bản tin số tết 2013
DESCRIPTION
Số đặc biệt, gồm nhiều bài hấp dẫn, bổ ích và lý thúTRANSCRIPT
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 1
CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢN
TS. Đào Huy Hoàng
Tel: 04. 37664764
Email: [email protected]
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP
TS. Đào Huy Hoàng (Chủ tịch);
KS. Trần Mạnh Khải (P. Chủ tịch);
TS. Lê Mạnh Hân (P. Chủ tịch);
KS. Hoàng Tam Hùng; KS. Đào Đình
Hoàng; CN. Vũ Phương Anh
TOÀ SOẠN
Tầng 3 - Nhà B
1252 Đường Láng - Đống Đa - Hà Nội
Tel: 04. 37664765 - Fax: 4.37668871
Email: [email protected]
Website: http://www.cti.gov.vn
TÀI KHOẢN
002.1.00.079373.1
Ngân hàng Vietcombank
Chi nhánh Thành Công
GIẤY PHÉP XUẤT BẢN
Số 27/GP - XBBT Ngày 3/5/2012
ISSN 1859-0071
Nơi in: Công ty Ngọc Châu
BẢN TIN XUẤT BẢN HÀNG THÁNG
MỤC LỤC – CONTENTS
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG – GENERAL ISSUES
Bộ trƣởng Đinh La Thăng và những công trình mang
dấu ấn năm 2012
Minister Dinh La Thang and constructions marked 2012
Trung tâm Đào tạo và Thông tin 3
Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông ở Việt Nam
Development of transport infrastructure systems in Vietnam
Nguyễn Hồng Sơn 6
TIN TỨC SỰ KIỆN – NEWS AND EVENTS
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
Quy hoạch mạng lƣới giao thông - tiền đề phát triển đô thị
Traffic network planning - the premise of urban development
Vũ Trung Hƣng 13
Cảm nhận của lái xe về các điều kiện đƣờng, hành vi và
sự phỏng đoán
The driver's perception of the road conditions, behavior and
speculation
TS. Đào Huy Hoàng 15
2 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
Tối ƣu hóa kết cấu nhịp dầm giản đơn bê tông cốt thép với cốt thép thƣờng
Optimized simple reinforced concrete beam with
reinforce
TS. Lê Mạnh Hân 23
Thiết kế cầu bƣớc vào thời đại của sự đổi mới
Bridge design enters era of innovation
Lê Văn Điệu 26
Thiết kế lai cải tiến
An extra dose of innovation
Lê Văn Điệu 29
VẬN TẢI – TRANSPORT
Đƣờng sắt châu âu mở rộng tự do hóa thị
trƣờng và tăng cƣờng chở khách đƣờng dài
xuyên biên giới
European railway expanding freedom market
and increased cross-border passenger
Chu Tiến Ánh 30
Thành phố Nottingham (Vƣơng quốc Anh)
mạnh dạn đầu tƣ phát triển vận tải công cộng
City of Nottingham (UK) invested public transport
development
Chu Tiến Ánh 31
KHAI THÁC VÀ BẢO TRÌ – OPERATION AND MAINTAINANCE
Theo dõi tải trọng
Weight watching
Trần mạnh Khải 34
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
Cấu trúc đô thị TP.HCM và các nguyên nhân
tác động gia tăng sử dụng xe gắn máy – thử
tìm mối quan hệ
Urban structure of Ho Chi Minh City and the causes of increasing motorcycle use - the relationship
TS. Dƣ Phƣớc Tân 36
Hệ thống vỉa phân làn đƣờng: Lịch sử ngắn
gọn về tƣơng lai của điều khiển giao thông
Lane-separator kerb systems: a brief history of
the future of traffic control
Trần Mạnh Khải 49
Dải gây ồn
Transverse rumble strips
Trần Mạnh Khải 52
TRAO ĐỔI Ý KIẾN - EXCHANGE OPINIONS
Phê phán - biểu dƣơng: đâu là ranh giới?
Criticisms - praise: Where is the boundary?
TS. Dƣơng Xuân Thành 55
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG – GENERAL ISSUES
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 3
BỘ TRƢỞNG ĐINH LA THĂNG VÀ NHỮNG CÔNG TRÌNH MANG DẤU ẤN NĂM 2012
Trung tâm Đào tạo và Thông tin
Viện Khoa học và Công nghệ GTVT
Trở thành Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải
trong thời điểm phải giải quyết hậu quả của lịch sử
để lại là chất lượng công trình giao thông xuống cấp
nghiêm trọng, các vấn đề về giao thông trên cả
nước thường xuyên bị dư luận chỉ trích, Bộ
trưởng Đinh La Thăng đã lăn lộn, có mặt trên hầu
hết các công trình trọng điểm của ngành, giải quyết
tại chỗ các vướng mắc về giải phóng mặt bằng,
nguồn vốn – giải ngân, thay thế ngay những chỉ huy
công trình, dự án và những nhà thầu không đủ năng
lực, điển hình như đường cao tốc Hà Nội - Thái
Nguyên đã đình chỉ thay thế 21 nhà thầu ...Dự án
đường vành đai 3 Hà Nội là một trong những dự án
điển hình được khánh thành đúng hạn. Ngoài công
trình này, một loạt những công trình được hoàn
thành trong năm 2012 mang dấu ấn của Bộ trưởng
GTVT như các cầu vượt giải quyết ùn tắc ở các
điểm nóng tại Hà Nội, cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình,
quốc lộ 32…
Hình 1. Đồng chí Đinh La Thăng Uỷ viên TW Đảng,
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải
Theo đánh giá của Ông Bùi Danh Liên, Chủ
tịch Hiệp hội vận tải TP. Hà Nội đăng trên
website của hiệp hội với tựa đề "Bộ trưởng nói -
Bộ trưởng làm - Chúng tôi chấm điểm" để đánh
giá về những việc đã làm được của Bộ
trưởng Đinh La Thăng trong thời gian ngồi
ghế nóng Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải đến
nay, đã "chấm" Bộ trưởng GTVT 8 điểm với
những việc đã làm như "trảm tướng", thay thế
nhà thầu không đủ năng lực, đẩy nhanh tiến độ...
Năm 2012, tình hình tai nạn giao thông đã
chuyển biến, theo Uỷ ban An toàn giao thông
Quốc gia, số vụ tai nạn, số người chết, số người
bị thương đều giảm sâu trên cả 3 tiêu chí, tình
trạng ùn tắc giao thông tại TP Hà Nội và TP HCM
đã có chuyển biến rõ rệt.
Ngoài ra với cương vị ―Tư lệnh ngành‖, đã
ban hành nhiều văn bản quản lý, bổ sung sửa đổi
nhiều quy định không còn phù hợp theo hướng
cải cách hành chính.
Thời gian qua, hàng loạt công trình giao
thông trọng điểm của nước ta như: Nhà ga hành
khách quốc tế Đà Nẵng, Nhà ga T2 sân bay quốc
tế Nội Bài, cầu kết cấu bằng thép, đường cao tốc
Cầu Giẽ – Ninh Bình… chính thức đi vào hoạt
động, góp phần quan trọng trong việc phát triển
kinh tế, giảm thiểu tai nạn và ùn tắc giao thông.
Mỗi công trình tiêu biểu trên đều mang dấu ấn Bộ
trưởng Giao thông Vận Tải Đinh La Thăng, chính
những chỉ đạo quyết liệt của Bộ trưởng đã góp
phần đẩy nhanh tiến độ công trình để sớm đưa
vào hoạt động.
1. Đường trên cao đầu tiên của Việt Nam
Hình 2. Bộ trưởng Đinh La Thăng cắt băng khánh
thành đường cao tốc trên cao
Lần đầu tiên , Viêt Nam có tuyến đường trên
cao dài 15 km dành riêng cho ôtô chạy suốt với
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG – GENERAL ISSUES
4 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
tốc độ đến 100 km/giờ. Toàn tuyến bao gồm 385
m đường dẫn và 8,5 km cầu cạn chạy suốt với
với 4 làn xe, chiều rộng mặt cầu 24 m.
Ngay sau khi thông xe ngày 21/10, cao tốc
này đã góp phần làm giảm rõ rệt ùn tắc trên các
tuyến Nguyễn Xiển, Khuất Duy Tiến, Phạm Hùng
vốn thường xuyên khiến người đi đường mỏi
mệt.
Hình 3. Một đoạn của tuyến đường vành đai 3 trên cao
2. Hoàn thành cao tốc Cầu Giẽ-Ninh Bình
Tháng 6/2012, tuyến cao tốc dài 50 km, nối
Hà Nội đến Ninh Bình được thông xe. Vận tốc
lưu hành tối đa là 100 km/h, quy mô nền đường
6 làn xe, mặt đường 4 làn, chiều rộng 35,5 m.
Toàn bộ công trình có mức đầu tư gần 9.000 tỷ
đồng.
Hình 4. Thông xe đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình
Đây là tuyến đường bộ cao tốc đầu tiên của
khu vực đồng bằng Bắc Bộ, nằm trên tuyến
đường bộ cao tốc phía Đông thuộc quy hoạch
mạng lưới đường bộ cao tốc Việt Nam nối cửa
ngõ Thủ đô Hà Nội với các tỉnh phía Nam đồng
bằng Bắc bộ.
Hình 5. Bộ trưởng Đinh La Thăng đi kiểm tra dự án đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình
3. Các cầu vượt nhẹ hoàn thành đúng thời
hạn tại Hà Nội
Sáng 26/4, hai chiếc cầu vượt bằng thép tại
nút giao thông Láng Hạ – Thái Hà và Chùa Bộc –
Tây Sơn chính thức được đưa vào vận hành sau
gần 4 tháng thi công, phục vụ nhu cầu lưu thông
cho 2 làn ô tô và 2 làn xe máy.
Sáng 16/12, cầu vượt bằng thép lớn nhất
thủ đô tại nút giao thông Nguyễn Chí Thanh –
Trần Duy Hưng chính thức khánh thành. Cầu
vượt rộng 16m với 4 làn xe chạy hai chiều được
làm bằng trụ bê tông cốt thép, dầm thép hộp, độ
bền vĩnh cửu và chịu được tải trọng 80 tấn.
Hình 6. Cầu vượt nằm trên đường Nguyễn Chí Thanh
– Trần Duy Hưng (Hà Nội)
Để giải quyết ùn tắc giao thông, theo định
hướng đến năm 2015, Hà Nội còn xây dựng cầu
vượt tại các nút giao thông Hoàng Quốc Việt –
Phạm Văn Đồng, Bắc Thăng Long – Nam Đồng,
Nguyễn Sơn – Nguyễn Văn Cừ và cải tạo, mở
rộng các nút Kim Mã – Liễu Giai, đường 69 –
Phạm Văn Đồng, Cổ Nhuế – Phạm Văn Đồng…
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG – GENERAL ISSUES
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 5
4. Nhà ga sân bay quốc tế Đà Nẵng
Ngày 4/10, kiểm tra công trường xây dựng
nhà ga hành khách sân bay quốc tế Đà Nẵng,
trước sự ì ạch của dự án, Bộ trưởng Giao thông
Vận tải Đinh La Thăng đã quyết định thay tổng
chỉ huy. Hai tháng sau, ngày 25/12, nhà ga này
chính thức khánh thành và đưa vào sử dụng sau
4 năm xây dựng.
Hình 7. Nhà ga hành khách, Cảng Hàng không
quốc tế Đà Nẵng
Cảng Hàng không quốc tế Đà Nẵng là một
trong những dự án hạ tầng giao thông trọng điểm
trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội khu
vực miền Trung, Tây Nguyên.
Hình 8. Mô hình nhà ga sân bay quốc tế Đà Nẵng
5. Nhà ga hành khách T2 – Sân bay Quốc
tế Nội Bài
Nhà ga T2 Sân bay quốc tế Nội Bài dự kiến
hoàn thành vào tháng 11/2014. Công trình có
tổng mức đầu tư gần 900 triệu USD, tương
đương gần 18.000 tỷ đồng, trong đó dự kiến vay
vốn ODA Nhật Bản khoảng 691 triệu USD, tương
đương hơn 13.000 tỷ đồng.
Hình 9. Mô hình nhà ga T2 sân bay quốc tế Nội Bài
Bộ trưởng Giao thông Vận tải Đinh La Thăng
yêu cầu các đơn vị liên quan đẩy nhanh tiến độ
xây dựng nhà ga T2, thi công liên tục kể cả dịp
Tết, đặc biệt cần có phương án dự phòng khi
thời tiết xấu.
6. Cao tốc TP.HCM - Trung Lương
Đường cao tốc TP Hồ Chí Minh- Trung
Lương được thông xe khai thác tạm thời từ ngày
3/2/2010. Nhưng sau đó để xảy ra tình trạng hư
hỏng mặt đường cao tốc. Bộ trưởng Bộ GTVT
Đinh La Thăng chiều tối 21/11 đã ký văn bản
đình chỉ công tác đối với Giám đốc điều hành Dự
án cao tốc TP.HCM – Trung Lương do liên quan
đến sự cố hư hỏng mặt đường.
Hình 10. Cao tốc TP.HCM - Trung Lương bị hư hỏng cục bộ
7. Bộ trưởng Đinh La Thăng quản lý Quỹ
bảo trì đường bộ
Căn cứ vào đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giao
thông vận tải Đinh La Thăng và căn cứ vào Luật
Tổ chức Chính phủ, Luật Giao thông đường bộ,
Nghị định 18/2012 NĐ-CP và Quyết định số
1486QĐ-TTg ngày 5/10/2012 của Thủ tướng
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG – GENERAL ISSUES
6 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
Chính phủ quy định cơ cấu tổ chức và quy chế
hoạt động của Hội đồng quản lí Quỹ Bảo trì
Đường bộ Trung ương, Thủ tướng đã phê duyệt
Hội đồng quản lí Quỹ Bảo trì đường bộ Trung
ương với chủ tịch Hội đồng là Bộ trưởng Đinh La
Thăng, cùng bốn phó chủ tịch hội đồng là thành
viên thuộc các bộ Tài Chính, GTVT, Kế hoạch và
Đầu tư, Tổng cục Đường bộ Việt Nam. Văn bản
có hiệu lực thi hành từ ngày ký là 7/12/2012.
Theo Quyết định số 1486QĐ-TTg, Quỹ Bảo
trì đường bộ Trung ương là Quỹ của Nhà nước,
có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản mở
tại kho bạc nhà nước và có trụ sở đặt tại Hà Nội.
Quỹ có nhiệm vụ đề xuất điều chỉnh các quy định
liên quan đến nguồn thu của Quỹ và phê duyệt
kế hoạch tài chính (thu/chi), phân chia phí sử
dụng đường bộ thu với ôtô hàng năm cho các
Quỹ bảo trì đường bộ tại các địa phương. Ngoài
ra, văn bản này cũng nêu rõ trách nhiệm điều
hành và quyền hạn của chủ tịch Hội đồng Quỹ,
theo đó, chủ tịch Hội đồng sẽ là người đại diện
pháp luật và chủ tài khoản, chịu trách nhiệm
quản lí tài chính, tài sản cũng như việc điều hành
Quỹ trước Thủ tướng Chính phủ.
Mặc dù còn nhiều vấn đề gây tranh cãi,
nhưng trong năm qua, Bộ trưởng Bộ Giao thông
Vận tải Đinh La Thăng vẫn được xem như một
hiện tượng của năm với hàng loạt công trình giao
thông trọng điểm được thông xe đảm bảo chất
lượng, tai nạn và ùn tắc giao thông giảm đáng
kể■
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG
GIAO THÔNG Ở VIỆT NAM Nguyễn Hồng Sơn
Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế,
Văn phòng Trung ương Đảng
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020 được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định một trong
ba khâu đột phá chiến lược là: “xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công
trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông
và hạ tầng đô thị lớn”, đồng thời nêu rõ một trong
những nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2011 - 2015
là “xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế, nhất là hệ thống giao thông”. Để chủ
trương đúng đắn của Đảng trở thành hiện thực,
cần có biện pháp khắc phục những tồn tại trong
việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông hiện
nay.
1. Hệ thống kết cấu hạ tầng và hệ thống kết
cấu hạ tầng giao thông
Về hệ thống kết cấu hạ tầng và vai trò
của nhà nước
Hệ thống kết cấu hạ tầng là toàn bộ cơ sở
vật chất, kỹ thuật, tạo nền tảng cho sự phát triển
toàn diện của một quốc gia từ kinh tế - xã hội cho
đến bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần bảo
vệ môi trường và phục vụ đời sống nhân dân. Cụ
thể hơn, hệ thống kết cấu hạ tầng thường được
chia thành 2 loại: hệ thống kết cấu hạ tầng kinh
tế (bao gồm: hệ thống giao thông vận tải, thủy
lợi, cấp thoát nước, điện, khí, viễn thông,…) và
hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội (bao gồm:
trường học, bệnh viện, cơ sở văn hóa, nghiên
cứu khoa học, công trình công cộng, nhà ở, công
trình bảo vệ môi trường...).
Nhiều chuyên gia đã cho rằng, hệ thống kết
cấu hạ tầng chỉ có thể phát triển đồng bộ thông
qua vai trò định hướng của nhà nước và chỉ có
nhà nước mới có đủ điều kiện để điều tiết, phân
bổ mọi nguồn lực của quốc gia trong việc đầu tư
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng. Theo một số
nhà nghiên cứu, ngay cả những người theo
trường phái tự do về kinh tế, nhưng không ủng
hộ nhà nước can thiệp vào kinh tế, cũng nhấn
mạnh vai trò kinh tế của nhà nước trong việc đầu
tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng. Họ còn đề
cao vai trò kinh tế của nhà nước trong việc tạo
môi trường thuận lợi cho sự làm giàu thông qua
việc nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp đứng ra
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG – GENERAL ISSUES
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 7
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là kết
cấu hạ tầng giao thông.
Về hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông
Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông là một
bộ phận chủ yếu của hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế, là cơ sở quan trọng để phát triển kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội và là cầu nối giúp một
quốc gia hội nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới; hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông
phát triển sẽ là chất xúc tác giúp cho các hoạt
động của nền kinh tế quốc gia đó phát triển
nhanh.
Cụ thể hơn, hệ thống kết cấu hạ tầng giao
thông bao gồm toàn bộ các công trình của
đường bộ, đường thủy, đường sắt, hàng hải,
hàng không, các trung tâm logistics, như bến xe,
bãi đỗ xe, hành lang an toàn, bến tàu, nhà ga,
cảng biển, sân bay, khu hậu cần sau cảng…
2. Hiện trạng hệ thống kết cấu hạ tầng giao
thông ở Việt Nam
Một số kết quả đạt được
Trong những năm gần đây, hệ thống kết cấu
hạ tầng giao thông ở nước ta đã được nâng cấp,
góp phần nâng cao tốc độ khai thác trên các
tuyến đường bộ; rút ngắn thời gian trên các
tuyến đường sắt, đường sông; tăng lượng hàng
hóa thông qua các cảng biển; tăng lưu lượng
hành khách và hàng hóa thông qua các cảng
hàng không. Giao thông đô thị được mở mang
một bước. Giao thông địa phương phát triển góp
phần quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và xóa đói, giảm nghèo ở vùng
nông thôn rộng lớn.
Về kết cấu hạ tầng đường bộ, cơ bản đã
hoàn thành việc cải tạo, nâng cấp hệ thống quốc
lộ chính, gồm: Trục dọc Bắc - Nam (quốc lộ 1,
đường Hồ Chí Minh - giai đoạn 1); hệ thống quốc
lộ hướng tâm (các quốc lộ 2, 3, 5, 6, 32, 13, 51,
22, xuyên Á...); hệ thống đường vành đai biên
giới phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ (các
quốc lộ: 279, 4A, 4B, 14, 14C - giai đoạn 1, N2 -
Đức Hòa - Thạnh Hóa, N1 - Châu Đốc - Tịnh
Biên); các tuyến quốc lộ nối đến các cửa khẩu
quốc tế; các vùng kinh tế trọng điểm...; hệ thống
đường cao tốc đang được triển khai xây dựng.
Về kết cấu hạ tầng đường sắt, đã từng
bước nâng cấp, hiện đại hóa các tuyến đường
sắt hiện có, triển khai dự án đường sắt Yên Viên
- Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân và nghiên cứu xây
dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Mật độ
đường sắt nước ta là 0,8km/100km2, trong đó
đường sắt Bắc - Nam dài 1.726km, tuyến Hà Nội
- Lào Cai: 230km, Hà Nội - Hải Phòng: 100km.
Hai tuyến đường sắt quốc tế là Hà Nội - Lào Cai
- Côn Minh và Hà Nội - Đồng Đăng - Bắc Kinh.
Về kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa, đã
hoàn thành nâng cấp 2 tuyến đường thủy phía
Nam (Thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau, Thành
phố Hồ Chí Minh - Kiên Lương); vận tải đường
thủy phục vụ thủy điện Sơn La, tuyến vận tải
đường thủy Đồng Tháp Mười và tứ giác Long
Xuyên, đang triển khai luồng cho tàu biển có tải
trọng lớn vào sông Hậu, kênh Chợ Gạo...
Về kết cấu hạ tầng hàng hải, đã hoàn thành
nâng cấp giai đoạn một các cảng biển tổng hợp
quốc gia chủ yếu, như cảng Cái Lân, cảng Hải
Phòng, cảng Cửa Lò, cảng Vũng Áng, cảng Tiên
Sa, cảng Quy Nhơn, cảng Nha Trang, cảng Sài
Gòn, cảng Cần Thơ và hoàn thành nâng cấp một
số cảng địa phương cần thiết đáp ứng lượng
hàng hóa thông qua. Đang triển khai cảng quốc
tế Cái Mép - Thị Vải, chuẩn bị triển khai cảng cửa
ngõ quốc tế Lạch Huyện, cảng trung chuyển Vân
Phong…
Về kết cấu hạ tầng hàng không, đã cải tạo,
nâng cấp các cảng hàng không quốc tế: Nội Bài,
Tân Sơn Nhất; các cảng hàng không nội địa:
Cam Ranh, Phú Bài, Phù Cát, Côn Sơn, Vinh,
Điện Biên Phủ, Plây-ku, Đồng Hới, Liên Khương,
Cần Thơ (giai đoạn 1). Đang triển khai nhà ga
hành khách cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng,
kéo dài đường cất cánh, hạ cánh 35R-17L cảng
hàng không quốc tế Đà Nẵng, nhà ga T2 cảng
hàng không quốc tế Nội Bài...
Một số công trình kết cấu hạ tầng giao thông
đã được xây dựng bằng nguồn vốn ngoài ngân
sách. Tính đến nay, chỉ có khoảng trên 90 dự án
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG – GENERAL ISSUES
8 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
(bao gồm 9 dự án có vốn đầu tư nước ngoài)
đầu tư dưới hình thức BOT, BT, hoặc các hình
thức tương tự, với tổng vốn đăng ký đạt 7,1 tỉ
USD, trong đó các dự án công trình giao thông
chiếm 70% về số lượng dự án và 95% về vốn
đầu tư. Các dự án trong ngành giao thông
thường được lựa chọn thực hiện theo hình thức
BOT hoặc BT, tập trung vào các dự án đường
bộ. Nhiều dự án BOT đã và đang được triển
khai, như đường ô-tô cao tốc Hà Nội - Hải
Phòng, cầu Rạch Miễu, cầu Cá May (trên quốc lộ
51)... Đối với hình thức BT cũng có nhiều dự án
giao thông lớn, như đường trục phía bắc Hà
Đông, đường trục phía nam Hà Tây (cũ)... Đặc
biệt, hiện đã có 50km đường cao tốc Thành phố
Hồ Chí Minh - Trung Lương được đưa vào khai
thác, sử dụng...
Những hạn chế, yếu kém.
Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông ở Việt
Nam có quy mô nhỏ bé, hầu hết chưa đạt chuẩn
kỹ thuật, chưa tạo được sự kết nối liên hoàn.
Mạng đường đô thị ở các thành phố lớn chưa
được quy hoạch kết nối với mạng giao thông
chung của quốc gia, còn thiếu cảng nước sâu và
đường cao tốc đủ tiêu chuẩn. So với các nước
tiên tiến trong khu vực, hệ thống kết cấu hạ tầng
giao thông của nước ta chỉ ở mức dưới trung
bình.
Trên thực tế, hệ thống kết cấu hạ tầng giao
thông Việt Nam đang là một trở lực lớn cho sự
tăng trưởng và phát triển của đất nước. Điều này
được thể hiện qua các mặt sau:
Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông còn
thiếu, đầu tư dàn trải. Theo đánh giá độc lập của
Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2009, Việt Nam
xếp thứ 111 trong số các quốc gia trên thế giới
về chất lượng kết cấu hạ tầng giao thông, đứng
sau hầu hết các nước trong khu vực, chưa đáp
ứng được yêu cầu tăng trưởng nhanh của nền
kinh tế, làm giảm năng lực cạnh tranh của Việt
Nam.
Đến nay, hệ thống kết cấu hạ tầng giao
thông nước ta vẫn còn trong tình trạng lạc hậu,
tiêu chuẩn kỹ thuật ở mức thấp và lạc hậu, tốc độ
phát triển chậm, thiếu đồng bộ, thiếu liên kết giữa
các chuyên ngành, thậm chí trong cùng chuyên
ngành; các tuyến đường liên vùng, hướng tâm,
vành đai, các tuyến nối cảng biển, cảng hàng
không và các cửa khẩu quốc tế chưa hoàn chỉnh;
mạng đường cao tốc còn sơ khai. Tính đến nay,
hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vẫn chưa
được nâng cấp đồng bộ.
Trong hệ thống giao thông đường bộ, cùng
với quá trình phát triển kinh tế, đã xuất hiện
nhiều ―nút thắt cổ chai‖, dẫn đến tình trạng ùn tắc
thường xuyên, đặc biệt tại các đô thị lớn, như Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; hệ thống đường
giao thông ở các vùng sâu, vùng xa, miền núi,
biên giới còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu phát
triển của các địa phương và bảo đảm an ninh,
quốc phòng. Nhiều con đường xuống cấp nhưng
chưa được duy tu, bảo dưỡng, bảo trì thường
xuyên.
Tuyến đường sắt Bắc - Nam đang ở vào thế
độc tuyến, chưa tạo được các liên kết dạng
mạng, còn thiếu những tuyến đường sắt dẫn đến
các khu kinh tế, khu công nghiệp, cảng biển...
Chất lượng đường sắt hiện nay quá kém, đường
sắt khổ hẹp không thể chạy tàu với tốc độ cao,
giao cắt với đường ngang dân sinh nhiều, tai nạn
thường xuyên xảy ra dọc tuyến. Đặc biệt, hệ
thống giao thông đô thị chưa được quan tâm quy
hoạch, xây dựng đúng mức.
Hệ thống cảng biển được phân bố ở cả 3
miền Bắc, Trung, Nam. Mặc dù đã có những hải
cảng quốc tế lớn tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng, song dịch vụ của các cảng này
chưa đáp ứng được yêu cầu, chi phí dịch vụ cao,
thời gian thông quan lâu, chưa có cảng công-ten-
nơ trung chuyển quốc tế.
Hệ thống cảng hàng không đặc biệt là các
cảng hàng không quốc tế quá tải, khả năng tiếp
nhận hành khách thấp, chất lượng dịch vụ chưa
cao, các chuyến bay nội địa thường bị trễ giờ.
Chất lượng quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông
chưa cao. Quy hoạch tổng thể toàn quốc và vùng
chưa được hoàn thiện để làm cơ sở cho quy
hoạch kết cấu hạ tầng kinh tế thiết yếu; thiếu sự
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG – GENERAL ISSUES
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 9
kết nối tạo nên tổng thể cho phù hợp với sự phát
triển chung của đất nước. Chất lượng các chiến
lược, quy hoạch phát triển chưa bảo đảm, thiếu
đồng bộ, tính khả thi thấp. Công tác quản lý sau
quy hoạch yếu, thiếu sự chỉ đạo tập trung, sự
phân công, phối hợp chưa ăn khớp. Quỹ đất
dành cho giao thông đô thị thấp. Công tác giải
phóng mặt bằng chậm, kéo dài, ảnh hưởng đến
tiến độ thi công và làm tăng chi phí đầu tư.
Nguồn vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng còn
thiếu và chưa hợp lý. Mặc dù thiếu vốn nhưng chi
phí đầu tư cho các công trình, nhất là công trình
giao thông khá lớn, song hiệu quả kinh tế - xã hội
chưa cao. Nguồn vốn đầu tư hằng năm và việc
phân bổ nguồn vốn này cho phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng giao thông còn hạn chế, chủ yếu
vẫn dựa vào nguồn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA). Chưa có cơ chế chính sách thuận lợi,
minh bạch để khuyến khích các nhà đầu tư nước
ngoài, tư nhân trong nước tham gia xây dựng
các dự án giao thông. Việc huy động vốn từ các
tổ chức tài chính quốc tế, các nhà tài trợ để cung
cấp vốn cho các dự án mất nhiều thời gian trong
khi các quy định về hình thức hợp tác đầu tư
giữa Nhà nước và tư nhân (PPP) vừa mới hình
thành.
Triển khai dự án chậm, năng lực quản lý
hạn chế. Chưa minh bạch cả từ phía chính
quyền, chủ đầu tư, tư vấn và nhà thầu. Vấn đề
đền bù, giải tỏa, thu hồi đất, phương pháp, cách
thức tiến hành còn nhiều bất cập, chưa phù hợp
với thực tiễn. Công tác bảo hành, bảo trì và sửa
chữa thiếu kinh phí, chưa được coi trọng đúng
mức...
3. Một số cơ chế chính sách và nhiệm vụ chủ
yếu nhằm tạo bƣớc đột phá cho hệ thống kết
cấu hạ tầng giao thông ở Việt Nam hiện nay
Thông qua việc đánh giá hiện trạng hệ
thống kết cấu hạ tầng giao thông của đất nước
trong 10 năm qua, Báo cáo chính trị tại Đại hội XI
của Đảng đã nhấn mạnh một trong những nhiệm
vụ trọng tâm phát triển đất nước 5 năm 2011 -
2015 là ―Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá
về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế‖, và ―từng
bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại‖, trong
đó có kết cấu hạ tầng giao thông để đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước.
Nhiệm vụ đột phá này trong 5 năm tới được
Báo cáo chính trị chỉ rõ là ―Hoàn thiện quy hoạch
hệ thống kết cấu hạ tầng cả nước... Hoàn thiện
cơ bản mạng lưới giao thông thiết yếu, đường
ven biển, đường vành đai biên giới. Hiện đại hóa
một số sân bay, cảng biển quan trọng và một số
tuyến đường bộ trọng yếu nối kết với Trung
Quốc, Lào, Cam-pu-chia…‖
Để cụ thể hóa chủ trương, đường lối trong
Nghị quyết của Đảng, nhằm thực hiện tốt đột phá
về hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, đến nay,
nhiều chính sách của Nhà nước đã và đang
được nghiên cứu hoàn thiện và triển khai theo
hướng thay đổi cách tiếp cận từ khâu quy hoạch,
lựa chọn các ưu tiên đến phương thức huy động,
phân bổ nguồn lực và thủ tục triển khai dự án,
đặc biệt là sớm hoàn thiện các văn bản quy
phạm pháp luật về đầu tư, xây dựng, cơ chế,
chính sách về tài chính, huy động nguồn vốn,
đấu thầu, giải phóng mặt bằng.
Hiện nay, một số nhiệm vụ chủ yếu nhằm
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông ở
nước ta trong thời gian tới đã và đang được Bộ
Giao thông vận tải dự kiến triển khai theo hướng:
Tập trung đầu tư tuyến đường bộ Bắc -
Nam. Ưu tiên phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
giao thông (đường bộ, đường thủy nội địa,
đường sắt, đường hàng hải, đường hàng không)
ở những vùng có dung lượng hàng hóa lớn, các
địa bàn thuộc các cực tăng trưởng, kết nối với
các vùng miền, với khu vực và quốc tế, tạo hiệu
ứng lan tỏa mạnh để thúc đẩy tăng trưởng của
cả nước.
Hiện đại hóa và nâng cao năng lực các
dịch vụ tổng hợp của 3 cảng biển lớn ở 3
khu vực: Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh -
Vũng Tàu và miền Trung. Qua việc nâng cao
năng lực các dịch vụ tổng hợp, hình thành các
trung tâm kinh tế biển lớn. Gắn việc phát triển kết
cấu hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn với
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG – GENERAL ISSUES
10 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
Chương trình xây dựng nông thôn mới đang
được triển khai.
Tập trung nâng cấp, phát triển đồng bộ và
hiện đại hóa hệ thống hạ tầng ở các đô thị lớn
gắn với bố trí, cơ cấu lại sản xuất và phân bố dân
cư. Phát triển nhanh hệ thống giao thông đô thị,
nhất là giao thông công cộng. Sớm giải quyết
nạn ùn tắc và úng ngập ở Thủ đô Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Một số kiến nghị
Thứ nhất, sự phối hợp giữa các bộ, ngành.
Để chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI)
dự kiến vào tháng 12-2011 bàn về Đề án ―Xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước‖, cần chỉ đạo các cơ quan quản lý về giao
thông, vận tải phối hợp với các cơ quan có liên
quan, như tài chính, kế hoạch và đầu tư, tài
nguyên - môi trường, các hiệp hội, chuyên gia
đầu ngành trong lĩnh vực giao thông vận tải, xây
dựng và ủy ban nhân dân các địa phương tổ
chức hội thảo khoa học chuyên đề về kết cấu hạ
tầng giao thông để làm rõ hơn những khó khăn,
vướng mắc hiện nay, qua đó kiến nghị những
giải pháp và cơ chế, chính sách nhằm tạo đột
phá trong việc đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông.
Ngay trong những năm đầu của Kế hoạch 5
năm 2011 - 2015, cần chỉ đạo các cấp, các
ngành, các địa phương, nhất là Bộ Giao thông
vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh tập trung tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ trọng tâm là ―xây dựng đồng bộ hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống
giao thông, yếu tố đang gây ách tắc, cản trở sự
phát triển kinh tế, gây bức xúc trong nhân dân‖.
Thứ hai, về quy hoạch. Bộ Giao thông vận
tải cần phối hợp với các bộ, ngành, các địa
phương có liên quan nhanh chóng hoàn thiện
quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông
cả nước. Đây là một nội dung quan trọng, là tiền
đề trong việc xây dựng, tạo bước đột phá về hệ
thống kết cấu hạ tầng giao thông để đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước và là một nhiệm vụ
cụ thể của việc hoàn thiện quy hoạch hệ thống
kết cấu hạ tầng cả nước theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng.
Thứ ba, về cách thức đầu tư. Cần nghiêm
túc thực hiện đúng nội dung tinh thần Nghị quyết
Đại hội XI của Đảng là ―Phát triển có trọng tâm,
trọng điểm và đầu tư tập trung, dứt điểm, kiên
quyết hoàn thành những công trình kết cấu hạ
tầng kinh tế then chốt theo hướng hiện đại và
tương đối đồng bộ ở các vùng động lực phát
triển, các khu công nghệ cao, các khu công
nghiệp, khu kinh tế‖.
Cần có danh mục dự án đầu tư phù hợp,
xác định rõ thứ tự ưu tiên của các dự án được
lựa chọn để tập trung đầu tư, hiện đại hóa, bảo
đảm chất lượng để các công trình của hệ thống
kết cấu hạ tầng giao thông được nhanh chóng đi
vào khai thác có hiệu quả.
Thứ tư, có chính sách ưu tiên cho phát triển
đường sắt và đường thủy. Trong thời gian tới,
dưới góc độ hiệu quả kinh tế - xã hội, cần có
chính sách cụ thể, ưu tiên cho phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt,
đường thủy nội địa. Việc tập trung nguồn vốn
đầu tư quá nhiều cho phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông đường bộ trong 10 năm vừa qua
(theo Báo cáo của Bộ Giao thông vận tải, chiếm
tỷ trọng lên đến 87,6%) cũng có thể là một
nguyên nhân gây ra tình trạng tai nạn giao thông
đường bộ đang gia tăng hiện nay■
TIN TỨC SỰ KIỆN – NEWS AND EVENTS
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 11
Tai nạn giao thông năm 2012 giảm cả 3
tiêu chí….
Năm 2012 cả 3 tiêu chí về ATGT đều giảm
và giảm sâu. Số người chết giảm 14,06%, số
người bị thương giảm gần 18% và số vụ vi phạm
giảm trên 20%. Đặc biệt, số người chết giảm
xuống dưới 10.000 người. Đây là nỗ lực rất lớn
của các cấp, các ngành.
Đó là sự vào cuộc đẩy lùi TNGT của cả hệ
thống chính trị- từ Ban Bí thư, Quốc hội, Chính
phủ. Đặc biệt, công tác tuần tra, xử lý vi phạm về
ATGT thường xuyên liên tục. Theo thông tin của
UB ATGTQG, cảnh sát giao thông mỗi tháng chỉ
được nghỉ 1 ngày, góp phần quan trọng giảm
thiểu TNGT. Việc tuyên truyền phổ biến pháp
luật, thông tin về trật tự ATGT có nhiều hoạt
động mới, sáng tạo nhất. Nhiều báo ra chuyên
trang về ATGT.
Thu phí bảo trì đƣờng bộ
Chủ phương tiện xe máy, ôtô đều phải nộp
phí đường bộ, trừ xe cứu thương, cứu hỏa, xe
chuyên dùng, xe phục vụ an ninh... Từ 1/1/2013,
ôtô phải nộp mức phí thấp nhất là 130.000 đồng
một tháng, áp dụng cho xe dưới 9 chỗ. Mức phí
cao nhất 1,04 triệu đồng dành cho xe tải, xe
chuyên dùng trọng tải trên 27 tấn. Đối với xe
máy, loại dưới 100cc phải nộp 50.000 đồng một
năm; xe có dung tích trên 100cc được áp khung
phí từ 100.000 đến 150.000 đồng.
Bộ Tài chính cho phép các cơ quan thu phí
đường bộ của ôtô được trích lại 1% số tiền và cơ
quan thu phí của xe máy được để lại không quá
10%. Theo tính toán của Bộ Giao thông Vận tải,
mỗi năm số tiền thu từ đầu ôtô trong cả nước đạt
hơn 6.800 tỷ đồng; tiền thu được từ 50% số
môtô, xe máy đã đăng ký sẽ đạt 2.400 tỷ đồng.
Đây sẽ nguồn quỹ đáng kể phục vụ cho công tác
bảo trì đường bộ.
Năm 2013 là năm chất lƣợng và an toàn
giao thông
Ngày 10/1, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế,
11 Lê Hồng Phong, Hà Nội, Bộ GTVT đã tổ chức
Hội nghị tổng kết công tác năm 2012 và triển khai
kế hoạch năm 2013 ―Năm an toàn giao thông và
kỷ cương, chất lượng, tiến độ công trình giao
thông‖.
Hội nghị xác định tiếp tục thực hiện đồng bộ,
quyết liệt các giải pháp trước mắt và lâu dài để
kiềm chế tai nạn giao thông trên cả ba tiêu chí,
giảm từ 5-10% số vụ tai nạn, số người chết, bị
thương do tai nạn giao thông so với năm 2012;
lấy "Năm an toàn giao thông 2013" là năm "Nâng
cao tinh thần trách nhiệm của người thực thi
công vụ và ý thức tự giác của người tham gia
giao thông‖.
Bộ trưởng cũng yêu cầu: Các đơn vị liên
quan sẽ tổ chức ký kết giữa đường sắt và các
địa phương để đảm bảo ATGT đường sắt; ký kết
công tác đảm bảo ATGT về GPMB đối với các
dự án giao thông trọng điểm; hoàn thiện, xây
dựng các văn bản QPPL
Năm 2013, học viên đƣợc học lái xe ô tô
có xe số tự động
Từ ngày 1/1/2013, cơ sở đào tạo lái xe ô tô
phải có xe số tự động (thuộc sở hữu hoặc hợp
đồng), đảm bảo số giờ tập lái theo nội dung,
chương trình đào tạo. Đây là nội dung đáng chú
ý tại Thông tư 46/2012/TT-BGTVT quy định về
đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới
đường bộ thay thế Thông tư 07/2009/TT-BGTVT
và Thông tư 15/2011/TT-BGTVT.
Ngoài việc phải có xe số tự động, Thông tư
46/2012/TT-BGTVT yêu cầu ô tô tải được đầu tư
mới để dạy lái xe các hạng B1, B2 phải là xe có
trọng tải từ 1.000 kg trở lên với số lượng không
quá 30% tổng số xe tập lái cùng hạng của cơ sở
đào tạo.
Thông tư 46/2012/TT-BGTVT cũng quy định
tăng thời gian đào tạo, số km thực hành lái xe
trên xe tập lái hạng B1, B2, C. Cụ thể, theo quy
định tại Thông tư 07/2009/TT-BGTVT hiện đang
được áp dụng, thời gian đào tạo hạng B1 là 536
giờ, thực hành lái xe 960km/học viên; hạng B2
là: 568 giờ, 960km/học viên; hạng C là: 888 giờ,
TIN TỨC SỰ KIỆN – NEWS AND EVENTS
12 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
1000km/học viên. Theo quy định mới, thời gian
đào tạo được nâng lên như sau: Hạng B1 là 556
giờ (tăng 20 giờ); hạng B2 là 588 giờ (tăng 20
giờ); hạng C là 920 giờ (tăng 32 giờ); số km thực
hành lái xe/học viên đối với 3 hạng này cũng
đồng loạt tăng đến 1.100 km.
Hiện cả nước có 291 cơ sở đào tạo lái xe ô
tô, 409 cơ sở đào tạo lái xe mô tô và 84 Trung
tâm sát hạch lái xe với hơn 20.000 giáo viên.
Kiểm soát tải trọng xe, lập lại kỷ
cƣơng vận tải đƣờng bộ
Theo Trung tâm Kỹ thuật đường bộ - Đơn vị
được giao xây dựng Đề án tổng thể kiểm soát tải
trọng xe, mục tiêu của Đề án lần này là xác định
rõ vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành và
toàn dân trong công tác kiểm soát tải trọng xe.
Cùng với đó là bổ sung hoàn thiện các văn bản
quy phạm pháp luật, đồng thời đưa ra các giải
pháp cụ thể, có tính cấp bách trước mắt và chiến
lược lâu dài để lập lại kỷ cương trong lĩnh vực
vận tải đường bộ, từng bước hạn chế và tiến đến
chấm dứt hiện tượng xe quá tải. Gói giải pháp
tổng thể được Bộ GTVT đang nghiên cứu trong
Đề án bao gồm: Tăng cường công tác quản lý
nhà nước về tải trọng xe trên đường bộ; Nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra,
kiểm soát và xử lý vi phạm quá tải; Phân bổ hợp
lý tỷ trọng đảm nhận giữa các loại hình vận tải;
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các
quy định của pháp luật về tải trọng xe; Phối hợp
giữa các bộ, ngành, các cấp trong công tác kiểm
soát tải trọng xe.
Luật Biển Việt Nam có hiệu lực từ
1-1-2013
Luật Biển Việt Nam được thông qua tại kỳ
họp thứ ba, QH khóa XIII gồm 7 chương và 55
điều. Phạm vi điều chỉnh của Luật Biển Việt Nam
bao gồm các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục
địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo
Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của
Việt Nam; hoạt động trong các vùng biển Việt
Nam; phát triển kinh tế biển, quản lý và bảo vệ
biển, đảo.
Việc thông qua Luật Biển Việt Nam là một
hoạt động lập pháp quan trọng nhằm hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý liên quan biển, đảo Việt Nam.
Lần đầu tiên, Việt Nam có một văn bản luật
quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển,
đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của
Việt Nam theo đúng Công ước Luật Biển năm
1982. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc
quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo
nước ta.
Luật Biển Việt Nam có hiệu lực từ 1-1-2013.
Cienco 6 vào top 500 doanh nghiệp
lớn nhất Việt Nam 2012
Ngày 18/01/2013, tại Trung tâm Hội nghị
Quốc gia Hà Nội, Công ty Cổ phần Báo cáo đánh
giá Việt Nam (Vietnam Report) đã công bố bảng
xếp hạng 500 DN lớn nhất Việt Nam (VNR500).
Tổng công ty Xây dựng CTGT 6 (Cienco 6)
lần đầu tiên lọt vào top VNR500. Đây là bảng xếp
hạng uy tín hàng đầu Việt Nam, được xây dựng
dựa trên kết quả nghiên cứu và đánh giá độc lập
theo chuẩn mực quốc tế của Công ty Vietnam
Report và Báo Vietnamnet định kỳ công bố
thường niên từ năm 2007 đến nay.
Đạt được thứ hạng này trong năm 2012 là
một thành tích đáng khích lệ đối với Cienco 6.
Trong năm qua, Cienco 6 đã cố gắng đạt được
tổng giá trị sản lượng 5.757,243 tỷ đồng, đạt
105,11% kế hoạch, tăng 15,12% so với năm
trước. Đặc biệt là Cienco 6 đã cơ bản đảm bảo
được việc làm cho gần 4000 lao động với mức
thu nhập bình quân 5,8 triệu đồng/người/tháng,
là một trong những đơn vị có mức thu nhập bình
quân của người lao động cao nhất Bộ GTVT.
TIN TỨC SỰ KIỆN – NEWS AND EVENTS
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 13
QUY HOẠCH MẠNG LƢỚI GIAO THÔNG - TIỀN ĐỀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ
KTS. Vũ Trung Hƣng
Sở Quy hoạch - Kiến trúc TPHCM
Mạng lưới giao thông là yếu tố quan trọng
trong việc hình thành cấu trúc đô thị. Định hướng
quy hoạch hệ thống giao thông là tiền đề tất yếu
cho chiến lược phát triển quy hoạch xây dựng đô
thị. Quy hoạch mạng lưới giao thông phù hợp với
mục tiêu, tính chất và điều kiện thực trạng đô thị
sẽ đem lại hiệu quả tốt cho sự phát triển chung
về kinh tế - xã hội. Ngoài ra, mạng lưới đường
giao thông còn gắn liền với hệ thống hạ tầng kỹ
thuật đô thị, do đó quy hoạch giao thông rất quan
trọng trong thiết kế, tổ chức không gian đô thị, cơ
cấu sử dụng đất và mối quan hệ giữa các khu
vực chức năng với nhau.
Hình 1. Hạ tầng giao thông tại TPHCM được quy
hoạch ngày càng hiện đại hơn.
Từ quy hoạch chung đến chi tiết
Quy hoạch chung xây dựng TPHCM đến
năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định số 123/1998/QĐ-TTg ngày
10-7-1998. Đầu những năm 2000, thành phố đã
tập trung nghiên cứu riêng về lĩnh vực quy hoạch
giao thông vận tải trên địa bàn thành phố và các
vùng lân cận nhằm lập ra một cơ sở pháp lý cao
nhất để hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện,
bền vững, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế
và xã hội của thành phố. Một số quy hoạch đó
như MVA, Houtrans... do Tedisouth thực hiện.
Qua nhiều quá trình xem xét nội dung trình
duyệt, ngày 22-1-2007, Thủ tướng Chính phủ đã
chính thức phê duyệt quy hoạch phát triển giao
thông vận tải TPHCM đến năm 2020 và tầm nhìn
sau năm 2020 tại Quyết định 101/QĐ-TTg (viết
tắt Quy hoạch 101).
Trên cơ sở đó, thành phố tiếp tục nghiên
cứu điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng để
phù hợp với điều kiện phát triển và định hướng
lâu dài của thành phố. Đến nay, Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch
chung xây dựng TPHCM đến năm 2025 tại Quyết
định 24/QĐ-TTg ngày 6-1-2010 (viết tắt Quy
hoạch 24) với dự báo dân số khoảng 10 triệu
người, đất xây dựng đô thị khoảng 100.000ha
nhằm mục đích điều chỉnh có tính chất định
hướng đến năm 2025 và xa hơn để đảm bảo cho
thành phố phát triển theo hướng đa tâm, phù
hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố, của vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, phát triển hài hòa, đồng bộ giữa việc xây
dựng mới và thực hiện cải tạo, chỉnh trang đô thị,
cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, mang tính
hiện đại và có bản sắc dân tộc.
Trong thời gian qua, TPHCM đã nỗ lực thực
hiện đầu tư xây dựng nhiều hạng mục công trình
giao thông, hạ tầng đô thị trọng điểm với nhiều
quy mô khác nhau để từng bước giải quyết tình
hình lưu thông, cải thiện bộ mặt hạ tầng đô thị,
cải tạo chỉnh trang cảnh quan một số trục đường
(thiết kế đô thị, cải tạo môi trường nước, cây
xanh, vỉa hè…). Chính quyền và nhân dân thành
phố đã có những quyết tâm cao độ để thực hiện
nhanh các dự án công trình giao thông quan
trọng trước thời hạn so với kế hoạch của Quyết
định 101 với mục tiêu hoàn chỉnh, hiện đại hóa
mạng lưới, đảm bảo tính kế thừa, đồng bộ.
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
14 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
Đặc biệt là quản lý, phát triển và tăng quỹ
đất để xây dựng hạ tầng giao thông, đảm bảo chỉ
tiêu quy hoạch diện tích bến bãi (giao thông tĩnh)
tại các khu vực nội thành, ngoại thành, các khu
đô thị mới nhằm phát triển đồng bộ, cân bằng,
bền vững và lâu dài trên cơ sở quy hoạch xây
dựng, quy hoạch sử dụng đất và kiến trúc cảnh
quan đô thị…
Riêng đối với loại hình giao thông mới và rất
quan trọng là các tuyến đường sắt đô thị. Đây là
hệ thống giao thông công cộng vận chuyển khối
lượng lớn rất văn minh và tiện ích. Nếu hoàn
thành sớm hệ thống này sẽ làm thay đổi thực
trạng giao thông đô thị hiện nay. Đó là tình trạng
ùn tắc và mật độ sử dụng xe cá nhân quá lớn (xe
gắn máy, xe con…), đáp ứng được mong mỏi và
nhu cầu của người dân đi lại trong thành phố.
Thành phố đã lập riêng một cơ quan quản lý và
thực hiện các dự án đường sắt đô thị từ năm
2007 (Ban Quản lý Đường sắt đô thị) để tập
trung thực hiện kêu gọi đầu tư và nghiên cứu dự
án các tuyến đường sắt đô thị.
Thành phố cũng đã bỏ ra rất nhiều chi phí
để thực hiện công tác lập nghiên cứu chi tiết các
tuyến với yêu cầu là thiết kế cơ sở cơ bản, trong
đó phải thông tin phạm vi chiếm dụng đất toàn
tuyến tương đối chính xác, các chỉ giới nhà ga,
depot và các công trình liên quan để làm tiền đề
chuẩn bị lập dự án đầu tư và thiết kế kỹ thuật khi
cần thiết.
Đô thị trung tâm
Tổ chức đồng bộ mạng lưới giao thông nói
chung và hệ thống giao thông công cộng vận
chuyển khối lượng lớn nói riêng sẽ giải quyết tốt
cho định hướng phát triển quy hoạch xây dựng
đô thị, nhằm phục vụ chủ trương phân vùng phát
triển, giãn dân cư nội thành, hình thành các đô
thị vệ tinh.
Đặc biệt đối với các khu đô thị mới như: khu
đô thị Tây Bắc - Củ Chi, khu đô thị mới Thủ
Thiêm - quận 2 (kéo dài và kết nối tuyến metro
số 2 với ga đường sắt cao tốc và sân bay Long
Thành); các khu đô thị phía Nam, khu đô thị cảng
Hiệp Phước - Nhà Bè (kết nối tuyến xe điện số 3
và kéo dài tuyến metro số 4); các khu vực chức
năng đô thị như: khu phần mềm Quang Trung
(kết nối tuyến xe điện số 3), khu Công nghệ cao,
khu Đại học Quốc gia, khu du lịch Văn Hóa Suối
Tiên, Bến xe miền Đông mới; các khu dân cư
dọc xa lộ Hà Nội, khu đô thị An Phú - An Khánh,
Thảo Điền (kết nối tuyến metro số 1), kết nối
giữa Bến xe miền Đông và Bến xe miền Tây
(tuyến metro số 3a, 3b), kết nối với sân bay Tân
Sơn Nhất (tuyến metro số 4, số 5)…
Định hướng quy hoạch mạng lưới giao
thông là tiền đề cho chiến lược phát triển đô thị,
quy hoạch mạng lưới giao thông có mối quan hệ
mật thiết với quy hoạch vùng đô thị TPHCM.
Đồng thời, TPHCM sẽ không thể tách rời khỏi vai
trò là đô thị trung tâm trong chùm đô thị phía
Nam, là hạt nhân trong vùng kinh tế trọng điểm
và được đặt trong mối quan hệ tương hỗ với các
vùng phụ cận. Để hướng tới mục tiêu đó, mạng
lưới giao thông TPHCM đã được quy hoạch theo
dạng ―mở‖. Kết nối các đô thị vệ tinh, khu công
nghiệp tập trung, cảng biển, sân bay. Gắn kết
chặt chẽ với các địa phương trong khu vực, để
hỗ trợ phát triển, khai thác tốt nhất thế mạnh kinh
tế - xã hội tổng hợp toàn vùng, là đòn bẩy để
khẳng định vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước.
Ngoài ra, việc phát triển đồng bộ mạng lưới
giao thông và quy hoạch xây dựng đô thị hiện đại
sẽ tăng tính hấp dẫn về khả năng cạnh tranh với
các đô thị trong khu vực Đông Nam Á, châu Á -
Thái Bình Dương và thế giới.
Nhiều dự án xây dựng công trình giao thông
đã và đang thực hiện như: đường bộ cao tốc
TPHCM - Trung Lương, đại lộ Đông - Tây, hầm
Thủ Thiêm, trục đường Nguyễn Văn Linh (đoạn
vành đai 2 phía Nam), cầu Phú Mỹ, đường Tân
Sân Nhất - Bình Lợi - Vành đai ngoài, đường
Vành đai phía Đông, trục Bắc - Nam, đường bộ
cao tốc TPHCM - Long Thành - Dầu Giây, trục xa
lộ Hà Nội, cầu Rạch Chiếc, các nút giao/cầu vượt
quan trọng, khởi công xây dựng tuyến đường sắt
đô thị số 1 Bến Thành - Suối Tiên, chuẩn bị đầu
tư các tuyến số 2, số 5…■
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 15
CẢM NHẬN CỦA LÁI XE VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐƢỜNG, HÀNH VI VÀ SỰ PHỎNG ĐOÁN
TS. Đào Huy Hoàng
Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Thông tin
Viện Khoa học và Công nghệ GTVT
1. Sự cảm nhận của lái xe với các điều kiện
đƣờng và hành vi
Như đã biết tuyến đường là sự kết hợp giữa
các đoạn thẳng và cong ở bình đồ và trắc dọc.
Đối với đường cấp cao, ở các đoạn thẳng nằm
ngang và xuống dốc ô tô có thể tăng tốc độ vượt
quá tốc độ tính toán. Ở các đoạn cong trên bình
đồ tốc độ xe chạy cho phép vẫn sẽ giảm đáng kể
mặc dù ở đó tốc độ tính toán đã được lấy bằng
tốc độ bị hạn chế bởi hệ số bám ngay trong thời
kỳ bất lợi hàng năm. Bởi vậy, một tuyến đường
nào đó dù đã được thiết kế với tốc độ tính toán
nhất định vẫn có những đoạn không đảm bảo
các điều kiện chạy xe bình thường, ngược lại
trong nhiều trường hợp xe lại chạy an toàn ngay
cả với tốc độ vượt quá tốc độ tính toán. Người lái
xe nếu không phải cho xe chạy trong dòng giao
thông đầy xe với chế độ xe chạy thực tế bị bó
buộc thì họ sẽ lựa chọn chế độ chạy xe một cách
trực giác phù hợp với kinh nghiệm và những đặc
điểm cảm nhận của bản thân mình đối với những
điều kiện đường.
Điều kiện đường được hiểu bao gồm tổ hợp
mọi nhân tố ảnh hưởng đến chế độ chạy xe.
Chính đường ô tô là nguồn thông tin để người lái
xe dựa vào đó quyết định các hoạt động của
mình. Các nhân tố khiến người lái phải chú ý, khi
chạy xe trên đường có thể phân làm 3 nhóm:
Nhóm liên quan đến đường: các chi tiết của
đường ảnh hưởng trực tiếp đến sự lái (các biển
báo, sự thay đổi hướng đường, mặt đường
không bằng phẳng, chỗ nhập và lối rẽ,…);
Nhóm liên quan đến xe chạy: các loại ô tô,
mô tô, xe đạp và người đi bộ trên lề đường;
Nhóm không liên quan trực tiếp đến xe chạy:
nhà cửa và công trình, các khóm cây ở dải đất
ven đường, phong cảnh xung quanh và ngay cả
máy bay ở phía trên đường.
Số lượng các nhân tố mà người lái xe có thể
phân biệt và ghi nhận rõ ràng trong ý thức của
mình thường bị giới hạn bởi khoảng thời gian tối
thiểu cần thiết để giác quan phân biệt được từng
tác động riêng biệt. Đối với mỗi loại kích thích tồn
tại một trị số giới hạn nhất định phụ thuộc vào
cường độ xúc cảm của con người. Trung bình
đối với thị giác thời gian này là 1/16s, đối với
thính giác là 1/20s, với phản ứng cơ bắp khi va
đập và bị xóc là 1/15s. Những tác động mạnh
hơn cả được các giác quan tập hợp và cảm nhận
theo một quá trình liên tục đó là sự thoáng hiện
trong mắt, tiếng động và sự rung động khi xe
chạy. Ngoài ra, ở mỗi thời điểm người lái có thể
chỉ tập trung sự chú ý của mình vào một đối
tượng cụ thể, còn những hiện tượng khác đồng
thời xảy ra thì chỉ có được một khái niệm chung
nhất.
Trên các đường cao tốc do tuyến khá đều
đặn và mặt đường bằng phẳng nên tác động vật
lý đối với người lái xe bởi gia tốc gây ra khi thay
đổi tốc độ xe chạy hay khi xe vào các đường
vòng sẽ rất nhỏ. Trong các điều kiện xe chạy
bình thường, thị giác là nguồn thu nhận thông tin
cơ bản của người lái về các điều kiện đường.
Thông qua hướng bằng Điện não đồ, các
nhà não học ghi nhận được những loại điện thế
(action potentials) từ bên trong tế bào não
(neurons) phát ra và truyền đi trong trục thần kinh
não (axon). Dạng điện này được gọi là sóng não.
Có tất cả 4 loại dạng sóng não: Beta, Alpha,
Theta, và Delta. Các kết quả nghiên cứu để đánh
giá sự thay đổi song não trong khi lái xe.
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
16 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
Hình 1. Mô hình hóa hệ thống lái xe
Hình 2. Sự thay đổi sinh lý của điện quang phổ điện não đồ theo thời gian lái xe (epoch 1-10)
Hình 3. Sự biến đổi chỉ số hoạt động lái xe theo
thời gian lái xe (epoch 1-10)
Khi xe chạy, trong tri giác người lái dường
như diễn ra một bức tranh thay đổi liên tục. Phụ
thuộc vào tình trạng đường, tần số tránh và vượt
xe, quang cảnh địa hình mà số các đối tượng tập
trung chú ý (tức là những nhân tố kích thích)
được thay đổi. Khi ấy, tuyến đường như là một
cái trục mà xung quanh nó hình thành mọi tình
huống chạy xe.
Ta có khái niệm về mật độ sự kiện là nhân tố
mà các giác quan của người lái thu nhận được
trong một giây:
L
MvB
Trong đó: M - Số nhân tố mà các giác quan
của người lái xe có thể thu nhận được trong
phạm vi vùng tập trung thị giác dài L (mét); v - tốc
độ xe chạy, (m/s);
Người ta thấy rằng, khi chạy xe nơi thoáng
đãng người lái xe nhìn tập trung vào một khoảng
trước mặt dài tới 600m, còn ở đường phố thì chỉ
tới 60m.
Khái niệm về mật độ sự kiện có thể đối lập
với khái niệm về mật độ các đối tượng (được đặc
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 17
trưng bởi khoảng thời gian mà người lái có thể
phân biệt được từng đối tượng tùy thuộc vào đối
tốc độ xe chạy).
Trong khi tập trung chú ý điều khiển xe chạy,
trên cơ sở những kinh nghiệm bản thân, người
lái thường phân biệt những cái chủ yếu và thứ
yếu, từ đó buộc phải chọn một số đối tượng có
thể quan sát được và gạt bỏ phần lớn những đối
tượng không liên quan đến sự thuận lợi và an
toàn chạy xe trên đường. Khi đó, tầm quan trọng
của mỗi đối tượng riêng biệt hầu như được đánh
giá phụ thuộc vào khoảng cách của chúng đến
phần xe chạy của đường. Trong điều kiện trên
đường có lưu lượng xe chạy cao, người ở hai
bên đường (trong phạm vi dành cho đường)
cũng như người đi bộ hai bên lề đường thường
không được người lái xe chú ý.
Khi lưu lượng xe chạy trên đường thấp và ở
nơi có quang cảnh đơn điệu thì các đối tượng
như vậy có thể làm cho người lái xe chú ý lâu.
Bởi vậy, những ý định được tiến hành nhiều
lần nhằm tính số đối tượng làm người lái chú ý
trên đường và ảnh hưởng của chúng đến chế độ
chuyển động của người lái là mang nhiều tính
chất quy ước. Như khi phân tích hoạt động của
người lái xe, Plattơ đã thấy rằng, với 125-135 sự
kiện trên 1km đường thì yêu cầu phải có đến 20
giải pháp thay đổi chế độ chạy xe.
Xe chạy trên đường gắn liền với cường độ
xúc cảm nhất định của người lái, cường độ đó
thay đổi phụ thuộc vào tình trạng của đường.
Vấn đề này còn ít được nghiên cứu. Một trong
những giải pháp có thể được là nghiên cứu phản
ứng tâm lý của người lái xe đối với những kích
thước bên ngoài bằng cách đo phản ứng tĩnh
điện của da (tức là điện trở của dòng điện ở da).
Phương pháp này đủ nhạy cảm đối với sự thay
đổi xúc cảm và mức độ căng thẳng về mặt tâm lý
của người lái xe khi tình trạng đường thay đổi.
Người ta cũng nhận thấy rằng khi xe chạy
trong điều kiện đường rất dễ dàng (đến mức
tưởng như là rất thoải mái) thì mức độ căng
thẳng thần kinh lại cao hơn cả khi chạy xe ở
những đoạn trước đó.
Đối với mỗi người lái thường tồn tại mật độ
đối tượng tối ưu, khi đó lái xe cho xe chạy một
cách tin tưởng, phản ứng kịp thời với sự thay đổi
tình trạng của đường. Trong điều kiện mật độ đối
tượng tối ưu và đối tượng lại không đơn điệu thì
người lái xe thường được kích thích sự chú ý
nhiều hơn và làm người lái tích cực chú ý. Khi
lượng thông tin vượt quá khả năng phân tích cho
phép của con người sẽ dẫn đến hiện tượng "từ
chối" tức là không suy xét được tầm quan trọng
của các đối tượng đã thấy và sẽ đánh giá không
đúng các tình huống phức tạp. Bởi vậy khi mật
độ đối tượng quá cao (lượng thông tin vượt quá
giới hạn cho phép), ví dụ khi xe chạy trong phạm
vi các điểm dân cư có nhiều ô tô qua lại và người
đi lại không ngớt khiến cho người lái xe phải hết
sức tập trung thì cần phải giảm tốc độ chạy xe để
sao cho người lái nhận được mật độ đối tượng
vừa đủ.
Khi ô tô chạy trong dòng đầy xe với điều
kiện đặc biệt khó khăn, người lái buộc phải cho ô
tô đi với tốc độ chung của dòng xe, tốc độ này
thường không phù hợp với đặc điểm tâm lý và
nghiệp vụ của người lái. Người lái xe cho xe của
mình bám sau xe đi trước với khoảng cách tối
thiểu, do đó chỉ có rất ít thời gian xử lý theo sự
cơ động của xe đi trước.
Khi mật độ đối tượng thấp và đặc biệt các
đối tượng lại đơn điệu, ví dụ khi xe chạy trên
đoạn thẳng dài ở nơi quang đãng, người lái sẽ ít
chú ý. Lái xe nhận được lượng thông tin nhỏ hơn
số lượng thông tin cần thiết để duy trì các hoạt
động tích cực cần thiết (theo định nghĩa của tâm
lý học đó là hiện tượng "thiếu cảnh giác").
Trong điều kiện địa hình thiên nhiên đơn
điệu và khi vắng các nhân tố kích thích sự chú ý
thì thường người lái kém nhạy bén với tình
huống xung quanh, suy nghĩ bị phân tán, hay
nghĩ sang các sự kiện khác không liên quan đến
xe chạy trên đường và hay lãng quên. Người lái
có thể ít chú ý, bắt đầu tăng mệt mỏi và có cảm
giác lệch lạc về các tình trạng xung quanh,
dường như ở trạng thái thiu thiu ngủ (trạng thái
"ức chế" của hoạt động thần kinh cao cấp). Gây
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
18 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
ra hiện tượng này là do các dao động đều đều
của ôtô, do các dải sáng của mặt đường và ánh
sáng của vỏ ôtô có tác động thôi miên đối với
người lái.
Không phải tất cả mọi lái xe đều lâm vào tình
trạng trên như nhau. Theo các số liệu của nước
ngoài thì số người lái hoàn toàn không cảm thấy
điều này là 3%; hay mắc phải là 23%, mắc phải
nhưng nhẹ là 74%. Để chống lại sự đơn điệu cần
theo những chỉ dẫn đưa ra trong tài liệu này là:
khi xe chạy đường dài phải có máy thu thanh, hé
mở cửa sổ để thoáng gió, thỉnh thoảng dừng xe
để dịu bớt căng thẳng.
Số lượng các tai nạn giao thông gây ra do
người lái xe ngủ gật hay ở trạng thái thiu thiu ngủ
là rất lớn. Năm 1959, khi nghiên cứu vấn đề này
ở Mỹ đã xác nhận rằng có 3,8% người lái bị chết
vì tai nạn do đã ngủ gật. Tại 19 chỗ đường rẽ
nguy hiểm nhất của một bang có 14,3% tai nạn là
do người lái xe ngủ gật hoặc ở trong trạng thái
mơ ngủ.
Sự thay đổi chế độ chạy xe trong các điều
kiện khác nhau chứng tỏ rằng, khi chạy xe người
lái xe có xu hướng giữ nhịp điệu cho xe chạy
tương đối không đổi (nhịp điệu này thay đổi trong
phạm vi tương đối hẹp ở tất cả các điều kiện
đường) và sử dụng tốc độ xe chạy thích hợp với
nhịp điệu đó.
Khi xe chạy vào các đoạn chỉ có khả năng
bảo đảm tốc độ nhỏ hơn tốc độ xe chạy ở cuối
đoạn trước thì người lái phải thay đổi tốc độ.
Cường độ hãm xe cần thiết phụ thuộc vào hiệu
số tốc độ chạy xe có thể được trên các đoạn
đường kế tiếp và phụ thuộc vào thời gian mà
người lái thực hiện việc giảm tốc độ, do đó dù
không muốn nhưng đôi khi người lái vẫn phải
hãm xe đột ngột.
Khi xe chạy trên các đoạn đường dài, qua
vùng có quang cảnh không đổi, nếu không buộc
phải chạy trong dòng xe, người lái sẽ lựa chọn
một chế độ chạy xe nhất định với tốc độ phụ
thuộc vào đặc điểm cá nhân và trình độ chuyên
môn của họ để thuận lợi nhất và đỡ mệt mỏi
nhất.
Có thể nêu lên những ví dụ về các chế độ
chạy xe điển hình sau đây:
Trong điều kiện địa hình gò đồi chia cắt, có
nhiều đoạn lên dốc và xuống dốc: khi xuống dốc,
xe có đà và tắt động cơ, dùng chuyển số trực
tiếp; khi lên dốc, sử dụng năng lượng tích luỹ
được, rồi lại xuống thung lũng ở đoạn tiếp theo;
Trong điều kiện địa hình bằng phẳng: xe
chạy đều với tốc độ cao, không cần thay đổi
chuyển số và hãm xe trên một quãng đường dài,
thường xe chạy theo hướng thẳng có chiều dài
đôi khi tới 10-20km và lớn hơn;
Ở địa hình vùng núi: Xe chạy với các chỗ
ngoặt có bán kính nhỏ hơn trong điều kiện tầm
nhìn không đủ, xe chạy thường xuyên phải tăng
tốc và hãm cục bộ. Các đường cong có bán kính
nhỏ làm tốc độ xe chạy thay đổi (hãm khi đi vào
đường cong và tăng tốc tiếp theo khi ra khỏi
đường cong).
Trên các đoạn đường dài cùng một dạng.
Khi đi theo thung lũng sông ở vùng núi xe lần
lượt đi dọc theo sông rồi cắt dòng nước bằng
cầu nhỏ với góc ngoặt gấp và bán kính nhỏ, sau
đó với đoạn lên dốc không lớn xe lại đi trong
thung lũng như trước. Đoạn chuyển từ lưu vực
sông này đến lưu vực sông khác (tuyến qua đèo)
bao gồm các đoạn đường có độ dốc lớn và các
đường cong bán kính nhỏ có tầm nhìn không đủ.
Các đoạn đường được lặp đi lặp lại một
cách tương tự có hệ thống như đã nêu ra ở trên
đã tạo cho người lái xe một nhịp điệu chạy xe
dường như quen dần. Người lái phải cảm nhận
được sự phá vỡ nhịp điệu chạy xe trên đường,
điều đó gây thêm khó khăn cho việc điều khiển
ôtô vì rõ ràng liên quan đến sự phá vỡ nhịp điệu
nội tâm của người lái xe và sự cần thiết phải xây
dựng lại nhịp điệu đó. Nếu các điều kiện đường
và quang cảnh xung quanh là cùng một loại, một
kiểu và đơn điệu thì tình trạng này làm giảm sự
chú ý của người lái xe. Nhịp điệu xe chạy đều
đều dẫn đến các thao tác lái ôtô vô ý thức và
giảm sự chú ý của người lái.
Quan sát xe chạy cũng thấy rằng, đa số
người lái khi đi vào các đoạn đường chưa quen
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 19
họ vẫn không chịu giảm tốc độ một chút nào để
khỏi phá vỡ nhịp điệu chạy xe.
Các tai nạn giao thông là hậu quả của việc
điều kiện đường thay đổi yêu cầu phải thay đổi
chế độ chạy xe, song yêu cầu này không được
người lái thực hiện kịp thời.
Ở thời điểm tiếp theo, khi phát hiện ra sự
cần thiết phải giảm gấp tốc độ trên một đoạn
đường ngắn thì lúc đó sẽ phát sinh gia tốc không
bình thường và không thuận lợi đối với xe chạy
và chế độ lái. So với lúc xe chạy chậm, khi ngoặt
gấp người lái phải tác dụng một lực lớn và quay
tay lái với vận tốc góc lớn. Tất cả điều đó sẽ gây
khó khăn cho việc lái xe nhất là trong điều kiện
thời gian bị hạn chế, do đó đôi khi gây ra các tai
nạn giao thông.
Bởi vậy, phân tích đặc điểm cảm nhận của
người lái xe đối với các điều kiện đường nêu ra
ở trên chứng tỏ rằng, các đoạn đường yêu cầu
phải giảm tốc độ đột ngột chính là các đoạn nguy
hiểm.
Vì tiền đề xảy ra tai nạn giao thông chính là
ở các vị trí mà người lái xe không muốn thay đổi
nhịp điệu chạy xe nên nhiệm vụ nâng cao an
toàn chạy xe trên đường yêu cầu phải loại trừ
các đoạn như thế khi cải tạo lại tuyến đường
hiện có. Thay đổi các đặc trưng kỹ thuật của
đường phải phối hợp với việc thay đổi quang
cảnh xung quanh, trong các giới hạn tự nhiên
của nó để người lái được chuẩn bị một cách sớm
hơn.
Về sự khác nhau cho phép của tốc độ trên
các đoạn đường kế tiếp, với quan điểm thuận lợi
cho người lái xe, có thể đề ra yêu cầu kết hợp
các yếu tố bình đồ và trắc dọc như thế nào để
bảo đảm cho người lái giảm tốc độ chạy xe chỉ
bằng cách tác động lên bàn đạp điều khiển
bướm xăng mà không phải thay đổi chuyển số và
hãm.
Để thực hiện được ý đồ này trong thực tế
cần phát hiện các phương pháp tính toán sức
kéo đã có để tính toán trạng thái xe chạy không
ổn định có xét đến độ mở của bướm xăng.
Ngoài ra trên nhiều tuyến đường không phải
tất cả các đoạn đều luôn thỏa mãn các yêu cầu
chạy xe hiện đại. Để bảo đảm an toàn chạy xe,
việc báo trước kịp thời cho người lái biết về các
đoạn đường ở phía trước và việc tổ chức giao
thông bằng các biện pháp thụ động có ý nghĩa
rất lớn.
Công việc này đạt được bằng các cách sau:
dùng biện pháp thiết kế quang học giúp người lái
phỏng đoán được chế độ chạy xe cần thiết; vạch
các đường ranh giới trên phần xe chạy; tách các
làn xe cơ bản ra khỏi các làn xe phụ và lề đường
bằng các dải mép bêtông trắng; xây dựng các dải
phụ ví dụ như các đường dẫn; đường giao nhau
có mặt đường kém bằng phẳng gây sóc khi xe
chạy; đặt các biển tín hiệu tiêu chuẩn và biển báo
hành trình; bố trí các biển không tiêu chuẩn và
các biển chỉ dẫn trong thời kỳ thời tiết bất lợi.
Hiệu quả của việc bố trí các biển báo trên đường
hầu như chưa được đánh giá. Chắc chắn là
chúng có ý nghĩa càng lớn đối với những người
lái xe lần đầu tiên đi trên một đường nào đó so
với các đường đã quen thuộc.
Đồng thời cũng có nhiều chứng cứ để thấy
là việc bố trí các biển báo chưa đủ bảo đảm chỉ
dẫn cho người lái xe. Nhiều lái xe trong khi mải
lái ôtô đã không chú ý đến biển báo.
Ở Thụy Điển đã tiến hành thực nghiệm: Tại
các vị trí khác nhau trên đoạn đường dài 170Km
đã đặt bảy biển báo tiêu chuẩn tạm thời. Cách
700m sau biển báo đã tập trung 200 ôtô và
người ta đặt cho người lái xe những câu hỏi "anh
vừa đi biển báo nào?", có 78% lái xe nhớ đúng
biển "hạn chế tốc độ", biển "mặt đường không
bằng phẳng!" - 55% và biển "chú ý" - 18%. Ngay
cả khi trừ bớt khả năng có nhiều người vốn
chóng quên những thông tin trở nên không cần
thiết thì cũng vẫn nhận thấy phần lớn số biển đặt
trên đường không gây ấn tượng sâu sắc cho
người lái xe.
Bởi vậy, hiện nay trong tổ chức giao thông
đã xuất hiện khuynh hướng thực hiện thông tin
trùng lặp cho người lái xe ở những nơi nguy
hiểm (biển báo, sơn vạch) bằng các biện pháp
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
20 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
tác dụng liên tiếp tới các giác quan khác nhau
của người lái xe (thính giác, xúc giác), ví dụ xây
dựng các dải gây sóc và tiếng ồn. Các cơ quan
khai thác đường phải tham gia cùng với cơ quan
kiểm soát giao thông bố trí nơi đặt biển báo và
biển cấm. Mỗi biển báo này đòi hỏi người lái xe
phải tăng cường chú ý và hạn chế tốc độ. Bởi
thế, không nên bố trí đặt chúng trên đường trong
các trường hợp bình thường làm giảm đặc trưng
khai thác của đường. Hơn nữa vì đặt một số biển
báo không có căn cứ, không phù hợp với các
điều kiện thực tế chạy xe sẽ làm người lái mất tin
tưởng và không thực hiện những điều chỉ dẫn
trong biển, từ đó làm giảm hiệu quả tác dụng của
những biển báo đặt đúng vị trí đòi hỏi người lái
phải hết sức chú ý.
2. Sự phỏng đoán của ngƣời lái xe đối với
khu vực ngoài tầm nhìn thực tế và hành vi
Để điều khiển ôtô một cách tin tưởng khi
chạy xe với tốc độ cao người lái phải phỏng đoán
được hướng đường ngoài giới hạn tầm nhìn tính
toán. Tăng thêm tin tưởng về mặt tâm lý cho
người lái sẽ bảo đảm cho họ có thể lái xe không
căng thẳng.
Bởi vậy, sự phối hợp các yếu tố bình đồ,
trắc dọc và các bộ phận thiết bị cũng như tình
trạng của đường phải làm sao gợi ý được cho
người lái xe hướng đường tiếp theo ở các chỗ
gãy trắc dọc, vì nơi này trực tiếp che khuất tầm
nhìn của phần xe chạy.
Muốn vậy phải giải quyết hai vấn đề: báo
trước các đoạn đường có hướng thay đổi đều
đặn; báo trước sự thay đổi hướng đường đòi hỏi
giảm tốc độ.
Để tạo cho người lái có khái niệm về hướng
đường trên một chiều dài đáng kể, khi thiết kế
người ta tuân theo những nguyên tắc định tuyến
quang học hoặc nguyên nhân dẫn dắt đường
nhìn của người lái xe. Khi xe chạy, đường nhìn
của người lái ở phía trước ôtô và đặt vào các vật
chuẩn định hướng trên mặt đường; các sự vật,
hạng mục công trình song song với phần xe chạy
là những vật chuẩn định hướng tốt, chẳng hạn
như: Các dải mép hay mép mặt đường; các
tuyến phân cách; khe nối ở trục đường của mặt
đường bêtông ximăng; tuyến rãnh biên hay các
hàng cây trồng hai bên song song với mặt
đường; hàng cọc dẫn hướng hay hàng rào kiểu
barie.
Hình 4. Sự định hướng của các đoạn đường
ngoài tầm nhìn bằng các vật thể nhô cao
Dựa vào những điểm đặc trưng này, người
lái xe xác định hướng của đoạn đường mà anh
ta nhìn thấy và tiếp tục suy đoán ra hướng
đường ở ngoài phạm vi vùng nhìn thấy được,
Nguyên tắc định tuyến quang học đề ra các biện
pháp nhằm đạt được độ đều đặn của tuyến, do
đó bảo đảm khả năng ngoại suy thị giác về
hướng của đường.
Các điểm hấp dẫn sự chú ý của người lái khi
đánh giá điều kiện xe chạy. Sau khi đã đánh giá
sự thay đổi hướng đường một cách tổng quát
bằng hai đường nhìn trên mặt nằm ngang của
địa hình thì tiếp theo đó người lái tập trung chú ý
vào các yếu tố mép đường và các đường vạch ở
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 21
trục và như vậy là đủ cho việc phỏng đoán
hướng xe chạy.
Chính bản thân phần xe chạy là yếu tố hiệu
quả nhất đối với việc định tuyến quang học. Khi
có sự tương phản độ nhìn của phần xe chạy và
sự khác biệt về màu sắc giữa nó với các yếu tố
liền kề với phần xe chạy (các dải mép, lề đường,
các tuyến cọc tiêu hai bên mép, các lề phủ cỏ) thì
có thể phỏng đoán tốt hướng tuyến nếu đường
được nhìn thấy rõ ở một khoảng cách đủ dài.
Song, các phương pháp tác dụng vào thị giác
của người lái xe kể trên không phải luôn luôn có
hiệu quả như nhau. Chẳng hạn như, các dải mép
bằng bêtông trắng và các đường vạch dọc bằng
sơn trên mặt đường sẽ nhìn không rõ khi trời
mưa, khi mặt đường bẩn cũng như khi bụi bẩn….
Nhưng đặc biệt là vào ban đêm với ánh sáng của
đèn pha, phần xe chạy sẽ được phân biệt rất rõ
với hai bên lề bằng các màu sơn và cấu tạo hoa
văn khác nhau trên bề mặt của chúng.
Bởi vậy, định tuyến quang học đạt được
hiệu quả tốt nhất khi sử dụng toàn bộ các yếu tố
không gian dọc phần xe chạy (các đường viền
của mặt đường, ta-luy nền đất, rặng cây bên
đường, hàng rào ngăn với các cọc chắn và các
barie). Trong trường hợp này các điểm tựa như
tạo thành hành lang không gian xác định hướng
của đường.
Cây cối mọc cao trên đường, các hàng rào
và các cọc định hướng có hiệu quả càng lớn khi
chúng đặt gần đường.
Sự phối hợp hợp lý tất cả các phương pháp
tác động tâm lý đến người lái xe cần phải được
tìm tòi ngay trong quá trình thiết kế đường và
biểu hiện nó trong đồ án thiết kế bất kể là có
những công việc cá biệt (ví dụ như trồng cây hai
bên đường) sẽ không phải do những người xây
dựng thực hiện mà là do cơ quan khai thác
đường làm.
Bản thiết kế cần phải bao gồm quy hoạch bố
trí trồng cây do các chuyên gia trang trí cây xanh
đề xuất và không được lược bỏ nội dung cần
thiết kế này như thường làm hiện nay. Đặt tuyến
có phần xe chạy riêng (được tách ra), trồng cây
trang trí dải phân cách là các biện pháp có thể
tạo nhiều khả năng loại trừ tính đơn điệu của
đường.
Trông cây hai bên đường là phương pháp
định tuyến quang học có hiệu quả. Ví dụ, trong
trường hợp trên khi sau đường cong đứng mà
tuyến rẽ ngoặt thì trồng cây trên đỉnh đồi sẽ tạo
điều kiện cho người lái phỏng đoán được hướng
của đường.
Để người lái xe phỏng đoán được hướng
đường, không nên trồng hàng loạt các bụi cây
rậm rạp, cách trồng này tạo thành một đường
nhìn dường như liên tục trước mặt người lái. Khả
năng tổng hợp suy diễn các ấn tượng của mắt
cho phép có thể dẫn hướng đường rõ ràng nhờ
trồng các nhóm cây riêng biệt tạo nên những
điểm tựa cho đường nhìn (thị tuyến).
Khi giải quyết nhiệm vụ thứ hai của việc định
tuyến theo nguyên tắc quang học là báo trước
các đoạn nguy hiểm, thì cần phải tạo được cho
người lái ấn tượng về sự mất liên tục và mất đều
đặn của hướng đường. Như khi đường ngoặt
gấp hay khi nối đường địa phương với các
đường trục ở một bên thi trồng các nhóm cây
theo hướng trục đường nối đã chỉ cho người lái
xe thấy được cần phải giảm tốc độ một cách
đáng kể ngay từ xa.
Các nguyên tắc định tuyến quang học phải
xét đến cả các điều kiện chạy xe về ban đêm, khi
đó tầm nhìn của đường bị hạn chế do đối tượng
được chiếu sáng bởi các tia sáng của đèn pha
trong phạm vi hẹp. Vì mắt không nhìn được các
đối tượng theo mức độ nằm trong không gian
chiếu sáng khác nhau nên khả năng tổng hợp
suy diễn của mắt vào ban đêm ở các mức độ
thấp hơn. Bởi vậy, số các điểm tựa cần thiết để
người lái xe dự đoán vào ban đêm phải lớn hơn
nhiều và chúng phải ở gần nhau hơn so với ban
ngày.
Khi thiết kế đường, nếu phá vỡ nguyên tắc
định tuyến quang học sẽ tạo nên nhiều chỗ nguy
hiểm trên đường. Có thể loại trừ được ấn tượng
không đúng về hướng của đường chính bằng
cách trồng hàng cây cao từ phía ngoài chỗ rẽ
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
22 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
của đường. Ảnh hưởng dẫn hướng mạnh mẽ
hơn của hàng cây đối với người lái xe sẽ lấn át
ảnh hưởng của hướng đường thẳng tiếp tục.
Trong những năm gần đây đã có hàng loạt thực
nghiệm sử dụng các màu sắc và kết cấu mặt
đường như là những phương pháp phân biệt các
hướng xe chạy về mặt thị giác. Ở Mỹ đã xây
dựng dải mép và mặt đường màu sáng trên các
đường dẫn. Phần xe chạy cho giao thông quá
cảnh làm bằng bêtông trắng. Trên các đường
dẫn và trên các đoạn tăng tốc, dải mép được mở
rộng và có màu vàng, trên các đường dẫn và các
đoạn giảm tốc – màu xanh da trời. Các đoạn nối
tiếp dải phụ với làn xe chính được xây dựng
bằng hai màu khác nhau. Nhiều thí nghiệm ở Mỹ
chứng tỏ phân chia mặt đường bằng sơn vạch
để điều chỉnh và tổ chức giao thông tốt hơn so
với dựng biển báo trên đường.
Hình 5. Sử dụng thiết bị hiện đại gắn trên ô tô để nghiên cứu hành vi lái xe
Tốc độ được xác định và hướng xe chạy
được duy trì cho đến khi thay đổi màu sắc của
mặt đường. Biện pháp này đã đưa đến kết quả là
tổ chức giao thông ở chỗ giao nhau được rõ
ràng, nhưng trong thực tế thực hiện nó còn nhiều
trở ngại vì giá thành bêtông màu cao và còn
thiếu các loại sơn có độ bền và ổn định lâu dài
đối với thời tiết và loại sơn phân biệt rõ vào ban
đêm.
Một chương trình nghiên cứu (1-2 năm), sử
dụng các ô tô được gắn các thiết bị đặc biệt sẽ
ghi lại cả hai nội dung là hành vi lái xe và dữ liệu
động cơ xe. Công nghệ này bao gồm phía trước
radar, máy quay video liên tục ghi, GPS, gia tốc,
và cảm biến khác. Nghiên cứu này sẽ được tiến
hành trên khoảng 3.100 lái xe trong sáu tiểu
bang trên khắp nước Mỹ■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Бабков В. Ф. Дорожные условия и
безопасность движения: Учебник для вузов.—
М.: Транспорт, 1993.—271 с.
[2]. Сильянов В.В., Справочик по
безопасности дорожного движения. Обзор
мепроприй по безопасности дорожного
движения. Осло – Москва -Хельсинки., 2001. –
753 с.
[3]. Monica, CA: Human Factors and
Ergonomics Society.
[4]. Dai, X. J. and Lu, J. J., The Impact of
Driving Behavior of Older Drivers on Intersection
Capacity, Research Report, Department of Civil
and Environmental Engineering, University of
South Florida, Tampa, Florida, (1997).
[5]. Wierwille, W. W., & Tijerina, L. (1998).
Modelling the relationship between driver in-
vehicle visual demands and accident occurrence.
In A. G. Gale et al. (Eds.), Vision in Vehicles VI
(pp. 233-243). Amsterdam: Elsevier.
[6]. Boer, E. R., & Hoedemaeker, M. (1998).
Modeling driver behavior with different degrees of
automation: A hierarchical decision framework of
interacting mental models. In Proceedings of the
17th European Annual Conference on Human
Decision Making and Manual Control.
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 23
TỐI ƢU HÓA KẾT CẤU NHỊP DẦM GIẢN ĐƠN BE TÔNG CỐT THÉP VỚI CỐT THƢỜNG
TS. Lê Mạnh Hân
Trung tâm Đào tạo & Thông Tin,
Viện KH&CN GTVT
Tóm tắt:
Bài viết trình bày những kết quả chính của
quá trình nghiên cứu đề tài được phát triển bởi
chương trình tự động hóa thiết kế nhịp dầm giản
đơn bê tông cốt thép với cốt thép thường.
Nhiệm vụ chính của đề tài là nghiên cứu và
đưa ra những khuyến nghị áp dụng với điều kiện
Việt Nam về việc chỉ định các thông số tối ưu hóa
cho nhịp dầm giản đơn theo tiêu chí giá thành
đối với những nhịp dầm và khổ cầu khác nhau
tùy thuộc vào đặc trưng vật liệu được sử dụng
và các loại hoạt tải khác nhau.
Để giải quyết vấn đề này phù hợp với các
khái niệm của Giáo sư Salamahin P.M .[1] tác giả
đã phát triển một chương trình tự động hóa thiết
kế nhịp dầm giản đơn với cốt thép thường.
Chương trình này cho phép nhập các dữ liệu
đầu vào dựa trên các thông số chung của kết cấu
nhịp ( chiều dài nhịp và khổ cầu ), hoạt tải yêu
cầu, dữ liệu về các đặc tính cơ lý và giá thành của
vật liệu bê tông và cốt thép được sử dụng để nhận
được tất cả các kích thước của kết cấu nhịp đảm
bảo được độ bền, độ cứng, độ mở rộng vết nứt,
những yêu cầu về kết cấu theo tiêu chuẩn Snip và
tối ưu hóa theo chỉ tiêu giá trị nhỏ nhất của giá
thành vật liệu để chế tạo kết cấu nhịp.
Ngoài ra chương trình còn được thiết kế để
sử dụng như một công cụ hỗ trợ cho kỹ sư thiết
kế để nghiên cứu tác động của các thông số đầu
vào khác nhau của kết cấu nhịp (kích thước, tính
chất cơ lý và giá thành của vật liệu, các dạng
hoạt tải) đến các đặc tính đầu ra của nhịp được
thiết kế: khối lượng nguyên vật liệu và giá thành
của chúng.
Tính năng này của chương trình trong đề tài
được sử dụng để giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
Nghiên cứu và đề xuất những khuyến nghị về
giá trị tối ưu của số lượng và chiều cao dầm chủ
với chiều dài nhịp từ 9 đến 21m cho cầu được
thông qua bởi 2 và 4 làn xe.
Trên hình vẽ 1 thể hiện sự phụ thuộc giá
thành của nhịp L = 18m trong khoảng chiều cao
dầm thay đổi từ H = 80 đến 100cm với bước 5cm
và số lượng dầm chủ trong mặt cắt ngang thay đổi
từ N = 4 – 7 dầm với khổ cầu Г- 8+2x1.5m. Phân
tích đồ thị cho thấy rằng cầu đạt giá trị tối ưu nhỏ
nhất về giá thành (Cmin) đảm bảo những yêu cầu về
kết cấu tại điểm có chiều cao dầm là H = 85cm với
N= 4 dầm chủ được thiết kế với tải trọng hoạt tải là
xe AK-11, những phương án về kết cấu trong
trường hợp 6 dầm chủ (N=6) trong khoảng chiều
cao dầm từ 80 đến 90cm không được hiện trên đồ
thị chứng tỏ chúng không đảm bảo điều kiện về độ
cứng dầm. Tiếp theo là đồ thị hình vẽ 2 thể hiện sự
phụ thuộc giữa giá thành của toàn bộ nhịp (bao gồm
giá thành của bê tông và cốt thép) vào chiều cao
ứng với số lượng dầm chủ đã tối ưu trong trường
hợp N= 4, ta nhận thấy ngay rằng, sự gia tăng chiều
cao của dầm dẫn đến chi phí bê tông tăng và chi phí
cốt thép giảm nhưng chi phí của bê tông vẫn đóng
vai trò quyết định đến giá thành của toàn nhịp.
Tương tự như vậy thông tin thu được về chiều cao
dầm tối ưu và số lượng dầm chủ trong mặt cắt
ngang cũng như những số liệu tối ưu của bản mặt
cầu được thể hiện trong bảng 1.
L=18(м)
1300000
1400000
1500000
1600000
1700000
1800000
1900000
80 85 90 95 100 H(см)
С(в рублях)
N4 N5 N6 N7
Hình 1. Tối ưu hóa chiều cao và số lượng dầm chủ của nhịp dầm L = 18m với khổ cầu Г-
8+2x1.5.
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
24 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
Hình 2. Sự phụ thuộc giá thành của bê tông và cốt thép vào chiều cao dầm đối với nhịp L = 18m.
0
500000
1000000
1500000
2000000
9 12 15 18 21 Пролет L(м)
С(рублей)
Hình 3. Sự phụ thuộc giá thành cầu vào chiều dài
nhịp với giá trị tối ưu hóa chiều cao và số lượng
dầm với khổ cầu Г- 8+2x1.5.
0
500000
1000000
1500000
2000000
2500000
3000000
3500000
4000000
9 12 15 18 21L(м)
С(рублей)
Hình 4. Sự phụ thuộc giá thành cầu vào chiều dài nhịp với giá trị tối ưu hóa chiều cao và số lượng
dầm với khổ cầu Г- 14+2x0.75.
Kết quả của chương trình tự động hóa thiết kế thể hiện sự phụ thuộc giữa giá thành và chiều dài nhịp (L = 9 – 21m) với hai khổ cầu khác nhau được thể trong hình 3 và 4, ta thấy sự chênh lệch kích thước giữa hai khổ cầu Г – 14+2x0.75 và Г – 8+2x1.5 là 40% và giá thành của chúng chênh 90%, điều đó cho ta thấy rằng: với số lượng dầm chủ ít hơn trong mặt cắt ngang đối với khổ cầu Г – 14+2x0.75 làm tăng chiều dày bản mặt cầu và trọng lượng trên một m2 chiều dài nhịp dẫn tới tăng số lượng cốt thép yêu cầu.
0
200000
400000
600000
800000
1000000
1200000
1400000
1600000
1800000
2000000
B30 B35 B40 B45 B50 Класс бетона (B)
С(рублей)
L=9м
L=12м
L=15м
L=18м
L=21м
Hình 5: Sự phụ thuộc giá thành cầu vào cuờng độ mác bê tông được sử dụng.
№
L
Ch
iều
dài n
hịp
(m
)
Г-8.5+2х1.5 Г-14.5+2х0.75
H
Ch
iều
cao
dầm
ch
ủ (
cm
)
nб
ал
Số
lƣ
ợn
g d
ầm
ch
ủ
Nst
Số
th
an
h c
ốt
thép
dầm
ch
ủ
th
ép
dầm
(cm
)
hp
l
Ch
iều
dày b
ản
mặt
cầu
(c
m)
* Np
l
Số
th
an
h c
ốt
thép
1m
rộ
ng
bản
*
d
thép
bản
(cm
) *
H
Ch
iều
cao
dầm
(cm
)
nб
ал
Số
lƣ
ợn
g d
ầm
Nst
Số
th
an
h c
ốt
thép
ch
ủ
thép
dầm
(cm
)
hp
l
Ch
iều
dày b
ản
mặt
cầu
(c
m)
*
Np
l
Số
th
an
h c
ốt
thép
1m
rộ
ng
bản
*
d
thép
bản
(cm
) *
1 9 35 6 4 3.2 12 10 1 35 9 4 3.2 13 10 1
2 12 50 5 6 3.2 13 11 1.2 50 8 5 3.2 13.5 11 1
3 15 65 5 7 3.2 13.5 11 1.2 70 7 7 3.2 14 11 1.2
4 18 85 4 9 3.2 13.5 13 1.4 95 6 8 3.2 14 13 1.4
5 21 95 4 10 3.2 13.75 14 1.4 105 6 11 3.2 14 13 1.4
L=18(м),
N=4
0 100000
0
200000
0
8
0
8
5
9
0
9
5
10
0
H(см
)
С(в
рублях)
C.phí
c.thép
C.phí
b.t
Chi phí toàn bộ
nhịp
Bảng 1
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 25
Tiếp nhận sự phụ thuộc giữa giá thành toàn
bộ nhịp vào cường độ của mác bê tông được sử
dụng đối với khổ cầu Г – 8+2x1.5.
Qua phân tích hình vẽ 5 rút ra kết luận rằng:
đối với tất cả các nhịp dầm được khảo sát theo
chỉ tiêu giá thành nhỏ nhất thì giá trị tối ưu của
mác bê tông được sử dụng là bê tông mác B40
có cường độ chịu nén dọc trục là 205 kgN/cm2.
Tiếp nhận sự phụ thuộc giữa giá thành toàn
bộ nhịp vào cường độ của mác cốt thép được sử
dụng đối với khổ cầu Г – 8+2x1.5.
0
500000
1000000
1500000
2000000
2500000
AI AII AIIIКласса арматурных сталей
С(рублей)
L=9м
L=12м
L=15м
L=18м
L=21м
Hình 6: Sự phụ thuộc giá thành của cầu vào cuờng độ mác cốt thép được sử dụng.
Tương tự với mác cốt thép được thể hiện
trên hình 6 ta nhận được giá trị tối ưu của của
mác cốt thép được sử dụng là cốt thép loại AII.
Tiếp nhận sự phụ thuộc giữa giá thành toàn
bộ nhịp vào các loại hoạt tải được sử dụng đối
với khổ cầu Г – 8+2x1.5.
Phân tích số liệu biểu đồ hình 7 với sự gia
tăng tải trọng hoạt tải từ AK – 8 đến AK – 14 thì
giá thành toàn nhịp tăng tương ứng theo tỉ lệ %
và được thể hiện theo bảng 2 dưới đây.
0200000400000600000800000
1000000120000014000001600000180000020000002200000
AK8 AK10 AK11 AK12 AK14 AK
C(рублей)
L=9м
L=12м
L=15м
L=18м
L=21м
Hình 7. Sự phụ thuộc giá thành của cầu vào lớp tải trọng hoạt tải
Bảng 2.
Ta thấy rằng đối với việc tăng tải trọng hoạt
tải từ AK - 8 đến AK – 14 thì giá thành của cầu
sẽ tăng từ 5 – 7,2% đối với nhịp dầm, việc tải
trọng hoạt tải tăng lớn mà giá thành cầu BTCT
tăng nhỏ chứng tỏ rằng trong việc thiết kế cầu
với nhịp định sẵn thì kích thước của mặt cắt
ngang chỉ được tính toán dựa trên cơ sở kết cấu
và yêu cầu về công nghệ■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Саламахин, П.М. Проблемы и концепция
автоматизации проектирования и
оптимизации конструкции мостов //
Транспортное строительство. Москва, 2004. –
№ 4. – С.20 – 23.
[2]. Саламахин, П.М. Инженерные
сооружения в транспортных строительстве/
П.М Саламахин, Л.В. Маковский, В.И. Попов –
М: Издательский центр ―Академия‖, 2007. -
272 с.
[3]. Саламахин П.М. Метод обобщения
закономерностей веса несущих
конструкций.М.1970.
[4]. СниП 2.05.03.84. Мосты и трубы. Госстрой
СССР.1985.
Chiều dài
nhịp
(L-m)
Giá thành toàn cầu
AK8 AK10 AK11 AK12 AK14 (АК14/АК8)
(%)
9 571195 827418.8 1138271 1522951 1819415 7.2%
12 583241 843521 1146329 1534213 1823451 6.5%
15 596581.3 863012 1152018 1543981 1851312 6.32%
18 600121 872120 1173021 1553219 1893451 5.14%
21 612321 881201 1210210 1601231 1910932 5.03%
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
26 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
THIẾT KẾ CẦU BƢỚC VÀO THỜI ĐẠI CỦA SỰ ĐỔI MỚI Lê Văn Điệu dịch
Thiết kế cầu hiện đại
thường mang đến trong
tâm trí những kỳ công kỹ
thuật như cầu nước
Magdeburg, một cầu máng
nước dài 3012 ft ở Đức,
hoặc hình ảnh thú vị như
cầu cáp nâng Octávio Brias
de Oliveira, một cây cầu ở
São Paulo, Brazil bắc qua
sông Pinheiros - cây cầu
duy nhất trên thế giới mà
có hai đường xe chạy cong
được đỡ bởi một cột bê
tông có hình dạng giống
chữ "X." Thiết kế cầu đang
phát triển với tốc độ nhanh,
một số cây cầu hiện đại có
một sự xuất hiện ấn tượng,
phần lớn những cây cầu
hiện đại cũng có số lượng
ngang bằng về sự cải tiến,
nhưng được nhìn với một
sự thờ ơ.
HNTB Corporation, một công ty tiên phong
trong công nghiệp thiết kế, quy hoạch và xây
dựng các công trình cầu di động, cầu nhịp dài
phức tạp cho rằng "Đổi mới và sáng tạo đóng
một vai trò ngày càng quan trọng trong thiết kế
cầu hiện đại và kỹ thuật xây dựng ngày nay. Một
phần tư các cây cầu ở Mỹ có cấu trúc thiếu hoặc
chức năng lỗi thời, đất nước chúng ta đang phải
đối mặt với một sự đầu tư hàng tỷ đô la để xây
dựng lại hoặc thay thế cơ sở hạ tầng cầu đang
lão hóa. "
Mặc dù tốn kém, các cây cầu là rất quan
trọng đối với kinh tế và xã hội của bất kỳ cộng
đồng nào.
"Cầu là đầu tiên và trên hết bảo đảm nền
kinh tế - xã hội, quan trọng sống còn đối với sức
khỏe nền kinh tế của chúng ta ở quy mô địa
phương, khu vực và quốc gia", ông Ted Zoli,
giám đốc kỹ thuật của HNTB (Tổ hợp tư vấn,
quản lý xây dựng, kiến trúc có trụ sở ở thành phố
Kansas, bang Missouri) nói trong một thông cáo
báo chí.
Các phƣơng pháp hiện đại
Bi kịch là kinh phí đã thúc đẩy sự đổi mới
trong thiết kế cầu, với các phương pháp cung
cấp chẳng hạn như thiết kế-xây dựng, quan hệ
đối tác công-tư và tổng thầu quản lý/xây dựng trở
nên ngày càng phổ biến và làm cho việc xây
dựng các cầu nhanh hơn và rẻ hơn, dịch vụ bị
gián đoạn ngắn hơn. Đôi khi đổi mới đến từ các
góc độ bất ngờ.
Cục Quản lý đường cao tốc liên bang công
bố hồi tháng ba việc chấp nhận đề nghị của
California và Vermont để khám phá những cách
thức sáng tạo trong việc sử dụng quỹ liên bang
Hình 1. Cầu Lake Champlain mới kết nối Crown Point NY và Chimney,
Vt, thay thế cây cầu 80 tuổi không còn đủ sức chịu tải
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 27
để trang trải một số chi
phí gián tiếp của việc
quản lý các dự án đường
cao tốc. FHWA nói rằng
thông báo là sáng kiến
"đếm từng ngày", được
thiết kế để rút ngắn thời
gian giao dự án đường
cao tốc, tăng cường an
toàn đường bộ và bảo vệ
môi trường.
Phê duyệt của FHWA là mới nhất trong các
chương trình thử nghiệm liên tục và đánh giá
được thiết kế để khuyến khích các tiểu bang để
tìm các lựa chọn thay thế, cải tiến với các chiến
lược tài trợ đường cao tốc thông thường.
Thúc đẩy bởi việc thiếu kinh phí hiện tại, sự
không chắc chắn về kinh phí trong tương lai và chi
phí của lịch trình xây dựng kéo dài tác động tới
người sử dụng, các sở giao thông vận tải gia tăng
việc sử dụng phương pháp xây dựng tăng tốc để
cung cấp các cây cầu cực kỳ linh động", ông
Robert Turton nói. "Trong vài năm qua, chúng tôi
đã thấy DOT xem xét những tiến bộ trong thiết kế,
xây dựng cầu, giúp chủ sở hữu làm nhiều hơn
trong thời gian ít hơn và giảm chi phí tổng thể của
dự án."
Việc thiết kế và xây dựng cầu tăng tốc của
thế giới đang tiến những bước rất nhanh đã thúc
đẩy các phương pháp xây dựng và thiết kế sáng
tạo, Turton nói
"Nhịp giữa được xây dựng ngoài công
trường, cho phép nó được xây dựng đồng thời
với các nhịp dẫn. Nhịp giữa sau đó được chở nổi
và đặt vào vị trí‖ và "toàn bộ các đoạn cầu được
xây dựng và sau đó được vận chuyển trên
đường cao tốc bằng cách sử dụng máy vận
chuyển mô-đun tự hành‖, Turton cho ví dụ.
Một ví dụ điển hình của sự đổi mới có thể
được nhìn thấy trong đóng góp của Finley
Engineering Group, Inc. cho một dự án của
Texas. Công ty đang cung cấp dịch vụ cho Lane
Construction Corporation đối với 2 cây cầu mới
I-35 qua sông Brazos ở Waco. Các cây cầu mới
là lần đầu tiên sử dụng thiết kế "extradosed" (lai
giữa cầu dầm và cầu dây văng) của Sở Giao
thông Vận tải Texas, nó không chỉ đáp ứng yêu
cầu thẩm mỹ mà còn tạo ra các vỉa hè và cho
khả năng nhìn rộng cho người đi bộ, các đoạn
dốc nối, chỗ quay xe và đường vào tổ hợp thể
thao Baylor University Sports Complex trong
tương lai. Ba cây cầu dài 620 feet, với một nhịp
chính 250 ft sẽ bao gồm các dầm thép làm việc
cùng với các tháp, được neo bởi các cáp, cáp
này sẽ chịu từ 20 - 30% tải trọng cầu. Cọc khoan
đường kính 10-foot sâu khoảng 50 feet sẽ là nền
móng cho cây cầu. Những cọc khoan này sẽ
chuyển thành các cột và tháp thẩm mỹ và các
dầm sẽ tựa trên một bệ bê tông được đổ liên tục,
các dầm này sẽ đỡ mặt cầu.
"Trong 10 năm qua, loại hình cầu này đã trở
thành rất phổ biến. Nó ở giữa cầu dây văng và
cầu dầm hộp ứng lực trước được xây dựng kiểu
hẫng. Kiểu thiết kế này rất hiệu quả và mang tính
thẩm mỹ," Craig Finley nói.
Vật liệu hiện đại
Trường Đại học Khoa học và Công nghệ
Missouri nói rằng phần lớn trong số 600.000 cây
cầu của quốc gia được xây dựng cách đây gần
50 năm bằng cách sử dụng các vật liệu truyền
thống như thép, bê tông cốt thép. Tính toàn vẹn
cấu trúc của các cây cầu này, các cây cầu gần
hết tuổi thọ, đã bị giảm đi rất nhiều do thời tiết,
phương tiện giao thông, hóa chất chống đóng
băng và chế độ duy tu giảm.
Trường đại học này cho biết 17% các cầu ở
Missouri không đủ khả năng chịu tải và không đủ
Hình 2. Phối cảnh cầu Cleveland Innerbelt của HNTB.
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
28 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
nguồn lực có sẵn có để sửa chữa, xây dựng lại
chúng, cùng với các nhà nghiên cứu làm việc để
phát triển các vật liệu mới, rẻ tiền để có thể thay
thế các cấu trúc cũ.
"Một câu nói phổ biến cho các kỹ sư dân
dụng là chúng tôi có thể xây dựng các cây cầu
vĩnh cửu, nhưng chúng tôi không đủ tiền", ông
Jeffery Volz, trợ lý giáo sư về công trình dân
dụng, kiến trúc và môi trường tại Missouri S & T,
nói trong một thông cáo báo chí.
Thiết kế mới hơn đã được kêu gọi để thay
thế bê tông và cốt thép bằng gia cố sợi polyme
(FRP: fiber reinforced polymers). Được xây dựng
với cấu trúc kiểu tổ ong phức tạp, mặt cầu sợi
thủy tinh carbon khỏe, trọng lượng nhẹ và chống
ăn mòn. Mặc dù có tuổi thọ dài và chi phí bảo trì
thấp hơn, cầu gia cố bằng sợi đi kèm với giá
thành cao hơn - gần gấp đôi chi phí so với các
cấu trúc truyền thống bởi vì cấu trúc tổ ong là vô
cùng tốn kém để xây dựng.
Volz nhìn thấy sự phát triển của vật liệu mới
như là một cơ hội tuyệt vời. Sử dụng khoản trợ
cấp trị giá 120.000 Đô la từ Sở Giao thông vận
tải Missouri cùng với khoản tài trợ 60.000 USD
từ Bộ Giao thông Vận tải Mỹ, các nhà nghiên cứu
đang khám phá dùng bọt polyurethane mật độ
cao để loại bỏ sự cần thiết cho các cấu trúc tổ
ong. Được kẹp giữa các lớp RFP, bọt
polyurethane thường được sử dụng trong xe hơi,
máy bay và các tòa nhà chế tạo sẵn.
Volz cho biết: "Chúng tôi đang sử dụng công
thức làm bọt polyurethane để có thể chịu được
sức ép của một bánh xe tải". "Bằng cách thêm
sợi thủy tinh vào bọt polyurethane, chúng có thể
chịu được đến 1.000 psi."
Các tấm panel mặt cầu kẹp giữa sợi FRP và
bọt polyurethane có thể được chế tạo trong nhà
máy và sau đó được vận chuyển đến hiện
trường trên xe kéo. Các tấm panel rất nhẹ do đó
có thể được thực hiện chỉ với hai người.
"Các tấm panel bọt và FRP có giá chi phí
tương tự như bê tông nhưng có tuổi thọ vĩnh
cửu", Volz nói. "Nó sẽ tồn tại cho đến khi chúng
ta có xe bay và không cần cầu nữa."
Giá trị hiện đại
Những cây cầu hiện đại thực sự còn được
thiết kế để làm việc trong sự hòa hợp với môi
trường.
HNTB đã thiết kế cầu Happy Hollow Park và
Zoo Pedestrian ở San Jose, California, là một ví
dụ về thiết kế hiệu quả, bảo đảm nguồn lực bị
hạn chế. Cây cầu sử dụng vật liệu tiêu chuẩn, số
lượng tối thiểu về kích cỡ vật liệu và tính đối
xứng gấp tám lần. Chỉ có hai bộ phận cầu thép
cán (một cho các sườn vòm và một cho phần
dầm liên kết và giằng chéo) và chỉ có một kích
thước cáp được sử dụng cho cả hai cầu. Thép
chống ăn mòn không sơn loại bỏ sự cần thiết
phải sơn và bảo dưỡng sơn cho suốt cuộc đời
của cây cầu.
Tổ hợp HNTB đã làm việc chặt chẽ với Sở
Giao thông Vận tải New York kết hợp bền vững
môi trường trong một dự án bước ngoặt: Cầu
Lake Champlain ở Crown Point, NY. Cầu được
thiết kế bởi Theodore P. Zoli, là một sự thay thế
cho cây cầu cũ đã bị đóng đột xuất năm 2009 do
phát hiện thấy sự xuống cấp nghiêm trọng. Cây
cầu thay thế được xây dựng tại cùng một vị trí và
thông xe vào tháng Mười, 2011.
Là đường dẫn chính giữa New York và
Vermont, đi qua các khu vực nhạy cảm về môi
trường và văn hóa cao. Một bến phà tạm thời
được xây dựng để phà có thể được sử dụng
trong quá trình xây dựng cầu, loại bỏ giao thông
đường vòng gần 100-dặm. Công trình này được
thực hiện mà không cần có bảo lãnh sự xâm
phạm vào môi trường, trong khi bảo vệ và bảo
tồn các di tích lịch sử.
"Chúng tôi hoan nghênh NYSDOT cam kết
xây dựng lại và duy trì hệ thống giao thông vận
tải của chúng ta một cách bền vững, công nhận
sự cần thiết phải giảm carbon trong giao thông
vận tải và giữ gìn môi trường xung quanh tự
nhiên của chúng ta," Peter Melewski, phó chủ
tịch và lãnh đạo văn phòng Albany của HNTB nói
trong một buổi họp báo■
Nguồn: Gostructural.com
XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG – INFRUSTRUCTURE CONSTRUCTION
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 29
MỘT KẾT CẤU LAI CẢI TIẾN Lê Văn Điệu dịch
Thay thế cầu bắc qua sông Quinnipiac là
phần thứ sáu trong bảy phần của Chương trình
cải thiện hành lang qua New Haven Harbor I-95
(NHHC), một trong những sáng kiến cải thiện vận
tải đa phương thức lớn nhất trong lịch sử
Connecticut.
Nhóm dự án có thêm chút riêng của họ vào
lịch sử tiến trình bằng cách làm mới, cầu lai đầu
tiên được hoàn thành ở Hoa Kỳ và là cầu thứ ba
ở Bắc Mỹ.
Một số hạn chế đã tạo ra cấu hình sáng tạo
cần thiết. Điều đầu tiên và cũng là quan trọng
nhất, cây cầu mới phải kết nối với cầu vượt I-91,
dẫn đến đề xuất một thiết kế dầm hộp phân đoạn
đúc tại chỗ. Cảng New Haven, liền kề ngay hiện
trường của dự án, đã ném một chìa khoá vào kế
hoạch đó.
"Lúc đó bạn có một cây cầu nhịp dài qua
công trình, chiều cao của dầm hộp sẽ không cho
phép tĩnh không thông thuyền theo yêu cầu‖, ông
Sean Bush, quản lý dự án nói.
Suy nghĩ tiếp theo là một cầu cáp treo truyền
thống, với tháp cao hơn và nâng cao toàn bộ cấu
trúc. Điều này đã nhanh chóng bị bác bỏ, do quy
định của FAA vì xung quanh gần sân bay Tweed
New Haven Regional.
Những yêu cầu xung đột này bỏ lại chút ít hồ
nghi rằng cần một cách tiếp cận lai giữa cầu dầm
và cầu dây văng.
"Họ đã xem xét hai yếu tố của cầu lai, một
hộp thanh mảnh qua sông đáp ứng yêu cầu
thông thuyền và sau đó giữ tháp cầu thấp theo
yêu cầu của hàng không", ông Bush nói.
Hiện nay, việc xây dựng đang ở giai đoạn
thứ 2 của 3 giai đoạn.
Giai đoạn một xây dựng cầu mới hướng bắc
và chuyển giao thông từ cây cầu cũ sang.
Trong giai đoạn hai, xây dựng một cây cầu
tạm thời để kết nối giữa cầu cũ và cầu mới và
định tuyến lại giao thông phía nam. Giai đoạn ba
dự kiến sẽ bắt đầu vào năm sau sẽ tạo ra cây
cầu phía nam mới.
Sau khi hoàn thành, 10 làn xe sẽ được mở cho
giao thông theo hướng Bắc - Nam của New Haven.
Dễ thấy là nhiều làn đường rõ ràng đòi hỏi
một sự mở rộng chiều ngang, nhịp chính, một
dầm hộp phân đoạn đúc sẵn, rộng nhất 108 ft,
chỗ thu hẹp còn 98 ft.
"Theo tôi biết đó là một trong những đoạn
dầm hộp đúc tại chỗ rộng nhất được xây dựng"
ông Bush nói.
Giai đoạn ba sẽ còn nhiều thách thức, theo
đúng tiến độ là rất sít sao đối với phân đoạn đó.
Rất nhiều công việc đã được thực hiện trong giai
đoạn một, bao gồm bệ và móng gần bên dưới
cầu phía nam hiện có.
"Chúng tôi tập trung vào những tháp cầu và
dây cáp xiên, những cái rất ấn tượng", ông Bush
nói, ―Nhưng còn rất nhiều ấn tượng, những công
việc đầy thách thức, đang tiếp tục xảy ra bên
dưới cái bóng của cây cầu hiện tại‖■
Nguồn: R & B
Hình 1. Cầu Conecticut sẽ là nhịp lai đầu tiên ở Mỹ
VẬN TẢI – TRANSPORT
30 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
ĐƢỜNG SẮT CHÂU ÂU MỞ RỘNG TỰ DO HÓA THỊ TRƢỜNG VÀ TĂNG CƢỜNG CHỞ KHÁCH
ĐƢỜNG DÀI XUYÊN BIÊN GIỚI Chu Tiến Ánh
Qua nhiều hình thức tiền thân, Liên minh
châu Âu (EU) đã lần lượt tiến hành nhiều quá
trình hội nhập, trong đó có nhiều nỗ lực về
đường sắt. Sự nghiệp nhất thể hóa đường sắt
của mấy chục quốc gia quả thật rất phức tạp,
trước hết là hạ tầng kết cấu về công trình, viễn
thông, tín hiệu, quy trình, quy tắc an ninh, an
toàn, cũng không hề đơn giản về tập quán, tâm
lý,… để công nhân viên, hành khách có ấn tượng
đi khắp EU vẫn là trong địa giới mình.
Đến năm 2012, lại tiến thêm một bước nữa
là triển khai các dịch vụ chở khách đường dài do
các doanh nghiệp vận tải nước ngoài thực hiện,
tức là đảm bảo cạnh tranh bình đẳng giữa đường
sắt các quốc gia thành viên, đồng thời tạo thuận
lợi cho du khách tùy ý lựa chọn và đơn giản các
thủ tục xuất nhập.
Cuối năm 2012, tại CHLB Đức sẽ cho phép
doanh nghiệp vận tải HKX (Liên doanh giữa
Railroad Development Corporation (RDC) Hoa
Kỳ, Locomore Rail, Đức, v.v..), cùng với Tập
đoàn đường sắt DB của Đức làm dịch vụ chở
khách trực thông nhiều tuyến hiện rất đông
khách, như tuyến Hamburg – Kohn – Express.
Có ý kiến e ngại thế thì sẽ mở toang thị trường
vận tải khiến áp lực cạnh tranh quá mạnh. Song
nhiều người thẳng thắn phản bác, cho biết ở
Vương quốc Anh, nhờ truyền thống lâu đời về tự
do kinh doanh nên đã có đông đảo doanh nghiệp
cạnh tranh nhau, thế mà chất lượng phục vụ vẫn
tốt với sự hài lòng của hành khách. Thời gian
đầu, HKX mỗi ngày chạy 3 đoàn tàu từ Hamburg
đến Kohn (tức là Cologne), qua Mumster, Essen,
Duseldorf, thời lượng 4 giờ 4 phút. Còn chuyến
nhanh nhất của DB hết 4 giờ 2 phút. Mỗi đoàn có
5 toa Basic và một toa Premium.
Hãng HKX sẽ thực hiện những dịch vụ khác
biệt chút ít với DB, như cước phí thấp hơn,
khách đăng ký trước được hưởng giá vé rẻ,
khoang chứa xe đạp rộng hơn, các toa đều có
wi-fi, vé hạng Premium hưởng bữa ăn miễn phí,
đặc biệt là thái độ của nhân viên rất chu đáo với
hành khách. Tập đoàn DB quả thật cũng tỏ thái
độ hỗ trợ HKX đối với một vài khâu dịch vụ, song
đôi bên vẫn là cạnh tranh nhau để thu hút khách,
một nét cốt lõi của tự do hóa thị trường.
VẬN TẢI – TRANSPORT
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 31
Cuối năm 2011, đường sắt Cộng hòa Czech
cũng mở rộng dịch vụ chở khách sang nước láng
giềng Slovakia và sắp tới sẽ còn thực hiện các
hành trình xa hơn nữa. Hãng vận tải Regiojet
trong 2 tháng gần đây đã bán được 10 vạn vé,
con số này có ý nghĩa rất đáng lạc quan giữa
thời buổi kinh tế khó khăn hiện nay, chắc chắn
nhờ giá vé hợp lý và thái độ thân thiện với hành
khách. Hãng Regiojet đã trở thành doanh nghiệp
nước ngoài đông khách nhất Trung Âu, với mỗi
ngày 5 chuyến trên hành lang Praha – Olomouch
– Ostrava và còn vươn đến Harrov, Silina ở
Slovakia. Thời lượng của Rejiojet kéo dài hơn
tàu Pendolilot của hãng CD nhưng toa nào cũng
có nhân viên phục vụ báo chí, internet, đồ giải
khát miễn phí.
Gần đây nhất, 2 doanh nghiệp CD và
Regiojet thêm đối thủ cạnh tranh thứ ba là Leo
Espress trên tuyến Praha – Ostrava. Doanh nhân
Leos Novotny vận hành 5 đoàn tàu điện, mỗi
đoàn 5 toa.
Hãng Jegiojet cuối năm 2011 đã biết tàu
chạy các đoàn tàu mới trên hành trình từ thủ đô
Praha đến Prno là thành phố lớn thứ hai của
Cộng hòa Czech. Hãng CD cũng tái trang bị các
phương tiện hiện đại. Ngày 30 tháng Chín 2011
hãng CD đã ký hợp đồng mua 16 đoàn tàu
Railjet do Tập đoàn Ciemens sản xuất, vận tốc
230 km/h. Đây là tàu kéo – đẩy gần 7 toa với đầu
máy Skoda kiểu 380 mới. Vốn đầu tư lên tới 200
triệu euro sẽ mang lại cho CD chất lượng cao về
chạy tàu từ năm 2014 vốn đã được các nước
láng giềng chấp nhận về dịch vụ hành khách liên
vận. Các doanh nghiệp này tích cực tranh thủ thị
phần cao với các khoản ưu đãi từ nước ngoài,
như cả CD và Rejiojet đều thương lượng với DB
thực hiện dịch vụt trên tuyến Praha – Berlin –
Hamburg, Rejiojet được chuyển nhượng dịch vụ
9 năm trên tuyến Pratislava – Conbarns bằng 9
tàu điêden loại Bombardier Talent.
Thật là quá sôi động trong việc giành lấy thị
phần cao ở nước ngoài, nhưng kinh doanh bất
cứ ngành nào thì trước sau vẫn phải có lợi
nhuận để thu hồi vốn đầu tư. Các đối thủ cạnh
tranh cần phải đổi mới chiến lược hoạt động,
nhất là tránh bỏ qua thị trường nội địa trong xu
thế thị trường tự do hóa đang nổi lên mạnh mẽ ở
khu vực này■
Nguồn: IRI
THÀNH PHỐ NOTTINGHAM (VƢƠNG QUỐC ANH)
MẠNH DẠN ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN VẬN TẢI CÔNG CỘNG
Chu Tiến Ánh
Sau khi khôi phục đường tàu điện được 8
năm từ các phố nội thành, Nottingham bắt đầu
xây dựng Tuyến 1 nối tiếp đến các địa bàn cao
và dốc bằng tuyến đường sắt nhẹ bao quanh ga
chính của thành phố. Từ vị trí đó, tuyến này tạo
ấn tượng nối dài thêm trên tuyến Đường sắt
trung tâm chạy suốt từ Nottingham đến thủ đô
Luân Đôn qua ga Midland ở địa điểm ấy trước
đây đã nằm trên tuyến trung tâm nhưng từ lâu đã
không hoạt động. Dự án làm nền để đặt ray vượt
qua một ga nữa để tàu điện thông qua tới phía
Nam và phía Tây thành phố. Đến cuối năm 2014,
NET (Hệ thống tàu nhanh Nottingham‖
(Nottingham Express Transit) giai đoạn 2 sẽ có
chiều dài hơn gấp đôi với 17 km tuyến làm mới
và 27 ga mới.
Tháng 12/2011, Hội đồng thành phố đã phê
chuẩn hợp đồng Dự án tàu điện của Nottingham
trong thời hạn 23 năm, bao gồm thiết kế, xây
dựng, cung cấp tài chính, vận hành và kiêm
nhiệm các đoạn tuyến mới kể cả Tuyến 1. Hội
đồng cũng chấp thuận tiếp tục duy trì cơ chế.
Sáng kiến tài chính tư nhân (PFI) đối với kết cấu
Tuyến đã khai trương từ tháng Ba 2004. Chế độ
tài chính này đã đáp ứng yêu cầu của tín dụng
ngân hàng cũng như các quy định của hợp đồng
VẬN TẢI – TRANSPORT
32 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
chuyển nhượng dài hạn. Thật ra, nội dung ấy vốn
đã quen thuộc với mọi người và chắc hẳn sẽ
được tái lập khi thực hiện giai đoạn 2.
Một tiêu điểm trọng yếu của Dự án là làm
sao giảm thiểu rủi ro để hạ thấp giá thành. Đây
quả thật là yêu cầu sinh tử đối với dự án mà hiện
tại vẫn phải khó khăn lắm mới tranh thủ được
các khoản tài trợ của chính quyền trong thời buổi
kinh tế khó khăn này.Có ý kiến nhấn mạnh nên
chỉnh sửa một số bộ phận trong đồ án thiết kế
như lập các đồ án định hình làm quy chuẩn để
các nhà thầu tin chắc sẽ giảm bớt rủi ro chi tiêu
khi thi công nhằm rốt cuộc hạ được phí tổn.
Chính phủ Anh cấp cho công trình này 371
triệu Bảng, PFI góp 66% dự toán và ngân sách
địa phương đài thọ 34%, đa phần sẽ thu từ lệ phí
đỗ xe. Chủ đầu tư dự tính việc định hình hóa một
số kết cấu công trình sẽ thu hút các doanh
nghiệp dự thầu nhờ đồ án thiết kế loại này sẽ
tiềm ẩn một số khả năng tiết kiệm chi phí.
Bắt đầu từ tháng Tư 2012, đã thi hành chế
độ cấp vốn cho NET giai đoạn 2 và trang trải các
khoản cải thiện khác về chất lượng vận tải công
cộng. Nottingham là đô thị đầu tiên của Vương
quốc Anh tiến hành chế độ thu lệ phí đỗ xe mang
tên WPL (Work place parking levy = WPL). Thực
chất của sắc thuế này là đánh vào những công ty
sẽ chiếm dụng từ 11 điểm đỗ trở lên phải nộp
mỗi chỗ lệ phí hàng năm 288 bảng Anh. Với mức
lệ phí ấy, thì trong thời gian chuyển nhượng
đường tàu điện, doanh nghiệp phải nộp cho ngân
sách chừng 14 triệu bảng trong 23 năm hợp
đồng. Hiệp tại, Nottingham đã thực thi nhiều chế
độ rất đa dạng và mức lệ phí WPL như vậy, có lẽ
cách nghĩ này cũng được mọi người tán đồng để
thành phố sở tại thêm phương tiện tài chính giúp
cho Nottingham có bộ mặt khả quan đáng kể so
với các đô thị châu Âu. Vả chăng, giải pháp thu
phí này cũng rất công bằng, vì doanh nghiệp
nhận thầu đều phải thường xuyên cần đủ mặt
bằng để làm công địa bố trí máy và thực hiện tác
nghiệp của mình. Một số địa phương khác đã bắt
đầu chủ trương cơ chế thu phí này, như Bristol ở
Anh, nhưng sơ đồ thực thi có đôi chút khác biệt
với Nottingham.
Tuyến 2 dài 7,5 km chạy về phía Nam,
Tuyến 3 dài 8,8 km và chạy về phía Tây. Cả hai
tuyến sẽ chạy tàu mỗi giờ 8 chuyến một chiều.
Với sự xuất hiện của loại hình đường sắt nhẹ,
các doanh nghiệp ô tô buýt sẽ điều chỉnh
phương tiện vận tải và trang bị, nhưng hai loại
hình này chắc không cạnh tranh khách của nhau,
mà có lẽ tổng số lượt khách của hai bên gộp lại
sẽ gia tăng như kinh nghiệm thực tế ở Tuyến 1
đã khẳng định mà nguyên nhân chính là nâng
cao tiện nghi vận tải. Sắp tới, các đoạn nội thành
VẬN TẢI – TRANSPORT
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 33
sẽ chạy mỗi giờ 16 chuyến. Các tuyến mới sẽ kết
hợp với Tuyến 1.
Việc xây dựng công trình để phục vụ các
Tuyến mới triển khai ngay từ tháng Giêng 2012,
dự kiến đầu năm 2013 sẽ khởi công đặt đường.
Theo hợp đồng, các bên cam kết hoàn tất việc thi
công, kiểm định, nghiệm thu Tuyến 2 sau năm ký
kết 3 năm, tức là đến tháng Chạp 2014 sẽ đưa
vào vận hành phục vụ công chúng.
Để bảo đảm kịp thời chạy tàu đúng hạn định,
hãng Alstom là đối tác của Tập đoàn chủ trì này
sẽ cung ứng 22 đoàn tàu Citadis chạy đường sắt
nhẹ với giá trị hợp đồng 294 triệu bảng, trong đó
có 101 triệu đảm nhiệm trọn gói các chi phí bảo
trì và tu bổ các đoàn tàu mới và các đoàn đã lăn
bánh gồm 15 đoàn tàu đường sắt nhẹ
Bombardier Incentro. Các đoàn toa Citadis mỗi
toa dài 32,6m được lắp ráp tại nhà máy Santa
Perpetua gần thành phố Barcelona. Mỗi toa bố trí
57 ghế và chỗ đứng cho 143 khách. Những toa
đầu tiên của hãng Alstom được bàn giao cuối
năm 2013 sẽ tham gia vận hành ngay tại Tuyến 1
ngay trước khi khai trương Tuyến 2 và 3.
Nottingham ước tính đến giai đoạn 2 sẽ chở
được hơn hai lần số lượt khách hiện tại, tức là
mỗi năm 10 triệu lượt khách và phục vụ mỗi năm
3 triệu hành trình.
Những tuyến mới sẽ chuyên chở gần 30%
dân số của thành phố và phục vụ 20 trong 30
doanh nghiệp lớn nhất đóng tại phạm vi 800m
các tuyến đường sắt nhẹ■
Nguồn: IRJ
Phối cảnh một cây cầu trên tuyến 3 qua Cliffton Boulevard
KHAI THÁC VÀ BẢO TRÌ –OPERATION AND MAINTAINANCE
34 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
THEO DÕI TẢI TRỌNG XE Trần Mạnh Khải dịch
Một trạm theo dõi tải trọng tự động cải thiện
an toàn giao thông và hiệu quả như thế nào.
Trạm kiểm tra xe thương mại (CVIS:
commercial vehicle inspection station) St George,
Nam Carolina là một trong những cơ sở kiểm tra
xe tự động tiên tiến nhất về loại này ở Đông Nam
Hoa Kỳ. Trạm tự động hiển thị xe thương mại
theo trọng lượng, kích thước và các chứng nhận
qua cửa sổ trao đổi thông tin xe thương mại
(CVIEW) Nam Carolina. Với hơn 26.000 xe
thương mại sử dụng phương tiện mỗi tuần, hiệu
quả được cung cấp bởi hệ thống hiển thị tự động
là cần thiết để ngăn ngừa sự chậm trễ trong khi
đảm bảo tất cả các xe đáp ứng các quy định và
tiêu chuẩn an toàn.
Trạm St. George sử dụng hệ thống hiển thị của
IRD, hệ thống này tích hợp một camera tự động
nhận dạng biển số xe (ANPR: automatic
numberplate recognition) và các cảm biến đo tải
trọng xe trong khi đang chuyển động (WIM: weigh-
in-motion) để phân loại xe trên đường chính, cộng
thêm các cảm biến WIM để phân loại xe trên đoạn
đường phụ và một cân tĩnh cho các mục đích cưỡng
chế. Giao diện cảm biến thông minh và điều khiển
mạng lưới (iSINC: Intelligent Sensor INterface and
Network Controller) của IRD là một thành phần quan
trọng của hệ thống, cho phép tích hợp cảm biến
WIM, camera ANPR và các thành phần khác, bao
gồm cả các máy trạm IRD cung cấp một đài chỉ huy
thời gian thực cho các nhân viên thực thi nhà nước.
Hệ thống WIM cung cấp trọng lượng trục và
tổng trọng lượng xe (GVW: gross vehicle weight),
khoảng cách trục, chiều dài xe và tốc độ. Với
thông tin này, hệ thống có thể xác định cấp tải
trọng của xe và so sánh trọng lượng đo được với
những gì được phép cho cấp đó để xác định xem
chiếc xe có phù hợp quy định.
Kiểm tra tự động và ghi lại
Hệ thống ANPR tự động đọc biển số của
mỗi chiếc xe đi qua và chuyển đến cơ sở dữ liệu
CVIEW bang: Commercial Vehicle Information
Exchange Window để kiểm tra cho các vấn đề về
sự phù hợp và an toàn. Khi một phương tiện đi
ngang qua cảm biến WIM, iSINC tạo ra một bản
ghi chiếc xe bao gồm trọng lượng và kích thước
xe, thời gian, ngày, thông tin chiều cao vươt quá
(overheight), số làn đường, bất kỳ hành vi vi
phạm, quyết định phân loại (Báo cáo hoặc bỏ
qua) và bất kỳ cảnh báo hoặc phát hiện sai sót.
Một camera quay phía cạnh xe có khả năng làm
việc cả ngày (màu) và đêm (Đen và trắng) sẽ
thêm một bức ảnh của chiếc xe tải vào bản ghi
Hình 1. Xe tải đến gần trạm kiểm tra George St.
KHAI THÁC VÀ BẢO TRÌ –OPERATION AND MAINTAINANCE
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 35
xe và camera NPR cho biết thêm các dữ liệu
biển số xe. Cuối cùng, một chỉ dấu của tín hiệu
đường chính báo cho xe là đã được ghi lại.
Bằng cách so sánh trọng lượng trục đơn,
trọng lượng nhóm trục xe, tải trọng tính toán và
tổng trọng lượng xe với trọng lượng tối đa cho
phép của cấp loại xe, hệ thống xác định chiếc xe
đang bị thừa cân hoặc nếu có một vi phạm kích
thước và cờ hiệu xe cho phù hợp.
Ngoài ra, một máy dò chiều cao vượt quá
được sử dụng để kiểm tra đối với các hành vi vi
phạm chiều cao. Sử dụng trọng lượng, kích
thước và CVIEW/SAFER đánh giá tình trạng phù
hợp của chiếc xe, iSINC làm các quyết định phân
loại: xe có thể vi phạm được chỉ thị phải báo cáo
kiểm tra kỹ càng hơn và phương tiện phù hợp bỏ
qua quá trình kiểm tra và trở về đường cao tốc.
Đối với những chiếc xe mà cần tiếp tục kiểm tra,
vi phạm tiềm ẩn được tô đậm trên máy trạm để
các nhân viên thực thi có thể tập trung vào các vi
phạm tiềm ẩn một cách hiệu quả nhất có thể.
Hệ thống điều khiển giao thông phụ của IRD
tự động theo dõi xe thông qua và xe đi thẳng qua
trạm kiểm tra.
Nếu một chiếc xe được báo cáo là hướng
đến trạm cân tĩnh vì tải trọng phụ, tín hiệu thông
báo có nội dung thay đổi (bảng chữ điện tử)
(VMS) hướng dẫn nó tới đúng vị trí trên cân tĩnh
và ra lệnh tạm dừng. Bản ghi chiếc xe sau đó
được cập nhật cùng với trọng lượng cân tĩnh và
hệ thống thực hiện kiểm tra sự phù hợp yêu cầu.
Hệ thống này cũng kiểm tra về vi phạm
chiều dài xe tiềm ẩn. Phần lớn các bang của Mỹ
hạn chế chiều dài của xe thương mại.
Chiều dài cho phép thay đổi theo thẩm
quyền và thường được đo từ kingpin tới nhóm
trục sau. Khi một nhóm trục được phát hiện là
ngoài quy định, hệ thống cảnh báo các người
vận hành về hành vi vi phạm kingpin tiềm năng
rằng kiểm tra thêm giấy chứng nhận đi đường.
Hiển thị trạm kiểm tra
Nhân viên thi hành kiểm soát tất cả các hoạt
động thông qua một giao diện dựa trên Windows
tại máy trạm. Mỗi hồ sơ xe được gửi từ iSINC tới
máy tính trạm kiểm tra và được hiển thị trên máy
trạm. Nếu vi phạm được phát hiện, nhân viên
được thông báo thông qua giao diện đồ họa và
cảnh báo âm thanh.
Sau khi cảnh báo nhân viên, hệ thống sẽ giữ xe
vì thời gian giữ xe cho các trường hợp ngoại lệ đã
được cấu hình, trước khi hướng dẫn cho xe đi ra,
làm như vậy để cung cấp thời gian cho nhân viên có
hành động; thường là để chọn một lệnh VMS để báo
hiệu cho người lái xe phải làm gì tiếp theo. Nếu xe
phù hợp, VMS tự động cung cấp một thông báo
'EXIT', cho phép xe rời đi. Các chức năng hoàn toàn
tự động sẽ giải phóng xe sau khi cảnh báo âm thanh
trong khoảng thời gian giới hạn cài đặt trước để
ngăn chặn sự dồn ứ nếu người vận hành đang bận
rộn với các xe khác. Khối lượng lớn xe thương mại
lưu thông trên hành lang giao thông chính thể hiện
một thách thức cho cơ quan quản lý vì nguồn lực có
giới hạn để thực thi quy định về tải trọng và an toàn.
Trạm tự động kiểm tra của IRD cung cấp một giải
pháp hiệu quả trong khi duy trì nhân viên thực thi
giám sát pháp luật. Chấp nhận một cách rộng rãi hệ
thống như vậy sẽ cho phép các cơ quan quản lý tập
trung nỗ lực của họ và giúp hoạt động xe thương
mại an toàn hơn, hiệu quả hơn.
Hình 2. Một bản ghi chi tiết hình ảnh nhìn từ phía
cạnh xe và hình ảnh NPR cùng với các vi phạm
có thể xảy ra
Nguồn: Intertraffic World
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
36 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
CẤU TRÚC ĐÔ THỊ TP. HCM VÀ CÁC NGUYÊN NHÂN TÁC ĐỘNG GIA TĂNG SỬ DỤNG XE GẮN MÁY –
THỬ TÌM MỐI QUAN HỆ
TS. Dƣ Phƣớc Tân
Trưởng phòng Nghiên cứu quản lý Đô thị
Viện Nghiên cứu phát triển TPHCM
Tóm tắt:
Số lượng xe cá nhân ngày càng gia tăng,
cùng với sự phát triển còn khiêm tốn của xe buýt
dẫn đến diện tích đường giao thông sử dụng tại
TPHCM ngày càng thu hẹp. Bên cạnh một số
khu đô thị phát triển theo tiêu chuẩn đề ra, nhìn
chung, sự phát triển đô thị TPHCM vẫn còn
mang tính tự phát, với đặc điểm thù nhà ở,
đường sá đi lại, mật độ hẻm chằng chịt ở mọi
nơi, rất thuận tiện để sử dụng xe gắn máy. Kết
quả nghiên cứu từ báo cáo này đã chỉ rõ, chính
nguyên nhân do công tác quản lý (theo hướng
khuyến khích phát triển xe máy) đã góp phần làm
gia tăng xe máy nhanh chóng trong thời gian
qua, cùng với hệ quả của đặc điểm cấu trúc đô
thị TPHCM (nhà ở hỗn hợp khu kinh doanh,
đường sá đi lại...) và đồng thời do đặc điểm hoạt
động kinh tế (phi chính quy) tại TPHCM đã gây ra
sự gia tăng xe máy đến mức chóng mặt như hiện
nay.
Điểm đáng lưu ý là nguyên nhân do đặc
điểm phương tiện xe máy và do đặc điểm hoạt
động của phương tiện VTHKCC chưa đáp ứng,
chỉ được xếp hạng thứ 4 và 5 trong tổng số các
nguyên nhân. Điều này cho thấy giải pháp tăng
cường phát triển VTHKCC chỉ là một trong các
giải pháp để góp phần hạn chế xe cá nhân, bên
cạnh đó cần tiến hành giải pháp chấn chỉnh lại
công tác quản lý xe máy, nghiên cứu giải pháp
tái cấu trúc lại đô thị, giảm bớt sự phụ thuộc vào
xe máy, cần được quan tâm đúng mức hiên nay.
I. PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC ĐÔ THỊ
TPHCM
Chúng ta biết rằng, đô thị được xem như là
một hệ thống. Mỗi hệ thống luôn gắn liền với
hình thức tổ chức nhất định của các khu chức
năng. Cấu trúc đô thị chính là bộ khung góp phần
quan trọng trong việc hình thành và phát triển đô
thị. Thành phần cấu tạo nên cấu trúc đô thị bao
gồm (1) Hệ thống giao thông đô thị và (2) Hệ
thống các khu chức năng trong đô thị (các đơn vị
chức năng đô thị được bố trí thành hệ thống).
1.1. Nhận diện cấu trúc đô thị TPHCM
Trong phạm vi bài viết này, xin được đề cập
đến hệ thống giao thông đô thị. Chính hệ thống
giao thông có vai trò quan trọng trong việc định
hình bộ khung chính cấu trúc đô thị và có vai trò
định hướng cho các hệ thống hạ tầng kỹ thuật
khác. Trong cấu trúc đô thị, hệ thống giao thông
giữa vai trò liên kết các khu vực chức năng và
tạo thành một hành lang kỹ thuật mà trên đó bố
trí hầu hết các công trình của hệ thống kỹ thuật
hạ tầng khác.
Giao thông đô thị bao gồm hệ thống giao
thông đối nội (là giao thông bên trong đô thị -
giao thông đường phố, có mối quan hệ chặt chẽ
với hệ thông giao thông đối ngoại qua các nhà
ga, bến cảng, bến xe, các đầu mối giao thông ở
các đường vào đô thị) và giao thông đối ngoại (là
giao thông đối ngoại bao gồm mối liên hệ giữa đô
thị với bên ngoài như: với các đô thị khác, với
các khu công nghiệp tập trung, khu nghỉ ngơi giải
trí và bao gồm: Giao thông đường thuỷ, giao
thông đường sắt, giao thông đường bộ và giao
thông đường hàng không.
Các dạng mạng lƣới giao thông đô thị
trong cấu trúc đô thị bao gồm:
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 37
a. Dạng ô cờ và ô cờ có đường chéo: dạng
này thường có tính đơn giản, thích hợp với các
cấu trúc đô thị nhỏ hoặc các khu vực chức năng
trong đô thị, có tính định hướng giao thông không
cao, nhưng khả năng phân tán dòng người dễ
dàng.
Khả năng di chuyển không nhanh nhưng ít
có nguy cơ bị ách tắc giao thông. Một số đô thị
lớn (đặc biệt ở Mỹ ) sử dụng dạng này với sự kết
hợp các tuyến đường chéo có năng lực vận
chuyển rất lớn. Dạng đường ô cờ và ô cờ có
đương chéo thường được tổ chức trong các khu
vực chức năng, các loại đường khu vực và nội
bộ thường được tổ chức theo dạng này. Chúng
ta có thể nhận diện mạng lưới ô cờ tại một số
tuyến đường thuộc địa bàn Quận 1,3 (khu lõi
trung tâm) như tuyến Lê Quí Đôn, Tú Xương,
Phạm Ngọc Thạch, Điện Biên Phủ v.v…
Hình 1- Sơ đồ mạng lưới ô cờ và ô cờ có đường
chéo
b. Dạng mạng lưới đường hướng tâm và
hướng tâm có đường bao: là những dạng mạng
lưới đường phù hợp với các cấu trúc đô thị có
trung tâm tập trung và các trục đường chính đô
thị đảm nhận nhiệm vụ phân chia các khu vực
chức năng đô thị. Các đô thị trung bình không
lớn lắm có vai trò liên kết với các khu vực trong
vùng thường có dạng mạng lưới đường dạng
này.
c. Riêng trường hợp TPHCM, do lõi trung
tâm thường tập trung dạng ô đường bàn cờ và
bên ngoài có các trục hướng tâm và đường vành
đai, do vậy, xét về tổng thể chung, cấu trúc giao
thông đô thị TPHCM mang dáng dấp mạng lưới
đường hướng tâm có đường bao (đường vành
đai nhưng đứt đoạn).
Hình 2- Sơ đồ mạng lưới hướng tâm và hướng
tâm có đường bao ( vành đai )
Hình 3- Sơ đồ mạng lưới đường ô cờ (trung tâm)
và đường hướng tâm có đường bao
1.2. Cấu trúc đô thị TPHCM phát triển theo
cấu trúc hình tia hƣớng tâm & tự phát
Cấu trúc đô thị phải đi trước một bước, để
khi đề xuất phân bố chức năng, hệ thống trung
tâm và dạng liên kết giữa chúng, sao cho phù
hợp. Thực tế phát triển TPHCM từ năm 1990 đến
nay cho thấy, TPHCM vẫn chủ yếu phát triển
theo cấu trúc hình tia hướng tâm, qua nhiều giai
đoạn phát triển. Theo cấu trúc này, đô thị
TPHCM được phát triển theo dạng ô cờ kết hợp
hình tia.
Phần trung tâm TPHCM (như các tuyến
đường Quận 1, Quận 3) có dạng ô cờ để tránh
ùn tắc giao thông, phần biên có các trục hướng
tâm, với bán kính nhỏ, vừa đủ cho hoạt động của
dân số khoảng 1-2 triệu người. Trước năm 1975,
dân số TPHCM còn thấp, cấu trúc này đã hỗ trợ
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
38 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
hoạt động tốt, xe máy ít và rất ít ùn tắc giao
thông.
Sau khi có chính sách đổi mới kinh tế vào
năm 1986, cùng với kinh tế cả nước phát triển,
tốc độ đô thị hóa TPHCM phát triển rất nhanh
vào những năm 1995, đã dẫn đến việc mở rộng
nội thị 2 lần vào năm 1997 (5 quận mới) và 2003
(quận mới Bình Tân). Qua các lần điều chỉnh quy
hoạch, các đường vành đai đã được quy hoạch
mở rộng thêm các tuyến như vành đai 1,2,3. Như
vậy, TPHCM thực chất vẫn mở rộng theo cấu
trúc đô thị hình tia, hướng tâm và đường vành
đai (đứt đoạn), giữ dạng ô cờ ở khu lõi trung tâm.
Hình 4- Sơ đồ minh họa, khái quát về cấu trúc đô thị TPHCM qua 2 giai đoạn
Tuy nhiên, do khu vực dạng ô cờ chiếm tỷ lệ
nhỏ so với toàn bộ diện tích khu đô thị mở rộng,
tạo nên sự mất cân đối về cấu trúc đô thị, trong
khi các tuyến đường ở khu đô thị mới hầu như
phát triển tự phát (không theo quy hoạch đường
nội bộ dạng ô cờ, trừ một số khu đô thị mới), đã
dẫn đến cấu trúc mới hoạt động không tốt, bắt
đầu có hiện tượng ùn tắc giao thông vào những
năm 2003-2005. Cũng từ đặc điểm trên, có thể ví
như cấu trúc đô thị mới đã phát triển theo dạng
lát cắt hình ―bánh tét‖ (bên trong là lõi trung tâm
với đường sá quy hoạch tốt, bên ngoài là các
mạng lưới tuyến đường tự phát ở các khu dân
cư mới) đã dẫn đến việc khó bố trí hệ thống giao
thông cộng cộng sao cho thích ứng với nhu cầu
đi lại giữa các khu cũ và khu mới.
Từ đó, xe gắn máy vẫn là ―cứu cánh‖ trong
bối cảnh cấu trúc đô thị ví như hình lát cắt ―bánh
tét‖ nêu trên. Nói khác đi, nhân ―bánh tét‖ bị nhỏ
dần so với quy mô toàn bộ diện tích mở rộng ra,
dẫn đến mục tiêu tiếp cận nhanh nhất đến lõi
trung tâm đô thị bị hạn chế rất nhiều. Chính các
điểm nút giao cắt giữa đường hướng tâm và
đường vành đai trong bối cảnh đường vành đai
chưa khép kín đã gia tăng lưu lượng đi lại ở các
nút này vào khu trung tâm.
Thực tế cho thấy, chính các tuyến đường
vành đai và các trục xuyên tâm đã góp phần định
hình cấu trúc giao thông và cấu trúc đô thị
TPHCM. Mạng lưới này không chỉ có ý nghĩa về
giao thông đơn thuần mà còn là đường ranh giới
khống chế để đô thị phát triển theo quy hoạch.
Mặc dù thành phố đã có nỗ lực hình thành quy
hoạch mạng lưới giao thông vành đai từ ban đầu,
nhưng lại thiếu nguồn vốn đầu tư kịp thời để
khép kín tuyến đường vành đai 2 của TPHCM
(như cầu Phú Mỹ mới xây dựng gần đây), đã ảnh
hưởng phần nào đến dòng giao thông vẫn tiếp
tục đi xuyên qua trung tâm thành phố.
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 39
Để giải quyết bài toán về cấu trúc đô thị mất
cân đối nêu trên, việc đầu tư hệ thống giao thông
công cộng (như đường sắt nội đô, tàu điện trên
cao…) để hỗ trợ cho các đường vành đai và
hướng tâm, nhằm giảm áp lực quá tải là điều cần
thiết. Tuy nhiên, do hệ thống xe buýt (vận hành
trên tuyến vành đai và hướng tâm) lại chưa thể
hỗ trợ đắc lực cho nhiệm vụ trên, đã dẫn đến
việc gia tăng xe gắn máy là tất yếu, đáp ứng nhu
cầu đi lại trong cấu trúc đô thị hiện nay.
Số liệu Biểu dưới đây minh họa thêm về sự
phát triển tự phát ở khu vực bên ngoài khu trung
tâm, thông qua tổng chiều dài hẻm quá lớn trong
các khu dân cư.
Ngoại trừ khu vực trung tâm được quy
hoạch tương đối bài bản trước đây, với tổng
chiều dài hẻm ít hơn tổng chiều dài đường là 0,8
lần; các khu vực còn lại hầu như đều có tổng
chiều dài hẻm nhiều hơn gấp 1,6-2,4 lần so với
tổng chiều dài đường chính. Cơ cấu tỷ lệ tổng
Biểu 3: Tốc độ tăng dân số TPHCM phân theo các khu vực khác nhau
Biểu 2: Biến động dân số TPHCM phân theo các khu vực khác nhau
Biểu 1: Chiều dài hẻm (m) và chiều dài các tuyến đƣờng chính (m) phân theo các khu vực phát
triển (do tác giả phân chia)
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
40 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
chiều dài hẻm phân bố cho từng khu vực, cũng
chiếm tỷ lệ lớn dần từ khu vực trung tâm ra các
khu vực bên ngoài.
1.3. Hệ quả kéo theo sự phân bố dân cƣ bất
hợp lý trong hơn 30 năm qua:
Phân tích số liệu tổng điều tra dân số
TPHCM từ 1979 đến nay cho thấy, xu thế giảm
tốc độ tăng dân số bình quân/năm xảy ra ở các
khu vực trung tâm và cận trung tâm, trong khu
các khu vực bên ngoài lại có tốc độ tăng dân số
rất cao (xem Biểu 2 và 3). Sự phát triển dân số
quá nhanh ở khu vực quận mới và ngoại thành,
trong khi hạ tầng giao thông khung chưa chuẩn
bị kịp, đã làm gia tăng các khu dân cư tự phát,
với các con hẻm chằng chịt mà có thể thấy rõ ở
địa bàn Quận Tân Phú, Quận Bình Tân…
Cấu trúc đô thị, phân bố dân cư và phương
tiện đi lại là các vấn đề không thể thiếu được
trong mối quan hệ phát triển đô thị. Vậy thì, thực
trạng của các phương tiện giao thông cá nhân
và phương tiện vận chuyển hành khách công
cộng trong 10 năm qua như thế nào?
Biểu 5: Số liệu đăng ký xe máy và ô tô cá nhân, phân theo 3 khu vực đăng ký từ 1/1/2005 đến
31/10/2010
Biểu 4: Số lƣợng phƣơng tiện xe cá nhân gia tăng qua các năm
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 41
II. SỐ XE CÁ NHÂN (NHẤT LÀ XE MÁY) TẠI
TPHCM ĐÃ TĂNG NHANH TRONG 10 NĂM
QUA, TRONG KHI SỐ XE BUS TĂNG KHÔNG
ĐÁNG KỂ
2.1. Thực trạng gia tăng xe cá nhân trong thời
gian qua:
Theo số liệu Phòng Cảnh sát giao thông
đường bộ, số lượng xe cá nhân ngày càng gia
tăng nhanh chóng. Trong 10 năm qua (từ 2000-
2010), tốc độ gia tăng xe ô tô đạt bình quân
12,8%/năm, trong khi tốc độ này ở xe máy chỉ
đạt bình quân 10,9%/năm. Như vậy, tốc độ gia
tăng xe ô tô có nhanh hơn xe máy trong 10 năm
qua. Tuy nhiên, nếu xét từng giai đoạn 5 năm,
tốc độ tăng xe ô tô có tăng nhanh trong giai đoạn
đầu (2001-2005) đạt bình quân 15,3%/năm và
giảm ở giai đoạn sau (2006-2010) chỉ còn
10,3%/năm. Riêng xe máy tốc độ gia tăng ở 2
giai đoạn là 10,3%/năm và 11,5%/năm tương
ứng. Điều này cho thấy sự gia tăng ở 2 phương
tiện ô tô và xe máy đều có tốc độ tăng khá cao
như nhau, đặc biệt là số lượng xe gắn máy có xu
hướng tăng nhanh, gây áp lực lên hạ tầng giao
thông vốn dĩ đang rất thiếu hiện nay.
Với tốc độ tăng nhanh xe gắn máy và xe ô tô
như trên, nếu không có giải pháp kiểm soát ngay
từ bây giờ, sẽ tác động rất lớn đến tình hình ùn
tắc giao thông hiện nay và sắp tới. Để hình dung
rõ hơn, chúng ta cùng nhau xem xét số liệu xe
máy đã đăng ký trong vòng 5 năm qua. Biểu
dưới đây cho thấy, tỷ trọng số xe gắn máy và xe
ô tô đã đăng ký mới từ 2005-2010 được phân
theo 3 khu vực như sau:
Nhìn chung, khi xem xét xét tổng số xe đã
đăng ký tại TPHCM từ 2005 đến 2010, tỷ trọng
xe ô tô đăng ký có cao hơn xe gắn máy ở khu
vực nội thành hiện hữu (69,9% ô tô trong tổng số
đăng ký toàn thành phố so với tỷ trọng 66,0% xe
gắn máy). Riêng khu vực nội thành phát triển (6
quận mới) đã có tỷ trọng xe gắn máy đăng ký
trong 5 năm qua lại nhiều hơn xe ô tô (tỷ trọng
21,3% xe gắn máy so với tỷ trọng 20,5% xe ô tô).
Hiện tượng này cũng xảy ra tương tự ở các
Huyện ngoại thành, thê hiện tỷ trọng xe gắn máy
đăng ký nhiều hơn (12,7% xe máy so với 9,6%
xe ô tô). Điều này thể hiện nhu cầu sử dụng xe
gắn máy trên thực tế vẫn nhiều hơn xe ô tô, trên
cùng một địa bàn; thậm chí ngay tại địa bàn các
quận mới và các huyện ngoại thành (là nơi có
không gian sống rộng rãi hơn trong nội thành)
vẫn chiếm tỷ trọng xe máy cao hơn.
2.2. Thực trạng phát triển xe buýt trong thời
gian qua:
Mặc dù thành phố có nhiều nỗ lực từ năm
2002 đến nay, tuy nhiên, khối lượng vận chuyển
Biểu 6: Tình hình phát triển xe buýt từ năm 2002 đến nay
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
42 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
hành khách bằng xe buýt gia tăng còn khiêm tốn.
Đến nay, tỷ lệ tham gia vận tải xe buýt chỉ chiếm
khoảng 7,2% trong tổng số.
Phần lớn các tuyến đường trên địa bàn
TPHCM đều có bề rộng hẹp, dòng phương tiện
lưu thông hỗn hợp do không đủ số làn xe cần
thiết, chỉ có khoảng 14% số đường có lòng
đường rộng trên 12m để có thể tổ chức vận
chuyển hành khách bằng xe buýt được thuận lợi;
51% số đường có lòng đường rộng từ 7m đến
12m chỉ phù hợp cho xe ô tô con, xe micro-buýt
lưu thông; 35% số đường còn lại có lòng đường
rộng dưới 7m chỉ phù hợp cho xe hai bánh lưu
thông.
Mạng lưới tuyến xe buýt hiện nay có dạng
hướng tâm nối trực tiếp từ khu vực ngoại vi đến
trung tâm thành phố, đầu mối chính là Bến
Thành. Mạng lưới xe buýt của TP.HCM hiện nay
vẫn chưa đáp ứng. Theo số liệu Sở GTVT, đến
năm 2010 toàn thành phố có trên 151 tuyến xe
buýt (trong đó 113 tuyến có trợ giá và 38 tuyến
không trợ giá), với khoảng 3.000 phương tiện,
vận chuyển khoảng 1,4 triệu lượt khách/ngày.
Như vậy, trong khi phương tiện vận tải hành
khách công cộng chưa thể đáp ứng, người dân
chỉ còn cách lựa chọn phải đi xe gắn máy.
Tuy nhiên, điều nguy hiểm nhất là số lượng
xe máy gia tăng bình quân 11%/năm là đáng báo
động. Do vậy, nếu chúng ta cứ bảo vệ quan điểm
khi nào có đủ phương tiện vận tải hành khách
đảm nhiệm (có thể đến năm 2015) thì chúng ta
mới giảm dần xe máy, e rằng đã quá trễ. Giả sử
với đà gia tăng bình quân chỉ 10%/năm trong
vòng 5 năm tới, ước tính sẽ có đến 7,1 triệu xe
máy hiện diện tại TPHCM.
Để có cơ sở kiểm soát sự gia tăng số lượng
xe máy ngay từ bây giờ, trước tiên cần phân tích
các nguyên nhân đã dẫn đến việc gia tăng xe
máy, đồng thời cần ―lượng hóa‖, xác định xem
nhóm nguyên nhân nào là nguyên nhân trọng
yếu, qua đó tập trung giải pháp xử lý ưu tiên
ngay từ bây giờ.
III. PHÂN TÍCH CÁC NGUYÊN NHÂN DẪN
ĐẾN GIA TĂNG XE MÁY
Sơ đồ 1: Phân tích các nhóm nguyên nhân tác động gia tăng xe máy tại TPHCM
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 43
Sau khi phân tích và tổng quan tài liệu, sơ
đồ khung giả thuyết về các nhóm nguyên nhân
tác động làm gia tăng xe máy được đưa ra bao
gồm 6 nhóm chính như sau:
Để có cơ sở đo lường trọng lượng của từng
nhóm nguyên nhân, tác giả đã thiết kế bảng hỏi
cho điểm theo từng nguyên nhân và đã tiến hành
một cuộc khảo sát, với sự tham gia trả lời của 50
nghiên cứu viên và các cộng tác viên. Có 7 mức
đánh giá cho điểm theo thang điểm như sau:
Chọn số 1: hoàn toàn không đồng ý
Chọn số 2: phần lớn không đông ý
Chọn số 3: phần nào không đồng ý
Chọn số 4: không thiên về quan điểm nào
(trung lập)
Chọn số 5: phần nào đồng ý
Chọn số 6: phần lớn đồng ý
Chọn số 7: hoàn toàn đồng ý
Sau khi thu được, nếu kết quả số điểm >4 sẽ
thiên về quan điểm đồng ý, với mức độ cao thấp
khác nhau tùy theo tổng số điểm thu được và
nếu kết quả Tóm tắt kết quả thu được qua Biểu
sau:
Kết quả tổng hợp cho thấy, trong số các yếu
tố ảnh hưởng đến việc gia tăng phương tiện xe
máy, có đến 6 nhóm nguyên nhân tác động,
được sắp theo thứ tự tác động (từ cao đến thấp)
như sau:
(1)Công tác quản lý xe máy còn quá dễ dãi
(5,92 điểm)
Biểu 7: Kết quả sắp xếp thứ tự ƣu tiên của từng nhóm nguyên nhân
đã ảnh hƣởng gia tăng xe máy
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
44 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
(2)Do đặc điểm cấu trúc đô thị của TPHCM
tạo ra (5,64 điểm)
(3)Do đặc điểm hoạt động kinh tế của (4,92
điểm)
(4)Do đặc điểm phương tiện (4,76 điểm)
(5)Do đặc điểm hoạt động (4,68 điểm)
(6)Do đặc điểm thời tiết thuận lợi đi xe
máy(3,97 điểm)
Như vậy, qua kết quả khảo sát ―lượng hóa‖
cho thấy, nhóm nguyên nhân quan trọng nhất
chính là CÔNG TÁC QUẢN LÝ, kế đến là đặc
điểm CẤU TRÚC ĐÔ THỊ, kế đến là ĐẶC ĐIỂM
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ. Riêng đặc điểm phương
tiện xe máy và đặc điểm giao thông công cộng
đứng hàng thứ 4 và 5. Đặc điểm thời tiết được
cho là không quan trọng và xếp cuối.
Phân tích theo từng nhóm nguyên nhân đã
tác động gia tăng xe máy, bao gồm như sau:
3.1. Nhóm nguyên nhân thứ nhất đƣợc xác
định là do công tác quản lý xe máy hiện nay
còn quá dễ dãi, góp phần gia tăng nhanh xe
máy (đạt 5,92 điểm).
Đây là nhóm nguyên nhân quyết định. Nếu
xét riêng từng yếu tố đã tác động đến nguyên
nhân cho rằng công tác quản lý xe gắn máy còn
quá dễ dãi, chúng ta có thể đánh giá qua các yếu
tố sau:
3.1.1. Xe máy sản xuất nhiều và dễ dàng mua
ở nhiều nơi: (đạt cao nhất trong nhóm này lên
đến 6,00 điểm)
Theo Quyết định số 002/2007/QĐ-BCT của
Bộ Công Thương ngày 29/8/2007 về Phê duyệt
Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp xe máy
Việt Nam giai đoạn 2006-2015, có xét đến năm
2020; Ngành công nghiệp xe máy sẽ phấn đấu
đáp ứng 100% nhu cầu xe thông dụng ở khu vực
nông thôn, 90% xe máy ở khu vực thành thị và
đạt tỷ lệ sản xuất trong nước dòng xe tay ga trên
60%, dòng xe số thông dụng trên 90% đến năm
2015.
Về dự báo như cầu, đến năm 2010, dự báo
lượng xe máy lưu hành trong cả nước khoảng 24
triệu xe, tăng bình quân hàng năm khoảng 2,0 -
2,2 triệu xe/năm; tuy nhiên đến năm 2015, con số
này trong cả nước lên đến 31 triệu xe, tăng bình
quân hàng năm giai đoạn này vào khoảng 2 triệu
xe/năm.
Với chiến lược này, số lượng xe máy ngày
càng gia tăng và người dân rất dễ dàng tiếp cận
để mua xa máy (cũ và mới) và đây cũng là thị
trường khá nhộn nhịp tại TPHCM hầu như quanh
năm. Vào ngày 16/9/2011, Công ty Honda Việt
Nam đã tổ chức lễ chào mừng chiếc xe máy thứ
10 triệu được sản xuất tại Việt Nam. Thử hỏi, với
chiến lược sản xuất quá lớn như vậy, làm thế
nào để giảm bớt số lượng xe máy tại Việt nam,
trong đó có TPHCM?.
3.1.2. Xe máy ngoài tỉnh lƣu hành tràn lan (đạt
5,97 điểm)
Theo qui định hiện nay, xe gắn máy có thể
mang từ các tỉnh đến để lưu thông trên địa bàn
thành phố mà không đóng phí. Vì vậy, số lượng
xe gắn máy có biển số từ các tỉnh đang dần tràn
ngập trên các tuyến đường trong thành phố, gia
tăng cùng với số lượng dân nhập cư đến làm ăn,
học tập và sinh sống. Chính điều này đã góp
phần đáng kể làm gia tăng số lượng sử dụng xe
gắn máy hiện nay.
3.1.3. Thủ tục lấy bằng lái xe máy ở TPHCM
rất dễ dàng (đạt 5,79 điểm).
Đây là nguyên nhân được cho là khá quan
trọng bên cạnh 2 nguyên nhân nêu trên. Thực tế
cho thấy, lấy bằng lái xe gắn máy ở Việt nam rất
dễ dàng mặc dù qua rất nhiều thủ tục, nên bất kỳ
người nào cũng lấy được bằng lái dễ dàng để sử
dụng xe gắn máy.
Theo số liệu Sở GTVT TP HCM, trong năm
2010 số lượng giấy phép điều khiển xe máy đã
cấp mới trên địa bàn thành phố là 162.849 giấy
(trong khi xe hơi chỉ đạt 89.655 giấy phép các
hạng).
Nếu tính cả số lượng giấy phép lái xe cấp
đổi, gia hạn, tổng cộng trong năm 2010 TP HCM
đã cấp ra 258.966 giấy phép lái xe môtô; 207.774
giấy phép lái xe môtô các hạng. Bên cạnh đó, do
quy định xe gắn máy dưới 50 phân khối không
cần bằng lái, đã tạo điều kiện cho một số học
sinh phổ thông sử dụng loại xe này.
3.2. Nhóm nguyên nhân thứ hai là do đặc
điểm (cấu trúc) đô thị TPHCM tạo ra, đã dẫn
đến việc gia tăng xe gắn máy (5,64 điểm).
Nhóm nguyên nhân này bao gồm một số yếu
tố thể hiện như sau:
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 45
3.2.1. Đặc điểm nhà liên kế (nhà ống) ở
TPHCM rất thuận tiện để xe máy tiếp cận (6,17
điểm)
Cấu trúc đô thị TPHCM (khu ở) phát triển
theo dạng nhà ống, còn gọi nhà liên kế (row
houses), do vậy, trong bối cảnh không thể sử
dụng xe buýt, thì xe gắn máy lại rất thuận tiện về
chỗ đậu xe, để bất kỳ nơi đâu trong nhà. Nhiều
căn hộ đã để xe ngay phòng khách, hàng ba
hoặc đậu trên vỉa hè trước cửa nhà.
Như vậy, chính dạng cấu trúc nhà ống đã
gắn liền với quá trình phát triển xe gắn máy.
Ngoại trừ một số khu dân cư mới phát triển gần
đây, đặc biệt là khu Đô thị Phú Mỹ Hưng, Nam
Sài gòn, nhà cửa được thiết kế phần lớn dành
cho xe ô tô (dạng biệt thự, nhà vườn), nên khu
vực này thường dành cho những hộ thu nhập
cao và thuận tiện hơn trong việc sử dụng xe ô tô.
Hầu hết các khu dân cư cũ và một số khu dân cư
mới, loại hình ―nhà ống‖ vẫn phổ biến, nên chỉ
thích nghi với sử dụng phương tiện xe gắn máy
là chính do có chỗ đậu xe.
Bên cạnh đó, các vỉa hè hiện nay lại được
thiết kế, sao cho xe máy thuận tiện ―leo lề‖ để
tiếp cận với các căn hộ mặt tiền. Một số lề vỉa hè
thiết kế bằng gạch đá xanh, cao (trước đây) đã
được thay thế bằng lề bê tông dát mỏng và
thuận lợi khi dắt xe lên.
3.2.2. Hầu hết nhà mặt tiền ở các tuyến
đƣờng đều kết hợp kinh doanh buôn
bán (6,07 điểm)
Sự phân khu chức năng tách bạch giữa khu
ở và nơi kinh doanh (góp phần thuận tiện cho
việc sử dụng GTCC) đã không thể thực hiện
được, nhường chỗ cho hiện tượng, nhà mặt tiền
vừa ở, vừa kinh doanh, do nhu cầu mua bán,
dịch vụ ngày càng gia tăng nhất là ở khu vực nội
thành trung tâm. Từ đặc điểm này, cấu trúc đô thị
hỗn hợp giữa các chức năng (trộn lẫn giữa khu
thương mại, khu ở và nơi làm việc).
Trong bối cảnh như vậy (đi lại với cự ly
ngắn) nên thường xe gắn máy rất cơ động khi sử
dụng với cự ly ngắn. bên cạnh đó, vỉa hè lại
không được quy hoạch cho người đi bộ, nên gián
tiếp góp phần tăng thói quen sử dụng xe gắn
máy.
3.2.3. Mật độ hẻm hiện nay quá dày đặc trong
khu vực nội thành(6,03 điểm)
Mật độ đường hẻm dày đặc, kể cả các khu
dân cư mới ở vùng ven, nên thuận tiện đi lại
bằng xe gắn máy. Khoảng 70% hẻm có chiều
rộng
Theo số liệu của trung tâm Thông tin Viện
Nghiên cứu phát triển, vào thời điểm nay 2007,
tổng chiều dài hẻm trên địa bàn thành phố, đã
hơn gấp 1,8 lần so với tổng chiều dài đường
chính. Điều nghịch lý là tổng chiều dài hẻm nhiều
hơn chiều dài đường thể hiện ở địa bàn quận
mới và các quận ven đô trước đây. Đây là tác
nhân gia tăng xe gắn máy đê đáp ứng nhu cầu đi
lại.
3.2.4. Vỉa hè không còn chỗ cho ngƣời đi bộ
và làm chỗ đậu xe(5,76-5,83 điểm).
Điều này thể hiện cấu trúc đô thị của
TPHCM tiêu biểu về nhà ống và vỉa hè không
còn chỗ cho người đi bộ. Hầu hết người dân đều
ngồi lên xe gắn máy để đi lại, thay vì đi bộ trên
vỉa hè. Do các khu thương mại thiếu bãi đậu xe
cá nhân và vỉa hè đáp ứng cho nhu cầu đậu xe 2
bánh, nên thường sử dụng vỉa hè làm chỗ đậu
xe (chính chủ trương kẻ vạch vôi trên vỉa hè để
hợp thức hóa việc bố trí vỉa hè dành cho đậu xe
gắn máy)
3.2.5. Khó khăn tìm bãi đậu xe ô tô ở nội
thành (5,76 điểm)
Do đặc điểm cấu trúc đô thị dành cho xe
máy, bến bãi đậu xe ô tô, cũng như xe buýt vẫn
còn hạn chế. Điều này dẫn đến sự gia tăng
phương tiện xe máy hiện nay.
3.3. Nhóm nguyên nhân thứ ba là đặc điểm
hoạt động kinh tế tạo ra việc gia tăng xe
máy (4,92 điểm):
Nhóm nguyên nhân này bao gồm các yếu tố
chính như sau:
3.3.1. Xe máy là phƣơng tiện cơ động cho các
nghề tự do (6,38 điểm)
Do đặc điểm tỷ lệ hoạt động ngành nghề tự
do (ngành nghề phi chính thức) khá cao tại
TPHCM (50-60%), do vậy, người dân thường
dùng xe gắn máy để di chuyển cơ động với công
việc làm ăn cá thể, phi chính thức (không còn
phương tiện nào khác), do hành trình nhiều lượt,
nhiều nơi. Trong hoạt động kinh tế, tốc độ di
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
46 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
chuyển đi lại (lưu thông phân phối) cũng là một
trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh doanh.
Do vậy, chính xe gắn máy đã đáp ứng nhu
cầu đi lại rất nhanh chóng, ở bất kỳ nơi đâu, từ
gần đến xa, tiết kiệm tối đa thời gian di chuyển.
Một số người dân đã bỏ quên thói quen đi bộ, do
mất thời gian, nên lúc nào cũng sử dụng xe gắn
máy.
3.3.2. Cho phí đi bằng xe máy nhìn chung rẽ
hơn xe buýt và ô tô(4,76 điểm)
Chi phí đi lại bằng xe gắn máy rất rẽ (hơn cả
sử dụng xe buýt đi lại cự ly gần và đi lại nhiều
nơi), đặc biệt lại phù hợp với túi tiền người thu
nhập thấp và người nghèo
3.3.3. Xe ôm đƣợc xem nhƣ một loại hình
VTHKCC (4,76 điểm)
Sự tương thích giữa đặc điểm hoạt động
kinh tế và gia tăng xe máy có thể thấy rõ vai trò
của xe gắn máy đã trở thành xe ôm (2 bánh), là
loại hình vận tải hành khách công cộng rất phổ
biến hiệ nay tại thành phố. Bất kỳ người nào
cũng có thể sử dụng xe gắn máy để kinh doanh
vận tải hành khách bằng xe ôm ở bất kỳ tuyến
đường nào.
Bên cạnh đó, nếu quan sát tại các siêu thị,
xe gắn máy (2 bánh) lại trở thành phương tiện
vận tải hàng hóa thuận tiện, cung ứng dịch vụ
đưa hàng về tận nhà cho khách, như mô hình
đang áp dụng tại hệ thống siêu thị Coo-Mark
TPHCM.
3.4. Nhóm nguyên nhân thứ tƣ là do đặc điểm
phƣơng tiện xe máy(4,76 điểm)
3.4.1. Giá thành xe máy phù hợp thu
nhập (5,86 điểm)
Hiện nay, để sở hữu một chiếc xe gắn máy
tương đối dễ dàng. Do xe Trung Quốc giá rẽ
buôn bán tràn lan nên phù hợp với túi tiền của
người thu nhập thấp.
3.4.2. Xe máy đi khu vực nội thành tốc độ
nhanh hơn ô tô và xe buýt (5,62 điểm)
Hiện nay, việc di chuyển bằng xe máy trong
nội thành gần như bằng hoặc nhanh hơn tốc độ
di chuyển của xe ô tô và xe buýt. Tại một số ngã
tư ở khu trung tâm, dòng xe ô tô thường dài hơn
sức chứa của các đoạn cắt và đôi lúc phải nối
đuôi dài, lấn chiếm giao lộ ở các ngã tư.
3.4.3. Xe máy nhỏ gọn, dễ luồng lách khi kẹt
xe (5,21 điểm)
Một số hẻm nhỏ ở gần các ngã tư, giờ đây
có thể trở thành đường ―nội bộ‖ góp phần giảm
tải xe máy khi xảy ra ùn tắc. Do đặc điểm xe máy
gọn nhẹ, nên dễ dàng di chuyển thông qua các
hẻm ―nội bộ‖ này. Cũng nhờ đặc điểm phương
tiện nhỏ, gọn, một số xe máy có thể di chuyển
trên lề đường, mỗi khi gặp ùn tắc.
3.5. Nhóm nguyên nhân thứ năm là do đặc
điểm giao thông công cộng chƣa đáp
ứng (4,68 diểm)
3.5.1. Xe buýt không đảm bảo giờ giắc đi
lại (5,38 điểm)
3.5.2. Luồng tuyến xe buýt hiện nay nhìn
chung chƣa thuận lợi?(4,48 điểm)
Nhìn chung, những nguyên nhân này thể
hiện chất lượng phục vụ của xe buýt chưa đáp
ứng nhu cầu đi lại hiện nay, nên người dân buộc
phải sử dụng xe máy hàng ngày trong sinh hoạt
của mình.
3.5.3. Chƣa có đủ tuyến xe buýt giữa trung
tâm và khu dân cƣ mới(4,69 điểm)
3.5.4. Xe máy vẫn thuận tiện đi lại với cự ly xa
(trên 15 km)? (5,24 điểm)
Nhìn chung, 2 nguyên nhân nêu trên thể
hiện sự ưu việt của xe máy, vẫn có thể sử dụng
di chuyển ở các cự ly xa. Trong lúc chưa mạng
lưới tuyến buýt nối liền giữa khu dân cư mới và
khu dân cư cũ, xe máy vẫn trở thành ―cứu cánh‖
nhằm giải quyết đi lại cho các tường hợp nêu
trên.
VI.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận:
4.1.1. Các nhóm nguyên nhân chính tác động gia
tăng số lượng xe máy trên địa bàn thành phố
theo thứ tự từ cao đến thấp là do
(1) Công tác quản lý
(2) Cấu trúc đô thị
(3) Đặc điểm hoạt động kinh tế
(4) Đặc điểm phương tiện xe máy
(5) Đặc điểm GTCC chưa đáp ứng.
Từ kết quả này cho thấy, do công tác quản
lý của chúng ta còn quá dễ dãi, chính là nhóm
nguyên nhân chủ yếu đã tác động làm gia tăng
số lượng xe máy sử dụng trên đường, cùng với
nhóm nguyên nhân về đặc điểm cấu trúc đô thị
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 47
và đặc điểm hoạt động kinh tế diễn ra tại
TPHCM. Trong khi đó, nhóm nguyên nhân do
phương tiện vận tải hành khách công cộng còn
yếu kém lại chưa phải là nhóm nguyên nhân
trọng yếu (đứng hàng thứ năm trong số các
nhóm nguyên nhân) làm ảnh hưởng gia tăng xe
máy.
Vì vậy, giải pháp chính sách hiện nay cũng
không nên chỉ thiên về giải pháp tập trung ưu tiên
đầu tư cải thiện chất lượng cung ứng vận tải
hành khách bằng xe buýt, là có thể giải quyết
ngay việc giảm sử dụng xe máy và giảm ùn tắc
giao thông. Điều quan trọng là phải chú trọng các
giải pháp đồng bộ (cùng với 3 giải pháp đầu tiên
được nêu trên).
Ngoài ra, trong lúc nhóm nguyên nhân về
quản lý xe máy (do các chính sách từ TW quyết
định là chính), nên cần chú trọng nguyên nhân về
đặc điểm cấu trúc đô thị là có thể nghiên cứu giải
quyết, nằm trong thẩm quyền của địa phương.
4.1.2. Như vậy, đặc điểm về cấu trúc đô thị
TPHCM đã ảnh hưởng làm gia tăng xe gắn máy
cá nhân (xếp hàng thứ hai về mức độ quan
trọng). Do đặc điểm cấu trúc đô thị theo dạng tập
trung, hầu như mọi hoạt động đều dồn vào trong
khu nội thành trung tâm, đường hẻm đi lại chằng
chịt, khó đi thể lại bằng xe buýt, nên chỉ có xe
máy là đáp ứng thuận lợi nhất.
Trong khi đó, đặc điểm nhà liên kế thuận tiện
để xe máy, vỉa hè lại thuận tiện làm chỗ đậu xe...
Với đặc điểm cấu trúc hỗn hợp giữa khu ở và
khu kinh doanh buôn bán (dạng đô thị chợ), nhà
mặt tiền nào cũng kinh doanh buôn bán, nên chỉ
có xe máy là thuận tiện đi lại để tiếp cận với các
cửa hàng, phân bố rãi rác ở mọi nơi, .
4.1.3. Bên cạnh việc chú trọng về xe gắn máy,
dự báo số lượng xe ô tô sẽ gia tăng mạnh khi thu
nhập người dân ngày tăng cao, đặc biệt là khi
thành phố có các bãi đậu xe ngầm trong nội
thành, được đầu tư xây dựng theo quy hoạch.
Ngoài ra, do đặc điểm phát triển gần như
đơn cực (cao ốc mọc lên càng nhiều ở khu trung
tâm), dự báo dòng xe ô tô đi vào khu trung tâm
sẽ ngày càng gia tăng và góp phần gây tắc
nghẽn. Do vậy, ngay từ bây giờ, cũng cần nghiên
cứu các giải pháp tác động giảm bớt xe ô tô, bên
cạnh giảm xe gắn máy.
4.1.4. Dựa theo kết quả phân tích nêu trên, nhận
định các kịch bản có khả năng xảy ra trong thời
gian tới, bao gồm:
a. Có sự chuyển dịch từ sử dụng xe gắn
máy sang xe ô tô, trong khi vận tải hành khách
công cộng (xe buýt) hầu như chưa có gì đột phá.
Đây là kịch bản nguy hiểm, vẫn có thể có khả
năng xảy ra trong giai đoạn trước mắt, khi
phương tiện VTHKCC chưa hấp dẫn người sử
dụng, nhưng do thu nhập và đời sống ngày càng
tăng cao và số người chuyển từ sử dụng xe máy
sang mua xe ô tô để sử dụng ngày càng nhiều.
Vì vậy, cần ưu tiên hạn chế xe ô tô ngày từ bây
giờ.
b. Chuyển từ sử dụng xe máy sang xe buýt
hoặc VTHKCC khác, trong khi xe ô tô hầu như
không đổi : Đây là kịch bản tốt, cần tác động để
xảy ra theo hướng này. Do xe máy và xe buýt
đều phù hợp với đối tượng thu nhập thấp, do
vậy, chúng có thể thay thế lẫn nhau. Việc chuyển
dịch từ sử dụng xe máy sang xe buýt là có tiềm
năng cao, với điều kiện dịch vụ xe buýt ngày
càng cải thiện thực sự. Vì vậy, giải pháp cải thiện
dịch vụ VTHKCC cần đẩy mạnh ngay từ bây giờ.
c. Số người sử dụng xe máy và xe buýt ngày
càng nhiều, trong khi sử dụng xe ô tô hầu như
không đổi. Đây cũng cũng là kịch bản không tốt,
do số lượng xe máy đến một lúc nào đó sẽ tràn
ngập và sẽ không còn đường cho xe buýt vận
hành. Vì vậy, hạn chế và tiến đến cấm xe máy
một số tuyến đường là việc làm cần thiết ngay từ
bây giờ.
d. Số người sử dụng cả 3 loại xe máy, xe
buýt và xe ô tô đều tăng. Kịch bản này rất nguy
hiểm, do không có đủ diện tích đường để đáp
ứng. Vì vậy, về lâu dài, cần có chiến lược đầu tư
các đường tuyến đường trên cao, song song với
đầu tư các phương thức BRT, MRT và monorail.
Từ phân tích 4 kịch bản nêu trên cho thấy,
chủ trương giảm và hạn chế xe ô tô và xe gắn
máy ngay từ bây giờ (theo Nghị quyết 88) là điều
rất cần thiết hiện nay.
4.2. Một số kiến nghị:
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
48 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
Do mục tiêu nghiên cứu không đi sâu vào
các giải pháp, nên một số kiến nghị chung liên
quan đến cấu trúc đô thị, được đề xuất như sau:
4.2.1. Để hạn chế bớt lượng xe máy hiện nay,
trước tiêu cần xem xét chấn chỉnh công tác quản
lý xe gắn máy hiện nay. Giảm bớt số lượng xe
sản xuất dành cho tiêu dùng nội địa, quản lý chặt
chẻ các phương tiện xe gắn máy từ các tỉnh đến
lưu hành trên địa bàn thành phố hiện nay (chẳng
hạn như nghiên cứu nộp phí sử dụng v.v..)..
4.2.2. Nghiên cứu từng bước tái cấu trúc đô thị
theo hướng quyết liệt hạn chế xe cá nhân ngay
từ bây giờ, tăng cường phát triển mạnh xe buýt
nhanh, monorail, tàu điện ngầm … qua đó tái cấu
trúc lại không gian đô thị. Bên cạnh đó, cần phát
triển nhiều nhà cao tầng, nhà chung cư, giảm bớt
đầu tư nhà liên kết, tạo cấu trúc không gian đô thị
thông thoáng hơn.
Giải pháp đơn giản nhưng hữu hiện nhất
hiện nay, theo tôi, là từng bước tách riêng chức
năng kinh doanh và chức năng ở đối với các hộ
mặt tiền (ở một số tuyến đường), song song với
phát triển các khu dân cư mới thật hoàn chỉnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. TS. Dư Phước Tân "Mối quan hệ giữa các
điểm kẹt xe gia tăng xe gắn máy và cơ cấu sử
dụng đất – vài ý tưởng đề xuất" kỷ yếu hội thảo
Làm thế nào để người dân đi xe buýt tại TP Hồ
Chí Minh, do Viện NCPT phối hợp Báo SGGP tổ
chức, TPHCM tháng 4/2011.
[2]. Trung tâm Quản lý Điều hành: "Quy hoạch
Phát triển Vận tải hành khách công cộng TPHCM
đến năm 2025", Trung tâm Tư vấn Phát triển
GTVT, Đại học GTVT, 11/2009.
[3]. Houtrans (Nhật), Nghiên cứu quy hoạch giao
thông TPHCM, năm 2004.
[4]. TS. Võ Kim Cương: ― Giao thông đô thị - khả
năng phát triển đột biến và mục tiêu con người‖
Kỷ yếu hội thảo về Làm thế nào để người dân đi
xe buýt tại TP Hồ Chí Minh, do Viện NCPT phối
hợp Báo SGGP tổ chức; TP Hồ Chí Minh, 4
/2011.
[5]. PGS.TS Phạm Hùng Cường: ―Cố giữ cấu
trúc hình tia hướng tâm‖ Tạp chí Người đô thị số
91, tháng 2 năm 2011.
[6]. Nikken Seikei, Nghiên cứu điều chỉnh quy
hoạch chung đô thị TP. Hồ Chí Minh đến năm
2025, Sở QH-KT TPHCM năm 2009.
[7]. Xinyu Cao, Patricia L. Mokhtarian, Susan L.
Handy: ―Do changes in neighborhood
characteristics lead to changes in travel
behavior? A structural equations modeling
approach‖, Transportation (2007) 34:535–556,
Published online: 26 June 2007, Springer
Science+Business Media B.V. 2007.
[8]. Ming Zhang: ―The Role of Land Use in
Travel Mode Choice: Evidence from Boston and
Hong Kong‖, American Planning Association.
Journal of the American Planning
Association. Chicago: Summer 2004. Vol. 70,
Iss. 3; pg. 344, 17 pgs.
[9]. Downs, Anthony, ―The Real Problem With
Suburban Anti-Growth Policies‖, The Brookings
Review; Spring 1988; 6, 2; ABI/INFORM Global,
pg. 23.
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 49
HỆ THỐNG VỈA PHÂN LÀN ĐƢỜNG: LỊCH SỬ NGẮN GỌN VỀ TƢƠNG LAI CỦA ĐIỀU KHIỂN GIAO THÔNG
Trần Mạnh Khải dịch
Hệ thống vỉa đường kết cấu khối đã được
sử dụng rộng rãi bởi các kỹ sư giao thông cho
mục đích an toàn, những tính năng kỹ thuật tiên
tiến đang mở ra các ứng dụng mới.
Một loạt các phương pháp được sử dụng để
đánh dấu con đường và dẫn hướng giao thông
vào các làn riêng, an toàn. Khi đánh dấu thẳng
vào mặt đường là không đủ để cung cấp dẫn
hướng an toàn, các trụ dẫn hướng thường được
cài đặt. Khi sự phân định mạnh mẽ hơn được
yêu cầu, hệ thống vỉa phân tách làn đường có
thể cải thiện đáng kể an toàn giao thông.
Vào đầu năm 1936, các thiết bị đã được
phát minh để hướng dẫn hiệu quả hơn giao
thông vượt qua sự nguy hiểm đường sá. Trong
những năm 1960, các vạch dấu hiệu giao thông
giống như vỉa lề đường lần đầu tiên đã được
phát minh.
Trong cuối những năm 1980, các vỉa cao su
hiện đại đầu tiên giống mái chèo xuất hiện trên
thị trường ở Đức và được nhập khẩu vào Mỹ
giữa những năm 1990. Năm 2001, Pexco gia
nhập thị trường với hệ thống vỉa lề đường FG
300 cùng với cấp tiêu chuẩn cấp của nó, thay thế
cho cấp Liên bang vào năm 2006, nó đã giành
giải ―Best in Show‖ tại Triển lãm Giao thông
ATSSA năm 2006. Trước những năm 2009, các
phân tách làn đường không phải là thiết bị điều
khiển giao thông được công nhận ở Mỹ. Với việc
xuất bản Hướng dẫn sử dụng thiết bị điều khiển
giao thông (MUTCD) của Cục Quản lý đường
cao tốc liên bang của Mỹ năm 2009, dải phân
cách làn đường hiện nay là một phần của hộp
công cụ của kỹ sư giao thông để tạo ra các giải
pháp an toàn giao thông cứu vớt mạng sống.
Dải phân cách làn đƣờng có thể lắp ráp
đƣợc
Dải phân cách làn đường có thể lắp ráp
được, hoặc các hệ thống vỉa đường, có kích
thước rộng 20-30cm, cao 5-10cm, bằng nhựa
hoặc đoạn vỉa đường cao su làm bệ đỡ các cọc
dẫn hướng thẳng đứng phản quang. Các vỉa
đường có thể được đặt tạm thời trong công
trường thi công hoặc cài đặt vĩnh viễn.
Để cài đặt tạm thời, các thiết bị phân cách
làn có thể được dán vào mặt đường và dễ dàng
loại bỏ sau này. Cài đặt vĩnh viễn thường được
bắt vít vào mặt đường, chỉ mất một vài phút cho
mỗi đoạn vỉa đường.
Các cọc dẫn hướng thẳng đứng được thiết
kế để có thể phục hồi và phục hồi trở lại thẳng
đứng khi bị tác động và mặc dù các cọc dẫn
hướng không làm hư hỏng xe, khi xe vượt qua
nó, nó phát ra một tiếng nổ lớn. Các vỉa đường
có thể lắp ráp được thiết kế để cho phép xe truy
cập trong trường hợp khẩn cấp và phục hồi
thẳng đứng trở lại, ngay cả trong điều kiện mùa
đông.
Các thành phần cọc dẫn hướng thẳng đứng
của hệ thống vỉa đường có thể lắp ghép, theo
thời gian, có thể hư hỏng bởi các tác động,
nhưng tỉ lệ thay thế của chúng đã cho thấy là ít
hơn so với các cọc dẫn hướng tiêu chuẩn đơn lẻ.
Và khi các cọc dẫn hướng được sử dụng với
các hệ thống vỉa đường tỷ lệ sống sót tốt hơn
nhiều so với các cọc đơn lẻ, cùng với các hệ
thống vỉa đường, có ít sự thay thế và lo lắng bảo
dưỡng hơn.
Việc sử dụng các tấm phản quang chịu mòn,
hiệu năng cao, có thể kéo dài hiệu quả của
chúng và tiếp tục giảm nhiều hơn sự cần thiết
phải bảo trì.
Rào cản vật lý của một "hàng rào cọc‖ của các
cọc dẫn hướng đảm bảo cho các lái xe đi đúng làn
đường của họ. Chi phí bảo trì liên tục cho hệ thống
chia tách làn xe có thể còn phải bàn nếu các cọc dẫn
hướng thẳng đứng tiêu chuẩn, hiệu năng thấp được
sử dụng. Mới đây, những cọc dẫn hướng
polyurethane hiệu năng cao, cho thấy bền hơn 3-5
lần so với các cọc tiêu chuẩn thẳng đứng, trong đó
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
50 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
đáng kể là giảm sự cần
thiết phải bảo trì. Nghiên
cứu và phát triển trong lĩnh
vực này gần đây đã dẫn
đến nhiều cọc dẫn hướng
bền hơn nữa, có khả năng
chịu được 50 tác động tốc
độ cao, cung cấp vạch
phân định có tuổi thọ dài,
cải thiện an toàn và giảm
hơn nữa sự bảo trì.
Hầu hết các hệ
thống vỉa đường này
được thiết kế để được
lắp đặt theo kiểu liên tục,
với một dự án vài dặm
dài có thể là đắt. Các chi
phí lắp đặt điển hình của
dải phân chia làn liên tục
ở Mỹ chừng 160 -180
Đô la/m, tùy thuộc vào
thiết kế, khoảng cách và
cấu hình hệ thống vỉa
đường. Hệ thống vỉa
đường mới hơn như
Turnpike Grade của
Pexco, được thiết kế để
lắp đặt không liên tục, có
thể giảm chi phí tổng thể
của tiến trình lắp đặt.
Tại Hoa Kỳ, để bảo
đảm sự phù hợp cho sử
dụng, cọc dẫn hướng
phải được thử nghiệm
trên bệ thử nghiệm quốc
gia Hoa Kỳ, trong đó bao gồm 10 tác động xe tốc
độ cao 100km/h, năm lần va đâm vào mùa hè và
năm lần vào mùa đông. Các cọc dẫn hướng
không phải liên bang phê duyệt; mỗi tiểu bang tự
đánh giá kết quả của việc thử nghiệm và phê
duyệt các sản phẩm chứng minh đủ bền.
Mặt khác, hệ thống vỉa đường theo yêu cầu
của Cục đường bộ Liên bang (FHWA) phải tuân
theo sự phù hợp đặc thù của NCHRP Report
350. FHWA đã phát triển một loại chất kết dính
thử nghiệm tác động để giải quyết lo ngại về hệ
thống vỉa đường bị nâng lên do xe bị mất lái tác
động cùng với các dấu phân cách làn đường.
Ngoài ra, họ lo ngại về các đoạn vỉa đường riêng
lẻ bị sai vị trí bởi phương tiện tác động và tạo ra
một mối nguy hiểm đường bộ. Các hệ thống vỉa
đường phải được kiểm tra như là một hệ thống
Hình 1. Vỉa đường liên tục tại cầu Tyburn của Mỹ
Hình 2. Thiết bị phân chia làn xe được sử dụng để cung cấp chia tách
đường tại một công trường ở Iowa
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 51
hoàn chỉnh – vỉa đường
và các cọc dẫn hướng
thẳng đứng cùng nhau
– phải đảm bảo sự an
toàn của công chúng du
hành và độ bền của hệ
thống. Thử nghiệm cho
phù hợp với NCHRP
350 thường được thực
hiện bởi một phòng thí
nghiệm độc lập chẳng
hạn như Viện giao
thông vận tải Texas.
Các hệ thống vỉa
đường lắp đặt ban đầu ở
Hoa Kỳ là tại giao cắt
cùng mức đường
sắt/đường cao tốc, sử
dụng chúng như là hàng
rào ở giữa đã làm giảm
các vi phạm làn đường
tới gần 80%. Rất nhiều
ứng dụng đô thị phát
sinh cùng một lúc: làn xe
buýt chuyên dụng, hạn
chế rẽ bên trái, bảo vệ
làn xe thông qua, làn
đường tăng tốc, vv
Khi độ bền của vỉa
đường và quan trọng
hơn là cọc dẫn hướng
thẳng đứng – được cải
tiến, rất nhiều những ứng dụng mới phát sinh
cho thiết bị điều khiển giao thông độc đáo này.
Việc thiếu các chia tách vật lý trên đường
hai làn, tốc độ cao có thể dẫn đến va đâm đối
đầu nghiêm trọng. Tại bang Great Plains của
Hoa Kỳ, một dấu hiệu chắc chắn của mùa xây
dựng là đóng đường trên các xa lộ liên bang cắt
ngang Midwest. Các xa lộ này là đường bốn làn
xe, với hai làn xe mỗi hướng. Một dự án đại tu
liên bang điển hình bao gồm đóng cửa hai làn
đường theo một hướng và tạo ra một đường
vòng đối đầu bằng cách sử dụng hai làn đường
bên phía kia của dải phân cách giữa. Giao thông
trên làn đường mới đang di chuyển ở tốc độ cao
theo hướng đối diện, điều đó bắt buộc phải cho
các xe tách biệt nhau.
Thiết bị phân cách làn xe đã được thông qua
ở Midwest để cung cấp chia tách giao thông trên
các đường hai làn, đường vòng tránh hai làn của
các lưu lượng truy cập trong các hai chiều, hai
làn xe đi đường vòng, ngăn chặn hành vi vi phạm
làn đường và cải thiện an toàn lái xe. Hệ thống
vỉa đường và các cọc dẫn hướng thẳng đứng đã
Hình 4. Thiết bị chia tách làn đóng toàn bộ chỗ mở trên dải phân cách giữa
Hình 3. Wal-Mart đang sử dụng giải pháp chia tách của Pexco
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
52 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
chứng minh khá bền, và có thể được sử dụng
cho một số mùa xây dựng, cung cấp một sự hồi
vốn tuyệt vời trong đầu tư.
Đẩy nhanh tốc độ xây dựng và giảm chi phí
Ở Florida, Sở giao thông bang Florida đã
phát triển một chương trình an toàn triển khai
nhanh chóng sử dụng phân chia làn đường để
đóng toàn bộ khe hở dải phân cách giữa tại các
nơi xây dựng đường thông thường. Sử dụng
thiết bị phân chia làn cho phép triển khai hệ
thống nhanh chóng tại địa điểm va đâm cao, nơi
nó đã được xác định rằng hành động ngay lập
tức có thể giảm đáng kể tai nạn.
Giữa tháng ba và tháng chín năm 2007, hệ
thống được thực hiện tại 16 vị trí khe hở dải
phân cách giữa. Các hiệu quả chi phí và tiết kiệm
thời gian xây dựng là đáng kể. Ước tính chi phí
cho mỗi vị trí là 15.000 Đô la, nó đã được tính
toán rằng kết quả của việc lắp đặt là ít hơn 8 tai
nạn một năm tại mỗi vị trí, liên quan tới tiết kiệm
chi phí xây dựng khoảng 125.000 Đô la cho mỗi
vị trí. Trong thực tế, sử dụng thiết bị chia tách làn
giảm thời gian xây dựng để giải quyết các vấn đề
an toàn từ một quá trình 30-tháng điển hình
xuống chỉ còn hai tuần.
Đứng trước thách thức về an toàn giao
thông ngày càng tăng ở Hoa Kỳ hệ thống vỉa chia
tách làn nguyên khối đang được sử dụng thường
xuyên hơn trong một loạt các ứng dụng. Thiết bị
chia tách làn chia tách dòng song song và dòng
ngược chiều có thể cải thiện an toàn đáng kể.
Hơn nữa, chi phí của các biện pháp là hợp lý,
chúng đơn giản để lắp đặt và chúng đã chứng
minh được là bền trong một loạt các ứng dụng■
Nguồn: intertraffic world
DẢI GÂY ỒN Trần Mạnh Khải dịch
Cùng với an toàn đường bộ gia tăng chương
trình nghị sự toàn cầu, việc cài đặt dải gây ồn
ngang (rumble strip) có thể mở đường để làm giảm
tốc độ và tăng cường an toàn ở khu vực nông thôn.
Phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới, Liên Hiệp
Quốc gần đây tuyên bố thập kỷ 2011-2020 là thập
kỷ toàn cầu Hành động vì an toàn giao thông. Mục
tiêu chính của ―Thập kỷ "là giảm đáng kể số lượng
tai nạn giao thông, cụ thể là áp dụng các biện pháp
khác nhau ở cấp quốc gia trong mỗi tình trạng điều
kiện. Theo số liệu tai nạn mới nhất về đường bộ,
đường giao thông nông thôn đã được thấy là nguy
hiểm nhất. Đây là nơi mà nhu cầu lớn nhất đối với
hành động về các vấn đề liên quan đến an toàn
đường bộ nằm ở đó. Đặc biệt nguy hiểm là
đường cong nguy hiểm trong đường giao thông
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 53
nông thôn: để giải quyết vấn đề này, một khái
niệm chi phí-hiệu quả nhằm tác động đến hành vi
tốc độ và do đó cải thiện an toàn đã được phát
triển. Dải gây ồn ngang trên cơ sở nhựa nguội
(TRS: transverse rumble strips) đã được cài đặt
gần đây tại các gần đường cong nguy hiểm trên
một đoạn đường ở khu vực Erzgebirge của Đức,
tạo ra các dải đánh dấu được nhô cao bằng cách
đắp nhiều lớp đã ảnh hưởng tích cực hành vi lái
xe và cải thiện an toàn đường bộ với việc giảm
thiểu tai nạn.
Dải gây ồn ngang
TRS (transverse rumble strips) là một
phương pháp phổ biến được sử dụng bởi chính
quyền địa phương với mục đích an toàn trên các
con đường nông thôn. Trên bình diện quốc tế,
chúng được sử dụng như là một tín hiệu cảnh
báo được thực hiện thành công trong nhiều
trường để cảnh báo cho người sử dụng đường
bộ sự thay đổi môi trường đường, nơi cần phải
thận trọng bất thường, tạo ra một âm thanh và độ
rung nhất định như là một cảnh báo cho các lái
xe khi lái xe qua chúng.
Tại Đức, TRS vẫn còn là mới lạ. Viện nghiên
cứu Đường cao tốc liên bang Đức (BASt) có đề
nghị đặc biệt sử dụng chúng rộng rãi trên đường
giao thông có tỷ lệ cao các vụ tai nạn liên quan
đến người lái xe. Câu lạc bộ Ô tô của Đức ADAC
cũng ủng hộ việc sử dụng các dải gây ồn ở
những nơi tiếp cận, đặc biệt là nơi có những
khúc cua nguy hiểm trên đường giao thông nông
thôn. Cần phải nhấn mạnh rằng mục tiêu của
chính quyền địa phương là không làm nản chí
tinh thần của người lái xe bằng cách áp dụng các
dải gây ồn, mà là để chúng được hiểu như là một
thiết bị cảnh báo có hiệu quả giảm số lượng tai
nạn. Theo thống kê của BASt, phòng ngừa một
tai nạn liên quan đến thương tật nghiêm trọng tiết
kiệm cho người nộp thuế chừng 130.000 Euro
một năm chi phí xã hội - không để đề cập đến
những tác động về sức khỏe và các hậu quả có
khả năng phát sinh từ một tai nạn đối với các cá
nhân có liên quan.
Phƣơng pháp thiết kế và ứng dụng
Dải gây ồn áp dụng trong dự án này được
tạo ra bằng cách sử dụng vật liệu nhựa nguội
(methyl methacrylate - MMA) hai thành phần
được thiết kế đặc biệt cho ứng dụng này. Khi áp
dụng lên bề mặt đường, vật liệu này được thiết
lập một cách nhanh chóng. Các dải mẫu (mô
hình) và khoảng cách được sử dụng dựa trên
kinh nghiệm thử nghiệm của BASt. Dải gây ồn đã
được áp dụng vuông góc với mặt đường trên
đường gần với đường cong chữ chi dẫn đến
điểm gặp phổ biến cho người đua xe PTW ở
Eibenstock trong dãy núi Erz, hiện trường nơi 12
vụ tai nạn xe gắn máy xảy ra giữa năm 2007 và
2009 làm bảy người thương tích nghiêm trọng và
chín người khác bị thương nhẹ.
Các vệt đánh dấu trên cơ sở nhựa nguội đã
được đặt theo hai cách khác nhau. Đầu tiên, một
dải rộng 475mm đã được áp dụng, pha màu
vàng sáng bóng (RAL 1026) với các sắc tố huỳnh
quang để nhìn tốt hơn trong ánh sáng ban ngày.
Ứng dụng của nó được thực hiện bằng cách sử
dụng một hộp khuôn đang đợi cấp bằng sáng
chế với mẫu được tích hợp. Được thiết kế đặc
biệt cho mục đích này bởi nhà chức trách điều
tra tai nạn nhằm tạo ra một hình nêm cao khoảng
175mm theo chiều dài, cho phép dễ dàng làm
sạch tuyết từ mép thấp hơn trong mùa đông.
Tiếp theo là áp dụng bốn dải hình bán nguyệt
nhô lên với chiều cao tối đa 15mm trên mặt
đường. Ba dải màu trắng (RAL 9016) rộng
120mm (mỗi cái) cuối cùng cao khoảng 10mm.
Những dải trên đưa ra một cảm giác âm thanh và
xúc giác đối với các lái xe khi phương tiện đi qua
chúng. Vật liệu chống trượt (Anti-skid) và phản
quang cũng đã được thêm vào vật liệu ứng dụng
này để đáp ứng đầy đủ các yêu cầu có liên quan
cho loại hình đánh dấu đường này.
Hình 1. Đường cong chữ chi ở Erz Mountain
AN TOÀN GIAO THÔNG - TRAFFIC SAFETY
54 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
Kết quả và tranh luận
Theo ủy ban tai nạn khu vực, hầu hết các vụ
tai nạn xảy ra chỗ đường cong - là một nam
châm thực sự đối với người đi xe đạp - là kết quả
trực tiếp của vượt quá tốc độ. Các biện pháp đã
được thực hiện trong tháng 7 năm 2009 để giảm
thiểu nguy cơ tai nạn, bao gồm cắt rãnh 2cm trên
bề mặt nhựa đường tại tám mặt cắt riêng biệt
của đường chỗ đường chữ chi.
Những rãnh này tạo ra bề mặt đường gập
ghềnh để cảnh báo cho người sử dụng đường lái
xe cẩn thận hơn. Kể từ khi cài đặt, không một tai
nạn đơn lẻ nào được báo cáo. Điều này chứng
minh rằng các bề mặt đường xúc giác là một
phương tiện hiệu quả giảm thiểu tai nạn và cảnh
báo lái xe về môi trường đường thay đổi, nơi cần
thiết để thận trọng. Khi đoạn đặc biệt này của
đường được làm mới lại, mặt đường đã được
chuẩn bị trước đây bị gỡ bỏ, các chuyên gia an
toàn đường bộ đã đến với một cải tiến nhưng
phương pháp hiệu quả tương tự là không liên
quan đến cắt rãnh hoặc làm hư hỏng mặt nhựa
đường mới được rải. Các giải pháp là áp dụng
các dải băng được nâng lên của TRS, dựa trên
vật liệu nhựa nguội, có độ bền cao ở cả hai đầu
đường tiếp cận chỗ uốn cong, do đó bắt buộc
người lái xe phải giảm tốc độ. Các ứng dụng của
TRS là được khuyến cáo trên các phần của lòng
đường có tai nạn thường xuyên như là kết quả
của vượt quá tốc độ. Nó có thể đã chứng minh
rằng các mẫu dạng và khoảng cách của các TRS
trên cơ sở nhựa nguội đại diện cho một sự thay
thế hiệu quả về chi phí, nhanh chóng, để gây ảnh
hưởng tích cực đến hành vi tốc độ. Ngoài ra,
mẫu dạng tối ưu hóa của TRS cho phép cày
tuyết mặt đường mùa đông dễ dàng từ phía cạnh
dưới mà không làm tổn hại các dải gây ồn.
Benjamin Schultz, kỹ sư giao thông của khu
vực, đã tuyên bố rằng các biện pháp ở trên sẽ
làm giảm vĩnh viễn số vụ tai nạn đã từng xảy ra
trên đoạn này của con đường, qua đó giúp du
hành đường bộ trong khu vực Erz Mountain an
toàn hơn■
Nguồn: Intertraffic world
Hình 2. Măt cắt ngang dải gây ồn
Hình 3. Dải gây ồn được chế tạo bằng nhựa Degaroute của Evonik
TRAO ĐỔI Ý KIẾN - EXCHANGE OPINIONS
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 55
PHÊ PHÁN - BIỂU DƢƠNG: ĐÂU LÀ RANH GIỚI ? TS. Dƣơng Xuân Thành
Đòi hỏi người thầy những tiêu chí khắt khe
nhưng xã hội và Nhà nước trao cho họ những
quyền gì? Quyền duy nhất mà họ có là dạy theo
những gì mà sách giáo khoa đã viết, làm theo
những gì mà nội quy đã quy định, và hưởng một
chế độ thấp nhất trong các nghề đòi hỏi trí tuệ.
Phê phán và biểu dương khi thực hiện đúng
sẽ là động lực cho sự phát triển. Nhờ phê phán
kịp thời, biểu dương đúng lúc mà các cá nhân, tổ
chức có điều kiện nhìn lại mình, hoàn thiện mình.
Tuy nhiên có vẻ như ở nước ta phê phán đang là
hoạt động tự phát của cộng đồng còn biểu
dương là quyền của tổ chức.
Vì là hoạt động của cộng đồng nên không
thể quản lý và do đó rất nhiều trường hợp phê
phán trở thành "ném đá". Người "ném" luôn coi
họ là đại diện của chân lý và hầu như không mấy
người nghĩ rằng những viên đá vô hình đó tuy
không gây chảy máu nhưng vẫn có thể làm tổn
thương nhiều người. Không loại trừ trong số đó
có những kẻ lợi dụng để thỏa mãn tức giận cá
nhân, còn với một vài phương tiện truyền tải
thông tin phải chăng đây chỉ là sự vô tình?
Gần đây có nhiều bài viết về ngành giáo
dục. Không ít bài trong số đó đề cập trực tiếp đến
hình ảnh người thầy. Phê phán thói hư tật xấu,
biểu dương nét đẹp của thầy cô giáo nói riêng và
ngành GD nói chung đương nhiên là phải làm.
Vấn đề là phê phán như thế nào và biểu dương
như thế nào?
"Ném đá"
Dạo một lượt trên báo có thể tìm được vô số
bài với các tít đại loại:
Thầy giáo trường tôi chuyên lừa tình sinh
viên (http://vnexpress.net/gl/ban-doc-viet).
Khi thầy "tha hóa", sao trò "tôn sư"!? (http://
Dantri.com.vn).
Thời của nhà giáo...vô trách
nhiệm? (http://vietnamnet.vn).
Thầy giáo "gạ tình", trộm tiền của nữ
sinh (http://congannghean.vn)...............
Nhìn nhận vấn đề một cách nhân văn, chúng
ta thấy sự khác biệt giữa người thầy và những
người khác là ở nghề nghiệp mà họ gắn bó chứ
không phải ở khía cạnh "con - người". Nếu biết
rằng đội ngũ giáo viên các cấp và cán bộ quản lý
GD ở nước ta có tới hàng triệu người, thì việc một
số cá nhân có biểu hiện lệch lạc về đạo đức, tư
cách, kém chuyên môn là điều không tránh khỏi.
Tuy nhiên GD không nằm trong bốn lĩnh vực
(cảnh sát giao thông, quản lý đất đai, hải quan và
xây dựng) mà Thanh tra Chính phủ và Ngân
hàng thế giới điểm mặt [1]. Nói như thế không có
nghĩa là bao che cho những yếu kém, bất cập
của ngành, mà phải thấy một thực tế khách
quan, rằng lỗi của một số thầy cô, của ngành GD
có nguyên nhân sâu xa ở cơ chế, ở hệ thống.
Khi mà mấy chục năm qua ngành GD buộc
phải tuyển chọn làm giáo viên nhiều người ở vào
cái thế "chuột chạy cùng sào". Không ít người
trong số thầy cô "bất đắc dĩ" đó bước vào nghề
với chỉ số IQ thấp nhưng chỉ số... "AQ" lại rất
cao, sự ức chế và phản ứng của họ âu cũng là
điều có thể hiểu. Trong hoàn cảnh đó việc đăng
tải các bài viết về đội ngũ thầy, cô giáo với
những tít quá mức như trên có phải là cần thiết,
có phải là liệu pháp tốt cho ngành GD nói riêng
và xã hội nói chung?
Gơben (Josef Goebbels), Bộ trưởng tuyên
truyền của trùm phát xít Hitle đã cho rằng: "Một điều
lừa dối, bịa đặt khó tin nhất, nếu được nhắc đi nhắc
lại trăm ngàn lần sẽ được mọi người tin là thật".
Nếu các báo viết, báo mạng ngày nào cũng
có các bài viết với các tít giật gân như vậy, thì
học trò sẽ nghĩ thế nào về người thầy của mình?
Và nếu tình trạng còn tiếp diễn, thì liệu sau bao
nhiêu năm nữa người thầy sẽ "thực sự" trở thành
kẻ "vô lại" không chỉ trong suy nghĩ của người
lớn mà cả trong con mắt trẻ thơ?
Phê phán người thầy vừa mang tính thời sự
lại không sợ vướng vào chuyện nhạy cảm, có
phải vì thế nên sẽ là uổng công nếu cố đi tìm bài
viết với tiêu đề kiểu: "Lãnh đạo huyện, tỉnh...
chuyên lừa tình nhân viên". Hay "Khi cấp...
trưởng tha hóa, sao cấp... viên tôn trọng?"...
"Ném đá' giờ đây đang trở thành phổ biến
không chỉ trên các trang mạng xã hội. Có người
thấy người khác "ném" thì vội vàng "ném" theo,
TRAO ĐỔI – Ý KIẾN - EXCHANGE - OPINION
56 Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013
bất kể ném vào ai và ném bằng cái gì. Chuyện cô
giáo dạy văn và câu ca dao "...canh gà Thọ
xương" đến nay vẫn còn dư âm đâu đó.
Liệu những người "ném đá" có tìm được bằng
chứng khẳng định, rằng tác giả (cụ Dương Khuê?)
khi viết bài thơ bốn câu "Tức cảnh Hà Nội" đã ghi
chú rằng "canh gà Thọ xương" không phải là món
ăn, mà là tiếng gà gáy báo sang canh ở đồn Thọ
xương? Đem cái suy diễn (dù là logic) của thời nay
gán cho bài thơ đã trở thành ca dao, dù sao cũng
vẫn cần sự thận trọng.
Giới truyền thông phương Tây từng lưu
truyền một giai thoại về ngài Yasser
Arafat (cố Chủ tịch Tổ chức Giải phóng
Palestine - PLO). Truyện rằng những tín đồ đạo
Hồi khi hành hương về thánh địa Mecca đều phải
nhặt bảy viên sỏi (đã được để sẵn) và ném
chúng vào tượng ác quỷ.
Y. Arafat nhặt bảy viên nhưng chỉ ném sáu
viên và giữ lại trong tay một viên. Phóng viên
phát hiện thấy đã hỏi ông: "Tại sao ngài không
ném hết bảy viên?" , Y. Arafat trả lời: "Hãy giải
thích cho tôi, tại sao tôi phải ném cả bảy viên?".
Không phóng viên nào giải thích được điều đó.
Vơ đũa cả nắm kiểu Khi thầy "tha hóa", sao
trò "tôn sư", phần nào thể hiện cái "tâm" của
người viết. Thiết nghĩ thấy một ngọn cây chưa có
nghĩa là đứng trên đỉnh núi, hứng một giọt mưa
chưa có nghĩa là thu được mây trời. Nếu ai chưa
bao giờ làm thầy, hãy thử đặt mình vào địa vị đó
một lần trước khi buông lời mỉa mai.
Câu nói "thái quá bất cập" hẳn nhiều người
biết, cái gì quá cũng đều là không tốt. Yêu quá là
không tốt, ghét quá là không tốt và tốt quá cũng
là không tốt. Phê phán đến mức "quá" có thể
thỏa mãn cơn giận (dù là chính đáng) của người
viết, nhưng kết quả nó mang lại chưa chắc đã có
ích cho cộng đồng, cho mai sau.
Rất mong rằng không phải chỉ những người
"ném đá" mà cả những "phương tiện" giúp cho
"đá bay" cũng nên bình tĩnh xem lại? Sự quá
đáng chỉ mang lại niềm ưu tư cho hàng triệu
thầy, cô giáo đang vất vả mưu sinh, đang chịu
nhiều áp lực của nghề nghiệp. Chính sự thái quá
này cũng gieo vào lòng học trò hình ảnh méo mó
về người thầy.
Sự khác biệt giữa người thầy và những người
khác là ở nghề nghiệp mà họ gắn bó chứ không
phải ở khía cạnh "con- người.
...Và biểu dƣơng
Trong khi người thầy đang bị phê phán với
những ngôn từ mạnh nhất có thể xuất hiện trên
mặt báo thì sự biểu dƣơng khen thƣởng với họ
như thế nào?
Trong danh sách do Ban Thi đua khen
thưởng Trung ương đề nghị phong tặng danh
hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 2012, hoàn
toàn vắng bóng công nhân, nông dân, những
người trực tiếp sản xuất. Gần như 100% người
được đề nghị đều là quan chức. [2]
Riêng ngành GD, năm 2012, sau khi quá
trình bình chọn kết thúc, tỷ lệ giáo viên được
công nhận là Nhà giáo Nhân dân chiếm 47.5%,
Nhà giáo Ưu tú chiếm 46,3%. Trong số 294
NGƯT thuộc các địa phương, chỉ có 69 nhà giáo
là giáo viên trực tiếp nuôi dạy, giảng dạy (đạt
23,4%).
Cứ cho rằng số lượng lãnh đạo từ cấp tổ
phó, phó bộ môn trở lên chiếm 20% tổng nhân
sự toàn ngành thì sẽ thấy số lượng lãnh đạo
được vinh danh gấp hơn bốn lần số giáo viên
trực tiếp giảng dạy.
Nếu chỉ nhìn vào các con số mà lãnh đạo Bộ
Giáo dục và Đào tạo [3] trình bày người ta hẳn
sẽ cho rằng Bộ cũng đã có nhiều chú ý đến thầy
cô nhưng thành tích của những "con ong thợ"
này còn rất hạn chế, chưa đủ tầm để xếp vào
hàng... ưu tú.
Người ta hay dùng từ "chức danh" để nói về
vị thế của một ai đó trong ngành GD. Logic của
vấn đề có lẽ nằm ở chỗ chữ "chức" đứng trước
chữ "danh" nên muốn có "danh" thì trước hết
phải có "chức". Còn muốn có chức thì "mèng ra"
TRAO ĐỔI – Ý KIẾN - EXCHANGE - OPINION
Khoa học và Công nghệ GTVT 1+2 – 2013 57
cũng phải 100 triệu, kiểu như ông Trần Trọng
Dực, một lãnh đạo thành phố Hà Nội đã công
khai phát biểu.
Vấn đề là người ta cần cái "danh" gì? Chắc
chắn đó không phải là cái "danh còm" kiểu "chiến
sĩ thi đua cấp bộ". Chẳng thế mà năm 2008 tất
cả chiến sĩ thi đua cấp bộ ngành GD ngoài một
triệu đồng tiền thưởng, thì không có bất kỳ một
giấy chứng nhận hay bằng khen nào của Bộ.
Hỏi ra mới biết Bộ không có chủ trương cấp
bằng khen cho danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp bộ
(có lẽ do đa số chiến sĩ thi đua đó chỉ là phó
thường dân?). Khi có chức, có danh (to) thì
đương nhiên người ta sẽ được đặt ở vị trí "danh
dự". Đến đây thì vòng tròn "chức - danh - dự -
chức" trở nên khép kín bởi vì có "danh' thì người
ta sẽ được "dự" nhiều hơn, đặc biệt là dự các
cuộc bầu bán, bình xét, lấy phiếu này nọ...
Các điều kiện "cần" và "đủ" này các giáo
viên cắm bản, vùng sâu, vùng xa không có điều
kiện và thời gian nghĩ đến. Thời gian của họ
ngoài việc gieo con chữ cho trẻ thơ còn phải lo
kiếm củi, kiếm măng rừng, vì đến chợ là mất cả
ngày đường.
Một lần công tác ở Bắc Quang - Hà Giang,
người viết được biết một trường tiểu học dựng
trên sườn núi cheo leo có sáu cô giáo. Thương
cô, học trò khi đi học mỗi cháu đeo thêm một ống
vầu đựng nước, leo dốc đến trường có ống nước
chỉ còn non nửa. Mấy chục ống nước ấy dành cho
các cô giáo và học trò sử dụng trong một ngày.
Nếu có ai nói với họ rằng họ xứng đáng là
Nhà giáo Ưu tú chắc chắn tất cả sẽ lắc đầu, họ
cần những cái khác thiết thực hơn thế. Giáo viên
vùng xuôi không phải lo chuyện nước, chuyện
rau nhưng những áp lực từ phụ huynh học sinh
và những vị có "chức - danh - dự" khiến họ
không thể yên tâm công tác.
Một độc giả tâm sự: "Giáo viên tiểu học còn
không được để học sinh ở lại lớp, bài thi kém phải
cho thi lại nhiều lần để đạt. Không để học sinh bỏ
học. Vì như thế xem như giáo viên đó không hoàn
thành nhiệm vụ, mà hai năm như thế sẽ bị buộc
chuyển xuống làm nhân viên hoặc về vườn) [4]
Chính sách đối xử với người thầy cũng đặt
ra những dấu hỏi lớn. Trong một trường đại học,
với những điều kiện làm việc hoàn toàn như
nhau, phần lớn thầy cô được phụ cấp ưu đãi
25%, trong khi đó một số ít người lại được
hưởng 45% [5]. Không thể nói những người
hưởng phụ cấp cao hơn là vì họ làm việc ở
những ngành khoa học mũi nhọn hay trong điều
kiện độc hại.
Thật khó để tìm lý do biện minh cho sự khác
biệt này, nếu không nói đó là sự phân biệt đối xử.
Nó hoàn toàn trái với tiêu chí "công bằng - dân
chủ - văn minh" mà chúng ta đang phấn đấu xây
dựng. Sự bất công diễn ra ngay trong ngành GD,
nơi dạy về đức làm người thật sự là điều cần
suy ngẫm.
Mức độ tôn trọng dành cho nhà giáo của một
số người viết, phụ huynh, cơ quan chức năng có
thể nói đã không còn thấp hơn được nữa. Đòi hỏi
người thầy những tiêu chí khắt khe nhưng xã hội
và Nhà nước trao cho họ những quyền gì?
Quyền duy nhất mà họ có là dạy theo những gì
mà sách giáo khoa đã viết, làm theo những gì mà
nội quy đã quy định, và hưởng một chế độ thấp
nhất trong các nghề đòi hỏi trí tuệ.
Một khi người thầy bị bó tay không thể trách
phạt học trò dẫu chỉ bằng một lời nói nặng,
không thể phát huy sự sáng tạo, không được đối
xử công bằng trong các chủ trương chính sách,
thì mọi ngôn từ hoa mỹ về nghề dạy học sẽ trở
nên vô nghĩa. Đó là một sự thật mà ai cũng biết
song không phải ai cũng có ý định thay đổi.
Những người và cả những phương tiện ưa
"ném đá" hãy làm như Y. Arafat, dành lại cho bản
thân, cho con cháu trong nhà ít nhất là một viên sỏi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2012/11/4-
nganh-tham-nhung-nhieu-nhat/
[2]. http://dantri.com.vn/blog/mot-cau-hoi-ve-
danh-hieu-cstd-toan-quoc-654258.htm
[3]. http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/101427/tai-
sao-nhieu-lanh-dao-duoc-phong-nha-giao-uu-tu-
.html
[4]. http://dantri.com.vn/blog/su-lua-chon-rat-vo-
trach-nhiem-678017.htm
[5]. QĐ số 244/2005/QĐ-TTg ngày 6/10/2005-
Về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo