bẢn tin - ria1.org · giống gốc quốc gia và cần được nghiệm thu con giống sau...
TRANSCRIPT
Địa chỉ: Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh
Điện thoại: +84 3 827 3069; Fax: +84 3 827 3070
Email: [email protected] ; website: www.ria1.org
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về thăm và làm việc với
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Bầu Hội đồng khoa học Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Nghiên cứu sản xuất tôm chân trắng bố mẹ sạch bệnh tại Việt Nam
Bệnh phân trắng ở tôm Sú Penaeus monodon nuôi và các giải pháp phòng bệnh
Nâng cao năng lực phát triển nuôi cá nước lạnh ở Việt Nam
Số 2
Quý II - 2011
BẢN TIN
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN I
2 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011)
Giấy phép xuất bản số:37/GP-XBBT ngày 25/4/2011 của Cục Báo chí – Bộ Thông tin và Truyền thông
Bản quyền thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Cấm sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Ban biên tập Trưởng ban
Phan Thị Vân
Phó Trưởng ban
Nguyễn Hữu Ninh
Ủy viên
Nguyễn Hữu Nghĩa Mai Văn Tài Nguyễn Thị Thu Hiền Nguyễn Thị Diệu Phương Vũ Thị Ngọc Liên Hoàng Nhật Sơn Trần Thị Kim Chi Trần Anh Tuấn Chu Chí Thiết
Thư ký
Hoàng Thu Thủy
Trang bìa: Trung tâm Quốc gia giống hải sản miền Bắc (Xuân Đám - Cát Bà - Hải Phòng)
Ảnh: Cao Trường Giang
Trong số này
Thư ngỏ 4
Tin tức 5
Sinh sản nhân tạo thành công cá Hồi vân Onchorhynchus mykiss tại Sapa - Lào Cai 9
Bảo tồn và phát triển các loài cá trong ao cá Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch 11
Nghiên cứu sản xuất tôm chân trắng bố mẹ sạch bệnh tại Việt Nam 12
Cá Còm Chitala ornata (Gray, 1831) - đối tượng nuôi mới có nhiều triển vọng ở miền Bắc 13
Bệnh phân trắng ở tôm Sú Penaeus monodon nuôi và các giải pháp phòng bệnh 14
Nghiên cứu kỹ thuật nuôi thương phẩm và thăm dò sinh sản cá Chạch bùn Misgurnus anguilicaudatus (Cantor, 1842) 16
Phát triển công nghệ nuôi nghêu trong ao tạo sinh kế cho cư dân ven biển Việt Nam 17
Nâng cao năng lực phát triển nuôi cá nước lạnh ở Việt Nam 19
Lễ bảo vệ luận văn thạc sỹ chuyên ngành Nuôi trồng Thủy sản khóa 18 20
Chuyên gia Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I làm việc ở Namibia 21
4 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011)
Thư ngỏ
Kính thưa quý độc giả,
Đối với nghề nuôi trồng thủy sản ở
miền Bắc, quý 2 hàng năm là khoảng
thời gian hết sức quan trọng, đây là
lúc người nuôi tích cực triển khai các
hoạt động sản xuất như sinh sản,
ương giống và thả giống nuôi thương phẩm. Cũng
trong quý 2 này, các đơn vị trực thuộc Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng Thủy sản I khẩn trương tiến hành các
nhiệm vụ khoa học công nghệ cũng như các hoạt
động hỗ trợ về kỹ thuật, con giống và quản lý môi
trường dịch bệnh cho người nuôi. Bên cạnh đó, các
nhà nghiên cứu của Viện I cũng tiến hành rà soát lại
kết quả thực hiện công việc của sáu tháng đầu năm
nhằm điều chỉnh công tác triển khai cho sáu tháng
cuối năm.
Cùng với việc thực hiện công tác của năm 2011, một
số nhiệm vụ đã kết thúc vào năm 2010 cũng đã
được nghiệm thu thành công và các nhà nghiên cứu
cũng đang tập trung chuẩn bị đề cương và tham gia
đấu thầu các nhiệm vụ khoa học công nghệ cho năm
2012. Trong lĩnh vực khác, 19 học viên thuộc lớp
cao học nuôi trồng thủy sản khóa 18 liên kết với
trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tốt nghiệp
với 100% sinh viên bảo vệ luận văn tốt nghiệp đạt
loại khá và giỏi.
Bản tin này sẽ giúp quý độc giả hiểu thêm về các
hoạt động của Viện trong quý 2 vừa qua. Thời tiết
không thuận lợi với nắng nóng và mùa mưa bão đã
đến, để thực hiện thành công các công việc được
giao, đòi hỏi nỗ lực lớn của mỗi cán bộ Viện. Nhưng
tôi tin chắc rằng, với trí tuệ tập thể và sự nỗ lực hết
mình, toàn thể cán bộ của Viện I sẽ hoàn thành tốt
nhiệm vụ 6 tháng cuối năm.
Chúc mọi điều tốt đẹp nhất.
Phan Thị Vân
Trưởng ban biên tập
Một góc của Viện I vào mùa phượng vĩ. Ảnh Mai Văn Tài
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011) 5
Tin tức
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Nguyễn Thị Xuân Thu về thăm
và làm việc với Viện I
Hoàng Thủy
Chiều ngày 20/5, Thứ trưởng Bộ NN & PTNT,
PGS.TS. Nguyễn Thị Xuân Thu đã đến thăm và làm
việc với Viện I tại trụ sở chính của Viện ở Bắc Ninh.
Mục đích chuyến làm việc của Thứ trưởng với Viện I
là trao đổi với Viện một số nội dung liên quan đến lĩnh
vực bảo tồn, lưu giữ nguồn gen và giống thủy sản
nước ngọt. Cùng đi với Thứ trưởng có TS. Nguyễn
Huy Điền - Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông
Quốc gia và đại diện Vụ Khoa học Công nghệ và Hợp
tác quốc tế (Tổng cục Thủy sản). Đại diện phía Viện I
có các Phó Viện trưởng, TS. Nguyễn Hữu Ninh và TS
Phan Thị Vân cùng các đồng chí Trưởng, Phó phòng
các đơn vị trực thuộc Viện tham dự.
Tại buổi làm việc, thay mặt Viện I, Phó Viện trưởng
Nguyễn Hữu Ninh đã tặng hoa, chúc sức khỏe Thứ
trưởng và trình bày báo cáo tóm tắt Chương trình
lưu giữ và phát triển nguồn gen, giống gốc, giống
thuần nước ngọt được thực hiện tại Viện. Mục tiêu
của chương trình này là phục vụ lâu dài cho nghiên
cứu khoa học và phát triển bền vững nghề nuôi thủy
sản, làm phong phú thêm nguồn gen thủy sản trong
tập đoàn cá nuôi và từng bước gia hóa một số giống
loài quý hiếm giá trị kinh tế cao có nguy cơ bị tuyệt
diệt, nhằm bảo vệ, duy trì và phát triển nguồn gen
của chúng.
Thứ trưởng chia sẻ, Chương trình đã thành công
bước đầu và thu được các kết quả đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, Viện cần có hướng phát triển bền vững.
Trong tình hình hiện nay, lĩnh vực nghiên cứu
phải xuất phát từ thực tiễn sản xuất, kinh doanh,
phải có khả năng áp dụng thực tế cao. Vấn đề cần
giải quyết trước mắt là Viện cần tìm hiểu nhu cầu con
giống của các địa phương, hàng năm cần thống kê
bao nhiêu đơn vị có nhu cầu thực sự cần nhận giống
gốc, giống thuần, tránh sự chuyển giao ồ ạt cho các
địa phương. Hơn nữa, Viện cần mở rộng nghiên cứu
các đối tượng nuôi thủy sản chịu lạnh ở miền Bắc, tìm
đối tượng nuôi phù hợp và đánh giá sự thích nghi của
chúng đối với vùng nuôi tại các tỉnh phía Bắc; cần xây
dựng chiến lược quỹ gen lâu dài, tiến hành đăng ký
giống gốc Quốc gia và cần được nghiệm thu con
giống sau khi kết thúc nghiên cứu. Bên cạnh đó các
vấn đề giám sát môi trường vùng nuôi tập trung;
nhiệm vụ quan trắc cảnh báo môi trường và phòng
ngừa dịch bệnh thủy sản; xây dựng tiêu chuẩn - quy
chuẩn cho những đối tượng mới, xây dựng định mức
khuyến ngư cũng được Thứ trưởng quan tâm đề cập
đến.
Kết thúc buổi họp Phó Viện trưởng Phan Thị Vân trân
trọng cảm ơn Thứ trưởng đã quan tâm tới tình hình
hoạt động của Viện, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên
cứu khoa học và rất mong Bộ NN & PTNT tạo điều
kiện hơn nữa để Viện có thể phát huy được năng lực
sở trường góp phần vào sự phát triển chung của đất
nước nói chung và của ngành nông nghiệp nói riêng.
Buổi làm việc của Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuân Thu với Lãnh đạo Viện I. Ảnh: Hoàng Thủy.
6 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011)
Tin tức
Kỷ niệm 52 năm ngày truyền thống Thủy
sản Việt Nam (01/4/1959 - 01/4/2011)
Hoàng Thủy
Nhân kỷ niệm 52 năm ngày truyền thống của ngành
Thủy sản, cán bộ viên chức lao động đã có nhiều
hoạt động thiết thực như đẩy mạnh công tác nghiên
cứu khoa học, tăng hiệu quả sản xuất nâng cao đời
sống người lao động và tổ chức các hoạt động giao
lưu thể thao, văn nghệ.
Đặc biệt chiều ngày 31 tháng 3 năm 2011, Viện I đã
long trọng tổ chức buổi họp mặt kỷ niệm 52 năm
ngày truyền thống thủy sản Việt Nam. Tới dự buổi lễ
có đại diện của các Phòng ban thuộc Công đoàn
Nông nghiệp & PTNT. Đại diện phía Viện I có các
đồng chí lãnh đạo Viện, Chánh Văn phòng, các
Trưởng, Phó phòng, Trung tâm, Chủ tịch Công đoàn
Viện, các Tổ trưởng Tổ Công đoàn, Ban nữ công và
Đoàn Thanh niên tới tham dự.
Tại buổi họp mặt, các đại biểu đã cùng nhau ôn lại
mốc sự kiện ngày 1/4/1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
về thăm cán bộ, chiến sỹ và ngư dân đảo Cát Bà,
Hải Phòng làm ngày truyền thống của ngành Thủy
sản. Trong nhiều năm qua ngành Thủy sản đã có
những đóng góp to lớn cho sự phát triển của nước
nhà xứng đáng là một ngành kinh tế quan trọng của
đất nước. Bên cạnh đó, ngành Thủy sản còn có vai
trò trọng yếu về quốc phòng, an ninh trên biển với sự
hiện diện của hàng triệu ngư dân nuôi trồng và khai
thác thủy sản cùng với các lực lượng vũ trang bảo
vệ chủ quyền lãnh hải của Tổ quốc.
Bầu Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản I nhiệm kỳ 2011-2016
Hoàng Thủy
Chiều ngày 06/4/2011 Viện I đã tiến hành họp bầu
Hội đồng khoa học nhiệm kỳ 2011-2016 dưới sự chủ
trì của ông Nguyễn Tiến Sỹ - Chánh Văn phòng
Viện. Thành phần tham dự cuộc họp bầu Hội đồng
khoa học Viện là toàn thể các cán bộ nghiên cứu
khoa học có trình độ từ thạc sỹ trở lên. Danh sách
đề cử gồm 27 người là những cán bộ khoa học có
trình độ Thạc sỹ, Tiến sỹ đại diện cho các lĩnh vực
nghiên cứu của Viện. Căn cứ vào kết quả bầu chọn
công khai theo hình thức bỏ phiếu kín, Viện đã bầu
chọn được 22 cán bộ khoa học là thành viên của Hội
đồng. Tiếp đó, 22 thành viên mới trong Hội đồng đã
đề cử ba nhà khoa học có số phiếu được bầu cao
nhất của vòng 1 để tiếp tục bầu lãnh đạo Hội đồng
khoa học. Kết quả bỏ phiếu kín vòng 2 đã lựa chọn
được Chủ tịch Hội đồng khoa học là TS. Phan Thị
Vân, giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng khoa học là TS.
Trần Đình Luân và TS. Nguyễn Hữu Ninh.
Cán bộ nghiên cứu Viện I thu cá thí nghiệm. Ảnh Trần Minh Hậu
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011) 5
Tin tức
Tiến sỹ Lê Thanh Lựu - Viện trưởng Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I thăm và
làm việc tại Châu Phi
Nguyễn Hữu Nghĩa
Sau khi diễn ra Lễ ký kết hợp tác nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ giữa Việt Nam với 2 nước
Cộng hòa Benin và Cộng hòa Nigeria, trong tháng
6/2011, Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc
gia đã tổ chức đoàn công tác để các nhà khoa học
Việt Nam đi khảo sát và chuyển giao một số công
nghệ trong nông nghiệp cho 2 nước Benin và
Nigeria. Viện trưởng Viện I, Tiến sỹ Lê Thanh Lựu
đã đại diện ngành Thủy sản tham gia cùng đoàn.
Đoàn đã thăm các điểm mô hình canh tác của Trung
tâm Nông nghiệp Songhai có cả ở hai nước Benin
và Nigeria. Songhai là một trung tâm đào tạo các học
viên là nông dân về công nghệ canh tác nông
nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Tại đây
phương pháp sản xuất của họ là canh tác hữu cơ,
không dùng hóa chất. Ở Nigeria, Songhai có
20,000ha tại Emungu và 600ha tại Riverstage.
Những học viên sau khi kết thúc khóa học nếu muốn
ở lại làm việc với Trung tâm sẽ được cấp đất để
canh tác và Songhai sẽ mua lại sản phẩm.
Nigeria và Benin đều muốn Việt Nam cung cấp
chuyên gia chuyển giao các kỹ thuật trồng lúa, nấm,
nuôi trồng thủy sản. Cơ hội hợp tác đầu tư cũng
được mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam muốn
đầu tư sang Benin hoặc Nigeria. Các nhà khoa học
Việt Nam cũng đã học được những kinh nghiệm tổ
chức khuyến nông bài bản và công nghệ canh tác
hữu cơ của nước bạn.
Viện I đã ký biên bản ghi nhớ với Songhai. Thời gian
tới Songhai sẽ cử người sang Viện học về kỹ thuật
nuôi trồng thủy sản. Viện cũng sẽ cử chuyên gia giúp
bạn trong lĩnh vực này. Sinh viên cao học hoặc
nghiên cứu sinh tiến sỹ có thể tham gia sang Benin
và Nigeria để làm nghiên cứu.
Hội nghị sinh viên và cán bộ trẻ nghiên
cứu khoa học toàn quốc ngành nuôi
trồng thủy sản năm 2011 (Nha Trang,
ngày 25 - 26/6/2011)
Mai Văn Tài
Nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu khoa học và
tạo cơ hội giao lưu học tập, trao đổi kinh nghiệm của
Nuôi cá lồng tại Parakou. Ảnh do Trung tâm Songhai cung cấp
Thu hoạch cá da trơn. Ảnh do Trung tâm Songhai cung cấp
8 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011)
Tin tức
sinh viên và cán bộ khoa học trẻ của các trường,
viện có đào tạo, nghiên cứu về nuôi trồng thủy sản,
Hội nghị sinh viên và cán bộ trẻ nghiên cứu khoa học
toàn quốc ngành NTTS năm 2011 đã được tổ chức
tại Đại học Nha Trang vào ngày 25 - 26/6. Hơn 250
sinh viên và cán bộ khoa học trẻ đến từ nhiều
trường, viện nghiên cứu trên cả nước đã tham gia
hội nghị. Có 36 báo cáo trình bày và 45 báo tường
(poster). Khách mời tham dự hội nghị có Phó Tổng
cục trưởng Tổng cục Thủy sản TS. Phạm Anh Tuấn
với báo cáo dẫn đề “Hiện trạng và xu hướng phát
triển Nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam và Thế giới”.
Hội nghị được chia thành 4 tiểu ban, gồm: 1) Nuôi
thương phẩm, thức ăn và dinh dưỡng; 2) Sản xuất
giống và di truyền; 3) Môi trường và bệnh thủy sản
và 4) Lĩnh vực khác. Trong chương trình hội nghị,
người tham gia được tham quan khu vực nuôi biển
trên Vịnh Nha Trang vào ngày 26/6.
Theo đánh giá chung của Ban tổ chức, nhiều báo
cáo khoa học trong hội nghị lần này đạt chất lượng
tốt. Có 6 giải nhất, 6 giải nhì, 4 giải ba và 4 giải
khuyến kích được trao cho các báo cáo viên ở 4 tiểu
ban và phần poster. Có 5 báo cáo và poster từ Viện I
gửi tham gia Hội nghị. Bài trình bày “Đánh giá chất
lượng trứng và ảnh hưởng của hàm lượng acid béo
thiết yếu trong thức ăn đến sinh sản của cá bố mẹ và
thành phần sinh hóa trứng cá Giò Rachycentron
canadum ” của TS. Nguyễn Quang Huy đến từ Phân
viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản Bắc Trung Bộ,
Viện I trong Tiểu ban Sản xuất giống và Di truyền đã
nhận được giải nhất.
Hội nghị đã thành công tốt đẹp. Ban tổ chức đã hội ý
với các đại diện đến từ các trường, tiện và quyết
định Đại học Nông Lâm Huế sẽ là đơn vị tổ thức hội
nghị tiếp theo vào năm 2012.
Tổ chức vui chơi cho con em cán bộ
nhân ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6
Đàm Mỹ Chinh
Nằm trong khuôn khổ những hoạt động hưởng ứng
tháng hành động vì trẻ em, ngày 1.6.2011 Đoàn
thanh niên phối hợp với Công đoàn Viện I đã tổ chức
cho các cháu thiếu nhi từ 2- 15 tuổi, là con em cán
bộ đang công tác tại Viện được vui chơi sau những
ngày học tập vất vả.
Ban tổ chức đã đưa các cháu thiếu nhi đi tham quan
Thiên Đường Bảo Sơn là khu du lịch nổi tiếng ở
ngoại thành Hà Nội. Tại đây các cháu được khám
phá thế giới Thủy cung, thăm vườn thú và xem phim
4D về lịch sử Ai Cập Cổ đại. Hoạt động vui chơi này
là cơ hội để 40 cháu thiếu nhi có dịp được giao lưu
với nhau và cùng với các anh chị đoàn viên thanh
niên của Viện. Buổi giao lưu đã tạo nên không khí
vui tươi, phấn khởi nhân ngày Tết của thiếu nhi.TS. Nguyễn Quang Huy trình bày báo cáo tại hội nghị. Ảnh do anh Nguyễn Quang Huy cung cấp
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011) 9
Khoa học và Công nghệ
Sinh sản nhân tạo thành công cá Hồi vân
Onchorhynchus mykiss tại Sapa - Lào Cai
Nguyễn Thị Hoa
Sau 3 năm nghiên cứu quy trình kỹ thuật nuôi vỗ
thành thục và kích thích sinh sản nhân tạo cá Hồi
vân Onchorhynchus mykiss tại Viện I, đề tài đã thu
được những kết quả ban đầu. Nhằm có những thông
tin cơ bản phục vụ cho xây dựng quy trình công
nghệ và kế hoạch sản xuất giống, đề tài đã tập trung
vào các nội dung nghiên cứu như mùa vụ sinh sản,
sức sinh sản, quá trình phát triển tuyến sinh dục và
phôi trong điều kiện môi trường, khí hậu tại Sapa-
Lào Cai. Đề tài đã xây dựng và lựa chọn công thức
thức ăn phù hợp với điều kiện trong nước đảm bảo
cá thành thục sinh dục và sinh sản đạt yêu cầu kỹ
thuật; đưa ra được điều kiện nuôi vỗ phù hợp với
thực tế nguồn nước cấp và điều kiện môi trường, khí
hậu miền núi phía Bắc; đã đưa ra được một số kích
dục tố sinh sản để kích thích sinh sản. Đề tài đã
nghiên cứu một số bệnh thường gặp và thử nghiệm
biện pháp trị một số bệnh phổ biến; nghiên cứu ảnh
hưởng của nhiệt độ đến phát triển của phôi trong
quá trình ấp trứng cá. Tiếp đến đề tài nghiên cứu
khả năng sử dụng thức ăn trong nước để chủ động
ương cá Hồi vân góp phần hoàn thiện quy trình sinh
sản nhân tạo.
Kết quả nghiên cứu cho thấy cá Hồi vân nuôi ở nước
ta cho hệ số thành thục cao nhất 17,3-18,6% vào
tháng 12, noãn bào phát triển đến giai đoạn IV từ
tháng 10 đến tháng 12. Mùa vụ sinh sản chính được
dự báo vào tháng 12 và tháng 1 hàng năm. Qua kết
quả theo dõi sự phát triển của noãn bào và hệ số
thành thục (GSI %) cho thấy, cá bố mẹ nên được bắt
đầu nuôi vỗ từ tháng 7 hàng năm. Quá trình nuôi vỗ
được chia thành 2 giai đoạn, nuôi vỗ tích cực (tháng
7 đến tháng 9) và nuôi vỗ thành thục (tháng 10 đến
11 hoặc tháng 12). Nhiệt độ phù hợp cho giai đoạn
sinh sản và ấp trứng từ 10-12oC, khi nhiệt độ tăng
cao vào đầu xuân trứng thoái hóa rất nhanh. Sức
sinh sản tuyệt đối đạt cao trên 5.300 trứng/cá cái,
sức sinh sản tương đối đạt khoảng 3.300 trứng/kg
cá cái. Sức sinh sản thực tế của cá Hồi nuôi trong
điều kiện tại Sapa đạt khoảng 1.700 đến 2.200
trứng/kg cá cái. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ số
thành thục, sức sinh sản của cá nuôi trong nghiên
cứu này tương đương với một số công bố khác trên
thế giới. Qua đó cho thấy cá Hồi vân hoàn toàn có
thể khép kín vòng đời trong điều kiện môi trường tự
nhiên tại Sapa. Theo dõi hệ số thành thục với các
hình thức nuôi vỗ khác nhau cho thấy sử dụng bể
nuôi cá bố mẹ ngoài trời có nước chảy sẽ cho kết
quả sinh sản cao hơn so với bể trong nhà hay ao
đất.
Kết quả thử nghiệm 3 công thức thức ăn sản xuất
trong nước năm thứ nhất, lặp lại và bổ sung với 2
công thức, năm thứ 2 đàn cá bố mẹ được nuôi vỗ
thành thục với 5 công thức thức ăn sản xuất trong
nước. Công thức đối chứng là thức ăn nuôi cá Hồi
Thu trứng và sẹ thụ tinh nhân tạo cá hồi vân tại Sapa. Ảnh: Chu Quang Kiệm
10 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011)
Khoa học và Công nghệ
thương phẩm nhập từ Phần Lan. Kết quả cho thấy ở
năm thứ nhất công thức CT3 (41,5% protein và
15,0% lipid) cho kết quả sinh sản cao hơn so với các
công thức khác về hệ số thành thục và sức sinh sản
thực tế. Tỷ lệ đẻ đạt 75%, tỷ lệ thụ tinh trên 84% và
tỷ lệ nở trên 60%. Kết quả đạt cao hơn so với cá sử
dụng thức ăn nuôi thương phẩm nhập ngoại. Tương
tự công thức CT4 (45% protein và 16% lipid) ở năm
thứ hai cho kết quả về tỷ lệ đẻ trên 91%, tỷ lệ thụ
tinh đạt 85%, tỷ lệ nở đạt 74,3% cao hơn so với 4
công thức thức ăn sản xuất trong nước còn lại.Từ
kết quả nghiên cứu cho thấy, cá bố mẹ có thể nuôi
vỗ thành thục với thức ăn từ 40-45% protein và 15-
16% lipid, cho kết quả sinh sản đáp ứng được yêu
cầu thực tế sản xuất ở khu vực Sapa.
Kết quả sử dụng kích dục tố cho thấy có thể sử dụng
HCG với liều 3000 UI/kg cá cái hay kết hợp giữa não
thùy cá Chép (2 mg) và HCG (500 UI) hay LRHa
(30µg + 10 mg DOM) cho 1 kg cá cái đều cho hiệu
quả kích thích sinh sản tốt. Thời gian hiệu ứng thuốc
ngắn, tỷ lệ đẻ đều đạt 100%, tỷ lệ thụ tinh đạt trên
80% và tỷ lệ nở đạt khoảng 65%. Trong trường hợp
không sử dụng kích dục tố mà chỉ tạo dòng chảy
mạnh trong bể phải mất từ 24 đến 48 giờ thì việc
sinh sản mới hoàn tất, tuy nhiên các thông số sinh
sản đều đạt thấp. Do đó sử dụng kích dục tố cho
sinh sản sẽ góp phần rút ngắn được thời gian và
nguồn nước cấp thiếu do mùa vụ sinh sản thường là
cao điểm mùa khô ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Để
phù hợp với thực tế sản xuất, hạ giá thành và dễ tìm
kiếm thì HCG (3000 UI) và LRHa (30µg + 10 mg
DOM) nên được lựa chọn để kích thích sinh sản
nhân tạo cá Hồi vân ở nước ta.
Cá Hồi vân trừ giai đoạn cá bột, các giai đoạn khác
đều nhiễm các bệnh ký sinh trùng, vi khuẩn và nấm
với các cường độ nhiễm khác nhau. Giai đoạn cá
giống là thời điểm có cường độ nhiễm cũng như số
loài ký sinh nhiều hơn so với các giai đoạn khác.
Thử nghiệm ban đầu cho thấy đối với tác nhân là vi
khuẩn có thể sử dụng hai loại kháng sinh
Enrofloxacine và Oxytetracycline cho hiệu quả trị
bệnh tốt. Đối với bệnh là ký sinh trùng có thể kết hợp
tắm bằng Formaline với liều 200 ppm (ở nhiệt độ 16-
17oC) trong vòng 20-30 phút/lần/ngày, trong 3 ngày
đầu. Sau đó kết hợp với tắm bằng muối ăn (NaCl)
với lượng 3-4 kg/m3 nước từ ngày thứ 4, sau đó
cách 3 ngày tắm cho cá 1 lần cho đến khi kiểm tra
không thấy xuất hiện ký sinh trùng thì dừng lại. Do
thời gian nghiên cứu này thực hiện trong năm 2008
và 2009, trước khi hai loại kháng sinh này nằm trong
danh sách hạn chế sử dụng theo thông tư
15/2009/TT-BNN, trong thời gian tới cần có những
nghiên cứu mở rộng với các kháng sinh có khả năng
thay thế khác.
Duy trì nhiệt độ môi trường ấp trứng cá 10-12oC sẽ
cho tỷ lệ dị hình thấp nhất, thời gian ấp trứng trong
vòng 4 tuần. Trong trường hợp mua thức ăn cho
ương cá bột mới nở gặp khó khăn có thể sử dụng
thức ăn cỡ nhỏ của tôm sú (trên 43% protein) sau đó
về phun dầu mực bổ sung có thể ương cá bột lên cá
hương cho kết quả khả quan. Giai đoạn ương cá
hương lên cá giống có thể sản xuất thức ăn tại chỗ
với hàm lượng protein gần 50% và 6% lipid cho kết
quả gần bằng thức ăn nhập ngoại, trong khi đó giá
thành thấp hơn rất nhiều. Thức ăn này cần được tiếp
tục nghiên cứu bổ sung thêm hàm lượng lipid sẽ cho
kết quả ngang với thức ăn nhập ngoại.
Từ các kết quả trên, dự thảo quy trình kỹ thuật nuôi
vỗ thành thục và kích thích sinh sản đã được hoàn
thành. Qua đây cho thấy cá Hồi vân có thể hoàn
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011) 11
Khoa học và Công nghệ
toàn khép kín vòng đời trong điều kiện môi trường
nuôi tại Sapa, Lào Cai. Thành công trong sinh sản
nhân tạo cá Hồi vân ở nước ta sẽ có ý nghĩa quan
trọng đối với việc hạn chế nhập khẩu và xây dựng kế
hoạch phát triển trong nước.
Bảo tồn và phát triển các loài cá trong ao
cá Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch
Phạm Đức Lương
Ao cá Bác Hồ là một di tích sống động trong quần
thể Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch và
là di tích đặc biệt của quốc gia. Với diện tích ao cá là
3320 m2, độ sâu trung bình 2,36 m, tại đây hiện lưu
giữ 12 loài cá có nguồn gốc từ các loài cá từ khi sinh
thời Bác làm việc tại Phủ Chủ tịch và 11 loài cá được
cơ cấu bổ sung sau năm 1969. Khối lượng cá trong
ao sau khi thu tỉa định kỳ hàng năm còn lại được lưu
giữ ổn định từ 2900-3000 kg. Cá là sinh vật sống
trong môi trường nước, ngoài việc sử dụng thức ăn
để sinh tồn còn phụ thuộc lớn vào các yếu tố của
môi trường nước. Một số điểm khác biệt của ao cá
Bác Hồ tại đây là ao luôn bị cớm rợp do xung quanh
ao có nhiều cây xanh, lá cây và hoa quả thường
xuyên rụng xuống ao, nguồn nước cấp vào ao phụ
thuộc vào nguồn nước ngầm, các chỉ tiêu thủy lý hóa
có thể biến động theo ngày đêm và theo mùa, có
ảnh hưởng đến đàn cá trong ao.
Để quản lý an toàn đàn cá, các nội dung, biện pháp
được tiến hành bao gồm: i) Lập danh mục các loài
cá đang được lưu giữ và chăm sóc tại ao cá Khu Di
tích Chủ tịch Hồ Chí Minh. ii) Cơ cấu đàn cá, xác
định tuổi một số loài cá. iii) Tái tạo đàn cá từ đàn cá
gốc và thực hiện các biện pháp đồng bộ tạo môi
trường ao nuôi phù hợp. iv) Nuôi dưỡng và chăm
sóc sức khỏe đàn cá để đảm bảo đàn cá luôn hoạt
động trong trạng thái khỏe mạnh, góp phần phát huy
giá trị của ao cá Bác Hồ tại Khu Di tích Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại Phủ Chủ tịch.
Đàn cá trong danh mục bảo tồn tại ao cá Bác Hồ hiện
nay được nhân giống từ đàn cá gốc trước năm 1969
và được tiếp nối thế hệ đàn cá con cháu. Đến nay thế
hệ con cháu của đàn cá trong ao phần lớn dưới 10
năm tuổi nên khả năng hoạt động và sinh trưởng rất
tốt. Việc cơ cấu thành phần loài phù hợp sẽ tạo ra sự
hài hòa giữa không gian sống ở các tầng nước trong
ao và sử dụng triệt để nguồn thức ăn tự nhiên. Thức
ăn tự nhiên, mùn bã hữu cơ và một số chất thải từ cá
sẽ được một số loài cá sử dụng làm thức ăn, hạn chế
sự tồn đọng các hợp chất hữu cơ tích tụ trong ao.
Đây cũng là phương pháp quản lý đàn cá và môi
trường ao nuôi bằng biện pháp sinh học tự nhiên có
hiệu quả nhất. Ngoài ra, thành phần loài trong ao cá
Bác Hồ thể hiện sư đa dạng bao gồm các loài cá bản
địa ở vùng đồng bằng, trung du, miền núi từ Bắc vào
Nam và một số loài cá có giá trị kinh tế của các nước
lân cận và các châu lục được thuần hóa và nuôi
dưỡng có hiệu quả ở Việt Nam.
Cán bộ Viện I đang tiến hành thao tác kỹ thuật tại ao cá Bác Hồ. Ảnh: Phạm Đức Lương
12 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011)
Khoa học và Công nghệ
Quản lý tốt môi trường ao và đàn cá ao Bác Hồ là
một nhiệm vụ thường xuyên cần được các cơ quan
quản lý chuyên ngành tiếp tục thực hiện nhằm đảm
bảo tốt môi trường và an toàn đàn cá. Ao cá Bác Hồ
là một mô hình đặc biệt về nuôi thủy sản, thể hiện sự
tâm huyết của các nhà khoa học, các nhà quản lý và
đồng bào đối với một di sản đặc biệt của đất nước.
Ngoài ý nghĩa bảo tồn di tích còn góp phần phục vụ
nhu cầu thăm viếng Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí
Minh tại Phủ Chủ tịch hàng ngày của đồng bào và
khách quốc tế.
Nghiên cứu sản xuất tôm chân trắng bố
mẹ sạch bệnh tại Việt Nam
Vũ Văn In
Tôm chân trắng Liptopenaeus vannamei với nhiều
ưu thế vượt trội nên đã nhanh chóng trở thành đối
tượng nuôi quan trọng tại nhiều quốc gia có truyền
thống nuôi tôm sú như Việt Nam. Để đáp ứng nhu
cầu về tôm giống, nhiều trại giống thủy sản trong
nước đã tiến hành sản xuất tôm giống nhưng sản
lượng chưa đáp ứng được nhu cầu. Hiện nay, nguồn
tôm chân trắng bố mẹ cung cấp cho các trại giống
chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài. Khó khăn về
nguồn cung cấp tôm bố mẹ cho các trại sản xuất
giống đó là tôm bố mẹ nhập khẩu có chất lượng thì
giá cao (tôm nhập khẩu từ Thái Lan giá từ 25
USD/cặp), nhưng loại tôm có giá hợp lý thì chất
lượng thường không đảm bảo. Trước thực trạng đó,
Bộ NN & PTNT đã giao Viện I chủ trì thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học sản
xuất tôm chân trắng bố mẹ sạch bệnh (SPF)” với
mục đích xây dựng công nghệ sản xuất tôm chân
trắng bố mẹ sạch bệnh tại Việt Nam, hướng tới mục
tiêu chủ động được nguồn cung cấp tôm bố mẹ sạch
bệnh cho các trại giống trong nước với giá cả cạnh
tranh nhất.
Nguồn vật liệu ban đầu là đàn tôm chân trắng bố mẹ
nhập ngoại từ Hawaii, Singapore sạch ít nhất 05 loại
bệnh (TSV, WSSV, YHV/GAV, IHHNV, MBV) và
nguồn tôm giống sạch bệnh chất lượng cao trong
nước. Từ nguồn vật liệu ban đầu kể trên, Đề tài đã
triển khai sản xuất tôm chân trắng bố mẹ sạch bệnh
trong điều kiện an toàn sinh học được bố trí tại 02
địa điểm: Cát Bà và Vũng Tàu. Tại Cát Bà, an toàn
sinh học được áp dụng tại 02 khu vực bao gồm: khu
cách ly cho hệ thống ao nuôi ngoài trời và khu bể
trong nhà. Các yếu tố đầu vào đều được vệ sinh,
khử trùng nghiêm ngặt nhằm đảm bảo ngăn ngừa
được mầm bệnh từ bên ngoài xâm nhập vào hệ
thống nuôi.
Đầu năm 2009, Đề tài đã nhập 350 cặp tôm bố mẹ
SPF từ Hawaii và được thuần hóa, nuôi vỗ và cho
sinh sản nhân tạo trong khu vực cách ly thuộc Trung
tâm Quốc gia giống Hải sản miền Bắc tại Cát Bà.
Song song với việc nhập và sinh sản đàn tôm nhập
ngoại, đề tài đã tiến hành tuyển chọn tôm giống sạch
bệnh trong nước chất lượng cao để phát triển đàn
tôm bố mẹ từ nguồn giống nội địa để đảm bảo đa
dạng hóa di truyền. Tôm giống PL15 được sản xuất
Khu bể nuôi tôm SPF trong nhà. Ảnh: Vũ Văn In
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011) 13
Khoa học và Công nghệ
và ương lên cỡ PL45 trong bể composite trong nhà.
Sau đó tôm PL45 được nuôi tăng trưởng trong bể xi
măng 80m3 trong nhà và bể xi măng 500m3 ngoài
trời. Sau quá trình nuôi tăng trưởng, tôm được lựa
chọn để nuôi tiếp thành tôm bố mẹ hậu bị. Định kỳ
hàng tháng lấy mẫu phân tích 05 loại mầm bệnh
(TSV, WSSV, YHV/GAV, IHHNV, MBV) để đảm bảo
sản phẩm sạch bệnh của đề tài. Sau hơn một năm
thực hiện, đề tài đã sản xuất được 2200 cặp tôm bố
mẹ sạch bệnh đầu tiên vào năm 2010 và 2500 cặp
tôm bố mẹ vào đầu năm 2011. Tôm bố mẹ của đề tài
đã đưa ra thử nghiệm ở một số trại sản xuất giống
trong nước và được đánh giá cao, đảm bảo tiêu chí
sạch 05 loại bệnh với tỷ lệ tham gia đẻ trứng đạt
75%, sức sinh sản đạt từ 150.000 trứng/con, tỷ lệ nở
đạt trên 70%. Trong thời gian tới, Đề tài tiếp tục cho
lai tạo, ương nuôi và tuyển chọn các thế hệ tiếp theo
nhằm lưu giữ và phát triển đàn tôm bố mẹ đã được
tạo ra đồng thời hoàn thiện qui trình công nghệ sản
xuất tôm bố mẹ sạch bệnh trong nước. Thành công
của đề tài sẽ tạo tiền đề cho các nghiên cứu tiếp
theo về di truyền chọn giống và đẩy nhanh hoạt động
sản xuất tôm chân trắng bố mẹ sạch bệnh chất
lượng cao tại Việt Nam.
Cá Còm Chitala ornata (Gray, 1831) -
đối tượng nuôi mới có nhiều triển vọng ở
miền Bắc
Nguyễn Văn Tiến và Vũ Hồng Sự
Đề tài “Nghiên cứu nuôi thương phẩm và thử nghiệm
sản xuất giống cá Còm tại Hà Nội” thuộc chương
trình 01C-05 do Sở Khoa học và Công nghệ thành
phố Hà Nội tài trợ được thực hiện từ tháng 1/2011-
12/2013. Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu thành
công công nghệ nuôi thương phẩm cá Còm, góp
phần đa dạng hóa đối tượng cá nuôi có giá trị kinh tế
cao tại miền Bắc.
Cá Còm là loài cá nhiệt đới, có tên khoa học là
Chitala ornata (Gray, 1831), thuộc Họ Notopteridea,
Giống Chitala. Tên tiếng Việt là cá Còm, cá Thát lát
cườm hoặc cá Nàng hai, tên tiếng Anh là Clown
knife fish. Ở nước ta, cá Còm phân bố tự nhiên từ
Nam Trung bộ đến Nam Bộ, tập trung nhiều nhất ở
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Do có chất
lượng thịt thơm ngon nên cá Còm đang được nhân
rộng trở thành đối tượng cá nước ngọt đặc sản ở
Kiểm tra mẫu cá còm. Ảnh: Nguyễn Văn Tiến
Khu ao nuôi tôm SPF ngoài trời. Ảnh: Vũ Văn In
14 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011)
Khoa học và Công nghệ
khu vực Nam Bộ. Ở miền Bắc, chưa có nhiều nghiên
cứu về kỹ thuật nuôi đối tượng này.
Thí nghiệm ương nuôi cá Còm giai đoạn cá hương
lên cá giống sử dụng 3 loại thức ăn: Thức ăn hỗn
hợp 35% protein, 50% thức ăn hỗn hợp kết hợp 50%
cá tạp, và 100% cá tạp được thực hiện trong ao tại
Viện I từ tháng 4-6 năm 2011. Từ cỡ cá ban đầu 0,6
g/con, chiều dài 3-4 cm/con, sau 36 ngày thí nghiệm
cá đạt khối lượng trung bình từ 8,2-8,6 g/con, 9-12
cm/con. Không có sự khác biệt về tốc độ sinh
trưởng, tỷ lệ sống của cá Còm thí nghiệm. Hệ số
thức ăn thấp nhất ở nghiệm thức nuôi bằng thức ăn
viên hỗn hợp. Hệ số thức ăn giai đoạn ương giống
rất thấp ở cả 3 nghiệm thức (0,68-1,35) do cá có khả
năng sử dụng một phần thức ăn tự nhiên có sẵn
trong ao.
Thí nghiệm cho thấy, cá Còm sinh trưởng tốt trong
điều kiện thí nghiệm và là đối tượng nuôi có nhiều
triển vọng ở miền Bắc Việt Nam. Sử dụng thức ăn
hỗn hợp ương nuôi cá còm từ giai đoạn 3-4 cm lên
10 cm/con cho kết quả sinh trưởng và tỷ lệ sống
tương đương với thức ăn đối chứng là cá tạp. Trong
thời gian tới Đề tài sẽ tiếp tục nghiên cứu công nghệ
nuôi, nuôi vỗ cá bố mẹ và thử nghiệm sản xuất giống
cá Còm trong điều kiện miền Bắc.
Bệnh phân trắng ở tôm Sú Penaeus
monodon nuôi và các giải pháp phòng
bệnh
Nguyễn Thị Hà
Sự bùng nổ của dịch bệnh tôm gây ra thiệt hại nặng
nề về kinh tế cho nghề nuôi tôm trên toàn cầu. Ở Việt
Nam, một bệnh mới, được gọi là bệnh phân trắng,
mới được thông báo gần đây ở tôm Sú Penaeus
monodon. Bệnh phân trắng được phát hiện lần đầu
tiên vào năm 1998, sau đó bệnh lan truyền trên diện
rộng, gây thiệt hại đáng kể cho nhiều vùng nuôi tôm
Sú, đặc biệt ở một số tỉnh nuôi nhiều như Phú Yên,
Khánh Hòa, Ninh Thuận và một số tỉnh thuộc Đồng
bằng sông Cửu Long. Vì sự nguy hiểm của bệnh đối
với nghề nuôi tôm ở Việt Nam, bệnh phân trắng đã
được nghiên cứu tại Trung tâm Quan trắc Cảnh báo
Môi trường và Phòng ngừa Dịch bệnh Thủy sản khu
vực miền Bắc (CEDMA), Viện I, trong khuôn khổ của
đề tài thuộc Bộ NN & PTNN, để xác định tác nhân gây
bệnh và bước đầu đưa ra giải pháp phòng bệnh.
Bảng: Sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá Còm nuôi bằng 3 loại thức ăn giai đoạn ương giống (TB±SE)
Chỉ tiêu TAHH HH&CT CT Khối lượng TB khi thả (g/con) 0,6±0,02 0,6±0,02 0,6±0,02Khối lượng TB khi thu (g/con) 8,2±0,47a 8,2±0,64a 8,6±0,82a
Tăng trọng khối lượng (g/con) 7,5±1,2a 7,5±1,1a 8,0±0,2a
Thời gian nuôi (ngày) 36 36 36Tăng trưởng trung bình (g/con/ngày) 0,21±0,03a 0,21±0,03a 0,22±0,00a
Thức ăn sử dụng theo vật chất khô (g/con/36 ngày) 4,52±0,18b 4,27±0,01b 3,02±0,04a
Hiệu quả sử dụng thức ăn FE (g/g) 0,61±0,07 0,58±0,08 0,38±0,01FCR 0,68±0,08a 1,06±0,16ab 1,35±0,05b
Tỷ lệ sống 94,1±3,7a 96,4±0,3a 96,6±1,1
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011) 15
Khoa học và Công nghệ
Tác nhân gây bệnh phân trắng được xác định là do vi
bào tử Enterocytozoon hepatopenaei. Tôm bị bệnh
thể hiện các dấu hiệu bệnh lý như: tôm gầy yếu,
mềm, màu sắc nhợt nhạt, trên thân và mang có nhiều
sinh vật bám. Trong ruột ít hoặc không có thức ăn, có
xuất hiện các đoạn phân trắng, đôi khi có thể quan sát
thấy ở phía sau đuôi dải phân dài 2-3 cm. Gan tụy
tôm bị bệnh có màu trắng xanh, teo lại (Hình A). Bệnh
phân trắng xuất hiện quanh năm, nhưng ở miền Bắc
và Bắc miền Trung tập trung vào tháng 5 và tháng 6,
miền Nam và Nam miền Trung tập trung từ tháng 8
đến tháng 10. Bệnh phân trắng thường xảy ra đối
với tôm ở thời điểm nuôi được 2-3 tháng.
Vì các vi bào tử Enterocytozoon hepatopenaei ký
sinh nội bào trong tế bào chất của các tế bào gan tụy
của tôm bị bệnh nên việc điều trị bệnh phân trắng là
rất khó, chỉ áp dụng các giải pháp
phòng bệnh tổng hợp để khống chế
sự phát sinh bệnh. Dưới đây là một số
giải pháp:
- Đối với nguồn giống: kiểm tra
không nhiễm vi bào tử
Enterocytozoon hepatopenaei
- Trại nuôi tôm bắt buộc phải có hệ
thống ao lắng và ao xử lý.
- Diệt vi bào tử trong bùn đáy ao,
đầm bằng vôi CaO với liều lượng
10-15 kg/100m2 đáy ao.
- Diệt vi bào tử trong nguồn nước và
diệt ký chủ trung gian bằng TCCA
với liều lượng 5 - 10 ppm.
- Cải tiến chất lượng nước trong quá
trình nuôi bằng TCCA liều lượng
0,3-0,5 ppm, 15 ngày/ lần trong
suốt vụ nuôi
- Thường xuyên theo dõi các thông số môi trường
trong quá trình nuôi. Đặc biệt tránh không để tôm
bị stress do các yếu tố môi trường thay đổi đột
ngột như nhiệt độ nước, pH, độ mặn...
- Dùng thảo dược bổ sung vào thức ăn tôm để tăng
sức đề kháng cho tôm nuôi: chế phẩm lá ổi liều
lượng 200 mg/kg thức ăn/ngày, ăn liên tục 7
ngày/lần/tháng; chế phẩm bột tỏi 8-10 g/kg thức
ăn/ngày, ăn liên tục 5 ngày/lần/tháng
- Đối với trường hợp tôm Sú bị bệnh phân trắng có
kích cỡ đạt 20-30 g/con thì nên thu hoạch. Chú ý các
dụng cụ đánh bắt, nước trong ao, đầm có tôm bị
nhiễm bệnh phải tiệt trùng bằng TCCA liều lượng 10-
15 ppm hoặc bằng Chlorin liều lượng 50-70 ppm.
Hình: Bệnh phân trắng ở tôm Sú. (A) Dấu hiệu bệnh lý của bệnh: tôm bị bệnh (bên trái) gan tụy chuyển màu trắng xanh, teo lại; tôm bình thường (bên phải) gan tụy có màu nâu sáng; (B) Phân tôm bị bệnh phân trắng; (C) Vi bào tử Enterocytozoon hepatopenaei (nhộm Gram); (D) Vi bào tử Enterocytozoon hepatopenaei (Kính HVĐT)
16 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011)
Khoa học và Công nghệ
Nghiên cứu kỹ thuật nuôi thương phẩm
và thăm dò sinh sản cá Chạch bùn
Misgurnus anguilicaudatus (Cantor,1842)
Bùi Huy Cộng và Nguyễn Thị Diệu Phương
Cá Chạch bùn Misgurnus anguilicaudatus (Cantor,
1842) là loài cá nước ngọt có chất lượng thịt thơm
ngon và là đối tượng thuỷ đặc sản có giá trị kinh tế.
Hiện nay nhu cầu con giống cá Chạch bùn để phục
vụ cho nuôi thương phẩm rất lớn. Tuy nhiên nghiên
cứu về loài cá Chạch bùn ở Việt Nam còn hạn chế,
chủ yếu mô tả đặc điểm hình thái và phân loại. Đề tài
“Nghiên cứu kỹ thuật nuôi thương phẩm và thăm dò
sinh sản cá Chạch bùn Misgurnus anguilicaudatus
(Cantor, 1842)” được thực hiện từ 2009-2011 tại
Phòng Sinh học thực nghiệm, Viện I bằng nguồn
kinh phí của Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội.
Kết quả các thí nghiệm cho thấy mùa vụ nuôi cá
Chạch bùn có thể bắt đầu từ tháng 4, cá sinh trưởng
tốt nhất từ tháng 6 đến tháng 9 (sau 60-180 ngày
nuôi tốc độ sinh trưởng dao động từ 0,70-2,0
g/con/tháng), và tốc độ sinh trưởng cá Chạch bùn
bắt đầu giảm từ tháng 10 (0,25g/con/tháng). Cá
Chạch bùn nuôi trong bể ximăng với mật độ
70con/m2 bằng thức ăn 35% protein có tốc độ sinh
trưởng tốt. Từ cỡ cá thả trung bình 3g/con sau 210
ngày nuôi đạt cỡ 9g/con, tỷ lệ sống từ 95-98%. Tốc
độ tăng trưởng tuyệt đối 0,028-0,031 g/con/ngày; hệ
số thức ăn 1,58-1,67; năng suất nuôi 32-35kg/100m2
bể.
Nghiên cứu thăm dò sinh sản cho thấy cá Chạch bùn
bắt đầu thành thục từ 1+ đến 2 tuổi. Mùa sinh sản bắt
đầu từ tháng 4, tỷ lệ thành thục cao tập trung vào
các tháng 6,7,8 và kết thúc mùa sinh sản vào tháng
10. Mùa vụ nuôi vỗ cá Chạch bùn bố mẹ từ tháng 10
tới tháng 5 năm sau; Cá Chạch bùn bố mẹ nuôi vỗ ở
mật độ 20 con/m2, trong điều kiện bể xi măng có diện
tích 30 m2, độ sâu 1,5 m; cho ăn bằng thức ăn viên
35% protein, có kích thích nước chảy 1-2 giờ/tuần và
có thể sử dụng não thùy thể để kích thích sinh sản
nhân tạo cho kết quả là 60% số cá Chạch bùn cái
đẻ được, tỷ lệ thụ tinh đạt 70% và tỷ lệ nở đạt 60%.
Cá Chạch bùn bột ương trong bể xi măng cho ăn
thức ăn phù du sinh vật và lòng đỏ trứng. Khi cá
Chạch bùn đạt cỡ 1,5 - 2cm có thể chuyển sang
ương trong giai thành cá giống cỡ 4 - 5cm. Cá
Chạch bùn giống sử dụng thức ăn là sinh vật phù du
và thức ăn tự chế 35 - 40% protein. Trong hai năm
2009 và 2010 bằng phương pháp sinh sản nhân tạo,
đề tài đã thành công sản xuất được 3000 con cá
Chạch bùn giống cỡ 2 - 3g/con.
Nghiên cứu kỹ thuật nuôi thương phẩm và thăm dò
sinh sản cá Chạch bùn góp phần xây dựng cơ sở
khoa học giúp chủ động sản xuất con giống, tạo sản
phẩm hàng hóa và góp phần bảo tồn loài cá Chạch
bùn.
Cá Chạch bùn giống. Ảnh: Bùi Huy Cộng
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011) 17
Khoa học và Công nghệ
Phát triển công nghệ nuôi nghêu trong ao
tạo sinh kế cho cư dân ven biển Việt Nam
Chu Chí Thiết
Giới thiệu
Nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata) là đối tượng nuôi có
hiệu quả kinh tế cao, nhưng chi phí đầu tư thấp, kỹ
thuật nuôi đơn giản. Hiện tại, nghêu được nuôi trên
các vùng bãi triều sử dụng lưới để vây xung quanh
ngăn địch hại và ngăn chúng di chuyển. Tuy nhiên,
hạn chế về diện tích bãi triều cùng với việc thiếu hiểu
biết về kỹ thuật nuôi và nguồn con giống phụ thuộc
vào khai thác từ tự nhiên đang cản trở đến sự phát
triển của nghề nuôi.
Nghề nuôi tôm mặc dù đã và đang mang lại thu nhập
cao cho cư dân ven biển, nhưng do chưa có kế
hoạch phát triển, năng lực phối hợp quản lý kém,
môi trường không bảo đảm, bệnh dịch bùng phát…
đã ảnh hưởng đến ổn định thu nhập của người nuôi.
Việc tìm ra đối tượng nuôi mới, vừa tận dụng được
diện tích canh tác sẵn có, vừa có khả năng cải thiện
chất lượng môi trường ao nuôi, góp phần tạo thu
nhập ổn định cho cộng đồng cư dân ven biển cần
được quan tâm, nghiên cứu. Vì vậy, phát triển kỹ
thuật nuôi nghêu trong nội đồng được tiến hành
nghiên cứu nhằm bổ sung cơ sở khoa học và kỹ
thuật, góp phần phát triển nghề nuôi bền vững ở Việt
Nam.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Có 2 thí nghiệm được tiến hành: (D1): Nuôi đơn
canh nghêu M. lyrata và M. meretrix trong kênh dẫn
nước và trong ao; và (D2): Nuôi ghép nghêu M.
lyrata và M. meretrix với tôm sú trong ao. Mục đích
của thí nghiệm nhằm xác định loài nghêu nào phù
hợp trong ao, kênh và nuôi ghép với tôm trong ao.
Thí nghiệm được tiến hành trong ô 4 m2 (2x2), với 3
lần lặp ngẫu nhiên. Cỡ giống thí nghiệm đồng đều
đối với 2 loại nghêu M. lyrata và M. meretrix, lần lượt
là 2,97±0,04 g và 3,10±0,05 g. Mật độ nghêu nuôi
ghép là 88 con/m2 (mật độ tôm nuôi 15 con/m2) và
nuôi đơn trong kênh là 76 con/m2. Thí nghiệm được
tiến hành trong 4 tháng.
Tốc độ sinh trưởng của nghêu được tiến hành kiểm
tra định kỳ 15 ngày/lần, với lượng mẫu thu ngẫu
nhiên 30 con/mẫu. Tỷ lệ sống của nghêu được ghi
nhận tại thời điểm kết thúc thí nghiệm. Số liệu được
trình bày dưới dạng Mean ± SD.
Sử dụng phần mềm Graphpad Prism version 4.0 và
Excel để xử lý số liệu thống kê.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Sinh trưởng và tỷ lệ sống của nghêu M. meretrix và
M. lyrata trong kênh dẫn nước
Đồ thị 1: (A) Gia tăng sinh khối của nghêu và (B) tỷ lệ sống của nghêu (P ≤0,01)
Sin
h khối
tăng
thêm
(gr
am)
Tỷ
lệ sốn
g (%
)
Loài
Loài
18 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011)
Khoa học và Công nghệ
- Tốc độ sinh trưởng của nghêu
Đồ thị 1A chỉ ra rằng, sinh khối thu được của nghêu
M. lyrata tăng cao hơn (xấp xỉ 1500 g) có ý nghĩa
thống kê (P<0,05) so với nghêu M. meretrix (600 g).
Kết quả thí nghiệm cũng chỉ ra rằng, nghêu M. lyrata
có tốc độ sinh trưởng theo ngày (SGR%/ngày) lớn
hơn, có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với nghêu M.
meretrix khi chúng được nuôi trong kênh. Như vậy,
nghêu M. lyrata là đối tượng nuôi phù hợp có thể
được lựa chọn để nuôi thương phẩm.
- Tỷ lệ sống của nghêu
Kết quả thí nghiệm (đồ thị 1B) cho thấy, tỷ lệ sống
của nghêu M. meretrix và M. lyrata khác nhau không
có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tỷ lệ nghêu chết nhiều
được ghi nhận trong giai đoạn mưa lớn kéo dài, khi
hàm lượng muối giảm xuống còn 00/00 trong thời gian
dài hơn 15 ngày.
Sinh trưởng và tỷ lệ sống của nghêu nuôi kết hợp với
tôm trong ao
- Tốc độ sinh trưởng của nghêu:
Đồ thị 2A chỉ ra rằng, sinh khối gia tăng của nghêu
M. lyrata cao hơn, có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so
với nghêu M. meretrix khi chúng nuôi ghép với tôm
trong ao. Kết quả thí nghiệm cũng chỉ ra rằng, tốc độ
tăng trưởng tuyệt đối (SGR%/ngày) của M. lyrata
cũng cao hơn, có ý nghĩa thống kê, so với nghêu M.
meretrix trong suốt giai đoạn thí nghiệm. Tốc độ tăng
trưởng tuyệt đối cao nhất thu được vào tháng 8 đối
với cả hai loài, khi người dân thu hoạch tôm trong
ao. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối giảm đột
ngột khi độ mặn giảm xuống đến 0‰ vào cuối tháng
8 và 9.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, sau 4 tháng nuôi, sản
lượng tôm thu hoạch đạt 2,7 tấn/ha. Người dân đánh
giá, năng suất và sản lượng tôm nuôi ghép với
nghêu cao hơn so với vụ trước, thể hiện ở tốc độ
sinh trưởng của tôm sau 4 tháng nuôi, từ cỡ giống
PL15 đến khi thu hoạch đạt trung bình 20 g/con (50
con/kg), tỷ lệ sống đạt khoảng 80%. Tôm sinh
trưởng khá đồng đều, tỷ lệ còi ước khoảng 10%.
Sản lượng nghêu thu được 5,5 tấn/ha. Như vậy,
nuôi ghép nghêu với tôm trong ao có lợi cho người
nuôi về mặt quản lý chất lượng nước và tăng thu
nhập.
- Tỷ lệ sống của nghêu:
Trong ao nuôi, tỷ lệ sống của nghêu M. lyrata và
nghêu M. meretrix lần lượt là 70% và 63%. Tuy
nhiên, kết quả phân tích ANOVA cho thấy, tỷ lệ sống
của nghêu M. lyrata và nghêu M. meretrix khác nhau
không có ý nghĩa thống kê.
Kết luận
Nghêu M. lyrata có tốc độ sinh trưởng và sản lượng
thu được khi kết thúc thí nghiệm cao hơn có ý nghĩa
Đồ thị 2: (A) Gia tăng sinh khối của nghêu và (B) tỷ lệ sống của nghêu (P ≤0,01)
Sin
h khối
tăng
thêm
(gr
am)
Tỷ
lệ sốn
g (%
)
Loài
Loài
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011) 19
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
thống kê so với nghêu M. meretrix khi chúng được
nuôi đơn canh trong kênh dẫn nước và nuôi kết hợp
với tôm trong ao. Tuy nhiên, tỷ lệ sống của cả hai đối
tượng nuôi này khác nhau không có ý nghĩa thống
kê khi chúng nuôi trong cả kênh dẫn nước và nuôi
kết hợp với tôm.
Mô hình nuôi kết hợp nghêu và tôm nuôi giúp tăng
thêm thu nhập cho người dân, cả về việc tăng năng
suất tôm và một nguồn thu khác từ nghêu nuôi trong
cùng một thời điểm và diện tích canh tác. Tuy nhiên,
thí nghiệm cũng chỉ ra rằng năng suất nghêu có thể
được cải thiện nếu có những nghiên cứu tiếp theo về
vấn đề này.
Nâng cao năng lực phát triển nuôi cá
nước lạnh ở Việt Nam
Trần Thị Kim Chi
Dự án “Nâng cao năng lực phát triển nuôi cá nước
lạnh ở Việt Nam” là dự án do Viện nghiên cứu Thuỷ
sản và giải trí Phần Lan (FGFRI) và Viện I hợp tác
nghiên cứu. Dự án được triển khai chủ yếu tại Trung
tâm nghiên cứu Thuỷ sản nước lạnh Sapa - Lào Cai.
Mục đích chung của dự án là nhằm góp phần cho
việc phát triển hiệu quả, cạnh tranh, nâng cao giá trị
gia tăng các sản phẩm và phát triển bền vững nghề
nuôi cá nước lạnh ở Việt Nam, đặc biệt là nuôi cá
Hồi vân và phát triển thị trường.
Dự án sẽ hợp tác lâu dài giữa Viện I và các viện
nghiên cứu Phần Lan nhằm giúp Viện I phát triển về
công nghệ cũng như năng lực nghiên cứu nhằm bổ
sung chiến lược quốc gia về sản xuất giống.
Chương trình sẽ giúp Viện I đương đầu với các
thách thức trong khu vực và cung cấp các dịch vụ
trong ngành công nghiệp thuỷ sản nước lạnh. Sau
khi kết thúc dự án, Viện I cùng với các đối tác tư
Thảo luận giữa các chuyên gia Viện I và FGFRI. Ảnh: Trần Thị Kim Chi
Ngao Bến Tre Meretrix lyrata (Sowerby 1851). Ảnh Chu Chí Thiết
Cấu tạo trong của Ngao. Nguồn: Báo cáo dự án Phát triển nghề nuôi ngao nhằm cải thiện và đa dạng hoá sinh kế cho cộng đồng cư dân nghèo ven biển miền Trung Việt Nam
20 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011)
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
nhân và các doanh nghiệp khác xây dựng chiến lược
quốc gia về cá nước lạnh.
Dự án dự định sẽ triển khai trong 3 năm, bắt đầu từ
tháng 6 năm 2010 và sẽ kết thúc năm 2012 với tổng
kinh phí hỗ trợ từ phía Phần Lan là 500 000 EU. Sau 1
năm hoạt động, dự án đã triển khai 4 lớp tập huấn và
hội thảo về nâng cao kỹ thuật nuôi cá nước lạnh và
chế biến các sản phẩm cá nước lạnh tại Đà Lạt và
Sapa. Năm 2011, dự án đã chuyển trứng cá Hồi
của100 gia đình từ Phần Lan tiếp tục nghiên cứu
chọn giống tại Thác Bạc, đặc biệt lần đầu tiên đưa
trứng loài cá Trắng Châu Âu Coregonus lavaretus vào
Việt Nam để ương ấp tại Thác Bạc và đồng thời tổ
chức đào tạo ngắn hạn cho cán bộ Trung tâm nghiên
cứu thuỷ sản nước lạnh về sinh sản nhân tạo cá Hồi
vân và cá Trắng tại Phần Lan (tháng 4 năm 2011).
Sự hợp tác giữa Viện I, FGFRI và 3 tổ chức đối tác
khác của Phần Lan không chỉ quan tâm đến sự
chuyển giao một phía về thông tin và công nghệ. Mục
đích sau cùng của dự án là sự trao đổi về kiến thức
khoa học và lợi ích kỹ thuật của các cộng tác viên phía
Phần Lan và Việt Nam. Điều này cũng có thể mang lại
các kết quả có ý nghĩa toàn cầu, ví dụ, vấn đề về chọn
giống trong điều kiện biến đổi khí hậu.
Lễ bảo vệ luận văn thạc sỹ chuyên ngành
Nuôi trồng Thủy sản khóa 18
Trần Minh Hậu
Thực hiện kế hoạch liên kết đào tạo giữa Trường
Đại học Nông nghiệp Hà Nội và Viện I, ngày
04/6/2011 buổi Lễ bảo vệ luận văn thạc sỹ chuyên
ngành nuôi trồng thủy sản khóa 18 đã được tổ chức
tại Viện I. Có 19 học viên cao học đã bảo vệ thành
công đề tài nghiên cứu của mình.
Tới dự buổi Lễ bảo vệ luận văn đại diện Trường Đại
học Nông nghiệp Hà Nội có bà Vũ Thị Dân là chuyên
viên của Viện Sau Đại học. Đại diện Viện I có ông
Nguyễn Hữu Nghĩa, quyền Trưởng phòng QLKH-TT-
HTQT-ĐT và bà Đặng Thị Oanh quản lý đào tạo.
Thành viên Hội đồng chấm luận văn là các cán bộ
nghiên cứu khoa học uy tín đến từ Viện I; Viện
Nghiên cứu Hải Sản, Bộ NN & PTNT và Trường Đại
học Nông nghiệp Hà Nội.
Mỗi hội đồng chấm luận văn thạc sỹ bao gồm 5
thành viên làm việc trong vòng 1 tiếng cho 1 luận
văn. Các hội đồng chấm thi triển khai đồng thời tại 3
phòng để đảm bảo hoàn thành công việc trong ngày.
Kết quả của buổi bảo vệ 12 học viên đạt kết quả từ
8,0 đến 8,9 điểm; 7 học viên đạt kết quả từ 7,5 đến
7,9. Như vậy sau 2 năm học tập và nghiên cứu tại
Viện I học viên cao học khoá 18 (2009-2011) đã
hoàn thành chương trình học của mình. Xin chúc
mừng kết quả đạt được của cao học khoá 18. Xin
chúc mừng 19 tân thạc sỹ, chúc các anh chị sức
khỏe, sớm bắt đầu lại công việc của mình và luôn
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Sinh viên trình bày báo cáo tại lễ Bảo vệ luận văn thạc sỹ. Ảnh Trần Minh Hậu
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011) 21
Gương mặt trong quý
Chuyên gia Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản I làm việc ở Namibia
Ngô Sỹ Vân. Chuyên gia thủy sản Việt Nam, KIFI,
Namibia
Trong những năm vừa qua Viện I liên tục gửi
các cán bộ có kinh nghiệm sang làm chuyên gia
giúp các nước bạn châu Phi. Để giúp quý vị hiểu
thêm về công việc và cuộc sống của các chuyên
gia Việt Nam ở đây, Gương mặt trong quý trân
trọng giới thiệu anh Ngô Sỹ Vân, chuyên gia
nuôi trồng thủy sản tại Namibia.
Namibia là đất nước nằm ở Tây Nam châu Phi
với hơn 2,2 triệu dân với đủ màu da. Người
Namibia rất mến khách, dễ gần và thân thiện. Đây
là một đất nước khô cằn với diện tích 825.418
km2. Địa hình Namibia phần lớn là sa mạc trong
đó có sa mạc Namib cổ nhất thế giới nằm ở miền
Nam dọc theo 1500 km bờ biển, nơi có nhiều
phong cảnh đẹp. Phía Tây Bắc và Đông Bắc là
vùng đất trũng thấp thường bị ngập lụt vào mùa
mưa. Toàn bộ đất nước có 18 hồ đập lớn nhỏ với
diện tích khoảng 20.709 ha ở miền Trung và miền
Nam. Namibia là đất nước có tiềm năng mặt nước
để phát triển nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên nuôi
trồng thủy sản ở đây chưa phát triển, năng suất
thấp, lợi nhuận không nhiều do điều kiện khí hậu
khô nóng, lượng mưa ít, thất thường (700-1.000
mm/năm), thiếu về nguồn nhân lực và khoa học
kỹ thuật. Bên cạnh đó, trang trại đầu tư xây dựng
nhỏ, đối tượng nuôi ít (cá Rô phi, cá Trê phi, Hầu
Thái bình dương), lực lượng cán bộ kỹ sư thủy
sản ra trường ít (hàng năm chỉ có 10-15 người)
và ít doanh nghiệp đầu tư vào nuôi trồng thủy
sản.
Trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Namibia
(Hợp tác Nam-Nam), Bộ NN & PTNT Việt Nam,
Tổ chức Lương nông Thế giới và Cục nuôi trồng
thủy sản Bộ Nghề cá và Nguồn lợi biển Namibia
giao cho chúng tôi nhiệm vụ giúp các cán bộ của
Viện cá nội địa Kamutjonga (KIFI) và Cục Nuôi
trồng (DoA) nâng cao kiến thức về quản lý sản
xuất giống.
Đã được 6 tháng kể từ khi ba chúng tôi đến đây
(tôi, anh Đinh Văn Trung và anh Lê Thiên Lý) đó
cũng là khoảng thời gian đủ làm quen với khí hậu,
với phong tục truyền thống và tìm hiểu những
điểm mạnh, điểm yếu của ngành thủy sản
Chuyên gia NTTS Viện I Ngô Sỹ Vân và các cán bộ nước bạn. Ảnh do anh Ngô Sỹ Vân cung cấp
22 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 2 (Quý II năm 2011)
Gương mặt trong quý
Namibia. Công việc đã giúp tôi vượt lên trên nỗi
nhớ nhà, nhớ bạn bè, nhớ Viện I và thèm được
nói tiếng Việt sau những giờ làm việc. Các cán bộ
ở KIFI, Bộ Nghề cá và Nguồn lợi biển Namibia đã
động viên, tạo đầy đủ mọi mặt như về nhà ở và
phương tiện làm viêc.
Bước đầu chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ theo
tiến độ đề ra, đã tạo được mối quan hệ rất thân
thiện và có tình cảm với những người dân ở đất
nước Namibia này. Trong quá trình làm việc, tôi
đã tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị, đi tham
quan các trạm trại và các vùng đất có tiềm năng
phát triển thủy sản. Chúng tôi đã đóng góp ý kiến
định hướng phát triển thủy sản cũng như hướng
dẫn kỹ thuật và trực tiếp tham gia sản xuất giống
ương nuôi cá Rô phi, cá Trê phi và đã đạt được
một số lượng cá giống nhất định. Bên cạnh đó tôi
còn tham gia viết các báo cáo kỹ thuật gửi đến
các cán bộ KIFI và thành viên của Bộ Nghề cá và
Nguồn lợi biển Namibia như “Phương pháp và đề
xuất các giải pháp điều chỉnh sự sinh sản của cá
Rô phi”, “Kỹ thuật vận chuyển cá sống”, “Tìm hiểu
và đề xuất ý kiến để vận hành tốt nhà sản xuất
giống ở KIFI”; “Đề xuất chiến lược phát triển KIFI
trong thời gian tới”; “Tìm hiểu và đề xuất ý kiến
phát triển trại cá Likunganelo”. Tôi cũng đã tham
gia công tác hướng dẫn và đào tạo sinh viên về
kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, hướng dẫn kỹ thuật
nuôi cá tăng sản cho các trại cá Karovo,
Likunganelo.
Tuy kết quả chưa nhiều nhưng những việc đã làm
của các cán bộ Viện I tại Namibia cũng đã để lại
cho người dân nơi đây những ấn tượng tốt về
chuyên gia Việt Nam. Tôi hy vọng qua Bản tin của
Viện, các bạn sẽ phần nào hiểu thêm về đất nước
con người Namibia cũng như công việc của các
chuyên gia Việt Nam tại đây. Đồng thời thông qua
Bản tin của Viện tôi mong Ban giám đốc cùng các
cán bộ Viện tạo điều kiện hợp tác hơn nữa và
giúp đỡ nước Namibia trong phát triển nuôi trồng
thủy sản. Chân thành cảm ơn!
Cán bộ Viện I làm việc với FAO Nammibia. Ảnh do anh Ngô Sỹ Vân cung cấp
Bình minh trên vùng đất ngập nước cạnh KIFI. Ảnh do anh Ngô Sỹ Vân cung cấp