bài 1 - 6 vài suy nghĩ về “món Ăn chân lý” của dương thu hương (gs xuân vũ...

128
Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương Bài 1 GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc Hơn chục năm trước, tôi thích “Những thiên đường mù” của Nhà văn Dương thu Hương mặc dù có nhiều điều trong cuốn sách mỏng đó tôi không đồng ý. Kiếm người nhìn ra cái sai của Cộng sản hơi hiếm lúc đó nên tôi bằng lòng với cuốn sách. Ngày nay, tuổi đã cao, tôi không có thì giờ để đọc nhiều, vả lại nếu có giờ thì “Đỉnh cao chói lọi” hoặc “Món ăn chân lý” (MACL) không phải là thứ tôi muốn đọc bởi tác giả Dương thu Hương đã có lập trường quay hẳn 180 độ đối với “Những thiên đường mù”. Nói như thế không có nghĩa người nào giống ta là bạn ta, khác ta là thù của ta mà là chọn bài, chọn sách mà đọc. Tác giả nào không biết đúng sai, phải quấy (theo lẽ thường của nhân sinh) thì đọc làm chi cho phí giờ và sức khoẻ? Tình cờ tôi thấy Hoa Tự Do đăng MACL, tôi nhận được đã lâu, bỏ đó, nghĩ rằng lập luận của tác giả thường một chiều, chẳng phí thì giờ mà đọc. Nay có mấy người bạn cứ réo điện thoại hối viết đi, viết một tí đi chứ nghe DTH nói sai tức lắm nên tôi phải viết mươi hàng. Trước hết, sự xưng hô là quan trọng. Khi tác giả Dương thu Hương mới được sinh ra thì tôi đã là một thiếu niên biết chơi đàn banjo, khẩu cầm, mandoline, cùng đội Văn công đi khắp các vùng của đất nước tuyên truyền cho kháng chiến chống Pháp mà ông Hồ chí Minh là Chủ tịch chính phủ Liên Hiệp lúc bấy giờ, ông Nguyễn hải Thần làm Phó chủ tịch, Nhà văn Nhất Linh BT Ngoại giao... Dù chưa đến tuổi đi bộ đội, tôi cũng đã là liên lạc viên tại Hải Phòng khi quân dân Việt hè nhau đánh Pháp. Chúng tôi đã lẩn lút trong các nhà xuyên tường (đập thủng tường), các người lớn như bố tôi, anh tôi và các bạn thì dùng vũ khí của Tây giết Tây. Tôi chưa được phép bắn súng thì lẩn lút như con chuột đưa tin liên lạc và tiếp thức ăn cho mọi người. Sau đó chúng tôi rút khỏi Hải Phòng theo đúng lệnh lạc từ Bộ chỉ huy.

Upload: covang

Post on 27-Jul-2015

424 views

Category:

Documents


7 download

DESCRIPTION

Hỡi ơi! “Đỉnh Cao Chó Lợn” và “Đá Văng Chân Lý” của Dương thu Hương! GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

TRANSCRIPT

Page 1: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương

Bài 1 GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Hơn chục năm trước, tôi thích “Những thiên đường mù” của Nhà văn Dương thu Hương mặc dù có nhiều điều trong cuốn sách mỏng đó tôi không đồng ý.

Kiếm người nhìn ra cái sai của Cộng sản hơi hiếm lúc đó nên tôi bằng lòng với cuốn sách. Ngày nay, tuổi đã cao, tôi không có thì giờ để đọc nhiều, vả lại nếu có giờ thì “Đỉnh cao chói lọi” hoặc “Món ăn chân lý” (MACL) không phải là thứ tôi muốn đọc bởi tác giả Dương thu Hương đã có lập trường quay hẳn 180 độ đối với “Những thiên đường mù”. Nói như thế không có nghĩa người nào giống ta là bạn ta, khác ta là thù của ta mà là chọn bài, chọn sách mà đọc. Tác giả nào không biết đúng sai, phải quấy (theo lẽ thường của nhân sinh) thì đọc làm chi cho phí giờ và sức khoẻ? Tình cờ tôi thấy Hoa Tự Do đăng MACL, tôi nhận được đã lâu, bỏ đó, nghĩ rằng lập luận của tác giả thường một chiều, chẳng phí thì giờ mà đọc. Nay có mấy người bạn cứ réo điện thoại hối viết đi, viết một tí đi chứ nghe DTH nói sai tức lắm nên tôi phải viết mươi hàng.

Trước hết, sự xưng hô là quan trọng. Khi tác giả Dương thu Hương mới được sinh ra thì tôi đã là một thiếu niên biết chơi đàn banjo, khẩu cầm, mandoline, cùng đội Văn công đi khắp các vùng của đất nước tuyên truyền cho kháng chiến chống Pháp mà ông Hồ chí Minh là Chủ tịch chính phủ Liên Hiệp lúc bấy giờ, ông Nguyễn hải Thần làm Phó chủ tịch, Nhà văn Nhất Linh BT Ngoại giao... Dù chưa đến tuổi đi bộ đội, tôi cũng đã là liên lạc viên tại Hải Phòng khi quân dân Việt hè nhau đánh Pháp. Chúng tôi đã lẩn lút trong các nhà xuyên tường (đập thủng tường), các người lớn như bố tôi, anh tôi và các bạn thì dùng vũ khí của Tây giết Tây. Tôi chưa được phép bắn súng thì lẩn lút như con chuột đưa tin liên lạc và tiếp thức ăn cho mọi người. Sau đó chúng tôi rút khỏi Hải Phòng theo đúng lệnh lạc từ Bộ chỉ huy.

Ra hậu phương, tôi cũng đã được cấp chỉ huy của Việt Minh huấn luyện cấp tốc ba tháng để chiến đấu ngoài mặt trận như bắn súng, ném lựu đạn, bò dưới hoả lực, công đồn, đả viện v.v... cùng với lý thuyết Cộng sản. Chúng tôi thi mãn khoá, tôi đã là 1 trong 10 người đậu đầu được thưởng hai cuốn sách viết về Mác-Lê-nin và chủ nghĩa đại đồng thế giới. Cùng với hai cuốn sách này là 1 áo trấn thủ, 1 mũ cói, vài cuốn tập để ghi chép và 1 cái bút chì.

Khi ông Hồ từ Hà Nội xuống Cảng hiệu triệu dân chúng Cảng vài ngày sau 19-8-1945, hai bố con tôi có đi dự buổi mít tinh cả nửa triệu người này ngay mặt tiền Nhà hát lớn Hải Phòng. Bố tôi đã bảo tôi mà tôi nhớ mãi:

- Bây giờ hoan hô ông Hồ cho lắm sau này sẽ đả đảo ông ta nhiều. - Hồ là người gian xảo, quỉ quyệt, giết người như ngoé (sau vụ giết Nguyễn văn Mão tại Hải Phòng), mặt chuột, đôi mắt gian hùng, thầy tôi coi tướng Hồ và tiên đoán. - Hồ có thể sẽ bán nước cho ngoại bang. Thầy tôi bảo tôi chớ đi theo Hồ mà ôm hận. Và tất cả những lời bố tôi nói năm xưa nay đã thành sự thực. Khi tôi nghe bố tôi nói, tôi biết bố tôi biết nhiều nhưng cái tâm hồn yêu nước trong tôi cứ giục giã tôi phải đi làm một cái gì cho đất nước.

Page 2: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Bố tôi khi đó đã hoạt động trong VN quốc dân đảng, ông có sang Tàu và Nhật trong phong trào Đông Du của các cụ Phan bội Châu và Phan chu Trinh, vì vậy bố tôi rất am tường về đảng Việt Minh và ông Hồ chí Minh. Bố tôi cũng đã bị Việt Minh giam giữ mấy lần rồi thả.

Sở dĩ phải dài dòng như vậy là để tác giả Dương thu Hương (DTH) thấy rằng những lập luận sau đây có cơ sở chứ không phải là hồ đồ.

Với thì giờ hạn hẹp, tôi không muốn đi sâu vào bài viết của chị DTH mà chỉ nêu ra mấy điều sai lầm của chị.

1- Chị viết rằng: “Ông Hồ là người sáng suốt nhìn ra cái tai hại của cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn từ đầu thập niên 60 trong khi cả hai miền Nam-Bắc đều hăng hái tham gia cuộc chiến. Ông cũng là người sáng suốt nhất giữa tám người cầm quyền VN cùng thời đại. Trong khi các đồng chí miền Bắc say sưa nuôi mộng đánh con hổ giấy Mỹ, cắm ngọn cờ hồng lên khắp hành tinh và đám người phương Nam không kém phần bạo liệt, muốn lấp sông Bến Hải...” Chị DTH! Chị đã sai từ căn bản bởi chị không nghiên cứu tài liệu, cũng chẳng mở mắt nhìn năm châu bốn biển xu thế toàn cầu diễn biến nên chị ăn ốc nói mò. Luận điệu này không phải chị có ngày nay nhưng từ hồi chị viết “Những thiên đường mù” đã có, và lúc nào đề cập đến chiến tranh VN chị cũng một luận điệu đó. 1-a Việt gian Cộng sản (vgcs) do giặc Hồ cầm đầu đã xé nát tất cả các Hiệp định 1954, phân định ranh giới đã được quốc tế đứng trung gian chia cho VNCH quản trị từ vĩ tuyến 17 ra tới Phú quốc, Hoàng, Trường Sa, Côn lôn v.v... Hiệp định hoà bình 1973 vgcs đã ký cũng bị xé nát, Hồ xua quân cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam.

Khi giặc Hồ có CS quốc tế yểm trợ hết mình đem quân vào đánh thì bắt buộc miền Nam phải tự vệ. Miền Nam sức yếu không chống chõi nổi với Cộng sản quốc tế thì phải nhờ sự giúp sức của người đồng minh là Hoa Kỳ, đứng đầu thế giới tự do. Miền Nam chưa bao giờ kéo quân ra Bắc xâm lăng. Tôi nhắc lại: miền Nam chỉ tự vệ, chính miền Bắc mới xâm lăng miền Nam theo lệnh Hồ tặc.

Thiển nghĩ chỉ một điều sai lầm căn bản này, những lập luận của chị tự đó về sau đều trơ trẽn và trở nên vô giá trị. Nếu chị đã biết điều đó mà cứ viết thì chị không phải là con người honnête (chữ của chị) như chị mong ở những người khác. Còn nếu chị viết bừa vì thù hận người Quốc gia, không biết phải trái thì chính chị là Trần khắc Chân mà chị không hay.

1-b Nhân cái từ honnête này của chị, xin hỏi chị một câu: Trong tiểu thuyết chị viết, tôi không nhớ rõ cuốn nào hình như là “Bên kia bờ ảo vọng”: “Những người lính VNCH khi bắt được nữ cán bộ CS thì hiếp dâm, hiếp chán chúng lấy lưỡi lê xẻo vú và đâm nát cửa mình”

Chị DTH! Chị ăn gian nói dối một cách khiếp đảm như thế mà chị lại yêu cầu người khác phải honnête ư? Ấy là chị sùng đạo Phật, đạo Phật coi nói dối cũng trọng tội như tà dâm; nếu không, chắc chị còn phịa ra những điều ghê gớm hơn nữa. Chị có nhớ ông bà ta ngoài Bắc khi xưa gọi những hạng người vừa đánh trống vừa ăn cướp là gì không? Các cụ chỉ bảo “gái đĩ già mồm”! Một câu đó là đủ!

1-c Chính ông Hồ vội vã tuyên chiến với Pháp ngày 26-12-1946 vì ông ta rất cần chiến tranh để bần cùng hoá nhân dân, bần cùng hoá nhân dân đi song song với đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp để tiêu diệt hết tư bản, tiểu tư sản, địa chủ, phú nông đặng cướp hết ruộng đất của nông dân gom về cho đảng CS.

1-d Nếu ông Hồ không làm một cuộc chiến tranh với Pháp thì sau đó, theo xu hướng chính trị quốc tế, vào năm 1949, Tổng Thống Pháp Vincent Auriole ký Sắc lệnh trao trả Độc Lập cho ba nước Việt-Mên-

Page 3: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Lào nhưng TT Pháp chỉ trao trả quyền hành cho Quốc trưởng Bảo Đại, nguyên là Hoàng đế VN trào nhà Nguyễn, chứ không biết đến ông Hồ là ai. Chính vì điểm này mà ông Hồ sợ hổng giò hổng cẳng nên đã phải tuyên chiến với Pháp, gây ra một cuộc chiến tranh suốt 9 năm, hàng triệu người chết, hàng triệu người bị thương, hàng triệu nóc gia bị phá huỷ hay cháy, hàng triệu mẫu ruộng bị bỏ hoang, nhân dân VN xuống đến tột cùng của sự đói nghèo, tang tóc và đau khổ.

Xin chị DTH hãy nhìn vào bảng này để biết VN có cần gây chiến với Pháp không?

- Malaysia không phải đánh nhau, không tốn một giọt máu, một viên đạn, được Anh trả độc lập năm 1957. - nước Phi, người Mỹ trả độc lập năm 1946; - Syria và Liban, người Pháp trả độc lập năm 1946. - Ấn (chính sách bất bạo động của thánh Gandhi), Pakistan, người Anh trả độc lập năm 1947. - Miến (Myanmar), Sri Lanka, Palestine đều thuộc Anh, người Anh trả độc lập năm 1948. - Indonesia do Hà lan trả độc lập năm 1949. - Nhiều nước ở châu Phi, Mỹ-Latinh cũng đều như vậy. - 1989-1991 Đế quốc Liên Sô tan rã, 22 QG bỏ chủ nghĩa CS.

Đông Âu: Ba lan, Hung, Tiệp, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, Roumanie và 15 nước thuộc Liên bang Sô Viết. Tóm lại, vì ông Hồ hám quyền, hám chức, chỉ nghĩ đến ông ta và đảng của ông ta, xung phong làm tên lính xung kích trung thành liếm trôn CS quốc tế, Hồ hiếu chiến, hiếu sát vì coi rẻ sinh mạng đồng bào miễn là được lòng quan thầy Nga-Tàu để Nga-Tàu ban quyền chức và chống lưng cho Hồ nên nước VN đã tan nát như ngày nay với trên 10 triệu người VN nằm xuống (từ 1930 cho đến nay) cho tham vọng của Hồ và bè lũ tay sai Đồng, Chinh, Duẩn, Giáp, Mười, Anh, Kiệt, Triết, Mạnh, Dũng, Phiêu... cũng như đế quốc CS. Người VN, những gia đình có người chết oan, và cả toàn dân nguyền rủa Hồ tặc và bọn Việt gian thủ hạ đời đời kiếp kiếp! Hồ và bọn thủ hạ Việt gian sẽ mang tiếng xấu muôn đời: Trăm năm bia đá cũng mòn, Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ! (Ca dao)

2- Đây là lời của chị:

Cuốn Au Zénith - Đỉnh cao chói lọi - ra đời. Tôi bị ném đá không phải từ hai phía mà từ ba phía. Tôi không sửng sốt nhưng cũng có đôi chút kinh ngạc vì trước khi cuốn sách được in, tôi dự tính chỉ có hai mũi tấn công: cộng sản (chính quyền Hà Nội) và chống cộng (những người di tản chủ yếu ở Mỹ, Úc châu và Âu châu). Cánh quân thứ ba là những người có văn hóa nhất, ôn hòa nhất và công tâm mà nói, ít bị khống chế nhất bởi các định kiến hay những tin tưởng mù lòa, ấy là bộ phận không dự báo trước.

Bài viết này là để trả lời họ. Tuy nhiên, trước khi trả lời họ, tôi sẽ có ít dòng gửi chính quyền Hà Nội và những người chống cộng. Hai đám đông thù nghịch mà một bên hăm dọa sẽ thủ tiêu bản thân tôi cũng như đám con cháu tôi, chửi rủa tôi là bán rẻ lương tâm để thỏa mãn lòng kiêu ngạo, là từ nay nên bẻ bút ngậm miệng vì xúc phạm thần tượng dân tộc là tội ác… Tóm lại là lời lẽ của Hà Nội dưới các kiểu diễn đạt của đám Công an mạng. Và bên kia, các vị chống cộng nòi quen thói gọi Hồ Chí Minh là “chó già Hồ” là “dê già Hồ” là “thằng sát nhân”, họ kết tội tôi là “nâng bi lãnh tụ” là “luật sư cho quỷ – avocat du diable”…

2-1 Ngay đoạn đầu này chị đã đánh hoả mù để người Quốc gia chúng tôi tin là chị không bị Hà Nội lợi dụng hay là tay sai của Hà Nội. Chị chửi Hà Nội, lại còn bảo Hà Nội là ngu sao không lên tiếng bênh vực cho lãnh tụ của họ.

Page 4: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Chị DTH, tôi thiển nghĩ chỉ có chị là kém tắm (tiếng lóng Hà Nội là chậm hiểu, ngu đần) chứ Hà Nội không có ngu đâu. Hà Nội kích động cho chị viết được “Đỉnh cao chói lọi” để chạy tội cho Hồ thì đâu phải họ ngu? Chính chị nhận công tác, cho dù là không đi, viết chạy tội cho Hồ mới là ngu bởi chỉ có chị và những đảng viên ngoan cố đứng với Hồ một bên, còn bên kia là toàn dân Việt! Hà Nội có thể bằng toàn dân Việt Nam không? Toàn dân Việt Nam nay 85 triệu người như một xác quyết rằng Hồ là tên bán nước (nhìn Hoàng Sa, Trường Sa, bauxite Tây Nguyên thấy ngay) thì 100 triệu cuốn Au Zénith của chị cũng chỉ là trò cười cho quốc tế và những người Việt yêu nước. Một tên 21 tuổi chưa học xong tiểu học, làm bồi tầu Chargeurs Réunis Amiral La Touche Treville sang Pháp, xin với Toàn quyền Pháp để được học trường thuộc địa ra làm quan cho Pháp, Pháp từ chối thì quay qua làm đầy tớ cho Nga, ăn lương Moscow nhiều năm, về nước nịnh từ thằng cố vấn Trung cộng La quý Ba, bợ đỡ và lòn trôn Mao...mà chị dám bảo là thần tượng của dân tộc. Đầu óc chị thật quá kém cỏi, hay quá khôi hài, những người từ trước đọc Thiên đường mù của chị (trong đó có tôi) rất thất vọng vì không ngờ chị càng viết càng sai, đầu óc chị càng ngày càng đặc sệt lại như cái bình vôi của cụ Phan Khôi. 2-2 Vụ cụ Phan bội Châu bị Hồ bán đứng là có thật mà chị không đọc nên không biết. Chính trong Đảng sử của vgcs có viết và tự biện hộ rằng vì “bác” cần tiền để tổ chức thanh niên CS quốc tế nên phải làm như thế, làm vì đại nghĩa thì có chi là tội? Nếu chị thấy Hà Nội câm trong vấn đề này nghĩa là họ đã thú nhận một sự thực rồi, không phải họ ngu như chị tưởng đâu! Xưa nay mồm loa mép giải là họ chứ không phải Việt Nam Cộng Hoà. 2-3 Chị luôn luôn dị ứng với những người chống Cộng. Chị gọi họ là “chống Cộng có nòi” hay những kẻ cực đoan, “ông chánh tổng”. Chị có biết vì sao mà họ chống không? Nên nhớ rằng có một người viết thì có 10,000 người không viết mà chỉ chống âm thầm. Nhìn đất nước tan tành, giặc Tàu đưa hàng chục ngàn rồi hàng triệu người sang đồng hoá, không chống vgcs mới là điên, là phản quốc; viết nâng bi một tên bán nước đệ nhất tội đồ của dân tộc như chị mới là xuẩn, là bị bệnh tâm thần, là chôn danh dự xuống bùn đen. Một người bạn bảo tôi, viết cuốn “Đỉnh cao chói lọi” này chị đã bán danh ba đồng xu, trong khi trước đây chị mua nó với ba vạn! Dân tộc sẽ coi chị như một thứ rắn độc phải tránh xa kẻo vướng nọc chết người! 2-4 Tại sao dân Việt chống Hồ tặc? Quá dễ hiểu: Vì Hồ gây chiến tranh giết chết người thân của họ. Tổng số người Việt Nam bị giết trong 2 cuộc chiến 1945-1954 và 1956-1975 là hơn 10 triệu người. (Báo chí Trung cộng nói 14 triệu. Chị nên tìm đọc lời Lê Duẩn nói với lãnh đạo Trung cộng qua câu trả lời của Bảy Vân, vợ Lê Duẩn trả lời đài BBC: Chúng tôi đã hi sinh 10 triệu người, nếu các đồng chí không viện trợ, chúng tôi hi sinh thêm vài triệu nữa cũng thắng Mỹ: vietnamexodus.org)

Năm 1945 chị chưa sinh nên đâu biết rằng sau 19-8-1945, Hồ cho cán bộ CS đi lùng giết người Quốc gia và nhiều người Công giáo, nhiều linh mục, tu sĩ chỉ vì họ không đồng chính kiến với Hồ. Vài thí dụ nhỏ: Hoạ sĩ Lemur Nguyễn cát Tường, trong Tự lực Văn đoàn, hiện nay tôi vẫn liên lạc với con của Hoạ sĩ, đã bị cán bộ của Hồ bắt ngày 17-12-1946, đem giam ở Thái Nguyên và ông này chết trong trại tù ở đó. Nhà Văn Khái Hưng bị bắt, bỏ vào bao bố thả trôi sông Ninh Cơ thuộc vùng Lạc quần, Nam Định. Số người Quốc gia bị Hồ cho cán bộ bắt, giết kể hàng triệu, không thể nào đếm xuể. Hồ và đồng bọn vgcs đã phạm vào hàng tỉ tội ác không giấy mực nào tả cho hết. 2-5 Ngoài ra, những người dân chống Hồ: - Vì Hồ cưỡng chiếm miền Nam phá nát gia đình họ. - Vì Hồ ăn cướp đất đai, ruộng vườn, vợ con họ. - Vì Hồ bỏ tù, tra tấn, thủ tiêu người thân của họ.

Page 5: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

- Vì Hồ bán con gái họ đi làm đĩ tứ phương để lấy tiền bỏ quỹ đảng, những cô gái Việt đang tuổi xuân hơ hớ phải đi lấy những thằng già sáu, bảy mươi, tàn phế, què quặt, câm, điếc. Xin hỏi thực chị DTH: con gái chị đã phải đi bán trôn nuôi miệng và nuôi cha mẹ chưa? Có lẽ nhờ cây viết khéo lòn trôn của chị, con gái chị chưa phải làm cái nghề mạt rệp đó. Chị còn may! Mừng cho chị! - Vì Hồ bắt lao nô làm công cho nước ngoài để thu ngoại tệ; nhiều nơi đối xử với lao nô không hơn con chó, đối xử với ôshìn thua súc vật. Con trai chị đã phải đi lao nô chưa? Gia đình thân thuộc chị đã có người nào đi làm ôshìn không? 2-6 Vì Hồ tiêu diệt tôn giáo, cướp đất nhà thờ, chùa chiền, bách hại sư, cha, ni cô, tu sĩ chân chính, lập ra bọn tôn giáo quốc doanh đồi truỵ, dâm dục, mê tiền, làm tay sai cho Hồ. Ở Pháp chắc chị được thong dong đi chùa. Chị có biết giáo dân Thái Hà vì sao phải chống nhà cầm quyền Hà Nội không? Vì sao hơn 60,000 mét vuông đất của giáo xứ Thái Hà nay chỉ còn lại 3,000 mét cũng chiếm nốt để làm công viên chó ỉa? Chị có thấy triều đại nào ở nước ta bạo ngược tàn ác giết dân như triều đại của Hồ không? Những người đã sống qua nhiều chế độ, như nhiều bạn bè tôi chẳng hạn, họ nói dưới thời Pháp thuộc mà người dân có hạnh phúc, được tự do học hành, đi lại, ra báo, theo đạo, một nghìn lần hơn dưới thời Hồ cai trị. Người dân thầm lặng không nói ra nhưng họ tinh khôn lắm, không dễ bịp họ được nhưng hễ mở miệng là phải ca Hồ, phải ra rả: độc lập, tự do, hạnh phúc, những cái bánh vẽ to tướng! 2-7 Chế độ dã man tàn bạo của Hồ đã tước đoạt hết tự do của con người trong khi Hồ hứa đủ điều. Chính chị nói là thế hệ của chị đã bị Hồ lừa, ngày 30-4-1975, chị không nhớ sao? Không phải thế hệ của chị mà là nhiều thế hệ và cả nước! Chị ở Pháp, có tự do dân chủ, chị đâu biết cái khổ vì mất hết tự do. Nào hộ khẩu, công an, tạm trú, tạm vắng, cường hào ác bá như rươi, tư pháp bất công, ăn cướp của dân...Trung cộng chiếm Hoàng, Trường Sa, chiếm đóng Tây Nguyên (bauxite) nhưng chế độ Hồ không cho biểu tình mà lại dùng roi điện, còng số 8, vòi rồng, AK, nhà tù... đàn áp người yêu nước. Cán bộ vgcs cướp nhà đất, ruộng vườn không cho kêu, khiếu oan 30 năm không xét, chị ra vườn hoa Mai xuân Thưởng xem có nước nào trên hành tinh này chính phủ ăn cướp của dân như thế không...? Tất cả những điều đó và nhiều điều khác nữa như tham nhũng thối nát, hối mại quyền thế là những chất xúc tác người dân phải chống vgcs tức giặc Hồ đấy chị! 2-8 Những người Việt ở hải ngoại phải chống vì họ muốn cứu nước, muốn dân tộc thoát cảnh trầm luân để một ngày nào đó trở về cùng với những người trong nước xây dựng lại quê hương nên phải chống vgcs đến cùng và tiêu diệt chúng để thiết lập Dân chủ, Tự Do, Nhân quyền. Nhưng thú thực với chị, cái đống bùn đỏ bauxite này không biết phải bắt đầu làm từ đâu vì chỗ nào cũng là bùn đỏ độc hại, kể từ đứa trẻ mới sinh đã nhiễm phải độc khí Hồ! 2-9 Chị có theo dõi những vụ cán bộ buôn bán ngà voi ở toà Đại sứ VN ở Nam phi? Những vụ cán bộ ăn cắp đồ trong siêu thị ở Nhật, những vụ phi công chở đồ ăn cắp đưa từ Nhật về, buôn vàng, buôn đô la? Nhiều lắm, không thể nhớ và kể hết. Lẽ nào chị không biết? Cây cầu Cần thơ đang làm bị sụp vì sao hả chị dù nó được một nước tư bản hàng nhì thế giới là Nhật giúp đỡ, viện trợ cho VN có năm cả tỉ đô la, vào túi quan chức vgcs cả, không lẽ chị không biết? Những phúc lợi nước ngoài mang đến cho dân Việt bị lũ sâu mọt hậu duệ Hồ tặc ăn cướp hết! Chị là Nhà văn với nhiều kiêu căng, kênh kiệu cứ nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ nhưng chị quên một câu ông bà mình vẫn nói:”Con dại cái mang, Tội quy vu trưởng”. Nếu con chị, đứa bé vị thành niên, thí dụ, ra chợ ăn cắp thì người ta bắt nó đã đành nhưng còn hỏi chị và chồng chị là cha mẹ nó đấy. Ông Hồ tập huấn cán bộ của ông ta gần 80 năm nay ăn cắp, nói dối, lươn lẹo, gian ác, đánh dân, bỏ tù dân, cướp nhà đất, tham nhũng, đĩ điếm...thì chính ông Hồ phải chịu cái hậu quả đó chứ, ai vào đây? Chị coi xem có đám trẻ quốc tế nào ngày nay nói tục, chửi thề, ăn cắp vặt, hỗn láo như đa số đám trẻ Việt Nam không? Trẻ em

Page 6: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

miền Nam xưa tử tế, ngoan ngoãn, siêng học, lễ phép, tôi đã dạy nhiều lớp Trung học đệ I và đệ II cấp tôi biết rất rõ. Từ ngày Hồ tặc vào cưỡng chiếm, những đứa trẻ này cũng trở thành những đứa trẻ khó dạy, gian dối, ranh mãnh, quỷ quái và trở nên bất lương. Đó không phải là tự trẻ mà tự chính sách sai lầm “hồng hơn chuyên”, cái khuôn đúc con người của Hồ và bè lũ. Những tồi tệ này sẽ kéo dài nhiều thế hệ và đó là cái khốn nạn nhất của Việt Nam! Bởi vậy, vgcs lưu manh, tồi tệ, hiểm độc, ngu si như thế, kẻ nào thoả hiệp với chúng mới chính là những kẻ ngu đần bởi không nhìn ra sai đúng, phải quấy, yêu nước, phản nước! Bà Thủ tướng Đức quốc Angela Merkel, khi xưa là từ Đông Đức CS, mới đây bà tuyên bố: “Chế độ Cộng sản tạo ra những con người dối trá”. Còn đỉnh cao chói lọi của chị thì sao? Chắc nó đã chịu cái ảnh hưởng dối trá đó rất nhiều!!??

Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương Bài 2 (tiếp theo) GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc Hồn Trương Ba, da hàng thịt.

Tôi đã nghĩ đến thành ngữ này khi so sánh cái tâm trạng của chị lúc viết “Những thiên đường mù” và ngày nay “Đỉnh cao chói lọi” và “Món ăn chân lý”. Người bình dân thường gọi những kẻ đó là những “con ốc mượn hồn” Mượn hồn nên những gì ốc làm không phải của ốc, mà là của một thứ ốc tầm gửi tào lao nào đó. Nhà tư tưởng Pascal đã nói:”L’homme est un roseau, mais un roseau pensant” Con người là một cây sậy nhưng là cây sậy biết suy nghĩ” Tư tưởng Đông phương thì cho con người “Nhân linh ư vạn vật” chứ không như Karl Marx và môn đồ, như Stalin, Lenin, Mao, Hồ...coi con người chỉ là một dụng cụ sản xuất không hơn không kém.

Marx và Engels đã hoang tưởng và sai lầm ngay từ đầu, dẫn dắt nhân loại (những kẻ tham lam, ích kỷ, biển lận, khờ khạo và cuồng tín) vào một mê hồn trận khiến gây ra cả tỉ tội ác và làm hư hỏng, thối rữa một phần nhân loại. Rất không may, cái phần nhân loại mạt rệp đó lại có dân tộc Việt Nam. Nhờ có cuộc phản tỉnh của Liên Xô và các chư hầu CS Đông Âu đầu thập niên 90 không thì cả cái thế giới này đã trở thành một bãi chiến trường và con người còn đói khổ nhục nhằn không biết thế nào mà kể. Nói như vậy không có nghĩa là đồng ý, ca tụng chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản cũng có những cái dở (và cái hay) của nó. Nhưng khía cạnh tư tưởng ấy không nằm trong phạm vi bài này. Cuộc đời chúng ta, mỗi người, bắt đầu từ một cái nhân (noyau). Mọi sự mọi việc cũng đều có một cái nhân. Từ cái nhân ấy mà nó sinh ra cái quả. Các cụ ta nói: “Nhân nào quả ấy, cây nào trái ấy” Con người sống, hành sử quyền làm người chính là tạo cái nhân cho những gì sau này sẽ gặt hái, thí dụ về cuối cuộc đời hay sau khi chết. Cái nhân cụ Nguyễn Du tạo ra là cuốn Kim Vân Kiều, nay cụ được hưởng cái quả văn chương Kiều. Cái nhân ông Hồ chí Minh tạo ra là cái nhân Ác tất nhiên kết quả sinh trái là phải Ác. Cây nào sinh trái đó. Đức Phật, Đức Chúa gieo nhân thiện thì hái được trái lành. Hitler, Stalin, Tần thuỷ Hoàng, Lê Chiêu thống, Mạc đăng Dung, Hồ quý Ly, Trần ích Tắc... gieo nhân ác thì phải hái quả Ác. Dù cho sông cạn đá mòn, chân lý ấy muôn đời không thay đổi. Kẻ ác dù có trốn tránh được pháp luật (thời gian nào đó) thì

Page 7: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

miệng tiếng muôn đời vẫn không buông tha. Rất nhiều tên cướp lòng dạ chai đá nhưng đến lúc đối diện với tử thần cũng xin quy y, xin rửa tội. Ông Hoàng minh Chính (đồ đệ Hồ nhiều năm, bắn giết đồng chủng nhiều năm, dạy bọn cán bộ của Hồ cách giết người...) mới vài năm nay là một trong số đó. Đã nhiều năm chị suy nghĩ và muốn đứng với dân tộc, tôi đoán thế, dựa theo những bài chị viết, để hái những trái lành, nhưng bởi cái tâm trạng do dự, tiến thối lưỡng nan (dilemme) và cái nào cũng thích, chị lại thay đổi lập trường. Vì thế tôi mới nói chị là ốc mượn hồn, hoặc là hồn Trương Ba, da hàng thịt. Dân tộc là trường tồn. Ông Hồ chí Minh hay đảng Việt Minh hay bất cứ vua chúa, anh hùng nào đi nữa chỉ là giai đoạn. Chị bỏ cái trường tồn để chạy theo cái giai đoạn, bỏ cái Thiện để theo cái Ác sao? Ngoài ra, công tội rồi sẽ được lịch sử phê phán công minh. Thế giới ngày nay nhỏ như một cái huyện ngày xưa, chuyện gì rồi người ta cũng lôi ra hết. Cha con ông Saddam Hussein (Iraq) giết người Kurds và người Shiite không gớm tay thì cả ba cha con, ông ta và hai con trai, Uday, Qsay lại chết thảm dưới tay người Mỹ. Polpot, Ieng Sary, Duch và đồng bọn giết gần 2 triệu người Cam-bốt năm 1975, đã phải ra toà án quốc tế lãnh án tử hình. Còn rất nhiều kẻ khác không thể kể xiết. Hơn 10 triệu oan hồn do ông Hồ và bè lũ giết sẽ có ngày những oan hồn ấy về đòi mạng. Chỉ riêng một cái mạng Nông thị Xuân, ông Hồ đã phải lên ghế điện! Thiện ác đáo đầu chung hữu báoChỉ do lai tảo dữ lai trì Lành, ác rồi cũng đến ngày phải trả quả Chỉ hoặc đến sớm hay đến muộn mà thôi!

Chứ với đầu óc của một cây viết như chị, tôi không nghĩ là chị không nhìn ra những tội ác, những đày đoạ dân tộc, những sai sót chết người của ông Hồ chí Minh và thủ hạ. Nhân tiện, tôi cũng xin nói rõ cái hảo cảm của một số bạn đọc người Việt tị nạn CS tại hải ngoại khi đọc thiên đường mù của chị năm xưa là, trong cái chế độ ngu dân, “bế quan toả cảng” của vgcs, thầy không mà sách cũng không, học hỏi thâu thái và trở nên có tài viết lách như chị không phải là có nhiều. Nếu chị sống ở miền Nam Việt Nam Cộng hoà 21 năm, tức từ 7 tuổi đi học lớp 1 (1954), cho đến khi miền Nam sụp đổ năm 1975 tức 28 tuổi thì tôi tin chắc chị còn tiến bộ hơn nhiều. Để tiếp nối bài I, xin mời chị đọc. 3- Những cái gương trước mắt Cựu Tổng Thống Nga Boris Yeltsin, sau khi làm cuộc cách mạng Dân chủ, Tự do, Nhân quyền đích thực năm 1991, ông đã tuyên bố:

“Chế độ Cộng sản không thể sửa chữa được. Chỉ có một cách là bỏ hẳn nó, triệt tiêu nó đi thay thế bằng một chế độ khác.” Chế độ khác ấy ông Yeltsin đã hiến cho dân Nga là chế độ Dân chủ, Tự Do, tôn trọng Nhân quyền.

Còn cựu Tổng Thống Gorbachev thì sao? Ông tuyên bố (không nguyên văn) : “Chủ nghĩa Cộng sản đã sai lầm ngay từ khi nó mới sinh. Con quái vật CS càng ngày càng phình to tôi không cách gì trị nó được, tốt hơn là phải trừ khử nó đi! Cả cuộc đời tôi tận tuỵ cho cách mạng nhưng điều làm tôi hài lòng nhất là tôi đã đưa nước Nga vào con đường Dân chủ.”

Hợp lý thay và hào hùng thay là những lời lẽ và quyết định thuận ý dân, hợp lòng trời của các nguyên lãnh tụ Sô Viết, những hậu duệ của Stalin và Lenin, những con đẻ của cuộc cách mạng Mác-xít tháng 10-1917.

Page 8: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Dân Ba Lan sau khi tiêu diệt được chế độ CS, họ bảo nhau cho đến tận thế không bao giờ vướng vào cái chế độ dã man đó nữa. Dân Ba Lan ngày nay nói Aids không sợ bằng chế độ Cộng sản! CS ghê tởm hơn Aids! Đó là cái chế độ mà thần tượng Hồ chí Minh của chị đã đem vào đất nước ta từ 3-2-1930, tạo nên một biển máu, núi xương vô cùng tàn khốc trong lịch sử loài người và lịch sử dân tộc! Còn Ceausescu chủ tịch nhà nước Lỗ ma ni? Y và vợ y chống lại cách mạng dân chủ, tự do năm 1991, y đi trốn nhưng bị dân chúng lôi ra giết chết. Y ngoan cố muốn quay ngược bánh xe lịch sử của nhân loại. Y mang xú danh muôn đời! Sau khi các đảng CS Đông Âu cùng Liên Xô sụp đổ tan tành cùng với bức tường ô nhục Bá Linh, vgcs của Hồ không còn chỗ dựa nên phải muối mặt cố làm hoà bám lấy Mao sếnh sáng để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Cuộc chiến 1979 và 1988 hai bên đã tặng nhau đủ thứ đại pháo, đủ thứ hoả tiễn, AK, B40...Xe tăng Trung cộng quần nát Lạng Sơn, Cao bằng; anh lớn trầy môi còn anh nhỏ dập ngực, chả còn cái tình vừa là đồng chí, vừa là anh em, núi liền núi, sông liền sông, “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” như Hồ vẫn dạy cho cán bộ đọc vanh vách cả ngày để nịnh quan thầy. Hồ và đám chóp bu Hà Nội quá nhục nhưng phải cắn c. mà lậy “thiên triều” xin tha cho cái tội vô ơn bội nghĩa và hỗn láo sau khi thằng thầy dạy cho một bài học. Tự đó tởn! Cái tròng Trung cộng giương ra, con mồi vgcs chui vào, bẫy sập xuống. Chấm hết! Hồ đã có ý định bán nước (y như bố tôi đã nói ngày 20-8-1945 ở Hải Phòng) khi Hồ ra lệnh cho Phạm văn Đồng ký Công Hàm gửi Quốc vụ viện Trung cộng Chu ân Lai từ 1958, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung cộng để đổi lấy vũ khí đạn dược, quân trang, dược phẩm, thực phẩm mà cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam. Ngày 2-12-2007, Trung Cộng ra Văn thư Hành chánh sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vốn là của nước Việt Nam hơn vài ngàn năm nay (hay từ khi dựng nước) vào huyện Tam Sa, thuộc tỉnh Hải Nam của Trung Cộng. Khi đồng bào và anh em Sinh viên, học sinh tại Hà Nội và Sàigòn biểu tình phản đối Trung cộng xâm lăng trước tòa đại sứ Trung cộng thì Việt cộng cho công an đàn áp và giải tán. Trong khi ấy, ngưòi phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Cộng phát biểu rằng:

“Hai quần đảo này là của Trung quốc, không cần phải bàn thảo dài lời. Chính Phạm văn Đồng, Thủ tướng nước VNDCCH, bằng văn bản, năm 1958 đã xác nhận quyền đó của Trung quốc.” Từ vụ Hoàng, Trường Sa này, đã hàng chục lần, Hải quân Trung Cộng bắn giết ngư dân Việt đánh cá quanh đó, cả mấy chục ngư dân đã chết oan, số khác bị tàn phế (xã Hoằng Trường, Thanh Hoá) số khác nữa bị bắt đòi tiền chuộc và mới tuần cuối tháng 5-09, tầu Trung cộng đâm chìm tầu câu mực của ngư dân VN (coi cuối bài). Tất cả những vụ đó, Nhà nước vgcs, Quốc hội, Thủ tướng...câm như hến. Chị có thấy cái nhục nào của một quốc gia như thế không! Đề nghị chị nếu quên chưa viết mục Hồ dâng Hoàng, Trường Sa này cho kẻ thù truyền kiếp là Trung cộng trong “Đỉnh cao chói lọi” và tất cả các mục tôi nêu ra trong bài này mà chưa hiện diện trong ĐCCL thì nên viết một bản Phụ đính kèm vào cuốn sách cho đầy đủ kẻo ông Hồ, người đã chết, thần tượng của riêng chị, nhân vật chính trong ĐCCL thấy thiếu sót không siêu thoát được! Ngay từ 1945, những khi Hồ sang triều kiến Mao để chịu lệnh, nhiều lúc cùng Mao nằm hút thuốc phiện và hưởng gái non, lẽ nào Mao không đề cập đến vịnh Cam Ranh, Cao bằng, Lạng sơn, giáp ranh giới, Nam quan , Bản giốc, các cột mốc biên giới giữa hai nước, cửa khẩu Hải Phòng, vùng yết hầu Tây Nguyên, đường xe lửa Vân Nam-Hà Nội v.v...là những điểm chiến lược của toàn vùng, kẻ nào nắm được những điểm chiến lược đó, kẻ ấy thắng!

Page 9: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Một học sinh Trung học (thuộc VNCH chứ không phải học sinh XHCN của ông Hồ) thuộc sử nước nhà cũng biết từ 4,000 năm nay, không lúc nào Tàu không mơ tưởng mở rộng biên giới xuống phía Nam, phía biển để phát triển Hải quân và ngư nghiệp! Chính vua Trần Nhân Tông (1279-1298) đã có chúc thư cho dân ta và con cháu về điều đó! Trung cộng đã nhìn rất xa nên đã cài người vào chính phủ của Hồ, Hội đồng Nhân dân, Viện Kiểm soát, tóm lại mọi cơ quan đầu não để khống chế người Việt. Người Việt nào hơi hó hé chống chúng là đi mò tôm ngay. Cái gương Đặng thái Mai hồi Hồ còn sống lẽ nào chị quên được? Khoảng chục năm nay, mười sáu tướng tá vgcs trên một chiếc máy bay quân sự bay sang Lào, đã đâm vào núi chết hết. Người hiểu chuyện bảo những tướng tá này có manh nha chống Trung cộng nên chúng nhổ cỏ. Mai mốt ở Tây Nguyên chị sẽ thấy, chúng lập thành làng, huyện và cả thị trấn, người cai trị chúng là chính chúng. Người Việt Nam phản đối chúng thì ban đêm chúng cho đi mò tôm. Chúng lấy vợ là gái Việt, đẻ con, vợ con chúng phải nói tiếng Phổ thông như chồng và cha, học chữ Hán, Văn hoá là văn hoá Tàu, phim Tàu, đào kép Tàu, anh hùng Tàu, lệnh lạc từ bên Tàu, chúng đâm rễ sâu xuống lãnh thổ Việt Nam và không cách gì đuổi chúng về nước được nữa. Hiện chúng đã cho cả trăm giáo viên Tàu sang dạy Hoa ngữ và chữ Hán. Người Tàu tự do vào Việt Nam mà không cần Visa, mua nhà, lấy vợ đẻ con tự nhiên như đất nước này là của chúng không ai dám làm gì! Hồi Thế vận hội Bắc Kinh 2008, chúng trương cờ 5 sao đi khắp phố phường Sàigòn ca hát, nhảy múa y như nơi đó là đất nước của chúng nhưng bọn công an khốn nạn chỉ rành chuyện bắt nạt dân Việt, còn Tàu muốn làm gì thì làm không dám động đến một sợi lông của chúng. Một Kỹ sư Việt ở Hà Nội bị bọn thanh niên Tàu hè nhau đập chết ở ngoài đường giữa ban ngày nhưng không ai dám đụng đến chúng! Bọn chóp bu Hà Nội cũng mần ngơ! Chuyện mất nước về tay Tàu tôi đã cảnh báo đồng bào ta trên báo chí hải ngoại hơn chục năm nay rồi! Võ nguyên Giáp từ tháng 1-2009 méo mặt vì chuyện bùn đỏ bauxite Tây Nguyên bán nước. Y đi năn nỉ Nguyễn tấn Dũng bỏ vụ bauxite Tây Nguyên nhưng bố bảo Dũng không dám vì Dũng đã ăn chịu với Hồ cẩm Đào, chính Đào lựa Dũng cho làm Thủ tướng (thay vì Vũ Khoan giỏi hơn và chín chắn hơn), tất nhiên Dũng phải hứa trung thành tuyệt đối! Còn Mạnh, Triết, Trọng và 500 tên đại biểu Quốc Hại thì cũng là những con hến thôi! Chúng còn thở nhưng đã chết lâu rồi ngoại trừ lúc chúng tìm cách đào khoét của người dân và tiền ODA (viện trợ) cũng như ăn cướp nhà đất ruộng vườn của dân! Nếu từ 1945 Hồ biết thương nước yêu nòi, biết gạt bỏ những tham vọng cá nhân và đảng của y, giữ lấy miền Bắc sau khi được chia năm 1954, lo cho dân bớt đói nghèo, đứng độc lập với mọi quốc gia CS kể cả Trung cộng, không có tham vọng cưỡng chiếm miền Nam mà để cho hai miền cùng lo kinh tế giáo dục cho dân, như Bắc và Nam Triều tiên, như chính sách Tito của Nam tư, gần như Sihanouk của Cao Miên hay cương quyết không du nhập chủ nghĩa CS vào lãnh thổ như TT Lý quang Diệu của Singapore (Lý quang Diệu gốc người Trung Hoa, rất dễ lọt vào quỹ đạo của Mao trạch Đông, nhưng Lý đã cứng rắn giữ cho đất nước có tự do dân chủ và không đi theo CS). Nếu ông Hồ biết những điều sơ đẳng ấy thì ngày nay dân nước đã tiến bộ biết bao nhiêu, người Việt đâu cần chạy tứ tung đi khắp hành tinh kiếm ăn, trốn vgcs như trốn si-đà, bỏ quê cha đất tổ, gia tài ruộng nương, mồ mả ông cha, tha phương đất khách chỉ cầu hai chữ tự do! Ông Hồ và bọn Việt Minh chính là cái quái thai ghê tởm thời đại, con yêu tinh đội lốt người chứ là con người có ai nỡ nhẫn tâm đầy đoạ, giết chóc dân nước hãi hùng, kinh khiếp, dã man đến thế? Vậy mà chị lại cố bào chữa con người này, bỏ mặc hơn 10 triệu người đã vì y mà tức tưởi nằm xuống, vì y mà tan nát gia đình, mất hết cả một cuộc đời. Tôi thiển nghĩ chị cũng đã đánh mất nhân tính chứ nếu còn là con người thì đâu có nâng bi một con quỷ nhập tràng, con yêu râu xanh như vậy? Có lẽ chị và con gái chị không vướng phải trường hợp Huỳnh thị Thanh Xuân và nhiều cháu gái khác bị Hồ cướp trinh, chị em chị không ai là Nông thị Xuân, Nguyễn thị Vàng, Nguyễn thị Minh Khai hay Tăng

Page 10: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

tuyết Minh, cũng không có ai là Nguyễn tất Trung và em hắn nên chị, với đôi mắt kiêu căng ngạo mạn nhưng mở chưa đủ lớn để nhìn mọi sự việc đến cốt tuỷ của nó, vội hoan hô, quỳ mọp cắn cỏ mà lậy. Nếu chị là cháu của bố tôi, được nghe bố tôi nói khi chúng tôi đi đón ông Hồ xuống Hải Phòng tháng 8 năm 1945, chắc chị sẽ có sự suy nghĩ rất khác.

Viết được dăm ba cuốn tiểu thuyết có chút ít tư tưởng chống bọn chóp bu Hà Nội, nhờ đó người Việt tị nạn vgcs ở hải ngoại có cảm tình với chị, chị ngạo mạn nghĩ rằng người VN đều dưới tay chị hết thảy và chị muốn viết gì họ cũng tin, dù là viết chạy tội cho một thằng bán nước, giết đồng bào. Chị đã lầm to, chị Dương thu Hương! Dân trí ngày nay khá rồi không phải như lúc nào chị cũng coi khinh dân Việt là mù chữ, dốt nát, ngu đần nên chị mới viết cái câu trong cuối bài của chị. Khi xưa chị nói chị ỉa phẹt lên đầu bọn Bắc bộ phủ nhưng nay chị lại viết cuốn sách đỉnh cao “muốn thọi” này, thực là tiền hậu bất nhất!

Người suy nghĩ bình thuờng cũng thấy bọn Bắc bộ phủ này đầu têu là giặc Hồ, chị ỉa phẹt lên đầu bọn Bắc bộ phủ tức ỉa phẹt lên đầu Hồ. Nay mới biết chị nói vậy nhưng không phải vậy, chị viết sách phong thánh Hồ. Chắc chị nghĩ rằng với cái tài viết lách, (thực sự nhiều câu quá ngớ ngẩn, vô nghĩa chẳng ai biết chị muốn nói gì do cóp nhặt ngoại ngữ rồi dịch ra để loè bà con) chị sẽ chuyển bại thành thắng, chuyển những điều chửi rủa Hồ thành ra những nhớ ơn, đề cao, vinh danh Hồ như một vĩ nhân của nước VN. Chị đã lầm to rồi và chính vì chị tối tăm như thế, cả chị và Hồ càng xuống đống bùn đen sâu hơn. Ngạn ngữ Mỹ có câu: “Dù có bôi môi son cho con lợn thì nó cũng vẫn là con lợn” Even though you use lipstick for a pig, it’s still a pig”.

Con heo nọc cũng vậy, dù chị có trét cả tạ son, tấn phấn vào mặt nó, nó vẫn là con heo nọc tai xanh, lở mồm long móng, mang mầm bệnh H1N1 ai nấy phải tránh xa. Sẽ có một ngày toà án quốc tế La Haye xử tội diệt chủng bọn vgcs, lúc đó chị cố mà làm thầy cãi cho chúng, như chị nói “l’avocat du diable!” Những sự thực lịch sử, vì có nhiều triệu người nhìn vào và đã kinh qua, đã sống, không ai có thể thay trắng đổi đen dù lưu manh như bọn vgcs đã và đang làm. Chị ví Hồ tặc với các triều vua Đinh Lê Lý Trần mà không ngượng miệng, các triều Đinh Lê Lý Trần có triều nào giết người không cùng chính kiến với mình không? Vua Quang Trung sau khi giết hơn 20 vạn quân Thanh, vào Thăng Long với áo ngự bào và cả mặt mày đen thuốc súng, Ngài vẫn hạ lệnh cho các quan đối xử tử tế với tàn quân Tàu xin đầu hàng, cấp phát lương thực và quần áo cho họ về Tàu. Nên nhớ đó là người Tàu, kẻ thù của Ngài chứ không phải nguời Việt Nam.

Hitler quá dã man nhưng y chỉ giết Do Thái và các người không phải người Đức. Trái lại y bao bọc, che chở người đồng chủng của y. Hồ tặc, trái lại, khom lưng quỳ gối trước ngoại bang, nhất là Nga-Tàu nhưng ruồng người Việt thủ tiêu hơn lang sói khi y nghi ngờ người này không đồng chính kiến với y! Cái gương cựu TT Võ văn Kiệt, Trung tướng Nguyễn Hùng v.v...còn sờ sờ trước mắt! Có triều đại nào công an đông hơn người dân, dùng công an để dò xét người ta ăn, uống, đại tiện, tiểu tiện, làm tình, chùi đít cho con lúc nào, dùng công an và còng số 8 để đè nén áp bức hơn cả quân Minh, hơn cả thực dân Pháp; chị viết đa số dân Việt vẫn yêu ông Hồ mà chẳng hiểu người ta đã khinh bỉ gọi ông ta là con chó đẻ. Một trong hàng trăm câu Ca dao tân thời: Thằng Hồ cùng với thằng Tôn Cả hai thằng đó đã chôn dân mình

Page 11: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Thằng Duẩn cùng với thằng Minh Cả hai thằng đó tử hình mới cam! Có ai khốn nạn như Hồ Bỏ con, giết vợ một lô một bày Lạy thằng cố vấn bằng thày Đoạ đày dân nước không ngày nào no! Ca dao dân gian chửi Hồ và bè lũ, muốn chép lại phải cả cuốn sách dày. Sau này sẽ có một Ban Tu Thư làm công việc đó. Phạm quế Dương, cựu Đại tá CS là người đầu tiên gọi Hồ là “thằng Hồ dâm tặc” chứ không phải những người chống Cộng hải ngoại chúng tôi như chị kết án! Còn những người thoá mạ Hồ thì cả nước, ngày nay tất cả đã biết rõ hành trạng của Hồ, có nghĩa hết bị bịp. Hồ nếu giỏi như chị ca tụng sao lại phải cấm tự do ngôn luận, cấm báo tư nhân, sao lại phải dạy trẻ từ thuở lên 3 phải kính yêu bác Hồ, sao lại phải dùng đủ mọi cách để nhồi sọ tẩy não, dạy chúng hỗn láo với cha mẹ, ông bà, với cả Chúa, Phật (là những đấng chỉ dạy điều lành) để chỉ tôn thờ mình Hồ? Chính chị khi còn quàng khăn đỏ cũng đã lậm cái mầm ung thư nọc độc của Hồ nên dù đã tìm hiểu nhiều về Hồ vẫn không tẩy rửa cho hết nọc độc được! Nọc độc Hồ đã ngấm sâu quá rồi! Hữu xạ tự nhiên hương, có đức có tài, làm tốt cho dân, không bao giờ dân bỏ. Chị coi nhiều Tổng thống Pháp Mỹ, Dân biểu, Nghị sĩ họ ra tranh cử nhiều lần vẫn được dân ủng hộ. Hồ chưa bao giờ phải ra tranh cử (vì nếu ra là thua, ở hải ngoại ngày nay nếu phải bỏ phiếu chọn giữa Hồ và LS Lê thị Công Nhân hay Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh thì tôi cá với chị Hồ thua đứt đuôi con nòng nọc) Vì vậy Hồ cứ bắt ép dân, loè bịp dân, tự quyền ở trên ngôi vua suốt đời, không kể gì đến dân, áp dụng chế độ toàn trị độc tài, cha truyền con nối để vinh thân phì gia. Những phi lý, phi dân chủ ấy không do Hồ thì do ai? Mà nào con Hồ, tên Nông đức Mạnh có giỏi giang gì cho cam? Một thằng ngu đần dốt nát, chó nhảy bàn độc, vô tài bất đức, Tàu chưa gọi đã sang cắn c. lậy từ ngoài cửa lạy vào! Những cái nhục của dân tộc là từ đó, chị nên ghi vào Phụ đính cho cuốn Đỉnh cao chói lọi cho hoàn chỉnh! Cái kiểu tôn sùng cá nhân, tôn sùng Hồ, như chị cổ võ ngày nay đã lỗi thời dù chị đang sống ở kinh đô ánh sáng. Có lẽ chị đã là “cháu ngoan bác Hồ” quàng khăn đỏ quá lâu, óc đặc sệt những tư tưởng ba trợn và hình ảnh dâm đãng, ăn cướp của Hồ nên dù chị sang Paris ở hàng chục năm, những thứ nhồi sọ đó không tẩy rửa đi được, nó đã thoát ra từ ngòi bút lòn trôn vớ vẩn của chị! Xin trích lại câu chị đã viết:

“Trở lại sự kiện “UNESCO bị đẩy lùi”, tôi xin đáp: không chiến thắng nào chiếm đoạt bằng thủ đoạn có thể đứng vững với thời gian. 19 năm trước, nếu cuộc thảo luận này diễn ra tại Thượng nghị viện Pháp thì giờ đây, tôi cũng vào chính nơi ấy để phát biểu ý kiến của mình qua chương trình truyền hình Bibliothèque Médicis.”

Chị DTH! UNESCO bị đẩy lùi là ý trời đấy chị. Ý trời cũng là ý dân, dân khắp thế giới chỉ trừ những đứa mù (mắt vẫn mở trao tráo mà vẫn mù) trong đó có chị! Ông Hồ mất cái vinh danh ấy tôi không được lợi lộc gì, những người mắt sáng không được gì nhưng nếu sự việc ấy diễn ra thì cái thế giới này chính là thế giới của quỷ (le monde du diable)! Vì sao? Vì một thằng già lừa lọc phản dân hại nước Việt Nam (chính chị công nhận ngày 30-4-75) hoang dâm vô độ, ăn cắp thơ văn, phá trinh những đứa trẻ mà tuổi chỉ bằng những đứa cháu nội, cháu ngoại của y (xin chị đọc thư của cô Huỳnh thị Thanh Xuân, người Quảng-Đà, nếu chị muốn đọc tôi gửi cho chị), vô trách nhiệm với những đứa con y đã đẻ ra; vì cái tiếng bác Hồ còn trinh, nhẫn tâm giết người vợ mang đến cho mình niềm vui, đã hi sinh cả tuổi xuân cho mình tức là Nông

Page 12: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

thị Xuân (đã sinh cho y Nguyễn tất Trung và em nó), bỏ vợ có hôn thú là chị người Tàu Tăng tuyết Minh (đám cưới có vợ chồng Chu ân Lai dự) bỏ đứa con gái có với Đỗ thị Lạc (Trần trọng Kim, VN Sử lược); báo cho Pháp bắt giết nhiều đồng chí của y trong đó có Nguyễn thị Minh Khai, Trần Phú (bị Pháp xử tử ở Thập bát phù viên, Hóc Môn, Gia định); báo cho Pháp bắt Hà huy Tập và đồng chí ruột là Lê hồng Phong, cướp vợ của Phong là Nguyễn thị Minh Khai, công khai ở với thị khi y ở Moscow, báo Pháp bắt nhiều lãnh tụ Quốc gia trong đó có cụ Phan bội Châu vì cụ Phan nổi tiếng hơn, giỏi dắn hơn, đức độ hơn y cả trăm lần, giết học giả Phạm Quỳnh và con trưởng là Phạm Giao; Trần huy Liệu sau khi giết cha con ông Quỳnh lại cướp vợ Phạm Giao, sau đó Liệu gửi vợ Phạm Giao (nguyên là hoa khôi Đồng Khánh) ra Hà Nội cho Hồ hưởng vì Hồ rất thích chị này. Một tên giết người không gớm tay, lừa thầy (cụ Hồ học Lãm, cụ Phan bội Châu) phản bạn (các đồng chí y báo Pháp giết), đàng điếm, lưu manh, đĩ thoã, vô đạo như vậy mà leo lên đỉnh cao chói lọi của thế giới thì chắc rằng Satan sẽ cai trị loài người và đười ươi khỉ đột dạy luân lý, cái thế giới này chắc sắp tận đến nơi. UNESCO không phải vì nhóm Đường Mới của GS Nguyễn thế Anh nhưng là từ rất nhiều nhóm ở hải ngoại, trong đó có GS Lê hữu Mục. GS Mục tố cáo rằng Hồ chí Minh đã ăn cắp cuốn “Ngục trung nhật ký” của nhà chí sĩ Lý Đông A. Chính vì thế, sau khi duyệt xét cẩn thận các đề nghị cũng như tố cáo, UNESCO đã huỷ bỏ vụ “phong thánh” cho Hồ. Công Lý đã được tỏ rạng vậy! Hồ chí Minh không chỉ ăn cắp thơ văn của chí sĩ Lý Đông A, ngay cái tên Việt Minh, Hồ đặt cho đảng y cũng là do y ăn cắp của cụ Hồ học Lãm. Tên Nguyễn ái Quốc y cũng chôm của ba người viết báo ở Paris lấy chung một tên trong đó có hai cụ Phan chu Trinh và Phan văn Trường. Hồi đó Hồ chỉ làm một nhiệm vụ đặc biệt là đi bỏ báo!

Ở bên Tàu, cụ Lãm có đảng tên là Việt Nam Độc lập đồng minh hội. Hồ chí Minh thấy cái tên hay, chớp luôn và gọi tắt là Việt Minh. Phải nói y là một con người rất kém sáng kiến; ngay như khi có đảng viên khen y chính trị cao, Hồ bảo:

“Có cái gì thì các bác Mác-Lê-Mao đã nói hết. Tôi chẳng có gì ngoài lý thuyết Cộng sản.” (Y thú nhận vậy nhưng các tên liếm trôn Hà Nội (giống như chị) lại cứ thế bốc y lên đến mây xanh, nào tư tưởng bác Hồ, nào xã hội chủ nghĩa của bác Hồ, tất cả vì sự nghiệp bác Hồ v.v...) Từ đó người ta thấy, do lưu manh, Hồ theo đúng bài bản của con tu hú. Chim tu hú thấy những con chim khác làm tổ nhưng tu hú làm biếng. Làm biếng nhưng muốn có tổ đẻ, vợ chồng tu hú kiên nhẫn chờ đó. Khi đôi chim kia đẻ trứng xong, thường là quạ hay sáo đen, lừa lúc chúng đi kiếm ăn là tu hú vào đẻ. Đôi chim kia không biết (chúng đâu có trí khôn) cứ ngỡ là trứng của mình, ấp ráo. Đến ngày nở, đôi chim kia phải nuôi con mình mà nuôi luôn hai, ba con tu hú chưa nứt mắt. Khi bay được, tu hú con bay ra và đi theo tu hú mẹ!

Hồ cũng thế, y cứ mon men vào những đảng phái khác xin sinh hoạt, xin vào đảng v.v...để lấy lòng, rồi y rủ rê những đảng viên trong đó theo y lập một đảng khác, phản bội lại chính cái đảng trước của người ta. Thực là một giống tu hú vô liêm sỉ! Quen cái mửng đó, Hồ thành công khá nhiều vì những người đi theo Hồ, đa số ngây thơ, ngờ nghệch. Võ nguyên Giáp là một. (Một mình Võ nguyên Giáp cũng giết cả mấy triệu người Việt vì tội diệt chủng, y phải đền tội trước pháp luật và nhân dân y như Hồ) . Chiến thắng Điện biên Phủ không phải công của Giáp vì Giáp không có học và không biết gì về binh thư, Giáp chỉ là một giáo sư Sử Địa ở trường trung học Thăng Long. Tướng Cheng Ghai, Trung cộng, đã chỉ huy trận ĐBP (đánh biển người, nướng quân không thương tiếc vì quân là người Việt) và Giáp chỉ điếu đóm cho y.

Page 13: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Ngày xưa Giáp vẫn cầm quân Ngày nay Giáp rúc trong quần chị em! Rúc như con chí, con rận hút máu. Nay Giáp đang bối rối lắm, hối hận, nhục nhã lắm, lo lắng lắm vì vụ bauxite Tây nguyên. Hàng triệu đảng viên vgcs khác, ngay cả bọn 15 tên trong Bộ Chính Trị và 500 tên Quốc Hại đã nhìn thấy con đường “bác” đi là con đường bi đát, là con đường bán nước, trong khi áp lực của Trung cộng ngày càng đè nặng, không thoả mãn chúng thì mất mạng như chơi, mà thoả mãn thì dâng nước! Quá trễ rồi, chị thấy không? Quá trễ rồi mà chị còn có gan ngồi viết “Đỉnh cao chói lọi” ôm chân thằng Việt gian diệt chủng, chạy tội cho y thì tôi thành thực phục chị là con người phi thường, phi thường vì ngửi được cái mùi xác chết thối rữa xung quanh Ba đình. Thảo nào chị phải bỏ chồng, bỏ con, ức chế tình dục để làm những công việc này. Những người xung quanh chị không thể chịu nổi cái hôi thối từ văn từ chị bốc ra. Chồng với con từ bỏ là phải! Và chính cái cuốn Au Zénith này sẽ là một bản án muôn đời khắc lên trán chị những dòng chữ ô nhục! “Không chiến thắng nào chiếm đoạt bằng thủ đoạn có thể đứng vững với thời gian” chị viết câu này thực chí lý. Từ câu của chị, dùng làm tiền đề cho một Tam đoạn luận, tôi xin nối tiếp sau đây: Hồ chí Minh chiếm đoạt công lao Tổng khởi nghĩa của toàn dân Việt Nam ngày 19-8-1945. Hồ dù cướp được quyền lực, Hồ không thể nào đứng vững với thời gian! 4- Cải Cách Ruộng Đất Chị Dương Thu Hương! Chị có đề cập đến một chiến thắng lẫy lừng của ông Hồ chí Minh là Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) trong cuốn sách “để đời” của chị, “Đỉnh cao chói lọi” không?

Nếu không có thì chị vấp phải một lỗi lầm nghiêm trọng với “Người”, thần tượng của riêng chị và với đảng ta. Nửa triệu oan hồn bị giết vì CCRĐ cũng sẽ kêu nài vì chị đã bỏ quên họ trong cuốn sách quý giá! Có lẽ mục này thiếu nên bà Janine Gillon, một nhà phê bình Văn học tại Paris, chê “Đỉnh cao chói lọi” là tồi, kém, không ra chi!. Một số bạn đọc VN ở Pháp đã đọc thì bảo tôi, ĐCCL không có dẫn chứng, không có phỏng vấn, không có chứng liệu nghĩa là chỉ thuyết (khẩu thuyết vô bằng) như kiểu nói bâng quơ, chân không chạm đất, cật không tới trời, chẳng ra sao cả nên không có sức thuyết phục. Người ta cũng nói nó không phải là cuốn tiểu thuyết mặc dù chuyên nghề của chị là viết tiểu thuyết chứ không phải viết triết lý vụn. Họ bảo triết lý của chị là thứ triết lý rẻ tiền. Nếu trước khi viết nó, chị đọc được câu này của Văn hào Pháp Albert Camus (Nobel văn chương 1957) đã từng di chúc thì hay biết mấy: “Trí thức có bổn phận phải nói lên những điều mà người ta muốn nói lên nhưng không có điều kiện để nói.” Tám mươi lăm triệu người trong nước, rất nhiều người muốn nói nhưng không có cơ hội, dịp may để nói. Chị có cơ hội, dịp may nhưng chị bóp méo sự thật, hoặc không dám nhìn vào sự thật. Cả hai thái độ đó đều hèn và đáng khinh. Những người chiến sĩ VNCH, những chiến sĩ của Dân chủ, Tự do và Nhân quyền suốt 21 năm xả thân chiến đấu, ngăn ngừa giặc Hồ vào chiếm miền Nam. Họ là ân nhân của nhân dân miền Nam. Nhưng vốn có thiên kiến ghét Mỹ và Quân lực VNCH, chị không từ một trường hợp nào vu vạ, cáo gian, đổ vấy cho họ những tội lỗi tày trời như vụ xẻo vú và đâm nát cửa mình cán bộ gái vgcs. Trường hợp những tù nhân chính trị bị vgcs bắt vào trại tù cải tạo, quen lối ngôn ngữ tuyên truyền, khi viết về người lính Việt Nam Cộng Hòa bị bắt làm tù binh, chị viết rằng tù nhân VNCH đã gọi bộ đội và

Page 14: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

quản giáo là “ông” xưng “con”. Chị hằn học phê phán và cho “đó là những thái độ hèn hạ khúm núm hết sức đáng khinh bỉ!” . . . Chị DTH, những quân nhân này nếu có khúm núm trước AK, cùm sắt, conex, bỏ đói bỏ khát và cả tra tấn đến ngất đi, đày đoạ đến chết thì cũng có thể hiểu được. Con người ta lúc đói, lúc bị dí súng vào đầu có thể mất nhân cách dễ dàng. Việt vương Câu Tiễn phải nếm phân cho Phù Sai, Dự Nhượng muốn báo thù cho chủ phải nuốt than, giả làm hành khất, Lê Lai hoá trang để liều mình cứu chúa v.v...đều là những trường hợp bất khả kháng, phải dùng thế nhu mà giảm bớt cái kiêu căng của kẻ thù ngạo mạn, hiếu sát. Nếu chị ở truờng hợp đó trong trại tù Auschwitz của vgcs chưa chắc chị còn giữ được nhân cách. Nhưng một Phó thủ tướng Văn hoá như Tố Hữu, quyền lực đầy mình, no nê, phè phỡn, sang cả, đứng hàng thứ 3 thứ 4 sau Hồ, không ai đe doạ, ép buộc mà sao lại viết ra những vần thơ “liếm trôn nhục nhã” sau đây: Xít-ta-Lin đời đời cây đại thụThương biết mấy khi con học nóiTiếng đầu lòng con gọi Xít ta linThương cha thương mẹ thương chồngThương mình thương một thương ông thương mườivà: Giết, Giết nữa bàn tay không phút nghỉ Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong Cho đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít ta lin bất diệt! Và còn rất nhiều vần thơ khác của Tố Hữu và Huy Cận, Xuân Diệu, Chế lan Viên v.v..ca tụng ngoại bang không biết mắc cỡ. Xuân Diệu mỗi khi đọc thơ của Hồ thì giả vờ lấy khăn lau nước mắt làm như cảm động lắm. Khi có người hỏi, y nói để kiếm thêm vài lạng thịt lợn!

Một người quân nhân thường không cần nhiều thần kinh xấu hổ như một Phó Thủ tướng hay một Nhà thơ, một Nhà văn, những “người của quần chúng”.

Khi những anh quân nhân đó phải chịu ép một bề dưới mũi súng, dưới nhiều áp lực khác thì chuyện nhẹ nhàng với kẻ thù là điều dễ hiểu. Ai cũng sợ chết, kể cả chị, nếu không chị sang Paris làm chi? Nếu anh quân nhân gọi tên quản giáo là ông xưng con đáng phạt 1 roi thì tên Phó Thủ tướng Tố Hữu, những tên bồi bút Trương bá Cần, Huỳnh công Minh, Thiện Cẩm, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế lan Viên, Bùi ngọc Tấn, Tiêu Dao bảo Cự, Dương trung Quốc v.v...làm mất danh dự quốc thể, phải bị phạt 1,000 roi!

Những người bạn tôi bên Pháp cũng nói, mấy chữ Pháp chị chép lại còn sai như Jean Paul Satre (đúng ra phải viết là Sartre), Betrand Russell (đúng ra là Bertrand Russell) Todd thì chị lại viết Tood v.v...nhưng thôi những cái lẻ tẻ đó ai chấp làm gì? Nhưng những điều này thì nên nói. Có nhiều câu, do chị cố làm dáng, hoặc dịch từ ngoại ngữ, chẳng ai hiều chị muốn nói gì như tư thế tổng quan và tư thế nội tại. Tuy nhiên, nếu ai quen đọc chị sẽ biết đó là cái tài láu cá vặt hay làm dáng của chị! Dĩ nhiên, khi chị ở Pháp bằng ấy năm, chị phải thông thạo Pháp ngữ cũng như những người có học ở Mỹ, phải thông thạo Anh ngữ để đi kiếm việc làm mà sống và nuôi gia đình. Ở hải ngoại này như chúng tôi với chị, chưa quá 65 tuổi mà không đi làm thì lấy tiền đâu mà sinh sống? Nhờ vả chính phủ cũng nhục nhã lắm đấy! Tôi ở Hoa Kỳ 34 năm tôi biết rất rõ, phải lao động để sống không nhờ vào ai được, cho dù

Page 15: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

là con cái! Tiền xuất bản và công dịch một cuốn sách ở hải ngoại không phải là ít, tôi khen chị không nhờ vả ai mà in được hàng ngàn cuốn! Trở lại với Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ), chị nên nêu rõ số người bị thảm sát (vì chị tự hào là honnête và thích người ta honnête với chị).

Theo báo cáo chính thức của đảng vgcs thì số địa chủ, phú nông bị giết trong dăm năm theo khuôn mẫu Trung cộng là trên 200,000 người (dưới 250,000). Con số này đảng vgcs đã không honnête, đã ăn gian, chị DTH! Phải đòi cho được bản báo cáo chính thức Hồ báo cáo cho Nga và Tàu thì mới chính xác! Có ít ra cũng trên nửa triệu người bị giết vì CCRĐ tại miền Bắc trong những năm đó vì chỉ tiêu bị giết theo Nga-Tàu đòi hỏi là 5% hay 1/20. Nếu số nông dân là 10 triệu người thì số chết phải là 500,000. Nước ta hồi đó hầu hết là nông dân, con số nửa triệu có thể vẫn là ít, chưa đúng thực tế. Việt Gian Cộng Sản xưa nay vẫn thường gian dối. Chúng gian dối từ trong máu (như lời bà TT Đức Angela Merkel), từ đời cha đến đời con; cái gì hay, tốt, thí dụ giết lính Cộng Hoà thì có 1 thổi phồng ra 5 ra 10. Học sinh quá dốt đi thi chỉ đậu 10% thì chúng phóng ra 70-80%. Đó`Bệnh thành tích, chị đã quá rõ! Còn cái xấu, tồi, dở thì rút bớt đi thật nhiều chỉ còn để lại chừng 1/3 hay ¼ thậm chí 1/10. Chính cán bộ cũng không tin nhau khi đọc các bản báo cáo đó. Một người cha trong gia đình bị quy chụp là địa chủ, bị giết thì không phải chỉ mình ông ta chết. Vợ, các con, bị tịch thu hết ruộng nương, nhà cửa, nguồn sống cũng sẽ chết dần chết mòn. Trung bình một gia đình VN có 4 đứa con, cộng thêm người vợ, có nghĩa cái chết của ông địa chủ kéo theo 5 cái chết nữa. Năm trăm ngàn ở trên phải nhân 5 là 2.5 triệu. Đó là chưa kể anh em, cháu chắt, cha mẹ, ông bà, chú bác của nạn nhân, kể cả mấy chục người đau buồn vì cái chết của một địa chủ! Nhưng nhiều gia đình, để chúng dễ cướp hơn, chúng giết cả hai vợ chồng. Đàn con nhỏ dại còn lại cũng sẽ chết dần chết mòn! Số người thực sự chết phải gấp 3 gấp 4 lần báo cáo. Cách Hồ giết địa ác (danh từ của cán bộ và báo chí vgcs) thực ghê tởm, dã man. Hồ bắt bọn cán bộ chôn sống hai vợ chồng nạn nhân, xong cho trâu bò cày bừa lên những cái đầu nạn nhân cho dở sống dở chết, cho thực khổ sở đau đớn trước khi chết. Đó là hành động của bậc vĩ nhân của Dương thu Hương đó! Bài này đã dài, tôi không muốn viết về những cái lưu manh, dã man và dâm đãng cực kỳ của chương trình CCRĐ của giặc Hồ theo lệnh Xít-ta-Lin và Mao trạch Đông, mặc dù tôi có nhiều tài liệu. Nhân chứng sống ở nhiều làng Bắc Việt còn đầy. Chị nên tìm cuốn “Ba người khác” của Nhà văn lão thành Tô Hoài (tác giả Dế mèn phiêu lưu ký xb trước 1945) mà đọc để thấm thía cái “nhân đức trời biển” của “bác”. “Bác” nên được viết thêm dăm cuốn ĐCCL nữa để vinh danh mới xứng đáng.

5- Vụ Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 Điều này thì chị không chối vào đâu được, chị Dương thu Hương!. Đêm mồng 1 Tết, Hồ đích thân đọc một bài thơ trên đài phát thanh Hà Nội dùng làm Mật hiệu cho quân lính của Hồ nhất loạt tấn công các cứ điểm của VN Cộng hoà.(Thành ra những điều chị viết trong MACL chỉ là những điều láo toét, bậy bạ, bán linh hốn cho quỷ Hồ). Tổng công kích Tết Mậu Thân như một quả bom nguyên tử làm cả nước choáng váng. Sự kiện này cả miền Nam và miền Bắc đều biết nên tôi không cần phải đưa chứng liệu. Hồ cho lính Lê dương của Hồ (tức bọn lính Nguỵ đánh thuê cho CS quốc tế) giết 12,000 người ở miền Nam hầu hết là thường dân vô tội, viên chức xã ấp, giáo viên...ngay cả thợ mộc, thợ hồ, đàn bà, con nít...

Page 16: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Quân đội Cộng hoà và Cảnh sát bị chúng giết rất ít, nhưng cả trăm ngàn tên lính CS mặt non choẹt, có những tên mới 13, 14 tuổi, Hồ cưỡng bách phải đeo súng vượt Trường Sơn vào Nam (và cả bọn địa phương ngu si không biết gì), bị quân đội Cộng hoà làm thịt, xác bỏ đầy đường. Tại một giáo xứ Công giáo ở Huế, vgcs đã lôi cha Bửu Đồng và hàng trăm thanh niên CG ra bắn. Mấy giáo sư ngoại quốc giảng dạy ở Đại học Huế cũng bị giết! Thực quá dã man! Chúng giết ngay cả những người đi truyền bá Văn hoá, Văn minh. Riêng dân Huế bị giết trên 7,000, hầu hết là dân vô tội ĐCCL của chị có thể khoả lấp tội ác của Hồ được không? Thần tượng của chị đó! Nhiều Nhà Văn, Nhà báo VNCH đã viết về vụ thảm sát ở Huế Tết Mậu Thân. Chị vào Google là kiếm ra ngay. Chiến thắng của Hồ luôn luôn đi theo với những vành khăn tang. Những vành khăn tang từ ngày Hồ xuất hiện năm 1945 trắng xoá đất nước từ ải Nam Quan đến Côn lôn, Phú quốc. Ngày nay mỗi Tết đến, vgcs Hà Nội vẫn còn nêu thành tích giết dân và xâm lược VNCH vào dip Tết Mậu Thân. Hà Nội ăn mừng chiến thắng Mậu Thân rất lớn. Điều đó minh chứng những câu chị viết về Hồ sai hoàn toàn “Bác đã nhìn thấy cuôc chiến tranh cốt nhục tương tàn nhưng không sao tránh được vì miền Bắc và miền Nam đều hiếu chiến v.v...” Những câu này cho người ta thấy chị nói láo hơn Vẹm! Hay là chị bù lu bù loa rằng tội ác ấy không phải của “Người”, chỉ là do cấp dưới; “Người” xưa nay nhân ái lắm, “Người” đâu có giết đồng bào!

Lính vgcs bắt dân đào những cái hố lớn, xong bắt nạn nhân đứng nhìn vào hố, chúng dùng cán cuốc bổ mạnh vào đầu xong đẩy thân người xuống hố. Có nhiều nạn nhân hãy còn sống kêu la thảm thiết nhưng chúng ra lệnh cho toán đào hố cứ thế mà xúc đất vùi thây người, cái đầu, cái tay, cái chân nào còn lòi lên thì lấy cuốc san cho bằng đi!!!.

Chưa từng thấy một tên lãnh tụ nào tàn ác như thằng Hồ chí Minh và chưa từng thấy bọn việt gian nào dã man máu lạnh như bọn NĐXuân, HPNPhan, ngọc Tường! (còn tiếp)

GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Bài đọc them

Tàu Lạ (Trung quốc) đâm tầu của ngư dân Việt

Trong lúc đánh bắt hải sản ngoài khơi, tàu đánh cá mang số hiệu BL 3221TS bị tàu lạ đâm ngang làm chìm khiến 15 người lâm nạn, 2 người trong đó bị mất tích. Sau khi gây tai nạn, tàu lạ đã bỏ chạy. Trưa ngày 27/5/09, đồn Biên phòng 672 Bồ Đề, Bộ đội Biên phòng Cà Mau tiếp nhận thông tin từ tàu mang số hiệu CM 8054 do ông Lê Văn Luôn làm chủ, báo có 12 người bị nạn trên biển được tàu ông cứu vớt.

Hai trong số những người được cứu vớt hiện bị thương nặng, đang được y sĩ của đồn biên phòng và trạm xá cấp cứu.

Lính của Nguỵ quyền Việt gian Cộng Sản chết bao nhiêu? Nhưng con số thiệt hại về nhân mạng của miền Bắc là bao nhiêu?

Tên trá hàng Bùi Tín, trong một tác phẩm tuyên truyền hạng bét, văn chương sọt rác, (Mây mù thế kỷ, Hoa xuyên tuyết..) đã viết:

Page 17: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

- “Lê Duẫn từng khoe: Tôi gặp ông Mao, tôi nói thẳng rằng Trung Quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hi sinh thấp hơn, còn như Trung Quốc không chi viện, thì chúng tôi sẽ phải hi sinh thêm 1 đến 2 triệu người, chúng tôi không sợ và cuối cùng chúng tôi vẫn thắng!!!”.

Kinh khiếp thay đồng chí Lê Duẫn, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh. Xem vài triệu mạng sống của đồng bào, đồng chí, bộ đội, thanh niên xung phong... như số lẻ, như mấy xu trong túi quần, có móc ra vất đi cũng khôngbậntâm.

Nhưng câu nói trên của Lê Duẫn đã bị bóp méo, cắt xén phần quan trọng nhất. Đó là con số nhân mạng “đã” thiệthạilàbaonhiêutriệu?

“Đồng chí” Bảy Vân, vợ Lê Duẫn, trong cuộc phỏng vấn ngày 23 tháng 12 năm 2008, đã trả lời Xuân Hồng, phóngviênđàiBBCrằng:

- “Anh Ba (Duẫn) nói với lãnh đạo Trung Quốc rằng”: Chúng tôi đã hi sinh 10 triệu người rồi, nếu Trung Quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hi sinh thấp hơn, còn như Trung Quốc không chi viện, chúng tôi dù phải hi sinh vài triệu người nữa, chúng tôi vẫnthắngMỹ”.

Tôi lại xin lạc đề vài câu nữa. Ông Xuân Hồng đài BBC hỏi bà Bảy Vân, đại ý rằng, có nên tiếp tục “xã hội chủ nghĩa không? Đồng chí Bảy Vân kính mến trả lời rằng:

- “Phải tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa, vì chênh lệch giàunghèongàycànglớn”.

Tại sao ông Xuân Hồng không hỏi tiếp:

- “Thế giai cấp giàu là những người nào? Còn bọn nghèo khổ là những ai?”. Giai cấp giàu là đảng viên (riêng đồng chí Bảy Vân “phải” chui rúc trong “túp lều” giá trên hai triệu đô la Mỹ), còn giai cấp nghèo là lũ dân đen mà các đồng chí đảng viên đang ngồi trên đầu đó!

Như thế, trong chiến tranh chống Mỹ, phải trên mười triệu người dân vô tội miền Bắc Việt Nam đã bị đảng ta đẩy vào Trường Sơn cho B52 dội bom. Một con số khủng khiếp. Lê Duẫn đem số lẻ vài triệu (bổ sung) vào Nam không phải để đánh nhau, mà để cho B52 dội bom, số sống sót mới thực sự đối diện với quân miền Nam mà đánh nhau.

Bạn muốn biết con số đó khủng khiếp đến bực nào thì thử rải mười triệu xác chết lên một nghìn cây số từ Bắc vô Nam, trên đường mòn Hồ Chí Minh (con đường Bác đi là con đườngbiđát). Mỗi cây số có bao nhiêu xác bộ đội nhân dân anh hùng? Mười nghìn xác rải trên 1km. Mỗi mét 10 xác bộ đội. (Bài của Dép Râu - trích Huyết Hoa)

Vài suy nghĩ về bài “Đá Văng Chân Lý” của Dương thu Hương

Bài 3 (tiếp theo) GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc Ở bài trước, tôi đã viết đảng vgcs và chính ông Hồ chí Minh đã thú nhận (trong Đảng sử của Việt Minh) ông Hồ có bán cụ Phan bội Châu cho Pháp lấy số tiền là 100,000 (có chỗ viết 150,000) tiền Đông Dương vì ông Hồ lúc đó cần tiền tổ chức Thanh Niên Cộng sản thế giới. Người CS nghĩ rằng việc đó không có tội lỗi chi cả vì dùng tiền làm việc lớn.

Page 18: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Việc rõ ràng như vậy, báo chí hải ngoại đăng đi đăng lại, đăng đầy nhưng chị Dương thu Hương (có lẽ chưa đọc) vẫn mồm loa mép giải thanh minh thanh nga cho bậc “vĩ nhân” của chị. Chị viết: Đương nhiên một kẻ “bán đứng bậc huynh trưởng” thì không những đáng bị khinh bỉ, nhạo báng, phỉ nhổ mà còn đáng bị căm thù. Vì hành động như thế, ông ta không chỉ là kẻ phản bội đểu cáng mà còn là kẻ sát nhân. Người ta thấy rõ thái độ nhục mạ này trong bài viết của Olivier Tood. Chị Dương thu Hương, đích thị ông Hồ là kẻ bán đứng bậc huynh trưởng như lời ông ta và đảng của ông ta thú nhận đấy. Không phải tự nhiên “Lậy ông con ở bụi này” đâu.

- Vì cả làng cả nước đều biết rồi, bạn, đồng chí cũng như thù/ - Vì dù sao con người đôi lúc còn nhất điểm lương tâm, thú nhận cho lương tâm đỡ cắn rứt. - Vì lời thanh minh thanh nga nghe có vẻ suông sẻ. “Bác” làm chuyện đó là vì đại nghĩa của dân tộc. Và như lời kết án của chị, ông Hồ chí Minh không những đáng bị khinh bỉ, nhạo báng, phỉ nhổ mà còn đáng bị căm thù. Vì hành động như thế, ông ta không chỉ là một kẻ phản bội, đểu cáng mà còn là kẻ sát nhân!

Chị đã viết rất đúng cái tâm thức của 85 triệu người Việt Nam khi kết án Hồ đểu cáng, táng tận lương tâm trong vụ này. May là Pháp thực dân, vì người Việt khắp nơi biểu tình cực lực phản đối bản án, chúng đã tuyên án tử hình cụ Phan nhưng sợ lòng dân căm hờn sinh nổi loạn, chúng chưa dám thi hành bản án mà chỉ quản chế cụ tại gia cho đến khi cụ qua đời. Nhưng có một người rất thích Pháp thi hành bản án, là ai chị đoán thử xem? Là chính “bậc vĩ nhân” Hồ chí Minh của chị đó. Chuyện này làm mọi người nhớ lại cuốn sách “Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ chủ tịch” tác giả là Trần dân Tiên, với vài cuốn khác của T.Lan. Chuyện thêu dệt ra cho đẹp, cho thơm, muốn viết chi thì viết, coi người đọc như không có, coi toàn dân Việt như những đứa trẻ ngô nghê mới lẫm chẫm biết đi. Ấy vậy mà sau này, Hồ lại muốn cho toàn dân biết rằng chủ tịch có tài văn chương tuyệt tác, không ai sánh nên mới xì ra “Trần dân Tiên và T.Lan” chính là bác đấy! Chế lan Viên khen rằng:

Bác sinh ra làm người hiềnDân Tiên cùng với Dật Tiên một vần! Dật Tiên đây là nhà cách mạng Trung Hoa Tôn Dật Tiên. Thực là chuyện bỉ ổi chưa từng thấy trên thi, văn đàn thế giới. Mình viết sách tự khen mình, khen cả những cái giết người, hiếu sát, bê bối, hoang dâm, ngu đần của ông ta! Những mục này chị chớ quên trong bản Phụ đính đấy chị Hương bởi nó là những bông hoa, những điểm son của “bậc vĩ nhân” của chị!!! Trở lại chuyện cụ Phan bội Châu. Vì sao Hồ muốn Pháp giết cụ Phan? Hồ là một tên vô lại, vô tài bất đức, một thằng đểu cáng, lưu manh, lừa thầy, chiếm vợ bạn, ít người ưa y nhưng Hồ luôn luôn sợ có những kẻ hay hơn mình, có tài có đức sẽ thay thế mình trong lòng quần chúng nên cứ người nào y thấy có vẻ là đối thủ của y, ngay cả đồng chí như Lê hồng Phong, Trần Phú v.v...y cũng tìm cách thanh toán ráo. Nguyễn thị Minh Khai ăn ở với y ở Moscow như vợ chồng nhưng rồi y cũng báo Pháp bắt, tử hình cùng với Trần Phú ở “18 khu vườn trầu” Hóc Môn Gia định. Những kẻ làm Phó cho y như Tôn đức Thắng, Nguyễn văn Linh v.v...cũng phải giữ lời ăn tiếng nói cẩn thận. Dại miệng tuôn ra vài câu hớ hênh hoặc có hành động để y nghi ngờ lòng trung thành với y thì hui nhị tì sớm. Cũng chuyện dại miệng, có một lần tôi đọc được một Bản báo cáo trong hồ sơ tối mật của Phủ Tổng Thống và Quốc Hội VNCH, lúc ấy tôi đang là Dân Biểu Chủ tịch Uỷ Ban Phát Triển Nông Thôn Hạ nghị Viện. Báo cáo như sau: Có một lần Võ nguyên Giáp được một nhà báo nước ngoài phỏng vấn, Giáp khai

Page 19: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

thật số tử thương của Quân đội Nguỵ Lê dương của Hồ. Con số rất lớn cả mấy triệu. Mặt khác, câu trả lời của Giáp cũng xác nhận vgcs xua hàng chục sư đoàn vào tấn công miền Nam trong khi Hồ nói dối quốc tế là dân chúng miền Nam nổi lên đánh phá để giật chính phủ làm tay sai cho Mỹ xuống! Sau khi biết hố, Giáp cho người chạy theo nữ phóng viên kia xin lại cuộn băng để phi tang những cái xấu của chế độ, cuốn băng được trả lại nhưng cô phóng viên đã nhanh tay làm copy, cô đem về toà soạn tung bản tin đi khắp thế giới. Giáp sau đó mất chức, phải đi coi xưởng đẻ.

Thực ra như đã nói, Giáp chỉ có tài điếu đóm cho cố vấn và tướng Tàu mà thôi. Những tên tướng của Hồ được Hồ tin dùng như Trần Độ, Nguyễn chí Thanh, Văn tiến Dũng, Trần văn Trà v.v...đều là những tên máu lạnh, nướng quân và giết đồng bào miền Nam, quân sĩ miền Nam không chùn tay, càng giết nhiều Hồ càng thăng cấp, càng hung tợn dã man với đồng đội (gọi là kỷ luật nghiêm) và đồng bào vô tội thì Hồ càng khoái. Chủ tướng khoái giết người thì quân sĩ làm sao khác được? Suy ra, hơn 10 triệu đồng bào ta thịt nát xương tan là từ cái chính sách “giết lầm hơn tha lầm” phí phạm xương máu của Hồ tặc! Chính tướng Trần Độ, sau này phản tỉnh, đã phải la lên vì cái thói tàn bạo của giặc Hồ: “Đảng CSVN tàn ác hơn Tần thuỷ Hoàng và dã man hơn Hitler”

Một trung tướng đi sát với Hồ, biết nhiều hành trạng Hồ đã phải thốt lên những câu thảng thốt vì sợ hãi gờm nhớm cái tàn bạo của Hồ trong khi chị không thể nào có cơ hội gần Hồ hơn ông Trần Độ. Thế mà chị đã thong manh và sắp điên nên mới viết “Đỉnh cao chói lọi” chạy tội cho Hồ? Nhân danh hơn 10 triệu đồng bào đã bị Hồ hiếu sát, dâm tặc giết, tôi đề nghị nên gọi nó là “Đỉnh cao chó lợn”(ĐCCL) còn “Món ăn chân lý” nên đổi ra là “Đá văng chân lý” thì đúng hơn! Từ vụ Giáp, các kẻ thủ hạ làm việc với Hồ, rút kinh nghiệm, họ phải thủ khẩu như bình, đó là điều các cán bộ CS luôn luôn phải nhớ. Nhưng lúc hoan hô “bác” thì phải hoan hô lớn hơn ai mới lên cấp được. Không biết nịnh, trong chế độ Hồ, chỉ đói khổ suốt đời dù cũng đi chiến đấu gian khổ như ai. Từ Hồ mà đẻ ra cái thói nịnh hót, lươn lẹo (để sống và để lên chức), từ Hồ mà không ai tin ai, từ Hồ mà đứa con gái chỉ mặt cha nó đang quỳ ở giữa sân đình, trong Cải Cách Ruộng Đất quát to lên cho mọi người nghe:

”Thằng kia, mày có biết tao là ai không?”

Người cha khốn nạn (của chế độ Dân chủ, Tự do, Hạnh Phúc của “vĩ nhân Hồ”) thều thào:

“Vâng, tôi biết bà, tôi biết bà chứ! Bà to lắm! Vợ chồng tôi rất tiếc đã đẻ ra bà!”

Đứa con gái chạy lại tát hồi lùng năm bảy cái bốp bốp bốp vào mặt cha nó: “Đồ địa chủ khốn nạn! Đã sắp chết mà còn ngoan cố! Mày có nhớ mày đã hiếp dâm tao bao nhiêu lần không?”

Người cha rũ xuống, ngất đi!

Đó là cái tài kinh thiên vĩ địa của “bậc vĩ nhân” của chị Dương thu Hương! Những chuyện có thật này, những Nhà báo Việt Thường, nhà văn Xuân Vũ Bùi quang Triết, nhà văn Vũ thư Hiên và nhiều cây viết khác nữa đã mô tả chi tiết, chị ra thư viện tìm là có! Hơn năm trăm nghìn người cha như thế, nhiều người phải chịu chung với vợ của họ. Nhiều người đã đi kháng chiến giết Tây, một lòng một dạ với chế độ và đang làm việc với Việt Minh tại xã, thôn, huyện nhưng bị kích lên thành địa chủ cho đủ số lượng Nga-Tàu bắt buộc. Nhiều nạn nhân đến lúc chết vẫn không biết mình đã phạm tội gì? Nhưng vì tinh thần yêu nước, yêu Hồ, nghĩ rằng Hồ sẽ mang lại Độc lập, tự do, hạnh phúc cho đất nước nên vẫn hô vang:”Chủ tịch Hồ chí Minh muôn năm, Việt Nam độc lập muôn năm!” trước khi lãnh vài viên đạn vào đầu!

Page 20: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Người cha của chị, tôi nghĩ không ở hoàn cảnh ấy, mẹ của chị đảng cũng không lý tới (vì quá nghèo chăng?) nên chị có cây viết, lại đang ở Paris, hưởng đủ mọi thứ bơ thừa sữa cặn của Tây thực dân (mà xưa kia chị cũng như Hồ tặc chửi không tiếc lời) nên chị cứ tung hô bừa tuỳ hứng, chị nghĩ viết cuốn sách Đỉnh Cao Chó Lợn để đời! Đúng là để đời thiệt nhưng là để cái xú danh tàn mạt xấu xa muôn thuở! Hồ đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ! Phụ hoạ với Hồ là bọn Văn, Thi, Báo nô, Khoa học gia, trí thức chồn lùi trốn tránh quân dịch của Hồ, nịnh hót bợ đỡ Hồ để khỏi đi lính ra mặt trận, và kiếm tiền, vinh thân phì gia; nhờ có chiến tranh suốt 30 năm, bọn tướng tá phe cánh chui lòn mà lên, xua đám thanh niên khốn nạn cô thân cô thế làm bia đỡ đạn (như đám tân binh bị Phùng thế Tài, một con quỷ khát máu nguyên là cận vệ của Hồ được Hồ yêu thích, giết chết ở bờ sông Hồng)! Hồ cũng được thêm sự tiếp tay của bọn MT Giải phóng MN vgcs như Nguyễn hữu Thọ, Lâm văn Tết, Trương như Tảng (trốn ra ngoại quốc, giả làm boat people) Huỳnh tấn Phát, Dương quỳnh Hoa v.v...bọn vgcs nằm vùng như Huỳnh tần Mẫm, Thích Trí Quang, Thích đôn Hậu, Ngô bá Thành, Huỳnh Liên, DB Đinh văn Đệ, tên Thủ tướng đểu cáng Vũ văn Mẫu, thằng hề Dương văn Minh, Trịnh công Sơn, Phan xuân Huy, Nguyễn văn Binh, Kiều mộng Thu, Nguyễn đắc Xuân v.v...ôi thôi làm sao kể xiết! Những bọn ăn cơm Quốc gia thờ ma vgcs này nghe Hồ và thủ hạ hứa hẹn cho chức này chức kia nên tưởng bở mà đi làm tay sai cho Hồ. Sau ngày 30-4-1975 chúng vỡ mộng, nhiều thằng bợm, nhiều con điếm đang muối mặt ẩn náu tại Mỹ và Pháp (xưa chửi Mỹ và Pháp không tiếc lời) kiếm bơ thừa sữa cặn bằng những đồng tiền già như những con chó chờ ngày chết! Chị có cây viết, xưa kia chị viết lang bang (như kiểu vu vạ quân sĩ VNCH xẻo vú và đâm nát cửa mình cán bộ gái vgcs) mấy chuyện ngắn, chuyện dài nhưng về chính trị làm sao chị qua mặt được BS Dương quỳnh Hoa, khi chị lên 9 tuổi thì chị Hoa đã gia nhập đảng CS Pháp; về nước Hồ cho chị làm BT Y tế chính phủ rởm của MTDTGPMN. (Chị Hoa vào bưng, cục R mới lấy chồng là Nghị). Nhưng rồi chị Hoa nhìn ra những cái nô lệ Tàu-Nga, bán nước, dã man, xấu xa, đê tiện, vô văn hoá hay nói rõ ra là ngu đần, quê mùa, dốt nát của toàn bọn giặc Hồ, chị trả thẻ đảng, Lê Duẩn (hoặc Hồ) chấp thuận sau khi dụ dỗ mãi để chị ở lại không được, ra điều kiện chị phải ngậm miệng trong 10 năm sau đó. Đến khi chết chị Dương quỳnh Hoa còn ân hận là đã đi theo CS. Cùng trường hợp với chị Hoa là LS Nguyễn hữu Thọ, lúc hấp hối Thọ trối cho các con rằng: đời cha có một điều ân hận nhất là đã đi theo CS làm hại đồng bào! Bài đã dài tôi không muốn thuật lại chi tiết nhưng thấy rằng giặc Hồ đã dẫn dắt cả dân tộc ta vào chỗ sai lầm, vào tử huyệt và phản lại quốc gia dân tộc chỉ bởi một lý do duy nhất là tất cả những điều đó có lợi cho Hồ trước mặt các quan thầy Nga-Tàu để Hồ lên đến tuyệt đỉnh danh vọng và hưởng thụ gái gẩm, quyền hành, danh tiếng... Nhưng rốt cuộc, Hồ hưởng được những gì? Hồ chỉ gái, y hưởng rất khá món gái, cả trăm đứa con gái trong tay y. Nhưng ngoài gái gẩm, y còn được gì? Chị bảo y không có gia tài cơ nghiệp! Nhưng hỏi chị, y nói y không vợ không con, y phủ nhận mọi đứa con gái y đã “chơi” ngay cả Nông thị Xuân ở 66 hàng Bông nhuộm cũng là gái gọi, Huỳnh thị Thanh Xuân, cháu ngoan quàng khăn đỏ và một trăm đứa con gái khác tuổi nhỏ như thế thì đó là bác cho hạt giống Đỏ để đưa về Nam, chứ có gì là thiệt hại đâu! Suốt đời bác hi sinh cho dân tộc, cha mẹ anh chị em đã chết cả, bác tàng trữ tiền bạc rồi giao cho ai? Đó là lý do Hồ không cần tàng trữ. Đời sống của Hồ, mọi thứ đã quá đủ, quân hầu đầy tớ chật nhà, hỏi chị Hồ còn cần cái gì? Cả nước ăn cơm độn bobo, khoai sắn, vài quả cà muối mặn, gắp rau muống luộc chứ Hồ và bọn chóp bu gạo tám nào ngon nhất Bắc Việt, chim, gà, heo, bò, dê, các thứ trái quý hiếm, hàng ngày một chiếc xe bít bùng chở đi phân phối mọi Phủ mọi Nha đầu não ở Hà Nội. Nhiều người dân Hà Nội biết chuyện này!

Page 21: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Như vậy Hồ gặt hái được cái gì trong cuộc gọi là “cách miệng” y và thủ hạ vẫn rêu rao? Ngoài gái gẩm và miếng ăn, quyền giết người, hét ra lửa, tàn ác như beo như sói, y chẳng còn được cái gì khác! Không, y còn giữ được 16 chữ vàng để đời: “Việt gian bán nước, giết mười triệu người, lưu manh tận cùng, dâng nước cho Tàu!” Đó là kết quả 79 năm sống của Hồ tặc! Người dân Bắc Việt khi xưa, bị Vẹm đè nén, áp bức hơn thời Tây thực dân rất nhiều, bị cướp của mỗi khi bọn vgcs coi như nhà có máu mặt, bị cấm đoán từ giết một con gà của nhà nuôi (phải để cho chúng ăn), bị cấm đi lễ chùa, nhà thờ, cấm duy tâm từ câu nói, cấm mặc quần áo lành lặn, cấm buôn bán, cấm đi học nhưng ông già Hữu Loan (tác giả bài thơ Mầu tím hoa sim) viết rằng đã một thời ở Bắc Việt, trước mỗi câu nói đều phải có câu:”Cám ơn bác, cám ơn đảng” giáo đầu. Hồ không từ một ai nếu kẻ đó có thể là cản trở bước đuờng lên ngôi chủ tể nước Việt của y. Chị ruột y là Nguyễn thị Thanh, thời hàn vi có nhau, chia với Hồ từng bát cơm, từng củ khoai, rồi mẹ chết, cha là Nguyễn sinh Sắc bị mất chức quan huyện, thay vì bị đánh trăm hèo vì say rượu giết người. Thị Thanh hí hửng đến thăm em, nay đã là Chủ tịch nước, ngồi vắt chân chữ ngũ trong Bắc bộ phủ, chị Nguyễn thị Thanh đến bảo lính gác vào báo chủ tịch có chị là Nguyễn thị Thanh tới thăm. Y cho lính ra bảo hãy đợi vì Chủ tịch còn đang bận việc nước. Chờ mấy ngày liền Hồ cũng không thấy gọi vào, Nguyễn thị Thanh phẫn uất khóc lóc, chửi thầm thằng em bất nghĩa rồi lủi thủi trở về quê. Dân chúng đồn chị này chết lúc nào Hồ cũng không hay.

Tình chị em của “bậc vĩ nhân” của chị Dương thu Hương là như thế! Con chó có lẽ nó còn biết con kia cùng mẹ với nó, nó chơi đùa mà không cắn, khác hẳn với những con chó lạ khác!

Nhân tiện, cũng suy luận rằng, Nguyễn sinh Sắc nát rượu. Say đến nỗi nổi hung giết người không phải là chuyện đùa. Người cha nát rượu như thế, ăn nằm với vợ khi đang say, vợ có thai, ảnh hưởng đến thai nhi không ít. Hồ có lẽ hiếu sát, cuồng dâm, điên cuồng như thế là vì cha y say rượu khi có y. Mong các nhà khoa học, Di truyền học, Bệnh lý học nghiên cứu và tìm ra lý do Hồ là con quỷ ghê tởm đến thế! Cùng trường hợp đó với người anh trai của Hồ là Nguyễn sinh Khiêm, Hồ không đoái hoài. Hồ chỉ sợ anh và chị lỡ miệng nói ra những cái bê bối của Hồ khi còn bé thì mất “linh” với dân Việt nên Hồ rất kỵ phải nói đến hai người này. Hồ tập huấn và ra lệnh bọn cán bộ bợ đỡ, ngu đần phải bốc Hồ lên đến mây xanh, “tất cả vì sự nghiệp bác Hồ”câu nói cửa miệng mọi người để tránh lôi thôi, làm khó, cái rắm của bác cũng phải khen thơm nên rất kỵ những người nói ra sự thực. Chính bởi vậy mà chị Dương thu Hương thù ghét những người chống vgcs ở hải ngoại bởi vì họ nói sự thật!

Cũng nói thêm, thằng em út Hồ là Nguyễn sinh Xin, mẹ chết phải đi bú rình hàng xóm, đã chết yểu. Cái tên đặt đã nói lên tình trạng gia đình cha mẹ Hồ túng đói như thế nào! Cũng từ cái tâm lý thua kém đó, Hồ rất ghét những kẻ giỏi hơn mình, học hành nhiều hơn mình, tài ba đức độ hơn mình nên trong suốt 70-80 năm cai trị, y chỉ dùng bọn ngu dốt, đĩ điếm, lưu manh, gang đảng xã hội đen (coi lại vụ Thái Hà) hợp cùng bọn công an đầu gấu để trị dân, bức hiếp dân, giết dân! Cụ Phan bội Châu, Trần Phú, Lê hồng Phong v.v... là những thí dụ cụ thể. LS Nguyễn mạnh Tường, BS Dương quỳnh Hoa, GS Hoàng xuân Hãn, BS Nguyễn khắc Viện v.v...là những món đồ trang sức cho Hồ, hết xài thì Hồ cũng giết bỏ không thương tiếc (Nguyễn mạnh Tường sau này phản tỉnh, ông cũng bị thất sủng đi dạy học kiếm sống ở Hà Nội. Ông Tường ân hận vô cùng) Hồ luôn giữ quan niệm:”Thà phụ người, hơn để người phụ ta” Hồ ra tay trước, băm nát kẻ thù, bất biết là ai! Bọn quan chức Hà nội nịnh Hồ nên cải táng và xây mộ cho cha mẹ Hồ chứ Hồ không nghĩ tới vấn đề báo hiếu cha mẹ. Chưa ai nghe Hồ đề cập đến cha mẹ y bao giờ nhưng Hồ có đề cập đến ông nội của y là Hồ

Page 22: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

sĩ Tạo. Chính vì thế mà y đổi tên từ họ Nguyễn, Nguyễn sinh Cung, Nguyễn tất Thành sang họ Hồ là Hồ chi Minh. Đầu giây mối nhợ thế này. Chúng ta đã biết Hồ chí Minh (tức Nguyễn ái Quốc, Lý Thuỵ, Line (tên Nga), Nguyễn tất Thành, Nguyễn sinh Cung, Trần Dân Tiên, T.Lan...) là con của tri huyện Nguyễn sinh Sắc. Vợ Nguyễn sinh Sắc là Hoàng thị Loan, hai người này đẻ ra Hồ chí Minh. Nơi đó là thôn Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Mẹ của Nguyễn sinh Sắc (bà nội của Hồ) trước khi lấy chồng (họ Nguyễn, có phải Nguyễn sinh Huy?) thì đã có chửa (hoang) với Hồ sĩ Tạo. Hồ sĩ Tạo cho thị cái bầu rồi quất ngựa truy phong. Một anh đàn ông họ Nguyễn không biết thị đã có chửa, lấy, rồi đẻ ra Nguyễn sinh Sắc. Như vậy đích thị Hồ sĩ Tạo mới là bố ruột của Nguyễn sinh Sắc, ông nội của Hồ chí Minh. Hồ rất hãnh diện về người ông nội (hoang) của mình nên không ngần ngại đổi từ họ Nguyễn sang họ Hồ vì lý do đó. Nguyễn sinh Sắc là đứa con ngoại hôn. Nhân tiện nhắc đến mồ mả của cha mẹ Hồ, người dân đồn rằng có lần ban đêm dân chúng trong vùng đem cả sọt phân trát lên mồ mả hai ông bà này. Mồ mả của các thủ hạ của Hồ cũng chịu chung số phận. Họ trát cứt lên ráo. Đa số dân nước còn yêu ông Hồ như chị Hương nói sao lại có thái độ tồi tệ vậy? Trát cứt lên mồ mả phải là căm hờn, uất hận lắm lắm chứ! Xin trở lại mấy dòng về cuộc thảm sát Tết Mậu Thân. Chính vì cuộc Tổng công kích này thất bại ê chề, số lính của Hồ bị Quân lực VNCH và quân đội Mỹ giết cả mấy trăm ngàn mà phải rút lui nhục nhã, Hồ không biết phải nói sao với Nga-Tàu khi đã hứa với các quan thầy là thế nào cũng diệt tan được quân miền Nam, chiếm được chính quyền. Hồ cay cú và đau xót quá mang bệnh, kiệt quệ dần, qua năm 1969, ngạ quỷ theo lệnh Diêm vương đòi y xuống trả lời các tội y đã phạm. Cũng có nguồn tin cho rằng vì Hồ không đủ thực phẩm nuôi cả trăm ngàn lính, Hồ phải xua chúng vào tấn công biển người cho quân Mỹ và quân VNCH giết cho vợi đi. Và quả thực, lính của vgcs Hồ đã chết rất nhiều. Nhìn những hình ảnh quay mấy năm trước khi y chết (TV sau này chiếu cho dân chúng coi) y không còn hình tượng như khi xưa, đôi mắt lạc thần, do dâm dục quá độ (thủ hạ lấy lòng dâng nhiều gái trẻ) mà tuổi đã cao, da mặt xám như cái xác chết, ngồi đó mà chẳng có một chút sinh khí của người còn sống, xung quanh y là đám cháu gái ngoan quàng khăn đỏ nhảy múa làm vui. Nhưng Hồ đâu còn thưởng thức gì được nữa! Tết Mậu Thân là một thảm bại nặng nề của Hồ, trái lại là một chiến thắng vẻ vang của QLVNCH và Đồng Minh. Cũng từ tết Mậu Thân mà người miền Nam nhìn rõ hơn dã tâm của Hồ, nhất là người dân Huế. Những tên Vgcs nằm vùng như Nguyễn đắc Xuân, Hoàng phủ ngọc Phan, Hoàng phủ ngọc Tường, v.v..giết người dân vô tội kể hàng nhiều ngàn, dã man như chưa từng bao giờ thấy ở bọn lính Lê Dương Sénégalais rạch mặt và Maroccain của Pháp năm xưa khi đi truy lùng Việt Minh Cộng sản. Những tên vgcs nằm vùng này hành động từ lệnh lạc của Hồ. Tết Mậu Thân sờ sờ ra đó cả thế giới biết mà chị Dương thu Hương không biết, chị vẫn ngoan cố tuyên truyền rằng “ bác” muốn tránh cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn mà không được chỉ vì những đồng chí miền Bắc thì muốn cắm cờ hồng trên khắp hành tinh còn người miền Nam thì cũng hiếu chiến muốn đánh miền Bắc, lấp sông Bến Hải... v.v...Tôi lại xin nhắc lại câu đã nói ở trên: chị chính là kẻ vừa đánh trống vừa ăn cướp! Trí thức không honnête như chị nhưng vẫn dạy dỗ thiên hạ là phải honnête, trí thức đó phải liệt vào hạng nào? Những danh từ dành cho trí thức kiểu đó thì chị Hương đã viết rất nhiều trong bài! Xin đi sang mục khác. Chị Dương thu Hương cũng viết:

Đầy tớ honnête không ăn cắp của chủ. Nhà buôn honnête không bán hàng rởm cho

Page 23: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

khách. Người trí thức honnête thì phải tôn trọng chính bản thân mình, dù thù ghét ai đến đâu cũng không vu cáo cho họ.

Vì lẽ đó, tôi hiểu rằng vấn đề cốt lõi của người trí thức Việt Nam lúc này là vấn đề honnête . Những nhà báo, nhà văn, nhà khoa học sống dưới chế độ cộng sản độc tài không thể honnête vì họ bị trói buộc vào miếng cơm manh áo, bị hăm dọa bởi tù đày và các hình thức hành hạ, các loại đòn cân não. Cần phải cảm thông cho họ.

Nhưng các nhà trí thức Việt lưu vong sống dưới nền Cộng hòa Pháp hoặc châu Âu, thế lực nào khiến họ dùng thủ đoạn vu khống một cách an nhiên như vậy nếu không phải lòng thù hận đã che khuất lương tâm, thứ chuẩn mực “tính trung thực của người cầm bút” đối với họ chỉ là thứ mưa bóng mây, lướt qua vài ba khoảnh khắc và không bao giờ tưới tắm được tâm hồn?

Trong cuốn tiểu thuyết lịch sử “Hồ Quý Ly” của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh có một tình tiết đáng lưu ý. Tướng Trần Khắc Chân, thủ lãnh phe “phục Trần” có yêu cầu nhà viết sử Sử Văn Hoa “… phải viết một cuốn sách vạch ra đủ mọi tội ác, từ cuộc sống tư riêng đến việc triều chính. Phải làm sao biến tên ông ta thành một vết nhơ trong sử sách. Hiện nay có lợi cho chúng ta, sau này cũng có lợi… Ví dụ việc ông ta đầu độc bà công chúa Huy Ninh, việc ông ta có con riêng với lũ kỹ nữ…”

Sử Văn Hoa trả lời “Việc viết sách là việc tâm huyết của kẻ sĩ. Phải điều tra cho tận tường. Không có thật thì không thể nói. Bởi vì vu cáo, kẻ bị hại sẽ không bị gì, mà chính vết nhơ sẽ in lên mặt kẻ sĩ cầm bút”.

Trần Khắc Chân bảo “Ông không nên câu nệ. Để tỏ rõ lòng trung hiếu, để tiêu diệt kẻ thù thì ta có quyền làm tất cả, ngay cả dựng lên sự việc…”

Đối chiếu lại với vụ “đánh gục thần tượng Hồ” xảy ra 19 năm trước, tôi hiểu rằng các nhà trí thức chống cộng ở hải ngoại luôn luôn trung thành với “công thức Trần Khắc Chân”. Để tìm được một Sử Văn Hoa trên địa cầu không phải dễ. Và như thế, trên 600 năm đã trôi qua, lịch sử Việt Nam dường như chẳng nhúc nhích được bao nhiêu, trên phương diện “tính đúng đắn của kẻ sĩ”.

Thưa chị Dương thu Hương,

Tôi rất kính phục chị đã nêu ra những nguyên tắc làm căn bản cho sự thành thật, ngay thẳng, lương thiện (honnête) này. Ước gì nhà cầm quyền Hà Nội lấy đó làm kim chỉ nam cho công chức, nhân viên nhà nước và mọi người để bớt cái thói tham nhũng, thối nát, cửa quyền đi cho dân đỡ khổ chứ không cách chi cứu chế độ Xã nghĩa đã hết thuốc chữa, chờ ngày gần đây vào sáu tấm! Nhưng khổ lắm, “đầy tớ nhân dân” (lời của Hồ) trong các hợp tác xã quốc doanh thì cái tài khéo đầu tiên là ăn cắp của công ti, lớn ăn lớn, nhỏ ăn nhỏ. PMU18, Năm Cam, T2... liên quan đến nhiều ông lớn hàng Bộ trưởng, Thứ trưởng, Tổng bí thư. Rốt cuộc cho chìm xuồng. Nguyễn tiến Dũng vào tù được mấy tháng, sau đó khi anh ta ra về thơ thới hân hoan thì hai ký giả vào nằm thế. Cái trật tự xã hội ấy là của một bậc vĩ nhân (theo chị là ông Hồ) tạo ra ư? Xã hội không có luật pháp, lớn ăn lớn, nhỏ ăn nhỏ, Cảnh sát giao thông lấy hối lộ từ điếu thuốc lá, từ khúc bánh mì của người bán rong thì ông chủ cái xã hội đó nên gọi là gì? Với chị vẫn là bậc vĩ nhân đấy! Nhà buôn bán hàng rởm cho khách như trước đây mỗi con tôm xuất khẩu sang Nhật được cài vào lưng một cái đinh ba để cân cho nặng. Mỗi khi công an khui ra một chuyện bê bối thì có bao thơ trả lời một cách rất hiên ngang, hùng dũng. Chuyện càng lớn thì bao thơ càng dày. Huề! Còn người trí thức phải honnête....chị tự hào là người trí thức nhưng chị phịa tin quân lực VNCH hiếp dâm cán bộ gái vgcs chán rồi xẻo vú và đâm cửa mình? Chị rất khéo khuyên người nhưng không bao giờ biết khuyên mình, dòm lưng người khác nhưng không bao giờ soi gương để thấy cái lưng u một cục bướu to tướng của mình. Cũng y như ông Hồ, cả đời chỉ hút thuốc lá Cẩm Lệ khi ông biểu diễn cho phóng viên

Page 24: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

và đồng bào coi...chơi, nhưng lúc không có ai thì ông hút thuốc Philip Morris, hay cả thuốc phiện để trợ dục. Chị bảo những Nhà báo, Nhà Văn......không thể honnête vì sống dưới chế độ độc tài.... Có hai điều cần hỏi chị ở đây:

a- Ông Hồ đứng đầu cái chính phủ độc tài toàn trị đó, bịt miệng tất cả nhà văn, nhà báo, là đệ tứ quyền quan trọng ngang với quyền Hành, Lập, Tư Pháp của một nước Dân chủ.. Vậy ông là một nhà độc tài toàn trị, coi dân như cỏ rác. Ông có xứng đáng danh hiệu một vĩ nhân để toàn dân tôn thờ hay không? b- Dưới áp lực, dưới chế độ độc tài toàn trị, Nhà văn, Nhà thơ, Nhà báo phải “biết điều” đi sát lề bên phải để sống (ai cũng sợ chết) nhưng có cần phải nịnh gẫy lưỡi như Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế lan Viên, Bùi ngọc Tấn hay Hữu Loan và cả trăm, cả nghìn anh chị khác không? Ai bắt ông Hữu Loan phải ca:”Bác là thần, là thánh, là đèn trời...” Ai bắt Xuân Diệu phải giả vờ khóc? Chắc những điều đó không phải để giữ mạng sống nhưng là để được thêm vài lạng thịt heo! Từ Nguyễn Tuân trở xuống, những cái lưng đã quen còng, những đầu gối đã quen lết nên phải nói:”Sở dĩ tôi còn sống đến ngày nay là vì tôi biết sợ (chết).” (một nhà cai trị đối với thần dân phải sợ hãi như vậy, có đáng được gọi là “bậc vĩ nhân” không? Hay phải gọi bằng gì?)

Thời Pháp thực dân hút máu hút mủ, chính sách ngu dân, Nguyễn Tuân viết được Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua....Thời Độc lập tự do hạnh phúc của Hồ, ông ta chỉ ca tụng vài tô phở bò, phở phải là phở bò và nhái Kiều vài câu thơ rõ khéo: Bắt cởi trần phải cởi trần Cho may-ô mới được (một) phần may-ô! Các Nhà văn, nhà thơ, nhà báo khác cũng sợ sệt, co rút người lại như thế, đó là chính sách của vương đạo đấy ư?

Nếu không thì lại bị xe đâm giết chết hết cả vợ chồng con cái như nhà thơ Quang Vũ, Minh Xuân! Hay chính trị như Đinh bá Thi Đại sứ LHQ, Võ văn Kiệt, Thủ tướng v.v... (Nguyễn Tuân nói về cuộc di cư:”Cái cột đèn đi được nó cũng đi” không một ai muốn ở dưới chế độ khắc nghiệt dã man của Hồ) Với những sáng tác nhảm nhí, tầm ruồng cuối đời, ông Nguyễn Tuân còn xứng đáng gọi là Nhà Văn của nước Việt Nam không? Ai làm ông ta ra như thế nếu không phải Hồ? Ngay như chị, chị cũng phải rời bỏ quê hương. Vì sao thế? Thi nghiệp của Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế lan Viên...sau 1945 là những gì? Hay chỉ là những câu thơ nâng bi, đội đĩa, khen bác cái rắm cũng thơm, khen Mao cứt ỉa không thối? Chị là Nhà văn, người đi tiên phong của quần chúng, chị nhìn những rác rến hôi thối ấy mà chị vẫn khen được, ngửi được thì tôi phải phục chị sát đất, chị nhìn thấy những đống xương cao như núi, vũng máu như biển sau lưng Hồ mà chị vẫn hoan hô Hồ được. Có lẽ chị vào cái loại”Thực bất tri kỳ vị!” Đồ ăn ngon dở, thơm thối không phân biệt vì đã đánh mất khứu giác và vị giác! Chị viết các nhà trí thức chống Cộng ở hải ngoại luôn luôn trung thành với công thức Trần khắc Chân (tức cái gì của vgcs cũng là xấu, phải trát c. lên mặt chúng dù chúng làm đúng). Mở mồm ra là chị khẳng định như thế, bởi trong đầu chị đã có tiên kiến (idée fixe, obsession) bất di bất dịch.

Page 25: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Trí thức hay hơn người ít học là phải nhìn vào sự việc để đánh giá. Sự việc cụ thể bao gồm sự thật và lẽ phải của nó. Chị hãy nêu ra một trường hợp cụ thể ai đó chống Cộng ở hải ngoại có cái tâm thức đó. Nói bâng quơ như chị thường nói (thành quen miệng) người đọc coi như không đáng để ý, như bù nhìn đấm vào bị bông!

Ngay trong bài này, chị có thể nêu ra những điều tôi sai sót hoặc đổ vấy cái xấu cho ông Hồ, cho chế độ của vgcs. Tôi sẵn lòng sửa sai và nhận lỗi nếu đúng như thế. Nhưng nếu tôi nói đúng, có lẽ phải, có chứng liệu, bạn đọc đồng ý, chị phải công nhận chứ?

Trường Chinh hạ lệnh như sau: “Tuyệt mật, chỉ được phổ biến miệng. Đường lối chính trị của chúng ta là đi theoTrungQuốc” Chị nhắc đến anh Tổng Bí thư Việt gian này làm tôi lợm giọng. Anh ta đã ra lệnh bỏ chữ quốc ngữ học chữ Tàu, bỏ thuốc Tây theo thuốc Tàu. Anh ta là một thằng Việt gian hơn hết thảy bọn Việt gian CS. Người Hành Thiện, Nam Định, anh ta đấu tố (trong CCRĐ) giết cha mẹ khi hai ông bà già chỉ có mấy sào ruộng làm kế nuôi thân. Trường Chinh Đặng xuân Khu là một tên bất hiếu bất mục, một thằng bán nước cho Tàu không văn tự. Người Việt Nam, những người hiểu biết và yêu nước chỉ muốn kết luận một câu như thế!

Nhưng thằng Việt gian ấy lại lãnh đạo cả nước Việt Nam, đó mới là cái khốn nạn lớn nhất cho người dân và cho đất nước! Chị lại viết:

Hồ, ông vua xứ nhỏ, thủ lĩnh một quốc gia nghèo khổ mà tài sản không có gì hơn một sự bướng bỉnh có tính định mệnh, cương quyết không chấp nhận đồng hóa thành một quận huyện hay một tỉnh nhỏ nằm trong đế chế Trung Hoa.

Chị DTH, chị viết câu này khi chị bỏ quên cái thần kinh xấu hổ trên sàn nhà nên con chó đớp chạy mất rồi.

Ông Hồ bướng bỉnh thì ông ta không nể sợ bọn cố vấn Tàu La quý Ba như ông Bùi Tín viết trong sách của ông ta. Cương quyết không chấp nhận ...sao lại nhờ vả, xin viện trợ, lậy lục Tàu, bợ đỡ, dùng tướng Tàu (Điện Biên phủ) sao lại bảo Phạm văn Đồng ký Công hàm năm 1958 dâng Hoàng, Trường sa cho Chu ân Lai? Vụ bauxite Tây Nguyên Tàu đang đưa người sang, rồi chị sẽ nhìn thấy có thành một tỉnh nhỏ hay không. Có lẽ chị coi người Việt trong nước và hải ngoại toàn là những đứa con nít hết thảy nên mới múa bút một cách ngu xuẩn, đần độn như thế!

Những gì ngày nay Tàu xâm chiếm nước ta nó đã có cái nhân (noyau) từ ngày Hồ còn ở bên Tàu chưa về nước. Hồ chơi dao thì có ngày phải đứt tay chị à! Nhưng cái khổ, cái nhục thì dân tộc chịu ngàn năm này qua ngàn năm khác nếu không có một bậc anh hùng như vua Quang Trung, vua Lê Lợi đứng lên đánh đuổi quân Tàu. Còn thằng Việt gian Hồ thì đã tan xác trong lăng Ba đình, y có chịu chút khổ sở nào của dân tộc đâu? Quân đội nhân dân của Hồ, đế quốc nào cũng đánh thắng nhưng nay một đế quốc khác tới xâm lăng thì im re, cúi đầu chịu nhục! Đúng là bọn lính Nguỵ ăn hại!

Nói thực với chị, dân chúng bảo nhau rằng, nhờ có Mỹ đi đêm với Tàu để đổi chác quyền lợi, bỏ rơi VNCH chứ cả như vgcs Bắc Việt dễ gì ăn được VNCH? Nhưng bọn Hà Nội thì khua môi múa mỏ làm như bách chiến bách thắng, hợm hĩnh khinh người. Tàu xâm lăng rồi đó sao còn ngồi câm như hến cả lũ với nhau vậy?

Page 26: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Dân chúng cũng nói dù có làm nô lệ cho thằng Pháp, thằng Mỹ cũng còn hơn cho thằng Tàu mưu kế, thâm hiểm! Chị thử hỏi cha mẹ, chú bác chị đã sống dưới thời Pháp thuộc (80 năm) và Nhật thuộc (dăm năm) xem họ có nói là hai chế độ ấy sung sướng gấp trăm lần hơn sống dưới chế độ Hồ tặc! Chị nói Hồ bướng bỉnh...chị thần thánh hoá y quá đáng. Nếu y bướng bỉnh đủ như TT Lý quang Diệu với Mao thì dân Việt ngày nay lợi tức đồng niên không dưới 30,000 USD/năm; nếu y bướng bỉnh đủ như Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật Bản, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, Mỹ chiếm đóng lãnh thổ Nhật vậy mà Mỹ phải giúp cho Nhật, chỉ trong 15 năm, trở thành cường quốc kỹ nghệ đứng thứ hai toàn cầu. Theo chị, Hồ thông minh, khôn ngoan và bướng bỉnh (không chịu sự cai trị của ngoại bang) nhưng nay Hoàng, Trường Sa thì mất, Tây Nguyên Tàu chiếm đóng, người Tàu tung hoành trong nước VN như chỗ không người, cả một đám gọi là lãnh đạo, tay sai của Hồ rất “cáy” nguời Tàu như ngán ông cố nội; cả nước giống như một bãi rác khổng lồ. Như vậy những tội lỗi ấy từ ai mà ra đây? Có thể chị lại bù lu bù loa: “Tại cấp dưới làm bậy đó.” Hồ có cả một Nội các, một Bộ Tham mưu, ai dám sơ sẩy để y nổi giận và chém đầu?

Một tỉnh nhỏ nằm trong đế chế Trung hoa chỉ còn là ngày giờ. Chị chống mắt coi!

Để chị thấy được một ít sự thật về “bậc vĩ nhân” của chị, chỉ là 1/1000 1/1.000.000 mời chị đọc mấy bài sau đây. (còn tiếp)

GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Bài đọc thêm (trích Hoa Tự Do)

Tôi mất trinh năm 15 tuổi khi tôi gặp bác Hồ

Huỳnh Thị Thanh Xuân

Năm 1964, tôi được cơ quan và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam cho ra miền Bắc học văn hóa, đi bộ trên 3 tháng vượt Trường Sơn ra Hà Nội. Trường hành chính gần cầu Giấy, Hà Nội là nơi đón tiếp chúng tôi đầu tiên. Năm đó tôi mới 15 tuổi. Bởi vì sống trong vùng tạm chiếm của Mỹ - Diệm nên hiểu biết của tôi về Bác Hồ rất chi là ít ỏi. Tôi đã sớm giác ngộ cách mạng, đã tham gia làm giao liên hợp pháp cho Thành ủy, Biệt động thành Đà Nẵng và Huyện ủy Điện Bàn, Đại Lộc. Cho đến khi lên chiến khu, tôi được ba tôi và các chú trong cơ quan dạy bảo thêm về tiểu sử của "Bác Hồ" - nhà ái quốc vĩ đại của dân tộc ta.Phải lúc bấy giờ "Bác" như là thần thánh trong đầu tôi .Trước khi tôi ra miền Bắc, ba mẹ tôi ôm tôi ngồi trên chõng tre căn dặn: "Con ơi, ra đến miền Bắc nếu được gặp Bác Hồ, con nói ba mẹ và gia đình mình cũng như các cô chú trong cơ quan gởi lời thăm sức khỏe của Bác. Con phải cố gắng học thật tốt để sau này về phụng sự quê hương nghe con". Lúc đó tôi chỉ biết im lặng.

Thật là vinh dự biết bao cho bản thân, gia đình và quê hương chúng tôi, tôi có tên trong danh sách gặp Bác Hồ. Đó là lúc 17 giờ ngày 30-8-1964. Sau khi ăn cơm chiều về có lệnh tập trung, bác Tố- Hữu - người phụ trách chung - nói: "Các cháu có danh sách sau đây ở lại cùng với anh Hanh phụ trách đội thiếu niên tiền phong". Bác Hữu đọc: "... Lập, Lộc, Dung (con bác Nguyễn Hữu Thọ), Đệ, Hòa (Khánh Hòa), Độ, Đâu và Thanh, Kiến (QNĐN)". Bác Hữu nói: "Các cháu chuẩn bị tư trang, sau 20 phút tập trung lên xe và được đi gặp Bác Hồ". Nghe vậy, tất cả chúng tôi có tên trong danh sách reo ầm cả lên làm vang dội cả phòng. Trong lòng ai nấy đều phấn khởi chạy về phòng thay áo quần, quàng khăn đỏ, chải

Page 27: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

đầu tóc gọn gàng rồi chạy xuống cầu thang (lúc đó chúng tôi ở tầng 3 nhà A1 của Trường hành chính Hà Nội). Xuống khỏi cầu thang chúng tôi thấy có 4 xe đậu trước cửa, 2 xe Vônga - 1 xe màu đen, 1 xe màu cà phê sữa - và 2 xe com măng ca màu rêu. Tôi nhanh chân nhảy lên chiếc xe Vônga ở gần cùng với Ba Đen và anh Hanh phụ trách. Đoàn chúng tôi gồm 16 người lên xe đầy đủ. Chiếc xe từ từ lăn bánh rẽ tay trái đến cầu Giấy đi thẳng đường đê Bưởi rồi rẽ phải vào đường Hoàng Hoa Thám, đến đường Hùng Vương chạy từ từ và dừng lại. Một chú công an mở cổng và đoàn chúng tôi đi bộ vào dọc theo con đường rải đá sỏi nhỏ, hai bên trồng nhiều cây cảnh đều và gọn đẹp. Gần đến nhà khách, chúng tôi thấy xuất hiện ông già mặc bộ đồ kaki màu xám với đôi dép cao su đen đang từ từ đi ra nở nụ cười phúc hậu. Bỗng anh Hanh và tất cả chúng tôi reo lên: "Bác Hồ!" rồi thi nhau chạy đến ôm chầm lấy Bác. Chúng tôi tranh nhau ôm chặt lấy Bác, còn Bác thì xoa đầu và vỗ lưng chúng tôi rồi Bác dẫn chúng tôi cùng đi vào nhà và bước lên cầu thang tầng 2. Chúng tôi ríu rít như đàn chim được tụ về tổ ấm. Lên khỏi cầu thang rẽ tay phải đi vào phòng họp mặt, lúc đó chúng tôi và các chú, các bác đi cùng với Bác ngồi vào từng ghế quây quần xung quanh chiếc bàn lớn. Câu đầu tiên Bác nói: "Dân chố gộ có mặt đây không?" (ý nói vui người dân QNĐN). Bạn Dung ngồi gần chọc nách và nói "có ạ". Bác nói tiếp: "Dân dưa cải mắm cái có không?" (ý nói chỉ người địa phương Quảng Ngãi), tất cả chỉ qua phía Ba Đen (người dân tộc Tây nguyên) Ba-Đen nói "có ạ". Bác lại nói: "Dân đầu gấu (đầu gối chân) có không?" (ý nói người quê ở Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận). Tất cả chúng tôi rất khó chiụ với sự giả tiếng và hỏi một cách kỳ cục của Bác ,Sau đó Bác chỉ qua phía bạn Hòa., rồi Bác nói tiếp: "Các cháu ăn mích chính ích ích thôi nghen" (ý nói quê ở Nam bộ). Tất cả lại chúng tôi lại không biết Bác nói gì nữa, sao bác dễu dỡ qúa vậy , những gì tôi học được về Bác khi còn ở miền nam hoàn toàn ngược lại khi tôi gặp con ngươì bác thật sự.

Bác nói: "Hôm nay là ngày vui mà Bác cháu chúng ta gặp nhau như vậy chúng ta lại hát bài Kết đoàn". Bác vẫy tay bắt nhịp cùng chúng tôi, hội trường lúc này ngày càng tươi vui náo nhiệt. "Kết đoàn chúng ta là sức mạnh, kết đoàn chúng ta là sắt gang...". Khi mà chúng tôi say sưa hát thì bác đi bóp vai những đứa con gaí, tới chổ tôi thì bác không những xoa lưng tôi mà bac còn để cho bàn tay đi xuống hai bờ mông của tôi xoa xoa bóp bóp làm cho tôi thâý rất là khó chịu, nhưng tôi không dám lên tiếng đành đứng yên chiụ thôi . Trước mắt chúng tôi là bánh cức chó và kẹo bột cám ngào đường và nước chè xanh mà Bác cho dọn sẵn, Bác nói: "Mời các cháu cùng ăn với các bác cho vui". Nói xong, Bác giới thiệu với chúng tôi: "Bác là Hồ Chí Minh, còn đây là bác Phạm Văn Đồng, người dưa cải đấy! Và đây là bác Trường Chinh, bác Võ Nguyên Giáp, bác Lê Thanh Nghị, các bác ở Bộ Chính trị hôm nay cũng có mặt với các cháu". Bác đang nói thì thấy một ông già từ từ đi vào, miệng cười, vừa đi vừa vỗ tay, Bác Hồ giới thiệu luôn: "Đây là bác Tôn của các cháu", cả phòng lại vỗ tay một lần nữa. Bác đi đến từng người trong chúng tôi và ôm hôn mỗi người một cái. Đến lượt tôi được Bác hôn vào môi tôi một cách say đắm lưỡi của bác còn thò vào miệng tôi ngoáy ngoáy, ngay lập tức tôi nhổm dậy và né khuôn mặt tôi qua một bên. Lúc này tôi muốn nói về tình cảm gia đình tôi, quê hương tôi với Bác nhưng bàn tay của bác không chiụ dừng lại sau bờ mông của tôi , còn tôi thì nghẹn ngào và mắc cỡ rôì Bác lướt qua bạn bên cạnh. Tự dưng tôi chảy nước mắt, tôi thấy Bác Hồ này có gì kỳ cục qúa không giống như bác hồ mà chúng tôi học được trong miền nam .. Bác nói: "Bây giờ có cháu nào đứng lên hát cho các chú và các bác ở đây nghe một bài nào?". Lúc này các bạn nhìn lẫn nhau vì đột ngột quá và thấy mắc cỡ không ai chuẩn bị kịp. Sau đó, anh Hanh chỉ Dung hát một bài. Bạn Dung hát: "Ngày con mới ra miền Bắc con còn bé xíu như là cái hạt tiêu...", hát xong Dung nhận được một tràng vỗ tay khích lệ. Đến bạn Hòa mạnh dạn đứng lên hát bài: "Vui họp mặt. Từ ngàn phương về đây cùng nhau đoàn kết cùng đi tới tương lai...", lại một tràng vỗ tay khích lệ nữa vang lên. Sau đó Bác nói: "Bác đại diện các chú ở đây căn dặn các cháu mấy điều. Bác biết các cháu ngồi đây là ở khắp các địa phương của miền Nam, Bác muốn gặp tất cả các cháu cũng như gia đình của các cháu và toàn thể đồng bào miền Nam song điều kiện chưa cho phép, đất nước đang bị chia cắt nhưng các cháu tin tưởng một ngày không xa Tổ quốc ta được thống nhất, gia đình chúng ta được sum họp, Bác sẽ có điều kiện đi thăm hỏi. Các cháu viết thư hoặc nhắn tin cho gia đình là Bác và các chú ở đây gửi lời thăm gia đình và bạn bè

Page 28: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

các cháu ở miền Nam". Một tràng vỗ tay nữa lại vang lên trong không khí trang nghiêm và ấm cúng. Bác Hồ nói tiếp: "Các cháu đã ra đến miền Bắc xã hội chủ nghĩa rồi đấy. Bác mong các cháu ngoan, học giỏi để xứng đáng là cháu ngoan của Bác. Các cháu là những " hạt giống đỏ " của đồng bào miền Nam gửi ra đây học tập cho nên phải làm sao cho xứng đáng với lòng mong mỏi đó. Bác chúc các cháu ngoan, khỏe, vui và học tập thật giỏi" Nói xong, Bác Hồ quay qua bên cạnh hỏi: "Các chú có ý kiến chi không?" (ý hỏi ý kiến các bác trong Bộ Chính trị có mặt lúc đó). Các bác đều không nói thêm và tán thành ý kiến với Bác. Bác nói tiếp: "Bây giờ các cháu xuống dưới xem phim". Chúng tôi đứng lên và đi xuống với Bác, bạn thì đi cạnh bác Tôn, bạn thì đi cạnh bác Đồng, bác Duẩn, bác Chinh, bác Giáp, bác Nghị...

Vào phòng chiếu phim ở tầng 1, Bác chiêu đãi bộ phim thiếu nhi miền Nam đánh Mỹ (phim hoạt hình). Lúc đó tự nhiên tôi thấy vinh dự đến lạ kỳ, một niềm vui khó tả, Bác Hồ ngồi cạnh tôi bac ôm chặc tôi , một tay choàng qua vai tôi và xoa xoa lên ngực tôi bộ ngực mơí lớn của một cô gái miền nam . Khi đèn phòng bật sáng Bác hỏi về gia đình tôi và cuộc hành trình của tôi đi bộ vượt Trường Sơn hơn 3 tháng như thế nào kể cho Bác nghe. Bác xoa đầu và hôn lên trán tôi hai cái rất lâu, tôi nhớ rất kỹ, tôi kể sơ về hoạt động giao liên của tôi cho Bác nghe và nhớ đến lời căn dặn của ba mẹ tôi cùng các chú trong cơ quan, ba tôi ở chiến khu Đại Lộc QNĐN thế nào. Ngồi một lúc, Bác đi qua bên con Hoa, Con Lan và tôi thâý bàn tay của bác cũng không bao giờ chịu làm biếng . Đêm hôm đó tôi được một chị thư ký của bác noí nhỏ cho tôi biết là tôi hân hạnh được bác muốn cho gặp riêng bác, có những chuyện bác muốn hỏi tôi nhưng vì sáng nay đông qúa bác không tiện. Khi tôi cùng Chị Nhàng đi tơí chổ Bác ở thì tôi được Chị Nhàng dẫn đi tắm rữa sạch sẽ và chị nhàng nhìn tôi trong đôi mắt u buồn và tôị nghiệp .Tôi được chị Nhàng dẫn đi qua môt. hàng lang, và tơí phòng ngủ của bác, chị Nhàng gõ cữa ba tiếng cánh cửa mở ra, Chị Nhàng bảo tôi đi vào và chị xoay lưng bỏ đi. Khi tôi vào lòng Bác ôm chầm lấy tôi hôn môi tôi , hai tay bác xoa nắn khắp người tôi, Bác bóp hai bờ ngực nhỏ của tôi, bác bóp mông tôi bác bồng tôi lên thiều thào vào trong tai tôi:

- Để bác cấy hạt giống đỏ cho cháu, cháu mang về miền nam cho bác nhé.

Bác bồng tôi lên gường hai tay bác đè tôi ra và lột áo quần tôi, Bác như một con cop đói mồi, sau một hôì kháng cự tôi biết mình không thể nào làm gì hơn nên đành năm xui tay... Hai hàng lệ một cô gái miền nam vừa tròng 15 tuổi đã bị bác cướp đi mất cái trong trắng. Những đêm sau mấy đứa con gái khác cũng được dẫn đi như tôi, tôi biết là chuyện gì sẽ xảy ra với chúng, nhưng chúng tôi không ai dám noí vơí ai lời nào. Và qua cái chết của con Lành và con Hoa thì những ngày sau đó chúng tôi sống trong hoang mang và sợ sệt không biết là khi nào tới phiên của mình. Cho đến khi thống nhất nước nhà, ba mẹ tôi không còn nữa, đã hy sinh cho độc lập dân tộc song họ hàng tôi vẫn vui lòng bởi vì tôi đã thay mặt gia đình và các cô chú trong cơ quan cũng như bạn bè tôi được vinh dự gặp Bác Hồ. Nhưng có ai biết được rằng sau cái gọi là vinh danh gặp bác hồ là chuyện gì xảy ra đâu . Kể cã chồng tôi khi hỏi tơí trinh tiêt' của tôi, tôi cũng không dám nói vì anh ấy là một đảng viên cao cấp là một người lảnh đạo của tỉnh QNDN. Tôi chỉ nói là khi đi công tác tôi bị bọn ngụy quân bắt tôi và hảm hiếp tôi, chứ làm sao tôi dám noí tôi bị hảm hiếp lúc mơí 15 tuôỉ và bị hảm hiếp ngay phủ chủ tịch và chính là "Bác hồ" hảm hiếp tôi cho chồng tôi nghe. Bây giờ ngồi đây tự điểm mặt lại trong số chúng tôi được vinh dự gặp Bác Hồ hơn 40 năm trước đây, chúng tôi đều trưởng thành, ngôì ngậm nguì nhớ laị những đứa bỏ xác laị trong phủ chủ tịch và không bao giờ về lại được miền nam. Tự nghĩ lại, chúng tôi thấy rất thấm thía lời Bác Hồ đã dạy: "Bác sẽ cấy những hạt giống đỏ của của bác cho đồng bào miền Nam". Quãng Nam-Đà nẵng

Page 29: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Ngày mùng 2 thánh 9 năm 2005 Huỳnh Thị Thanh Xuân

Ngư trường bị phong tỏa, tàu cá nằm bờ Nằm bờ trong mùa cá

Khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 7 hằng năm là chính vụ cá của ngư dân. Nhưng hiện nay, hàng trăm tàu cá miền Trung đang phải nằm im, vì ngoài khơi bị phong toả.

Theo ghi nhận, hàng trăm tàu cá ở các tỉnh từ Quảng Ngãi, Bình Định đến Đà Nẵng đã neo đậu, ken cứng ven đôi bờ sông Hàn, âu thuyền Thọ Quang, Đà Nẵng không dám ra khơi vì lo lắng trước thông tin Trung Quốc cấm đánh bắt cá có thời hạn ở khu vực biển Đông.

Sợ tàu lạ hơn sợ bão

Chủ tàu kiêm thuyền trưởng tàu ĐNa-66456 - ông Nguyễn Văn Hoà, phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, Đà Nẵng - than rằng: "Ngay chính vụ cá mà nhiều tàu chúng tôi buộc phải nằm bờ thế này thì chết mất… Thiệt hại từ việc nằm bờ không chỉ thiếu hụt sản lượng, mà còn tiền vay sắm đồ, trả tiền ăn để giữ bạn tàu, chờ đến ngày ra khơi".

Sử Liệu

(trích từ cuốn Sử của Nguyễn văn Chức)

Lý Thuỵ, tức Hồ Chí Minh, đã xâm nhập đuợc Tâm Tâm Xã, nhân danh cách mạng Việt Nam, và nhân danh tinh thần Phạm Hồng Thái bất diệt. Y đã lừa bịp được tổ chức này và được tổ chức này nhiệt tình ủng hộ. Một vài thành viên ưu tú của Tâm Tâm Xã đã được y móc nối gửi sang học tập tại Mạc Tư Khoa, và trở thành cán bộ CS sau này. Năm Ất Sửu (1925), trong mưu đồ nắm trọn quyền lãnh đạo Tâm Tâm Xã, và để kiếm một món tiền thưởng rất lớn của thực dân Pháp, Lý Thụy đã cùng với Lâm Đức Thụ (tức Nguyễn Công Viễn) lập mưu bắt cụ Phan Bội Châu trao cho Pháp. Cụ Phan bị bắt tại Thượng Hải, bị đưa về Hương Cảng, rồi từ đó bị giải về Hải Phòng. Ngày 8 tháng 10 năm Ất Sữu (23/11/1925) , cụ bị đưa ra trước Đại Hội Đồng Đề Hình của Pháp (tại Hải Phòng) và bị lên án tử hình. Sau đó, để trấn an dư luận, toàn quyền Varenne của Pháp đã ra lệnh ân xá, và an trí cụ tại Huế. Cũng năm Ất Sửu (1925), tại Quảng Châu, tổ chức "Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội’ ra đời, gồm phần lớn thành viên của Tâm Tâm Xã. Tổ chức nói trên cũng đã bị Lý Thụy xâm nhập, và trở thành đội ngũ tiền phong của đảng CSVN sau này.

Theo Hoàng Văn Hoan tác giả "Giọt Nước Trong Biển Cả" xuất bản thâp niên 1980, thì suốt thời kỳ hoạt động tại Trung Hoa, Bác đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của cụ Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng VN có uy tín lớn tại Trung Hoa Dân Quốc lúc đó. Bác đây là Lý Thụy, tức Hồ Chí Minh.

Theo tất cả sách vở và tài liệu của Việt Cộng, đặc biệt quyển "Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Con Đường Cách Mạng Việt Nam" của Võ Nguyên Giáp, thì năm Canh Ngọ (tháng 2 năm 1930), Trần Phú sáng lập Việt Nam Cộng Sản Đảng . Vẫn theo Võ Nguyên Giáp, thì tháng 10 năm đó, thi hành lệnh của Mạc Tư Khoa, Bác đã đổi tên Việt Nam Cộng Sản Đảng thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Bác đây là Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh.

Sáu tháng sau, ngày 19/04/1931 Trần Phú, – từng được huấn luyện tại Mạc Tư Khoa, có tầm vóc hơn Hồ Chí Minh, và là lãnh tụ đầu tiên của phong trào CS tại Đông Dương – đã bị Pháp bắt tại Sàigòn. Dư luận lúc đó quả quyết: Nguyễn Ái Quốc đã chủ mưu vụ này, nhằm loại trừ một đối thủ có tầm vóc.

Page 30: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Luật Sư Trần Văn Tuyên (Sàigòn)

(trích Sau bức màn nhung Hạ Nghị viện VNCH, Trần đình Ngọc)

Sau 30-4-1975, cũng như nhiều anh em DB/HNV khác, LS Trần văn Tuyên đi trình diện và vào tù cải tạo. Câu chuyện sau đây về cuộc đời “ba chìm bảy nổi” của anh Tuyên do chính anh tâm sự với một bạn tù cùng buồng với anh, anh này kể lại cho Bút Xuân nghe nhưng xin giữ kín danh tánh, câu chuyện “có thế nào nói lại vậy” không thêm, không bớt như sau: Sau ngày 19-8-1945, do một mối giây liên hệ nào đó như bạn học, bạn đồng chí v.v... anh Trần văn Tuyên lúc đó được tướng Võ nguyên Giáp (CS miền Bắc) cử làm Chánh văn phòng cho ông ta. Giáp bảo với anh Tuyên là để rồi Giáp sẽ thưa với cụ (Hồ) chấp thuận để anh Tuyên có chức vụ và làm việc với Giáp. Có một bữa, ông Hồ, Giáp và một số đông đồng chí, có cả anh Tuyên được mời đi dự một bữa cơm với nông dân, anh Tuyên kể lại như thế ở trong tù. Cơm dọn ra toàn là dưa cà mắm mặn, rau muống luộc, một bữa cơm hoàn toàn đạm bạc của nông dân. Trong lúc chộn rộn người ngồi kẻ đứng, ông Hồ ghé tai Giáp nói nhỏ: “Cỗ bàn ngon lành ở phía sau, các chú xuống đó mà ăn chứ cơm này ăn gì được.” Giáp bảo anh Tuyên loan báo cho anh em.

Thành ra, ngồi ăn cơm với nông dân chỉ là ngồi lấy lệ, biểu diễn, ăn qua quýt, xong lỉnh ra đàng sau để hưởng sơn hào hải vị đã làm sẵn để phục vụ. Sau ngày Việt Cộng tự động giải tán CP Liên hiệp và Quốc Hội số 1, dân quân du kích Việt Cộng, theo lệnh từ ông Hồ và ban tham mưu VC, từ 1946, đã giết hại các người QG, các đảng phái phi CS, và cả người Công Giáo hay bất cứ ai bị nghi ngờ là không đồng chính kiến. Những người này bị ghép vào một tội chung: “Việt gian phản động làm tay sai cho Pháp” . Chỉ chín chữ đó đủ để ăn vài viên đạn vào đầu hoặc như nhà văn Khái Hưng, bỏ vào bao bố trôi sông (Khái Hưng bị giết ở sông Ninh Cơ). Mời đọc thêm: vnfa.com Góp ý với ông Bùi Tín Bài 1-8 Thảo luận với ông Võ văn Kiệt Bài 1-17 cùng tác giả. Báo cáo từ các nơi gửi tới tấp về cho Chính Phủ Viêt cộng để giải quyết các khiếu oan cho dân. Anh Trần Văn Tuyên, với chức vụ Chánh Văn phòng, các công văn đều qua tay anh, anh phân loại rồi mới trình lên cho tướng Giáp để giải quyết. Anh Tuyên đã trình lên tướng Giáp nhiều lần xin tướng Giáp trình “Cụ Hồ” giải quyết ngăn chặn những sự giết chóc bừa bãi ở các xã nhưng anh Tuyên trình đã nhiều lần hồ sơ chất đầy bàn mà không được tướng Giáp lý tới. Lần trình sau cùng, tướng Giáp gọi anh Tuyên vào văn phòng, bảo:

“Mang tiếng làm chính trị mà sao chú mày còn chậm hiểu quá. Việc gì mà phải giải quyết những vụ việc ấy. Đó là chính sách của trên, chú mày hiểu chưa?” Từ đó, ông Tuyên đâm ra sợ và kị Việt Cộng, càng ngày ông càng rõ tâm địa thâm độc gian ác của ông Hồ chí Minh và bọn thủ hạ. Ông ghê tởm những hành động sát nhân mà những người bị giết chỉ là những người QG yêu nước, yêu đồng bào, những người dân hiền lành bị nghi ngờ đối nghịch với chủ nghĩa CS của ông Hồ và đồng bọn. Và cũng chính vì vậy, ông Tuyên đã vượt thoát vào Nam tìm Tự Do sau tháng 7-1954, bỏ lại hai đứa con trai, một anh sau này đậu Kĩ sư canh nông chế độ Việt Cộng.

Page 31: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Sau 30-4-1975, như các DB và NS khác kẹt lại, LS Trần văn Tuyên vào trại tù cải tạo. Khi ông còn ở trong tù, hai anh con trai đã lặn lội đi thăm bố, mang theo quà của tướng Giáp là một cân đường và một cân mứt hạt sen.

 

Hỡi ơi! “Đỉnh cao chó lợn” và “Đá Văng chân lý” của Dương thu Hương!

Bài 4 (tiếp theo)                                              GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc   Sau ba bài, nhiều thân hữu và bạn đọc gọi ĐT hoặc e-mail cho tôi can rằng, Niên trưởng phí thì giờ với cái chị điên khùng ấy làm chi? Mấy cuốn tiểu thuyết của chị ta hơn mười năm trước đâu có ra gì, cuốn Thiên đường mù vì có chống bọn vgcs nên người hải ngoại cho điểm chị ta vậy thôi; giờ này chị ta lại đi khen Hồ tặc, một thằng tội đồ đệ nhất của dân tộc, một tên bán nước, chị ta cố ý chạy tội cho y thì cứ coi như chị ta không có là xong!   Lại cũng có người bảo tôi: Niên trưởng viết bài đó thật đúng, để cho chị DTH và giới nhà văn, nhà báo Việt Nam biết cái phải cái quấy, chị ta muốn múa bút sao cũng được ư? Cho chị ta một bài học để đời!   Mấy người khác phàn nàn rằng sao Niên trưởng xưng hô bằng chị nghe thân mật quá thế? Tôi phải trả lời, trong tiếng Việt sự xưng hô rất khó. Phải tôn trọng tuổi tác (gọi là thiên tước ) đã đành mà còn phải để ý đến nghề nghiệp, địa vị trong xã hội nữa sao cho phù hợp. Tôi không thể gọi là bà, dù tiếng bà để chỉ người sinh ra mẹ hay bố tôi khác với tiếng bà dùng cho chị ta. Tiếng chị tôi kêu đây là anh, chị ở vào hàng cháu với chú, bác. Nếu cha mẹ tôi bắt tôi lấy vợ sớm thì đứa con đầu lòng của tôi cũng cỡ khoảng tuồi tác giả Thiên đường Mù. Cháu gọi tôi bằng cậu ruột, nay vẫn còn sống, cũng đã ở tuổi 80. Tiếng Việt không có je, vous, I, you hoặc ngổ, nị như các tiếng Pháp, Anh, Hoa. Các sinh ngữ này có những nhân xưng đại danh tự  khá thuận tiện.   Một điểm nữa tôi cần nêu, tại sao tôi gọi giặc Hồ bằng những danh từ tồi tệ như vậy? Tôi tôn trọng mọi người vi mình có trọng người thì người mới trọng mình. Nhưng trường hợp những kẻ bán nước cầu vinh, những kẻ chó hùa theo giặc cướp mang đến nỗi nhục ngàn đời cho dân tộc thì tôi phải thẳng thắn loại trừ và vạch mặt chỉ tên cho mọi người thấy.   Hồ là một thằng vgcs giết hơn 10 triệu đồng bào của y, điều này chính chị Dương thu Hương công nhận trong một bài viết nào đó của chị ta (theo Đ/tá Phạm bá Hoa, coi cuối bài sau). Hồ làm đầy tớ cho Nga-Tàu nên gây chiến tranh giết 10 triệu người, nếu không  nước VN cũng được độc lập mà không tốn một giọt máu đồng bào, không tốn công quỹ một viên đạn như tôi đã viết ở các bài trên. Hồ đã quá phí phạm xương máu dân tộc, y cũng đày đoạ dân tộc Việt thua súc vật ngày nay người ta nuôi ở Hoa Kỳ, ở Pháp, ở Anh, ở Nhật...Và quan trọng nhất, Hồ đã bán nước cho Tàu phù! Một ngàn năm nữa nô lệ Tàu là nhìn thấy trước mắt!   Xưa nay người ta gọi tên bán nước là thằng Việt gian bán nước, không ai gọi ông bán nước, gọi tên giặc cướp là thằng giặc, thằng ăn cướp, không ai gọi ông giặc, ông ăn cướp, ngay như điên là thằng điên không ai gọi là ông hay anh điên!

Bài này là một sự vạn bất đắc dĩ vì dù sao cùng là cây viết, tôi luôn luôn trọng kính các cây viết khác, cả những sự suy nghĩ khác (với tôi) của họ nếu họ vẫn đứng trên lập trường dân tộc. Trường hợp chị Dương thu Hương với “Đỉnh cao chói lọi” và “Món ăn Chân lý” tôi phải đem ra mổ xẻ đứng trên lập trường

Page 32: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

dân tộc và thay mặt (mặc nhiên) cho hơn 10 triệu nạn nhân của Hồ tặc là cái thế chẳng đặng đừng! (Các bài I, II, III có trong vietnamexodus.org  Văn học)  Chị Dương thu Hương cũng viết:

Hồ Chí Minh cũng giống như những người anh hùng khởi sự Đinh, Lý, Trần, Lê… chỉ có thể thành công nếu được sự ủng hộ của dân chúng. Tinh thần đoàn kết để đánh đuổi ngoại xâm là thứ được coi như AND Việt Nam. Thứ AND này mang đến cho ông ta một vinh quang đáng kể và cũng mở cánh cửa một hoả ngục bỏng rát để ông ta phải chịu cực hình vì Hồ không may mắn như các vị vua thời trước, áo vải cờ đào, từ rừng thẳm núi cao nhảy lên lưng voi lưng ngựa để bước vào cuộc chiến. Nói cách khác, các anh hùng cứu nước lý lịch trong sạch vì chẳng mảy may liên quan đến kẻ ngoại xâm.

  Chị Thu Hương, chị chớ ví von thằng Hồ dâm tặc với các bậc anh hùng của chúng tôi các đời Đinh, Lê, Lý, Trần bởi làm thế là chị phạm thượng. Thằng giặc già này kiêu ngạo (cái gene đó truyền qua chị). Y gọi Đức Thánh Trần, vị anh hùng dân tộc là bác.  Bác diệt quân Nguyên thanh kiếm bạcTôi dắt năm châu đến đại đồng!  Đại đồng! Thế giới đại đồng! Chị thấy cái tâm thức xung phong làm tên lính tiền phong cho đệ tam CS quốc tế của Hồ chưa? Người VN chết trên 10 triệu chứ chết vài chục triệu nữa cho đế chế CS thì Hồ và bọn tay sai cũng hài lòng (coi lại lời Lê Duẩn bài đọc thêm) miễn chúng có chức Thái Thú vinh thân phì gia là đủ. Đế quốc nào cũng đánh thắng...vì y và bọn thủ hạ việt gian chỉ trông vào sức nhân dân, nhân dân hi sinh cho chúng, đổi mạng cho chúng nên chúng nói mạnh. Nếu những thằng khốn đó phải ra trận thì chúng ắt không dám nói câu đó. Xua chó bụi rậm, xúi trẻ ăn cứt gà, chẳng cứ chúng mà đứa con nít cũng làm được!   Chị rất sai lầm trong đoạn này!   Dân chúng đã ủng hộ Hồ (vì lầm, vì bị phỉnh gạt) từ 19-8-1945, gần như toàn dân Việt. Hồ lừa phỉnh cả nước, bộ Thông tin Tuyên truyền của Trần huy Liệu quá quỷ quyệt gian manh vẽ ra hàng nghìn thứ bánh vẽ để mê hoặc đám dân khờ dại chứ không phải cái AND như chị nói. AND nào lại ôm bom ba càng chết một cách phí mạng như thế? Con chó còn muốn sống! Đa số họ là nông dân ít học, sự hiểu biết rất thô sơ, cán bộ tuyên truyền của Hồ (như chị) nói gì họ nghe nấy và họ đã chết cho Hồ. Ngay cá nhân tôi, nếu không có những lời bố tôi dặn dò kỹ lưỡng thì tôi cũng đã là một cán bộ hay bộ đội của Hồ ngay từ 1945.   Những người chống đối Hồ vì biết rõ manh tâm của Hồ như bố tôi không nhiều và vài vạn người ở trong các đảng phái khác như Việt Nam Quốc dân đảng, VN cách mệnh đồng minh hội, đảng của lãnh tụ Trương tử Anh (bị vgcs thủ tiêu) Đức thầy Huỳnh Phú Sổ (bị Hồ thủ tiêu), giáo chủ đạo Cao đài, Công giáo Tự Vệ của Đức cha Lê hữu Từ và cha Hoàng Quỳnh (chết trong tù vgcs). So với toàn dân thì số người không hợp tác với Hồ vẫn là thiểu số. Chính chị và thế hệ của chị cũng bị lừa, chị nói thế ngày 30-4-75 ở lề đường Sàigòn, không lẽ chị đã quên? Nếu chị chưa quên, chưa lẩm cẩm mà chị viết sách ca tụng thằng điếm thối đã lừa chị, thế thì chị điên thật rồi!

Một thằng điếm gạt một người con gái nào đó vào động đĩ, cô gái này quá đau khổ, ngồi bên vệ đường khóc lóc chửi bố thằng khốn nạn kia. Ngày hôm sau, cô gái này gặp bạn, quên hết đau khổ lại ca tụng thằng điếm thối kia là ân nhân, vĩ nhân của mình! Chị nghe câu chuyện có lọt tai không? Tôi không nghĩ một người tự hào là Nhà văn như chị lại tự mâu thuẫn, điên khùng đến thế!   AND của Việt Nam không phải là AND ôm bom chết cho thằng bán nước, chị hiểu không? Chính Hồ đã lừa dối dân Việt nên mới có những chiến sĩ vào sinh ra tử như thế. Nếu họ biết rõ những quả cảm hi sinh

Page 33: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

ấy chỉ để Hồ leo lên tuyệt đỉnh danh vọng và quyền lực để trù dập chính gia đình họ, chỉ để làm giầu cho bọn chóp bu thối nát và làm lính đánh thuê cho CS quốc tế thì bảo đảm không một ai hi sinh đâu, nhất là hi sinh để Hồ bán nước cho Nga-Tàu.   Đây là sự thực hay huyền thoại để tuyên truyền? - Phan đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai của giặc Pháp khi đánh trận Điện Biên Phủ! - Bế văn Đàn lấy thân mình làm giá súng! - Tô vĩnh Điện lấy thân mình chèn cỗ đại bác khỏi tụt xuống (Điện Biên Phủ). - La văn Cầu tấn công đồn Pháp bị thuơng ở cánh tay, Cầu lấy mã tấu chặt phăng tay mình cho khỏi vướng víu rồi dùng tay trái ôm bộc pha lao vào phá sập đồn.

(Mấy chuyện này nghe như chuyện thần thoại Phù đổng Thiên vương. Dùng tay này chặt tay kia, máu  chẳng chảy, chẳng đau, chẳng xỉu đi, vẫn ôm bộc pha lao vào đồn được. Chắc cũng kiểu Lê văn Tám của Trần huy Liệu!)   Cứ cho rằng những chuyện này là có thật.

Xin hỏi chị: “Hồ dâng đảo, bán đất, dâng nước cho Tàu từ những sự hi sinh cao cả của các chiến sĩ, không phải chỉ bằng đó nhưng là của hàng chục triệu người. Hồ thua cả  loài cẩu trệ mới làm được những việc đó chứ? Hồ còn là con người không hay đã là yêu quỷ?”   Chị bảo: Hồ không may mắn như các vị vua thời trước...Chị không đọc sử nên nghĩ sao viết vậy! Chị làm nhơ danh những Nhà Văn! Như trên tôi đã nói, Hồ là người duy nhất có cái may cướp chính quyền vì người Quốc gia lúc đó chưa chuẩn bị. Tôi thực không hiểu chị suy luận ra sao mà dốt nát, kém cỏi đến vậy. Chị hỏi cả thế giới, cả toàn dân Việt, không một lãnh tụ nào có cái may như Hồ vì toàn dân, sau gần 100 năm Pháp đô hộ, ai ai cũng mong muốn độc lập, kể từ đứa trẻ đã biết suy nghĩ.   Ngoài nhân lực như xung phong vào bộ đội, du kích, thanh niên tiền phong, phụ nữ cứu quốc, cứ ăn cơm nhà rồi đi làm công tác cho Vẹm, biết bao người đã tháo nhẫn, hoa tai, khuyên vàng...tặng Hồ trong Tuần Lễ Vàng. Nếu họ không có vàng thì họ mang chân đèn bằng đồng, chậu thau, mâm đồng, tiền của, ruộng nương, gạo thóc, bất cứ thứ gì có thể...dâng cho Hồ vì họ nghĩ Hồ là một lãnh tụ ngàn năm mới có một người, trời sai xuống để cứu dân thoát vòng nô lệ.   Bà Nguyễn thị Năm (Cát hanh Long mà tôi biết rõ ở Hải Phòng) là một trong hàng trăm ngàn người ủng hộ Hồ hết mình trong Tuần Lễ Vàng nhưng chẳng bao lâu sau đó, Hồ bắn bà ta trong CCRĐ ngay viên đạn đầu!

Mẹ và các chị tôi cũng giúp Hồ bằng cách tháo nhẫn cưới, tháo khuyên, tháo hoa tai đem đến cúng Tuần Lễ Vàng! Vua Lê Lợi, vua Quang Trung, Hai vua Trưng, Đức Trần hưng Đạo...chưa được 1/100 cái may mắn đó!   Ngày mồng 6-3-1945, Nhật đảo chính Pháp nhưng Nhật không nắm chính quyền vì Nhật đang phải đối phó với Đồng Minh ở các mặt trận khác. Vả lại, Nhật không có ý đồ đô hộ nước ta giống như Pháp. Nhật chiếm nước ta vì những mục tiêu chiến lược hơn là chiếm rồi đặt ách đô hộ như Pháp!   Sau đảo chính Nhật là chính phủ Trần trọng Kim với Hoàng đế Bảo đại nhưng tình trạng Nhật-Mỹ đánh nhau, ngày nào phi cơ Mỹ cũng đến bắn và bỏ bom các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng..., sau vụ đói tháng Ba năm Ất Dậu, 1945, Nội các Trần trọng Kim tê liệt, đất nước hầu như vô chính phủ nên ngày 19-8-1945, với lực lượng lớn lao và quyết tâm của toàn dân, Hồ mới cướp được chính quyền dễ dàng.  

Page 34: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Lực lượng Việt Minh lúc đó còn rất ít, chỉ vài tiểu đội, dăm, ba cây súng garant lỗi thời nhưng quần chúng thì mạnh như sóng thần, họ cứ làm theo những lãnh đạo tự họ bầu ra, thỉnh thoảng có một người của Việt Minh. Chính vì thế mà Hồ toạ hưởng kỳ thành. Ngày Tổng khởi nghĩa 19-8-1945 là ngày toàn dân chung tay làm nên lịch sử thì Hồ và Việt Minh cướp trắng! Đó là bước thứ nhất, thành quả cướp giật của “bậc vĩ nhân” của chị!   (Đọc lại những câu chị viết ở trên, những câu lý luận của chị, như nhiều người phê bình, sai bét hết cả bởi chị quen lý luận tào lao không có cơ sở, phi luận lý trong những cuốn tiểu thuyết của chị. Tôi đã nói ngay từ đầu, tôi thích “Những thiên đường mù” nhưng có rất nhiều điều tôi không đồng ý cách lập luận của chị.   May ra chúng hơn “Bóng đè” của Nguyễn hoàng Diệu một chút vì “Bóng đè” chỉ là một chuyện ngắn khiêu dâm và loạn luân. Nó vô giá trị về phương diện văn chương và có những chỗ nó phi lý như người Việt Nam thời nay nghèo như thế nhưng một năm phải có 16 bữa giỗ, bữa giỗ nào tác giả cũng về, cũng nằm trên cái phản đó và thằng cha chồng người Tàu lần nào cũng “hiện về” hiếp con dâu trong khi chồng chị này đang nằm bên cạnh!

Vừa phi lý, vừa dâm loạn, vừa loạn luân, vừa cặn bã, thối tha. Đó là Văn học nghệ thuật của XHCNVN tại Hà Nội của Hồ trong gần 100 năm đấy. Nay lại lòi ra cái “Đỉnh cao chó lợn” và “Đá văng Chân lý” đẹp mặt này! Hết ý! Còn “Chuyện kể năm 2000” của Bùi ngọc Tấn, lừa gạt người đọc hải ngoại, nói là bị cấm phát hành. Người bạn tôi mua một cuốn, trong đó y chỉ khen Hồ tặc gẫy lưỡi và mô tả những cái dã man, đểu cáng, mọi rợ trong nhà tù vgcs Hồ tặc cho người ta sợ. Thực là một bọn vô liêm sỉ, chủ nào tớ nấy!)   Với các Nhà văn, Nhà thơ thế hệ cụ Phan Khôi, tôi không nghĩ các Nhà Văn, Nhà báo, Nhà thơ này chịu lòn trôn Hồ tặc. Cụ Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn hữu Đang, Thuỵ An và nhiều người khác, tóm lại là trong Nhóm Nhân Văn - Giai phẩm họ có tinh thần dân tộc, có lòng yêu nước, có căn cơ sáng tác nhưng Hồ dâm tặc cấm đóan thế thì ai làm gì được? Y dùng cái bao tử để bóp nghẹt mọi tiếng nói, mọi con tim, dùng nhà tù và AK, còng số 8, xà lim, cùm chân, cùm tay, bỏ đói, bỏ khát để bắt văn nghệ sĩ phải làm những gì y muốn. Trần Dần phải tự đâm cổ trong tù nhưng không chết còn Thuỵ An thì lấy cái kim tiêm chọc mù mắt trái:”Cái chế độ tồi tệ này không đáng được nhìn bằng hai mắt”! Và còn rất nhiều cảnh đau khổ hơn mà tôi không thấy được sau cánh cửa Hoả lò!   Vì sao con người chán sống, tự đày đoạ thân xác mình đến thế? Vì họ bị trù dập, bức hiếp, đày đoạ bất công đến không muốn sống chứ con chó khi người ta trói nó làm thịt, nó vẫn muốn sống mà! Chị chưa chịu đau khổ như chị Thuỵ An nên chị chưa có cơ hội muốn tự chọc mù một con mắt như chị Thuỵ An! Vậy thì, giặc Hồ, với đủ thứ bóp nghẹt dân nước,  có giống như một thằng điếm thối không? Xin chị DTH thành thật trả lời trước công luận và đồng bào!   Hồ mở một cánh cửa hoả ngục bỏng rát...ý chị muốn nói y chịu thứ khổ hình gì? Suốt đời y, y chỉ mở cửa cho những đứa con gái chanh cốm vào phòng y để y cho hạt giống Đỏ, chắc nằm trên giường hiếp dâm những đứa con gái ấy (như Huỳnh thị Thanh Xuân, Nông thị Xuân...) là bị bỏng rát! Bỏng rát vì toàn con gái 13, 14, 15 còn trinh, thực ra thanh niên cũng mệt nhoài chứ nói gì y lúc đó đã sáu mấy, bảy mươi, bảy mấy!   Ngoài những “cực hình” vì hiếp dâm gái trinh đó, y không chịu bất cứ thứ khổ sở nào mà chị gọi là bỏng rát. Cách viết như chị nay người ta không muốn đọc vì nó dấm dớ, ngẩn ngơ gì đâu! Văn biền ngẫu của các cụ ta ngày xưa cũng không ngẩn ngơ, vớ vẩn như thế! Chị đọc lại thấy ngay!

Câu cuối trong đoạn này, các anh hùng cứu nước lý lịch trong sạch vì chẳng mảy may liên quan đến kẻ ngoại xâm! Tôi không hiểu câu này chị định diễn tả cái gì? Chắc chị muốn nói rằng Hồ không có ý định

Page 35: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

bán nước cho Pháp, Hồ cho treo cờ đỏ sao vàng ngập đường ngập xá để đón d’Argenlieu ở Hà Nội hay Hồ đang đêm đánh thức Moutet dậy, năn nỉ Moutet ký Hiệp ước Fontainebleau cũng không phải là Hồ dâng nước đâu!    Dù chị nói gì thì nói, những cái gian ác của Hồ lúc đó đã lộ rõ và dân chúng xầm xì nên Hồ mới phải thề:”Hồ này không bán nước, không phản dân!” nhưng thực sự Hồ biết rất rõ ông ta sẽ bán nước, sẽ phản dân. Bố tôi và một số lãnh đạo các đảng phái khác cũng biết rất rõ điều đó.

(Hết bài 4A)

Hỡi ơi! “Đỉnh cao chó lợn” và “Đá Văng chân lý” của Dương thu Hương!

(Bài 4B) (tiếp theo) GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

                                                                      ... Ông ta biết nói thứ tiếng của kẻ thù, uống rượu vang trong khi người Việt bản xứ chỉ uống rượu gạo, ông ta biết uống sữa bò cả sống lẫn chín trong khi dạ dày Việt Nam đích thực chỉ quen khoai sắn và bánh đúc mắm tôm. Tệ hơn nữa, ông ta lại hút thuốc lá Mỹ trong khi các đồng chí rít thuốc lào bằng điếu cày rồi bắn bã đôm đốp… Thử hình dung xem, trong tình thế ấy, làm sao ông Hồ có thể tồn tại nếu không chấp nhận thỏa hiệp.

  Hồ biết nói thứ tiếng của kẻ thù....Chị có biết thời tụi tôi bao nhiêu tuổi thì đậu Primaire (Certificat d’Etude Primaire Complémentaire Indochinois thường gọi là bằng CEPCI) không? Giỏi thì 12, hoặc bết hơn thì 13, 14. 15...Hồ xuống tầu Pháp xin làm bồi tầu lúc 21 tuổi (1911) nhưng chưa có Primaire, chưa học xong Tiểu học. Hồ dốt như thế (dù là con quan huyện) nên Hồ cai trị tầm ruồng. Vĩ nhân của chị đó!   Hồ biết uống thứ rượu vang (cũng của kẻ thù) trong khi đa số dân Việt chỉ biết uống rượu gạo! Hồ biết uống sữa bò...còn dạ dày dân Việt Nam đích thực chỉ bánh đúc mắm tôm!

Chị Hương, chị tự hào là Nhà Văn mà sao chị dốt quá thế? Hay chị cứ nhắm mắt khen bừa! Như tôi đã nói, cái kiểu viết vớ vẩn, ấm ớ như nhiều anh chị khác cả miền Bắc  (miền Nam cũng có) và như chị viết trong Thiên đường mù và mấy cuốn khác đã quá lỗi thời! Người đọc ở thế kỷ này họ tẩy chay những kiểu viết “bựa” đó!   Tôi hỏi chị, một nông dân chưa từng uống rượu vang bao giờ, nay đưa rượu vang cho anh ta uống, bảo đảm là anh ta uống được, khen là khác nhưng còn thích như rượu đế không thì mỗi người mỗi ý. Hồ uống rượu vang mà không uống rượu đế là vì sao chị biết không? Vì vang làm bằng nho, một chai vang giá bằng 20, 30 chai rượu đế. Nông dân nghèo tiền đâu mà dám thưởng thức vang, nho; rượu đế rẻ mà nhiều lúc không tiền phải nhịn đấy chị! Ai sung sướng như Hồ? Theo chị đó có lẽ là cái cửa hoả ngục bỏng rát?   Còn bảo dân Việt Nam chỉ bánh đúc mắm tôm trong khi Hồ uống được sữa bò cả sống lẫn chín. Cái này phải hỏi thực, chị có làm con sen (một vinh dự của chị!) trong Bắc bộ phủ không, hầu hạ bữa sáng bữa tối cho chủ tịch Hồ không mà sao chị rành sáu câu quá thế? Hồ lúc nào uống sữa sống, lúc nào sữa chín? Tôi bái phục chị vì những kiến thức “cao cấp” của chị đối với bậc vĩ nhân vô cùng kính yêu của chị!   Khi tôi mới sinh, mẹ và bố tôi kể lại vậy, mẹ tôi sinh tôi là đứa con thứ 11, đứa út, mẹ kém sữa, bố tôi phải mua sữa đặc Nestlé gọi là sữa Con chim vì nhãn có vẽ cái tổ chim và vài con chim, cho tôi uống thêm với sữa mẹ. Dạ dày tôi từ bố mẹ tôi (chắc chăn chỉ bánh đúc mắm tôm như chị viết) mà lạ thay, mẹ

Page 36: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

tôi nói lại vậy, tôi cứ nún chai sữa bò ừng ực, chẳng thấy lạ lẫm gì. Ngày nào sữa mẹ có đủ thì thôi, ngày nào không đủ tôi khóc oe oe cho đến khi mẹ phải đút cái vú cao su ở đầu chai sữa (đã pha với nước sôi) vào miệng tôi, tôi mới im.   Nhưng nếu đã ăn quen sữa như thế, ngày nào hết sữa chưa kịp mua hoặc hàng tạp hoá hết sữa, chị tôi nấu cháo bột bỏ đường đút cho tôi, tôi lè ra ngay. Vì sao? Vì sữa bò lúc đó vẫn ngon hơn bột nấu cháo rất nhiều.   Ông Hồ của chị là thứ khôn ăn, suốt đời ông khôn ăn, sành ăn như thế (coi lại bữa tiệc có LS Trần văn Tuyên), chị còn lạ gì, nên rượu đế vài xu một lít thì để nông dân, rượu vang 5$ Đông Dương một lít thì ông xung phong xin uống, cháo bột hay cơm mớm, bú rình ông đã chê chán từ hồi mẹ chết, chị mớm cho, nay là Chủ tịch một nước, dù một nước nghèo khổ luôn luôn nhỡ tầu như chị viết, tội vạ gì không uống sữa bò, da dẻ vừa hồng hào, sức khoẻ tăng tiến lại tốt trong phòng the cho các cháu Huỳnh thị Thanh Xuân, Nông thị Xuân ngay cả Nông thị Ngát, Nguyễn thị Minh Khai, Nguyễn thị Định ... đang nằm đọc tiểu thuyết tiền chiến đợi sẵn.   Lý do dùng vang và sữa bò của “bác” chỉ giản dị có thế và chính là lý do đó. Thuốc lá Mỹ Philip Morris thì tôi đã nói rồi, xin miễn nói lại nhưng nó cũng không qua cái chính sách của “bác” chỉ hưởng thụ tối đa, hưởng cho đã, ra sao thì ra! Ngay đến con gái, “bác” cũng phải lựa con gái còn trinh, chanh cốm, chị thấy không? “Bác” khôn thấy mẹ! Cái kiểu khôn ăn này thằng bé lên ba nó cũng làm được!   Từ vang, sữa bò, thuốc lá Mỹ và nhiều thứ khác nữa... Hồ đang hưởng thụ mà chị lấy lý do rằng một người hưởng thụ (như Hồ) thì sao ông Hồ có thể tồn tại nếu không chấp nhận thoả hiệp (với Pháp). Câu lý luận của chị vừa ngẩn ngơ, vừa đần, vừa ngây ngô như đứa con nít mới tập nói, lý luận cà chớn như vậy mà chị dám viết 800 trang trong “Đỉnh cao chó lợn” nhờ nhà văn Pháp dịch, in ra gửi đi khắp thế giới? Chị tưởng là văn chương của chị cao cấp, người đọc đều ngu si hết chẳng biết gì! Chị bênh vực ông Hồ, thực ra chị chửi cha ông Hồ đó. Vì uống rượu tây, sữa bò, thuốc lá Mỹ, những thứ xa xỉ, quen hưởng thụ rồi không nhịn được nữa, nên phải thoả hiệp với Tây mà sống còn (để hưởng thụ tiếp). Chưa có con người nào hèn hạ, điếm nhục hơn! Vậy mà lại lên ngôi lãnh tụ cả nước; đúng là chó nhảy bàn độc. Chị không tin tôi cứ đem câu văn này đi hỏi khắp lượt xem, tôi nghĩ tôi không hiểu sai và lý giải sai đâu. Đọc câu này, tôi chợt nghĩ chắc chị có thù hận gì với già Hồ khi xưa (hi vọng không giống như hai chị Xuân) nên chị mới bổ cho y một phát tá hoả tam tinh như thế chứ. Đúng là “Chó già phải dùi đục nặng”. Chúng tôi phải cám ơn chị đã viết câu văn để đời này! Thực lòng tôi, tôi không còn mong gì hơn nữa!   Một thằng ham ăn ham uống, nghiện ngập đủ thứ thì dễ bị sai khiến hơn là một người không nghiện cái gì. Tạ thu Thâu thì tôi không rành nhưng còn Ngô đình Diệm, tư cách của ông ta 100 lần thì Hồ chưa có 1. Hiện nay còn một số người (đa số là thù cá nhân) không ưa ông Diệm nhưng không thể moi móc bất cứ cái gì về ăn uống, trai gái, rượu chè v.v...của ông ta ra để nói xấu được. Ông Diệm có một cái dại: ông ta quá cương với người Mỹ, không liếm trôn quan thầy Nga-Tàu như Hồ, ông ta cũng quá lành, không có những lưu manh,điếm thối, sát nhân tập thể như Hồ, nên thua Hồ!          Chị bảo Hồ thề: “Hồ này không bán nước, phản dân...” Hồ thề như cá trê chui ống. Hồ biết chắc là y sẽ không bán nước cho Pháp nhưng bán nước cho Nga-Tàu. Nay Nga không còn mộng xâm lăng bá chủ của thời Liên Xô nữa thì Hồ bán cho Tàu, một thực dân mới. Tôi có thể đoán tâm tư Hồ lúc đó như thế. Dù Hồ thề, những người Quốc gia đâu có tin y.   Chị binh vực Hồ là hiểu tính thích đáng của hành động và hiệu quả của ngôn từ. Thích đáng lắm, chủ trương của Hồ là phải mời Pháp trở lại VN và Hồ còn làm hơn thế nhiều! Hồ không coi Pháp là kẻ thù khi Hồ mời Pháp trở lại VN ngày 19-5-1946. Đài phát thanh Hà Nội ông ổng rao lên là ngày 19-5 là ngày sinh nhật chủ tịch Hồ (lươn lẹo có nòi). Hồ có sinh nhật giả hiệu từ ngày đó. Miệng hô

Page 37: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

hào chống Pháp nhưng y rất muốn  Pháp trở lại để thay thế quân của tướng Lư Hán sang tước khí giới quân đội Nhật. Y chỉ sợ Lư Hán giúp cho VNQDĐ làm y hổng giò hổng cẳng. Mặt khác, Hồ nhờ tay Pháp diệt dùm VNQDĐ và nhiều đảng phái Quốc gia (Pháp vốn truy lùng họ vì những đảng phái này chống Pháp) nhất cử lưỡng tiện vậy.   Còn nữa, sau Hiệp định Genève 20-7-1954, Hồ không còn coi Pháp là kẻ thù mà lòn trôn Pháp, nịnh bợ Pháp còn hơn ai hết. Vì sao? Vì Hồ quá đói, quá nghèo, chỉ muốn xin xỏ, nhờ vả. Chín năm kháng chiến, Hồ ra lệnh tiêu thổ, đồng không nhà trống, ruộng đất bỏ hoang, dân chúng đói rách cơ cực không biết kiếm đâu ra bữa cơm khoai sắn. Lính Nguỵ của Hồ thì nhờ có viện trợ của các nước CS anh em, cũng còn bữa no bữa đói nhưng dân chúng thực là tuyệt vọng. Hồ ngửa tay xin khắp mọi nơi; kẻ thù khi xưa bây giờ cũng là bạn thiết để xin bột mì, xin gạo, lại xin cả đạn và súng để vào Nam đánh tiếp. Miền Nam với TT Ngô đình Diệm chỉ nghỉ ngơi được vài năm, Hồ cho quân du kích quấy phá từ 1956 vì thế mới phải sinh ra quốc sách Ấp chiến lược.   Hồ đi ăn mày, chẳng những Pháp mà bất cứ nước nào có vẻ xin được. Cái gene ấy, kiểu ngửa tay ấy còn áp dụng dài dài, sau 30-4-1975 đi xin khắp lượt. Có những nước người ta thấy chướng quá, họ bảo đám ăn mày Hà Nội, sao lúc nào các anh cũng ngửa tay vậy, làm mà ăn chứ, ai có mà cho hoài? Nhưng cái mặt đã trơ, cái trán đã bóng, từ Hồ trở xuống chẳng biết quốc sỉ là gì, cứ lết mòn gối.   Xin về rồi sao? Chia chác từ trên xuống dưới, những khoản viện trợ (ODA) lẽ ra làm cống rãnh, cầu đường, làm nước sạch cho dân chúng đỡ khổ thì bọn đầu nậu này bỏ túi cả.

Ngày nay, Hà Nội và Sàigòn là hai cái đống rác khổng lồ, đường xá hư hỏng, không khí ô nhiễm, sông rạch như nước cống, dây điện dây cáp cả núi, to như cái đống rạ lủng lẳng trên mọi con phố. Có đánh thắng 10 đế quốc mà dân sinh tồi tệ như thế thì cũng chẳng nên hồn một quốc gia có bộ mặt “sạch nước cản”. Chẳng biết nhục khi nhìn thấy Singapore hay Đài Loan hay nhiều nước khác. Giáo dục, Y tế cũng là những đống rác, chỉ chết người dân. Những cái tồi tệ đó chắc không phải do Hồ?

(còn tiếp) GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

                                      Hồ chí Minh

Huyễn Thoại hay Huyền Thoại :

(Hội Văn Hóa Việt phỏng vấn Gs Lê Hữu Mục về HCM)

Bài của Tinh Vệ (Diệu Tần) 22 Jun 2003 - Ghi chú thêm 10 Jan 2007

Nhân chuyến Hoa Kỳ Du, học giả Lê Hữu Mục có dành cho chương trình phát thanh của Hội Văn Hóa Việt một cuộc phỏng vấn tại San Jose, California. Bài phỏng vấn này do Gs Trần Công Thiện, đồng nghiệp của Gs Lê Hữu Mục tại Ðại học Sư phạm Sài Gòn, và Ls Ðỗ Doãn Quế thực hiện ngày 8.6.2003, phát thanh sáng và chiều chủ nhật, đồng thời đưa lên Internet, website của Ðài Quê Hương. Chúng tôi dựa theo những câu trả lời của GS Mục, sắp xếp lại, bàn thêm, viết thành bài này.

Học giả Lê Hữu Mục là Gs Ðại học Văn khoa và Sư phạm, Tiến sĩ thủ khoa Văn chương Việt Nam dành cho các Gs đại học 1970. Ông còn là nhà biên khảo, phê bình văn học, nghiên cứu triết học và tôn giáo và là nhạc sĩ nữa. Ngoài khoảng trên 20 tựa sách, những bài diễn văn, bài báo, ông đã viết cuốn "Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký" (1989-90) gây nhức nhối cho Cộng sản Việt Nam (CSVN). Cuốn sách này ông ra sức tập trung ý chí và khả năng hoàn thành chỉ trong một tháng. Sở dĩ ông phải viết nhanh như vậy để kịp phá vỡ huyền thoại HCM, "Nhân vật Văn hóa Quốc tế mà Tổ chức

Page 38: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc) dự định tôn vinh. Ðây là chuyện cũ, nhưng cho đến bây giờ vẫn là mới cần nhắc lại để dẹp cái phao xẹp "Tư tưởng Hồ Chí Minh" mà nhóm bạo quyền cố bám vào để tàn Dân hại Nước.

Với phương pháp dùng textology (văn bản học), hệ thống hóa lại, tìm ra những mâu thuẫn và sai lầm rất vững vàng, tác giả đã minh chứng rằng : HCM là kẻ đạo văn (đạo : ăn cắp, ăn cắp văn người khác). Chúng ta đã biết người CS dùng bất cứ phương tiện nào dù xấu xa, vô nhân, vô đạo, vô luân nhất để đạt đến mục tiêu. Mượn đầu heo nấu cháo, lợi dụng xương máu Dân lành để nhận công của đảng mình chưa đủ, họ còn muốn làm Anh hùng Văn hóa Quốc tế nữa. Nhóm bồi bút Viện Văn Học Hà Nội dựa trên sự mạo nhận của HCM, ăn cắp văn của người khác, để thổi phồng tập thơ nhật ký lên một cách lố bịch và trơ trẽn.

Mở đầu cuộc phỏng vấn ông Mục cho biết sau ngày 30.4.1975 ông tìm đường đào thoát mấy lần nhưng đều thất bại. Trong những Gs ÐH Sư Phạm bị kẹt lại có ông Khoa trưởng Trần Văn Tấn, Gs Trần Kim Nơ. Những người chủ mới của Trường Sư Phạm miền Nam, ngoài miệng thì nói những câu : đoàn kết, xóa bỏ hận thù, hòa giải Bắc Nam, nhưng trên thực tế chỉ là những lời giả dối, xảo trá. Họ hứa hẹn nhiều, nhưng chẳng thực hiện được gì. Họ ở trong tư thế chờ đợi chỉ thị của Bộ Chính Trị. Họ xa cách, lạnh lùng với các GS còn kẹt lại. Các Gs ngơ ngác, đúng cảnh "hàng thần lơ láo" của Nguyễn Du, tuy bị bắt buộc phải thua cuộc. Vẫn vỏ ngoài, qua những cuộc tiếp xúc, họ giả vờ tìm cách ve vãn, mời mọc, nhưng "nói zậy nhưng không phải zậy". Các GS miền Nam đúng ngồi không yên, không biết phải làm gì, không biết đi đâu, hoang mang, chán nản. Ðiều xúc phạm đầu tiên là cách xưng hô "anh chị" kỳ cục. Trước kia có tôn ti trật tự, là thầy, là Gs, là ông, bà. Giờ đây là anh chị cá mè một lứa. Thậm chí ông Mục còn khôi hài nói "trường sở vốn là của mình, nơi mình làm việc dạy học bao nhiêu năm, bây giờ không biết là sẽ đi tiểu ở đâu ?"

Hà Nội lộ mặt thật qua vụ ông Lê Trí Viễn vào Nam "lên lớp" các thầy miền Nam. Ông cán bộ giáo dục này tấn công nền sư phạm miền Nam nặng nề. Ông ta chê là miền Nam không có một giáo trình quy củ, đàng hòang, không có cuốn sách nào là sách giáo khoa chính thức, không có một tác phẩm nào tiêu biểu cho sư phạm của một nền đại học. (Ông Lê Trí Viễn đã dùng nền giáo dục một chiều, chật chội của chế độ, để so sánh với chủ trương nền dục khai phóng ở miền Nam). Ông ta dùng những lời đả kích mạnh mẽ, vì ông ta ở thế thượng phong, thế của kẻ thắng. Gs Mục là Trưởng Ban Việt-Hán đại diện cho nhóm sư phạm bại trận (trong nhóm có Gs Trương Văn Chình là Gs ngôn ngữ học nổi tiếng).

Mở đầu ông Mục cũng nói vài lời khiêm tốn, nhưng càng về sau, càng bực bội, nên hơi mất bình tĩnh, tấn công trở lại nhóm Gs miền Bắc. Ông cho biết ông đã đọc hết tài liệu giảng dạy dành cho giáo sinh miền Bắc và đánh giá rằng những tài liệu đó cũng không có giá trị cao, chỉ đáng quay ronéo phát cho giáo sinh làm tài liệu nội bộ thôi. Ông cũng phản pháo lại, cho biết là ngoài ấy cũng không có tác phẩm giáo khoa nào xứng đáng.

Một chuyện khác diễn ra để chúng ta thấy cái máy móc, một chiều của Hà Nội. Ông Hoàng Xuân Nhị được coi là một Gs gạo cội, từng đi du học bên Pháp và Liên Xô, vào Sài Gòn thuyết trình về thơ của HCM. Ông ta nói dài dòng về cuốn Ngục Trung Nhật Ký trước cử tọa cũng coi như các học viên, là các Gs đại học, trong đó có các Gs Phạm Xuân Quảng, Lý Công Cần... Sau bài thuyết trình, họ buộc các Gs phải thảo luận về nội dung cuốn sách. Mọi người ngỡ ngàng, vì chưa ai đọc cuốn nhật ký xa lạ này cả, làm sao có đủ dữ kiện để thảo luận, thu hoạch? Các Gs bán cái, đùn đẩy cho ông Mục "vì ông rành chữ Hán" lên tiếng. Ông Mục tuy chỉ là lần đầu tiên nghe nói về Ngục Trung Nhật Ký, nhưng với phản ứng mau lẹ và với kinh nghiệm giảng dạy văn chương lâu năm, ông bắt ngay được những khuyết điểm của cuốn sách. Ông cho biết cuốn thơ đó có bốn khuyết điểm (Vì không đủ thì giờ phát thanh, ông Mục chỉ nêu lên hai khuyết điểm).

· Thứ nhất thể thơ trong đó phần lớn là thơ bảy chữ bốn câu, thất ngôn tứ tuyệt. Thơ bảy chữ là thơ trang trọng, nghiêm túc, còn thơ lục bát là thơ dân tộc, bình dân, nhưng dịch thất ngôn sang lục bát dễ bị loãng, câu thừa, câu thiếu, tại sao lại dịch như thế. Diễn giả họ Hoàng ngẫm nghĩ rồi trả lời: "Ðể thỉnh thị ý kiến ở "trên" sẽ trả lời sau". Thấy cái lúng túng, e ngại, tránh né của diễn giả là các Gs miền Nam hiểu ngay được số kiếp văn nô miền Bắc đồng thời hiểu được tương lai của mình.

Page 39: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

· Câu hỏi và là thắc mắc thứ hai: Trong bài thơ Thụy Bất Trước (Không Ngủ Được) có câu: "Mộng hồn hoàn nhiễm ngũ tiêm tinh" phải dịch là Sao năm cánh nhọn mộng hồn quanh, tại sao lại dịch là : Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh ? Kể ra ông Mục đã uống thuốc liều, đã dám mó vào dái ngựa, dám đụng đến lá đảng kỳ của họ. Tất nhiên là Hòang Xuân Nhị phải vội vàng tránh né ngay, nói như vẹt là "sẽ trả lời sau khi thỉnh thị ý kiến ở trên”. Ðám văn nô, văn thi sĩ cung đình biết là dịch gượng, sai và ẩu, nhưng cố nhét sao vàng vào đó để ca tụng là Bác tuy bị tù nhưng lúc nào cũng nghĩ đến Non sông Đất nước. Ðó là do câu thành ngữ Trung Quốc "ngũ tinh liên châu" hàm ý diễn tả chuyện lành báo trước, chuyện sum họp vui vẻ giữa vợ chồng.

Ðáp câu hỏi, giới văn học giáo dục miền Nam có thường gặp giới giáo dục, văn học miền Bắc không, GS Mục cho biết phần nhiều là "họ đến gặp tôi, tôi ít khi tìm gặp họ". Trong số đó có nói chuyện với ông Hồ Lê, Nguyễn Ðổng Chi, Trần Văn Giàu. Riêng ông Nguyễn Công Bình nhiều lần mời cộng tác, nhưng tôi tìm mọi cách để từ chối. Cuộc tiếp xúc với Gs Nguyễn Ðổng Chi, bạn với tôi hồi còn ở Hà Nội trước 1945 là đáng ghi nhớ nhất. Gs Nguyễn Ðổng Chi là một học giả nổi tiếng, tác giả cuốn "Cổ Văn Học sử", đã từng là Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội. Ông Chi mời ông Mục đến nói chuyện ở Trung tâm Ngôn ngữ, trong một phòng dành riêng cho Gs. Sau nửa giờ nói chuyện, ôn chuyện cũ, bàn chuyện ngày nay, ông Mục hơi ngạc nhiên thấy ông Chi khóc, nước mắt tràn xuống hai gò má. Ông Chi vừa khóc vừa bảo bạn :

- Nếu không, anh cũng sẽ phải đóng kịch với họ như tôi thôi. Trong bao nhiêu năm nay, tôi đã phải đóng kịch với họ mãi rồi !

Còn gì đau khổ cho bằng một trí thức, một kẻ sĩ không dám sống thật với mình, với người, luôn luôn phải giả dối để sinh tồn. Ông Chi đã chí tình khuyên ông Mục, vì tay ông đã bị nhúng chàm, ông đã lỡ, phải theo lao luôn. Ông Mục cũng gặp nhà thơ Xuân Diệu, ông Mục hỏi ông Xuân Diệu :

- Sao anh không còn sáng tác như xưa nữa ?

- Tôi vẫn sáng tác như ngày xưa.

- Chúng tôi không được đọc bài thơ nào của anh hay như ngày xưa nữa!

- Tôi có viết cho tôi nữa đâu. Tôi viết cho quần chúng đấy chứ. Họ có trình độ thấp, ít học, do đó tôi không thể viết ra những gì gọi là tinh hoa của tôi được.

- Vây anh có tin những gì anh viết cho họ không ? Xuân Diệu vẫn lừng khừng nói :

- Việc gì phải tin. Cần gì phải tin !!!

Qua cách trả lời của Xuân Diệu, chúng ta thấy ông ta vẫn còn tự kiêu, vẫn nuối tiếc thủơ xa xưa, đồng thời cũng vẫn sợ mất lập trường, tiêu thẻ đảng. Một nhà thơ công thần của chế độ phát biểu là không tin những tín điều mình truyền bá ra cho quần chúng, sẽ được đảng đối xử ra sao? Ông Mục cũng tiếp Trần Văn Giàu khi tay lý thuyết gia cổ thụ này mò đến dụ dổ. Sau cơn địa chấn 30-4, ông Mục cũng như các Gs đại học khác bị cướp mất nhà dành riêng cho các Gs đường Duy Tân, ông phải thuê một căn phòng ọp ẹp ở khu lao động. Không hiểu lấy đâu ra tin tức, ông Giàu lò mò kiếm được nhà. Ông vừa đến trước cửa nhà thì bị vấp ngã xuống, ông Mục chạy ra nâng ông ta dậy. Năm đó ông Mục ngòai 60, còn ông Giàu cỡ ngoài 70, tóc bạc phơ, vừa vào đến nhà, ông Giàu nói ngay :

- Ông nên ở lại Việt Nam làm việc cho Đất nước với chúng tôi.

- Tại sao cụ lại để ý đến tôi thế ? Tôi cũng chỉ là một người dạy học bình thường như mọi người khác thôi.

- Tôi đã đọc sách của ông. Ông viết rất đạt. Ông khác người ta chứ, ông có đủ ba điều kiện để làm một nhà nghiên cứu, giảng dạy. Một là phải thông hiểu Hán và Nôm mới đi vào văn hóa Việt Nam được, ưu điểm hai là biết hai sinh ngữ Pháp, Anh để hiểu phương pháp luận và nghiên cứu rộng rãi hơn. Ba là phải

Page 40: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

có tài viết văn. Nhiều người nói và dạy học thì được, nhưng không viết được.

- Tôi sang Canada vì được gia đình bảo lãnh qua. Rất tiếc tôi không ở lại làm việc chung với cụ và các ông được. Tôi thấy có Gs Nguyễn Văn Trung và Gs Linh mục Thanh Lãng dạy học rất giỏi. Ông Trần Văn Giàu lắc đầu :

- Ông Trung chưa phải là nhà nghiên cứu văn học, ông ấy chỉ là một ký giả khá thôi. Còn ông Thanh Lãng thì chỉ nên giảng đạo trong nhà thờ hơn là giảng ở trường đại học.

Sau đó ít lâu họ có mời Gs Thanh Lãng tiếp tục giảng dạy. Ông Mục nói: "Nghĩ cũng tức cười, một người thì giục đi đi, một người thì kèo nài nên ở lại". Sau đó ông có dịp đọc những tài liệu do ông Thanh Lãng viết, giảng, nói chuyện sau này và nói: "Tôi thấy tội nghiệp, ái ngại cho ông ta quá. Ông Thanh Lãng đã phải nói, phải viết những gì về Tôn giáo, văn học và ngôn ngữ học mà chế độ muốn ông viết". Nghe nói sau này khi tỉnh ngộ, ông tỏ ý chống đối và bị họ đánh thuốc độc chết (?).

Ðể trả lời Gs Trần Công Thiện hỏi là do động cơ nào thúc đẩy mà Gs Lê Hữu Mục đã viết cuốn "Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký", tác giả cho biết :

"Chính là do bài thuyết trình của ông Hoàng Xuân Nhị, sơ khởi đã khiến tôi chú ý đến cuốn thơ nhật ký đó. Không phải là do văn chương trác tuyệt và tư tưởng cao siêu gì mà là tôi đặt nhiều nghi vấn. Những cán bộ thơ văn, phê bình, khảo cứu gì đó của Viện Văn Học đã dùng cái chổi phù thủy thổi phồng lên, lừa dối chính họ, lừa dối dân chúng và nịnh bợ lãnh tụ kiếm chút cơm thừa canh cặn. Ðúng như nhà thơ, nhà văn Vi Khuê ở Washington DC đã nhận xét: " Chẳng có giá trị gì để chúng ta phải chú ý tới nó".

"Sau nữa là khi tôi bị tù về tội vượt biên, trong trại tù lập một tủ sách, có cuốn nhật ký đó, tôi mượn về đọc vì có in chữ Hán trong đó. Những bạn tù người Hoa (Trung Quốc) đọc xong và họ ngạc nhiên lắm. Họ nói giọng văn thơ này là của người Tàu, không phải lối viết, lối nói của người Việt, chúng tôi thấy quen thuộc lắm. Họ nói đúng ý tôi làm tôi càng chú tâm phải đọc kỹ. Rõ ràng trong sách có tên ông già Lý người Tàu, ai cũng để ý đến ông già này. Phải chăng chính ông già không rõ lý lịch này mới là tác giả đích thực của tập thơ ?

"Kịp đến khi tôi sang đến Canada, gặp lúc Văn Bút Việt Nam đang thời kỳ tái lập ở Hải ngoạị Anh em Văn Bút lúc đó hoạt động hăng lắm, có nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, có nhà văn Trà Lũ, tức Gs Trần Trung Lương đồng nghiệp với tôi. Anh em giục giã tôi viết để nói lên sự thật. Viết lên không phải để chê về mặt văn chương và tư tưởng, phải lên tiếng vì sự mập mờ đánh lận con đen, chuyện nhận vơ, chuyện Hồ Chí Minh đạo văn. Anh em ở hải ngoại bảo nhau phải tìm mọi cách để xóa bỏ cái huyền thoại Hồ Chí Minh, chuyện Hồ Chí Minh sẽ được tôn vinh là nhà văn hóa lớn quốc tế do UNESCO công nhận. Dạo đó có phong trào "No HO" nổi lên đòi hủy bỏ vụ tuyên dương vô lý này. Tôi cố gắng viết, chỉ nội trong một tháng là xong. Tôi gửi loạt bài này đăng trên tạp chí Làng Văn của nhà báo, nhà thơ Cung Vũ Nguyễn Hữu Nghĩa và nhà báo Nguyên Hương.

"Tôi viết chưa xong thì ông Gs tiến sĩ Nguyễn Văn Trần bên Paris biết được, ông bay qua Montréal gặp tôi ngay. Tuy viết chưa xong ông cũng lấy một phần rồi cùng với bác sĩ Nguyễn Ngọc Qùy, nhà hoạt động tôn giáo xã hội Võ Văn Ái dịch sang Pháp văn. Các ông ấy họat động tích cực lắm. Vì trụ sở UNESCO ở Âu Châu nên tranh đấu rất thuận tiện. Thấy có tài liệu chứng minh phủ nhận sự nghiệp văn hóa ma, UNESCO sáng suốt và mau chóng hủy bỏ vụ tôn vinh. Vì HCM không biết làm thơ, cũng chẳng phải là nhà văn học, văn hóa gì cả. Ông ta chỉ là kẻ ăn cắp thơ.

"Cũng chuyện ma giáo, lừa bịp tương tự thời còn ở Pháp. Theo Ls Phan Văn Trường thì Hồ Chí Minh mánh khóe, khôn vặt lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Trong khi đó những nhà cách mạng miền Nam giỏi Pháp văn khi viết báo chống thực dân Pháp, ngay trên đất Pháp, đều ký bút hiệu là Nguyễn Ái Quấc, đánh vần theo miền Nam. Ðó là một bút hiệu chung của nhiều tác giả các bài báo. Họ Hồ lấy tên như vậy, nếu nội dung bài báo có giá trị thì người ta tưởng lầm với bút hiệu Nguyễn Ái Quấc. Còn bài dở thì ông ta sẽ cãi là tôi ký tên là Quốc chứ có lấy bút hiệu Quấc của các ông đâu!

"Khi cuốn sách của tôi ra mắt độc giả, chắc chắn là giới văn nô cộng sản bên kia đại dương cũng đọc. Họ

Page 41: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

bồn chồn, nhức nhối phải tìm cách đối phó lại sự thật qua những lụận lý vững chắc, hợp lẽ phải. Họ tập trung chất xám lại ra một cuốn sách dày gấp bốn sách của tôi để tìm cách chứng minh là Bác của họ cũng biết làm thơ. Nhưng trước sau gì cũng giấu đầu hở đuôi.

"Họ đánh lừa độc giả trong nước là cuốn sách của tôi ra sau tập sách của họ. Họ nói sách tôi ra năm 1990, còn sách họ ra năm 1989. Sự thật là các bài viết của tôi đã đăng từng kỳ trên tạp chí "Làng Văn" từ năm 1989, đến năm 1990 mới in thành sách. Còn sách của họ phát hành năm 1990, nhưng đề lui năm lại là 1989 !

"Lại nữa, đề sách đã là lời thú nhận: "Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký". Tại sao lại phải suy nghĩ lại, có vấn đề mới phải suy nghĩ lại. Họ xác nhận là trong thời chiến họ phải dùng những lời dao to búa lớn để tuyên truyền, họ thú nhận là đã "cường điệu", mà cường điệu là exagerate, là lớn lối, bịa đặt thêm. Họ bảo phải làm thế để tạo một quan niệm sáng tác gương mẫu, là phải theo hướng sáng tác như thơ của bác, bình dân và trong thơ phải có thép (chiến đấu tính).

"Trước sau gì chỉ là một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất vụng. HCM úp mở nhận là thơ của mình. Ðám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống đu đủ thổi phồng lên rất lố bịch. Một chứng cớ không thể chối cãi là ngoài bìa sách ghi năm tác giả bị tù là 29-8-1932 đến 10-9-1933. Trong khi HCM đã bị Quốc Dân Ðảng bắt và cầm tù ở bên Tầu sau gần 10 năm, vào năm 1942 - 1943 thôi. Trong Tổng Tập Văn học của Hà Nội tại tập 38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa bỏ ngày tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che giấu, khuất tất. (1)

"Ngay Gs Ðặng Thái Mai, bố vợ Võ Nguyên Giáp cũng thắc mắc về soạn niên cuốn nhật ký. Ông là nhà giáo nổi tiếng, một học giả, lúc đó đang nhận nhiệm vụ hiệu đính lại cuốn thơ. Ông đặt câu hỏi thẳng với Hồ Chí Minh là ai dám đề năm tháng kỳ quặc là năm 1932 - 1933, đây lại là tác phẩm của lãnh tụ cao nhất nước ? HCM không trả lời. Sau này bí thế quá, ViệnVăn Học trả lời vắn tắt rằng: Ðề năm 1932 - 33 là sai, phải là năm 1942 - 43 mới đúng. Rằng HCM ghi như thế để đánh lừa quân cai ngục của Tàu. Cách trả lời rất vắn tắt, gượng ép, không có lời giải thích minh bạch, thỏa đáng. (1)

"Nói chung tập "Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký" có đến sáu phần mười đồng ý với tôi, phần còn lại họ chưa đồng ý. Cuốn sách không dám phản bác lại từng điểm, chỉ có ý xác nhận là bác có biết làm thơ chữ Hán, lờ chuyện đạo văn đi. Ở Việt Nam không ai dám nói tới cuốn sách vạch mặt của tôi nữa. Tuy nhiên các thày cô giáo rất khó trả lời trong giờ ngữ văn, nếu có học sinh hỏi : Sao nghe nói thơ đó không phải là thơ của bác ? (1)

"Cũng nhờ vậy, sau vụ tôn vinh hụt, Hà Nội đã chùn lại, không dám tâng bốc quá đáng thơ thẩn của HCM nữa" (Ban Biên tập : Vụ tôn vinh hụt nầy đến năm 2005 thì hoàn toàn bị lật tẩy với các chứng cứ hoàn toàn xác thực. Hiện nay Hà Nội rất lúng túng chuyện trơ trẽn nầy, nhưng vẫn ngoan cố tiếp tục lừa gạt sinh viên, nhất là học sinh nhỏ tuổi. Xem “Lật Tẩy mạo danh UNESCO lừa gạt 84 triệu Dân VN & Quốc tế” ở Tư liệu Phụ lục 5, 2005)

Họ ở thế bị động, phải đấu dịu với Gs Lê Hữu Mục. Ông nói: "Tôi thuộc lòng câu kết tập sách dày cộm của họ : Người ta nói : Bỏ gươm xuống thì thành Phật. Thánh Phaolô khi cầm gươm là kẻ thù của Thiên Chúa giáo. Bỏ gươm xuống là bạn của Thiên Chúa giáo. Tác phẩm của ông Lê Hữu Mục, thực chất là hành động giơ dao lên. Chúng tôi không biết ông sẽ làm gì với con dao đó. Chúng tôi đề nghị ông nên hạ dao xuống thì hơn". Gs Mục cũng không hiểu họ muốn nói điều gì. Giáo sư kết thúc bằng một câu đủ gói ghém câu chuyện khi được hỏi là : Ông nghĩ gì về cái gọi là Tư tưởng HCM, họ thường rêu rao ?

- "Tôi không thể nào cho rằng HCM có một tư tưởng. Một tư tưởng lớn đáng bàn đến phải có một hệ thống triết lý, hơn nữa phải có một chương trình hành động sát lý thuyết, sát triết thuyết đó. HCM không có cả hai điều kiện ấy, không thể gọi là tư tưởng được. Chính HCM không nhận mình là một nhà tư tưởng, một nhà thơ. Ông ta thú thực với một nhà báo Pháp là ông ta chỉ là một ký giả thôi. Họ gán cho tôi là tác giả các bài thơ, tôi có làm được nhiều thơ thế đâu!"

Thực đúng như nhiều người đã khẳng định: HCM không có tư tưởng, chỉ có khẩu hiệu thôi. Mấy khẩu hiệu đó ai cũng có thể nói được, chế ra được : Ðoàn kết là sống, chia rẽ là chết; Không có gì quý hơn độc

Page 42: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

lập tự do; Ta nhất định thắng, địch nhất định thua thì đứa con nít lên 5 tuổi cũng nói được. HCM còn "đỡ nhẹ" câu "Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" của Tầu ngày xưa. Như thế hiển nhiên là không thể khoác cho HCM chiếc áo huyền thoại được, chỉ đáng gọi là Huyễn Thoại HCM thôi. @

Tinh Vệ (Diệu Tần)  (1) Tất cả các cuốn Tiểu sử của HCM do CSVN xuất bản đều ghi tương tự rằng:“HCM bị Chính quyền Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch (TGT) bắt giam 14 tháng khoảng từ 28.8.1942 đến cuối tháng 10.1943, tại 18 nhà lao thuộc 13 huyện, thị trấn, thuộc vùng Quế Lâm, Liễu Châu, Trung Quốc, với những điều kiện giam nhốt cực kỳ khắc nghiệt thối tha, sức khỏe rất yếu, lại phải mang vác đồ đạc để chuyển trại giam liên miên đến 17 lần, tổng cộng phải đi bộ đến hàng ngàn cây số”. Thế mà HCM quá “siêu giỏi” làm được đến 134 bài thơ tuyệt tác bằng chữ Hán, mỗi tháng hơn 10 bài, rồi giả ghi ngoài bìa là từ 29.8.1931 – 10.9.1933 để qua mặt bọn TGT ! Một điều rất quái dị là tất cả quan quân TGT hoặc “quá văn minh lịch sự và quá khờ khạo chưa hề có trên thế giới”, hoặc HCM có phép thần thông “thôi miên mà (che hoặc làm hoa mắt) mắt” bọn quan quân cai ngục TGT cho chúng như mù hết, nên cả một tập thơ khá dày chửi rủa chế độ nhà tù TGT đến như thế, dễ thấy đến như thế mà bọn họ cũng đành bất lực để yên cho “bác” mang vào ra nhà tù như vào ra thư viện đến những 18 lần xuất nhập 18 trại giam! Thật y như Tề Thiên Đại Thánh ! Người mạn phép tác giả viết thêm chú thích nầy đã kinh qua các nhà tù 04 lần (08 trại giam) 01 lần thời Đệ nhị Cộng hòa, 03 lần dưới chế độ Cộng sản sau 1975, thấy rõ : cho dù các CA CSVN hiện nay đã “văn minh độ lượng” đến thế, thì một cái kim, một tờ giấy các tù nhân cũng không sao mang lén vào phòng giam lọt (trừ ra khi được cố ý lờ đi), thì làm sao vào thời TGT rất “gian ác tàn bạo” mà “bác vĩ đại của Dân tộc VN” lại có thể đủ giấy bút mực kim chỉ để làm đến 134 bài thơ, đóng gọn thành một tập khá đẹp, chưa kể hoặc không cần nháp, ngoài bìa còn vẽ hình minh họa hẵn hoi ! Nguyên một chi tiết “khó tin còn hơn chạy bộ lên trời” như thế mà bao nhiêu năm, bao thế hệ “trí thức” miền Bắc (và cả một số học giả ngoại quốc nữa) vẫn cứ “bị bịt mắt” lại mà nghiền ngẫm và ca tụng những “vần thơ trác tuyệt” của “nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại" đại bịp HCM !

Gần đây Ông Lê Văn Ấn đã viết : “Trong tập thơ Ngục Trung Nhật Ký mà Hồ Chí Minh hí hửng giao cho thuộc hạ dịch ra thơ nôm, cho in cả 2 triệu cuốn, phổ biến cho Nhân dân “học tập thơ Bác” có lộ ra bài “Thế Lộ Nan III:

Trung thành, ngã bản vô tâm cứuKhước bị hiềm nghi tố Hán gianXử thế nguyên lai phi dị dịNhi kim xử thế cánh nan nan !

Giáo sư Lê Hữu Mục dịch :

Trung thành, ta vốn lòng không thẹnLại bị hiềm nghi làm Hán gianVốn biết là đời không dễ xửÐến nay càng khó xử muôn vàn !

Bài thơ này là chứng cớ Hồ Chí Minh ăn cắp thơ của một người Hán, vì Hồ Chí Minh là người Việt – nên chỉ làm được Việt gian, làm sao có thể làm được Hán gian !”

Thật quá tội nghiệp cho biết bao học sinh và sinh viên VN “thời đại HCM” này đã bị buộc phải nhai nhét bao vần thơ đạo chích ấy!!! Nếu HCM không ăn cắp tập thơ nầy của người khác, thì cũng là ngụy tạo, chắc chắn rõ ràng không thể khác được; cũng chỉ là tuồng một duộc như “Đại tác phẩm dỏm” tự tạo nên hình ảnh “Cha già Dân tộc rất mực thánh thiện”, tự ca tụng mình trong “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” do Trần Zân Tiên là “soạn giả” nhưng đích thị chính HCM đại bợm mới là “soạn thật”, đã là “sách gối đầu giường” của bao thế hệ “đoàn thanh niên CS–HCM” và “trí thức” của cả một chế độ CSVN “cực kỳ tối tăm và quá buồn cười” đến độ nhiều học giả gọi là “đống phân tư tưởng HCM...” như Giác Thư của Trần Nhu gửi các Tướng lãnh & Binh sĩ QĐNDVN ngày 01-01-2006... Con đường hỏa xa hay con đường chiến lược? (Lê Hùng Bruxelles)  Tin Hoa Xã ngày 11/12/2008 đăng tải: "Bắt đầu năm 2009, các chuyến xe lửa chở khách nối liền Hà nội

Page 43: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

với thủ phủ Quảng Tây. Các quan chức Nam Ninh còn cho biết thêm chi tiết mỗi ngày tàu khởi hành vào buổi sáng và đến Hà Nội vào sáng hôm sau. Ngược lại du khách có thể lấy vé khởi hành từ Hà Nội vào buổi tối 20giờ 30 và đến thủ phủ Nam Ninh (Quảng Tây) vào sáng sớm hôm sau lúc 10 giờ 05". Bản tin còn ghi thêm: "Trung quốc luôn luôn xem Quảng Tây là địa bàn chiến lược để phát triển và khai thác quan hệ với các nước vùng Đông Nam Á và chính thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong tháng 10 vừa qua đã đến thăm Quảng Tây trước khi tới Bắc Kinh dự hội nghị cao cấp giữa hai quốc gia"

 1. Phát triễn con đường hỏa xa để đồng hưởng lợi.  Trong bài Đường Tàu Thống Nhất (xem Ba Cây Trúc), tác giả Nguyễn Duy Ân viết: "Thời đại toàn cầu hóa sự giao thông, giao thương qua lại giữa các quốc gia với nhau là điều bình thường nếu như mối quan hệ đó thật sự được thiết lập trên tinh thần bình đẳng, tương nhượng và tôn trọng lẫn nhau. Thật sự quan hệ giao thương giữa Bắc Kinh và Hà Nội không có được tinh thần đó, mà thực chất chỉ là quan hệ thiên tử đối với chư hầu, giữa chủ và tớ, giữa tham vọng bành trướng xâm lăng đại bá và hèn nhược chư hầu dâng đất nhượng biển để cầu an và cầu hòa. Cuộc xâm lăng chiếm đóng Tây Tạng với bước tiến thứ hai là con đường sắt quy mô nối liền Hoa- Tạng đã hoàn tất nhằm chuyển người chuyển của tràn chiếm để đồng hoá xóa bỏ xứ sở nầy đang hoạt động ráo riết. Tầu Cộng dồn lực hướng tới mục tiêu Đại Viêt và luôn cả Đông Dương! Đó là đường tàu thống nhất Trung-Việt! (hết trích)". Đó là tóm lươc về hai chữ chiến lược của Tàu cộng muốn làm thiên tử ngàn đời và Việt Cộng muốn làm chư hầu muôn kiếp.      

Tài liệu của Cựu SVSQTB Thủ Đức (Phạm bá Hoa)

1. CSVN tàn bạo với đồng bào.  1a. Giáo sư Rummel trong quyển “Death by Government”, trong giai đoạn 1945-1957, cộng sản Việt Nam (CSVN) đã giết những thành phần mà họ gọi là các tầng lớp trí thức, tư sản giàu có, khác khuynh hướng chính trị, và những người trong hàng ngũ của họ mà họ cho là chệch tư tưởng cộng sản cũng bị họ giết, cộng chung khoảng 50.000 người.

1b. Trong giai đoạn cải cách ruộng đất trên đất bắc 1953-1955. Bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000 do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết có 172.008 người bị đấu tố. Sau khi sửa sai thì đảng với nhà nước CSVN đưa ra con số 123.266 người bị coi là oan. Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/07/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004  nạn nhân. Theo  bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của  ông Tú Gàn ngày 25/6/2007).

1c. Trong Tết Mậu Thân năm 1968, tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, số hài cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã bắt giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người trong tổng số dân ghi mất tích hơn 5.000 người! Nhưng theo sử gia Trần Gia Phụng thì số người tìm được trong 22 mồ chôn tập thể là 2.326 xác trong tổng số dân bị giết là 5.800 người!

1d. CSVN bắt đầu cuộc gây chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954, đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 Việt Nam Cộng Hòa chúng ta sụp đổ. Theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN năm 1976, ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đã chết trên chiến trường Việt Nam Cộng Hòa, gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào Nam. Nhưng theo nhà văn nữ (cựu cộng sản) Dương Thu Hương thì số người chết lên đến 10.000.000 người.   

1e. Cộng sản cai trị toàn cõi Việt Nam dưới tên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với hằng loạt những chính sách đánh quỵ xã hội mà họ vừa chiếm được. Theo tài liệu của tác giả Lê Tùng Minh, cơ

Page 44: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

sở  Việt Quốc ở Germany, thì Sở Công An Sài Gòn (mà họ gắn cái tên Hồ Chí Minh vào đó), đến cuối tháng 7 năm 1975, Công An đã đẩy 154.772 quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10 cùng năm (1975), Công An bắt thêm 68.037 người nữa. Cộng chung tính đến 30 tháng 10 năm 1975, tổng số cựu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ, bị họ giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cõi Việt Nam là 222.809 người. Đến tháng 4/1992, người cuối cùng mới ra khỏi trại tập trung. Trong 17 năm đó, ước lượng từ 8.000 đến 10.000 tù chính trị bị chết do chính sách thù hận thâm độc của nhóm lãnh đạo CSVN.. 

  1f. Từ sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, CSVN cai trị dân với những chính sách khắc nghiệt, là nguyên nhân chính đẩy hơn 3.000.000 người bằng mọi phương cách rời khỏi quê hương tìm tự do trên khắp thế giới! Theo tài liệu của Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, trong số đó có khoảng 150.000 người di tản trước trong và ngay sau ngày 30/4/1975. Tiếp sau là dòng người Việt Nam ào ạt trốn chạy khỏi quê hương tị nạn tại các quốc gia tự do trên thế giới gồm 839.200 người trong 20 năm kể từ tháng 6/1975: Giai đoạn 1, tháng 6/1975 - 1979 có 326.000 người tị nạn gồm 14.600 người vượt biên giới trên đất liền, và 311.400 người vượt biển mà thế giới gọi là Thuyền Nhân”. Giai đoạn 2, 1980 - 1984, có 253.100 người tị nạn gồm 11.000 người vượt biên giới và 242.000 người vượt biển. Giai đoạn 3, 1985 - 1989, có 197.000 người tị nạn gồm 10.500 người vượt biên giới và 186.500 người vượt biển. Và giai đoạn 4, 1990-1995, có 63.100 người tị nạn gồm 6.700 người vượt biên giới và 56.400 người vượt biển. Các cơ quan quốc tế về truyền thông lẫn tị nạn dựa vào tin tức do người tị nạn cung cấp, phỏng đoán cứ 3 người Việt Nam vượt biên vượt biển thì 2 người đến bến bờ tự do và 1 người chết mất xác. Theo cách ước tính này, có từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên đường chạy trốn chế độ cộng sản độc tài!

1g. Từ bản chất độc tài sản sinh những chính sách giáo dục học đường nhắm đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ, những chính sách của các ngành nhất là hệ thống truyền thông trong mục đích bịt mắt bịt tai bịt miệng mọi người trong xã hội. Với giáo dục học đường và giáo dục xã hội này đã trang bị cho guồng máy cai trị một thứ quyền lực đặt mọi người sống trong tình trạng sợ hãi, và mối liên hệ giữa dân với nhà nước cộng sản trên căn bản “xin và cho” trong chính sách cai trị.

1h. Từ bản chất độc tài sản sinh văn kiện qui định toàn bộ đất đai từ thành thị đến nông thôn đều thuộc về đảng CSVN dưới mỹ từ dối trá “nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý, đảng lãnh đạo” sau khi đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa, đã tạo điều kiện cho lãnh đạo đảng lãnh đạo nhà nước lớn nhỏ khắp hang cùn ngõ hẻm, bằng mọi hình thức ngang ngược khác nhau chiếm đoạt đất đai ruộng đồng vườn tược, phần làm của riêng, phần đem bán cho ngoại quốc. Đó là nguồn gốc dẫn đến tình trạng hàng hàng lớp lớp dân oan kéo nhau đến tỉnh, đến Sài Gòn, đến Hà Nội, cầu cứu Thủ Tướng nhưng Thủ Tướng “lặn sâu trốn kỷ”, cầu cứu Chủ Tịch Quốc Hội Chủ Tịch Nhà Nước nhưng hai Chủ Tịch đều “trốn kỷ lặn sâu”, không một ai giúp dân cứu dân dù rằng đầu môi chót lưỡi lúc nào cũng oan oan “cán bộ là đầy tớ của dân”. Lãnh đạo CSVN là những người vô cảm với mọi người dưới quyền cai trị của họ, bởi họ chỉ phục vụ quyền lợi của đảng mà quyền lợi của đảng là quyền lợi của một nhóm hơn 100 ngườì trong ban chấp hành trung ương đảng.         

1i. Từ bản chất độc tài sản sinh hệ thống tổ chức và điều hành ngành truyền thông, từ báo chí, tập san, phát thanh, phát hình, đến internet, đều trong tay đảng với nhà nước. Toàn bộ hệ thống này không được phép nhỏ một giọt thông tin nào cho 86 triệu đồng bào biết những tin tức ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của đất nước, do nhóm lãnh đạo CSVN: (1) Áp dụng chính sách giáo dục làm băng hoại xã hội. (2) Chủ trương tham nhũng trấn lột cướp đoạt để cùng nhau chia chác và che chắn bảo vệ nhau, cũng là bảo vệ sự tồn tại của đảng CSVN. (3) Luôn luôn tàn bạo với đồng bào, nhưng vô cùng khiếp nhược với CSTH, một quốc gia muôn thuở ấp ủ mục tiêu chiếm đóng hay khống chế Việt Nam chúng ta bất cứ khi nào mà họ cho rằng đó là thời cơ.  

Page 45: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Tóm tắt. Trong mục tiêu bảo vệ đảng cũng là bảo vệ sự tồn tại và giàu sang của bản thân, nhóm lãnh đạo dùng uy lực của Bộ Chính Trị để khống chế đảng khống chế nhà nước, rồi dùng đảng với nhà nước khống chế dân trong chinh sách cai trị, đó là nguồn gốc của sự tàn bạo với đồng bào.   

2. CSVN khiếp nhược với CSTH. Sự kiện CSVN cho công ty Chalieco của CSTH khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung từ cuối năm 2007 đã thể hiện rõ sự khiếp nhược của CSVN với CSTH, qua chuỗi sự kiện sau đây: 

2a. Tháng 09/1958, CSVN công nhận vùng lãnh hải của CSTH bao gồm vùng Biển Đông của Việt Nam.

2b. Tháng 12/1999, CSVN đã bán 789 cây số vuông đất dọc biên giới phía bắc cho cộng sản Trung Hoa (CSTH) để trừ nợ mua vũ khí đạn dược trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa 1954-1975.

2c. Tháng 12/2000, CSVN lại bán 11.362 cây số vuông trong vịnh Bắc Việt cho CSTH với giá 2 tỷ mỹ kim, và dùng số tiền này làm giảm bớt sự phẫn nộ của Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, và các nhân vật trong Quốc Hội. (Lời của Trần Đức Lương, Chủ Tịch nước CSVN nói với Thủ Tướng CSTH Lý Bằng ngày 26/12/2000 tại Bắc Kinh).

2d. Tháng 11/2007, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết Định số 167/2007, về thăm dò khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2015, xét đến năm 2025, và giao cho Tập Đoàn Than & Khoáng Sản quốc doanh Việt Nam thực hiện. Chủ Tịch Tập Đoàn này là ông Đoàn Trung Kiển, dành một hợp đồng cho Công ty Chalieco của CSTH sang khai thác.  

2e. Tháng 12/2007, ngầm thỏa hiệp cho CSTH sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam vào quận Tam Sa  của CSTH. Vì đã thỏa hiệp với CSTH nên ngày 9 & 16 tháng 12 năm 2007 Công An thẳng tay đàn áp các thành phần trong xã hội -nhất là học sinh sinh viên- mít tinh biểu tình phản đối hành động của CSTH lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải Việt Nam. 2f. Tháng 05/2008, tại các thành phố lớn nhất là Sài Gòn và Hà Nội, lực lượng Công An  ngăn chận nhiều thành phần xã hội chuẩn bị mít tinh biểu tình trước tòa đại sứ Trung Hoa cộng sản, phản đối hành động họ trưng dẫn văn kiện 50 năm trước do Thủ Tướng CSVN Phạm Văn Đồng ký ngày 14/09/1958, công nhận tuyên bố của CSTH về vùng lãnh hải của họ bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.        2g. Tháng 06/2008, CSTH đưa hằng chục ngàn công  nhân với thành phần an ninh của chúng sang Việt Nam khai thác quặng Bauxite tại Tân Rai tỉnh Lâm Đồng và Nhân Cơ tỉnh Dak Nông để sản xuất nhôm. Theo các chuyên gia môi trường thì đây là loại quặng mà khi khai thác sẽ gây ô nhiểm môi trường một cách trầm trọng trong một vùng rộng lớn trên Cao Nguyên miền Trung xuống đến đồng bằng sông Đồng Nai.

2h. Tháng 10/2008, tin tức CSTH khai thác quặng Bauxite từ trong nước chuyển ra hải ngoại với những hoài nghi về chủ trương không minh bạch của CSVN với CSTH. Từ đó, một không khí phản đối lãnh đạo CSVN bùng lên tại hải ngoại và trong nước.

 2i. Ngày 14/01/2009, một số sĩ quan quâ đội CSVN tại ngũ lẫn về hưu, gởi kiến nghị lên Thủ Tướng CSVN, yêu cầu dừng dự án khai thác Bauxite để nghiên cứu cẩn thận và đưa sang Quốc Hội thảo luận quyết định.     2j. Tháng 02/2009, trước sức phản đối của nhiều thành phần trong nước với hải ngoại, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố: “Khai thác Bauxite la chủ trương lớn của đảng” (CSVN).

Page 46: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

2k. Báo Tuổi Trẻ ngày 27/3/2009 tại Hà Nội, ký giả Cam Văn Kình với bài viết “Hằng Vạn Công Nhân Trung Hoa Đã Vào Việt Nam”. Bài viết dẫn lời ông Trần Ngọc Hùng, Chủ Tịch Tổng Hội Xây Dựng Việt Nam cho biết thực tế hiện nay hầu hết các dự án lớn về điện, xi măng, hóa chất, đều vào tay nhà thầu CSTH  vì họ được chánh phủ hai bên nâng đỡ nhiều mặt nên giá thầu giảm. Nhà thầu Trung Hoa đưa sang Việt Nam hằng mấy ngàn công nhân với các loại máy móc và thực phẩm mà họ không mua bất cứ thứ gì Việt Nam có.

2l. Ngày 12/04/2009, ba tác giả bản kiến nghị là giáo sư Nguyễn Huệ Chi, giáo sư Nguyễn Thế Hùng, và nhà văn Phạm Toàn, gởi Chủ Tịch nước, Chủ Tịch Quốc Hội, và Thủ Tướng CSVN. Nội dung yêu cầu dừng dự án khai thác quặng Bauxite vì gây nguy hại môi trường sống và an ninh quốc phòng. Sau mấy ngày phổ biến trên các Diễn Đàn với những trang Blog cá nhân, đã có của 135 cùng người ký tên vào bản kiến nghị. Điều đáng để ý là trong số 135 người này gốm nhiều thành phần trong nước, như: Giáo sư đại học, kỹ sư, nhà văn nhà báo, đại biểu Quốc Hội như Nguyễn Lân Dũng, giáo sư Hoàng Tụy, tiến sĩ Phan Đình Diệu, giáo sư Trần Văn Khê, nhà thơ Dương Tường, đạo diễn Trần Văn Thủy. Đến cuối tháng 05/2009, đã có 1.800 người ký tên vào kiến nghị đó. Ngoài ra có một số nhà trí thức hải ngoại cùng tham gia. Một trang nhà có tên www.bauxitevietnam.info do một số trí thức trong nước thành lập lấy chữ ký gửi kiến nghị tới nhà cầm quyền Hà Nội kêu gọi ngưng kế hoạch, chờ đến khi nào có tiến bộ khoa học hơn thì hãy khai thác, tránh tàn hủy và đầu độc môi trường sống không chỉ riêng cho khu vực Tây Nguyên mà cả khu vực dọc theo sông Đồng Nai nữa.

 2m. Trước sức phản kháng mạnh mẽ cả trong nước lẫn hải ngoại, Thủ Tướng CSVN bất đắc dĩ phải ra lệnh đưa nội vụ ra thảo luận và quyết định trong kỳ họp Quốc Hội khóa 12 từ ngày 20/05/2009. Nhưng chiều 18/05/2009, ông Trần Đình Đàn, Chủ Nhiệm văn phòng Quốc Hội trong cuộc họp báo công bố chương trình kỳ họp thứ 5 đã công khai tuyên bố như thể đại diện cho toàn thể Đại Biểu, rằng: “Quốc Hội cũng sẽ hoàn toàn ủng hộ chủ trương lớn này”.     2n. Ngày 25/04/2009, thêm một số cựu sĩ quan quân đội cộng sản đồng ký tên trong một bức thư đề gởi hầu hết lãnh đạo các cấp các ngành, yêu cầu ngưng khai thác quặng Bauxite chờ báo cáo những vấn đề liên quan.

2o. Trang Web hợp tác kinh tế thương mại giữa CSVN với CSTH có địa chỉ www.vietnamchina.gov.vn thành lập năm 2006. Gần đây, nhiều tin tức chuyển tải trên các Diễn Đàn tại hải ngoại và những trang Blog cá nhân trong nước cho biết, phần Việt ngữ trên trang Web này lại tập trung vào chủ quyền của CSTH trên quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. CSTH nói tài liệu Việt ngữ đó trích từ trang Web của đảng CSVN. Với nội này, ngày 14/05/2009, ông Nguyễn Thành Hưng, Cục Trưởng Cục Thương Mại Điện Tử & Công Nghệ Thông Tin (TMĐT & CNTT) thuộc Bộ Công Thương phát biểu: “Tôi nghĩ là không có gì quá ghê gớm cả.”. Ông Hưng nói tiếp: ““Phần nội dung Việt ngữ trên trang Web do Trung Quốc phụ trách để giúp doanh nghiệp Việt Nam, trong khi phía Việt Nam phụ trách phần nội dung Hoa ngữ”. Không thể nào tưởng tượng được “đất của mình bị CSTH nói của họ” mà ông Cục Trưởng trách nhiệm trang Web đó lại phát biểu như thể chánh phủ của ông đã thật sự công nhận chủ quyền thuộc về CSTH rồi. Khi nội dung trang Web bị phát giác, giới trí thức và sinh viên trong nước phản đối dữ dội nên Bộ Công Thương tuyên bố yêu cầu phía CSTH rút bỏ nội dung các bài đó, nhưng đến cuối tháng 05/2009 những bài Việt ngữ đó trên trang Web vẫn nguyên vẹn. Ông Trần Hữu Linh, Cục Phó Cục TMĐT & CNTT của ông Hưng cho biết: “Bên cạnh trang Web nói trên còn có trang Web www.chinavietnam.gov.cn chỉ khác         TRUYỆN NGẮN   TRỐN CHẠY                   *Xuân Vũ TRẦN ÐÌNH NGỌC

Page 47: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

           Cụ ở cùng lều với tôi, tại Subic Bay – Phi luật Tân - từ những ngày đầu tháng 5 năm 1975, sau khi tôi rời khỏi Sàigòn bằng đường biển vào trưa ngày 30-4-1975 ngay sau khi Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng Cộng Sản.

         Không biết cụ tới đây lúc nào, chỉ biết khi tôi đặt chân lên hòn đảo tuyệt đẹp này thì đã thấy cụ ở đây rồi. Tên cụ là Tường  - Lê văn Tường  -  người huyện Phú Thọ, tỉnh Thanh Hoá, Bắc Việt. Dáng người gầy nhưng trông còn khang kiện, năm đó cụ vào khoảng 65, 66 tuổi với những nét nhăn trên trán, trên má và chòm râu bạc trắng như cước.

         Ngày ba bữa cụ rủ tôi đi lấy cơm từ một nhà ăn rộng lớn do Chính Phủ Hoa Kỳ đài thọ, với số người làm bếp đủ để phục vụ mười lăm ngàn đến hai mươi ngàn người trên đảo mà tất cả toàn là người Việt tị nạn,  sau khi đã đào thoát khỏi  Việt Nam trước hoặc sau ngày 30-4-75.  Mỗi buổi chiều, khi lấy đĩa cơm xong, tôi với cụ Tường thường mang ra bờ đá trước nhà ăn, sát chân sóng, vừa ăn vừa nói chuyện, có khi tới tối mịt mới trở về lều. Trong câu chuyện cụ kể cho tôi nghe, có câu chuyện vô cùng thương tâm của chính gia đình cụ mà hôm nay tôi viết lên đây để cống hiến bạn đọc. Và sau đây là lời cụ Tường.            “Thanh Hóa được kể là một trong những tỉnh Chính phủ Cộng Sản Hà nội dùng làm thí điểm trong những đợt  người Cộng Sản gọi là “Ðấu tranh  chính trị, đấu tố địa chủ, cường hào ác bá” hay “Cải cách ruộng đất”  tại Bắc Việt.  Trước Hiệp Ðịnh Genève năm 1954, nghĩa là trước khi Cộng Sản hoàn toàn làm chủ đất Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, trong khi những vùng khác không có thì tại Thanh Hoá cũng đã có những cuộc đấu tố, hiến điền rầm rộ rồi. Trong những cuộc đấu tố đó, biết bao nhiêu lương dân đã gục ngã, biết bao gia đình đã tan nát chỉ vì chính sách quá thâm độc, dã man của Cộng Sản.  Cộng Sản không muốn bị  mang tiếng là cướp ruộng đất của dân nên chúng đánh thuế thật nặng qua những cuộc “lương giá” ruộng tốt, ruộng xấu để đóng nhiều hoặc ít lúa cho Chính phủ mà những nông dân ngồi bình nghị là chính những người được chúng huấn luyện để làm công việc đó. Vì vậy, nhiều gia đình, nhất là những gia đình địa chủ trước kia, đã phải “lậy” mà dâng ruộng đất cho chính phủ,  Cộng sản gọi là “hiến điền”.            Số lương dân bị đấu tố và bị chết trong vùng rất nhiều, tôi không thể nhớ hết. Chỉ xin kể ra vài trường hợp điển hình trong đó có một linh mục Công giáo, cha Phạm Tần -  sau này lên Giám mục -   và thân phụ tôi, một người tôi kính yêu suốt đời.

         Cha Tần ở xứ Phúc Lãng, huyện Quảng Xương, bị Cộng Sản đưa ra đấu tố vì Cộng sản muốn diệt  ngài, diệt một người có uy tín với giáo dân, có thể kích động giáo dân nổi lên chống Cộng Sản, chống những sự tham tàn, độc ác của Cộng Sản.  Dù là một người không Công giáo, tôi cũng biết rõ điều đó.            Bọn Cộng Sản đánh cha hai trận bằng tầu lá cọ có gai nhọn và cứng dài đến hai đốt ngón tay, đánh từ chập tối đến nửa đêm, cho đến khi cha ngất đi không còn biết gì nữa mới thôi.

Trong trận đấu tố này, chúng dùng một đứa con gái tên Chữ, khoảng 21, 22 tuổi. Bố mẹ con Chữ đang là câu, sãi cho nhà xứ Phúc Lãng, từ lâu vẫn sống nhờ sự giúp đỡ của các cha. Bọn cán bộ Cộng sản dạy con Chữ cách căm thù cha Tần. Ðầu tiên chúng nhồi vào đầu óc đứa con gái ngu dại này rằng chính cha Tần và các linh mục trong nhà xứ đã bóc lột sức lao đông của cha con nó từ bao lâu nay. Lẽ ra gia đình nó phải được ăn sung mặc sướng, có nhiều tiền, nhiều thóc như nhà xứ Phúc Lãng. Nhưng vì cha Tần tham lam, không trả công tương xứng nên cha Tần chỉ làm giầu cho chính mình trong khi gia đình nó nghèo túng, thiếu ăn, thiếu mặc. Bọn cán bộ còn bắt con Chữ phải dựng đứng câu chuyện bỉ ổi là trước mặt dân chúng, con Chữ phải nói ràng chính cha Tần đã bắt nó phải ngủ với ông bao nhiêu lần, đã trêu ghẹo nó, làm tầm bậy tầm bạ làm sao vv... Cán bộ Cộng Sản cũng bắt con Chữ và mọi người phải gọi là “thằng Tần” chứ không được gọi là cha Tần như trước.  Ðến ngày đấu tố, bọn cán bộ vào nhà xứ lôi cha Tần ra trước sân cuối nhà thờ, ở đó dân chúng đã bị thúc đẩy đi dự đấu tố đông nghẹt một sân rộng. Con

Page 48: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Chữ đã làm tất cả những gì bọn Cộng sản muốn, kể cả việc nó trùm váy của nó lên đầu cha. Và sau đó là những trận đòn cho đến khi ngất đi.            Cần phải để ý là bọn cán bộ không dùng những người ngoài Công giáo để đấu tố các cha. Chúng dùng ngay những người Công giáo và dùng ngay chính những kẻ xưa nay được tiếng là thân tín với các cha để đấu tố các cha. Như cha Tần, sau khi bị đánh lần thứ hai, chúng tưởng ngài chết rồi  nên gọi giáo dân đến khiêng về nhà xứ mà chôn. Lúc ngài được khiêng vào phòng khách nhà xứ, một người đàn ông tên Mạnh và con Chữ quì xuống nắm lấy tay ngài khóc, nói:          “Chúng con bị bọn cán bộ bắt buộc phải đấu tố cha, phải nói dựng đứng những chuyện cha không có. Chúng con đã đấu tố bậy. Xin cha tha lỗi cho chúng con.”          Nhưng cha Tần đã hôn mê, ngài còn biết gì nữa đâu. Tất nhiên sau đó bao nhiêu ruộng của nhà xứ Phúc Lãng mà chúng buộc là của cha Tần, bị xung công gần hết, chỉ còn để lại mấy sào không đủ nuôi vài miệng ăn trong nhà xứ.            Sau đó đến cha Thước, xứ Thổ Ngõa. Cung cách chúng dùng để đấu tố cha Thước cũng y như những bài bảng đã áp dụng cho cha Tàn. Chúng muốn hạ uy tín các linh mục là những cán bộ nòng cốt của Giáo hội để không một giáo dân nào tin tưởng và tuân phục mệnh lệnh các cha và chúng tiến đến dần đến chỗ tiêu diệt tôn giáo.”          Cụ Tường nói một thôi không nghỉ. Giọng cụ lẫn vào tiếng gió và sóng biẻn vỗ vào bờ đá làm tôi có cảm tưởng những linh hồn oan khuất của những lương dân vô tội bị Cộng sản giết oan trong các đợt đấu tố dã man như đang hiển hiện về đây nói cho chúng tôi nghe những căm hờn uất hận khôn nguôi. Cụ Tường ngưng một lúc, lấy trong túi áo ra một cái ví nhỏ xíu như của đàn bà vẫn dùng. Cụ mở ví lấy ra một tờ giấy mỏng, lấy thuốc lá sắp đều lên tờ giấy. Cụ vấn thuốc  hút. Tôi phải giúp cụ bằng cách ngồi che gió và bật quẹt cho cụ. Khi điếu thuốc đã cháy, cụ rít một hơi, thở khói, nói:          “Tôi đã bỏ hết quần áo sau khi chuyển qua mấy chiếc tầu nhưng cố giữ ít thuốc vấn vì tôi hút thuốc lá của Mỹ nóng lắm, chịu không được.  Ông tính cuộc đời của tôi còn gì. Bố chết phải bỏ nằm đấy mà chạy. Hai lần bỏ vợ, bỏ con. Bây giờ trôi dạt ở đây một thân một mình...”            Tôi an ủi cụ:

         “Thôi cụ ạ, vận nước. Vả lại chẳng qua cũng cái số. Cụ có buồn cũng không ích gì.”

         “Vẫn biết thế, ông Vũ ! Nhưng sao tôi vẫn cảm thấy buồn. Buồn cho nước, cho đồng bào bị cái khổ nạn không biết bao giờ mói qua. Buồn cho gia đình, cho thân thế mình, những người liên hệ với mình, cả một cuộc đời long đong lận đận đầy khổ nhục và nước mắt. Rồi mai sau, với cái hiện tại như thế thì con cháu mình sẽ ra sao, sẽ là cả một cuộc đời tăm tối ở trước mặt, hết thế hệ này sang thế hệ khác.  Thôi được, tôi nói tới đâu rồi, hả ông Vũ ?”            “Dạ, thưa cụ đang nói đến chỗ bọn cán bộ đấu tố cha Thước cùng một kiểu như cha Tần ...”

         Cụ Tường nâng ly nước vừa lấy từ nhà ăn lên nhấp một ngụm:

         “Ờ, ờ, tôi cũng cần phải thêm với ông rằng bọn cán bộ ghép cho các linh mục cái tội “phong kiến” để đem ra đấu tố. Ông có biết sau khi cha Tần bị đánh bằng cái tầu lá cọ , gai đâm vào người cha lấy kìm nhổ ra được gần một chén ăn cơm. Gai đâm khắp mình mẩy, chỉ trừ đầu là chúng chừa ra mà thôi vì sợ đánh vào đầu sẽ chết mau. Ông thấy chúng dã man chưa ? Các linh mục, như tôi nói, chúng dùng toàn người Công giáo để đấu tố; một số địa chủ thì chúng dùng toàn người làm, tá điền và chúng bắt cả con

Page 49: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

cái phải đấu tố cha mẹ như trường hợp cụ Cai Bái ở làng Gia Ðại. Cụ Bái có hai người con trai, một người làm tới chức Chủ tịch Tiểu khu, người kia là Cán bộ Liên khu 3, thế mà hai người này phải về đích thân đấu tố, chửi bố mẹ là địa chủ phú nông bóc lột vô sản, thậm chí nhổ nước miếng vào mặt bố mẹ, đứng nhìn cho những con vợ tá điền trùm váy vào mặt bố mẹ. Tôi hỏi ông, chủ nghĩa vô luân như thế thì còn trời đất nào không?”            “Thưa cụ đúng. Chủ nghĩa nghịch lòng dân, trái đạo trời làm sao đứng vững được.”

         Tôi thấy gió bắt đầu lạnh, trời cũng đã muộn muộn mà ông cụ có vẻ không được khoẻ, bèn đề nghị:

         “Nghe chuyên cụ thâu đêm còn muốn nghe, nhưng có lẽ đã hơi lành lạnh. Mời cụ về nghỉ, mai lại xin cụ cho nghe tiếp.”

           Thu nhặt chén đĩa giấy, tôi đem bỏ vào một cái thùng phuy lớn gần đó rồi cùng cụ trở về lều. Mặt biển đen thẫm mênh mông trước mặt với vài ngọn núi nhỏ trơ vơ. Tiếng sóng đập vào ghềnh đá bộp bộp thành một âm thanh đều dều nghe thật buồn nản. Nỗi kinh hoàng mới vài tuần trước đây tại Sàgòn khi Sàigòn rơi vào tay Cộng Sản cùng với nỗi đau đớn của cái cảnh quốc phá gia vong làm cho thần trí tôi nhiều lúc mê muội đi không còn nghĩ mình đang sống hay đã chết,  hoặc sống nhưng là sống với cái xác không hồn. Một phút bỗng tiêu tan hết, một phút sụp đổ hết. Số phân mình cùng với số phận của đồng bào và cả quốc gia dân tộc. Ðau đớn biết chừng nào ! Những lời an ủi cụ Tường lúc nãy cũng chính là những lời tôi tự an ủi.            Tôi và cụ Tường chui vào lều. Ðám trẻ đã rủ nhau đi coi xi-nê . Mỗi tối, quân đội Mỹ có ba, bốn chỗ chiếu phim để giải trí cho đồng bào tị nạn. Có những gia đình đi được cả vợ chồng con cái, ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng. Họ vui như Tết và có thể họ mang được vàng bạc, đô-la  theo. Họ thấy cuộc di tản này quả có lý. Ngày ba bữa, cả gia đình mấy chục người sắp hàng đi lấy cơm ăn xong ra bờ biển chơi, tối xem xi-nê. Họ vừa lòng với cảnh di tản và không có một điều gì phải lo nghĩ.  Trái lại, có nhiều gia đình vợ mất chồng, con mất cha, anh em tứ tán. Họ buồn rầu, khổ sở, lo lắng. Có những người ngồi khóc cả ngày. Thậm chí có người sang tới Guam rồi ghi tên xin trở về Việt Nam. Có lần tôi hỏi cụ Tường:

         “Người ta kẹt gia đình ở Việt Nam nên có nhiều người xin trở về. Cụ nghĩ sao?”          Nét mặt  rầu rầu, cụ đáp:

         “Tôi bỏ lại nhà tôi và 5 đứa con tại Sàigòn. Tôi cũng đau khổ lắm chứ. Nhưng bảo trở về sống với Cộng sản thì nhất định không. Thà tôi chết dập chết vùi nơi đây còn hơn. Ông Vũ tính coi, tôi đã sống với chúng và chúng đã bắt chúng tôi phải làm tập thể, ăn tập thể. Ðàn ông ở riêng, đàn bà ở riêng. Mỗi buổi sáng đánh một tiếng cồng thì ra đồng làm. Trưa đánh một tiếng cồng thì về ăn cơm.  Có ban hoả thực riêng lo việc nấu nướng.  Chiều lại ra đồng làm rồi tối lại về. Ăn cơm tối xong, họp hành kiểm thảo đến nửa đêm mới được đi ngủ để sáng sớm lại ra đồng. Con người như cái máy chả còn gì là sinh thú của cuộc đời nữa. Vợ chồng thì ba, bốn tháng chúng cho gặp nhau  một lần. Chết đem ra đồng chôn. Sống như thế thì ông bảo tôi trở về để làm cái gì ? Tôi quá sợ cái chế độ đó rồi.”            Ngày hôm sau, cụ Tường và tôi đi lấy cơm sớm hơn. Lại ra chỗ cũ ngồi va cụ lại kể tiếp:

         “Hôm nay tôi kể cho ông Vũ nghe về cái thảm cảnh của gia đình tôi, cái thảm cảnh mà mỗi lần kể là tôi lại khóc.

         Hồi đó, ông bố tôi làm Chánh tổng,  tổng Thủy Cơ. Phải biết tỉnh Thanh Hoá có bẩy phủ, bẩy huyện và tổng Thủy cơ. Tổng Thủy Cơ bao gồm tất cả các thuyền bè đậu ở khắp nơi thuộc về tỉnh Thanh Hoá. Nói thế chắc ông Vũ cũng mường tượng ra Tổng Thủy Cơ lớn như thế nào. Dân số trong tổng Thủy cơ rất

Page 50: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

đông và chức Chánh tổng tổng Thủy Cơ cũng được coi ngang hàng với các chức tri huyện, tri phủ trong tỉnh. Trong đợt đấu tố đầu vào những năm 1950-51, bố tôi thoát được vì ông tìm cách khéo léo với cán bộ xã, huyện để chúng khỏi báo cáo lên cấp trên.  Nhưng đến đợt cải cách ruộng đất năm 1956-57 thì chúng đem bố tôi ra đấu tố. Cũng nên mở một dấu ngoặc ở đây là sau Hiệp định Genève tháng 8 năm 1954, dân Thanh Hoá, cả Công giáo và không Công giáo đều muốn di cư vào Nam. Số người muốn ở lại với bọn Cộng Sản đa số là cán bộ hoặc liên hệ gia đình với cán bộ, không có bao nhiêu. Nhưng bọn cán bộ rất tinh quái. Chúng tìm đủ mọi cách để ngăn chặn  làn sóng di cư vào Nam, y như nhiều nơi khác. Có những gia đình rục rịch trốn đi, chúng biết được liền cản trở và để tâm trả thù, làm hại. Gia đình tôi muốn đi lắm lắm, nhất là bố mẹ tôi, thế mà không sao đi được. Chúng tôi biết chỉ có vào Miền Nam sống dưới chế độ Quốc gia thì mới có tự do sinh sống, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo.  Còn ở với bọn chúng thì mất hết tự do, chẳng những vậy, gia đình tôi bị chúng để ý theo dõi, ngộp thở lắm ông à!

         Tháng 9 năm 1956, nhân cái đợt gọi là “Cải cách ruộng đất” do tên đồ tể Trường Chinh phát động, bọn cán bộ đem bố tôi ra đấu tố. Chúng ghép cho bố tôi cái tội là địa chủ bóc lột tá điền, trước kia là Chánh tổng tổng Thủy Cơ ăn hối lộ và bóc lột dân thuyền bè sinh sống trên sông nước. Chúng kể ra cho bố tôi một trăm thứ tội. Nào là ngủ với vợ thằng tá điền này, đánh thằng tá điền kia, không cho vay lúa thóc, bỏ đói những tên tá điền khác.  Còn mẹ tôi thì chúng ghép vào tội cho tá điền vay lúa thóc lấy lời nặng, trả công người làm với giá lương quá thấp, chết đói vv... Chúng đem trói bố mẹ tôi vào một cái cọc trước sân đình rồi cho các tá điền trước đây làm cho bố mẹ tôi cứ thế mà chửi rủa, quát tháo, lăng nhục.  Con vợ một thằng tá điền tên Cam đã đứng vén váy đái vào đầu bố tôi, còn mẹ tôi thì nó tát cho sưng cả mặt.  Chúng định đưa cả tôi ra đấu tố vì chúng đã ghép tôi vào hàng địa chủ. Vả lại, trước kia tôi có giúp đỡ bố tôi trong công việc hàng tổng, lo về giấy tờ hộ tịch mà người ta gọi tôi là hộ lại của Tổng Thủy Cơ.  Nhưng hình như có một vài đứa đề nghị sao đó, nói rằng nên để tôi vào đợt sau thì hơn vì đem tôi ra đấu cả đợt này cùng với bố mẹ tôi thì e rằng nhân dân sẽ cho là nhà nước tư thù gia đình tôi, đem tất cả ra mà đấu tố.  Nhờ thế mà tôi thoát chết.

         Sau khi chúng đấu tố bố mẹ tôi và đánh đập mắng nhiếc suốt một ngày trời thì chúng cho về, bảo rằng sẽ còn đưa ra đấu tố một lần nữa vào một tuần sau.  Chúng ra hạn cho bố tôi phải làm bản tự thú hết mọi tội lỗi, những tội tưởng tượng mà chúng đưa ra đều phải nhận hết, đồng thời xin Chính phủ, Ðảng và nhân dân tha tội.  Mục đích của chúng là khi đã nắm được bản thú tôi của bố tôi thì mọi chứng cớ đã hiển nhiên, tờ thú tội phù hợp với những lời khai gian, vu cáo của bọn tá điền. Rồi, từ đó, chúng sẽ tịch thu hết ruộng đất, tài sản của gia đình tôi bằng một toà án nhân dân do chúng lập ra.

         Sau trận đấu tố đó, bố tôi về mang bệnh nằm liệt giường.  Mẹ tôi thì đỡ hơn nhưng ông nghĩ coi, tuổi già sức yếu, các ngài làm sao chịu được  những điều khổ nhục đau đớn như thê ?  Ngày xưa, mọi người đều gọi bố tôi là cụ Chánh (Chánh tổng), bây giờ chúng bắt mọi người phải gọi bằng thằng. Chúng cô lập gia đình nhà tôi. Ðem đồ đi chợ bán, chúng không cho người ta mua, nếu chúng tôi muốn mua những đồ cần thiết,chúng cũng không bán. Chúng cấm mọi người liên lạc, lui tới. Chúng rình rập đêm ngày và làm mọi cách để khủng bố tinh thần người trong nhà. Chúng cho người ta có cảm tưởng rằng giầu là một trọng tội, dù giầu bằng sự cần cù, chân chỉ, làm ăn lương thiện. Còn ra làm việc dưới thời Pháp thuộc, dù làm để giúp dân giúp nước, làm một cách ngay thẳng thanh liêm cũng là có tôi, có trọng tội đối với chúng. Tôi chỉ lấy làm lạ rằng sao hồi đó Việt cộng ghét thực dân Pháp đến thế mà bây giờ, sau 30 năm kể từ ngày 19-8-45, Việt cộng lại o bế Pháp hơn ai hết, thân thiện với Pháp hơn bất cứ nước nào. Vậy mà trước Hiệp định Genève 1954,người dân nào bị chúng gán  vào tội Việt gian tay sai cho Pháp thì chỉ có chết, không cách gì sống nổi. Thật kỳ lạ cho cái miệng lưỡi của Cộng Sản.”

         Cụ Tường lại lấy thuốc ra vấn, thông lệ của cụ sau mỗi bữa ăn. Hôm nay gió nhẹ chứ không thổi mạnh như hôm qua. Mặt trời đỏ ối đang từ từ chìm dần xuống mặt biển. Vài chiếc tầu đậu tít ngoài khơi hiện hình trên đám mây trắng trôi nổi trên nền trời xanh. Một đám trẻ hò hét ầm ĩ thả những chiếc tầu nhỏ xíu chúng gấp bằng giấy xuống biển và ngồi trên bờ nhìn cho chúng trôi. Thỉnh thoảng một cái kỳ đen của một con cá lớn chạy dài trên mặt nước làm đám người đứng trên bờ hô hoán lên là kỳ của cá mập.

Page 51: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

         Tôi móc thuốc lá ra  - bao Winston - hút với cụ Tường một điếu cho vui. Ðám người ngồi hóng gió thưa dần. Họ trở về lều hay chuẩn bị đi xi-nê. Chiều xuống lặng lẽ với vài tia nắng mờ nhạt còn thoi thóp trên lùm cây cao phía chân núi. Tôi chìm đắm trong  nỗi buòn thấm thía,  không biết rồi tương lai của mình sẽ đi về đâu.

         Kéo xong vài hơi thuốc, cụ Tường lại tiếp tục:

         “Lẽ ra một tuần sau đó chúng lại đưa bố tôi ra đấu tố một lần nữa như chúng đã nói. Nhưng vì ông bố tôi đau nặng quá không lết nổi,  nên chúng tuyên bố hoãn lại cho đến khi nào ông cụ khỏi. Tuy vậy, chúng vẫn cô lập và rình rập gia đình tôi đêm ngày. Mẹ tôi muốn mua bán thứ gì phải nhờ người em họ, chồng cô ấy vốn làm việc cho chúng từ hồi còn bí mật, để cô ấy mua bán giùm những thứ cần thiết và đến tối mới chui bụi tre phía sau đem vào cho chúng tôi. Dạo đó tôi đã có vợ và 4 đứa con. Gia đình tôi ở cách nhà bố mẹ tôi khá xa. Vả lại, như tôi đã nói, tôi chưa phải là mục tiêu của bọn chúng lúc đó vì vậy còn được thong thả đi lại, nhưng cứ nghĩ đến cái tai nạn bố mẹ đang phải chịu, tôi không cầm được nước mắt. Sau ba tháng, bố tôi hồi phục nhờ vì bà cô lén mua thuốc bắc giùm tại một ông lang mãi tận Ba Làng. Sắc thuốc thì phải sắc lén kẻo mùi thuốc bắc đánh sang hàng xóm, bọn công an vào khám được thì tội càng nặng thêm. Ðồ ăn đồ uống có cái gì ngon cũng phải xào nấu lén. Mua đượcmột con gà để nấu cháo cho bố tôi ăn cho chóng khỏi, phải cắt tiết ở ngoài cánh đồng, còn lông thì đem chôn ở góc vườn. Ăn giấu, ăn đút còn hơn là kẻ có tội nữa. Tôi chưa thấy cái chánh sách nào kỳ cục như thế.          Chỉ còn mười ngày nữa là đến tết Ðinh Dậu (1957), bọn cán bộ đến báo cho bố mẹ tôi là chúng sẽ đem bố mẹ tôi ra đấu tố một lần nữa vào đúng ngày hăm ba tháng chạp năm Bính Thân, ngày ông Táo chầu trời.  Trước đó, tôi cũng đã dược biết qua một người bạn rất thân đang làm việc với chúng là sau bố mẹ tôi thì sẽ đến lượt tôi. Tội nghiệp bố tôi, nào ông cụ đã khoẻ hẳn đâu cơ chứ. Mới hơi hơi lại người sau một cơn đánh đập tàn ác thập tử nhất sinh, thiếu thuốc, thiếu đồ bồi dưỡng. Ông cụ mới đi đi lại lại được trong sân nhà và từ nhà trên xuống nhà bếp thì chúng lại đưa ra đấu tố nữa. Hai thằng đầu trâu mặt ngựa vốn xưa kia là tá điền của bố tôi, bố tôi coi chúng như con, lấy tô rất nhẹ lại còn dựng vợ gả chồng cho chúng, cho tiền, cho thóc đối đãi hơn cả cháu ruột. Thế mà giờ này chúng nghe theo lời bọn cán bộ nhất định giết bố tôi cho bằng được.

 Ðối với chúng, “Trí, Phú, Ðịa, Hào, đào tận gốc trốc tận rễ” còn phải căm thù hơn cả giặc xâm lăng. Chúng muốn cho toàn dân ngu dốt và nghèo đói để chúng dễ cai trị và chỉ có một giai cấp thống trị là bọn chúng.

         Chiều hăm hai tháng chạp, bố tôi gọi tất cả con cái tề tựu lại trước bàn thờ tổ tiên. Có vài người chị gái tôi lấy chồng xa không thể đến được, còn thì tất cả đều hiện diện đầy đủ. Vì là gần Tết, bon cán bộ mải đi sám sửa tét nhất nên chúng lơ là việc canh chừng gia đình toi nên mọi người mới tề tựu đông đủ được. Khi con cái đã ngồi trên mấy cái chiếu trước bàn thờ, bố tôi sai tôi đi thắp hương và nến lên. Cụ mặc quần áo trịnh trọng, đội khăn và đi giầy tử tế rồi đứng trước bàn thờ lâm râm khấn và lễ.  Xong cụ đúng bên cạnh để mẹ tôi, rồi lần lượt đến chúng tôi, ai ai cũng đều khấn vong linh ông bà tổ tiên và lạy trước bàn thờ. Mẹ tôi và mấy đứa em gái thấy khung cảnh trang nghiêm và cảm động, lại nhớ đến hoàn cảnh đau đớn của gia đình, bất giác bật khóc. Bố tôi thấy vậy không cho khóc, cụ nói bọn cán bộ nghe được thì chúng giết cả nhà. Vì vậy chỉ còn nghe những tiếng nấc tức tưởi với hàm răng nghiến chặt cho tiếng khóc khỏi bùng ra. Lễ xong, bố tôi bảo mọi người ngồi xuống chiếu, còn cụ thì ngồi ngay chính giữa sập, mẹ tôi ngồi một góc bên cạnh. Cụ dõng dạc nói:

         “Nhà ta từ các cụ cho đến đời bố mẹ đều cố gắng ăn hiền ở lành. Làm việc cho hàng tổng thì bố cố giữ thanh liêm vì nhà ta có bát ăn bát để từ lâu, đâu có thiếu thốn gì mà phải đào khoét của dân. Còn ruộng nương, điền thổ trong nhà là do ông bà để lại, tá điền cấy rẽ thì lấy tô thật nhẹ, nhẹ hơn người ta nữa thế mà từ ngày chánh phủ mới lên, họ khép cho bố những tội tầy đình, nào địa chủ bóc lột, nào

Page 52: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

cường hào ác bá. Họ đã đem bố ra đấu tố một trận và kết quả là bố tưởng chết ngay sau đó. Bây giờ mới tỉnh dậy được một tí, họ lại đem ra đấu tố nữa. Bố nghĩ trước sau bọn cán bộ cũng sẽ tìm cách giết bố cho bằng được, mà giết một cách khổ nhục, ê chề. Vì vậy, có thể lúc lâm chung bố không còn kịp gặp mẹ và các con, ngày hôm nay bố gặp mẹ và các con một lần cuối.”

         Bố tôi nói đến đó thì nghẹn lời, cụ không nói tiếp đuợc nữa vì quá cảm động. Mà mẹ tôi với anh em chúng tôi cũng không cầm được nước mắt, tiếng khóc oà vỡ ra như nước lũ phá bờ đê. Bố tôi thấy vậy, nghĩ là quá nguy hiểm nên khoát tay ngăn mọi người và nói:

         “Bà và các con cấm không được khóc. Khóc tụi nó nghe thấy thì còn khổ hơn. Hãy nghe đây! Sau khi bố chết rồi thì cả nhà may ra sẽ được yên với chúng nó hơn,  vì cái gai là bố chúng nó đã nhổ được rồi. Chỉ có thằng Tường có ra làm việc với tổng mà lại có tư điền mấy chục mẫu vậy sau bố có lẽ chúng nó để ý dến con. Con liệu xem có cách nào trốn để bảo toàn được cái mạng chứ con ở nhà thì bố chết không nhắm mắt đâu.”

         Nói xong, ông cụ bảo mọi người giải tán rồi vào trong buồng nằm. Tôi cũng trở về nhà vì lúc đó cũng gần tối.             Ðêm hôm đó tôi không ngủ được. Phần nghĩ rằng ngày mai chúng sẽ đưa bố tôi ra đấu tố, có lẽ lần này bố tôi chết nên ông cụ đã trối trăn hết tất cả.  Cứ nghĩ đến một đời bố tôi lo lắng cho mẹ tôi và chúng tôi, ăn hiền ở lành, người trong tổng Thủy Cơ, ngay cả nhiều nơi trong tỉnh Thanh Hoá cũng quí mến bố tôi vì tinh thần hay cứu giúp người và làm việc nghĩa. Thế mà bây giờ bọn chúng thù ghét bố tôi đến như thế, không muốn để bố tôi sống nữa. Về phần tôi là con trai cả trong gia đình, tôi có bổn phận nhiều hơn các chị và các em tôi để nhang khói cho ông bà cha mẹ. Nhưng tôi biết rõ, sau bố tôi là đến lượt tôi vì vậy bố tôi hết mực khuyên tôi phải cao chạy xa bay thì mới bảo toàn được mạng sống.  Tôi có hai người đồng chí cùng muốn trốn với tôi.  Người thứ nhất là bạn cùng làm việc trong hàng tổng, giữ chức thư ký, tên anh ta là Các, cũng trạc tuổi tôi, có vợ và năm đứa con. Người thứ hai là ông thầy bên Công giáo vẫn gọi là thầy Ðiền, đang dạy trẻ tại xứ Thổ Ngoã.  Từ hôm cha Thước bị đem ra đấu tố vì mỗi cái tội bị ghép là “phong kiến”, ông thầy Ðiền đâm ra sợ hãi quá chừng.  Ông tìm gặp tôi vì trước kia ông hay đến nhờ cậy bố tôi và tôi việc hàng tổng. Ông dám nói thật với tôi ý định trốn đi vì ông biết tôi cũng đang tìm đường trốn và có thể tin cậy tôi được.  Có lẽ nay mai tôi phải kiếm cách gặp hai người  đó để bàn tính ngày lên đường vì nghe đồn đã có ít người trốn được vào Nam rồi.          Hai giờ đêm đó, con bé cháu con cô em tôi (ở chung nhà với bố mẹ tôi) đến báo cho tôi hay bố tôi đã mổ bụng tự sát. Nó nói sau khi con cái về hết rồi, bố tôi đi lấy một con dao đi rừng thật tốt đem ra mài.  Cả nhà cứ nghĩ có lẽ tết  gần đến, cụ mài dao như mọi năm, để có thái thịt thái rau gì chăng nên chẳng ai để ý.  Mài dao xong lại thấy cụ vào phòng nằm. Ðến hai giờ đêm, mẹ tôi nghe tiếng bố tôi rên la nhè nhẹ,  liền thắp đèn lên chạy vào thì thấy máu đổ ra hàng vũng lớn trên nền nhà mà bố tôi ruột gan phơi cả ra ngoài, mắt trợn trắng, sắp chết rồi. Khi ông cụ ra dấu cho bà cụ ghé tai vào miệng để ông cụ trối thì bà cụ chỉ nghe được có năm tiếng thì thào gần đứt hơi:” Bảo thằng Tường trốn ngay !” Nói xong câu đó, cụ trút hơi thở cuối cùng. Ngay lập tức, mẹ tôi cho đứa cháu gái len lỏi đi lối tắt đến nhà tôi báo tin dữ, đồng thời bảo tôi liệu mà trốn đi ngay, chớ có thương tiếc gì nữa.

         Nghe đứa cháu nói xong, tôi khóc oà lên, thương cho bố tôi quá và cũng cảm phục bố tôi quá can đảm, thà tư giết mình hơn là để bọn cán bộ giết, thà chết như thế còn hơn là sa vào tay bọn chó sói.  Nhưng tôi phải bụm miệng ngay lại.  Bố tôi đến lúc chết vẫn còn nghĩ dến tôi, mấy lời cuối cùng của cụ là giục tôi trốn đi. Vậy tôi phải cố gắng làm theo ước nguyện của Người để linh hồn Người được mát mẻ nơi chín suối.

         Tôi bảo con cháu ra về đồng thời quay dặn vợ tôi vài câu, nhìn qua mặt mấy đứa con đang ngủ, rồi cứ thế, với một bộ quần áo độc nhất trên người và ít tièn trong túi, tôi đến nhà anh Các.  Tại đây, tôi bàn

Page 53: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

kế hoạch trốn đi với anh và anh đồng ý ngay. Tuy nhiên, chúng tôi phải đợi đến đêm hôm sau mới đi được vì còn nhờ người thông báo cho thầy Ðiền. Chúng tôi muốn có bạn đồng hành vì đi toàn đường rừng rất nguy hiểm, người nọ dựa vào người kia, lúc khoẻ đã vậy lúc đau ốm,  có bạn cũng đỡ nhiều. Sở dĩ bọn cán bộ không truy lùng tôi ngay vì sau khi bố tôi chết rồi, mẹ tôi không động tĩnh  gì hết, cứ mặc quần áo và đắp chăn chiếu cho ông cụ y như cụ hãy còn sống. Mẹ tôi cũng cấm con cháu trong nhà không được khóc và cấm loan tin bố tôi đã chết ra ngoài. Có lẽ mẹ tôi  dụng tâm giúp tôi một lần cuối cùng để cho tôi đi thoát vì nếu bọn cán bộ biết bố tôi đã chết, chúng đến nhà không thấy có mặt tôi là truy lùng tôi ngay.

         Tối hăm ba ông Táo chầu trời, vào lúc vàng vàng mặt trời, bọn cán bộ kéo đến nhà bố tôi cùng với những tên tá điền phản chủ, vô ân bội nghĩa. Chúng vào trong nhà quát ầm ĩ lên:” Thằng Thiềng đâu ? Hãy ra đây cho nhân dân xử tội !” Mẹ tôi chỉ tay vào trong buồng. Bọn chúng tông cửa chạy vào nhưng tất cả đều bổ ngửa ra khi thấy bố tôi đã chết. Tự sát chết. Dĩ nhiên chúng tra khảo mẹ và các em tôi rất dữ nhưng đầu mối là bố tôi mà bố tôi đã chết rồi, chúng có làm gì chăng nữa thì cũng đến thế thôi. Một tên trong bọn sực nhớ đến tôi, liền la lên:”Còn thằng con của nó nữa, thằng Tường.” Thế là cả bọn bàn kế hoạch  truy lùng tôi nhưng lúc đó tôi đã cùng hai người bạn vào sâu trong rừng rồi. Sở dĩ tôi biết được các chi tiét xẩy ra sau khi đi vì có mấy người làng sau này cũng trốn được vào Sàigòn kể lại cho nghe.                                                   *          Cuộc hành trình xuyên sơn của chúng tôi vô cùng gian khổ. Khởi hành ngày 23 tháng chạp mà đến tháng tư năm sau chúng tôi mới tới được khu vực do quân đội Quốc gia kiểm soát tại Quảng Trị. Từ Thanh Hoá, nếu đi theo quốc lộ I, chúng toi phải đi qua Nghệ An, Hà tĩnh, Quảng bình rồi mới đến Quảng Trị. Cách Quảng Trị hơn 30 km là cầu Hiền Lương, bắc qua sông Bến Hải, ranh giới giữa hai miền Nam Bắc. Sang được bờ phía Nam sông Bến Hải đã là điều mừng lắm rồi. Nhưng chúng tôi đâu có dám đi theo quốc lộ.  Con đường chúng tôi đi còn xa và nguy hiểm hơn con đường mòn dọc Trường Sơn bọn cán bộ Việt Cộng sau này dùng để tải bom đạn và người vào quấy phá mièn Nam. Có khi, mỗi  ngày chúng tôi chỉ đi được hơn chục cây số, lại phải nghỉ và trốn vì sợ bọn chúng bắt gặp. Ðã có những nhóm người bị chúng bắt, chúng đem  xử tử ngay, không cần phải giải về quê quán.

         Một lần ba anh em chúng tôi lạc vào một bộ lạc người thiểu số, chẳng biết là Mường hay Mán, ở gần biên giới Lào - Việt. Mới đầu, bọn người này làm rất dữ, tôi tưởng phen này chắc là bị chúng giết vì ngôn ngữ bất đồng, không sao giải thích cho họ hiểu được. Nhưng sau nhờ có một ông già trong bộ lạc đứng ra nói với tên tù trưởng và đưa chúng tôi về nhà, một cái nhà sàn ngay giữa làng.  Ông già và vợ con ông ta đối đãi với chúng tôi rất tử tế. Nào cho ăn, cho quần áo thay để tắm giặt, cho uống rượu cần và líu lo với chúng tôi cả ngày nhưng chúng tôi có biết họ nói gì. Ông bà già có một người con gái chừng hai mươi tuổi, xinh xắn, dễ thương. Tên cô là Mây Mali. Cô thường sắp cơm cho chúng tôi ăn, dẫn chúng tôi ra suối và kể cho chúng tôi nghe những chuyện  thật dài nhưng chúng tôi hoàn toàn không hiểu, chỉ gật đầu tràn.

         Chúng tôi lưu lại nhà của Mây Mali một tuần lễ cho lại sức vì cả tháng chỉ toàn ăn đồ khô và ngủ trên cành cây trong rừng. Có mấy viên thuốc cảm đưa đi uống đã hết, chúng tôi chỉ sợ bệnh sốt rét rừng giữa đường thì thật là nguy khốn. Một bữa, ông già ra hiệu bảo với chúng tôi ông sẽ kiếm cho chúng tôi mỗi người một cô vợ. Riên thầy Ðiền trẻ nhất bọn và khá đẹp trai, ông sẽ gả Mây Mali cho. Nghe hai ông bà già nói, chúng tôi cứ cười ngặt cười nghẽo. Hoàn cảnh này mà dám nghĩ đến chuyện lấy vợ lấy con sao? Giá có tiên thực chúng tôi cũng không dám. Mạng sống đang như sợi chỉ mành treo chuông còn dám bay bướm sao ? Chúng tôi khoát tay chối từ với ông già nhưng ông không hiểu lại nghĩ chúng tôi từ chối lấy lệ. Và ông làm ngay điều ông định làm.

         Tối hôm đó, ông già bảo thầy Ðiền nằm riêng ra rồi cho Mây Mali đến nằm cạnh thầy. Còn tôi và Các thì ông dẫn ở đâu đến hai cô con gái khác. Ông nói những gì với hai cô này rồi một cô lại kéo tay tôi và một cô đến kéo tay Các đưa ra cửa. Tôi và Các khựng lại không chịu đi. Hai cô này có vẻ rất ngạc nhiên, nói một tràng với ông già. Ông già lại nói với tôi và Các,  và cầm tay tôi và tay Các đặt vào tay hai

Page 54: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

cô gái. Nhưng chúng tôi vẫn không chịu đi. Rốt cuộc hai cô gái Mường tiu nghỉu ra về trong khi ông già buồn bã lắm.

         Cuộc “tình duyên” của tôi và Các với hai cô gái không êm đẹp chút nào, nhưng cuộc “tình duyên” của Mây Mali và thầy Ðiền cũng không hơn gì. Sau khi hai cô gái ra khỏi nhà ông bà già, Ðiền lại chổ ba chúng tôi vẫn nằm ngủ và nằm miết ở đó tới sáng. Tội nghiệp cho Mây Mali, cô bị bẽ bàng lại còn bị bố mẹ phiền trách, làm như cô không đủ tài thu hút đàn ông. Sáng hôm sau gặp chúng tôi, mặt cô cứ đỏ nhừ lên.

         Dù ông bà già thiểu số tốt cách mấy, chúng tôi cũng phải lên đường. Vả lại, sau khi dàn xếp việc gả mấy cô gái cho chúng tôi không xong, ông bà già không còn mặn mà với chúng tôi như trước và có lẽ muốn chúng tôi đi sớm. Chúng tôi cũng biết điều đó và sửa soạn lại lên đường.          Ngày nhìn thấy bờ sông Bến Hải là ngày vui mừng khôn tả. Chúng tôi nhìn thấy sự sống, nhìn thấy Tự Do, nhìn thấy tương lai sáng lạn.  Riêng tôi không khỏi buồn vì trón đi giữa lúc bố chết. Mẹ, vợ, con và các chị em tôi bây giờ ra sao ? Có đỡ bị hành hạ không ? Cứ nghĩ đến đó, lòng tôi thắt lại. Sau khi trình diện toà Tỉnh Trưởng Quảng Trị, chúng tôi được cấp phát giấy tờ và ít tiền làm lộ phí. Sau đó cả ba chúng tôi đều quyết định vào Sàigòn để  làm lại cuộc đời mới. Tôi bị cắt đứt với gia đình không liên lạc được. Năm 1960, tại Sàigòn, tôi lại lập gia đình với người con gái một gia đình hết lòng thương tôi như con ruột. Nhà tôi  sau đó có với tôi năm đứa con, ba trai, hai gái. Cháu gái lớn nhất năm nay đã 13 tuổi. Cháu đang học lớp 8 trung học.”

         Cụ Tường ngưng một chút để nghỉ. Giọng cụ lạc đi khi nói đến người vợ và 5 đứa con thân yêu đang ở bên kia bờ đại dương , không biết sống chết thế nào.

         Cụ đúng lên. Tôi biết ý cụ đã muốn về. Trên đường về lều, cụ bảo tôi:

         “Tôi biết trước là phải chạy mà không sao thu xếp cho vợ con cùng đi được, ông Vũ ạ. Nhà tôi cũng biết tôi ở lại là chết nên khuyến khích cho tôi đi y như người vợ năm xưa ở Thanh Hoá cũng chỉ nghĩ đến cái mạng sống của tôi mà thôi. Chín đứa con thân yêu, hai lần chạy giặc Cộng, tôi không mang theo được đứa nào để an ủi khi tuổi già xế bóng. Hai người vợ sống chết với mình, cả hai lần bỏ lại. Ông nghĩ đã đau đớn chưa ? Nhưng tôi không làm sao hơn được. Tôi ghê sợ bọn chúng quá rồi, thà tôi chết còn hơn phải sống với Cộng Sản.”

         Tôi cứ để cụ nói cho vơi bớt đau khổ. Tôi chỉ nghe và cảm nhận. Càng thấm thía khi chính hoàn cảnh tôi lúc đó không hơn gì hoàn cảnh cụ, cũng như hoàn cảnh xẻ đàn tan nghé của một số đông đồng bào di tản đang ở trên đảo Subic Bay này.

         Ngày sang Guam, tôi với cụ Tường cùng đáp một chuyến bay và tôi với cụ lại ở cùng lều tại Orote Point. Sau đó, tôi đi đảo Wake kiếm gia đình (bị thất lạc), còn cụ đi Camp Pendleton, California và từ đó tôi không còn gặp cụ nữa.                                  Orange County, CA 30-4-1978

             Xuân Vũ TRẦN ÐÌNH NGỌC   Ðón đọc:” Mười bốn năm sau”, đoạn kết của câu chuyện có thực, thương tâm này, cùng tác giả.               

Page 55: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Hỡi ơi! “Đỉnh Cao Chó Lợn” và “Đá Văng Chân Lý” của Dương Thu Hương!

Bài 5 (tiếp theo) GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc  

Chị  Thu Hương, Tôi thiển nghĩ trong cuộc sống tinh thần của con người, phần tư tưởng là quan trọng nhất bởi tư  tưởng nảy ra hành động. Tư  tưởng đúng, tức suy nghĩ  đúng thì hành động đúng, làm  đúng. Trái lại tư tưởng sai tức suy nghĩ  sai thì hành động sai, làm sai. Tư  tưởng là cái nhân (noyau) hành động là cái quả vậy.  Marx và Engels đã quá sai lầm khi đẻ ra cái chủ nghĩa hoang tưởng Cộng sản. Từ  những lý thuyết sai lầm  đó, một phần nhỏ nhân loại  áp dụng lý thuyết này cho đời sống, trong đó có  Hồ, tạo ra một biển máu, núi xương (hàng trăm triệu nạn nhân đã chết vì  bị Cộng sản giết), tạo ra những xã  hội đồi truỵ, con người tha hoá, mất hết nhân tính, tham tàn độc ác, (giết cả  cha mẹ, ông bà, anh chị  em...) ảnh hưởng tai hại không biết thế  nào mà kể và nó lưu truyền những tai hại  đó không biết là bao nhiêu thế  hệ sau này.  Bởi vì, đó là người Việt Nam vĩ đại nhất thế kỷ 20, vĩ đại như một con người với tất cả chiều kích nông sâu, nhầm nhỡ và lầm lạc. Bởi vì, chính ông ta là nhân vật đầu tiên thấu hiểu giá trị của nền dân chủ và tìm mọi cách du nhập vào Việt Nam. 

Người Việt Nam sẽ không thể duy trì được quốc gia nếu chỉ biết khấn vái vị thánh Hồ Chí Minh, nhưng họ có thể làm được điều đó nếu biết nhìn nhận lại và suy ngẫm một cách thấu đáo, khúc chiết về nhân vật này dưới ánh sáng của lý trí.  

Chị Thu Huơng, tôi không muốn moi móc những điểm sai của chị ra nhưng nếu không nói thì bạn đọc (ngay cả chị) cho rằng tôi đồng ý với những lập luận đó.

Ông Hồ vĩ đại với chị và một số nhỏ  đảng viên cuồng tín của ông ta, những đứa đang làm chuyến tầu vét, chứ với dân tộc, với người Quốc gia chúng tôi, với đa số đảng viên đã phản tỉnh thì Hồ là kẻ  đã mang cái đại hoạ cho Việt Nam, một kẻ tội đồ không những ghê tởm nhất thế kỷ 20 mà còn suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt cũng như thế giới!  

Có thể ông ta biết về Dân chủ nhưng ông ta không du nhập Dân chủ vào Việt Nam mà chỉ  cưỡng bức dân Việt đi theo chủ  nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Tam Vô, Vô  Tổ quốc, vô gia đình, vô  tôn giáo. Cái tên đúng của nó  (mà khi xưa ông ta giấu diếm) là  Cộng sản. Tên đảng của ông ta (đảng Cộng sản Đông Dương, rồi sau mới  đổi là đảng Lao động để lừa gạt nguời ngoại quốc và trong nước), mọi thứ của ông ta (thờ Stalin, Lenin, Marx, Mao; cờ  búa liềm trong những cuộc họp lớn) đã nói lên điều đó: Cộng sản chứ  không phải Dân chủ, tôi lại phải nói, chắc chị  điên loạn thế nào chứ sao chị viết sai như  thế được?  

Có chế độ Dân chủ nào mà người đứng đầu nước không bao giờ  được bầu, chỉ tự đặt mình vào vị trí  đó như Hồ, suốt từ 1946 (khi y dẹp chính phủ Liên Hiệp) cho đến khi y chết, 2-9-1969? Có chế độ Dân chủ nào mà Chủ tịch Quốc Hội làm 27 năm liền như Trường Chinh? Có chế độ Dân chủ nào mà  thành viên Quốc Hội toàn do đảng CS chọn (đảng viên trung thành), người dân bỏ phiếu lấy lệ để che mắt thế  giới? Có chế độ Dân chủ nào mà Nhà báo, Nhà Văn, Nhà thơ, những người làm truyền thông phải đi bên lề phải, thông tin theo đơn đặt hàng của đảng, 700 báo đài chỉ có một Tổng biên tập? Có chế độ Dân chủ nào người dân phải câm miệng suốt trong hơn 60 năm dù trong lòng căm hận, đau đớn, nhục nhã vì bị tước đoạt hết mọi quyền làm người?

Page 56: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Có chế độ Dân chủ nào bịt miệng Linh Mục Nguyễn văn Lý, bỏ tù LS Lê  thị Công Nhân, LS Nguyễn văn  Đài và cầm tù hàng trăm Nhà  đấu tranh cho Dân chủ khác khi họ  nói lên quyền làm người, quyền tự  do thông tin, tôn giáo, đi lại  đã được minh định trong cái gọi là  Hiến pháp 1992 của chính vgcs soạn ra? Có chế độ Dân chủ nào công an muốn bắt người lúc nào cũng được, bắt ai cũng được, mang về đồn đánh gẫy răng, dập ngực, có  khi giết oan người ta nhưng bọn cấp trên tạo ra những cái cớ như anh ta chạy, cưỡng lại người thi hành nhiệm vụ để chạy tội cho bọn cấp dưới hung hãn làm càn? Có chế độ Dân chủ nào bọn quan toà bênh vực đảng viên, bênh vực bọn bị  can đút lót xử ức những nguyên  đơn không phải là đảng viên hay không có tiền hối lộ cho quan toà và bọn lau nhau tại toà? Có chế độ Dân chủ nào  đi từ đầu phố ra cuối phố  phải báo cáo tạm trú tạm vắng, 5 người trở  lên hội họp ăn uống, cầu nguyện, chuyện vãn cũng phải xin phép?

Xin chị vui lòng trả lời!  Với nhân dân cả nước, chỉ có chế độ Dân chủ  của Hồ dâm tặc là  có những đặc điểm  ấy. Y biêt lòng dân oán thán, căm hờn y nên y cố  chiều chuộng bọn thủ hạ, cho quyền rất lớn nghĩa là ăn cướp của người dân nào, nhà  thờ nào, chùa chiền nào cũng được; bắt giam ai, trù  dập, đánh giết  ai cũng được, hủ hoá chiếm vợ con tài sản người ta sao cũng được. Hồ thì gái cả đàn như thế ai cũng biết, còn Võ nguyên Giáp, Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê đức Thọ, Mai chí Thọ, Đinh đức Thiện v.v...không thằng nào không hai, ba, bốn vợ. Con vợ thằng Lê Duẩn vì ghen mà giết vợ chồng đào Thanh Nga-Đổng Lân ở Sàigòn chỉ vì Lê Duẩn mê Thanh Nga (sau 30-4-1975). Hồi vào bưng, cục R, y cưỡng bức người con gái tên Thuý Nga, con đại điền chủ, lúc ấy thị đang là Chủ tịch hội Phụ nữ cứu quốc Nam bộ, chị Thuý Nga này không ưng vì Duẩn đã 42, gấp đôi tuổi của Thuý Nga nhưng Duẩn vờ mời họp rồi một đêm mưa gió, y cưỡng dâm người con gái khốn nạn. Chuyện đã rồi, Thuý Nga phải lấy y làm vợ bé thứ hai thứ ba gì đó!  Cái chế độ Dân chủ của Hồ tặc của chị nó thối tha như  cái xác ướp còn đang giữ  trong lăng Ba Đình. Chị qua Tây đã lâu cũng nên bay về  VN một chuyến, nhang đèn ra đó mà vái lậy! (Bài 1, 2, 3, 4 lưu trữ  tại vietnamexodus.org  Văn học).

Cái chế độ ngược ngạo, phi dân chủ  ấy mà chị gọi là ông Hồ mang dân chủ  vào Việt Nam, người đọc lấy làm lạ  cho cái kiến thức đặc sệt bã  đậu của chị (tự  hào là trí thức), chị  đã làm nhục cho những người mang danh trí thức! Nếu không phải vậy thì  chắc chị đã mù vì  mù nên mới nói xằng, nói bậy như thế chứ người sáng, một học sinh Trung học ở Sàigòn lớp 12 tôi dạy khi xưa, khi nêu những câu hỏi trên, các em cũng trả lời ngay boong là không có một chế độ Dân chủ nào “ruồi bu, kiến đậu” tầm bậy tầm bạ như thế! 

Nói về Dân chủ, chị có  hiểu thế nào là Tam quyền phân lập? Nếu không biết thì chị có  thể hỏi ông TS Hà  sĩ Phu, BS Phạm hồng Sơn, TS Nguyễn thanh Giang v.v...Đám sĩ phu Bắc Hà nhiều anh nhiều chị  hiện giờ còn thở nhưng thực sự  đã chết lâu rồi, luôn luôn câm như  hến để kiếm vài lạng thịt lợn. Những anh chị  ấy, đúng ra, chỉ là  cái xác còn biết đi, ấy là  chưa nói những bọn bồi bút khác, giờ  này, khi giặc Tàu vào đô hộ  rồi, vẫn lai rai dăm ba bài liếm trôn cái xác thối của thằng già Hồ đê tiện  để kiếm cơm thừa canh cặn. Nhìn xung quanh chị  là thấy ngay! Nhan nhản ra!    Chúng tôi không khấn vái ông “thánh Hồ” như  chị nghĩ sai lầm. Y chỉ là thánh với chị! Trái lại, với chúng tôi, y là tội đồ phải ra toà án quốc tế về tội diệt chủng!

Chỉ có bọn ngu đần và bọn bán nước mới mang tượng Hồ vào chùa Bình Dương để vái lậy thôi. Chúng đặt tuợng thằng điếm này trước tượng Phật Thích Ca nữa. Mai mốt, chúng sẽ  đập bỏ hết tượng Phật, tượng Chúa để chỉ còn tượng thằng điếm thối này cho dân chúng lậy! Người Việt Nam không có ngu như chị tưởng đâu nhưng ai ai cũng muốn an thân làm  ăn nuôi con, không ai muốn dây với hủi mà  hủi nghĩ là họ  tâm thành vái lậy hoặc sợ chúng!

Page 57: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Thành phần ngày nay còn vái lậy Hồ  tặc không nhiều. Đó là  bọn bồi bút, văn nô, thi nô, báo nô, trí  nô, bọn theo đóm ăn tàn trong nước và  một bọn đĩ điếm, gia nô  ở hải ngoại lì mặt, vừa nhận tiền của CP Mỹ, CP Pháp kiểu tiền già, tiền bệnh vừa lĩnh lương của bọn Bắc bộ phủ  nên viết bài vái lậy Hồ. Ngoài bọn này, trong nước còn một bọn tỉ phú, bọn  đảng viên làm giầu nhờ  cái xác thối ở Ba đình. Nước Việt Nam bị  ngoại quốc khinh rẻ cũng vì  tất cả những bọn này. Chúng bắt chước cái lươn lẹo, gian dối, bất lương, xảo trá, lưu manh của Hồ y khuôn đúc!  

Cái xác thối tởm lợm của thằng già  Hồ từ ngày 2-9-1969 đã tốn hàng nghìn tỉ tiền thuế  của nhân dân để ướp và  bảo quản. Mỗi năm phải  đưa sang Nga cho chuyên viên tái bảo quản tốn phí  kinh khủng. Một sư đoàn dưới quyền chỉ  huy “Bộ tư lệnh bảo vệ  Lăng Bác” ngày đêm canh giữ  xác thối, tiền nuôi chúng một năm cùng với mọi chi phí  có thể nuôi vài ba chục ngàn gia đình nông dân dư thừa.  Vậy mà chúng vẫn ngoan cố  duy trì và vẫn leo lẻo mồm rằng phải cần kiệm liêm chính như lời “bác”  dạy! Vài năm nay vua nước Saudi Arabia qua đời, nhà vua dặn chôn cất  ông trong nghĩa địa của công chúng, nằm như  mọi người dân khác, một thảm cỏ  hình chữ nhật bằng cái chiếu, một tấm bia đề tên, ngày sinh, ngày mất. Người ta giầu nứt  đố đổ vách, bán dầu cho thế  giới thu vào hàng trăm tỉ  đôla mỗi năm nhưng người ta xử  thế như thế! Sao bọn Hồ  và Bắc bộ phủ  chẳng biết noi gương?!  Chị  có biết chôn ở  đâu vững chãi nhất không? Chôn trong lòng nhân dân. Nhà văn, nhà thơ, nhà báo thì  chôn trong lòng người đọc. Không cần phải xây lăng tẩm mà muôn đời không phai nhoà. Học giả  Phạm Quỳnh khi Trần huy Liệu giết năm 1945, ông còn rất trẻ; nhưng những gì  ông trứ tác ngày nay vẫn còn lấy ra làm khuôn mẫu. Cụ Phan Khôi, các nhà thơ Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, nhà văn Khái Hưng, nhà văn Nguyễn mạnh Côn trong Nam v.v...đều là những người bị  Hồ giết hoặc trù dập, văn, thi nghiệp của họ chưa nhiều gì thế mà  ngày nay các nhà văn nhà  thơ, nhà báo vẫn nhắc  đến tên họ với niềm cảm mến, ngưỡng mộ  những con người kiêu hùng, dám nói lên Sự Thật và Công Lý trong khi bọn bồi bút Lưu trọng Lư, Chế lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Tố Hữu bị đạp xuống đất đen. Những đứa khác bán linh hồn cho yêu tinh Hồ cũng cùng chung số phận bởi cái bản chất của chúng là lòn trôn, núp váy không sao cải đổi được! 

Chị  không phải dạy, chúng tôi  đã suy ngẫm một cách thấu đáo, rút kinh nghiệm xương máu nhiều triệu  đồng bào bị chết vì Hồ tặc và  thủ hạ của Hồ, chúng tôi có người thân chết vì Hồ  tặc hiếu sát, có bạn bè  chết vì trồn Hồ lênh đênh trên biển hay chết rục xương trong những rừng già  biên giới Việt-Miên-Lào-Thái vì phải liều chết ra đi trốn khỏi bàn tay độc ác dã man của Hồ  dù biết 99 chết chỉ có 1 sống!  Chúng tôi biết rõ hơn chị  rất nhiều khi chị chỉ  nghe nói lại chứ chưa từng chịu cảnh đói khát trên biển hay trong rừng già, chưa từng bị  hải tặc Thái Lan hãm hiếp và  giết hết những người đàn ông, còn con nít thì chúng vứt xuống biển. Chị  ở Paris ăn bơ ăn sữa của thực dân Pháp, hưởng đầy đủ mọi tự do sung sướng nên chị  nói bá láp mà không có  cơ sở gì, chị  cũng mù không nhìn vào những thành quả  ghê tởm Hồ mang lại trong hơn 60 năm Hồ  cai trị đất nước, người dân  đói khổ lầm than, nên chị  mới cho Hồ là con người vĩ  đại nhất thế kỷ  20! Chị đã làm ô  danh những người cầm bút có  lương tâm và chà đạp lên danh dự  những người Việt Nam yêu nước chân chính. Chị  đã làm cho người ngoại quốc nghi ngờ  rằng không lẽ những người cầm bút của nước Việt Nam, cả trong nước và  hải ngoại, lại chỉ là  những con người tồi tệ, mù  loà, sai trái, kênh kiệu, lươn lẹo, gian manh thế  này sao??? Bởi chị đã bóp méo lịch sử! 

Nếu ông Hồ vĩ đại như chị viết, vĩ đại tức  được dân yêu mến vì đã mang lại cho họ đời sống yên vui, cơm no áo  ấm, tự do hạnh phúc như  Hồ hằng nhắc đi nhắc lại hàng ngày thì  tại sao sau ngày 20-7-1954, sau 9 năm y cai trị, sau Hiệp  định Genève chia đôi đất nước, người Bắc và  Bắc Trung Việt bỏ hết mọi thứ, từ  ông bà, cha mẹ, ngay cả  vợ con, chồng con, anh chị  em, chú bác cô dì  và cả phần mộ  tổ tiên, cả ruộng vườn, nhà  cửa, trâu bò, lợn gà, thuyền bè, tất tật mọi thứ  ra đi tay không vào Nam tìm tự  do! Số người vào Nam khoảng hơn một triệu, tuy nhiên vì  Hồ ra lệnh cho cán bộ, công an, du kích, mọi thành phần thuộc guồng máy cai trị  của Hồ phải hết sức ngăn chặn, làm khó, cản trở, dụ dỗ, đe doạ 

Page 58: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

nghĩa là bằng đủ mọi cách để gây khó khăn, nản chí  cho những người xuống Hải Phòng xuống tầu vào Nam.  

Mẹ, các anh chị, các cháu tôi là  những nhân chứng sống đã trải qua những giờ  phút nghẹt thở trốn bọn  chó sói ra đi tay không nhưng đi đến nửa đường từ quê ở Nam định lên Hà Nội, đã bị bắt lại và cả gia đình phải ở lại với bọn chúng trong nỗi cay đắng mất mát khôn nguôi. Cả gia đình hơn bốn chục người chỉ có mình tôi (đang ở Hà Nội lúc đó) là thoát móng vuốt của Hồ mà thôi. Chị tính nhẩm là biết ngay số người đi được:1/40 đó là gia đình tôi.

Vậy nếu lấy con số đã đi được, cho là 1 triệu thì  số người muốn đi vào Nam (tính phác) phải là  40 triệu, cả Bắc Việt.

Nhà văn Nguyễn Tuân nói: “Cái cột đèn đi được, nó cũng đi!”

Điều đó nói lên cái chi? Chị là Nhà Văn chắc khỏi cần tôi giải thích nhưng chị phải “honnête” công nhận một sự thực và chớ lươn lẹo! Nếu hỏi đứa con nít mươi tuổi nó cũng biết trả lời vì người ta đã quá sợ “cái vĩ  đại” của ông Hồ của chị! Người ta thà bỏ hết để giữ được mạng sống còn hơn là  ở với  bọn cướp ngày mà chủ tướng không ai khác là vĩ nhân Hồ của chị (tôi phải thêm từ “của chị” vì hiện nay Hồ không còn là của ai ngoài chị và bọn vgcs đang bán nước cho Tàu ở Tây Nguyên. Hồ từ lâu rồi (3-2-1930) là người của đảng y, của Nga-Tàu chứ không liên quan gì đến dân tộc VN mặc dù y cai trị. Y chủ trương vô tổ quốc, chị không biết sao? Tôi thì biết điều này nhờ bố tôi và sách vở, từ khi chị chưa sinh ra làm người lận!)  

Chỉ 21 năm sau, ngày 30-4-1975, người dân Việt lại một lần nữa bỏ hết mọi thứ  để ra đi trốn khỏi nanh vuốt Hồ  và bọn thủ hạ  tàn ác dã man. Lần này không dễ  dàng như năm 1954 vì  phải chuẩn bị tầu bè, lương thực, dầu nhớt cho máy tầu, cả mua bến bãi  đút lót cho công an đầu gấu và  xếp của chúng. Hàng trăm nghìn cây vàng, hàng trăm triệu  đô-la từ người dân miền Nam bay vào túi bọn lang sói vì như tôi đã nói, có  bỏ hết, ngay cả mạng sống để trốn khỏi nanh vuốt Hồ  tặc thì nhiều triệu người cả  miền Nam và miền Bắc cũng vui lòng không cần suy nghĩ.   Chính vì nóng lòng ra đi dù  sống dù chết, từ 600,000 đến 800,000 người Việt  đã làm mồi cho cá biển  Đông hoặc thú rừng trong các cánh rừng già  biên giới Việt Nam với các nước Đông dương và Thái Lan. Chị  chớ quên hai cuộc di cư  vĩ đại trong “Đỉnh cao chói lọi”!  

Vì  sao dân chúng quá sợ  hãi con yêu tinh Hồ tặc như  vậy? Vì một triệu lý  do tôi đã giải thích ở  những bài trên, xin vui lòng đọc lại.

Một nhà cai trị mà dân sợ  hơn hùm beo chó sói, dân khinh dân ghét như  đứa vô lại, du đãng, ăn cướp, giết người, bỏ  hết cũng được để  đổi lấy tự do và  ra khỏi sự áp chế, trù  dập của y và bộ hạ, vậy mà  chị lại suy tôn y lên làm bậc vĩ  nhân. Mắt chị vẫn mở  trao tráo nhưng bảo đảm là  không còn nhìn thấy gì! 

Bởi suy nghĩ sai nên chị  mới viết “Đỉnh cao chói lọi”  Au zénith, chị nghĩ rằng Hồ  xứng đáng được chị thanh minh thanh nga cho và  chị tin vào cây bút của chị  có thể thuyết phục mọi người, cả  Việt lẫn ngoại quốc, sẽ  nhìn ông Hồ với cái nhìn khác, những gì  xưa kia ông ta bị quy cho là  sai lầm thì được ngòi bút  “trạng sư” của chị  phản biện và mọi người phải trả  lại cho ông Hồ những gì  ông ta đáng có vì những công việc tốt  ông ta đã làm cho dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam! 

Nhân tiện đây, chị hãy nêu ra cho mọi người coi chính sách nào là chính sách tốt, ích quốc lợi dân của ông Hồ? Nếu toàn dân công nhận thì không lý gì  những người Quốc gia chúng tôi không công nhận!

Page 59: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Sau Hiệp định Geneva năm 1954, chúng tôi  ở trong Nam cũng mong cho ông Hồ  thành công ở ngoài Bắc Việt là  mang lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc, tự  do, nhân quyền cho mọi người dân Bắc Việt  vì cái nghĩa đồng bào là trước hết ”Một con ngựa đau cả tầu không ăn cỏ”. Hơn nữa gia đình nào cũng còn người thân ở lại sau cuộc di cư vĩ đại 1954, họ sống dưới sự cai trị của ông Hồ; nếu chế độ của ông Hồ lo được nhiều cho dân, làm đất nước tiến bộ thì chúng tôi ở trong Nam cũng vui mừng vì biết rằng người thân của mình có một cuộc sống tương đối yên vui, mình cũng bớt lo cho họ trong khi mọi liên lạc bị cắt đứt bởi nhà cầm quyền CS Bắc Việt.   Nhưng điều sơ đẳng đó  đã không xẩy ra. Suốt 21 năm khi đồng bào miền Nam được hưởng một cuộc sống yên vui, no ấm, nhiều gia đình nhờ  buôn bán, kinh doanh, khuếch trương nông nghiệp trồng trà, cà-phê, cao su ở cao nguyên, cấy lúa dưới Hậu giang v.v...họ đã trở nên khá  giả, giầu có, người kém nhất cũng đủ ăn, mát mặt. Không hề  nhìn thấy một người hành khất trong đệ nhất và đệ nhị  Cộng hoà miền Nam, khác xa xã  hội chủ nghĩa VN do ông Hồ  cai trị hành khất lổn ngổn  đầy Sàigòn.  

Hai mươi mốt năm ở miền Nam như  thế trong khi miền Bắc vẫn nghèo  đói, lam lũ, cực nhọc mà  không đủ miếng ăn, trẻ  con thất học hầu như 70-80% (tôi cứ  nhìn đàn cháu của tôi, con các  ông anh bà chị là  thấy ngay).

Nhắc lại ngày 30-4-1975 khi chị  vào Sàigòn nhìn những toà  nhà cao năm, bảy tầng, phố  xá đẹp đẽ, sạch sẽ, nhà  cửa khang trang, người người mạnh khoẻ, ai cũng có  dư tiền dư gạo, nghèo nhất cũng đủ ngày hai bữa, hầu hết những nhà  ở thành phố đều có  TV, tủ lạnh, bếp gas, nhiều nhà  có máy giặt, bàn ủi  điện còn radio là thứ  quá thường, mỗi nhà  ít nhất cũng có một cái để nghe tin tức.Chị  nhìn vào đó chị khóc cho cái “văn minh thua cái mọi rợ” thế sao nay, qua 34 năm, chị lại quay 180 độ với lập trường ngày 30-4-75 là tại sao?

Nhìn xã hội, người ta biết cách cai trị  của người lãnh đạo, đó là  nhìn quả biết cây, đâu cần phải suy nghĩ  xa xôi?

Nhưng cái tư tưởng thù hận Mỹ  và người miền Nam đã in sâu trong đầu óc chị rồi, không cách gì  tẩy rửa được nữa nên nói  đến Mỹ, đến QLVNCH là  chị nổi đoá.

Thái  độ đó không phải là  thái độ của chính nhân quân tử, của một người tôn trọng Sự Thật và  Lẽ phải, không phải của một người “honnête” mà chỉ  hành động với cảm tính hay sự  lươn lẹo, giả trá  mà thôi.   Văn hào Alexander Solzhenitsyn bị  nhà cầm quyền Liên Xô  trù dập, đày đoạ  hết mức vì ông đứng vào với Tây phương, với Dân chủ Tự do, ông đả phá  chủ nghĩa lừa dối gian trá  Cộng sản. Ông được tặng giải Nobel văn chương do Hàn lâm viện Na Uy tặng với một số  tiền, họ cũng không cho ông đi lãnh. Ông bị làm khó  đủ điều vì ông không chịu bẻ  cong ngòi bút viết theo đơn đặt hàng của họ. Trước sau ông vẫn tôn thờ một lý  tưởng là nói lên Sự  Thật và Lẽ Phải, Tự  do và Dân chủ, Đa nguyên và  Pháp trị. Ông mới mất nhưng cái tinh thần chính trực, thẳng thắn (đây mới là  honnête thực sự) lương thiện của  ông lan toả ra khắp thế  giới, danh thơm ông lưu lại muôn  đời!   Ông chỉ là một Nhà văn nghèo, bị trù dập suốt đời. Ông không có một chút quyền uy bằng 1 phần triệu ông Hồ của chị nhưng ông đã biết sống, biết đi theo lý tưởng cao cả dù bị  đày đoạ trù dập và có khi nguy đến tính mạng.

Uy quyền như ông Hồ của chị, muốn gì  được nấy, rượu gái thả  dàn, nhưng nay ông được cái gì  nếu không là những lời nguyền rủa, thoá  mạ nặng lời của nhân dân? Hai cách sống đó, của Văn hào nghèo mạt rệp Solzhenitsyn và  của ông Hồ chí  Minh quyền uy một cõi, chị  thấy cách nào hay, cách nào dở? Dở  đến nỗi phải viết cuốn sách 800 trang để biện hộ nhưng những dòng máu còn  đỏ thắm của hơn 10

Page 60: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

triệu nạn nhân vô  tội của Hồ vẫn loang qua 800 trang đó khiến không ai dám đọc vì  nó quá tanh tưởi, quá  thối tha đầy mùi tử khí!   Với chị thì người nào chống vgcs cũng là  Trần khắc Chân bởi chị  đã có thành kiến. Người viết lịch sử  phải như Sử văn Hoa, tôi hoàn toàn  đồng ý.  Chị nêu ra hai trường hợp họ Trần và họ Sử để thoá mạ người khác, nhưng chính chị là Trần khắc Chân mà chị không hay. Kinh thánh Thiên Chúa giáo nói: “Mày chỉ nhìn thấy cái dằm trong con mắt người khác còn cái sà trong con mắt mày, mày không thấy!” Nhiều người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như cụ Phan Khôi, Phùng Quán, Thuỵ An, Trần Dần, Nguyễn hữu Đang...hay tiêu cực như Nhà Văn Tô Hoài...chị cho là những người này sai cả sao? Chính Hồ là người sai và dã man với đồng bào, nhất là họ đã giúp đắc lực cho Hồ trong buổi đầu!   Viết về một nhân vật làm chính trị, tất nhiên phải nghiên cứu Sử, so sánh nhiều bộ  Sử và với lương tâm  “honnête” của nhà  viết sử mới  đưa ra được những kết luận đứng đắn, khả tín. Đàng này viết về Sử nhưng chị viết khơi khơi như viết tiểu thuyết hư cấu, chị chỉ chú ý đến văn từ sao cho kêu, cho nhịp nhàng mà không để ý đến nội dung câu viết, nó có phù hợp với thực tế và công lý (lẽ phải) hay không? Thành ra có nhiều câu nghe rất kêu nhưng thực sự sáo rỗng!   Những nhân vật tôi kể ở  trên là những cái gương sáng chói trên lập trường Dân tộc, Sự Thật và  Công Lý, lẽ ra chị  nên lấy làm khuôn mẫu mà  lại tự chọn cho mình một con đường phản lại dân tộc, phản lại sự  thật, vào phe với kẻ Ác, bào chữa cho quỷ  Satan, biện hộ cho một tên Việt gian bán nước đã giết hại hơn 10 triệu  đồng bào, hại hàng trăm  đời con gái nhà lành rồi nhiều cô  gái (giống như Nông thị  Xuân), sau khi y thoả mãn, y giết phi tang để khỏi làm phiền và  để y giữ tiếng lãnh tụ  hãy còn trinh!   Bà  Aung San Suu Kyi (Mianmar) chỉ  hơn chị 1 tuổi, không có  cây viết lợi hại như chị  nhưng tinh thần kiên cường của bà  cương quyết không đầu hàng quân phiệt  độc tài, bà đã lãnh giải Nobel Hoà  bình; bà vẫn đang chiến  đấu đến hơi thở cuối cùng cho xứ  sở bà. Sao chị không nhìn vào  đó mà noi gương?   Bà  đương kim Thủ tướng Đức Angela Merkel, ngay bên cạnh nước chị đang ở, có  rất nhiều kinh nghiệm về  CS, lời tuyên bố của bà  như đinh đóng cột, ắt là  được đăng rất nhiều trên báo chí  Pháp, Đức và Âu châu hàng ngày. Có  lẽ chưa bao giờ chị  đọc?   Nữ  anh hùng rất trẻ trở  thành bà thánh của nước Pháp, Jeanne d’Arc không lẽ  chị ở Pháp gần vài chục năm mà  chị không biết?   Cô  Nguyễn thị Giang, vị  hôn thê của đảng trưởng Nguyễn thái Học, dù  cô chưa làm được gì  nhiều cho đất nước nhưng cái gương quả  cảm, anh hùng của cô (cô  muốn làm nổ tung pháp trường khi Pháp xử  chém 13 liệt sĩ Yên Bái) ngày hôm sau, sau khi dặn dò  cha mẹ cô và cha mẹ  chồng, quay về hướng Nam vái lậy chồng, cô  đã tự bắn vào thái dương để trả nghĩa dân tộc và  chết theo người chồng chưa cưới, người anh hùng Nguyễn thái Học!   Còn nhiều nữa như Nữ tướng Bùi thị  Xuân, phu nhân tướng Trần quang Diệu, rất anh hùng chửi Gia Long nhục nhã khi mẹ  con nữ tướng bị Gia Long dã  man đem ra cho voi dày, mấy  đứa con thì bị quân lính của Gia Long quật vào tường cho vỡ sọ; Nữ  tướng Triệu thị Trinh, thua giặc Tàu vì  bọn khốn nạn này cởi trần truồng ra tỉ  thí làm Nữ tướng mắc cở  mà sơ sót đường đao!   Còn nữa như Hai Vua Trưng, cách nay 2,000 năm mà  sao gái Giao chỉ lại có  những người kiêu hùng đến thế! Thái thú  Tô Định giết chồng bà  Trưng Trắc là Thi Sách, bà  cùng em là Trưng Nhị  nổi lên chiêu mộ quân sĩ, phất cờ  khởi nghĩa đuổi Tô  Định về Tàu, hai bà  làm vua nước ta được 3 năm thì  vua Tàu, nhà Đông Hán, sai Mã  Viện đem đại quân sang xâm chiếm. Hai bà  yếu thế phải lui binh, đến sông Hát giang hai bà  phải tự trầm.   

Page 61: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Còn rất nhiều gương anh hùng của nước ta trong những cuộc bình Bắc nhưng có lẽ  cả thế hệ chị  chưa được học bao giờ  vì Hồ muốn xoá  bỏ lịch sử nước Việt Nam chỉ  để tôn thờ một mình Hồ  và dạy học sinh, Hồ  mới là người khai sáng ra nước Việt. Những tên bồi bút ở Bắc Việt dù  biết đó là sai nhưng vì  vài lạng thịt lợn, vẫn nhắm mắt làm y như  đơn đặt hàng!   Luôn luôn tự hào là một Nhà  văn mà chị không biết  đến những anh hùng dân tộc, cũng không cảm thấy nhục khi cả một dân tộc mất gia phả  chỉ vì một thằng vong bản, thờ  ngoại bang, một thằng Việt gian chính hiệu chuyên lòn cúi và liếm trôn giặc? Nhiều người bạn bảo với tôi chị không còn là người Việt!   Có  lẽ được đào tạo từ  cái tuổi nhân chi sơ tính bản thiện,  lòng như tờ giấy trắng, rồi nhiều năm quàng khăn đỏ cháu ngoan “bác” Hồ, chị đã đánh mất cái lương tri, cái tính thiện, cái biết phân biệt phải quấy, đúng sai, thiện ác của con người bình thường. Chị lậm quá sâu vào cái tư tưởng gian dối, lọc lừa, phản dân hại nước, chui lòn ngoại bang để vinh thân phì gia của Hồ tặc nên đứng cạnh lăng Ba đình mà không ngửi thấy mùi tử khí, không thấy mùi thối tha khiếp đảm nữa!   Mười lăm tên trong Bộ chính trị  của Hồ, cùng Mạnh, Triết, Dũng, Trọng ...cũng không thấy thối nữa vì chúng đã quen cái mùi tử  khí đó; nhưng người không phải bọn chúng thì  tởm lợm như nhìn cái xác thối rữa giòi bọ đang bò lổm ngổm. Cái xác  ấy chính là Hồ tặc, bậc vĩ  nhân của chị đó!   Chị cũng viết:

Chớ  nên quên rằng chính ông Hồ  chứ không phải ai khác  đã tìm cách đuổi được 320.000 lính Trung Quốc giả  dạng thợ đường sắt  đóng ở nước ta từ  1964 đến 1968. Đó là cố  gắng cuối cùng của ông trước khi qua đời.  

 Chị Dương thu Hương, tôi cũng lạ cho cái đầu óc “nhà văn” của chị! Hồ  mời Tàu phù vào thì  Hồ phải đuổi Tàu phù  ra! Sao lại phải khen chủ  tịch nước làm nhiệm vụ  của ông ta giống như  khen thợ mộc biết cưa, biết  đục! Giả sử không phải là  nhiệm vụ của ông ta kia! Hồ  đang là chủ tịch nước, nước có  phép nước, Hồ không cho chúng vào thì  bố chúng không dám vào. Chúng kéo  đại binh sang (320,000 người không phải là  ít) nhưng ông  sợ chủ tướng của chúng cứ để chúng vào thì ông phải lậy lục năn nỉ cho chúng ra, tài ba gì cái thứ lòn trôn quan thầy đó?   Chị  thử bảo bọn chóp bu vgcs cho vài  đại đội lính đột nhập Singapore, hay Mã  Lai, Lào, hay bên kia Lạng Sơn, Cao bằng xem bọn lính này có ăn đạn không? Chúng coi Hồ như cái cục c. thì  chúng mới dám ngang nhiên như  vậy chứ? Chẳng qua chúng đã bắt nạt y quen rồi!  Y là thằng hèn và nhát, chút gì  cũng phải nhờ ngoại bang để yên chí mà trù  dập người Việt Nam vì  nếu không có ngoại bang chống lưng cho thì  biết đâu y đã bị  thủ tiêu rồi! Chị  tưởng tất cả mọi người đều kính phục thằng giặc già  này hay sao?  Bi kịch của ông Hồ  là bi kịch của kẻ  đi trước thời đại. Thất bại của ông Hồ là thất bại của người đo đếm không chính xác khoảng cách giữa hệ thống giá trị dự trù và khả năng tạo dựng nó.   Ông Hồ không đi trước thời đại, ông quá chậm lụt nên giờ này theo IMF, Việt Nam thua Singapore 197 năm, thua Đại Hàn khoảng 150 và thua Thái Lan cũng dăm chục năm. Đi trước thời đại mà sau 34 năm cưỡng chiếm miền Nam, người Việt Nam chưa làm được con đinh ốc, chưa làm được cái kim máy may, chưa làm được cái xe đạp ra hồn, sản xuất mấy thứ hải sản như tôm cá, nước mắm, sì dầu, nước tương sang hải ngoại cũng bị cơ quan kiểm phẩm và chính dân Việt Nam chê là phẩm chất kém, thiếu vệ sinh, urê, thuốc rầy đầy trong  nước mắm, rượu chè, chloramphenicol đầy trong hải sản... trong khi nhiều nước, người ta lên Sao Hoả, lập Trạm Không gian để quan sát vũ trụ, dùng phi

Page 62: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

thuyền bay ra những Trạm không gian này ở hàng tuần, hàng tháng, có khi hàng nửa năm mới trở lại trái đất.

Năm ông Hồ chết, 1969, Hoa Kỳ đưa người lên Mặt Trăng (hay là  ông nhìn thấy ông tức uất mà  chết?)   Có  cái này thì ông ta đi trước thời  đại, ông vội tuyên chiến với Pháp nên phí  phạm xương máu người Việt  đến trên 10 triệu (chính chị  viết điều này). Cha mẹ, anh em, chú  bác ông Hồ, con trai, con gái  ông ta không có ai bị  chết trong ba, bốn cuộc chiến tàn khốc  đó nên ông ta đâu có  cần. Nếu ông ta chậm như Phi luật tân, Ấn độ, Mã  lai, Indonesia, Sri Lanka v.v.. như  viết trên bài I thì phúc  đức cho người Việt Nam biết bao nhiêu! Mười triệu nhân mạng! Một con số hãi hùng mà  hầu như gia đình nào cũng có  nạn nhân chết oan! Hồ chính là  cái hoạ diệt vong của nước Việt Nam, con yêu tinh râu xanh vào làm hại nhân dân Việt Nam gần một thế  kỷ nay đấy và sẽ  là mãi mãi với cái nhục  đô hộ và đồng hoá  của bọn Bắc phương Tân thực dân Đỏ!   Thất bại của ông Hồ không phải là  đo đếm không chính xác ...như  chị thuyết vẩn vơ, vô  nghĩa (làm dáng, chẳng ai hiểu là  cái gì) nhưng chính vì ông quá ngu đần, tham lam, ích kỷ  chỉ lo cho đảng ông tức lo cho ông và tàn bạo, dã man, ông trồng cây Ác thì  cả dân tộc nay phải lãnh quả Ác, làm giầu cho bọn tư  bản Đỏ, mời Tàu phù vào đô hộ tiếp vài ngàn năm nữa! Giản dị có thế!   Vị thế của ông Hồ  là vị thế lãnh đạo một quốc gia bé nhỏ, nghèo khổ, luôn luôn chìm đắm dưới ách ngoại xâm. Số phận quốc gia này là số phận kẻ bị tước đoạt và thường xuyên bị  nhỡ tàu.  Đặt Hồ Chí Minh vào những hoàn cảnh cụ thể như thế, tôi thấy ông thật sự là người vĩ đại. Ông không thể làm gì hơn.Chị  Thu Hương, nước ta bé nhỏ  nhưng còn lớn hơn nhiều quốc gia khác như  Do Thái, Palestine, Bỉ, Morocco v.v...Tại sao người ta bé  hơn nhưng không nghèo khổ  còn ta lớn gấp vài chục lần họ  thì đời sống người dân nay thua cả  con chó, con mèo ở Mỹ  ở Anh, ở Nhật, ở  Pháp, ở Tây Ban Nha...?   Do cái đầu tầu là người lãnh đạo mà ra cả! Người ta có  Dân chủ, Tự do, Nhân quyền từ  đó người ta no ấm, hạnh phúc. Chị  hãy coi 4 nước CS còn lại là  Trung cộng, VN, Bắc Triều Tiên, Cuba so sánh với các nước Dân chủ tự do Tây phương ra sao? Kim Jong il, chủ  tịch Bắc Triều tiên mới tuyên bố  chọn thằng con thứ ba mới 26 tuổi kế  vị, còn Raul Castro đã thay thế  anh y là Fidel lên ngôi Thủ  tướng Cuba lâu rồi! Việt Nam ta thì  thế, chị nhìn là thấy! Không lẽ  chị không nhận ra điều gì?   Trở  lại với các nước tự  do dân chủ, giả sử  người ta nghèo, người ta sống vẫn sung sướng, tự  do, thoải mái, không khốn nạn như  dưới gọng kềm của bọn công an đầu gấu, coi mạng người thua súc vật.   Tôi lấy làm lạ đầu óc chị  mà sao tối tăm kém cỏi thua một học sinh Trung học ở Sàigòn. Học sinh Trung học ở miền Nam, hỏi các cháu này, chúng nói trúng phóc nhưng có lẽ chị  không muốn hiểu hay vì một lý  do nào đó không muốn hiểu.

Chị  bảo nước ta luôn luôn chìm đắm dưới ách ngoại xâm? Cái  đó đúng với miền Bắc, không phải ngoại xâm mà  là đô hộ, là quan hệ  chủ tớ, thiên triều và  chư hầu. Hồ đã quá  nhục (tác giả Bùi Tín viết) với các cố  vấn Tàu nhưng tức giận mà  không làm gì được.   Hồ  không thể làm gì hơn bởi Hồ  vô tài bất đức lại kiêu căng, đố kỵ người tài, Hồ  chỉ trông cậy vào ngoại bang chống lưng cho Hồ, Hồ  hô hào quân dân tranh đấu nhưng Hồ  không tranh đấu, chỉ tìm sự  dễ dãi, thuận tiện dù  có phải dâng đảo, dâng nước mà  giữ được chức Thái thú, giữ  được đảng, Hồ cũng cam lòng. Giữ  được đảng thì Hồ  vẫn có người cung phụng dù  đã chết, mất nước với Hồ  không hề hấn chi. Đó chính là  chìa khoá của vấn đề.

Page 63: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Trái với Hồ, đảng CS Đông Đức tự ý giải tán sau khi hoạt  động từ trước 1945. Họ  hi sinh cho nước Đức, bằng lòng cộng tác với Tây  Đức để mở một cuộc Tổng tuyển cử  Quốc Hội chung cả nước. Tây  Đức đã xuất ra hàng nghìn tỉ  Mark để cứu Đông Đức và  nước Đức là một siêu cường tại  Âu châu như ngày nay. Bà  đương kim Thủ tướng Đức, Angela Merkel nguyên là  từ Đông Đức CS chứ  không phải người bên Tây Đức.   Còn miền Nam, do tuyên truyền của Hồ  láo khoét, nay còn di căn  đến những tên bồi bút cho vgcs ở hải ngoại, ngay cả  chị cũng nghĩ miền Nam khổ  sở lắm, nô lệ  Mỹ lắm.  Không phải như thế! Miền Nam người Mỹ giúp nhưng chúng tôi vẫn có Độc lập, tự do và hạnh phúc. Lấy bằng chứng từ cá nhân tôi, sau 6 năm, từ cuối năm 1956, từ một học sinh chỉ có bằng Tiểu học Pháp (primaire), tôi bắt đầu đi học những lớp tối ở Sàigòn, tôi đã tốt nghiệp Cử Nhân Văn chương đại học Văn Khoa Sàigòn, trở thành một giáo sư dạy Triết các lớp Tú Tài II ở Sàigòn và dạy Việt văn, Anh ngữ các lớp Tú tài I trở xuống. Từ 1959 cho đến 1965, tôi là Giáo sư Toán Lý Hoá các lớp từ 10 trở xuống cho đến lớp 6, 7.

(còn tiếp)

1-June 09

GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Bài đọc thêm (Trích Huyết Hoa)

Xuân Khê 4/6/2009

Đương nhiên vào thời  đại thông tin hoàn toàn mở  rộng như hiện nay Việt gian CSVN sẽ  không dùng thứ vũ khí  tàn bạo như xe tăng để  đè bẹp xác thân ngươi dân phản kháng chế  độ như đàn anh chúng là  Bắc kinh đã làm. Không phải chúng hiền lành hơn hay có  lòng nhân đạo hơn nhưng lũ  đàn em CSVN mà đứng đầu là  Chính trị bộ còn có  một thứ đòn lợi hại và  thâm độc hơn là làm băng hoại và  tê liệt tinh thần phản kháng chế  độ bằng cách ru ngũ con người bằng tiền tài tham nhũng lợi lộc . Hàng ngày CSVG chỉ  chiếu phim con heo cho thanh thiếu niên coi mà  quên đi đất nước....

Cha truyền con nối

Không ai biết gì nhiều về Kim Jong-un, con trai út và  người được cho là  sẽ kế vị lãnh tụ  Bắc Hàn Kim Jong-il.

Ngay cả ngày sinh tháng đẻ  của anh ta cũng không thật rõ  ràng, có nguồn tin nói 1983 nhưng cũng có  nguồn nói 1984. Thụy Sỹ  cũng có quan hệ thân chặt bất ngờ với Bắc Triều Tiên Các chuyên gia nông nghiệp Bắc Hàn còn thường xuyên tới nước này để  học cách làm pho-mát và  sữa chua, những món ăn  được cho là khoái khẩu của Kim Jong-il. Trong khi đó, chương trình viện trợ phát triển của Thụy Sỹ cho Bình Nhưỡng hết hạn năm 2011, và  có khả năng không được gia hạn vì  tin đồn tiền của chính phủ  Thụy Sỹ không đến  được tay người dân mà  lại vào túi tư của các quan chức chính quyên.      Ðâu Là Sự Thật ÐặngXuânKhánh (Sinh viên trẻ đang sống trong thiên đàng xã nghĩa VN)

Giới trẻ chúng tôi, thành phần lớn lên sau chiến tranh không hiểu biết lý do tại sao đã có cuộc chiến Ðông Dương lần thứ  2 (1954-1975), mà báo chí  ngoại quốc thường gọi là  chiến tranh Việt Nam (Vietnam War). 

Page 64: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Chúng tôi đã được học tập dưới hệ thống nhà trường xã hội chủ nghĩa (XHCN) về lý do tại sao có cuộc chiến tranh Việt Nam qua những cụm từ như “chế độ khát máu Mỹ-Diệm”, ”miền Nam bị Mỹ, Nguỵ kìm kẹp”, “đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào”, “ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ”, “giải phóng miền Nam” v.v… 

Nhưng ngày nay, với sự phổ biến của công nghệ thông tin, chúng tôi đã biết nhiều hơn trước. Về lý do tại sao đã có và do ai gây ra cuộc chiến Việt Nam 1954-1975, hoàn toàn không phải như chúng tôi đã được tuyên truyền trong nhà trường. 

Tuy nhiên, chúng tôi cũng còn vài thắc mắc rất đơn giản. Kính mong các bác, các chú, là những người đã và đang phục vụ cho đảng và nhà nước Việt Nam và những người vẫn khư khư cho rằng chiến tranh Việt Nam là cần thiết để “giải phóng miền Nam” thoát khỏi sự “kìm kẹp của Mỹ, Ngụy” v.v giải thích giùm:

1. Sau năm 1954, sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, Hiệp định Geneve đã được ký kết ngày 27/10/1954 chấm dứt chiến tranh Ðông Dương lần thứ  nhất. Trong thời gian chủ  tịch Hồ Chí Minh (HCM) lãnh đạo chính quyền miền Bắc, tại sao 1 triệu người miền Bắc đã phải lên tàu  đua nhau bỏ chạy vào miền Nam để cho “Mỹ - Diệm kìm kẹp”  mà không ở lại cùng nhà  nước Việt Nam Dân Chủ  Cộng Hoà và chủ  tịch HCM? Số 1 triệu người này có  thể còn nhiều lần hơn nếu nhà  nước không dùng bạo lực ngăn chặn, không cho họ  ra đi! Tại sao ngoại trừ  một số các cán bộ  đảng viên cộng sản (CS) tập kết ra Bắc, người dân miền Nam lại không đua nhau chạy ra Bắc theo chế  độ CS của chủ tịch HCM, mà  tuyệt đại đa số cứ  nhất quyết ở lại cho “Mỹ - Diệm kìm kẹp”? Theo hiệp  định Geneve thì lúc  đó mọi người được hoàn toàn tự  do lựa chọn đi ra miền Bắc hay ở lại miền Nam cơ  mà??

2. Tại sao hồi còn chiến tranh Việt Nam (trước 30/4/1975), mỗi khi có giao tranh giữa quân  đội miền Nam (VNCH) và bộ  đội “giải phóng” thì  dân chúng đều chạy về  phía có lính miền Nam trú  đóng, chứ không chạy về  phía bộ đội “giải phóng”? Nếu dân miền Nam bị  “Mỹ, Ngụy kìm kẹp”, cần phải  được “giải phóng”, thì  lẽ ra họ phải hồ  hởi mà chạy về phía các  “đồng chí bộ đội”, tay bắt mặt mừng và  cám ơn “được giải phóng”, chứ  sao lại bồng bế nhau mà  chạy trối chết để xa lánh các  “đồng chí” ấy? Ðua nhau chạy vế  phía có lính miền Nam để tiếp tục bị  “kìm kẹp”, không lẽ  họ ngu đần đến nỗi chỉ  thích bị “Mỹ, Ngụy kìm kẹp”  chứ không muốn được  “giải phóng” à?

3. Năm 1975, sau khi chiến tranh chấm dứt, “bộ đội giải phóng”  chiếm toàn bộ miền Nam, đất nước thống nhất, Mỹ  đã cút, Ngụy đã nhào. Tại sao dân miền Nam lại lũ  lượt trốn chạy ra đi, bất chấp nguy hiểm, bão tố, cá  mập, hải tặc mà vượt Biển  Ðông; bất chấp các bãi mìn, hay bị  Khơ-me Ðỏ chặt đầu; để bằng đường bộ băng qua Campuchia sang Thái Lan? Theo ước tính của các cơ quan truyền thông, thông tin quốc tế thì hơn 1 triệu người đã đi bằng hình thức này (http://archives.cbc.ca/id-1-69-324/life-society/boat_people). Chúng tôi đã được học tập là  “Mỹ- Diệm đã ban hành đạo luật 10/59 tố Cộng, diệt Cộng, lê  máy chém đi khắp miền Nam”, nào là  “bè lũ tay sai quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu”, nào là “ghi khắc tội  ác dã man của đế quốc Mỹ  và bè lũ tay sai”… v.v…. Khi học xong, đọc hay nghe những dòng chữ  như thế, thì chúng tôi nghĩ, chắc hẳn chế  độ ở miền Nam dù  với Diệm hay Thiệu thì  cũng tàn ác kinh khủng lắm, thế  nhưng tại sao lại suốt từ  1954 cho thời điểm ngày  “Giải phóng” 30/4/1975 - 20 năm trời, không hề  có hiện tượng người dân miền nam từ  bỏ, trốn khỏi miền Nam để xuống tầu  đi vượt biên? Thay vì đến khi bộ  đội ta từ miền Bắc vào Nam “giải phóng”, lẽ ra phải  ở lại mừng vui, thì  họ lại kéo nhau ra đi là  thế nào? Thế thì  có tréo cẳng ngỗng không? Tại sao hàng ngàn dân miền Bắc, nhất là từ Hải Phòng, đã có kinh nghiệm sống dưới sự  lãnh đạo của Bác và Ðảng hơn 20 năm, cũng bỏ  miền Bắc XHCN, vượt vịnh Bắc Bộ  sang Hong Kong mong có cơ  hội được sống với thế  giới tư bản, chứ nhất  định không ở lại miền Bắc XHCN “tươi đẹp”?

Page 65: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

4. Năm 2005, sau khi hoà bình đã về trên quê hương được 30 năm, đảng CS đã lãnh đạo đất nước được 30 năm, (chính quyền Sài Gòn chỉ  lãnh đạo miền nam có 20 năm thôi, 1954-1975), thì  tại sao dân chúng vẫn còn lũ  lượt tìm cách rủ nhau ra đi. Trai thì đi lao động cho nước ngoài, rồi tìm cách trốn ở lại, gái thì  cắn răng chịu đựng tủi nhục lấy toàn  đàn ông (già cả, tàn tật, hết thời, …) của Ðài Loan, Singapore, Ðại Hàn, để có cơ  hội thoát khỏi Việt Nam??? Tại sao du học sinh, thành phần gọi là tương lai của  đất nước vẫn luôn tìm mọi cách (ngay cả  khi chưa học xong) để ở  lại nước ngoài, như lập hôn thú  (giả có mà thật cũng có) với người Việt hải ngoại, chứ nhất  định không chịu trở về  Việt nam???

5. Những năm gần nay, những người Việt trước nay đã trốn đi vượt biên, chạy theo để “bám gót đế quốc”, là  “rác rưởi trôi dạt về  bên kia bờ đại dương”, là  “thành phần phản động”, là  “những kẻ ăn bơ thừa, sữa cặn”  như nhà nước Việt Nam vẫn từng đã nói. Nay được chào  đón hoan nghênh trở về  Việt Nam làm ăn sinh sống và  được gọi là “Việt kiều yêu nước”,  “khúc ruột ngàn dặm”? Có  đúng họ “yêu nước”  không? Tai sao họ không dám từ  bỏ hoàn toàn quốc tịch Mỹ, Pháp, Canada, Úc, xé bỏ hộ chiếu nước ngoài và  xin nhập lại quốc tịch Việt Nam và  vĩnh viễn làm công dân nước Cộng Hoà  XHCN Việt Nam???

6. Trong bộ môn lịch sử  chương trình lớp 12, chúng tôi  được giảng dạy rằng, “Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu  “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ  và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Theo như  chúng tôi tìm hiểu, năm 1961 khi Ngô  Ðình Diệm ký Hiệp  ước quân sự với Mỹ, thì  miền Nam lúc ấy chỉ  có các cố vấn Mỹ  và một ít quân mang tính yểm trợ  (US Support Troopes) với nhiệm vụ  chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường xá… Mỹ chỉ  bắt đầu đưa lính vào miền Nam từ  năm 1965, sau khi lật đổ và  giết Ngô Ðình Diệm do cương quyết từ  chối không cho Mỹ trực tiếp can thiệp quân sự. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam sau sự  kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964. Vậy thì vào thời điểm 20/12/1960, làm gì có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm gì đã có ai xâm lược mà chống?? Các bác, các chú chống ai, chống cái gì vào năm 1960???

Truyện Ngắn          Mười Bốn Năm Sau        *Xuân Vũ TRẦN ÐÌNH NGỌC           LTS - Truyện có thực này tiếp theo truyện ngắn  “Trốn Chạy”, cùng tác giả. Nhân vật chính là  cụ Lê văn Tường đã trốn thoát nanh vuốt Cộng Sản hai lần. Lần đầu vào năm 1957 từ  tỉnh Thanh Hoá vào  miền Nam Việt Nam sau khi người cha của cụ bị đem ra đấu tố, phẫn uất mổ bụng chết. Lần sau vào ngày 30-4-1975 từ Sàigòn đến đảo Guam và sang Hoa kỳ.           Người ta nói “Quả  đất tròn” cũng không phải là  vô lý. Trong phần kết luận truyện  “Trốn Chạy”, một truyện vô  cùng thương tâm và có  thực, tôi viết rằng, do sự  khuyến khích của Ban Quản trị  trại, để có chỗ đón tiếp những đồng bào Việt Nam tị nạn Cộng sản mới  đến, chúng tôi đã bay từ  Subic Bay vào Guam, sau khi ở  đó khoảng hơn một tháng từ  đầu tháng 5-1975. Tôi với cụ  Tường cùng đi một chuyến bay DC10 và  lại ở cùng biêu-đinh tại Orote Point. Sau đó, tôi đi đảo Wake kiếm gia đình bị thất lạc, còn cụ  đi Camp Pendleton - California và  từ đó, tôi không còn gặp cụ  nữa.            Ấy vậy mà tôi lại gặp cụ Tường hơn 14 năm sau, tức là năm cuối cùng của thập kỷ 80, năm Liên Sô và các nước chư hầu Cộng Sản cùng với bức tường ô nhục Bá Linh sụp đổ tan tành.        Tôi gặp cụ trong một tiệc cưới con gái người bạn thân  ở San Diego, một cách hết sức ngẫu nhiên. Ðúng là “Hữu duyên thiên lý  năng tương ngộ”, nếu không, tôi  đâu có đoạn kết này  để gửi đến quí bạn  đã đọc “Trốn Chạy”, một câu chuyện thực 100%, chưa có đoạn kết.          

Page 66: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Lại cũng một sự tình cờ, chủ  nhà xếp tôi ngồi cùng bàn với cụ  và tôi đã nhận ra cụ  trước khi cụ nhìn ra tôi. Có  vẻ có da có thịt và  khoẻ mạnh hơn hồi  ở Guam nhưng trông cụ  già đi nhiều - mười bốn năm còn gì  - những nếp nhăn trên trán trên má  sâu hơn trước, đôi mắt không còn tinh anh, linh hoạt như  hồi ở Guam và cử  chỉ, nói năng cũng chậm nhiều. Tuy nhiên, tôi vẫn nhận ra cụ:           “Xin lỗi cụ, có phải cụ  là cụ Tường không ?”         Cụ ngó trân tôi, miệng mỉm cười, vẫn nụ  cười khi xưa:           “ Phải, tôi là Tường. Sao ông biết tôi ?”            “ Cụ còn nhớ  người ở chung lều với cụ  ở đảo Subic Bay và  Orote Point không ? Tôi là  Vũ đây cụ.” Cụ Tường reo lên:           “Chao ơi ! Nhà văn, Nhà  thơ Xuân Vũ ! Bảo sao tôi cứ  ngờ ngợ. Bao nhiêu năm bây giờ  tôi mới gặp lại ông đây, ông Vũ ?”            “Hơn mười bốn năm. Thời gian trôi nhanh quá  hả cụ ?”           “Nhanh lắm. Tôi đã tám chục, già  quá rồi. Còn ông, trông cũng không khác xưa bao nhiêu.”           “Cám ơn cụ. Thế gia đình cụ ra sao và bây giờ  cụ ở tỉnh nào ?”         Cụ Tường trỏ bà  cụ ngồi cạnh và bà  cụ gật đầu chào tôi:            “Ðây là nhà tôi. Nhà  tôi và năm cháu ở  Sàigòn đã được sang đoàn tụ với tôi hai năm nay, hiện  ở thành phố San Diego. Thế  gia đình ông sao ?”           Tôi trỏ bà xã ngồi cạnh để giới thiệu và nói cho cụ  biết gia đình tôi cũng đã  được đoàn tụ đầy đủ. Nhớ lại câu chuyện gia đình cụ, cụ đã kể  cho nghe khi tôi và cụ  ở đảo Subic Bay, tôi hỏi cụ:           “Cụ ơi, ở đây không tiện nhưng nếu khi nào rỗi rảnh, mời cụ lại nhà  tôi chơi nhắc lại câu chuyện  ở xứ Phúc Lãng và  Thổ Ngõa ngày xưa, được không cụ  ?”         Cụ Tường sốt sắng:           “Ðược lắm chứ. Tôi cũng có  ý nghĩ đó vừa mới  đây. Ông cứ cho địa chỉ  và số điện thoại, tôi sẽ  đến thăm ông.”          Tôi nghĩ lẽ ra tôi đến thăm cụ  mới phải, nhưng cứ phân vân. Tại nhà  cụ, nếu đòi cụ kể  chuyện đời xưa, chuyện cụ  đã có một bà vợ  và mấy người con ở  huyện Phú Thọ, tỉnh Thanh Hoá  mà vì trốn chạy nạn Cộng Sản, cụ  phải bỏ lại để vào Nam, rồi cụ  lấy bà này, người đàn bà  đang ngồi cùng bàn với tôi thì  e  không tiện, mặc dù đối với cụ có thể là không có gì trở ngại.          Tôi tiếp cụ Tường tại nhà  tôi vào một buổi chiều thứ  sáu đầu tháng mười hai, gió  bấc thổi xuống khá lạnh tuy không có  tuyết. Cụ nói bà cụ  bị cảm nên xin cáo lỗi. Khách hôm  đó chỉ có cụ  và một người bạn thân của tôi, anh Chung, mới từ  Virginia sang thăm gia đình tôi.         Sau bữa cơm tối, chúng tôi ra phòng khách, ngồi kế  bên lò sưởi cho ấm và  từ lúc này, chúng tôi có  thể đàm đạo về những chuyện... ngày xưa. Phải, chuyện ngày xưa !           Nhà  tôi pha trà sen, mới  được chị tôi gửi từ  Việt Nam qua, sai cháu nhỏ  bưng ra. Những tách trà bốc khói, tản mạn hương sen trong phòng khách ấm cúng làm chúng tôi cảm thấy nhớ  quê hương vô tả. Tôi  để sẵn mấy thanh củi lớn, châm thêm vài thanh vào lò, gỗ cháy nổ tí  tách, lò than hồng đỏ rực trông thật vui mắt. Tôi biết ý hai vị khách quí  nên nói:           “Cụ Tường và anh Chung cứ  hút thuốc tự nhiên, tại nhà  tôi không có kiêng cữ  khói thuốc đâu.”          Thường ngày tôi không hút thuốc nhưng lúc này thấy cần phải châm một điếu. Tôi không mời cụ  Tường vì biết cụ  vẫn hút thuốc vấn như  ngày xưa, còn anh Chung thì  đang giở gói Cherry và  cái tẩu Dunhill của anh ra. Tôi gợi chuyện sau khi rút một  điếu Camel đầu lọc bạc hà:           “Cụ Tường còn nhớ  cái bãi biển ở đảo Subic Bay mỗi buổi chiều khi cơm nước xong, tôi thường ngồi bật quẹt và  chắn gió cho cụ hút thuốc không?”         Cụ Tường gật gù:         

Page 67: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

  “Sao quên được ông Vũ? Hồi  đó chúng ta sa sút tinh thần quá  hả ông? Không ngờ có  ngày nay.”Hoàng thiên bất phụ  hảo tâm nhân”. Thật là  ông trời an bài.”          Anh Chung chỉ biết láng máng tôi và  cụ Tường đã cùng ở  đảo Subic Bay chứ không biết gì  hơn nên im lặng hút thuốc ngồi nghe.         Khói thuốc tản mạn lên trần nhà  làm căn phòng có vẻ  “đàn ông” và  ấm cúng hẳn lên. Tôi không hút pipe, nhưng lại thích ngồi gần bên người hút Cherry, cái mùi của nó  mới tuyệt diệu làm sao, ngọt như  mùi táo tầu. Vì thế, hồi  ở trong trại Hồi Hương (tính về  con tầu Việt Nam Thương Tín) ở Guam, tôi cứ mua thuốc Cherry tặng anh bạn tên Dương (cựu Trung Tá green béret, nhảy ra Bắc) để anh hút và ngồi nói chuyện với anh. Lúc  đó tôi đâu đã biết về  nạn second smoker (vài chục năm sau y khoa mới khui ra). Cụ Tường hắng giọng, nói tiếp:           “Chắc ông Vũ muốn biết sau khi tôi  đi rồi thì gia đình tôi ra sao. Ðể tôi kể hai ông nghe.          Khi bọn cán bộ và những tên tá  điền phản chủ vô  ân bội nghĩa đến nhà  bố mẹ tôi vào buổi tối hăm ba tháng chạp  âm lịch năm Bính Thân (đầu năm 1957) để lôi bố tôi ra đấu tố  lần hai, chúng quát tháo  ầm ĩ:   “Thằng Thiềng đâu, hãy mau ra đây cho nhân dân xử tội.”         Mẹ tôi chỉ tay vào trong buồng, bọn chúng tông cửa chạy vào nhưng tất cả  đều bổ ngửa ra khi thấy bố  tôi đã tự sát.         Chúng tra khảo mẹ tôi và  các em tôi rất dữ nhưng đầu mối là bố tôi mà  bố tôi đã chết rồi thì  chúng có làm gì chăng nữa cũng đến thế mà thôi.           Liền  đó, chúng trực nhớ đến tôi, chúng cho một bọn sang làng bên bắt tôi nhưng như  tôi đã nói, tôi, anh Các, và  thầy giáo Ðiền đã vào sâu trong rừng và  tìm đường đi đến bờ  sông Bến Hải.         Người em họ bố tôi, cô  Bảng, sau  này viết thư kể cho tôi nghe rằng chúng trì hoãn không cho mẹ tôi chôn cất bố tôi cho đến cả mười ngày sau khi xác bố tôi đã sình thối vì ruột gan phèo phổi lòi cả ra ngoài. Chúng dã man đến độ cấm không cho bà con lối xóm đến giúp đỡ ma chay đưa bố tôi ra đồng. Một tay mẹ tôi phải tẩn liệm (shroud, nhiều người viết sai là tẩm liệm), đưa hết ruột gan trở lại bụng bố tôi rồi xé vải quấn lại, lau sạch hết các vết máu và thay quần áo sạch sẽ. Ba đứa em tôi, một trai hai gái có phụ với mẹ nhưng hai ông nghĩ coi, từ nhỏ tới lớn, chúng chưa từng thấy xác chết ở trong nhà, máu me lênh láng như thế bao giờ nên chúng sợ dúm người lại dù rằng người chết đó là bố mình.           Chôn cất bố tôi xong thì  ba đứa này mất cả trí  khôn, ngây ngây dại dại làm như  những tai ương khủng khiếp của gia đình dồn dập đến làm chúng chết sững không còn biết đối phó ra sao nữa.           Bọn cán bộ cấm không cho người làm săng (hòm) bán săng cho mẹ tôi. Chúng muốn mẹ  tôi phải bó chiếu bố  tôi mà khiêng ra đồng. May sao nhờ  có cô Bảng nói với mẹ  chồng cô ấy cho mẹ  tôi vay đỡ cỗ hậu sự  của bà bằng gỗ tạp  để phòng đó từ lâu mà  chưa dùng, nên bố tôi mới có  cỗ ván. Mấy người đô tùy khiêng quan tài là  những người ở làng bên cạnh do cô  Bảng lo lót với công an, hối lộ  cho chúng để chúng không làm khó  dễ. Mặt khác, sở dĩ  chúng phải dễ dãi hơn vì  xác bố tôi càng để càng sình, lối xóm chịu không nổi mùi tử khí, kêu ca quá  sức nên chúng chấp thuận cho chôn.                Chôn cất xong bố tôi buổi trưa thì  tối hôm đó mẹ tôi ngã  bệnh nằm rên hừ hừ. Hai chị  lớn và các em tôi xoay xở  không nổi, chỉ còn một cách cầu cứu cô  Bảng mà thôi.         Cũng cần nói thêm, chồng cô  Bảng vốn là đảng viên Cộng sản  đã hoạt động trong bí  mật nhiều năm, nhưng không ai biết, cho đến ngày 19-8-45, ngay cả  bố tôi cũng không biết. Lúc  đó chú Bảng làm bí  thư huyện ủy nên quyền uy rất lớn nhưng chú  không muốn dính dáng đến bố  tôi vì e mất chức. Chỉ  có cô Bảng, thấy gia đình tôi đau thương quá  nên không nỡ nhắm mắt làm ngơ  vì còn họ rất gần. Nói là  giúp đỡ,  nhưng chỉ lén lút lúc đêm khuya khi không có bọn công an,  hoặc cô đã đút lót cho mấy tên cắc ké có nhiệm vụ rình mò gia đình tôi, chúng làm ngơ cho cô mang vài thứ cần thiết vào cho mẹ tôi.          

Page 68: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Hai tuần sau lúc mẹ tôi vừa bớt bệnh thì  bọn cán bộ đến. Chúng cho mẹ  tôi hay chúng sẽ tịch thu toàn bộ  tài sản của bố mẹ  tôi. Một tuần sau đó, tên bí  thư xã ủy đến chiếm ngụ  ngôi nhà của bố mẹ  tôi cùng với tất cả đồ  đạc, thóc lúa. Em trai tôi phải  đưa mẹ tôi và gia đình nó  ra che một cái chòi ở  giữa ruộng. Miếng đất này cũng của bố  mẹ tôi nhưng chúng không thèm lấy vì  không có giá trị. Vốn nó  là một cái gò rộng chừng ba sào, xưa kia mục  đồng thường thả trâu bò  cho ăn cỏ hoặc mùa gặt canh điền làm chòi để canh lúa phòng có  kẻ cắt trộm lúa. Tên bí  thư xã lấy hết chỉ  cho mẹ và em tôi mang ra được mấy cái quần áo cũ, vài cái nồi, rổ  chén bát. Ðó là tất cả  gia tài còn lại một đời người.          Mẹ  tôi lúc đó đã già, bệnh tật, yếu  đuối, tinh thần sa sút, đau khổ, tan nát nhưng cũng phải  đi hỏi các nhà quen xin làm thuê  làm mướn như giã gạo, sàng gạo, nuôi lợn, vớt bèo, nuôi gà, nấu cơm cho canh điền vv... để phụ với vợ  chồng đứa em trai thua tôi  đúng một giáp. Nó, vợ  nó và đứa em gái kế  út đều đi làm mướn để  đắp đổi qua ngày. Còn con em út phải đi ở đợ cho tên tá  điền của bố tôi trước kia, bây giờ  chễm chệ là trưởng đồn công an xã hét ra lửa, mửa ra khói.          Nhưng mẹ tôi không sống lâu  để chịu sự đầy ải, nhục nhã,  đói khổ đó. Hơn năm sau, chỉ  một tuần sau cái giỗ đầu của bố  tôi, mẹ tôi ra đi trong một  đêm mưa gió bão bùng , căn lều vì  dựng lên quá sơ sài bằng tre, lá  nên sụm xuống. Gió quật vào người, mưa như  trút nước, mọi người lạnh run. Mẹ  tôi chỉ kêu lên được mấy tiếng:”  Ông ơi, ông ơi !” rồi lịm  đi.         Mẹ  tôi chết trong đêm đó và  ba  ngày sau, chúng cho phép chôn ngay trên gò, cách lều vài chục bước, chỉ có hai cái chiếu bó lại vì chẳng còn tiền bạc để mua săng.          Em trai tôi với vợ nó  và một con em, sống lây lất  ở đó cho đến hai năm sau, chúng bắt em trai tôi  đi dân công tải súng, tải  đạn trên tuyến đường mòn trong rừng ở biên giới Lào - Việt. Cùng đi với nó có cả  mấy chục thanh niên người cùng huyện bị  ghép vào thành phần con địa chủ  hoặc cường hào ác bá.  Ăn uống quá thiếu thốn, mỗi ngày mấy lạng khoai khô, sắn khô, vài lạng gạo, tất cả  đều đã hư mốc gần thối rữa nhưng vẫn phải nấu  ăn vì nếu không ăn thì  có gì khác để  ăn ? Nước suối tù uống vào, chỉ  ít lâu là sốt rét ngã  nước hoặc kiết lỵ, da vàng, bụng ỏng, rồi chết.   Ðó là một cách bọn Cộng Sản tiêu diệt những thành phần chúng cho là thù nghịch của chúng một cách êm ái, không tốn một nhát dao, một viên đạn. Ngoài dân công, bộ  đội Việt cộng cũng dùng đường mòn này vào quấy phá miền Nam, sau này chúng đặt tên là  đường mòn Hồ chí Minh. Dù sao, bộ  đội của chúng cũng được đối xử khá hơn dân công nhiều. Chúng có hoả  đầu vụ lo cơm nước, không phải ăn độn ngô, khoai, sắn và có chút thuốc men lúc ốm đau. Nhưng với khí hậu ma thiêng nước độc đó, khoẻ như voi cũng phải ngã. Ðã có cả tiểu đoàn bộ  đội chết trong rừng  gần như đồng thời,  còn nếu nói tổng số trước sau thì không biết bao nhiêu mà kể. (Lời người viết: Sau 30-4-75, Cộng Sản cho người đi dò tìm và đã tìm ra những nghĩa địa chôn cả chục ngàn cán binh Việt cộng bỏ thây trên đường mòn này. Hầu hết vô danh. Mới đây, Bảy Vân vợ của Lê Duẩn, trả lời cuộc phỏng vấn của đài BBC, nói rằng chồng chị ta (tức Lê Duẩn) có nói với lãnh đạo Trung quốc rằng chúng tôi đã hi sinh 10 triệu người, nếu Trung quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi hi sinh ít hơn, nếu Trung quốc không chi viện thì chúng tôi hi sinh thêm vài triệu nữa, chúng tôi cũng thắng Mỹ).          Thằng em tôi đi biệt tích không về. Khoảng sáu tháng sau, bọn cán bộ xã đến báo cho vợ  con nó là nó bị  sốt rét ở trong rừng và  ngã bệnh mà chết. Cô  Bảng sau này viết thư cho tôi nói, số  người trong tổng trong làng đi dân công như  em tôi đều chết hết, kẻ  trước người sau, chỉ có  được một người trở  về với bệnh sốt rét và  đau gan. Một số khác chưa chết vì  bệnh thì chết vì máy bay B52 của Mỹ  trải thảm hàng ngày. Lính Việt cộng chết vì  máy bay B52 nhiều nhất.          Cuộc chiến kinh hoàng xâm lăng miền Nam Việt Nam do bọn  đồ tể khát máu Hồ, Duẩn, Đồng, Giáp...gây ra không từ  một người dân vô tội nào. Mạng người như  con giun, cái kiến, miễn sao đám đầu não của chúng an toàn, leo lên ngôi  độc tài cai trị  là được rồi.           

Page 69: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Riêng về cái tiểu gia đình của tôi, cô  Bảng viết thư khéo léo cho tôi hay rằng ngay đêm đó, chúng phái một tiểu  đội công an đến vây nhà  tôi và tra vấn vợ con tôi  để tìm ra chỗ tôi trốn. Vợ  tôi chỉ một mực khai là  không biết chồng tôi đi  đâu và đi đã ba ngày  để đánh lạc hướng chúng. Thanh hoá  nhiều rừng, núi và cây cối tre nứa rất rậm rạp, một khi đã vào sâu trong rừng kiếm chỗ  hiểm hóc như hang động ẩn mình thì cả một trung đội vào kiếm cũng không ra. Anh Các và  tôi là những người đã quen đi rừng rẫy nên tìm đường đi khá dễ.  Thầy Ðiển nhà tu không quen thì cứ bám theo chúng tôi mà đi, cho tới sáng chúng tôi đã cách làng một khoảng khá xa và đã sang địa phận của huyện khác.”            Nói một thôi không nghỉ, cụ  Tường có vẻ mệt. Cụ  ngả người ra dựa vào sofa nhắm mắt lại. Chúng tôi tôn trọng cụ nên không ai bảo ai mà  cùng giữ im lặng. Ðã  đến giờ đi ngủ nên mấy  đứa con tôi bảo nhau rút  êm lên lầu. Nhà tôi thu dọn bếp núc xong cũng đã lên ngồi cạnh tôi nghe từ  đầu câu chuyện.         Khoảng mười phút sau, cụ  Tường mở mắt nhìn chúng tôi rồi ngồi thẳng  lên, đầu hơi cúi xuống. Tôi thấy cụ xúc động thật sự khi nói đến những tang thương của gia đình.           Nhà  tôi châm thêm nước trà  nóng vào tách mỗi người và  cụ Tường lại kể  tiếp:           “ Trái với căn nhà  của bố tôi, căn nhà  của vợ chồng tôi chúng dỡ  sạch đi không còn một viên gạch. Chúng để cho vợ và bốn  đứa con tôi che một tấm phên trú  mưa, đụt nắng trên một phần tư  miếng đất, ba phần tư  kia chúng chia cho ba gia đình khác mà  chúng đã lấy hết tài sản trong những đợt đấu tố. Một trong ba gia đình đó là gia đình ông Thủ  Diễm, trước kia có làm việc hàng tổng với tôi một thời gian về điền  địa, nhưng sau này đã xin nghỉ. Thủ  Diễm bị đưa ra đấu tố  và uất ức quá  đã lấy thuốc phiện dấm thanh tự  tử. Nhà cửa bị tịch biên hết, vợ  con Thủ Diễm được cấp phát một phần tư  trên miếng đất của vợ  chồng tôi. Hai gia đình kia không thấy cô  Bảng nói tới.          Vợ  tôi vốn người vùng Ninh Bình. Sau hơn một năm từ  ngày tôi trốn đi, vợ  tôi bồng bế bốn đứa con đi mất, cho tới nay cũng không tìm ra tung tích. Cô  Bảng đoán vợ tôi mang con về  nhà bố mẹ đẻ cho có  chỗ nhờ cậy nhưng đó chỉ là phỏng đoán. Thời gian chúng ta ở trong Nam, đâu có  liên lạc được với miền Bắc nên ai sống, ai chết, ai còn, ai mất chúng ta đâu có  hay, cho đến mãi sau ngày 30-4-75, vì  vậy vợ tôi và bốn đứa con, hai trai, hai gái biệt vô âm tín. Mấy năm nay, người Việt về thăm quê hương nhiều nên tôi mướn người về quê nhà tôi và khắp nơi tìm kiếm nhưng không có kết quả.   Hệ  thống thông tin liên lạc  ở Việt Nam, nhất là  miền Bắc, trong những năm vừa qua rất nghèo nàn, yếu kém. Ở đâu biết đấy, những tin tức quốc nội, quốc tế, tin nào không có  lợi cho Cộng Sản đều bị  bưng bít, lừa gạt. Chúng coi dân chúng như  những đứa con nít, bảo sao nghe vậy, hay tệ  hơn, như một đàn lợn,  đàn trừu mà chúng là những thằng chăn. Bảo sao dân trí không mỗi ngày mỗi ngu đần đi. Bây giờ tôi hoàn toàn thất vọng về việc tìm kiếm nhà tôi và bốn đứa con ở Thanh Hoá. Tôi nghĩ mấy mẹ con đã chết hoặc bị tai nạn gì rồi.”          Nói  đến đây cụ Tường chảy nước mắt. Những giọt lệ phản chiếu ánh đèn lấp lánh trên đôi má  nhăn nheo. Cụ lặng lẽ  khóc và tôi nghĩ sự  đau đớn trong câm lặng đó mới là  cùng cực, hơn cả những sự  đau đớn được thoát ra bằng tiếng la, tiếng khóc.          Tôi an ủi cụ, tay trao cái hộp giấy Kleenex cho cụ:           “Thôi cụ ạ, đất nước chúng ta đã quá không may; theo báo chí  ngoại quốc, cả thảy trên 10 triệu người Việt cả  hai miền Nam Bắc đã bị  giết vì tay giặc Hồ, không riêng gia đình nào. Chính cá nhân tôi và  cụ cũng đã xuýt chết nhiều lần vì  bọn Việt Minh, trực tiếp hay gián tiếp. Không một người nào sinh ra ở Việt Nam trong mấy thế  hệ ông-cha-con-cháu này từ  ngày Hồ tặc thành lập  đảng Cộng sản Đông Dương 3-2-1930, nếu có  sống đến ngày nay,  mà không từng chịu ảnh hưởng lớn nhỏ, nhiều ít hoặc với người thân v.v...nhiều lần bị đe doạ đến tính mạng bởi cái chủ nghĩa dã man, phi luân, tam vô đó. Dù  sao cụ cũng còn cái may mắn  đoàn tụ với cụ bà  và năm người con từ  Sàigòn. Sau ngày 30-4-75, có  rất nhiều gia đình chết biển, chết sông, chết  đường bộ, có nhà  không còn một người.”         

Page 70: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

  “Ðúng, ông Vũ,” Cụ  không cãi lại tôi, “Nhưng chẳng thà  chết mát mẻ dưới biển, dưới sông chỉ  vài giây đồng hồ. Chết thảm như  cả gia đình tôi, bố  mẹ, vợ con, anh em rồi thân tôi lưu lạc ngậm ngùi mấy chục năm. Gia đình tôi chịu quá  nhiều đau khổ!”          Ngồi nghe suốt, anh Chung bây giờ  mới bàn vào:           “Anh Vũ nói đúng đấy cụ. Hơn nửa triệu nông dân đã chết tức tưởi trong các cuộc Cải cách ruộng đất và đấu tố chính trị  của Việt Cộng rải rác từ  năm 1950. Nhiều nông dân bần cố, nghèo xác nghèo xơ  nhưng bị kích lên thành địa chủ cho đủ số  lượng được đặt ra, trong đó có nhiều đảng viên Cộng sản  đã từng sống chết cho Ðảng. Trường Chinh Ðặng Xuân Khu còn lôi bố  mẹ ra đấu tố đến chết thì  còn ai mà chúng từ! Chưa từng thấy cái chủ  nghĩa nào tàn độc dã  man như chủ nghĩa Cộng sản Hồ  tặc quàng lên đầu lên cổ  dân tộc Việt! Số đồng bào boat people và  walk people từ bấy đến nay không dưới tám trăm ngàn, theo sự phỏng định của báo chí  ngoại quốc!”          Cụ  Tường reo lên, quên mất sự  buồn phiền từ vài phút trước:           “Ðúng. Ông bà Vũ và  ông Chung có thể ngờ  thằng tá điền nhà  bố mẹ tôi tên Cam, lúc  đấu bố mẹ tôi, nó  và vợ nó đã hành hạ, chửi rủa, vợ  nó đứng vén váy đái vào  đầu bố tôi, còn nó  thì tát mẹ tôi thâm tím mặt mày. Sau đó nó được đề nghị  giữ chức trưởng đồn công an xã. Chưa  đầy một năm sau, nó bị  lôi ra đấu tố, bị ghép là  thành phần địa chủ, bị  mất chức và đi tù, nhà  cửa bị tịch biên. Người ta đồn nó nhục nhã quá  tự tử hai lần  ở trong tù nhưng không chết (tin từ  cô Bảng). Trong làng tôi còn nhiều tên như  vậy. Chưa hết, chúng quay ra giết lẫn nhau nữa vì  tranh ăn, tranh chức, tranh quyền.        Sau những cuộc đấu tố  đảng viên, chúng phẫn uất lắm nhưng vẫn phải tỏ  ra trung thành với đảng, với bác,  để may ra có cơ phục hồi địa vị kiếm chút xương xẩu. Thật là một chế độ tàn ác, phi nhân  chưa từng thấy trong lịch sử loài người.”          Tôi tiếp lời cụ Tường:           “Mấy tuần nay chắc cụ  cũng đọc báo và biết bức tường ô nhục Bá linh sụp  đổ rồi chứ ? Cộng sản  Ðông Âu, kể cả Liên Sô  vĩ đại cũng tan rồi. Vợ  chồng tên Ciaucescu, chủ  tịch nhà nước Lỗ  ma ni bị dân chúng giết thảm. Các tượng Lê-nin, Xít- ta- lin bị kéo xuống bán sắt vụn. Trên bảy mươi năm chủ nghĩa Cộng sản vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc làm mưa làm gió, giết hàng trăm triệu dân vô tội, đến bây giờ chúng ngã ngửa ra là một chế độ độc ác, tàn bạo, kéo lùi con người lại thoái hoá, đói nghèo, bị cùm kẹp và lạc hậu.”           Cụ  Tường nâng tách nước:           “Vậy đấy mà không biết những người Cộng Sản ở nước ta có  biết điều đó không hay cứ  ngoan cố đi theo con đường sai lầm, làm hại cả  quốc gia dân tộc?”          Anh Chung góp thêm câu kết luận:           “Chúng ta hãy chờ xem, thưa cụ  và anh chị Vũ, mặc dầu viễn  ảnh không có gì sáng sủa cho lắm. Mãi mãi, chúng ta vững tin như đinh đóng cột rằng: ”Ý dân là ý trời. Dân muốn là  trời muốn.” Chính sách đi ngược lòng dân không sớm thì  muộn phải bị đào thải.”         Người con trai đến đón cụ  Tường vừa gõ cửa. Chúng tôi  đứng lên tiễn cụ ra về  vì đã quá khuya. Cái bóng già  nua của cụ hiu hắt  đổ dài trên mặt đường dưới ánh đèn vàng vọt.          

Little Saigon Feb. 1990    Xuân Vũ  TRẦN ÐÌNH NGỌC     

Page 71: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Lính Việt Cộng chết trong hai cuộc chiến Bắc và  Nam.   Nhưng con số thiệt hại về  nhân mạng của miền Bắc là  bao nhiêu?   Bùi Tín, trong một tác phẩm tuyên truyền hạng bét, văn chương sọt rác, (Mây mù thế kỷ, Hoa xuyên tuyết..) đã viết:  - “Lê Duẫn từng khoe: Tôi gặp ông Mao, tôi nói thẳng rằng Trung Quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hi sinh thấp hơn, còn như Trung Quốc không chi viện, thì chúng tôi sẽ phải hi sinh thêm 1 đến 2 triệu người, chúng tôi không sợ và cuối cùng chúng tôi vẫn thắng!!!”.  Kinh khiếp thay đồng chí Lê Duẫn, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh. Xem vài triệu mạng sống của đồng bào, đồng chí, bộ đội, thanh niên xung phong... như số lẻ, như mấy xu trong túi quần, có móc ra vấtđicũngkhôngbậntâm.  Nhưng câu nói trên của Lê Duẫn đã bị bóp méo, cắt xén phần quan trọng nhất. Đó là con số nhân mạng “đã” thiệt hại là bao nhiêu triệu?  “Đồng chí” Bảy Vân, vợ Lê Duẫn, trong cuộc phỏng vấn ngày 23 tháng 12 năm 2008, đã trả lời Xuân Hồng, phóng viên đài BBC rằng:  - “Anh Ba (Duẫn) nói với lãnh đạo Trung Quốc rằng”: Chúng tôi đã hi sinh 10 triệu người rồi, nếu Trung Quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hi sinh thấp hơn, còn như Trung Quốc không chi viện, chúng tôi dù phải hi sinh vài triệu người nữa, chúng tôivẫnthắngMỹ”.  Tôi lại xin lạc đề vài câu nữa. Ông Xuân Hồng đài BBC hỏi bà Bảy Vân, đại ý rằng, có nên tiếp tục “xã hội chủ nghĩa không? Đồng chí BảyVânkínhmếntrảlờirằng:  - “Phải tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa, vì chênh lệchgiàunghèongàycànglớn”.  Tại sao ông Xuân Hồng không hỏi tiếp:  - “Thế giai cấp giàu là những người nào? Còn bọn nghèo khổ là những ai?”. Giai cấp giàu là đảng viên (riêng đồng chí Bảy Vân “phải” chui rúc trong “túp lều” giá trên hai triệu đô la Mỹ), còn giai cấp nghèo là lũ dân đen mà các đồng chí đảng viên đang ngồi trên đầu đó!  Như thế, trong chiến tranh chống Mỹ, phải trên mười triệu người dân vô tội miền Bắc Việt Nam đã bị đảng ta đẩy vào chỗ chết!

Page 72: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Hỡi ơi! “Đỉnh Cao Chó Lợn” và “Đá Văng Chân Lý” của Dương thu Hương!

Bài 6 (tiếp theo) GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Động lực nào làm cho tôi tiến nhanh thế?

Chẳng phải mình tôi nhưng rất nhiều người lớn có chí, đàn ông đàn bà, ban ngày đi làm nuôi gia đình, buổi tối thay vì nghỉ ngơi ở nhà thì đã cố gắng đến lớp nghe thầy giảng, đi thi, lấy bằng cấp, thăng tiến nghề nghiệp, thăng tiến lương bổng và chức vụ, hơn nữa làm giầu thêm kiến thức vốn dĩ không bao giờ là đủ.

Dĩ nhiên ai cũng phải đóng học phí cho nhà trường vì là trường tư (chứ không miễn phí như trên đại học, hầu hết là công lập, chính phủ đài thọ) để trả lương giáo sư, tiền mướn lớp học, điện nước, lao công quét dọn nhưng học phí vừa túi tiền, có đi làm là có đóng được, nó không phải là khoản chi lớn như thực phẩm cho gia đình. Còn nhà ở từ cuộc di cư 1954, nói riêng người Bắc và Trung di cư, giầu thì mua nhà ngói, nhà lớn, nhà lầu đúc; ít tiền thì một căn nhà lá, căn nhà tôn trong xóm, nhưng hầu như gia đình nào cũng có một mái nhà cho riêng mình, không phải chung đụng với ai. Tình trạng tư hữu và khá giả này hoàn toàn khác biệt với ngoài Bắc ngay cư dân tại thủ đô Hà Nội!

Còn người Nam, vốn tính lè phè nhưng nhờ vì sinh ra và sống trên đống thóc, đống cá, đống tôm, đống rau trái, hầu như trăm phần trăm gia đình nào cũng có nhà, lớn như của đại điền chủ ruộng cò bay thẳng cánh miệt Hậu giang, nhỏ như ngôi nhà lá lụp sụp giũa miếng vườn trồng cây ăn trái ở Lái thiêu, Long Khánh, Long An, Mỹ Tho, Vĩnh long, Sa đéc, Cần thơ, Bạc Liêu... nhưng bảo đảm là vùng nông thôn người dân nào cũng có đất, có vườn và có nhà chứ không khốn khổ như ngoài Bắc, nhất là dân thành phố!

Tháng 9 năm 1954, hai vợ chồng tôi và đứa con trai đầu lòng theo dòng người di cư hồ hởi bay vào trong Nam, lòng mừng khấp khởi vì thoát được chế độ dã man, gian ác của Hồ tặc nhưng vẫn thương mẹ và các anh chị, các cháu tôi đã quá rủi bị giữ lại do đám cán bộ của giặc Hồ. Phi cơ của Không quân và tầu chiến của Hải quân Hoa Kỳ hết sức hỗ trợ cuộc di cư mới chuyển được hơn một triệu người, chứ cả như CP Ngô đình Diệm, đang chân ướt chân ráo lúc đó vì ông Ngô mới về nước ngày 7-7-1954, tay vo “bắt chó cái”, còn người Pháp cũng muốn giúp đỡ nhưng vừa thua trận xong, tiềm lực đã hao hụt nhiều chỉ giúp có chừng với vài chiếc chiến hạm.

Vào trong Nam rồi, tay trắng nhưng tôi không lo, thiển nghĩ người ta sống mình sống, tuổi còn trẻ, có chút đầu óc, cùng lắm đi dạy Pháp văn cho lũ trẻ con vỡ lòng, lẽ nào không kiếm được miếng ăn? Vả không khí cởi mở, bình đẳng, tự do của miền Nam đã làm tôi thích, không như cái không khí chết chóc, trốn chui trốn nhủi trong cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh, mạng người như con sâu cái kiến.Không có tiền lẻ thối thì xé đôi tờ giấy bạc, dễ dãi đến thế là cùng. Một thằng bé mươi lăm tuổi mua bà hàng bán xôi người Nam gói xôi hai hào. Nó đưa cho bà ta 1 đồng, rồi đứng đó vừa ăn vừa đợi bà hàng thối tiền dư nhưng bà hàng đông khách mua khiến nó phải chờ. Chờ lâu, nó lại giục: “Trả lại tiền cho tôi để tôi đi chứ!”

Thằng nhỏ con bà bán xôi cũng khoảng 14, 15 tuổi nghe thằng người Bắc đòi trả lại tiền, nó cáu quá quát lớn:

“Đ.M mầy, mầy ăn hết nắm xôi rồi còn đòi trả lại tiền. Ông uấn thấy mẹ mầy bây giờ!”

Page 73: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Có ông khách người Bắc cũng mua xôi nghe hai đứa đối đáp hiểu chuyện, ông bảo thằng người Nam:

“Người Bắc nói trả tiền là thối lại đó”.

Lại hai thằng nhỏ một người Nam, một người Bắc giỡn chơi với nhau. Thằng người Nam cứ cù vào mạng sườn thằng người Bắc khiến thằng này cười ré lên:“Đừng mày, tao buồn quá, đừng mày!”Thằng người Nam càng cù mạnh hơn:

“Ừ, mày buồn thì tao cù cho mày vui, mày hết buồn!”

Một người đàn ông đứng đó thấy vậy bảo:

“Mày phải kêu là nhột quá, chứ mày nói buồn quá, tía nó không hiểu được!”

Đấy, hai miền Bắc Nam chỉ cách nhau hơn một nghìn km mà không hiểu được nhau! Người Nam hay người Bắc nghe người Nghệ An Hà tĩnh nói lại càng khó hiểu. Vì vậy chị Huỳnh thị Thanh Xuân nghe “bác” Hồ nói chẳng hiểu chi cả!

Ở trong Nam, tôi chỉ kiếm được một công việc thư ký bình thường (với bằng primaire thời Pháp thuộc), làm trong Nha Nhân Viên, Bộ Quốc Phòng, đi làm bằng cái xe đạp, nhưng qua giữa năm 1956, nhờ tần tiện, chúng tôi đã mua được căn nhà lợp lá tường xây, bề ngang 5m, bề dài 25m, mặt tiền là một khoảng sân chơi cho con nít sâu 4m, có bóng mát hai cây trứng cá và cái xích đu cho trẻ con chơi. Căn nhà này ở trong hẻm (đã quên tên) ngay gần chợ Hoà Hưng (Chí Hoà). Giá tiền căn nhà này lúc đó là 17.000 đồng tiền Tổng Thống Ngô đình Diệm. Nhà VN không có lệ trả góp nên mua là đã trả xong. Chỉ nửa năm sau khi mua nhà, tôi để cái xe đạp cho nhà tôi (để đi chợ, chở con đi học), còn tôi leo lên cái mô-bi-lét vàng còn khá tốt (used) đi làm và đi học tối. Gọi mô-bi-lét vàng vì sê-ri này nhà sản xuất Pháp chỉ sơn một mầu vàng. (Đến năm 1975, LM Nguyễn quang Lãm (Thiên Hổ) Chủ bút báo Xây Dựng vẫn còn đi một chiếc, ông khen ngợi nó tốt và một bữa xe tôi hư, ông đã đèo tôi đến quán Lá Mơ trong khu ông Tạ, để tôi với ông hạ cờ tây.)

Sở dĩ tôi phải dài dòng một chút là để chị Thu Hương và các bạn đọc chưa từng sống ở miền Nam VN biết rõ hơn về miền đất thân thương mà tôi nghĩ phải có phúc lắm mới được nhìn và sống trên đó.

Chị Thu Hương vốn vẫn kiêu căng khinh mạn chế độ miền Nam và Quân lực miền Nam, khinh mạn ông TT Ngô đình Diệm và ông TT Nguyễn văn Thiệu, nghĩ rằng cái gì xấu là chúng tôi, lúc nào viết về miền Nam cũng với giọng hằn học của mấy thằng vgcs mù Hồ tặc, Đồng, Lê Duẩn, Trường Chinh, Đỗ Mười, Lê đức Anh...mà không chịu mở mắt ra nhìn sự thật. Nhà văn như chị chưa được gọi là nhà văn. Chị thiếu hai đức tính cần thiết cho một nhà văn: quan sát và chấp nhận sự thật và trung thành với sự thật!

Câu chuyện về cháu gái con chị Thi Đào sau đây có thể giải thích trường hợp chị Dương thu Hương. Chị Thi Đào hiện đang ở bang Texas (Arlington) có tiệm uốn tóc khá phát đạt, chồng chị là anh Hải Sơn làm Technician cho một công ty lớn trong vùng. Hồi chị Thi Đào khoảng 19-20 tuổi (1969), tôi dạy môn Triết học lớp 12 cho chị tại trường Thánh Thomas (Ba Chuông) Trương minh Ký để chị chuẩn bị đi thi Tú tài II. Trước đó, chị cũng đã học tôi vài lớp dưới về các môn Anh ngữ, Sử, Công dân giáo dục v.v...

Năm 2006, khi sang Texas ở chơi ít lâu, đi đám cưới con người bạn, tình cờ tôi gặp lại hai vợ chồng Thi Đào. Chị kể cho tôi nghe anh chị có đứa con gái lớn nhất, tên Mỹ của nó là Catherine, khi nó đến Mỹ đã 13 tuổi (giữa thập niên 80). Trước khi đến Mỹ, anh chị ở Sàigòn dăm năm sau 30-4-1975, con bé

Page 74: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Catherine (tôi quên tên Việt của nó) đã đi thiếu nhi quàng khăn đỏ, cháu ngoan bác Hồ dăm năm. Vợ chồng người học trò cũ bảo với tôi:

“Thầy ạ, con không thể tưởng tượng được đứa con gái của tụi con sang tới nước Mỹ này mà nó còn nhập nhiễm những gì nó học được khi đi thiếu nhi quàng khăn đỏ ở Sàigòn. Sang đây bà giáo Mỹ nói gì nó cũng bảo sai, tụi con nói gì, ông nội, ông ngoại nó nói gì nó cũng bảo sai; chỉ một mình bác Hồ là đúng! Nó nhìn cậu nó (em con) trước kia là Thuỷ quân lục chiến, hay các bạn của cậu là Nhảy Dù, Bộ binh v.v..., nhiều chú bác khác cũng là Cảnh Sát hay nhà binh khi xưa, ngày hội Tết ở Arlington, họ mặc quần áo quân đội để hầu kỳ, để dâng huơng Quốc Tổ, nó bảo nó không biết Quốc tổ là ai, chỉ có chủ tịch Hồ chí Minh là ông tổ của nước Việt Nam, thành lập nước VN, nó không biết Hùng Vương là ai, nó gọi cậu nó và các bạn trong quân đội của cậu nó là Nguỵ quân Nguỵ quyền. Nguỵ ráo từ ông bà, cha mẹ, chú bác cô dì của nó. Những người Mỹ mà nó nhìn thấy đều là đế quốc Mỹ, xâm lăng nuớc Việt, đã lấy lưỡi lê xiên con nít nướng trên lửa, xé thịt ăn.

Tụi con khổ sở với nó gần năm trời. Nó cũng không muốn đi học bà giáo Mỹ, nó bảo học đế quốc Mỹ thì học làm gì? Mỹ đã sang Việt Nam hút máu hút mủ, giúp cho lính Nguỵ giết chóc và bỏ tù dân miền Nam. Nó và các bạn quàng khăn Đỏ, cháu ngoan bác Hồ đã thề phải diệt cho bằng hết Mỹ Nguỵ.

Sau gần cả năm như thế, chồng con nóng tính không nhịn được, nhiều lúc muốn bợp tai nó, nó doạ kêu 911 (không biết ai dạy nó), hoặc gọi Cảnh sát, hỗn láo với bố nó. Nó bảo chỉ có bác Hồ nuôi sống nó chứ cha mẹ đẻ xong là vứt. Con cũng giận lắm không ngờ cho nó đi quàng khăn đỏ có mấy năm mà không dạy được nữa nhưng vứt nó đi đâu bây giờ?

Bố mẹ con khuyên nhủ con phải cố kiên nhẫn lôi nó ra khỏi những tư tưởng sai trái. Chẳng những vậy, ba đứa em của nó, nó cũng thì thọt nói bậy làm cho những đứa kia không nghe lời con và chồng con.

Tụi con là người Công giáo, vợ chồng con tính kế hoạch, cho các con của con đi lễ nhà thờ hàng tuần, cho chúng vào đoàn Thiếu Nhi Thánh thể, nói riêng với Linh mục và thầy cô giáo để ý con Catherine, giải thích mãi cho nó, sau một năm nó mới “tỉnh”.

Từ khi “tỉnh” thì nó học rất giỏi. Hiện nay cháu sắp ra Internal Medicine (Bác sĩ nội khoa), sang năm cháu ra trường sẽ làm đám cưới với người bạn cùng lớp, cũng là Internal Medicine, người Mỹ trắng.Tôi đã đi dự đám cưới của John và Catherine, khoảng hơn 400 khách trong một nhà hàng sang trọng. Lúc giới thiệu quan khách, vì đông quá, MC chỉ giới thiệu ông bà nội ngoại, cha mẹ đôi bên và nói là một người khách đặc biệt, ông thầy đã dạy mẹ cô dâu lớp 12 khi xưa, nay là một Thi sĩ, một Nhà văn, nhà báo ở Hoa Kỳ.”

Suy từ chuyện cháu Catherine, tôi nghĩ cũng không khác trường hợp rất nhiều thanh thiếu niên Việt Nam và đặc biệt Nhà văn Dương thu Hương, đã quá lậm trong cái sai lầm chết người của ông Hồ! Tôi chỉ buồn cho người Việt Nam ta, có bao nhiêu cái xui, cái tồi, cái hủ bại thì “bị” lãnh hết cả do một bọn cặp rằng, đầu nậu, chỉ nghĩ đến mình và đảng phái của mình, không nghĩ đến dân tộc, đến những kẻ nghèo khổ, đến những kẻ suốt đời nhỡ tầu như chị Thu Hương kể.

Nhân tiện cũng nói thêm, theo tin trên Hoa Tự Do, trận đá bóng ở sân Cầu Giấy (Hà Nội) giữa hai đội trong đó có đội Hải Phòng. Một cầu thủ Brazil được VN mướn đá, lương năm là 40.000-50.000 đô la. Khi các cổ động viên (CĐV) Hải phòng, theo tin đăng, vào sân thì a lại hỏi cầu thủ Brazil này có đá hôm nay không? Cầu thủ này trả lời không, mười bữa sau mới đá. Thê là đám CĐV Hải phòng nổi giận, la lối, chửi rủa tục tĩu, nói vì anh này mà họ mua vé vào coi trận đấu hôm nay. Kết quả là đội Hải Phòng thua 0-2 đội kia. CĐV Hải Phòng tức giận chửi bới rất hăng, xổ tiếng Đan mạch chửi lung tung, sau đó còn ném đá và đánh Cảnh sát cơ động.

Page 75: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Một lớp thanh niên (tương lai của dân tộc) coi chuyện thua được một trận banh như một chuyện rất quan trọng liên quan đến sự sống và sự chết của gia đình họ. Một lớp thanh niên vô văn hoá, mở miệng là văng tục như phường du đãng du côn. Một lớp thanh niên không coi trọng việc giặc ngoại xâm vào tới nơi, chẳng biết gì về Bô xít, Hoàng Trường sa, suốt đời làm thân nô lệ cũng không quan tâm mà lại coi trọng một trận đấu thể thao, lẽ ra thua hay được là chuyện rất bình thường. Đám thanh thiếu niên và cả những người đã trưởng thành đó, tâm thức của họ là từ đâu mà ra? Họ đã đi thiếu nhi quàng khăn đỏ, cháu ngoan bác Hồ rồi vào Đoàn, vào đảng, ai đã huấn luyện cho họ nếu không phải là cả cái chế độ XHCN, ai đã nhồi sọ tẩy não họ nếu không là “bác” Hồ muôn vàn kính yêu và các chú Lê Duẩn, Trường Chinh, Đỗ Mười, Võ nguyên Giáp?

Thanh thiếu niên VN ngày nay hầu hết y như những CĐV Hải Phòng, không cần biết phải trái, không có lý tưởng, sống như những gì đảng và Bác muốn:”Vô văn hóa, vô lý tưởng, sex và phim sex thả dàn thay thế cho những trò trai gái thời kỳ đi thanh niên, bộ đội kháng chiến khi xưa, tức giận với một trận thua bóng đá nhưng thản nhiên để Tàu vào ngự trị đất nước miễn sao an thân và có nhiều tiền, quyền cao chức trọng.”

Hầu hết lớp sĩ phu Bắc Hà và cả cái Quốc Hại do đảng đề cử cũng đều như thế! Tương lai dân tộc đi về đâu? Vgcs dẫn dắt nước nhà tới chỗ nào?

Tên Tiêu Dao bảo Cự, một văn nô, bồi bút chính hiệu, mới được phép vgcs Hà nội cho qua Berkeley (cùng đi với văn nô Bùi ngọc Tấn) thuyết trình cho sinh viên ở đại học này nghe về “Mầu tím hoa sim” của Hữu Loan, một bài thơ tầm thường (ích lợi gì trong thời buổi này?), nhưng trong khi nói, tên văn nô này không hề đề cập đến bài thơ nhưng là khuyên sinh viên về giúp nước! Bất cứ ở đâu, bất cứ hành động nào bọn người vô liêm sỉ này cũng gian manh, dối trá y như chủ tướng của chúng là Hồ tặc!

Hồ đã đạt được mục tiêu của y với ba thế hệ giống như cháu Catherine con anh chị Hải Sơn và Đào Thi.Lại nói thêm, cái con bé quàng khăn đỏ ấy, nếu còn ở lại Sàigòn thì đến đi bán vé số là cùng nhưng sang Hoa Kỳ, nó đã thành một bác sĩ Nội Khoa, có ông chồng cũng là bác sĩ. Nhìn là thấy, khỏi cần so sánh. Và những điều chị Thu Hương khen giặc Hồ, chỉ nhìn vài sự việc là suy ra nó đúng hay sai!

o0o Trở lại với những lớp ban đêm của tôi ở Sàigòn năm xưa. Cái quan trọng nhất là học được và bền chí vì làm việc như thế khá vất vả, riêng tôi mỗi đêm chỉ ngủ được 5 tiếng là nhiều. Bảy năm đầu ở Sàigòn, từ khi đi học tối, tôi không hề ngó một tờ báo, cho vợ con đi xinê giải trí nhưng tôi không được đi, ban ngày đi dạy nhiều lớp nhiều trường, tối về vừa chấm bài cho học sinh vừa học bài của mình để thi trên Đại học!

Được cái chẳng ai hỏi han làm phiền, khi ba bốn anh em bạn học chung để có kết quả tốt hơn, vài người bạn đến nhà tôi học khuya rồi ngủ tại nhà tôi sáng hôm sau mới về hoặc tôi đến nhà bạn ngủ...chúng tôi không phải báo cáo tạm trú tạm vắng lôi thôi như chế độ dân chủ triệu lần tươi đẹp hơn các chế độ dân chủ khác, lúc đó ở Bắc Việt! Khi cao hứng, ba bốn anh em ngồi uống la-de bữa cơm trưa thứ bảy, nhà tôi ra chợ Hoà Hưng mua con gà hay con ngan về làm thịt, chén chú chén anh để bù lại những lúc bù đầu học khuya; chẳng có công an cảnh sát nào hỏi ở đâu có tiền mua gà, sao ăn ngon thế, mời ra đồn công an làm việc v.v...! Dân miền Nam sướng thế đó, người miền Nam dưới quê còn sướng hơn tụi tôi ở thành phố nhiều vì vậy nên Hồ tặc, Lê tặc, Phạm tặc...phải cố lấy cho bằng được miền Nam dù có phải hi sinh vài chục triệu người!

Đến đây thì chắc chị Thu Hương đã rõ người miền Nam có hiếu chiến không và Hồ tặc có phải là người nhìn ra những tai hại của chiến tranh, ông ta cố tránh mà không được!

Nền giáo dục miền Nam Việt Nam từ thời Tổng Thống Ngô đình Diệm khởi sắc một cách lạ lùng.

Page 76: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Lớp tuổi học trò mới chính là những mầm non đang lên. Chỉ một năm sau cuộc di cư vĩ đại 1954, các trường công do chính phủ lập ra mọc lên nhan nhản. Trường Nam gồm các trường Pétrus Ký, Chu văn An (di cư từ Hà Nội vào), Hồ ngọc Cẩn, sau này có Trần Lục, Võ trường Toản, Nguyễn đình Chiểu...Nữ có các trường Trưng Vương (di cư từ Hà Nội vào), Gia Long, sau này có thêm Lê văn Duyệt...

Trong 21 năm, các trường tư mở ra thật nhiều như trung học Hưng Đạo, Nguyễn bá Tòng, Đồng Tiến (kẻ viết bài này là Giám học và Tổng Giám thị), Lê bảo Tịnh, Thánh Thomas, Thánh Mẫu Gia định, Trung Thu, Hậu Giang...kể không hết. Ở các thành phố lớn khác như Cần thơ, Mỹ tho, Vĩnh long...đều có, ngoài Trung như Huế, Đà Nẵng, Đà lạt v.v...trăm hoa giáo dục đua nở thiết nghĩ chưa thời nào từ ngày người Pháp xâm chiếm nước ta (1864) không khí đua tranh học hành lại sôi nổi như 21 năm của VN Cộng hoà.

Kết quả là gì? Là miền Nam sản sinh ra nhiều chất xám, gấp nhiều lần ngoài Bắc vẫn lẹt đẹt lạc hậu, vẫn nhai đi nhai lại “Xít ta lin đời đời cây đại thụ” và “Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít ta lin bất diệt!” Viết đến đây tôi chợt nhớ câu đồng dao khi xưa lúc Việt cộng mới nổi lên ở thôn quê, lúc nào cũng oang oang cái mồm là Độc lập, Tự do, Hạnh Phúc. Câu đồng dao thế này:

Độc lập, Hạnh phúc còn lâuThằng Tây nó tếch, thằng Tàu nó sangĐảng, đoàn một lũ tham quanNgười dân chết đói lang thang đầy đường!

Chẳng biết ai đã dạy bọn trẻ con mà chúng đọc suốt ngày đến nỗi bọn du kích xã phải ra lệnh cấm, đứa trẻ nào còn đọc nữa bị ăn đòn nhưng chính vì vậy mà chúng lén đọc nhiều hơn, quảng bá nhiều hơn!

Hồ tuyên bố không có tư tưởng gì ráo trọi nhưng đám trí nô, giáo nô, văn nô, báo nô vẫn cố bày ra “tư tưởng bác Hồ” nịnh miết, nịnh đến nỗi người được nịnh nếu có liêm sỉ sẽ xấu hổ vì y không có những đặc điểm ấy, nhưng bọn bưng bô thì có mục đích: để kiếm thêm vài lạng thịt lợn.

Cái tâm thức nô lệ Nga-Tàu, bắt đầu từ Hồ tặc mà đi (lúc đi Văn công tôi đã biết), nó đã thành chai, thành quen trong tâm não cán bộ và người dân dưới chế độ Xã nghĩa thành ra Độc Lập Hạnh phúc chưa biết bao giờ mới thấy ở cuối đường hầm, nhưng miền Nam chúng tôi đã có Độc lập thực sự từ ngày ông Ngô đình Diệm về nước cho đến 30-4-1975!

Để tôi kể cho chị Thu Hương và bạn đọc nghe một câu chuyện ở ngoài Bắc khi xưa, từ đó chúng ta có thể rút ra một bài học. Tôi là một cậu bé nhà quê (garcon de la campagne), những gì tôi kể ra đây là tôi đã nhìn thấy ở ngay làng tôi, không phải là đọc trong sách vở.

Khi xưa, hồi tôi còn nhỏ, mỗi gia đình ở làng quê Bắc Việt đều có một cái vườn, lớn nhỏ tuỳ theo ông bà để lại hoặc tiền nhiều, ít bỏ ra mua. Trong cái vườn ấy, ở một chỗ khuất nhất, có che chắn bằng lá, trồng cây rậm xung quanh, gia chủ thường đào một cái hố sâu, bắc hai cây soan hay hai mảnh ván (có khi là hai cây chuối, nhiều ông bà già run rẩy đã rớt xuống) để người ngồi mà làm cái việc tiêu hoá (với chị Thu Hương phải gọi là ỉa). Khi đã đầy, những nhà làm ruộng dùng phân đó bón ruộng; những nhà không dùng nó thì gọi bán cho các thuyền đi mua phân.

Dăm người, một cái thuyền gỗ nhỡ nhỡ, họ mua phân (trả bằng muối hay tiền) xong xúc lên quang gánh, đổ xuống thuyền. Một thuyền như vậy phân tươi có, cũ có, vàng đen đủ mầu, gọi là phân Bắc, tất nhiên là thối chịu không nổi, dù là ở xa, cuối gió. Nhưng các người trên thuyền, đến bữa, họ vẫn lấy cơm ra ăn, ngồi ngay mũi hoặc lái thuyền, ăn tỉnh bơ. Họ không thấy thối, tại sao vậy? Vì họ đã quá quen với cái mùi đó, họ không ngửi thấy gì, hoặc khứu giác họ đã chết hoặc mũi họ bảo họ nó cũng thơm như hoa lài, trong khi những người khác, người đi đường, từ xa đã ngửi thấy, phải quay mặt đi chạy cho mau kẻo ói mửa mật xanh mật vàng!

Page 77: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Làng Cổ Nhuế (gần Hà Nội) con gái phải gánh sọt đi gắp phân người ta phóng bậy ở đường. Cô nào không từng làm cái nghề ấy thì ế chồng là cái chắc.Ông Hồ và bọn vgcs bán nước cũng y thế, các cháu ngoan bác Hồ quàng khăn đỏ (và cháu Catherine khi mới sang Hoa Kỳ và cả chị) cũng vậy. Tiếp xúc với phân từ Mác-Lê-Mao thải ra, ngồi ăn cơm ngay mũi thuyền đã quá quen, thối mấy cũng không ngửi thấy gì nữa.

Chị Thu Hương, cái tâm trạng của chị khi viết “Đỉnh cao chói lọi” và “Món ăn chân lý” là cái tâm trạng và cái mũi của mấy người trên thuyền phân, không khác gì. Chị đã quàng khăn đỏ nhiều năm hơn cháu Catherine, chị đã ngồi ăn cơm với “bác Hồ kính yêu” của chị ngay mũi thuyền phân Bắc trong nhiều năm. Khứu giác của chị đã chết hẳn, không nhận ra thơm thối!

Nhưng với chúng tôi, với người dân thuần tuý nghĩa là những người không đi mua phân, chúng tôi phải tránh xa thuyền phân, chúng tôi ói mửa nếu đến gần! Viết những câu này thực vạn bất đắc dĩ nhưng nó là sự thực, chị hỏi toàn dân nước bây giờ, những người hiểu biết đều trả lời như vậy!

Xin trở lại miền Nam. Trong chính thể Dân chủ, Tự do, Nhân quyền miền Nam từ 1954-1975, ai cũng có cơ hội tiến bộ về giáo dục, kinh doanh, nông nghiệp, ngư nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp và nuôi chí làm giầu do chính công sức của mình và gia đình mình. Ngay những người đi làm cho Chính phủ trong các bàn giấy cũng có đời sống ổn định.

Các cơ quan của chính phủ VNCH từ cấp xã, cấp quận lên tới tỉnh, thành phố, hay toà án, toà hoà giải rộng quyền, văn phòng Cảnh sát, văn phòng thuế vụ v.v...mỗi khi người dân cần đến thị thực chữ ký, thị thực bản sao, mua bán nhà cửa, xin thế vì khai sinh, giá thú, đóng thuế hay khai báo bị cắp trộm v.v...nói tóm mọi công việc người dân phải đến khai báo với nhà chức trách v.v...thì hầu như 95% người dân hài lòng, không phải chờ đợi mất thì giờ mà cũng không phải hối lộ đồng quà tấm bánh cho nhân viên nhà nước.

Nhân viên, công chức có bổn phận phải phục vụ dân. Vì họ có lương đủ sống, cảnh hối lộ là có nhưng rất ít xẩy ra. Cảnh sát giữ trật tự lưu thông, khi người dân đi sai luật giao thông là bị phạt, không như Cảnh sát của XHCN ăn từ điếu thuốc lá, từ khúc bánh mì của người làm sai luật để được bỏ qua.

Các Hội đồng Xã, Hội đồng Tỉnh, Thị, Thành phố đều được bầu phổ thông đầu phiếu nghiêm túc, nghĩa là từ 18 tuổi trở lên, ngoại trừ điên loạn, mất quyền công dân, đang ở tù, cướp của, giết người v.v...ai cũng có quyền tham gia vào cuộc bầu đại diện cho mình. Điều đó đã được ghi rõ trong Hiến Pháp 1966 của VNCH do Quốc Hội Lập Hiến thảo ra. Nếu cử tri có quyền bầu cử thì họ cũng có quyền ứng cử, họ có thể ra ứng cử Tổng Thống, phó TT (thường là đứng chung Liên danh với TT), Dân biểu, Nghị sĩ nếu họ có đủ điều kiện và uy tín. Không ai có quyền ngăn cản!

Có một số Dân Biểu Pháp nhiệm II mà tôi đắc cử, trước khi là Dân biểu, họ đã là thành viên Hội đồng Xã, thành viên Hội đồng tỉnh, thị, hay thành phố rồi mới bò dần lên Quốc hội. Bầu cử phổ thông đầu phiếu với đủ mọi tầng lớp như thế không biết có dân chủ bằng chế độ Xã nghĩa của ông Hồ ở ngoài Bắc hay không, thưa chị Thu Hương?

Đã đành không có chế độ nào toàn hảo nhưng nhìn chung, công chức nhân viên thời VNCH vì có lương đủ sống, họ không đến nỗi vơ vét quá tệ như trong Xã nghĩa Cộng Sản sau 30-4-1975. Người dân không cần vào đảng nào nhưng quyền lợi và bổn phận đã được minh định công khai bằng Hiến Pháp và Luật pháp; không như chế độ Xã nghĩa, làm bậy nhưng vẫn được đảng bao che nếu là đảng viên! Chỉ một chuyện đó đã sinh ra bất công xã hội, chị có nhìn nhận như thế không?

Page 78: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Cố vấn Mỹ có mặt trong các đơn vị Quân đội từ cấp đại đội trở lên nhưng những chỉ huy trưởng đơn vị là người Việt mới có quyền quyết định tối hậu, nhiều khi trái hẳn với ý kiến của cố vấn Mỹ. Mỹ có truyền thống tôn trọng cấp chỉ huy nơi họ đến phục vụ không như cố vấn Tàu trong các đơn vị của lính ông Hồ. Tàu xưa nay cao ngạo thường coi “ố nàm dần” như bọn man di mọi rợ vì chỉ có Tàu là ở Trung nguyên, các nước khác xung quanh đều là mọi rợ hết đối với họ.

Ngay nước họ, dòng Hán mới là dòng chính, dòng quý phái; quân Mãn Thanh khi xưa chiếm được Trung quốc nhưng vẫn ở thế hạ phong đối với người Hán, vẫn bị người Hán đồng hoá. Đó cũng là niềm kiêu hãnh của người Hán. Nước Tàu, do trọng nam khinh nữ, giết hại những trẻ gái, nay họ thiếu phụ nữ, Hồ cẩm Đào chỉ việc cho trai Tàu sang ở Tây Nguyên, lấy gái Việt làm vợ, sinh con đẻ cháu, vài chục năm thì giống Tàu có cả mấy triệu trên đất nước Việt. Chẳng tốn viên đạn, chẳng mất một giọt máu nhưng Tàu mọc rễ nơi Việt Nam chúng mơ tưởng lâu ngày này, vua Quang Trung, vua Lê Lợi sống lại chắc gì đã đuổi nổi chúng khi chúng có quân lực mạnh, vũ khí tối tân?

Mời Tàu vào làm ông chủ, đó chính là kỳ tích không tiền khoáng hậu của bậc vĩ nhân Hồ chí Minh của chị đó, chị Thu Hương! Chị chớ quên những mục quan trọng này trong bản Phụ đính cuốn “Đỉnh cao chói lọi”!Chị hãy chống mắt xem những lời tôi nói đúng hay sai? Tôi cầu xin ơn Trên cho tôi sai để nước Việt Nam của tôi, của chị, của mọi người Việt không bị bán đứng cho Bùn Đỏ độc hại Tây Nguyên!

Trở lại với cố vấn Mỹ ở miền Nam trước 30-4-1975. Thường cố vấn Mỹ đi theo các đại đơn vị QLVNCH là để tìm cách giúp quân đội VN những khó khăn về kỹ thuật như bắc cầu nổi tạm qua một con sông, tiếp thêm đồ tiếp liệu đã cạn hay khi cần phải gọi phi cơ tác chiến, gọi trực thăng tải thương v.v... Tại các cơ quan hành chánh, cố vấn Mỹ không có nhiều và họ phải trọng các cấp bậc chỉ huy người Việt vì những cấp chỉ huy dân và quân sự, nhã nhặn lịch sự thì có nhưng họ không cần bợ đỡ, nịnh hót hay buộc phải tuân theo lệnh của các cố vấn Mỹ. Họ chuyện trò ngang hàng với Cố vấn Mỹ bởi Cố Vấn Mỹ không phải là người nắm sinh mạng của họ, không ân thưởng hay thuyên chuyển họ được mà chỉ đề nghị (nếu có) về Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH để nơi đây quyết định. Hơn nữa truyền thống người Mỹ là bình đẳng, dù một binh nhất, một binh nhì không giống Cố vấn Tàu khệnh khạng coi rẻ người Việt như rơm như rác!

Phía quân đội thỉnh thoảng xẩy ra những vị chỉ huy quá nóng đã đánh cả cố vấn Mỹ. Đại tá Lê sĩ Đạt, Tư lệnh Sư đoàn 23(?) chỉ vì chõi với lệnh của cố vấn Mỹ mà không thèm dùng trực thăng Mỹ đến bốc ông đi, ông ở lại Căn cứ và bị quân CS tràn vào, ông chống cự với chúng đến phút cuối cùng, bị chúng thảm sát. Nhiều tướng lãnh khác có thành tích đánh cố vấn Mỹ. Điều ấy chứng tỏ các cơ quan Hành chánh và Quân Đội VNCH không hề sợ và phải chịu lệnh từ Cố vấn Mỹ trong khi chính ông Hồ phải ngán La quý Ba, cố vấn Tàu và nhiều anh cố vấn khác!

Chế độ Dân chủ thực sự của VNCH tạo cơ hội đồng đều cho hết mọi tầng lớp nhân dân, có công sức đeo đuổi, có trí thông minh ắt phải thành công. Nó cũng tương tự như chế độ Dân chủ của Hoa Kỳ hiện nay, tại sao người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ thành công vượt bực? Vì họ được đối đãi ngang hàng với người sinh trưởng tại đây, họ đã trốn thoát nanh vuốt CS, họ đã một sống chín chết, họ nuôi chí học hành và họ đã thành công mỹ mãn. Tỉ lệ bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, kỹ sư, chuyên viên người Việt ở Hoa kỳ so với khoảng 1 triệu rưỡi người Việt nam tổng số thì phải nói nhất nhì thế giới Cũng những người này, nếu không trốn thoát nanh vuốt Hồ tặc được thì có giỏi lắm là xong Trung học rồi đi bán vé số!

Tại sao vậy? Chính là do chính trị chi phối, chính là từ người quản gia trong một gia đình, người chủ trì một nước, chính là từ chủ trương của Hồ dâm tặc từ 1945 và đồng bọn ngu dốt cặn bã như cu ly Lê Duẩn, thiến heo Đỗ Mười, cai đồn điền Lê đức Anh và những tên vô học đần độn đang ở trong Bộ chính trị và tập đoàn cai trị nước mà ra!

Page 79: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Ngay như tôi, nếu tôi không được vào Nam, cái đầu tôi chỉ ở trình độ tiểu học Pháp. Riêng cái tiểu học Pháp này cũng là nhờ thực dân Pháp khi xưa, chúng dùng chính sách ngu dân đấy, Hồ và bọn Trần huy Liệu chửi Pháp đêm ngày, nhưng nhờ bố mẹ tôi chăm chút cho tôi đi học mà có chút chữ nghĩa làm cái nền (noyau) rồi quảng diễn mãi ra, chứ nếu nhờ vào chế độ “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc” thương dân, yêu dân, dân làm chủ của Hồ tặc thì suốt đời tôi không hơn anh cu ly Lê Duẩn, hoạn lợn Đỗ Mười và cai phu đồn điền Lê đức Anh và ngay cả bồi tầu Nguyễn tất Thành! À không, tôi hơn một tí. Tôi đã đậu primaire, Tất Thành chưa!

Chế độ chính trị của một quốc gia nó quan trọng cho người dân trong quốc gia ấy đến thế! Các anh chị và các cháu tôi không được vào Nam năm 1954, sau hơn 50 năm, nay chúng tôi mới được giao dịch thư từ, nhìn tuồng chữ và ý tứ trong thư của mỗi người, tôi buồn rầu nhận ra rằng hầu hết viết sai chính tả chữ Việt, ý tứ ngô nghê bởi chưa học xong tiểu học. Mà không phải chỉ gia đình tôi, nhiều gia đình của bạn tôi cũng không hơn; có vài thanh niên nói là đã học xong Đại học, viết thư sang xin tiền, có mấy câu vẫn sai chính tả những chữ rất thường, ý tứ ngô nghê thua cả đám học trò tiểu học ở Sàigòn trước 4-1975.

Chị Thu Hương, chị đã ở trong chế độ vgcs Hồ tặc đã lâu, chị rõ hơn tôi. Tôi chỉ đi Văn công gần hai năm, sau đó sống ở cả miền quê và thành phố, nhưng dù sao chế độ Hồ lúc đó không nghiệt ngã và tàn bạo bằng sau 20-7-1954 tức sau HĐ Geneva chia đôi đất nước. Hồ một mình một chợ, không sợ sệt ai, không kiêng nể quốc tế nên Hồ thi hành chính sách thắt họng người dân bằng đủ mọi mánh khoé.

Với vgcs, chị không có quyền của một công dân. Những gì chị có được là từ đảng và “bác” ban phát dù chị cấy lúa và thu hoạch, những giạ lúa ấy không phải của chị mà của “nhân dân”, “nhân dân” đây là đảng và “bác”, đảng “bác” thay mặt dân giữ lúa cho chị, ăn giùm cho chị.

Nếu chị đói, ngửa tay xin “bác” và đảng, đảng “bác” cho chị ít nhiều nào đó để cầm hơi khỏi chết, chị phải cám ơn, nhớ ơn, và thề trung thành với đảng với “bác”. Đảng là “bác”, “bác” cũng là đảng, chị đừng bao giờ thắc mắc.

Chị giơ tay xin lúa, từ chuyên môn gọi là Xin, đảng “bác” phát cho chị một ít cầm hơi, gọi là Cho (mặc dù lúa đó do bàn tay chị làm ra, đổ mồ hôi, sôi máu mắt). Hệ thống Xin-Cho này là hệ thống áp dụng từ ngày Hồ làm chủ tịch nước. Một trăm lần chị ngửa tay xin, có lẽ 99 lần đảng “bác” không cho. Nhưng lần tới cần cái chi, chị vẫn phải xin. Cho hay không là tuỳ quyền đảng “bác”. Chị được làm công dân XHCNVN là một cái vinh dự quý báu rồi, chớ mơ tưởng gì hơn! Nếu đảng “bác” có cách gì bán không khí cho chị thở, hay chị phải xin-cho mới thở được thì đảng và “bác” không ngần ngại khoá cái rô- bi-nê không khí ngày trăm lần!

Có những cá nhân, như LM Nguyễn văn Lý, LS Lê thị Công Nhân, Thượng toạ Thích Không Tánh, Thượng toạ Thích Minh Mẫn (Bạc Liêu, tù CS 27 năm), Tổng Giám mục Ngô quang Kiệt v.v... hay đoàn thể như giáo xứ Thái Hà, không chấp nhận Xin-Cho, họ bảo “tôi làm việc đó là vì tôi có quyền làm, tôi không cần phải xin xỏ ai cả” nên bọn Hồ tặc giam tù, đày đoạ hoặc bêu riếu trên TV, radio, hay vẫn cứ cướp đất để làm công viên chó ỉa!

(còn tiếp)

10-June 09

GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Page 80: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Bài đọc thêm (Trích Hoa Tự Do)

ANAHEIM, California  – “Hiện tình đất nước Việt Nam và Phật Giáo đang trong giai đoạn nguy biến. Nhà nước Trung Cộng đang phơi bày ý đồ xâm lăng nước ta,” Ðại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Thượng Thủ Giáo Hội Việt Nam Trên Thế Giới nói trong đạo từ Phật Ðản 2553 trước khoảng 5,000 Chư Tôn Ðức Tăng Ni và Phật tử tại hội trường của Anaheim Convention Center vào chiều Thứ Bảy, 6 Tháng Sáu, 2009.

Hòa Thượng nói tiếp, “Giáo Hội Phật Giao Việt Nam Thống Nhất trong nước chưa được phục hoạt, các bậc tài đức thưa thớt dần lại bị những con người hoạt đầu tha hóa lũng đoạn. Tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại hải ngoại, gần hai năm nay, bị trận cuồng phong ác độc càn quét không tránh khỏi sự hiu quạnh điêu đứng.”

Tham dự buổi lễ, ngoài các vị dân cử liên bang, tiểu bang và địa phương còn có sự hiện diện đặc biệt của Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Michael Michalak. Trong hàng Chư Tôn Ðức Tăng Ni và Phật tử, có nhiều vị đến từ Canada, Pháp, Úc và các tiểu bang ở Hoa Kỳ.

Trong bài đạo từ, Ðại Lão Hòa Thượng Tâm Châu nói, “Kỷ niệm sự Giáng Sinh Ðức Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Phật là tâm niệm của toàn thể những người tin tưởng vào giáo lý Phật Giáo của Ngài, khắp nơi trên thế giới. Hình thức kỷ niệm mỗi nơi có khác nhau nhưng đều nằm trong ý nghĩa ‘tri ân và phụng hành.’ Biết ơn công đức hóa độ của Ngài và phụng hành theo giáo pháp của Ngài để thoát ly sanh tử.”Trước tình hình đất nước hiện nay, Ðại Lão Hòa Thượng Tâm Châu nói rằng “nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã cúi đầu thần phục, nhượng đất, nhượng biển, nhượng tài nguyên cho Trung Cộng.”Hòa Thượng cũng nhắc đến vai trò quan trọng của các tổ chức cư sĩ trong và ngoài nước trong nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc.

Buổi lễ diễn ra trang trọng và càng cảm động hơn khi Hòa Thượng Thích Chơn Thành, trưởng ban tổ chức cùng các vị hòa thượng, thượng tọa trong ban tổ chức của Cộng Ðồng Phật Giáo Việt Nam Nam California, đã phủ phục chung quanh Ðại Lão Hòa Thượng để bày tỏ sự tôn kính trước một vị chân tu đầy phẩm hạnh và trí tuệ.

Nghi thức khai mạc được diễn ra long trọng qua các bản quốc thiều Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Phật Giáo cùng với phút Nhập Từ Bi Quán do Gia Ðình Phật Tử Nam California phụ trách trên sân khấu rộng lớn với hình ảnh Ðức Phật Thích Ca

Mở đầu buổi lễ, Thượng Tọa Thích Nguyên Siêu, tổng thư ký Cộng Ðồng Phật Giáo Việt Nam, Nam California tuyên bố chủ đề và cũng là trọng tâm của chương trình Ðại Lễ Phật Ðản năm nay là Lễ Hội Phật Ðản vì hòa bình và dân chủ Việt Nam.

Cộng Ðồng Phật Giáo Nam California nhất tâm cầu nguyện cho quê hương Việt Nam được thanh bình thật sự, để được vẹn toàn lãnh thổ mà tổ tiên và cha ông chúng ta đã đổ quá nhiều xương máu để dựng nước và giữ nước. Phát tâm cầu nguyện cho dân tộc Việt Nam được tự do dân chủ để có cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Hòa Thượng Chơn Thành đã lên nói ý nghĩa của ngày Phật Ðản qua hình ảnh sơ sinh của Thái Tử Tất Ðạt Ða dưới gốc cây vô ưu trong vườn Lâm Tì Ni cách đây 2633 năm tại Ấn Ðộ. Ngày Phật Ðản cũng là một dấu mốc lịch sử cho nền Phật Giáo cứu độ chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi của sanh bệnh lão tử.Cũng có mặt trong buổi lễ là Ðại Sứ Michael Machalak. Sau lời chào mừng của nghị viên thành phố Anaheim, đại sứ ngỏ lời cám ơn và cảm thấy vinh hạnh khi được tham dự ngày Lễ Phật Ðản truyền thống với cộng đồng Việt Nam tại Nam California.

Page 81: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Ông cho biết ông làm việc ở Việt Nam trong vai trò đại sứ nhằm khuyến cáo nhà cầm quyền CSVN thực thi nhân quyền, tự do báo chí, tự do tôn giáo đến với người gian trong nước. Ngoài ra ông cũng thực thi chánh sách của Hoa Kỳ trong các vấn đề kinh tế, giáo dục và văn hóa. Ông đến đây cũng để lắng nghe những nguyện vọng của người Việt ở Hoa Kỳ đối với nhà cầm quyền CSVN.

 Lời Tâm Huyết Của Ls Lê Thị Công Nhân

«Xin chào toàn thể quý vị đồng bào người Việt Nam tại hải ngoại đang tham dự cuộc biểu tình chống lại sự đàn áp của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đối với phong trào đấu tranh dân chủ. Xin chào toàn thể quý vị trên diễn đàn và tất cả những vị khách Quốc tế, những người nước ngoài đang ủng hộ cho cuộc đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền và tự do cho người Việt Nam của chúng tôi.

…."Một lần nữa, tôi xin khẳng định, tôi không bao giờ đầu hàng, không bao giờ thỏa hiệp với CSVN cho dù điều tồi tệ nhất có thể xảy đến. Và đối với tôi, đi tù chưa phải là điều tồi tệ nhất. Nhưng cộng sản họ vẫn thường xuyên tuyên bố thông qua những người tay sai là các công an với chúng tôi là đi tù thì dễ thôi. Nhưng họ sẽ làm cho cuộc sống của chúng tôi nếu như không bị đi tù còn tồi tệ hơn là đi tù." Lê Thị Công Nhân

Ngư Dân Đói Thê Thảm

Đó là chuyện cả thế giới đang nhìn thấy: Hà Nội đang kiến nghị lên đàn anh Bắc Kinh, xin nhẹ tay chuyện phong tỏa Biển Đông, để ngư dân Việt ra biển kiếm sống. Và rất dịu dàng, ông Lê Dũng đã kể chuyện một Thứ Trưởng Ngoại Giao CSVN đóng vai dân oan để khiếu kiện với Bắc Kinh về lệnh cấm ngư dân Việt ra Biển Đông lưới cá trong ba tháng.

Điều ngạc nhiên: lệnh cấm áp dụng từ ba tuần nay rồi, ngư dân đói thê thảm, nhà nước Hà Nội mới chịu lên tiếng rằng Hà Nội cũng đã có kiến nghị lên Bắc Kinh rồi, mà biển vẫn còn bị khóa.

Chuyện Hà Nội khiếu kiện được thông tấn TTXVN kể:

“Trả lời câu hỏi của phóng viên về việc này, ngày 7/6, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng cho biết:

"Ngày 4/6 vừa qua, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn đã giao thiệp với Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường, lưu ý việc phía Trung Quốc gần đây thực hiện lệnh cấm đánh cá tại một số vùng biển, trong đó có những khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông và tăng cường tàu tuần tra, bắt, phạt tàu cá tại những vùng biển này.

Thứ trưởng cho rằng điều đó đã và đang ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của ngư dân Việt Nam tại ngư trường truyền thống của Việt Nam, gây bức xúc trong dư luận, không có lợi cho quan hệ hai nước, đề nghị phía Trung Quốc không có các hoạt động cản trở công việc làm ăn bình thường của ngư dân Việt Nam trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam".

HIỆU TRƯỞNG ĐI BÁN VÉ SỐ

Chuyện trong lá thư này xảy ra tại một  xã của tỉnh Khánh Hòa: một cựu giáo viên có 42 năm dạy học, 7 lần làm hiệu trưởng ở 7 trường khác nhau, khi về hưu lại phải lang thang bán vé số kiếm tiền nuôi một cháu bị bệnh suy thận mãn giai đoạn cuối, một cháu đang theo học cao đẳng ở Sài Gòn.  Báo Thanh Niên ghi lại tình cảnh mưu sinh khốn khổ của ông giáo già này như sau. Câu chuyện về thầy Trần Duyệt (67 tuổi, quê xã Diên Hòa, huyện Diên Khánh, Khánh Hòa) khiến nhiều người phải ngậm ngùi suy nghĩ.

Page 82: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Dáng người nhỏ, râu tóc bạc phơ, thầy Trần Duyệt cầm tập vé số, ngồi nói chuyện với phóng viên ở quán nước ven đường. Ông kể: Năm 1986, con gái đầu của ông bị bệnh tâm thần. Báo Thanh Niên viết rằng câu chuyện về một người thầy với thâm niên 42 năm đứng trên bục giảng, 7 lần làm hiệu trưởng, rồi về hưu lại lang thang khắp nơi để bán vé số thật khó tin, nhưng lại là câu chuyện có thật. Nỗi lo lớn nhất của ông Duyệt bây giờ là lỡ khi  ông đau ốm, không còn sức, ai sẽ lo tiền ăn học, tiền chữa bệnh cho các cháu... 

Hồi Ký Tô HảiNgô nhân Dụng: Tôi đã đọc hết cuốn hồi ký của Nhạc sĩ Tô Hải. Hơi tiếc, vì ông viết ngắn quá; chỉ có hơn 500 trang giấy in. Vừa đọc vừa tiếc. Vì có lúc đang theo ông qua những đoạn đường, trong bụng chờ sắp được nghe ông kể tiếp một chuyện đang nói nửa chừng, thì ông lại nhảy sang chuyện khác. Tiếc, và trách tác giả không để thêm thời giờ kể rõ ngọn ngành cho người đọc biết thêm. Nhưng khi nghe Tô Hải giải thích trong cuộc phỏng vấn với Ðinh Quang Anh Thái (sắp đăng trên báo này) thì hiểu tại sao. Tô Hải không có ý kể câu chuyện cuộc đời mình. Ông bảo, trong cuốn sách này, “tôi chủ ý chỉ viết về cái hèn của tôi thôi.”

Như vậy thì hiểu được, vì tên cuốn sách đầy đủ là “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn,” như những lời thú tội về cái hèn của mình, một cái hèn đeo mãi trên một con người, kéo dài hơn nửa thế kỷ. Ðến năm gần tuổi 70, con người đó mới chợt thấy phải kể lại mình đã sống hèn như thế nào, và bắt đầu thú nhận. Một điều cảm động, là tác giả muốn thú tội với thân phụ của ông trước hết. Vì trước khi ông bỏ nhà đi rồi gia nhập đảng Cộng Sản vào năm 17 tuổi, cụ thân sinh đã bảo thẳng người con trai lớn đó là đã “bị Cộng Sản nó lừa.” Không những thế, cụ còn dọa mai mốt có trốn cộng Sản chạy về nhà thì cụ sẽ đuổi đi, không nhận làm con nữa. Cả cuộc đời hai lần Tô Hải mong được gặp lại cha mẹ và các em, một lần năm 1954 khi trở về Hà Nội, và lần sau năm 1975 khi tìm vào Sài Gòn. Cuối cùng thì ông chỉ gặp lại cụ thân sinh trên những trang giấy của cuốn hồi ký này. Ông đã kể lại một đời sống cam tâm chịu hèn không phải của riêng ông mà còn bao nhiêu những người trí thức bị trói buộc trong guồng máy “chuyên chính vô sản” nên họ đành phải làm tay sai cho đảng Cộng Sản. Cuốn hồi ký kể biết bao nhiêu câu chuyện như một bức bích họa cho thấy tấm thảm kịch đổ lên đầu dân tộc Việt Nam trong thế kỷ trước, nó hủy hoại nền tảng đạo lý trong xã hội và làm tê liệt lương tâm của từng cá nhân.

Tai họa đó là do cách cai quản con người đã được Stalin sáng chế và Mao Trạch Ðông biên cải cho thích hợp với văn hóa phong tục Á Ðông, rồi được Hồ Chí Minh hết lòng áp dụng nước ta. Ðó là một guồng máy kiềm thúc, cai quản, ràng buộc đó đã biến hàng triệu con người trở thành những tên hèn, ngay cả những người đóng vai kiểm soát những người khác.

Có một đoạn chúng ta không thể nào quên, là năm 1956 khi Tô Hải đi “liều mạng” trở về Thanh Hóa tìm “cứu đứa con trai.” Hai vợ chồng ông đều phải đi làm công tác văn nghệ với quân đội trong thời kháng chiến cho đến sau khi hòa bình, cho nên họ đã gửi đứa con thứ hai này cho ông bà ngoại nuôi. Ông kể, “Gia đình vợ tôi chẳng có một tấc đất nào, nhưng bị đẩy lên... (hàng) địa chủ.”

Trong thời gian cải cách ruộng đất đó, các cố vấn đã chỉ thị mỗi làng phải có mấy phần trăm là địa chủ, mấy phần trăm là phú nông, bao nhiêu là trung nông, vân vân, đúng như tỷ số theo thống kê từ bên Trung Quốc đã làm. Nếu một làng không đủ người đúng tiêu chuẩn vào mỗi hạng thì những người ở hạng dưới được “đôn lên” hạng trên.

Nhưng thân phụ bà Tô Hải là cụ Nguyễn Ðăng Quỳ vốn không phải là địa chủ, cũng không phải người ở vùng quê Thanh Nghệ này. Ông đã đi theo Nam Bộ Kháng Chiến chống Pháp. Sau đó ông đã bỏ tất cả gia sản ở miền Nam đưa gia đình chạy ra Bắc, sống ở thành phố Vinh. Tô Hải kể, “Khi Vinh bị tiêu thổ kháng chiến, ông mua một mảnh vườn sát chân núi Diễn Châu.”

Page 83: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

Nhưng Ðội Cải Cách đã “lôi ông già ra đấu,” họ tra hỏi ông tại sao mua đất, làm vườn ở nơi không phải quê quán mình, “Có phải để bóc lột nông dân hay không?” Họ đặt ra những lời kết tội bịa đặt khác, mà tác giả viết, “Tất cả lý lẽ đưa ra chỉ nhằm mục đích chiếm bằng hết những gì có thể chiếm: Giường tủ, bàn ghế, quần áo, mâm đồng, chậu thau, bát đĩa, ấm chén,... Phải kiếm cho ra một cớ gì để trấn lột công khai. Tôi thì chụp cho (ông cụ) cái mũ ‘kẻ thù giai cấp’ là xong.” Sau khi bị cướp mất hết, từ cái quần cho đến cái bát đã mẻ, cả gia đình cụ Nguyễn Ðăng Quỳ bị giam tại chỗ ở chân núi, chỉ còn cách sống bằng ăn rau, lá kiếm được trên núi, trong cánh đồng. Hình phạt này là cách bắt những người bị tố chết đói hoặc tự tử. Nhiều người đã tự tử.

Gia đình ông cụ có hai con trai và một con rể (tức Tô Hải) đi bộ đội đánh nhau với Pháp. Khi cụ ông bị đem đấu tố thì Tô Hải và một người con trai của cụ đều biết nhưng không ai dám về thăm bố. Họ phải “dứt khoát với kẻ thù giai cấp” để bảo toàn mạng sống của chính họ và gia đình nho nhỏ của họ. Nhưng vợ chồng Tô Hải còn đứa con bé gửi ông bà ngoại, đứa bé cũng đang nằm trong “vòng vây của những ông bà nông dân.” Họ phải cứu lấy con! Tô Hải may mắn nhờ một người bạn cũ giúp, ông này là một cán bộ lớn thuộc Ðoàn Ủy Cải Cách Ruộng Ðất. Người bạn nhân danh chức vụ đó viết một tấm giấy ra lệnh tên địa chủ Nguyễn Ðăng Quỳ phải trả cho “Ông bộ đội Tô Ðình Hải” đứa con trai của ông đã gửi ở nhà tên địa chủ dù không có họ hàng thân thích gì hết.

Tô Hải kể, “Sáng sớm chưa rõ mặt người, tôi thấy bố vợ tôi mặt mày sưng vù, răng cửa rụng gần hết vì bị đánh, mang tới trụ sở một thằng bé, không, một cái xác trẻ con gầy guộc xám ngoét. Ðó là thằng con yêu quý của tôi. Nó chỉ còn thở thoi thóp sau bảy ngày chỉ sống nhờ những lá rau lang, mà ông bà ngoại ngắt về từ mấy luống khoai trồng trước nhà, mớm cho.... Tôi cắn răng ôm lấy con, không kịp nói một lời an ủi bố vợ. Vì các ông bà nông dân đã đuổi quầy quậy ngay sau khi ông trao trả cháu ngoại...” Cảnh ông ngoại trả cháu cho bố nó mà không được dặn dò, thăm hỏi một câu; người con rể không dám nói một lời cảm ơn bố vợ; đó là hình ảnh người đọc không thể nào quên được. Cả xã hội Việt Nam đã phải sống với nhau như vậy trong những năm “long trời lở đất” khi Hồ Chí Minh quyết tâm theo đường lối cách mạng của Mao Chủ Tịch. Chính Tô Hải đã soạn một bản nhạc ca tụng Hồ Chí Minh lấy nền dựa trên giai điệu của bài Ðông Phương Hồng mà bên Trung Quốc dùng để ca ngợi Mao Trạch Ðông!

Liệu ai trong chúng ta có can đảm hành động khác với Tô Hải trong khung cảnh đó? Có ai nhất định phải sống ngay thẳng, sống có đạo nghĩa, không chịu sống hèn hạ từ bỏ cả cha mình hay không? Không biết được. Người không sống trong guồng máy kìm kẹp tàn bạo của Stalin thì không thể biết mình sẽ ứng xử như thế nào cho xứng đáng làm người. Người bạn giúp Tô Hải tấm giấy giới thiệu cho đi “đòi con” chính anh ta sau này cũng bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản, và “khai trừ khỏi... mặt đất” khi bị thất sủng. Nhưng chúng ta có thể biết chắc là nhạc sĩ Tô Hải không hèn. Ông đã dành hàng chục năm cuối của cuộc đời kể tội chính mình. Ông nằm trên giường bệnh nhưng vẫn vào mạng lưới Internet, trở thành người giữ blog lớn tuổi nhất Việt Nam, nêu gương sáng cho lớp thanh niên. Thông điệp ông gửi cho giới trẻ, cho đồng bào, cho cả những người từng là đồng chí của ông còn trong đảng Cộng Sản, là: Chúng ta không được phép sống hèn nữa. Thế giới đã thay đổi. Phải trở lại làm người! Phải can đảm phi thường thì một người ở tuổi 83 mới làm được công việc đó. Nhất là trong lúc guồng máy di sản của Stalin và Hồ Chí Minh tuy đã xộc xệch sắp tàn nhưng vẫn còn ngự trị trên đất nước chúng ta. Tô Hải đã thú tội với thân sinh ông. Với nhạc phụ ông. Bao giờ thì những người trong cả guồng máy kìm kẹp trên cũng biết ăn năn thú tội?

Độc Lập

Về chính trị, từ ngày đất nước được tiếng là “thống nhất” đến nay là 34 năm, đã có không biết hàng tỷ chữ “Độc Lập” được treo khắp các cơ quan, trên đủ loại giấy tờ. Ấy vậy mà mới chỉ năm 2008 vừa qua khi em sinh viên Lê Minh Phiếu viết thư gởi chủ tịch UB Olympic Quốc tế phản đối nhà cầm TQ lợi dụng việc quảng bá rước đuốc thế vận hội đã cho tô đỏ cả hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa trên website của

Page 84: Bài 1 - 6 Vài suy nghĩ về “Món Ăn Chân Lý” của Dương thu Hương (GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc)

họ, em này liền bị TQ trừng phạt thẳng tay, bị từ chối không cho chạm tay vào ngọn đuốc Olympic.

Càng đau đớn hơn khi biết rằng sự việc trên lại diễn ra ngay giữa lòng Sàigòn, thành phố lớn nhất nước rành rành là của VN chứ chẳng phải nơi nào mơ hồ, ấy vậy mà nhà cầm quyền từng “đánh tan hai đế quốc sừng sỏ” mặc dù biết rõ đầu đuôi câu chuyện, nhưng tất cả đều câm lặng trước cảnh một em công dân sáng giá của mình bị phía TQ trù dập, bị bỏ rơi. Cuối cùng vì quá bất mãn, tự ái dân tộc nổi lên Lê Minh Phiếu đã đề nghị được xuống xe dọc đường lặng lẽ tự đi về nhà trên đường rước đuốc tối ngày 29/4/2008.

Nay trước vấn nạn Bauxite cũng lại có dính dáng đến “đàn anh” TQ. Những ai còn nhớ chuyện rước đuốc mà Lê Minh Phiếu từng gặp phải suy nghĩ ra sao?Quế Sơn: Và trong phần giới thiệu cuốn sách Cổ Học Tinh Hoa của Ôn Như Nguyễn văn Ngọc và Tử An Trần Lê Nhân ( Tái bản lầ thứ 5, năm 1996), Nhà xuất bản Trẻ cũng đã đưa ra những nhận định của mình về câu nói của Mạnh Tử:

“…Trong câu nói nổi tiếng của Mạnh Tử: Dân vi trọng, xã tắc thứ chi, quân vi khinh ( Dân là trọng, thứ đến đất nước- còn vua thì coi nhẹ). Đọc những câu đó trong cổ học, chúng ta phải ngạc nhiên thấy rằng ý thức dân chủ đã được phát biểu một cách minh bạch, công khai và táo bạo như thế dưới thời quân chủ chuyên chế. Đồng thời phải xấu hô mà thấy rắng ngày nay nhân loại sắp bước vào kỷ nguyên của năm 2000 mà trên trái đất vẫn còn tồn tại những chế độ độc tài phát xít, những nền dân chủ giả hiệu, những tệ sùng bái cá nhân, tôn thờ lãnh tụ một cách lố bịch.”

Cho đến nay tại Việt Nam, ta thấy cái nhận xét trên của nhà xuất bản Trẻ vẫn còn nguyên giá trị. PHNOM PENH, Cambodia (AP) – Các giám thị trại tù của Khmer Đỏ đã giết trẻ nhỏ bằng cách đập đầu chúng vào thân cây theo như chính sách đưa ra, nhằm tránh việc trẻ em sống trong chế độ bạo tàn này có thể trả thù cho cha mẹ chúng khi lớn lên, theo lời khai của quản ngục trại S-21 (còn gọi là trại Tuol Sleng) trước tòa hôm thứ Hai ngày 8 tháng Sáu.

Kaing Guek Eav, còn có bí danh là Duch, cho hay ông nhận trách nhiệm về những vụ giết trẻ nhỏ khi còn là quản đốc trại tù S-21 của Khmer Đỏ tại Phnom Penh trong thập niên 70. Có tới 16,000 người, kể cả đàn ông, đàn bà và trẻ nhỏ đã bị tra tấn truớc khi bị giết chết.

“Tôi là người có trách nhiệm về việc giết trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và các thiếu niên nam nữ,” Duch, 66 tuổi, khai trước một phiên tòa quốc tế được sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc. Ông Duch chưa bao giờ nói cá nhân ông đã giết một ai. “Những điều này đã do thuộc cấp của tôi thi hành. Tôi không đổ lỗi cho họ vì điều này thuộc trách nhiệm của tôi.”

Duch hiện đang bị xử trước tòa về các tội ác chống lại con người, tội phạm chiến tranh, giết người và tra tấn. Có khoảng 1.7 triệu người Cam Bốt đã chết trong thời gian này.

Giặc Hồ và bọn thủ hạ một ngày nào đó cũng phải ra trước toà án Nuremberg quốc tế để chịu án phạt diệt chủng!