bat quai chuong chien dau

37
1 Bát Quái Chƣởng .无极式 1 - Vô cực thức (Hình ảnh của Đại sư Tôn Lộc Đường) Vô cực thức Bắt đầu, mặt thẳng, thân đứng thẳng, 2 tay xuôi xuống, 2 chântạo thành 90 độ. Mũi chân không quay vào trong, 2 gót chân không xoay ra. 2 chân như đưng trên đất ’ không hư’. động tĩnh bất năng tự tri vậy. Tĩnh vi vô cực thể, động vi vô cực dụng. Như nói về tĩnh, thì hung trung không không đồng đồng. Ý hướng tư tưởng vô sở hữu, lưỡng mục đem thần định lại. Nội vô sở quan, ngoại vô sở thị vậy; Như tín kỳ động, tắc thuận kỳ thiên nhiên chi tính, du chuyển bất kỷ, cũng vô ý tường co duỗi, qua lại. Nhiên hung trung không không đồng đồng, vô ý hướng tư tưởng chi lý, nhưng phúc nội xác hữuđến hư vô chi căn., mà năng sinh vô cực chi khí vậy. Kỳ khí tựa không, hắc bạch bất biện, hình như nước xiết, thanh đục bất phân. Hình chưa định, là vô cực hình thức. Lý này tinh vi, nhưng tâm tưởng hội ngộ, thân thể lực hành đến cực tự năng tri kỳ nhiên. .太极式 2 - Thái cực thức

Upload: gialong808

Post on 19-Jan-2016

25 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: Bat Quai Chuong Chien Dau

1

Bát Quái Chƣởng

一.无极式

1 - Vô cực thức

(Hình ảnh của Đại sư Tôn Lộc Đường)

Vô cực thức

Bắt đầu, mặt thẳng, thân đứng thẳng, 2 tay xuôi xuống, 2 chântạo thành 90 độ. Mũi chân

không quay vào trong, 2 gót chân không xoay ra. 2 chân như đưng trên đất ’ không hư’.

động tĩnh bất năng tự tri vậy. Tĩnh vi vô cực thể, động vi vô cực dụng. Như nói về tĩnh,

thì hung trung không không đồng đồng. Ý hướng tư tưởng vô sở hữu, lưỡng mục đem

thần định lại. Nội vô sở quan, ngoại vô sở thị vậy; Như tín kỳ động, tắc thuận kỳ thiên

nhiên chi tính, du chuyển bất kỷ, cũng vô ý tường co duỗi, qua lại. Nhiên hung trung

không không đồng đồng, vô ý hướng tư tưởng chi lý, nhưng phúc nội xác hữuđến hư vô

chi căn., mà năng sinh vô cực chi khí vậy. Kỳ khí tựa không, hắc bạch bất biện, hình như

nước xiết, thanh đục bất phân. Hình chưa định, là vô cực hình thức. Lý này tinh vi, nhưng

tâm tưởng hội ngộ, thân thể lực hành đến cực tự năng tri kỳ nhiên.

二.太极式

2 - Thái cực thức

Page 2: Bat Quai Chuong Chien Dau

2

Khởi điểm, đem eo chìm xuống. Thân hướng bên trái chuyển 45 độ, mũi chân phải hơi

nhấc lên, lấy gót chân làm trụ, tuỳ theo thân mà quay sang trái. Bước chân phải về phía

trước, hạ xuống 2 chân thành đường chéo, 2 chân quay vào no tròn, không được cong

cứng, 2 gót xoay ra, 2 chân như kỵ mã thức, cùng có ý tăng kình, khong được lộ hình

thức cong ra ngoài. Hình thức 2 chân khi chưa chuyển, hông và gối cùng gốc tương tế;

khi di chuyển, đầu hông quay tới đường tròn trung gian ngón tay trước làm chuẩn. Hình

thức chân phải, gối với gốc hậu căn thượng hạ như 1 đường tương tế, rồi đem tay phải

thuận theo gốc chân phải tạo thành hình góc nhọn, tay duỗi thẳng như vẽ nửa đường tròn,

đưa lên đến khi hổ khẩu ngang mắt thì dừng. 2 vai cần lỏng mở, 2 chỏ cần có kình xoay

vào, xoay đến khi mũi chỏ chiếu xuống. Ngón tay mở ra, không được lõm, 2 cổ tay đều

cần vặn hết sức ra ngoài

三.两仪式:单换掌

Lƣỡng nghi thức: Đơn hoán chƣởng

1 2 3 4

Page 3: Bat Quai Chuong Chien Dau

3

5 6 7 8

9 10 11 12

13 14 15 16

Bát quái chƣởng

Tiền tựa

Danh từ có lẽ là lạ đối với độc giả, nhưng không sao dù gì cũng là một danh từ.

Vậy chúng ta hãy vào đề:

Page 4: Bat Quai Chuong Chien Dau

4

Tôi không còn cái thời để mỗi lầm viết xong một cuốn sách nhờ cao nhân này, bằng hữu

nọ viết lời bạt giới thiệu, hay in xong dành vài trăm cuốn mang biếu xén bạn bè thân

thuộc làm oai. Mà, nay công việc như là một công việc không có chi là khác.

Ai ở đời cũng làm một công việc thì có đâu là kheo khoang, coi trọng công việc của mình

một cách quá đáng để làm mất thời giờ của cả hai bên. Mình có việc của mình, thiên hạ

có việc của thiên hạ, việc nào cũng quý vì đều có ích cho đời, phi những việc chẳng ích

cho ai thì nó chẳng phải một công việc.

Thế thời bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông đáp đổi nhau, người sành sống mỗi tiết có món

thưởng ngoạn riêng, kể cả ăn uống và đọc sách,.v.v..

Nên chỉ mình đâu có ép buộc người lân cận mình thích cái thích của mình, hiểu mình,

cùng làm cái mình làm; mà nên để mọi người, mọi vật được tuỳ ý. Mọi việc tuỳ ý mới

thật là cái đáng tìm trên đời.

Cũng như mọi việc độc giả tự tuỳ ý đọc cuốn sách này thì thật là một điều thú vị. Có lẽ là

như vậy. Vì nếu không thú vị thì ai chịu đọc bao giờ, nhất là loại sách không khan, không

một tình tiết ẩm uớt nào.

Tôi muốn độc giả tự tìm lấy cái hay của cuốn sách, tự mỉm cười sung sướng khi lãnh hội

được vài yếu tố mà bâng qua lúc đôi mắt lướt qua đôi trang. Nói cho gọn lại là tôi không

muốn giới thiệu cuốn sách như thường lệ, thường tình. Bởi vì tôi biết độc giả của sách tôi

tức là hơn thường rồi.

Nhưng đôi khi người da điểm mồi, tóc bạc như sương mà bất chợt gặp điều thích ý mỉm

cười thích thú, mắt già lờ đờ cũng chợt sáng lên. Tôi không muốn mình lạc điệu để cõi bơ

vơ vào cõi hư vô nào, nơi đó rất ít ỏi con người hữu hạnh. Thế cho nên dù không muốn

cũng phải làm. Ấy là nói lại cho người đồng điều một đôi lời về cái mà mắt lão già bỗng

sáng trong đôi giây và trẻ thơ trân tráo nhìn. Đó là cuốn sách này vậy.

Nó thật là một điều lạ trong những cái tầm thường xưa cũ, đã như cái chộp tay, khấu

chân, niêm, yểm cùi trỏ, ném địch qua đầu mình năm bảy thước tây, cái tiến, cái thối liền

lại kín đáo tinh minh, xuất thủ như dây chuyền, hoá như phép lạ.v.v.. mà thật là dễ dãi

tầm thường nhưng lại là rất đỗi cao minh trong cách kết hợp thành 34 thức Quyền chiến

của cuốn Bát Quái Quyền chiến đấu này. Đòn bản đưa lưu ra thật là nhẹ nhàng văn vẻ mà

không nhu nhược, sự hữu hiệu của công, thủ trầm trọng mà không tàn ác, giã man vì môn

quyền bản chất vốn dĩ có độ lượng, khuôn phép, vĩ mỹ mà nhân đạo. Mọi cái hay quy vào

công phu, Chiêu, Thức và Thế, Nạp, Phát kình, mạnh yếu tùi vào cơ thời nhân mà có vậy.

Thật lời không nói hết...

Tôi không muốn dùng lời sáo để ca ngợi cuốn sách này là 34 quyền thức trong đây so với

mông lung quyền bản lưu truyền thì thật giống như Phượng hoàng đậu trong đám quạ.

Lời trên thật có sáo nhưng ngẫm kỹ thì thật chẳng có mấy chỗ sai, dù chỉ sai có một đôi

phần cũng chẳng hề tìm thấy.

Tới đây tôi không còn dám viết thêm nữa vì sợ rằng lắm lời rườm ý chỉ phá bĩnh độc giả

khi mà độc giả đang mong muốn tận mắt thưởng thức con phụng hoàng.

Thôi thời mời độc giả mở sang trang kế tiếp để tuỳ ý, tuỳ nghi thưởng lãm. G.S tôi một

lời trang trọng là kính chúc độc giả, học viên bình an và tiến bộ.

Võ nghệ là Đạo của luyện tập thân thể, kỹ nghệ thì nhỏ nhưng Đạo lý thì vô cùng, vô tận.

Phàm người luyện Quyền thuật thì phải luyện Tinh hoá Khí, dùng Khí hoá Thần; dùng sự

Page 5: Bat Quai Chuong Chien Dau

5

vận dụng Nội khí làm Công Luân chảy không ngừng bên trong thân thể đó gọi là dùng

Hậu Thiên để bổ cho Tiên Thiên.

Khi luyện công mũi hít Thanh Khí chạy thẳng vào Khí Hải rồi chuyển qua Vĩ Lư (xương

cùng), kế chuyển khí đến eo lưng (giữa hai quả thuận) tức là phần căn nguyên của phủ

tạng, tối cần cho Tiên Thiên, nếu thận thuỷ đầy đủ mới theo Đốc Mạch mà tới Viên Cung

được, rồi từ Viên cung chuyển Khí thận đến hai mũi đoạn dùng lưỡi tiếp dẫn khí thận

(khí được điều chế tại thận) xuống dưới thì khí sung túc mới từ từ vào Đan điền. Đó là ý

nghĩa của Châu thiên vậy, (tức là vòng tròn dẫn khí).

Ngoài một số bài quyền thuật luyện hàng ngày đều dùng Nội khí, kình là yếu nghĩa để

luyện công không bao giờ gián đoạn thì Khí chất sung mãn. Cổ nhân nói: Thiên dắt dĩ

thanh, Địa dắt dĩ minh, đắc nhất linh; luyện lâu ngày thì sẽ được linh cơ minh mẫn của

thiên địa, hoạt bát tự nhiên, thành ở trong mà như ở ngoài, nên co rút nhanh nhẹn cương

nhu tương trợ, tấn thoái hợp pháp, nhanh chậm thích nghi. Được như thế thì đương nhiên

phần võ thuật sẽ tự nhiên trở nên huyền diệu.

Tác giả hồi nhỏ rất đỗi say mê võ thuật, nhân đó mà bái Châu Tướng Sư phụ để theo học

Bát Quái Chưởng cho nên mới được chân truyền chính thống của Bản môn Bát Quái

Chưởng do Lão sư Trần Tinh Hoa truyền lại... Và tuy là được danh sư chỉ dẫn nhưng sự

luyện tập là do căn cơ năng khiếu mỗi người, riêng tôi chỉ tập bình thường không có gì

xuất sắc hơn bạn đồng môn.

Nay trứ tác cuốn sách này một cách tỷ mỉ gồm 360 thủ pháp là những tinh hoa của tiền

nhân để lại, chỉ vì sợ lâu ngày bị lãng quên và khiến kẻ hậu học không có tài liệu chân

truyền để học mà thôi.

Tác giả không phân biệt phái hệ môn hộ mà chỉ lấy công khai giám thưởng làm chủ. Hy

vọng các giới ham chuộng võ thuật chú ý tham khảo thì tôi lấy làm vinh hạnh.

Lời dặn trƣớc khi thực hành

1. Phải phân biệt Ta và Địch trong sách.

2. Ta là hình mặc quần đen, địch là hình đối diện.

3. Bộ mã phải trú trọng đúng bộ vị, chưởng lưu ra đúng khuôn phép.

4. Khi tập phải tập cả 2 tay cho đồng đều để lâm sự ứng phó tự nhiên.

5. Tập thuần thục một thức trước khi tập sang thức thứ 2, không nên tập quá nhiều,

thà tập một thức thật tinh thục còn giá trị hơn đọc cả cuốn sách rồi vứt đi.

6. Lúc tay chân lưu ra thì mặt Ta đối mặt Địch không cần nhìn thấy tay chân, nếu có

liếc qua để kiểm soát thì sau đó mặt vẫn phải đối mặt mới là đúng sách.

7. Phải học thuộc bài Bát Quái Chưởng mới chuyển sang phần chiến đấu này, có như

thế thì tinh thần cùng thân , bộ pháp,... mới linh hoạt, ứng phó mới trúng cách nhịp

nhàng.

8. Trình độ cuối cần phải có là biết buông thả, dồn nén, co rút thân, thủ để phát kình

hạ địch. Muốn được như thế không học phép Đạo dẫn ắt là không xong. Mà muốn

Page 6: Bat Quai Chuong Chien Dau

6

như thế thì phải năng chuyên cần luyện Công phu toạ dẫn khí Châu thiên và áp

dụng vào Bát Quái Chưởng như đã đề cập trong lời tựa của sách này.

Bây giờ độc giả có thể đọc phần thực hành kế tiếp được rồi đó.

Thức thứ nhất: CHÀNG CHƢỞNG

(Lòng bàn tay đụng, giao nhau)

1. Chân phải địch bước tới, tay phải tấn công thượng bàn ta bằng chưởng mở rộng.

Ta lui chân phải ra sau (hoặc bước chân phải tới, tuỳ hoàn cảnh) tay phải dụng chưởng

gạt sang trái chân đứng thế công của địch (H.1).

2. Kế đến tay trái từ dưới cánh tay phải đưa lên, chưởng giữ lấy phần trong cánh tay phải

địch, chưởng phải gạt ra cổ tay địch rồi (H.2).

3. Trong lúc địch chưa kịp thu tay về thì tay trái nắm lấy cánh tay địch, chân phải ta bước

tới áp sát địch, đồng thời đánh cùi chỏ phải vào ngược (H.3).

Page 7: Bat Quai Chuong Chien Dau

7

4. Địch dùng tay trái từ trên cao gạt xuống để đỡ đòn cùi trỏ của ta đồng thời áp chưởng

trái vào mặt ta, ta rút chân trước về thành trảo mã đồng thời tay phải duỗi ra thành

chưởng đâm tới cổ họng của địch, lòng bàn tay ngửa lên trời. (H.4).

5. Rồi đảo chưởng vòng xuống qua phải đẩy cùi chỏ trái địch sang phải (tay phải giữ cùi

chỏ địch) đồng thời tay trái ta rút về (H.5).

6. Chân trái địch bước lên với ý định sẽ công ta bằng tay phải, tay phải ta nâng cánh tay

địch lên (hơi xéo về bên phải) (H.6).

Page 8: Bat Quai Chuong Chien Dau

8

7. Đồng thời ta bước chân trái tới chưởng trái in giữa ngực địch làm hắn bật ngửa là kết

thúc (H.7).

Thức thứ 2: DỊCH CHƢỞNG

(Xoay chuyển chưởng quanh tay địch)

1. Chân phải ta tiến lên, chưởng phải ta công tới địch, địch nhân hấp hung (thóp ngực)

không lùi bước để tránh đòn (H.8).

2. Địch vặn người sang bên ngoài cánh tay phải của ta đồng thời song chưởng hợp lại bắt

giữ cánh tay ta như hình (H.9).

Page 9: Bat Quai Chuong Chien Dau

9

3. Ta bèn đưa mạnh cánh tay phải hướng lên 45 độ về bên trái lôi theo cả hai tay địch

(H.10).

4. Rồi cánh tay ta lại đưa thẳng lên trời để ngự lại sức mạnh của hai tay địch (cách đưa

tay theo đường xoắn ốc) (H.11).

5. Kế hạ cánh tay phải xuống bên phải lôi theo sức mạnh cùng hai cánh tay địch, trong

lúc chưởng trái ta giữ lấy phía sau cùi cho phải địch (H.12).

6. Ngửa chưởng phải lên trời đồng thời co chân phải lên tức là rút tay ra khỏi tay địch rồi

(H.13).

7. Dồn sức vào tiền bộ (chân trái) hạ xuống trước, chưởng trái giữ cùi chỏ phải địch,

chưởng phải chiếu tâm địch (H.14).

8. Buông lỏng vai trong lúc mã bộ dồn tới trước, hữu chưởng in vào ngực địch là hết

chiêu thứ hai (H.15).

Page 10: Bat Quai Chuong Chien Dau

10

Thức thứ 3: Bạch viên chi ban

(Vượn trắng vác cành)

1. Ta dùng hữu chưởng tấn công vào ngực định, địch thóp ngực tránh đòn đồng thời tay

phải địch đưa lên gài cổ tay phải ta. (H.16).

2. Tay phải địch khẩu (móc, gài không cho sẩy) cổ tay phải ta trong lúc chưởng trái địch

bắt lấy cùi trỏ ta (H.17).

3. Ta chuyển chưởng cắm xuống phía gối trái địch (H.18).

4. Xay cánh tay phải bằng ngang sang hướng ngoài bên phải kéo theo 2 tay địch thủ

(H.19).

5. Chân trái hạ thấp sau chân phải, rún thấp bộ và xoay mặt về bên phải, trong lúc tay trái

nâng cánh tay phải địch lên, chân phải ta đứng (H.20).

6. Xoay mặt về hướng sau lưng ta (Từ hướng tiến của địch), đương nhiên cánh tay địch

nằm trên vai trái ta (H.21).

7. Tay trái ta giữ chắc cổ tay phải địch (lòng bàn tay ngửa lên trời), rồi eo lưng ta chỉ khẽ

lắc mạnh, thế là thân địch thủ bay qua đầu ta mà té sấp xuống trước để kết thúc thức thứ

ba vậy. (H.22)

Page 11: Bat Quai Chuong Chien Dau

11

Thức thứ tƣ: Khổn thân Đại Triền

1. Địch tấn công ta bằng chưởng phải (chân phải trước), ta thóp ngực tránh đòn rồi

chưởng phải thò ra giữ lấy cổ tay địch, cánh tay trái ta nắm trên cánh tay phải địch

(H.23), chân phải ta, mũi bàn chân mở ngang sang phải, trong lúc địch cố tháo gỡ tay bị

nắm.

2. Chân phải ta mở ngang, bàn chân co lên ép đùi phải địch đồng thời dùng cùi chỏ tránh

đánh xuống cánh tay bị kẹp của địch, tất nhiên cánh tay của địch gãy lìa (H.24).

3. Tay trái của ta từ dưới nách choàng ra sau lưng địch để bấu vào hông trái của địch,

chân trái ta xuống tấn mã bộ sau chân địch. Tay trái lôi địch ngã về phía sau, tay phải ta

đồng thời đưa cao khỏi đầu hoặc để trước ngực yểm tâm cũng có thể công thẳng vào mặt

địch đồng thời với cái lôi của tay trái, địch thủ bị té chỏng cẳng vô phương chống đỡ

(H.25).

Page 12: Bat Quai Chuong Chien Dau

12

Thức thứ năm: Tiệt thối

(Tiệt: chặt đứt, thối: chân)

1. Ta đánh địch bằng chưởng phải bị địch dùng tay phải khấu cổ tay ta, tay trái nắm cách

chỏ ta kéo xuống về hướng bên phải của địch, chủ định làm ta té sấp như con rùa sải chân

(H.26).

2. Nhanh như cắt ta dùng chân sau (trái) đạp ngay đầu gối trước của địch làm hắn không

kéo ta té được nữa (H.27).

3. Địch cũng rất giỏi, hắn co chân trước lên tránh cái đạp của ta làm chân ta đạp vào

khoảng không, địch còn chưa kịp bẻ tay ta, ta đã dùng tay trái xỉa thẳng vào mặt hắn rồi,

trong lúc chân đã đặt an toàn trên đất định (H.28).

4. Địch bắt buộc phải bỏ tay phải ta ra để thoái bộ hay biến chiêu, nhưng nhanh hơn địch,

ta bỏ chân sau (phải) tới ngáng chân địch (ta ở mã bộ) làm hắn tiến thối lưỡng nan vì tay

phải ta đưa thẳng ra, lòng bàn tay ngửa lên trời, hắn bị kẹp vào thế bí rồi. Thế là ta chỉ

xoay cánh tay phải, vận dụng ngũ hành gạt ra sau một cái.

Page 13: Bat Quai Chuong Chien Dau

13

Thức thứ 6: XẢO ĐẢO NGÂN BÌNH

(Ôm bình bằng bạc nhào lộn một cách khéo)

1. Dùng phép đứng khi giao đấu với địch là thuận bộ thì tay trái ở trên, bàn tay xung

thiên (đưa thẳng lên trời, xem hình), bàn tay phải hướng xuống đất lòng bàn tay úp xuống

(thức nầy gọi là Sư tử đại trương chuy, nghĩa là Sư tử há miệng), hai mắt nhìn đầu và vai

địch. Nếu địch dùng chân phải đá ta lập tức dùng tay phải gạt chân địch sang bên, chân

trước co về trảo mã bộ (H.30).

2. Tay phải gạt chân địch sang bên đồng thời niêm (giữ) chân địch, chân trái ta bước tới

sau chân trái địch thành mã bộ chận chân không cho địch lùi, trong lúc tay phải nâng cao

chân địch lên, tay trái dùng chưởng đập vào bụng dưới hay vỗ vào hạ nang tất là địch vừa

ngã ngửa lại bị vỡ bọng đái, dập của quý. Tới đây đương nhiên chấm dứt thức số sáu.

(H.31).

Thứ thứ bảy: SONG HOÁN CHƢỞNG

(Thay đổi chưởng)

1. Địch dùng chưởng trái đánh vào mặt ta, ta dùng cổ tay phải (phần ngoài) đỡ cánh tay

địch (H.32).

2. Nhanh như cắt chân trái ta tiến lên đất địch, tay trái đồng thời phát chưởng xung thiên

yểm ngoài cánh tay trái địch trong lúc tay phải ta rút về bên hông phải (H.33)

3. Xoay lòng chưởng trái qua trái, chưởng phải ta đập vào hông trái địch một phát (H.34).

4. Địch không dở, hắn xoay hông đi thành đinh bộ là tránh được phát chưởng của ta rồi

đồng thời rút tay trái về, tay phải đẩy chưởng vào hông trái ta. Ta hấp thân lại tránh

chưởng địch đồng thời tay trái từ trên cao lật xuống gạt ra phía ngoài đỡ cánh tay phát

chưởng của địch (lòng bàn tay ta ngửa sang bên trái). (H.35).

5. Liền theo tay đỡ thân mình ta rùn thấp xuống, tay trái khoác từ dưới lên thành vòng

cung đưa tay phải địch lên cao khỏi đầu ta, chưởng phải đưa lên bên ngoài cùi trỏ địch

(để ngửa) (H.36).

6. Tay phải ta dụng chưởng xung thiên yểm ngoài cùi chỏ phải địch đồng thời rút tay trái

về bên hông trái. (H.37).

Page 14: Bat Quai Chuong Chien Dau

14

7. Nhanh như điện, chưởng trái đẩy ra nhằm ngay ngực phải địch, thế là hắn thọ thương

rồi không tránh kịp nữa, và thức thứ bảy cũng chấm dứt luôn. (H.38).

Thức thứ tám: HỒI THÂN ĐỘT CHÀNG

(Hồi bộ phản công)

1. Ta dùng tả quyền (nắm tay trái) đánh trước ngực địch, địch hấp thân qua phải và địch

dùng cổ tay trái câu cổ tay ta ra ngoài, chưởng phải hắn đập vào vai ta nặng như búa tạ.

(H.39).

2. Ta lập tức xoay lưng lại hướng địch là tự nhiên thoát đòn hiểm rồi (H.40).

3. Dồn sức vào chân trái, co chân phải lên (H.41).

4. Xoay người lại chân phải bỏ tới trước hư bộ nhẹ nhàng, chưởng trái giữ cổ tay phải

đưa cao ngang mắt để ngang tay trái địch (H.42).

5. Chân phải dồn sức tới trước, cánh tay phải (lăn) đưa xuống hông địch (hông địch tiếp

xúc toàn cánh tay phía ngoài), chưởng trái thổ kình (nhả sức mạnh ra) là địch bật ngửa

hoặc bay ra sau không 5 cũng 7 thước tây. (H43), nếu không phải là người có công phu

thì có khi bị té gẫy cổ nữa là khác.

Page 15: Bat Quai Chuong Chien Dau

15

Thức thứ 9: TẢ HỮU PHA THỐI

(Quét chân địch bên trái, bên phải)

1. Địch dùng quyền phải đánh vào ngực ta, ta bèn lách mình qua bên trái địch, chân phải

hư bộ (sức nặng dồn chân sau không ở chân trước), tay phải ta từ dưới cổ tay địch gài lên,

(H.44).

2. Gạt cho tay phải địch sang trái, chân phải lui về trước chân trái, chân trái co lên chuẩn

bị đá (H.45).

3. Chân trái quét chân trước địch trong khi tay trái từ trên đưa xuống ngực địch gạt sang

trái (nếu địch không kịp phản ứng sẽ ngã ngửa), tay phải chưởng xung thiên (H.46).

4. Địch nhanh nhẹn rút tay phải về đồng thời chân phải cũng rút về, đoạn bỏ ra ngoài

chân trước ta, thế là thế ta bị hỏng rồi (H.47).

5. Ta bước chân trái về trước chân phải đoạn co chân phải lên, chưởng trái chọp bắt cổ

tay quyền trái của địch, quyền phải đưa trước mặt địch trên cánh tay trái của địch (H.48).

6. Chân phải đá quét chân trước địch cho địch trượt chân tới hướng ta đồng thời quyền

phải ta mở ngửa thành chưởng sẵn sàng chụp vào cổ địch. Thế là địch thua rồi (H.49)

Page 16: Bat Quai Chuong Chien Dau

16

Thức thứ 10: XẢO KHÓA HOA LAM

1. Địch dùng chưởng phải tiến đến đánh vào ngực ta, ta thóp ngực tránh đòn, song

chưởng xung thiên. (H.50).

2. Dùng chưởng trái khâu (câu) cổ tay địch, xong đánh cùi chỏ phải vào cánh tay địch

(H.51), chưởng phải xung thiên.

3. Chân phải bước lên ngáng chân trái địch, chưởng phải lật nghiêng sang phải đâm vào

mắt địch. (H.52).

4. Địch dùng chưởng trái đánh vào mặt ta để giải cứu đòn độc, ta lách cánh tay phải sang

phải đồng thời cũng gạt mạnh tay trái sang trái là đòn địch vô hiệu (H.53).

5. Ta rùn thấp bộ và chưởng trái đánh vào vai phải của địch (H.54).

6. Chồm người tới trước song chưởng phát kình đẩy bắn địch thủ bay lộn mèo ra sau mấy

vòng (H.55).

Page 17: Bat Quai Chuong Chien Dau

17

Thức thứ 11: SƢU ĐỔ CHƢỞNG

1. Ta dùng chưởng phải đánh vào ngực địch (H.56).

2. Địch dùng tay phải bắt lấy cổ tay phải ta trầm xuống và chưởng trái đập vào mặt ta

(H.57).

3. Ta co chân sau lên đồng thời xoay lưng về phía địch, thế là tự nhiên thoát hiểm (H.58).

4. Chân trái bước tới trước đinh bộ, chưởng phải xung thiên, chưởng trái đập xuống hạ

nang địch, mắt nhìn thấy mắt địch (H.59).

5. Địch co chân phải lên che hạ bộ, chưởng trái án nơi cùi chỏ trái ta phá hư đòn công của

ta, đồng thời chiếu theo bộ vị cánh tay ta làm địch tung chưởng đánh vào nách ta, ta co

chân phải (sau) về sát chân trái và xuống bộ thấp, chưởng trái hướng thiên phòng địch

(H.60).

6. Địch vừa đặt chân xuống là ta bỏ chân phải về vị trí cũ thành mã bộ, câu thủ phải đập

vào hạ bộ địch (bằng phần ngoài câu thủ) (H.61). Địch thủ trúng đòn đau đớn không thể

tả được và thức 11 cũng kết thúc.

Page 18: Bat Quai Chuong Chien Dau

18

Thức thứ 12: THÁI CÔNG ĐIẾU NGƢ

(Thái công câu cá)

1. Địch dùng quyền trái đánh vào mặt ta, ta lập tức dùng cánh tay phải yểm cánh tay địch

(H.62).

2. Xoay lưng về phía địch đồng thời co chân trái lên, chưởng trái từ bên hông đâm ngửa

về sau (H.63).

3. Lập tức bỏ chân trái xuống bên trái địch tấn mã bộ, tay trái từ trước ngực địch xuyên đi

qua bên phải của địch, tay phải chưởng chụp vào mặt địch (H.64).

4. Đoạn hai tay cùng xô về bên phải ta làm địch bật ngã ngửa chổng cẳng không gượng

được (H.65).

Page 19: Bat Quai Chuong Chien Dau

19

Thức thứ 13: HOẠT BỘ LIÊU ÂM PHÁO

1. Địch dùng chưởng phải đánh vào mặt ta, ta dùng cánh tay phải yểm cánh tay địch,

thuận đà đập lưng nắm tay vào mặt địch (H.66).

2. Địch dùng chưởng trái kéo tay ta xuống và hơi ngửa đầu ra sau tránh thoát, ta thuận đà

biền quyền thành chưởng lộn ngược (phần chưởng) vỗ vào hạ bộ địch (H.67).

3. Địch lùi chân phải ra sau tránh thoát, ta tiến chân trái lên thành cung tiễn bộ, quyền trái

đập vào mặt địch (H.68).

4. Địch cũng hay lắm, dùng chưởng phải nâng cùi chỏ trái ta làm hư đòn rồi, ta ben lộn

cánh tay trở xuống biến thành chưởng vỗ vào hạ nang hắn (H.69).

5. Địch lùi chân phải ra sau, đồng thời tay trái chưởng xô nhẹ nơi cùi chỏ ta là giải được

thế công rồi, ta cũng hay lắm bèn bước chân phải theo liền chân hắn, quyền phải đập

ngược vào mặt hắn, thế là địch không còn đỡ kịp nữa (H.70).

Thức thứ 14: ĐẢO ĐỀ KIM LƢ

1. Địch dùng chưởng phải định chém xuống đầu ta, ta toạ thân dùng chưởng phải đưa lên

xung thiên đỡ cú chém (H.71).

2. Liền theo tay phải tay trái ta dùng chưởng chọp cùi chỏ địch đẩy lên, trong lúc chân

trái bước lên giữa hai chân địch (H.72).

3. Kế chuyển thân theo chiều kim đồng hồ, xoay lưng về hướng địch, tay phải nắm lấy

đùi địch, đồng thời xuống bộ thấp (ngồi xuống) (H.73).

4. Chưởng trái kéo tới trước, đầu ta hơi cúi xuống, mông hất mạnh nhờ eo lưng và vai

phụ trợ, địch nhân bay lộn tới trước, nếu không bị cắm đầu nằm sãi tay (H.74).

Page 20: Bat Quai Chuong Chien Dau

20

Thức thứ 15: CỔN TÝ CHÙY

1. Địch dùng quyền trái đánh vào ngực ta, ta yểm ngay bằng chưởng phải từ bên ngoài

vào (H.75).

2. Đồng thời nghiêng vai phải, chuyển thân song song với địch (bây giờ phần ngoài của

cổ tay ta tiếp xúc tay địch) (H.76).

3. Kế biến chưởng thành quyền dùng lưng nắm (tay) đập vào bụng hay háng địch nhân

(H.77).

4. Trong lúc địch gập người xuống hộ thân thì ta dùng sức vai và chân đồng phát lực một

lúc hất địch về sau tất địch không chịu nổi phải bật ngửa (H.78).

Page 21: Bat Quai Chuong Chien Dau

21

Thức thứ 16: TRƢU THÂN ĐIỂM LẶC

1. Địch đánh quyền phải vào mặt ta, ta khẽ nghiêng thân qua bên phải tránh đòn (H.79).

2. Rồi chân trái ta bước lên trước chân trước địch, tay trái ta mở chưởng đưa ra đỡ lấy cùi

chỏ phải địch cấp kỳ trong lúc cổ tay ngoài của cánh tay phải ta câu cổ tay quyền của

địch rồi (H.80).

3. Xuống tấn thấp, tay phải ta nắm cổ tay quyền phải của địch kéo về sau (tức hướng tiến

lên của địch), chưởng trái ta theo cánh tay trái địch chiếu thẳng hông địch (H.81).

4. Dùng chỉ (tứ chỉ: 4 đầu ngón tay) điểm thẳng vào nách địch, chân không động mà

người đã dồn tới bằng cách vận dụng sức ở hông (H.82). Địch bị điểm ngay huyệt kỳ

môn hoặc Tiếp cân chắc là đại bại rồi, ấy là kết thúc Thức thứ 16 vậy.

Thúc thứ 17: KIM CÂU QUẢI HOÀN

(Quải: treo, hoàn: tròn)

1. Địch dùng quyền phải đánh thẳng xuống mặt ta, ta nghiêng đầu tránh sang bên phải

địch, đồng thời tay trái ta phát chưởng đỡ sang phải nhằm ngang cùi chỏ địch, trong lúc

chưởng phải đưa ngay trước ngực địch như sắp đấm tới vậy (H.83).

2. Ta bước chân trái lên bên ngoài chân phải địch, tay phải câu cổ tay phải địch, chưởng

trái biến thành quyền đưa xuống bên đùi (H.84).

3. Liền theo động tác trên quyền trái ta đập vào tai địch bằng lưng quyền, mắt ta nhìn vai

phải địch (H.85).

Page 22: Bat Quai Chuong Chien Dau

22

4. Địch nhân bị đập ngang tai, tay phải bị giữ thì nhất định lắc đầu hoặc lay động thân

trên để tránh, thế là tay phải ta kéo về sau (hướng tiến lên của địch) kéo chúi xuống đất,

đồng thời chân phải ta tiến lên đá quét chân địch làm địch mất thăng bằng bổ chúi tới

trước sãi dài trên mặt đất trông rất thảm hại. Địch nhân đành thua vậy (H.86)

Thức thứ 18: KIM KÊ ĐẨU LINH

(Đẩu: xòe (cánh), linh: nhanh nhẹn)

1. Trong lúc ta giao đấu với địch thì bất ngờ có kẻ thứ hai bên trái ta xông vào chọp cổ ta

bằng tay phải. (H.87).

2. Ta hạ thấp tấn và cúi đầu xuống phía trước. (H.88).

3. Rồi đưa vai trái hạ thấp đoạn lộn lên qua khỏi cổ tay địch nhân (H.89).

4. Kế dùng vai trái hất mạnh tới cổ tay địch là thoát được ngay (H.90).

5. Lập tức chưởng trái ta vỗ mạnh vào háng địch, hắn vô phương tránh né. Thức thứ 18

kết thúc tại đây (H.91).

Page 23: Bat Quai Chuong Chien Dau

23

Thức thứ 19: SONG BẢO CHƢỞNG

(Bảo: ôm)

1. Địch dùng chưởng phải công vào ngực ta, ta phát chưởng phải yểm cổ tay địch,

chưởng trái từ dưới đưa lên trên cánh tay phải của địch (H.92).

2. Kế lật song chưởng thẳng đứng (các ngón tay thẳng đứng lên trời, lòng bàn tay chiếu

thẳng tới hướng địch), hai cùi chỏ hơi khép lại, cánh tay phải của địch giờ đã bị hai tay ta

đè lên (H.93).

3. Chưởng trái giữ (nắm; bảo) vai phải địch, tay phải phát lực đẩy tới giữa ngực địch

(H.94).

Page 24: Bat Quai Chuong Chien Dau

24

Thức thứ 20: KIM THIỀN THOÁT XÁC

(Kim thiền: con ve sầu vàng)

1. Địch dùng chưởng phải bổ tới mặt ta, ta đưa cánh tay phải xéo lên yểm cổ tay địch

(H.95).

2. Chưởng phải biến thành câu vừa móc vừa đè cánh tay phải địch xuống, đồng thời

chưởng trái thọc ra hợp với tay phải kẹp cổ tay địch vào giữa, lòng bàn tay trái úp.

(H.96).

3. Địch sẽ bật tay ta lên để rút tay phải về, tay phải vẫn theo bám sát cổ tay địch (trong

trường hợp địch không bật tay lên thì tay trái ta cũng lôi cổ tay phải hắn lên), tay trái vẫn

đưa xuống không thay đổi (H.97).

4. Chân trái ta co lên bước lên trước đường đất địch, đồng thời hạ tấn thấp xoay mặt về

hướng tiến lên của địch (nhưng vẫn liếc nhìn mắt địch) thành tay phải địch nằm ngửa trên

vai ta rồi, vế ta sát vế địch (khóa ngựa), chưởng trái vỗ hạ nang địch làm hắn thóp bụng

sợ hãi (khi hắn giật mình thì trọng lực của hắn sẽ lên cao) (H.98).

5. Cánh tay phải ta lôi cổ tay phải hắn tới trước trong lúc chân ta chuyển bộ chồm người

tới trước, eo lưng lắc mạnh một cái địch thủ bay lướt qua đầu ta. (H.99).

6. Buông tay trái lẫn tay phải, rùn bộ thấp nhường cho thân thể địch bay qua rơi bịch

xuống đất nằm sắp sãi tay như con rùa đen (H.100). Thế là kết thúc Thức thứ 20.

Page 25: Bat Quai Chuong Chien Dau

25

Thức thứ 21: TRÍCH LẶC ĐẢ

1. Ta dùng chưởng phải tấn công ngay ngực địch, hắn thóp ngực co lưng tránh liền

(H.101).

2. Hắn bắt lấy cổ tay phải ta bằng tay phải, chưởng trái hắn nâng cùi chỏ ta lên. (H.102).

3.Ta bèn co cánh tay phải lên, chưởng xung thiên, lòng chưởng úp vào phía mặt ta, đồng

thời chân trái ta bước lên (đổi bộ) gài giữa chân địch, thế là tay phải ta đã thoát tay địch

rồi, cũng cùng một tác động thời gian đó tay trái ta nắm lấy cổ tay địch (H.103).

4. Chân phải ta bước lên ngáng giữa đường đất địch (đổi bộ), tay trái nâng lên cao lột

cánh tay trái địch qua bên phải hắn, chưởng phải ta co ngang trong thế sẵn sàng tấn công

ngang (H.104).

5. Chân ta chuyển thành mã bộ, tay trái buông cổ tay trái địch đồng thời tay phải đánh

ngang một quyền vào ngực địch làm hắn bật ngửa, vì trong lúc ta đổi bộ hắn cũng đổi bộ

nên chân hắn bị chân ta gài (khóa) không thể rút ra thoát chạy được nữa. (H.105).

Thức thứ 22: ĐẢO BỘI KIM NHÂN

(Xoay lưng vác vai người sắt)

1. Địch thủ dùng hai tay bắt lấy hai cổ tay ta không chịu buông ra. (H.106).

2. Tay phải ta co vào dưới cánh tay trái, lòng bàn tay úp vào bụng thế là thoát rồi, tay trái

co vào trên tay phải và cùng thoát ra như tay phải (hai tay làm cùng lúc). (H.107).

Page 26: Bat Quai Chuong Chien Dau

26

3. Nhưng khi gần thoát ra tay ta lại nắm giữ hai cổ tay địch như lúc địch bắt cổ tay ta vậy.

(H.108).

4. Ngay khi bắt được tay địch ta gài tay trái địch vào dưới nách phải của hắn, chân phải ta

bỏ qua bên phải chân trước của hắn (chân phải), (H.109).

5. Ta hạ thấp đồng thời xoay người nghịch chiều kim đồng hồ về hướng tiến của hắn,

buông cánh tay trái của địch ra và hai tay giữ lấy cổ tay phải của địch gánh lên vai (trong

lúc gánh cánh tay địch phải xoay cho lòng bàn tay của địch quay lên trời để khi bẻ tay

hắn mới đau). (H.110).

6. Hai tay ta kéo cổ tay địch tới trước (theo đường chỉ địa), đầu ta cúi xuống, mông bật

mạnh lên làm địch bay lộn vèo qua vai ta té ngửa trước mặt ta. (H.111).

Thức thứ 23: LIÊN CHÂU TIỄN

(Còn gọi là Băng Quyền Tam Tấn)

1. Ta dùng quyền phải đấm vào ngực địch (H.112), địch đưa tay phải đỡ.

2. Ta lại đấm tiếp quyền trái ra, hắn lại đưa cổ tay phải đỡ (H.113).

3. Ta đấm tiếp theo quyền phải tất hắn không đỡ kịp nữa. (H.114).

Chú ý: Lúc thực hành thì ba quyền xung ra nhanh như một thì dù địch nhân có lanh tay

đến đâu cũng khó bề đỡ kịp hết được, và có thể đánh 4 hay 5 quyền liên tiếp. Nhưng

chính ta gặp phải đối thủ có tay quyền nhanh như điện này thì tốt hơn nên hóp ngực tránh

đòn và lách mình sang bên phản công. Cái đó gọi là lấy công làm thủ đó.

Page 27: Bat Quai Chuong Chien Dau

27

Thức thứ 24: TÀ THÂN SONG DỊCH CHƢỞNG

1. Địch dùng chưởng phải, bước chân trái tới chém bổ xuống đầu ta. (H.115).

2. Ta xử chưởng xung thiên nhưng chỉ xéo lên phía ngoài cánh tay địch ngay cùi chỏ hắn

là đòn hắn vô hiệu rồi (H.116).

3. Ta đảo bộ chân trái bước sang bên phải địch phòng địch tấn công, trong lúc tứ chi (4

đầu ngón tay) trái đâm nhẹ vào bẹ sườn non bên phải của địch (H.117).

4. Đâm vào sườn non và bấu vào bẹ sườn như chim ưng bắt mồi vậy làm địch đau chịu

không nổi phải thóp bụng nhảy tưng lên (H.118).

5. Thế là ta gia tăng kình lực vào hai bàn tay, thân trên chồm tới đẩy bay địch ra sau mấy

thước tây mà phần bên ngực hắn đã bị trọng thương rồi vậy. Kết thúc chiêu thứ 24

(H.119).

Page 28: Bat Quai Chuong Chien Dau

28

Thức thứ 25: HIỆP KIÊN SƢU ĐỔ CHƢỞNG

(Vai hông chưởng hợp nhất)

1. Địch dùng tay phải nắm cổ tay phải ta, hắn định đè xuống để chưởng trái chụp vào mặt

ta (H.120).

2. Ta bước chân sau lên ngoài chân trước của hắn đồng thời đưa tay phải thành vòng tròn

từ dưới lên trên (từ phải qua trái), khi tay phải đưa cổ tay ngang vai trái thì tay địch

không giữ nổi cổ tay ta nên ngay khi ấy chưởng ta câu lại bắt giữ cổ tay đối thủ khi hai cổ

tay ta và địch trở về vị trí xuất phát (H.121).

3. Tay phải ta kéo tay địch về hướng bên phải ta đồng thời tay trái ta đánh vào bụng địch

hoặc hạ bộ bằng lưng nắm tay (H.122); muốn kéo được địch chúi về bên phải ta thì trước

khi kéo, tích tắc đồng hồ ta dùng vai trái đánh vào vai phải của địch, cái lắc vai phải theo

nguyên tắc vòng tròn xoay, có dạy trong sách Bát Quái Quyền Chưởng.

4. Đánh vai trái vào vai phải địch, tay trái câu thủ của ta đưa ra sau lưng (H.123).

5. Thả tay phải đồng thời câu thủ trái của ta (dùng lưng) đánh vào biếu địch làm hắn tức

tối chịu không nổi (H.124).

Page 29: Bat Quai Chuong Chien Dau

29

Thức thứ 26: HỒI THÂN TIÊU LẶC CHƢỞNG

1. Địch với ta giao thủ, ta dùng chưởng phải án vào ngực địch (H.125).

2. Địch co chân trước lên thành tấn một chân, thóp bụng tránh đòn đồng thời xoay cổ tay

đập mu bàn tay lên cổ tay ta áp xuống để bắt cổ tay ta. (H.126).

3. Hắm niệm tay ta nên khi thấy ta hơi động thì hắn chuyển tay nhanh như cắt tát vào mặt

ta (H.127).

4. Ta đưa nắm tay trái lên đỡ cú chưởng của địch đánh tới đẩy tay hắn vọt lên cao khỏi

đầu (H.128).

5. Rút cổ rùn đầu thấp xuống, chưởng phải yểm chỏ địch đồng thời bỏ chân trái lên một

bước tức là lăn qua cánh tay địch rồi, kế buông tay phải địch, chân phải co lên thành độc

tấn, chưởng phải phát vào hông địch (H.129).

Thức thứ 27: Xảo phá triền yêu tác

(Khéo léo quấn quít bên hông địch)

1. Ta đang chiến đấu bất thình lình có người thứ ba từ sau lưng nhảy vào ôm ngang lưng

ta (ôm dưới hai tay). Ta dùng ngón tay cái bấm vào hố khẩu (khoảng giữa ngón cái và

ngón trỏ, chỗ bóp thấy thịt mềm) của hắn thì hắn buông ta ra ngay (H.130).

2. Kế bàn tay phải bao lấy nắm tay trái thúc mạnh cùi chỏ ra sau vào cổ họng địch

(H.131) hoặc ngực hắn.

3. Xong quyền trái biến thành câu thủ gạt ra sau phòng chân địch đá tới, đồng thời cúi

người xuống dùng chưởng phải nắm cổ chân địch (giữa hai chân ta) mà lôi lên (lúc kéo

Page 30: Bat Quai Chuong Chien Dau

30

chân đối thủ vẫn tọa bộ) địch sẽ bị té ngửa ngay (H.132). Nếu là ác chiến thì có thể dùng

chân trái móc gót lên hạ bộ đối thủ, hắn ngã quỵ ngay.

4. Nếu địch ôm cả tay lẫn eo lưng, ta xuống tấn thấp xoài người tới trước đồng thời hai

tay bung mạnh chỏ ra chắc chắn địch chịu không nổi phải bỏ cuộc (H.133).

5. Tay trái phát chưởng tới trước đỉnh đầu, chuyển thân thuận theo chiều kim đồng hồ,

chưởng phải cùng lúc từ ngang vai đập vào hạ bộ địch thủ, hắn sẽ dội ngược mà bỏ trận

đấu. (H.134).

Thức thứ 28: PHIÊN THÂN LA HÁN CHƢỞNG

(Phiên thân: lộn ngược lại, quay mặt lại)

1. Địch dùng chưởng phải công vào ngực ta, ta dùng tay phải câu cổ tay địch đồng thời

chưởng trái đánh tới mặt hắn. (H. 135).

2. Địch phát chưởng xung thiên phong tỏa thế công tay trái của ta thì ta cũng rút chưởng

phải về (H.136).

3. Chưởng phải chiếu thẳng ngực định đánh tới thế là tự nhiên rút được chưởng trái về

rồi. (H.137).

4. Ta bước chân trái lên ngáng chân trước địch mới vừa lùi vì phát chưởng của ta, liền

theo chân bước tay trái phát chưởng đạp vào bụng dưới của địch, nếu trúng mạnh địch vỡ

(bể) bọng đái mà chết một cách thảm thiết. (H.138).

Page 31: Bat Quai Chuong Chien Dau

31

5. Địch cũng rất hay, hắn trầm chỏ trái xuống đánh cùi chỏ ta bật ra ngoài (sang bên),

nhưng nhanh như cắt ta chuyển thân trái bằng cách xoay vai đồng thời chưởng phải từ

trên cao đập xuống vị trí đã định. Thế là hắn không tài nào né tránh được, trừ phi hắn

thóp bụng rùn bộ tháo lui nhanh như điện thì chưởng của ta mới không gia hại hắn được

mà thôi.(H.139). Nhưng như thế cũng nhất định là chấm dứt thức thứ 28 nầy rồi.

Thức thứ 29: THUẬN THỦY THÔI CHÂU

(Thuận theo dòng mà đẩy thuyền)

1. Địch dùng quyền phải đánh vào ngực ta (H.140).

2. Ta lập tức đưa chưởng phải xéo qua xung thiên đỡ tay địch ngay trong lúc co chân

trước (phải) lên (H.141).

3. Tay phải bắt (câu) lấy cổ tay địch (H.142).

4. Địch định rút tay về nhưng ta dùng chưởng trái nâng khuỷu tay địch lên đồng thời ta

phải ta thuận đường đưa lên bóp cổ địch trong lúc chân phải ta bỏ ngoài chân trước địch,

(H.143).

5. Chuyển chân tấn thân dồn sức tới trước đồng thời cánh tay phải đẩy mạnh vào cổ địch

nhân tất hắn ngã ngửa (H.144).

Page 32: Bat Quai Chuong Chien Dau

32

Thức thứ 30: ĐẢO DỊCH TỬ KIM QUÁN

1. Ta dùng chưởng trái đánh vào vai phải địch, địch dùng chưởng trái câu lấy cổ tay trái

ta và dùng tay phải nâng cùi chỏ ta lên (H.145).

2. Ta xoay mình theo chiều kim đồng hồ chân phải co lên, coi như cánh tay ta bị địch bắt

rồi (H.146).

3. Chân phải đá ngược ra sau nhằm bụng dưới hay hạ nang của địch thì địch không còn

chỗ dung thân, (H.147). Dù thế nhưng người hiểu võ bao giờ cũng chừa cho đối thủ của

mình một sinh lộ, những đòn độc thường được thận trọng khi xử dụng.

Page 33: Bat Quai Chuong Chien Dau

33

Thức thứ 31: THƢỢNG BỘ HOÀNH XUNG CHƢỞNG

1. Địch dùng chưởng phải đánh ngực ta, ta bèn thóp bụng để ngự, đồng thời xoay thân từ

trái qua phải dùng cánh tay phải thò xuống phía vế địch mà đỡ cánh tay địch. (H.148).

2. Lướt cánh tay phải theo hướng đánh của địch để hóa giải sức mạnh của địch, đồng thời

chân trái bước tới ngáng chân trước địch đứng hư bộ, chưởng trái đưa lên ngang địch mà

phòng ngự (H.149).

3. Đợi khi địch rút tay phải về thì đồng nhất ta chuyển thân tới chân tấn thực mạnh hai

tay phát lực mười phần dùng chưởng xô tới tất địch bắn đi 5-6 thước (H.150).

Thức thứ 32: THUẬN THỦ KHIÊN DƢƠNG

1. Địch tiến chân trái dùng tay phải phát chưởng đánh vào mặt ta, ta đưa chưởng lên từ

bên ngoài cánh tay của địch đẩy xéo lên, cho đòn địch lướt qua bên phải ta (H.151).

2. Rồi tay phải ta trượt theo cánh tay địch từ cùi chỏ đến cổ tay thì chưởng ta câu cổ tay

địch mà kéo về bên phải ta, chưởng trái ta nắm cánh tay trong (trong cùi chỏ) đưa về bên

phải phụ tay phải đồng thời cũng đề phòng cùi chỏ của địch (H.152).

3. Địch vì cố lao tới phần bị ta kéo đi nên mất đà đành phải lao tới,cùng lúc với đà kéo

chân phải ta quét lên làm ngáng (cản) chân cho địch hòng chân té sấp xuống đất, ngay khi

ấy ta buông tay địch ra cho địch tự nhiên nằm xuống (H.153).

Page 34: Bat Quai Chuong Chien Dau

34

Thứ thứ 33: XÀ HÌNH CHƢỞNG

(Chưởng hình như động tác tấn công của rắn)

1. Địch dùng chưởng phải công ngay ngực ta, ta bèn đưa tay phải từ trên xuống phía

ngoài cánh tay phải địch gạt cuốn qua, ngay khi chạm tay địch, cánh tay ta mượn cánh

tay địch làm chuẩn đâm bốn đầu ngón tay vào nách địch (H.154). Khi tay ta chạm tay

địch thì chân trước xuống tân vững chân trước (thực bộ), còn lúc đứng vờn nhau thì chân

trước bao giờ cũng nhẹ nhàng gọi là hư bộ.

2. Địch rút chân trước về một tí thóp ngực tránh đòn, ta theo ngay chân trái bước lên

chưởng trái lật ngửa chưởng tâm lên trời và đâm vào mắt phải của địch, trong lúc tay trái

có thể biến thành câu để ngự cổ tay phải địch (H.155).

3. Địch không dở, hắn chỉ lắc nhẹ đầu sang bên là tránh đòn ta rồi, ngay khi ấy ta nhấc

chân phải lên chân trái làm trụ xoay vòng theo chiều kim đồng hồ, xoay lưng về phía địch

đồng thời trong đà xoay chớp nhoáng ấy tứ chỉ của tay phải cuốn qua vai (chưởng ngửa

lên) đâm vào mắt địch, chưởng trái phất về bên đùi trái phòng ngự (H.156). Trong lúc

chưởng đâm thì chân phải vẫn co, mắt ta ngoẻo nhìn mắt địch.

4. Địch thật là hay, hắn thò chưởng phải nâng cùi chỏ phải ta lên tránh thoát đòn độc dễ

dàng, nhưng nhanh như cắt chân phải ta đặt xuống bên chân trước địch thành mặt đối mặt

địch, chưởng trái ta lại yểm cổ tay phải địch còn đang giữ cùi chỏ ta, tay phải y vị chỉ

ngửa biến thành chỉ úp sấp vẫn đâm vào mắt địch. Thế là hắn lãnh đủ rồi không tài nào

tránh được, diễn tả động tác thì chậm mà việc xảy ra thì như điện xẹt, (H.157).

5. Nhưng như đã nói địch không phải tầm thường, hắn vẫn nâng cùi chỏ ta kịp thời thế là

đòn biến đó hỏng mất, không để địch kịp suy tư ta dùng chân trái móc chân phải địch từ

phía ngoài, chưởng trái cuốn từ trên xuống vòng lên trên chênh chếch thành chưởng xung

thiên, lòng chưởng mà trấn được hai tay địch rồi, chưởng phải theo liền chưởng trái đẩy

thẳng tới giữa ngực địch một chưởng tối hậu. Chưởng nầy nhất địch là địch không kịp trở

tay rồi, thế là kết thúc thức thứ 33 tại đây. (H.158). Lúc phát chưởng phải dồn sức vào

chân trước thì lực mới đả thương địch mười phần.

Page 35: Bat Quai Chuong Chien Dau

35

Thức thứ 34: TIẾN THAM PHỐI

1. Địch dùng tay trái phát chưởng công vào bụng ta, ta lưu chưởng trai ra bắt lấy chưởng

địch (bắt cổ tay) đẩy sang bên trái, đồng thời chân phải co lên (H.159).

2. Khi tay địch vừa lệch sang bên thì chân phải ta phóng tới hông địch một bước. Thế là

trúng rồi còn chạy đi đâu nữa. Kết thúc thức 34 một cách hết sức mau chóng và dễ dàng

(H.160).

Xin đóng góp về Bát Quái Chƣởng

A) Về cơ thể con ngƣời:

Trong Bát quái có 8 chữ: càn, khôn, chấn, tốn, khảm, ly, cấn, đoài.

Đầu, tượng trưng Càn

Bụng, tượng trưng Khôn

Chân, , tượng trưng Chấn

Bắp vế, tượng trưng Tốn

Tai, tượng trưng Khảm

Mắt, tượng trưng Ly

Tay, tượng trưng Cấn

Miệng, tượng trưng Đoài.

B) Về quyền thuật:

Trong quyền thuật tượng trưng Đầu là Càn, Bụng là Khôn, Thận là Khảm, Trên là Ly, đốt

thứ nhất của xương cùng cho đến đốt thứ bảy của cột xương sống là Tốn, cột xương ở cổ

là Cấn, bên trái bụng là Chấn, bên phải bụng là Đoài. Đó là danh xưng của Bát quái trong

thân thể. Kể từ tứ chi trở xuống mà nói, thời bụng là vô cực, rốn là thái cực, hai quả thận

là lưỡng nghi, hai cánh tay và hai chân là tứ tượng, hai tay và hai chân mỗi cái có 2 đốt,

hợp lại thành Bát Quái.

Hai bàn tay và hai bàn chân có 20 ngón, tổng 4 ngón tay cái, chân cái chỉ mỗI ngón có 2

đốt, cả thảy 8 đốt. Còn lại 16 ngón tay chân, mỗI ngón có 3 đốt, cả thảy là 48 đốt. Hợp 8

đốt chân tay, 8 đốt xương ngón chân cái, ngón tay cái và 48 đốt xương ngón ta, ta có đủ

64 đốt phù hợp vớI con số 64 trong Dịch Lý.

Page 36: Bat Quai Chuong Chien Dau

36

Ý niệm về những con số trên gọi là: vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng

nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái và 8*8 thành 64, biến thành một cấp số nhân

với công bội là 2.

Hình tượng ở các loài vật: Càn là Ngựa, Khôn là Trâu, Chấn là Rồng, Tốn là Gà, Khảm

là Heo, Ly là chim Trĩ, Cấn là Chó, Đoài là Dê. Áp dụng trong quyền thuật là:

- Càn là Sư tử

- Khôn là Lân

- Chấn là Long

- Tốn là Phượng

- Khảm là Xà

- Ly là Kê

- Cấn là Hùng (gấu)

- Đoài là Hầu (khỉ)

Ứng dụng vào dịch học, lấy bát quái trong thân thể là cái gốc ở bên trong, lấy bát quái

qua tứ chi là cái dụng ở bên ngoài. Sách Nội kinh có ghi: “Thân thể con người có đủ cái

gốc tiên thiên và hậu thiên; Chấn là gốc của tiên thiên, Tỳ là gốc của hậu thiên. Gốc tức

là cội rễ, là nguồn.”

Đặc điểm vận động của Bát quái chưởng là thân nhanh bước linh, tùy bước tuỳ biến, khi

giao đấu cùng đấu thủ thì thân hình nhô, hụp, vặn, xoay mau lẹ đa biến. Quyền phổ Bát

Quái ghi là: “Hình như rồng lượn, nhìn như vượn giữ, ngồi như hổ ngồi, chuyển như ưng

liệng”. Lấy trạm trang và bước đi là cơ bản công, lấy bước xoay chạy vòng tròn làm hình

thức vận động cơ bản. Đường di chuyển của vết chân bước xoay chia ra chạy theo hình

cá âm dương, chạy theo hình vẽ bát quái (Có 2 hình vẽ kiểu Bát quái là Tiên thiên Bát

quái của Phục Hy và hậu thiên bát quái của Chu Văn Vương), chạy theo cửu cung v.v…

Thân hình yêu cầu vươn đầu, thẳng cổ, đứng hông, hạ mông, lỏng vai xuôi khuỷu, giữ

nguyên bụng, thoải mái ngực, co háng, nâng bụng dưới.

Yêu cầu bộ pháp lên xuống vững vàng, khép mở rõ ràng, thực hư rành rọt. Khi bước tròn,

chân trong tiến thẳng chân ngoài khépvào trong, hai đầu gối ôm nhau, không được mở hạ

bộ. Thân pháp coi trọng vặn, xoay, chuyển, lật tròn vòng không ngắc ngứ. Về hình tay thì

có long trảo chưởng (chưởng móng rồng), ngưu thiệt chưởng (chưởng lưỡi trâu) v.v…

Thủ pháp chủ yếu thì có đẩy, nâng, kéo, dẫn, dời, ngăn, cắt, khép, bắt, tóm, móc, đánh,

gói, đóng, né… mười sáu phép. Yêu cầu là có thể tiến có thể lui, có thể hóa có thể sinh,

kết hợp hư thục, biến hóa không cùng, lấy động chế tĩnh, né thẳng đánh chéo, lấy chính

đuổI tà làm yếu quyềt giao đấu. Mỗi chưởng phát ra đều phảI lấy hông làm trục, toàn

thân là một thể, nội ngoại hợp nhau, ngoài chú trọng: tay, mắt, thân, bộ pháp, trong tu

dưỡng: tâm, thần, ý, khí, lực.

Luyện tập Bát quái chưởng chia ra 3 bước công phu: định giá tử, hoạt giá tử và biến giá

tử. Định giá tử là công phu cơ bản yêu cầu một chiêu một thức đều phảI thật quy củ, quen

chậm chứ không quen nhanh, cốt sao tư thế chính xác, trang bộ kiên cố, bước đi vững

vàng, thiết thực, làm cho được 9 yêu cầu nhập môn là: Tạ, Khấu, Đế, Đỉnh, Khỏa, Tùng,

Thùy, Xúc, Khởi toản lạc phan. Hoạt giá tử chủ yếu luyện động tác phốI hợp với bộ pháp

khiến các yếu lĩnh cơ bản trong khi chuyển chạy biến hoá phảI vận dụng thành thạo. Biến

Page 37: Bat Quai Chuong Chien Dau

37

giá tử yêu cầu nội, ngoại phải thống nhất, ý dẫn thân theo, biến đổI tự nhiên, theo ý vào

sâu không bị hạn chế bởI tiết tấu thứ tự bài bản, làm sao để nhẹ như lông ngỗng, biến như

điện chớp, vững như bàn thạch.

Nội dung cơ bản của Bát quái chưởng là Bát mẫu chưởng (8 chưởng mẹ) còn gọi là Lão

bát chưởng (8 chưởng già), biến hoá phối hợp nhau thành 64 chưởng. Bát quái chưởng có

đơn luyện, đối luyện, và tán đả đấu lôi đài. Hệ quyền của bát quái chưởng có 18 đường

La Hán thủ, 72 ám cước (đòn đá ngầm), 72 tiệt thoái (chặt chân). Hệ khí giới của Bát

quái chưởng có Tý ngọ uyên ương việt (búa), kê trảo âm dương nhuệ, phong hỏa luân,

phán quan bút,v.v… là các loạI binh khí đôi ngắn, nhỏ; cả đến gậy thất tinh trong có đổ

thủy ngân cho nặng và biến hoá sử dụng linh hoạt cùng các khí giới lớn nặng như bát

quái đao, bát quái thương, bát quái kiếm.

Bát quái chưởng không chỉ là môn võ thuật đánh nhau mà còn là môn võ rèn luyện thân

thể. Qua nghiên cứu, thấy rõ thường xuyên luyện tập bát quái chưởng có thể nâng cao và

cải thiện cơ năng của các hệ thống trong cơ thể, tăng cường sự trao đổi chất, cải thiện tố

chất con người khiến sứa lực con người càng thêm sống lâu, mạnh mẽ.

Để kết luận, tôi xin lấy một câu trong Chu dịch: “Cứng mềm mài nhau, bát quái vẫy

động” tức là luôn vận động không ngơi, biến hoá không ngừng mới là đạo lý, và cũng

chính vì vậy mới gọi là Bát quái chưởng.