại ngành giáo dục đã nhận được 6210 giải thưởng của Bác Hồ, trong đó có 423, giải tặng cho giáo viên dạy giỏi có thành tích tốt.

Món quà Bác tặng, tuy nhỏ bé nhưng mang một ý nghĩa thiết thực, mà Bác gửi gắm vào đó một điều mong muốn, một lời khuyên chân tình. Có lần anh em trẻ mới bổ sung làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan, vì chưa quen một số nguyên tắc bảo vệ nên thường có mặt hạn chế. Khi thấy Bác có đôi đũa đẹp, anh em bàn nhau dấu đi, mỗi người cắt một khúc giữ trong mình làm kỷ vật. Đồng chí phụ trách phê bình anh em gay gắt. Biết chuyện, Bác lấy tặng mỗi người một cuốn sổ với lời đề tặng. Anh em rất sung sướng và cuốn sổ ngày ngày được anh em dùng ghi những việc làm tốt, những suy nghĩ hay: Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam còn lưu giữ hai kỷ vật Bác tặng, đó là chiếc máy quay

đĩa và ghi âm vào đĩa nhựa hiệu Wilox mà bà con Việt kiều tặng Bác khi Bác sang Pháp nǎm 1946. Chiếc đồng hồ Rolex Royal do Việt kiều ở Thái Lan tặng Bác, Bác cũng tặng lại đài.

Bác viết hàng nghìn bài báo, khi có nhuận bút vǎn phòng đều gửi vào tiết kiệm, đến nǎm 1967, tổng số tiền lên đến 25.000 đồng (tương đương 60 cây vàng), khi biết, bộ đội pháo binh trực chiến dưới trời nóng, khát nước, Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ chuyển số tiền đó để mua nước uống cho các chiến sĩ trực phòng không. Bác lo cho con người từ cái nhỏ nhất đến việc lớn, Bác quan tâm từ người cán bộ đến anh em chiến sĩ, dù ở đâu, hoàn cảnh nào. Nhớ lần họp Hội đồng Chính phủ tại thôn Chúc Sơn đầu nǎm 1948, đồng chí Hoàng Hữu Nam nhờ cụ chủ nhà mua hộ cho 20 quả trứng luộc để anh em ǎn về đêm cho đỡ đói. Giữa cuộc họp Bác đến, cùng lúc đó rổ trứng được mang đến, Bác biết số trứng không đủ cho số người họp, nhưng nhất định từ chối không được, Bác vờ lấy một quả như mọi người. Có lần nhân ngày sinh nhật Bác, ở chiến khu anh em phục vụ cố gắng cải thiện bữa ǎn tươi. Gần trưa Bác đứng hóng mát ở bóng cây thấy một đồng chí cán bộ đi công tác, phi ngựa qua, Bác cho gọi lại và mời vào ǎn cơm thân mật với Bác và anh em nhân ngày vui. Được biết bố đẻ liệt sỹ Lý Tự Trọng (thời kỳ Bác hoạt động ở Thái Lan, ông này thường mời Bác những món ǎn dân tộc mà Bác rất thích) ra Hà Nội, Bác cho mời vào nơi Bác, trong không khí hàn huyên nhớ thuở hàn vi, Bác mời ǎn những món ǎn xưa như để nhắc lúc nào cũng nhớ về nhau như đôi bạn tri kỷ. Hồi ở chiến khu, Bác tiếp anh hùng La Vǎn Cầu, khi anh qua một trận chíến đấu rất anh dũng. Đến bữa cơm Bác nói chân tình để anh ǎn được nhiều cơm: "Hôm nay Bác thết chú, chú ǎn đừng làm khách nhé, bởi toàn "cây nhà lá vườn" cả, này nhé rau xanh Bác trồng, gà Bác nuôi, trứng là trứng gà Bác nuôi đẻ đấy, chỉ có mǎng muối là phải mua thôi. Chú ǎn thật no đấy!". Hai Bác cháu chuyện trò vui vẻ bữa ǎn anh Cầu ǎn được nhiều hơn bình thường. Tối đó Bác lưu anh Cầu ở lại ngủ qua đêm. Bác quý, Bác xem anh như con đẻ. Sau này về Hà Nội, tại cuộc họp Quốc hội, khi nghỉ giải lao, Bác gọi anh Cầu lại hỏi thǎm sức khoẻ, gia đình. Biết anh Cầu đã có vợ, con. Vợ anh, là chiến sỹ thi đua ngành công nghiệp giấy Trần Thị Thanh, Bác hỏi anh Cầu: "Thế cô ấy có lớn lên được tý nào không?". Hôm sau Bác mời cả nhà anh vào thǎm Bác tại Phủ Chủ tịch. Bác ân cần, chu đáo quan tâm đến con người là vậy, nhớ lần Bác đến thǎm bệnh viện khu tự trị Việt Bắc, Bác hỏi người phụ trách trong bệnh viện có bệnh nhân nào nặng nhất, cho Bác đến thǎm. Bác được dẫn đến chỗ chị cấp dưỡng khu gang thép Thái Nguyên, chị bị bỏng đến 80%, lúc đó chị đã qua cơn nguy kịch nhưng vẫn nằm bất động, Bác đến gần giường ân cần hỏi:"Cháu có đau lắm không?". Biết bệnh tình nguy kịch Bác rất lo cho tính mạng chị Bác dặn y bác sĩ: "Bệnh nặng thế liệu có chữa khỏi không? Các cô các chú cố gắng cứu lấy chị". Bác đến thǎm như thêm sức mạnh kỳ diệu cho chị và cả tập thể y bác sĩ, họ đã quyết tâm vượt qua được cơn bệnh hiểm nghèo.Những chuyến đi xuống thǎm các cơ sở sản xuất, thǎm nhân dân, mặc dầu đã có chương trình bố trí cho Bác đi, nhưng Bác vẫn có cách tiếp xúc trực tiếp với dân. Một lần nhân đầu nǎm mới Bác lên Vĩnh Phú thǎm và chúc tết các đồng chí cấp tỉnh đã chuẩn bị một

số nơi cho Bác đến. Bác biết, nên Bác chưa đến những nơi đó trước. Bác vào thǎm một gia đình của một đồng chí đang chiến đấu ở miền Nam, Bác ân cần hỏi thǎm sức khoẻ gia đình việc học hành của các cháu và sự quan tâm của địa phương ra sao, chị chủ nhà nói những gì có thật, khác xa sự báo cáo của địa phương, Bác không vui, Bác phê bình thế là không tốt với dân, lừa dối cấp trên. Khi tập trung nói chuyện với nhân dân các đồng chí cán bộ thì ngồi gần Bác, còn các cụ thì ngồi phía sau chỗ xa Bác đứng. Bác trực tiếp sắp xếp lại, Bác mời các cụ lên ngồi gần Bác, rồi Bác mới bắt đầu nói chuyện. Bác rất biết những nhược điểm của một số cán bộ thường mắc bệnh hình thức chủ nghĩa, cho nên khi đi đâu thǎm dân, Bác dặn các đồng chí phục vụ, bảo vệ không được cho cán bộ địa phương biết trước. Một lần Bác xuống thǎm nhà trẻ, Bác đi vào cổng giữa trời nắng chang chang đã thấy hai dãy hàng các cháu, quần áo ǎn mặc chỉnh tề, cháu nào mặt cũng đỏ gay vì nắng. Thấy Bác các cháu rất vui, Bác cùng hoà trong niềm vui với trẻ thơ như để bớt đi nỗi vất vả mà các cháu phải chịu đựng khi chờ đợi Bác. Nhưng khi về Bác phê bình, vì sao "để lộ ra" , vì sao bắt các cháu đứng giữa nắng. Tết nǎm 1962, theo kế hoạch ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội bố trí Bác đi chúc tết một số gia đình, Bác dặn đồng chí phục vụ ngoài chương trình của thành phố bố trí cho Bác đi thǎm một số gia đình còn khó khǎn. Sau khi "hoàn thành" chương trình của thành phố, Bác vào phố hàng Hàng Chĩnh đến thǎm nhà chị Tín. Chị đi gánh nước thuê ra đến ngõ thì gặp Bác, cảm động quá đôi quai thùng rơi xuống đất. Bác đến gần ôn tồn động viên chị, hỏi thǎm sức khoẻ gia đình và học hành của các cháu. Được biết chồng mất sớm, một mình nuôi bốn con còn nhỏ, thiếu ǎn, thiếu mặc nên các cháu thất học. Nhìn trong nhà thấy không có gì cả, Bác hỏi; "Thế mẹ con cô ǎn tết thế nào?". Chị trả lời trong nước mắt: "Dạ thưa Bác không có gì để đón tết cả, cả nhà chỉ còn một lon gạo để dành sáng mồng một tết nấu cháo cho các cháu ǎn, nên tuy nǎm hết tết đến cũng phải tranh thủ đi gánh nước thuê, kiếm ít tiền mua cái gì cho các cháu". Nghe vậy, Bác rất cảm động. Bác tặng quà cho các cháu và dặn: "Cố gắng sǎn sóc các cháu", Chị cảm động nói: "Không ngờ như gia đình cháu mà Bác cũng đến thǎm". Bác ân cần bảo: "Bác không đến thǎm những gia đình như gia đình cô thì thǎm ai". Khi xe đưa Bác về đến nhà thì gia đình một số đồng chí cán bộ vui mừng ra đón Bác, chúc tết Bác. Nhưng tất cả bỗng im lặng và đi chậm lại khi thấy Bác đi chúc Tết về mà không vui, vào nhà, Bác kể chuyện đến thǎm gia đình chị Tín cho mọi người nghe, và Bác nhấn mạnh: "Ta có chính quyền trong tay nhưng không sát dân, cho nên phục vụ nhân dân chưa tốt". Sáng hôm sau mặc dầu mồng một Tết Bác cho gọi đồng chí Chủ tịch ủy ban Nhân dân thành phố lên và nói lại chuyện trên, Người nghiêm khắc nhắc nhở chung cán bộ thành phố chưa sâu sát dân, chưa biết cách tổ chức vận động nhân dân "lá lành đùm lá rách" có nhiều gia đình Tết đến mà không có Tết, đó là lỗi của cán bộ không gần dân, ta có chính quyền nhưng chưa gần và hiểu dân". Bác đến thǎm dân, Bác tới những nơi cán bộ ít hoặc không bước chân đến, nơi đó người dân phải chịu đựng nỗi vất vả, gian nan.

Nhớ lần Bác đến thǎm một cơ quan Bác đi thẳng vào nhà ǎn, Bác bước xuống chỗ nhớp nháp, trơn, đồng chí cán bộ lãnh đạo cơ quan vội thưa Bác là chỗ đó bẩn, dễ ngã,

đồng chí mời Bác đi hướng khác, nhưng Bác không nghe, Bác nói: "Bác đi lối này để chú biết lần sau dọn cho sạch sẽ". Vào nhà ǎn Bác xem kỹ tường, trần nhà, nền nhà bàn ǎn, Bác chỉ vào chỗ ruồi đang bay, Bác bảo: Hình như có tiếng vè vè của máy bay "trực thǎng". Bác phê bình, đại ý "hồi xưa thằng Tây nó to, ác như thế, nó có súng to súng nhỏ mà ta còn đánh được, thế mà bây giờ con ruồi nó không có súng, nó không to thế mà các cô các chú không đoàn kết tiêu diệt được nó". Bác phê bình là vì sức khoẻ của anh em cán bộ, Bác mong mọi người cùng nhau tiến bộ không chỉ ở những công việc lớn lao mà ngay cả những việc tưởng tầm thường nhỏ nhặt. Có lần đến thǎm đơn vị, thấy một đồng chí có vết bẩn ở mặt mà đồng chí không chú ý nên không biết. Bác đến gần ân cần lấy khǎn mặt của mình lau cho đồng chí và phê bình nhẹ:"Lần sau chú phải chú ý hơn". Tết nǎm 1956, Bác đến thǎm trường thương binh hỏng mắt, Bác vui vẻ nói chuyện với anh em thương binh. Bác rất khen ngợi tinh thần khắc phục khó khǎn, bệnh tật, luôn cố gắng phấn đấu vươn lên Bác rất vui lòng khi được biết số tiền Bác tặng đã được dùng vào trồng rau, nuôi lợn cải thiện bữa ǎn cho anh em. Bác ân cần động viên: Các chú được học chữ, học nghề sau này phục vụ nhân dân được tốt hơn, như vậy các chú "tàn nhưng không phế". Thời kỳ kháng chiến ở chiến khu, khi nghe tin đôi trai gái Bác quen biết, tổ chức lễ cưới Bác bận không đến được, Bác gửi thiếp chúc mừng:

"Chúc Lương Thuận đoàn kết chặt chẽ. Ký tên Hồ Chí Minh" Lần sau nhân dịp đi công tác Bác ghé thǎm nhà, anh chị là cán bộ tài chính nhưng kinh tế cũng như mọi gia đình khác vào nhà không có bàn ghế ngồi Bác bảo ra ngồi ngoài thềm cho thoáng mát, Bác ngồi xuống vỉa hè bảo chị Thuận và mọi người cùng ngồi cạnh, Bác hỏi thǎm mọi mặt, Bác khuyên nên tích cực tǎng gia sản xuất, thấy cháu bé con chị ngồi trong xe cút kít làm bằng gỗ, Bác bế cháu âu yếm, dỗ dành bón từng thìa cơm cho cháu. Nhớ hồi ở Pác Bó, khi vào bản thǎm bà con thấy các cháu nhỏ nghịch dơ bẩn không tắm giặt, Bác bảo các đồng chí cùng đi tìm một cây gỗ lớn về làm một cái máng đựng nước rồi tắm cho các cháu. Thời kỳ Bác ở Trung Quốc, có lần đến tuyên truyền cách mạng trong anh em công nhân đường sắt Bác ở tạm trong một cơ sở tin cậy, thời gian rỗi Bác thường tham gia lao động giúp gia đình, như chặt củi, hái rau, nấu cơm. Thấy chị chủ nhà vất vả, lo toan mọi việc, Bác không nề hà giúp chị trong những công việc của người phụ nữ. Gia đình có cháu bé hay khóc, Bác dỗ rất khéo tắm giặt sạch sẽ, khéo vỗ về nên khi Bác cho ǎn cháu thường ǎn được nhiều, từ đó, cháu ít khóc, chóng lớn, không những chỉ chủ nhà mà mọi người ai cũng khen và phục tài cúa Bác. Có lần Bác gặp gỡ các anh hùng lực lượng vũ trang, thấy cô gái nhỏ bé, Bác đến gần và hỏi:

"Cháu là gì", cô gái thưa với Bác: "Dạ thưa Bác, cháu là dân quân" Bác vui vẻ nói: "Là dân quân, cháu vừa là dân, vừa là quân, hai nhiệm vụ nặng nề cháu có vất vả lắm không?". Thường thường trước ngày duyệt binh kỷ niệm Quốc khánh 2-9, Bác đến thǎm các lực lượng tham gia duyệt binh thử, Bác nói đại ý, hôm nay Bác đến để các cô các chú nhìn thấy Bác trước, ngày mai tại quảng trường Ba Đình trước toàn dân và khách quốc tế các cô các chú lo làm cho đúng động tác, khỏi ảnh hưởng đến quân thể và uy tín của các lực lượng vũ trang.

Bác Hồ gần với dân là vậy. Không chỉ xuất phát từ nỗi lo toan của vị Chủ tịch nước với dân mà còn là tình thương yêu con người với con người. Bác lo lắng giáo dục đội ngũ cán bộ vừa có tài nhưng phải có đức. Bác theo dõi sự tiến bộ của cán bộ từ học hành, công tác đến các mối quan hệ với dân. Bác thương yêu giúp đỡ những người yếu, những hoàn cảnh khó. Nỗi lo, tình thương ở Bác đã trở thành tâm linh của một vĩ nhân, một bậc thánh hiền.

CHỦ TỊCH NƯỚC CŨNG KHÔNG CÓ ĐẶC QUYỀN

Đầu năm 1946, cả nước tiến hành cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên. Gần đến ngày bầu cử, tại Hà Nội - là nơi Bác Hồ ra ứng cử, có 118 vị Chủ tịch Ủy ban nhân dân và đại biểu các giới hàng xã, đã công bố một bản đề nghị: “Yêu cầu cụ Hồ Chí Minh không phải ứng cử trong cuộc tổng tuyển cử sắp tới. Chúng tôi suy tôn và ủng hộ vĩnh viễn cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Từ nhiều nơi trong cả nước, đồng bào viết thư đề nghị Bác không cần ra ứng cử ở một tỉnh nào, nhân dân cả nước đồng thanh nhất trí ứng cử Bác vào Quốc hội.

Trước tình cảm tin yêu đó của nhân dân, Bác viết một bức thư ngắn cảm tạ đồng bào và đề nghị đồng bào để Bác thực hiện quyền công dân của mình “Tôi là một công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nên tôi không thể vượt khỏi thể lệ của Tổng tuyển cử đã định. Tôi ra ứng cử ở Hà Nội nên cũng không thể ra ứng cử ở nơi nào nữa. Xin cảm tạ đồng bào đã có lòng yêu tôi và yêu cầu toàn thể đồng bào hãy làm tròn nhiệm vụ người công dân trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới”.

YÊU AI YÊU BẰNG CẢ TẤM LÒNGLần Bác sang thăm nước Cộng hòa Dân chủ Đức, các đồng chí ở Bộ Y tế nước

bạn mời Bác đi thăm một số bệnh viện, trường Đại học Y khoa và cơ sở nghiên cứu khoa học ở Béclin.

Đến một phòng học, các bác sĩ giới thiệu với Hồ Chủ tịch mô hình một người thủy tinh trong suốt, có đầy đủ các bộ phận cơ thể và có thể lấy ra, đặt vào phục vụ cho việc nghiên cứu bài giải phẫu.

Khi cầm que chỉ vào trái tim, đồng chí bác sĩ nước bạn nói vui:- Trái tim này còn chứa đựng bao nhiêu tình yêu...Bác cười nói với đồng chí người Đức:- Ở nước chúng tôi, người ta không nói yêu nhau bằng trái tim đâu. Đố đồng chí biết đấy!Bác sĩ xin chịu.Cầm lấy que chỉ, Bác khoanh một vòng tròn vào bụng người mẫu thủy tinh, rồi nói:- Chúng tôi yêu ai yêu bằng cả tấm lòng này này.Mọi người cười rộ lên...Theo: Minh Anh

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC PHỤC VỤ AI?

Một ngày trong năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm công nhân, cán bộ nhà máy Dệt Nam Định. Mọi người trong các phân xưởng đều làm việc. Chủ tịch đi qua một phòng thấy có ba người ngồi. Bác hỏi.

- Các cô, chú làm gì đấy?Anh Đoàn Duy Bảo đứng lên thưa:- Dạ, thưa Bác, đây là bàn tiết kiệm của ngân hàng đặt tại nhà máy.Bác cầm một quyển sổ lên, hỏi.- Nhà máy có bao nhiêu người gửi tiền tiết kiệm?Anh Bảo thưa:- Dạ, có tám mươi phần trăm người gửi ạ.Bác gặng:- Thế còn hai mươi phần trăm nữa thì sao?Anh Bảo báo cáo:- Dạ, do hoàn cảnh gia đình khó khăn.Thấy cán bộ ngân hàng trả lời chưa đúng vào câu hỏi có lẽ khó, Bác tìm hiểu sang vấn đề khác.- Mỗi lần được gửi bao nhiêu?- Dạ, gửi từ một đồng trở lên ạ.Bác nói:- Thế Bác có một hào, có gửi được không?Tất cả, từ Giám đốc nhà máy, Bí thư, cán bộ ngân hàng, quỹ tiết kiệm đều không trả lời được...

Cho đến năm 1996, nhân dịp kỷ niệm “45 năm mùa sen nở” của ngành Ngân hàng, anh Bảo bây giờ đã thành ông cụ Bảo mới nói với cán bộ ngân hàng trẻ rằng:“Mãi về sau tôi mới hiểu ra rằng Ngân hàng nhà nước ta là ngân hàng nhà nước của Dân, do Dân, vì Dân, nên trước hết là phải giúp đỡ Dân, giúp đỡ người nghèo, lo cho người nghèo có vốn để sống, để làm kinh tế, để có tiền gửi Ngân hàng, để nuôi Ngân hàng và phải tạo mọi điều kiện có thể để thu hút được nhiều tiền tiết kiệm, chẳng hạn, sẵn sàng nhận gửi, dù là một lần nhận gửi với số tiền rất ít...”.Một câu hỏi mà hơn một phần tư thế kỷ tự tôi mới tìm ra được ý nghĩa của câu trả lời.Theo cuốn: Bác Hồ - con người và phong cách.

CHÚC ÔNG RỒI LẠI CHÚC BÀCuối năm 1945, chị Thường được cấp trên giao nhiệm vụ nấu cơm phục vụ Bác

tại một địa điểm bí mật. Tuy thỉnh thoảng mới qua lại cơ quan này, nhưng Bác rất quan tâm đến cuộc sống và tiến bộ của từng người. Bấy giờ đồng chí Lý là một cán bộ bảo vệ của Bác biết chị Thường, ban đầu chỉ là quen nhau trong công tác, sau lại “để ý” tới chị. Đất nước mới được độc lập, thù trong giặc ngoài còn đầy rẫy, đồng chí Lý ngại không

dám nói ra với bạn bè, chỉ tâm sự riêng với anh Cả. Một hôm, đồng chí Nguyễn Lương Bằng hỏi chị Thường:- “Cô đã đính hôn với ai chưa?”Chị Thường thẹn đỏ mặt trả lời:- Chưa ạ!- Ở đây có người yêu thương cô, Bác đã biết. Bác có ý định tác thành cho hai người, ý cô thế nào? Chị Thường xin khất và sẽ trả lời sau, tuy trong bụng rất vui.Một tuần lễ trôi qua. Vào một buổi tối, Bác cho gọi chị Thường và đồng chí Lý. Bác hỏi thăm tỉ mỉ quê quán, gia đình chị Thường rồi hỏi về việc riêng tư. Chị Thường ấp a ấp úng thưa:- Dạ thưa Cụ. Con...- Để Bác làm mối nhé!Đầu tháng 1-1946, Bác, đồng chí Nguyễn Lương Bằng và một số cán bộ khác tới dự đám cưới của hai anh chị Thường - Lý. Một bữa tiệc thân mật được dọn ra để chúc mừng hạnh phúc cô dâu, chú rể. Mọi người kính mời Bác làm chủ hôn.Bác bảo mọi người nâng cốc và đọc hai câu thơ:“Chúc ông rồi lại chúc bà,Con cháu đầy nhà cả gái lẫn trai”.Hai anh chị đứng lên cám ơn Bác, hứa với Bác vui duyên mới không quên nhiệm vụ.

TẤM LÒNG CỦA BÁC

Trong những ngày ra thăm miền Bắc, đoàn anh hùng, dũng sĩ miền Nam được Bác chăm lo, ân cần như cha đối với con. Bác bảo tôi (vì tôi được phụ trách theo dõi sức khỏe và đời sống của đoàn):

- Cô Bi1 phải chăm sóc các cô, các chú ấy thật tốt, đừng để các cô các chú ấy ốm.Một bữa, đồng chí Huỳnh Văn Đảnh bị sốt rét, Bác biết được, gọi tôi lên hỏi:

- Chú Đảnh bị sốt ra sao?Tôi báo cáo tình hình của đồng chí Đảnh cho Bác. Bác nhắc:

- Cô phải cho các cô, các chú ấy ăn uống đầy đủ, chú ý các món ăn của địa phương để các cô, các chú ấy ăn được nhiều, sức khỏe mới tốt.Một hôm khác, Bác chỉ vào Trần Dưỡng và hỏi tôi:

- Cô Bi, tại sao chú Dưỡng hơi gầy?Bác nghe anh hùng Vai kể chuyện quê hương miền núi nghèo khổ của mình. Bác cảm động nói:

- Thống nhất Bác vô Nam, thế nào cũng về thăm quê hương cháu Vai.Trong những ngày sống bên Bác, tôi càng thấm thía hơn tình cảm của Bác đối với đồng bào miền Nam. Chị Tạ Thị Kiều nói với tôi:

- Càng được gần Bác, càng thấy Bác thương yêu dân miền Nam ta quá chị à.Nói xong, hai chị em lại khóc vì sung sướng và cảm động trước tấm lòng của Bác Hồ.

Theo: Hiền Minh

BÁC HỒ TẮM CHO TRẺ Ở VIỆT BẮCHơn một năm xa Tổ quốc, trải qua ngót ba chục nhà tù của Tưởng Giới Thạch

gần khắp Quảng Tây, Bác Hồ trở về Pắc Bó cuối năm 1944.Nhìn thấy việc giữ vệ sinh nước ăn và nơi ở chưa được dân ở đây chú ý, Bác bảo chúng tôi cùng Bác bắt tay dọn dẹp. Một buổi sáng Bác bảo các cháu xếp hàng đi ra phía khe nước.

Người tự tay cởi quần áo cho các cháu bé, lần lượt tắm rửa, kỳ cọ cho từng cháu. Chúng vừa tắm, vừa đùa, bắn cả nước vào mặt Bác.

Trong số bọn trẻ được Bác tắm cho hôm đó có cháu Thân (con trai tôi) chốc đầu, tóc dính bết. Tắm gội xong, Bác còn làm thuốc dịt cho. Thuốc xót, thấy cháu kêu, Bác Hồ dỗ dành ngọt ngào:

- Không sao, chỉ một lát là hết xót ngay thôi cháu ạ.Rồi Bác nói với đám thanh niên chúng tôi đứng quanh đó:

- Các cô, các chú, vợ chồng còn trẻ phải giữ gìn quanh năm sạch sẽ cho con cái, bệnh ghẻ lây nhanh tắm đấy, thật khổ cho cháu tôi.

Chúng tôi im lặng, cảm động. Trông thấy mấy cháu mặt quần áo bẩn và rách, Bác không vui:

Các cháu này con cô chú nào đây. Lấy áo sạch thay cho trẻ, còn mang quần áo bẩn đi giặt, chỗ nào rách thì khâu lại.Bà cố tôi gần một trăm tuổi, nghe vậy xuýt xoa thán phục, nói:

- Ông già này là con người quý giá lắm đấy.Rồi bà cố bảo bố tôi bưng một bát cháo có đánh trứng gà lại mời Bác Hồ. Bác tỏ vẻ không bằng lòng:

- Các đồng chí làm cách mạng, tôi cũng làm cách mạng, tại sao tôi được ăn đặc biệt hơn các đồng chí?Và Người đứng dậy bê bát cháo trứng gà mời cố tôi ăn và nói:

- Đây mới là người cần được đặc biệt bồi dưỡng. Bà đã sống gần trăm tuổi rồi, khổ cực nhiều, cần ăn cho khỏe để sống đến ngày đất nước độc lập, vui hưởng thái bình.Theo cuốn: Bác Hồ với thiếu nhi và phụ nữ.

BÁC HỒ QUAN TÂM ĐẾN NỮ PHÓNG VIÊN

Trong Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ ba, tôi là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam được vào Phủ Chủ tịch chụp ảnh, đưa tin và viết về cuộc gặp gỡ giữa Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ trong và ngoài nước.

Đại biểu tỉnh nào cũng muốn chụp ảnh chung với Bác, nhưng Bác dành ưu tiên cho các đại biểu miền núi và đại biểu quốc tế. Vừa lúc Bác đang cầm điếu thuốc chưa kịp hút thì các chị đại biểu dân tộc vừa tập hợp nhau, quần áo đủ màu sắc xin chụp ảnh chung với Bác.

Tôi sung sướng được bấm một “Pô” ảnh chụp Bác đang đứng nói chuyện với các chị.

Riêng phần mình, tôi vẫn thầm mong được chụp một ảnh chân dung Bác đứng một mình.

Các chị em đại biểu ra về, tôi tần ngần mãi giữa vườn cây. Tiễn đoàn đại biểu cuối cùng xong, Bác quay gót lại, bước chân lên mấy bậc cầu thang trước Phủ Chủ tịch.Tôi vội giơ chiếc máy ảnh Pralike, nhưng chưa kịp bấm thì Bác đã bước nhanh lên thềm. Tôi đang loay hoay với chiếc máy ảnh chưa nghĩ ra cách nào để chụp được ảnh Bác, thì Bác trông thấy, Bác hiểu ý, mỉm cười đứng lại, trong vài giây kịp cho tôi bấm “tách”.

PHẢI BẢO VỆ TỪNG CÀNH CÂY

Hôm ấy, tôi có nhiệm vụ mắc đường dây điện thoại qua vườn Phủ Chủ tịch. Tôi đang trèo lên một cây ở ngay cạnh đường thì nghe có tiếng chân người bước tới. Tôi nhìn về phía đó thì thấy Bác đi tới. Tôi loay hoay định tụt xuống thì Bác đã giơ tay ra hiệu cho tôi dừng lại, Bác hỏi:

- Cẩn thận kẻo ngã. Chú trèo cây làm gì?- Thưa Bác, cháu mắc dây điện thoại ạ!Trong lúc ấy, tay tôi vít chặt làm gẫy một cành cây nhỏ. Tôi giật mình nhìn Bác,

lo lắng. Bác không nói gì chỉ chú ý xem từng động tác ra dây, mắc dây vào các cành cây của tôi. Sau đó, Bác chỉ vào một cành cây to ở cạnh ngay chỗ tôi, nói:- Sao chú không mắc dây vào cành kia, vừa to vừa chắc chắn hơn. Các chú mắc dây cần phải chú ý bảo vệ từng cành cây nhỏ, nếu không làm gì có cây to, cành to mà mắc dây.Nói xong, Bác đi vào nhà làm việc. Tôi nhìn theo Bác cho đến khi Bác vào hẳn trong nhà. Nhìn vào cành cây vừa gãy, nhìn vào đường dây đang mắc, tôi càng thấy thấm thía lời dạy của Bác.

Về sau, cứ mỗi lần đi mắc dây qua những hàng cây, tôi đều thận trọng nâng niu từng cành con, chồi nhỏ.

NHỮNG ĐÊM GIAO THỪA BÁC ĐẾN VỚI NGƯỜI NGHÈO 

Xuân Tân Tỵ 1941, Bác mới được đặt chân trở về giữa lòng Tổ quốc thân yêu sau đúng 30 năm trời ra đi tìm đường cứu nước (1911 - 1941). Hành trang theo Bác trở về vẻn vẹn chỉ có một chiếc va-ly xách tay bằng mây, trong đựng hai bộ quần áo đã cũ và

tập tài liệu "Con đường giải phóng” tập hợp những bài giảng trong lớp huấn luyện ở Nậm Quang (Quảng Tây, Trung Quốc) do Bác phụ trách vừa mới kết thúc trước Tết mấy hôm.  Mùa xuân năm ấy, từ hang Pắc Bó đã ra đời một bài thơ xuân tuyệt đẹp của Bác Hồ: "Non xa xa, nước xa xaNào phải thênh thang mới gọ i làĐây suối Lênin, kia núi MácHai tay xây dựng một sơn hà ".  Chỉ hơn bốn năm sau, ngày 02/09/1945, sơn hà của Tổ quốc đã được thu về một mối, từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau. Hồ Chí Minh trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và mùa xuân độc lập đầu tiên, Xuân Bính Tuất năm 1946 đã trở về trên toàn cõi đất nước với một sắc màu khác lạ lẫm gợi nhớ đến một thời Nghiêu Thuấn xa xưa. Vào thời khắc mọi gia đình quây quần bên nhau chuẩn bị đón giao thừa thì vị Chủ tịch nước xắn quần, bước thấp, bước cao đến các ngõ hẻm ở phố Sinh Từ, phố Hàng Lọng... để được chính mắt nhìn thấy cảnh Tết vừa, Tết nghèo của bà con lao động Hà Nội mới vừa thoát khỏi ách thực dân phong kiến.  Chính trong cuộc "vi hành" đêm Ba mươi Tết của mùa Xuân độc lập đầu tiên đó, Bác Hồ đã chứng kiến cảnh gia đình một người đạp xích lô "Tết mà không có Tết" ngoài một nén hương đang cháy dở trên bàn, còn chủ nhà thì đang đắp chiếu nằm mê mệt vì ốm. Bác đã xúc động lấy khăn lau nước mắt, lặng lẽ bước ra khỏi nhà, bảo đồng chí thư ký ghi lạ i địa chỉ để hôm sau báo cho đồng chí Chủ tịch Hà Nội biết.  Cũng đêm Ba mươi Tết Bính Tuất đó, đúng giờ giao thừa, khi Đài Tiếng nói Việt Nam, truyền hình khắp đất nước lời chúc mừng năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì chính Người lại đang vui Xuân cùng nhân dân ở đền Ngọc Sơn, trong vai một cụ già cùng cháu đi hái lộc.  Lần đầu tiên nhân dân Hà Nội, nhân dân cả nước, được hưởng một mùa Xuân mới mẻ, giao thừa nghe đọc thư chúc Tết của Bác Hồ :             "Hỡi đồng bào cả nước!            Hôm nay là mùng một Tết năm Bính Tuất, ngày Tết đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tôi thay mặt Chính phủ chúc đồng bào năm mới muôn sự tốt lành".  Cuối thư là một bài thơ ngắn: "Trong năm Bính Tuất mớiMuôn việc đều tiến tớiKiến quốc chóng thành côngKháng chiến mau thắng lợi".  Kể từ mùa Xuân đầu tiên đó, suốt 24 năm làm Chủ tịch nước, mỗi lần Tết đến, Xuân về, Bác lại nghĩ đến dân, lo sao cho dân có một mùa xuân ấm no, hạnh phúc. Thường thì trước Tết ba tháng, Bác đã nhắc cơ quan, các ngành chuẩn bị Tết cho dân. Riêng Bác cũng tự mình chuẩn bị sớm ba việc. Tìm ý thơ cho bài thơ mừng năm mới,

nhắc văn phòng chuẩn bị thiếp "Chúc Mừng Năm Mới" để kịp gởi đến những nơi xa xôi nhất, kể cả bộ đội ở các vùng rừng núi, hải đảo xa xôi và cán bộ công tác ở nước ngoài.  Và cuối cùng là một chương trình đi thăm dân không thể thiếu đối với Bác một chương trình riêng mà chỉ Bác và các đồng chí cảnh vệ biết.  Tối Ba mươi Tết năm 1960, Bác đến thăm gia đình mẹ con chị Tín, một lao động nghèo ở phố Hàng Chĩnh Hà Nội. Chiều mùng hai Tết 1961 , Bác đến Văn Miếu dự buổi bình thơ xuân của các cụ. Mùng hai Tết năm 1962, Bác đến thăm các cháu học sinh miền Nam ở Hải Phòng. Chiều 29 Tết năm 1963, Bác cải trang thành một cụ già theo cháu đi chợ Hoa và chợ Đồng Xuân… Tất cả đều bí mật bất ngờ và do đó bao giờ cũng tạo hiệu quả lớn.  Như Tết năm 1960, nếu Bác chỉ đến thăm các gia đình theo chương trình của các cơ quan đã bố trí thì làm sao Chủ tịch nước biết dược đến giờ giao thừa rồi mà chị Tín còn phải gánh nước thuê đổi gạo để sáng mai mùng một Tết có cơm ăn cho bốn đứa con của mình. Gặp Bác, chị Tín xúc động để rơi cả đôi thùng gánh nước xuống đất, run run cầm lấy bàn tay của Bác: - Cháu không ngờ lại được Bác đến thăm… Chỉ nói được vậy, chị đã òa lên khóc nức nở. Vị Chủ tịch nước đã an ủi chị: - Bác không đến thăm những gia đình như cô thì thăm ai...  Và Bác đã vào nhà thăm hỏi khá lâu năm mẹ con chị Tín. Gọi là nhà nhưng đâu có phải là nhà mà là một cái chái như túp lều. Chồng chị Tín là công nhân khuân vác ở bến Phà Đen đã mất cách đó bốn năm, còn chị thì cho đến lúc này vẫn chưa có việc làm ổn định. Cảnh nghèo của gia đình đã phũ phàng hiện ra trước mắt Bác. Trên chiếc bàn gỗ mục chỉ có một nải chuối xanh và một nén hương. Bốn đứa nhỏ, đứa lớn nhất mới lên mười đang ngồi trên chiếc giường chia nhau một gói kẹo. Đúng là "Ba mươi Tết mà không có Tết". Cách đây 15 năm. Tết độc lập đầu tiên, Bác đã đau lòng chứng kiến cảnh một gia đình "Tết mà không có Tết" ở ngõ hẻm Sinh Từ. Đó là khi đất nước mới thoát khỏi vòng nô lệ . Còn bây giờ, kháng chiến đã thắng lợi, hòa bình đã sáu năm, mà lại còn cái cảnh này sao? Không phải ở đâu xa mà ở ngay thủ đô Hà Nội… Vậy còn bao nhiêu gia đình như thế này ở khắp mọi miền đất nước? Cứ ngồi nghe báo cáo thì đâu cũng là ấm no, tươi vui…  Đêm ấy, trên đường về, ngồi trên xe, Bác Hồ trầm ngâm suy nghĩ. Vẻ đâm chiêu thoáng hiện trên gương mặt của Người. Bác đã từng tâm sự với các đồng chí phục vụ: "Một người dân chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc, các cháu chưa được học hành mọi người còn khổ thì Bác không ăn ngon, ngủ không yên".  Về đến nhà, các đồng chí Bộ Chính trị đang chờ Bác để chúc mừng năm mới. Mọi người băn khoăn khi thấy Bác không vui. Bác kể laị hoàn cảnh gia đình chị Tín cho mọi người nghe. Cuối câu chuyện Bác nói: "Ta có chính quyền trong tay, nhưng chính quyền đó chưa thật sự là do dân, vì dân. Một số lãnh đạo các địa phương còn quan liêu nặng về hình thức. Họ không chịu đi sâu, đi sát quần chúng, nên phục vụ quần chúng

chưa tốt. Nếu chúng ta chỉ nghe báo cáo của họ thì sẽ không bao giờ nắm được chính xác tình hình để có chủ trương, nghị quyết đúng đắn. Đảng quan liêu, chính quyền quan liêu, thực sự là một nguy cơ đối với đất nước ta?".

BÁC HỒ VỚI CHIẾN SĨ NGƯỜI DÂN TỘCBác của chúng ta yêu quý mọi chiến sĩ. Đối với các chiến sĩ gái, chiến sĩ người

dân tộc, Bác còn chăm sóc hơn vì đây là những người làm cách mạng khó khăn hơn chiến sĩ trai, chiến sĩ người Kinh nhiều.

Anh hùng La Văn Cầu, dân tộc Tày mãi mãi không quên bữa cơm của Bác “đãi” với rau, thịt gà... những “sản phẩm” do chính Bác nuôi, trồng. Bác hỏi thăm mẹ Cầu, gửi quà cho mẹ, dặn cán bộ tạo mọi điều kiện để Cầu về thăm mẹ, giúp đỡ gia đình.Nhiều chiến sĩ người dân tộc đã lấy họ Hồ cho mình như Hồ Vai, Hồ Can Lịch, Hồ Văn Bột...

Mùa thu năm 1964, chị Choáng Kring Thêm – chiến sĩ người dân tộc Cà Tu, tham gia đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được ra miền Bắc, gặp Bác Hồ. Chị Thêm kể:

“Đoàn chúng tôi vừa bước xuống xe thì đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân.Bác ôm hôn thắm thiết các thành viên trong đoàn. Chúng tôi theo Bác đến dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa và nắng. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc, Bác nói:

- Cháu đúng là con gái dân tộc Cà Tu giữ được tính chất của dân tộc mình.Chị Ngân; chị Cao gặp Bác, mừng quá khóc lên. Bác dịu dàng bảo:

- Các cháu gái đừng khóc. Gặp Bác phải vui chứ. Hai cháu hãy kể cho Bác nghe bà con ta ở tiền tuyến đánh Mỹ như thế nào?Tôi thưa:

- Thưa Bác, cháu thương, cháu nhớ Bác. Tất cả đồng bào dân tộc miền Nam đều thương nhớ Bác.

Sau đó tôi kể Bác nghe một số chuyện chiến đấu của mẹ Giớn, anh Bên, em Thơ...Bác nói:

- Cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ta là toàn dân, toàn diện. Trẻ, già, gái, trai, Kinh, Cà Tu, Cà Tang và đồng bào các dân tộc khác đều sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi”.Tôi hiểu đó là Bác dành tình thương mênh mông của Bác cho tất cả chúng ta.Theo cuốn: Tấm lòng của Bác

TẤM LÒNG CỦA BÁC VỚI THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ

Ngày 10-3-1946 báo Cứu quốc đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam bộ. Trong thư có đoạn Người viết: “Tôi xin kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng”.

Tiếp sau đó, trong Thư gửi đồng bào miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại viết: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam đã vì Tổ quốc mà hy sinh anh dũng”.

Hơn nửa tháng sau khi đi Pháp về, ngày 7-11-1946, Người đã đến dự lễ “Mùa đông binh sĩ” do Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam tổ chức tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội, vận động đồng bào ở hậu phương đóng góp tiền của để may áo trấn thủ cho chiến sĩ, thương binh, bệnh binh.

Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp đã thu hút nhiều thanh niên nam nữ tham gia quân đội. Một số chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, một số nữa là thương binh, bệnh binh, đời sống gặp nhiều khó khăn, mặc dầu anh chị em tình nguyện chịu đựng không kêu ca, phàn nàn.

Trước tình hình ấy, tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ chọn một ngày nào đó trong năm làm “Ngày thương binh” dể đồng bào ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh. Có lẽ - trừ những ngày kỷ niệm quốc tế - “Ngày thương binh” là ngày kỷ niệm trong nước đầu tiên được tổ chức.

Hưởng ứng và đáp lại tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một hội nghị trù bị đã khai mạc tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên gồm có một số đại biểu ở Trung ương, khu và tỉnh. Hội nghị nhất trí lấy ngày 27-7 hàng năm là ngày thương binh liệt sĩ và tổ chức ngay lần đầu trong năm 1947.

Báo Vệ quốc quân số 11, ra ngày 27-7-1947 đã đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thường trực Ban tổ chức “Ngày thương binh toàn quốc” Đầu thư Người viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù? Đó là những chiến sĩ mà nay một số đã thành ra thương binh”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích: “thương binh là người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đã chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.

Cuối thư, Người vận động đồng bào nhường cơm sẻ áo, giúp đỡ thương binh. Bản thân Người đã xung phong góp chiếc áo lụa, một tháng lương và tiền ăn một bữa của Người và của tất cả các nhân viên của Phủ Chủ tịch, tổng cộng là một ngàn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127 đồng) để tặng thương binh.

Năm sau, ngày 27-7-1948, trong một lá thư dài đầy tình thương yêu, Bác nói: “Nạn ngoại xâm như trận lụt to đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc, đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con, dân ta. Trong cơn nguy hiểm ấy, số

đông thanh niên yêu quý của nước ta quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào”.

Người xót xa viết: “Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Ngày nay, bố mẹ họ mất một người con yêu quý. Vợ trẻ trở nên bà góa. Con dại trở nên mồ côi. Trên bàn thờ gia đình thêm một linh bài tử sĩ. Tay chân tàn phế của thương binh sẽ không mọc lại được. Và những tử sĩ sẽ không thể tái sinh”.

CHÚ ĐỂ BÁC THUYẾT MINH CHO

Khi còn hoạt động ở chiến khu Việt Bắc, Bác thường xem phim cùng các đồng chí phục vụ trong cơ quan. Đó là những giờ phút Bác cháu thoải mái sau hàng tuần, hàng tháng làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn, căng thẳng.

Một lần, máy chiếu phim đã chạy đều đều, trên màn ảnh diễn ra những cảnh nối tiếp nhau, tiếng đối thoại của các nhân vật sôi nổi..., nhưng người xem không ai hiểu gì cả, vì đó là phim nước ngoài mà không có thuyết minh.

Như biết rõ yêu cầu mọi người, Bác hỏi đồng chí phụ trách chiếu phim:- Sao chú không thuyết minh cho mọi người nghe?Đồng chí phụ trách thưa với Bác là phim mới nhập về, không có bản thuyết minh

kèm. Nhưng vì thực hiện lịch chiếu phim do cơ quan quy định nên cứ thực hiện chương trình…

Với nụ cười đôn hậu, Bác nói:- Chú để Bác thuyết minh cho...Bác cầm micrô, tóm tắt đoạn phim vừa chiếu và trực tiếp thuyết minh hết bộ

phim. Mọi người càng thêm mến phục Bác.Hòa bình lập lại, cơ quan của Bác chuyển về Hà Nội. Lịch chiếu phim trong cơ

quan Bác vẫn được duy trì.Thường vào tối thứ 7, tại phòng lớn ngôi nhà Phủ Chủ tịch có chương trình chiếu

phim.Tối ấy, nghe có phim hay, người xem khá đông.Đúng giờ, Bác tới. Người ra hiệu cho mọi người ngừng vỗ tay rồi nhanh nhẹn

ngồi vào ghế. Một số cháu nhỏ tíu tít ngồi quanh Bác.Buổi chiếu phim: Hoàng tử Cóc bắt đầu. Mọi người trật tự theo dõi phim. Song

lần này, đồng chí thuyết minh chưa xem trước, nên nhiều đoạn lời thuyết minh và hình ảnh không ăn nhập với nhau. Người xem khó theo dõi. Có người xì xào, phàn nàn... Nhiều người quay lại chỗ đặt máy chiếu có ý chờ đợi...Hiểu rõ hoàn cảnh, Bác bảo đồng chí thuyết minh:

- Chú thuyết minh như vậy làm mất cả cái hay của bộ phim. Chú để Bác thuyết minh cho.

Nói rồi, Bác cầm micrô chăm chú theo dõi hình ảnh, lắng nghe đối thoại và thuyết minh trực tiếp bộ phim Pháp này. Mọi người chăm chú theo dõi. Có lúc Bác giải

thích thêm. Lời thuyết minh rõ ràng, ngắn gọn. Giọng Bác ấm áp gợi cảm... Người xem hướng cả lên màn ảnh.

Cảnh cung điện huy hoàng của nhà vua... Hoàng tử bắn cung để chọn vợ. Mũi tên trúng một con Cóc. Cóc nói tiếng người. Nàng Cóc yêu cầu hoàng tử đưa mình về Cung.

Hoàng tử buồn bã vì phải sống chung với nàng Cóc. Song có điều lạ là, từ khi chung phòng với nàng Cóc, hoàng tử được ăn những bữa ăn ngon hơn yến tiệc trước đây, nhà cửa luôn luôn ngăn nắp sạch, đẹp. Hoàng tử bí mật theo dõi. Cuối cùng, nàng Cóc hiện nguyên hình là một cô gái đẹp, duyên dáng. Từ đó, hai người sống cuộc đời hạnh phúc...

Phim kết thúc. Như thường lệ, mọi người hướng về Bác chờ đợi một lời, một ý của Bác, Bác hỏi mọi người:

- Phim có hay không?- Dạ, hay lắm ạ! Mọi người đồng thanh trả lời.

Bác lại hỏi:- Hay vì sao? Và không đợi câu trả lời, Bác giải thích luôn:

Hay vì có nội dung tốt. Câu chuyện răn mọi người muốn có lứa đôi hạnh phúc, thì đừng quá lệ thuộc vào hình thức bên ngoài; cần phải có cái đẹp bên trong, cái đẹp bản chất, về phẩm giá con người. Các tài tử đóng khéo, màu sắc đẹp, tình tiết hấp dẫn...Người xem hôm ấy hiểu thêm về nội dung phim, về Bác. Làm việc gì Bác cũng muốn đem lại điều bổ ích cho mọi người, phục vụ mọi người...Theo: Nguyên Lê

CHÚ LÀM NHƯ THẾ LÀ KHÔNG ĐƯỢCVào khoảng năm 1947 bác sĩ Chánh được giao nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe Bác

Hồ. Lần đầu tiên đến gặp Bác, bác sĩ thấy Bác đang nằm trên võng ở cửa đình Hồng Thái. Thấy bác sĩ đến, Bác ngồi dậy hỏi:- Chú đi đâu đấy?- Thưa Bác, cháu là bác sĩ được phân công sang phục vụ Bác.- Bác không ốm đâu. Chú xuống văn phòng, chỗ chú Phan Mỹ mà ở và chăm sóc sức khỏe cho các chú ở dưới đó…Ngày kháng chiến ở với Bác, đồng chí Chánh thấy Bác ít bị ốm đau. Lần Bác bị sốt rét, Bác mời bác sĩ Chánh lên thăm bệnh cho Bác. Khi thấy Bác bị sốt cao, bác sĩ đang tính xem nên dùng thuốc gì thì Bác đã bảo:- Bác “ra lệnh” cho chú chữa hai hôm là phải hết sốt. Bác sĩ Chánh lo quá. Bác sốt cao như thế chữa hai ngày thì khỏi hẳn làm sao được. Sau khi bác sĩ tiêm cho Bác, cơn sốt hạ dần... Bác cười nói:- Đấy, chú xem, Bác “ra lệnh” chữa hai ngày phải khỏi thế mà đúng như thế đấy!Một lần, nghe tin vợ bác sĩ đến công tác ở vùng gần đấy. Bác cử bác sĩ đi công tác đến vùng vợ bác sĩ đang làm việc, có ý cho 2 vợ chồng gặp nhau. Vì thời gian gấp, xong công việc bác sĩ về ngay, không ghé vào thăm vợ.

Khi về tới cơ quan, bác sĩ Chánh gặp Bác, chưa kịp báo cáo công việc thì Bác đã hỏi ngay:- Thím ấy có khỏe không?Khi biết bác sĩ Chánh không gặp được vợ, Bác tỏ ý không vui, Người nói:“Bác cử chú đi công tác là để cho cô chú gặp nhau. Đã tới đó mà không vào thăm và động viên thím ấy, chú làm như thế là không được!”.Theo: Minh Hiền

ĐỂ BÁC QUẠT`Năm ấy, Bác đến thăm trại điều dưỡng thương binh ở Hà Nội.Tin Bác đến nhanh chóng lan ra khắp trại. Anh chị em thương binh ai cũng muốn len vào gần Bác, quên cả nạng phải dùng để đi.Đang lúc Bác thăm hỏi sức khỏe thương binh bỗng một đồng chí hỏng mắt nhờ một y tá dẫn đến xin đứng bên Bác. Đồng chí Ninh đi với Bác định bước lại đỡ đồng chí ấy, nhưng Bác đã đi tới, giơ hai tay ra đón. Đồng chí thương binh ôm chầm lấy Bác nghẹn ngào “Bác ơi!” Bác lặng đi giây lát rồi mới tiếp tục câu chuyện thăm hỏi.Bác đến từng giường anh chị em thương binh nặng hỏi thăm bệnh tật đã đỡ chưa, mỗi bữa ăn được bao nhiêu bát cơm.Hôm ấy, trời nóng bức, Bác lấy cái quạt giấy vẫn dùng, quạt cho các thương binh. Có người định làm thay, Bác nói:- Để Bác quạt.Hôm ấy, lúc ra về Bác không vui.Và có lẽ vì thế mà khi cơ quan định lắp máy điều hòa nhiệt độ nơi Bác ở, Bác bảo đem ra cho các đồng chí thương binh.

. ĂN NO RỒI HÃY ĐẾN LÀM VIỆCAnh em, bạn bè, họ hàng lâu ngày gặp nhau, cùng uống một chén rượu, ăn với

nhau một bữa cơm cũng là việc thường tình. Cái chính là ở tấm lòng trung thực, tình nghĩa, kính trọng, yêu thương nhau chứ không nên “khácn một khứa mười” tranh thủ chi tiêu “tiền chùa” xả láng. Khách không nên vì cương vị “gợi ý” khéo để chủ nhà “nghênh tiếp”.

Anh em ở gần Bác cho biết, dù trong kháng chiến ở Việt Bắc, hay khi đã về Hà Nội, kể cả trong những năm chống Mỹ, cứu nước, hễ đi công tác xa, gần, là nhất định Bác “bắt” mang cơm đi theo. Khi cơm nắm, độn cả ngô, mì. Khi là bánh mì với thức ăn nguội. Chỉ có canh là cho vào phích để đến bữa, Bác dùng cho nóng.

Nhớ lần về thăm tỉnh Thái Bình, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân cố nài Bác ở lại ăn cơm. Bác nói: “Đi thăm tỉnh lụt còn ăn uống nỗi gì”. Nói xong, Bác lại thương cán bộ vì đã có cơm sẵn. Bác gọi đồng chí cảnh vệ đưa cơm nắm thức ăn mặn của Bác đến và bảo:

- Mời đồng chí bí thư và chủ tịch đến ăn cơm với Bác. Còn chú và bác sĩ sang mâm kia ăn cơm với cán bộ tỉnh.

Thường là đi công tác, đến bữa, Bác cho dừng xe, chọn nơi vắng, mát, sạch, Bác, cháu mang cơm ra ăn. Làm việc xong, Bác chọn giờ ra về để kịp ăn cơm “ở nhà”. Nếu không, lại có cơm nấu bữa thứ hai mang theo. Chỉ khi nào ở đâu, công tác lâu Bác mới chịu “ăn” cơm ở địa phương. Bao giờ Bác cũng dặn “chủ nhà”:

- Đoàn Bác đi có từng này người. Nếu được, chỉ ăn từng này, từng này...Dù không nghe lời Bác, chủ nhà dọn “cỗ” ra, Bác cũng có cách riêng của Bác. Bác nói với anh em:

- Bác cháu ta chỉ ăn hết món này, món này thôi. Còn món này để nguyên.Nhà chủ thiết tha mời Bác dùng thử món “cây nhà lá vườn”, Bác cũng chỉ gắp

vào bát anh em và bát mình mỗi người một miếng rồi lại xếp ngay ngắn đĩa thức ăn ấy, kiên quyết để ra ngoài mâm, người ngoài nhìn vào thấy đĩa thức ăn vẫn như nguyên vẹn. Bác nói với cán bộ:

- Người ta dọn ra một bữa sang, Bác cháu mình có khi cũng chẳng ăn đâu hoặc ăn chẳng hết. Nhưng đi rồi để lại cái tiếng: đấy, Bác Hồ đến thăm cũng làm cơm thế này, thế nọ, cũng điều động người này, người nọ từ giao tế sang, mất thời gian. Thế là, tự mình, Bác lại bao che cho cái chuyện xôi, thịt... Cứ ăn no rồi đến làm việc.

TẤM LÒNG CỦA BÁC HỒ VỚI CHIẾN SĨ Đối với chiến sĩ là những người hy sinh nhiều nhất cho dân tộc, Bác Hồ thường

dành cho anh em sự chăm lo, săn sóc ân tình, chu đáo nhất.Mùa đông, thương anh em chiến sĩ rét mướt ở rừng núi hay bưng biền, Bác đem tấm áo lụa của mình được đồng bào tặng, bán đấu giá để lấy tiền mua áo ấm gửi cho các chiến sĩ.

Bác thường nói: “Chiến sĩ còn đói khổ, tôi ăn ngon sao được!”. “Chiến sĩ còn rách rưới, mình mặc thế này cũng là đầy đủ lắm rồi!”.

Mùa hè năm ấy (1967), trời Hà Nội rất nóng. Sức khỏe Bác Hồ đã kém, thần kinh tuổi già cũng suy nhược, dễ bị toát mồ hôi, ướt đầm, có ngày phải thay mấy lần quần áo, có khi hong tại chỗ, rồi lại thay ngay. Bác không cho dùng máy điều hòa nhiệt độ. Bác bảo: mùi nó hôi lắm, Bác không chịu được! (Bác không dùng nên nói vậy thôi, chứ máy đã có nút xả thơm).

Thấy trời oi bức quá, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ:- Nắng nóng thế này, các chú bộ đội trực phòng không trên nóc hội trường Ba

Đình thì chịu sao được? Các chú ấy có đủ nước uống không? Chú thử lên tìm hiểu xem thế nào, về cho Bác biết.Đồng chí Vũ Kỳ lên, được biết trên đó có một tổ súng máy 14 ly 5. U cát sơ sài, nếu địch bắn vào thì chỉ có hy sinh, rất nguy hiểm.Trời nắng chói, đứng một lúc mà hoa cả mắt. Đồng chí Vũ Kỳ hỏi:- Các đồng chí có nước ngọt uống không?- Nước chè thường còn chưa có, lấy đâu ra nước ngọt!Đồng chí Vũ Kỳ về nói lại với Bác, Bác gọi điện ngay cho đồng chí Văn Tiến Dũng:

- Sao các chú không lo đủ nước uống cho các chiến sĩ trực phòng không? Nghe nói ụ súng trên nóc hội trường Ba Đình rất sơ sài, chú phải lo sửa ngay để đảm bảo an toàn cho chiến sĩ trong chiến đấu!

Sau đó Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ đi lấy sổ tiết kiệm của Bác, xem tiền tiết kiệm của Bác còn bao nhiêu.

Tại sao Bác có tiền tiết kiệm? Lương Bác cao nhất nước, nhưng hàng tháng cũng chỉ đủ tiêu. Mọi chi phí cho sinh hoạt của Bác, từ cái chổi lông gà, đều ghi vào lương cả.

Tiền tiết kiệm của Bác là do các báo trả nhuận bút cho Bác. Bác viết báo nhiều, có năm hàng trăm bài. Các báo gửi đến bao nhiêu, văn phòng đều gửi vào sổ tiết kiệm của Bác. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác cũng đã có tiền tiết kiệm. Đến dịp Tết Nguyên đán, Bác lại đem chia cho cán bộ các cơ quan chung quanh Bác, mua lợn để đón xuân.

Đồng chí Vũ Kỳ xem sổ và báo cáo:- Thưa Bác, còn lại tất cả hơn 25.000 đồng (lúc đó là một món tiền rất lớn, tương

đương với khoảng 60 lạng vàng).Bác bảo:

- Chú chuyển ngay số tiền đó cho Bộ Tổng tham mưu và nói: đó là quà của Bác tặng để mua nước ngọt cho anh em chiến sĩ trực phòng không uống, không phải chỉ cho những chiến sĩ ở Ba Đình, mà cho tất cả các chiến sĩ đang trực chiến trên mâm pháo ở khắp miền Bắc. Nếu số tiền đó không đủ thì yêu cầu địa phương nào có bộ đội phòng không trực chiến góp sức vào cùng lo!

Về sau, Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân báo cáo lại cho Văn phòng Phủ Chủ tịch biết: số tiền của Bác đủ mua nước uống cho bộ đội phòng không, không quân được một tuần!

TÌNH THƯƠNG YÊU BAO LACHÚ SANG XÔNG NHÀ CHO BÁC

Vào các dịp lễ tết, vẫn có một số anh chị em “ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân” ở lại trực cơ quan.

Mồng một tết âm lịch (năm 1956), nhường anh em khác về quê, tôi ở lại bảo vệ cơ quan.

Khoảng 9 giờ sáng, khi mọi người đã rộn ràng đi chúc tết, thì Bác tới.Thấy nhà vắng lặng, chỉ có mỗi mình tôi ngồi ở bàn, Bác mừng tuổi tôi một chiếc bánh chưng, một gói kẹo, chúc tôi nhân dịp năm mới, rồi Bác hỏi:

- Mồng một tết chú khai bút cái gì đó?- Thưa Bác, cháu đang viết báo cáo tổng kết công tác năm 1955 của đội ạ.

Bác khen:- Các chú thật cần cù, chịu khó, quanh năm vất vả. Những ngày mưa dầm gió bấc,

Bác ngủ trên nhà, còn các chú phải thức suốt đêm ở dưới vườn. Tết còn phải làm việc.Bác nói tiếp:

- Chú viết báo cáo ngắn thôi. Kết luận là: toàn đội hết lòng bảo vệ Trung ương Đảng và Chính phủ được an toàn. Không nên nói: bảo vệ Hồ Chủ tịch; vì trong Trung ương Đảng và Chính phủ là có đủ mọi người rồi.Bác nắm tay tôi:

- Chú sang xông nhà cho Bác đi.Bác phân công tôi rửa ấm chén, còn Bác thì lau bàn ghế và cắm hoa để đón các đồng chí trong Bộ Chính trị sang chúc tết.Tết năm ấy, tôi lại là người vui nhất.

NƯỚC NÓNG, NƯỚC NGUỘI

Buổi đầu kháng chiến chống Pháp, có một đồng chí cán bộ trung đoàn thường hay quát mắng, đôi khi còn bợp tai chiến sĩ. Đồng chí này đã từng là giao thông, bảo vệ Bác đi ra nước ngoài trước Cách mạng Tháng Tám.

Được tin nhân dân “dư luận” về đồng chí này, một hôm, Bác cho gọi lên Việt Bắc. Bác dặn trạm đón tiếp khu ATK, dù có đến sớm, cũng giữa trưa mới cho đồng chí ấy vào gặp Bác.

Trời mùa hè, nắng chang chang, đi bộ đúng ngọ “đồng chí cán bộ Trung đoàn” vã cả mồ hôi, người như bốc lửa.

Đến nơi, Bác đã chờ sẵn. Trên bàn đã đặt hai cốc nước, một cốc nước sôi có ý chừng vừa như mới rót, bốc hơi nghi ngút, còn cốc kia là nước lạnh.Sau khi chào hỏi xong, Bác chỉ vào cốc nước nóng nói:

- Chú uống đi.Đồng chí cán bộ kêu lên:

- Trời! Nắng thế này mà Bác lại cho nước nóng làm sao cháu uống được.Bác mỉm cười:

- À ra thế. Thế chú thích uống nước nguội mát không?- Dạ có ạ.

Bác nghiêm nét mặt nói:- Nước nóng, cả chú và tôi đều không uống được. Khi chú nóng, cả chiến sĩ của

chú và cả tôi cũng không tiếp thu được. Hòa nhã, điềm đạm cũng như cốc nước nguội dễ uống, dễ tiếp thu hơn.

Hiểu ý Bác giáo dục, đồng chí cán bộ nhận lỗi, hứa sẽ sửa chữa...

CHÚ NGÃ CÓ ĐAU KHÔNG?

Vào đầu năm 1954, tiết trời đã sang xuân, nhưng ở Việt Bắc vẫn còn rét. Gió bắc thổi mạnh, mưa phùn lâm râm gây nên cái lạnh buốt, Bác vẫn làm việc rất khuya. Bác khoác chiếc áo bông đã cũ, miệng ngậm điếu thuốc lá thỉnh thoảng lại hồng lên, tiếng máy chữ lách tách, lách tách đều đều...

Trời lạnh, nhưng được đứng gác bên Bác, tôi thấy lòng mình như được sưởi ấm lên. Tôi nhẹ bước chân đi vòng quanh lán. Một lần vừa đi, vừa nghĩ, tôi bị thụt chân xuống một cái hố tránh máy bay. Tôi đang tìm cách để lên khỏi hố, chợt nghe có tiếng bước chân đi về phía mình. Có tiếng hỏi:

- Chú nào ngã đấy?Chưa kịp nhận ra ai, thì tôi đã thấy hai tay Bác luồn vào hai nách, chòm râu của

Bác chạm vào má tôi. Tôi cố trấn tĩnh lại để nói một lời thì giật mình khi thấy Bác không khoác áo bông, Bác đi tất, một chân có guốc, một chân không, nước mắt tôi trào ra. Vừa kéo, Bác vừa hỏi:

- Chú ngã có đau không?Bác sờ khắp người tôi, nắn chân, nắn tay tôi. Rồi Bác nói:

- Chú ngã thế đau lắm. Chú cứ ngồi xuống đây bóp chân cho đỡ đau. Ngồi xuống! Ngồi xuống!

Tôi bàng hoàng cả người, không tin ở tai mình nữa. Có thật là Bác nói như vậy không! Bác ơi! Bác thương chúng cháu quá!Tôi trả lời Bác:

- Thưa Bác, cháu không việc gì ạ. Rồi tôi cố gắng bước đi để Bác yên lòng.Bác cười hiền hậu và căn dặn: “Bất cứ làm việc gì chú cũng phải cẩn thận”. Rồi Bác quay vào.

Tôi đứng nhìn theo Bác cho đến lúc lại nghe tiếng máy chữ của Bác kêu lên lách tách, đều đều trên nhà sàn giữa đêm Việt Bắc.

KIÊN TRÌ CHỐNG LẠI TUỔI GIÀ VÀ BỆNH TẬT

Sang đến năm 1967, Bác Hồ của chúng ta đã già và yếu đi nhiều. Nhưng ngày ba bữa, Bác vẫn tự mình từ nhà sàn, đi bộ đến nhà ăn. Một phần, không muốn phiền anh em phục vụ, phần nữa, Bác muốn đặt ra cho mình một kỷ luật, buộc mình phải vận động, rèn luyện, chống lại suy yếu của tuổi già.

Các đồng chí phục vụ Bác rất áy náy. Phần thương Bác vất vả, ngày nắng, còn ngày mưa; phần lo Bác già yếu, chẳng may vấp ngã, nếu có chuyện gì thì ảnh hưởng lớn đến công việc của đất nước và của Đảng.

Ngày đó, con đường quanh ao cá chưa được tôn tạo như hiện nay. Sau những trận mưa to, đường đi còn ngập nước. Nhưng đến giờ ăn, dù đang còn mưa, Bác vẫn xắn quần quá đầu gối, cầm ô, cùng đồng chí bảo vệ, lội nước đi sang nhà ăn. Nhìn ống chân Bác gầy gò, nổi gân xanh, anh em thương Bác, trào nước mắt, nhưng không sao thuyết phục được Bác cho phép dọn cơm bên nhà sàn.

Bác nói:- Các chú muốn chỉ một người vất vả hay muốn cho nhiều người cũng phải vất vả

vì Bác.

Có hôm, buổi sớm, Bác vào thay quần áo xong, đến bữa, gặp trời mưa, Bác không muốn các đồng chí phục vụ phải giặt nhiều, Bác cởi quần dài, gập lại, cắp nách, sang đến nơi mới mặc vào. Bác coi mình cũng chỉ là một người phục vụ và xem các đồng chí phục vụ cũng như mình nên không muốn làm phiền ai.

Tuy vậy, các đồng chí phục vụ Bác vẫn cố gắng tìm mọi cách để có thể thay đổi tình hình ấy.

Một hôm, Bác cho gọi chị Trần Thị Lý, người con gái miền Nam vào ăn cơm với Bác. Bác mời vào ngày Chủ nhật, nhưng hôm đó đồng chí Lý lại đi vắng thành ra hôm sau (3-7-1967) chị mới vào được.Hôm đó, trời mưa rất to. Đồng chí Vũ Kỳ cho dọn cơm ngay bên dưới nhà sàn để Bác ăn cùng chị Lý. Thương chị Lý thương tật, đau yếu, đường mưa trơn, đi lại khó khăn, lần đầu tiên, bữa đó Bác Hồ đồng ý ở lại ăn cơm dưới nhà sàn.Hôm sau, các đồng chí phục vụ lại dọn cơm dưới nhà sàn, mời Bác ăn, coi như đã có một tiền lệ và không thỉnh thị Bác. Nhưng Bác đã cho gọi đồng chí Vũ Kỳ đến và phê bình:

- Các chú muốn để Bác hư thân đi có phải không?Ý Bác đã rõ ràng. Bác muốn mỗi ngày ba bận, mỗi bữa ăn, đi vòng quanh hồ một lần, như một kỷ luật bắt buộc phải rèn luyện đối với mình.

Tuổi già, cũng như trẻ thơ, đều muốn được chiều chuộng. Bác biết: Nếu dễ dãi với mình và để cho người khác dễ dãi với mình, dần dần sẽ hư thân đi.Không ai sinh ra đã thành lãnh tụ. Muốn trở thành vĩ nhân, phải có chí rèn luyện. Làm Chủ tịch nước rồi, trở thành lãnh tụ kính yêu của cả giai cấp và dân tộc rồi, Bác Hồ vẫn không ngừng rèn luyện. Vì vậy, ở vị trí càng cao, càng nổi tiếng, tinh hoa, phẩm chất, đạo đức của Bác càng sáng, càng trong.

ĐIỀU BÁC HỒ YÊU NHẤT, GHÉT NHẤT

Trong kháng chiến chống Pháp, một nhóm người Pháp tiến bộ, cùng với một số hàng binh đã đứng về phía Việt Nam, chiến đấu dưới lá cờ giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh. Họ thành lập một tờ báo lấy tên là Bạn chiến đấu, bằng tiếng Pháp xuất bản tại chiến khu Việt Bắc, phát hành bí mật trong quân đội Pháp.Phóng viên báo Bạn chiến đấu đã có cuộc phỏng vấn Hồ Chủ tịch. Báo Cứu Quốc số 938, ngày 25-5-1948 - Chi nhánh số 6 in tại Liên khu X, đã đăng lại bài trả lời của Bác.- Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch ghét gì nhất?- Trả lời: Điều ác.- Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch yêu gì nhất?- Trả lời: Điều thiện.- Hỏi: Chủ tịch cầu mong gì nhất?- Trả lời: Nền độc lập của nước tôi và của tất cả các nước trên hoàn cầu.- Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch sợ cái gì nhất?

- Trả lời: Chẳng sợ cái gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì.Theo cuốn: Bác Hồ - Con người và phong cách

NGƯỜI PHÁP, NGƯỜI MỸ NÓI VỀ BÁCTuần báo Đây Paris ra ngày 18-6-1946 là một trong những bài viết sớm nhất,

tương đối đầy đủ nhất về phong cách của Bác Hồ.“Chủ tịch nước Việt Nam là một người giản dị quá đỗi. Quanh năm ông chỉ

mặc một bộ áo ka ki xoàng xĩnh và khi những người cộng tác quanh ông để ý, nói với ông rằng với địa vị ông ngày nay, nhiều khi cần phải mặc cho được trang trọng, thì ông chỉ mỉm cười trả lời:

“Chúng ta tưởng rằng chúng ta được quý trọng vì có áo đẹp mặc, trong khi bao nhiêu đồng bào mình trần đang rét run trong thành phố và các vùng quê”?

Sự ăn ở giản dị đến cực độ, như một nhà ẩn sĩ, đó là một đức tính rõ rệt nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một tuần lễ ông nhịn ăn một bữa, không phải là để hành hạ mình cho khổ sở mà là để nêu một tấm gương dè sẻn gạo cho đồng bào đặng làm giảm bớt nạn đói trong nước. Hết thảy mọi người xung quanh đều bắt chước hành động đó của ông.

Trong những ngày thường, ông dùng cơm ở Bắc Bộ phủ, ngồi chung với hết thảy mọi người. Người ta thấy quây quần xung quanh bàn ăn: các bộ trưởng, những thư ký và cả những cậu thiếu niên phục vụ bàn giấy. Nhờ có đức tính giản dị của ông mà khi ngồi ăn với mọi người ông không làm ai phải giữ kẽ nhiều quá, mà trái lại, không khí chung lộ ra, lúc nào cũng thân mật, cũng vui vẻ, gây cho bữa ăn một vẻ gia đình.

Tính giản dị và thân mật của ông còn biểu lộ ra trong những bài diễn văn. Không bao giờ ông tỏ vẻ thông thái, vốn rất rộng của ông. Ông thông thạo bảy thứ tiếng khác nhau và nói được rất nhiều tiếng thổ âm, trái lại ông chỉ dùng những câu nôm na, khiến cho một người dù quê mùa, chất phác nghe cũng hiểu ngay được. Ngày ông viết xã luận cho báo Cứu Quốc, trước khi đem bài cho nhà in, bao giờ ông cũng đem đọc cho một số người không biết chữ, ông già, bà già cùng nghe. Nếu ông thấy thính giả tỏ vẻ không hiểu mấy những ý tưởng trong bài viết lập tức ông viết lại ngay bài khác. Tất cả đức tính Hồ Chí Minh bao gồm trong một cử chỉ bé nhỏ đó.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất ghét lối nói khoa trương, văn vẻ. Mỗi bài diễn văn của ông là một bài học nhỏ kết luận bằng một ý kiến đạo đức. Bởi những ý tưởng hết sức giản đơn ấy mà bài diễn văn của ông có một tiếng vang lớn trong giới trí thức và dân chúng”.

Hai mươi lăm năm sau bài viết trên, năm 1971 – sau khi Bác Hồ đã mất, một người Mỹ - nhà báo, nhà văn Đâyvít Hanbơcstơn trong cuốn sách Hồ của mình, do Nhà xuất bản Răngđôm Haosơ ở New York ấn hành đã viết:

“...Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này - hơi giống Găngđi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam. Có lẽ hơn bất kỳ một người nào khác của thế kỷ này, đối với dân tộc của ông, và đối với cả thế giới ông là hiện thân của một

cuộc cách mạng. Thế nhưng đối với hầu hết nông dân Việt Nam, ông là biểu tượng của cuộc sống, hy vọng, đấu tranh, hy sinh và thắng lợi của họ. Ông là một người Việt Nam lịch sự, khiêm tốn, nói năng hòa nhã, không màng địa vị, luôn luôn mặc quần áo đơn giản nhất - cách ăn mặc của ông không khác mấy người nông dân nghèo nhất - một phong cách mà Phương Tây đã chế giễu ông trong nhiều năm, cười ông thiếu nghi thức quyền lực, không có đồng phục, không theo thời trang. Cho đến một ngày họ mới tỉnh ngộ và nhận thấy chính cái tính giản dị ấy, cái sùng bái sự giản dị ấy, cái khả năng hòa mình vào nhân dân ấy là cơ sở cho sự thành công của ông.

Trong một nước khi mà dân chúng đã thấy những người cầm đầu đạt tới một địa vị nào đó rồi trở thành “Tây” hơn là “Việt Nam”, bị quyền lực, tiền bạc và lối sống phương Tây làm thối nát; trong một nước khi những người đó đã ngoi lên khá cao thì không làm gì cho dân chúng cả, lập tức bị bán mình cho người nước ngoài, tính giản dị của ông Hồ là một sức mạnh. Địa vị càng cao sang, ông càng giản dị và trong sạch. Hình như ông luôn luôn giữ được những giá trị vĩnh cửu của người Việt Nam: kính già, yêu trẻ, ghét tiền của. Ông Hồ không cố tìm kiếm cho mình những cái trang sức quyền lực vì ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của ông với nhân dân, với lịch sử, đến nỗi không cần những pho tượng, những cái cầu, những pho sách, những tấm ảnh để chứng tỏ điều đó cho mình và cho thiên hạ biết. Việc ông từ chối sự sùng bái cá nhân là đặc biệt đáng chú ý trong cái xã hội kém phát triển...”.

20. KHÔNG PHẢI LÀ SIÊU NHIÊNBác Hồ của chúng ta là một con người vĩ đại, siêu việt, nhưng cũng giản dị, gần

gũi, thân thuộc với tất cả mọi người. Không có gì thuộc về con người lại không vang vọng sâu xa trong tâm hồn của Bác.

Linh mục Phạm Bá Trực là một người yêu nước, kính Chúa. Được may mắn gặp Bác Hồ, do sức cảm hóa và hấp dẫn đặc biệt của Người, cha Trực đã kiên quyết một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến.

Là Phó trưởng Ban Thường trực Quốc hội khóa I (tức Phó Chủ tịch Quốc hội ngày nay), cha Trực được mời tham dự các phiên họp của Hội đồng Chính phủ do Bác chủ trì. Nhiều buổi họp khuya, cha thường được ở lại với Bác.

Có một lần, dưới ngọn đèn khuya cha Trực ngồi yên lặng, ngắm Bác làm việc, cha cảm thấy Bác như là hiện thân của Chúa, mang đức độ nhân từ, bác ái, vị tha của một bậc thánh, cha Trực bỗng thốt lên:

- Vous - êtes surnaturel!Bác mỉm cười, phủ nhận:- Non, nous sommes contre - naturel!Ý Bác muốn nói: việc Người cũng như cha Trực, hoặc vì phụng sự cách mạng

hoặc vì phụng sự Chúa, mà quên lập gia đình chỉ là điều phản tự nhiên thôi chứ không có gì thần thánh cả.

Cũng như vậy, có lần, sau một phiên họp Hội đồng Chính phủ (24-5-1948) các thành viên trong Chính phủ ở lại ăn cơm chiều với Bác. Trong những cuộc gặp gỡ như

vậy, Người thường rất vui, kể chuyện những ngày còn bôn ba hải ngoại, chuyện Tây, chuyện Tàu đủ cả. Nhân đó, có người mạnh dạn hỏi: vì sao Bác không lập gia đình?

Bác cười và trả lời:- Mình cũng chẳng thần thánh gì, cũng như tất cả mọi người thôi. Nhưng với

hoàn cảnh đã qua và hiện nay, còn có điều kiện nào mà nghĩ đến chuyện lập gia đình, không phải vì đạo đức mà là phải chịu đạo đức đó thôi. Nhưng chưa lo được gia đình nhỏ thì ta hãy lo cho gia đình lớn đã vậy.

Mồ côi mẹ từ năm lên 9 tuổi. Mười năm sau giã biệt cha già, ra đi tìm đường cứu nước. Anh mất rồi chị mất, đều không có điều kiện chăm lo. Cũng như mọi người, Bác Hồ của chúng ta rất quý trọng tình cảm gia đình, cơ sở bền vững của lòng yêu nước, thương dân. Ở Bác, những tình cảm lớn, dù sâu sắc, mênh mông đến đâu cũng không bao giờ che khuất hay át được những tình cảm riêng tư. Bác Hồ của chúng ta cũng phải gắng gỏi vượt lên trên những phút cô đơn.

Chiều Việt Bắc, rừng Chiêm Hóa u buồn, sương lạnh. Gia đình các đồng chí trong Thường vụ Trung ương đều ở quanh Bác, nhưng cách nhau đến mấy quả đồi, mấy cánh rừng. Chiều đông, càng im ắng, cô quạnh.

Một hôm, bà Trường Chinh dắt cô bé gái của mình lên thăm Bác, có ý định để cô bé lại với Bác mấy hôm cho Bác đỡ buồn. Lúc đầu, được lên với Bác, cô bé rất thích, vui vẻ nhận lời. Nhưng khi chiều đến, bà xin phép Bác ra về, trong cảnh u tịch, vắng vẻ, cô bé đổi ý, khóc đòi về với mẹ.

Không giữ được, Bác tiễn mẹ con ra đầu dốc và cứ đứng nhìn theo mãi. Khi Bác quay về, các đồng chí phục vụ thấy đôi mắt Bác long lanh ướt. Bác nói với các đồng chí xung quanh:

- Chúng ta, ai cũng đều muốn có một cuộc sống gia đình ấm cúng. Người cách mạng là người giàu tình cảm, lại càng quý trọng cuộc sống gia đình, chẳng qua vì chưa có điều kiện thuận lợi nên chưa thực hiện được, đành phải chịu đựng mà thôi.

21. BÁC HÁT BÀI ANH HÙNG XƯA NAY... Một buổi chiều chụp ảnh. Trong ảnh rõ ràng hai thế hệ. Các cụ ngồi ngay

ngắn. Đằng sau là các bộ trưởng, mỗi người một vẻ:Chụp xong Cụ Hồ nắm lấy cánh tay tôi:- Tối hôm nay cụ tổ chức lửa trại nhé.Mấy ông già với mấy ông trẻ đầy lo nghĩ, lửa trại vui được khó quá.- Cứ vui đấy!Bỗng một ý nghĩ thoáng qua, tôi thưa:- Cụ lệnh tổ chức, tôi xin làm. Nhưng thưa Cụ, ở lửa trại thì người giữ lửa có

quyền to lắm, ai cũng phải nghe đấy.- Nhất định thế!Bọn chúng tôi vẫn có cái thói cứ hay “chọc” Cụ một cách kính mến, không

dám làm Cụ bí, vì Cụ có bí bao giờ đâu, nhưng để xem Cụ đối phó thế nào, rồi ngồi cười cùng nhau, lý thú về cách trả lời của Cụ, Cụ cũng hiểu thế và mỉm cười.

Mọi người đã ngồi quanh đống lửa. Tôi châm lửa và tuyên bố:- Thi hành quyền lực của trùm trại, tôi đề nghị Cụ Chủ tịch hát mở đầu cuộc

vui.Mọi người nhìn cả về phía Cụ. Cụ nhẹ nhàng đứng dậy, vừa đi quanh vừa hát

bài hát hướng đạo về Đinh Bộ Lĩnh:Anh hùng xưa nhớ hồi là hồi niên thiếuDấy binh lấy lau làm cờ.Quên mình là mình giúp nước...Già trẻ ai nấy con mắt long lanh, nhìn âu yếm Cụ Chủ tịch của mình, mà như

thế là cuộc lửa trại vui lên.16. Không có việc gì khóNăm 1927, với tên gọi là Thầu Chín, Bác Hồ sống và hoạt động trong kiều bào

Việt Nam ở Xiêm (Thái Lan) cho đến cuối năm 1929. Đây là một trong những thời gian Người sống lâu nhất với đồng bào, trước năm 1945.

Sau khi đặt chân đến Phi Chịt, Người nêu ý kiến đi ra U Đon để tìm gặp Việt kiều. Từ Phi Chịt đến U Đon phải đi bộ, băng rừng hàng tháng. Mỗi người đi đường đều gánh theo hai thùng sắt tây đựng quần áo, đồ dùng lặt vặt, có nắp đậy để tránh mưa núi, vắt rừng. Thức ăn mang theo cũng là 10kg gạo và một ống “cheo” (thịt gà hoặc sườn lợn băm nhỏ rang muối. Năm 1945 khi đi Côn Minh, Bác cũng mang theo một ống “cheo” nhưng đặt tên là muối Việt Minh).

Thầu Chín cùng một số anh em ra đi vào dịp mùa thu. Cây rừng đang rụng lá. Trời nắng to, đường đi đá sỏi gập ghềnh, mọi người đều mệt mỏi. Thấy Thầu Chín không quen gánh, có người muốn giúp đỡ, nhưng Thầu Chín không chịu. Ít ngày sau, đôi chân của Thầu Chín đã sưng lên, rớm máu, tấy đỏ. Anh em lại yêu cầu Thầu Chín nhường gánh. Thầu Chín nói: “Thánh hiền đã dạy: Thiên hạ vô nan sự, nhân tâm tự bất kiên”, ý nói là dưới trời này không có việc gì khó, chỉ sợ lòng người không kiên trì... cứ cố gắng, để thế vài hôm nữa sẽ quen đi... Quả nhiên mấy ngày sau nữa, bước chân Thầu Chín đã nhanh, đi gọn, đôi thùng đung đưa có vẻ đã nhẹ nhàng. Mấy tháng sau, có lần từ U Đon về đến Xa Vang đường dài hơn 70 km, Thầu Chín chỉ đi hết một ngày.

Hơn 20 năm sau, vào cuối mùa đông năm 1950, trong một lần gặp gỡ anh em thanh niên xung phong làm đường ở Đèo Khế, Thái Nguyên, Bác Hồ đã đọc tặng bốn câu:

... Không có việc gì khóChỉ sợ lòng không bềnĐào núi và lấp biểnQuyết chí ắt làm nên.Bốn câu thơ ấy, tuy là mượn ý của “Thánh hiền” nhưng đã được kiểm nghiệm

trong thực tế cuộc sống của Bác Hồ mấy chục năm trước đó...Theo: Minh Anh17. Đạo đức người ăn cơm

Một chiến sĩ bảo vệ Bác - sau này được phong quân hàm cấp tướng - có lần nói rằng:

“Bác thường dạy quân dân ta “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, Bác dạy phải làm gương trước. Bác dạy phải nêu cao đạo đức cách mạng. Có cán bộ nghĩ rằng “đạo đức” cách mạng là để áp dụng trong công tác thôi. Bản thân tôi, được gần Bác thấy ngay trong khi ăn cơm. Bác cũng đã dạy cho chúng tôi thế nào là “đạo đức”.

Thứ nhất, Bác không bao giờ đòi hỏi là Chủ tịch nước phải được ăn thứ này, thứ kia. Kháng chiến gian khổ đã đành là Bác sống như một người bình thường, khi hòa bình lập lại có điều kiện Bác cũng không muốn coi mình là “vua” có gì ngon, lạ là “cống, hiến”.

Thứ hai, món ăn của Bác rất giản dị, toàn các món dân tộc, tương cà, cá kho..., thường là chỉ 3 món trong đó có bát canh, khá hơn là 4 - 5 món thôi...

Thứ ba, Bác thường bảo chúng tôi, ăn món gì cho hết món ấy, không đụng đũa vào các món khác. Gắp thức ăn phải cho có ý. Cắt miếng bơ cũng phải cho vuông vức. Nhớ lần đi khu IV, đồng chí Bí thư và Chủ tịch Quảng Bình ăn cơm với Bác, trong mâm có một bát mắm Nghệ hơi nhiều. Bác dùng bữa xong trước, ngồi bên mâm cơm. Hai cán bộ tỉnh ăn tiếp rồi buông đũa. Bác nhìn bát mắm nói:

- Hai chú xẻ bát mắm ra, cho cơm thêm vào ăn cho hết.Hai “quan đầu tỉnh” đành phải ăn tiếp vừa no, vừa mặn... Chiều hôm đó, hai

đồng chí đưa Bác đi thăm bờ biển, trời nắng, ăn mặn nên khát nước quá.Lần khác, một cán bộ ngoại giao cao cấp người Hà Tĩnh được ăn cơm với Bác,

đã gắp mấy cọng rau muống cuối cùng vào bát tương ăn hết. Tưởng là đã “hoàn thành nhiệm vụ” nào ngờ Bác lại nói:

- Tương Nghệ đồng bào cho Bác, ngon lắm. Cháu cho thêm ít cơm vào bát “quẹt” cho hết...

Thứ tư, có món gì ngon không bao giờ Bác ăn một mình, Bác xẻ cho người này, người kia rồi sau cùng mới đến phần mình, thường là phần ít nhất. Ăn xong thu xếp bát đũa gọn gàng, để đỡ vất vả cho người phục vụ.

Thứ năm, tôi có cảm giác là đôi khi ăn cơm có những giây phút Bác cầm đôi đũa, nâng bát cơm, Bác như tư lự về điều gì đó. Tưởng như Bác nghĩ đến đồng bào, cụ già, em bé đói rách ở đâu đấy. Tưởng như Bác nhớ lại những ngày lao động ở xứ người kiếm từng mẩu bánh để ăn, để uống, để làm cách mạng... Hay là Bác lại nghĩ đến những lần tù đày không có gì ăn. Thật khó hiểu mà càng khó hiểu, tôi lại càng thương Bác quá, thương quá. Bây giờ vào những bữa tiệc cao lương, mỹ vị, rượu bia thức ăn bày la liệt, quái lạ tôi lại nhớ đến Bác rồi... có ăn cũng chẳng thấy ngon như khi xưa ngồi vào mâm cơm đạm bạc với Bác”.

Theo cuốn: Tấm lòng của Bác.18. Gương mẫu tôn trọng luật lệHàng ngày, Bác thường căn dặn anh em cảnh vệ chúng tôi phải luôn có ý thức

tổ chức, kỷ luật, triệt để tôn trọng nội quy chung. Bác bảo: “Khi bàn bạc công việc gì,

đã quyết nghị thì phải triệt để thi hành. Nếu đã tự đặt ra cho mình những việc phải làm thì cương quyết thực hiện cho bằng được”.

Một hôm chúng tôi theo Bác đến thăm một ngôi chùa lịch sử. Hôm ấy là ngày lễ, các vị sư, khách nước ngoài và nhân dân đi lễ, tham quan chùa rất đông. Bác vừa vào chùa, vị sư cả liền ra đón Bác và khẩn khoản xin Người đừng cởi dép, nhưng Bác không đồng ý. Đến thềm chùa, Bác dừng lại để dép ở ngoài như mọi người, xong mới bước vào và giữ đúng mọi nghi thức như người dân đến lễ.

Trên đường từ chùa về nhà, xe đang bon bon, bỗng đèn đỏ ở một ngã tư bật lên. Đường phố đang lúc đông người. Xe của Bác như các xe khác đều dừng lại cả. Chúng tôi lo lắng nhìn nhau. Nếu nhân dân trông thấy Bác, họ sẽ ùa ra ngã tư này thì chúng tôi không biết làm thế nào được. Nghĩ vậy, chúng tôi bàn cử một đồng chí cảnh vệ chạy đến bục yêu cầu công an giao cảnh bật đèn xanh mở đường cho xe Bác. Nhưng Bác đã hiểu ý, Người ngăn lại rồi bảo chúng tôi:

- Các chú không được làm như thế. Phải gương mẫu tôn trọng luật lệ giao thông, không nên bắt người khác nhường quyền ưu tiên cho mình.

Chúng tôi vừa ân hận, vừa xúc động, hồi hộp chờ người công an giao cảnh bật đèn xanh để xe qua...

Theo: Phan Văn Xoàn -Hoàng Hữu Kháng - Hồng Nam19. Bác Hồ thích món ăn gì nhấtNhiều người quan tâm đến sinh hoạt đời thường của Bác Hồ đã có lúc đặt ra

câu hỏi ấy. Mới xem qua, dường như nó chẳng có ý nghĩa gì mấy, bởi nó quá riêng tư, mỗi người đều có sở thích của mình, thị hiếu là vấn đề không thể bàn cãi!

Đúng như vậy. Nhưng tìm hiểu sở thích của một người cũng là một hướng tiếp cận tính cách của con người đó, càng cần thiết hơn khi đó lại là một vĩ nhân.

Cũng như mọi người, có món ăn Bác Hồ rất thích, nhiều món ăn được, có món không thích, ví dụ qua bữa cơm bà Thanh được kể lại, ta biết cậu Thành từ nhỏ không ăn được tỏi.

Nét nổi bật là vị Chủ tịch nước đầu tiên của chúng ta lại rất thích các món ăn dân dã như mắm, cà dầm tương, canh cua ăn với rau chuối thái ghém...

Có lần, trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Chủ tịch Liên khu IV Lê Viết Lượng có gửi lên Việt Bắc biếu Bác một lọ cà dầm mắm. Bác rất thích ăn. Ngày đó, Bác vẫn thường ăn chung với các nhân viên phục vụ của mình. Có bữa bận phải ăn sau, Bác dặn: các cô chú cứ ăn thịt cá, để phần Bác món cà dầm mắm.

Ở rừng, thỉnh thoảng vẫn thiếu rau. Bác bảo: - Ta thiếu rau nhưng nhiều mít, cô Mai (vợ bác sĩ Chánh) làm món nhút ăn cho đỡ xót ruột. Chị Mai thú thực không biết làm. Bác lại bày cho cách làm nhút từ quả mít xanh. Có lẽ trong các món mang hương vị quê hương, Bác thích nhất món cá bống kho lá gừng. Hôm nào, đồng chí Cần - cấp dưỡng của Bác, làm món ăn đó, Người thường ăn hết, để món thịt lại.

Có lần, Bác được mời đi nghỉ tại Liên Xô. Bạn cho ăn toàn những món đặc sản vào loại tuyệt hảo. Bỗng một hôm Bác bảo: “Mình nhớ món cá bống kho lá gừng quá!”. Một chuyện thật đơn giản, nhưng trong hoàn cảnh đó thực hiện lại không dễ. Vì ở nhà nghỉ thì không ổn, hơn nữa bạn lại rất sợ mùi nước mắm. Kho ở sứ quán rồi mang vào, lại sợ bạn biết sẽ phật ý. Cuối cùng, nhờ sự trổ tài khéo léo của đồng chí Vũ Kỳ trong việc giới thiệu các món ăn cổ truyền của dân tộc, món cá bống kho gừng đã được thực hiện.

Ở Việt Bắc, hôm nào có điều kiện ăn tươi, Bác lại bảo: ra gọi cô Cúc (vợ đồng chí Phạm Văn Đồng) và cô Mai vào trổ tài cho Bác cháu mình thưởng thức. Chị Mai làm món gà rút xương, thịt băm trộn nấm hương nhồi đùi gà, đem hấp. Chị Cúc làm món bít-tết. Bác khen ngon, vì làm rất công phu. Bác nhận xét:

- Gia vị đối với món ăn Việt Nam rất quan trọng. Thiếu gia vị, món ăn sẽ giảm hương vị đi rất nhiều.

Coi trọng nội dung, Bác cũng nhắc nhở cần chú ý đến cả hình thức trình bày. Hồi ở Việt Bắc, có lần đi công tác, buổi trưa, Bác cháu dừng lại bên bờ suối nấu ăn. Bác bảo: các chú nấu cơm, để Bác rán trứng cho. Bác làm rất thạo. Trứng rán xong mà cơm chưa chín. Bác lấy que sắt nung trên than hồng rồi đặt lên khoanh trứng thành những hình quả trám rất đẹp. Anh em cười thán phục. Bác bảo:

- Khi có điều kiện làm cho ngon hơn, đẹp hơn thì ta cứ làm chứ các chú!Ngày 16-6-1957, Bác đi thăm Đồng Hới (Quảng Bình). Trong bữa cơm trưa có

đủ các món đặc sản của Đồng Hới: Mắm tôm chua, rau muống chẻ, cá thu kho... Bác cháu vừa ăn vừa trò chuyện. Bác chỉ tay sang bác sĩ Nhữ Thế Bảo nói đùa:

- Bác sĩ khuyên mọi người ăn chín, uống sôi, còn bản thân bác sĩ thì lại ăn rau muống sống hơi quá nhiều đấy!

Mọi người cười vang. Bữa ăn ngon lành càng thêm vui vẻ11. BỮA CƠM KHÁNG CHIẾN Khoảng giữa năm 1952, Đoàn đại biểu quân đội gồm 20 người tiêu biểu của

các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích trong cả nước đến Tuyên Quang dự “Đại hội liên hoan anh hùng chiến sĩ thi đua công nông binh toàn quốc”.

Trước khi vào Đại hội, Bác mời cơm mọi người. Cụ Hoàng Hanh, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa, anh Ngô Gia Khảm, chị Nguyễn Thị Chiên và một em thiếu nhi được Bác gọi ngồi cùng mâm với Bác.

Trên chiếc bàn bằng tre nứa sạch sẽ, thức ăn được bày lên, có thịt gà, cá rán, dưa chua, rau và cả một bát dưa nấu giấm cá. Bác nói: “Đây là bữa cơm kháng chiến để chúc mừng các chiến sĩ thi đua đã lập nhiều thành tích trong sản xuất và chiến đấu. Trung ương Đảng và Chính phủ không có gì nhiều, chỉ toàn những thứ do anh em trong cơ quan và Bác trồng trọt, chăn nuôi thu hái được, mời cụ, các cô các chú ăn. Đã ăn là ăn thật no, ăn no để đủ sức tham gia hội nghị, nghe hiểu hết mọi điều về nói lại với nhân dân. Nào, xin mời! Rồi Bác cầm đũa gắp thức ăn vào bát cho từng người.

Có đồng chí nói: “Chao ôi! Bác thết chúng cháu nhiều món quá”. Bác quay sang vui vẻ nói: “Tất cả đây đều là kết quả tăng gia sản xuất của tập thể cơ quan: gà và cá là Bác tự nuôi. Rau thì các cô các chú xem kìa - Bác chỉ tay ra khoảng đất phía sau hội trường. Giữa tán cây cao, có một khoảng nắng rộng, nhìn rõ các luống rau xanh và giàn bầu tươi tốt. Bác tiếp: Rau thơm, hành tỏi cũng không phải mua. Hôm nay chưa giết lợn, để Hội nghị thành công, rồi sẽ khao chung một bữa.

Mọi người mải nghe Bác nói, không ai gắp thức ăn. Bác lại vồn vã giục: “Nào tất cả ăn đi, ăn xong ta sẽ nói chuyện với nhau”.

Có Bác cùng ăn, mọi người ăn rất ngon lành, vui vẻ. Trong bữa ăn, nhìn anh Ngô Gia Khảm có thương tật ở tay, cầm thìa xúc ăn thật vất vả, Bác rơm rớm nước mắt và cứ gắp cho anh đều. Thấy chị Chiên thích ăn cá, Bác hỏi:

- Quê cháu có nuôi cá không?- Thưa Bác, không nuôi ạ. Khi muốn ăn thì xách giỏ ra đồng, hoặc đánh bắt ở

ao, hồ, sông.- Ở đây Bác và anh em trong cơ quan chỉ ngăn lại một quãng suối, vậy mà cá to

thế đấy.Bác vui vẻ hỏi chuyện mọi người. Bữa ăn hôm ấy thật ngon miệng, thoải mái

và thân thiết.Theo: TRUNG KIÊN12. QUYỀN LAO ĐỘNG CỦA BÁCNăm 1950, Bác Hồ đi chiến dịch biên giới. Chuyến đi dài ngày, gian khổ. Anh

em cảnh vệ kiếm được một con ngựa, mời Bác lên. Bác cười: chúng ta có 7 người, ngựa chỉ có một con, Bác cưỡi sao tiện?

Anh em vừa khẩn khoản: chúng cháu còn trẻ, Bác đã cao tuổi, đường xa, việc nhiều,... Không nỡ từ chối, Bác trả lời:

- Thôi được, các chú cứ mang ngựa theo để nó đỡ hộ ba lô, gạo nước và thức ăn. Trên đường đi, ai mệt thì cưỡi. Bác mệt, Bác cũng sẽ cưỡi.

Ở khu an toàn, mặc dầu xa địch, nhưng mỗi lần chuyển địa điểm, ngoài việc làm lán trại, Bác cháu còn phải đào hầm, hố. Bác thường giúp đỡ các chiến sĩ bảo vệ vẽ mẫu hầm, cách cầm xẻng, phá đất đá, nện “choòng”... Ngay trong mỗi nhà, mỗi lán Bác đều cho đào công sự đề phòng máy bay tập kích bất ngờ, cây rừng đổ xuống. Cứ mỗi ngày Bác đào một ít, sau giờ làm việc vài ba buổi là xong. Ai muốn đến giúp, Bác ngăn lại, không đồng ý và nói:

- Đây là quyền lao động của Bác.Theo: HỒNG DƯƠNG

13. AI ĂN THÌ NGƯỜI ẤY TRẢ TIỀNNăm 1954, hòa bình lập lại trên nửa nước. Đồng bào các địa phương có sản vật

gì quý đều gửi một ít lên biếu Bác để giới thiệu thành tích tăng gia với Người.

Trong một bữa cơm, Bác thấy có món cà Nghệ, quả nhỏ, cùi ròn, ngâm mắm. Bữa ấy Bác ăn rất ngon. Hôm sau lại có món cà quê hương. Bác ăn hết vài ba quả. Thấy thế đồng chí anh nuôi lại dọn cà.

Bác hỏi:- Cà muối mua hay ai cho thế?- Thưa Bác, đồng bào Nghệ An đưa ra tặng Bác.- Có nhiều không?Dạ, một ô tô ạ.Bác chậm rãi nói:- Thế này nhé. Cà Nghệ ăn rất ngon. Bác ăn mấy bữa liền là đủ rồi. Bây giờ ai

muốn ăn nữa thì trả tiền cho đồng bào Nghệ An.Đồng chí chiến sĩ anh nuôi lùi ra nói:- Chết chưa! Đã bảo mà.Theo: BÍCH HẠNH14. QUẢ TÁO BÁC HỒ CHO EM BÉTháng 4-1946, với danh nghĩa là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,

Bác Hồ sang Pháp để đàm phán với Chính phủ Pháp về những vấn đề có liên quan đến vận mệnh của đất nước. Ông Đốc lý thành phố Paris mở tiệc long trọng thết đãi Bác Hồ. Trước khi ra về, Người chọn lấy một quả táo đẹp trên bàn, bỏ vào túi. Mọi người, kể cả ông Đốc lý đều kinh ngạc chú ý tới việc ấy, ngạc nhiên và không giấu được sự tò mò. Khi Bác Hồ bước ra khỏi phòng, rất đông bà con Việt kiều và cả người Pháp nữa đang đứng đón Bác. Bác chào mọi người. Khi Bác trông thấy một bà mẹ bế một cháu nhỏ cố lách đám đông lại gần, Bác liền giơ tay bế cháu bé và đưa cho cháu bé quả táo. Cử chỉ của Bác Hồ đã làm những người có mặt ở đó từ chỗ tò mò ngạc nhiên đến chỗ vui mừng và cảm phục về tấm lòng yêu trẻ của Bác.

Theo cuốn: Bác Hồ với thiếu nhi và phụ nữ,

15. MỪNG CHO CÁC CHÁU, BÁC CÀNG THƯƠNG NHỚ MẸ Một lần trên đường đi thăm hợp tác xã trồng cây giỏi ở huyện Quảng Oai (Hà

Tây) Bác Hồ đã nhắc đến mẹ Bác.Hôm ấy khi xe ôtô đến Quảng Oai, một đoàn các em bé gái cổ quàng khăn đỏ,

em mặc áo hoa xen em mặc áo trắng, tay cắp sách vừa ở trong trường ra, líu ríu như chim sổ lồng. Nhìn thấy các cháu vui, Bác Hồ cũng vui theo. Người nói với chú Vũ Kỳ và các chú ngồi cùng xe:

- Này! Các chú thấy không, các cháu được ăn mặc đẹp, được đi học, cháu nào cũng vui vẻ phấn khởi, Bác mừng cho các cháu.

Rồi giọng Bác bỗng trầm hẳn xuống.- Lúc này Bác rất nhớ mẹ của Bác. Mẹ Bác rất thông minh, lại là con gái ông

đồ nho. Thế mà mẹ Bác lại không được đến lớp, đến trường đâu các chú ạ. Cũng như phụ nữ ngày xưa, từ nhỏ mẹ Bác đã phải lo việc nhà.

Mọi người cùng đi không nén nổi cảm xúc trước tình cảm của Bác đối với mẹ Bác là cụ Hoàng Thị Loan.

Theo lời kể của đồng chí Vũ Kỳ 9. Bác có phải là vua đâu?Có một số người có ngôi cao, chức cả, sống trong sự trọng vọng, chiều chuộng

của mọi người, thường xuyên được hưởng sự ưu đãi đặc biệt, lâu dần cũng quen đi mà không hề biết rằng mình đã nhiễm phải thói đặc quyền, đặc lợi.

Suốt đời tâm niệm là người công bộc của nhân dân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, Bác Hồ của chúng ta luôn luôn hòa mình vào cuộc sống chung của đồng bào, đồng chí, không nhận bất cứ một sự ưu tiên nào người khác dành cho mình.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nhiều nhân sĩ, trí thức cao tuổi theo Bác lên Việt Bắc, đi kháng chiến, đèo cao suối sâu, đường bùn lầy, nhiều vị phải nằm cáng. Anh em phục vụ lo Bác mệt cũng đề nghị Bác lên cáng, Bác gạt đi: Bác còn khỏe, còn đi được, các chú có nhiệm vụ đưa Bác đi như thế này là tốt rồi.

Cuối năm 1961, Bác về thăm xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, một xã có phong trào trồng cây tốt. Tại một ngọn đồi thấp, Bác đứng nói chuyện với nhân dân trong xã. Trời đã gần trưa, tuy đã sang đông mà nắng còn gay gắt. Nhìn Bác đứng giữa nắng trưa, ai cũng băn khoăn. Đồng chí Chủ tịch huyện cho tìm mượn được chiếc ô, định giương lên che nắng cho Bác, thì Bác quay lại hỏi:

- Thế chú có đủ ô che cho tất cả đồng bào không? Thôi, cất đi, Bác có phải là vua đâu?

Một lần, trong bữa ăn, đồng chí phục vụ dọn lên cho Bác một đĩa cá anh vũ, một loại cá sông quý hiếm thường chỉ có ở khúc sông Hồng đoạn Bạch Hạc- Việt Trì. Nhìn đĩa cá biết ngay là của hiếm, Bác khen và bảo:

- Cá ngon quá, thế mà chú Tô (tức đồng chí Phạm Văn Đồng) lại đi vắng. Thôi, các chú để đến chiều đồng chí Tô về cùng thưởng thức.

Miếng ngon không bao giờ Bác chịu ăn một mình. Chia sẻ ngọt bùi là thế, tưởng chuyện cũng sẽ qua đi. Nhưng đến bữa sau, trong mâm cơm lại có món cá hôm trước. Nhìn đĩa cá, Bác hiểu ngay và tỏ ra không bằng lòng.

- Bác có phải là vua đâu mà phải cung với tiến!Rồi Người kiên quyết bắt mang đi không ăn nữa. Như Bác đã từng nói, ở đời ai

chẳng thích ăn ngon, mặc đẹp, nhưng nếu miếng ngon đó lại đánh đổi bằng sự mệt nhọc, phiền hà của người khác thì Bác đâu có chấp nhận.

Những anh em công tác trong Phủ Chủ tịch hàng ngày vẫn thường đi lại bằng xe đạp, thỉnh thoảng có gặp Bác đi bộ. Nhìn thấy Bác, mọi người đều xuống dắt xe chờ Bác đi qua rồi mới lên xe đi tiếp. Thấy vậy, Bác thường khoát tay ra hiệu bảo anh em cứ đi tiếp, không cần xuống xe. Nhưng ai có thể cho phép mình ngồi trên xe khi Bác đi bộ. Một lần, Bác gọi đồng chí vừa xuống dắt xe lại gần và bảo:

- Các chú có công việc của mình nên cứ tiếp tục đạp xe mà đi. Bác đâu có phải là cái đền có biển “hạ mã” ở trước để ai đi qua cũng phải xuống xe, xuống ngựa?

Lão Tử có nói: “Trời đất sở dĩ có thể dài và lâu vì không sống cho mình nên mới được trường sinh. Thánh nhân đặt thân mình ở sau mà lại lên trước, đặt thân mình ở ngoài mà lại còn”. Bác Hồ sống quên mình, không nghĩ đến mình mà lại trở thành sống mãi. Lời Lão Tử thật sâu sắc lắm thay!

Theo: Trần Hiếu10. Từ đôi dép đến chiếc xe ôtôĐôi dép của Bác “ra đời” vào năm 1947, được “chế tạo” từ một chiếc lốp ôtô

quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc.Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân

Bác.Trên đường công tác, Bác nói vui với anh em cán bộ đi cùng: - Đây là đôi hài vạn dặm trong chuyện cổ tích ngày xưa... Đôi hài thần đất, đi

đến đâu mà chẳng được.Chẳng những khi “hành quân” mà cả mùa đông, Bác đi thêm đôi tất cho ấm

chân, tiếp khách trong nước, khách quốc tế vẫn thường thấy Bác đi đôi dép ấy.Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép xách tay. Đi

thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép...

Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy... Các đồng chí cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xin” Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được”.

Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì anh em lập mẹo giấu dép đi, để sẵn một đôi giày mới...

Máy bay hạ cánh xuống Niu Đêli. Bác tìm dép. Anh em thưa:- Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi...Thưa Bác...Bác ôn tồn nói:- Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập

hoàn toàn. Nhân dân ta còn khó khăn. Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự...

Thế là các ông “tham mưu con” phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi...

Trong suốt thời gian ở Ấn Độ, các chính khách, nhà báo, quay phim, chụp ảnh lại rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép... làm anh em cảnh vệ lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy.

Năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên ấy”, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Cán bộ và chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác, Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:

- Thôi, các cháu giẫm làm tụt quai dép của Bác rồi...

Nghe Bác nói, cả đám dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên:

- Thưa Bác, cháu, để cháu sửa...- Thưa Bác, cháu, cháu có “rút dép” đây...Nhao nhác, ầm ĩ như thế, nhưng đồng chí cảnh vệ chỉ đứng cười vì biết đôi dép

của Bác đã phải đóng đinh rồi; có “rút” cũng vô ích...Bác cười nói:- Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ!Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên

tháo dép ra, “thách thức”:- Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác...Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh

bên cạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến...Bác phải giục:- Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ, lúc nãy

chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:- Tôi, để tôi sửa dép...Mọi người giãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong.Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn:- Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ...Bác nhìn các chiến sĩ nói:- Các cháu nói đúng... nhưng chỉ có đúng một phần... Đôi dép của Bác cũ

nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì còn “thọ” lắm! Mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên... Ta phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo...

Đôi dép cá nhân đã vậy, còn “đôi dép” ôtô của Bác cũng thế!Chiếc xe “Pa-bê-đa” sản xuất tại Liên Xô Bác vẫn đi, đã cũ, Văn phòng xin

“đổi” xe khác, “đời mới” hơn, tốt hơn, nhưng Bác không chịu:- Xe của Bác hỏng rồi à?Anh em thưa rằng chưa hỏng, nhưng muốn thay xe để Bác đi nhanh hơn, êm

hơn.Bác nói:- Ai thích nhanh, thích êm thì đổi...Hôm sau đến giờ đi làm, không biết là xe hỏng thật hay “ai” xui mà Bác đứng

đợi bên xe mà xe cứ “ì” ra. Bác cười bảo đồng chí lái xe:- Máy móc có trục trặc, chú cứ bình tĩnh sửa. Sửa xong Bác cháu ta đi cũng

kịp...Vài phút sau, xe nổ máy...Bác lại cười nói với đồng chí lái xe, cảnh vệ:- Thế là xe vẫn còn tốt!

7. Thời gian quý báu lắmSinh thời, Bác Hồ của chúng ta yêu cái gì nhất, ghét cái gì nhất? Kể cũng hơi

khó trả lời cho thật chính xác, bởi ở ta không có thói quen “tự bạch” và kín đáo, ý nhị vốn là một đặc điểm của lối ứng xử phương Đông.

Tuy nhiên, theo dõi qua tác phẩm, hoạt động và sinh hoạt đời thường, điều ta có thể thấy rõ cái mà Người ghét nhất, “ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm” là các thói quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí tiền bạc và thời gian của nhân dân.

Ở một mức độ khác, thấp hơn, những người có điều kiện tiếp xúc và làm việc với Bác Hồ, điều thấy rõ nhất là Bác rất khó chịu khi thấy cán bộ làm việc không đúng giờ.

Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khóa V Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Người thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm”.

Trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí cấp tướng đến làm việc với Bác sai hẹn mất 15 phút, tất nhiên là có lý do: mưa to, suối lũ, ngựa không qua được. Bác bảo:

- Chú làm tướng mà chậm đi mất 15 phút thì bộ đội của chú sẽ hiệp đồng sai đi bao nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan, không chuẩn bị đầy đủ các phương án, nên chú đã không giành được chủ động.

Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ đến để bắt đầu cuộc họp. Bác hỏi:

- Chú đến chậm mấy phút?- Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!- Chú tính thế không đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.Bác quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác

bấy nhiêu, vì vậy thường không bao giờ để bất cứ ai phải đợi mình.Năm 1953, Bác quyết định đến thăm lớp chỉnh huấn của anh chị em trí thức,

lúc đó đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Tin vui đến làm náo nức cả lớp học, mọi người hồi hộp chờ đợi.

Bỗng chuyển trời đột ngột, mây đen ùn ùn kéo tới, rồi một cơn mưa dồn dập, xối xả, tối đất, tối trời, hai ba tiếng đồng hồ không dứt. Ai cũng xuýt xoa, tiếc rẻ: mưa thế này, Bác đến sao được nữa, trời hại quá.

Giữa lúc trời đang trút nước, lòng người đang thất vọng, thì từ ngoài hiên lớp học có tiếng rì rào, rồi bật lên thành tiếng reo át cả tiếng mưa ngàn, suối lũ:

- Bác đến rồi, anh em ơi! Bác đến rồi!Trong chiếc áo mưa ướt sũng nước, quần xắn đến quá đầu gối, đầu đội nón,

Bác hiện ra giữa niềm ngạc nhiên, hân hoan và sung sướng của tất cả mọi người.

Về sau, anh em được biết: giữa lúc Bác chuẩn bị đến thăm lớp thì trời đổ mưa to. Các đồng chí làm việc bên cạnh Bác đề nghị Bác cho báo hoãn đến một buổi khác. Có đồng chí đề nghị tập trung lớp học ở một địa điểm gần nơi ở của Bác...

Nhưng Bác không đồng ý: “Đã hẹn thì phải đến, đến cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì biết đến khi nào? Thà chỉ một mình Bác và một vài chú nữa chịu ướt còn hơn để cho cả lớp học phải chờ uổng công!”.

Ba năm sau, giữa Thủ đô Hà Nội đang vào xuân, câu chuyện có thêm một đoạn mới. Vào dịp Tết cổ truyền của dân tộc, hàng trăm đại biểu các tầng lớp nhân dân thủ đô tập trung tại Ủy ban Hành chính thành phố để lên chúc tết Bác Hồ. Sắp đến giờ lên đường trời bỗng đổ mưa như trút. Giữa lúc mọi người còn đang lúng túng thu xếp phương tiện cho đoàn đi để Bác khỏi phải chờ lâu thì bỗng xịch, một chiếc xe đậu trước cửa. Bác Hồ từ trên xe bước xuống, cầm ô đi vào, lần lượt bắt tay, chúc tết mỗi người, trong nỗi bất ngờ rưng rưng cảm động của các đại biểu.

Thì ra, thấy trời mưa to, thông cảm với khó khăn của ban tổ chức và không muốn các đại biểu vì mình mà vất vả, Bác chủ động, tự thân đến tại chỗ chúc tết các đại biểu trước. Thật đúng là mối hằng tâm của một lãnh tụ suốt đời quên mình, chỉ nghĩ đến nhân dân, cho đến tận phút lâm chung, vẫn không quên dặn lại: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân”.

Theo: SONG THÀNH

8. Chú còn trẻ, chú vào hầm trú ẩn trước đi Một ngày tháng 7-1967 ở Hà Nội, đồng chí Mai Văn Bộ được Bác Hồ gọi đến

mời cơm tiễn chân trước khi đồng chí lên đường đi Paris nhận nhiệm vụ Tổng đại diện Chính phủ ta bên cạnh Chính phủ Pháp.

Trong bữa cơm, Bác kể chuyện về khu Luýcxămbua, Môngpacnát, nơi Bác có nhiều kỷ niệm. Bác nói Bác rất yêu Paris, Paris đã dạy cho Người nhiều điều...

Bỗng tiếng còi báo động rú lên. Một chiến sĩ bảo vệ yêu cầu Bác và các đồng chí khác xuống hầm. Ít phút sau đã nghe tiếng đạn nổ.

- Thưa Bác, tác chiến báo cáo chúng nó đánh cầu Long Biên. Mời Bác vào hầm trú ngay cho.

Bác quay lại đồng chí Bộ, nói:- Bác già rồi, chẳng bom đế quốc nào ném đâu. Chú còn trẻ, chú cần vào hầm

trú ẩn trước.Rồi Bác đẩy đồng chí Bộ đi trước, sau đó đến đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng

chí cảnh vệ.Bác là người vào hầm trú ẩn sau cùng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm sóc cây vú sữa của đồng bào miền Nam kính tặng người.

Tết trồng cây (5-2-1969)gày nay, đồng bào ta ai cũng hiểu rõ trồng cây gây rừng có ích lợi to lớn cho

kinh tế và quốc phòng. Vì vậy, Tết trồng cây là ngày mở đầu cho việc trồng cây suốt cả nǎm, đã trở thành một tục lệ tốt đẹp của nhân dân ta.

Vào cuối tháng tư năm 1964, Đại hội Liên hoan Phụ nữ "5 tốt" toàn miền Bắc họp tại Thủ đô. Tất cả đại biểu về dự phần lớn là rất trẻ, nhiều cô còn trẻ hơn con dâu út của tôi, duy chỉ tôi là đầu đã bạc.    

         Rồi Bác giải thích điều thứ 5 trong phong trào "5 tốt" vấn đề xây dựng gia đình nuôi dạy con cái, Bác nói: "Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và nghĩa

rộng. Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một đại gia đình. Ta có câu hát:

Nhiễu diều phủ lấy giá gươngNgười trong một nước phải thương nhau cùng

Rộng hơn nữa chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghĩa:Lọ là thân thích ruột rà

Công nông thế giới đều là anh em.

TP - Triển lãm tài liệu lưu trữ với chủ đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc” trưng bày hơn 300 tài liệu hình ảnh và hiện vật, trong đó có nhiều hình ảnh lần đầu được công bố.

Nhân kỷ niệm 117 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cục Văn thư và lưu trữ Nhà nước, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Tổng cục Lưu trữ Nhà nước Trung Quốc đã phối hợp tổ chức triển lãm tài liệu lưu trữ với chủ đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc” tại Bảo tàng Hồ Chí Minh để giới thiệu với người xem quá trình hoạt động của Người.

Sách Hồ Chí minh biên niên tiểu sử, tập 10, do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1996, trang 334, có đoạn:

"Ngày 27 tháng 4 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe hai đồng chí: Lê Đức Anh và Chu Huy Mân báo cáo công việc, sau đó Người mời hai đồng chí ở lại ăn cơm với Người".

Sáng hôm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bỏ phiếu bầu Hội đồng nhân dân cấp huyện, xã... Người bỏ phiếu tại hòm phiếu số 6, đơn vị 1, tiểu khu 1, khu phố Ba Đình, Hà Nội, đặt tại Nhà thuyền Hồ Tây.

Khi Bác Hồ đến, trong Nhà thuyền đã có nhiều cử tri đang bỏ phiếu. Tổ bầu cử thấy Bác đến, ra hiệu để đồng bào tạm dựng và tạo "điều kiện" để Bác bỏ phiếu trước. Biết ý, Bác nói "sòng phẳng":

- Ai đến trước, viết trước, Bác đến sau, Bác chờ. Bác chờ cho đến hàng mình, mới nhận phiếu và vào "buồng" phiếu.

Nhà báo Ma Cường chợt nghĩ thật là "hạnh phúc một đời của người làm báo", "cơ hội ngàn năm có một" và vội giơ máy lên bấm, rất nhanh, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tay che phiếu lại, nói với Ma Cường:

- Không ai được vào đây. Đây là phòng viết phiếu kín của cử tri. Phải bảo đảm tự do và bí mật cho công dân.

Nhà báo buông máy, nhưng vẫn thấy hạnh phúc.Theo lời kể của các đồng chí ở gần Bác, trước khi đi bầu cử Bác không cho ai

"gợi ý" cả, Bác nói:

- Ấy, đừng có "lãnh đạo" Bác nhé. Bác không biết Đảng uỷ hướng dẫn danh sách để ai, xóa ai đâu nhé. Đưa lý lịch của những người ứng cử đây để Bác xem. Có chú nào dự buổi ứng cử viên trình bày ý kiến với cử tri, nói lại để Bác cân nhắc, Bác tự bầu.

Các đồng chí ở gần Bác đều cho biết Bác rất tiết kiệm. Có đôi tất rách đã vá đi, vá lại mấy lần Bác cũng không dùng tất mới. Bác nói:

- Cái gì còn dùng được nên dùng. Bỏ đi không nên...Khi tất rách chưa kịp vá, anh em đưa đôi mới để Bác dùng, Bác xoay chỗ rách

vào bên trong rồi cười xí xóa:- Đấy, có trông thấy rách nữa đâu...Có quả chuối hơi nẫu, anh cán bộ chê không ăn, Bác lấy dao gọt phần nẫu đi,

bóc ăn ngon lành, rồi nói:- Ở chiến khu có được quả chuối này cũng đã quý...Câu nói và việc làm của Bác làm đồng chí cán bộ hối hận mãi.Dù cho đã làm đến Chủ tịch nước, suốt trong những năm ở Việt Bắc, ở Hà Nội,

Bác chưa bao giờ "có tiền" (như anh em cán bộ, chiến sĩ công tác quanh Bác thường nhận xét).

Thực tế lịch sử cho thấy rằng: suốt thời gian hoạt động của Bác ở nước ngoài, Bác gặp rất nhiều khó khăn về tài chính do những nguyên nhân khác nhau. Đường đồng nào, chủ yếu do lao động tự thân mà có, Bác dành cho công tác cách mạng. Bác chi tiêu rất dè xẻn, cân nhắc từng xu. Liên hoan mừng thành lập Đảng cũng chỉ có bát cơm, món xào, tô canh, đĩa cá. Chiêu đãi đồng chí Lý Bội Quần, người Trung Quốc, người đã mua chiếc máy chữ từ Hải Phòng về tặng Người (năm 1939), Bác cũng chỉ "khao một món canh và 2 đĩa thức ăn, thêm hai lạng rượu, tổng cộng chưa hết một đồng bạc".

Tự thết đãi mình "khi nghe tin Hồng quân bắt sống 33 vạn quân Hítle ở Xtalingrát năm 1943", tại nhà tù, trong túi chỉ có vẻn vẹn một đồng bạc, Bác đã "nhờ người lính gác mua giùm cho ít kẹo và dầu chả quẩy". Sau khi phấn khởi hô mấy khẩu hiệu hoan nghênh thắng lợi của Liên Xô, Bác "ngồi một mình, chén tạc, chén thù rất đàng hoàng vui vẻ"...

Năm 1957, Bác về thăm Nghệ Tĩnh, khi ăn cơm chung với các đồng chí Nguyễn Sĩ Quế, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Diệm, Bác đã để bớt ra ngoài mâm mấy món ăn, rồi nói: "Ăn hết lấy thêm, không ăn hết để người khác ăn, đừng để người ta ăn thừa của mình".

Có thể dẫn ra nhiều nữa những ví dụ về cách chi tiêu, sử dụng tiền bạc, cơ sở vật chất của Bác, rất "mâu thuẫn thống nhất": chắt chiu, tần tiện nhưng vẫn rộng rãi, không hoang phí mà cũng không keo kiệt, "ki bo".

Thế giới, loài người  tự hào về Bác. Là người Việt Nam, đồng hương của Bác, chúng ta càng tự hào biết bao! Cách ứng xử của  Bác với tiền tài, với cái ăn, cái mặc, với cơ sở vật chất nói chung đâu có phải là cao quá mà chúng ta không học tập được, đâu có phải là một tòa thánh cấm uy nghiêm mà chúng ta không đặt chân lên được thềm bậc, dù là bậc thềm thứ nhất?

Suốt đời tôi không quên... GS.Hoàng Như Mai Năm 1953, tôi được triệu tập đi học một lớp chính trị tập trung 3 tháng. Lớp đặt

ở ATK (An toàn khu - nơi sơ tán của các cơ quan trung ương ở liên khu Việt Bắc). Số đông học viên của lớp này là các cán bộ giáo dục, văn học nghệ thuật trung ương. Có nhiều vị lão thành cách mạng, có những người đã từng giữ những trọng trách trong Đảng và Chính phủ.

Hồi ấy chiến tranh đang còn ác liệt, máy bay Pháp đánh phá dữ dội, các lán dựng lên làm lớp học, nơi ăn ở cho các học viên được cây rừng đại ngàn che phủ, chung quanh có những căn hầm để khi có máy bay đến thì học viên rút xuống trú ẩn. 

Bác Hồ cùng nhiều vị trong Trung ương thường đến thăm lớp học. Đặc biệt, Bác luôn luôn nhắc nhở các đồng chí phụ trách lớp phải săn sóc sức khỏe, phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các học viên.

Mỗi lần Bác đến, lớp học rất vui, Bác nói chuyện thân mật với các học viên. Bác kể chuyện Bác học chính trị, học tiếng Pháp, tiếng Anh, học viết báo và động viên các học viên cố gắng học tập cho tốt.

Có lần Bác được một địa phương biếu 4 tấm áo lụa. Bác đem áo đến lớp tặng cho 4 cụ cao tuổi nhất. 

Sau mỗi bài học, các học viên viết thu hoạch. Ban phụ trách lớp báo cáo kết quả lên Bác. Bác đến biểu dương sự tiến bộ của các học viên và giảng thêm những điều cần phải hiểu rõ, hiểu sâu để thực hiện cho đúng, cho tốt.

Một lần Bác đến vào buổi tối, cùng đi với Bác có đồng chí Phạm Văn Đồng và nhiều vị bộ trưởng, nhiều vị ủy viên Trung ương. Buổi báo cáo sơ kết đang tiến hành thì có tiếng báo động máy bay địch đến. Đồng chí Phạm Văn Đồng đứng lên chỉ huy: "Tắt hết đèn, mời các học viên khẩn trương ra hầm trú ẩn!". 

Mọi người nhanh nhẹn ra khỏi hội trường đi đến các hầm trú ẩn chung quanh lớp học.

Tôi cũng vội vàng rảo bước ra cửa. Bỗng một bàn tay nắm lấy cánh tay phải của tôi. Trong đêm tối, tôi không biết là ai nhưng khi nghe tiếng nói thì tôi biết là Bác Hồ. Bác nói: "Chú còn trẻ (năm ấy tôi mới hơn 30 tuổi), chú mắt tinh, chú dắt các cụ ra hầm trú ẩn kẻo nhỡ các cụ vấp phải rễ cây ngã thì lôi thôi". 

Nghe Bác nói vậy, tôi giật mình và xấu hổ quá. Thì ra Bác đã chú ý chỗ dãy bàn tôi ngồi học có nhiều cụ cao tuổi cho nên vừa tắt đèn Bác vội đến chỗ tôi bảo tôi dẫn các cụ ra hầm trú ẩn.

Một lát sau máy bay địch đi xa. Các ngọn đèn măng-sông lại được thắp sáng, tôi thấy các vị trong Trung ương đều đứng chung quanh Bác Hồ như muốn lấy thân

mình để bảo vệ Bác. Không ai biết rằng trong lúc tắt đèn Bác đã nghĩ ngay đến việc bảo vệ an toàn cho các vị lão thành và đến chỉ thị cho tôi làm công việc như tôi đã nói trên.

Còn tôi, tôi nghĩ mãi về câu nói của Bác: "Chú còn trẻ, mắt chú tinh...". Càng nghĩ tôi càng hổ thẹn. Các cụ đều đáng là bậc cha chú của tôi. Có vị là thầy dạy tôi, thế mà khi có sự nguy hiểm, đáng lẽ phải giúp các cụ thì mình lại chỉ lo thân mình.

Tôi nghĩ vậy mà xấu hổ, không dám ngẩng lên nhìn ai. Đến lúc ngước lên thì thấy đôi mắt của Bác nhìn tôi hiền từ, dường như Người bằng lòng vì tôi đã phục vụ các cụ một cách chu đáo.

Kính già, mến trẻ, lo cho người gặp hoạn nạn, giúp đỡ người trong lúc khó khăn, thương người như thể thương thân... Đó là những đạo đức cao đẹp của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của những đạo đức ấy. Bình sinh đồng chí Phạm Văn Đồng thường nói Bác Hồ là người Việt Nam đẹp nhất. 

Tôi đã được Bác Hồ dạy cho bài học đạo đức ấy, và suốt đời tôi không quên. "Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ giáo dục đạo đức Cách Mạng cho cán

bộ, Đảng viên bằng lời nói mà còn bằng chính tấm gương sống của bản thân mình..."

(Trích bài phát biểu của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh phát động cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tại lễ kỷ niệm 77 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 2/2/2007)

Cán bộ đảng viên: đức là gốc...Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định

mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để làm tốt nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển như Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ, Đảng ta cần "tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân".

Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, trọng tâm về tư tưởng là giáo dục lập trường giai cấp công nhân, bản chất cách mạng và niềm tin cộng sản, lòng yêu nước, thương dân là điều Bác Hồ đặc biệt quan tâm trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.

Người luôn chăm lo giáo dục, rèn luyện đảng viên về phẩm chất, đạo đức và đặt lên hàng đầu vấn đề "tư cách người cách mạng". Người luôn làm gương và yêu cầu mỗi người, nhất là cán bộ, đảng viên, phải có đạo đức cách mạng, phải kết hợp chặt chẽ phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, đức và tài, trong đó đức là gốc.

Người nói: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Người

đòi hỏi "xây" phải đi đôi với "chống", nâng cao đạo đức cách mạng phải đi đôi với quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Bác đã căn dặn cán bộ phải chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Bước vào kháng chiến, Người viết "Sửa đổi lối làm việc", trong đó đã nhiều lần nhấn mạnh tới sự cấp thiết phải chống chủ nghĩa cá nhân. Ngày 03/2/1969, nhân dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng, Bác viết bài đăng báo Nhân dân nhân đề "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân". Trong Di chúc để lại cho muôn đời con cháu, Bác căn dặn: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".

Chủ nghĩa cá nhân là mẹ đẻ của các tư tưởng không đúngThực tiễn xây dựng Đảng trong 77 năm qua cho thấy rõ: trong điều kiện Đảng

cầm quyền, sự tha hóa về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, nhất là ở những người đứng đầu cơ quan, đơn vị, sẽ làm vô hiệu hóa toàn bộ công tác xây dựng Đảng, làm cho tổ chức Đảng tê liệt, không còn sức sống. Đạo đức là cái gốc của người cách mạng; nếu không có đạo đức, không toàn tâm, toàn ý vì Đảng, vì dân thì dù có tài giỏi mấy cũng chẳng có ích gì, có khi còn có hại cho cách mạng.

Trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo các thế hệ chiến sĩ cách mạng, Bác Hồ là người đi tiên phong, gieo hạt mở đường. Từ các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu, các lớp bồi dưỡng ở biên giới Việt - Trung về "con đường giải phóng"... đến các lớp huấn luyện cán bộ, các lớp chỉnh huấn trong kháng chiến, các lớp bồi dưỡng đảng viên mới sau hoà bình v.v... không lúc nào Người không đặt lên hàng đầu công việc giáo dục, đào tạo cán bộ. "Đường kách mệnh", "Sửa đổi lối làm việc" và các bài nói chuyện của Bác ở các lớp huấn luyện, lớp chỉnh huấn... trước đây, cho đến nay vẫn là những lời dạy đầy tâm huyết, tiếp tục ngân vang, gợi mở trong tư duy và tâm hồn mỗi người chúng ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chăm lo xây dựng con người, coi đó là vấn đề số một của cách mạng. Bác thường nói : tất cả là do con người, có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa". Bác phê phán một số cán bộ ta hình như mải làm công tác hành chính, sự vụ hơn là để nhiều tâm sức xây dựng con người, xây dựng Đảng và các tổ chức cách mạng, cho nên không chịu theo dõi việc làm hàng ngày của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Ai làm tốt, không chịu nêu gương, ai làm xấu không kịp thời giúp đỡ sửa chữa... Bác gọi "đó là những cán bộ không biết làm việc".

Bác chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc". Bác nói: tư tưởng không đúng thì có nhiều, nhưng có

một tư tưởng mẹ: đó là chủ nghĩa cá nhân.  "Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích của tập thể. "Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy". Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nết xấu như: lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô v.v... Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội". "Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị, quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, coi khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân".

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên bằng lời nói mà còn bằng chính tấm gương sống của bản thân mình. Người suốt đời tự rèn luyện và lúc nào cũng nghiêm cẩn khép mình vào đạo đức.

Tấm gương đạo đức của Bác Hồ là tuyệt vời trong sáng và toàn vẹn. Thực hiện nhất quán giữa nói và làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng

ta  đào tạo nên bao thế hệ chiến sĩ cách mạng có phẩm chất tốt, lấy lời dạy của Bác làm phương châm hành động: Trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; sẵn sàng hiến dâng đời mình cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng !

Trong những năm đổi mới vừa qua, trong công tác lãnh đạo của mình, Đảng ta luôn luôn coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong xây dựng Đảng, chúng ta cũng đã quan tâm rất nhiều đến nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng, coi trọng việc giáo dục về phẩm chất và đạo đức. Đại hội X của Đảng ta đánh giá rằng "công tác xây dựng Đảng trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả tích cực". "Đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức". Tuy nhiên Đại hội cũng chỉ rõ: "Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng...". Đại hội đòi hỏi chúng ta: "trong những năm tới phải dành nhiều công sức, tạo được chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng". Chúng ta cần thấy rõ rằng, trong tình hình hiện nay, những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân vẫn giữ nguyên giá trị và tính thời sự.

Động lực trước cục diện mớiChủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu cho phẩm chất

đạo đức và khí phách của dân tộc ta, Đảng ta. Giáo dục đạo đức, xây dựng lối sống tốt đẹp theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh vừa là yêu cầu cấp bách hiện nay, vừa là

nhiệm vụ cơ bản, lâu dài. Đẩy mạnh việc giáo dục, xây dựng đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trong thời kỳ mới thông qua tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm khơi dậy và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, đấu tranh khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống; chặn đứng, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội; hình thành và phát triển các giá trị đạo đức của chủ nghĩa xã hội; xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nhân cách cao đẹp, bản lĩnh chính trị vững vàng, lối sống văn minh, xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh, tiến bộ.

Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội, được tiến hành trong thời gian dài, có nội dung phong phú, cụ thể và thiết thực. Đây là một trong những biện pháp cơ bản để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khoá X; là một trong những động lực chính trị quan trọng góp phần tăng cường sức mạnh của Đảng, của dân tộc trước cục diện phát triển mới của đất nước.

Thắng lợi của cuộc vận động tuỳ thuộc trước hết vào nhận thức, tinh thần trách nhiệm, quyết tâm hành động và sự chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của các cấp uỷ đảng; sự phấn đấu tự giác của từng cán bộ, đảng viên và sự ủng hộ của toàn dân.

Tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức Đất nước ta đã bước sang năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của

Đảng. Những năm tới, đất nước ta có cơ hội lớn để tiến lên, tuy khó khăn, thách thức còn nhiều. Đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn.

Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tôi kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên gương mẫu, đi đầu thực hiện tốt cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", lôi cuốn đồng bào và chiến sĩ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài cùng tham gia; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đẩy mạnh phong trào thi đua lập nên những thành tích xuất sắc trong phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Với niềm tự hào và niềm tin sâu sắc vào Đảng quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang của dân tộc, của Đảng, vững bước tiến lên trong thời kỳ đổi mới, đoàn kết, hội nhập và phát triển bền vững.

Theo Báo điện tử Đảng Cộng sảTÓM TẮT TIỂU SỬ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức yêu

nước, nguồn gốc nông dân ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có

truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị nặng nề của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và giáo dục gia đình đã ảnh hưởn sâu sắc đến Hồ Chủ tịch ngay từ thời niên thiếu.

Với tinh thần yêu nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi bấy giờ và quyết tâm đi tìm con đường đúng đắn để cứu dân, cứu nước.

Tháng 6/1911, Người ra nước ngoài, đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những côngnhân và những người dân thuộc địa, vừa lao động để sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi vang dội của cách mạng tháng Mười Nga đã đưa Hồ Chủ tịch đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ra sức nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã nhận rõ đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.

Cùng năm ấy, Người thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước để tập hợp Việt Kiều ở Pháp. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đầu năm đó, Người gửi đến Hội nghị Véc-xây (Pháp) "Bản yêusách của nhân dân Việt Nam", đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và bình đẳng của dân tộc Việt Nam. .

Tháng 12/1920, trong Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện trên đây đánh dấu bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người, bước ngoa chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản

Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và năm 1922 xuất bản báo "Người cùng khổ" ở Pháp. Tháng 6/1923, Người từ Pháp đi Liên Xô, nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tham gia công tác của Quốc tế cộng sản. Cùng năm đó, Người được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế nông dân. Năm 1924, người dự Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản và được cử làm Ủy viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục phương Nam, hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào Cộng sản ở các nước Đông - Nam châu Á. Năm 1925, Người thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông.

Tháng 6/1925, Người tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, mà hạt nhân là Cộng sản Đoàn, đồng thời ra báo Thanh niên và mở lớp huấn luyện đào tạo hàng trăm cán bộ đưa về nước hoạt động.

Ngày 3/2/1930, Người triệu tập hội nghị hợp nhất tại Cửu Long (Hương Cảng) để thống

nhất các nhóm cộng sản trong nước thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian từ 1930 đến 1940, Người ở nước ngoài tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chị thị quý báu cho Ban chấp hành Trung ương Đảng ta.

Năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài Người về nước triệu tâp hội nghị n thứ tám của Ban chấp hành Trung ương Đảng, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), gấp rút xây dựng lực lượng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Ngày 22/12/1944, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay và xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Tháng 8/1945, trong không khí sôi sục cách mạng của thời kỳ tiền khởi nghĩa, Người cùng Trung ương triệu tập đại hội quốc dân ở Tân Trào. Đại hội đã cử Người làm chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Người đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2/9/1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước nhân dân cả nước và nhân dân toàn thế giới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Trong những ngày đầu cách mạng, nước ta có nhiều khó khăn chồng chất và bị bao vây bốn phía. Nạn đói do phát xít Nhật - Pháp gây ra đã giết hại hơn hai triệu người Việt Nam. Tháng 9/1945 câu kết với các đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động Quốc dân Đảng Trung Quốc, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, âm mưu xóa bỏ mọi thành quả của Cách mạng tháng Tám.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân ra vừa đánh trả bọn thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, vừa đối phó với bọn phản động Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc.

Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 được ký kết giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp. Quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam, kéo ra miền Bắc và lấn dần từng bước ở miền Bắc, âm mưu tieến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước tình hình ấy, tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến và cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài chống thực dân Pháp đến thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ (1954).

Tháng 7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng. Nhưng một nửa nước ở miền Nam bị đế quốc Mỹ biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Tháng 9/1960, đại hội lần thứ ba của Đảng đã họp, thông qua nghị quyết về hai nhiệm vụ chiến lược và bầu đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Người và của Ban chấp hành Trung ương đảng, nhân dân ta vừa đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiếng chống Mỹ, cứu nước để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Ngày 2/9/1969, Người từ trần, hưởng thọ 79 tuổi. Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của

mộtngười cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hòa bình và công lý trên thế giới.

Cuộc họp lần thứ 24, năm 1987 tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của liên hợp quốc UNESCO ra nghị quyết về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh "Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và là một nhà văn hóa lớn" (HỒ CHÍ MINH VIETNAMESE HERO OF NATIONAL LIBERATION AND GREAT MAN OF CULTURE) vào năm 1990.

Sáng nay, qua đây nói, anh Hiến(2) triệu tập tôi về Bộ có việc cần. Tôi vẫn đinh ninh như mọi bận, về nhận chủ trương mới. Tôi hỏi anh Hiến có phải chuẩn bị gì không. Anh chỉ cười và bảo: "Bình thường". Ai ngờ đến giờ phút này anh mới nói thật với tôi là "Bác gọi".

         Trời ơi! Bác gọi tôi? Bác gọi nhầm chăng? Mình nghe không rõ chăng? Mình mơ ngủ à? Tôi hỏi lại anh Hiến mà lòng vui rạo rực, không lấy gì tả xiết, không lấy gì đo cho hết nỗi mừng. Tôi quên cả mệt nhọc, hồi hộp và cảm động lắm. Rồi đây, chốc nữa gặp Bác, biết làm sao, biết thưa cùng Bác điều gì? Anh Hiến thấy tôi bối rối, anh dặn:         - Có gì nói nấy!

         Trong đời, lần đầu tiên, đây là một vinh dự quá bất ngờ - một hạnh phúc cao nhất đối với tôi. Tôi suy nghĩ, sắp xếp dự kiến những điều Bác sẽ hỏi và mình sẽ

thưa lại. Nhưng còn đâu thì giờ, tôi thầm trách anh Hiến, lẽ ra anh cho tôi biết ngay từ đầu. Tôi kìm cương ngựa lại, đi thong thả chờ anh Hiến.

         Đến giữa rừng, một ánh lửa đàng xa soi đường đưa chúng tôi về một căn nhà nhỏ. Anh Chiến (bảo vệ Bác) ra gặp, và hướng dẫn chúng tôi đến một nơi khác. Đi một quãng nữa, thì đến ngôi nhà lá. Một đống lửa đốt ở giữa nhà, một ông cụ điềm đạm đang ngồi trên một khúc gỗ, ánh lửa chói sáng vầng trán cao, ông cụ cúi xuống xếp lại que củi cho ngọn lửa cháy to, nên không nom rõ mặt. Không gì vui sướng hơn! Tôi không ngờ nơi đây là Phủ Chủ tịch, là nơi luận bàn việc nước của Chính phủ Trung ương - trung tâm lãnh đạo toàn dân chống Pháp - nơi tập trung trí tuệ và sức mạnh của dân mình. Và ông cụ khoác áo ka ki bạc màu ngồi đó, là Bác Hồ. Trong khoảnh khắc, tôi còn tần ngần đứng lại bên ngoài. Anh Hiến bước vào trước, đến khi Bác lên tiếng gọi: "Chú Sửu đó phải không?", tôi mới bừng tỉnh. Ôi, sung sướng quá, tôi líu lưỡi:         - Thưa Bác, có cháu đây ạ?         Trời sắp sửa sang thu, chưa rét, nhưng ở rừng sâu, đêm có sương lạnh. Bác đang ngồi sưởi và suy nghĩ.

         Bác chỉ một khúc gỗ bên đống lửa và ra hiệu bảo chúng tôi ngồi. Vừa xúc động, vừa vui mừng, tôi quan sát và cố ngắm thật kỹ, nhìn Bác rõ lâu. Dáng Bác gầy và hơi yếu. Tôi nhìn Bác từ chòm râu, mái tóc, từ nếp quần nâu giản dị đến đôi dép cao su đã sờn mép. Tôi chăm chú đến căn nhà nhỏ đơn sơ, gọn gàng, một chiếc bàn tre, một cây đèn bão tỏa ánh sáng đỏ trên những trang sách báo gồm nhiều thứ tiếng nước ngoài. Bên phải tôi là chiếc giường con trải chiếu cói và chiếc chăn trấn thủ gấp vuông góc. Tôi nhìn mãi chừng ấy thứ. Và chỉ chừng ấy thôi cũng nói lên cuộc sống thanh đạm của Bác. Tôi đã tự đặt cho mình một công việc quan trọng là phải nhìn cho kỹ, nghe cho rõ thu hết vào tâm trí để khi về kể lại cho anh chị em công nhân.

         Tôi đợi chờ, chưa dám ngồi gần, Bác dịu dàng kéo xích tôi lại và bằng một giọng ấm áp, Bác hỏi:         - Chú có biết vì sao hôm nay Bác gọi lên không?         Thưa không ạ, cháu nghe đồng chí Bộ trưởng Lê Văn Hiến gọi lên họp ở Bộ, cháu cũng chưa rõ việc gì.         - Bác muốn nghe chuyện nhà máy của các chú làm ăn, chiến đấu ra sao?         Tôi đưa mắt nhìn anh Hiến, như muốn cầu cứu anh giúp tôi báo cáo, nhưng anh chỉ cười, có ý bảo: cứ thật thà mà nói.         Thật là lúng túng, tôi trình bày tóm tắt, nhiều đoạn ngập ngừng, đại thể như thế này:         - Anh chị em công nhân theo lời Bác kêu gọi đã cùng toàn dân đứng lên đánh giặc, cứu nước. Nhà máy giấy Đáp Cầu đã tiêu thổ kháng chiến. Nhà cửa, kho tàng đã phá hủy. Máy móc thiết bị được dời về chiến khu. Bằng phương tiện thô sơ, chúng tôi mất bốn năm tháng trời để di chuyển ba nghìn tấn hàng, trong đó có trên một nghìn tấn máy móc cồng kềnh, một khối lượng trên sáu mươi vạn tấn cây số. Bình quân mỗi ngàJr anh chị em thợ chúng tôi phải đưa ba mươi tấn máy móc, vật liệu trên quãng đường dài hai

trăm cây số. Lúc bấy giờ, trong tay chỉ có mấy chiếc xe chạy bằng dầu ma dút cọc cạch, ngoài ra là xe bò, ngựa thồ, thuyền gỗ và chủ yếu là bằng đôi vai. Chúng tôi vừa di chuyển, vừa chiến đấu và vừa xây dựng. Tôi cũng thưa lại với Bác những đoạn đường trèo đèo lội suối, trên đầu thì tàu bay giặc bắn phá, dưới đất thì địch tấn công, trăm nghìn gian khổ. Nhưng anh chị em vẫn không hề lay chuyển tấm lòng son sắt với Đảng, với cuộc kháng chiến trường kỳ. Nhiều khi chuyển không kịp phải dìm máy móc và cầm súng tự vệ. Địch đi, anh chị em công nhân lại tiếp tục sản xuất, xây dựng.

         Sau khi nhà cửa, lán trại dựng xong, ngày 19-8-1947, nhà máy trong rừng lại bắt đầu hoạt động như cũ. Từ 600 công nhân phát triển lên quá gấp đôi, phân tán làm nhiều cơ sở Điện lại sáng rừng, giấy lại tiếp tục ra lò. Giấy in bạc cho nhu cầu giết giặc. Giấy in sách báo để phát triển văn hóa giáo dục. Giấy lên vùng rẻo cao với đồng bào các dân tộc Giấy vào Trị Thiên, qua Khu 5, vào Khu 6, đi Nam Bộ. Đồng bào, đồng chí ta trong đó ngày ngày khát khao mong đợi những văn kiện, tài liệu chỉ thị của Đảng, của Bác... Và cũng từ ấy ủy ban công nhân quyết định lấy tên đồng chí Hoàng Văn Thụ, một trong những lãnh tụ xuất sắc của Đảng cộng sản Đông Dương, đặt tên cho nhà máy kháng chiến của mình.

          Buổi tối hôm ấy, tôi báo cáo không được mạch lạc lắm, nhưng Bác rất chú ý lắng nghe. Thỉnh thoảng Bác gật đầu. Tôi ngước nhìn trộm thấy Bác vui, nên cứ tiếp tục kể. Còn anh Hiến thì theo dõi, thỉnh thoảng lại nhắc một vài việc mà tôi quên. Tự nhiên tôi thấy mình bạo hơn. Tôi kể cả những chuyện làm nên, những điều thất bại trong lãnh đạo trong đấu tranh cho Bác nghe, mong Bác dạy bảo cho những việc làm, những điều phải tránh. Tôi ngừng một lúc.         Thế nào, hết chưa? Bác hỏi tôi vậy.         Cháu quên nhiều. Bác dạy gì cháu thưa tiếp.         Bác châm một diếu thuốc lá, rồi Bác hỏi:        - Anh chị em thợ làm việc và chiến đấu gian khổ như vậy, chú sắp xếp cho công nhân và gia đình anh chị em ăn ở như thế nào?

         Cũng may là điều này tôi đã chuẩn bị sẵn trong óc, nên báo cáo rất tỉ mỉ với Bác về tình hình ăn ở, về việc địa phương cung cấp gạo, mắm muối và việc giúp các gia đình công nhân tham gia làm việc trong nhà máy. Tôi kể lại những hy sinh to lớn của anh chị em công nhân trẻ làm việc không có lương, ăn uống kham khổ, nhưng trăm người như một đều hướng về Đảng và tin tưởng ở thắng lợi ngày mai.

         Trước hết, Bác dạy tôi phải chú trọng đến việc nâng cao đời sống cho công nhân. Bác nói:         - Kháng chiến còn dài, phải biết tăng gia sản xuất và tiết kiệm, tránh lãng phí. Chi bộ Đảng phải quan tâm đến đời sống và học tập của anh chị em thợ trẻ.         Tôi say sưa nghe kỹ từng lời, từng chữ. Bác tiếp tục hỏi:         - Nhà máy đã che kín chưa? Khi tàu bay bắn phá thì anh chị em ẩn nấp ở đâu?         Thực ra nhà máy chúng tôi chưa có kế hoạch gì cả, mình lại còn non nớt, chưa có kinh nghiệm, lại xem thường, nên tôi báo cáo:

         - Gần rừng, nếu có việc gì chúng cháu kéo chạy ra rừng, hoặc thưa Bác chạy vào sườn núi ạ?Bác lắc đầu:         - Không được đâu, thế là chủ quan lắm. Ngày mai về khai hội chi bộ Đảng các chú phải tổ chức đào hầm tránh máy bay, phải che chắn máy móc cẩn thận. Nếu bỏ chạy, thì không sản xuất được mà còn bị lộ sẽ nguy hiểm. Còn người, còn máy thì còn sản xuất và còn đánh Pháp được. Con người là rất quí. Các chú phải bảo vệ cẩn thận.         Bác quay sang phía anh Hiến:         - Bác nhắc chú Hiến là đối với các cơ sở sản xuất phải chú ý an toàn, phải cảnh giác, chớ coi thường.         Vâng, cháu xin hứa về làm ngay ạ!         Anh Hiến biết khuyết điểm, mặt hơi cúi xuống, còn tôi thì toát mồ hôi. Tôi nghĩ: mình thật đáng tội. Bác phê bình đồng chí Bộ trưởng, nhưng chính là khuyết điểm của mình. Lần đầu tiên được Bác trực tiếp phê bình thật chí lý, mình chưa làm tròn phận sự bảo vệ công nhân.         Chúng tôi đang băn khoăn, thì Bác lại thân mật hỏi tiếp:          Các chú ở nhà máy có liên hệ, giúp đỡ bà con nông dân ở địa phương không? Phong tục ở đấy, các chú đã hiểu hết chưa?         Thưa chưa ạ!         Bác cười, nụ cười rất hiền hậu, khoan dung, nhưng cũng rất nghiêm khắc:         - Thế ai cung cấp nguyên liệu cho các chú?         - Bà con các dân tộc ạ?         Bác xòe bàn tay, chỉ từng ngón một, Bác nói:         - Gạo này, thịt này, tre nứa này, các thứ làm ra giấy này, cái gì cũng dựa vào nhân dân. Bà con nông dân ở đây "hậu đãi các chú như thế, mà các chú lại ăn ở "bạc bẽo" không liên hệ giúp đỡ bà con.Bác nói tiếp:         - Thế bà con nông dân nghe xây dựng nhà máy có vui mừng không?         - Thưa Bác vui thì có vui ạ, nhưng cũng sợ bị ném bom chết cả làng.         Bác ngắt lời tôi:         - Đúng đấy, phải hiểu rõ khó khăn và tâm tư của quần chúng, giáo dục giúp đỡ đồng bào cùng chiến đấu bảo vệ nhà máy, bảo vệ cách mạng. Còn các chú công nhân thì phải đoàn kết, gương mẫu đi đầu trong mọi việc để quần chúng tin cậy. Đồng bào vững lòng kháng chiến và tin tưởng thì kháng chiến nhất định thành công.         Bác lại ân cần thăm hỏi gia đình tôi và Bác hỏi tôi bao nhiêu tuổi. Tôi đáp lại:         Cháu hăm ba tuổi ạ.         Bác gật đầu có vẻ hài lòng. Bác nói:         - Thanh niên như thế là tốt, chú còn trẻ. Làm việc phải biết dựa vào Đảng, dựa vào nhân dân. Việc gì cũng bàn bạc với quần chúng. Phải khiêm tốn, tự nguyện làm học trò quần chúng.

         Sau cùng, Bác khen anh chị em thợ nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ đã anh dũng chiến đấu và làm được giấy kháng chiến. Bác dạy:         - Công nhân nhà máy còn phải ra sức học tập phải nêu cao vai trò làm chủ, phải tiến bộ không ngừng, không được tự kiêu, tự mãn. Sau này kháng chiến thắng lợi hoàn toàn, các cô các chú còn phải quản lý nhà máy to lớn hơn.Câu chuyện kéo dài quá bốn mươi phút. Bác còn dặn dò anh Hiến:        - Chú Hiến nên rút ra một số kinh nghiệm. Qua nhà máy Hoàng Văn Thụ, công nhân Việt Nam ta như vậy là rất giỏi, rất dũng cảm. Phải đẩy mạnh thi đua ái quốc, thi đua làm nhanh, làm nhiều, làm tốt, làm rẻ. Phát huy mọi khả năng, mọi sáng kiến làm cho mọi người tin ở sức mình, tin ở tập thể. Phải bảo vệ cơ sở sản xuất cho tết. Bác nhắc chú vấn đề dùng máy sản xuất, nhưng phải coi trọng thủ công. Chẳng may máy móc bị bắn phá, thì vẫn liên tục sản xuất được. Bác nghe chú Sửu, bí thư chi bộ nhà máy nói như vậy là chưa chú trọng đúng mức đến đời sống công nhân. Chưa hết lòng giúp đỡ đồng bào địa phương và chưa cảnh giác cách mạng cao.         Đêm ấy ra về, anh Hiến dặn tôi phải đem mọi ý kiến của Bác về báo cáo với chi bộ, và bàn bạc với anh em công nhân, phát động thi đua trong nhà máy.

          Hôm sau mặt trời lên đã khá cao, tôi trở về đến nhà.         Toàn thể cán bộ, công nhân nhà máy đã họp mít tinh để nghe tôi báo cáo

và phát động thi đua sản xuất tiết kiệm.         Cũng nhờ đó mà tinh thần làm chủ được nêu cao, sáng kiến được nảy nở,

phong trào thi đua với chị thợ xeo Nguyễn Thị Soi được toàn thể cán bộ, công nhân tham gia sôi nổi. Chúng tôi tìm tòi làm "than trắng" (thủy điện nhỏ) tiết kiệm được nhiều "vàng đen", hạ giá thành 20%. Những đường hào những hầm hố ngang dọc quanh nhà máy, máy móc được đắp ụ che chắn kỹ. Trong những năm kháng chiến, có nơi bị bắn phá đến 12 lần, có cơ sở chịu đựng 18 trận bom mà vẫn bảo vệ được an toàn, hạn chế được thiệt hại.

         Vâng theo lời Bác dạy, chúng tôi cuốc nương, phá đồi hoang trồng sắn, trồng khoai. Hàng năm tự túc được trên ba tháng lương thực, để cho các chiến sĩ có nhiều thóc gạo ăn no đánh khỏe giành thắng lợi. Vâng lời Bác, chúng tôi eòn ra sức giúp .đồng bào địa phương, đáp đền lại tấm lòng trung hậu và ý chí cách mạng của nông dân, và cũng nhờ thế, tinh thần đoàn kết công nông được tăng cường rõ rệt.

          Thế rồi, sau chín năm chiến đấu cực kỳ anh dũng, hòa bình được lập lại. Những lời dạy xưa kia của Bác được thực hiện đầy đủ. Quả nhiên, anh chị em nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ làm chủ được nhà máy to lớn gấp bội phần, mức sản xuất gấp hàng chục lần trước kia. Mười bốn năm sau, mỗi năm, thành tích thi đua yêu nước của nhà máy được đánh dấu bằng một Huân chương lao động. Có hai phân xưởng được danh hiệu vẻ vang: phân xưởng lao động xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ đã trở thành lá cờ đầu của ngành công nghiệp. Nhất là những ngày chống chiến tranh phá hoại man rợ của giặc Mỹ, anh chị em công nhân vừa chiến đấu vừa sản xuất đã lập nhiều thành tích vẻ vang và góp phần bắn rơi nhiều máy bay Mỹ.

         Hai mươi năm đã qua, những lời dạy của Bác đã soi sáng cho chúng tôi trên mọi đường, trong mọi công tác, trong tư tưởng, tình cảm và cả trong sinh hoạt hàng ngày.

         Bác gọi tôi hai mươi năm về trước, tôi vẫn đinh ninh là Bác vừa gọi tôi mới ngày hôm qua. Bác gọi, cháu luôn luôn có mặt. Thưa với Bác "chúng cháu đã sẵn sàng".

(Ghi theo lời đồng chí Đỗ Văn Sửu)(1)(1) Đồng chí Đỗ Văn Sửu là giám đốc nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ.

Sau này đồng chí là Vụ trưởng thuộc Bộ Điện than, đã hy sinh khi giặc Mỹ ném bom Hà Nội vào năm 1972.(2) Đồng chí Lê Vǎn Hiến, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Nhà máy giấy trực thuộc bộ này.

Tìm người chụp ảnh Bác Hồ16/05/2007Tác giả đã gửi đến Thư HN đôi dòng tự sự và, đặc biệt, những tấm ảnh vô

giá cha mình chụp cùng Bác Hồ trong nhiều dịp được gặp Người, trước khi lên đường nhận nhiệm vụ đặc biệt cho đến ngày Tp HCM được giải phóng.

Trong di sản tinh thần mà người cha để lại cho gia đình tôi, những tấm ảnh được chụp chung cùng Bác Hồ là quý giá vô cùng. Tôi vẫn ước mong tìm được tác giả của những tấm ảnh đó. Những tấm ảnh chứa đựng một tình cảm thiêng liêng của tôi với Hà Nội, một niềm kính trọng sâu sắc với Bác Hồ và một tấm lòng yêu quý sâu nặng đối với cha mình.

Tôi yêu Hà Nội bằng một tình yêu rất thiêng liêng, dù tôi không phải người Hà Nội gốc.

Năm 1954, ba mẹ tôi là những người kháng chiến chống Pháp tập kết ra miền Bắc, được sống và làm việc ở Hà Nội. Trong những câu chuyện xưa của ba mẹ, Hà Nội là kỷ niệm tình yêu của hai người, kỷ niệm về chiến tranh, về con người Hà Nội. Tôi yêu Hà Nội từ những hồi ức của ba mẹ. Đặc biệt, tôi còn yêu Hà Nội qua kỷ niệm của ba với những tấm ảnh chụp cùng Bác Hồ.

Ảnh được chụp từ khoảng năm 1960 – 1963, không chính xác thời gian. Khi ấy, ba tôi công tác tại Ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài, trực thuộc Thủ tướng Chính phủ (thời ấy là TT Phạm Văn Đồng). Chủ nhiệm Ủy ban là ông Phạm Ngọc Thuần. Ba tôi có nhiệm vụ tổ chức đón tiếp các đoàn văn hóa nghệ thuật, báo chí… của nước ngoài tới thăm và làm việc với Việt Nam, đồng thời sắp xếp những cuộc gặp mặt thân tình, hữu nghị của các đoàn khách với Bác Hồ.

Trong các tấm ảnh, Bác Hồ cười tươi, hiền hậu cùng các vị khách nước ngoài, và họ cũng không có bất kỳ khoảng cách nào với vị Chủ tịch nước. Những tấm ảnh dù được sắp đặt nghiêm chỉnh để chụp với cả đoàn, hay bất chợt một khoảnh khắc với cô diễn viên phương Tây… đều thể hiện tình cảm chân thành, gần gũi, thân thiện giữa khách và chủ.

Ba tôi trong các tấm ảnh chỉ là nhân vật phụ nhưng nhìn nét mặt, nụ cười, tôi hiểu lúc đó ba tôi toát lên niềm hạnh phúc khi có dịp được gần bên Bác.

Năm 1964, ba tôi được giao công tác đặc biệt, tất cả những tấm ảnh chụp có ba tôi hình như được “cất giấu”. Nhưng không hiểu sao ba tôi còn giữ được mấy tấm ảnh này, nó chỉ nhỉnh hơn bao diêm. Cũng không hiểu ba tôi cất giữ như thế nào, ở đâu(?). Chỉ biết sau ngày Giải phóng Sài Gòn (tháng 4/1975) mấy năm, ba mới đưa cho tôi xem. Có thể lúc đó ba nghĩ tôi đủ lớn để hiểu được Bác Hồ - vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam.

Tiếc là đến khi ba tôi qua đời, tôi vẫn không được biết thêm gì nhiều về xuất xứ, lai lịch của những tấm ảnh. Khách là đoàn nào, những ai, thuộc quốc gia nào… và người chụp ảnh là ai, hiện giờ còn sống, ở đâu, hay cũng đã mất(?)

Có mấy lần tôi mang hỏi các nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam lớn tuổi, họ cũng không khẳng định được ai là tác giả, chỉ chắc chắn ảnh của một phóng viên ảnh chuyên nghiệp hay người nào được phân công chụp ảnh Bác Hồ. Cũng không loại trừ ảnh của phóng viên nước ngoài đi theo đoàn khách(?).

Tháng Năm giữa lòng Hà Nội, Bác đã đi xa, cha tôi cũng không còn nữa nhưng mỗi con đường, góc phố nơi đây còn in dấu chân Người và nơi đây ba tôi đã sống. Như một kỷ niệm đẹp của ba tôi, tôi muốn chia sẻ với độc giả Thư Hà Nội vào ngày kỷ niệm sinh nhật Bác 19.5.2007.

Và tôi cũng ước mong từ Thư Hà Nội, sẽ có thể được biết thêm thông tin về những tấm ảnh Bác Hồ mà ba tôi được may mắn chụp cùng Người, được tìm gặp các chú bác hay cô dì là tác giả của những di ảnh vô giá ấy đối với gia đình chúng tôi. 

Kỳ cuối: Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời chất vấn Quốc hộiCách đây hơn 60 năm đông đảo người dân đã đến Nhà hát lớn để chứng kiến

một cảnh tượng chưa từng có trong lịch sử Việt Nam, một cảnh tượng do Cách mạng tháng Tám mang lại:

Các đại biểu của nhân dân đứng lên chất vấn những công việc mà nhân dân đã ủy nhiệm cho Chính phủ gánh vác. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ trả lời chất vấn của  Quốc hội…

“Chất vấn biểu lộ tinh thần dân chủ”Sáng 28/10/1946, khóa họp lần thứ hai của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa khai mạc tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Nhà hát Lớn sáng hôm ấy được trang hoàng đầy vẻ mỹ thuật và uy nghiêm. Trên tường, tấm  vải đỏ căng những dòng chữ vàng: “Đoàn kết, thống nhất, độc lập, tự do, hạnh phúc”.

Ở trước Nhà hát Lớn, nhân dân tụ họp khá đông để theo dõi buổi họp Quốc hội qua máy phát thanh. Đúng 8 giờ các đại biểu Quốc hội đến đầy đủ, có cả quan khách ngoại quốc như lãnh sự Anh, Mỹ, Trung Hoa, Thụy Sĩ; các phóng viên của Mỹ, Pháp, Anh...

Tất cả đang chờ đợi một khóa họp Quốc hội mà chỉ nghe qua chương trình nghị sự đã có thể cảm nhận được tầm quan trọng của nó đối với vận mệnh đất nước: “Các Bộ trưởng trả lời chất vấn; Hồ Chủ tịch trả lời chất vấn; Chính phủ từ chức; Quyết nghị của Quốc hội đối với Chính phủ; Trình bày dự án Hiến pháp; Thảo luận Hiến pháp”…

Buổi họp ngày 31/10, người dân đến dự thính buổi họp Quốc hội tăng đột biến. Hai tầng gác Nhà hát Lớn kín những người ngồi, đứng. Người dân đến đông để chứng kiến một cảnh tượng chưa từng có trong lịch sử Việt Nam, một cảnh tượng do Cách mạng tháng Tám mang lại: các đại biểu của nhân dân đứng lên chất vấn những công việc mà nhân dân đã ủy nhiệm cho Chính phủ gánh vác.

Quốc hội – với đại diện của nhiều thành phần  như Dân chủ, Xã hội, Việt Minh… đã đặt ra nhiều câu hỏi chất vấn Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. 

Hồ Chủ tịch bước lên diễn đàn, ôn tồn nói: “Sáng nay, Chính phủ nhận được 62 câu hỏi. Nửa tiếng đồng hồ lại nhận thêm được 26 câu hỏi nữa. Tất cả 88 câu. Chính phủ trước hết xin cảm ơn Quốc hội vì đã tỏ rõ Quốc hội hết sức quan tâm về các vấn đề của Quốc gia và sự chất vấn này có thể biểu lộ được rõ ràng tinh thần dân chủ thật thà của nước Việt Nam.

Chính phủ đã xét kỹ từng câu hỏi ấy và chia ra làm hai loại: Nội chính và ngoại giao. Trong hai loại ấy lại chia ra những câu thuộc về từng Bộ: Quân sự, Quốc phòng, Ngoại giao, Kinh tế… Những câu hỏi chú trọng nhất là về quân sự, rồi đến tài chính, tư pháp, nội vụ…

Hồ Chủ tịch trả lời một số câu hỏi: “Về ông Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần, ông nguyên Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Tường Tam  và ông nguyên Phó Chủ tịch Quân ủy hội Vũ Hồng Khanh. Các ông ấy bây giờ không có mặt ở đây. Lúc nước nhà đang gặp bước khó khăn, quốc dân tin ở người nào mới trao cho người ấy công việc lớn. Thế mà các ông ấy lại bỏ đi thì các ông ấy phải tự hỏi lương tâm thế nào.

Trả lời thế là đủ. Những người bỏ việc đi kia, họ không muốn gánh việc nước nhà hoặc họ cũng không đủ sức mà gánh nổi. Nay chúng ta không có họ ở đây, chúng ta cũng cứ gánh được như thường. Nhưng nếu các anh em ấy biết nghĩ lại mà trở về  thì chúng ta cũng hoan nghênh”.

Sau đó, Hồ Chủ tịch trả lời một số câu hỏi chất vấn về  đường lối ngoại giao của Chính phủ. Trả lời xong, trước khi bước xuống, Người nói với toàn thể Quốc hội: “Nếu trong Chính phủ, có những người khác lầm lỡ thì lỗi ấy tôi xin chịu, xin gánh và xin lỗi đồng bào”. Tiếng vỗ tay theo Hồ Chủ tịch cho đến khi Người về chỗ ngồi.

Vì sao bán thuốc không kiểm soát giá và chất lượng?Đến lượt các thành viên Chính phủ tiếp tục trả lời chất vấn. Bà Nguyễn Thị

Thục Viên chất vấn ông Trương Đình Tri (Bộ trưởng Bộ Y tế và Xã hội) vì sao việc bán thuốc lại không kiểm soát giá và chất lượng thuốc?

Ông Trương Đình Tri trả lời: Việc đó rất đáng tiếc, nhưng không làm thế nào được vì không có hội đồng hóa giá. Từ khi Nhật đảo chính Pháp, thuốc chữa bệnh đã tràn vào lộn xộn.

Bộ Y tế và Xã hội đã chỉ thị cho các nhà buôn còn giữ thuốc không độc và thông thường thì phải khai và chỉ được phép bán đến cuối năm 1946. Đã có sắc lệnh cho kiểm soát chất lượng thuốc, nhất là thuốc tiêm. Ai khiếu nại sẽ xét cẩn thận.

Ông Nguyễn Đình Thi chất vấn Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Ca Văn Thỉnh về chính sách văn hóa của Chính phủ.  Ông Ca Văn Thỉnh cho biết: Đại thể chính sách ấy là xây dựng một nền văn hóa dân chủ thay vào nền văn hóa cũ, chịu ảnh hưởng phong kiến và thực dân.

Nền văn hóa ấy phổ cập cho tất cả nhân dân cùng hưởng thụ và tham dự. Nó phải có tính cách dân chủ và dân tộc. Nhưng cái tính cách quốc gia này không hẹp hòi vì nền văn hóa ấy sẽ thâu nhận tất cả những ưu điểm và tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.

Ông Hoàng Đạo Thúy tỏ ra lo ngại về cấp tiểu học năm nay bắt đầu chậm và thiếu sách giáo khoa. Bộ trưởng Ca Văn Thỉnh trả lời: Năm nay học trò tiểu học nhập trường chậm mất 15 ngày, điều đó vì tình thế. Các trường đến đây bị quân ngoại quốc dùng làm nơi ở. Sau đó phải sửa sang lại nhiều.

Còn sách giáo khoa là một vấn đề rất khó khăn vì giấy in và nhà in chưa giải quyết được. Bản thảo những sách ấy đã có hết rồi  chỉ chờ lần lượt xuất bản. Để bù vào chỗ thiếu, Bộ Giáo dục đã ra một tờ giáo dục tân văn.

Cũng trong phiên chất vấn, Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến trả lời về ngân sách, thuế khóa, lương công chức… Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hòe nói về việc áp dụng luật của Việt Nam với người ngoài quốc  sống ở Việt Nam và làm thế nào để ngăn chặn nạn hối lộ. Nghị trường thực sự  “nóng”  khi những vấn đề liên quan đến sự tồn vong của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được các đại biểu nêu câu hỏi chất vấn.

Đại biểu Trần Đình Tri tỏ ra lo lắng trước tin đồn ông Nguyễn Hải Thần tự phong chức Tổng Tư lệnh hải, lục, không quân, lập Chính phủ ở hải ngoại. Trong tình thế nước nhà chuyển sang giai đoạn mới, phải có một Chính phủ mạnh mẽ đủ uy tín để đối nội cũng như đối ngoại. Chính phủ đó phải là một Chính phủ liêm khiết…

“Sẽ dùng luật pháp trị cho kỳ hết những kẻ ăn hối lộ”Buổi họp kéo tới tối  31/10/1946.  Từ trên diễn đàn ánh sáng của chiếc đèn có

chụp hắt xuống bàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt toàn thể Chính phủ trả lời chất vấn trước khi Chính phủ từ chức. Người nói: “Chính phủ hiện thời thành lập mới hơn một năm, hãy còn thanh niên. Quốc hội bầu ra được hơn 8 tháng lại còn thanh niên hơn. 

Vậy mà Quốc hội đã đặt ra những câu hỏi thật già dặn, đề cập đến tất cả những vấn đề có quan hệ đến vận mệnh nước nhà. Với sự trưởng thành chính trị và sự quan tâm về việc nước ấy, ai dám bảo dân ta không có tư cách độc lập”.

Hồ Chủ tịch lần lượt trả lời từng câu hỏi.  Về câu chất vấn: “Vì sao Chính phủ  đưa đề nghị thay Quốc kỳ lên Thường trực Quốc hội xem xét?”, Hồ Chủ tịch nói:

“Chính phủ không bao giờ dám đòi thay đổi Quốc kỳ. Chỉ vì một vài người trong Chính phủ đề nghị việc ấy lên, nên Chính phủ phải để Thường trực Quốc hội xét. Tình thế từ ngày ấy đến giờ biến chuyển nhiều, lá cờ đỏ sao vàng đã nhuộm bao nhiêu máu chiến sỹ Việt Nam ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đã đi từ Á sang Âu, lại từ Âu sang Á, tới đâu cũng được chào kính cẩn”.

Nói đến đây mắt Người sáng quắc lên, giọng Người vang to hơn và nhấn mạnh từng tiếng: “Trừ khi cả 25 triệu đồng bào, còn ngoài ra không ai có quyền gì mà đòi thay đổi nó”.

“Còn cái tin ông Nguyễn Hải Thần, tự xưng là Tổng Tư lệnh Hải, Lục, Không quân Việt Nam? Nếu Việt Nam không có Hải, Lục, Không quân thì ông Nguyễn Hải Thần cứ việc làm Tổng Tư lệnh! Và nếu Việt Nam không có Hải, Lục, Không quân mà ông Nguyễn Hải Thần tổ chức được hải lục không quân  cho Việt Nam thì cố nhiên chúng ta hoan nghênh”.

“Về việc Chính phủ liêm khiết, thì Chính phủ hiện tại đã cố gắng liêm khiết. Nhưng trong Chính phủ từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc  ở các Ủy ban đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ đã hết sức làm gương. Và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng luật pháp mà trị những kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đang trị và sẽ trị cho kỳ hết”.

Bằng lối nói đặc biệt của mình, lấy những ví dụ dễ hiểu để diễn đạt những nội dung sâu sắc, lý luận chặt chẽ, đanh thép, Hồ Chủ tịch đã trả lời hết các câu hỏi chất vấn. Mỗi khi Người kết thúc một câu trả lời thì tiếng vỗ tay lại đồng loạt vang lên.

12 giờ kém 15 phút,  Hồ Chủ tịch tuyên bố thay mặt Chính phủ hiện thời xin từ chức, trao quyền lại cho Quốc hội để Quốc hội theo nguyên tắc dân chủ bầu ra một Chính phủ mới.

“Tôi chỉ có một đảng: Đảng Việt Nam”Quốc hội thảo luận và đã đưa ra quyết nghị: Ủy nhiệm cụ Hồ Chí Minh lập

Chính phủ mới theo nguyên tắc đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái.  Hồ Chủ tịch lại lên diễn đàn, cảm ơn Quốc hội rồi nghiêm trang tuyên bố: “Lần

này là lần thứ hai, Quốc hội lại giao cho tôi phụ trách Chính phủ một lần nữa. Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất thì bất kỳ Quốc hội ủy cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm.

Tôi xin nhận. Giờ tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước Quốc dân, trước thế giới: Hồ Chí Minh không phải là kẻ tham quyền cố vị, mong được thăng quan phát tài. Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái.

Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước Quốc dân, trước thế giới rằng tôi chỉ có một đảng: Đảng Việt Nam. Tuy trong quyết nghị không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước Quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết.

Theo lời quyết nghị của Quốc hội, Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích: Trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập, thống nhất của nước nhà. Anh em trong Chính phủ mới sẽ dựa vào sức của Quốc hội và Quốc dân, dẫu nguy hiểm mấy cũng đi vào mục đích mà Quốc dân và Quốc hội đã trao cho”.

Tiếng vỗ tay vang rền trong Nhà hát lớn. Phiên họp Quốc hội kết thúc lúc 1 giờ đêm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn về Tổng tuyển cửĐó là số đặc biệt ra ngày 6/1 - Ngày Tổng tuyển cử.  Mặc dù bận trăm công

ngàn việc nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian tiếp phóng viên báo Quốc hội.

Bài báo với nhan đề Hồ Chủ tịch nói về phụ nữ, được đăng trang trọng trên trang nhất. Đã hơn 60 năm trôi qua nhưng  bài trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn rất ý nghĩa đối với kỳ bầu bầu cử Quốc hội khóa XII  sẽ diễn ra vào ngày 20/5/2007.

PV: Xin Cụ cho biết  về chính trị, phụ nữ nước nhà đã có gì khả quan chưa? Hồ Chủ tịch mỉm cười: Ấy, tôi cũng đang định hỏi chị về chỗ đó.

PV: Bẩm Cụ theo như chỗ cháu thấy thì phụ nữ nước nhà tiến bộ chậm lắm, hầu hết còn rụt rè, nhút nhát vì không có nhiều cuộc họp chung để trao đổi ý kiến, tuy cũng có một vài đoàn thể song phạm vi không rộng lắm, phần nhiều chỉ những tổ chức riêng, hội họp riêng cho một số đoàn viên thôi.

Hồ Chủ tịch gật đầu: Cái đó là lỗi  ở các đoàn thể không biết mở rộng phạm vi nhưng cũng là lỗi ở các chị đã không biết tin đến…

PV: Bẩm Cụ, rất đúng, phụ nữ xứ nhà còn thờ ơ lắm với quyền lợi của mình, ngay như việc đi bầu cử, có nhiều chị không được sốt sắng, kêu bận con không đi được hay không biết gì mà bầu…

Hồ Chủ tịch hỏi: Thế chị có khuyến khích các chị ấy không? Chị nói gì với các chị ấy?

PV: Bẩm Cụ, cháu có nói với các chị ấy rằng cần phải đi bầu cử, có đi bầu cử mới chọn được người xứng đáng làm đại biểu bênh vực quyền lợi cho mình, nhất là cuộc Tổng tuyển cử tới đây lại quan hệ đến nền độc lập của quốc gia.

Hồ Chủ tịch ôn tồn nói: Chị nói thế chưa đủ, phải nói cho phổ thông chứ đừng nói cao xa quá.

Thí dụ như một người đàn bà xưa nay chỉ ở trong nhà bế con, nghe chị nói, người ta chỉ biết rằng đi bầu chọn người đại biểu để bênh vực quyền lợi, nhưng người ta có hiểu quyền lợi gì ? Ở đâu?

Phải nói đến cái điều gì thiết thực cho người ta thấy ngay được cái lợi, thí dụ ít nữa sẽ có nhiều nhà nuôi dạy trẻ, nếu chị bận hay muốn làm thêm công việc gì khác, có thể đem con đến gửi, cũng được chăm sóc cẩn thận như ở nhà…”.

Cũng trong số báo Quốc hội đặc biệt ra ngày 6/1, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn về một số vấn đề quan trọng của Tổng Tuyển cử.

Trả lời câu hỏi: Phương pháp tuyên truyền Quốc hội và vận động Tổng Tuyển cử, nước nhà đã theo kịp nước người chưa, Hồ Chủ tịch cho rằng: Nước nhà cố nhiên chưa theo kịp nước người, vì lần đầu tiên chưa có kinh nghiệm; Vả chăng những phương tiện tuyên truyền của nước ngoài khá hơn, ví dụ họ có sẵn tàu bay, sẵn rạp chiếu bóng, sẵn giấy.v.v.. là những thứ hiện ta thiếu cả. Nhưng lần đầu mình làm được như thế này cũng đã khá lắm rồi.

Ông chủ bút báo Quốc hội nhắc lại nỗi sung sướng của một bà cụ 92 tuổi ở Phúc Yên hôm đi bỏ phiếu.  Hồ Chủ tịch bảo đó cũng là một chứng cớ chứng tỏ mình không kém người chút nào, chỉ tại mình chưa hề được bầu cử.

Trước khi các phóng viên ra về, Hồ Chủ tịch ân cần nói thêm một câu và  dặn phải nhắc lại cho đồng bào: “Ở Pháp đã có mấy chục lần tuyển cử rồi nhưng mãi năm ngoái, phụ nữ Pháp mới được hưởng quyền bỏ phiếu. Xem như thế, thì có cái ta chậm hơn nước ngoài, nhưng có cái ta đi quá họ”.

Hồi ấy, PGS Lê Mậu Hãn còn là một thiếu niên chưa được quyền đi bầu cử, nhưng cái không khí náo nức ở cái làng nhỏ ở tỉnh Quảng Trị trước ngày Tổng tuyển cử vẫn in đậm trong tâm trí ông đến bây giờ.

Làng rợp bóng cờ đỏ sao vàng, khẩu hiệu, biểu ngữ. Nhiều người mang biểu ngữ lên xe trâu đi khắp làng kêu gọi người dân đi bầu cử.  Một số  người còn sáng tác cả thơ ca hò vè để vận động cho các ứng cử viên. 

Có bà cụ 85 tuổi vẫn thắp đèn học chữ quốc ngữ để đến ngày bầu cử có thể tự tay viết tên ứng cử viên mình chọn, khỏi phải nhờ đến con cháu. Không khí ngày hội ấy tràn ngập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa non trẻ.

Tại tỉnh miền núi xa xôi Bắc Kạn, gần như tất cả các nhà dân đều dán những khẩu hiệu: “Công dân Việt Nam phải đi bầu cử”. Tối hôm 19/12/1945, Ban Tuyên truyền thành Bắc Kạn đã diễn vở Thày bói xin đi bỏ phiếu để cổ động cho dân chúng biết thế nào là người có quyền bầu cử.

Tại thị xã Sơn Tây, tối 18/12/1945, một số người ứng cử  vào Quốc hội đã ra mắt và công chúng và diễn thuyết. Nhiều địa phương treo giải cho làng nào có người đi bầu đông nhất. Có nơi còn mở cuộc thi dự đoán ai sẽ trúng cử…

Trên cái nền đó, những người ứng cử vào Quốc hội cũng tích cực vận động, đi diễn thuyết, gặp gỡ cử tri, trả lời báo chí… Các chương trình hành động, lời hứa đối với người dân của một số ứng viên nổi tiếng như  Vũ Đình Hoè, Xuân Diệu, Trịnh Văn Bô.. .được đăng tải trên các số báo Quốc hội và tạo nên một không khí dân chủ đầy chất nghị trường chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm nước Việt. 

Bác Hồ bắt nhịp bài ca kết đoàn

ND - Năm 1996, Lâm Hồng Long được Ðảng và Nhà nước ta trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật từ đợt đầu tiên với hai tác

phẩm: “Mẹ con ngày gặp mặt” và “Bác Hồ bắt nhịp bài ca kết đoàn”. Dưới đây là câu chuyện kể về thời khắc chụp bức ảnh lịch sử này của ông.

Nghệ sĩ nhiếp ảnh Lâm Hồng Long sinh năm 1926 tại xã Phước Lộc, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận. Tham gia cách mạng từ năm 1945. Năm 1951 anh bị địch bắt; cầm tù tại nhà lao Phan Thiết, Nha Trang rồi Ðà Nẵng. Trong tù đày bị tra tấn dã man nhưng anh vẫn giữ được khí tiết cách mạng, giữ được bí mật cho tổ chức.

Năm 1954, tập kết ra bắc, anh mong ước được nhìn thấy Bác Hồ. Khi trở thành phóng viên nhiếp ảnh Thông tấn xã Việt Nam, anh lại mong ước được chụp ảnh Bác Hồ  như các ông Vũ Năng An, Ðinh Ðăng Ðịnh hồi kháng chiến chín năm ở Việt Bắc. Ðiều mơ ước đó đã thành hiện thực.

Phóng viên nhiếp ảnh Lâm Hồng Long được giao nhiệm vụ đặc biệt: chuyên chụp ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhiều bức ảnh Bác Hồ do Lâm Hồng Long chụp khá nổi tiếng như: Bác Hồ bắt nhịp bài ca kết đoàn; Bác Hồ với các cháu thiếu nhi; Bác Hồ với các anh hùng dũng sĩ miền nam; Bác Hồ tặng hoa cho Mẹ Suốt; Bác trồng cây đa ở Vật Lại - Ba Vì...

Năm 1960, anh đã ghi được giây phút xuất thần khi Bác chỉ huy dàn nhạc trong một dạ hội quần chúng tại công viên Bách Thảo chào mừng thành công Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ III (9-1960). Từ dáng điệu, cử chỉ, nét mặt của Người thật đẹp, như truyền cảm hứng và những rung động nghệ sĩ cho mỗi chúng ta. Biết tin Bác đến dự dạ hội, Bộ Văn hóa bố trí dàn nhạc giao hưởng hợp xướng thật hoành tráng.

Xen kẽ trong dàn hợp xướng là một số phóng viên nhiếp ảnh được "cài cắm" vào vị trí thuận lợi. Bạn đồng nghiệp của anh Long rất vui mừng vì chỗ đứng đắc địa của mình và tỏ ra ái ngại cho Lâm Hồng Long đến hơi muộn, đành phải "chốt" ở vị trí sau lưng Bác! Không sao - anh nghĩ: chụp sau lưng Bác cũng được. Xem ảnh ai chẳng nhận ra Bác đang chỉ huy dàn nhạc. Hậu cảnh ở phía trước khuôn hình lại có dàn nhạc giao hưởng làm "nền" cho bức ảnh, càng nổi rõ chủ đề: Bác chỉ huy dàn nhạc chứ sao!

Công viên Bách Thảo đã chìm trong bầu trời đêm. Từng hàng bóng điện tỏa sáng lung linh huyền ảo như trời đầy sao. Nghe tin Bác đến, đồng bào thủ đô đến dự hội đã chật ních cả không gian công viên Bách Thảo. Giờ khai hội đã đến. Bác bước lên bục cầm que chỉ huy dàn nhạc và bắt nhịp bài ca Kết đoàn. Các nhạc công và ca sĩ rất hứng khởi nhìn vào người nhạc trưởng và đồng thanh cất lên với một giọng trầm hùng: "Kết đoàn chúng ta là sức mạnh"...

Chiếc que chỉ huy của người nhạc trưởng vang lên hạ xuống nhịp nhàng cùng "ông cụ" xoay một vòng... đến lúc Bác quay về phía Lâm Hồng Long, anh vô cùng hồi hộp và sung sướng. Thời cơ đã đến! Xoạch! - Anh bình tĩnh bấm máy. Ðèn phát sáng, anh nhìn rõ chiếc que chỉ huy của Bác vung lên ở một tư thế cực đẹp. Anh thật sự hài lòng: Vậy là mình đã bấm máy đúng lúc. Sau đó anh có chụp thêm hàng chục kiểu khác nhưng không thể "chớp" đúng thời cơ bấm máy lần đầu.

Về cơ quan tráng phim và làm ảnh xong anh vô cùng xúc động. Hóa ra ảnh của Lâm Hồng Long lại đạt hơn các bạn đồng nghiệp đứng ở vị trí thuận lợi nhất. Sáng hôm sau, ảnh Bác Hồ bắt nhịp bài ca kết đoàn của Lâm  Hồng  Long  được  in trên báo ở vị trí quan trọng nhất. Cho đến hôm nay, tác phẩm Bác Hồ bắt nhịp bài ca kết đoàn đã hàng trăm lần in trên báo, phóng lớn để triển lãm ở trong nước và quốc tế. Người xem ảnh đều có chung nhận xét: "Bác Hồ là người nhạc trưởng vĩ đại! Cả dân tộc Việt Nam là một dàn đại hợp xướng!".

Ơn Người "nghĩa nặng, tình sâu"

Ba cháu bé Tây Nguyên được vào chúc thọ Bác Hồ

Người khai sáng và tạo dựng sự nghiệp kỳ vĩTP - Sáng qua (18/5), tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm lần thứ

117 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5) và 50 năm Bác Hồ về thăm quê hương Nghệ An lần thứ nhất (14/6/1957).

Bác Hồ về  thăm quê ở Kim Liên, Nghệ An năm 1961. Ảnh: Tư liệu

Tham dự buổi lễ có Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa; Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng; Bí thư Thành ủy Hà Nội

Phạm Quang Nghị; Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin Lê Doãn Hợp cùng lãnh đạo nhiều Bộ, ban, ngành của Trung ương, quân khu 4, các địa phương và đông đảo các tầng lớp nhân dân tỉnh Nghệ An.

Phát biểu tại lễ kỷ niệm, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, là người xây dựng nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, nay là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Người là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta.

Dân tộc ta, đất nước ta rất tự hào đã sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Anh hùng dân tộc vĩ đại, danh nhân văn hoá thế giới và càng tự hào hơn nữa chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta. Sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ khai sáng và dày công tạo dựng là một sự nghiệp kỳ vĩ, nhất định được dân tộc ta, các thế hệ ngày nay và con cháu mai sau kế tục và phát huy.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô giá mà Bác Hồ để lại sẽ mãi mãi soi đường cho sự nghiệp Cách mạng của Đảng ta, của nhân dân ta”.

VỊ CHỦ TỊCH VỚI NGƯỜI BẠN CŨ

TT - Lise London là một nữ chiến sĩ cộng sản, đã từng hoạt động chung với Bác Hồ. Trong hồi ký về cuộc đời thăng trầm của mình, bà kể lại những cuộc gặp gỡ đặc biệt với Bác Hồ, câu chuyện cảm động về tình bạn, tình đồng chí thủy chung dẫu cho vật đổi sao dời...

Dưới đây là trích dịch những đoạn bà viết về mối quan hệ của bà với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

NỤ CƯỜI NGUYỄN ÁI QUỐCTrong đơn vị ở Pháp của chúng tôi có thêm một thành viên người VN. Tôi

không còn nhớ tên anh lúc anh ở Mạc Tư Khoa. Tôi vẫn gọi tên anh khi biết lúc ở Pháp: Nguyễn Ái Quốc. Nhỏ nhắn và mảnh dẻ, đôi mắt sinh động và thông minh, biểu lộ nhã nhặn và tươi cười, bộ mặt anh nhẵn, tóc rậm và đen lánh. Anh tham gia những buổi dã ngoại, những buổi tối của chúng tôi. Những lúc đó, anh gần gũi với Gérard (sau này Gérard là chồng của tác giả). Tôi là con cưng của nhóm và anh tỏ ra thích thú với sự líu lo của tôi. Chúng tôi biết anh ở Pháp đã lâu, rất thông thạo tiếng Pháp. Anh biết Paris hơn chúng tôi rất nhiều và thường kể về những khám phá của anh trong các buổi dạo chơi, đi thăm các di tích lịch sử, những hẻm mà người ta đã thấy viết trong các tiểu thuyết của Balzac, Dumas và Victor Hugo. Mãi lâu sau này, tôi ngạc nhiên khi biết anh gia nhập Đảng Cộng sản Pháp từ năm 1920.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (hàng ngồi - bìa trái) và một số đại biểu đại hội đại biểu lần V Quốc tế cộng sản - Ảnh tư liệu

Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Pháp họp ở Fontainebleau. Với tư cách giám đốc tuần báo Femmes Fran5caises (Phụ Nữ Pháp), tôi tham dự buổi chiêu đãi danh dự những người kháng chiến Pháp, do Hồ Chí Minh tổ chức tại khách sạn Crillon. Tôi ngồi đối diện với Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở đầu bên kia chiếc bàn rất lớn trang trí hoa hồng. Sau một lúc bỡ ngỡ, nhưng rồi tôi cũng nhận ra người bạn cũ bởi nụ cười dù đã hàng chục năm trôi qua. Tôi mỉm cười và kín đáo chào anh. Lát sau, một thành viên trong đoàn theo anh lại gần tôi và khẽ nói bên tai:

- Đồng chí Chủ tịch mong gặp bà, xin bà vui lòng đi theo tôi.Một mình tôi ngồi trong phòng khách trải thảm tơ màu vàng. Một lát sau, Hồ

Chí Minh bước vào. Anh ôm hôn tôi: “Tôi nhận ra chị ngay tức khắc. Tôi rất sung sướng gặp lại chị sau nhiều năm xa cách. Tôi biết cả chồng chị và chị đều bị tù đày. Tôi muốn nghe nhiều chuyện tỉ mỉ, nhưng tôi còn nhiều khách. Sáng mai chị có thể đến khách sạn ăn điểm tâm với tôi được không? Xin hãy đưa cả Gérard cùng đến”.

Tôi vui vẻ nhận lời, nhưng Gérard không thể đến được vì đang ở Thụy Sĩ chữa bệnh ho lao. Cuộc hẹn vào... lúc 6 giờ sáng.

Ngày hôm sau, đúng giờ đã hẹn, Hồ Chí Minh đón tôi ở phòng ăn và mời tôi ngồi đối diện trước chiếc bàn tròn nhỏ. Chúng tôi thân mật nói chuyện với nhau không ngại nghi thức lễ tân.

Vào tháng 5-1950, cùng với gia đình, chúng tôi sống ở Prague (Tiệp Khắc), từ trước đó hơn một năm, Hồ Chí Minh gửi cho tôi một bức ảnh và những lời thăm hỏi ân cần.

Vào tháng 1-1951, Gérard của tôi bị bắt, sau đó được tha và được khôi phục về hình thức vào tháng 2-1956.

BẤT NGỜ TỪ VỊ CHỦ TỊCHVào buổi sáng của tháng 11-1957,  Gérard bất ngờ nhận thiệp mời của cá nhân

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thiệp mời ghi rõ kính mời Artur London và Lise Ricol dự một buổi chiêu đãi tại lâu đài Hoàng gia ở Prague. Chúng tôi đến dự và tìm  cách hòa vào đám đông khách khứa.

Vài phút sau, một thành viên của phái đoàn VN lại gần và nói với tôi:- Đồng chí Chủ tịch của chúng tôi đề nghị ông bà đứng ở chỗ nhất định, mong

ông bà chỉ cho tôi được biết. Chủ tịch nhất thiết muốn gặp ông bà.- Tốt lắm, chúng tôi đứng đây không xê dịch đi đâu nữa...Sau những bài diễn văn chính thức, Hồ Chí Minh đứng lên cùng với Chủ tịch

Tiệp Khắc Zapotocky và Thủ tướng Slôvác Siroky, bắt đầu đi chào từng cá nhân quan khách mời, có trưởng ban lễ tân đi theo giới thiệu với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đang đi nửa chừng, trông thấy tôi phía bên kia gian phòng rộng lớn, quên cả nghi thức lễ tân,  Người lao tới và rảo bước qua khoảng không. Tất cả vội bước theo, không hiểu Người đi đâu.

Khi tới gần tôi, Người giơ hai tay và ôm hôn tôi; rồi quay lại phía Zapotocky và Siroky đang sững sờ ngạc nhiên trong khoảnh khắc, chưa hiểu Hồ Chí Minh làm gì.

Người nói với họ:- Đây là Lise thân yêu của tôi. Cô ấy không thay đổi gì... Quay lại phía tôi, Người hỏi:- Gérard của chúng ta đâu, anh ốm à, sao anh không có mặt ở đây?- Có chứ, đang đứng sau chúng ta!Người dang hai tay về phía Gérard. Người thì thầm:- Anh đã phải chịu đựng đau khổ biết bao!Tất cả gian phòng ngạc nhiên theo dõi cảnh tượng bất ngờ.Chủ tịch Zapotocky bảo người trưởng ban lễ tân:- Cần phải biểu dương những cuộc tái ngộ hiếm có như thế này. Hãy mang

rượu sâmbanh lại đây!Cầm lấy tay tôi, Hồ Chí Minh nói nhỏ với tôi:- Tôi rất muốn gặp riêng Gérard và Lise. Chiều nay thì không thể được rồi.

Ngày mai tôi đã phải rời Prague đi Varsovie, vậy Gérard và Lise hãy đến dùng điểm tâm với tôi... vào lúc 5g sáng.

Nói xong mấy lời, Người bước theo đoàn tiếp tục công việc chào các quan khách.

Ngày hôm sau, từ sáng sớm chúng tôi đã có mặt tại nơi ở của Hồ Chí Minh. Người ở trong phòng ăn cùng với Phạm Văn Đồng và giới thiệu Phạm Văn Đồng với chúng tôi. Tất cả chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn tròn, dự một buổi điểm tâm thịnh soạn.

Với sự đối xử tế nhị thường lệ, Hồ Chí Minh bắt đầu hỏi thăm gia đình, sức khỏe của Gérard.

Phần tôi, tôi kể cho anh nghe gia đình chúng tôi sống như thế nào... Hồ Chí Minh không đặt câu hỏi để làm ngưng câu chuyện, gương mặt biểu lộ

sự đớn đau. Những dòng nước mắt chảy trên gò má gầy của anh. Chúng tôi xúc động không nói nên lời.Sinh thời, Bác Hồ thường đến thăm bà con nông dân ngay trên đồng ruộng,

công nhân trong nhà máy, công trường, các cháu học sinh, sinh viên tại trường học... Thế nhưng có lần Bác đã dành thời gian hiếm hoi của mình đến thăm cán bộ, nhân viên cơ quan T.Ư Đoàn, T.Ư Hội. Chúng tôi, những người có mặt hôm ấy luôn coi đây là niềm vinh dự và hạnh phúc lớn của tuổi trẻ.

Sự kiện lịch sử này diễn ra cách nay hơn nửa thế kỷ, song bản thân tôi luôn ngỡ như mới ngày nào, nhất là luôn khắc sâu vào tâm trí về lần đầu tiên trong đời được đưa hai bàn tay của mình ôm lấy bàn tay ấm áp của Bác, nghe những lời căn dặn của Người trong sự xúc động đến nghẹn ngào. Đó là vào một buổi sáng đầu tháng 11.1955 sau khi Hà Nội được giải phóng vừa tròn 1 năm với bộn bề công việc đặt ra.

10 giờ, chiếc Pôbêđa màu sữa chạy vào cổng, dừng lại ở mảnh sân nhỏ hồi ấy còn rải sỏi phát ra tiếng kêu lạo xạo. Bác đến, mọi người đồng loạt reo lên "Bác Hồ muôn năm!", "Bác Hồ muôn năm!" khó ai ngăn được. Nhưng, ngóng mãi chẳng thấy Bác đâu. Hóa ra Bác không vào ngay phòng họp mà đi vòng ra phía sau ngôi nhà, đến

tầng hầm đang được sử dụng làm nhà ăn tập thể trực tiếp hỏi chuyện anh nuôi đang trực bếp, đoạn mới quay lại bước lên cầu thang phía trái.

Trong tiếng hát theo nhịp vỗ tay hồi hộp của chúng tôi, Bác xuất hiện với nụ cười hiền từ, vẫy tay chào và ra hiệu cho mọi người ngồi xuống.

Bác nhìn khắp một lượt, hỏi anh Lam đang đứng sau Bác: "Có mấy cháu gái ở đây?", "Thưa Bác, có 9 đồng chí ạ". Bác nhìn các đồng chí nữ TNXP hỏi: "Thế các cháu có được bình đẳng với các cháu nam không?", "Thưa Bác, có ạ", cả phòng họp đồng thanh trả lời rõ to. Bác khoát tay: "Bác hỏi các cháu gái chứ sao tất cả trả lời thay!". Vậy là cả Bác và tất cả các cháu cùng cười lên rất vui vẻ, tự nhiên. Bác vẫn đứng, có lẽ để cho các cháu ở hàng ghế sau có thể nhìn được Bác. Bác nói: "Đồng chí Nguyễn Lam cho Bác biết hôm nay có mặt đông đủ các cháu miền Bắc, miền Trung, miền Nam trong cơ quan, thế là chúng ta có một đại gia đình đoàn kết tại đây làm Bác rất vui. Nhưng các cháu đừng quên hiện giờ đồng bào miền Nam đang phải đấu tranh rất anh dũng để thống nhất đất nước, để Bắc Nam đoàn kết trong một nhà. Vì vậy, các cháu phải luôn ra sức học tập, hăng hái công tác để góp phần khôi phục kinh tế - xã hội ở miền Bắc, tích cực ủng hộ đồng bào miền Nam. Các cháu có đồng ý với Bác không?". Cả phòng họp lại vang lên: "Thưa Bác, có ạ".

Sau khi phân tích những hậu quả nặng nề của chiến tranh, những khó khăn to lớn cần vượt qua trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và thiên tai vừa xảy ra trên miền Bắc, Bác ân cần căn dặn: "Bác nghe các cháu đang chuẩn bị các Đại hội. Khai hội để đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng, để đẩy mạnh mọi mặt công tác thế là tốt. Trung ương và Bác đã cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh và đồng chí Nguyễn Lam trực tiếp làm việc cùng các cháu. Nhưng để khai hội có kết quả trước hết phải thực hành dân chủ, lắng nghe ý kiến đóng góp của quần chúng từ đó suy nghĩ đề ra nhiệm vụ. Hai là phải thực hành tiết kiệm, tránh hình thức, phô trương gây ra lãng phí. Và cuối cùng là sau khi khai hội xong phải đề ra kế hoạch thực hiện cụ thể rồi xem xét nơi nào thực hiện có hiệu quả để kịp thời nêu lên cho nơi khác noi theo. Bác nói vắn tắt như thế các cháu có làm được không?".

Chúng tôi đều đồng thanh: "Thưa Bác, làm được ạ". Bác gật đầu tỏ ý tán thành rồi Bác ngước mắt nhìn trên trần nhà nơi có một chùm đèn rất đẹp, nói tiếp: "Bây giờ, các cháu đang sống và làm việc tốt hơn khi ở chiến khu hoặc ở nông thôn, Bác đề nghị các cháu phải tranh thủ thời gian học tập nâng cao trình độ. Cách mạng tiến lên do đó cán bộ cũng phải tiến lên mới theo kịp; chẳng những học riêng cho mình mà còn cần giúp người khác cùng học. Hơn nữa, ngoài giờ làm việc và học tập cần đi vào quần chúng, dành thời gian tìm hiểu đời sống quần chúng, nhất là bà con lao động đang còn gặp nhiều khó khăn".

Và Bác chỉ ra phía bên kia hồ Thiền Quang, ngay gần cơ quan, nói: "Trong thành phố đang có các xóm lao động đông đúc như các cháu thấy đấy, vậy các cháu có thể liên hệ với địa phương để tham gia giúp đồng bào, thí dụ như giúp xây dựng nếp sống vệ sinh phòng ngừa bệnh tật hoặc mở các lớp học văn hóa giúp cho người chưa

biết chữ chẳng hạn... Như vậy, vừa có ích cho đồng bào, vừa có ích cho các cháu".Nghe Bác căn dặn, anh chị em chúng tôi đều tự liên hệ trong đó không ít đồng

chí "giật mình" bởi lẽ tuy mới về thành chưa bao lâu song đã bắt đầu xuất hiện cái  nếp "làm công tử bát phố" mỗi chiều thứ bảy, ngày chủ nhật, mấy ai lên được kế hoạch tự học, tự rèn luyện cho bản thân như Bác vừa ân cần nhắc nhở.

HỒ CHỦ TỊCH VỚI BỐ MẸ CỦA ĐỒNG CHÍ MÌNHTTO - Hồ Chủ tịch đã thay mặt cho toàn dân tri ân những người cha,

người mẹ đáng quí....Trong chuyến về thăm Nghệ An mới đây (4-2007), chúng tôi được ông Hồ Việt

Hà, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài Chính (Tổng cục Du lịch) mời về thăm nhà mình tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An.

Ông Hà cho biết: Ngôi nhà này của ông cố là Hồ Sĩ Tư (bố của ông nội ông Hà là Hồ Sĩ Đản). Năm 1903, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã đưa hai con là Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Sinh Khiêm về đây ở một thời gian.

Trong gần 20 bức ảnh được treo trong nhà, chúng tôi đặc biệt chú ý đến bức ảnh Hồ Chủ tịch chụp chung với thân mẫu và thân phụ của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng vào năm 1955 tại Phủ chủ tịch. Trong đó có thân mẫu và thân phụ các vị lãnh đạo thời đầu của Đảng như: Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Văn Cừ; và sau này như: Lê Duẩn, Trường Chinh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp...

Cả đoàn chúng tôi ai cũng thừa nhận là lần đầu tiên được nhìn thấy bức ảnh. Đặc biệt, qua bức ảnh này, chúng tôi mới nhìn thấy tận mắt những ống bố, bà mẹ đã sinh ra cho đất nước những người con tài ba, xuất chúng. Họ thật sự đã có công rất lớn với Tổ quốc. Và Hồ chủ tịch đã thay mặt cho toàn dân tri ân những người cha, người mẹ đáng quí đó. Chúng tôi xin giới thiệu bức ảnh này trong dịp kỷ niệm ngày sinh nhật chủ tịch Hồ Chí Minh 19-5.

HỒ CHÍ MINH - NGƯỜI CỘNG SẢN ĐẸP (*)Ở gần Hồ Chí Minh, ôn lại cả cuộc đời, mọi việc làm lớn, nhỏ của Hồ Chí

Minh, tôi thấy sáng tỏ: Hồ Chí Minh là một người cộng sán mẫu mực. Từ đó một ý nghĩ thi vị đến với tôi: Người cộng sản đẹp làm chủ nghĩa cộng sản đẹp, và chủ nghĩa cộng sản đẹp làm người cộng sản đẹp.

......................................NGƯỜI CỦA SỨ MỆNH LỊCH SỬ

Để hiểu sự nghiệp Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đến với con người Hồ Chí Minh.Tôi có may mắn được ở gần Hồ Chí Minh trong nhiều năm, qua nhiều giai

đoạn của cách mạng Việt Nam, từ lớp huấn luyện chuẩn bị thành lập Đảng ở Quảng Châu, cho đến những tháng ngày cuối cùng trước khi Hồ Chí Minh qua đời.

Tôi bắt đầu gặp Hồ Chí Minh là qua một bức ảnh. Hồi đó, tôi học năm thứ tư thành chung ở trường Quốc học Huế. Một hôm, tôi được xem ảnh một người còn trẻ, đội mũ phớt tròn, là kiểu mũ thường dùng lúc bấy giờ ở Châu Âu. Con người trong ảnh

toát ra sức hấp dẫn lạ lùng. Hồi đó, mọi người chuyền tay cho nhau xem ảnh đều biết là ảnh Nguyễn Ái Quốc, với những tin từ Pháp truyền về làm nổi bật hoạt động của Người ở Pháp.

Đây là sự kiện trong đời tôi. Lần đầu tiên, tôi tiếp xúc với Hồ Chí Mình. Những sự kiện về sau càng làm tôi có ấn tướng sâu sắc về lần đầu tiên ấy.

Hai năm sau, lúc tôi học năm cuối ở một trường trung học lớn của Pháp tại Hà Nội, nhân dịp để tang cụ Phan Chu Trinh, phần lớn học sinh bãi khoá. Tôi vui lòng bãi khóa. Sau khi bỏ trường, tới tiếp xúc với những người đang bắt liên lạc với những học sinh yêu nước muốn đi tìm con đường cách mạng cứu nước, và được đưa cùng với mấy chục người phần lớn là học sinh Hà Nội, Nam Định và nhiều tỉnh khác qua biên giới Lạng Sơn đến Quảng Châu. Lúc ấy Quảng Châu là một trung tâm của cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung Quốc. Tôi đến Quảng Châu mùa thu năm 1926, dự lớp do Nguyễn Ái Quốc, lấy tên là đồng chí Vương cùng một số nhà cách mạng Việt Nam khác giảng dạy và quản lý. Lúc gặp lần đầu ở lớp, tôi nhận ra ngay Nguyễn Ái Quốc bởi lẽ đã nhìn thấy ở Huế bức ảnh của Người.

Điều đáng nhấn mạnh ở đây, đối với tôi là kỷ niệm lớn trong đời, là những cuộc gặp gỡ giữa tôi và Hồ Chí Minh ngày càng khắc sâu trong ký ức, tình cảm, tâm hồn tôi là hình ảnh một con người trước sau vẫn là một, mặc dầu sau đó chúng tôi trải qua biết bao biến đổi và sóng gió ở nước ta và trên thế giới.

Tất nhiên, những biến đổi đó cũng làm nên những biến đổi trong con người chúng tôi. Điều tôi muốn nhấn mạnh là Hồ Chí Minh bấy giờ và Hồ Chí Minh cuối đời cũng là con người ấy, cũng dáng dấp ấy, một con người mà lúc gặp ngay buổi đầu ai nấy đều thấy rõ đây là một con người rất giản dị, rất hiền từ, có sức hấp dẫn lạ thường đối với người xung quanh, và để lại cho người ta những ấn tượng sâu sắc, mà nhiều người đã kể.

Lần thứ hai tôi gặp Hồ Chí Minh là ở Côn Minh, quãng giữa năm 1940, lần ấy tôi cùng đi với đồng chí Võ Nguyên Giáp. Lúc gặp, tôi nhận ngay ra Hồ Chí Minh và Hồ Chí Minh cũng nhận ngay ra tôi. Hồ Chí Minh nói :

- Chú không có gì thay đổi.It lâu sau, Hồ Chí Minh cùng chúng tôi vượt biên giới Việt - Trung về Cao

Bằng. Từ đó, cho đến khi Hồ Chí Minh qua đời, tôi được làm việc ở cạnh Hồ Chí Minh, trừ hai năm đầu kháng chíến chống Pháp, khi ấy tôi được cử vào miền nam Trung Bộ.

Nhờ chứng kiến hoạt động và chia sẻ cuộc sống của Hồ Chí Minh một thời gian dài, tôi dần dần hiểu biết thêm về con người Hồ Chí Minh. Một dân tộc một thời đạí một sự nghiệp thống nhất với nhau sản sinh ra và kết tinh ở một con người, đó là bản chất và tầm vóc của Hồ Chí Minh.

Thường thường, khi con người biết mình là một nhân vật quan trọng thì không phải lúc nào cũng hồn nhiên và chân thật. Hồ Chí Minh không như vậy. Suốt đời mình, trong việc lớn cũng như việc nhỏ Hồ Chí Minh bao giờ cũng chân thực.

Hồ Chí Minh là một con người phi thường và xuất chúng. Tuy nhiên, khi gặp Hồ Chí Minh mọi người cảm thấy như thân thuộc từ lâu. dễ dàng nói chuyện cởi mở, tự nhiên, không chút nào cách bức. Chính những người khách ngoại quốc rất thích thú nhấn mạnh điểm này.

Chất con người Hồ Chí Minh là chất Việt Nam, chất cách mạng chất cộng sản, chất nhân văn, tất cả gặp gỡ hoà quyện trong một con người và được nâng lên do sứ mệnh lịch sử của con người đó.

Trước hết tôi muốn nói quan điểm của Hồ Chí Minh về cuộc sống của con người. Đây là nhân sinh quan và thế giới quan của chủ nghĩa cộng sản mà những người sáng lập học thuyết Mác - Lênin đã nói rất nhiều, trong nhiều tác phẩm, dưới nhiều dạng. Tôi nghĩ không cần nhắc lại hoặc bình luận. Điều tôi muốn nhấn mạnh là trong cả thời gian ở bên cạnh, cùng làm việc và học tập Hồ Chí Minh, càng ngày tôi càng nhận rõ, và hôm nay ôn lại tôi càng thấy sáng tỏ hơn, Hồ Chí Minh là hiện thân của nhân sinh quan và thế giới quan cộng sản chủ nghĩa, thể hiện trong cuộc sống, trong hành động, trong mọi trường hợp của một cuộc đời biết bao phong phú.

Tôi còn nhớ như in trong ký ức của mình những lúc Bác, cháu tâm sự với nhau về cuộc sống, về sự nghiệp cách mạng, về con người, về tưởng lai của loài người. Bác thường nói với tôi : "Nói chung ở đâu cũng vậy, ở nước ta và trên thế giới, người ta sống trong xã hội này, chịu ảnh hưởng lâu đời của giai cấp thống trị, cho nên lẽ tất nhiên ai nấy đều đuổi theo cái danh và cái lợi. Còn chúng ta thì khác. Sứ mạng của chúng ta là cải tạo cái thế giới này, tiến tới thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản".

Về những mục tiêu ấy, nhiều lần Bác có nói với tôi những ý, gộp lại thì hoàn toàn đúng với hai mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản mà Mác đã thể hiện một cách đầy đủ, sáng tỏ và đẹp đẽ vô cùng: Khi những nguồn của cải tuôn chảy thật dồi dào, khi đó và chỉ khi đó, loài người có thể ghi trên ngọn cờ của mình khẩu hiệu: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, và: "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện của sự phát triển tự do của tất cả moi người".

Hồ Chí Minh là con người của lòng tin không gì lay chuyển nổi vào tương lai dân tộc và loài người, vào chủ nghĩa xã hội. Đó là cái chất không bao giờ biến đổi để ứng phó linh hoạt với muôn vàn biến đổi của một sự nghiệp đầy sóng gió.

Hồ Chí Minh là người suốt đời nhất quán nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự tập trung vào mục tiêu thể hiện trong hoạt động chính trị, thấm nhuần trong cuộc sống hàng ngày. Không khí tinh thần tỏa ra xung quanh Hồ Chí Minh, làm cho con người thấy được sự thanh khiết và nâng lên, là sự chí công vô tư lo toan vì dân, vì nước, vì lý tưởng. Cả trong những việc mình chủ động làm, cũng như trong những việc tình thế buộc mình phải tham gia, bao giờ Hồ Chí Minh cũng tìm được cách lái chiều hướng của mọi việc vào mục tiêu đã chọn. Biện pháp thì thiên biến vạn hóa, con đường có thể khúc khuỷu, quanh co, nhưng mục tiêu bao giờ cũng chỉ một và nhất quán.

Nhằm mục tiêu đã chọn, Hồ Chí Minh là người kiên cường trong đấu tranh trước mọi quân thù, trước mọi khó khăn và truyền chí kiên cường ấy cho toàn Đảng, toàn dân tộc.

Mục tiêu nhất quán và chí khí kiên cường thể hiện trong hành động thiết thực và cụ thể. Mọi lời nói, mọi việc làm của Hồ Chí Minh đều thiết thực và cụ thể. Nói và làm, thường làm nhiều hơn nói, có khi làm mà không cần nói, tư tưởng hiện ra trong hành động. Hồ Chí Minh là người luôn luôn nhằm hiệu quả thiết thực, dám nghĩ và dám làm những việc lớn lạ lùng, nhưng không viển vông, không ảo tưởng, không nóng vội.

Tĩnh như núi, động như biểnHồ Chí Minh là người năng động và linh hoạt trong ứng biến, minh triết và

thanh thản trong tâm hồn và phong độ. Hoàn cảnh càng nguy hiểm, khó khăn, Hồ Chí Minh càng bình tĩnh, sáng suốt. Giải pháp đúng đắn đến thần tình thường bật ra trong một phản ứng tự nhiên, như từ trực giác cách mạng. Bản lĩnh ứng biến năng động và linh hoạt đi đôi với sự minh triết và thanh thản trong tâm hồn, sự ung dung, thoải mái trong phong độ. Hồ Chí Minh hoàn toàn không theo kiểu hiền triết thời xưa, coi mọi thứ trên đời đều là phù du, không đáng kể. Hồ Chí Minh luôn luôn sống giữa cuộc đời và đúng như câu phương ngôn mà Mác ưa thích, không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ. Phong độ ung dung của Hồ Chí Minh là phong độ của người nhận thức được quy luật của lịch sử, tin ở nhân dân và có nhân dân, con người biết mình muốn gì và đi đến đâu, biết tránh thác ghềnh, biết thắng quân địch, con người tĩnh như núi, động như biển, nắm vững nghệ thuật của điều có thể và không ngừng mở rộng giới hạn của điều có thể.

Như viết trong Di chúc, Hồ Chí Minh không có điều gì phải hối hận khi từ biệt thế giới này. Con người suốt đời sống hòa hợp với nhân dân, với lịch sử và với chính mình, luôn luôn có sự thanh thản, ung dung của người chiến sĩ trí tuệ vượt trên hoàn cảnh, trách nhiệm làm tròn và lương tâm trong sáng.

Hồ Chí Minh là người của chủ nghĩa nhân đạo theo ý nghĩa đầy đủ nhất: thương yêu, kính trọng, tin tưởng, biết đòi hỏi và biết phát huy con người, đối với dân tộc Việt Nam và đối với các dân tộc trên thế giới, đối với đông đảo nhân dân lao động và đối với từng người.

Từ lúc còn hoạt động bí mật cho đến sau này khi đã có cả cơ đồ của một quốc gia, Hồ Chí Minh quan tâm săn sóc tư tưởng, công tác, đời sống của từng người đồng chí, việc ăn, mặc, ở, học hành, giải trí của từng người dân, không quên, không sót một ai, từ những người bạn thở hàn vi đến những người quen mới, có quên chăng thì chỉ quên mình. Người suốt đời vun trồng người tốt, việc tốt ấy, vui mừng và phấn khởi đón nhận từng tin vui, biểu dương trong các hội nghị và thích thú kể lại với bạn bè quốc tế những chiến công và thành tích của các tầng lớp nhân dân Việt Nam trong kháng chiến và xây dựng đất nước. Đó là niềm hạnh phúc thanh cao và rộng lớn tràn đầy cuộc đời Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh luôn luôn là hiện thân của tình thân ái, làm cho người ta dễ gần, dễ nói chuyện thân tình và cởi mở. Hồ Chí Minh để lại cho người đối thoại niềm hân hoan vô hạn. Trong nhiều năm ở gần Hồ Chí Minh, không một trường hợp nào tôi thấy Bác bực tức ra mặt, làm tổn thương dù một thoáng qua người đồng chí của mình. Đây là điều đến bây giờ hồi tưởng lại tất cả, tôi lấy làm ngạc nhiên vô cùng.

Về cá nhân tôi, tôi thấy cần phải nói ra đây một câu chuyện khiến cho đến bây giờ, sau nhiều thập kỷ, tôi vẫn còn xúc động. Đây là một lầm lỗi của tôi, có ảnh hưởng không hay đến một việc Bác dự định làm. Mặc dầu vậy, Bác chỉ nói với tôi vẻn vẹn có một câu: "Chú làm hỏng việc". Phải là một con người giàu lòng khoan dung độ lượng mới có thể xử sự một cách nhân ái như vậy. Chính thái độ này là một bài học mãi mãi ghi sâu trong ký ức tôi.

Chủ nghĩa nhân đạo của Hồ Chí Minh thể hiện trong thái độ đối với từng con người, lo toan trước hết cho những người ở vị trí chiến đấu gian khổ nhất, chia sẻ đau buồn với những người mất mát, tìm cách đền đáp cho những người thiệt thòi, bao dung độ lượng với những thành thật hối cải. Hồ Chí Minh luôn luôn nói những lời, làm những việc mà mỗi người lao động chờ mong, cảm hóa được nhân sĩ, trí thức, thuyết phục được người do dự, phân vân, trân trọng từ các cháu thanh niên và thiếu nhi, chan hòa gần gũi với những người giúp việc quanh mình, nâng niu từng nhân cách.

Lòng thương yêu và kính trọng đi đôi với những đòi hỏi rất cao đối với con người. Hồ Chí Minh đề ra những yêu cầu chặt chẽ, nghiêm khắc trong từng công việc, giữ trật tự và kỷ cương để phát huy khả năng của mọi người, khiến cho ai nấy đều vươn lên cố gắng hiến dâng tất cả khả năng của mình cho dân tộc và thực hiện toàn vẹn nhân cách của mình.

Chủ nghĩa nhân đạo của Hồ Chí Minh không chỉ là sống vì con người, suốt đời lo toan cho con người, càng không phải là làm ra và đem lại con người hưởng những điều con người mong muốn, mà là khơi dậy trong con người lòng tự hào và niềm tin, ý chí và nhiệt tình cách mạng, để con người tự mình làm ra tất cả.

Toàn thể nhân dân và từng người Việt Nam cảm thấy Hồ Chí Minh là người thân trong gia đình. Dù ở rất xa, có khi cả đời không có dịp gặp Hồ Chí Minh, ai nấy đều cảm thấy Hồ Chí Minh luôn luôn ở gần bên, biết rõ việc làm và hiểu thấu tâm tư của mình. Tình yêu của nhân dân Việt Nam đối với Hồ Chí Mính ở ngang tầm tình yêu của Hồ Chí Minh đối với nhân dân Việt Nam, sâu xa và trong sáng.

Hồ Chí Minh gắn bó với dân tộc mình đồng thời cũng dành những tình cảm thắm thíết với mọi dân tộc trên thế giới, luôn luôn ủng hộ mọi cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng bất cứ ở đâu, quan tâm chí tình mọi bạn bè quốc tế, săn sóc ân cần mọi số phận con người bằng những víệc làm cảm động và thiết thực. Hồ Chí Minh là hiện thân của tinh thần “Quan san muôn dặm một nhà, bốn phương vô sản đều là anh em” và của lý tưởng “Người vớì người là bạn". Cũng như dân tộc Việt Nam, cả loài ngườì đã đền đáp tấm lòng của Hồ Chí Minh bằng tình yêu mến đặc biệt.

Hồ Chí Minh là hình ảnh sống về đạo đức cách mạng. Ở Hồ Chí Minh thể hiện toàn vẹn đức tính chí công vô tư, cần, kiệm, liêm, chính, nhân, nghĩa,  trí, dũng với nội dung mới mà Người đã đề ra cho toàn Đảng, toàn dân. Nét đặc biệt của Hồ Chí Minh là khiêm tốn, giản dị, sự khiêm tốn, giản dị chân thành và hồn nhiên của con nguời bao giờ cũng là chính mình và chỉ cần là chính mính. Địa vị càng cao, uy tín càng lớn, Hồ Chí Minh càng khiêm tốn giản dị. Truớc tất cả và hơn hết mọi người, trong mỗi ngày, mỗi việc, Hồ Chí Minh đã làm đúng điều Người nhắc nhở mọi cán bộ cách mạng, là trung thành và tận tụy làm ngươi đầy tớ của nhân dân. Ở cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước, được tín nhiệm rất cao, Hồ Chí Minh vẫn sống như một người đảng viên và một người lao động bình thường, tôn trọng quần chúng và phục tùng tập thể, lắng nghe ý kiến của những người học trò và mọi người sống quanh mình, khi chuẩn bị một chủ trương quan trọng cũng như khi viết một bài báo.

Cuộc sống và việc làm hằng ngày của Bác thể hiện đẹp đẽ và sâu sắc ý thức tổ chức và ý thức tập thể, từ việc rất nhỏ đến việc rất lớn. Và trong mọi việc, Bác đòi hỏi phải có sự nhất trí sâu rộng của tập thể, từ đó mới có thể động viên được sức mạnh vô tận của khối đoàn kết toàn dân, và đây là nhân tố quyết định.

Một điều đáng tự hào của Đảng cộng sản và của dân tộc Việt Nam là ở đất nước mà người lãnh tụ được cả dân tộc yêu mến và tin tưởng đến mức lạ lùng, lại không hề bao giờ nảy ra tệ sùng bái cá nhân với những tệ nạn của nó. Đó là phẩm chất của Hồ Chí Minh và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Con người Hồ Chí Minh trước sau như một, vượt qua thử thách của vinh quang, của quyền lực, của tuổi tác, của thời gian, làm sáng lên sự cao cả của con người.

Hồ Chí Minh là nhà chiến lược, nhà lãnh đạo, nhà tổ chức, đồng thời là nhà văn hóa, nhà báo, nhà thơ lớn. Người đã mở đầu và góp phần quan trọng hiện đại hóa ngôn ngữ và câu văn Việt Nam. Suốt đời, Hồ Chí Minh là người cầm bút, chiến đấu trên mặt trận văn hóa, báo chí, với một văn phong đa dạng nhiều sắc thái mà điểm nổi bật là tính quần chúng, cách suy nghĩ và diễn đạt dân gian, dễ hiểu, đi sâu, vang vọng trong lòng người, gợi mở những tư tưởng lớn lao, thúc đẩy những việc làm tốt đẹp, bằng những lời lẽ bình dị giàu hình tượng, nói được điều lớn bằng chữ nhỏ.

Người ta đã viết nhiều về phong cách nói và viết của Hồ Chí Minh. Tôi không nhắc lại, nhưng phải nhấn mạnh rằng anh em đồng chí chúng ta vẫn chưa học được phong cách tuyệt vời của Bác. Trong một bài viết hoặc bài nói, Bác không chỉ chú ý từng câu, từng chữ mà còn chú ý nói cái gì trước cái gì sau, bởi vì có khi đó chính là điều quan trọng bậc nhất.

Ví dụ: có lúc có một đồng chí viết trong một văn kiện về cuộc kháng chiến chống Mỹ "Địch nhất định thua, ta nhất định thắng". Nghe câu này, Bác tức khắc phản ứng: Phải nói ngược lại: "Ta nhất định thắng, địch nhất định thua". Và Bác giải thích thêm: "Ta phải thắng thì nó mới thua". Điều này thể hiện cả một quan điểm, một ý chí sắt đá quyết chiến và quyết thắng không gì lay chuyển được.

Đúng như Hồ Chí Minh từng tâm sự Người không ham làm thơ và cũng không dành được nhiều thời gian cho thơ, nhưng khi hoàn cảnh cho phép và làm nảy ra cảm hứng, Hồ Chí Minh đã viết những bài thơ đẹp và trong sáng. Tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh là một kho tàng về biết bao khía cạnh của cuộc đời, con người và nghệ thuật mà sự phong phú còn cần được tiếp tục nghiên cứu.

Nhà thơ Hồ Chí Mình không chỉ hiện lên qua các bài thơ. Một chất thơ thấm đượm tình người và cuộc sống của con người, có cốt cách Việt Nam và phương Đông, đặc biệt thanh cao và tao nhã, tỏa ra từ sự nghiệp và bình sinh của Hồ Chí Minh. Nhà lý luận, nhà hành động. con người ấy bao giờ cũng thơ, lúc chan chứa, lúc thâm trầm, luôn luôn dung dị, thơ sử thi, thơ anh hùng ca, thơ trữ tình, như chính cuộc dời này thơ vậy. Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam và của loài ngưòí, với ý nghĩa đầy đủ nhất của danh hiệu Nhà văn hóa. Ở Hồ Chí Minh, nhà văn hóa lớn gắn liền với nhà nhân văn lớn phát huy truyền thống của một dán tộc "văn hiến".

Hồ Chí Mình là một nhà văn hóa lớn, vì cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương về nhân sinh quan và thế giới quan cao đẹp, làm sáng lên một chủ nghĩa nhân văn trùng với những ước mơ cổ truyền của dân tộc Việt Nam và các dân tộc, kết tinh những tư tưởng và tình cảm lớn của loài người.

Việc tổ chức UNESCO quyết định kỷ niệm 100 ngày sinh của Hồ Chí Minh ở khắp các nước trên thế giới là sự đánh giá tốt đẹp về Hồ Chí Minh và về dân tộc Việt Nam, được nhân dân cả nước Việt Nam đón nhận như một niềm tự hào, một sự động viên trên con đường tiếp tục sự nghiệp của Hồ Chí Minh.

"Yêu thương tất cả, chỉ quên mình..."Trên đây tới vừa nói về chất cách mạng, chất Việt Nam, chất cộng sản, chất

nhân văn của Hồ Chí Minh. Bây giờ tôi nói về cuộc sống của Hồ Chí Minh.Về khung cảnh sống, tôi nhớ lại lúc Bác sống nhiều năm ở hang Pắc Bó. Và để

diễn tả khung cảnh này, tôi nghĩ không có thể nói gì hơn là nhắc lại mấy câu thơ của Bác :

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàngBàn đá chông chênh dịch sử ĐảngCuộc đời cách mạng thật là sang

Nhân nói đến cháo bẹ, tôi phải kể đến một câu chuyện ít ai biết. Trước khi trở về Cao Bằng, có một thời gian Bác và chúng tôi phải ở bên kia biên giới, giữa nhân dân các dân tộc vùng đó, nơi người ta chỉ sống bằng cháo bẹ. Bấy giờ Bác có nhiều tiền, hai xếp giấy bạc như hai cuốn từ điển, và Bác giao cho tôi giữ tiền. Tôi phải mặc một cái áo trong, với hai cái túi to, để giữ hai xếp bạc đó. Nghĩa là chúng tôi có nhiều tiền, nhưng bữa cơm hằng ngày là cháo bẹ, nói thật là không đủ no.Sau này, ở Hà Nội, nhất là vào những năm cuối đời hằng ngày Bác ăn cơm với tôi, có khi Bác nói: "Lúc ăn được thì không có mà ăn. Lúc có ăn thì lại không ăn được". Bởi lúc bấy giờ, Bác ăn không ngon, và phải nói rằng ăn rất ít.

Trở lại khung cảnh sống, hai người bạn đời luôn luôn cùng sống với Bác là con người và thiên nhiên. Để làm sáng tỏ khung cảnh sống đầy ý nghĩa và đẹp đẽ này, tôi phải nhắc đến cái nhà sàn của Bác mà từ nhiều năm nay, nhiều người ở nước ta và trên thế giới đã biết, và rất xúc động lúc viếng nhà sàn ấy. Ở đây cũng như lúc ở Pắc Bó, Hồ Chí Minh sống với con người và sống với thiên nhiên. Đây không chi là khung cảnh, mà còn là lối sống, đem lại những niềm vui quý báu đối với con người mà cái xã hội gọi là văn minh ngày nay hầu như muốn tước đoạt, với những thành phố khổng lồ, những nhà nhiều tầng đầy  tiện nghi trong đó có những thứ không cần thiết, môi trường sống bị ô nhiễm khủng khiếp, phá hoại thiên nhiên và nguy hại cho con người. Nhớ lại khung cảnh sống của Hồ Chí Minh, tôi muốn nhắc hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ:

Gió trăng chứa một thuyền đầyCủa kho vô tận biết ngày nào vơi.

Hai câu thơ từ hàng trăm năm trước rất phù hợp với khung cảnh sống và lối sống của Hồ Chí Minh, thể hiện nguyện vọng và xu hướng của cuộc sống văn minh chân chính.

Về cuộc sống hằng ngày của Hồ Chí Minh, ở đây tôi không biết nói cái gì mới, bởi cuộc sống đó là công việc, là làm việc, là cách mạng, là đấu tranh, là con người. Tuy nhiên, tôi cũng cần nhắc lại một đôi điều mà không mấy người nói đến. Theo tôi biết, trong cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh ở trong nước cũng như ngoài nước, thật sự không có ngày nghỉ, và ngày nào cũng như ngày nào, bao giờ cũng có chương trình làm việc với những giờ giấc nghiêm ngặt, mà Hồ Chí Minh là người gương mẫu trong việc tuân thủ kỷ luật sinh hoạt đó. Có lẽ lúc nghỉ ngơi là lúc Bác gặp các cháu thiếu niên và nhi đồng, nhất là gặp đồng bào và chiến sĩ miền Nam trong thời chống Mỹ, hoặc trong lúc xem phim vui tối thứ bảy ở Phủ Chủ tịch cùng với biết bao con, cháu các đồng chí làm việc ở chỗ Bác, và ở một số cơ quan gần bên. Có khi trong những buổi xem phim như vậy, Bác tiếp khách nước ngoài hoặc đại sứ các nước anh em.

Một câu chuyện tôi thiết tha muốn kể ở đây là bữa ăn của Bác. Một bữa ăn đạm bạc, rất khó tưởng tượng với nhiều người. Nhưng đó không phải là điều làm tôi xúc động, điều làm tôi xúc động là trong bữa ăn, Bác lưu ý mọi người ăn món nào thì ăn cho hết, món nào không ăn để lại thì để cho tươm tất. Ở gần Bác trong nhiều năm, tôi kể lại câu chuyện này, để nói lên tấm lòng cao đẹp của Hồ Chí Minh, lòng kính trọng của Người đối với những người chế biến bữa ăn, và sâu xa hơn đối với những người sản xuất ra các thứ làm nên bữa ăn.

Về cuộc đời và con người Hồ Chí Minh, giờ đây tôi muốn dành phần cuối của chương để kể lại một đôi điều. Mấy tháng trước khi qua đời, lúc đó Bác đã mệt nhiều, tuy vậy Bác vẫn thiết tha bàn với chúng tôi điều mong muốn mãnh liệt của Bác là đi miền Nam. Lần này, chúng tôi trình bày với Bác sức khỏe của Bác không thể cho phép thực hiện điều ấy, và chúng tôi nói thêm rằng cuộc chiến tranh đang diễn biến thuận lợi cho ta, không bao lâu nữa chúng ta sẽ giải phóng miền Nam, lúc đó Bác sẽ vào thăm đồng bào và chiến sĩ miền Nam.

Nhưng ai có thể biết được Bác đã trả lời chúng tôi thế nào? Bác bảo: "Lúc đó đi miền Nam thi còn phải nói làm gì. Chính bây giờ, lúc đồng bào và chiến sĩ miền Nam đang chiến đấu, hy sinh, thì đi miền Nam mới có ý nghĩa".

Cũng trong thời gian ấy, Bác thường nhắc chúng tôi phải làm gì để đem lại cho đồng bào miền Bắc đời sống tốt hơn. Những lúc như vậy, chúng tôi thường nhấn mạnh lại những điều Bác căn dặn: Phải làm việc, phải sản xuất nhằm đạt hiệu quả tốt, từ đó mà cải thiện đời sống.

Nhưng chúng tôi thấy rõ nói thế không đúng với điều mà Bác đòi hỏi. Bác đòi hỏi cái gì thiết thực, có ngay. Điều đó thì thật khó quá. Tất nhiên Bác cũng biết như vậy, nhưng lòng mong muốn này vẫn là điều day dứt Bác trong những ngày, tháng cuối cùng.

Hồ Chí Minh là người sống một cuộc đời trước sau như một, nhằm những mục tiêu cao cả được xác định từ lúc bắt đầu và từng bước đã thực hiện được Hồ Chí Minh là con người của một lý tưởng và lý tưởng thể hiện trong một con người. Đây là con người lịch sử và con người làm ra lịch sử.

Ở gần Hồ Chí Minh, ôn lại cả cuộc đời, mọi việc làm lớn, nhỏ của Hồ Chí Minh, tôi thấy sáng tỏ: Hồ Chí Minh là một người cộng sán mẫu mực. Từ đó một ý nghĩ thi vị đến với tôi: Người cộng sản đẹp làm chủ nghĩa cộng sản đẹp, và chủ nghĩa cộng sản đẹp làm người cộng sản đẹp.

Hồ Chí Minh là một con người như vậy.CÂU CHUYỆN VỀ 3 CHIẾC BALÔ

Trong những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công tác, có hai đồng chí đi cùng. Vì sợ Bác mệt, nên hai đồng chí định mang hộ balô cho Bác, nhưng Bác nói:

- Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít.

Khi mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 balô rồi, Bác còn hỏi thêm:- Các chú đã chia đều rồi chứ?Hai đồng chí trả lời:- Thưa Bác, rồi ạ.Ba người lên đường, qua một chặng, mọi người dừng chân, Bác đến chỗ đồng

chí bên cạnh, xách chiếc balô lên.- Tại sao balô của chú nặng mà Bác lại nhẹ?Sau đó, Bác mở cả 3 chiếc balô ra xem thì thấy balô của Bác nhẹ nhất, chỉ có

chăn, màn. Bác không đồng ý và nói:- Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.Hai đồng chí kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc balô.

BÁC HỒ TĂNG GIA RAU CẢI

Mùa đông năm 1952, lúc đó tôi đang công tác ở Văn phòng Trung ương Đảng. Trụ sở cơ quan đóng tại đèo Re (núi Rồng). Cơ quan Phủ Chủ tịch cũng ở sát ngay cạnh đó. Sau Hội nghị chính quyền lần thứ 5 (tháng 3 - 1952), Chính phủ đã phát động phong trào tăng gia, sản xuất, tiết kiệm trong toàn quốc.

Ở Trung ương, cơ quan này thi đua tăng gia với cơ quan khác. Vì hai cơ quan gần nhau, tôi được công đoàn cử ra thi đua với cơ quan bên Phủ Chủ tịch. Bên Văn phòng Phủ Chủ tịch lại cử Bác là đại diện các nhân thi đua tăng gia với cơ quan Văn phòng Trung ương.

Buổi lễ phát động thi đua diễn ra thật sôi nổi. Tôi đang sức trẻ nên thay mặt anh em đứng lên thách thức thi đua: cùng một khoảng đất như nhau 36m2, trong một thời gian nhất định, tôi xin trồng rau ăn với sản lượng cao nhất. Bác cũng đứng lên: Bác nhận thách thức thi đua tăng gia với chú Thông, với mảnh đất 36m2 trong một thời gian bằng nhau, đạt sản lượng rau nhiều hơn chú Thông. Mọi người vỗ tay hoan hô. Một số đồng chí xì xào: một cuộc thi đua không cân sức. Bác vừa già, vừa bận nhiều việc, địch sao được với cậu Thông khỏe như voi, trồng rau đã quen. Có người nêu: "Giải thưởng thi đua là một con gà trống 2kg". Mọi người lại hoan hô tán thưởng. Mấy đồng chí ở Văn phòng Trung ương nói to: "Nhất định chuyến này chúng ta được ăn thịt gà của Chủ tịch thì phải tích cực tăng gia để có nhiều rau xanh cung cấp cho nhà bếp cơ quan".

Tôi về suy nghĩ: để chắc ăn và có năng suất cao thì trồng cải củ, vì cải củ ở vùng này củ rất to, rất nặng. Tôi trao đổi với anh em công đoàn, mọi người ủng hộ, cho là sáng kiến.

Sau một tuần, tôi đã làm đất và trồng xong 36m2 cải củ. Ngay sát mảnh đất của tôi, Bác và anh em bên Phủ Chủ tịch làm rất kỹ, đất nhỏ, mịn và sạch cỏ. Hơn một tuần thì Bác gieo hạt cải mào gà (cải xanh lá xoan). Anh em văn phòng Phủ Chủ tịch làm chỗ đi tiểu gần nhà và mua một nồi hông lớn để hứng nước tiểu. Phía Văn phòng Trung ương tôi cũng huy động anh em làm nhà tiêu để lấy phân bón.

Sau một tuần các cây cải mọc đều và đẹp. Bác lấy nước tiểu pha loãng tưới. Còn tôi lấy phân bắc tưới hòa ra tưới. Mỗi lần tưới cả cơ quan bịt mũi.

Sau một tháng, hai vạt rau tốt ngang nhau. Nhiều người ủng hộ tôi cho rằng tôi sẽ thắng vì củ cải lớn rất nhanh.

Một hôm Bác nhổ rau bán cho nhà bếp chỉ được 15kg. Bác để lại những cây to, khỏe, mỗi cây cách nhau chừng hai gang. Một số anh em lo lắng vì thấy vườn rau Bác nhổ đi xơ xác mà chỉ được có 15kg rau cải con. Ba buổi chiều liền, sau giờ làm việc Bác đều ra vườn dùng chiếc dầm xới đất cho cải và tưới nước giải đều.

Sau hai tháng 10 ngày thì củ cải của tôi đã to bằng bắp tay và có cây đã cho nụ. Tôi nhổ và cân cho nhà bếp được 60kg. Tôi vui mừng vì thắng lợi. Nhưng cũng lúc đó, cây cải mào gà của Bác đã to bằng cái nơm, chứ năm ngày một lần Bác tỉa tàu cân cho nhà bếp khoảng 10kg. Kỳ lạ thay cải mào gà càng tỉa cây càng lớn, tàu càng to và càng trẻ lâu. Sau 2 tháng rưỡi cải mới có ngồng. Lúc đó Bác nhổ cả cây cho nhà bếp muối

dưa. Bác còn đem biếu cụ già dân tộc gần đó 2 cây rất to làm giống. Cụ già sung sướng khoe với mọi người: "Rau cải Cụ Hồ tốt thật".

Mở sổ nhà bếp ra cộng- Cải con: 15kg- Tàu cải canh: 14 lần x 10kg = 140kg- Cây cải làm dưa nén: 20kgCộng: 175kgVậy tôi thua đã rõ ràng. Công đoàn Văn phòng Trung ương phải nộp con gà

trống nuôi được cho công đoàn Văn phòng Phủ Chủ tịch. Nhờ có rau tăng gia mà cả mùa đông nhà bếp đủ rau nấu, không phải ra dân mua. Buổi tổng kết thật vui vẻ. Tôi đứng dậy xin nhận thua. Bác nói chuyện với anh em: khi tăng gia, các cô, các chú phải lưu ý bốn điều kiện: giống, cần, phân, nước. Giống: nên chọn loại rau trồng một lần, ăn nhiều lần, củ cải dễ trồng, năng suất cao, nhưng chỉ được ăn một lần thì không bằng cải mào gà, trẻ lâu, tỉa ăn được nhiều lần. Cần: người trồng rau phải chăm chỉ, chọn đúng thời vụ trồng loại rau cho hợp khí hậu, rau mới tốt. Vun xới phải đúng cách. Cải mào gà khi tốt cứ 10 ngày xới một lần cho rễ con đứt, chúng ta nhiều nhánh rễ hơn và hút được nhiều phân bón, muối khoáng trong đất. Phân: phải chọn loại phân bón thích hợp. Cải canh rất hợp nước tiểu pha loãng. Thứ phân tươi chú Thông bón cũng tốt đấy nhưng mất vệ sinh lắm. Nước: phải tưới đều và tưới đủ độ ẩm rau mới trẻ lâu và xanh tốt.

Lần ấy thua Bác, tôi hết chủ quan và rút được bài học mới về tăng gia.

KHÔNG AI ĐƯỢC VÀO ĐÂY

Sách Hồ Chí minh biên niên tiểu sử, tập 10, do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1996, trang 334, có đoạn:

"Ngày 27 tháng 4 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe hai đồng chí: Lê Đức Anh và Chu Huy Mân báo cáo công việc, sau đó Người mời hai đồng chí ở lại ăn cơm với Người".

Sáng hôm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bỏ phiếu bầu Hội đồng nhân dân cấp huyện, xã... Người bỏ phiếu tại hòm phiếu số 6, đơn vị 1, tiểu khu 1, khu phố Ba Đình, Hà Nội, đặt tại Nhà thuyền Hồ Tây.

Khi Bác Hồ đến, trong Nhà thuyền đã có nhiều cử tri đang bỏ phiếu. Tổ bầu cử thấy Bác đến, ra hiệu để đồng bào tạm dựng và tạo "điều kiện" để Bác bỏ phiếu trước. Biết ý, Bác nói "sòng phẳng":

- Ai đến trước, viết trước, Bác đến sau, Bác chờ. Bác chờ cho đến hàng mình, mới nhận phiếu và vào "buồng" phiếu.

Nhà báo Ma Cường chợt nghĩ thật là "hạnh phúc một đời của người làm báo", "cơ hội ngàn năm có một" và vội giơ máy lên bấm, rất nhanh, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tay che phiếu lại, nói với Ma Cường:

- Không ai được vào đây. Đây là phòng viết phiếu kín của cử tri. Phải bảo đảm tự do và bí mật cho công dân.

Nhà báo buông máy, nhưng vẫn thấy hạnh phúc.Theo lời kể của các đồng chí ở gần Bác, trước khi đi bầu cử Bác không cho ai

"gợi ý" cả, Bác nói:- Ấy, đừng có "lãnh đạo" Bác nhé. Bác không biết Đảng uỷ hướng dẫn danh

sách để ai, xóa ai đâu nhé. Đưa lý lịch của những người ứng cử đây để Bác xem. Có chú nào dự buổi ứng cử viên trình bày ý kiến với cử tri, nói lại để Bác cân nhắc, Bác tự bầu.

BÀI HỌC LỚN TỪ NHỮNG CHUYỆN NHỎ

Một sớm đầu tháng 5/1976, mươi anh em giảng viên trong tổ Văn học Việt Nam hiện đại trường ĐH Sư phạm Hà Nội chúng tôi có buổi tọa đàm với ông Vũ Kỳ - người thư ký riêng thân cận, gắn bó với Bác trong hai mươi năm, từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.

Nơi tọa đàm thật đặc biệt: ngay ở tầng trệt của ngôi nhà sàn nhỏ bé nơi Bác sống 12 năm, kể từ sau chuyến đi thăm hữu nghị Indonesia. Cuối buổi làm việc, ông dẫn chúng tôi lên lầu, thăm phòng ngủ và phòng làm việc của Hồ Chủ tịch.

Thấy chúng tôi có vẻ thắc mắc về cái vỏ lọ thủy tinh nhỏ vốn đựng bột penicillin, có cắm một nửa điếu thuốc lá để trên bàn làm việc của Hồ Chủ tịch, bên cạnh cuốn chuyên khảo Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông để mở (chắc là Người đang đọc dở), ông Vũ Kỳ cười và giải thích: Hồ Chủ tịch nghiện thuốc lá, đến tuổi 70, bác sĩ khuyên Người nên hút ít đi. Hồ Chủ tịch nghe theo. Trước kia Người hút mỗi ngày hàng chục điếu, nay hạn chế chỉ bốn năm lần, mỗi lần nửa điếu là dụi tắt. Được một, hai ngày Bác bảo tôi kiếm cho bác một cái lọ penicillin nhỏ, loại 1 cc. Chưa biết ý định của lãnh tụ, nhưng ông Vũ Kỳ làm ngay việc Bác giao. Lúc ấy Hồ Chủ tịch vui vẻ lấy trong hộp ra một điếu thuốc, bật quẹt hút rất khoan khoái. Hút khoảng nửa điếu, thay vì dụi tắt và vứt đi, Người cắm đầu đang đỏ lửa của nửa điếu thuốc còn lại vào miệng lọ penicillin. Thuốc tắt. Hồ Chủ tịch bảo ông Vũ Kỳ: "Chiều sẽ hút tiếp, cho đỡ phí, chú ạ!".

Thấy chúng tôi đang thẫn thờ suy nghĩ, ông Vũ Kỳ lại đưa tay về phía đầu giường - cái giường rộng khoảng 1m20, không drap, không nệm, chỉ trải một chiếc chiếu cói đậu - cầm lên cái quạt giấy. Chúng tôi lại thắc mắc, vì ở góc phòng khá xa giường có một cái quạt máy. Đã có quạt máy, còn cần quạt giấy làm gì? Ông Vũ Kỳ kể, năm 1964, Chủ tịch Mao Trạch Đông gửi tặng Bác Hồ một sản phẩm mới của ngành công nghiệp nhẹ ở Thượng Hải: chiếc quạt bàn nhãn hiệu Đông Phong. Bác bảo Vũ Kỳ gọi mấy anh cảnh vệ lên, rồi cho mở quạt. Mấy bác cháu vừa xem vừa bình phẩm, nhận xét về hình dáng, tính năng. Được dăm phút, Người bảo tắt đi, để quạt vào góc phòng rồi nói: "Trên gác này thoáng mát, khi cần dùng quạt giấy cũng đủ. Dùng quạt máy làm gì cho phí điện". Từ đó đến lúc qua đời, Người không dùng đến nó và chỉ lưu giữ trân

trọng như một món quà kỷ niệm. Ông Vũ Kỳ xòe quạt ra. Một cái quạt quá độc đáo: trên mặt chiếc quạt cũ kỹ có dán khá nhiều miếng băng keo. Ông Kỳ giải thích, ông đã mua chiếc quạt này từ đầu mùa hè 1955 - hè đầu tiên Hồ Chủ tịch về thủ đô. Dù giữ gìn cẩn thận thì sau 4 - 5 năm quạt vẫn bị sờn rách. Ông định mua chiếc khác, Bác Hồ gạt đi: "Mua làm gì cho tốn tiền. Chú xin chú y sĩ cho Bác một mẩu băng keo". Người lấy băng keo dán vào chỗ quạt rách và tiếp tục dùng một cách bình thường. Và cứ như thế, chiếc quạt giấy kia thủy chung bên vị lãnh tụ của chúng ta suốt 15 mùa hè oi nồng ở miền Bắc. Trên mặt quạt, tôi không kịp đếm, nhưng chắc phải có vài mươi mẩu băng keo.

Ông Vũ Kỳ còn kể, ông "nhân nhượng" Bác Hồ rất nhiều trong việc hạn chế mua sắm các đồ dùng, nhưng đến cái vỏ áo bông rách kia thì ông không chịu được nữa, nên đã hậm hực phản ứng: "Bác là lãnh tụ tối cao của Đảng, của đất nước, mặc áo bông vá sao tiện?". Hồ Chủ tịch cười, ôn tồn giải thích: "Lãnh tụ tối cao mà mặc áo bông vá càng có phúc cho dân, cho nước chứ sao! Chú không nên băn khoăn".

Bình sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều ân cần nhắc nhở đến những điều cơ bản của đạo đức: Cần - Kiệm - Liêm - Chính. Người không những nhắc nhở, giáo dục đồng bào đồng chí mà luôn quán triệt những yêu cầu đó trong hành động, ứng xử, nếp sống đời thường của chính mình; luôn giữ cho mình "đời tư trong sáng, tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy" như Người đã suy nghĩ và viết về V.I.Lenin (xem Mãi mãi đi theo con đường của Lênin - NXB Sự thật, 1970, trang 14).

Một nhà văn, nhà thơ lớn của Cuba - Phêlích Pita Rôđrighết - sau khi đi thăm ngôi nhà sàn lịch sử của Hồ Chủ tịch hồi đầu tháng 5.1975 đã suy tư rất chí lý: "Đó là sự khắc khổ ư? Không, từ này không phải, không định nghĩa đúng điều ta muốn nói. Bởi sự khắc khổ có thể là một cái gì cường điệu. Đó là sự giản dị, khiêm nhường, khiêm tốn ư? Những từ này cũng không thể hiện được đúng những điều chúng ta cảm thấy. Có thể nói đó là tinh thần chí công vô tư. Người chỉ sử dụng cho mình những gì tối cần thiết chứ không phải bất cứ cái gì cần thiết".

“Chí công vô tư. Đó là tinh thần phục vụ quên mình vì tất cả mọi người. Đó là việc lãng quên đi tất cả mọi điều có thể làm trở ngại cho tinh thần phục vụ vô điều kiện của Người" (Ngôi nhà của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Báo Văn nghệ, Hà Nội, 10.5.1975).

Trong cao trào phòng chống lãng phí và tham nhũng hiện nay của nước ta, nhắc lại mấy mẩu chuyện trên, kể cũng không thừa.      

SUỐT ĐỜI TÔI KHÔNG QUÊN...  

Năm 1953, tôi được triệu tập đi học một lớp chính trị tập trung 3 tháng. Lớp đặt ở ATK (An toàn khu - nơi sơ tán của các cơ quan trung ương ở liên khu Việt Bắc). Số đông học viên của lớp này là các cán bộ giáo dục, văn học nghệ thuật trung ương. Có nhiều vị lão thành cách mạng, có những người đã từng giữ những trọng trách trong Đảng và Chính phủ.

Hồi ấy chiến tranh đang còn ác liệt, máy bay Pháp đánh phá dữ dội, các lán dựng lên làm lớp học, nơi ăn ở cho các học viên được cây rừng đại ngàn che phủ, chung quanh có những căn hầm để khi có máy bay đến thì học viên rút xuống trú ẩn. 

Bác Hồ cùng nhiều vị trong Trung ương thường đến thăm lớp học. Đặc biệt, Bác luôn luôn nhắc nhở các đồng chí phụ trách lớp phải săn sóc sức khỏe, phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các học viên.

Mỗi lần Bác đến, lớp học rất vui, Bác nói chuyện thân mật với các học viên. Bác kể chuyện Bác học chính trị, học tiếng Pháp, tiếng Anh, học viết báo và động viên các học viên cố gắng học tập cho tốt.

Có lần Bác được một địa phương biếu 4 tấm áo lụa. Bác đem áo đến lớp tặng cho 4 cụ cao tuổi nhất. 

Sau mỗi bài học, các học viên viết thu hoạch. Ban phụ trách lớp báo cáo kết quả lên Bác. Bác đến biểu dương sự tiến bộ của các học viên và giảng thêm những điều cần phải hiểu rõ, hiểu sâu để thực hiện cho đúng, cho tốt.

Một lần Bác đến vào buổi tối, cùng đi với Bác có đồng chí Phạm Văn Đồng và nhiều vị bộ trưởng, nhiều vị ủy viên Trung ương. Buổi báo cáo sơ kết đang tiến hành thì có tiếng báo động máy bay địch đến. Đồng chí Phạm Văn Đồng đứng lên chỉ huy: "Tắt hết đèn, mời các học viên khẩn trương ra hầm trú ẩn!". 

Mọi người nhanh nhẹn ra khỏi hội trường đi đến các hầm trú ẩn chung quanh lớp học.

Tôi cũng vội vàng rảo bước ra cửa. Bỗng một bàn tay nắm lấy cánh tay phải của tôi. Trong đêm tối, tôi không biết là ai nhưng khi nghe tiếng nói thì tôi biết là Bác Hồ. Bác nói: "Chú còn trẻ (năm ấy tôi mới hơn 30 tuổi), chú mắt tinh, chú dắt các cụ ra hầm trú ẩn kẻo nhỡ các cụ vấp phải rễ cây ngã thì lôi thôi". 

Nghe Bác nói vậy, tôi giật mình và xấu hổ quá. Thì ra Bác đã chú ý chỗ dãy bàn tôi ngồi học có nhiều cụ cao tuổi cho nên vừa tắt đèn Bác vội đến chỗ tôi bảo tôi dẫn các cụ ra hầm trú ẩn.

Một lát sau máy bay địch đi xa. Các ngọn đèn măng-sông lại được thắp sáng, tôi thấy các vị trong Trung ương đều đứng chung quanh Bác Hồ như muốn lấy thân mình để bảo vệ Bác. Không ai biết rằng trong lúc tắt đèn Bác đã nghĩ ngay đến việc bảo vệ an toàn cho các vị lão thành và đến chỉ thị cho tôi làm công việc như tôi đã nói trên.

Còn tôi, tôi nghĩ mãi về câu nói của Bác: "Chú còn trẻ, mắt chú tinh...". Càng nghĩ tôi càng hổ thẹn. Các cụ đều đáng là bậc cha chú của tôi. Có vị là thầy dạy tôi, thế mà khi có sự nguy hiểm, đáng lẽ phải giúp các cụ thì mình lại chỉ lo thân mình.

Tôi nghĩ vậy mà xấu hổ, không dám ngẩng lên nhìn ai. Đến lúc ngước lên thì thấy đôi mắt của Bác nhìn tôi hiền từ, dường như Người bằng lòng vì tôi đã phục vụ các cụ một cách chu đáo.

Kính già, mến trẻ, lo cho người gặp hoạn nạn, giúp đỡ người trong lúc khó khăn, thương người như thể thương thân... Đó là những đạo đức cao đẹp của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của những đạo đức ấy. Bình sinh đồng chí Phạm Văn Đồng thường nói Bác Hồ là người Việt Nam đẹp nhất. 

Tôi đã được Bác Hồ dạy cho bài học đạo đức ấy, và suốt đời tôi không quên.

TÔI CHỈ CÓ MỘT CÁCH BÁO ĐÁP..." (*)Đồng bào yêu mến tôi, chúc thọ tôi, tôi biết lấy gì, nói gì để báo đáp lại lòng

thân ái ấy? Tôi chỉ có một cách báo đáp là kiên quyết cùng đồng bào chịu cực chịu khổ, quyết cùng đồng bào kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, quyết cùng đồng bào tranh lại thống nhất và độc lập thật sự cho Tổ quốc, quyết cùng đồng bào ra sức làm thế nào cho con cháu chúng ta bây giờ và muôn đời về sau được sung sướng và tự do.

................................................Tôi rất cảm ơn Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể, các bộ đội, đồng bào trong

nước và kiều bào ở ngoài nước, cùng các cháu nhi đồng, đã chúc thọ tôi một cách vô cùng thân ái.

Nhưng tôi thiết nghĩ rằng tuy tuổi tác chúng ta có kẻ nhiều người ít, nhưng tôi và toàn thể đồng bào có một ngày sinh nhật chung: ngày ấy là ngày cách mệnh giải phóng thành công hồi tháng Tám nǎm 1945.

Xem thế thì dân tộc ta rất trẻ trung, nước nhà ta rất trẻ trung và chúng ta đều trẻ trung. Chúng ta trẻ trung mà chúng ta phải đảm đang hai nhiệm vụ rất vẻ vang, rất to lớn: phá tan những xiềng xích cũ, và xây dựng những tương lai mới.

Chúng ta trẻ trung nhưng chúng ta là những người thừa tự cái truyền thống oanh liệt, quật cường và một cơ đồ gấm vóc của mấy ngàn nǎm tổ tiên ta để lại. Chúng ta trẻ trung nhưng chúng ta giàu về kinh nghiệm, kinh nghiệm đau xót có, kinh nghiệm vẻ vang có. Do đó mà chúng ta đã có một lực lượng cực kỳ to lớn, vững chắc, lực lượng đại đoàn kết của toàn dân. Nhờ truyền thống và lực lượng ấy, thêm vào cái chí khí trẻ trung của chúng ta, chúng ta đã vượt qua nhiều bước gian nan và tranh được nhiều thắng lợi: chúng ta đã đánh tan giặc đói, chúng ta đã đánh tan giặc dốt, chúng ta sẽ đánh tan giặc ngoại xâm.

Song, đường chúng ta còn dài, gánh chúng ta còn nặng, chúng ta cần phải phát triển và nâng cao cái truyền thống oanh liệt, cái lực lượng đoàn kết, và cái chí khí kiên quyết ấy lên nữa, nâng cao lên mãi. Nâng cao bằng cách gì? Bằng cách thi đua ái quốc. Cuộc thi đua ái quốc sẽ đưa chúng ta lên một trình độ cao hơn trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, nó sẽ đưa chúng ta mau đến chỗ thành công. Vì vậy đồng bào ta bất kỳ già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh, mọi người đều

phải đưa chí sáng suốt, lực lượng và tài nǎng của mình vào đó, để phụng sự dân tộc, phụng sự Tổ quốc.

Đồng bào yêu mến tôi, chúc thọ tôi, tôi biết lấy gì, nói gì để báo đáp lại lòng thân ái ấy? Tôi chỉ có một cách báo đáp là kiên quyết cùng đồng bào chịu cực chịu khổ, quyết cùng đồng bào kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, quyết cùng đồng bào tranh lại thống nhất và độc lập thật sự cho Tổ quốc, quyết cùng đồng bào ra sức làm thế nào cho con cháu chúng ta bây giờ và muôn đời về sau được sung sướng và tự do.

Chào thân ái và quyết thắng NHIỀU HIỆN VẬT VỀ BÁC HỒ LẦN ĐẦU ĐƯỢC CÔNG BỐ

Hơn 300 tài liệu, hình ảnh và hiện vật phản ánh hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, trong đó có nhiều hình ảnh lần đầu tiên được công bố được trưng bày tại triển lãm “Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc” do Cục Văn thư và lưu trữ Nhà nước, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Tổng cục Lưu trữ Nhà nước Trung Quốc phối hợp vừa diễn ra tại Bảo tàng Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 117 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2007).

Những hiện vật trưng bày tại triển lãm là những tư liệu sinh động phản ảnh phần nào quá trình hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, tình cảm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhân dân Trung Quốc; mối quan hệ hữu nghị giữa hai đảng và nhân dân hai nước; hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân Trung Quốc. Trong đó, 30% tài liệu lần đầu tiên được giới thiệu, hầu hết là các văn bản như sắc lệnh khen thưởng các cố vấn Trung Quốc, thư gửi nhân dân Vân Nam, Trung Quốc...

Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã gửi thư đến Ban tổ chức triển lãm, nêu rõ: "Đây là một việc làm rất có ý nghĩa nhân dịp kỷ niệm 117 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam và là người bạn thân thiết của nhân dân Trung Quốc".

Ông Lý Minh Hoa, Phó Cục trưởng Tổng cục Lưu trữ nhà nước Trung Quốc khẳng định: “Triển lãm là sự mở đầu mới cho sự giao lưu hợp tác trong lĩnh vực hai nước Trung - Việt”.

Triển lãm này là hoạt động cụ thể hóa thỏa thuận về hợp tác trong lĩnh vực lưu trữ đã được ký kết giữa hai nước vào tháng 3-2006. Triển lãm sẽ kết thúc vào trung tuần tháng 6-2007.

Theo như dự kiến, một triển lãm tương tự sẽ được tổ chức tại “Trung Hoa thế kỷ đàm”, công trình đánh dấu mốc cho thế kỷ XXI vào tháng 10-2007 trong dịp kỷ niệm Quốc khánh Trung Quốc. 

Đi tìm tư liệu về Bác Hồ ở nước Nga

TT - “Sau một tháng sang Nga tìm tư liệu về Bác, chúng tôi đã có không phải ba trang mà 1.000 trang, trong đó có khoảng gần 30% là tư liệu mới” - ông Chu Đức Tính, giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, chia sẻ những thông tin mới nhất mà các cán bộ bảo tàng mới mang về từ nước Nga.

Là một người làm lưu trữ hơn 20 năm, chị Phạm Thị Lai - trưởng phòng tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh, người phụ trách nhóm công tác - cẩn trọng: “Tất cả sẽ được công bố sau khi chúng tôi đã phân loại, nghiên cứu và trình kết quả lên cấp có thẩm quyền. Có những bí mật mà tôi không đủ thẩm quyền công bố, và thật ra thì ngay ở Nga nó cũng chưa được giải mật”.

Chị Lai kể về một tháng tìm kiếm, làm việc kể từ khi đặt chân xuống sân bay Domodedovo đến khi xách những chiếc vali nặng trĩu tài liệu quí về nước: “Lưu trữ lịch sử chính trị quốc gia Nga là cơ quan lưu trữ lớn nhất nước Nga, có tới 685 phông lưu trữ (phông là đơn vị lưu trữ lớn nhất theo thuật ngữ của chuyên ngành lưu trữ) với 2,1 triệu hồ sơ lưu trữ. Trong đó tư liệu về Đảng Cộng sản VN và Bác Hồ chỉ là một mục lục trong một hồ sơ, với số lượng tài liệu hiện vật khoảng 7.000 trang. Trước đây, thời Liên Xô, các bạn có tặng chúng ta hầu hết các tài liệu mà họ lưu giữ, song chỉ là bản sao chụp, đen trắng, không rõ nét, nay chúng tôi phải tìm cách tiếp cận với hồ sơ gốc để scan. Qui định của cơ quan lưu trữ Nga là mỗi người mỗi ngày chỉ được đọc 5 đơn vị hồ sơ, 1.000 trang cũng tính là một đơn vị mà 1 trang cũng tính là một đơn vị, mà đặt tài liệu vào thứ hai thì thứ tư mới có để đọc”.

Trong số tài liệu mang về, chị Lai thích nhất bức ảnh Bác Hồ vào năm 1933, khi từ Trung Quốc quay lại Nga, với áo dài, khăn, giày, kính như một phú thương Trung Hoa (ảnh). Chị Lai kể: “Bảo tàng của chúng tôi có trưng bày cả bộ quần áo ấy, cả khăn, mũ kính ấy, nhưng chưa có một tài liệu nào, hình ảnh nào cho thấy Bác đã mặc chúng như thế nào. Khi nhìn thấy bức ảnh ấy lần đầu trong lưu trữ Nga, tôi đã nghẹn ngào vì sung sướng. Hay là tấm thẻ Bác chụp để đi dự Đại hội lần 7 của Quốc tế cộng sản năm 1935, với bốn thứ tiếng Anh, Nga, Pháp và Đức, Bác đã gầy và già đi bao nhiêu so với tấm ảnh trong thẻ dự đại hội 5 Quốc tế cộng sản vào năm 1924. Rồi tấm thẻ đảng viên Đảng Cộng sản Pháp năm 1922 với tên Henri Tchen (Henri Trần). Chúng tôi từng thống kê Bác có hơn 160 tên, nhưng mỗi lần gặp một tài liệu với một tên mới của Bác, vẫn không bao giờ hết ngạc nhiên về khả năng phi thường của Người”.

Chị Lai cho biết chuyến đi Nga lần này của đoàn cán bộ Bảo tàng Hồ Chí Minh có nhiều điều thú vị: phát hiện khá nhiều thư Bác gửi các lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô, hầu hết viết bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, được trợ lý của họ dịch ra tiếng Nga và được cơ quan lưu trữ Nga gìn giữ rất cẩn thận, dù chỉ là hai dòng bút tích. Cũng có những bức thư viết bằng tiếng Nga, rất tình cảm, đặc biệt khi trình bày về các vấn đề thuộc địa. “Chúng tôi cũng đã tìm thấy những bức thư Bác gửi Quốc tế cộng sản xin được quay về Đông Dương, về VN hoạt động. Có những tư liệu về Bác chúng tôi tìm thấy không phải ở “Lưu trữ cá nhân - Nguyễn Ái Quốc” trong Lưu trữ quốc gia, mà ở

Lưu trữ cá nhân của Stalin. Tôi hi vọng trong thời gian tới có thể nghiên cứu, báo cáo và công bố những tư liệu này” - chị Lai cho biết.