bài 1 tỔng quan vỀ luẬt kinh tẾeldata10.topica.edu.vn/v2.02017/law201/bai giang... · về...
TRANSCRIPT
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
1
Bài 1 TỔNG QUAN VỀ LUẬT KINH TẾ
Nội dung Mục tiêu
Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận
các nội dung:
• Những vấn đề lý luận về Luật Kinh tế
như khái niệm, các đặc điểm của Luật
Kinh tế gồm: thương nhân – chủ thể
của luật kinh tế và hành vi thương mại
– khách thể của luật kinh tế.
• Các nguồn luật thương mại và vấn đề
áp dụng pháp luật trong điều chỉnh các
quan hệ thương mại.
• Hiểu được những khái niệm cơ bản của Luật
Kinh tế.
• Hiểu được các đặc trưng cơ bản của Luật
Kinh tế.
• Chỉ ra được các nguồn và nguyên tắc áp áp
dụng pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ
thương mại.
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này sinh viên cần:
Nắm vững kiến thức chung về pháp luật, nguồn
luật và quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật.
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
2
ền kinh tế hàng hóa hình thành, phát triển đã làm cho mua bán hàng hóa trở thành một
hoạt động mang tính chuyên nghiệp và sản xuất hàng hóa không còn là con đường duy
nhất dẫn đến lợi nhuận. Việc thực hiện luân chuyển, phân phối hàng hóa từ người sản
xuất đến người tiêu dùng, từ thị trường này sang thị trường khác đã trở thành cơ hội tìm kiếm lợi
nhuận tốt cho những người thực hiện nó. Lúc này tầng lớp thương nhân đã dần hình thành trong
xã hội và mua bán hàng hóa được coi là một nghề nghiệp chính.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, tầng lớp thương nhân ngày càng đông và lớn
mạnh. Quan hệ kinh tế giữa các thương nhân hình thành, được điều chỉnh bởi tập quán, thông lệ,
thói quen và nhiều quy tắc xử sự khác... Khi tập quán, thói quen, thông lệ không đủ để tạo ra quy
tắc ứng xử giữa họ, những quy định pháp luật kinh tế đầu tiên được ban hành, không chỉ để điều
chỉnh hoạt động kinh tế của thương nhân mà còn xác định quy chế pháp lý hay địa vị pháp lý của
thương nhân.
Sự hình thành và phát triển không ngừng của những quy định pháp luật ghi nhận địa vị của
thương nhân và hoạt động kinh tế của họ đã trở thành nhân tố quan trọng, góp phần thúc đẩy
phát triển đa dạng các loại hình tổ chức kinh tế và các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thế
giới và ở mỗi quốc gia. Những quy định pháp luật kinh tế đầu tiên chủ yếu là những quy định
điều chỉnh hành vi mua bán hàng hóa, bởi khi mới hình thành, hoạt động kinh tế chỉ gắn liền với
việc mua bán hàng hóa và những hành vi có liên quan đến mua bán hàng hóa diễn ra (chủ yếu)
giữa các thương nhân. Luật kinh tế với tư cách là một lĩnh vực pháp luật tương đối độc lập trong
pháp luật dân sự được hình thành dần dần, bắt đầu bởi sự phát triển nhanh chóng của lực lượng
sản xuất và theo đó là đòi hỏi thay đổi các quan hệ sản xuất đang tồn tại.
Luật kinh tế điều chỉnh hành vi thương mại (chủ yếu) của các thương nhân có thực hiện các hoạt
động kinh tế trong nền kinh tế.
1.1. Khái niệm luật kinh tế
Hệ thống pháp luật của một nước gồm nhiều quy định được sắp xếp theo một trật tự thứ
bậc, có mối liên hệ nhau, trong đó một hệ thống pháp luật gồm nhiều ngành luật. Luật
kinh tế là lĩnh vực pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế
thị trường.
Luật Kinh tế là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, gồm tổng thể các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh
trong quá trình quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh giữa cơ quan quản lý Nhà nước
về kinh tế với các tổ chức kinh tế hoặc giữa các tổ chức kinh tế với nhau hay nói cách
khác luật kinh tế gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong
lĩnh vực kinh doanh.
Trong giai đoạn nước ta theo nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các hoạt động kinh
doanh chủ yếu thực hiện giữa các đơn vị kinh tế Nhà nước, các hình thức kinh tế tư nhân
rất hạn chế, do đó luật kinh tế thực chất là những quy định trong lĩnh vực quản lý kinh tế
của Nhà nước và các đơn vị kinh doanh thực hiện các chỉ tiêu được định sẵn.
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước với sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế. Do đó, khái niệm về luật kinh tế được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tổ
N
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
3
chức, quản lý các hoạt động kinh tế của nhà nước và trong quá trình sản xuất kinh doanh
giữa các chủ thể kinh doanh với nhau. Như vậy, khái niệm về luật kinh tế có phạm vi
rộng và đa dạng hơn so với quan điểm trước đây.
Theo cách hiểu chung nhất (theo nghĩa hẹp), những vấn đề cơ bản của Luật Kinh tế bao
gồm (i) pháp luật doanh nghiệp, (ii) pháp luật hợp đồng trong kinh doanh, (iii) pháp luật
giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, (iv) pháp luật phá sản doanh nghiệp, (v) pháp
luật cạnh tranh. Bên cạnh đó, luật kinh tế có thể bao gồm những vấn đề chuyên sâu như
pháp luật về quản trị doanh nghiệp, pháp luật về quản lý kinh tế công cộng (quản lý thị
trường, quản lý chất lượng, quản lý quy hoạch phát triển kinh tế, chính sách hỗ trợ,
chính sách giám sát, chính sách chống bán phá giá...); pháp luật về các lĩnh vực kinh tế
(thị trường xây dựng, thị trường nhà đất, thị trường chứng khoán...); pháp luật về các
hợp đồng chuyên biệt (mua bán hàng hóa, gia công, trung gian tiêu thụ, vận tải và hậu
cần, thuê mua, quảng cáo; pháp luật bảo vệ người tiêu dùng; pháp luật về kinh tế quốc
tế; pháp luật trọng tài và những lĩnh vực pháp luật khác.
Do đó, pháp luật kinh tế điều chỉnh nhiều mối quan hệ kinh tế đa dạng và phong phú. Có
thể kể đến các nhóm quan hệ cơ bản như sau:
• Quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý hoạt động kinh doanh. Các quan
hệ này phát sinh trong quá trình hình thành các loại chủ thể kinh doanh, quản trị
doanh nghiệp, giải thể, phá sản... thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh
nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác;
• Quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thuộc đối
tượng điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng kinh doanh, pháp luật về giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh...;
• Quan hệ phát sinh trong quá trình cấp phát, huy động vốn phục vụ sản xuất kinh
doanh, hoạt động tín dụng, thanh toán, ngân sách... thuộc đối tượng điều chỉnh của
pháp luật về tài chính – ngân hàng;
• Quan hệ phát sinh trong quá trình tạo việc làm và sử dụng lao động... thuộc đối
tượng điều chỉnh của pháp luật lao động;
• Quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng đất đai, môi trường... thuộc đối
tượng điều chỉnh của Luật Đất đai, Luật Môi trường;
• Quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện các hành vi cạnh tranh thuộc đối tượng
điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh.
Theo PGS.TS. Nguyễn Như Phát (Viện Nhà nước và Pháp luật), pháp luật kinh tế không
phải là một ngành luật mà là một hệ thống các lĩnh vực pháp luật có đối tượng rất rộng.
Ngoài các quan hệ kinh tế nêu trên, quan hệ phát sinh trong quá trình can thiệp, điều tiết
của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế (pháp luật hành chính kinh tế - pháp luật
kinh tế công) cũng thuộc phạm vi của pháp luật kinh tế.
Với những đặc thù về chủ thể, nội dung, tính chất, mỗi quan hệ kinh tế trên đây lại thuộc
một ngành luật hay một lĩnh vực pháp luật hẹp hơn điều chỉnh, bao gồm: Luật Kinh tế,
Luật Tài chính – Ngân hàng, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Môi trường. Như vậy,
trong khoa học pháp lý Việt Nam, Luật Kinh tế được hiểu là một bộ phận của pháp luật
kinh tế và nó chỉ điều chỉnh một phần quan hệ kinh tế phát sinh trong nền kinh tế
thị trường.
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
4
Ở thập niên 70, thập niên 80, khái niệm “Luật Kinh tế” được sử dụng khá phổ biến. Luật
Kinh tế khi đó được hiểu là một bộ phận của pháp luật kinh tế... là ngành luật độc lập có
phạm vi, đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng, trong đó, pháp luật kinh tế bao
gồm các văn bản pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau (Luật Kinh tế, Luật Tài
chính – Ngân hàng, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Môi trường...) điều chỉnh những
quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của những đơn vị
kinh tế và quan hệ quản lý kinh tế của nhà nước với tư cách vừa là một tổ chức chính trị,
vừa là chủ sở hữu tư liệu sản xuất trong xã hội. Luật Kinh tế ra đời trong cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức
kinh tế xã hội chủ nghĩa, các cơ quan quản lý kinh tế trong sản xuất, kinh doanh, sở hữu,
tổ chức và kế hoạch hóa. Trong các cơ sở đào tạo luật, “Luật Kinh tế” trở thành một môn
học quan trọng, “là kết quả của công tác nghiên cứu khoa học pháp lý và thực tiễn quản
lý sản xuất kinh doanh bằng pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn
sản xuất kinh doanh”.
Ở Việt Nam, ý tưởng sử dụng khái niệm “Luật Thương mại”, “luật kinh doanh” để thay
thế cho khái niệm “Luật Kinh tế” xuất hiện khi diễn ra những thay đổi về kinh tế, về cơ
chế quản lý kinh tế và dẫn đến những thay đổi căn bản trong điều chỉnh pháp luật đối với
các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân. Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, chủ thể của Luật Kinh tế không còn là các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa (tổ
chức kinh tế nhà nước, tổ chức kinh tế tập thể) với tư cách là các đơn vị thực hiện hoạt
động sản xuất theo kế hoạch được giao. Nền kinh tế không còn vận hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung mà vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, với
nền tảng là sự công nhận quyền tự do sở hữu, quyền tự do kinh doanh, đồng thời chịu
nhiều tác động tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những thay đổi này dẫn
đến yêu cầu đổi mới trong khoa học Luật Kinh tế, theo đó, khái niệm “Luật Kinh tế” ít
được sử dụng hơn trong khoa học pháp lý. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường và xu thế tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, phạm vi quyền tự do
kinh doanh cũng không ngừng được mở rộng, từ chỗ “tự do kinh doanh theo quy định
pháp luật” đến “tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”...,
vai trò can thiệp, kiểm soát của nhà nước cũng thu hẹp rất nhiều theo xu hướng tôn trọng
và đảm bảo thực hiện những hành vi không trái pháp luật của người kinh doanh (thương
nhân). Xu hướng này làm cho yếu tố “luật tư” được thể hiện rất rõ nét và khái niệm
“Luật Thương mại” dần được sử dụng phổ biến, với ý nghĩa là lĩnh vực pháp luật điều
chỉnh hoạt động thương mại, hoạt động đầu tư kinh doanh của thương nhân. Chính vì
vậy, khái niệm “Luật Thương mại” dần được sử dụng thay thế cho khái niệm “Luật Kinh
tế”, mặc dù nhiều vấn đề “lý luận về vấn đề này còn có những quan điểm khác nhau và
cơ cấu của nó cũng chưa ổn định”. Trong khoa học pháp lý, cũng còn nhiều ý kiến khác
nhau trong việc nhìn nhận “Luật Kinh tế” với tư cách là một ngành luật độc lập. Mặc dù
vậy, trong thực tiễn kinh doanh và quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh, khái
niệm “Luật Kinh tế” vẫn tiếp tục tồn tại và được sử dụng với ý nghĩa là lĩnh vực pháp
luật bao gồm tổng thể các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và tiến hành hoạt động kinh
doanh, bao gồm quá trình hình thành các loại chủ thể kinh doanh, quản trị doanh nghiệp,
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
5
quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh thông qua các giao dịch hợp đồng của doanh
nghiệp, quá trình giải thể, phá sản và giải quyết tranh chấp trong kinh doanh...
Ngày nay, “động lực của toàn cầu hóa chính là sự bùng bổ thương mại hàng hóa và dịch
vụ”, dẫn đến sự hình thành một khối lượng đồ sộ các văn bản pháp luật quốc gia, các
điều ước quốc tế. Quy chế thương nhân được xác lập bởi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu
tư, Luật Phá sản... Hoạt động thương mại của thương nhân được điều chỉnh bởi văn bản:
Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật các tổ chức tín dụng,
Luật Trọng tài thương mại, Bộ luật Tố tụng dân sự, các luật thuế, Bộ luật hàng hải, các
tập quán thương mại quốc tế... Tổng thể các nguồn luật này là cơ sở pháp lý cho thương
nhân gia nhập thị trường, tổ chức hoạt động và rút khỏi thị trường, là cơ sở pháp lý cho
thương nhân tiến hành các hoạt động kinh doanh. Như vậy, việc nhận diện khái niệm
Luật Kinh tế trong nền kinh tế thị trường có những lưy ý cơ bản như sau:
Một là, Luật Kinh tế là một bộ phận thuộc lĩnh vực pháp luật kinh tế, bao gồm tổng thể
các quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm quy định về các loại
chủ thể kinh doanh, điều chỉnh việc hình thành, tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh
của họ phù hợp với chính sách quản lý kinh tế của nhà nước và quy định về vấn đề giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh;
Hai là, Luật Kinh tế không phải là cơ sở pháp lý giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong
quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải tìm
kiếm đến các quy định khác trong Luật Tài chính, Luật Ngân hàng, Luật Đất đai, Luật
Lao động, Luật Môi trường...
1.2. Đặc điểm của Luật Kinh tế
1.2.1. Chủ thể của Luật Kinh tế
Chủ thể là thuật ngữ để chỉ các cá nhân, tổ chức, theo quy định của pháp luật, tham gia
vào các quan hệ pháp luật để thực hiện các nội dung của quy phạm pháp luật tương ứng.
Chủ thể của luật kinh tế là thương nhân - các cá nhân, tổ chức (như doanh nghiệp, hợp
tác xã), hộ kinh doanh..., cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan
đến hoạt động kinh doanh của các thương nhân.
Doanh nghiệp – chủ thể chủ yếu của Luật Kinh tế
Doanh nghiệp là chủ thể thường xuyên tham gia vào các quan hệ thương mại và giữ vị
trí trung tâm ở tất cả các quan hệ kinh tế, tham gia vào quan hệ xã hội được luật kinh tế
điều chỉnh như quan hệ đầu tư góp vốn, hợp đồng thương mại, đăng ký kinh doanh, giải
quyết tranh chấp thương mại, giải thể, phá sản... Doanh nghiệp cũng là chủ thể chiếm số
lượng đông và ngày càng gia tăng, hoạt động ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế với
nhiều hình thức sở hữu nên có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự phát triển của
nền kinh tế mỗi quốc gia.
Doanh nghiệp là chủ thể chủ yếu của Luật Kinh tế và xuất hiện phổ biến trong quan hệ
kinh tế, bao gồm các quan hệ kinh tế cơ bản sau:
• Doanh nghiệp là chủ thể góp vốn, đầu tư
Trừ một số trường hợp bị hạn chế quyền tiếp tục đầu tư, góp vốn, các doanh nghiệp
được quyền đầu tư, góp vốn để thành lập doanh nghiệp khác và trở thành chủ sở hữu
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
6
của doanh nghiệp đó, được liên kết để thành lập tổng công ty, tập đoàn kinh tế (nhóm
công ty).
• Doanh nghiệp là chủ thể thực hiện các hoạt động thương mại và tham gia vào các
quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại, xúc tiến
thương mại...
Chức năng, nhiệm vụ chính của doanh nghiệp là hoạt động thương mại nhằm mục
tiêu lợi nhuận. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu đó, doanh nghiệp hoạt
động thương mại với tính chất nghề nghiệp, thường xuyên, liên tục, và là chủ thể chủ
yếu trong các quan hệ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại, xúc tiến
thương mại...
• Doanh nghiệp là chủ thể đầu tư, thực hiện các hoạt động gia nhập thị trường.
Bên cạnh việc khẳng định và bảo hộ quyền tự do kinh doanh, nhà nước cũng khẳng
định vai trò của nhà nước trong quản lý về kinh tế và kiểm soát việc thực hiện quyền
tự do kinh doanh, theo đó, ai kinh doanh, kinh doanh cái gì, kinh doanh ở đâu, mức
vốn bao nhiêu... đều phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh khi thành lập
doanh nghiệp và khi doanh nghiệp đang hoạt động nhưng có thay đổi những thông
tin này. Thực hiện các thủ tục bắt buộc này là căn cứ để xác định tính hợp pháp của
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi họ sử dụng quyền tự do kinh doanh mà
Hiến pháp đã quy định.
• Doanh nghiệp là chủ thể thực hiện các hoạt động tổ chức lại doanh nghiệp (hợp nhất,
sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi doanh nghiệp), là chủ thể thực hiện các hoạt động
rút khỏi thị trường (giải thể, phá sản doanh nghiệp) và là chủ thể của tranh chấp
thương mại và quan hệ giải quyết tranh chấp thương mại.
Các chủ thể khác có quan hệ pháp lý với doanh nghiệp trong quá trình thành lập, hoạt
động kinh doanh và giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh.
Cơ quan đăng ký kinh doanh và quản lý nhà nước trong lĩnh vực chuyên ngành
Cơ quan đăng ký kinh doanh là đầu mối quan trọng thực hiện quản lý nhà nước đối với
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và chủ thể kinh doanh khác. Cơ quan đăng ký
kinh doanh là nơi tiến hành các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh
doanh, đăng ký thay đổi nội dung kinh doanh, đăng ký tạm ngừng, chấm dứt hoạt động
kinh doanh...
Cơ quan đăng ký kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và ở
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Ở cấp tỉnh, phòng Đăng ký kinh doanh thuộc
Sở Kế hoạch và Đầu tư có thẩm quyền cấp đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, liên
hiệp hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân. Phòng Đăng ký kinh doanh có thể tổ chức các
điểm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thuộc Phòng Đăng ký kinh doanh tại các địa điểm
khác nhau trên địa bàn cấp tỉnh. Ở cấp huyện, Phòng Tài chính – Kế toán thuộc Ủy ban
nhân dân cấp huyện thực hiện nhiệm vụ đăng ký hộ kinh doanh, đăng ký hợp tác xã (gọi
chung là cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện).
Trong quá trình hoạt động thương mại, để đảm bảo quản lý nhà nước về kinh tế, thương
nhân phải thực hiện một số nghĩa vụ cần thiết tại cơ quan quản lý chuyên ngành, tùy
thuộc vào loại hoạt động thương mại mà họ thực hiện. Ví dụ: Thực hiện các thủ tục về
đảm bảo điều kiện kinh doanh tại Sở Y tế/Bộ Y tế khi kinh doanh các ngành nghề kinh
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
7
doanh phải đảm bảo các điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm; thực hiện các thủ tục về
đảm bảo điều kiện kinh doanh tại cơ quan công an khi kinh donah các ngành nghề phải
đảm bảo điều kiện về an ninh, trật tự; thực hiện các thủ tục hải quan tại cơ quan hải quan
khi thực hiện hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu...
Tổ chức, cá nhân thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp kinh tế (tranh chấp
thương mại)
Khi hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế (tranh chấp thương mại), Tòa án, tổ chức
trọng tài, hòa giải viên (khi thực hiện hòa giải thương mại), trọng tài viên của hội đồng
trọng tài vụ việc được coi là chủ thể của Luật Kinh tế. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các tổ
chức, cá nhân này với tư cách là chủ thể của Luật Kinh tế phụ thuộc vào việc: Có tranh
chấp thương mại xảy ra hay không? Số lượng vụ tranh chấp nhiều hay ít và các bên của
vụ tranh chấp lựa chọn cách thức nào để giải quyết tranh chấp xảy ra.
Tổ chức, cá nhân không có đăng ký kinh doanh với tư cách là nhà đầu tư hoặc khách
hàng của doanh nghiệp
Tổ chức, cá nhân khi thực hiện đầu tư, góp vốn thành lập doanh nghiệp và trở thành chủ
thể của quan hệ đầu tư vào tổ chức kinh tế. Tổ chức, cá nhân ký hợp đồng mua bán hàng
hóa, ủy thác mua bán hàng hóa, môi giới... với doanh nghiệp và trở thành chủ thể quan
hệ thương mại hỗn hợp (quan hệ thương mại có một bên là thương nhân, một bên không
phải là thương nhân).
Ví dụ: Các ông/bà A, B, C thỏa thuận góp vốn và thành lập ra Công ty cổ phần ABC.
Trong quá trình thành lập và hoạt động của công ty cổ phần ABC, các ông bà A, B, C
đóng vai trò là chủ đầu tư, chủ sở hữu công ty và có các quyền và nghĩa vụ đối với công
ty theo quy định của pháp luật doanh nghiệp.
1.2.2. Khách thể của Luật Kinh tế
Hoạt động kinh tế ra đời sớm trong lịch sử xã hội loài người trên cơ sở sự phân công lao
động xã hội, nó đã tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau.
Khách thể của Luật Kinh tế là các hành vi thương mại và được ghi nhận trong pháp luật
Việt Nam một cách khái quát là hoạt động thương mại (tổ hợp các hành vi thương mại)
tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác.
Hành vi thương mại có đặc điểm cơ bản như sau:
Một là, hành vi thương mại xuất hiện tương đối muộn, khi sự phân công lao động xã hội
đạt đến trình độ nhất định, trong xã hội xuất hiện tầng lớp chuyên mua đi bán lại các sản
phẩm, hàng hóa với mục đích kiếm lời. Xét về mặt lịch sử, nếu so với hành vi dân sự ra
đời thì hành hành vi thương mại ra đời muộn hơn khá lâu bởi hành vi dân sự ra đời từ rất
sớm trong lịch sử xã hội loài người, từ khi con người tạo ra những sản phẩm dư thừa và
có nhu cầu trao đổi lấy những sản phẩm khác loại của người khác với mục đích thỏa
mãn các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của mình.
Hai là, hành vi thương mại được thực hiện trên thị trường và nhằm mục đích sinh lời. Sở
dĩ thương mại phải được diễn ra trên thị trường vì mua bán là khâu quan trọng nhất, là
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
8
thành tố của hành vi thương mại. Còn các yếu tố khác (sản xuất và dịch vụ) phải kết hợp
với khâu mua bán mới có thể coi là thực hiện xong một hành vi thương mại.
Là hành vi diễn ra trên thị trường, hành vi thương mại phải tuân theo các quy luật thị
trường như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật tăng lợi nhuận... và các quy
luật riêng trong thương mại như quy luật của người mua, quy luật về ý chí tiến thủ của
chủ doanh nghiệp. Dưới sự tác động của các quy luật đó, các hành vi thương mại có
những nét đặc thù so với các hành vi dân sự. Chẳng hạn, dưới sự tác động của quy luật
cạnh tranh, các chủ doanh nghiệp thường phải vươn lên chiếm lĩnh toàn bộ hoặc một
phần nào đấy của thị trường để tồn tại, tăng trưởng và phát triển. Để làm được điều đó,
ngoài việc tiến hành các hành vi thương mại, các chủ thể thương mại có thể thực hiện
các hoạt động với mục đích buộc đối thủ cạnh tranh phải hành động theo đúng dự định
mà họ đặt ra. Điều này hầu như không được biết đến khi thực hiện các hành vi dân sự.
Theo quy định của pháp luật, hành vi thương mại là hành vi nhằm mục đích sinh lợi,
trong khi đó, hành vi dân sự là hành vi được thực hiện nhằm mục đích tiêu dùng.
Ngoài ra, từ chỗ khác nhau về mục đích, hành vi thương mại và hành vi dân sự còn khác
nhau về các yếu tố cấu thành, về khách thể mà các hành vi đó hướng tới, thậm chí cả yếu
tố tâm lý của các chủ thể thực hiện hành vi... Chẳng hạn, xuất phát từ mục đích lợi
nhuận, hành vi thương mại bắt buộc phải có hai yếu tố cấu thành quan trọng nhất là mua
và bán, có nghĩa để được coi là hành vi thương mại hoàn chỉnh, chủ thể thương mại
trước hết phải mua hàng hóa sau đó phải bán lại hàng hóa đó đi, có như vậy, mới nói đến
vấn đề lợi nhuận. Điều đó khác với hành vi dân sự, trong đó chỉ thuần túy mua hoặc bán.
Ba là, hành vi thương mại là hành vi mang tính chất nghề nghiệp, được thương nhân (tổ
chức, cá nhân kinh doanh) thực hiện. Thương mại là hành vi mang tính nghề nghiệp có
nghĩa là chủ thể của hành vi khi tham gia thương trường thực hiện sự phân công lao
động. Các hành vi này được chủ thể tiến hành thường xuyên, liên tục, thể hiện tính
chuyên nghiệp cao và mang lại thu nhập chính cho chủ thể thực hiện hành vi. Dựa vào
nét đặc trưng này, dễ dàng nhận thấy rằng mặc dù trên thương trường có thể diễn ra
những hành vi nhằm mục đích sinh lợi nhưng chúng không thể được coi là hành vi
thương mại, bởi lẽ đó không phải là hành vi thường xuyên của người thực hiện hành vi,
hơn nữa, hành vi đó không mang lại thu nhập chính cho chủ thể thực hiện. Ví dụ, nhân
một chuyến đi công tác, một viên chức mua số lượng hàng hóa nhất định ở nơi công tác
để về bán kiếm lời.
Dựa trên những căn cứ khác nhau, hành vi thương mại có thể được chia thành các loại
khác nhau.
• Dựa vào tính chất của hành vi và chủ thể thực hiện hành vi, hành vi thương mại có
thể được chia ra: hành vi thương mại thuần túy, hành vi thương mại phụ thuộc và
hành vi thương mại hỗn hợp.
o Hành vi thương mại thuần túy: là những hành vi có tính chất thương mại vì bản
chất của nó thuộc về công việc buôn bán hoặc vì hình thức của nó được pháp luật
coi là tiêu biểu cho hành vi thương mại. Ví dụ mua hàng hóa để bán lại kiếm lời.
o Hành vi thương mại phụ thuộc: là những hành vi có bản chất dân sự nhưng do
thương nhân thực hiện theo nhu cầu nghề nghiệp hay nhân lúc hành nghề và do
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
9
đó được coi là hành vi thương mại. Ví dụ: thương nhân mua phương tiện, trang
thiết bị văn phòng để trang bị cho các phòng làm việc của mình.
o Hành vi thương mại hỗn hợp: là hành vi thương mại đối với một bên (thương
nhân) nhưng lại là hành vi dân sự đối với bên kia (cá nhân không có tư cách
thương nhân). Ví dụ quan hệ mua bán hàng hóa giữa Công ty A (thương nhân)
với ông B.
• Dựa vào lĩnh vực phát sinh cũng như đối tượng của hành vi thương mại, hành vi
thương mại có thể chia ra gồm các nhóm sau:
o Nhóm hành vi thương mại hàng hóa;
o Nhóm hành vi thương mại dịch vụ;
o Nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực đầu tư;
o Nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
1.2.3. Nội dung của Luật Kinh tế
Luật Kinh tế quy định quy chế pháp lý về các loại chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế.
Pháp luật mỗi quốc gia đều quy định về các loại hình chủ thể kinh doanh, điều kiện, thủ
tục để tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động kinh doanh hợp pháp. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, nhiều loại hình chủ thể kinh doanh khác nhau hình thành, theo đó, có
thể xuất hiện nhiều sự liên kết phức tạp về vốn góp, về quản lý, về tính chất chịu trách
nhiệm tài sản, về công nghệ... Sự tồn tại và hoạt động của các chủ thể kinh doanh cần có
sự công nhận, bảo hộ từ phía nhà nước và pháp luật là công cụ quan trọng để thực hiện
điều này, thể hiện thông qua các nhóm quy định pháp luật cơ bản như sau:
Thứ nhất, Luật Kinh tế quy định các loại hình doanh nghiệp và chủ thể kinh doanh khác.
Ở Việt Nam, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh,
hợp tác xã, hộ kinh doanh chỉ được thành lập và được biết đến sau khi Quốc hội ban
hành Luật Công ty năm 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990. Công ty TNHH
một thành viên, công ty hợp danh chỉ được thành lập sau khi Luật Doanh nghiệp được
ban hành vào năm 1999 và công ty TNHH một thành viên do một cá nhân làm chủ chỉ
được thành lập sau khi Luật Doanh nghiệp 2005 được ban hành và có hiệu lực pháp luật.
Sự hiện diện của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam được bắt đầu trên cơ sở quy định
của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987) với các hình thức cụ thể là doanh
nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các chủ thể kinh doanh này
thành lập và hoạt động với tên gọi doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài trong một thời gian dài, cho đến khi pháp luật về đầu tư tại Việt Nam được
nhất thể hóa với sự ra đời của Luật Đầu tư năm 2005. Hiện nay, theo quy định của Luật
Đầu tư năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2014, tùy thuộc vào cấu trúc vốn đầu tư và
tính chất liên kết, doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước hay có vốn đầu tư nước ngoài,
các doanh nghiệp đều hiện diện với một trong các tên gọi là công ty TNHH, công ty cổ
phần, doanh nghiệp tư nhân, hoặc công ty hợp danh... Ngoài ra, pháp luật hiện hành còn
có quy định về một số chủ thể kinh doanh khác như: hộ kinh doanh, tổ hợp tác, các cá
nhân không có nghĩa vụ phải đăng ký kinh doanh như người bán hàng rong, quà vặt, có
thu nhập thấp.
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
10
Thứ hai, Luật Kinh tế quy định về điều kiện và thủ tục gia nhập thị trường của nhà
đầu tư.
Nhà đầu tư có quyền tự do thành lập doanh nghiệp để đầu tư kinh doanh trong những
ngành nghề pháp luật không cấm. Để đảm bảo trật tự và lợi ích xã hội, nhà nước kiểm
soát việc thực hiện quyền này thông qua các quy định về điều kiện và thủ tục gia nhập
thị trường. Bằng các quy định của Luật Kinh tế, Nhà nước kiểm soát các yếu tố về vốn
đầu tư, ngành nghề kinh doanh, người góp vốn thành lập, người đại diện theo pháp luật,
nơi đặt trụ sở chính... Các quy định về điều kiện và thủ tục gia nhập thị trường cũng cho
phép xác định tư cách pháp lý hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh cùng với trách
nhiệm và nghĩa vụ pháp lý trong hoạt động kinh doanh của họ.
Thứ ba, Luật Kinh tế quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh
(gọi chung là doanh nghiệp) và của người góp vốn (gọi chung là nhà đầu tư)
• Quy định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có mục đích là xác định rõ phạm vi
quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong nền kinh tế.
Trên cơ sở quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp quy định, Luật Kinh tế quy định
cụ thể quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Đây là
những quy định quan trọng xác lập phạm vi thẩm quyền kinh tế của người kinh
doanh, là cơ sở đo lường tính chất bình đẳng, không phân biệt đối xử trong hoạt động
kinh doanh của các loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau. Các quyền cơ bản được
pháp luật quy định, bao gồm: Tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật
không cấm; Tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động
lựa chọn ngành nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; Chủ động điều chỉnh quy mô và
ngành, nghề kinh doanh; Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu; Tuyển dụng, thuê và sử
dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh; Chủ động ứng dụng khoa học và công nghệ
để nâng cao hiệu quả kinh doanh, khả năng cạnh tranh; Chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản của doanh nghiệp...
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải thực hiện các nghĩa vụ cơ bản, đó là: Đáp ứng
đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
theo quy định của Luật Đầu tư và bảo đảm duy trì đủ điều kiện đầu tư kinh doanh đó
trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh; Tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo
cáo tài chính, trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế
toán, thống kê; Kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo
quy định của pháp luật; Bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa, dịch
vu theo tiêu chuẩn do pháp luật quy định hoặc tiêu chuẩn đã đăng ký hoặc công bố...
• Quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân góp vốn (nhà đầu tư) có mục đích
xác định rõ thẩm quyền của họ với tài sản góp vốn để thực hiện hoạt động kinh
doanh. Trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp và trách nhiệm tài sản của nhà đầu tư
góp vốn được quy định có sự phân biệt. Với tư cách là chủ sở hữu của tổ chức kinh
doanh, nhà đầu tư (tổ chức, cá nhân đầu tư, góp vốn) có quyền quyết định chiến lược
phát triển và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty, cơ cấu tổ chức quản lý
công ty, bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm người quản lý công ty, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, bãi nhiệm người quản lý công ty, quyết định tăng vốn điều lệ của công ty;
chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
11
khác, quyết định thành lập công ty con, góp vốn vào công ty khác, tổ chức giám sát
và đánh giá hoạt động kinh doanh của công ty, quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau
khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác của công ty, quyết
định tổ chức lại, giải thể và yêu cầu phá sản công ty...
Về trách nhiệm của nhà đầu tư, các quy định của Luật kinh tế cho phép xác định
phạm vi trách nhiệm tài sản của tổ chức, cá nhân góp vốn đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp do họ thành lập ra. Nhà đầu tư có thể phải chịu trách nhiệm
vô hạn bằng toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc chỉ chịu trách nhiệm hữu
hạn trong phạm vi vốn góp vào doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà họ lựa chọn đầu tư góp vốn.
Thứ tư, Luật Kinh tế quy định vấn đề cơ cấu tổ chức quản lý (quản trị nội bộ) của chủ
thể kinh doanh như doanh nghiệp, hợp tác xã.
Các quy định của Luật Kinh tế quy định “khung” cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ của từng
loại hình doanh nghiệp, phù hợp với tính chất một chủ hay nhiều chủ sở hữu, phù hợp
với quy mô thành viên của doanh nghiệp. Các quy định này cho phép nhận diện thống
nhất về bộ máy quản lý, thẩm quyền của mỗi chức danh quản lý trong doanh nghiệp, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi có giao dịch thương mại với nhau và thuận
tiện trong các quan hệ pháp luật khác. Trên cơ sở “khung” pháp luật về quản trị nội bộ
doanh nghiệp mà luật quy định, mỗi doanh nghiệp có thể chi tiết hóa thông qua Điều lệ
hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở không trái với quy định hiện hành.
Thứ năm, Luật Kinh tế quy định vấn đề tổ chức lại của chủ thể kinh doanh như doanh
nghiệp, hợp tác xã.
Hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi doanh nghiệp (gọi chung là tổ chức lại doanh
nghiệp) là các nhu cầu tất yếu của doanh nghiệp trước tác động của các yếu tố thị
trường. Tổ chức lại doanh nghiệp giúp thương nhân thực hiện các mục tiêu cạnh tranh
thông qua các hình thức tập trung kinh tế hoặc chuyển đổi sang mô hình kinh doanh phù
hợp khác. Tổ chức lại doanh nghiệp có thể cho phép hình thành doanh nghiệp mới và
chấm dứt doanh nghiệp cũ chỉ về phương diện pháp lý mà không ảnh hưởng đến sự tồn
tại vật chất của doanh nghiệp. Điều này tiết kiệm chi phí giải thể doanh nghiệp cũ và
thành lập doanh nghiệp mới, song lại đặt ra những vấn đề phức tạp cần có luật điều
chỉnh về kế thừa quyền và nghĩa vụ pháp lý, về quyền của chủ sở hữu, về tổ chức, quản
lý doanh nghiệp mới, về thủ tục pháp lý...
Thứ sáu, Luật Kinh tế quy định điều kiện, thủ tục rút khỏi thị trường của chủ thể kinh
doanh như doanh nghiệp (bao gồm thủ tục giải thể và phá sản doanh nghiệp).
Việc chấm dứt hoạt động và rút khỏi thị trường của doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp
phải giải quyết các quyền và nghĩa vụ đã tạo lập trong quá trình hoạt động. Lý do chấm
dứt hoạt động và khả năng tài chính ở thời điểm chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp
rất khác nhau, có thể thanh toán hết các khoản nợ hoặc không đủ khả năng thực hiện
việc này. Pháp luật đã quy định điều kiện và thủ tục giải thể để doanh nghiệp rút khỏi thị
trường khi chưa mất khả năng thanh toán và quy định điều kiện, thủ tục phá sản cho
những doanh nghiệp mất khả năng thanh toán rút khỏi thị trường. Các quy định pháp
luật về giải thể, phá sản là cơ ở pháp lý để doanh nghiệp thanh lý tài sản, thanh toán nợ
và rút khỏi thị trường một cách hợp pháp.
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
12
Thứ bảy, Luật Kinh tế quy định về các hoạt động thương mại, đầu tư và hợp đồng trong
thương mại và đầu tư (gọi chung là hợp đồng kinh tế).
Kinh doanh là hoạt động thuộc chức năng chính của các chủ thể kinh doanh, nằm trong
khuôn khổ lý do thành lập và mục tiêu lợi nhuận của họ. Hoạt động kinh doanh diễn ra
thông qua các hoạt động đầu tư, góp vốn, các hoạt động thương mại cụ thể như mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ... thông qua các quan hệ hợp đồng, có tự do thỏa thuận và
thống nhất ý chí và một số giao dịch khác nhau như tự tổ chức khuyến mại, quảng cáo,
tổ chức đấu thầu... Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động thương mại được thực hiện
trong khuôn khổ quyền tự do hợp đồng, tự do hoạt động thương mại. Xét ở tầm ảnh
hưởng, hoạt động thương mại không chỉ liên quan đến lợi ích của doanh nghiệp, đối tác
của doanh nghiệp mà còn có những ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng, của tổ
chức, cá nhân khác, đến sự phát triển hàng hóa, dịch vụ và sự phát triển kinh tế - xã hội
nói chung. Đây là lý do pháp luật cần quy định cơ sở pháp lý cần thiết cho doanh nghiệp
tiến hành hoạt động thương mại cụ thể.
Thứ tám, Luật Kinh tế điều chỉnh hành vi cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Tự do kinh doanh và tự do khế ước cùng với sự giục giã của quy luật giá trị và bản tính
của con người dẫn đến các hoạt động cạnh tranh tự phát có thiên hướng thái quá, cực
đoan, nhằm gây rối, ngăn cản, hạn chế hoặc thủ tiêu cạnh tranh của các đối thủ... hủy
hoại động lực phát triển kinh tế. Đây là lý do cần có sự can thiệp của nhà nước vào hoạt
động cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh. Pháp luật Cạnh tranh là một trong các công
cụ điều tiết cạnh tranh của nhà nước, thông qua việc quy định về kiểm soát hành vi hạn
chế cạnh tranh (hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền, tập trung kinh tế), pháp luật chống hành vi cạnh tranh không
lành mạnh và quy định về tố tụng cạnh tranh, thủ tục miễn trừ và xử lý vi phạm pháp
luật cạnh tranh.
Thứ chín, Luật Kinh tế quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thương mại, đầu tư của tổ chức, cá nhân kinh doanh
Tranh chấp kinh tế bao gồm các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại của
doanh nghiệp, bao gồm cả tranh chấp trong quan hệ đầu tư, mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ... Thông qua các văn bản pháp luật cụ thể, Luật Kinh tế là cơ sở pháp lý để
xác định:
• Quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong giải quyết tranh chấp kinh tế phát sinh
giữa họ với nhau hoặc với chủ thể khác có liên quan;
• Nghĩa vụ và hành vi vi phạm hợp đồng của các bên có tranh chấp trong hoạt động
kinh tế;
• Trách nhiệm pháp lý của bên có hành vi vi phạm trong hoạt động kinh tế, biểu hiện ở
việc thực hiện các chế tài hợp đồng như phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng, hủy hợp đồng...
• Cách thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh tế thông qua tự thương
lượng, hòa giải, trọng tài thương mại, tòa án.
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
13
1.3. Nguồn của pháp luật kinh tế
Nguồn của pháp luật là tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ
sở để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng giải quyết các vụ
việc pháp lý trong thực tế.1
Tiếp cận với ý nghĩa nguồn hình thức của pháp luật, nguồn của Luật Kinh tế bao gồm
những phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật hay là nơi chứa đựng, nơi cung
cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào
đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế liên quan đến việc xác định quy
chế thương nhân, điều chỉnh hoạt động kinh tế của các thương nhân, điều chỉnh hoạt
động thương mại của thương nhân và giải quyết tranh chấp thương mại giữa họ. Nguồn
chủ yếu của Luật Kinh tế bao gồm: Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật, tập
quán thương mại và án lệ.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, là nguồn của nhiều ngành luật và chứa đựng
nhiều quy định mang tính nguyên tắc của nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, quy định
về chế độ kinh tế, chế độ văn hóa, khoa học, công nghệ, an ninh quốc phòng, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh... làm nền tảng thực
hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh. Với tính chất là nguồn quan trọng của Luật Kinh
tế, Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định chế độ kinh tế, quy dịnh quyền công dân trong lĩnh
vực kinh tế, theo đó: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm”. Đây là quy định mang tính nền tảng, là cơ sở quan trọng để cụ
thể hóa quyền tự do kinh doanh trong các văn bản pháp luật kinh tế hiện hành.
1.3.1. Văn bản quy phạm pháp luật
Các văn bản quy phạm pháp luật là các văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật do Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền khác ban
hành. Nguồn của Luật Kinh tế bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các
quy phạm pháp luật xác định địa vị pháp lý cho thương nhân, điều chỉnh các hoạt động
kinh tế của thương nhân và giải quyết tranh chấp kinh tế giữa họ. Các văn bản quy phạm
pháp luật là nguồn chủ yếu của Luật Kinh tế gồm có:
• Luật Doanh nghiệp quy định về các loại hình doanh nghiệp, thành lập, tổ chức hoạt
động, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp; quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp và chủ
sở hữu của doanh nghiệp...
• Luật Đầu tư quy định về các hình thức và thủ tục đầu tư, ngành nghề cấm đầu tư kinh
doanh và ngành nghề kinh doanh có điều kiện, biện pháp đảm bảo, ưu đãi và hỗ trợ
đầu tư...
• Luật Phá sản quy định điều kiện và thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, thủ tục
phục hồi và thanh toán nợ trong điều kiện doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn;
• Luật thương mại điều chỉnh các hoạt động thương mại của thương nhân và các hình
thức trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với các hành vi vi phạm pháp luật về hợp đồng
thương mại;
1 TS. Nguyễn Thị Hồi, Về khái niệm nguồn của pháp luật, Tạp chí Luật học, số 2/2008, tr. 29, 30.
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
14
• Luật Trọng tài thương mại quy định thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài;
• Bộ luật Tố tụng dân sự quy định thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại, dân sự
bằng Tòa án;
• Bộ luật Dân sự quy định chủ thẻ của các quan hệ dân sự, quy định về sở hữu, về
nghĩa vụ và hợp đồng... làm nền tảng cho các hoạt động thương mại;
• Các pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư, nghị quyết của Hội đồng
Thẩm phán...
1.3.2. Tập quán thương mại
Dưới góc độ pháp lý, tập quán là “thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong
sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm
theo như một quy ước chung của cộng đồng”.2
Tập quán thương mại có thể được hiểu là những quy tắc xử sự hoặc thói quen hình thành
từ xa xưa, được thừa nhận một cách rộng rãi trên một vùng lãnh thổ hoặc một lĩnh vực
thương mại.
Có quan điểm tương tự, cho rằng Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng
rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có
nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hoạt động thương mại. Tập quán thương mại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc giải thích và bổ sung các nghĩa vụ hợp đồng.
Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam đã công nhận tập quán là một nguồn phụ trợ của
pháp luật, song khó xác định được điều này có ý nghĩa trong thực tiễn xét xử đến mức
nào, vì các bản án và lập luận của tòa án Việt Nam cho đến nay chưa được thống kê và
công bố rộng rãi. Khác với tập quán thương mại trong nước, tập quán thương mại quốc
tế, được hình thành dần dần trong lịch sử phát triển của các quan hệ thương mại, đã có ý
nghĩa thực tiễn hơn nhiều. Để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, tập quán thương mại có
vai trò quan trọng. Điều 5 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp các bên không có
thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp
dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự”.
Luật Việt Nam cho phép các bên trong hợp đồng thương mại quốc tế được thỏa thuận áp
dụng tập quán thương mại quốc tế, nếu tập quán thương mại đó không trái với pháp luật
Việt Nam.
1.3.3. Án lệ
Án lệ là là loại nguồn rất quan trọng của pháp luật các nước thuộc hệ thống thông luật.
Ở Việt Nam, án lệ mới được chính thức công nhận. Khoản 2 Điều 6 Bộ luật Dân sự năm
2015 quy định trong trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng. Bên cạnh đó, theo Điều 1
Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
2 Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, 2012, Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP, Điều 3 khoản 2 điểm g
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
15
dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ, án lệ là những lập luận,
phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc
cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là
án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.
Hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao được đúc kết từ kinh nghiệm xét xử, phần nào
cũng có giá trị tham khảo đối với các tòa án trong quá trình xét xử và theo một nghĩa
như vậy cũng có “hiệu lực” trong một phạm vi nhất định. Nếu công nhận tòa án độc lập
phán xử các tranh chấp kinh tế, cần xem xét khả năng cho phép các thẩm phán quyền
năng sáng tạo, vận dụng, bình luận và giải thích pháp luật thích ứng với các tình huống
cụ thể. Chức năng giải thích pháp luật cần được nghiên cứu và từng bước trao lại cho tòa
án, bởi lẽ chỉ có cơ quan tư pháp mới có quyền phán xử về tính vi pháp hoặc vi hiến của
một hành vi.
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
16
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
• Luật Kinh tế là một ngành luật, gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế và sản xuất kinh
doanh giữa cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế với các tổ chức kinh tế hoặc giữa các tổ
chức kinh tế với nhau hay nói cách khác luật kinh tế gồm những quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh.
• Chủ thể của luật kinh tế là những cá nhân, tổ chức, theo quy định của pháp luật, tham gia vào
các quan hệ pháp luật kinh tế, tham gia trong quá trình kinh doanh.
• Chủ thể của luật kinh tế gồm có: Doanh nghiệp và các chủ thể khác có quan hệ pháp lý với
doanh nghiệp trong quá trình thành lập, hoạt động kinh doanh và giải quyết tranh chấp trong
hoạt động kinh doanh (gồm cơ quan đăng ký kinh doanh; cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực chuyên ngành; tổ chức, cá nhân thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp kinh tế;
tổ chức, cá nhân không có đăng ký kinh doanh với tư cách là nhà đầu tư hoặc khách hàng của
doanh nghiệp.
• Khách thể của Luật Kinh tế là các hành vi thương mại của thương nhân, chủ yếu gồm các
hoạt động mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ.
• Nguồn của Luật Kinh tế bao gồm những phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật hay
là nơi chứa đựng, nơi cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể
có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế liên quan
đến việc xác định quy chế thương nhân, điều chỉnh hoạt động kinh tế của các thương nhân,
điều chỉnh hoạt động thương mại của thương nhân và giải quyết tranh chấp thương mại
giữa họ.
• Nguồn chủ yếu của Luật Kinh tế bao gồm: Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật, tập
quán thương mại và án lệ.
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
17
BÀI TẬP THỰC HÀNH
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nêu khái niệm Luật Kinh tế?
2. Trình bày về các chủ thể của Luật Kinh tế?
3. Trình bày các nội dung cơ bản của Luật Kinh tế?
4. Trình bày các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của Luật Kinh tế?
5. Nêu các nguồn của Luật Kinh tế?
CÂU HỎI ĐÚNG/SAI
1. Luật Kinh tế ra đời theo ý chí chủ quan của Nhà nước.
2. Nhà đầu tư không có quyền tự do lựa chọn hình thức thành lập doanh nghiệp.
3. Thương nhân chỉ là những người thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ
trên thị trường.
4. Tập quán thương mại luôn được ưu tiên áp dụng trong quan hệ giữa các thương nhân.
5. Cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chuyên ngành được coi là chủ thể có quan hệ pháp
lý với thương nhân trong quan hệ pháp luật kinh tế.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Đâu KHÔNG là đặc điểm của hành vi thương mại?
A. Hoạt động mang tính nghề nghiệp.
B. Được diễn ra trên thị trường.
C. Có mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
D. Chỉ bao gồm hoạt động mua bán hàng hóa.
2. Thương nhân nước ngoài là thương nhân:
A. được thành lập, đăng ký theo quy định của pháp luật nước ngoài.
B. đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam.
C. được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài công nhận.
D. đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước thứ ba.
3. Nội dung chính của quyền tự do kinh doanh KHÔNG bao gồm:
A. quyền được bảo đảm sở hữu đối với tài sản.
B. quyền tự do thành lập doanh nghiệp, tự do hợp đồng, tự do cạnh tranh lành mạnh.
C. quyền tự định đoạt trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp.
D. quyền tự do lựa chọn ngành nghề, sản phẩm kinh doanh.
4. Nguồn của pháp luật kinh tế gồm:
A. văn bản luật.
B. văn bản luật, văn bản quy phạm pháp luật và tập quán thương mại.
C. tiền lệ án trong lĩnh vực kinh tế.
D. văn bản pháp quy.
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
18
5. Tập quán thương mại được áp dụng khi nào?
A. Không có các quy định của pháp luật điều chỉnh lĩnh vực đó.
B. Có quy định của pháp luật điều chỉnh nhưng các bên thoả thuận áp dụng tập quán.
C. Không ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước và cá nhân khác.
D. Không có quy định điều chỉnh, các bên không có thỏa thuận và không trái với pháp luật
và đạo đức xã hội.
6. Chủ thể nào dưới đây KHÔNG phải là chủ thể kinh doanh?
A. Người bán hàng rong.
B. Doanh nghiệp.
C. Người góp vốn vào doanh nghiệp.
D. Nhân viên bán hàng của doanh nghiệp.
7. Đâu KHÔNG thuộc nội dung của pháp luật kinh tế theo nghĩa hẹp?
A. Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh.
B. Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh.
C. Pháp luật về phá sản và giải thể doanh nghiệp.
D. Pháp luật về sử dụng lao động trong doanh nghiệp.
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Bài tập 1
Bệnh viện Nhi Trung ương ký hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa với Công ty Xuất nhập
khẩu Hà Thành để mua một số thiết bị y tế.
Hỏi:
1. Quan hệ giữa Bệnh viện Nhi Trung ương và Công ty Xuất nhập khẩu Hà Thành là quan hệ gì?
2. Bệnh viện Nhi Trung ương và Công ty Xuất nhập khẩu Hà Thành được gọi là gì?
3. Pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa Bệnh viện Nhi Trung ương và Công ty Xuất nhập khẩu
Hà Thành là pháp luật trong lĩnh vực nào?
Bài tập 2
Công ty TNHH Thắng Lợi chuyên kinh doanh mặt hàng rượu nhập khẩu, thuê nhà của ông A
làm cửa hàng kinh doanh và có phát sinh tranh chấp trong quá trinh kinh doanh. Trọng tài
viên có thẩm quyền giải quyết tranh do các bên lựa chọn có được coi là chủ thể của Luật
Kinh tế không? Vì sao?
Bài tập 3
Để giải quyết tranh chấp giữa thương nhân A và khách hàng trong hoạt động cung ứng dịch
vụ, pháp luật để giải quyết tranh chấp chỉ là Luật Kinh tế có đúng không? Vì sao?
Bài tập 4
Các ông, bà X, Y, Z, W cùng nhau thành lập doanh nghiệp để thực hiện hoạt động kinh
doanh gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam theo quy định pháp luật Việt Nam
với trụ sở chính ở thành phố Hồ Chí Minh.
Hỏi:
1. Các ông bà X, Y, Z, W được gọi là gì?
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
19
2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thành lập doanh nghiệp trong tình huống là pháp luật trong
lĩnh vực nào?
3. Vấn đề quản trị nội bộ của loại hình doanh nghiệp mà các ông bà X, Y, Z, W dự định thành lập
để thực hiện hoạt động kinh doanh có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Kinh tế không?
Bài tập 5
Trong các nguồn sau, đâu là nguồn của Luật Kinh tế và đâu không phải là nguồn của Luật
Kinh tế:
1. Hiến pháp;
2. Văn bản quy phạm pháp luật;
3. Điều ước quốc tế;
4. Tập quán thương mại;
5. Án lệ;
6. Đạo đức xã hội;
7. Lời dạy của thương nhân có nhiều kinh nghiệm hơn;
8. Mong ước của thương nhân.
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
20
ĐÁP ÁN
CÂU HỎI ĐÚNG/SAI
1. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: pháp luật thương mại ra đời do sự hình thành, phát triển của nền sản xuất hàng hóa và sự
xuất hiện của tầng lớp thương nhân.
2. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Nhà đầu tư có quyền tự do thành lập doanh nghiệp để đầu tư kinh doanh trong những
ngành, nghề pháp luật không cấm.
3. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: thương nhân là chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh, bao gồm cả các nhà đầu tư.
4. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: tập quán thương mại chỉ được áp dụng nếu không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp
luật quốc gia và các điều ước quốc tế.
5. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chuyên ngành được coi là một trong những chủ
thể có quan hệ pháp lý với thương nhân trong quan hệ pháp luật kinh tế.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Đáp án đúng là: D. Chỉ bao gồm hoạt động mua bán hàng hóa.
Vì: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Phạm vi kinh doanh rộng hay hẹp không là đặc điểm của hành vi kinh doanh.
2. Đáp án đúng là: A. được thành lập, đăng ký theo quy định của pháp luật nước ngoài.
Vì: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 16 Luật Thương mại 2005. Thương nhân nước ngoài là
thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài
hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận.
3. Đáp án đúng là: D.quyền tự do lựa chọn ngành nghề, sản phẩm kinh doanh.
Vì: Quyền tự do kinh doanh là hệ thống các quyền gắn với chủ thể kinh doanh bao gồm:
• Quyền được bảo đảm sở hữu đối với tài sản;
• Quyền tự do thành lập doanh nghiệp;
• Quyền tự do hợp đồng;
• Quyền tự do cạnh tranh lành mạnh;
• Quyền tự định đoạt trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp.
Việc lựa chọn ngành nghề, sản phẩm kinh doanh phải phù hợp với quy định của pháp luật, có
một số ngành nghề, sản phẩm nhà nước cấm kinh doanh hoặc hạn chế về chủ thể kinh doanh.
4. Đáp án đúng là: B. văn bản quy phạm pháp luật và tập quán thương mại.
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
21
Vì: Nguồn của pháp luật kinh tế không chỉ gồm văn bản luật mà còn bao gồm văn bản dưới luật
(gọi chung là văn bản quy phạm pháp luật) và tập quán thương mại.
Tiền lệ án và văn bản pháp quy không phải nguồn của pháp luật Việt Nam.
5. Đáp án đúng là: D. Không có quy định điều chỉnh, các bên không có thỏa thuận và không trái
với pháp luật và đạo đức xã hội.
Vì: Pháp luật Việt Nam quy định áp dụng tập quán thương mại trong trường hợp pháp luật
không có quy định điều chỉnh, các bên không có thỏa thuận và không trái với pháp luật và
đạo đức xã hội.
6. Đáp án đúng là: D. Nhân viên bán hàng của doanh nghiệp.
Vì: Chủ thể kinh doanh là cá nhân hoặc tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh (hoạt động
tìm kiếm lợi nhuận) trên thực tế. Cả ba chủ thể thuộc phương án “Người bán rau”, “Doanh
nghiệp” và “Người góp vốn vào doanh nghiệp” đều có mục đích lợi nhuận khi tiến hành hoạt
động của mình nên họ đều là chủ thể kinh doanh.
Nhân viên bán hàng của doanh nghiệp chỉ là một người lao động trong doanh nghiệp, được
trả lương, làm việc theo sự phân công của doanh nghiệp, không tự mình kinh doanh và mang
lại lợi nhuận cho bản thân.
7. Đáp án đúng là: D. Pháp luật về sử dụng lao động trong doanh nghiệp.
Vì: Theo nghĩa hẹp: Pháp luật kinh tế điều chỉnh các quan hệ phát sinh trên cơ sở trực tiếp
thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh nhằm mục đích tìm
kiếm lợi nhuận.
Việc sử dụng lao động trong doanh nghiệp được điều chỉnh bởi pháp luật lao động.
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Bài tập 1
1. Quan hệ giữa Bệnh viện Nhi Trung ương và Công ty Xuất nhập khẩu Hà Thành là quan hệ
kinh tế vì Bệnh viện Nhi Trung ương và Công ty Xuất nhập khẩu Hà Thành đều là thương
nhân theo quy định pháp luật Việt Nam.
2. Bệnh viện Nhi Trung ương và Công ty Xuất nhập khẩu Hà Thành được gọi là
thương nhân.
3. Pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa Bệnh viện Nhi Trung ương và Công ty Xuất nhập khẩu
Hà Thành là pháp luật kinh tế.
Bài tập 2
Trọng tài viên có thẩm quyền giải quyết tranh do các bên lựa chọn được coi là chủ thể của
Luật Kinh tế vì chủ thể của pháp luật kinh tế bao gồm các cá nhân thực hiện chức năng giải
quyết tranh chấp thương mại của thương nhân.
Bài tập 3
Để giải quyết tranh chấp giữa thương nhân A và khách hàng trong hoạt động cung ứng dịch
vụ, pháp luật để giải quyết tranh chấp chỉ là Luật Kinh tế là sai vì Luật Kinh tế không phải là
cơ sở pháp lý giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị
trường. Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải tìm kiếm đến các quy định khác trong Luật
Tài chính, Luật Ngân hàng, Luật Đất đai, Luật Lao động, Luật Môi trường...
Bài 1: Tổng quan về Luật Kinh tế
LAW201_Bai1_v2.0018105230
22
Bài tập 4
1. Các ông/bà X, Y, Z, W được gọi thương nhân vì đều là chủ thể đầu tư, góp vốn để thành
lập doanh nghiệp.
2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thành lập doanh nghiệp trong tình huống là pháp luật trong
lĩnh vực kinh tế.
3. Vấn đề quản trị nội bộ của loại hình doanh nghiệp mà các ông bà X, Y, Z, W dự định
thành lập để thực hiện hoạt động kinh doanh có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Kinh tế vì
đây là một trong những nội dung cơ bản của Luật Kinh tế.
Bài tập 5
Nguồn của Luật Kinh tế Không phải nguồn của Luật Kinh tế
Hiến pháp;
Văn bản quy phạm pháp luật;
Điều ước quốc tế;
Tập quán thương mại;
Án lệ.
Đạo đức xã hội;
Lời dạy của thương nhân có nhiều kinh
nghiệm hơn;
Mong ước của thương nhân.