bÁo cÁo ngÀnh ngÂn hÀng viỆt nam -...

64
www.VPBS.com.vn Page | 1 BÁO CÁO NGÀNH LẦN ĐẦU Tăng trưởng Huy động & Tín dụng Thị phần Tín dụng (%) Nợ xấu, 1H2013 (nghìn tỷ VND, %) Ngành ngân hàng Việt Nam mới thực sự bắt đầu phát triển từ năm 1990. Từ hệ thống ngân hàng một cấp, đến nay ngành ngân hàng đã phát triển vượt bậc, trở thành một hệ thống đông đảo các ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng chỉ trong vòng 23 năm. Hiện tại hệ thống bao gồm năm ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 34 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), bốn ngân hàng liên doanh (NHLD), năm ngân hàng 100% vốn nước ngoài và 100 chi nhánh và phòng giao dịch ngân hàng nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho thuê tài chính, và gần 1.100 quỹ tín dụng. Ngân hàng lớn nhất xét trên tổng tài sản là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, xét trên tổng vốn điều lệ là Ngân hàng Công thương. Hơn một nửa trong tổng số các NHTMCP có quy mô nhỏ với tổng tài sản nhỏ hơn 50.000 tỷ đồng và vốn điều lệ nhỏ hơn 5.000 tỷ đồng. So với các ngân hàng trong khu vực, quy mô các ngân hàng Việt Nam còn khá khiêm tốn. Ngành ngân hàng có cấu trúc vừa tập trung vừa phân tán. Các NHTMNN vẫn đang chiếm lĩnh thị trường mặc dù đang mất dần thị phần vào tay NHTMCP trong cả lĩnh vực huy động và cho vay. Số lượng chi nhánh, phòng giao dịch, máy rút tiền tự động, tài khoản ngân hàng, thẻ đều tăng rất nhanh, tuy nhiên chỉ tập trung ở khu vực thành thị và các thành phố lớn. Tỷ lệ thâm nhập thị trường của dịch vụ ngân hàng mới đạt 21%, tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Điều này làm cho ngành ngân hàng hấp dẫn trong dài hạn. Ngành ngân hàng Việt Nam đã tăng trưởng huy động và tín dụng rất ấn tượng trong quá khứ. Tuy nhiên từ năm 2010 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng đã giảm đáng kể. Chúng tôi dự đoán năm 2014 ngành ngân hàng vẫn tiếp tục tăng trưởng chậm. Rất khó để ước tính được khối lượng nợ xấu do các ngân hàng Việt Nam không tuân thủ các quy tắc quốc tế khi phân loại nợ. Tỷ lệ nợ xấu cuối tháng 11 năm 2013 được báo cáo là 4,55%, tuy nhiên con số này được thừa nhận rộng rãi là thấp hơn nhiều so với thực tế. Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) được thành lập vào tháng 7 năm 2013 với nhiệm vụ xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng. Không thể phủ nhận vai trò của VAMC, tuy nhiên tính hiệu quả của các biện pháp VAMC sử dụng còn đang gây tranh cãi. Thông tư 02, với các quy định thận trọng hơn về phân loại tài sản và phương pháp trích lập dự phòng rủi ro sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 06 năm 2014 và được kỳ vọng sẽ làm cho hoạt động của ngân hàng minh bạch hơn Lợi nhuận các ngân hàng đã giảm kể từ năm 2011. Trong giai đoạn này, các NHTMNN và NHNNg đã ổn định hơn các NHTMCP. Do các doanh nghiệp vẫn tiếp tục gặp khó khăn và tỷ lệ nợ xấu cao, triển vọng lợi nhuận của các ngân hàng trong năm 2014 tiếp tục bị cản trở bởi nợ xấu. 53,9% 9,14% 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% Huy động Tín dụng GDP 59,3 58,1 54,1 51,4 51,3 51,8 27,7 26,5 32,0 35,1 35,5 34,8 NHTMNN NHTMCP NHLD, NHNNg Khác 0% 2% 4% 6% 8% 10% -- 2 4 6 8 10 12 Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM THÁNG 1 NĂM 2014

Upload: vuonghuong

Post on 09-Sep-2018

214 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 1

BÁO CÁO NGÀNH LẦN ĐẦU

Tăng trưởng Huy động & Tín dụng

Thị phần Tín dụng (%)

Nợ xấu, 1H2013 (nghìn tỷ VND, %)

Ngành ngân hàng Việt Nam mới thực sự bắt đầu phát triển từ năm 1990.

Từ hệ thống ngân hàng một cấp, đến nay ngành ngân hàng đã phát triển

vượt bậc, trở thành một hệ thống đông đảo các ngân hàng và các tổ chức

phi ngân hàng chỉ trong vòng 23 năm. Hiện tại hệ thống bao gồm năm

ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 34 ngân hàng thương mại cổ

phần (NHTMCP), bốn ngân hàng liên doanh (NHLD), năm ngân hàng

100% vốn nước ngoài và 100 chi nhánh và phòng giao dịch ngân hàng

nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho thuê tài chính,

và gần 1.100 quỹ tín dụng. Ngân hàng lớn nhất xét trên tổng tài sản là

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, xét trên tổng vốn điều lệ

là Ngân hàng Công thương. Hơn một nửa trong tổng số các NHTMCP có

quy mô nhỏ với tổng tài sản nhỏ hơn 50.000 tỷ đồng và vốn điều lệ nhỏ

hơn 5.000 tỷ đồng. So với các ngân hàng trong khu vực, quy mô các ngân

hàng Việt Nam còn khá khiêm tốn.

Ngành ngân hàng có cấu trúc vừa tập trung vừa phân tán. Các NHTMNN

vẫn đang chiếm lĩnh thị trường mặc dù đang mất dần thị phần vào tay

NHTMCP trong cả lĩnh vực huy động và cho vay. Số lượng chi nhánh,

phòng giao dịch, máy rút tiền tự động, tài khoản ngân hàng, thẻ đều tăng

rất nhanh, tuy nhiên chỉ tập trung ở khu vực thành thị và các thành phố

lớn. Tỷ lệ thâm nhập thị trường của dịch vụ ngân hàng mới đạt 21%,

tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Điều này làm cho ngành

ngân hàng hấp dẫn trong dài hạn.

Ngành ngân hàng Việt Nam đã tăng trưởng huy động và tín dụng rất ấn

tượng trong quá khứ. Tuy nhiên từ năm 2010 trở lại đây, tốc độ tăng

trưởng đã giảm đáng kể. Chúng tôi dự đoán năm 2014 ngành ngân hàng

vẫn tiếp tục tăng trưởng chậm.

Rất khó để ước tính được khối lượng nợ xấu do các ngân hàng Việt Nam

không tuân thủ các quy tắc quốc tế khi phân loại nợ. Tỷ lệ nợ xấu cuối

tháng 11 năm 2013 được báo cáo là 4,55%, tuy nhiên con số này được

thừa nhận rộng rãi là thấp hơn nhiều so với thực tế. Công ty quản lý tài

sản Việt Nam (VAMC) được thành lập vào tháng 7 năm 2013 với nhiệm vụ

xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng. Không thể phủ nhận vai trò của VAMC, tuy

nhiên tính hiệu quả của các biện pháp VAMC sử dụng còn đang gây tranh

cãi. Thông tư 02, với các quy định thận trọng hơn về phân loại tài sản và

phương pháp trích lập dự phòng rủi ro sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 06

năm 2014 và được kỳ vọng sẽ làm cho hoạt động của ngân hàng minh

bạch hơn

Lợi nhuận các ngân hàng đã giảm kể từ năm 2011. Trong giai đoạn này,

các NHTMNN và NHNNg đã ổn định hơn các NHTMCP. Do các doanh nghiệp

vẫn tiếp tục gặp khó khăn và tỷ lệ nợ xấu cao, triển vọng lợi nhuận của

các ngân hàng trong năm 2014 tiếp tục bị cản trở bởi nợ xấu.

53,9%

9,14%

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

Huy động Tín dụng GDP

59,3 58,1 54,1 51,4 51,3 51,8

27,7 26,5 32,0 35,1 35,5 34,8

NHTMNN NHTMCP NHLD, NHNNg Khác

0%

2%

4%

6%

8%

10%

--

2

4

6

8

10

12

Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu

BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM THÁNG 1 NĂM 2014

Page 2: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 2

Nội dung TỔNG QUAN NGÀNH NGÂN HÀNG THẾ GIỚI................................................................................. 3

CẬP NHẬT TÌNH HÌNH NGÀNH NGÂN HÀNG ............................................................................... 3

NHỮNG NGÂN HÀNG ĐẦU NGÀNH ............................................................................................ 6

TỔNG QUAN NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM ............................................................................... 11

LỊCH SỬ VÀ PHÁT TRIỂN ....................................................................................................... 11

Ngân hàng thương mại nhà nước ......................................................................................... 12

Ngân hàng thương mại cổ phần ........................................................................................... 15

Ngân hàng nước ngoài ........................................................................................................ 15

TĂNG TRƯỞNG ẤN TƯỢNG TRONG QUÁ KHỨ ........................................................................... 18

Tăng trưởng tài sản ............................................................................................................ 18

Tăng trưởng vốn ................................................................................................................ 19

Tăng trưởng huy động và tín dụng ....................................................................................... 23

PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG ....................................................................................................... 25

Thị phần ........................................................................................................................... 25

Cơ sở hạ tầng ngân hàng, phân phối, sự thâm nhập thị trường ................................................ 27

MÔI TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG ..................................................................................................... 31

Tình hình vĩ mô ................................................................................................................. 31

Khung pháp lý ................................................................................................................... 36

KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG ........................................................................................................... 38

So sánh ROA & ROE ........................................................................................................... 38

Phân tích Dupont ............................................................................................................... 39

Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh ................................................................................. 40

Bảng cân đối Kế toán ......................................................................................................... 43

Đánh giá chất lượng tín dụng .............................................................................................. 46

RỦI RO VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC ........................................................................................... 47

Rủi ro thanh khoản ............................................................................................................ 47

Rủi ro lãi suất .................................................................................................................... 50

Rủi ro tín dụng và nợ xấu .................................................................................................... 51

VAMC và các giải pháp cho vấn đề nợ xấu ............................................................................. 54

Sở hữu chéo ...................................................................................................................... 56

Ngân hàng Việt Nam trên con đường đến Basel ..................................................................... 57

Các thương vụ mua bán và sáp nhập gần đây ....................................................................... 59

Có cần thiết phải tách biệt ngân hàng và các công ty chứng khoán ở Việt Nam hay không? ......... 60

TRIỂN VỌNG NGÀNH................................................................................................................ 61

Page 3: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 3

TỔNG QUAN NGÀNH NGÂN HÀNG THẾ GIỚI

Trên thế giới hiện nay có nhiều hình thức ngân hàng tồn tại như ngân

hàng tư nhân, ngân hàng quốc doanh, ngân hàng thương mại, ngân hàng

đầu tư. Một số ngân hàng chú trọng vào các nghiệp vụ ngân hàng truyền

thống, trong khi số còn lại chỉ thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, hoặc

cả hai.

Ngân hàng thương mại có hai nguồn doanh thu chính: thu nhập lãi cho

vay và thu nhập ngoài lãi. Thu nhập lãi từ hoạt động cho vay là nghiệp vụ

chính của ngân hàng.. Thu nhập ngoài lãi của ngân hàng thường bao gồm

thu nhập từ phí và dịch vụ từ hoạt động ngân hàng, đầu tư chứng khoán,

và các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư như mua bán sáp nhập, quản lý tài

sản, bảo lãnh phát hành và tư vấn tài chính.

Đi cùng với các nguồn doanh thu, cơ cấu chi phí của mỗi ngân hàng

thường có hai thành phần chính: chi phí hoạt động tại các điểm giao dịch

và chi phí lãi phải trả cho người gửi tiền. Ngân hàng sử dụng nhiều kênh

giao dịch khác nhau để tiếp cận khách hàng, từ mạng lưới các phòng giao

dịch truyền thống đến máy giao dịch tự động, dịch vụ chăm sóc khách

hàng qua điện thoại, hệ thống quầy giao dịch ngân hàng tới dịch vụ ngân

hàng qua di động, ngân hàng qua Internet. Các kênh giao dịch này thường

tốn của ngân hàng một khoản chi phí lớn.

Hiện nay có hai xu hướng trong các mô hình hệ thống tài chính. Một số

nước áp dụng các quy định tách các ngân hàng thương mai và ngân hàng

đầu tư riêng biệt, trong khi một số nước cho phép sự kết hợp của hai loại

hình dịch vụ này trong một tổ chức.

CẬP NHẬT TÌNH HÌNH NGÀNH NGÂN HÀNG

Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 ở Mỹ và cuộc khủng hoảng nợ công

ở châu Âu năm 2010 đã đẩy nhiều nền kinh tế rơi vào suy thoái và một

loạt các định chế tài chính lớn trở nên mong manh hơn bao giờ hết trước

những cú sốc tài chính. Tại Mỹ, nhằm thúc đẩy nền kinh tế của nước mình,

Cục dự trữ Liên Bang Mỹ (Fed) đã áp dụng chương trình Nới lỏng Định

lượng (chương trình QE). Chương trình QE là một công cụ của nghiệp vụ

thị trường mở của ngân hàng trung ương nhằm tăng cung tiền khi lãi suất

cho vay đã thấp gần bằng không (0), từ đó duy trì được lãi suất và giá trị

của đồng tiền ở mức thấp, thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Fed đã áp dụng

chương trình QE từ tháng 10/2008 cho tới nay chia làm ba giai đoạn thông

qua việc mua các trái phiếu dài hạn và một số tài sản khác. Gần đây, nền

kinh tế Mỹ đã liên tục có những tín hiệu tăng trưởng khởi sắc, với tỷ lệ

thất nghiệp giảm xuống trong một vài tháng và thị trường nhà đất đã ấm

dần lên cùng với mức tiêu dùng nội địa tăng cao hơn trước. Khi cuộc

khủng hoảng tài chính đã qua, chính phủ Mỹ đã thể hiện rõ quan điểm cắt

giảm chương trình QE, một trong những nỗ lực cuối cùng của Fed để kích

thích cho vay và tăng trưởng kinh tế nói chung trong năm tới, mở đường

cho lãi suất trái phiếu chính phủ tăng lên, qua đó thu hút dòng vốn quay

trở lại Mỹ.

Bức tranh của ngành ngân hàng toàn cầu và sự sụp đổ của kinh tế toàn

cầu trong năm năm gần đây thực chất bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài

chính năm 2008 tại Mỹ. Sự phát triển quá nóng của thị trường nhà đất của

Ngành ngân hàng trên toàn

cầu rất phát triển.

Chương trình Nới lỏng định

lượng được áp dụng ở Mỹ để

kích thích tăng trưởng kinh

tế.

Page 4: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 4

Mỹ đã bùng nổ thành cuộc khủng hoảng cho vay mua nhà thế chấp dưới

chuẩn, tạo nên cuộc suy thoái lớn nhất trong lịch sử kể từ cuộc Đại suy

thoái năm 1929. Từ tháng 10/2008, chính phủ Mỹ đã áp dụng một loạt

giải pháp để tránh cho ngành ngân hàng khỏi sụp đổ, tăng cường ổn định

thị trường, nâng cao sức khỏe của hệ thống tài chính, và tăng tính thanh

khoản của thị trường.

Chương trình giải cứu các tài sản có vấn đề (TARP) được đưa ra bởi đạo

luật Bình ổn Kinh tế Khẩn cấp (EESA) lần đầu tiên được thông qua vào

ngày 03/10/2008 với thời hạn kéo dài hai năm. Trong TARP, bộ Tài chính

có quyền hoặc mua hoặc bảo đảm cho các tài sản có vấn đề của các tổ

chức tài chính với số tiền lên tới 700 tỷ USD. Khái niệm “tài sản có vấn đề”

và “tổ chức tài chính” khiến bộ Tài chính có thể linh hoạt trong việc lựa

chọn tài sản nào sẽ được mua lại và tổ chức nào đủ tiêu chuẩn được coi là

tổ chức tài chính. Chương trình TARP sau đó đã được sửa đổi, áp dụng các

giới hạn chặt chẽ cho mức lương thưởng cho ban giám đốc và cắt giảm

khoản tiền của chương trình xuống còn 475 tỷ USD.

Chương trình mua vốn (CPP), nằm trong khuôn khổ của TARP, được đưa

ra lần đầu tiên vào ngày 14/10/2008. Theo chương trình này, các tổ chức

tài chính đủ điều kiện sẽ được bán các cổ phiếu ưu đãi cho Bộ Tài chính

với giá trị tương đương từ 1% đến 3% tổng tài sản “có” rủi ro của tổ chức

đó. Các cổ phiếu ưu đãi bán được sẽ củng cố nguồn vốn cấp 1 cho tổ chức

tài chính đó. Tính tới nay đã có 707 tổ chức tài chính ở 48 bang nhận được

nguồn vốn từ bộ Tài chính thông qua chương trình này. CPP và các chương

trình khác của TARP có thể chia nhỏ thành các nhóm chương trình sau:

chương trình hỗ trợ ngân hàng, chương trình thị trường tín dụng, các

chương trình đầu tư khác, và chương trình nhà ở.

Các khoản giải ngân của Quỹ TARP (tỷ USD) tính đến 21/06/2013 Các chương trình của TARP Số tiền phân bổ Số tiền giải ngân thực tế

Chương trình hỗ trợ ngân hàng 250,46 245,1

Chương trình thị trường tín dụng 20,08 19,09

Tập đoàn AIG 67,84 67,84

Chương trình cứu trợ ngành ô tô 79,69 79,69

Chương trình hỗ trợ nhà ở 38,49 8,25

Tổng 456,56 419,97

Nguồn: Dịch vụ Nghiên cứu Quốc hội

Sự yếu kém và dễ đổ vỡ của ngành ngân hàng sau cuộc khủng hoảng đã

dấy lên yêu cầu cấp bách chấm dứt những thập niên gỡ bõ các quy định

(giải quy) của ngân hàng và thiết lập những chuẩn mực nghiêm ngặt hơn

cho một hệ thống tài chính toàn cầu an toàn hơn. Khi TARP kết thúc vào

03/10/2010, Đạo luật Bảo vệ Người tiêu dùng và Cải cách Phố Wall Dodd-

Frank (đạo luật Dodd-Frank) cũng đã được ban hành vào năm 2010, trở

thành cuộc cải cách tài chính toàn diện nhất kể từ Đạo luật Steagall (năm

1933). Đạo luật Dodd-Frank đã xây dựng các chuẩn mực cẩn trọng và

toàn diện hơn để giám sát các tổ chức tài chính và để tránh những trường

hợp “quá lớn để sụp đổ” mới trong tương lai.

Hiệp ước Basel đã được phát triển thành một khung tiêu chuẩn toàn cầu

để giải quyết yêu cầu cấp bách cho một thị trường tài chính an toàn hơn.

Phiên bản đầu tiên của Hiệp ước Basel, Basel I, được Ủy bản Basel về

TARP là biện pháp chưa có

tiền lệ được Chính phủ Mỹ sử

dụng để cứu hệ thống ngân

hàng khỏi cuộc khủng hoảng

tài chính năm 2008.

Hiệp ước Basel và những

phiên bản của nó là khung

quy định toàn cầu về tiêu

chuẩn ngân hàng phổ biến

nhất trên thế giới.

Page 5: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 5

giám sát ngân hàng (BCBS) soạn thảo, gồm đại diện của các ngân hàng

trung ương của 12 quốc gia. Hiệp ước ban đầu chỉ nhằm áp dụng cho các

ngân hàng hoạt động trên quy mô quốc tế nhưng nó đã được rất nhiều

quốc gia chào đón và được áp dụng rộng rãi ở cấp quốc gia. Hiệp ước tập

trung vào định nghĩa mức vốn tối thiểu, theo đó tất cả các tài sản trên

bảng cân đối kế toán và các tài sản ngoại bảng được áp một mức tỷ trọng

tương đương với mức độ rủi ro ước tính của tài sản đó. Và các ngân hàng

phải duy trì một mức vốn tối thiểu không nhỏ hơn 8% của tổng tài sản có

rủi ro.

BCBS tiếp tục sửa đổi các tiêu chuẩn về tỷ lệ an toàn vốn để nhằm tạo ra

một sự phục hồi tốt hơn cho các ngân hàng toàn cầu với sự ra đời của

Hiệp ước Basel II. Mục tiêu mới trong Hiệp ước Basel II so với hiệp ước cũ

là thúc đẩy thông qua các biện pháp chặt chẽ hơn trong lĩnh vực quản trị

rủi ro. Bên cạnh vấn đề quản trị rủi ro tín dụng đã được nhắc đến từ đầu,

Hiệp ước Basel II đưa rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động vào để xây

dựng nên ba cột trụ. Cột trụ thứ nhất tập trung vào các yêu cầu về vốn

với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu ở mức 8% như trước, trong đó tỷ lệ vốn góp

tối thiểu là 3,5% và tỷ lệ vốn Cấp 1 tối thiểu là 4,5%. Cách đánh giá tỷ

trọng cho tài sản được đã được quy định rõ ràng hơn, cùng với những

hướng dẫn quản lý các tài sản thế chấp một cách có hệ thống hơn. Cột trụ

thứ hai tập trung vào hệ thống kiểm soát nội bộ và giám sát của ngân

hàng mà thông qua đó các nhà quản lý sẽ đánh giá hệ thống nội bộ và mô

hình của ngân hàng xem cột trụ thứ nhất đã được thực hiện nghiêm túc ở

ngân hàng đó hay chưa. Nếu các nhà quản lý đánh giá mức vốn vẫn chưa

đủ, các ngân hàng sẽ được yêu cầu tăng mức vốn hoặc hạn chế số lượng

tín dụng cấp mới. Cột trụ thứ ba đưa ra các nguyên tắc của thị trường và

các yêu cầu về công bố thông tin.

Mặc dù có nhiều điểm cải tiến so với Basel I, cuộc khủng hoảng tài chính

vẫn diễn ra, cho thấy Hiệp ước vẫn còn nhiều hạn chế. Những hạn chế này

đã được sửa đổi bổ sung trong phiên bản mới, Hiệp ước Basel III nhằm

tăng cường các quy định yêu cầu, hệ thống giám sát và quản lý rủi ro của

khu vực ngân hàng. Theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), tính đến

tháng 10/2013, 14 nước thành viên hội đồng Basel đã thông qua các quy

định về vốn dựa trên Basel III, bao gồm Úc, Canada, Trung Quốc, Đặc khu

kinh tế Hồng Kông, Ấn Độ, Nhật Bản, Mê-hi-cô, Ả Rập Saudi, Singapore,

Nam Phi và Thụy Sỹ. 13 quốc gia thành viên còn lại, dù đã trễ thời hạn

ngày 01/01/2013, vẫn đang tiếp tục ban hành các quy định theo chuẩn

Basel III. Các nước này gồm có chín nước thành viên Liên minh châu Âu,

Indonesia, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Mỹ. Hiệp ước Basel III đưa ra nhiều

điểm mới so với Basel II với việc giới thiệu lần đầu các yêu cầu về thanh

khoản, nâng mức vốn yêu cầu tối thiểu và những cải tiến ở các cột trụ còn

lại.

Page 6: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 6

Khác biệt giữa Basel II và Basel III

Nguồn: Moody’s

Ở cột trụ thứ nhất, tỷ lệ vốn tự có tối thiếu tăng lên 4,5% từ mức cũ

2,5%, và tỷ lệ vốn Cấp 1 tối thiếu nâng thêm 2% lên mức 6%. Khoản vốn

đệm để bảo toàn vốn được bổ sung từ nguồn vốn góp thông thường là một

điểm mới được đưa vào nhằm tăng khả năng chịu đựng mất mát của các

ngân hàng trước những cú sốc tài chính. Nếu mức vốn đệm này rơi xuống

thấp hơn 2,5%, ngân hàng bị buộc phải dừng việc trả cổ tức và thưởng

cho nhân viên cho tới khi vốn đệm được khôi phục. Liên quan đến việc cải

thiện tình hình thiếu sự giám sát về mức chênh lệch giữa huy động và cho

vay, một bộ tiêu chuẩn về thanh khoản gồm có tỷ lệ đảm bảo tính thanh

khoản (LCR) và tỷ lệ cung cấp vốn bền vững thuần (NSFR) đã được đưa

ra, củng cố khả năng khôi phục của các ngân hàng trong ngắn hạn, đảm

bảo cho ngân hàng có đầy đủ tài sản có tính thanh khoản chất lượng tốt

để vượt qua cơn sốc tài chính trong vòng một tháng. Tiêu chuẩn tối thiểu

cho tỷ lệ LCR và tỷ lệ NSFR đang được thảo luận và dự kiến sẽ đi đến

quyết định vào năm 2015 và 2018. Việc áp dụng đúng hiệp ước Basel III

sẽ tăng cường tính minh bạch, khả năng có thể so sánh và nền tảng tài

chính bền vững cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng trên khắp thế giới.

NHỮNG NGÂN HÀNG ĐẦU NGÀNH

Trong bối cảnh tài chính chưa ổn định như hiện nay, các ngân hàng Trung

Quốc đã cải thiện thành công thứ hạng trên giới của mình khi năm 2012,

ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc (ICBC) đã vượt qua

ngân hàng JP Morgan & Chase (JPM) trở thành ngân hàng lớn nhất thế giới

theo chỉ tiêu vốn cấp 1. Các ngân hàng Trung Quốc và Mỹ chia nhau nắm

giữ sáu vị trí còn lại trong top 10. Hai vị trí còn lại thuộc về hai ngân hàng

ở Anh và Nhật Bản.

Page 7: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 7

Một số chỉ số tài chính của top 10 ngân hàng lớn nhất thế giới theo vốn Cấp 1 Ngân hàng Xếp hạng theo vốn cấp 1 ROA ROE CAR

ICBC 1 1,44% 23,02% 13,66%

JP Morgan Chase & Co 2 0,92% 11,00% 15,30%

Bank of America 3 0,19% 1,79% 16,31%

HSBC 4 0,60% 8,40% 16,10%

China Construction Bank 5 1,50% 22% 14,32%

Citigroup 6 0,40% 4,10% 1726%

Mitsubishi UFJ 7 0,47% 11,37% 16,68%

Wells Fargo 8 1,41% 12,95% 14,63%

Bank of China 9 1,19% 18,10% 13,63%

Agri. Bank of China 10 116% 20,74% 12,61%

Nguồn: Báo cáo thường niên của các ngân hàng

ICBC

Ngân hàng ICBC đã được tái cấu trúc từ ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước

thành ngân hàng thương mại cổ phần vào tháng 10/2005. Tại thời điểm

đó, ngân hàng này đã được niêm yết tại Sàn chứng khoán Thượng Hải và

một năm sau, được niêm yết trên Sàn chứng khoán Hồng Kông. Trong

vòng năm năm qua, ICBC đã đạt được một loạt các chỉ số tài chính ấn

tượng, thể hiện rõ sự phát triển bền vững và nguồn vốn đủ mạnh của

mình.

Một số chỉ số tài chính của ngân hàng ICBC giai đoạn 2008 - 2012 Chỉ số (%) 2012 2011 2010 2009 2008

Lợi nhuận trên tài sản (ROA) 1,45 1,44 1,32 1,2 1,21

Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) 23,02 23,44 22,79 20,15 19,43

Tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) 2,66 2,61 2,44 2,26 2,95

Chi phí trên thu nhập 29,24 29,91 30,99 33,18 29,84

Tỷ lệ nợ xấu (NPL) 0,85 0,94 1,08 1,54 2,29

Hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) 13,66 13,17 12,27 12,36 13,06

Nguồn: Báo cáo thường niên của ngân hàng ICBC

ICBC không chỉ thành công vươn tới vị trí số một thế giới về vốn Cấp 1 mà

còn khẳng định vị thế dẫn đầu của mình ở mặt thu nhập lãi thuần.

Các ngân hàng lớn nhất thế giới năm 2012 theo thu nhập lãi thuần (tỷ USD)

Nguồn: The Banker

Thực tế, ICBC đã đa dạng hóa nguồn lợi nhuận khá thành công trong suốt

năm năm qua. Doanh thu lãi thuần chỉ chiếm 79% tổng doanh thu của

ngân hàng này, giảm so với mức 85% năm 2008, trong khi thu nhập từ

phí dịch vụ tăng từ 15% lên 19% trong cùng kỳ. Vị thế ngày càng lớn hơn

- 20 40 60

HSBC

Banco Santander, Spain

Bank of China

Bank of America

Wells Fargo & Co

JP Morgan Chase & Co

Citigroup

Agri. Bank of China

China Construction Bank

ICBC

Năm 2012, ICBC là ngân

hàng Trung Quốc đầu tiên

dành được vị trí ngân hàng

lớn nhất thế giới theo vốn

Cấp 1.

Page 8: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 8

của doanh thu từ phí và hoa hồng đã cải thiện sự bền vững cho nguồn

doanh thu của ngân hàng, giúp tăng vốn cho phát triển dài hạn.

Cơ cấu thu nhập của ngân hàng ICBC năm 2008 và 2012

Nguồn: Báo cáo thường niên của ICBC

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các công ty ở Trung Quốc đang gia tăng nhu

cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng đầu tư. Nhận thấy các cơ hội này, từ

năm 2002, ICBC đã trở thành tổ chức tài chính đầu tiên ở Trung Quốc đại

lục đưa ra dịch vụ ngân hàng đầu tư dựa trên khung ngân hàng thương

mại sẵn có. Ngân hàng ICBC đã tận dụng lợi thế để hỗ trợ hoạt động trong

nước và các chi nhánh nước ngoài, tìm kiếm các cơ hội làm ăn mới và

nâng cao tính chuyên nghiệp. Hiện nay, ICBC đã trở thành một thương

hiệu quốc tế có mặt trên gần 40 nước trải đều khắp sáu châu lục. Theo

báo cáo thường niên năm 2012, nhờ có mạng lưới rộng khắp gồm 17.125

chi nhánh nội địa và 393 chi nhánh quốc tế, các sản phẩm tài chính của

ngân hàng đã phục vụ 4,38 triệu khách hàng doanh nghiệp và 393 triệu

khách hàng cá nhân. ICBC rõ ràng đang cạnh tranh với các đối thủ hàng

đầu trong lĩnh vực để phục vụ những khách hàng cao cấp trên thị trường

vốn toàn cầu.

Nợ xấu của ngân hàng ICBC từ năm 2008-2012

Các nhóm nợ

2012 2011 2010 2009 2008

Số tiền (triệu RMB)

% Số tiền (triệu RMB)

% Số tiền (triệu RMB)

% Số tiền (triệu RMB)

% Số tiền (triệu RMB)

%

Nợ xấu 74.575 0,85 73.011 0,94 73.241 1,08 88.467 1,54 104.482 2,29

Nợ dưới tiêu chuẩn 29.418 0,33 24.092 0,31 18.932 0,28 31.842 0,56 37.694 0,82

Nợ nghi ngờ 36.482 0,41 38.712 0,50 41.765 0,62 43.413 0,76 55.641 1,22

Nợ có khả năng mất vốn 8.675 0,10 10.207 0,13 12.544 0,18 13.212 0,23 11.147 0,24

Tổng dư nợ 8.803.692 100,0 7.788.897 100,0 6.790.506 100,0 5.728.626 100,0 4.571.994 100,0

Nguồn: Báo cáo thường niên của ngân hàng ICBC

ICBC đã chứng tỏ sức cạnh tranh và tính bền vững của mình thông qua

những con số nợ xấu hết sức ấn tượng trong những năm gần đây. Ngân

hàng này đã áp dụng một hệ thống quản lý rủi ro phức tạp để đảm bảo sự

Thu nhập lãi thuần

79%

Thu nhập từ phí,

hoa hồng thuần 20%

Khác 1%

2012

Thu nhập lãi thuần 85%

Thu nhập từ phí, hoa

hồng thuần 14%

Khác 1%

2008

Page 9: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 9

an toàn của toàn hệ thống tín dụng, tỷ lệ nợ xấu nhờ vậy lần đầu tiên đã

giảm xuống dưới mức 1% vào năm 2011 và tiếp tục thấp hơn trong năm

2012 và dự báo cả những năm tiếp theo. Dư nợ tín dụng tăng trưởng bền

vững nhưng cơ cấu của nợ xấu đã chuyển phần lớn sang dạng nợ dưới

chuẩn và nợ nghi ngờ, nhờ đó giảm thiếu các khoản lỗ được ghi nhận.

JP Morgan Chase & Co

JPM đã bị ICBC chiếm ngôi vị thứ nhất tính theo quy mô vốn cấp 1 nhưng

định chế tài chính khổng lồ này vẫn giữ vị trí số một thế giời về doanh thu

dịch vụ ngân hàng đầu tư tính đến Quý 3 năm 2013.

Các ngân hàng có doanh thu từ phí dịch vụ ngân hàng đầu tư lớn nhất Quý 3/ 2013 (triệu USD)

Nguồn: Tạp chí Financial Times

Doanh thu từ dịch vụ ngân hàng đầu tư của JPM thực sự chỉ chiếm 6%

trong tổng doanh thu Quý 3/2013 và 9% trong năm tài chính 2012.

Doanh thu lãi thuần giữ vị trí chủ chốt trong tổng thu, khoảng 44% trong

ba quý đầu tiên của năm 2013. Những thành phần doanh thu lớn tiếp theo

thuộc về doanh thu quản lý tài sản (15%) và giao dịch ủy thác (14%).

Phần còn lại là doanh thu từ phí liên quan đến cho vay và huy động,

doanh thu thẻ và phí cho vay thế chấp.

Cơ cấu doanh thu của ngân hàng JPM 2008 – 2012

Nguồn: Báo cáo thường niên của ngân hàng JPM

0 1000 2000 3000 4000

JP Morgan

Bank of America

Goldman Sachs & Co

Morgan Stanley

Citi Group

Deutsche Bank

Barclays

Credit Suisse

Wells Fargo & Co

UBS

Phí ngân hàng đầu tư

8% 7% 6% 6% 6% -16%

10% 11% 10% 6%

21% 12% 13% 14% 14%

58%

51% 50% 49% 46%

-40%

-20%

0%

20%

40%

60%

80%

100%

120%

140%

2008 2009 2010 2011 2012

Doanh thu lãi thuần

Doanh thu khác

Doanh thu thẻ

Phí cho vay thế chấp và các doanh thu khác

Lãi kinh doanh chứng khoán

Quản lý tài sản

Phí liên quan đến cho vay và huy động

Giao dịch ủy thác

Phí ngân hàng đầu tư

Năm 2012, ngân hàng JP

Morgan Chase & Co để mất vị

trí số một thế giới nhưng vẫn

dẫn đầu thị trường ngân

hàng đầu tư.

Page 10: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 10

Trong bối cảnh hỗn loạn tài chính những năm gần đây, JPM vẫn báo cáo

con số kỷ lục 2,6 tỷ USD thu nhập thuần, tăng 12% so với năm trước.

Những con số ấn tượng này là những bằng chứng rõ ràng nhất rằng JPM

vẫn là một công ty dịch vụ tài chính dẫn đầu thế giới và là một trong

những ngân hàng lớn nhất nước Mỹ. Tuy nhiên, JPM gần đây đã dính vào

một vài rắc rối pháp luật. Tháng 9/2013, ngân hàng này đã bị tòa án kết

tội không thực hiện giám sát đầy đủ các giao dịch viên chứng khoán khi

họ định giá quá cao giá trị của các danh mục đầu tư so với thực tế để che

giấu các khoản thua lỗ lớn. JPM bị phạt khoản tiền trị giá 920 triệu USD,

bao gồm 300 triệu USD cho Văn phòng kiểm soát tiền tệ của Mỹ, 200 triệu

USD cho Fed, 200 triệu USD cho Ủy ban chứng khoán Mỹ và phần còn lại

cho Cơ quan quản lý hoạt động tài chính của Anh.

Page 11: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 11

TỔNG QUAN NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM

LỊCH SỬ VÀ PHÁT TRIỂN

Sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam có thể được đánh dấu từ sự

ra đời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vào ngày 06/05/1951.

Tuy nhiên các ngân hàng thương mại ở Việt Nam lại có một lịch sử hình

thành mới mẻ cách đây 23 năm, cụ thể là vào tháng 5/1990 khi hai sắc

lệnh quan trọng được ban hành: Sắc lệnh về Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam và Sắc lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và các công ty tài

chính. Quy định này thực sự đưa Việt Nam từ một nước có hệ thống ngân

hàng độc nhất sang hệ thống ngân hàng hai cấp mà ở đó chức năng của

ngân hàng nhà nước được thu hẹp lại, chỉ còn giám sát chính sách tiền tệ,

phát hành tiền, quản lý hệ thống tín dụng, giám sát các ngân hàng thương

mại, quản lý dự trữ ngoại hối với mục tiêu hàng đầu là bình ổn tiền tệ và

kiểm soát lạm phát, trong khi chức năng trung gian tài chính (huy động và

phân bổ vốn) được chuyển sang cho các ngân hàng thương mại.

Những bước phát triển quan trọng của hệ thống tài chính Việt Nam được

tóm tắt theo bảng dưới đây:

Những phát triển quan trọng của hệ thống tài chính Việt Nam

Từ năm 1991 Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) được phép đi vào hoạt động và các ngân hàng nước ngoài được phép tham gia vào thị trường Việt Nam thông qua việc mở các chi nhánh hoặc liên doanh với các ngân hàng trong nước.

1993 Việt Nam bình thường hóa quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng quốc tế (Quỹ tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á).

1995 Nghị quyết về việc dỡ bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng được Quốc hội thông qua. Ngân hàng cho người nghèo được thành lập.

1997 Luật về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật về các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội khóa 10 thông qua vào ngày 02/12/1997 và có hiệu lực từ ngày 01/10/1998; Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long được thành lập theo quyết định 769/TTg ban hành ngày 18/09/1997.

1999 Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được thành lập vào ngày 09/11/1999.

2000

Tái cơ cấu lại tổ chức và tài chính của các ngân hàng thương mại quốc doanh và các ngân hàng thương mại cổ phần.

Công ty quản lý tài sản của từng ngân hàng thương mại được thành lập.

2001

Hiệp định thương mại song phương với Mỹ được ký kết. Theo hiệp định này, thị trường tài chính và các ngân hàng của Việt Nam sẽ dần dần mở cửa đối với Mỹ, và vào năm 2010 các tổ chức tài chính của Mỹ được đối xử ngang bằng với các tổ chức tài chính của Việt Nam. Đây là nền tàng tốt cho sự phát triển thị trường tài chính của Vệt Nam, nhưng cũng là một thách thức lớn cho các tổ chức tài chính trong nước, đặc biệt là các ngân hàng thương mại.

2002 Lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng được tự do hóa – đây là bước cuối cùng để hoàn toàn tự do hóa lãi suất của thị trường tín dụng.

2003

Tái cơ cấu toàn diện hoạt động các ngân hàng thương mại theo chuẩn quốc tế; Ngân hàng Chính sách Xã hội được thành lập, thay thế cho Ngân hàng dành cho người nghèo nhằm tách bạch tín dụng chính sách khỏi tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; Luật về Ngân hàng Nhà nước được sửa đổi.

2010

Quốc hội Khóa 12 thông qua Luật mới về Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam và Luật về các tổ chức Tín dụng trong phiên họp thứ 7 tại Hà Nội vào ngày 16/06/2010. Hai bộ luật bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2011. Theo đó, NHNN là một cơ quan ngang bộ của Chính Phủ và hoạt động như một ngân hàng TW của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Nguồn: NHNN, VPBS tổng hợp

Ngành ngân hàng Việt Nam

thực sự đi vào hoạt động vào

năm 1990. Từ hệ thống một

ngân hàng độc nhất, nó đã

trở thành một mạng lưới rộng

khắp các tổ chức ngân hàng

và phi ngân hàng chỉ trong

23 năm.

Page 12: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 12

Trong suốt hai thập kỷ kể từ lần cải cách đầu tiên, ngành ngân hàng đã

phát triển mạnh mẽ, ít nhất là ở số lượng các ngân hàng. Từ hệ thống một

ngân hàng độc nhất – với ngân hàng nhà nước đồng thời kiêm cả chức

năng của ngân hàng thương mại và ngân hàng trung ương, hệ thống ngân

hàng đã trở nên đông đảo với 150 ngân hàng và hơn 1.100 tổ chức tín

dụng phi ngân hàng chỉ trong vòng 23 năm. Sự phát triển tập trung vào

hai giai đoạn và hai nhóm ngân hàng. Thập niên 90’ là thời đại của các

NHTMCP và giai đoạn đầu những năm 2000 đánh dấu thời điểm tham gia

của các ngân hàng nước ngoài.

Số lượng ngân hàng

Nguồn: NHNN

Số lượng các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) vẫn ổn định, từ

bốn NHTMNN được thành lập ban đầu, chỉ có một ngân hàng Nhà Đồng

Bằng Sông Cửu Long (MHB) được thành lập thêm vào năm 1997. Trong

khi đó, số lượng các NHTMCP tăng mạnh trong thập kỷ 90’, lên đỉnh điểm

với 51 ngân hàng trong năm 1996, nhưng đã giảm dần từ đó xuống còn

34 ngân hàng do các quy định liên quan tới vốn điều lệ tối thiểu và tỷ lệ

an toàn vốn tối thiểu, dẫn đến việc sáp nhập và hợp nhất của một loạt các

ngân hàng nhỏ và yếu kém. Chúng tôi sẽ bình luận thêm về ảnh hưởng

của những quy định này lên khu vực ngân hàng ở phần sau của báo cáo,

nhưng có thể nói rằng việc hợp nhất ở ngành ngân hàng có nhiều khả

năng vẫn còn tiếp tục.

Ngân hàng thương mại nhà nước

Hiện nay có năm NHTMNN ở Việt Nam, trong đó bốn ngân hàng lớn nhất

hệ thống: NHTMCP Ngoại thương (VCB), NHTMCP Công thương (CTG),

NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), NH Nông nghiệp và Phát

triển Nông thôn (Agribank). NHTMNN còn lại là Ngân hàng Phát triển Nhà

đồng bằng sông Cửu Long (MHB) được thành lập năm 1997 với quy mô

nhỏ.

BIDV được thành lập từ năm 1957, tiền thân là Ngân hàng Kiến thiết Việt

Nam. Năm 1981, được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt

0

10

20

30

40

50

60

1991 1993 1995 1997 1999 2001 2005 2007 2008 2009 2013

NHTMNN NHTMCP NHLD CN NHNNg NHNNg

NHTMNN là những ngân hàng

lớn nhất và giữ vị trí cốt yếu

trong hệ thống ngân hàng

Việt Nam.

Page 13: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 13

Nam và đổi thành tên như hiện nay vào 14/11/1990. Nhiệm vụ hàng đầu

của BIDV là cung cấp nguồn vốn dài hạn cho các dự án xây dựng cơ sở hạ

tầng và công trình công.

VCB là ngân hàng có tổ chức tiền thân là Cục Ngoại Hối (một cơ quan

chuyên ngành của NHNN) theo Nghị định Chính phủ số 115/CP năm 1962

với chức năng chính là hỗ trợ tài chính cho các hoạt động ngoại thương,

quản lý ngoại hối và hỗ trợ các công ty nhà nước.

Hai NHTMNN còn lại được thành lập sau cuộc cải cách ngân hàng. Theo

đó, Agribank và CTG cung cấp tài chính cho các khu vực kinh tế tương ứng

của mình, cụ thể là phát triển nông thôn, nông nghiệp và thương mại,

công nghiệp. Hiện nay, Agribank là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt

Nam về tổng tài sản với 2.300 chi nhánh và văn phòng giao dịch khắp cả

nước.

Để hoàn thành quá trình mở cửa thị trường ngân hàng trong nước cho các

nhà đầu tư nước ngoài và tăng tính cạnh tranh cho các ngân hàng trong

nước, chính phủ đã ban hành Quyết định số 112/2006/QD-TTg, đặt mục

tiêu cổ phần hóa các NHTMNN và cho tới năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ sở hữu

của nhà nước ở các ngân hàng này xuống còn 51%. Tuy nhiên quá trình

cổ phần hóa tất cả các NHTMNN đã diễn ra khá chậm so với mục tiêu của

chính phủ. Tính đến thời điểm tháng 04/2011, chỉ có VCB và CTG đã bán

thành công cổ phần cho các nhà đầu tư cá nhân. VCB trở thành NHTMNN

đầu tiên chào bán cổ phần lần đầu tiên ra công chúng, với 6,5% cổ phần

được bán ra trị giá 10,5 nghìn tỷ VND (khoảng 652 triệu USD) vào tháng

12/2007. CTG cũng thành công chào bán được 4% cổ phần trị giá 1,1

nghìn tỷ VND (khoảng 64 triệu USD) vào tháng 12/2008. Kế hoạch cổ

phần hóa của ba NHTMNN còn lại bị hoãn lại do tình hình yếu kém của thị

trường chứng khoán trong nước. Kế hoạch bán 15% cổ phần cho nhà đầu

tư chiến lược và 14,34% cổ phần ra công chúng của MHB được thông qua

vào tháng 04/2010. Tuy nhiên, phải đến tháng 07/2011, MHB mới huy

động được 196,8 tỷ VND từ công chúng, tương đương với 9% cổ phần của

ngân hàng. BIDV ban đầu có kế hoạch chào bán cổ phần lần đầu tiên ra

công chúng vào năm 2008 nhưng đã bị hoãn lại hai lần. Ngân hàng này đã

lên kế hoạch bán 20% cổ phần, trong đó 10% cổ phần bán cho nhà đầu tư

chiến lược. Cuối cùng, trước kỳ vọng cao từ phía thị trường, BIDV đã chào

bán 3,68% cổ phần trong lần phát hành đầu tiên ra công chúng vào tháng

12/2011, thu về 1.575 nghìn tỷ VND (tương đương 75 triệu USD), nhưng

40% sổ cổ phiếu được phát hành đã được mua bởi nhân viên BIDV và cổ

phiếu ngân hàng này vẫn chưa được niêm yết. Đối với trường hợp của

Agribank, vào tháng 02/2009, NHNN đã chấp thuận kế hoạch để Agribank

trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoàn toàn thuộc

quyền sở hữu của nhà nước. NHNN đã đề cập đến việc Agribank sẽ không

tiến hành cổ phần hóa trong ít nhất năm năm tới.

Quá trình cổ phần hóa các

NHTMNN diễn ra khá chậm.

Tính đến nay, NHNN vẫn sở

hữu đa số cổ phần.

Page 14: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 14

Sở hữu nhà nước ở các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước

Nguồn: VPBS tổng hợp

Tại diễn đàn Đối tác Phát triển Việt Nam vào tháng 12/2013, tình hình tư

nhân hóa các NHTMNN đã được cập nhật. Ở sự kiện này, Thủ tướng phát

biểu rằng Nhà nước sẽ tiếp tục bán các cổ phần của mình ở bốn NHTMNN

trong năm 2014 và 2015. Thêm vào đó, việc cổ phần hóa 500 doanh

nghiệp nhà nước sẽ được khởi động, với mục tiêu hoàn thành kế hoạch

vào năm 2020. Mặc dù diễn ra chậm hơn rất nhiều so với kế hoạch ban

đầu, Chính phủ vẫn đang thể hiện cam kết của mình đối với kế hoạch tư

nhân hóa các NHTMNN và doanh nghiệp nhà nước. Tốc độ của quá trình cổ

phần hóa và số lượng cổ phiếu của các NHTMNN sẽ được chào bán phụ

thuộc chủ yếu vào diễn biến của thị trường chứng khoán Việt Nam trong

những năm sắp tới. Nguồn cung cổ phiếu ồ ạt nói chung có khả năng sẽ

tạo áp lực khiến thị trường chứng khoán đi xuống.

Hệ thống ngân hàng Việt Nam tính đến 30/06/2013

Nguồn: NHNN, VPBS tổng hợp

Nhà nước

60,3%

Vietinbank

95,8%

BIDV

100%

Agribank

91%

MHB

77,1%

VCB

NHNN

Ngân hàng

Ngân hàng chính

sách xã hội

Ngân hàng phát triển

Ngân hàng

thương mại

5 NHTMNN (Cấp 1)

Agribank, CTG, VCB,

BIDV, MHB

34 NHTMCP (Cấp 2)

- 9 NH quy mô lớn (tài sản > 100.000 tỷ VND)

(TCB, ACB, MBB, EIB, STB, SCB, SHB, MSB, VPB)

- 7 NH quy mô vừa (100.000 tỷ VND> tài sản > 50.000 tỷ VND)

-18 NH quy mô nhỏ (tài sản < 50.000 tỷ VND)

109 NH nước ngoài (Cấp 3)

- 4 NH liên doanh

(VID, Indovina, Vinasiam, Vietnam Russia)

- 5 NH 100% vốn nước ngoài

(HSBC, Standard Chartered, Shinhan, ANZ, Hong Leong)

- 50 chi nhánh NH nước ngoài

-50 phòng đại diện của NH nước ngoài

Phi ngân hàng:

-18 công ty tài chính

- 12 công ty cho thuê tài chính

- Gần 1.100 quỹ tín dụng hợp tác

Page 15: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 15

Ngân hàng thương mại cổ phần

Tính đến 30/06/2013, Việt Nam có 34 NHTMCP với nhóm chín ngân hàng

dẫn đầu có tổng tài sản trên 100 nghìn tỷ VND. Tổng vốn điều lệ của các

NHTMCP ở Việt Nam đạt trên 160 nghìn tỷ VND tại thời điểm 30/12/2012,

lớn gấp đôi so với con số 75 nghìn tỷ VND ở khu vực NHTMNN. Số lượng

các NHTMCP áp đảo số lượng NHTMNN nhưng tính riêng vốn điều lệ của

từng NHTMCP lại thấp hơn rất nhiều so với vốn điều lệ của một NHTMNN.

Cụ thể, một nửa số NHTMCP có số vốn điều lệ dưới 4.000 tỷ VND và chỉ có

bốn NHTMCP bao gồm NHTMCP Xuất Nhập khẩu Việt Nam (EIB), NHTMCP

Sài Gòn Thương Tín (STB), NHTMCP Sài Gòn (SCB) và NHTMCP Quân đội

(MBB) có số vốn điều lệ trên 10.000 tỷ VND. Ngân hàng nhỏ nhất ở khu

vực NHTMNN trừ MHB có số vốn điều lệ trên 23.000 tỷ VND trong khi EIB,

NHTMCP lớn nhất, chỉ có 12.355 tỷ đồng vốn điều lệ. Sáu trong 34

NHTMCP là công ty đại chúng bao gồm EIB, STB, MBB, NTMCP Á Châu

(ACB), NHTMCP Sài Gòn (SHB) và NHTMCP Nam Việt (NVB).

NHTMCP là nhóm ngân hàng có nhiều thương vụ mua bán sáp nhập (M&A)

diễn ra nhất trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Trong khoảng thời

gian trước năm 2005, phần lớn các thương vụ M&A diễn ra giữa các ngân

hàng trong nước với nhau. Khi đó, rất nhiều ngân hàng thương mại cổ

phần nông thôn đã được mua lại và sáp nhập. NHTMCP Phương Nam đã

mua lại các ngân hàng: NHTMCP Nông thôn Đồng Tháp, Ngân hàng Châu

Phú, Ngân hàng Đại Nam và Ngân hàng Cái Sắn. STB mua Ngân hàng

Nông thôn Thanh Thắng, và NHTMCP Phương Tây mua Ngân hàng Nông

thôn Tây Đô. Từ sau năm 2005, các hoạt động M&A ở khu vực NHTMCP đã

thay đổi nhờ sự tham gia của các nhà đầu tư trong nước và đặc biệt là các

đối tác nước ngoài đầu tư vốn vào ngân hàng và trở thành nhà đầu tư

chiến lược. Sự tham gia của các đối tác nước ngoài ở các NHTMCP đã thực

sự trở thành xu hướng ngày càng gia tăng ở ngành ngân hàng Việt Nam.

Việc tham gia vào các NHTMCP sẽ giúp các nhà đầu tư nước ngoài tiết

kiệm thời gian và chi phí khi lần đầu bước chân vào một thị trường mới và

đổi lại, các NHTMCP sẽ nhận được không chỉ vốn mà còn có sự hỗ trợ

chuyên môn và kỹ thuật tốt hơn từ những nhà đầu tư chiến lược này.

Ngân hàng nước ngoài

Các ngân hàng nước ngoài (NH nước ngoài) có mặt ở Việt Nam từ rất sớm,

ngay sau khi Chính phủ Việt Nam dỡ bỏ hàng rào và cho phép các ngân

hàng nước ngoài mở các chi nhánh hoặc thành lập các ngân hàng liên

doanh với ngân hàng Việt Nam theo Sắc lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín

dụng và các công ty tài chính năm 1990.

Trong những năm đầu thập niên 90, chỉ có bốn ngân hàng liên doanh giữa

NHTMNN và NH nước ngoài được thành lập.

Tính đến nay có 34 NHTMCP,

hơn một nửa trong số đó là

các ngân hàng nhỏ với tổng

tài sản nhỏ hơn 50 nghìn tỷ

VND. NHTMCP là khu vực

diễn ra nhiều hoạt động M&A

nhất.

Page 16: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 16

Các ngân hàng liên doanh ở Việt Nam Ngân hàng

Năm thành lập Đối tác trong nước Đối tác nước ngoài

Indovina Bank 1990 CTG (50%) Cathay United Bank, Đài Loan (50%)

VID Public Bank 1991 BIDV (50%) Public Bank Berhad, Malaysia (50%)

Shinhanvina Bank 1994 VCB (50%) Shinhan Bank, Hàn Quốc (50%)

Vinasiam Bank 1995 Agribank(34%) Siam Commercial Bank, Thái Lan (33%) & Charoen Pokphand Group, Thái Lan (33%)

Vietnam Russia Bank 2006 BIDV (50%) VTB, Nga (50%)

Ngân hàng Shinhanvina trở thành ngân hàng 100% vốn nước ngoài năm 2011 Nguồn: VPBS tổng hợp

Tuy vậy, phải đến tận năm 1999, một làn sóng các chi nhánh của các NH

nước ngoài mới xuất hiện ở Việt Nam. Trong vòng hai năm, con số này

tăng lên thành 25 chi nhánh, và cho tới nay, nó đã vươn tới con số 50.

Một số cái tên lớn có thể kể đến là Ngân hàng Deustche Bank Vietnam,

Ngân hàng Citibank Vietnam, Ngân hàng Sumitomo Mitsui, Ngân hàng

Tokyo- Mitsubishi UFJ.

Một cách tiếp cận khác các NH nước ngoài thường dùng để tiếp cận thị

trường Việt Nam là mở các ngân hàng 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam.

Đây cũng là một kết quả của việc Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại

Thế giới (WTO) năm 2007 và chính thức mở cửa thị trường tài chính. Cho

tới nay, năm cái tên lớn đã nhận được giấy phép hoạt động để mở ngân

hàng 100% vốn nước ngoài, đều vào năm 2008, bao gồm ngân hàng

HSBC, ngân hàng ANZ, ngân hàng Standard Chartered, Ngân hàng

Shinhan Việt Nam và Ngân hàng Hong Leong.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, các ngân hàng nước ngoài

có thể mua cổ phần ở các ngân hàng Việt Nam. Sự hợp tác chiến lược này

có thể mang lại lợi ích cho cả hai bên. Đối với các ngân hàng trong nước,

quan hệ hợp tác chiến lược sẽ mang lại cơ hội tiếp cận với các sản phẩm

tài chính, các quy trình chuyên nghiệp, chuyên môn và công nghệ hiện

đại; còn đối với một ngân hàng nước ngoài thì mạng lưới chi nhánh và

nguồn khách hàng trong nước là thứ mà họ nhắm đến trong mối quan hệ

chiến lược này.

Năm 2007 và 2008 được coi là thời kỳ đỉnh điểm của các hoạt động M&A ở

khu vực ngân hàng Việt Nam với hơn 10 thương vụ thành công. Tuy

nhiên, năm 2011 và 2012 lại chứng kiến những thương vụ M&A với giá trị

kỷ lục. Tiêu điểm của thị trường M&A năm 2011 là việc ngân hàng Mizuho

mua lại 15% cổ phần của VCB trị giá 567,3 triệu USD. Năm 2012, ngân

hàng Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ trở thành đối tác chiến lược của CTG

với thương vụ gây choáng váng trị giá 743 triệu USD để mua toàn bộ 20%

cổ phần ở ngân hàng này. Hai thương vụ nhắm đến hai NHTMNN lớn là

minh chứng lớn nhất cho sự chào đón từ khu vực ngân hàng, vốn là khu

vực thận trọng nhất ở Việt Nam.

Sau khi ký kết BTA với Mỹ

(2001) và gia nhập WTO

(2007), Việt Nam đã mở cửa

thị trường với các ngân hàng

nước ngoài. Sự hiện diện của

ngân hàng nước ngoài đang

tăng lên đáng kể.

Page 17: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 17

Các thương vụ M&A giữa nhà đầu tư nước ngoài và các NHTM ở Việt Nam Ngân hàng Ngày Nhà đầu tư nước ngoài Tỷ lệ cổ phần mua trong thương vụ

ACB 7/1/2005 Standard Chartered bank 8,80%

TCB 12/1/2005 HSBC 10%

VPBank 9/1/2006 OCBC Singapore 10%

TCB 1/1/2007 HSBC 10%

Ocean Bank 1/1/2007 BNP Paribas 15%

EIB 7/1/2007 Sumitomo Mitsui Bank 15%

Habubank 10/1/2007 Deutsche bank 10%

An Bình bank 3/1/2008 Maybank 15%

ACB 7/1/2008 Standard Chartered bank 6,16%

Sourthern Bank 7/1/2008 United Overseas Bank 20%

VPBank 8/1/2008 OCBC Singapore 5%

Seabank 8/1/2008 France Societe Generale Bank 15%

VIB 9/1/2010 Common Wealth of Australia 15%

CTG 1/1/2011 International Finance Corporation 10%

VCB 9/1/2011 Mizuho Bank 15%

CTG 12/1/2012 Bank of Tokyo Mitsubishi UFJ 19,73%

Nguồn: VPBS tổng hợp

Nghị Định 69/2007/NĐ-CP - Sở hữu cổ phần NH Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài Mặc dù luật hiện nay cho phép các ngân hàng có vốn 100% nước ngoài được hoạt động ở Việt Nam, việc sở hữu các ngân hàng thương mại Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài vẫn bị giới hạn. Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài (và người có liên quan của các nhà đầu tư nước ngoài đó) không được vượt quá 30% của ngân hàng. Ngoài ra, một số hạn mức khác như sau:

- Mức sở hữu cổ phần tối đa của một nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư nước ngoài đó, không phải là tổ chức tín dụng nước ngoài hoặc nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, không vượt quá 5% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.

- Mức sở hữu cổ phần tối đa của bất kỳ một tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan của tổ chức tín dụng đó không vượt quá 10% vốn điều của một ngân hàng Việt Nam; và

- Mức sở hữu cổ phần của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đó không vượt quá 15% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam. Trường hợp đặc biệt, dựa vào đề nghị của Thống đốc NHNN, Thủ Tướng sẽ xem xét và quyết định mức sở hữu cao hơn lên tới 20%.

Nói chung, “nhà đầu tư chiến lược nước ngoài” là một tổ chức tín dụng nước ngoài có uy tín, có năng lực tài chính và kinh nghiệm để có khả năng giúp đỡ ngân hàng Việt Nam trong việc phát triển và mang lại những lợi thế có tính chiến lược. Các tiêu chuẩn bổ sung liên quan tới tổng tài sản tối thiểu, kinh nghiệm hoạt động về lĩnh vực ngân hàng trên toàn cầu, xếp hạng tín dụng quốc tế và các cam kết trong việc hỗ trợ ngân hàng Việt Nam. Bên cạnh giới hạn tỷ lệ sở hữu, một tổ chức tín dụng chỉ được phép là nhà đầu tư nước ngoài chiến lược cho một ngân hàng ở Việt Nam. Những hạn mức này áp dụng cho tất cả các khoản đầu tư của nước ngoài vào ngân hàng niêm yết và chưa niêm yết.

Nguồn: Nghị định 69/2007/NĐ-CP, VPBS tổng hợp

Tính đến thời điểm này, tổng số vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài

vào hệ thống ngân hàng Việt Nam là 24.547 tỷ VND, chiếm 6% tổng số

vốn điều lệ. So với giới hạn 30% cho tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước

ngoài hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều cơ hội tham gia

vào hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Vào giữa tháng 11/2013, một dự thảo đã được Ủy ban chứng khoán Nhà

nước trình lên Thủ Tướng đề nghị nâng trần tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu

tư nước ngoài lên tới 60% ở các công ty đã niêm yết và 49% cổ phần có

quyền biểu quyết ở các công ty đại chúng. Nếu dự thảo được thông qua,

chúng tôi nhận định đó là một bước tiến bộ trên con đường tái cấu trúc hệ

thống ngân hàng Việt Nam.

Page 18: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 18

TĂNG TRƯỞNG ẤN TƯỢNG TRONG QUÁ KHỨ

Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong 25 năm qua đã trải qua bao thăng

trầm. Câu chuyện về sự phát triển ngoạn mục luôn được nhắc đến đầu

tiên. Sự tăng trưởng của hệ thống ngân hàng có thể được nhận thấy qua

số lượng các ngân hàng, sự tăng trưởng về quy mô tài sản, vốn, tín dụng,

huy động, số lượng chi nhánh, nhân viên ngân hàng và số lượng tài khoản

ngân hàng, và số máy rút tiền tự động, v.v. Chúng tôi sẽ điểm qua từng

khía cạnh để có một đánh giá tổng thể về sự tăng trưởng này.

Tăng trưởng tài sản

Cùng với sự tăng trưởng về số lượng, khu vực ngân hàng cũng chứng kiến

sự tăng trưởng đáng kể về quy mô tài sản. Tổng tài sản khu vực ngân

hàng tăng hơn gấp hai lần từ năm 2007 đến năm 2010, tăng từ 1.097

nghìn tỷ VND (tương đương 52,4 tỷ USD) lên 2.690 nghìn tỷ VND (tương

đương 128,7 tỷ USD) theo số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Con số

này đã đạt 5.637 nghìn tỷ VND tính đến 30/09/2013.

Sự tăng trưởng Tài sản của một số NHTMNN và NHTMCP 2008-2012 (nghìn tỷ VND)

Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng, VPBS tổng hợp

Trong thời kỳ này, các NHTMCP rõ ràng tăng trưởng nhanh hơn các

NHTMNN. Điều này có thể được giải thích bởi quy mô tài sản nhỏ hơn của

nhóm này so với các NHTMNN. Nói chung, quy mô càng nhỏ, tăng trưởng

càng nhanh. Ở nhóm NHTMNN, CTG phát triển nhanh nhất trong khi

Agribank có tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) ở mức 10,21%, thấp

nhất trong nhóm. Ở nhóm NHTMCP, chỉ có ACB tăng trưởng thấp hơn 20%

một năm, các ngân hàng còn lại đều tăng trưởng nhanh với tỷ lệ CAGR

hơn 40%. Các ngân hàng có con số ấn tượng nhất là SHB và VPB với tỷ lệ

CAGR lần lượt là 69% và 53%.

Tuy nhiên khi chúng tôi nhìn vào tỷ lệ CAGR từ năm 2011 đến Quý

3/2013, con số này đã giảm mạnh xuống chỉ còn 4,6% trên toàn hệ

thống, cụ thể là 10,8%, -1% và 7,6% lần lượt ở các nhóm NHTMNN,

NHTMCP, NH nước ngoài. Nhóm NHTMNN tuy tăng trưởng chậm hơn so với

những năm trước đó nhưng vẫn thành công khi tiếp tục tăng trưởng trong

một năm đầy khó khăn như năm 2012. Trong khi đó, tài sản của một vài

NHTMCP đã bốc hơi như ACB, EIB và MSB, cụ thể hơn ACB đã bị giảm đi

CAGR

10,2%

27% 18,4%

17,1%

32% 13,8% 41% 37% 22% 40,2%

68,7% 35,5% 53,2%

-

100

200

300

400

500

600

700

AGR CTG BIDV VCB TCB ACB MBB EIB STB SCB SHB MSB VPB

2008 2009 2010 2011 2012

Tổng tài sản của các ngân

hàng có tỷ lệ CAGR khoảng

32% trong sáu năm gần đây.

NHTMCP tăng trưởng nhanh

hơn NHTMNN. Tuy nhiên, sự

tăng trưởng này đang chậm

dần.

Page 19: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 19

một phần ba giá trị tài sản. Tỷ lệ tăng trưởng cao nhưng thiếu bền vững

của một vài NHTMCP là một biểu hiện của mức độ rủi ro cao hơn ở nhóm

ngân hàng này.

Mặc dù đã tăng trưởng vượt bậc, so với các ngân hàng trong khu vực, các

ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn về quy mô tài sản.

Tổng Tài sản của CTG và một số ngân hàng trong khu vực tại thời điểm

31/12/2012 Ngân hàng Quốc gia Tài sản (tỷ USD)

ICBC Trung Quốc 2.813,50

China Construction Bank Trung Quốc 2.241

DBS Group Singapore 288,9

UOB (United Overseas Bank) Singapore 207

Maybank Malaysia 161,4

Siam Commercial Bank Thái Lan 74,2

CTG Việt Nam 24,2

Nguồn: Forbes 2012 (phát hành tháng 5/2013)

Tăng trưởng vốn

Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua ba lần thay đổi quy định về vốn

điều lệ qua việc ban hành Quyết định 67/QĐ-NH5 (ban hành ngày

27/03/1996), Nghị định 82/1998/NĐ-CP (ban hành ngày 03/10/1998), và

Nghị định 141/2006/NĐ-CP (ban hành ngày 22/11/2006). Cụ thể, bắt đầu

từ năm 1996, quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu để thành lập một

NHTMCP khá thấp và nó thay đổi phụ thuộc tùy thuộc vào nhiều yếu tố

như ngân hàng được thành lập ở khu vực thành thị hay nông thôn, mở

thêm hay không mở thêm chi nhánh. Ví dụ, Ba tỷ VND là số vốn tối thiểu

để mở một ngân hàng mà không mở thêm chi nhánh ở khu vực nông thôn,

trong khi để mở một ngân hàng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cần ít

nhất số vốn lần lượt 100 tỷ VND và 150 tỷ VND. Do những yêu cầu về vốn

thấp, khả năng sinh lời tương đối tốt và tính ổn định của ngành ngân hàng

thời bấy giờ, đã có một làn sóng mạnh mẽ thành lập các NHTMCP cỡ nhỏ.

Tuy nhiên, không phải tất cả các ngân hàng nhỏ này đều hoạt động hiệu

quả như mong đợi. Đối với một vài ngân hàng, sự thiếu kiểm soát và kinh

nghiệm, hoạt động cho vay nghèo nàn cùng sự cạnh tranh dữ dội đã đưa

họ đến tình trạng thiếu thanh khoản, mất khả năng thanh toán và âm vốn

chủ sở hữu. Nền tảng vốn mỏng không đủ khả năng hấp thụ thua lỗ do

hoạt động yếu kém đã khiến các ngân hàng này không còn sự lựa chọn

nào khác ngoài việc phá sản hoặc bị mua lại bởi những ngân hàng mạnh

hơn. Đối với những ngân hàng nhỏ còn sống sót, họ ý thức rõ được sự cần

thiết trong việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) và tích cực gia

tăng vốn điều lệ.

Với việc ban hành Nghị định 141 năm 2006, Chính phủ đã nâng mức vốn

pháp định áp dụng cho tất cả các tổ chức tín dụng ở Việt Nam lên mức

mới như sau:

Tăng trưởng vốn chủ yếu

diễn ra do thay đổi của quy

định liên quan đến vốn điều

lệ. Tính đến nay, tất cả các

ngân hàng đã đáp ứng được

yêu cầu vốn điều lệ tối thiểu

ở mức 3.000 tỷ VND. CTG là

ngân hàng lớn nhất với số

vốn điều lệ 32.661 tỷ VND.

Page 20: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 20

Mức vốn pháp định cho các tổ chức tín dụng ở Việt Nam

Các tổ chức tín dụng Mức vốn pháp định

2008 2010

NHTMNN 3.000 tỷ VND 3.000 tỷ VND

NHTMCP 1.000 tỷ VND 3.000 tỷ VND

NH liên doanh 1.000 tỷ VND 3.000 tỷ VND

NH nước ngoài 1.000 tỷ VND 3.000 tỷ VND

Chi nhánh NH nước ngoài 15 triệu USD 15 triệu USD

Nguồn: NHNN

Nghị định này quy định rằng bất kỳ ngân hàng thương mại nào không đáp

ứng được yêu cầu về vốn điều lệ trước ngày 31/12/2010 sẽ bị buộc phải

hợp nhất, thu hẹp quy mô hoạt động, hoặc bị rút giấy phép. Chỉ có 20

ngân hàng đáp ứng được yêu cầu này đúng thời hạn. 29 ngân hàng

thương mại không có khả năng đáp ứng yêu cầu này đúng hạn một phần

do hoạt động yếu kém của thị trường chứng khoán, một phần do sự gia

tăng phát hành cổ phiếu của một loạt ngân hàng muốn tăng vốn đồng

thời. Trước tình hình đó, chính phủ đã gia hạn tới ngày 31/12/2011 (theo

Thông tư 10/2011/ND-CP). Quy định này làm giảm bớt áp lực lên việc

tăng vốn ngay lập tức và giúp các ngân hàng có thêm thời gian để thực

hiện kế hoạch tăng vốn trong năm 2011. Tính đến cuối 2011, chỉ còn hai

ngân hàng chưa đáp ứng đủ yêu cầu về vốn, gồm có NHTMCP Xăng dầu

Petrolimex (PGBank) với mức vốn 2.000 tỷ VND và NHTMCP Bảo Việt với

mức vốn điều lệ 1.500 tỷ VND.

Tính đến nay, tất cả các ngân hàng thương mại đã đáp ứng đầy đủ yêu

cầu về vốn điều lệ. Tổng số vốn đăng ký của 39 ngân hàng thương mại

Việt Nam là 298.383 tỷ VND, với quy mô trung bình là 7.651 tỷ VND một

ngân hàng. Bốn ngân hàng có số vốn điều lệ lớn nhất đều là NHTMNN,

trong đó CTG giữ vị trí thứ nhất với số vốn điều lệ trị giá 32.661 tỷ VND.

Page 21: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 21

Vốn điều lệ của các ngân hàng Việt Nam tại thời điểm Quý 3/2013 (tỷ VND)

Nguồn: Reuters

Trong 34 NHTMCP, chỉ có bốn ngân hàng có số vốn trên 10.000 tỷ VND.

Chúng tôi cũng nhận thấy độ lệch chuẩn của vốn điều lệ của các ngân

hàng này khá lớn, và giá trị trung bình lớn hơn rất nhiều so với trung vị,

điều này cho thấy hệ thống ngân hàng đang phân phối lệch về phía các

ngân hàng nhỏ. Khi chúng tôi so sánh quy mô của các ngân hàng đã niêm

yết (màu xanh đậm), CTG, ngân hàng lớn nhất, thậm chí cũng không thể

so sánh được với các ngân hàng trong khu vực.

3.000

3.000

3.000

3.000

3.000

3.000

3.000

3.002

3.010

3.018

3.080

3.098

3.101

3.234

3.369

3.750

4.000

4.000

4.250

4.798

5.000

5.000

5.335

5.550

5.770

6.460

8.000

8.848

8.866

9.000

9.377

10.625

10.740

12.295

12.355

23.012

23.174

29.605

32.661

Bac A Bank

VNCB

Viet Capital Bank

PG Bank

Kien Long Bank

Viet Bank

Bao Viet Bank

Nam A Bank

NVB

GP Bank

Saigon Bank

Viet A Bank

Dai A Bank

Oricom Bank

MHB

Mekong Development Bank

Southern Bank

Ocean Bank

VIB

An Binh Bank

Dong A Bank

HDBank

SEA Bank

TPB

VPB

Lien Viet Post Bank

Maritime Bank

TCB

SHB

Pvcom Bank

ACB

MBB

STB

SCB

EIB

BIDV

VCB

VBARD

CTG

Độ lệch chuẩn: 7.364 Trung vị: 4.798 Trung bình: 7.651

Page 22: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 22

Vốn cổ phần của CTG và một số ngân hàng trong khu vực Ngân hàng Quốc gia Giá trị cổ phần hóa (tỷ USD)

ICBC Trung Quốc 237,3

China Construction Bank Trung Quốc 202

DBS Group Singapore 30,7

UOB (United Overseas Bank) Singapore 25,1

Maybank Malaysia 24,3

Siam Commercial Bank Thái Lan 21,5

CTG Việt Nam 2,4

Nguồn: Forbes 2012 (xuất bản tháng 05/2013)

Vốn điều lệ của các ngân hàng giai đoạn

2011-Qúy3/2013 (nghìn tỷ VND)

Vốn điều lệ của hệ thống tài chính năm

2012

Nguồn: NHNN

Chúng tôi kỳ vọng các động thái tăng vốn tiếp theo từ phần lớn các ngân

hàng thương mại. Dựa vào chỉ tiêu vốn điều lệ được báo cáo, con số dự

kiến được bổ sung thêm sẽ trong khoảng 33.000 tỷ VND. Thời điểm tăng

vốn trong vòng năm năm tới sẽ dựa vào điều kiện thị trường.

-

20

40

60

80

100

120

140

160

180

200

NHTMNN NHTMCP NHNNg

2011

2012

2013

NHTMNN 36%

NHTMCP 40%

NHLD, NHNNg 22%

TCTD phi ngân hàng

2%

Page 23: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 23

Ngân hàng Vốn điều lệ

đã đăng ký (tỷ VND)

Chỉ tiêu vốn điều lệ

(tỷ VND)

Số vốn sẽ huy động thêm

(tỷ VND)

CTG 32.661 37.234 4.573

AGRB 29.605 31.000 1.395

VCB 23.174 24.623 1.449

BIDV 23.012 28.112 5.100

EIB 12.355 13.591 1.236

SCB 12.295 13.584 1.289

ACB 9.377 12.377 3.000

TCB 8.848 8.878 30

Liên Việt Post Bank 6.460 6.647 187

Seabank 5.335 7.466 2.131

Đông Á Bank 5.000 6.000 1.000

VIB 4.250 5.500 1.250

Southern Bank 4.000 4.500 500

Oceanbank 4.000 5.350 1.350

MHB 3.369 3.800 431

Oricombank 3.234 4.000 766

Việt Á Bank 3.098 3.500 402

Saigonbank 3.080 3.500 420

Nam Á Bank 3.002 4.000 998

Bắc Á Bank 3.000 3.700 700

VNCB 3.000 7.500 4.500

Kien Long Bank 3.000 3.600 600

Nguồn: Reuters

Tăng trưởng huy động và tín dụng

Khu vực ngân hàng Việt Nam đã thể hiện sự tăng trưởng ấn tượng cả về

huy động lẫn tín dụng từ năm 2000. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến

2012, tỷ lệ CAGR là 28,87% đối với huy động và 28,28% đối với tín dụng.

Tốc độ tăng trưởng nhanh nhất diễn ra vào giai đoạn từ năm 2002 đến

2007, khi tỷ lệ CAGR đạt 37,5% đối với huy động và 35,8% đối với tín

dụng. Sự tăng trưởng này đạt đỉnh vào năm 2007 ở mức 51,49% đối với

huy động và 53,89% với tín dụng. Tăng trưởng của mức cung tiền M2 đạt

tỷ lệ CAGR ở mức 27,69% từ năm 2000 tới năm 2012.

Tăng trưởng Huy động và Tín dụng giai đoạn 2001-2012

Nguồn: IFS

21,4% 22,2%

28,4%

41,6%

31,6%

25,5%

53,9%

25,4%

39,6%

32,4%

14,4% 9,1%

6,9% 7,1% 7,3% 7,8% 8,4% 8,2% 8,5% 6,3% 5,3% 6,8% 6,0% 5,0%

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Huy động Tín dụng GDP

Các ngân hàng Việt Nam đã

phát triển ấn tượng cả về huy

động lẫn tín dụng trong giai

đoạn 10 năm từ 2001 đến

2010. Tuy nhiên, mức tăng

trưởng giảm rõ rệt kể từ năm

2010.

Page 24: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 24

Sự tăng trưởng tín dụng quá mức thường được coi là dấu hiệu của những

vấn đề trong tương lai của khu vực tài chính và không nhất thiết là một

điều hay. Theo một nghiên cứu của Schularick & Taylor (2009), sự bùng

nổ tín dụng là một dự báo rõ ràng cho khủng hoảng tài chính. Trong một

khoảng thời gian kéo dài, tốc độ tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam gấp bốn

lần tốc độ tăng trưởng GDP. Nói một cách khác, tín dụng đã tăng trưởng

quá nóng.

Tốc độ tăng trưởng trong ba năm gần đây đã giảm đáng kể. Thị trường đã

chứng kiến tốc độ tăng trưởng huy động và tín dụng thấp nhất kể từ thập

niên 90’. Tăng trưởng tín dụng năm 2012 chỉ đạt 9,14%. Trong ba quý

đầu năm 2013, tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 6,87%, thấp hơn nhiêu chỉ

tiêu 12% của NHNN đặt ra, và chậm hơn nhiều so với sự tăng trưởng huy

động. Lần đầu tiên từ năm 2000, tỷ lệ tín dụng/ huy động của toàn hệ

thống ngân hàng rơi xuống thấp hơn một (đạt 0,94 vào Quý 3/2013).

Tổng Huy động và Tín dụng (nghìn tỷ VND) Tăng trưởng hàng năm của tổng Huy động

và Tín dụng

Nguồn: IFS

Độ sâu tài chính, hay quy mô của ngành ngân hàng so với tổng thể nền

kinh tế Việt Nam đã thay đổi đáng kể cùng với sự tăng trưởng tín dụng.

Năm 2000, tỷ lệ tín dụng/GDP chỉ đạt 35,1%, khá thấp so với các nước

trong cùng khu vực (Thái Lan (138%), Singapore (78%), Philippines

(58%), Trung Quốc (120%)). Tuy nhiên, sau mười năm tăng trưởng tín

dụng quá mức, năm 2010, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đạt đỉnh ở

mức 135,8%.

0

500

1000

1500

2000

2500

3000

3500

4000

2008 2009 2010 2011 2012 3Q2013

Huy động Tín dụng

10,5%

6,9%

0%

5%

10%

15%

20%

25%

30%

35%

40%

2008 2009 2010 2011 2012 3Q2013

Huy động Tín dụng

Page 25: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 25

Tỷ lệ tín dụng/ GDP giai đoạn 2000-2012

Nguồn: WDI

Tỷ lệ tín dụng/GDP ở Việt Nam năm 2012 đạt 115,4%. Tỷ lệ này dù sao

vẫn thấp hơn so với mức trung bình của các nước đang phát triển trong

khu vực, thể hiện rằng khu vực ngân hàng của Việt Nam vẫn còn nhiều

tiềm năng để phát triển. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng sẽ khiêm tốn hơn

trước.

So sánh tỷ lệ Tín dụng/GDP năm 2012

Nguồn: WDI

PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG

Thị phần

Thị trường ngân hàng Việt Nam vừa tập trung, đồng thời cũng phân tán.

NHTMNN thống trị cả thị phần huy động lẫn thị phần tín dụng, chiếm tới

60% thị phần vào năm 2007. Con số này thậm chí còn cao hơn vào năm

2000, ở mức 70%. Trong khi bốn NHTMNN lớn đều có được một thị phần

khổng lồ, những NHTMCP, các ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài

chính khác phải tranh nhau miếng bánh còn lại. Tuy nhiên, gần đây đã có

một xu thế rõ rệt là các NHTMNN đang để mất dần thị phần về tay

NHTMCP cả về huy động lẫn tín dụng. Trong năm năm gần đây, NHTMCP

đã nắm giành được hơn 15% thị phần từ tay NHTMNN.

35,1%

135,8%

115,4%

0%

20%

40%

60%

80%

100%

120%

140%

160%

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

NHTMNN vẫn thống trị cả thị

trường tín dụng lẫn huy

động. Tuy nhiên, họ đang

mất dần thị trường về tay các

NHTMCP từ năm này qua

năm khác.

Page 26: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 26

Thị phần Tín dụng (%) Thị phần Huy động (%)

Nguồn: VNEconomy

Trong ba năm qua, Agribank, ACB, EIB, STB và MSB là những ngân hàng

đã đánh mất thị phần, với Agribank bị mất thị phần nhiều nhất (1,91%).

CTG trở thành ngân hàng thành công nhất với 1,32% thị phần tăng thêm.

Thị phần của các ngân hàng lớn nhất giai đoạn

2010-2012 Thị phần tín dụng năm 2012

Nguồn: Báo cáo tài chính ngân hàng, SBV, VPBS

Đến cuối năm 2012, thị phần tín dụng của tất cả các NHTMNN (bao gồm

cả MHB) chỉ ở mức 46%, giảm 14% so với năm năm trước.

59,3 58,1 54,1 51,4 51,3 51,8

27,7 26,5 32,0 35,1 35,5 34,8

9,2 11 9,1 9 8,6 8,5

NHTMNN NHTMCP NHLD, NHNNg Khác

59,5 57,1 49,7 45,1 43,6 43,4

30,4 33,1 40,8 46,7 47,1 47,1

8,8 8,1 7,5 6,6 7,6 7,2

NHTMNN NHTMCP NHLD, NHNNg Khác

0%

2%

4%

6%

8%

10%

12%

14%

16%

18%

20%

2010 2011 2012

AGR 15,5%

CTG 10,8%

BIDV 11,0%

VCB 7,8% TCB

2,2%

ACB 3,3% MBB

2,4%

EIB 2,4%

STB 3,1% SCB

2,9%

SHB 1,8%

MSB 0,9%

VPB 1,2%

Khác 34,6%

Page 27: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 27

Cơ sở hạ tầng ngân hàng, phân phối, sự thâm nhập thị trường

Chi nhánh

Các ngân hàng trong nước đã tăng cường mở rộng mạng lưới của mình

qua những chi nhánh mới, các phòng giao dịch, và các máy rút tiền tự

động. Về khía cạnh này, các NHTMNN có nhiều thuận lợi hơn các NHTMCP

và NH nước ngoài. Với một lịch sử dài hơn, nền tảng vốn lớn hơn cùng với

mạng lưới khách hàng rộng, các NHTMNN vẫn đang dẫn đầu ngành với

1.320 chi nhánh và 3.154 phòng giao dịch.

Với những nỗ lực không ngừng nhằm phát triển và mở rộng mạng lưới,

vươn tới nhóm khách hàng đa dạng hơn, các NHTMCP gần đây đã có được

1.083 chi nhánh và 3.203 phòng giao dịch. Một số ngân hàng như STB,

TCB, và ACB đã có được mạng lưới bao phủ khá nhiều tỉnh thành trong cả

nước. Tuy nhiên, đại đa số các NHTMCP tập trung phát triển chi nhánh ở

khu vực thành thị và các khu vực có nền kinh tế phát triển hơn. Điều này

tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các NHTMCP ở khu vực thành thị, tạo

áp lực lên lợi nhuận và gây ra sự mất cân bằng của dịch vụ ngân hàng

giữa khu vực nông thôn và thành thị.

Mạng lưới phân phối

Tỉnh thành NHTMNN NHTMCP NH nước ngoài Hà Nội 692 892 25

Tp. Hồ Chí Minh 495 1.248 30

Đà Nẵng 84 179 3

Cần Thơ 54 137 7

Khác 3.149 1.808 27

Tổng cộng 4.474 4.241 92

Nguồn: NHNN

So với các ngân hàng trong nước, mạng lưới các ngân hàng nước ngoài

khá nhỏ. Các ngân hàng liên doanh và các ngân hàng 100% vốn nước

ngoài lần lượt có tổng cộng 28 và 29 chi nhánh.

Cùng với việc mở rộng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch, các ngân

hàng cũng tăng cường mở thêm các máy ATM và các máy chấp nhận

thanh toán qua thẻ (POS). Số lượng máy ATM và POS tính đến tháng

09/2013 là 14.6 triệu và 119 triệu. Mặc dù cơ sở hạ tầng hệ thống ngân

hàng đang tăng lên nhanh chóng, sự đầu tư và phát triển vẫn chủ yếu tập

trung ở khu vực thành thị, đặc biệt là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Mạng lưới phân phối và cơ sở hạ tầng ngân hàng HCMC Hà Nội Việt Nam Bình quân số km2 có một điểm hoạt động ngân hàng (km2) 1,0 1,6 47,3

Bình quân một điểm hoạt động ngân hàng phục vụ (người) 3.554 3.211 12.418

Bình quân một máy ATM phục vụ (người) 2.010 2.674 6.367

Bình quân một máy POS phục vụ (người) 420 450 1.048

Nguồn: NHNN

Mạng lưới phân phối và cơ sở

hạ tầng ngân hàng đã phát

triển mạnh, nhưng chủ yếu

tập trung ở khu vực đô thị và

các thành phố lớn.

Page 28: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 28

Số chi nhánh, phòng giao dịch, ATM của một số ngân hàng lớn (06/2013)

Nguồn:Báo cáo các ngân hàng, VPBS tổng hợp

Tài khoản ngân hàng

Năm 2006, Việt Nam chỉ có khoảng sáu triệu tài khoản ngân hàng, năm

triệu trong số đó là tài khoản cá nhân. Những con số này đã tăng trưởng

nhanh chóng với tỷ lệ CAGR đạt gần 40%. Theo NHNN, tính đến hết Quý

3/2013, số lượng tài khoản ngân hàng đã đạt tới con số 44,7 triệu. Khi số

lượng các tài khoản ngân hàng ngày càng nhiều và thị trường ngày một

hoàn thiện, lúc đó tỷ lệ tăng trưởng sẽ chậm dần. Năm ngoái, tỷ lệ tăng

trưởng chỉ còn 16%.

Số lượng tài khoản ngân hàng trong nước Quý 2/2012 Qúy 3/2012 Qúy 4/2012 Qúy 1/2013 Qúy 2/2013 Qúy 3/2013

37.708.285 38.575.094 42.115.913 43.177.468 42.783.910 44.702.698

44,702,698 Nguồn: NHNN

Thẻ ngân hàng

Tính đến tháng 09/2013, Việt Nam có 63 triệu thẻ ngân hàng được phát

hành, 92% trong đó là thẻ ghi nợ (mỗi tài khoản ngân hàng có thể có

nhiều hơn một thẻ ngân hàng), và 4% là thẻ tín dụng và thẻ trả trước. So

với các nước trong cùng khu vực, tỷ lệ sử dụng thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng

ở Việt Nam khá thấp. Với tỷ lệ tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước đạt

55%, thẻ tín dụng vẫn có tiềm năng tăng trưởng tốt nhất trên thị trường

thẻ ngân hàng, so với tỷ lệ tăng trưởng 22% của thẻ ghi nợ.

Theo báo cáo nghiên cứu thị trường vào tháng 06/2011 của Nielsen, chỉ có

42% người được hỏi có nhận thức về dịch vụ thẻ tín dụng, và sau đây là

những rào cản chính ở nhóm những người biết về thẻ tín dụng nhưng

không sử dụng dịch vụ này:

Không quan tâm: 36%

Thiếu thông tin: 19%

Lãi và phí cao: 07%

Không thuận tiện, quy trình phức tạp: 18%

0

500

1000

1500

2000

2500

AGRB CTG BIDV VCB ACB TCB MBB MSB VIB SHB

CN, PGD

ATM

Page 29: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 29

Bên cạnh đó, do phần trăm số người trưởng thành sở hữu một thẻ tín

dụng mới chỉ ở mức 1%, chúng tôi dự đoán nhu cầu về thẻ tín dụng sẽ

tăng nhanh chóng và mang lại nguồn doanh thu tốt từ dịch vụ cho ngân

hàng. Tất nhiên, điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng phải thiết lập cơ

sở hạ tầng để đánh giá đúng đắn các yêu cầu đăng ký sử dụng thẻ tín

dụng và phải đảm bảo việc thu hồi các khoản tiền, nếu không họ sẽ phải

chịu những tổn thất ngày càng nhiều từ danh mục thẻ của mình.

Tỷ lệ người trưởng thành (trên 15 tuổi) sử dụng thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng (năm 2011) Quốc gia Thẻ ghi nợ Thẻ tín dụng

Singapore 29% 37%

Malaysia 23% 12%

Thái Lan 43% 5%

Philippines 13% 3%

Trung Quốc 41% 8%

Ấn Độ 8% 2%

Lào 6% 3%

Việt Nam 15% 1%

Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Ngân hàng điện tử

Ngày trước, ngân hàng chỉ có những chi nhánh đặt ở các con phố và khách

hàng phải đến tận nơi để thực hiện giao dịch từ 8 giờ sáng đến trước 5 giờ

chiều. Và đó là sự lựa chọn duy nhất cho khách hàng. Tình hình thay đổi

kể từ khi internet ra đời, với nhiều lợi ích trực tuyến cho cả ngân hàng và

khách hàng thông qua ngân hàng điện tử.

Ngân hàng điện tử giờ đã là một phần tất yếu trong cuộc sống hiện đại.

Nó thực sự đã gõ cửa thị trường Việt Nam từ hơn một thập niên trước đây,

và bây giờ đã trở thành trọng tâm cho kế hoạch phát triển dài hạn của

toàn hệ thống ngân hàng trong nước và nước ngoài.

Ở Việt Nam, ngân hàng điện tử đã giúp các ngân hàng đa dạng hóa và

đưa ra những sản phẩm và dịch vụ phù hợp riêng cho từng nhóm khách

hàng. Dịch vụ ngân hàng điện tử được tiếp cận dễ dàng và sẵn sàng sử

dụng qua nhiều kênh khác nhau: ngân hàng trực tuyến, ngân hàng tại

nhà, ngân hàng qua di động, trung tâm chăm sóc khách hàng qua điện

thoại, ki-ốt ngân hàng, máy ATM, và máy POS. Ngân hàng điện tử phục

vụ các tính năng như kiểm tra thông tin, chuyển khoản, thanh toán, đăng

ký, tư vấn và một số dịch vụ ngân hàng khác. Các ngân hàng thương mại

đã thắt chặt mối quan hệ đối tác với các công ty bảo hiểm, công ty chứng

khoán và các công ty tài chính khác để giới thiệu những dịch vụ phù hợp

cho từng nhóm khách hàng khác nhau liên quan đến ngân hàng, bảo

hiểm, chứng khoán, đầu tư, v.v.

Ngân hàng điện tử còn giúp ngân hàng tăng doanh thu và giảm chi phí. Có

thể nói ngân hàng điện tử giống như đi mua sắm ở siêu thị, khác hàng có

thể tự tạo giao dịch và kết nối với hệ thống ngân hàng mà không cần nhờ

đến ngân viên ngân hàng suốt 24 giờ trong cả bảy ngày trong tuần. Nhờ

đó, ngân hàng có thể giảm bớt chi phí mở các văn phòng giao dịch, chi

nhánh. Chi phí để mở các chi nhánh khá là cao. Và có thể mất từ hai đến

ba năm để các chi nhánh này có thể tạo ra đủ lợi nhuận để bù đắp những

đầu tư ban đầu. Hơn nữa, các chi nhánh ngân hàng còn phát sinh thêm chi

phí nhân lực. Một điểm cộng thêm cho ngân hàng điện tử chính là sự minh

bạch và chính xác mà nó mang lại trong mỗi giao dịch, do đó thu hút

Page 30: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 30

thêm càng nhiều khách hàng. Kết quả là ngân hàng mở rộng được thị

phần, nâng cao thương hiệu và tăng thêm một nguồn thu ổn định.

Phí giao dịch bình quân của một số loại giao dịch ngân hàng Hình thức giao dịch Chi phí bình quân mỗi giao dịch (USD)

Giao dịch qua nhân viên ngân hàng 1,07

Giao dịch qua điện thoại 0,54

Giao dịch qua ATM 0,27

Giao dịch qua Internet 0,015

Nguồn: Stegman

Tính đến tháng 10/2013, Việt Nam có 90 triệu dân nhưng chỉ 20% trong

số đó có tài khoản ngân hàng. Theo tổng cục thống kê, Việt Nam có 128,1

triệu thuê bao điện thoại di động, một con số ấn tượng so với số lượng

nhỏ người dùng dịch vụ ngân hàng qua di động. Hơn nữa, phần lớn người

dân vẫn chưa có nhận thức đầy đủ về phương thức trả tiền qua ngân hàng

và tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán thống trị. Bởi vậy, không có gì

nghi ngờ rằng Việt Nam vẫn là một thị trường chưa được khai phá cho các

tổ chức tín dụng. Trong những năm gần đây, thu nhập trên đầu người đã

tăng đều đặn từ 639 USD/người/năm lên 1.200 USD/người/năm. Mức

sống bình quân đầu người trong những năm gần đây có xu hướng tăng

lên, dẫn đến nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài chính nhiều hơn. Ngoài ra,

sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử mới chỉ phố biến tại các thành

phố lớn. Dân số trẻ với tỷ lệ tiết kiệm cao và tiềm năng tăng trưởng thu

nhập kết hợp với làn sóng hiện đại hóa đô thị sẽ đẩy nhanh sự phát triển

và mạng lưới của ngân hàng điện tử đến những thị trường tiềm năng mới.

Thâm nhập thị trường ngân hàng

Theo một báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ thâm nhập thị

trường của ngân hàng ở Việt Nam năm 2011 đạt 21%. Mặc dù đây là một

sự tăng trưởng đáng chú ý từ 6% cách đây sáu đến bảy năm, tỷ lệ này

vẫn rất thấp khi só sánh với con số 55% ở khu vực Thái Bình Dương và

Đông Á.

Tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản ở một tổ chức tín dụng chính thống năm 2011

Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Tỷ lệ thâm nhập thị trường ngân hàng ở Việt Nam là 30% ở khu vực thành

thị, trong khi ở khu vực nông thôn chỉ có 17%.

So với các ngân hàng trong

khu vực, Việt Nam vẫn có tỷ

lệ thâm nhập thị trường ngân

hàng thấp.

Page 31: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 31

Tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản ở một tổ chức tín dụng chính thống ở Việt Nam (%)

Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Nhìn chung, tỷ lệ thâm nhập thị trường thấp khiến cho thị trường ngân

hàng Việt Nam rất hấp dẫn về dài hạn.

MÔI TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG

Tình hình vĩ mô

Hoạt động của các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng nhiều bởi môi

trường vĩ mô và cách NHNN điều hành các chính sách tiền tệ. Ở đây,

chúng tôi điểm lại những điểm nổi bật của tăng trưởng GDP và chỉ số giá

tiêu dùng (CPI) từ năm 2008 đến gần đây và một số thay đổi quan trọng

trong quy định và cơ chế của NHNN trong quản lý chính sách tiền tệ.

Tăng trưởng GDP và CPI

Tăng trưởng GDP so với cùng kỳ năm trước Tăng trưởng GDP theo khu vực kinh tế

Nguồn: Tổng cục thống kê

Năm 2008, kinh tế thế giới trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất

kể từ cuộc Đại Suy thoái năm 1929. Nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh

0

10

20

30

40

50

60

70

80

6,31%

5,32%

6,78%

5,96%

5,03%

5,14%

0%

1%

2%

3%

4%

5%

6%

7%

8%

2008 2009 2010 2011 2012 3Q2013

0%

2%

4%

6%

8%

10%

12%

2007

2008

2009

2010

2011

2012

3Q

2013

Tăng trưởng GDP Nông nghiệp Công nghiệp Sản xuất Dịch vụ

Page 32: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 32

hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, với tăng trưởng

GDP chậm lại chỉ còn 5,66% năm 2008. Mặc dù giảm thêm xuống mức

5,40% vào năm 2009, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế phục hồi

tốt nhất trong khu vực. Nền kinh tế Việt Nam đã mạnh lên và tiếp tục tạo

ấn tượng so với các nước châu Á trong năm 2010, với tỷ lệ tăng trưởng

GDP đạt 6,42% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, nền kinh tế sau đó

đã tăng trưởng chậm lại ở mức 6,24% năm 2011 và 5,25% năm

2012, đánh dấu tỷ lệ tăng trưởng thấp nhấp kể từ năm 1999. GDP của

Việt Nam trong năm tài chính 2013 dự kiến tăng 5,42%.

Năm 2008, cuộc khủng hoảng giá lương thực và giá dầu toàn cầu gây ra

lạm phát cao ở Việt Nam ở mức 19,89% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số

CPI giảm xuống đáng kể từ Quý 2/2009 đến cuối năm 2009, kết thúc năm

ở mức 6,52% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số này lại bắt đầu xu hướng

đi lên từ đầu năm 2010 khi nó đạt đỉnh ở mức 23,02% vào tháng

08/2011, một phần do chính sách nới rộng tiền tệ được thực hiện vào năm

2009 và nửa đầu năm 2010. Chỉ số này sau đó đã quay đầu giảm xuống

chỉ còn 6,9% vào tháng 06/2012. Chỉ số CPI hàng tháng kể từ tháng sáu

năm ngoái tới nay dao động ở mức 5% đến 7,5%.

Tăng trưởng CPI giai đoạn 2008-2013 (%)

Nguồn: Tổng cục thống kê

Trước tình hình lạm phát ở mức cao năm 2008, NHNN đã thực hiện chính

sách tiền tệ thắt chặt trong sáu tháng đầu năm. Lãi suất cơ bản tăng dần

từ 8,75% vào tháng một lên 14% vào tháng bảy. Lãi suất chiết khấu và

lãi suất tái cấp vốn cũng đạt đỉnh lần lượt ở mức 15% và 13%. Hệ quả là

lãi suất huy động đạt đỉnh ở mức 20% và lãi suất cho vay chạm tới 24-

25%, mức cao nhất trong năm năm gần đây.

Tuy nhiên, việc thắt chặt tiền tệ không thể kéo dài trước nguy cơ kinh tế

suy thoái do chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính

toàn cầu. Từ tháng 09/2008, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ linh

hoạt hơn bao gồm việc cắt giảm lãi suất hoạt động. Lãi suất cơ bản, lãi

-1

0

1

2

3

4

5

0

5

10

15

20

25

30

CPI MOM CPI YOY

Page 33: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 33

suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn giảm xuống chỉ còn 8,5%, 7,5%, và

9,5% vào cuối năm 2008. Lãi suất cho vay cao nhất giảm xuống chỉ còn

12,75% và lãi suất huy động cũng hạ xuống quanh mức 8%/năm. Vào

tháng 02/2009, nhằm hỗ trợ thanh khoản và hạ bớt lãi suất cho vay,

NHNN đã hạ thấp lãi suất hoạt động vốn đã được giữ mức thấp từ trước đó

bằng một vài sự điều chỉnh nhỏ cho tới cuối năm 2010 khi chính sách tiền

tệ được định hướng lại.

Ngoài ra, chính phủ đã tung ra gói kích thích kinh tế trị giá 143 nghìn tỷ

đồng (tương đương 8 tỷ đô la Mỹ), một phần trong gói kích thích này đã

được sử dụng trong chương trình hỗ trợ lãi suất cho vay. Vào tháng hai

năm 2009, chính phủ tung ra gói kích thích lần một với trị giá 1 tỷ đô la

Mỹ để hỗ trợ 4% lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp. Nhờ đó, lãi suất

cho vay chỉ dao động từ 4% đến 6% một năm. Chương trình hỗ trợ này đã

tăng thêm động lực phát triển cho nền kinh tế và nhờ đó, trong năm

2010, tăng trưởng GDP đã cao hơn các năm trước.

Chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với tăng trưởng tín dụng và gia tăng cung

tiền nhanh chóng là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chỉ

số CPI đã tăng trở lại lần đầu tiên kể từ năm 2009 và đà tăng tiếp tục diễn

ra trong năm 2010 và 2011. CPI trong hai năm 2010 và 2011 lần lượt đạt

ngưỡng cao ở mức 11,75% và 18,13%.

Thực tại đó đã buộc Việt Nam đổi hướng chính sách tiền tệ từ mục tiêu ưu

tiên cho tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên kiểm soát lạm phát và ổn định

kinh tế vĩ mô. NHNN đã thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, tập trung

vào kiềm chế lạm phát. Kể từ cuối năm 2010 đến tháng 3 năm 2012, lãi

suất điều hành đã tăng trở lại. Lãi suất chiết khấu sau đó tăng lên mức

13%. Lãi suất tái cấp vốn cũng tăng lên mức cao nhất trong lịch sử 15%

vào tháng 3 năm 2012. Đây cũng là thời kì lãi suất liên ngân hàng đạt

mức cao nhất trong vòng bốn năm trước đó.

Lãi suất điều hành(%) Lãi suất liên ngân hàng (%)

Nguồn: NHNN

0

2

4

6

8

10

12

14

16

01/08 01/09 01/10 01/11 01/12 01/13

LS cơ bản LS tái chiết khấu

LS tái cấp vốn

0

2

4

6

8

10

12

14

16

06/09 06/10 06/11 06/12 06/13

Qua đêm 1 tháng

Page 34: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 34

Ngoài việc sử dụng lãi suất để điều hành, NHNN đã sử dụng một công cụ

khác của chính sách tiền tệ– công cụ thị trường mở (OMO). NHNN bắt đầu

hút một lượng lớn tiền thông qua thị trường mở kể từ năm 2010. Tổng

lượng tiền bơm ra nền kinh tế trong giai đoạn từ tháng 10 năm 2010 đến

tháng 6 năm 2011 thông qua kênh mua bán lại thấp hơn nhiều mức đáo

hạn, dẫn đến mức hút ròng từ 120 nghìn tỷ đồng đến 500 nghìn tỷ đồng

mỗi tháng. Lãi suất OMO bắt đầu tăng trở lại từ mức 8% vào tháng 11

năm 2010 lên mức 10% một tháng sau đó. Vào giữa năm 2011, lãi suất

đã tăng lên 15%.

Nghiệp vụ mua kỳ hạn (nghìn tỷ VND) Bơm/hút trên OMO (nghìn tỷ VND)

Nguồn: NHNN

Chính sách tiền tệ thắt chặt đã giúp tỷ lệ lạm phát giảm xuống. Tuy

nhiên, chính sách này cũng đã làm tỷ lệ tăng trưởng GDP giảm xuống

còn 6,24% trong năm 2011 và 5,25% trong năm 2012. Sự thay đổi

trong môi trường lãi suất và thắt chặt việc cho vay trong lĩnh vực bất

động sản đã ảnh hưởng xấu đến thị trường. Tỷ lệ tăng trưởng ngành xây

dựng giảm từ 10,06% xuống âm 0,97% trong năm đó.

Đà lạm phát bị kìm lại trong nửa đầu năm 2012 đã giúp NHNN tự tin

trong việc giảm lãi suất. Lạm phát năm 2012 giảm xuống chỉ còn

6,81%. Kể từ tháng 3 năm 2012, NHNN đã bắt đầu dần dần hạ lãi suất

chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn từ 13% và 15% xuống còn tương ứng

7% và 9% vào tháng 12 năm 2012.

Tín dụng tăng trưởng chậm kể từ năm 2012 đã khiến lãi suất liên ngân

hàng và lãi suất OMO giảm xuống. Trung bình, lãi suất qua đêm và lãi

suất liên ngân hàng kỳ hạn một tháng trong nửa cuối năm 2012 đã giảm

xuống lần lượt còn 3,051% và 5,661%. Vào giữa năm 2013, lãi suất qua

đêm liên ngân hàng đã giảm xuống mức thấp nhất còn từ 0,7% đến 1%,

và lãi suất kỳ hạn một tháng liên ngân hàng đã có lúc giảm xuống chỉ

còn 2%. Trên thị trường OMO, sau hơn chín tháng dao động ở mức 14%,

lãi suất trúng thầu đã giảm xuống chỉ còn 5,5% vào tháng 7 năm 2013

và được duy trì tại mức này cho đến hiện tại.

Gần đây, Việt Nam đã thành công trong việc giữ chỉ số CPI tăng nhẹ

trong mức từ 6% đến 7%. Trong năm 2013, chỉ số CPI đã tăng 6,6% so

với cùng kì năm trước, mức thấp nhấp trong vòng 10 năm. Lãi suất chiết

khấu và lãi suất tái cấp vốn đã được giữ ổn định trong hơn 7 tháng kể từ

tháng 5 năm 2013. Trong năm nay, khối lượng giao dịch trên thị trường

-1,200

-1,000

-800

-600

-400

-200

0

200

400

600

09/1

0

12/1

0

03/1

1

06/1

1

09/1

1

12/1

1

03/1

2

06/1

2

09/1

2

12/1

2

03/1

3

06/1

3

09/1

3

Bán trên thị trường mở Mua trên thị trường mở -600

-500

-400

-300

-200

-100

0

100

09/1

0

12/1

0

03/1

1

06/1

1

09/1

1

12/1

1

03/1

2

06/1

2

09/1

2

12/1

2

03/1

3

06/1

3

09/1

3

Page 35: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 35

OMO vẫn ở mức thấp. Lãi suất trúng thầu tiếp tục giảm và hiện đang

dao động ở mức 5,5%.

Ngoại hối

Một trong những mục tiêu của NHNN là thu hẹp quy mô thị trường ngoại

hối và quá trình đô la hóa. Nhằm thực hiện mục tiêu này, một số quy định

đã được đề ra:

Thông tư 20/2011/TT-NHNN quy định những hạn mức chặt chẽ hơn

về việc mua và bán ngoại tệ bằng tiền mặt của cá nhân với các tổ

chức tín dụng được phép.

Thông tư 07/2012/TT-NHNN điều chỉnh tổng trạng thái ngoại tệ

cuối ngày của các tổ chức tín dụng từ ±30% giảm xuống còn±20%

vốn tự có. Điều luật này sẽ hạn chế tình trạng đầu cơ ngoại tệ của

các tổ chức tín dụng.

Các thông tư 09/2011/TT-NHNN, thông tư 14/2011/TT-NHNN,

thông tư 14/2013/TT-NHNN quy định lãi suất tối đa với tiền gửi

bằng USD, khiến cho việc nắm giữ USD mang lại ít lợi nhuận hơn

việc nắm giữ VND.

NHNN yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các khoản tiền gửi bằng

USD cao hơn so với bằng VND.

NHNN can thiệp vào thị trường ngoại tệ khi cần thiết bằng việc trực

tiếp tham gia mua bán ngoại tệ và cam kết không điều chỉnh tỷ giá

quá mức 1% đến 2%.

Nhờ đó, tỷ lệ huy động và cho vay bằng ngoại tệ đã giảm, và tỷ giá đã

thực sự ổn định kể từ tháng 03/2011.

Tỷ lệ huy động và cho vay ngoại tệ 2012 2011 Tỷ lệ huy động bằng ngoại tệ trên tổng huy động 14,6% 19,5%

Tỷ lệ huy động bằng ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán 12,36% 15,84

% Tỷ lệ cho vay bằng ngoại tệ trên tổng dư vay cho vay 17,5% 20%

Nguồn: NHNN

Tỷ giá VND/USD

Nguồn: NHNN

Vàng

Gần đây, chính phủ đã thực hiện những quy định chặt chẽ để kiểm soát thị

trường vàng. Với việc ban hành Nghị định 24/2012/ND-CP, Thông tư

16/2012/TT-NHNN, và Thông tư 06/2013/TT-NHNN, thị trường vàng về cơ

18,500

19,000

19,500

20,000

20,500

21,000

21,500

Page 36: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 36

bản đã được NHNN kiểm soát. Hơn nữa, Thông tư 11/2011/TT-NHNN đã

chấm dứt hoạt động cho vay và huy động bằng vàng, Thông tư

38/2012/TT-NHNN quy định trạng thái vàng của các tổ chức tín dụng

(tổng trạng thái vàng cuối ngày phái nhỏ hơn 2% vốn tự có của ngân

hàng). Với việc áp dụng các quy định này, thị trường vàng dần trở nên ổn

định, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường ngoại tệ và tỷ giá ổn định

Khung pháp lý

Các ngân hàng thương mại Việt Nam phải tuân thủ theo các quy định pháp

luật quan trọng nhất như sau:

Văn bản Nội dung Luật 46/2010/QH12 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam

Luật 47/2010/QH12 Luật Các tổ chức tín dụng

Nghị định 59/2009/NĐ-CP Quy định về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại

Nghị định 22/2006/NĐ-CP Quy định về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam.

Nghị định 05/2010/NĐ-CP Quy định việc áp dụng Luật Phá sản đối với các tổ chức tín dụng

Quyết định 254/QĐ-TTg Quyết định phê duyệt đề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015

Nghị định 141-2006-NĐ-CP Mức vốn pháp định dành cho các tổ chức tín dụng

Nghị định 69/2007/NĐ-CP Quy định về việc Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của NHTM Việt Nam

Thông tư 13/2010/TT-NHNN Thông tư quy định tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng

Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng

Quyết định 780/QĐ-NHNN Quy định về phân loại nợ với nợ được điều chỉnh kỳ hạn, gia hạn nợ

Thông tư 02/2013/TT-NHNN Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp lập và sử dụng dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Nghị định 53/2013/NĐ-CP Quyết định thành lập công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam

Thông tư 19/2013/TT-NHNN Quy định về mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam

Thông tư 20 /2013/TT-NHNN Quy định về cho vay tái cấp vốn của Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng

Việt Nam

Thông tư 14/2013/TT-NHNN Quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng

Thông tư 15/2013/TT-NHNN Quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng

Quyết định 750/QĐ-NHNN Tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là 6%

Thông tư 08/2010/TT-NHNN Quy định về Kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng.

Nghị định 109/2005/NĐ-CP Nghị định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi .

Quyết định 27/2008/QĐ-NHNN Quyết định về việc sửa đổi, bổ sung Quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành theo Quyết định 01/2007/QĐ-NHNN ngày 05/01/2007.

Nguồn: NHNN, VPBS tổng hợp

Page 37: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 37

Nghị quyết 53/2013/NĐ-CP và Thông tư 19/2013/TT-NHNN liên quan đến

Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam sẽ được chúng tôi nhắc đến ở phần sau.

Thông tư 13/2010/TT-NHNN và các điểm sửa đổi được ban hành trong

Thông tư 19/2010/TT-NHNN chủ yếu tập trung về việc nâng tỷ lệ an toàn

vốn tối thiểu và tỷ lệ dư nợ trên tổng huy động. Nhằm đảm bảo một

nguồn vốn chất lượng tốt hơn để chống đỡ lại các cú sốc tài chính trong

tương lại, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR được nâng lên mức 9% từ mức

cũ là 8%. Các ngân hàng có thể tăng tỷ lệ CAR bằng cách tăng vốn điều lệ

hoặc cắt giảm các tài sản có tính rủi ro cao. Khi tính tỷ lệ CAR, các khoản

cho vay đầu tư chứng khoán được xếp vào tài sản “Có” có hệ số rủi ro là

250% khiến cho dòng vốn từ ngân hàng đổ vào thị trường chứng khoán bị

thu hẹp lại. Một điểm quan trọng trong thông tư là tỷ lệ cấp tín dụng so

với nguồn vốn huy động đối với ngân hàng là 80% và đối với các tổ chức

tín dụng là 85%.

Một quy định quan trọng nữa là Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày

22/04/2005 (“Quyết định 493”), được sửa đổi và bổ sung bởi Quyết định

18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Ngân hàng Nhà nước (“Quyết

định 18”). Theo hai quyết định này, các khoản cho vay sẽ được phân loại

theo chất lượng nợ thành 5 nhóm vào cuối mỗi quý trong ba quý đầu và

vào tháng thứ hai của quý bốn.

STT Nhóm nợ Tỷ lệ dự phòng 1 Nợ đủ tiêu chuẩn 0%

2 Nợ cần chú ý 5%

3 Nợ dưới tiêu chuẩn 20%

4 Nợ nghi ngờ 50%

5 Nợ có khả năng mất vốn 100%

Nguồn: NHNN

Việc tính toán mức dự phòng được dựa trên tổng dư nợ và ứng trước cho

khách hàng và các tổ chức tín dụng khác và kết quả đánh giá phân loại

chất lượng nợ. Các khoản vay thuộc nhóm 3, 4, 5 được xếp vào nhóm nợ

xấu. Phương pháp phân loại các khoản vay phụ thuộc vào lựa chọn của

từng ngân hàng, hoặc theo phương pháp định tính hoặc theo phương pháp

định lượng. Hiện tại, chỉ có ngân hàng MBB, BIDV, và VCB thực hiện phân

loại nợ theo phương pháp định tính theo điều 7 Quyết định 493, các ngân

hàng còn lại đều dùng phương pháp định lượng theo điều 6.

Một dự thảo được soạn bởi Ủy bạn chứng khoán nhà nước (UBCKNN) đã

được trình lên Chính Phủ vào giữa tháng 11. Nếu dự thảo được thông qua

như đúng dự kiến vào đầu năm 2014, nó sẽ tăng mức sở hữu của nước

ngoài ở các ngân hàng thương mại lên 49%. Mức giới hạn hiện nay là 30%

cổ phần có quyền biểu quyết cho các nhà đầu tư nước ngoài và cụ thể là

20% cho các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài theo Nghị định

69/2007/NĐ-CP. Hạn mức hiện nay được cho là một rào cản đối với đầu tư

của nước ngoài vào Việt Nam. Tính đến 30/06/2013 có 10 ngân hàng

thương mại Việt Nam sử dụng hết hạn mức sở hữu nước ngoài dành cho

nhà đầu tư chiến lược như bảng tổng hợp dưới đây:

Page 38: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 38

Các NHTM sử dụng hết hạn mức sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước

ngoài (30/06/2013 Thứ tự Ngân hàng Thứ tự Ngân hàng

1 CTG 6 Oceanbank

2 TCB 7 Sea Bank

3 VCB 8 Sourthern Bank

4 ABB 9 VIB

5 EIB 10 VPB

Nguồn: VPBS tổng hợp

Ngày 22/11/2013, OCBC đã bán toàn bộ cổ phần tại VPBank (14,88%)

sau hơn bảy năm nắm giữ. Số cổ phần này đã được bán cho các nhà đầu

tư cá nhân trong nước, do đó làm giảm tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước

ngoài tại VPBank xuống bằng không. VPBank nhận định sự thoái vốn của

OCBC đã giải phóng giới hạn góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài tại

VPBank và giúp ngân hàng có cơ hội tìm kiếm đối tác chiến lược mới phù

hợp hơn trong thời gian tới.

KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG

So sánh ROA & ROE

Tỷ lệ ROA và ROE trung bình của tất cả các tổ chức tín dụng đã giảm

trong năm 2013. Xu hướng đi xuống này bắt đầu từ năm 2011 ở phần lớn

các ngân hàng. Về tổng thể, NH nước ngoài và ngân hàng liên doanh có tỷ

lệ ROA cao nhất nhưng ROE lại thấp nhất, cho thấy NH nước ngoài và

ngân liên doanh sử dụng ít đòn bẩy tài chính hơn các ngân hàng trong

nước. Giữa khu vực NHTMNN và NHTMCP, NHTMNN có tỷ lệ ROA và ROE

cao hơn.

Tỷ lệ ROA & ROE trung bình ngành 2012 & Q3 2013

Nguồn:NHNN

Khi chúng tôi so sánh các NHTMNN với các NHTMCP lớn trong một khoảng

thời gian dài hơn, chúng tôi nhận thấy một bức tranh khác. Từ năm 2008

đến năm 2011, phần lớn các NHTMCP đều có tỷ lệ ROA và ROE cao hơn.

Tuy nhiên, các ngân hàng này ngoại trừ MBB đều gặp khó khăn trong năm

2012 và nửa đầu năm 2013.

Bên dưới là tỷ lệ ROA và ROE đối với một số NHTMNN (CTG, BIDV, VCB)

và một số NHTMCP (sáu ngân hàng lớn nhất).

0%

2%

4%

6%

8%

10%

12%

2012 Q3/2013 2012 Q3/2013

ROA ROE

NHTMNN

NHTMCP

NHLD, NHNNg

ROA và ROE đã bắt đầu giảm

từ năm 2011. NHTMCP có tỷ

lệ ROA và ROE trung bình

thấp nhất và dao động nhiều

nhất do kết quả kinh doanh

yếu kém của một số NHTMCP

nhỏ.

Page 39: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 39

ROA ROE

Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng

Với biến động cao hơn ở tỷ lệ ROA và ROE, các NHTMCP rõ ràng tiềm ẩn

nhiều rủi ro hơn NHTMNN.

Phân tích Dupont

Tỷ lệ ROE chịu tác động từ ba yếu tố: khả năng sinh lời, vòng quay tài sản

và đòn bẩy tài chính. Chúng tôi xem xét ba yếu tố này để giải thích tỷ lệ

ROE của một số ngân hàng.

Phân tích Dupont giai đoạn 2011-2012

Ngân hàng Tỷ suất lợi nhuận

thuần

Tổng vòng quay tài sản Hệ số nhân vốn ROE

2011 2012 2011 2012 2011 2012 2011 2012

CTG 10,6% 11,2% 0,14 0,11

0,11

17,7 15,5 26,7% 19,8%

BIDV 6,6% 7,6% 0,13 0,08

0,08

15,9 17,5 13,2% 10,1%

VCB 11,0% 11,9% 0,11 0,09

0,09

13,7 11,1 17,0% 12,5%

ACB 11,9% 3,6% 0,11 0,09

0,09

20,8 18,6 27,5% 6,4%

STB 21,2% 24,5% 0,13 0,12

0,12

10,3 10,4 29,4% 31,2%

MBB 14,9% 13,7% 0,12 0,11

0,11

13,4 14,0 23,0% 20,5%

EIB 16,3% 12,0% 0,12 0,10

0,10

10,6 11,0 20,4% 13,3%

SHB 9,2% 0,2% 0,13 0,12

0,12

12,2 12,2 15,0% 0,3%

TCB 14,4% 4,0% 0,13 0,11

0,11

15,1 14,0 28,8% 5,9%

Trung bình 12,9% 9,9% 0,13 0,10 14,4 13,8 22,3% 13,3%

Độ lệch 4,32% 7,15% 0,01 0,01 3,41 2,93 6% 9%

Nguồn: Báo cáo tài chính các ngân hàng, VPBS tổng hợp

Tỷ suất lợi nhuận giảm trung bình 3 điểm phần trăm, từ 12,9% năm 2011

xuống còn 9,9% năm 2012. Trong khi bầu không khí ảm đạm bao trùm

toàn bộ ngành ngân hàng năm 2012, một vài ngân hàng vẫn hoạt động

tốt, tăng trưởng lợi nhuận cao hơn như CTG, BIDV, VCB, STB. Trong số

đó, tỷ suất lợi nhuận của STB là ấn tượng nhất, với tỷ suất lợi nhuận

thuần ở mức 24,5%, cao gần gấp hai lần so với ngân hàng xếp vị trí thứ

hai về khả năng sinh lợi (MBB 13,7%).

Tổng vòng quay tài sản cũng giảm từ 0,10 năm 2012 từ mức 0,13 năm

2011. Xu hướng đi xuống của tổng vòng quay tài sản cũng tương tự như

của tỷ suất lợi nhuận, tuy nhiên chúng tôi nhận thấy tổng vòng quay lợi

nhuận có tính tương đồng cao hơn giữa các ngân hàng. Độ lệch chuẩn của

tổng vòng quay tài sản chỉ là 0,1% trong cả hai năm, trong khi độ lệch

chuẩn của tỷ suất lợi nhuận thuần là hơn 4% và 7% tương ứng năm 2011

và 2012.

0%

1%

1%

2%

2%

3%

3%

2008

2009

2010

2011

20120%

5%

10%

15%

20%

25%

30%

35%

2008

2009

2010

2011

2012

Dựa vào phân tích Dupont,

STB là ngân hàng có kết quả

kinh doanh tốt nhất, và tỷ

suất lợi nhuận thuần là yếu

tố chính của ROE.

Page 40: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 40

Đòn bẩy tài chính giảm từ 14,4 lần năm 2011 xuống 13,8 lần năm 2012.

Sự suy giảm ở cả ba yếu tố đã dẫn đến sự sụt giảm đáng kể của tỷ lệ

ROE, từ 22,3% năm 2011 xuống chỉ còn 13,3% năm 2012, tuy nhiên hệ

số nhân vốn giảm xuống thực chất lại là tín hiệu tốt trong hoạt động ngân

hàng. Hệ số nhân vốn thấp hơn nghĩa là ngân hàng sử dụng ít đòn bẩy tài

chính hơn, tỷ lệ CAR cũng vì thế cao hơn.

Trong hai năm liên tiếp, STB có tỷ suất lợi nhuận thuần và tỷ lệ ROE cao

nhất với tổng vòng quay tài sản cao hơn và đòn bẩy tài chính thấp hơn so

với các ngân hàng cùng ngành. Dựa vào phân tích Dupont, chúng tôi tin

rằng STB là ngân hàng có kết quả kinh doanh tốt nhất và tỷ suất lợi

nhuận thuần là một yếu tố quan trọng của tỷ lệ ROE.

Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh

Cấu trúc thu nhập

Cấu trúc thu nhập của ngân hàng thường đến từ thu nhập lãi thuần, phí và

hoa hồng, lãi (lỗ) từ hoạt động đầu tư như kinh doanh ngoại hối, chứng

khoán, cổ tức từ góp vốn, mua cổ phần và các thu nhập khác. Đối với

phần lớn ngân hàng Việt Nam, nguồn thu nhập chính vẫn là thu nhập lãi

thuần, chiếm khoảng 86% tổng thu nhập. Nếu xem xét trong khoảng thời

gian dài hơn, chúng tôi thấy rằng tỷ lệ này đang tăng cao đáng ngạc nhiên

trong khi thu nhập từ đầu tư và từ các nguồn thu khác đã giảm mạnh.

Cấu trúc thu nhập của ngân hàng năm 2012 So sánh thu nhập ngoài lãi năm 2012

Quốc gia Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi

Việt Nam 14%

Úc 33%

Trung Quốc 21%

Singapore 40%

Thái Lan 36%

Nguồn: Báo cáo tài chính, VPBS tổng hợp Nguồn: KPMG

So sánh với các nước phát triển hơn trong khu vực Châu Á- Thái Bình

Dương, tỷ lệ này thực sự cao. Ví dụ, các ngân hàng Thái Lan có 64% thu

nhập từ lãi vay, 36% còn lại là từ thu nhập ngoài lãi. Điều này cho chúng

ta thấy rõ rằng hoạt động của các ngân hàng Việt Nam vẫn chưa đa dạng

hóa và phát triển bằng.

Nếu chúng tôi phân chia thu nhập ngoài lãi thành các phần nhỏ như phí và

hoa hồng, đầu tư thì phần thu nhập đầu tiên có vẻ ổn định hơn phần thứ

hai. Phí và hoa hồng gia tăng trong năm 2009 nhưng bắt đầu giảm từ đó

đến nay. Ở phần lớn các ngân hàng, tỷ lệ doanh thu từ phí và hoa hồng

năm 2012 chỉ bằng một nửa con số của năm 2009. Ngân hàng có phần

doanh thu từ phí và hoa hồng cao nhất là STB; còn VCB là ngân hàng có

nguồn doanh thu từ họat động này ổn định nhất.

-20%

0%

20%

40%

60%

80%

100%

CTG BIDV VCB ACB STB MBB EIB SHB TCB

Thu nhập lãi Thu nhập ngoài lãi

Cấu trúc thu nhập chưa được

đa dạng hóa bằng các ngân

hàng trong khu vực. Thu

nhập lãi vay vẫn là nguồn thu

chính của phần lớn các ngân

hàng

Page 41: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 41

Tỷ lệ thu nhập từ phí trên tổng thu nhập hoạt

động (%)

Xu hướng cơ cấu thu nhập

Nguồn: Báo cáo tài chính ngân hàng, VPBS tổng hợp

Thu nhập từ đầu tư và thu nhập khác, vốn được coi là rủi ro hơn, thực sự

đã biến động nhiều hơn. Từ chỗ chiếm 26% tổng thu nhập năm 2008, tỷ

trọng nhóm của này giảm xuống chỉ còn hơn 2% năm 2011. Vì một phần

lớn các khoản đầu tư của các ngân hàng là các cổ phiếu đã niêm yết và

chưa niêm yết, sự giảm sút này không có gì bất ngờ khi thị trường chứng

khoán Việt Nam đã suy giảm đáng kể từ năm 2008.

Tỷ lệ thu nhập lãi thuần

Tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) là một thước đo quan trọng để đánh giá

tình hình kinh doanh của một ngân hàng, đặc biệt là về khả năng sinh lời.

Theo một khảo sát gần đây của KPMG, NIM năm 2012 chỉ cao hơn một

chút so với năm 2011 và NIM của những ngân hàng nhỏ hơn tuy cao hơn

nhưng cũng kém ổn định hơn. NIM trung bình của bốn NHTMNN là 4,01%

trong khi NIM của những ngân hàng có số vốn tự có nhỏ hơn 3.500 tỷ

VND đạt 5,68%.

0%

5%

10%

15%

20%

25%

30%

STB BIDV TCB MBB VCB CTG SHB ACB EIB

2008 2009 2010 2011 2012

0%

20%

40%

60%

80%

100%

2008 2009 2010 2011 2012

Thu nhập lãi vay

Doanh thu từ phí

Thu nhập đầu tư và thu nhập khác

NIM của năm 2013 dự kiến

thấp hơn năm 2012.

Page 42: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 42

Tỷ lệ thu nhập lãi thuần giai đoạn 2011-2012

Nguồn: KPMG

Trong chín ngân hàng lớn được chúng tôi nhắc đến trong báo cáo, tính đến

cuối năm 2012, STB đã dẫn đầu nhóm với NIM đạt 5,29%, nhưng MBB lại

là ngân hàng có NIM trung bình cao nhất trong năm năm gần đây. NIM

của các ngân hàng trong nửa đầu năm 2013 rất thấp vì chúng chỉ bao

gồm doanh thu từ lãi của nửa năm. Nếu chúng tôi nhân đôi NIM của nửa

đầu năm 2013 để ước tính NIM của cả năm 2013, kết quả này sẽ thấp hơn

năm 2012 ở phần lớn các ngân hàng. Dựa vào tính toán của chúng tôi,

NIM trung bình năm 2013 của chín ngân hàng lớn là 3,13% so với con số

3,48% của năm 2012.

Tỷ suất thu nhập lãi thuần giai đoạn 2008-2013 2008 2009 2010 2011 2012 2013E

CTG 4,13% 2,13% 4,14% 5,07% 4,02% 3,83%

BIDV 2,91% 2,69% 2,89% 3,41% 2,16% 2,75%

VCB 3,31% 2,89% 3,08% 3,85% 2,90% 2,49%

ACB 3,42% 2,57% 2,73% 3,41% 3,72% 3,00%

STB 2,08% 3,26% 3,59% 4,74% 5,29% 5,13%

MBB 4,27% 3,51% 4,34% 4,66% 4,54% 3,81%

EIB 3,70% 4,06% 3,35% 3,73% 3,12% 2,14%

SHB 1,46% 3,50% 3,46% 3,50% 2,26% 2,05%

TCB 3,84% 3,59% 2,93% 3,62% 3,28% 2,96%

Trung bình 3,23% 3,13% 3,39% 4,00% 3,48% 3,13%

Nguồn: Báo cáo tài chính ngân hàng, VPBS tổng hợp

Theo định nghĩa, tỷ suất thu nhập lãi thuần là lợi suất thuần trên tất cả

các tài sản sinh lãi. Nó được tính bằng hiệu của thu nhập lãi trừ đi chi phí

lãi, sau đó chia cho tổng tài sản sinh lãi trung bình. Bởi vậy, để có được

NIM cao hơn, các ngân hàng cần phải tiếp cận được nguồn vốn rẻ hơn và

cho vay ở mức lãi suất cao hơn.

Chi phí vốn của ngân hàng bao gồm chi phí từ nhiều loại nguồn vốn sinh

lãi khác nhau. Cụ thể chúng bao gồm chứng chỉ tiền gửi, tiền gửi có kỳ

hạn, tiền gửi không kỳ hạn, vay liên ngân hàng, trái phiếu do ngân hàng

phát hành. Các NHTMNN nhiều khi được nhận vốn ưu đãi từ chính phủ để

cho vay các khu vực kinh tế được trợ cấp hoặc theo một chương trình kích

-2%

0%

2%

4%

6%

8%

10%

12%

14%

CT

G

Ag

rib

an

k

VC

B

BID

V

EIB

ST

B

SC

B

MB

B

AC

B

SH

B

TC

B

MS

B

Lie

nV

ietP

ostB

an

k

VP

B

Se

ab

an

k

Do

ng

A B

an

k…

VIB

An

Bin

h B

an

k

PN

B

Ocean

Ban

k

MD

B

MH

B

OC

B

Dai A

Ba

nk

Sa

igo

n B

an

k

Navib

an

k

Kie

n L

on

g B

an

k

Nam

A B

an

k

Vie

t C

ap

ital B

an

k

PG

Ban

k

Ba

o V

iet

Ban

k

Weste

rn B

an

k

2011 2012

Xét đến chi phí vốn, NHTMNN

có lợi thế hơn NHTMCP nói

chung.

Page 43: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 43

thích kinh tế nào đó. Những nguồn vốn này thường có chi phí thấp. Hơn

nữa, NHTMNN có lợi thế hơn NHTMCP trong việc huy động vốn bởi họ có

mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch rộng khắp cả nước và được biết

đến nhiều hơn.

Chi phí vốn (%)

(%)

Chi phí vốn năm 2012

2008 2009 2010 2011 2012

BIDV 7,80 5,80 6,84 9,06 5,20

VCB 5,67 4,12 4,87 7,05 6,29

MBB 7,08 4,52 6,72 7,89 6,47

CTG 8,50 2,82 7,36 9,85 7,52

TCB 10,28 6,50 7,00 9,72 7,70

ACB 9,35 6,04 6,80 9,03 7,82

EIB 9,90 5,57 5,63 9,40 8,40

STB 10,46 6,42 7,18 9,95 8,76

SHB 10,43 5,60 7,14 10,67 9,59 Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng, VPBS tổng hợp

Phần thu nhập lãi bao gồm lãi nhận được từ các tài sản sinh lãi như cho

vay khách hàng, trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty, các khoản tiền

gửi và cho vay các tổ chức tín dụng khác. Trong khi các khoản cho vay

khách hàng và trái phiếu công ty có nhiều rủi ro hơn, các khoản này

thường có lãi suất cao hơn. Nếu ngân hàng muốn có lãi hơn, họ cần phải

“đầu tư” vào các tài sản rủi ro hơn. Khi chúng tôi theo dõi tỷ lệ NIM của

các ngân hàng và tỷ lệ trái phiếu Chính phủ trong tổng tài sản của các

ngân hàng, mối quan hệ rủi ro - lợi nhuận không thực sự thể hiện ở đây.

Ví dụ, năm 2012, MBB giữ gần 21% tài sản là trái phiếu chính phủ, một tỷ

lệ cao hơn khi so sánh với con số 1,35% của EIB. Tuy nhiên, NIM của MBB

(4,54%) lại cao hơn NIM của EIB (3,12%).

Bảng cân đối Kế toán

Cấu phần tài sản

Bảng cân đối tài sản của ngân hàng thường bao gồm:

Tiền mặt, vàng bạc, đá quý

Tiền gửi tại NHNN

Tiền gửi và cho vay các tổ chức tín dụng khác

Cho vay và ứng trước khách hàng

Chứng khoán đầu tư (chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu

tư sẵn sàng để bán, chứng khoán giữ đến ngày đáo hạn)

Góp vốn và đầu tư dài hạn

Tài sản cố định

Các tài sản khác

Tại các ngân hàng Việt Nam, ba nhóm chiếm tỷ trọng tài sản lớn

nhất bao gồm: Cho vay và ứng trước khách hàng, tiền gửi và cho

vay các tổ chức tín dụng khác và chứng khoán đầu tư.

0% 2% 4% 6% 8% 10%

BIDV

VCB

MBB

CTG

TCB

ACB

EIB

STB

SHB

Page 44: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 44

Tài sản của các ngân hàng giai đoạn 2011-2012

Nguồn: KPMG

Xu hướng dễ nhận thấy nhất là tỷ lệ giảm dần của các khoản tiền gửi

liên ngân hàng, từ 20% năm 2011 xuống còn 14% năm 2012. Sự thiếu

thanh khoản vào năm 2011 khiến các ngân hàng phụ thuộc vào thị

trường liên ngân hàng làm nguồn cung cấp vốn chính. Tuy nhiên, nhờ

huy động đã tăng trưởng nhanh hơn tín dụng, áp lực thanh khoản được

cải thiện vào năm 2012, cùng sự ban hành Thông tư 21/2012/TT-NHNN

khiến cho việc vay và cho vay liên ngân hàng bị hạn chế, nhu cầu vay

liên ngân hàng cũng thu hẹp lại.

Một diễn biến quan trọng khác của bảng cân đối kế toán của các ngân

hàng gần đây là khối lượng trái phiếu Chính phủ mà các ngân hàng nắm

giữ. Nếu như năm 2012 đánh dấu một năm với tỷ lệ tăng trưởng tín dụng

thấp nhất trong 20 năm, đó cũng là năm chứng kiến sự đầu tư vào trái

phiếu Chính phủ cao kỷ lục ở toàn hệ thống ngân hàng. Trong 150 nghìn

tỷ VND trái phiếu được phát hành năm 2012, 78% trong số đó được mua

bởi các ngân hàng trong nước, chỉ có 11% được mua bởi các NH nước

ngoài. Con số này trong ba quý đầu năm 2013 không kém ấn tượng, với

140 nghìn tỷ VND trái phiếu được phát hành và 88% trong số đó được

ngân hàng nắm giữ.

13% 14%

53% 57%

20% 14%

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

100%

2011 2012

Tiền mặt, vàng bạc, đá quý

Tiền gửi tại NHNN

Tiền gửi tại và cho vay các TCTD khác

Cho vay và ứng trước cho khách hàng

Chứng khoán đầu tư (CKĐT sẵn sàng để bán, CKĐT giữ đến ngày đáo hạn)

Góp vốn và đầu tư dài hạn

Tài sản cố định

Các tài sản khác

Page 45: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 45

Đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ (triệu đồng)

Ngân hàng 2008 2009 2010 2011 2012 Nửa đầu 2013

CTG 37.551.913 27.939.579 33.350.818 38.528.334 46.722.304 48.587.514

BIDV 27.293.537 21.894.862 19.086.705 25.065.360 40.533.598 56.021.385

VCB 22.433.043 13.420.652 10.540.235 13.331.455 62.453.801 49.664.339*

ACB 12.082.303 13.653.321 9.650.085 9.332.918 14.530.536 19.059.691

STB 1.726.228 2.135.629 4.046.212 7.180.072 11.167.819 13.769.339

MBB 6.495.633 5.714.941 8.293.881 10.519.788 36.501.268 40.758.494

EIB 4.482.626 2.929.823 2.277.461 1.641.085 2.289.675 1.453.000

SHB 475.340 1.040.500 1.350.000 1.950.000 5.816.933 6.475.811

TCB 2.105.212 6.704.716 8.270.717 15.253.214 7.897.076 10.848.266

Tổng giá trị 114.645.835 95.434.023 96.866.114 122.802.226 227.913.010 204.776.713

Tỷ lệ tăng trưởng -16,76% 1,50% 26,78% 85,59% -10,15%

Nguồn: Báo cáo tài chính các ngân hàng, VPBS tổng hợp

Ghi chú: *VPBS ước tính

Tổng giá trị trái phiếu Chính phủ được chín ngân hàng mua trong năm

2012 là 105 nghìn tỷ VND, tăng 86% so với năm 2011, chiếm 70% tổng

số trái phiếu được phát hành, hay 90% tổng số trái phiếu được nắm giữ

bởi các ngân hàng trong nước. Trong chín ngân hàng này, VCB nắm giữ số

lượng trái phiếu Chính phủ lớn nhất, đạt hơn 62 nghìn tỷ VND tại thời

điểm cuối năm 2012. Nếu chúng tôi nhìn vào tỷ lệ trái phiếu Chính phủ

trên tổng tài sản, MBB có tỷ trọng lớn nhất (20,8%), theo sau là VCB

(15%) và CTG (9,3%).

So với các kênh đầu tư khác, trái phiếu Chính phủ có nhiều ưu điểm lớn vì

các tổ chức tín dụng không bị giới hạn về số lượng trái phiếu Chính phủ

nắm giữ. Trong khi đó, trái phiếu công ty, tín dụng và cho vay liên ngân

hàng đều bị hạn chế bởi quy định về trích lập dự phòng và các chỉ số an

toàn hoạt động.

So với lãi suất thị trường, lợi suất trái phiếu Chính phủ vẫn sinh lời nhiều

hơn. Tại thời điểm này, các ngân hàng thương mai đang huy động ở lãi

suất 7,6%/ năm. Khi đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, lãi suất này là 7,4%

đến 7,9%/năm. Nếu những trái phiếu này được dùng để hoán đổi với

NHNN ở mức lãi suất tái chiết khấu là 5%/năm, nó sẽ sinh lời mà không có

chút rủi ro nào.

Trái phiếu Chính phủ được ghi nhận 100% trên sổ sách ở phần tài sản

“Có” và có tính thanh khoản tương đương tiền mặt. Nó giúp ngân hàng

đảm bảo tỷ lệ chi trả cho các khoản đi vay ngắn hạn và khả năng sinh lời.

Và khi lãi suất thị trường thấp đi, giá các tài sản này sẽ tăng lên.

Có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến xu hướng này. Có quan điểm

cho rằng trái phiếu Chính phủ (nợ công) đang lấn áp tín dụng cho khu vực

tư nhân. Hệ quả là, các doanh nghiệp và cá nhân gặp khó khăn hơn để

tiếp cận nguồn vốn và phải chịu mức lãi suất cao hơn. Một quan điểm

khác lại cho rằng đó là việc thông thường khi ngân hàng mua trái phiếu

Chính phủ vì đó là một cách gián tiếp để đầu tư vào nền kinh tế. Chính

phủ có thể sử dụng vốn từ trái phiếu để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, công

trình công cộng.v.v. Tuy nhiên chúng tôi nghiêng về quan điểm thứ nhất

hơn vì đầu tư công lâu nay vốn bị coi là thiếu hiệu quả.

Các ngân hàng thương mại

mua phần lớn trái phiếu

Chính phủ. Gần đây, chúng

tôi chứng kiến sự gia tăng

đáng kể đầu tư vào trái phiếu

Chính phủ trên bảng cân đối

kế toán của các ngân hàng.

Page 46: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 46

Đánh giá chất lượng tín dụng

Cấu trúc các khoản vay đã dần cân bằng hơn trong những năm gần đây.

Tỷ lệ các khoản vay dành cho khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm đi và

tỷ lệ dành cho khu vực ngoài quốc doanh đã tăng. Đây là một dấu hiệu cải

thiện trong hệ thống ngân hàng.

Hơn nữa, tỷ trọng các khoản vay, mặc dù không thay đổi nhiều, đã phân

bổ tăng dần cho khu vực nông nghiệp, nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy

sản, và các dịch vụ khác. Những ngành này đang hoạt động tương đối tốt

và thể hiện khả năng phục hồi trong môi trường kinh doanh khó khăn. Bởi

vậy, mở rộng cho vay cho những ngành này thực tế là một điều tốt cho

các ngân hàng.

Phân loại khoản vay theo đối tượng khách hàng

Nguồn: Ủy ban giám sát tài chính quốc gia

Phân loại khoản vay theo lĩnh vực kinh doanh

Nguồn: NHNN

Mặc dù cơ cấu tài sản toàn hệ thống ngân hàng đang được cải thiện, tỷ lệ

nợ xấu vẫn đang tăng lên. Chúng tôi sẽ thảo luận về nợ xấu ở một phần

riêng trong báo cáo này.

Cơ cấu nợ

Hai nguồn vốn chính của ngân hàng là huy động từ khách hàng và các

khoản vay từ các tổ chức tài chính khác. Tỷ trọng tăng lên của phần huy

động từ khách hàng và tỷ trọng giảm xuống của các khoản vay liên ngân

35,1% 33,2% 29,5% 26,9% 17,2% 18,0%

36,6% 38,9% 42,2% 44,5% 48,6%

40,8%

0%

20%

40%

60%

80%

100%

2007 2008 2009 2010 2011 2012

8,8%

29,9%

9,0% 21,7%

5,6%

24,9%

2011

9,6%

29,3%

9,3% 19,5%

4,3%

28,0%

2012

10,5%

29,0%

9,5% 18,8%

4,0%

28,1%

Tháng 9/2013

Page 47: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 47

hàng là trùng khớp với những gì được giải thích ở phần trên về cơ cấu tài

sản ngân hàng.

Cơ cấu Nợ giai đoạn 2011- 2012

Nguồn: KPMG

RỦI RO VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC

Rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản rất đặc trưng trong hoạt động của các ngân hàng

thương mại và được coi là nỗi sợ hãi lớn nhất của các ngân hàng. Rủi ro

thanh khoản không chỉ đe dọa sự an toàn của từng ngân hàng mà còn làm

tổn hại đến sự an toàn của toàn hệ thống. Rủi ro thanh khoản phát sinh

khi ngân hàng không có khả năng bù đắp sự giảm sút vốn huy động hoặc

không thể cung cấp vốn cho sự gia tăng tài sản. Khi một ngân hàng thiếu

thanh khoản, nó không thể cung cấp đủ tiền mặt cho dù có tăng huy động

hay chuyển đổi tài sản ngay lập tức, ở một mức chi phí hợp lý, từ đó ảnh

hưởng khả năng sinh lời và tăng rủi ro vỡ nợ. Những nguyên nhân chính

dẫn đến rủi ro thanh khoản là do tài sản của ngân hàng thường ít thanh

khoản hơn nợ phải trả của ngân hàng đó. Một phần lớn của nợ phải trả

của ngân hàng là các khoản huy động từ khách hàng thường có thể bị rút

ra trước ngày đáo hạn. Ngược lại, tài sản của ngân hàng là các khoản cho

vay với thời hạn cố định, và hiếm khi các ngân hàng nhận được cả khoản

tiền trước ngày đáo hạn.

Chúng tôi trước hết xem xét cơ cấu tiền gửi và cho vay của ngân hàng.

Các khoản cho vay tại các ngân hàng Việt Nam năm 2011 được phân chia

theo kỳ hạn gồm các khoản vay ngắn hạn (59%), vay trung hạn (14%),

vay dài hạn (27%). Nguồn vốn của các ngân hàng chủ yếu là từ tiền gửi

của dân cư và tổ chức kinh tế, tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi ngắn hạn.

Tỷ trọng các khoản huy động trung và dài hạn chỉ chiếm 16% tổng huy

19% 15%

59% 70%

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

100%

2011 2012

Các khoản nợ khác

Phát hành giấy tờ có giá

Vốn tài trợ từ chính phủ, tổ chức nước ngoài và các TCTD khác

Tiền gửi của khách hàng

Tiền gửi các TCTD khác

Năm 2011 đã diễn ra cuộc

khủng hoảng thanh khoản do

sự bất cân xứng kỳ hạn và

quy định của NHNN về trần

lãi suất huy động.

Thanh khoản của các ngân

hàng đã được cải thiện và

bây giờ đang thực sự "dư

thừa".

Page 48: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 48

động. Bởi vậy, rõ ràng toàn bộ hệ thống ngân hàng phải sử dụng khoảng

25% nguồn vốn ngắn hạn cho các khoản vay trung và dài hạn. Mặc dù có

sự không cân xứng về kỳ hạn, nó dường như không quá tệ vì một phần

các khoản huy động ngắn hạn thường được tái gia hạn.

Phân loại Khoản vay theo kỳ hạn - 2011

Phân loại Tiền gửi theo kỳ hạn - 2011

Nguồn: StoxPlus

Những lý do nào khác có thể giái thích cho cuộc khủng hoảng thanh khoản

năm 2011? Vào tháng ba và tháng chín năm 2011, NHNN ban hành Thông

tư 02 và Thông tư 30 quy định trần lãi suất cho tất cả khoản tiền gửi có kỳ

hạn và không kỳ hạn. Những quy định này đã loại bỏ một cách hiệu quả

sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong việc huy động vốn, đặt các

NHTMCP nhỏ trong tình trạng không an toàn. Ở cùng một mức lãi suất

giống nhau, các khoản tiền gửi chảy từ các ngân hàng nhỏ về các ngân

hàng lớn, nơi được coi là an toàn hơn. Các NHTMCP nhỏ gặp nhiều khó

khăn để thu hút tiền gửi và phải dựa vào thị trường liên ngân hàng để

đảm bảo thanh khoản trong khi các NHTMCP lớn và NHTMNN hưởng lợi lớn

từ mức lãi suất liên ngân hàng tăng cao. Bởi vậy, cuộc khủng hoảng thanh

khoản chủ yếu xảy ra ở các NHTMCP nhỏ chứ không phải ở toàn bộ hệ

thống.

Quy định Ngày Kỳ hạn VND Thông tư

02/2011/TT-NHNN 3/3/2011 Tất cả các kỳ hạn 14%

Thông tư 30/2011/TT-

NHNN 1/10/2011

Không kỳ hạn hoặc kỳ hạn dưới một tháng 6%

Kỳ hạn lớn hơn một tháng 14%

Nguồn: NHNN

Tỷ trọng các khoản tiền gửi trong ngắn hạn được sử dụng để cho vay

trung và dài hạn ở các ngân hàng thương mại Việt Nam gần đây đã giảm

xuống quanh mức 18%-20% (theo thống kê của NHNN), chỉ bằng một

nửa so với năm năm trước. Một điều cũng đáng chú ý đó là tỷ lệ âm các

khoản tiền gửi ngắn hạn được dùng cho vay trung và dài hạn ở các ngân

hàng nước ngoài, nghĩa là các NH nước ngoài có nguồn vốn huy động

trung và dài hạn lớn hơn các khoản cho vay trung và dài hạn. Bởi vậy, khi

so sánh với NH nước ngoài, NHTMNN và NHTMCP vẫn có nhiều rủi ro về

thanh khoản hơn.

Ngắn hạn 59%

Trung hạn 14%

Dài hạn 27%

Không kỳ hạn 16%

Tiền gửi đến hạn

2% Tiền gửi nhu cầu đặc biệt

1%

Ngắn hạn 65%

Trung & dài hạn 16%

Page 49: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 49

Các loại ngân hàng

% tiền gửi ngắn hạn được dùng cho các khoản vay

trung và dài hạn

09/2013 12/2012

NHTMNN 22,28 21,45

NHTMCP 18,39 17,60

NH nước ngoài -3,66 -2,03

Nguồn: NHNN

Liệu các ngân hàng có thể huy động được nhiều nguồn vốn dài hạn hơn

trong tương lai gần hay không? Có lẽ sẽ không dễ dàng. Lý do nằm ở sự

thiếu niềm tin vào hệ thống ngân hàng và đường cong lãi suất thường

xuyên đi ngang và không ổn định, khiến cho người dân và doanh nghiệp

rất thận trọng và ưa thích gửi tiền trong ngắn hạn hơn dài hạn.

Chúng tôi có thể nhìn thấy điều này ở tỷ lệ cho vay trên huy động. Theo

số liệu của IMF, trước năm 2006, tỷ lệ cho vay trên huy động trung bình ở

các ngân hàng thương mại Việt Nam rơi vào khoảng 90%. Tuy nhiên,

trong những năm gần đây, tỷ lệ này đã tăng vọt lên hơn 100%. Về lý

thuyết, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang cho vay quá mức, bởi

vậy gây ảnh hưởng tiêu cực lên thanh khoản hệ thống. Một nguồn vốn

khác của ngân hàng có thể dùng để mở rộng danh mục cho vay thường là

các khoản vay từ thị trường liên ngân hàng và từ việc phát hành giấy tờ có

giá.

Do chúng tôi không thể tiếp cận tới tất cả các dữ liệu phân loại các khoản

vay và tiền gửi các các ngân hàng để tính tỷ lệ này theo Điều 18, Thông

tư 13/2010/TT-NHNN được sửa đổi theo Thông tư 19/2010/TT-NHNN,

chúng tôi đã ước tính về tỷ lệ cho vay trên huy động như sau:

Các khoản cho vay (tử số) bao gồm: cho vay khách hàng và trái

phiếu công ty, chúng tôi loại trừ các khoản vay từ thị trường liên

ngân hàng và các tài sản ngoại bảng.

Các khoản huy động (mẫu số) bao gồm: tiền gửi của khách hàng

và các giấy tờ có giá.

Tỷ lệ Cho vay trên Huy động

Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng, VPBS tổng hợp

Chúng tôi nhận thấy CTG đã duy trì tỷ lệ cho vay trên huy động cao nhất,

theo sau đó là EIB. Đặc biệt, CTG có tỷ lệ cho vay trên huy động cao hơn

100% trong suốt năm năm qua.

Dựa trên tỷ lệ tài sản có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản, ACB,

STB, SHB, và BIDV có tính thanh khoản khá thấp, trong khi MBB có tỷ lệ

thanh khoản cao nhất.

0%

20%

40%

60%

80%

100%

120%

140%

CTG VCB TCB ACB MBB EIB STB SHB

2008

2009

2010

2011

2012

Page 50: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 50

Tài sản có tính thanh khoản cao trên tổng Tài sản

2008 2009 2010 2011 2012 1H2013

CTG 35,11% 29,08% 32,80% 32,38% 29,02% 31,41%

BIDV 31,63% 27,39% 27,71% 24,93% 26,21% 26,25%

VCB 47,86% 42,96% 40,94% 41,25% 40,08% 44,11%

ACB 57,23% 46,46% 47,26% 43,41% 34,00% 27,63%

STB 41,02% 35,86% 40,23% 34,64% 28,35% 24,51%

MBB 73,47% 80,85% 77,55% 77,35% 70,29% 66,42%

EIB 51,62% 37,33% 46,35% 54,68% 49,80% 41,41%

SHB 39,40% 44,77% 41,56% 48,49% 39,55% 30,36%

TCB 50,77% 48,60% 56,68% 56,17% 49,37% 46,38%

Nguồn: Báo cáo tài chính ngân hàng, VPBS tổng hợp

Rủi ro lãi suất

Rủi ro lãi suất liên quan đến mức độ bị ảnh hưởng của tình trạng tài

chính của một ngân hàng khi lãi suất có những biến động bất lợi. Rủi ro

này ảnh hưởng tới cả lợi nhuận của một ngân hàng và cả giá trị kinh tế

của tài sản, nợ phải trả và các tài sản ngoại bảng. Mặc dù rủi ro này là

một phần thông thường của hoạt động ngân hàng, rủi ro lãi suất quá

mức có thể tạo ra mối đe dọa lớn lên nguồn vốn và lợi nhuận của một

ngân hàng.

Những nguyên nhân chính gây ra rủi ro lãi suất bao gồm:

Diễn biến bất ngờ của lãi suất cho vay và huy động

Cho vay và huy động dựa trên những lãi suất khác nhau (cố định

hoặc thả nổi)

Chênh lệch lãi suất (mức chênh lệch giữa các tài sản và nguồn

vốn nhạy cảm với lãi suất)

Diễn biến lãi suất ở Việt Nam kể từ năm 2004 đã trải qua nhiều thay đổi,

đặc biệt là giai đoạn từ 2007 đến 2010. Lãi suất cho vay và huy động

trung bình hàng năm từ mức thấp, lần lượt ở mức 6,2% và 9,7% năm

2004, đã lên cao tới 14% và 17% tương ứng năm 2011. Lãi suất cho vay

và huy động không phải luôn luôn di chuyển song song, khiến cho lợi

nhuận biên trung bình (lãi suất cho vay - lãi suất huy động) dao động từ

1,9% năm 2010 đến 3,9% năm 2005. Biểu đồ theo tháng còn thấy sự lên

xuống thậm chí còn bất lợi hơn. Lãi suất cho vay và mức lãi biên ròng

chạm ngưỡng cao nhất vào tháng 03/2005, lần lượt ở mức 22% và 10%.

Nhưng đến nửa cuối năm 2008, các ngân hàng đã nâng lãi suất huy động

lên nhằm thu hút tiền gửi. Lãi biên được thu hẹp lại thấp ở mức kỷ lục, chỉ

còn khoảng 1-2%. Với nỗ lực của chính phủ nhằm bình ổn kinh tế bằng

cách điều chỉnh lãi suất, quy định trần lãi suất huy động, lãi suất tái cấp

vốn, lãi suất chiết khấu, v.v., diễn biến lãi suất dường như đã ổn định hơn

và mức lãi biên đã ổn định dần kể từ 2011. Trong năm 2013, do tăng

trưởng tín dụng đã khá chậm, tỷ suất này đã đi xuống và xu hướng này có

khả năng tiếp tục đến ít nhất sáu tháng đầu năm 2014.

Lãi suất cho vay và huy

động, cũng như chênh lệch

lãi suất đã trải qua nhiều

biến động bất lợi.

Page 51: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 51

Lãi suất Cho vay và Huy động hàng năm

Nguồn: WDI

Lãi suất Cho vay và Huy động hàng tháng

Nguồn: StoxPlus, VPBS

Rủi ro tín dụng và nợ xấu

Mức nợ xấu được báo cáo “mập mờ”

NHNN đã ban hành Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN vào tháng 04/2005,

quy định phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng. Điều 6 của Quyết định này

(phương pháp định lượng), nhất quán với các nguyên tắc của Basel I, đã

hướng dẫn các ngân hàng phân loại các khoản nợ thành năm nhóm, từ

Thông thường đến Có khả năng mất vốn, dựa trên các chỉ tiêu đánh giá

định lượng như số ngày quá hạn hoặc có hay không việc gia hạn nợ. Theo

điều 7 (phương pháp định tính), phù hợp với hiệp ước Basel II, rủi ro tín

dụng cần được đánh giá dựa trên tình hình tài chính của từng khách hàng.

Việc phân loại nợ theo điều 7 dường như chặt chẽ hơn điều 6, tuy nhiên

việc áp dụng điều 7 vẫn chưa là bắt buộc đối với các ngân hàng. Bởi vậy,

chỉ có một vài ngân hàng tuân theo điều 7 này, bao gồm MBB, BIDV, và

VCB. Tuy nhiên, mặc dù tuân theo phương pháp chặt chẽ hơn, những

ngân hàng này vẫn có cách để che giấu mức độ nợ xấu thực sự. Khi chúng

tôi nhìn vào phần phân loại nợ của các ngân hàng này, chúng tôi thấy

rằng họ đã phân loại đa số các khoản cho vay có rủi ro cao vào nhóm nợ

cần chú ý (nhóm 2, một nhóm ngay trước nhóm nợ xấu), và những loại nợ

này nhiều gấp ba đến năm lần mức nợ xấu được báo cáo. Những con số

này thật đáng nghi ngờ khi so sánh với những ngân hàng khác. Một phần

lớn các khoản vay cần chú ý là dành cho các doanh nghiệp nhà nước, con

6,2% 7,1% 7,6% 7,5%

12,7%

7,9%

11,2%

14,0%

10,5% 9,7% 11,0% 11,2% 11,2%

15,8%

10,1%

13,1%

17,0%

13,5%

3,6% 3,9% 3,5% 3,7% 3,1% 2,2% 1,9%

3,0% 3,0%

0%

2%

4%

6%

8%

10%

12%

14%

16%

18%

2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

0%

5%

10%

15%

20%

25%

03/2

008

05/2

008

07/2

008

09/2

008

11/2

008

01/2

009

03/2

009

05/2

009

07/2

009

09/2

009

11/2

009

01/2

010

03/2

010

05/2

010

07/2

010

09/2

010

11/2

010

01/2

011

03/2

011

05/2

011

07/2

011

09/2

011

11/2

011

01/2

012

03/2

012

05/2

012

07/2

012

09/2

012

11/2

012

01/2

013

03/2

013

05/2

013

07/2

013

Tỷ lệ nợ xấu các ngân hàng

báo cáo thấp hơn rất nhiều

so với ước tính của NHNN và

các tổ chức xếp hạng tín

dụng độc lập. Cho tới khi

Thông tư 02 được áp dụng

(01/06/2014), việc tính toán

con số chính xác của tỷ lệ

NPL là rất khó khăn.

Page 52: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 52

số này ở nhóm NHTMNN (đặc biệt ở trường hợp của BIDV, CTG, và VCB)

cao hơn so với nhóm NHTMCP. Theo một nghiên cứu của Ủy ban Giám sát

Tài chính quốc gia (NFSC), một phần lớn các khoản cho vay cần chú ý

thực chất là nợ xấu. Nếu phân loại lại các khoản cho vay cần chú ý này

thành nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng sẽ còn cao hơn rất

nhiều.

Nợ xấu và Khoản vay cần chú ý (30/06/2013)

2013)

Cơ cấu Nợ

Nguồn: Fitch, báo cáo tài chính của các ngân hàng

NHNN đã chính thức công bố tỷ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng ở mức

4,55% vào cuối tháng 11/2013, vẫn tiếp tục xu hướng tăng lên kể từ năm

2009, nhưng có phần hạ bớt so với tháng 10/2013. Vấn đề là con số báo

cáo chính thống này được đa số cho rằng thấp hơn thực tế rất nhiều.

NHNN cũng công nhận rằng tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng thực sự

lớn gấp hai con số được báo cáo. Tệ hơn, NHNN công bố nếu như NHNN đã

không cho phép cơ cấu lại nợ (theo Quyết định 780/QĐ-NHNN), và nếu

như các ngân hàng không sử dụng phần trích lập dự phòng của năm 2012

để xử lý các khoản nợ xấu trong chín tháng đầu năm 2013 thì nợ xấu của

toàn hệ thống sẽ lên tới mức 12,7%. Theo báo cáo của NHNN trình lên

Quốc hội vào tháng 04/2013, 284,4 nghìn tỷ VND nợ quá hạn đã được tái

cấu trúc và được giữ nguyên ở nhóm nợ ban đầu theo Quyết định 780/QD-

NHNN. Nhờ có việc tái cấu trúc này, mức nợ xấu chính thức tính đến tháng

tư là 4,67%, tương đương 137,1 nghìn tỷ VND. Nếu không, con số này sẽ

lần lượt giữ ở mức 11,5% và 362,8 nghìn tỷ VND.

Tính đến cuối tháng chín, tổng mức nợ xấu vào khoảng 142,33 nghìn tỷ

VND, chiếm 4,62% dư nợ. Con số này tăng 20,2% so với cùng kỳ năm

trước. Nếu không có tái cấu trúc, mức nợ xấu sẽ là 12,7%, trị giá 391,25

nghìn tỷ VND.

Dựa vào dữ liệu của tháng chín, sẽ có thêm ít nhất 245 nghìn tỷ VND được

xếp vào nhóm nợ xấu khi thông tư 02 có hiệu lực.

Một nguồn nợ xấu đang bị che giấu chính là các khoản nợ cho các doanh

nghiệp nhà nước. Tính đến cuối năm 2012, khu vực này có tổng vốn chủ

0%

3%

6%

9%

12%

15%

0%

20%

40%

60%

80%

100%

Page 53: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 53

sở hữu 1.020 nghìn tỷ VND, lợi nhuận trước thuế ở mức 167 nghìn tỷ VND,

tổng các khoản vay trị giá 1.350 nghìn tỷ VND tương đương 50% GDP.

Các khoản vay ngân hàng của khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm một

phần ba tổng dư nợ ngân hàng. Vì các doanh nghiệp nhà nước hoạt động

kém hiệu quả, chúng tôi nghĩ rằng nợ xấu sẽ nhiều khả năng bắt nguồn từ

khu vực này.

Tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập, Fitch Ratings, nói rằng mức độ thực sự

của nợ xấu còn cao hơn rất nhiều, lên đên 15 đến 20%, và con số được

báo cáo không phản ánh được tình trạng khó khăn của Việt Nam cũng như

chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Trước khi Thông tư 02 có hiệu lực,

chúng ta sẽ không biết được mức độ “thật sự” của nợ xấu là bao nhiêu.

Tuy nhiên hy vọng rằng, khi đó nợ xấu sẽ được phản ánh chính xác hơn và

theo đúng những chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Tỷ lệ Nợ xấu của hệ thống ngân hàng Nợ xấu của các tổ chức tín dụng

(09/2012)

Nguồn: NHNN, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia

Một số điểm quan trọng khác chúng ta cần ghi nhớ là:

NHTMNN có tỷ trọng nợ xấu lớn hơn rất nhiều so với các tổ chức

tín dụng khác.

Nợ xấu tập trung ở khu vực xây dựng, bất động sản và chứng

khoán.

Nợ xấu liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước chiếm 70%

tổng dư nợ xấu (tính đến tháng 09/2012)

Con số nợ xấu được báo cáo của một số ngân hàng chủ chốt tại thời

điểm 30/06/2013 như sau:

2,9%

3,2% 3%

2%

3,5%

2,2%

2,6%

3,40%

4,08%

4,55%

0%

1%

1%

2%

2%

3%

3%

4%

4%

5%

5%

NHTM NN 54% NHTM

CP 26%

NHNNg 5%

Khác 15%

Page 54: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 54

Tỷ lệ và mức Nợ xấu của một số ngân hàng nửa đầu năm 2013 (tỷ VND)

Nguồn: Báo cáo tài chính, VPBS tổng hợp

So sánh với mức nợ xấu của năm tài chính 2012, mức nợ xấu của nửa đầu

năm 2013 tăng ở cả chín ngân hàng lớn, đáng chú ý là CTG (51%), STB

(39%), MBB (42%), và TCB (100%).

VAMC và các giải pháp cho vấn đề nợ xấu

Trong số các giải pháp đã được áp dụng để giải quyết vấn đề nợ xấu (như

tái cấu trúc khoản vay, dùng trích lập dự phòng xóa nợ), sự ra đời Công ty

Quản lý tài sản (VAMC) được cho là giải pháp rõ rệt nhất. VAMC được

NHNN thành lập tháng 7/2013, với mức vốn ban đầu 500 tỷ đồng. Những

quy định cụ thể về hoạt động của VAMC đã dần được công bố, tuy nhiên

một số khía cạnh vẫn chưa được làm rõ và vai trò của VAMC trong giải

quyết nợ xấu vẫn còn khá mơ hồ.

Theo Nghị định 53, Thông tư 19 và Thông tư 20, tất cả các ngân hàng Việt

Nam đều được phép bán nợ xấu cho VAMC; tuy nhiên chỉ những ngân

hàng có tỷ lệ nợ xấu trên 3% mới bắt buộc phải bán nợ xấu cho VAMC.

VAMC sử dụng hai phương pháp để mua nợ xấu:

(1) Phát hành trái phiếu đặc biệt để mua nợ xấu theo giá trị sổ sách số

dư nợ gốc sau khi đã khấu trừ số tiền dự phòng đã trích lập chưa

sử dụng cho khoản nợ xấu đó. Trái phiếu đặc biệt sẽ có kỳ hạn tối

đa 05 năm và lãi suất bằng 0%. TCTD bán nợ xấu cho VAMC có

nghĩa vụ trích lập dự phòng hàng năm bằng ít nhất 20% giá trị

mệnh giá trái phiếu, làm giảm trừ lợi nhuận của ngân hàng. Các

ngân hàng có thể sử dụng trái phiếu đặc biệt làm tài sản đảm bảo

để vay tái cấp vốn từ NHNN, mức tái cấp vốn không vượt quá 70%

so với mệnh giá trái phiếu đặc biệt. VAMC sẽ chuyển lại số tiền thu

hồi được từ khoản nợ xấu (hoặc chính khoản nợ xấu nếu không xử

lý được) cho ngân hàng khi trái phiếu đáo hạn. Một tin tốt cho các

ngân hàng thương mại đó là ngày 4 tháng 12 vừa qua Thủ tướng

Chính Phủ đã quyết định ưu đãi 2% lãi suất đối với các khoản vay

đảm bảo bằng trái phiếu đặc biệt. Lãi suất tái cấp vốn thời điểm

0%

1%

2%

3%

4%

5%

6%

7%

8%

9%

10%

--

2,000

4,000

6,000

8,000

10,000

12,000

CTG BIDV VCB ACB STB MBB EIB SHB TCB

Nợ xấu

Tỷ lệ nợ xấu

VAMC giữ một vai trò quan

trọng trong việc giải quyết nợ

xấu. Tuy nhiên, hoạt động và

biện pháp của VAMC hiệu quả

tới đâu vẫn còn chưa chắc

chắn.

Page 55: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 55

hiện tại là 7%, như vậy các TCTD có thể vay tái cấp vốn với lãi suất

5%. Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu rằng các ngân hàng có sử dụng

nguồn vốn giá rẻ này để cho vay hay sẽ “trả lại” nguồn vốn này về

thị trường trái phiếu chính phủ để hưởng lợi suất cao hơn (hiện tại

lợi suất TPCP kỳ hạn hai năm là 7%, lợi suất TPCP kỳ hạn bảy năm

là 8,9%.

(2) Thực hiện mua nợ xấu theo giá thị trường. Các khoản nợ xấu được

mua theo giá thị trường phải đáp ứng các điều kiện: phải được

VAMC đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ, tài sản đảm bảo có

khả năng phát mại, và khách hàng vay phải có triển vọng phục hồi

khả năng trả nợ hoặc có phương án trả nợ khả thi.

Phát hành trái phiếu để mua nợ xấu nhiều khả năng sẽ được sử dụng

nhiều trong những năm đầu vì vốn của VAMC khá nhỏ bé so với lượng nợ

xấu cần xử lý. Dù VAMC sử dụng cách nào đi chăng nữa, tính hợp lý của

cả hai phương pháp này đều đang bị nghi ngờ. Với phương pháp trái

phiếu, thực chất VAMC không chịu tổn thất gì khi những khoản nợ xấu

không đòi được, vai trò của VMAC chỉ là giúp các TCTD có thêm thời gian

để ghi nhận thua lỗ từ các khoản nợ xấu (tối đa năm năm), tạm thời làm

đẹp bảng cân đối của ngân hàng, và giúp ngân hàng có thể vay thêm vốn

với hy vọng sẽ hoạt động hiệu quả hơn. Nếu có ý định bán lại những

khoản nợ xấu này thì ngay từ ban đầu VAMC đã không mua những khoản

nợ xấu này với giá trị sổ sách. Với phương pháp dùng tiền mua nợ xấu

theo giá thị trường, định nghĩa thế nào là “giá thị trường” của nợ xấu vẫn

chưa được trả lời bởi vì hiện tại vẫn chưa có “thị trường” cho nợ xấu. Giá

trị của các khoản nợ xấu cuối cùng vẫn được định đoạt bởi chính VAMC và

các ngân hàng bán nợ, và các ngân hàng này chắc chắn sẽ vận động hành

lang để đạt được “gói cứu trợ” lớn nhất. Hơn nữa chưa có cơ chế cho VAMC

bán nợ xấu một cách hiệu quả, đặc biệt là bán cho các nhà đầu tư nước

ngoài khi mà phần lớn các khoản nợ xấu mà VAMC mua đều được đảm

bảo bằng bất động sản.

Tính đến ngày 24/12/2013, VAMC đã mua được 32 nghìn tỷ đồng nợ xấu

tính theo giá trị sổ sách. Số còn lại, ba nghìn tỷ đồng nợ xấu dự kiến sẽ

được mua nốt trong vài ngày cuối năm, và VAMC sẽ hoàn thành chỉ tiêu.

Theo chúng tôi, việc thành lập một công ty quản lý tài sản tập trung là

cần thiết để xử lý một khối lượng nợ xấu lớn. Tuy nhiên, cách tiếp cận

hiện tại của VAMC chưa thể đảm bảo thành công. Sẽ mất nhiều thời gian

để giải quyết vấn đề nợ xấu (cái nhìn lạc quan của một số quan chức

chính phủ là nợ xấu sẽ được giải quyết trong năm 2015 rất khó có thể

hiện thực hóa được), và điều này sẽ làm cản trở tăng trưởng của nền kinh

tế. Một số nguồn tin từ Chính phủ đã dự đoán nền kinh tế và thị trường

bất động sản sẽ được cải thiện trong vòng năm năm tới, nhờ đó viêc xử lý

nợ xấu sẽ dễ dàng hơn. Tuy nhiên nếu kỳ vọng này không xảy ra, VAMC

khi đó sẽ nắm giữ nợ xấu không bán được và ngân hàng sẽ phải khấu trừ

toàn bộ giá trị của trái phiếu đặc biệt.

Page 56: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 56

Sở hữu chéo

Một vấn đề nổi cộm khác của ngành ngân hàng là vấn đề sở hữu chéo

giữa các ngân hàng. Có sáu loại hình sở hữu chéo:

(1) Sở hữu của các NHTMNN và NH nước ngoài tại các ngân hàng liên

doanh

(2) Đối tác chiến lược giữa các NH nước ngoài và NHTM

(3) Các quỹ đầu tư nắm giữ cổ phần của các NHTM

(4) NHTMNN nắm giữ cổ phần của các NHTMCP

(5) Các NHTMCP nắm giữ cổ phần của nhau

(6) Các công ty vốn Nhà nước, công ty tư nhân, cá nhân sở hữu cổ phần

của các NHTMCP

Luật các TCTD năm 2010 quy định các NHTM có thể dùng tối đa 11% vốn

điều lệ và các khoản dự trữ để mua cổ phần và góp vốn tại các TCTD

khác. Như vậy, pháp luật hiện hành không cấm mà chỉ giới hạn sở hữu

chéo.

Tình trạng sở hữu chéo giữa các ngân hàng Việt Nam hiện tại là kết quả

của ba mốc quan trọng: quy định nâng mức vốn tối thiểu lên 1.000 tỷ

đồng năm 2006, nâng vốn tối thiểu lên 3.000 tỷ đồng năm 2008, và đề án

cải cách hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011-2015 hiện tại. Quá trình này

đã khiến cho các NH liên kết với nhau để đáp ứng các yêu cầu về vốn. Sở

hữu chéo mang đến những hậu quả nghiêm trọng. Thứ nhất, khi các NH

liên kết với nhau thông qua sở hữu chéo, sự cạnh tranh giữa các NH có xu

hướng giảm sút. Thứ hai, rủi ro hệ thống sẽ tăng lên. Thứ ba, sở hữu chéo

tạo điều kiện cho các ngân hàng cho vay thiếu thận trọng, đầu tư vốn vào

những dự án rủi ro và thiếu minh bạch mà chủ sở hữu của những dự án

này chính là cổ đông lớn của NH và các tổ chức sân sau của họ. Thêm vào

đó, có một số cổ đông lớn đã vay tiền từ ngân hàng để mua cổ phần của

chính ngân hàng đó. Nói cách khác, những cổ đông này đã dùng đòn bẩy

tài chính để góp vốn ảo, che dấu mức vốn thực, phóng đại các chỉ tiêu an

toàn vốn của ngân hàng.

Chúng ta có thể nhìn vào sơ đồ sau để thấy rõ hơn sự phức tạp của tình

trạng sở hữu chéo các ngân hàng.

Sở hữu chéo đang làm xấu đi

sự minh bạch và hiệu quả

của các ngân hàng.

Page 57: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 57

Nguồn: Cafef

Ngân hàng Việt Nam trên con đường đến Basel

Hiệp ước Basel I ra đời từ năm 1988 nhưng phải 17 năm sau Việt Nam mới

bắt đầu thực hiện theo Basel I với sự ra đời của hai quyết định quan

trọng: quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005, quyết định này

sau đó đã được thay thế bằng Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày

20/05/2010 và Thông tư 19/2010/TT-NHNN ngày 27/09/2010, về đảm

bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động cuả các TCTD; quyết định

493/2005/QD-NHNN ngày 22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử

dụng dự phòng trong hoạt động của các TCTD. Các quy định này nhìn

chung đã theo tinh thần của Basel I, tuy nhiên mức độ vận dụng Basel I

của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn chưa đầy đủ do thiếu cơ sở hạ tầng

kỹ thuật và cơ sở dữ liệu. Cụ thể, tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng

thương mại lớn dù đã đạt mức 8%, nhưng các tỷ lệ này được tính toán

trên cở sở các chuẩn mực kế toán Việt Nam. Nếu tính toán dựa trên các

chuẩn mực kế toán quốc tế, tỷ lệ này sẽ bị thiếu hụt. Hơn nữa, các ngân

hàng Việt Nam mới chỉ đo lường rủi ro tín dụng trong phép tính CAR mà

chưa lượng hóa những rủi ro quan trọng khác như rủi ro hoạt động, rủi ro

thị trường, do đó chưa tính toán được tỷ lệ CAR thực sự. Thêm vào đó, các

ngân hàng Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong khâu kỹ thuật

NHNN đã dựa trên Hiệp ước

Basel I và Basel II để quy

định các tỷ lệ an toàn cho

hoạt động ngân hàng. Tuy

nhiên, các ngân hàng Việt

Nam vẫn chưa hoàn toàn

tuân theo Basel I, chứ chưa

nói đến Basel II.

Page 58: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 58

phức tạp và chi phí cao cho việc xây dựng các mô hình thống kê, lượng

hóa các rủi ro trong từng loại tài sản, đặc biệt là các rủi ro liên quan đến

tác nghiệp hàng ngày của ngân hàng và sự biến động khó lường của giá

cả hàng hóa trên thị trường.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008, Thủ tướng đã ban hành quyết

định 254/2012/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ

thống tổ chức tín dụng, trong đó đã đề cập đến định hướng và mục tiêu

hoàn thành triển khai các chuẩn mực an toàn vốn theo Basel II đến năm

2015. Cụ thể, NHNN sau đó đã ban hành Thông tư 02/2013/TT-NHNN

ngày 21/01/2013 để thay thế cho quyết định 493 và quyết định 780 (về

việc phân loại nợ đã được điều chỉnh, gia hạn). So với quyết đinh 493,

Thông tư 02 có rất nhiều thay đổi, và có tính tuân thủ cao hơn đối với hiệp

ước Basel II. Những thay đổi bao gồm: bổ sung phân loại và trích lập dự

phòng cho một số tài sản; định giá tài sản đảm bảo; các khoản vay vi

phạm phải bị phân loại nợ nhóm 3, các ngân hàng phải lấy thông tin từ

Trung tâm Thông tin Tín dụng đề phân loại nợ; những quy định này giúp

đánh giá chất lượng tài sản của các TCTD chính xác hơn. Thông tư 02 lẽ ra

đã có hiệu lực từ ngày 01/06/2013. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển

giao một mối quan ngại lớn đã được nêu lên. Nếu Thông tư 02 được áp

dụng ngay, tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng thương mại sẽ tăng từ 3%

đến 4% ở thời điểm hiện tại lên tới 10% đến 20% và hơn thế. Tỷ lệ nợ xấu

tăng cao đòi hỏi trích lập dự phòng cao hơn, và các quy định tín dụng bị

thắt chặt sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng vay vốn của các doanh

nghiệp và nền kinh tế. Do đó, NHNN đã quyết định hoãn việc áp dụng

Thông tư 02 đến 01/06/2014.

Dựa trên tình hình hiện tại, câu hỏi bao giờ hệ thống ngân hàng Việt Nam

có thể tuân thủ hoàn toàn Basel I vẫn chưa có câu trả lời, chưa bàn đến

Basel II. Kinh nghiệm ở nhiều quốc gia châu Á đã triển khai Basel II cho

thấy thường phải mất từ 5 đến 7 năm kể từ lúc bắt đầu đến khi hoàn toàn

tuân thủ. Do đó, nếu không triển khai nghiêm túc từ đầu, hệ thống ngân

hàng Việt Nam vẫn còn cách đích Basel II khá xa.

Page 59: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 59

Các thương vụ mua bán và sáp nhập gần đây

Là một phần trong trong kế hoạch cơ cấu lại hệ thống các TCTD 2011-

2015, chín ngân hàng yếu kém nhất đã được xác định vào tháng 10 năm

2011 và được yêu cầu tái cơ cấu. Cho đến thời điểm hiện tại, tám trên

chín ngân hàng trong danh sách này đã tiến hành sáp nhập và mua lại.

STT Tên ngân hàng

(trước sáp nhập) Đối tác

Tên ngân hàng sau sáp

nhập Thời điểm

1 SCB SCB

SCB

1/1/ 2012

2 Ficombank SCB 1/1/ 2012

3 TinnghiaBank SCB 1/1/ 2012

4 Tienphong Bank DOJI Tienphong Bank 18/1/ 2012

5 Habubank SHB SHB 28/8 2012

6 GP Bank

Dự kiến bán cổ phần

cho ngân hàng United Overseas Bank (UOB)

7 Navibank Tái cấu trúc bằng vốn tự

có Navibank Đang tiến hành

8 TrustBank Công ty CP Thiên Thanh Vietnam Construction Bank

(VNCB) May 23, 2013

9 Western Bank PVFC PVcom Bank Oct 3, 2013

SCB, Ficombank, và ngân hàng Tín Nghĩa đã sáp nhập thành ngân

hàng SCB với tổng tài sản hơn 150.000 tỷ đồng. Đây là thương vụ sáp

nhập tự nguyện đầu tiên kể từ khi NHNN công bố kế hoạch cơ cấu lại

hệ thống các TCTD.

Trong trường hợp của ngân hàng Tiên Phong, NHNN đã chấp thuận kế

hoạch tự tái cấu trúc, chủ yếu là bố trí lại nguồn nhân lực và điều

chỉnh chiến lược kinh doanh. Sau khi tập đoàn DOJI trở thành đối tác

chiến lược, ngân hàng Tiên Phong đã mở rộng sang lĩnh vực kinh

doanh khác để tận dụng lợi thế của DOJI.

Cái tên Habubank đã chính thức biến mất ngày 28/08/2012, sau khi

ngân hàng này sáp nhập với SHB. Habubank là NHTMCP đầu tiên được

thành lập vào năm 1989 với vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng. Trong

24 năm hoạt động, Habubank đã là một ngân hàng có tiếng và có thực

lực trong số các NHTMCP, cho đến năm 2011. Vấn đề của Habubank

nằm ở danh mục cho vay tập trung và không đa dạng (các khoản vay

của 50 khách hàng lớn nhất đã chiếm tới 65% dư nợ cho vay của

Habubank), dẫn đến khối lượng nợ xấu lớn một cách nghiêm trọng.

Vinashin và Bianfishco, cùng với những cái tên khác đã đóng góp phần

lớn cho sự đổ vỡ của Habubank. Habubank cũng gặp phải rủi ro tín

dụng từ thị trường liên ngân hàng với các khoản tiền gửi không rút

được tại Công ty Tài chính Cao su, Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu và

Ficombank. Ngay trước thời điểm sáp nhập, tỷ lệ nợ xấu của Habubank

là 23,66%. Câu chuyện đầy kịch tính nhưng cũng rất điển hình của

Habubank đã để lại bài học cho nhiều ngân hàng khác. Tỷ lệ nợ xấu

của SHB sau khi sáp nhập là 21,32% so với 2,23% thời điểm trước sáp

nhập (năm 2011). Sau sáp nhập, SHB đã gia nhập nhóm các NHTMCP

có tài sản trên 100 nghìn tỷ đồng. Tại ngày 30/9/2013, tỷ lệ nợ xấu

của SHB là 7,75%, vẫn thuộc mức cao nhất trong số các NHTM.

NHTMCP Đại Tín được chấp thuận cho dùng nguồn lực từ Tập đoàn

Thiên Thanh để tái cấu trúc và đã chính thức đổi tên thành Ngân hàng

Xây dựng Việt Nam ngày 23/05/2013.

Page 60: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 60

Ngân hàng Dầu khí toàn cầu đang được NHNN cân nhắc cho tự thực

hiện cơ cấu với sự tham gia của đối tác nước ngoài, nhiều khả năng là

ngân hàng United Overseas Bank (UOB) của Singapore.

Ngân hàng TMCP Phương Tây sáp nhập với Công ty Tài chính Dầu Khí

thành Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVcom Bank) là thương

vụ M&A gần đây nhất. Sau khi sáp nhập, ngân hàng TMCP Đại chúng

Việt Nam cũng gia nhập nhóm các NHTMCP có tài sản trên 100 nghìn

tỷ đồng. Vốn điều lệ của ngân hàng sẽ được giữ nguyên ở mức 9 nghìn

tỷ đồng trong năm 2013 và 2014, và ngân hàng dự định sẽ huy động

them vốn lên mức 12 nghìn tỷ đồng năm 2015.

Có cần thiết phải tách biệt ngân hàng và các công ty chứng khoán

ở Việt Nam hay không?

Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều có ngân hàng đa năng cung cấp cả

dịch vụ ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư. Ở Mỹ, Đạo luật Glass

- Steagall 1933 đã chia tách hoàn toàn ngân hàng thương mại và ngân

hàng đầu tư. Đạo luật này sau đó được sửa đổi để ngân hàng có thể sở

hữu cả các công ty cung câp dịch vụ ngân hàng đầu tư. Về sau, các đạo

luật này được bổ sung để các ngân hàng có thể tiến hành hoạt động ngân

hàng đầu tư trong cùng một công ty song song với hoạt động ngân hàng

thương mại. Ở Đức, các ngân hàng lớn có truyền thống là các ngân hàng

đa năng. Phần lớn các nước châu Âu còn lại đều có đặc điểm tương tự như

Đức ngoại trừ Anh, quốc gia mà dịch vụ ngân hàng đầu tư ban đầu được

chia tách và sau này đã được hợp nhất lại với hoạt động ngân hàng

thương mại.

Có rất nhiều quan điểm bày tỏ sự ủng hộ mô hình ngân hàng đa năng.

Các ngân hàng có thể đa dạng nguồn doanh thu và là điểm dừng chân lý

tưởng cho mọi nhu cầu về vốn của khách hàng. Tuy nhiên, với những gì

diễn ra trong cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu năm 2008, mô hình

ngân hàng đa năng cũng tạo ra những rủi ro đáng kể cho hệ thống ngân

hàng và toàn bộ nền kinh tế khi mà các ngân hàng thương mại đầu tư

mạo hiểm vào những hoạt động ngân hàng đầu tư và trở nên “quá lớn để

sụp đổ”, đòi hỏi sự cứu trợ của chính phủ trong suốt thời kỳ khủng hoảng.

Các ngân hàng Việt Nam có thể tham gia kinh doanh chứng khoán bằng

cách thành lập một công ty chứng khoán như một thực thể tách biệt hoặc

nắm giữ cổ phần của một công ty chứng khoán nào đó. Tính đến hiện nay

có 17 ngân hàng Việt Nam đầu tư vào các công ty chứng khoán. Trong đó,

ba công ty chứng khoán là các công ty con thuộc toàn quyền sở hữu của

VCB, VPB, TCB. Thực tế có một xu hướng về mô hình kinh doanh mà ở đó

một ngân hàng có cả một công ty chứng khoán và một công ty bảo hiểm

riêng. Đội ngũ lãnh đạo ngân hàng hy vọng kích thích tăng trưởng thông

qua việc đa dạng hóa nguồn doanh thu và tạo dựng nhận diện thương

hiệu tốt hơn. Chúng tôi tin rằng trong tương lai gần, xu hướng sẽ là các

ngân hàng Việt Nam trở thành ngân hàng đa năng cung cấp trọn gói tất cả

các dịch vụ. Chúng tôi cũng trông đợi việc ban hành các quy định và giám

sát hoạt động ngân hàng nhiều hơn để hệ thống ngân hàng hoạt động

trong một thị trường tài chính an toàn hơn.

Ở Việt Nam, ngân hàng

thương mại được tách biệt

với ngân hàng đầu tư.

Page 61: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 61

TRIỂN VỌNG NGÀNH

Triển vọng ngành Ngân hàng trong những năm tới phụ thuộc rất nhiều vào

kết quả của việc thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng 2011-2015 nói

chung và kết quả của xử lý nợ xấu nói riêng.

Tái cơ cấu ngành ngân hàng

Kế hoạch tái cơ cấu ngành ngân hàng đóng vai trò then chốt trong việc

thiết lập một hệ thống ngân hàng hoàn thiện và an toàn hơn. Mặc dù đã

đạt được một số thành quả nhất định, đến nay quá trình tái cơ cấu diễn ra

vẫn khá chậm. Ví dụ, mục tiêu hoàn thành việc đánh giá toàn bộ các

TCTD, tài sản, chất lượng và số lượng nợ xấu đến nay vẫn chưa hoàn

thành mặc dù đây là bước đi thiết yếu đầu tiên và lẽ ra phải được hoàn

thành trong giai đoạn 2011-2012.

Một số điểm chủ chốt trong kế hoach tái cơ cấu hệ thống ngân hàng 2011-2015

Phân loại các TCTD thành nhóm lành mạnh, thiếu thanh khoản, và yếu kém. Tiến hành chẩn đoán hệ thống bằng

cách đánh giá tình hình tài chính, hoạt động và quản lý của từng tổ chức và phân loại các tổ chức để xác định các

phương pháp tái cơ cấu phù hợp

Các ngân hàng yếu kém cần phải có kế hoạch tái cơ cấu hoặc sáp nhập/hợp nhất. Mỗi TCTD được xác định là yếu

kém cần tăng cường năng lực tài chính bằng cách củng cố vốn, hạn chế tăng trưởng và trả cổ tức, thực hiện tái cơ

cấu hoạt động, thay đổi cấu trúc quản lý và sở hữu. Nếu kế hoạch tái cấu trúc không thành công, đặt TCTD vào

tình trạng kiểm soát đặc biệt hoặc yêu cầu sáp nhập/hợp nhất với TCTD khác.

Hỗ trợ tổ chức tín dụng thiếu thanh khoản bằng các khoản hỗ trợ thanh khoản tạm thời.

Huy động vốn cho các NHTMNN. Đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu

và nguồn vốn từ Chính Phủ.

Thực hiện can thiệp sớm để hạn chế chi phí tài chính.

Đánh giá chất lượng tài sản. Tập trung xử lý nợ xấu để làm giảm tỷ lệ nợ xấu bằng cách thanh lý tài sản đảm bảo,

bán nợ xấu cho Công ty Mua bán nợ và Tài sản tồn đọng doanh nghiệp (DATC), bán nợ xấu cho các doanh nghiệp

không phải tổ chức tín dụng và công ty mua bán nợ của các ngân hàng thương mại (AMCs), xóa nợ xấu.

Tăng cường quản trị, năng lực quản lý, hiện đại hóa hệ thống quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ và hệ thống kiểm

toán, tăng tính minh bạch và giới hạn kiểm soát và thao túng của các cổ đông chi phối.

Nguồn: NHNH, IMF

Chúng tôi có những quan điểm trái chiều về việc thực hiện kế hoạch tái cơ

cấu. Một mặt, chúng tôi lạc quan đánh giá những cải cách để tăng cường

giám sát quản lý của hệ thống ngân hàng sẽ nâng cao chất lượng tín

dụng, năng lực quản lý, tăng tính minh bạch và sự tin tưởng của công

chúng vào hệ thống ngân hàng. Mặt khác, chúng tôi quan ngại về tốc độ

và mức độ triệt để của quá trình thực hiện kế hoạch cải cách này.

Trong những năm tới, chúng tôi dự đoán sẽ có nhiều thương vụ mua lại và

sáp nhập tự nguyện, và những NHTMCP nhỏ nhất trong hệ thống (dựa

trên vốn điều lệ) nhiều khả năng sẽ là đối tượng của những thương vụ

này. Hơn nữa, Chính phủ cũng đang thúc ép các ngân hàng cổ phần chính

thức niêm yết trên các sàn giao dịch. Hiện tại mới chỉ có 8 ngân hàng đã

niêm yết (2 ngân hàng TMCPNN, 6 ngân hàng TMCP), 31 ngân hàng còn

lại vẫn chưa được niêm yết. Nghị định 108/2013/NĐ-CP quy định các công

ty đại chúng có tối đa một năm kể từ khi phát hành cổ phiếu lần đầu ra

công chúng cho đến khi niêm yết, nếu không sẽ bị phạt nặng. Do đó,

chúng tôi tin rằng phần lớn các ngân hàng sẽ sớm niêm yết. Chúng tôi

Chúng tôi quan ngại việc

triển khai kế hoạch cơ cấu lại

hệ thống ngân hàng sẽ cần

nhiều thời gian hơn dự kiến.

Page 62: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 62

cũng đã đề cập ở các phần trước, Chính phủ cũng đang có kế hoạch sẽ

thoái vốn đầu tư tại các ngân hàng TMCPNN trong năm 2014 và 2015. Tất

cả những động thái này sẽ làm tăng cung cổ phiểu ngân hàng trên thị

trường một cách đáng kể. Với tình hình thị trường hiện tại và việc tăng

cung cổ phiếu ngân hàng trong những năm tới, giá cổ phiểu ngân hàng

nhiều khả năng sẽ phải chịu áp lực xuống giá trong ngắn hạn.

Dự đoán tăng trưởng

NHNN đã công bố tăng trưởng tín dụng năm 2013 ước đạt 10%, thấp hơn

so với kế hoạch đặt ra là 12%. Năm 2014 NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng

tín dụng ở mức 12 đến 14%, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán ở

mức 16 đến 18% so với năm 2013. Những mục tiêu này có thể không đạt

được bởi các lý do sau: (1) Lượng trái phiếu và tín phiếu chính phủ phát

hành trong năm 2014 tăng cao sẽ làm giảm lượng vốn ngân hàng cho vay

tín dụng (chúng tôi ước tính có khoảng 200 đến 250 nghìn tỷ đồng trái

phiếu và tín phiếu sẽ được phát hành và các ngân hàng thương mại sẽ

mua khoảng 80 đến 90% tổng phát hành); (2) Khả năng hấp thụ vốn của

doanh nghiệp vẫn còn bị hạn chế; (3) Ngân hàng vẫn đang do dự cho vay

vì lo sợ những khoản nợ xấu mới.

Triển vọng lợi nhuân ngân hàng

Ngày 18/12/2013, NHNN đã báo cáo tình hình lợi nhuận lũy kế 11 tháng

đầu năm của toàn hệ thống các TCTD đạt 29,5 nghìn tỷ đồng, tăng 3.2%

so với cùng kỳ năm trước nhưng mức lợi nhuận này chỉ tương đương 53%

và 64% mức lợi nhuận của năm 2010 và 2011. 17% tổ chức tín dụng lỗ

trong năm nay. Một nửa trong số hơn 100 tổ chức tín dụng báo lãi nhưng

mức lợi nhuận cũng giảm so với năm trước. ROA và ROE lần lượt là 0,53%

và 5,6%, thấp hơn so với năm ngoái do sự sụt giảm mạnh trong tỷ lệ NIM

và sự gia tăng trong chi phí dự phòng.

Năm nay, VAMC đã mua được khoảng 32 nghìn tỷ đồng nợ xấu (tính đến

24/12/2013). Sang năm, VAMC dự kiến sẽ phát hành tiếp 100 đến 150

nghìn tỷ đồng trái phiếu đặc biệt để mua nợ xấu của các ngân hàng, tổng

cộng 130 đến 180 nghìn tỷ đồng trong hai năm. Ít nhất một phần năm giá

trị của nợ xấu được VAMC mua năm nay sẽ bị khấu trừ khỏi các khoản dự

trữ của ngân hàng trong năm sau (tương đương 7 nghìn tỷ đồng). So sánh

con số này với tổng lợi nhuận lũy kế 11 tháng năm 2013 của toàn hệ

thống các TCTD 29,5 nghìn tỷ đồng, chúng ta có thể dự đoán năm tới sẽ là

một năm khó khăn cho ngành ngân hàng.

Việc áp dụng Thông tư 02

Ngân hàng Nhà nước cũng tái khẳng định rằng sẽ không lùi thời hạn việc

áp dụng Thông tư 02 về phân loại nợ thêm nữa. Điều này có nghĩa các

ngân hàng sẽ phải bắt đầu phân loại lại các khoản nợ kể từ ngày 01 Tháng

6 năm 2014. Chúng tôi dự đoán các ngân hàng sẽ tìm cách bán nợ xấu

trước mốc quan trọng này và lợi nhuận của các ngân hàng sẽ bị ảnh

hưởng xấu trong năm tới.

Hơn nữa, theo tổng cục thống kê, các doanh nghiệp sẽ tiếp tục phải đối

mặt với tình hình kinh doanh khó khăn trong thời gian tới. Tổng mức bán

lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội năm 2013 ước tính tăng 12,6%, loại trừ yếu

tố giá chỉ tăng 5,6%, thấp hơn 6,2% so với tốc độ tăng của năm 2012. Chỉ

Lợi nhuận ngân hàng sẽ bị

giảm mạnh trong năm tới.

Tăng trưởng có khả năng

chậm hơn so với chỉ tiêu của

NHNN.

Page 63: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 63

số tồn kho của ngành công nghiệp sản xuất tại ngày 01 tháng 11 đã tăng

9,4% so với cùng kỳ, cao hơn so với năm ngoái là 6,9%. Nợ xấu tiếp tục

tăng, không chỉ từ các khoản nợ cũ mà còn từ những khoản cho vay mới.

Do đó, triển vọng lợi nhuận của các ngân hàng trong năm 2014 vẫn bị ảnh

hưởng tiêu cực bởi nợ xấu.

Tình hình hiện tại của cổ phiếu ngành Ngân hàng

Cổ phiếu Giá trị vốn hóa (VND tỷ) P/E (x) P/B (x) ROA ROE Nợ xấu

ACB 14.468 15,27 1,12 0,51% 7,43% 3,34%

CTG 62.181 7,76 1,09 1,38% 16,12% 2,47%

VCB 62.802 15,24 1,50 0,95% 9,84% 2,98%

STB 19.537 24,02 1,18 0,52% 5,12% 2,25%

EIB 15.691 13,26 1,07 0,76% 7,87% 1,80%

MBB 14.070 5,20 1,04 1,35% 14,98% 2,56%

SHB 6.203 3,89 0,60 1,41% 16,88% 7,75%

NVB 2.113 NA 0,78 -0,50% -3,53% 8,78%

Trung bình 24.633 12,09 1,05 0,80% 9,34% 3,99%

Nguồn: Bloomberg, truy cập ngày 23/12/2013

Trong số các Ngân hàng đã niêm yết, CTG hiện đang có kết quả tổng thể

tốt nhất: đứng thứ hai về tỷ lệ ROA và ROE, đứng thứ ba về tỷ lệ nợ xấu,

và hiện tại cổ phiếu CTG đang được giao dịch với giá gấp 7,76 lần thu

nhập, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ P/E trung bình của ngành ngân hàng.

Một ngân hàng khác cũng có kết quả tương đối tốt là MBB. Ngân hàng EIB

có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất, tuy nhiên các chỉ số về lợi nhuận lại tương đối

thấp. NVB, ngân hàng nhỏ nhất trong số các ngân hàng đã niêm yết, có

kết quả kém khả quan nhất với tỷ lệ lợi nhuận âm và tỷ lệ nợ xấu cao

nhất.

Ngày 24 tháng 12 năm 2013, CTG đã công bố về việc các cổ đông đã đồng

ý cho ngân hàng này điều chỉnh giảm chín chỉ tiêu hoạt động kinh doanh

cơ bản. Chỉ tiêu tổng tài sản đã được điều chỉnh xuống còn 535.000 tỷ

đồng, tương đương với 3,6% giảm so với kế hoạch ban đầu là 555.000 tỷ

đồng. Lợi nhuận trước thuế cũng bị giảm sút đáng kể, từ 8.600 tỷ đồng

xuống còn 7.500 tỷ đồng, tương đương với mức giảm 12,8%. Lợi nhuận

ba quý đầu năm của CTG đã đạt khoảng 7.000 tỷ đồng, như vậy lợi nhuận

quý 4 đang được kỳ vọng ở mức khá thấp, chỉ khoảng 500 tỷ đồng, tương

đương một phần tư lợi nhuận trước thuế cùng kỳ năm 2012. Mức trả cổ

tức cũng bị giảm từ 1.200 xuống còn 1.000 đồng/cổ phiếu. Nhìn chung,

kết quả kinh doanh quý 4/2013 của CTG không mấy khả quan, nếu không

nói là đáng thất vọng.

CTG là ngân hàng niêm yết đầu tiên đã được các cổ đông chấp thuận điều

chỉnh giảm các chỉ tiêu lợi nhuận trong năm nay. Tuy nhiên thông tin này

đã đến rất muộn, chỉ một vài ngày trước khi kết thúc năm 2013. Các ngân

hàng niêm yết khác có thể sẽ không có những động thái như CTG, tuy

nhiên, chúng tôi tin rằng các ngân hàng đều đang trải qua những khó

khăn tương tự.

Page 64: BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM - …images1.cafef.vn/Images/Uploaded/DuLieuDownload/PhanTichBaoCao/... · nước ngoài (NHNNg), 18 công ty tài chính, 12 công ty cho

www.VPBS.com.vn Page | 64

Khuyến cáo

Báo cáo phân tích được lập và phát hành bởi Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP Việt

Nam Thịnh Vượng (“VPBS”). Báo cáo này không trực tiếp hoặc ngụ ý dùng để phân phối, phát hành hay sử dụng cho bất kì cá nhân hay tổ chức nào là công dân hay thường trú hoặc tạm trú tại

bất kì địa phương, lãnh thổ, quốc gia hoặc đơn vị có chủ quyền nào khác mà việc phân phối, phát

hành hay sử dụng đó trái với quy định của pháp luật. Báo cáo này không nhằm phát hành rộng rãi

ra công chúng và chỉ mang tính chất cung cấp thông tin cho nhà đầu tư cũng như không được

phép sao chép hoặc phân phối lại cho bất kỳ bên thứ ba nào khác. Tất cả những cá nhân, tổ chức

nắm giữ báo cáo này đều phải tuân thủ những điều trên.

Mọi quan điểm và khuyến nghị về bất kỳ hay toàn bộ mã chứng khoán hay tổ chức phát hành là

đối tượng đề cập trong bản báo cáo này đều phản ánh chính xác ý kiến cá nhân của những chuyên

gia phân tích tham gia vào quá trình chuẩn bị và lập báo cáo, theo đó, lương và thưởng của những

chuyên gia phân tích đã, đang và sẽ không liên quan trực tiếp hay gián tiếp đối với những quan

điểm hoặc khuyến nghị được đưa ra bởi các chuyên gia phân tích đó trong báo cáo này. Các

chuyên gia phân tích tham gia vào việc chuẩn bị và lập báo cáo không có quyền đại diện (thực tế,

ngụ ý hay công khai) cho bất kỳ tổ chức phát hành nào được đề cập trong bản báo cáo.

Các báo cáo nghiên cứu chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin cho những nhà đầu tư cá nhân và

tổ chức của VPBS. Báo cáo nghiên cứu này không phải là một lời kêu gọi, đề nghị, mời chào mua

hoặc bán bất kỳ mã chứng khoán nào.

Các thông tin trong báo cáo nghiên cứu được chuẩn bị từ các thông tin công bố công khai, dữ liệu

phát triển nội bộ và các nguồn khác được cho là đáng tin cậy, nhưng chưa được kiểm chứng độc lập bởi VPBS và VPBS sẽ không đại diện hoặc đảm bảo đối với tính chính xác, đúng đắn và đầy đủ

của những thông tin này. Toàn bộ những đánh giá, quan điểm và khuyến nghị nêu tại đây được

thực hiện tại ngày đưa ra báo cáo và có thể được thay đổi mà không báo trước. VPBS không có

nghĩa vụ phải cập nhật, sửa đổi hoặc bổ sung bản báo cáo cũng như không có nghĩa vụ thông báo

cho tổ chức, cá nhân nhận được bản báo cáo này trong trường hợp các đánh giá, quan điểm hay

khuyến nghị được đưa ra có sự thay đổi hoặc trở nên không còn chính xác hay trong trường hợp

báo cáo bị thu hồi.

Các diễn biến trong quá khứ không đảm bảo kết quả trong tương lai, không đại diện hoặc bảo

đảm, công khai hay ngụ ý, cho diễn biến tương lai của bất kì mã chứng khoán nào đề cập trong

bản báo cáo này. Giá của các mã chứng khoán được đề cập trong bản báo cáo và lợi nhuận từ các

mã chứng khoán đó có thể được dao động và/hoặc bị ảnh hưởng trái chiều bởi những yếu tố thị

trường hay tỷ giá và nhà đầu tư phải ý thức được rõ ràng về khả năng thua lỗ khi đầu tư vào

những mã chứng khoán đó, bao gồm cả những khoản lạm vào vốn đầu tư ban đầu. Hơn nữa, các chứng khoán được đề cập trong bản báo cáo có thể không có tính thanh khoản cao, hoặc giá cả bị

biến động lớn, hay có những rủi ro cộng hưởng và đặc biệt gắn với các mã chứng khoán và việc

đầu tư vào thị trường mới nổi và/hoặc thị trường nước ngoài khiến tăng tính rủi ro cũng như

không phù hợp cho tất cả các nhà đầu tư. VPBS không chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào

phát sinh từ việc sử dụng hoặc dựa vào các thông tin trong bản báo cáo này.

Các mã chứng khoán trong bản báo cáo có thể không phù hợp với tất cả các nhà đầu tư, và nội

dung của bản báo cáo không đề cập đến các nhu cầu đầu tư, mục tiêu và điều kiện tài chính của

bất kỳ nhà đầu tư cụ thể nào. Nhà đầu tư không nên chỉ dựa trên những khuyến nghị đầu tư, nếu

có, tại bản báo cáo này để thay thế cho những đánh giá độc lập trong việc đưa ra các quyết định

đầu tư của chính mình và, trước khi thực hiện đầu tư bất kỳ mã chứng khoán nào nêu trong báo

cáo này, nhà đầu tư nên liên hệ với những cố vấn đầu tư của họ để thảo luận về trường hợp cụ

thể của mình.

VPBS và những đơn vị thành viên, nhân viên, giám đốc và nhân sự của VPBS trên toàn thế giới,

tùy từng thời điểm, có quyền cam kết mua hoặc cam kết bán, mua hoặc bán các mã chứng khoán

thuộc sở hữu của (những) tổ chức phát hành được đề cập trong bản báo cáo này cho chính mình;

được quyền tham gia vào bất kì giao dịch nào khác liên quan đến những mã chứng khoán đó; được quyền thu phí môi giới hoặc những khoản hoa hồng khác; được quyền thiết lập thị trường

giao dịch cho các công cụ tài chính của (những) tổ chức phát hành đó; được quyền trở thành nhà

tư vấn hoặc bên vay/cho vay đối với (những) tổ chức phát hành đó; hay nói cách khác là luôn tồn

tại những xung đột tiềm ẩn về lợi ích trong bất kỳ khuyến nghị và thông tin, quan điểm có liên

quan nào được nêu trong bản báo cáo này.

Bất kỳ việc sao chép hoặc phân phối một phần hoặc toàn bộ báo cáo nghiên cứu này mà không

được sự cho phép của VPBS đều bị cấm.

Nếu báo cáo nghiên cứu này được phân phối bằng phương tiện điện tử, như e-mail, thì không thể

đảm bảo rằng phương thức truyền thông này sẽ an toàn hoặc không mắc những lỗi như thông tin

có thể bị chặn, bị hỏng, bị mất, bị phá hủy, đến muộn, không đầy đủ hay có chứa virus. Do đó,

nếu báo cáo cung cấp địa chỉ trang web, hoặc chứa các liên kết đến trang web thứ ba, VPBS

không xem xét lại và không chịu trách nhiệm cho bất cứ nội dung nào trong những trang web đó.

Địa chỉ web và hoặc các liên kết chỉ được cung cấp để thuận tiện cho người đọc, và nội dung của

các trang web của bên thứ ba không được đưa vào báo cáo dưới bất kỳ hình thức nào. Người đọc

có thể tùy chọn truy cập vào địa chỉ trang web hoặc sử dụng những liên kết đó và chịu hoàn toàn

rủi ro.

Barry David Weisblatt Giám đốc Điều hành – Khối Phân tích

[email protected]

Nguyễn Thị Thùy Linh

Giám đốc – Vĩ mô và Tài chính

[email protected]

Phạm Liên Hà, CFA

Chuyên viên phân tích cao cấp

[email protected]

Hà Mỹ Hạnh Trợ lý phân tích

[email protected]

Hội sở Hà Nội

362 Phố Huế

Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội

T - +84 (0) 4 3974 3655

F - +84 (0) 4 3974 3656

Chi nhánh Hồ Chí Minh 76 Lê Lai

Quận 1 – TP. Hồ Chí Minh

T - +84 (0) 8 3823 8608

F - +84 (0) 8 3823 8609

Chi nhánh Đà Nẵng

112 Phan Châu Trinh

Quận Hải Châu –Đà Nẵng

T - +84 (0) 511 356 5419 F - +84 (0) 511 356 5418