bẢn tin sỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/bantin_khcnvn_05-2019.pdfchanh...

53
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 1/53 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN BẢN TIN SỐ 05/2019 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Chế tạo thiết bị điện gió Các giải pháp tăng cường độ bền và hiệu năng hoạt động của pin quang điện hóa sử dụng chất màu nhạy quang Hệ thống tìm kiếm video thông minh theo thông tin hình ảnh Công nghệ mô phỏng 3D và định vị GPS trong việc hỗ trợ cứu hỏa Phương pháp phát hiện virus máy tính dựa trên hệ miễn dịch nhân tạo Phát triển thành công AI hướng đến lĩnh vực bất động sản Tối ưu hóa dàn máy tính để bàn CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY “Bàn tay robot Uplift” cho người khuyết tật CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM Phẩm màu thực phẩm từ quả gấc, quà dành dành và lá gai VẬT LIỆU – HÓA CHẤT Phương pháp tích hợp nguyên tử hydro vào lớp màng giúp cải thiện chất lượng pin mặt trời Chế tạo vật liệu nano thế hệ mới và ứng dụng chúng trong pin nhiên liệu dùng cho động cơ di động tương lai Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất dây nano ôxít kim loại đa nguyên tố ABO (ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4) bằng phương pháp bốc bay nhiệt Chế tạo gạch từ rác thải nhựa CÔNG NGHỆ SINH HỌC Phát hiện một loài loài thực vật mới cho khoa học Quy trình sản xuất astaxanthin và β-glucan để bổ sung vào thức ăn cho cá dĩa đỏ Thu thập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn phân giải chlorpyrifos Y HỌC

Upload: others

Post on 01-Jan-2021

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 1/53

TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH

TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN

BẢN TIN SỐ 05/2019

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Chế tạo thiết bị điện gió

Các giải pháp tăng cường độ bền và hiệu năng hoạt động của pin quang điện hóa sử dụng

chất màu nhạy quang

Hệ thống tìm kiếm video thông minh theo thông tin hình ảnh

Công nghệ mô phỏng 3D và định vị GPS trong việc hỗ trợ cứu hỏa

Phương pháp phát hiện virus máy tính dựa trên hệ miễn dịch nhân tạo

Phát triển thành công AI hướng đến lĩnh vực bất động sản

Tối ưu hóa dàn máy tính để bàn

CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY

“Bàn tay robot Uplift” cho người khuyết tật

CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM

Phẩm màu thực phẩm từ quả gấc, quà dành dành và lá gai

VẬT LIỆU – HÓA CHẤT

Phương pháp tích hợp nguyên tử hydro vào lớp màng giúp cải thiện chất lượng pin mặt trời

Chế tạo vật liệu nano thế hệ mới và ứng dụng chúng trong pin nhiên liệu dùng cho động cơ

di động tương lai

Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất dây nano ôxít kim loại đa nguyên tố ABO

(ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4) bằng phương pháp bốc bay nhiệt

Chế tạo gạch từ rác thải nhựa

CÔNG NGHỆ SINH HỌC

Phát hiện một loài loài thực vật mới cho khoa học

Quy trình sản xuất astaxanthin và β-glucan để bổ sung vào thức ăn cho cá dĩa đỏ

Thu thập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn phân giải chlorpyrifos

Y HỌC

Page 2: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 2/53

Nghiên cứu và chế tạo thành công vật liệu kết xương titan

NÔNG NGHIỆP

Công nghệ sấy vi sóng trong bảo quản, chế biến nông sản và thực phẩm

Chế tạo máy thu gom nông sản tự động

Chế tạo hệ thống tưới cây bằng điện thoại

Thuyền phun thuốc đa năng

Máy cày đa năng

Máy phun thuốc trừ sâu tự động

Thùng trồng cây không cần tưới nước

Chế tạo dung dịch giữ nông sản tươi hơn 10 ngày

Nghiên cứu ứng dụng đồng bộ các giải pháp khoa học và công nghệ chuyển đổi cơ cấu cây

trồng đạt hiệu quả kinh tế cao vùng đồng bằng sông Hồng

Quy trình nhân giống in vitro lan Dendrobium bằng mô phân sinh chồi

MÔI TRƯỜNG

Chế tạo hệ thống xử lý nước nuôi thủy sản

Phương tiện gom rác thủy bộ

Xử lý nước thải sinh hoạt bằng thiết bị lọc nhỏ giọt cải tiến với giá thể sinh học kiểu mới

Hệ thống xử lý nước thải sử dụng giá thể vi sinh

Nắp cống thoát nước tự động gạt rác

Giải pháp lấy nước ngầm kiểu mới

Giải pháp công nghệ trong đo đạc địa hình bãi bồi ven biển

LĨNH VỰC KHÁC

Phát hiện hư hỏng công trình xây dựng bằng phương pháp dao động

12 doanh nghiệp đầu tiên ngành phi thực phẩm đạt chuẩn hội nhập

Ra mắt Không gian đổi mới sáng tạo cho sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long

B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ

I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh

II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án

Page 3: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 3/53

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Chế tạo thiết bị điện gió

Page 4: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Thiết bị điện gió của gia đình ông Bá.

Trong điều kiện lưới điện quốc gia

không thể kéo tới thì thiết bị điện gió của lão

nông Lê Thành Bá, ở xã Tân Hòa, huyện

Châu Thành A, là một giải pháp khả thi.

Tạo điện từ gió

Ông Bá kể, “Khu vườn của tôi trồng

đủ các loại cây ăn trái như xoài Đài Loan,

chanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn

nhưng nơi đây không có điện để tôi gắn mô tơ

tưới nước. Tôi đã 60 tuổi rồi nên không thể

xách từng thùng tưới cho cây được”. Trong

“cái khó, ló cái khôn”, vào tháng 6-2018, ông

Bá nghĩ đến cách tạo ra điện mà không cần

phải phụ thuộc vào điện lưới từ ngành điện.

Và rồi, ông bắt tay vào nghiên cứu và chế tạo

thành công quạt điện gió phát điện thông

minh. “Ban đầu, tôi định làm điện bằng tấm

pin năng lượng mặt trời nhưng chi phí cao

nên tôi tìm trên mạng các cách làm quạt điện

gió. Sau lần đầu thất bại, tôi vẫn tiếp tục

nghiên cứu, cuối cùng cũng thành công và lắp

đặt quạt điện gió phục vụ sinh hoạt và sản

xuất nông nghiệp”, ông Bá hào hứng chia sẻ.

Sau gần 100 ngày không rời mô hình,

ông Bá đã hoàn thành thiết kế cây quạt điện

gió gồm một số bộ phận chính như: bộ phận

tua bin phát điện, bộ tăng tốc, bánh lái điều

chỉnh hướng, cánh quạt đón gió dài 1,2m…,

đặc biệt chiếc quạt điện gió được gắn cao hơn

mặt đất khoảng 12m. Khi có gió, cánh quạt

xoay tạo ra dòng điện có công suất khoảng

1kW/giờ. Để hạn chế rủi ro, ông Bá đã lắp đặt

thêm bộ phận phanh tua bin ngắt điện phòng

khi có gió mạnh và bình ắc quy tích trữ đủ

điện năng. Tuy nhìn bề ngoài điện gió khá to

và nhiều chi tiết nhưng giá thành để làm nên

cả hệ thống điện gió khá rẻ. Ông Bá tính hết

chi phí khoảng 25 triệu đồng/cây quạt có

công suất 1kW/giờ nhưng phục vụ tốt cho

sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Với 3

công đất vườn, ông Bá có thể sử dụng được

cho việc bơm tưới cây trong thời gian 3 giờ.

Ngoài ra, khi nguồn điện cạn kiệt thì chỉ cần

1 giờ quạt gió xoay tích điện thì tiếp tục sử

dụng. Ưu điểm của thiết bị này chính là tích

điện bất kỳ thời gian nào dù ban ngày hay ban

đêm, đây là điều mà nguồn điện năng lượng

mặt trời không làm được. “Bây giờ, tôi không

lo về điện bơm nước tưới cây nữa. Nếu không

có gió, tôi sử dụng điện sinh hoạt bình thường

nhờ vào bình ắc quy tích trữ điện. Đồng thời,

với công suất tải điện 1kW/giờ thì một năm

tôi tiết kiệm khoảng 3.600 kW điện”, ông Bá

tâm sự.

Hiệu ứng lan tỏa

Ông Nguyễn Văn Phúc, Bí thư Đảng

ủy xã Tân Hòa, thông tin: Việc ông Bá chế

tạo được điện gió cơ bản phục vụ cho sinh

hoạt, sản xuất nông nghiệp, người dân địa

phương mừng lắm. Nhiều người đã tìm hiểu

thông tin đến để nhờ ông chế tạo về phục vụ

cho gia đình.

Như anh Huy, ngụ cùng địa phương

với ông Bá, đã mấy lần đến đặt hàng nhờ ông

làm cho một chiếc quạt. Anh Huy cho biết:

“Tôi có 7 công đất trồng cây ăn trái và nuôi

cá. Cũng cùng hoàn cảnh như ông Bá, mảnh

vườn tôi chưa có điện, nếu kéo điện lưới thì

phải mất hơn 50 triệu đồng, chưa kể tiền điện

phải trả hàng tháng. Vì vậy, tôi đã đặt hàng

ông Bá làm cây quạt điện gió có công suất

3kW/giờ để sử dụng mô tơ bơm nước công

Page 5: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 5/53

suất 3 mã lực phục vụ tưới tiêu. Với công suất

này, ông Bá dự tính chi phí chỉ khoảng 30

triệu đồng, vì chỉ tăng thêm kích thước cánh

quạt và mua thêm bình ắc quy tích điện”.

Trước hiệu ứng mang lại bước đầu,

ông Bá chia sẻ thêm: “Những thiết bị mà tôi

chế tạo nên theo tính toán sẽ sử dụng được từ

10-20 năm. Để cải tiến tốt hơn cho sản phẩm,

tới đây tôi tiếp tục nghiên cứu chế tạo quạt

điện gió cánh đứng nhằm tạo ra điện năng

lớn hơn, hướng đến sản xuất đại trà, giảm giá

thành để phục vụ nhu cầu của người dân”.

Bí thư Đảng ủy xã Tân Hòa Nguyễn

Văn Phúc cho biết thêm: “Mô hình điện gió

này rất thông minh, giải quyết nhu cầu sử

dụng điện của người dân địa phương, nhất là

đối với những khu vực nông thôn chưa kết nối

được điện lưới quốc gia. Chúng tôi rất khâm

phục ông Bá vì ông đã chế tạo ra được thiết

bị giúp tiết kiệm điện năng mà còn phục sản

xuất nông nghiệp tốt. Chúng tôi sẽ tuyên

truyền và khuyến khích người dân sử dụng

quạt điện gió gắn liền sản xuất nông nghiệp

để gia tăng lợi nhuận cho gia đình”.

Nguồn:Trúc Linh,

baohaugiang.com.vn, 11/04/2019

Trở về đầu trang

*************

Các giải pháp tăng cường độ bền và hiệu năng hoạt động của pin quang điện hóa sử dụng chất màu nhạy quang

TS Nguyễn Tuyết Phương (bìa trái) hướng dẫn sinh viên nghiên cứu về pin mặt trời.

Hiện nay việc tận dụng không gian

kiến trúc để hấp thu năng lượng mặt trời, tạo

nguồn năng lượng sạch chưa được chủ đầu tư

các tòa nhà cao tầng quan tâm.

Vì vậy, đề tài “Các giải pháp tăng

cường độ bền và hiệu năng hoạt động của pin

quang điện hóa sử dụng chất màu nhạy

quang” của TS Nguyễn Tuyết Phương (Khoa

Hóa, Trường Đại học Khoa học Tư nhiên -

Đại học Quốc gia TPHCM) và cộng sự hy

vọng sẽ góp phần “xanh” hóa được những tòa

nhà bê tông cốt thép ở đô thị.

Pin quang điện hóa sử dụng chất màu

nhạy quang, hay còn gọi pin mặt trời chất

màu nhạy quang (dye-sensitized solar cells) là

loại pin mới, được xếp vào nhóm thế hệ thứ 3

sau pin silicon, pin màng mỏng vô cơ. Pin

này có ưu điểm dễ chế tạo, giá thành thấp,

hiệu quả hoạt động cao (trên 40%) trong điều

kiện ánh sáng yếu nên phù hợp các ứng dụng

trong nhà.

Nói về quá trình và cơ duyên nghiên

cứu đề tài này, TS Nguyễn Tuyết Phương cho

rằng các kết quả nghiên cứu trong thời gian

học tập, công tác ở tại Đan Mạch đã giúp giải

thích được vai trò của từng chất trong pin và

độ bền của pin để tiếp tục phát triển, tối ưu

thành phần dung dịch điện ly; sử dụng các chất

phụ gia mới để tăng độ bền của pin. “Kết quả

cho thấy độ bền của pin được cải thiện đáng

kể từ 60% tăng lên 90%. Hơn thế nữa, nghiên

cứu đã tiếp tục phát triển những hệ điện ly mới

dễ tổng hợp, giá thành thấp, thân thiện với môi

trường và cải thiện tốt độ bền của pin”, TS

Nguyễn Tuyết Phương khẳng định.

Page 6: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 6/53

Để tăng hiệu năng hoạt động của pin,

TS Phương đã phát triển phương pháp biến

tính bề mặt điện cực của pin bằng các phương

pháp hóa học, điện hóa. Phương pháp điện

hóa còn cho phép đánh giá hiệu quả của quá

trình biến tính điện cực, giúp xác định một

cách gián tiếp những yếu tố ảnh hưởng đến

hiệu năng hoạt động của pin do biến tính bề

mặt gây ra, để từ đó sử dụng phương pháp

biến tính phù hợp.

36 tuổi đời, ngoài những giờ trên giảng

đường, hàng tuần, tiến sĩ Phương vẫn trao đổi

làm việc với các giáo sư nước ngoài và được

các thầy gửi hóa chất, tặng trang thiết bị để

nghiên cứu và giảng dạy. Đặc biệt là với GS

Torben Lund (Trường Roskilde, Đan Mạch)

đã hỗ trợ, khuyến khích để ngày nay TS

Phương là một trong số ít chuyên gia về lĩnh

vực pin mặt trời của Việt Nam.

Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu cơ

bản mà các nhà khoa học như TS Phương

đang gặp khi triển khai vào thực tiễn còn hạn

chế. Sở dĩ có điều đó là do các nghiên cứu

ứng dụng cần phải có sự phối hợp liên ngành

và đa ngành; trong khi nghiên cứu của các

nhà khoa học tập trung vào chuyên môn sâu

và chuyên ngành hẹp.

Mặt khác thị trường khoa học công

nghệ hiện nay mới được hình thành, cơ chế

chính sách và thông tin khoa học chưa hoàn

thiện, còn thiếu kết nối giữa nhà khoa học và

doanh nghiệp; nhiều sản phẩm nghiên cứu

hữu ích, có giá trị thực tiễn cao nhưng không

thể có địa chỉ chuyển giao. Trong khi các

doanh nghiệp cần sản phẩm lại đi tìm kiếm,

thậm chí phải mua của nước ngoài với giá

cao. Từ đó, gây lãng phí cả tiền bạc, thời gian

và chất xám của nguồn lực trong nước.

Pin có thể uốn dẻo, nhiều màu sắc Nghiên cứu của TS Nguyễn Tuyết Phương

tập trung vào 2 yếu tố: độ bền và hiệu

năng hoạt động của pin quang điện hóa sử

dụng chất màu nhạy quang phức chất

Ruthenium để góp phần đẩy nhanh quá

trình thương mại hóa loại pin này. Điểm

đặc biệt là giúp các doanh nghiệp có thể

sản xuất ra những “tấm dán” pin mặt trời

có thể uốn dẻo, bẻ cong, nhiều màu sắc…

để sử dụng làm cửa kính cho các tòa nhà

cao tầng, vừa đáp ứng thẩm mỹ về mặt

kiến trúc vừa chuyển hóa quang năng

thành điện năng.

Nguồn: Quang Huy, sggp.org.vn,

04/04/2019

Trở về đầu trang

*************

Hệ thống tìm kiếm video thông minh theo thông tin hình ảnh

Đề tài do tác giả Nguyễn Vinh Tiệp và

cộng sự (Trung tâm Phát triển KH&CN Trẻ)

thực hiện nhằm nghiên cứu và phát triển hệ

thống phần mềm cho phép người sử dụng tìm

kiếm từ kho dữ liệu video lớn các phân đoạn

video chứa thông tin tương ứng với hình

ảnh/vật mẫu trong thế giới thực.

Hiện nay, các hệ thống tương tác thông

minh ngày càng được quan tâm và có những

ứng dụng thiết thực trong cuộc sống. Các hệ

thống này sử dụng những kênh đầu vào theo

hướng tiếp cận tương tự như các giác quan

của con người (như thị giác, thính giác, vị

giác, khứu giác,...) nên cần giải quyết nhiều

bài toán cơ bản liên quan đến các kênh dữ

liệu đầu vào như dữ liệu hình ảnh, âm thanh

và các cảm biến khác.

Đề tài tập trung nghiên cứu, xây dựng

các thuật toán tìm kiếm đối tượng dựa vào

đặc trưng thị giác trên kho dữ liệu lớn và xây

Page 7: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 7/53

dựng ứng dụng tương tác minh họa. Khái

niệm tìm kiếm dựa trên đặc trưng thị giác

được hiểu theo nghĩa đối tượng tìm kiếm là

ảnh hoặc video được đánh chỉ mục hoàn toàn

tự động mà không có sự can thiệp của con

người. Bài toán tìm kiếm này có rất nhiều ứng

dụng trong thực tế như ứng dụng tìm kiếm

hình ảnh, hệ thống giám sát, quản lý thương

hiệu, quảng cáo. Đối với những đối tượng tìm

kiếm của ảnh mẫu, người sử dụng có thể quan

tâm đến toàn bộ cảnh vật trong ảnh cho đến

những đối tượng với kích thước lớn nhỏ khác

nhau. Khi tìm kiếm với những đối tượng ít

đặc trưng, ví dụ như những đối tượng nhỏ

hoặc không có nhiều hoa văn, giả thuyết của

mô hình BOW (Bag of Visual Word) bị vi

phạm. Cho dù sử dụng các kỹ thuật hậu xử lý

nâng cao của mô hình BOW cũng như kiểm

tra ràng buộc hình học, mở rộng truy vấn vẫn

không giải quyết được vấn đề trên.

Do vậy, nhóm tác giả đề xuất phương

pháp kiểm tra ràng buộc mới trong đó dung

hợp mô hình BOW (tiếp cận từ dưới đi lên

hay còn gọi là bottom up) và phương pháp

phát hiện đối tượng (tiếp cận từ trên xuống

hay còn gọi là top down). Đóng góp chính

của đề xuất này là khai thác hiệu quả mối

quan hệ về vị trí của các từ thị giác (visual

word) với vị trí đề xuất đối tượng (object

instance propsal) được ước lượng bởi bộ phát

hiện đối tượng. Trong quá trình phát triển các

thuật toán phục vụ cho bài toán tìm kiếm đối

tượng dựa vào thông tin thị giác, nhóm tác giả

cũng xây dựng các hệ thống tương tác đi kèm

để minh họa cho ý tưởng tương tác và tiềm

năng ứng dụng thực tế như hệ thống tra cứu

thông tin du lịch, văn hóa và sản phẩm, hệ

thống khuyến nghị hỗ trợ gợi nhớ hình ảnh có

liên quan dựa trên mạng xã hội.

Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,

08/04/2019

Trở về đầu trang

*************

Công nghệ mô phỏng 3D và định vị GPS trong việc hỗ trợ cứu hỏa

Nhóm tác giả Phạm Hoàng Bảo, Trần

Huỳnh Duy, Nguyễn Thị Thanh Thùy (sinh

viên Trường đại học khoa học tự nhiên

TP.HCM) đã nghiên cứu đề tài Ứng dụng

công nghệ mô phỏng 3D và định vị GPS

trong việc hỗ trợ cứu hỏa và dập lửa khi xảy

ra hỏa hoạn.

Chỉ trong 9 tháng đầu của năm

2018, cả nước xảy ra 2.989 vụ cháy, làm 73

người tử vong và 163 người bị thương, tổng

thiệt hại lên đến 1.590 tỷ đồng. Để giảm thiểu

những tổn thất mất mát xảy ra quá lớn cần

phải phát hiện đám cháy xảy ra ở giai đoạn

đầu chưa lan rộng và có những biện pháp sơ

tán người dân ra đến nơi an toàn sớm nhất.

Đồng thời khi quét nhiệt, lính cứu hỏa có thể

phát hiện nhiệt độ cao ở một vài điểm trong

tòa nhà, đó chính là nơi nguyên nhân dẫn đến

cháy nổ cần phải dập tắt đám cháy tại điểm

gây cháy trước để tránh lây lan.

Từ đó, nhóm đã thực hiện một App –

Web cứu hộ, phần mềm được sử dụng hệ

thống định vị GPS trong nhà (nơi không gian

hẹp) để xác định đúng vị trí của người gặp

nạn và hướng dẫn hướng đi an toàn rời khỏi

tòa nhà.

Page 8: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 8/53

Xét ở một phòng của một căn hộ cụ

thể, khi có tai nạn xảy ra, chuông báo cháy

của tòa nhà sẽ hoạt động mạnh mẽ. Khi người

trong phòng phát hiện có hỏa hoạn, trước tiên

họ sẽ dùng những biện pháp thô sơ như đeo

khẩu trang thấm nước, đeo mặc nạ chống độc

v.v… Sau đó dùng thiết bị di động có kết nối

3G/4G dùng App được cài đặt/đăng nhập tài

khoản từ trước để định vị vị trí của bản thân.

Sau đó, khi rời khỏi cửa, thiết bị quét nhiệt

tòa nhà sẽ cung cấp cho người dùng địa điểm

an toàn để thoát hiểm.

Còn ở bên ngoài, những người cứu hộ

sẽ thực hiện công tác phun nước dập lửa,

đồng thời có nhân viên đăng nhập vào Web

được cung cấp có hình mô phỏng toàn tòa

nhà, từ đó có thể thấy người còn kẹt lại trong

căn nhà thông qua thiết bị định vị của họ

được thể hiện bằng những chấm đỏ. Từ đó, có

thể cứu hộ người dân một cách nhanh chóng,

hạn chế được số người chết do ngạt thở khi có

hỏa hoạn xảy ra.

Việc ứng dụng phần mềm đã giúp đem

lại hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội như:

giảm thiệt hại tài sản, cụ thể là xác định được

chính xác nguồn gây cháy để tập trung chữa

cháy khu vực đó; giảm sự cháy lan qua khu

vực lân cận, giúp giảm mất mát tài sản lẫn

thiệt hại chung cư; nhờ vào chức năng định vị

vị trí người dân mà giảm được số lượng

người thương vong; công tác cứu hỏa, hỗ trợ

dễ dàng và người dân dựa vào đó có thể tìm

được đường thoát an toàn.

Một cách tổng quát, theo bạn

Phạm Hoàng Bảo, đại diện nhóm tác giả, việc

xây dựng mô hình 3D mô phỏng tòa nhà kết

hợp với cảm biến nhiệt và định vị GPS nhằm

cung cấp vị trí người sử dụng trong toà nhà,

hệ thống GPS cần phải có độ chính xác cao

trong không gian nhỏ. Dựa vào cảm biến

nhiệt kết hợp với mô hình 3D của toà nhà mà

ta có được cái nhìn tổng quát về đám cháy và

hướng đám cháy lây lan.

Về hướng phát triển phát triển tiếp

theo, có thể phát triển ứng dụng nhầm cập

nhật các thông số quan trắc không khí trong

toà nhà (như nồng độ O2, nồng độ CO2), giúp

dự báo khả năng cháy khi có cháy và liên hệ

với tổng đài 114. Có thể gửi cả thông tin về

tòa nhà như nơi bắt đầu cháy, nồng độ O2 và

CO2 khi đó ra sao v.v… để lực lượng cứu hỏa

có thể chuẩn bị dụng cụ đầy đủ nhằm ứng

phó.

Điều kiện cần thiết là mỗi chung

cư cần trang bị thiết bị cảm biến nhiệt, ít nhất

mỗi tầng một máy nhằm hỗ trợ tốt nhất cho

ứng dụng. Tổ chức một khóa học hướng dẫn

sử dụng ứng dụng cho sở cứu hỏa và người

dân trong các chung cư nhằm đảm bảo sử

dụng một cách hiệu quả trong trường hợp

khẩn cấp nhất.

Đây là đề tài đã được chọn vào vòng

thuyết trình cuộc thi: “Tìm kiếm giải pháp,

sản phẩm GIS TP.HCM năm 2018” do Sở

KH&CN TP.HCM tổ chức.

Nguồn: Mai Thy,

khoahocphothong.com.vn, 25/03/2019

Trở về đầu trang

*************

Phương pháp phát hiện virus máy tính dựa trên hệ miễn dịch nhân tạo

Page 9: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 9/53

Nhóm nghiên cứu Nguyễn Tấn Toàn,

Vũ Thanh Nguyên, Trịnh Quốc Sơn, Lê Đình

Tuấn từ Trường đại học công nghệ thông tin

TP.HCM và Trường đại học kinh tế công

nghiệp Long An đã nghiên cứu phương pháp

phát hiện virus máy tính dựa trên hệ miễn

dịch nhân tạo kết hợp thông tin từ cấu trúc PE

của tập tin trên hệ điều hành Windows.

Các nhà khoa học đã nghiên cứu về

một phương pháp phát hiện virus dựa trên

giải thuật của hệ miễn dịch nhân tạo (AIS),

kết hợp với thông tin được trích xuất từ cấu

trúc Portable Executable (PE) của các tập tin

trên hệ điều hành Windows, nhằm giúp giảm

chi phí trích xuất đặc trưng từ việc dùng đặc

trưng của cấu trúc PE và tăng thêm sự đa

dạng của các bộ phát hiện thông qua giải

thuật hệ miễn dịch nhân tạo. Phương pháp đã

được thực nghiệm với các bộ dữ liệu và các

bộ phân lớp khác nhau (SVM, Naïve Bayes

và Decision Tree). Kết quả thực hiện cho thấy

độ chính xác của phương pháp có thể đạt lần

lượt 89,25%, 79,93% và 87,38% khi sử dụng

SVM, Naïve Bayes và Decision Tree trong

giai đoạn phân lớp.

Hiện nay, để phát hiện virus máy tính,

hai phương pháp kinh điển nhất là phương

pháp dựa trên chữ ký và phương pháp dựa

trên hành vi. Nhưng so với thời điểm hiện tại,

hai phương pháp này không đủ tốt để giải

quyết vấn đề của virus. Phương pháp dựa trên

chữ ký cơ bản có nhược điểm là không thể

nhận dạng được các virus chưa biết (mới hoặc

là biến thể của virus trước đó). Trong khi đó,

phương pháp dựa trên hành vi mặc dù có thể

phát hiện được các virus chưa biết dựa trên

chuỗi hành vi của tập tin nhưng chi phí để

phân tích của phương pháp này rất tốn kém.

Do đó, gần đây, để tìm ra các phương

pháp tốt hơn, nhiều phương pháp mới dựa

trên khai thác dữ liệu, máy học, thống kê, hệ

miễn dịch nhận tạo đã được các nhiều khoa

học quan tâm. Đi theo xu hướng đó, nhóm

nghiên cứu tiếp cận theo hướng phát hiện

virus mới dựa trên các giải thuật của hệ miễn

dịch nhân tạo, kết hợp với thông tin được

trích xuất từ cấu trúc PE của tập tin trên hệ

điều hành Windows, với mong muốn đóng

góp về nghiên cứu thử nghiệm một cách tiếp

cận mới với việc kết hợp giá trị của dữ liệu

PE trong phát hiện virus và khả năng xây

dựng, đa dạng hóa các bộ phát hiện (detector)

của AIS khi lượng dữ liệu huấn luyện còn hạn

chế so với lượng dữ liệu thực tế trong phát

hiện virus máy tính trên hệ điều hành

Windows.

Kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học

đã tiếp cận việc phát hiện virus máy tính bằng

phương pháp sử dụng AIS kết hợp với thông

tin được trích xuất từ cấu trúc PE. Phương

pháp tiếp cận của bài báo có thể dự đoán các

tập tin chưa biết trước đó với một hiệu suất

khá tốt.

Các thử nghiệm đã cho thấy rằng cách

tiếp cận của bài báo có thể đạt lần lượt độ

chính xác trung bình là 89,25%, 79,93%, và

87,38% khi sử dụng SVM, Naive Bayes, và

Decision Tree. Về lý thuyết, thông tin số thực

từ cấu trúc PE có sự khác nhau trong miền giá

trị giữa tập tin sạch và tập tin virus. Bên cạnh

đó, các DLL quan trọng chứa các hàm liên

quan đế đọc, viết, copying dữ liệu... của hệ

thống và đây là các loại hành vi mà virus

thường sử dụng nên các DLL chứa các hành

Page 10: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 10/53

vi này thường xuyên được gọi trong các virus

máy tính. Do đó, mà việc kết hợp thông tin

dạng số từ thông tin của các PE header và

thông tin của DLL có thể sẽ là đặc trưng tốt

trong phân biệt virus và tập tin sạch.

Trong giai đoạn sử dụng AIS, NSA sẽ

loại bỏ các vector đặc trưng không tốt khi nó

quá gần giống với tập tin sạch nhằm để giảm

thiểu sai sót trong bước dự đoán và giữ lại các

vector đặc trưng tốt cho quá trình tạo các bộ

phát hiện. Để làm cho hệ thống có thể dự

đoán được virus chưa biết tốt hơn, một biến

thể của Clonalg được sử dụng để nhân bản

các bộ phát hiện với một vài đột biến nhằm

làm cho các bộ phát hiện trở nên đa dạng hơn.

Tuy nhiên, việc tìm một bộ phân biệt virus và

tập tin sạch một cách thủ công là tương đối

khó nên phương pháp phân lớp được sử dụng.

Để phân lớp, các vector nguy hiểm được tính

toán, chuẩn hóa và trải qua quá trình phân lớp

nhằm tạo bộ phân lớp cho việc dự đoán virus.

Đó là các nguyên nhân lý giải cho việc

phương pháp có thể đạt được kết quả khá tốt

như mong đợi.

Trong tương lai, để làm cho phương

pháp này trở nên tốt hơn, nhóm nghiên cứu

cho biết sẽ đánh giá phương pháp bằng các

đặc trưng khác, các biến thể của giải thuật

AIS khác nhau cùng với tập các dữ liệu đa

dạng, phong phú hơn. Bên cạnh đó, ở thời

điểm hiện tại, hệ thống chỉ có thể dự đoán

được một tập tin là virus hay tập tin sạch nên

các nỗ lực để dự đoán được kiểu virus sẽ

được đầu tư nhằm làm cho hệ thống tốt hơn.

Nguồn: N.Quỳnh,

khoahocphothong.com.vn, 20/03/2019

Trở về đầu trang

*************

Phát triển thành công AI hướng đến lĩnh vực bất động sản

Hoạt động đào tạo nội bộ thường xuyên tại Vitalify Asia.

Từ tháng 4/2019, hệ thống RPA (

Robotic Process Automation - dịch vụ tự động

hóa quy trình bằng Robot) có tích hợp AI (trí

tuệ nhân tạo) để dự đoán hiệu quả của mỗi bất

động sản một cách tự động và các giải pháp tối

ưu cho các công ty môi giới bất động sản

chính thức được giới thiệu tại Nhật Bản.

Dịch vụ do Vitalify Asia - công ty

chuyên phát triển các ứng dụng trên

Mobile/Web và nghiên cứu phát triển công

nghệ AI tại Hồ Chí Minh sở hữu, và công ty

TNHH RPA Retech Lab - đối tác kinh doanh

vận hành và triển khai.

“Hankyou baizou kun”

(https://www.rparetechlab.com/hankyobaizo/)

do nhóm kỹ sư AI Việt Nam phát triển là dịch

vụ tân tiến nhất được vận hành theo nguyên

tắc đó là AI sẽ tuyển chọn và đề cử những dự

án bất động sản thích hợp cho từng nhà môi

giới. Việc này không những giúp cắt giảm

đáng kể chi phí mà còn thu hút khách hàng

tiềm năng. Loại đặc thù công việc này trước

đây chỉ có thể thực hiện được bởi đội ngũ

nhân viên kinh doanh bất động sản có nhiều

năm kinh nghiệm.

Page 11: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 11/53

Những thành viên trong nhóm phát

triển “Mobile AI Lab" thuộc công ty Vitalify

Asia là những kỹ sư AI ưu tú nằm trong bảng

xếp hạng Top 1% trên Kaggle - một sân chơi

cạnh tranh về AI của Google. Họ luôn tích

cực tiếp cận, tích luỹ những kỹ thuật mới; và

hàng ngày tiến hành nghiên cứu, phát triển AI

bằng cách lựa chọn những chủ đề đa dạng

khác nhau mà họ cảm thấy hứng thú.

Ông Hà Quốc Hiền - Phó Giám đốc

công ty TNHH Vitalify Asia nhấn mạnh: “Để

thực hiện dự án này, chúng tôi đã gặp phải

một vài khó khăn. Đầu tiên, đó là phân tích và

chuẩn hóa dữ liệu. Khi nhận dữ liệu bất động

sản từ khách hàng Nhật mình đã phải làm việc

với họ để phân tích ý nghĩa của từng dữ liệu,

ngoài ra mình cũng phải chuẩn hóa dữ liệu đó

để có thể sử dụng được. Thứ hai là xây dựng

mô hình bài toán phù hợp với yêu cầu của

khách hàng cũng như phù hợp với kiến thức

và nghiệp vụ trong lĩnh vực bất động sản tại

Nhật Bản. Thứ ba là xây dựng công thức để

đánh giá về bài toán đã làm được.”

Bên cạnh đó Vitalify Asia có đội phát

triển dự án chuyên nghiệp, nhất quán từ tích

hợp mô hình AI vào hệ thống Web cho đến

khi triển khai ra thị trường. Cụ thể trên 10

năm phát triển Vitalify Asia luôn cập nhật

những công nghệ hiện đại, tiên tiến nhất và áp

dụng mô hình Agile Scrum để có thể phát

triển tất cả các công đoạn của dự án chỉ với

đội ngũ gồm PM (quản lý dự án) và những kỹ

sư full stack.

Nhờ vào việc vận dụng những kinh

nghiệm phát triển thực tiễn được tích lũy

trong thời gian qua và cách tổ chức hệ thống

như trên; cùng với sự chỉ đạo, hướng dẫn của

ông Hà Quốc Hiền- Phó Giám Đốc công ty;

Vitalify Asia đã tạo nên một môi trường làm

việc lý tưởng thu hút nhiều nhân tài với năng

lực sáng tạo, khả năng tư duy cao và sự nỗ

lực không ngừng từ các kỹ sư Việt Nam để

hướng tới sự phát triển thành công các dịch

vụ tiên tiến trong một khoảng thời gian ngắn.

Trong khoảng thời gian gần đây, năng

lực của các kỹ sư Việt Nam đã không ngừng

được nâng cao ở mặt kỹ thuật mà còn ở nhiều

phương diện khác như là kỹ năng giao tiếp

với nước ngoài; sự linh hoạt, uyển chuyển; và

năng lực sáng tạo. Tiếp tục đà phát triển này,

năng lực kỹ sư Việt Nam được kỳ vọng sẽ

ngày càng phát triển nhanh hơn trong tương

lai. Vitalify Asia sẽ khai thác triệt để môi

trường đầy tiềm năng này để có thể bắt kịp

thời đại Công Nghệ 4.0 mà các nước đang

hướng tới và cung cấp các dịch vụ do Việt

Nam phát triển ra thị trường thế giới.

Nguồn: thoidai.com.vn, 23/04/2019

Trở về đầu trang

*************

Tối ưu hóa dàn máy tính để bàn

Page 12: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 05/2019 12/53

Thạc sĩ Đặng Thanh Hùng giới thiệu bo mạch điện tử Raspberry Pi

Vì được trang bị nhiều năm nên các

dàn máy tính để bàn của Bệnh viện Nhi đồng

1 đã xuống cấp, không ít trong số đó khi sử

dụng phát ra tiếng ồn rất lớn. Với một bệnh

viện luôn quá tải người bệnh, lại thêm tiếng

ồn của các thiết bị điện tử, khiến không khí

các phòng khám thêm phần bí bách. Là

Trưởng phòng Công nghệ thông tin của Bệnh

viện Nhi đồng 1, thạc sĩ Đặng Thanh Hùng

nghĩ đến giải pháp làm sao để thay thế những

cục CPU cổ điển bằng loại thiết bị khác, hiện

đại hơn. Anh bắt tay vào tìm hiểu các thiết bị

thay thế.

Từ nguồn tài liệu trong và ngoài nước,

kỹ sư Đặng Thanh Hùng biết đến bo mạch

điện tử Raspberry Pi có khả năng thay thế cục

CPU mà chức năng không thay đổi. Lục tìm

các địa chỉ bán thiết bị điện tử tại TPHCM,

anh Hùng vui mừng khi thấy sản phẩm này có

ở thị trường với giá tương đối rẻ. Sau khi âm

thầm thử nghiệm trên máy tính để bàn của cá

nhân, anh khá hài lòng với thiết bị thay thế

này. Với máy tính đơn lẻ thì quá ổn, nhưng

với hệ thống cả trăm dàn máy, làm sao để vận

hành tối ưu nhất lại là thách thức không nhỏ.

Anh Hùng tiếp tục nghiên cứu cách vận hành

nó trên hệ thống hàng trăm máy tính. Sau 3

tháng anh đã tìm ra cách vận hành khả quan.

Giữa năm 2016, anh Hùng mạnh dạn đề xuất

ban giám đốc bệnh viện cho thay thế cuốn

chiếu (máy nào xuống cấp, hư hỏng thì thay

trước), từng bước chuẩn hóa máy tính để bàn

của toàn bệnh viện.

Thạc sĩ Đặng Thanh Hùng cho biết, bo

mạch điện tử Raspberry Pi với kích thước chỉ

lớn hơn chiếc thẻ ATM, nếu tính cả hộp bảo

quản thì bằng gói thuốc lá (kích thước bằng

1/100 CPU cổ điển), nhưng đầy đủ chức năng

của một cục CPU cổ điển, hoàn toàn thay thế

chỗ đứng của cục CPU trong dàn máy tính.

Các bo mạch sẽ được kết nối với máy chủ

thành một hệ thống vận hành khép kín. Đặc

biệt, sản phẩm này hoạt động theo cơ chế ảo

hóa máy chủ bằng phần mềm Proxmox mở

rộng để kết nối từ bo mạch qua mạng nội bộ

vào máy chủ.

Đầu năm 2017, ban giám đốc Bệnh

viện Nhi đồng 1 đồng ý đưa công trình sáng

tạo vào áp dụng cuốn chiếu tại bệnh viện.

Thạc sĩ Đặng Thanh Hùng phân tích, sở dĩ

anh thuyết phục ban giám đốc bệnh viện thay

thế bo mạch Raspberry Pi cho CPU bởi nó có

rất nhiều ưu điểm. Cụ thể, mỗi bo mạch điện

tử mua mới có giá gần 2 triệu đồng, nhưng

CPU mua mới giá trung bình là 8 triệu đồng,

vì vậy khi đầu tư thiết bị này, bệnh viện tiết

kiệm được 3/4 chi phí đầu tư trang thiết bị. Vì

Raspberry Pi hoạt động theo cơ chế ảo hóa

máy chủ bằng phần mềm Proxmox mở rộng

nên hoàn toàn không mất chi phí mua phần

mềm bản quyền như một số hệ thống khác.

Đặc biệt, thiết bị này giúp tiết kiệm

điện, trung bình mỗi cục CPU khi sử dụng sẽ

tiêu thụ hết 150 - 200w điện/giờ, trong khi

sản phẩm mới chỉ tiêu thụ hết 4w điện/giờ,

như vậy về điện năng, bo mạch điện tử

Raspberry Pi tiết kiệm gần 40 lần so với

CPU. Với máy tính bàn sử dụng CPU, khi

thiết bị bị lỗi phần mềm, nhân viên kỹ thuật

phải tới tận nơi để kiểm tra, sữa chữa, nhưng

với bo mạch điện tử Raspberry Pi, toàn bộ lỗi

phần mềm đều được sửa chữa trên hệ thống

máy chủ. Ước tính mỗi ngày tiết kiệm được

Page 13: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 13/53

từ 2 - 3 công làm việc. Ngoài ra, bo mạch

điện tử Raspberry Pi không tỏa nhiệt ra ngoài

môi trường và khi thiết bị hư hỏng, lượng rác

thải điện tử cũng sẽ giảm rất nhiều so với

CPU cổ điển và tiết kiệm được diện tích

không gian đặt.

“Giai đoạn đầu, chúng tôi thay thế

100 bo mạch điện tử Raspberry Pi cho 100

cục CPU cổ điển ở những dàn máy tính để

bàn cũ nhất. Kết quả là hệ thống vận hành tốt

ngoài mong đợi, không bác sĩ nào phàn nàn

về thiết bị máy tính. Sau thành công ở giai

đoạn đầu, hiện toàn Bệnh viện Nhi đồng 1 đã

thay thế gần 300 cục CPU bằng bo mạch

Raspberry Pi. Tính ra, trong năm vừa qua,

bệnh viện đã tiết kiệm được gần 500 triệu

đồng tiền điện. Nếu thay thế 600 CPU của

toàn bộ máy tính hiện hữu trong bệnh viện thì

mỗi năm cũng tiết kiệm được gần 1 tỷ đồng”,

kỹ sư Hùng cho biết.

Kết quả mà giải pháp này mang lại đã

khiến cho một số bệnh viện trên địa bàn

TPHCM quyết định học hỏi và áp dụng, như

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Bệnh viện Da

Liễu TPHCM,….

Nguồn: Thu Hường, sggp.org.vn,

02/04/2019

Trở về đầu trang

*************

CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY

“Bàn tay robot Uplift” cho người khuyết tật

Sinh viên và doanh nghiệp cùng thực hiện dự án "Bàn tay robot Uplift".

“Bàn tay robot Uplift” là sáng kiến của

một startup nhằm tạo cơ hội cho những người

khuyết tật tại Việt Nam được lắp tay điện và

giới thiệu việc làm miễn phí.

Đây là hoạt động hợp tác giữa Vulcan

Augmetics Social Enterprise (doanh nghiệp

khởi nghiệp chuyên sản xuất tay chân giả linh

hoạt giá rẻ) và Đại học RMIT Việt Nam.

Theo đó, sinh viên Đại học RMIT Việt Nam

sẽ tham gia trực tiếp vào các công đoạn của

dự án “Bàn tay robot Uplift” nhằm nâng cao

kỹ năng, kỹ thuật và công nghệ.

Sinh viên được yêu cầu nghiên cứu và

chế tạo một cánh tay điện có thể hỗ trợ người

khuyết tật làm một số công việc cụ thể như

rửa chén bát. Sinh viên phải tạo ra những

chuyển động của cánh tay robot để người

khuyết tật có thể thực hiện nhiều công việc

một cách bình thường.

PGS Eric Dimla, Trưởng khoa Khoa

học và Công nghệ, Đại học RMIT Việt Nam

cho biết, sinh viên sẽ hoàn thành thiết kế cơ

học và bản mẫu điều khiển điện tử đầu tiên.

Các em sẽ kết hợp hai phần lại với nhau và

thử hệ thống trong thời gian tới đây.

“Chúng tôi sẽ cùng với doanh nghiệp

tham gia vào hoạt động hỗ trợ để quảng bá

nhằm giúp dự án tiếp cận với cộng đồng”-

PGS Eric Dimla nói.

Ông Rafael Masters, Nhà sáng lập và

là Giám đốc điều hành của Vulcan

Page 14: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 14/53

Augmetics, cho biết, đây là một phần trong

dự án “Bàn tay robot Uplift” nhằm tạo cơ hội

cho 30 người khuyết tật tại Việt Nam được

lắp tay điện và giới thiệu việc làm miễn phí.

Dự án này đã dành chiến thắng trong

Giải thưởng Doanh nhân cộng đồng (Blue

Venture Award) đầu tiên tại Việt Nam vào

đầu năm nay. Dự án sẽ đại diện cho Việt Nam

tham gia tranh tài trên đấu trường quốc tế -

the Venture, được tổ chức vào tháng 5 này.

“Chúng tôi đánh giá cao về những

sinh viên tham gia dự án. Đây là những người

trẻ có tư duy cấp tiến, rất có khả năng thích

ứng và hết sức chủ động. Chúng tôi tin tưởng,

với sự đóng góp lớp của sinh viên trong dự án

này, những mục tiêu quan trọng trong kiến

tạo ra những đóng góp có giá trị và tạo ảnh

hưởng cho xã hội tại Việt Nam sẽ thành hiện

thực”- ông Rafael Masters nói.

Nguồn: Hà Thế An, khampha.vn,

22/04/2019

Trở về đầu trang

*************

CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM

Phẩm màu thực phẩm từ quả gấc, quà dành dành và lá gai

Gia Hân và Minh Hạnh thực hiện công đoạn chiết phẩm màu.

Lê Nguyễn Gia Hân và Lê Thị Minh

Hạnh, học sinh lớp 9/5 trường THCS Thống

Nhất, thành phố Huế, đã nghiên cứu sản xuất

thành công phẩm màu thực phẩm từ những

nguyên liệu dễ kiếm, giá rẻ như quả gấc, quà

dành dành và lá gai.

Minh Hạnh cho biết, phẩm màu là chất

phụ gia thực phẩm được sử dụng rất nhiều

trong chế biến thực phẩm, là một trong những

chỉ tiêu đánh giá chất lượng cảm quan thực

phẩm và góp phần làm tăng cảm giác ngon

miệng, kích thích sự thèm ăn.

“Khác với phẩm màu tổng hợp, phẩm

màu tự nhiên được làm từ những chất màu

sẵn có trong thực vật tự nhiên, không gây độc

và không gây ra những mùi vị lạ cho thực

phẩm. Sử dụng chất màu tự nhiên không chỉ

cải thiện được hình thức bên ngoài mà còn

làm tăng giá trị đinh dưỡng của thực phẩm”,

Hạnh nhấn mạnh.

Gia Hân cho biết, để tạo ra được các

phẩm màu này khá đơn giản. Trước tiên, các

nguyên liệu được xử lý sạch, sấy khô và xay

bột mịn. Đối với nguyên liệu là quả gấc nên

chọn trái tươi, ruột chín đỏ, tách hạt và màng

xung quanh hạt, sấy ở 70oC với thời gian 20

phút. Sau đó, tách màng xung quanh hạt và

sấy khô ở 110oC với thời gian 60 phút, đạt độ

ẩm dưới 5% rồi làm nguội.

Dành dành chọn trái cây màu vàng

tươi, lấy hạt, rửa sạch với nước, và sấy khô ở

110oC với thời gian 60 phút để đạt độ ẩm

dưới 5%, làm nguội, xay thành bột mịn. Còn

với lá gai thì chọn lá xanh tươi, rửa sạch bằng

nước, đun sôi lá với nước nóng ở 100oC trong

Page 15: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 15/53

10 phút, sau đó sấy khô ở nhiệt độ 110oC để

đạt độ ẩm dưới 5%.

Tiếp theo, cân 1 gam nguyên liệu khô

cho vào bình cầu 500 ml. Thêm 50 ml ethanol

thực phẩm. Đặt trên máy khuấy từ gia nhiệt

có lắp đặt hệ thống làm lạnh ngưng tụ hồi lưu.

Nhiệt độ chiết 70oC, thời gian chiết 60 phút

đối với phẩm màu đỏ từ quả gấc và phẩm

màu vàng từ dành dành; thời gian chiết 90

phút đối với phẩm xanh từ lá Gai.

Phẩm màu thu được cần được bảo

quản và lưu giữ trong ngăn mát tủ lạnh để sử

dụng dần.

Bước đầu, hai bạn đã thử 'nhuộm màu'

cho hai loại sản phẩm chế biến có gia nhiệt,

gồm đông sương làm từ rong biển và hạt trân

châu làm từ bột năng và bột gạo. Kết quả cho

màu sắc đậm đẹp, không có mùi vị lạ.

“Hiện tại, chúng em đang nghiên cứu

sản xuất thêm 2 phẩm màu đỏ và tím từ củ

dền đỏ và từ bắp cải tím. Theo em, việc sản

xuất các phẩm màu thực phẩm từ thiên nhiên

với nguyên liệu sẵn có, dễ làm tại các hộ gia

đình, nhằm góp phần bảo vệ sức khỏe, nâng

cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng”,

Gia Hân nói.

Hạt trân châu sau khi được 'nhuộm màu

Theo cô giáo Phan Thị Ngọc Hóa, giáo

viên hướng dẫn thực hiện đề tài, Gia Hân và

Minh Hạnh là các học sinh rất đam mê nghiên

cứu khoa học.

“Với quy trình chế biến đơn giản này

hoàn toàn có thể sản xuất ra các phẩm màu

100% tự nhiên thay thể cho phẩm màu tổng

hợp, góp phầm bảo vệ sức khỏe cho mọi

người”, cô Hóa cho biết thêm.

Vừa qua, đề tài của hai em được trao

giải Nhì tại Cuộc thị Khoa học kỹ thuật tỉnh

Thừa Thiên Huế năm học 2018-2019.

Nguồn: Hồ Thành, khampha.vn,

22/04/2019

Trở về đầu trang

**************

VẬT LIỆU – HÓA CHẤT

Phương pháp tích hợp nguyên tử hydro vào lớp màng giúp cải thiện chất lượng pin mặt trời

Nhóm nghiên cứu của TS. Nguyễn

Trọng Hiếu tại Đại học quốc gia Australia

(ANU), trường đại học hàng đầu của

Australia và thế giới, mới đây đã công bố một

loạt phát hiện đột phá có thể giúp cách mạng

hóa công nghệ năng lượng mặt trời.

Theo phóng viên TTXVN tại Sydney,

trong khi đa số các nghiên cứu tập trung vào

cải thiện chất lượng của phần lõi bên trong

pin mặt trời, nhóm nghiên cứu của TS. Trọng

Hiếu tập trung vào lớp màng mỏng bên trên

của pin, vốn mỏng hơn vài ngàn lần so với

tóc người. Lớp vỏ mỏng này dùng để dẫn

điện từ pin và bảo vệ phần lõi.

Đầu năm 2018, nhóm nghiên cứu phát

hiện lớp vỏ mỏng này có thể phát ra ánh sáng

rất đặc biệt. Họ nhanh chóng nhận ra sự hiện

diện của các nguyên tử hydro làm thay đổi

Page 16: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 16/53

đáng kể các đặc tính của ánh sáng này. Đây là

thông tin mà sau đó có thể được sử dụng để

tìm hiểu những gì xảy ra bên trong lớp màng

mỏng. Cuối năm 2018, nhóm tiếp tục tìm ra

một phương pháp để tích hợp các nguyên tử

hydro vào lớp màng này để cải thiện chất

lượng của toàn bộ pin.

Theo TS. Hiếu, hydrogen là nguyên tố

nhẹ nhất trong bảng tuần hoàn nhưng cực kỳ

mạnh để chữa lành “vết thương” của vật liệu

bán dẫn. Thật không may, trong tự nhiên, nó

thường tồn tại ở dạng phân tử (hai nguyên tử

liên kết với nhau).

Nhóm nghiên cứu đã khắc phục điều

này bằng cách đặt một vật liệu khác có nhiều

hydro nguyên tử lên trên lớp màng, sau đó

đẩy các nguyên tử hydro riêng lẻ vào trong

màng bằng cách làm nóng mẫu ở 4000C.

TS. Hiếu cho biết, khi các nguyên tử

hydro được “tiêm” vào lớp màng, thay vì lõi

tế bào, hiệu suất của toàn bộ pin được tăng

lên đáng kể.

Nghiên cứu sinh Trương Ngọc Thiện,

thành viên người Việt Nam duy nhất trong

nhóm nghiên cứu, cho biết thêm, khi dùng vật

liệu silicon chất lượng cao, việc cải thiện lõi

tế bào chỉ đạt mức độ giới hạn. Do đó, cải

thiện lớp màng là một bước rất quan trọng để

đạt được pin mặt trời hiệu quả cao.

Theo nghiên cứu sinh Trương Ngọc

Thiện, những khám phá này chắc chắn sẽ

giúp sản xuất pin mặt trời silicon mạnh hơn

và hiệu quả hơn bởi các nhà khoa học đã biết

cách điều khiển hàm lượng hydro bên trong

lớp màng để có pin mặt trời tốt hơn”.

TS. Hiếu cho biết vài năm trở lại đây,

có vài chục nhóm nghiên cứu về công nghệ

mới này trên phạm vi toàn cầu. Cuối năm

2017, khi ý tưởng vừa nhen nhóm, anh rất lo

lắng, nhưng sau khi tuyển được một nhóm

sinh viên xuất sắc đầu năm 2018 thì nhóm bắt

tay vào việc thực hiện dự án này.

Nguồn: Ngọc An,

khoahocphothong.com.vn, 10/04/2019

Trở về đầu trang

*************

Chế tạo vật liệu nano thế hệ mới và ứng dụng chúng trong pin nhiên liệu dùng cho động cơ di động tương lai

Th.S Nguyễn Văn Mỷ tại Trung tâm Nghiên cứu vật liệu cấu trúc nano và phân tử.

Công trình “Nghiên cứu chế tạo vật

liệu nano thế hệ mới và ứng dụng chúng trong

pin nhiên liệu dùng cho động cơ di động

tương lai” của thạc sĩ - nghiên cứu sinh

Nguyễn Văn Mỷ ở Trung tâm Nghiên cứu vật

liệu cấu trúc nano và phân tử - Đại học Quốc

gia TPHCM đã tạo ra sức bền lớn hơn cho pin

năng lượng, có hiệu quả cao khi ứng dụng

vào việc sản xuất pin cho các thiết bị di động,

đặc biệt với pin cho xe hơi điện.

Thế giới luôn chạy đua tìm nguồn

năng lượng tốt hơn, sạch hơn, bền hơn và khi

nói về pin nhiên liệu thì xu hướng nghiên

cứu, phát triển pin có dung lượng cao hơn,

bền hơn ngày càng phổ biến và cấp thiết hơn.

Sự bùng nổ gần đây của xe điện đặt ra yêu

cầu nghiên cứu các ứng dụng của pin để tích

Page 17: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 17/53

trữ và vận chuyển năng lượng nhanh và bền

bỉ. Gần đây, Nhật Bản đã có kế hoạch sử

dụng những chiếc xe sử dụng pin nhiên liệu

thay thế cho xăng dầu để chở vận động viên

đến các nơi thi đấu tại Olympic Tokyo năm

2020. Trong đó, “thêm sức bền” cho pin

nhiên liệu là một vấn đề đặt ra cho nguồn

năng lượng này.

Thạc sĩ - nghiên cứu sinh Nguyễn Văn

Mỷ cho biết: Trong số các thành phần cấu tạo

pin nhiên liệu, việc phát triển vật liệu làm

màng trao đổi proton, có khả năng hoạt động

trong điều kiện thực tế được quan tâm sâu

sắc. Các vật liệu làm màng trao đổi proton

truyền thống là các polyme perfluorosulfonic

(PFSA), tức là Nafion được hydrat hóa hoàn

toàn, có khả năng đạt được độ dẫn proton cao

khoảng 1 x 10-1 S cm-1 tại 800C. Tuy nhiên,

độ ẩm tương đối (RH) cần phải cao hơn 98%.

Với độ ẩm này, chỉ một sự dao động nhiệt độ

nhỏ, có thể gây ra sự ngưng tụ nước dẫn đến

mất hiệu suất của pin nhiên liệu cũng như tốn

chi phí lớn trong việc duy trì độ ẩm cao.

Ngoài ra, pin nhiên liệu hydro cần hoạt

động tốt ở nhiệt độ cao để giảm sự đầu độc của

khí CO đối với xúc tác Pt trên điện cực. Tuy

nhiên, tại nhiệt độ cao hơn 800C, cấu trúc

Nafion không bền (trương nở về mặt cơ học)

dẫn đến làm giảm độ dẫn proton. Do đó, cần

thiết kế và tổng hợp các vật liệu mới làm màng

trao đổi proton với độ dẫn proton cao, hoạt

động tốt ở nhiệt cao và độ ẩm thấp hơn 98%.

Vật liệu khung hữu cơ kim loại (Metal-

organic frameworks - MOFs) là loại vật liệu

xốp có diện tích bề mặt cao được tạo thành từ

các cụm kim loại và các cầu nối hữu cơ. Loại

vật liệu này đang thu hút sự quan tâm của các

nhà khoa học trên thế giới và được ứng dụng

trong nhiều lĩnh vực khác nhau như là lưu trữ,

tách khí, hấp phụ khí nhà kính như CO2 hay

CH4, xúc tác dị thể, đầu dò hóa học… Gần

đây, vật liệu nano MOFs được sử dụng rộng

rãi để làm vật liệu màng trao đổi proton nhờ có

độ bền nhiệt và hóa học cao cũng như có thể

đưa chất mang proton vào cấu trúc MOFs

thông qua tương tác axit-bazơ.

“Cho đến năm 2017 và 2018, lần đầu

tiên chúng tôi đã tổng hợp thành công hai loại

vật liệu Zr-MOFs mới, chưa từng được công

bố trên thế giới (được đặt tên lần lượt là

VNU-17 và VNU-23) trên cơ sở các liên kết

sulfonat của cầu nối hữu cơ với các cụm kim

loại Zr. Giá trị độ dẫn proton này cao hơn rất

nhiều so với các vật liệu MOFs truyền thống

và gần tiệm cận giá trị độ dẫn proton của các

vật liệu công nghiệp cũng như phù hợp với

điều kiện thực tế sử dụng pin nhiên liệu cho

các loại xe hơi”, ông Mỷ cho biết thêm.

Với công trình này, ông Nguyễn Văn

Mỷ đã đóng góp lớn vào hệ thống thư viện về

vật liệu mới trên thế giới: VNU-17 và VNU-

23 là hai cấu trúc hoàn toàn mới và chưa từng

được công bố. Hai vật liệu HIm11VNU-17 và

His8.2VNU-23 thể hiện giá trị dẫn proton

vượt trội so với các vật liệu MOFs khác. Vật

liệu His8.2VNU-23 có giá trị độ dẫn >10-2 S

cm-1 (95oC, 85 %RH) tương tự với độ dẫn

proton của vật liệu truyền thống Nafion

nhưng khắc phục hoàn toàn nhược điểm của

Nafion khi được đo lường ở độ ẩm thấp hơn

và nhiệt độ cao. Và hơn nữa, đề tài có khả

năng ứng dụng cao (vì quá trình tổng hợp vật

liệu từ các nguồn rẻ tiền như muối ZrOCl2 và

linker H2NDC) để làm màng trao đổi proton

trong thực tế với loại pin nhiên liệu hydro.

Nguồn: Kim Thanh, sggp.org.vn,

06/04/2019

Trở về đầu trang

*************

Page 18: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 18/53

Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất dây nano ôxít kim loại đa nguyên tố ABO (ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4) bằng phương pháp bốc bay nhiệt

Nhằm nghiên cứu chế tạo thành công

dây nano của một số ôxít kim loại đa thành

phần ABO như ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4

bằng phương pháp bốc bay nhiệt nhằm ứng

dụng trong lĩnh vực cảm biến khí và quang

xúc tác, nhóm nghiên cứu do TS. Đỗ Đăng

Trung, Trường Đại học Phòng cháy Chữa

cháy, Bộ Công An đứng đầu đã tiến hành

nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu chế tạo và

khảo sát tính chất dây nano ôxít kim loại đa

nguyên tố ABO (ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4)

bằng phương pháp bốc bay nhiệt”.

Sau một thời gian triển khai thực hiện,

nhóm nghiên cứu đã thu được các kết quả

như sau:

1. Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính

chất của dây nano ABO

- Đã chế tạo thành công dây nano

Zn2SnO4 bằng phường pháp bốc bay nhiệt.

Hỗn hợp bột nguồn gồm ZnO:C:Sn. Tỷ lệ

thành ZnO:C là 1:1 và thành phần Sn thay đổi

trong khoảng từ 2 đến 10% tổng khối lượng.

Tính chất về cấu trúc và hình thái của dây

nano Zn2SnO4 đã được chúng tôi nghiên cứu

bằng phương pháp SEM và XRD. Ảnh hưởng

của hàm lượng Sn đền cấu trúc và hình thái

của dây nano Zn2SnO4 cũng đã được chúng

tôi nghiên cứu. Các kết quả này đã được công

bố trên tạp chí ISI. Bên cạnh đó, nhóm nghiên

cứu cũng đã nghiên cứu chế tạo dây nano đa

nguyên loại Indium-Tin-Oxide (ITO) và dây

nano SnWO4. Tuy nhiên, việc chế tạo loại

dây này khá phức tạp, kết quả nghiên cứu

hính thái sản phẩm thu được cho thấy không

phải là dây nano ITO cũng như SnWO4. Kết

quả thu được chưa đủ tốt để công bố trên các

công trình khoa học.

- Việc nghiên cứu chế tạo dây nano đa

nguyên (ABO) bằng phương pháp bốc bay

nhiệt khá phức tạp. Trong báo cáo định kỳ,

nhóm có đề xuất mở rộng nghiên cứu chế tạo

dây nano đa nguyên bằng phương pháp hóa

học và kết quả là đã nghiên cứu chế tạo thành

công dây nano ZnO bằng phương pháp thủy

nhiệt hóa học khá đơn giản. Các kết quả

nghiên cứu này được chúng tôi công bố trên

tạp chí Journal of Electronic Materials.

Phương pháp nghiên cứu này có thể được

phát triển để chế tạo loại dây nano đa nguyên

trong thời gian tới bằng cách đưa thêm các

tiền chất khác nhau.

- Đã thành công trong việc sử dụng

phương pháp thủy nhiệt ở áp suất cao và chế

tạo thành công thanh, dây nano MnWO4 sử

dụng hỗn hợp tiền chất chứa các ion Mn2+ và

W2+. Các điều kiện thí được tối ưu để chế tạo

thanh nano MnWO4 với độ lặp lại khá tốt.

Các kết quả nghiên cứu này cũng đã được

chúng tôi công bố trên tạp chí Journal of

Alloys & compounds. Theo hướng nghiên

cứu này nhóm cũng đã tiến hành nghiên cứu

chế tạo thanh, dây nano ZnWO4 và SnWO4

bằng phương pháp thủy nhiệt hóa học ở áp

suất cao. Các kết quả nghiên cứu được trình

bày chi tiết trong phần phụ lục của báo cáo.

Page 19: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 19/53

- Đã nghiên cứu cấu trúc dây nano đa

nguyên CoAl2O4 sử dụng khuông chitosan.

Cấu trúc này có độ xốp khá cao, có tiềm năng

ứng dụng trong vật liệu cảm biến khí và

quang xúc tác.

2. Ứng dụng vật liệu chế tạo được

trong lĩnh vực cảm biến khí và xúc tác

- Đã nghiên cứu chế tạo thành công

cảm biến dây nano Zn2SnO4 bằng phương

pháp mọc trực tiếp lên điện cực và khảo sát

được khả năng nhạy khí NO2 của cảm biến.

Ảnh hưởng của hàm lượng Sn đến tính chất

nhạy khí của dây nano cũng đã được nghiên

cứu. Các kết quả nghiên cứu chính đã được

công bố trên tạp chí Journal of Alloys &

compounds . Các kết quả cho thấy rằng, cảm

biến dây nano Zn2SnO4 nhạy khá tốt với khí

NO2. So với cảm biến dây nano ZnO, độ đáp

ứng của cảm biến dây nano Zn2SnO4 lớn hơn

rất nhiều, độ đáp ứng với 10ppm NO2 ở 200

độ C lên đến gần 35 lần. Trong khi đó độ đáp

ứng với các khí khác như CO, H2, H2S và

NH3 chỉ trong khoảng từ 1.1 đến 2.2 lần, có

nghĩa cảm biến dây nano Zn2SnO4 có độ chọn

lọc khá tốt với khí NO2.

- Đã nghiên cứu một cách có hệ thống

tính chất dây khí của dây nano ZnO và dây

nano Zn2SnO4, sử dụng cảm biến chế tạo

bằng phương pháp mọc trực tiếp trên điện

cực. Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng,

khoảng cách từ đế cảm biến đến vật liệu

nguồn có ảnh hưởng mạnh đến tính chất nhạy

khí của dây nano Zn2SnO4. Trong khi với

cùng khoảng cách nghiên cứu, thì cảm biến

dây nano ZnO hầu như không ảnh hưởng

nhiều đến tính chất nhạy khí của cảm biến.

Các kết quả đưa đến một lưu ý quan trọng

trong việc chế tạo số lượng lớn (chế tạo trên

diện tích lớn) cảm biến dây nano Zn2SnO4

bằng phương pháp bốc bay nhiệt để đạt được

hiệu suất chế tạo mong muốn khi ứng dụng

trong thực tế. Các kết quả này được trình bày

trong phần phụ lục của báo cáo kèm theo.

- Đã nghiên cứu khả năng nhạy khí

NH3 của cảm biến thanh nano MnWO4 chế

tạo bằng phương pháp nhỏ phủ đơn giản. Các

kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cảm biến

thanh nano nhạy tốt với khí NH3 ở nhiệt độ

400 độ C (nhiệt độ tối ưu). Độ đáp ứng của

cảm biến khá tuyến tính với nồng độ khí NH3

trong khoảng nồng độ từ 10 đến 1000 ppm.

Chi tiết các kết quả nghiên cứu này được

công bố trên tạp chí Journal of Alloys &

compounds.

Như vậy, các kết quả nghiên cứu đề tài

thu được có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Kết quả nghiên cứu này có tiềm năng để phát

triển các sản phẩm cảm biến khí thế hệ mới

với nhiều tính năng ưu việt so với cảm biến

truyền thồng. Do đó, nhóm nghiên cứu rất

mong nhận được hỗ trợ để thực hiện các

nghiên cứu tiếp theo.

Nguồn: P.T.T (NASATI), vista.gov.vn,

26/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Chế tạo gạch từ rác thải nhựa

Page 20: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 05/2019 20/53

Nhóm học sinh đang chế tạo sản phẩm gạch polymer từ nhựa thải

Nhóm học sinh Nguyễn Trần Tiến,

Trần Thị Kiều Trang, Võ Thị Mỹ Trâm, Phan

Quốc Huy, Trần Lê Anh Đức, Trần Thái Minh

Quang (lớp 11, Trường THPT Cao Thắng, TP.

Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế) đã chế tạo thành

công sản phẩm gạch polymer từ nhựa thải

nhưng có chất lượng tương đương với gạch

block thông thường.

Gạch polymer của nhóm là loại gạch

không nung, được làm ra bởi 4 nguyên liệu là

xi măng, cát sạn (hỗn hợp giữa cát và sạn),

nhựa xay, nước. Nhóm học sinh đã thu gom

rác thải nhựa (như vỏ tivi, vỏ máy tính, bàn

chải đánh răng, bàn phím, con chuột máy

tính...), rửa sạch và cắt nhỏ. Sau đó, phối trộn

với xi măng, cát sạn và nước rồi đổ vào

khuôn, tạo ra gạch.

Nhóm có 4 mẫu thực nghiệm với tỉ lệ

trộn nhựa khác nhau. Như với mẫu có 0,85 kg

xi măng, 300 gr nhựa và 7,5 kg cát, nước, các

em đã làm nên sản phẩm “gạch nhựa” block

đặc khối lượng 9,8 kg, có kích thước

100x185x280 mm. Hoặc với lượng xi măng

trên, lượng nhựa tăng lên 600 gr, cát giảm

còn 6 kg và nước thì tạo ra sản phẩm gạch

block tương tự với trọng lượng 9,4 kg…

Sau thời gian bảo dưỡng 28 ngày,

nhóm đã đưa mẫu thực nghiệm đi kiểm tra

thông số kĩ thuật ở Xưởng gạch ngói màu

terizzo thuộc Công ty Xi măng Long Thọ

(Huế). Qua kiểm tra về cường độ chịu nén,

lực phá hoại, cường độ trung bình (MPA)…

theo tiêu chuẩn phương pháp thí nghiệm

TCVN 6477-2016, mẫu TN3 là phù hợp với

tất cả mọi công trình, còn TN4 phù hợp với

các công trình chịu lực ít.

Với tính ứng dụng cao, sản phẩm đã

mang về cho nhóm giải Ba cuộc thi Khoa học

kỹ thuật cấp tỉnh vừa diễn ra đầu năm 2019.

Sắp tới, nhóm sẽ nghiên cứu thử

nghiệm xây dựng công thức phối trộn đưa

lượng nhựa thải vào nhiều hơn trong một viên

gạch, thay thế một lượng cát, sạn để tạo vật

liệu mới nhẹ hơn, bền hơn...

Nguồn: BT, baochinhphu.vn,

19/04/2019

Trở về đầu trang

**************

CÔNG NGHỆ SINH HỌC

Page 21: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 21/53

Phát hiện một loài loài thực vật mới cho khoa học

Đặc điểm hình thái của Aristolochia nuichuaensis

Theo TS. Đỗ Văn Trường, Bảo tàng

thiên nhiên Việt Nam, Mộc hương Núi Chúa

(Aristolochia nuichuaensis), một loài thực vật

mới cho khoa học vừa được phát hiện và mô

tả từ Vườn quốc gia Núi Chúa, tỉnh Ninh

Thuận, Việt Nam.

Trên thế giới, chi Mộc hương

(Aristolochia L.) gồm khoảng 600 loài phân

bố chủ yếu vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, là

một trong những nhóm thực vật quan trọng, có

giá trị làm cảnh, làm thuốc hay cung cấp thức

ăn cho sâu non thuộc họ Bướm phượng

(Papilionidae, Lepidoptera). Ở Việt Nam, chi

này được biết khoảng 25 loài thuộc 2 phân chi

Aristolochia và Siphisia. Trong khi nghiên cứu

đa dạng chi Mộc hương ở Việt Nam, các nhà

khoa học thuộc Bảo tàng thiên nhiên Việt

Nam, Viện sinh thái học Miền Nam, thuộc

Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt

Nam và cán bộ Vườn quốc gia Núi Chúa, tỉnh

Ninh Thuận, đã phát hiện và mô tả một loài

thực vật mới thuộc họ Mộc hương

(Aristolochiaceae) ở Vườn quốc gia Núi Chúa,

tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Loài thực vật mới

có tên khoa học là Mộc hương Núi Chúa,

Aristolochia nuichuaensis V.T.Do & H.T.Luu.

Loài mới có đặc điểm hình thái tương

tự với các loài Aristolochia baenzigeri, A.

bidoupensis, và A. petelotii; tuy nhiên, loài

mới được phân biệt với các loài kể trên bởi

những đặc trưng hình thái như: phiến lá hình

tim, trục cụm hoa dài đến 20 cm, phần trên

của ống bao hoa hình trụ, thuôn dài và hẹp

hơn nhiều so với phần dưới, mặt ngoài duy

nhất màu tím, mặt trong duy nhất màu trắng,

môi hình chuông, đường kính 4.5-5 cm, thùy

không cuộn lại, bề mặt ngoài màu trắng với

nhiều đường gờ màu tím nổi rõ, bề mặt trong

màu trắng với nhiều đường gờ lõm và mụn

cơm, họng hình ellip, màu trắng;

gynostemium với 3 thùy nhọn. Những đặc

điểm hình thái trên đặt loài mới này trong

phân chi Siphisia.

Đây là loài thứ 8 của phân chi Siphisia

được phát hiện và mô tả gần đây ở Việt Nam

và nâng tổng số loài của phân chi Siphisia ở

Việt Nam lên 16 loài. Nhóm nghiên cứu cũng

liệt kê thành phần loài, phân bố và xây dựng

khóa định loại cho tất cả các loài của phân chi

Siphisia ở Việt Nam.

Nguồn: A.T,khoahocphothong.com.vn,

18/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Quy trình sản xuất astaxanthin và β-glucan để bổ sung vào thức ăn cho cá dĩa đỏ

Page 22: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 22/53

Đề tài do tác giả Ngô Đại Nghiệp và

cộng sự (Đại học Khoa học Tự nhiên,

TP.HCM) thực hiện nhằm tạo chế phẩm có

chứa astaxanthin từ nấm men Rhodosporidium

sp. và vi tảo Haematococcus pluvialis và β-

glucan từ Rhodosporidium sp. và

Saccharomyces cerevisiae, ứng dụng trong thực

phẩm chăn nuôi làm tăng phẩm chất vật nuôi.

Trong tự nhiên, các loài cá nhiệt đới

thường có nhiều màu sắc khác nhau và chính

đặc điểm này làm cho chúng trở nên rực rỡ,

thu hút hơn và làm cho chúng có giá trị kinh tế

không chỉ phục vụ cho nền công nghiệp cá

cảnh trong nước mà còn có khả năng tiến tới

xuất khẩu. Thực tế khi nuôi các loại cá cảnh

như cá dĩa, để nhuộm màu cơ, da hay làm cho

cá cảnh có màu vàng cam hay đỏ, thức ăn nuôi

công nghiệp thường được bổ sung sắc tố, làm

cho cá có màu sắc đẹp hơn. Các sắc tố hiện

diện trên da, đóng một vai trò quan trọng đối

với giá trị thương mại của các loài cá cảnh.

Astaxanthin và β-glucan là hai hợp chất có

nhiều tiềm năng trong việc tăng màu sắc và

sức đề kháng cho cá cảnh, đã được sử dụng

như là thành phần bổ sung trong thực phẩm

cho một số đối tượng thủy hải sản. Trong

nghiên cứu này, astaxanthin được thu nhận từ

tảo Haematococcus pluvialis và nấm men

hồng Rhodosporidium sp., β-glucan được thu

từ nấm men hồng, nấm men bia và nấm men

bánh mì (Saccharomyces cerevisiae).

Các kết quả thu được cho thấy,

Haematococcus pluvialis có hai pha sinh

trưởng và tạo astaxanthin. Môi trường tăng

sinh tốt nhất cho loài H. pluvialis là BG11 ở

điều kiện sục khí với cường độ ánh sáng

2Klux, thời gian chiếu 12 giờ ở 25oC trong

thời gian 14 ngày. Trong giai đoạn tạo

astaxanthin, khi sử dụng môi trường BG11

nuôi tĩnh thì từ 18 ngày trở đi mới có sự tích

lũy astaxanthin. Khi tăng nhiệt độ lên 37oC

thì thời gian bắt đầu tích lũy là ngày thứ 10 và

đạt 2,68% ở ngày thứ 22. Khi nuôi trong môi

trường RM không có nitơ và phospho với thời

gian chiếu sáng 24 giờ/ngày hàm lượng

astaxanthin tích lũy chiếm tới 2,67% trọng

lượng tế bào chỉ sau 10 ngày gây stress.

Trong khi nấm men Rhodosporidium

sp. cho sinh khối có nhiều astaxanthin tối ưu

khi nuôi cấy với tỷ lệ giống bổ sung 10% vào

thời điểm 74 giờ. Cụ thể hàm lượng

astaxanthin là 2309,17μg/l và trọng lượng

sinh khối khô thu được là 6,1696 g/l hay

374,29 μg/g sinh khối khô. Ngoài ra cũng đã

xác định được điều kiện thích hợp cho thu

nhận hàm lượng β-glucan là 64,87% ở nồng

độ NaOH 0,5M trong thời gian 4 giờ, nhiệt độ

100oC, tỷ lệ mẫu:NaOH là 1:5. Ngoài ra, quy

trình thích hợp để tách chiết β-glucan từ vách

tế bào nấm men cho cả men bia và men bánh

mì là NaOH 1M, đun ở 1000C trong 4 giờ với

tỷ lệ NaOH (ml):vách tế bào (g) = 1:5.

Sau ba tháng thí nghiệm, kết quả cho

thấy màu sắc của cá dĩa đỏ ở các nghiệm thức

có sự khác nhau rõ rệt ở nồng độ 90mg/kg

thức ăn. Cá dĩa có màu sắc đậm nhất ở

nghiệm thức chế phẩm thương mại với số

điểm trung bình là 28,25; kế đến là nghiệm

thức astaxanthin tách chiết tương ứng với số

điểm 26,23; nghiệm thức đối chứng không sử

dụng astaxanthin cho kết quả màu sắc trên da

cá dĩa nhạt nhất với 20,48 điểm. Sau 30 ngày

cho cá ăn thức ăn có bổ sung β-glucan với các

nồng độ khác nhau 0,1%, 0,5% và 1%, ở

nghiệm thức cho ăn ở nồng độ 1% có khả

năng kích thích miễn dịch cho cá dĩa. Đồng

thời β-glucan có khả năng kích thích tăng sức

đề kháng hơn là trị bệnh.

Từ kết quả thử nghiệm xác định được

chế phẩm bổ sung cho thức ăn cho cá dĩa đỏ

có thể làm đậm màu của cá và làm tăng hệ

miễn dịch (tăng tổng số tế bào bạch cầu ở cá)

là hàm lượng astaxanthin và β-glucan lần lượt

là 90mg/kg thức ăn và 10g/kg thức ăn.

Page 23: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 23/53

Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,

14/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Thu thập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn phân giải chlorpyrifos

Đề tài do tác giả Đoàn Thị Mộng

Thắm và cộng sự (Trung tâm Phát triển

KH&CN Trẻ) thực hiện nhằm phân lập các

vi khuẩn có khả năng làm suy giảm

chlorpyrifos, một chất diệt côn trùng

phosphate hữu cơ, được sử dụng rộng rãi

trong nông nghiệp. Đồng thời, góp phần

cung cấp thông tin về một số chủng loài vi

khuẩn có khả năng phân giải chlorpyrifos

của nước ta.

Chlorpyrifos là một chất độc thần

kinh, gây bất hoạt enzyme acetyl

cholinesterase, có vai trò điều hòa sự dẫn

truyền thần kinh, từ đó gây chết côn trùng.

Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc trừ sâu quá

mức và không đúng cách dẫn đến dư lượng

thuốc trừ sâu vượt quá giới hạn cho phép

trong nông sản và thực phẩm, ảnh hưởng đến

môi trường và sức khỏe con người. Chúng có

thể gây ra ngộ độc cấp tính và nguy hiểm

cho người và động vật, đặc biệt là động vật

chân đốt và các loài thủy sinh.

Vi khuẩn từ lâu được các nhà khoa học

biết đến với khả năng phân giải thuốc trừ sâu

và các hợp chất dị sinh có hại khác trong đất.

Chúng không chỉ có khả năng sinh trưởng

nhanh, thích nghi tốt với các điều kiện môi

trường sống khác nhau, không cạnh tranh đất

với thực vật, mà còn có khả năng tạo ra môi

trường thuận lợi cho hệ thống rễ cây tăng

trưởng tốt trong đất.

Từ 50 mẫu đất thu thập được ở 50 nơi

trồng lúa, rau màu và cây ăn quả, nhóm tác giả

đã phân lập được 107 chủng vi khuẩn có khả

năng sinh trưởng trên môi trường muối khoáng

(MSM) bổ sung 300 μg/mL chlorpyrifos. Trong

đó, đề tài đã tuyển chọn được 20 chủng vi

khuẩn có khả năng sinh trưởng mạnh trên môi

trường MSM – Agar 300 μg/mL chlorpyrifos

là: Burkholderia vietnamiensis (2.8),

Ochrobactrum intermedium (2.10), Bacillus

megaterium (3.6), Pseudomonas luteola (5.1),

Bacillus curculans (5.2), Pantoea dispersa (5.4),

Paenibacillus validus (6.2), Burkholderia

graminis (6.3), Paenibacillus nanensis (8.2),

Pseudomonas duriflava (13.1), Pseudomonas

citronellolis (13.3), Burkholderia diffusa (13.4),

Bacillus megaterium (15.3), Burkholderia

graminis (16.2), Burkholderia stabilis (16.3),

Klebsiella pneumonia (18.1), Burkholderia

vietnamiensis (26.1), Pseudomonas

nitroreducens (27.2), Pseudomonas aeruginosa

(30.1), Ochrobactrum tritici (49.1). Các chủng

tuyển chọn được định danh theo phương pháp

phân tích hình thái, sinh lí, sinh hóa dựa trên

khóa phân loại Bergey 1994 thuộc 7 chi

(Burkholderia, Ochrobactrum, Pseudomonas,

Bacillus, Pantoea, Paenibacillus và Klebsiella).

Trong đó, 4 chủng là Pseudomonas

duriflava 13.1, Bacillus megaterium 15.3,

Burkholderia graminis 16.2 và Burkholderia

stabilis 16.3 có khả năng phân giải

chlorpyrifos trên môi trường MSM – Agar

chứa 100 – 300 μg/mL chlorpyrifos mạnh

nhất, độ lớn vòng phân giải đạt 7 - 11 mm

sau 10 ngày nuôi cấy. Chủng Burkholderia

stabilis 16.3 được phân lập từ ruộng lúa (tỉnh

Bình Dương) có khả năng phân giải

chlorpyrifos trên môi trường có hoặc không

có sự hiện diện của glucose, làm giảm lượng

chlopyrofos lần lượt là 189,22 và 173,13

μg/mL sau 15 ngày nuôi cấy.

Page 24: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 24/53

Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,

18/03/2019

Trở về đầu trang

**************

Y HỌC

Nghiên cứu và chế tạo thành công vật liệu kết xương titan

Khoa vật liệu, Trường đại học bách

Khoa Hà Nội đã nghiên cứu và chế tạo thành

công vật liệu titan xốp và titan đặc, có tiềm

năng trong việc ứng dụng kết xương. Tuy

nhiên, cần phải đánh giá tính tương thích sinh

học của vật liệu trên mô hình động vật thí

nghiệm trước khi thực hiện thử nghiệm lâm

sàng. Vì vậy, các bác sĩ Lê Văn Quân, Bệnh

viện quân y 103, Cấn Văn Mão, Học viện

quân y, đã tiến hành nghiên cứu.

Động vật nghiên cứu là 12 con thỏ

khỏe mạnh, cân nặng khoảng 2 - 2,5 kg. Sau

phẫu thuật, toàn bộ động vật đều tỉnh sau 1 -

3 giờ, có thể tự ăn uống sau 12 giờ, tỷ lệ sống

100%. Động vật đi lại ít, chậm trong vòng 24

giờ đầu sau mổ.

Trước phẫu thuật, trọng lượng trung

bình của thỏ ở ba nhóm dao động từ 2,61 -

2,64 kg và không có sự khác biệt về trọng

lượng giữa các nhóm. Trọng lượng của động

vật ở các nhóm cho thấy quá trình phát triển

của động vật bình thường, tương ứng với lứa

tuổi động vật từ 6 - 8 tháng. Sau phẫu thuật 1

tuần, trọng lượng của động vật nghiên cứu hầu

như không khác biệt so với trước phẫu thuật ở

cả 2 nhóm, cân nặng của thỏ không giảm so

với trước phẫu thuật. Kết quả này cho thấy

phẫu thuật đặt vật liệu vào xương đùi thỏ

không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe động

vật, điều này cũng phù hợp với thực tế quan

sát thấy thỏ vẫn ăn uống, đi lại bình thường.

Thân nhiệt của thỏ ở thời điểm trước

phẫu thuật có giá trị trung bình 37,38 -

38,40 C. Đây là giá trị thân nhiệt tương tự như

trên thỏ khỏe mạnh, không có tình trạng bệnh

lý gây viêm nhiễm khi đo qua đường hậu môn.

Như vậy, động vật được lựa chọn nghiên cứu

đảm bảo khỏe mạnh và tương đồng giữa các

nhóm ở thời điểm chưa phẫu thuật. Sau phẫu

thuật 1 ngày và 1 tuần, thân nhiệt của thỏ

không có xu hướng tăng hơn so với thời điểm

trước khi phẫu thuật. Điều này cho thấy phẫu

thuật đặt vật liệu vào xương đùi thỏ không gây

viêm làm tăng thân nhiệt, đây là phản ứng

bình thường của cơ thể khi có can thiệp ngoại

khoa mà đảm bảo vô trùng.

Không có sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê về số lượng bạch cầu trước và sau

phẫu thuật đặt vật liệu kết xương ở cả hai

nhóm titan xốp và titan đặc. Số lượng bạch

cầu là một chỉ số đánh giá tình trạng viêm.

Kết quả này cùng với thay đổi nhiệt độ tại

chỗ và toàn thân của động vật cho thấy vật

liệu kết xương có tính tương thích sinh học

cao và không gây phản ứng viêm trên động

vật thực nghiệm.

Về tình trạng tại chỗ, vết mổ có dấu

hiệu phù nề, xung huyết nhẹ trong 3 ngày đầu

tiên, không có dịch thấm băng, không có hiệt

tượng chảy máu, chảy dịch từ vết mổ. Sau 7

Page 25: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 25/53

ngày, mép vết mổ khít, tổ chức dưới da không

bị căng phồng, tràn dịch, tràn khí, hết tình

trạng phù nề, xung huyết. Sau phẫu thuật 1

tuần và 1 tháng, bóc tách kiểm tra cân cơ tại

chỗ vết mổ ở cả hai nhóm đều thấy: tổ chức

dưới da vùng ghép và xung quanh không thấy

biến đổi bất thường. Không có hạch, không

xơ hóa. Không thấy các mảnh vụn của vật

liệu rơi ra. Vùng mô cơ tiếp xúc trực tiếp với

vật liệu và xung quanh vật liệu có màu đỏ

hồng như những vùng khác, không quan sát

thấy vật liệu ngấm màu ra xung quanh.

Khối mô cơ chứa vật liệu đàn hồi tốt,

màu sắc hồng, trong, giống như vùng mô cơ

xung quanh. Vật liệu áp sát vào xương, màu

sáng, xung quanh không thấy hình ảnh viêm,

hoại tử. Có hiện tượng mô phát triển che phủ

vật liệu, không có hiện tượng tạo xơ hay vật

liệu bám lỏng lẻo trên bề mặt xương. Kết quả

này phù hợp với tiến trình liền vết thương, tạo

sẹo của vết thường không có biến chứng.

Kết quả trên hình ảnh mô bệnh học

cho thấy không có hiện tượng viêm tại tổ

chức xương và phần mềm xung quanh vị trí

đặt vật liệu kết xương.

Kết quả nghiên cứu, qua theo dõi tình

trạng toàn thân và tại chỗ trên động vật

nghiên cứu tại các thời điểm trước phẫu thuật,

sau phẫu thuật 1 ngày, 1 tuần cho thấy các chỉ

số thu được đều nằm trong phạm vi bình

thường trên thỏ khỏe mạnh và tương tự người

khỏe mạnh. Ở thời điểm sau nghiên cứu 1

tháng vết mổ liền sẹo tốt, hình ảnh đại thể

xung quanh vùng đặt vật liệu bình thường,

không thấy có hình ảnh gây viêm xương, hoại

tử xương. Hình ảnh vi thể trên mô bệnh học

không thấy hiện tượng viêm xương và tổ chức

phần mềm xung quanh. Điều này cho thấy vật

liệu titan xốp và titan đặc có tính tương thích

sinh học cao, không gây biến chứng khi đưa

vào xương đùi thỏ.

Nguồn: N.Quỳnh,

khoahocphothong.com.vn, 11/04/2019

Trở về đầu trang

**************

NÔNG NGHIỆP

Công nghệ sấy vi sóng trong bảo quản, chế biến nông sản và thực phẩm

Thiết bị ứng dụng công nghệ sấy vi sóng.

Hiện nay, nhu cầu về sử dụng công

nghệ vi sóng trong bảo quản và chế biến thực

phẩm, nông sản là rất cao. Hướng phát triển

là các công ty cần làm chủ công nghệ vi sóng

để đáp ứng thị trường trong nước. Xuất phát

từ thực tế trên, sáng nay ngày 19/4/2019,

Trung tâm thông tin và thống kê KH&CN

TP.HCM (CESTI - Sở KH&CN TP.HCM), tổ

chức buổi báo cáo chủ đề “Hướng ứng dụng

công nghệ sấy vi sóng trong bảo quản, chế

biến nông sản và thực phẩm”.

TS. Nguyễn Đình Uyên - Công ty cổ

phần giải pháp nông nghiệp 5D – cho biết, với

các thiết bị sấy truyền thống như sấy đối lưu,

sấy tiếp xúc truyền nhiệt, sấy bức xạ … vốn là

phương pháp hút ẩm, làm mất nước từ bề mặt

bên ngoài sản phẩm. Phương pháp sấy sử dụng

Page 26: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 26/53

công nghệ vi sóng là phương pháp mà tất cả

các thành phần của vật liệu được làm khô do

nhiệt được thâm nhập bằng những tia sóng siêu

nhỏ, từ trong lõi sản phẩm ra bên ngoài bề mặt.

Vi sóng làm các phân tử nước rung, dao động

một cách nhanh chóng và bay hơi. Phương

pháp vi sóng này không chỉ tiết kiệm năng

lượng dùng công suất thấp hơn so với các hệ

thống sấy cũ mà còn giữ lại hầu hết chất dinh

dưỡng, màu sắc ban đầu của sản phẩm. Đặc

biệt, có thể tiêu diệt hầu hết 2 vi khuẩn E.coli

và Samonella tồn tại trong sản phẩm.

Hệ thống bao gồm: phần tạo vi sóng;

phần dẫn năng lượng vi sóng; băng tải;

buồng sấy và hệ thống vào ra đảm bảo an

toàn sóng điện từ.

Tại Việt Nam, có nhiều công ty đã bán

thiết bị dùng sóng siêu cao tần cho ngành chế

biến thực phẩm nhưng chưa có công ty nghiên

cứu và chế tạo thiết bị dùng sóng siêu cao tần.

Hiện Công ty cổ phần giải pháp nông nghiệp

5D và Công ty cổ phần máy và thiết bị công

nghiệp quốc tế là 2 đơn vị đã nghiên cứu và

thành công trong việc chế tạo ra hệ thống ứng

dụng công nghệ sấy vi sóng dùng trong nông

sản và thực phẩm như: xoài, mít, đậu phộng,

bột bánh, gạo, hạt điều, hạt cacao, ớt v.v…

Đánh giá tính hiệu quả về mặt kinh tế

và xã hội của việc ứng dụng phương pháp

trên, ông Đào Quốc Hưng - tổng giám đốc

Công ty cổ phần máy và thiết bị công nghiệp

quốc tế - cho biết, đơn vị chủ động hoàn toàn

từ nguồn vật tư trong nước đặc biệt là thiết bị

cao áp; sản phẩm do đội ngũ nghiên cứu Việt

Nam thiết kế và sản xuất nên có giá thành

hợp lý; thiết bị đơn giản tự động, dễ chế tạo,

vận hành; sản phẩm tiết kiệm điện năng nên

thân thiện với môi trường …

Trước năm 2009, sóng siêu cao tần đã

được dùng rộng rãi để diệt vi khuẩn trong

ngành y tế: dụng cụ y khoa, dụng cụ nha khoa,

tròng mắt không tiếp xúc.

Nguồn: Tuyết Mai,

khoahocphothong.com.vn, 22/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Chế tạo máy thu gom nông sản tự động

Với niềm đam mê nghiên cứu, tìm tòi

sáng tạo, hai học sinh ở huyện miền núi Ninh

Sơn (Ninh Thuận) đoạt giải nhất cuộc thi Khoa

học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh

trung học năm học 2018 - 2019.

Thực và Nguyên cùng nhau trao đổi,

lấy ý tưởng từ chiếc máy hút bụi trong nhà và

chiếc máy thu gom rác thải để chế tạo ra mô

hình máy thu gom nông sản điều khiển tự

động, giúp nông dân thu gom nông sản sau khi

phơi khô, tiết kiệm chi phí. Ý tưởng đã nhận

được sự ủng hộ, hướng dẫn tận tình của thạc sĩ

Nguyễn Trần Thái Vũ, giáo viên bộ môn vật lý

và là giáo viên chủ nhiệm của hai em.

Sau nhiều tháng thầy trò cùng nhau

thiết kế, thử nghiệm, sản phẩm dự thi máy

điều khiển tự động thu gom nông sản trên sân

Đến năm 2009, Cơ quan quản lý

thuốc và thực phẩm của Hoa Kỳ (FDA) ra

quyết định được dùng sóng siêu cao tần để

diệt khuẩn trong quy trình bảo quản thức

ăn đóng hộp.

Từ năm 2009 đến nay, việc dùng

sóng siêu cao tần càng ngày càng phát

triển. Hiện tại trên thế giới, sóng siêu cao

tần đang được dùng trong rất nhiều lĩnh

vực như: diệt khuẩn cho thức ăn, sấy trái

cây, sấy gỗ, diệt mọt trong đậu, gạo v.v…

Page 27: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 27/53

phơi đã hoàn thành với tổng chi phí hơn 10

triệu đồng.

Trần Hoàng Nguyên (trái) và Nguyễn Hữu Thực với sản phẩm dự thi đoạt giải nhất

Về nguyên lý hoạt động: Khi hoạt

động, hệ thống quét sẽ đẩy nông sản lên

khoang chứa. Băng chuyền có gắn các gàu

múc để đưa nông sản lên cao và đổ vào máng

dẫn. Nông sản theo máng rơi vào bao thông

qua giá treo đã được lắp ở vị trí ngay bên

dưới máng dẫn. Khi nông sản chứa vào bao

đến một trọng lượng xác định sẽ gây ra lực đủ

lớn để tạo lực nén lên hệ thống băng chuyền

tải đẩy bao chứa nén lên công tắc làm ngắt

mạch, đồng thời hệ thống chổi quét và băng

chuyền tải ngừng hoạt động.

Sau 2 giây, động cơ của hệ thống băng

chuyền đẩy bao chứa nông sản ra phía sau, đi

qua máy may miệng bao; song song đó là

động cơ băng chuyền dẫn bao chứa đến vị trí

sẵn sàng tiếp nhận ngay bên dưới máng dẫn.

Khi giai đoạn may bao kết thúc, bao chứa

nông sản rời băng chuyền thì công tắc đóng

mạch kích hoạt hệ thống quét và băng chuyền

tải hoạt động.

Quá trình được lặp lại cho đến khi máy

di chuyển đến vị trí dừng cuối sân phơi. Tại

vị trí dừng cuối sân phơi, sử dụng vật cản

cách điểm kết thúc một khoảng, cảm biến

khoảng cách sẽ điều khiển dừng toàn bộ hoạt

động của máy; đồng thời cung cấp tín hiệu để

còi hoạt động, báo hiệu kết thúc công việc.

Tại cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp

quốc gia học sinh trung học năm học 2018 -

2019 (khu vực phía nam), sản phẩm máy điều

khiển tự động thu gom nông sản trên sân phơi

đã vượt qua nhiều sản phẩm đến từ các tỉnh,

thành phố đoạt giải nhất.

Nguồn:Thiện Nhân, thanhnien.vn,

05/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Chế tạo hệ thống tưới cây bằng điện thoại

Mô hình hệ thống tưới cây điều khiển bằng điện thoại.

Đam mê nghiên cứu khoa học từ nhỏ,

em Huỳnh Tấn Cường, học sinh lớp 11B5

trường THPT Lý Thường Kiệt, huyện Hóc

Môn, TP.HCM đã khiến nhiều thầy cô bất ngờ

khi tự mình nghiên cứu và chế tạo thành công

hệ thống tưới cây điều khiển bằng điện thoại.

Hệ thống giúp người sử dụng tiết kiệm

được thời gian chăm sóc cây, mọi thao tác

đều được tự động hóa. Người sử dụng có thể

điều khiển hệ thống tưới cây từ xa.

Đồng thời, sử dụng hệ thống tưới phun

sương sẽ tiết kiệm nguồn nước đáng kể. Tùy

vào diện tích vườn mà có hệ thống tưới cây

phù hợp. Khu vườn rộng 20m2 chỉ mất

Page 28: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 28/53

khoảng 1.000.000đ cho hệ thống tưới cây

bằng điện thoại.

Bộ điều khiển của hệ thống sẽ lấy dữ

liệu từ cảm biến độ ẩm đất, cảm biến nhiệt

độ, cảm biến độ ẩm không khí và lưu lượng

nước. Thông tin sau khi thu thập được

chuyển về máy chủ, thông qua điện thoại

người dùng có thể kiểm tra và điều khiển hệ

thống tưới cây từ xa. Đặc biệt, mô hình điều

khiển này có thể sử dụng cả trên 2 hệ điện

hành Android và IOS.

Hệ thống tưới cây điều khiển bằng

điện thoại giúp Cường gặt hái được nhiều

thành công tại nhiều cuộc thi như: giải nhất

cuộc thi Khoa học sáng tạo huyện Hóc Môn,

giải nhì cuộc thi Khoa học sáng tạo khối

THPT cấp Thành phố.

Cô Nguyễn Thị Hiền - giáo viên dạy

môn Vật lý chia sẻ: “Trong quá trình hướng

dẫn và đồng hành em ở các cuộc thi, cô thấy

Cường là một học sinh năng động, có tố

chất và rất đam mê nghiên cứu sáng tạo. Sau

khi thi học kì 2, Cường còn dự định lắp

đặt hệ thống tưới cây tự động cho vườn cây

của trường, góp phần giúp nhà trường có

vườn cây tươi mát hơn”.

Thầy cô đánh giá Cường là học sinh có

tố chất trong lĩnh vực nghiên cứu và tin học.

Vừa qua, em Huỳnh Tấn Cường đã dành

được huy chương đồng cuộc thi Olympic

30/04 toàn miền Nam, giải ba cuộc thi Robot

sáng tạo của Thành đoàn.

Hệ thống tưới cây tự động bằng điện

thoại giúp người sử dụng thuận tiện hơn trong

việc chăm sóc khu vườn của mình. Vừa giúp

gia đình có khoảng cây xanh trong nhà, tiết

kiệm được lượng nước tưới cây đáng kể, vừa

góp phần làm khu vườn trở nên tươi mát,

không khí trong lành hơn. Hi vọng hệ thống

sẽ được nhân rộng hơn để mỗi hộ gia đình là

một “mảng xanh” của thành phố.

Nguồn: Ngọc Thạch – Huế Xuân,

moitruongvadothi.vn, 16/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Thuyền phun thuốc đa năng

Cô giáo hướng dẫn và hai học sinh sáng chế thuyền phun.

Thuyền phun đa năng hoạt động trong

ao nuôi thủy sản, có thể tự động phun nước

và các loại thuốc phòng, trị bệnh cho cá...

giúp tiết kiệm khoảng 50% chi phí so với

phun thuốc thông thường. Đây là sản phẩm

do hai em Ngô Nguyễn Hoàng Anh và Võ

Thị Xuân Mai, học sinh lớp 9A3 Trường

THPT Cây Dương (H.Phụng Hiệp, Hậu

Giang), sáng chế.

Để hoàn thiện sản phẩm, hai em đã vận

dụng kiến thức được học và tìm hiểu thêm

thông tin trên mạng. Thiết bị được tích hợp sử

dụng pin năng lượng mặt trời, bộ sạc trữ điện;

2 ắc quy; bộ phận phun thuốc gồm: ống nhựa

hút nước, van điều chỉnh, lược nước, khay

chứa thuốc, mô tơ trộn, vòi phun... Nguyên lý

hoạt động là sau khi bật công tắc khởi động,

bộ thu có nhiệm vụ giải mã tín hiệu (xử lý

thông tin) và điều khiển thiết bị, như: phun

thuốc, rẽ trái, rẽ phải... Khi mô tơ chạy, nước

Page 29: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 29/53

sẽ dẫn lên 2 ống dẫn. Ống thứ nhất gắn một

lưới lọc để nước qua bút đo độ pH, đo nhiệt

độ, tiếp tục qua ống đồng để làm mát mô tơ

và thải ra ngoài bằng ống cao su. Ống thứ hai

cung cấp nước và lấy thuốc trong khay thông

qua công tắc điều chỉnh. Thuốc được hút vào

mô tơ trộn, sau đó đẩy hỗn hợp ra các vòi và

phun ra ao.

Chị Võ Thị Ngọc Nghĩa (35 tuổi, ngụ

ấp Mỹ Lợi B, xã Hiệp Hưng, H.Phụng Hiệp,

Hậu Giang) kể: “Thời gian qua tôi có sử

dụng thiết bị phun thuốc điều khiển tự động

của các em để chăm sóc cá trong 2 ao nuôi.

Thiết bị có 3 vòi phun nên rất tiện dụng, có

thể phun đều khắp mặt ao, vừa giảm được

công lao động vừa bảo vệ sức khỏe”.

Cô Bùi Thị Ngọc Thúy, giáo viên

hướng dẫn cho Xuân Mai và Ngọc Anh, nhận

xét: “Mặc dù mới học lớp 9 nhưng các em có

sự sáng tạo rất cao khi nghiên cứu và lắp ráp

thiết bị. Hơn nữa, giá thành của sản phẩm

cũng khá hợp lý, với khoảng 2,5 triệu

đồng/thuyền thì phù hợp túi tiền của người

nông dân”.

Thiết bị đã giành giải nhất cuộc thi

Sáng tạo thanh, thiếu niên nhi đồng tỉnh Hậu

Giang năm 2018. Hiện sản phẩm được thử

nghiệm tại một số ao nuôi cá ở địa phương và

được đánh giá cao. Thời gian tới, Xuân Mai

và Ngọc Anh dự định cải tiến thành máy phun

thuốc cho ruộng, rẫy để giúp người nông dân

giảm nhẹ công chăm sóc và giảm chi phí sản

xuất.

Nguồn: Duy Tân, thanhnien.vn,

16/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Máy cày đa năng

Tiến và ông Phạm Ngọc Anh kiểm tra máy cày trước khi cày đất.

Từ những chiếc xe máy cà tàng bỏ đi

và một vài vật dụng khác, anh Đặng Ngọc

Tiến (SN 1987, ở thôn Phú Hội, xã An Ninh

Đông, huyện Tuy An) đã sáng chế ra chiếc

máy cày đa năng, thay thế việc cày bừa bằng

trâu bò và sức người cho hàng chục hộ nông

dân ở địa phương.

Tiến tự mình sáng chế ra chiếc máy

cày đất từ động cơ xe máy cũ. Tiến thổ lộ,

trong một lần tình cờ xem ti vi về chương

trình nhà nông tại một tỉnh ở Tây Bắc, thấy

người dân dùng máy cày đất được chế tạo từ

động cơ xe máy, anh nảy sinh ý tưởng, tìm tòi

nghiên cứu chế tạo chiếc máy cày một lưỡi,

vừa cày vừa bừa thay cho cày, bừa bằng trâu

bò. Tiến mua một chiếc xe máy cũ, tháo bộ

khung sườn bán phế liệu, còn phần động cơ

anh mang đến tiệm sửa xe làm lại máy để

động cơ mạnh lên. Tiếp đó, Tiến mua sắt V5

về thiết kế khung sườn và mua nhông xe ba

gác độ lại làm nhông máy cày, rồi lấy sắt la 5,

dày 5 ly gò lại làm vòng tròn bánh lồng. Trục

bánh lồng được làm bằng thép Φ32 đặc; tay

cầm điều khiển làm bằng ống thép Φ34 độ

lại,…

Sau khi hoàn thành các bộ phận của

chiếc máy cày, Tiến độ dây ga bằng một cần

lắc để người cày “bỏ số” đơn giản và dễ điều

chỉnh tốc độ. “Qua hơn 1 tháng nghiên cứu,

Page 30: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 30/53

lắp ráp, tôi đã hoàn thành chiếc máy cày đầu

tiên và cho cày thử rất hữu dụng. Còn hiện

tại, để hoàn thành một chiếc máy cày bằng

động cơ xe máy, tôi chỉ cần khoảng 6 ngày.

Mỗi chiếc được bán với giá 7-7,8 triệu đồng,

tùy thuộc vào yêu cầu thiết kế của người dân.

Đến nay, tôi đã cung cấp cho bà con 12

chiếc; nhiều nông dân trong huyện tiếp tục

đến đặt hàng theo yêu cầu”, Tiến cho biết.

Theo ông Anh, nếu như trước đây, để

cày 4 sào đất tại Động Sặc, ông mất 3 ngày

thì nay cày bằng máy chỉ mất 6 giờ đồng hồ.

Những người không có bò phải thuê người

khác cày thì mỗi ngày phải trả 400.000-

500.000 đồng, tùy vào thời điểm. Trong khi

đó, cày máy ít tốn kém, mỗi sào chỉ tốn 1,2 lít

xăng. Còn cày trở hay cày đất nhẹ, 8 sào chỉ

tốn 5 lít xăng.

Là người đặt mua chiếc máy cày đầu

tiên do anh Tiến chế tạo, ông Nguyễn Văn

Chiên (còn gọi là Tám Chiên) ở Phú Hạnh

cho biết: “Sở dĩ, tôi mạnh dạn mua chiếc máy

cày này là vì khi Tiến chế tạo xong và đem

cày thử, tôi thấy rất hiệu quả. Với lại, Tiến

cũng cam kết bảo hành một năm. Trong ba

năm qua, nhờ chiếc máy cày này mà gần

6.000m2 đất thổ và đất rẫy của gia đình tôi

không phải cày bò. Dù đất ở đây rất nặng,

nhưng chiếc máy cày của gia đình chưa biết

hư là gì. Trước đây, tôi phải nuôi hai con bò

đực to, hàng ngày chăm lo đủ thứ. Còn bây

giờ nuôi bò đủ thịt, tôi bán được vài chục

triệu đồng/con mỗi năm; tiết kiệm, dành dụm

được một số tiền đáng kể”.

Thấy được lợi ích thiết thực của chiếc

máy cày do Tiến chế tạo và giá thành phù hợp

với túi tiền, nhiều người dân ở huyện Tuy An

đã đến cơ sở của Tiến đặt hàng, mua về cày,

giải phóng sức kéo của trâu, bò.

Nguồn: Trung Hiếu,

baophuyen.com.vn, 15/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Máy phun thuốc trừ sâu tự động

Võ Văn Trí giới thiệu clip thực nghiệm sản phẩm của mình tại Hội thi khoa học kỹ thuật Quốc gia dành cho học sinh phổ thông mới được tổ chức

tại TP.HCM

Mới học lớp 9 nhưng Võ Văn Trí đã

“tái sinh” những đồ bỏ đi để tạo ra một chiếc

máy phun thuốc trừ sâu và chính em là người

thử nghiệm sản phẩm ngay trên chính vườn ớt

nhà mình.

Khi được hỏi về lý do làm chiếc máy

phun thuốc trừ sâu, Trí hồn nhiên: “Mỗi lần

thấy ba em ra đồng đi phun thuốc trừ sâu rất

vất vả vì phải mang đồ bảo hộ. Có hôm ba em

bị nhiễm thuốc về phải uống nước pha đường.

Nhà em có tới mấy công ruộng và hoa màu

nên em muốn giúp ba đỡ vất vả hơn”.

Chiếc máy phun xịt tự động của Võ

Văn Trí, lớp 9 trường tiểu học và THCS An

Lộc (huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp) có ba

chức năng chính: phun thuốc trừ sâu, tưới

phân và lấy nước.

Máy hoạt động gồm 1 động cơ điện

12V, công suất 180W. Hai bên được bố trí 2

Page 31: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 31/53

cần xịt với chiều dài hơn 1 mét và nhiều

béc phun kết nối thùng chứa với dung tích 50

lít. Trên 1 công vườn ớt (1000 mét vuông)

máy phun thuốc trừ sâu mất 30 phút với

khoảng 50 lít nước là hoàn thành. Người sử

dụng chỉ cần bơm lấy nước vào thùng, hòa

thuốc trừ sâu và kéo máy di chuyển trên vườn

để thực hiện phun xịt. Máy của Trí còn có

chức năng tưới nước phân bón cho cây.

“Bình thường ba em phun thuốc, tưới

phân trên 1 công vườn ớt mất hơn 1 giờ đồng

hồ. Nhưng từ khi có máy này, ba em đỡ vất vả

hơn, thời gian phun thuốc cũng nhanh hơn

trước. Lúc trước em mua vật liệu về làm máy,

ba cứ tò mò. Sau này ba mới hiểu là làm giúp

ba nên ba em vui lắm”- Trí kể.

Quá trình làm máy của Trí cũng

khá gian nan. Sống ở vùng quê nghèo, khan

hiếm các thiết bị điện tử, Trí phải tận dụng

những vật dụng bỏ đi để làm máy. Hai cần

phun được trí cải tiến và tận dụng lại từ cần

phun thuốc trừ sâu cũ. Thùng chứa cũng được

em sử dụng lại từ thùng nhựa cũ bỏ đi trong

nhà. Nguồn điện được Trí tháo từ bình ắc quy

xe máy cũ.

Trí chỉ có mong muốn, sản phẩm mini

này có thể đến với nhiều bà con nông dân.

Cậu học trò này cũng nhẩm tính được chi phí

cho sản phẩm thương mại hóa của máy vào

khoảng 3 triệu đồng.

“Em biết rằng, nhiều người đã làm sản

phẩm này, thậm chí có người còn sử dụng

thiết bị bay để phun thuốc. Nhưng những sản

phẩm này rất đắt tiền. Chiếc máy của em nằm

ở phân khúc bình dân, dễ sử dụng và tiện lợi

với người nông dân”- Trí tự tin nói.

Đánh giá sản phẩm học trò mình, thầy

Huỳnh Ngọc Cung, giáo viên Vật lý trường

tiểu học và THCS An Lộc cho biết, mặc dù

sản phẩm không mới, nhưng nó giải quyết

được vấn đề thực tiễn tại địa phương. Điều đó

cũng thể hiện sự tìm tòi, quan sát từ những vấn

đề thực tế của học sinh để đưa ra giải pháp.

“Máy sẽ còn phải cải tiến nhiều vì cơ

cấu di chuyển chỉ phù hợp với địa hình bằng

phẳng, còn các dạng địa hình gồ ghề hay

ngập nước máy ko đáp ứng được. Hiện nay

máy cũng phải sử dụng sức người để kéo và

trong tương lai tôi sẽ cùng với em tiếp tục

nghiên cứu để chế tạo hệ thống điều khiển từ

xa cho sản phẩm này”- thầy Cung nói.

Nguồn: Hà Thế An, khampha.vn,

22/03/2019

Trở về đầu trang

**************

Thùng trồng cây không cần tưới nước

Ông Nguyễn Quang Ngọc (51 tuổi) ở

Đắk Lắk, đã tiến hành nghiên cứu và sáng chế

thành công “Thùng trồng cây không cần tưới

nước”. Sản phẩm đã được Cục Sở hữu trí tuệ

(Bộ KH-CN) cấp bằng độc quyền sáng chế.

Ông Ngọc bộc bạch, mô hình “thùng

trồng cây không cần tưới nước” nói nôm na

là kỹ thuật trồng cây không mất công tưới

nước, được phỏng theo cấu trúc 3 tầng của

rừng Amazon, một trong những nơi có hệ

thống thực vật tốt nhất thế giới. Cách trồng

cây mới này được ông nghiên cứu và thử

nghiệm hơn 5 năm.

Khi lắp đặt xong, cho đất và trồng cây

vào thùng. Ở lần cấp nước đầu tiên, nước vào

thùng qua miệng sao cho thấm đều hết đất.

Nước tiếp tục di chuyển xuống đáy thùng và

dâng lên cho đến khi cao bằng lỗ mực nước

thì chảy ra ngoài, dừng việc cấp nước.

Page 32: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 32/53

Nhà sáng chế “chân đất” Nguyễn Quang Ngọc (bìa phải) và cộng sự bên những cây lên xanh tốt

với chậu trồng cây không cần tưới.

Trong quá trình trồng, nhu cầu cấp

thoát nước của cây diễn ra một cách tự động,

cây luôn luôn đủ khí và nước, do đó việc

chăm sóc cần rất ít sự tác động của bàn tay

con người ngoài việc cấp phân, khoáng chất

và thu hoạch. Ngoài ra, cách làm này còn tiết

kiệm được chi phí, mang lại hiệu quả trong

quá trình canh tác cây trồng. Cây trồng được

ở mọi nơi.

Sáng chế này của ông Ngọc đã được

Công ty CP Trái Đất xanh tươi chuyển sang

chế tạo sản phẩm thực tế là thùng và chậu

trồng cây, xuất khẩu sang thị trường châu Âu,

Mỹ, Australia, Nhật… Giải pháp được đánh

giá hữu ích cho các công ty môi trường có sử

dụng cho các công trình công cộng; các hộ

dân ứng dụng trong việc trang trí thảm xanh

cho nhà cao tầng. Giá thành mỗi thùng hoặc

chậu chỉ dao động khoảng 200.000 - 500.000

đồng/sản phẩm.

Ông Ngọc hy vọng, nếu được ứng

dụng rộng rãi, sản phẩm sẽ giúp các thành

phố lớn của Việt Nam nhìn từ trên cao, hay

tại những quảng trường, đường phố trung tâm

sẽ là những thảm xanh tươi mát.

Nguồn: Quang Huy, sggp.org.vn,

27/03/2019

Trở về đầu trang

**************

Chế tạo dung dịch giữ nông sản tươi hơn 10 ngày

Bùi Thị Khánh Linh (phải) giới thiệu sản phẩm

Tại cuộc thi Công nghệ chế biến sau

thu hoạch năm 2019 vừa tổ chức tháng

4/2019, sinh viên Bùi Thị Khánh Linh, Đại

học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia

TPHCM) giành giải Nhất với nghiên cứu và

chiết xuất dung dịch chitosan từ vỏ tôm, cua

cùng với dịch chiết polyphenols trong trà

xanh để thay thế hóa chất bảo quản nông sản.

Nghiên cứu được đánh giá cao trong

bối cảnh nông sản Việt bị thất thoát nhiều sau

thu hoạch và các chất bảo quản hóa học có

nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe người tiêu dùng.

Bùi Thị Khánh Linh chia sẻ, chitosan

có nguồn gốc từ loài giáp xác, có khả năng

tạo màng bảo quản phân hủy sinh học. Tuy

nhiên, chitosan lại có khả năng kháng oxy

hóa và kháng khuẩn kém. Để khắc phục

nhược điểm này, Linh tiến hành nghiên cứu

biến tính chitosan với dịch chiết polyphenols

từ lá trà xanh tạo màng bảo quản nông sản,

ngăn chặn xuất hiện nấm mốc, đốm thâm, giữ

được độ xanh tươi của nông sản.

Page 33: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 33/53

So sánh trên các mẫu chuối cho thấy, ở

điều kiện thường (nhiệt độ phòng), mẫu chuối

không sử dụng chất bảo quản đã chín sau 3

ngày, 5 ngày bắt đầu có đốm đen (bị oxy hóa)

và đến ngày thứ 7 bị thối.

Mẫu chuối bảo quản bằng polyphenols

chín ngay sau 2 ngày, 4 ngày xuất hiện đốm

đen và 8 ngày sau có nấm mốc trên vỏ. Mẫu

được phun dung dịch chitosan chín sau 10

ngày, lớp vỏ chuối chỉ chuyển vàng và thối ở

nửa thân dưới quả chuối.

Với mẫu phun sương biến tính

chitosan với dịch chiết polyphenols có thời

gian chín lâu nhất (khoảng 10 ngày), vỏ vẫn

còn duy trì được màu xanh, chỉ xuất hiện thối

ở đầu cuống nhưng không bị nấm mốc trên

thân, khối lượng giảm ít.

Đánh giá về sản phẩm này, GS.TS

Đống Thị Anh Đào, Bộ môn Công nghệ thực

phẩm, Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia

TPHCM, Chủ tịch Hội đồng Giám khảo cho

biết, đây là một nghiên cứu có sự đầu tư và

hàm lượng khoa học cao. Sinh viên đã giải

thích được cơ chế giúp nông sản kháng khuẩn

tốt hơn mà vẫn giữ được chất dinh dưỡng,

chất lượng như ban đầu.

Kết quả nghiên cứu này tạo tiền đề cho

việc phát triển chuỗi công nghệ lưu giữ và gia

tăng chất lượng nông sản Việt Nam nhằm

cung cấp cho thị trường nội địa và xuất khấu.

Nguồn: BT, baochinhphu.vn,

22/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Nghiên cứu ứng dụng đồng bộ các giải pháp khoa học và công nghệ chuyển đổi cơ cấu cây trồng đạt hiệu quả kinh tế cao vùng đồng bằng sông Hồng

Trong những năm gần đây nhiều kết

quả nghiên cứu và mô hình chuyển đổi cơ cấu

cây trồng đã được chuyển giao và ứng dụng

hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp vùng đồng

bằng sông Hồng. Tuy nhiên việc phân tích

đánh giá cụ thể các kết quả này để trở thành

hệ thống lý luận để phục vụ việc xây dựng

nông thôn mới cho vùng chưa được hoàn

thiện. Chưa xây dựng được hệ thống các giải

pháp KHCN đồng bộ (cánh đồng mẫu lớn, cơ

giới hóa trong sản xuất, tổ chức nông dân,

liên kết thị trường...) áp dụng cho toàn bộ cơ

cấu cây trồng trong 1 năm để thúc đẩy và phát

huy hết tiềm năng hiệu quả kinh tế- xã hội các

hệ thống cây trồng của vùng. Vấn đề nghiên

cứu về chuỗi giá trị cho 1 số cây trồng hàng

hóa chủ lực chưa được tập trung, vì vậy nhiều

mô hình cho năng suất cây trồng cao nhưng

chưa cho hiệu quả kinh tế cao. Chính vì

những lý do trên, nhóm nghiên cứu do TS. Lê

Quốc Thanh Thời, Trung tâm Chuyển giao

công nghệ và Khuyến nông đứng đầu đã tiến

hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ứng

dụng đồng bộ các giải pháp khoa học và công

nghệ chuyển đổi cơ cấu cây trồng đạt hiệu

quả kinh tế cao vùng đồng bằng sông Hồng”

nhằm phục vụ xây dựng nông thôn mới, đáp

ứng yêu cầu thực tế đang đặt ra.

Sau một thời gian triển khai gian thực

hiện (2013 - 2016), nhóm nghiên cứu thu

được các kết quả như sau:

1. Đã thu thập, hồi cứu, khảo sát bổ

sung các dữ liệu tự nhiên, xã hội, các kế

hoạch, quy hoạch phát triển vùng ĐBSH.

Phân vùng nghiên cứu theo đặc điểm địa

hình, vị trí địa lý và điều kiện kinh tế - xã hội

và hình thái sản xuất vùng ĐBSH. Đánh giá,

làm rõ các nghiên cứu về hệ thống cây trồng

và chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên thế giới

và ở trong nước.

Page 34: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 34/53

2. Đánh giá được hiện trạng sản xuất

và cơ cấu cây trồng của vùng ĐBSH và đề

xuất các giải pháp KHCN phục vụ chuyển đổi

cơ cấu cây trồng: lựa chọn giống phù hợp,

hoàn thiện kỹ thuật canh tác, bố trí mùa vụ,

xây dựng cơ cấu cây trồng hợp lý có hiệu quả

kinh tế và bền vững. Đánh giá được các cơ

cấu cây trồng hiệu quả, cần mở rộng cho

ĐBSH. Đánh giá được thuận lợi và hạn chế

của vùng ĐBSH trong việc sản xuất nông

nghiệp và chuyển đổi cơ cấu cây trồng phục

vụ xây dựng NTM.

3. Về giải pháp KHCN cho vùng

ĐBSH chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho vùng:

* Về giống cây trồng: Đề tài đã lựa

chọn được 16 giống cây trồng có năng suất

cao, ngắn ngày, chống chịu và có chất lượng

tốt, phù hợp cho từng cơ cấu của các tiểu

vùng sinh thái và hoàn thiện quy trình thâm

canh cho từng giống gồm:

+ 3 giống lúa ngắn ngày, năng suất

cao, chất lượng: HT9, ĐS3 và J01 có TGST

vụ mùa 100-108 ngày, năng suất : 55-65

tạ/ha, góp phần tăng vụ và giải quyết vấn đề

thời vụ cho sản xuất cây vụ đông.

+ 3 giống ngô, năng suất cao, chất

lượng: Đường lai 20, HN88, NK4300 phù

hợp với vùng sản xuất hàng hóa ven đô, vùng

thâm canh ngô hè và ngô đông.

+ 2 giống lạc, năng suất cao, chất

lượng: L23 và L26, đáp ứng với chân đất 1

lúa 2 màu và chân đất chuyên màu.

+ 2 giống đậu tương, năng suất cao,

chất lượng: ĐVN14, Đ2101 góp phần bổ sung

vào cơ cấu giống và mở rộng diện tích đậu

tương đông.

+ 2 giống khoai tây, năng suất cao,

chất lượng: Diamant và Solara.

+ 2 giống bí xanh, năng suất cao, chất

lượng: Tre việt, bí xanh số 1.

+ 2 giống rau, năng suất cao, chất

lượng: bắp cải và súp lơ.

* Về kỹ thuật thâm canh: Xây dựng

được 7 gói quy trình kỹ thuật (QTKT) canh

tác cho 7 công thức luân canh cây trồng

(CTLC) trên 3 chân đất chính của vùng

ĐBSH đạt hiệu quả kinh tế cao:

(1) Trên chân đất 2 lúa - 1 màu:

+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa

Xuân - lúa Mùa - đậu tương Đông”

+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa

Xuân - lúa Mùa - khoai tây Đông”

+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa

Xuân - lúa Mùa - bí xanh Đông”

+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa

Xuân - lúa chét - bí xanh Thu Đông”

+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa

Xuân - lúa chét - ngô Thu Đông”

(2) Trên chân đất 1 lúa - 2 màu:

+ QTKT áp dụng cho CTLC “lạc Xuân

- lúa Mùa - Khoai tây Đông”

(3) Trên chân đất chuyên màu:

+ QTKT áp dụng cho CTLC “lạc Xuân

- ngô Hè Thu - cải bắp Đông

- Đánh giá và hoàn thiện kỹ thuật sản

xuất lúa chét ở Hà Nội và Nam Định, giúp

giải quyết được vấn đề thời vụ của cây vụ

đông ưa ấm ở ĐBSH (Ngô, đậu tương, rau

màu). Chiều cao gốc cắt để chét có mối quan

hệ tương quan nghịch với TGST của lúa chét

và chiều cao cây.

- Xác định được thành phần của giá thể

làm bầu cải tiến gieo ngô ở các tỉnh trong

vùng, góp phần tăng hiệu quả và nhân rộng

quá trình cơ giới hóa.

4. Xây dựng được 53 ha cây trồng các

loại trên cho 7 công thức luân canh trên 3

Page 35: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 35/53

chân đất tại 3 tỉnh Hưng Yên, Hà Nội và Nam

Định. Trong đó: Lúa 29 ha, Lạc: 6 ha, Ngô: 5

ha, Bí xanh: 5 ha, Khoai tây: 3 ha, Đậu tương:

3 ha, rau bắp cải: 2 ha. Các công thức luân

canh cây trồng trong mô hình tại các tỉnh đều

cho năng suất cao hơn so với sản xuất đại trà

và cho hiệu quả kinh tế vượt hơn so với sản

xuất đại trà từ 21.150.000 đ/ha đến

39.954.000 đ/ha, vượt sản xuất đại trà từ 35,2

- 126,2%. Các công thức luân canh có sử

dụng giống mới cho lợi nhuận cao, dễ áp

dụng và người dân chấp nhận nhân rộng: Lúa

xuân (BT7) - lúa chét (BT7) - bí xanh đông

(bí xanh số 1); Lúa xuân (ĐS3) - lúa mùa

(HT9) - bí xanh đông (bí xanh số 1); Lúa

xuân (ĐS3) - lúa mùa (HT9) - khoai tây đông

(Diamant); Lạc xuân (L26) - ngô hè thu

(NK4300) - bắp cải đông (bắp cải kk cross);

Lạc xuân (L23) - lúa mùa (HT9) - khoai tây

đông (Solara); Lúa xuân (BT7) - lúa chét

(BT7) - ngô đông sớm (HN88).

Nhóm nghiên cứu kiến nghị cho phép

ứng dụng, nhân rộng kết quả một số mô hình

hiểu quả kinh tế cao ra sản xuất thông qua các

Dự án phát triển nhằm đóng góp tích cực hơn

nữa trong xây dựng nông thôn mới ở các giai

đoạn tiếp theo của Chương trình.

Nguồn: P.T.T (NASATI), vista.gov.vn,

04/05/2019

Trở về đầu trang

**************

Quy trình nhân giống in vitro lan Dendrobium bằng mô phân sinh chồi

Đánh giá một số dòng lan lai mới

(Dendrobium) được lai tạo ra tai Trung tâm

Công nghệ sinh học TP.HCM là đề tài do tác

giả Phan Diễm Quỳnh và cộng sự (Trung tâm

Công nghệ sinh học TP.HCM) thực hiện

nhằm phát triển một số dòng lan lai

(Dendrobium) được tạo ra tại Trung tâm

Công nghệ sinh học TP.HCM, có đặc điểm ra

nhiều hoa, kiểu đẹp, lâu tàn, kháng sâu bệnh,

đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp đô thị

và thị trường hoa lan của Thành phố và các

tỉnh lân cận.

Theo các chuyên gia về lan, nghề trồng

lan sẽ đem lại một lợi nhuận không nhỏ cho

nhà sản xuất lan nếu họ biết khai thác thế

mạnh. Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và

Phát triển Nông thôn, nếu trồng phong lan cắt

cành nhóm lan Dendrobium và Mokara, mỗi

ha đất trồng có thể cho thu nhập 500 triệu - 1

tỷ đồng/năm, con số này cao hơn nhiều lần so

với trồng lúa và một số hoa màu khác. Để

tăng cường số lượng cây giống cung cấp cho

người trồng lan, nhiều đơn vị đã tập trung

nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học

trong việc chọn tạo giống mới, đẩy mạnh

nhân giống đảm bảo chất lượng và số lượng

cung ứng cho sản xuất. Mỗi năm Trung tâm

Công nghệ sinh học TP.HCM cung cấp ra thị

trường trên 100.000 cây lan con các loại,

trong đó chú trọng giống hoa chủ lực của

thành phố là Dendrobium và Mokara.

Với đề tài này, nhóm tác giả đã hoàn

thiện quy trình nhân giống in vitro lan

Dendrobium bằng mô phân sinh chồi có kết

hợp giữa nuôi cấy trên môi trường lỏng lắc và

môi trường đặc. Áp dụng quy trình cải tiến

này đã rút ngắn thời gian nhân giống từ 5 - 6

tháng. Từ quy trình này đề tài đã nhân giống

được 73.853 cây in vitro, bao gồm 37.528 cây

in vitro đang nuôi trong phòng thí nghiệm,

26.455 cây in vitro đang giai đoạn cây con

ngoài vườn ươm và 9.780 cây đã trưởng

thành đang ra hoa ngoài vườn.

Đề tài cũng chọn được 6 dòng lan lai

có triển vọng (BCH 12-4, BCH 12-15, BCH

Page 36: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 36/53

385-2, BCH 385-5, BCH 424-1,BCH 424-3)

có ưu thế lai cao, thích nghi với điều kiện khí

hậu tại TP.HCM, cây sinh trưởng phát triển

khỏe, ít sâu bệnh, siêng hoa, chất lượng cành

hoa vượt trội so với giống lan nhập nội đang

trồng phổ biến. Trong đó, 4 dòng (BCH 12-4,

BCH 12-15, BCH 424-1, BCH424-3) được

khai thác theo hướng cắt cành và 2 giống

(BCH 385-2, BCH385-5) sản xuất theo

hướng trồng chậu.

Ngoài ra, đề tài đã xây dựng 3 mô hình

sản xuất thử nghiệm lan Dendrobium theo

hướng công nghệ cao cho thấy cây thích nghi

tốt với điều kiện trồng, sinh trưởng khỏe, ít

nhiễm sâu bệnh, ra hoa tập trung, màu sắc

hoa đẹp, lâu tàn. Mô hình phù hợp với điều

kiện phát triển nông nghiệp đô thị tại

TP.HCM. Thu nhập từ việc bán hoa cắt cành

từ các dòng lan lai mới cao hơn so với giống

đối chứng Dendrobium Sonia từ 19 – 183,8

triệu đồng/1.000m2/năm.

Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,

11/04/2019

Trở về đầu trang

**************

MÔI TRƯỜNG

Chế tạo hệ thống xử lý nước nuôi thủy sản

Thầy Lê Phong Dũ (phải) - Phó Hiệu trưởng Trường Thực hành Sư phạm Trà Vinh cùng

em Thạch Huỳnh Nhật Thành và Nguyễn Đinh Đình Thi với hệ thống đèn UV khử trùng nước cấp

ao nuôi thủy sản.

Từ những trăn trở trong việc sử dụng

hóa chất để xử lý ao nuôi tôm cùng với niềm

đam mê khoa học, Thạch Huỳnh Nhật Thành

và Nguyễn Đinh Đình Thi (HS lớp 11 chuyên

Toán - Hóa, Trường Thực hành Sư phạm Trà

Vinh) đã cùng nhau tìm tòi và sáng tạo thành

công “Hệ thống đèn UV khử trùng nước cấp

ao nuôi thủy sản”.

Trong nuôi trồng thủy sản, việc xử lý

nước cấp, vi sinh vật gây bệnh và sự phát

triển của các loài tảo không mong muốn cứ

lặp đi lặp lại mỗi vụ. Vì thế, sáng tạo các

phương pháp phù hợp để bảo vệ môi trường,

tránh tác động xấu đến sức khỏe và kinh tế là

nguyện vọng của Thi và Thành.

Hai em ấp ủ ước mơ chế tạo từ 2 năm

trước và đã ứng dụng kiến thức toán học, vật

lý, sinh học và hóa học để nghiên cứu thiết

lập hệ thống nước đầu nguồn vào ao nuôi.

Sau nhiều lần thử nghiệm hệ thống đèn

UV, Thi và Thành tìm ra thiết kế tốt nhất để

đem lại hiệu quả cao nhất, ước lượng được

chi phí đầu tư và tuổi thọ (9.000 giờ) của

chiếc đèn.

Mô hình mô phỏng hệ thống xử lý

nước cấp bằng đèn UV ngoài thực tế có tổng

giá trị khoảng 20 triệu đồng. Nếu mỗi vụ sử

dụng bộ đèn 10 ngày cho 2.000m2 (tương

đương 2 ao 1.000m2), mỗi năm nuôi 3 vụ. Khi

đó, thời gian sử dụng đèn sẽ là 12,5 năm. Như

vậy, nếu đầu tư 1 lần có thể sử dụng trên 10

năm, đây là giải pháp tối ưu thay thế các hóa

chất gây tổn hại cho môi trường. Đồng thời,

nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản, bảo

Page 37: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 37/53

vệ sức khỏe con người, giảm chi phí đầu tư,

tăng lợi nhuận.

Đầu tiên, nguồn nước sông được dẫn

vào hệ thống lọc thô để loại bỏ các tạp chất

và giảm độ đục. Hệ thống lọc thô thường sử

dụng là các lưới lọc bằng thép để chặn các tạp

chất có kích thước lớn (cành cây, cá tạp…).

Để lọc các tạp chất nhỏ hơn và giảm

độ đục có thể sử dụng hệ thống lọc ly tâm do

đáp ứng được công suất lớn. Sau đó, nước

được máy bơm dẫn vào hệ thống diệt khuẩn

bằng đèn UV. Với hệ thống đèn UV với công

suất lớn sẽ loại bỏ toàn bộ các mầm bệnh, vi

sinh vật, rong tảo và các động vật nguyên

sinh. Do đó, nước sau khi xử lý sẽ đáp ứng

được nhu cầu cho nuôi thủy sản.

Kết quả xử lý chứng minh khả năng

diệt virus của hệ thống đèn UV và phương

pháp hóa chất là như nhau.

Thầy Lê Phong Dũ - Phó Hiệu trưởng

Trường Thực hành Sư phạm Trà Vinh, cho

biết: Thiết kế này là một trong những phương

pháp sử dụng công nghệ xanh mang đến

những lợi ích to lớn cho môi trường.

Về kinh tế thì vật tư dễ tìm, có sẵn ở

mọi nơi, giá thành thấp, đầu tư một lần có thể

sử dụng trong một thời gian dài.

Về con người, có thể giúp đỡ cho người

nuôi thủy sản tiếp cận với công nghệ tương lai,

ngăn ngừa hóa chất gây hại, đảm bảo an toàn

thực phẩm bắt đầu ngay từ giai đoạn xử lí

nước, tiết kiệm lượng lớn tiền đầu tư.

Về môi trường thì không sử dụng các

hóa chất độc hại, bảo vệ môi trường khỏi các

tác động tiêu cực của hóa chất.

Nguồn: Hoài Anh - Yến Nhi,

giaoducthoidai.vn, 16/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Phương tiện gom rác thủy bộ

Nhóm bạn trẻ với mô hình phương tiện thu gom rác thủy bộ.

Tại ngày hội khoa học công nghệ dành

cho sinh viên ĐH Đà Nẵng năm 2019 vừa

qua, mô hình thủy bộ thu gom rác thải bãi

biển, mặt nước của nhóm sinh viên ĐH Bách

khoa Đà Nẵng nhận được nhiều sự quan tâm.

Phương tiện hữu dụng này là sáng chế

của nhóm bạn trẻ Võ Anh Khoa, Trần Văn

Nhật, Trương Văn Bình, Võ Văn Khoa, Lê

Thanh Trãi, Đinh Văn Hiệp, đều là sinh

viên ngành kỹ thuật tàu thủy, khoa cơ khí

giao thông, ĐH Bách khoa Đà Nẵng.

Bạn Võ Anh Khoa cho biết môi trường

đang bị ô nhiễm nặng nề bởi rác thải và phải

mất nhiều công sức để làm sạch rác trên mặt

biển, ao hồ. Từ thực trạng đó, nhóm nghĩ ra

việc chế tạo một "robot" có thể thay con

người vớt rác bằng phương pháp thủ công.

Nắm vững các kiến thức chuyên ngành

học ở trường và tìm thêm ở sách vở, cùng sự

trợ giúp của giảng viên, nhóm đã mất nhiều

tháng để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.

Bạn Trần Văn Nhật cho biết phương

tiện có các bộ phận cửa gom, thân chính,

băng tải, buồng nén, thùng rác, bánh xích và

Page 38: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 38/53

trụ xoay. Điều đặc biệt nhất là sản phẩm được

chế tạo bằng composite sợi thủy tinh vừa có

trọng lượng nhẹ và không bị oxy hóa hay ăn

mòn bởi nước biển.

Phương tiện hoạt động bằng pin điện.

Khi hoạt động trên cát, hệ thống bánh xích sẽ

giúp di chuyển một cách dễ dàng ở nhiều bề

mặt và di chuyển trên mặt nước bằng hệ thống

Water Jet (thiết bị phụt) bố trí bên trong hai

thân. Khi phương tiện chạy dọc trên mặt nước

hay mặt cát, rác được thu vào cửa gom rồi dẫn

đến băng tải thiết kế dạng lưới. Thiết kế này

giúp trả lại nước biển và cát. Rác được chuyền

qua băng tải lưới vào hệ thống xử lý. Tùy theo

chức năng được thiết kế riêng, rác có thể được

nghiền nát hoặc ép chặt tại buồng nén rồi đẩy

vào buồng chứa. Công nhân môi trường chỉ

việc tháo thùng rác khi đầy.

Khó khăn nhất của nhóm là phải mất

rất nhiều thời gian và công sức vì không có

trang thiết bị, máy móc chuyên dụng để hoàn

chỉnh thiết kế. Tất cả phải thực hiện bằng các

thiết bị cầm tay nhưng phải đảm bảo tính

chính xác trong từng chi tiết.

"Qua nhiều lần chạy thử nghiệm, sản

phẩm đã đáp ứng được những tiêu chí cơ bản

đặt ra về hiệu suất và tính ổn định. Nhóm

mình tin tưởng về tính khả thi của phương

tiện khi đưa vào thực tiễn" - Võ Anh Khoa

khẳng định.

Hiện nhóm đang có hướng phát triển

thêm những tính năng bổ sung và điều chỉnh

về kết cấu, kích thước để đưa sản phẩm vào

sử dụng thực tế. Để tối ưu khả năng thu gom

rác, sản phẩm thực tế dự tính sẽ có kích thước

tương đương một chiếc xe bán tải.

Anh Võ Duy Minh, bí thư Thành đoàn

Đà Nẵng, đánh giá: "Mô hình có khả năng

ứng dụng cao, có thể thay thế con người

trong việc dọn vệ sinh bờ biển, sông, hồ...

đem lại hiệu quả tích cực, giảm nhân công và

phòng tránh các rủi ro trong lao động".

Hiện Thành đoàn và Hội Doanh nhân

trẻ TP Đà Nẵng đã có kế hoạch hỗ trợ nhóm

phát triển sản phẩm và đưa vào thị trường. Sản

phẩm hoàn thiện dự tính với chi phí sản xuất

khoảng 300 triệu đồng, thấp hơn nhiều so với

các thiết bị cùng chức năng trên thế giới.

Nguồn: Đoàn Nhạn, tuoitre.vn,

29/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Xử lý nước thải sinh hoạt bằng thiết bị lọc nhỏ giọt cải tiến với giá thể sinh học kiểu mới

Đề tài Xử lý nước thải sinh hoạt bằng

thiết bị lọc nhỏ giọt cải tiến với giá thể sinh

học kiểu mới, do nhóm nghiên cứu Trần

Minh Thảo, Phạm Phú Song Toàn, Phùng

Minh Tùng, Phan Minh Thông, Trường đại

học sư phạm kỹ thuật Đà Nẵng thực hiện.

Trong nghiên cứu này, nước thải sinh

hoạt được xử lý bằng mô hình thiết bị lọc sinh

học nhỏ giọt cải tiến. Hệ thống hoạt động với

tải lượng hữu cơ 1,2 kg BOD/m3/ngày đêm.

Kết quả cho thấy, hiệu quả xử lý tốt nhất với

lượng giá thể chiếm 75% thể tích thiết bị. Với

lượng giá thể này, hiệu quả xử lý ở các thời

gian lưu nước khác nhau (2, 4, 6, 8 và 10 tiếng)

cũng được nghiên cứu. Kết quả là hệ thống xử

lý tốt BOD và dinh dưỡng (hiệu quả 90,7; 78,7

và 77,1% lần lượt đối với BOD, N và P).

Lọc sinh học nhỏ giọt (TF) là một công

nghệ hiếu khí với nhiều ưu điểm như vận hành

ổn định, cấu tạo đơn giản, có thể hoạt động ở

các tải lượng hữu cơ khác nhau một cách hiệu

quả và đặc biệt là tiết kiệm năng lượng. Trong

Page 39: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 39/53

thiết bị TF, lớp màng vi sinh hình thành trên

giá thể sinh học (GTSH) tạo nên 2 vùng: hiếu

khí - nằm trên bề mặt và thiếu khí - nằm ở lớp

bên trong, giữa lớp hiếu khí và bề mặt GTSH.

Chính vì lý do này mà trong thiết bị TF cùng

một lúc xảy ra hai quá trình: nitrat và khử

nitrat hóa, xử lý N một cách hiệu quả. Tuy

nhiên, thiết bị này cũng còn tồn tại một số

nhược điểm cần khắc phục: dễ tích tụ sinh

khối trong lớp GTSH, gây tình trạng tắc nghẽn

và ảnh hưởng đến phản ứng sinh học hiếu khí,

làm giảm hiệu quả xử lý, thường xuyên phải

bảo trì hệ thống và dễ gây mùi nếu để vùng kỵ

khí chiếm thể tích lớn trong thiết bị. Về

GTSH, đây cũng là một nhược điểm của loại

công nghệ này. Hiện nay có nhiều loại GTSH

được áp dụng và bán trên thị trường: dạng sợi,

cầu, tổ ong, bánh xe… Tuy nhiên, các loại giá

thể này có giá thành cao, qua thực tế sử dụng

cho thấy không bền trong điều kiện nước thải

và có bề mặt riêng thấp.

Một số nghiên cứu về TF đã được thực

hiện. Tải lượng hoạt động của một TF thường

được thiết kế trong khoảng 1 - 75 m3/m2/ngày

đêm. Chiều cao bể phản ứng thông thường

được chọn ở 1,8 - 2,4 m. Tuy nhiên, bể càng

sâu thì hiện tượng tắc nghẽn càng dễ xảy ra,

tổn áp tăng nhanh. Đây là hiện tượng gây

nhiều khó khăn và tốn kém ở khâu vận hành

hệ thống trong thực tế. Ngoài ra, tải lượng

hữu cơ thường được khống chế trong khoảng

0,07 - 3,2 kg BOD/m3 /ngày đêm.

Một thiết bị lọc sinh học nhỏ giọt được

cải tiến (upgraded Trickling Filter-uTF) để

khắc phục các hạn chế của công nghệ này sẽ

bổ sung thêm một sự lựa chọn nữa cho các

công nghệ xử lý nước thải tiết kiệm năng

lượng và có khả năng ứng dụng rộng rãi.

Trong nghiên cứu này, thiết bị lọc nhỏ giọt

tiên tiến xử lý nước thải điển hình của các

khu công nghiệp (KCN) tại Đà Nẵng: KCN

Hòa Khánh, KCN Liên Chiểu, KCN Hòa

Cầm. Hiệu quả xử lý và thời gian thích nghi

được đánh giá ở các lượng GTSH và thời gian

lưu khác nhau.

Kết quả cho thấy, với nghiên cứu thiết

bị lọc sinh học nhỏ giọt cải tiến so với thiết bị

truyền thống, hiệu quả xử lý được cải thiện.

Một vài chế độ vận hành được thử nghiệm đã

làm sáng tỏ một số vấn đề: khi GTSH chiếm

75% thể tích ngập nước, quá trình denitrat

hóa xảy ra nhiều nhất và hiệu quả xử lý tốt

nhất. Hiệu quả xử lý BOD đạt 89,6 - 92,7%,

xử lý TN đạt 78,8 - 82,5%, xử lý TP đạt 77,2

- 81,9% với thời gian lưu nước là 10 giờ. Mức

độ DO trong pha nước ở 1,2 - 3,1 mg/L, tạo

môi trường thiếu khí trong lớp màng vi sinh

bám trên GTSH. Khi lượng GTSH chiếm

75% thì DO nằm trong khoảng 1,2 - 3,1

mg/L, tạo môi trường thiếu khí trong lớp

màng vi sinh bám trên GTSH và thời gian

thích nghi là ngắn nhất với 20 ngày. Thời

gian lưu nước 6 tiếng được xem là tối ưu nhất

trong việc xử lý các hợp chất hữu cơ và dinh

dưỡng. Việc bố trí nước ngập 50 mm so với

mức GTSH làm tăng thời gian lưu nước và

tiếp xúc nước - biofilm. Ngoài ra, trong suốt

quá trình hoạt động, không có hiện tượng tắc

nghẽn cục bộ và các đường ống thoát. Nước

ngập giúp cặn lơ lửng mềm và có kích thước

nhỏ, giảm thiểu vấn đề tắc nghẽn.

Nguồn: Như Ngọc,

khoahocphothong.com.vn, 03/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Page 40: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 05/2019 40/53

Hệ thống xử lý nước thải sử dụng giá thể vi sinh

Hệ thống xử lý nước thải sử dụng giá

thể vi sinh cho hiệu quả cao, diện tích nhỏ

gọn, không gây mùi hôi và tiết kiệm chi phí

xử lý.

Công nghệ xử lý nước thải này có xuất

xứ từ Nhật, sử dụng vi sinh vật để xử lý các

thành phần ô nhiễm có trong nước thải.

Khác với các phương pháp xử lý nước

thải ứng dụng công nghệ sinh học truyền

thống, công nghệ xử lý nước thải tại nguồn

không thông qua bể tự hoại sử dụng vi sinh vật

bám dính lên giá thể lơ lửng, chuyển động liên

tục trong nước thải, từ đó tăng mật độ vi sinh

vật trên một đơn vị thể tích, tăng diện tích tiếp

xúc giữa vi sinh vật và nước thải, tăng hiệu

quả xử lý.

Nhờ ứng dụng công nghệ xử lý nước

thải bằng giá thể vi sinh nên hệ thống chỉ cần

diện tích nhỏ, đa dạng vị trí và cơ động trong

lắp đặt. Công nghệ không gây mùi hôi, phát

sinh ít bùn thải, thân thiện với môi trường và

tiết kiệm tối đa chi phí xử lý và vận hành. Khi

muốn nâng công suất xử lý, người dùng chỉ

cần bổ sung giá thể. Công nghệ cũng cho phép

cải tạo bể tự hoại 3 ngăn hiện hữu thành hệ

thống xử lý nước thải tại nguồn.

Công nghệ xử lý nước thải do Công ty

Đại Nam giới thiệu. Theo đại diện của công ty,

hệ thống đã được lắp đặt tại nguồn không qua

bể tự hoại cho nhiều đơn vị, cơ sở sản xuất

kinh doanh trên cả nước với độ ổn định và tin

cậy trong vận hành, mang lại hiệu quả kinh tế

cao, rút ngắn thời gian thu hồi vốn. Giải pháp

đặc biệt hiệu quả cho các nhà hàng, khách sạn,

tòa nhà, phòng khám, cơ sở sản xuất có diện

tích hạn chế.

Nguồn: Phạm Sơn, khampha.vn,

23/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Nắp cống thoát nước tự động gạt rác

Hai học sinh Nguyễn Tiến Nam và

Nguyễn Minh Hiển có chung niềm đam mê

khoa học đã sáng chế cống có khả năng tự

động gạt rác.

Xuất phát từ thực tế địa phương khi

thường xảy ra tình trạng ngập nước tại các

tuyến phố sau các trận mưa, cả hai ấp ủ ý

tưởng giải quyết bài toán này.

“Chúng em xem thời sự và tìm hiểu

trên mạng internet thì thấy tình trạng này cũng

xảy ra phổ biến ở những thành phố lớn trên cả

nước và mang đến nhiều hậu quả nghiêm

trọng. Mà một trong những nguyên nhân là do

rác thải bít tắc miệng cống thoát nước dẫn đến

hạn chế dòng chảy hoặc làm tắc đường ống

thoát nước. Do đó cả hai nảy sinh ý tưởng tạo

Page 41: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 41/53

một nắp cống có khả năng tự gạt rác để giải

quyết được tình trạng rác thải tắc trên nắp

cống gây ngập ở các tuyến phố”, Nam kể.

Cả hai định hướng dự án với hệ thống

cống thoát nước bám sát vỉa hè nên nước mưa

sẽ chảy thành dòng xuống. Nghĩ là làm, Nam

và Hiển đã đi đo và tính toán thực tế với nắp

cống dài 80 cm và rộng 40 cm.

Nguyên tắc hoạt động của hệ thống vốn

là những kiến thức vật lý đơn giản về tính toán

lực và hệ thống ròng rọc, vật liệu chế tạo

thông dụng.

Tính toán phần cào gạt rác có thể dọn

được lượng rác thải bị tắc khoảng 10kg, hai

em thiết kế vật đối trọng 15kg.

“Chúng em tính phần đối trọng cộng

với lực gạt rác sẽ nhỏ hơn hoặc bằng trọng

lượng của khay nước và lượng nước trong

khay. Như vậy khi khay tích được với lượng

nước 25 kg thì hệ thống sẽ tự động gạt rác mà

không phụ thuộc vào lưu lượng của dòng

nước”, Hiển nói.

Khi có lượng nước mưa đổ xuống thì

khay nước sẽ dần đẩy, hạ xuống thấp và qua

hệ thống ròng rọc kéo được cần gạt rác hoạt

động và vật đối trọng đi lên.

Khi khay xuống một điểm nhất định,

van xả sẽ mở ra để thoát lượng nước trong đó

bằng hệ thống dây động liên đới. Khi đó vật

đối trọng sẽ nặng hơn và kéo ngược khay nước

và cần gạt rác về vị trí ban đầu để tiếp tục một

chu trình đẩy rác trên miệng cống mới.

Hai nam sinh cho rằng điểm tích cực

của dự án này là tận dụng ngay chính nguồn

năng lượng từ nước mưa đổ vào cống thoát

nước thành cơ năng thay thế sức người trong

việc gạt rác ra khỏi miệng cống. Qua đó, giảm

bớt sức lao động của công nhân môi trường,

tiết kiệm chi phí nạo vét, khai thông cống.

“Em nghĩ sản phẩm này sẽ khả thi hơn

và giảm được sức lao động, thậm chí hoàn

toàn có thể thay thế sức người trong việc cào

gạt rác khi trời đang mưa bằng việc sử dụng

chính nguồn năng lượng từ nước mưa khi chảy

vào nắp cống”, Nam chia sẻ.

Ngoài ra, Nam và Hiển cũng thiết kế

thêm hệ thống để khi lượng nước mưa đổ vào

miệng nắp cống qua ròng rọc sẽ tạo nguồn

điện làm sáng đèn trên nắp cống nhằm cảnh

báo người đi đường được biết.

Khi có ý tưởng, các em đã đề xuất ngay

với giáo viên hướng dẫn để có thêm những tư

vấn. Từ lúc có ý tưởng cho đến khi hoàn thành

mô hình và thử nghiệm thành công mất 6

tháng với chi phí từ 2-2,5 triệu đồng.

Hai nam sinh chia sẻ, đây chỉ là mô

hình còn hướng phát triển thì các em sẽ nghiên

cứu thêm nhiều về vật liệu chống bị ăn mòn

trong hệ thống.

Dự án của Nam và Hiển từng giành

được giải Nhất cuộc thi khoa học kỹ thuật

dành cho học sinh trung học cấp tỉnh do Bắc

Ninh tổ chức.

Nguồn: vietnamnet.vn 10/03/2019

Trở về đầu trang

**************

Page 42: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 42/53

Giải pháp lấy nước ngầm kiểu mới

Mới đây, Văn phòng chương trình Tây

Bắc, Đại học quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã

tổ chức nghiệm thu đề tài cấp nhà nước thuộc

chương trình khoa học công nghệ phục vụ

phát triển bền vững vùng Tây Bắc: “Nghiên

cứu đề xuất và ứng dụng các giải pháp khoa

học, công nghệ phù hợp nâng cao hiệu quả

các công trình đập dâng vùng Tây Bắc”, do

TS. Nguyễn Chí Thanh, Viện khoa học thủy

lợi Việt Nam làm chủ nhiệm.

Đề tài đã xây dựng được công trình

thử nghiệm ứng dụng giải pháp lấy nước

ngầm kiểu mới thay thế kiểu lấy nước truyền

thống cho công trình đập dâng tại xã Cốc San,

Bát Xát, Lào Cai.

Sau 2 năm triển khai đến nay, đề tài

sản phẩm đã được đăng ký sáng chế “Phương

pháp thu nước ngầm đáy sông, suối kiểu nằm

ngang do Cục sở hữu trí tuệ, Bộ khoa học

công nghệ cấp”. Bên cạnh hoạt động thực

tiễn, đề tài còn có 4 bài báo khoa học, 2 đầu

sách chuyên khảo sắp xuất bản và đào tạo

được 2 thạc sĩ.

Theo ông Đinh Văn Sửu, phó chi cục

trưởng Chi cục thủy lợi tỉnh Lào Cai, với đặc

điểm nổi bật của khí hậu vùng Tây Bắc nói

chung và Lào Cai nói riêng, lượng mưa quá

thấp chỉ vào khoảng 1.500 mm, trong khi đó

lượng bốc hơi hàng năm lên đến 800 mm. Địa

hình vùng Tây Bắc vô cùng hiểm trở có độ

dốc lớn và bị phân cắt rất mạnh là các dãy núi

cao xen lẫn các thung lũng nhỏ hẹp. Các

thung lũng này thường bị chia cắt bởi các

sông suối nhỏ. Các đặc thù tự nhiên nêu trên

tạo cho khu vực Tây Bắc có các khu vực

trồng lúa (khu tưới) nhỏ hẹp với diện tích phổ

biến từ 10 đến 50 ha. Để cấp nước phục vụ

sản xuất cho các khu tưới đó thì công trình

hiệu quả nhất là đập dâng. Do vậy, hàng năm

khi lũ về đập thường bị hư hỏng, bị bồi lấp,

cuốn trôi... dẫn đến hiệu quả cấp nước của các

công trình này bị suy giảm nghiêm trọng.

Theo kết quả thống kê của các tỉnh trên địa

bàn nghiên cứu, hầu hết các công trình đập

dâng này chỉ đảm bảo được khoảng 50 - 60%

năng lực so với thiết kế, thậm chí rất nhiều

công trình không còn khả năng cấp nước.

Ông Sửu đánh giá cao mô hình thiết kế

đập dâng, mô hình này đạt tiêu chí của đơn vị

đặt hàng. Ông mong muốn chương trình Tây

Bắc phối hợp với đơn vị chủ trì đề tài sớm triển

khai rộng rãi dự án mô hình thu nước ngầm

này, để bà con địa phương thuộc tỉnh Lào Cai

có nguồn nước ổn định để tăng gia sản xuất,

cũng như thay hệ thống lọc thô của hệ thống

cấp nước sạch của địa phương hiện nay.

TS. Nguyễn Chí Thanh cho biết, trong

quá trình thực hiện đề tài, nhóm đã nghiên

cứu sâu và đã đề xuất được bộ tiêu chí đánh

giá hiệu quả đập dâng, các vấn đề như: hiệu

quả kinh tế, hiệu quả xã hội, tính dễ bị tổn

thương. Qua quá trình vận hành được các

chuyên gia, người dân địa phương đánh giá

đạt hiệu quả thu nước tốt, thi công nhanh và

đơn giản, dễ dàng vận hành và bảo dưỡng, độ

ổn định cao đã được kiểm chứng là ổn định

sau 2 đợt lũ lớn.

Các đoàn kiểm tra, thanh tra của Sở,

Bộ khoa học và công nghệ cùng với các

chuyên gia đã có kết luận và đánh giá cao về

tính hiệu quả, tính sáng tạo của công nghệ và

đã có đề nghị bằng văn bản để cho phép tiếp

tục nghiên cứu triển khai nhân rộng mô hình.

Nguồn: NHƯ QUỲNH,

khoahocphothong.com.vn, 19/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Page 43: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 43/53

Giải pháp công nghệ trong đo đạc địa hình bãi bồi ven biển

Nông dân xã Minh Thuận, huyện U Minh Thượng làm đất chuẩn bị thả nuôi vụ tôm nước lợ tránh

hạn mặn.

Việt Nam có đường bờ biển rất dài với

nhiều nguồn lợi phong phú nhưng cũng

thường xuyên chịu tác động từ tự nhiên và con

người. Hiện, công tác đo đạc địa hình dải ven

bờ biển nước ta gặp nhiều khó khăn do sự

phức tạp của điều kiện địa lý, tự nhiên.

Chính vì thế, việc tìm ra giải pháp công

nghệ trong đo đạc địa hình phục vụ xây dựng

cơ sở dữ liệu địa lý cho các khu vực bãi bồi

ven biển Việt Nam là rất cần thiết nhằm đáp

ứng nhu cầu quản lý tổng hợp các nguồn tài

nguyên, phát triển kinh tế bền vững và đảm

bảo an ninh quốc phòng.

Qua nhiều nghiên cứu và khảo sát thực

địa, nhóm kỹ sư Nguyễn Thị Kim Dung,

Dương Hồng Yên, Nguyên Thị Thanh Huệ

Anh thuộc Tổng công ty Tài nguyên và Môi

trường Việt Nam đưa ra các phương án tối ưu

trong việc kết hợp nhiều công nghệ khác nhau

cho việc đo đạc từng khu vực địa hình bãi bồi

ven biển cụ thể.

Theo đó, khu vực bãi bồi ven biển Bắc

Bộ nên áp dụng công nghệ bay quét chụp ảnh

số Lidar tận dụng vào thời điểm triều kiệt,

quang mây nhằm tăng cường tối đa khả năng

thu nhận tín hiệu đo độ cao địa hình; áp dụng

các công nghệ đo sâu địa hình, kế hoạch đo

được lập chi tiết đảm bảo phù hợp với tình

trạng ngập nước.

Sau khi thu nhận dữ liệu độ cao bằng

hai công nghệ trên sẽ sử dụng công nghệ định

vị GPS đo bù, phủ kín dữ liệu, rà soát khoanh

vùng các khu vực còn sót, hở, dữ liệu lỗi...

Đối với khu vực bãi bồi ven biển miền

Trung, công nghệ đo sâu đóng vai trò chủ đạo,

vừa đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật vừa

đảm bảo tính kinh tế. Đồng thời, công nghệ

GPS cũng được áp dụng để đo bù hoặc khi

không thể sử dụng công nghệ đo sâu.

Tại miền Nam, công nghệ thích hợp

nhất trong việc đo đạc địa hình các bãi bồi ven

biển là công nghệ bay quét chụp ảnh số Lidar.

Bên cạnh đó, do chế độ bán nhật triều không

đều, thời gian con nước lên xuống nhanh nên

công tác trực bay hoặc kết hợp công nghệ khác

cần được thực hiện chính xác đến từng giờ.

Khu vực này cũng cần được áp dụng

công nghệ đo sâu địa hình với kế hoạch đo lập

chi tiết đảm bảo phù hợp với tình trạng ngập

nước; sử dụng công nghệ GPS để đo bù, rà

soát các khu vực hở, sót dữ liệu...

Kỹ sư Nguyễn Thị Thanh Huệ Anh

cho biết chúng tôi đã thử nghiệm việc kết hợp

các công nghệ đo khác nhau cho vùng bãi bồi

cửa sông Diêm Hộ, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Địa hình tương đối bằng phẳng, hơi

nghiêng về phía biển với độ dốc không lớn,

các bãi lầy ven biển có rừng sút vẹt dầy, cao.

Khu vực thử nghiệm có diện tích khoảng

45km2 bao gồm các dạng địa hình cơ bản như

địa hình hoàn toàn khô cạn, không chịu ảnh

hưởng của thủy triều; khu vực bán ngập, thời

gian ngập nước theo lịch triều.

Các công nghệ được áp dụng là sử

dụng dữ liệu nhận được từ công nghệ bay quét

chụp ảnh số Lidar cho phần đất liền. Phủ kín

Page 44: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 44/53

khoảng 2/3 diện tích; công nghệ đo sâu hồi âm

đơn tia cho phần diện tích còn lại; công nghệ

GPS đo kiểm tra 54 điểm...

Kết hợp các kết quả đã đạt độ chính xác

độ cao thỏa mãn yêu cầu đặt ra. Có thể nói,

phương pháp phối hợp các công nghệ trong đo

đạc địa hình ven biển là khả thi, cho phép thực

hiện các nhiệm vụ xây dựng cơ sở dữ liệu

không gian địa lý đối với các khu vực bãi bồi,

cửa sông và ven biển.

Để tăng tính hiệu quả của giải pháp cần

lựa chọn thời điểm đo tối ưu để thực hiện đo

đạc phù hợp với loại công nghệ áp dụng trên

cơ sở theo dõi điều kiện khí tượng, hải văn,

lịch triều của từng khu vực bờ biển.

Dữ liệu được đồng bộ, tích hợp với các

loại dữ liệu địa lý khác trong hệ thống cơ sở

dữ liệu quốc gia, cho phép quản lý, chia sẻ và

cập nhật biến động kịp thời, đáp ứng các nhu

cầu sử dụng khác nhau, hạn chế đầu tư chồng

chéo, trùng lặp.

Nguồn: Hoàng Nam, vietnamplus.vn,

30/04/2019

Trở về đầu trang

**************

LĨNH VỰC KHÁC

Phát hiện hư hỏng công trình xây dựng bằng phương pháp dao động

Nhóm nghiên cứu của PGS.TS.

Nguyễn Việt Khoa, Viện cơ học đã nghiên

cứu thành công đề tài: “Phát hiện hư hỏng của

kết cấu bằng các phương pháp dao động”.

Các công trình dân dụng được xây

dựng ngày càng nhiều. Vì vậy, vấn đề an toàn

của kết cấu công trình luôn là vấn đề được

quan tâm hàng đầu trong suốt quá trình thiết

kế, thi công và trong quá trình hoạt động của

nó. Mặc dù quá trình thiết kế, thi công các kết

cấu xây dựng ngày càng được hoàn thiện

nhưng sai sót luôn xảy ra dẫn đến kết cấu

luôn tồn tại những khiếm khuyết. Hơn nữa,

trong quá trình hoạt động, các kết cấu thường

phải chịu nhiều loại tải trọng khác nhau.

Những tải trọng mạnh gây ra do thiên tai như

động đất, sóng thần, bão tố thương gây sụp đổ

tức thời hoặc gây ra những hư hỏng đột ngột

trong kết cấu như méo móp, gãy đứt…

Tuy nhiên, các tải trọng lặp lại thường

xuyên như tải trọng sóng, gió tác dụng lên các

kết cấu giàn khoan ngoài biển, công trình cao

tầng… có thể không gây ra những hư hỏng

tức thời nhưng lại có thể gây nên những hư

hỏng do mỏi như vết nứt. Theo thời gian, các

vết nứt này sẽ phát triển dần và làm suy yếu

kết cấu và khi đạt đến giới hạn mỏi thì sẽ dẫn

đến sự sụp đổ của toàn bộ kết cấu gây ra thiệt

hại lớn về người và của. Vì thế, việc phân tích

động lực học kết cấu nhằm phát hiện sớm hư

hại là công việc vô cùng quan trọng.

Nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Việt

Khoa nhằm mục tiêu phát triển các phương

pháp dao động,̣ phục vụ việc phát hiện hư

hỏng của kết cấu dựa trên số liệu mô phỏng

số và kiểm chứng bằng số liệu đo đạc trong

Page 45: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 45/53

phòng thí nghiệm, nhằm xác định khả năng

ứng dụng phương pháp trong thực tế.

Kết quả dề tài đã đưa ra 3 phương

pháp mới để phát hiện hư hỏng trong kết cấu

bao gồm:

- Phát triển phương pháp phát hiện vết

nứt dựa trên hiện tượng vết nứt thở.

- Phát triển phương pháp phát hiện vết

nứt dựa trên chỉ số độ cứng phần tử.

- Phát triển phương pháp phát hiện vết

nứt dựa trên tương tác khối lượng tập trung -

vết nứt.

Nguồn: N.Ngọc,

khoahocphothong.com.vn, 18/04/2019

Trở về đầu trang

**************

12 doanh nghiệp đầu tiên ngành phi thực phẩm đạt chuẩn hội nhập

12 doanh nghiệp đầu tiên đạt chứng nhận chuẩn hội nhập ngành phi thực phẩm.

Sau hơn 6 tháng chính thức triển khai,

bộ tiêu chuẩn dành cho doanh nghiệp phi thực

phẩm đạt chuẩn hội nhập đã chính thức được

công bố. Ngay tại sự kiện khai mạc hội chợ

hàng VN chất lượng cao diễn ra tại TP.HCM

tối 26/04, Hội doanh nghiệp hàng VN chất

lượng cao đã trao giấy chứng nhận chuẩn hội

nhập cho 12 doanh nghiệp phi thực phẩm đầu

tiên.

Đây được xem là chiếc “giấy thông

hành” cho các sản phẩm xuất khẩu ngành phi

thực phẩm có thể đưa sản phẩm mình sang

các thị trường quốc tế. Bộ tiêu chuẩn ngành

phi thực phẩm được Hội doanh nghiệp hàng

VN chất lượng cao thực hiện sau khi công bố

bộ tiêu chuẩn cho ngành thực phẩm 2 năm

trước đó.

Ông Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng

Bộ Khoa học và Công nghệ, Thành viên hội

đồng thẩm định bộ tiêu chuẩn hội nhập cho

ngành phi thực phẩm, đánh giá cao sáng kiến

của Hội doanh nghiệp hàng VN chất lượng cao

trong việc xây dựng hai bộ tiêu chuẩn quan

trọng cho ngành thực phẩm và phi thực phẩm.

Với việc ra đời các bộ tiêu chuẩn, các

mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sẽ

nâng cao được sức cạnh tranh trên trường

quốc tế. Mặt khác việc doanh nghiệp đi theo

con đường tiêu chuẩn, chất lượng sẽ giải

quyết được vấn đề “giải cứu” trong các ngành

nông sản.

“Tôi tin tưởng, những doanh nghiệp

vừa đạt chuẩn sẽ coi đây là đòn bẩy cho sự

phát triển của mình và đầu tư nâng cao chất

lượng, ổng định doanh thu và tạo ra những

sản phẩm mới. Các sản phẩm xuất khẩu chủ

lực của doanh nghiệp sẽ vào được các thị

trường khó tính như EU, Mỹ, ASEAN,…”-

ông Quân nói.

Nguồn: Hà Thế An, khampha.vn,

27/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Page 46: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 46/53

Ra mắt Không gian đổi mới sáng tạo cho sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long

Quang cảnh lễ Ra mắt

Với Không gian đổi mới dành cho nhà

sáng chế vừa đi vào hoạt động, sinh viên,

doanh nhân trẻ và giảng viên giờ đây đã có

thể tiếp cận được với các máy in 3D, máy cắt

laser và các công cụ công nghệ cao khác.

Sáng 5-4, Trường Đại học Cần Thơ đã

ra mắt Không gian đổi mới dành cho nhà sáng

chế, thắp sáng hoạt động đổi mới sáng tạo của

sinh viên khu vực Đồng bằng sông Cửu Long

Tham dự buổi ra mắt có lãnh đạo TP

Cần Thơ, Đại học Cần Thơ, Cơ quan Phát

triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Đại học

Bang Arizona và các doanh nghiệp ngành

công nghệ.

Không gian đổi mới dành cho nhà sáng

chế (MIS) tại Đại học Cần Thơ là không gian

sáng chế thứ ba được Dự án USAID BUILD-

IT hỗ trợ xây dựng.

Khi MIS đi vào hoạt động, sinh viên,

doanh nhân trẻ và giảng viên giờ đây đã có

thể tiếp cận được với các máy in 3D, máy cắt

laser, và các công cụ công nghệ cao khác.

Qua đó cùng nhau hợp tác để thiết kế, xây

dựng, và chế tạo các nguyên mẫu sản phẩm

và giải pháp đổi mới dựa trên nền tảng kỹ

thuật với mục tiêu phục vụ cho cộng đồng.

Phát biểu tại buổi lễ ra mắt, GS.TS Hà

Thanh Toàn, Hiệu trưởng Trường Đại học

Cần Thơ chia sẻ: “Chúng tôi khuyến khích

sinh viên và giảng viên của trường sử dụng

hiệu quả MIS nhằm phục vụ cho việc nghiên

cứu và hoạt động chuyên môn của mình. Với

MIS, các ý tưởng hay và sáng tạo có thể trở

thành các sáng chế phục vụ cho nghiên cứu

của giảng viên và sinh viên cũng như toàn thể

cộng đồng.”

Một công trình thiết bị ngoại vi (cánh tay rô - bốt) được sinh viên ĐH Cần Thơ sáng chế

Tại sự kiện, ông Michael Greene,

Giám đốc USAID tại Việt Nam nhận định:

“MIS sẽ tạo điều kiện cho việc chuyển đổi từ

các phương pháp giảng dạy truyền thống

sang mô hình học tập trải nghiệm hiện đại;

hỗ trợ các nỗ lực của Đại học Cần Thơ trong

việc hợp tác với khu vực tư nhân”.

Tại lễ ra mắt, các đại biểu đã tham

quan các công trình, sản phẩm và giải pháp

do sinh viên tạo ra bằng cách sử dụng các

công cụ được cung cấp trong dự án Không

gian đổi mới dành cho nhà sáng chế.

Nguồn: Cao Phong, sggp.org.vn,

05/04/2019

Trở về đầu trang

**************

Page 47: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 47/53

B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ

I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh

1. Nghiệm thu đề tài

TT Tên đề tài/Dự án Chủ nhiệm/CQ chủ trì

1

Nghiên cứu một số tính chất phân tử của ung thư vòm

họng trên người bệnh Việt Nam.

PGS. TS. Lê Huyền Ái Thúy

- Trường Đại học Mở

TP.HCM

2

Xây dựng bản đồ nhạy cảm môi trường đường bờ, ứng phó

sự cố tràn dầu trên địa bàn thành phố.

TS. Đào Nguyên Khôi -

Trung tâm Quản lý nước và

Biến đổi khí hậu

II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án

TT Ngày Tên đề tài/ Dự án Chủ nhiệm/ CQ chủ trì

Ngành Kinh tế

1 17/04/2019 Giải pháp nâng cao hiệu quả trả lương cho

lao động trực tiếp trong doanh nghiệp may.

ThS. NCS. Lê Thị Kim

Tuyết - Trường Đại học

Công nghiệp Dệt May Hà

Nội

2 12/04/2019 Xây dựng hướng dẫn xác định trọng yếu

kiểm toán chi đầu tư phát triển trong các

cuộc kiểm toán ngân sách địa phương.

TS. Đặng Anh Tuấn và

KS. Lê Ngọc Thọ - Kiểm

toán Nhà nước khu vực IV

3 23/04/2019 Vấn đề giải pháp nâng cao hiệu quả điều

hành chính sách nhà nước nhằm ổn định thị

trường tài chính Việt Nam.

PGS.TS Lê Thị Mận -

trường Đại học Kinh tế -

Tài chính TP.HCM

4 24/04/2019 Giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng Hệ

thống quản lý chất lượng theo TCVN 9001

tại Kho bạc Nhà nước Thừa Thiên Huế.

Thạc sỹ Nguyễn Hoàng

Đệ và Thạc sỹ Hà Văn

Dũng - Kho bạc Nhà nước

Thừa Thiên Huế

5 17/04/2019 Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu

phạt vi phạm hành chính qua Kho bạc Nhà

nước Bà Rịa - Vũng Tàu.

Kho bạc Nhà nước

6 08/04/2019

Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu

chứng nhận “ Chè Yên Thế” dùng cho

sản phẩm chè khô huyện Yên Thế,

tỉnh Bắc Giang.

Viện Kinh tế và Phát triển

- Học viện Nông nghiệp

Việt Nam

Page 48: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 48/53

7 16/04/2019 Tác động của những hiệp định thương mại tự

do đối với thành phố Cần Thơ và giải pháp

ứng phó.

Ông Phạm Bình An - Viện

Kinh tế Xã hội thành phố

Cần Thơ

Ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật

8 26/04/2019

Nghiên cứu lập trình mạch điện sử dụng bộ

lập trình cỡ nhỏ để chế tạo các mạch điều

khiển động cơ và điều khiển chiếu sáng tại

trường Đại học Công nghiệp Dệt May Hà

Nội.

Th.s Vũ Văn Thảo -

Trường Đại học Công

nghiệp Dệt May Hà Nội

9 04/04/2019 Nghiên cứu xây dựng giải pháp bảo vệ không

gian hồ trong đô thị thích ứng biến đổi

khí hậu.

TS.KTS Nuyễn Thị Bích

Thuận - Tổng hội Xây

dựng Việt Nam

10 10/04/2019 Điều tra thành phần loài và đề xuất mô hình

phát triển cây sa nhân tại tỉnh Thừa Thiên

Huế để tạo nguồn dược liệu.

Trường đại học Y Dược

Huế

11 25/04/2019 Xây dựng quy trình trồng và nhân giống Hoa

Hồng cổ Sapa và Hải Phòng tại Long Xuyên,

An Giang.

ThS. Nguyễn Thị Mỹ

Duyên - Trường Đại học

An Giang

12 23/04/2019 Ứng dụng quy trình kỹ thuật trồng táo theo

tiêu chuẩn VietGap tại xã Cam Thành Nam,

thành phố Cam Ranh.

KS. Bùi Văn Binh - Trung

tâm Nông nghiệp Công

nghệ cao Khánh Hòa

13 24/04/2019 Hoàn thiện và chuyển giao quy trình sử dụng

đèn LED cho nghề lưới vây xa bờ tỉnh

Khánh Hòa.

ThS. Nguyễn Văn Nhuận -

Trường Đại học Nha Trang

14 09/04/2019 Nghiên cứu chế tạo cừ bê tông chất lượng

siêu cao thay thế cừ Larsen thép (Cọc ván

ép).

TS. Nguyễn Công Thắng -

Trường Đại học Xây dựng

Hà Nội

15 11/04/2019 Khảo nghiệm, chọn tạo các giống hoa và

cây kiểng tiềm năng phục vụ phát triển du

lịch Bảy Núi, An Giang.

ThS. Nguyễn Hoài Vững -

Trung tâm Công nghệ sinh

học An Giang

16 24/04/2019

Xây dựng mô hình ứng dụng, chuyển giao

công nghệ sinh sản nhân tạo và nuôi thương

phẩm cá chạch sông (Mastacembelus

amatus) tại tỉnh Phú Thọ.

PGS.TS Cao Văn - Trường

Đại học Hùng Vương

17 08/04/2019 Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật xây

dựng vùng chè Yên Thế năng suất, chất

Viện Nghiên cứu và Phát

triển Vùng - Bộ KH&CN

Page 49: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 49/53

lượng phục vụ xuất khẩu.

18 08/04/2019

Nghiên cứu tuyển chọn cây đầu dòng và

một số biện pháp kỹ thuật thâm canh tăng

năng suất, chất lượng cây vú sữa huyện Tân

Yên, tỉnh Bắc Giang.

Viện Nghiên cứu Rau quả

19 02/04/2019 Nghiên cứu diễn biến xâm nhập mặn vùng

ven biển tỉnh Quảng Nam, đề xuất và giải

pháp.

Viện địa lý

20 04/04/2019 Trồng thử nghiệm cây Macadamia trên địa

bàn tỉnh Tuyên Quang.

Chi cục Kiểm lâm tỉnh

Tuyên Quang

21 12/04/2019 Xây dựng mô hình trồng thử nghiệm cây

trôm trên vùng khô hạn thuộc khu vực biên

giới của tỉnh Đắk Lắk.

TS. Phạm Trọng Nhân -

Viện Khoa học Lâm nghiệp

Nam Trung bộ và Tây

Nguyên

22 25/03/2019

Khảo sát thực nghiệm và đề xuất giải pháp

tối ưu hóa kỹ thuật sửa chữa, nâng cấp cầu

bê tông sử dụng tấm sợi polyme gia cường

ở tỉnh Cà Mau.

PGs.Ts. Nguyễn Minh

Long và Ths. Lê Minh

Luân, - Ban Quản lý dự án

xây dựng công trình giao

thông

23 22/04/2019 Nghiên cứu công nghệ và thiết kế chế tạo hệ

thống thiết bị cắt, tách gáo và làm sạch vỏ

nâu cơm dừa.

Kỹ sư cơ khí Cao Minh

Đạt - DNTN Phương Nhi

24 05/04/2019

Tuyển chọn và nhân giống vô tính cây bơ

(Persea americana Mill.) trồng bằng hạt, hoa

tự thụ, cho trái ổn định và phẩm chất trái

ngon trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.

TS. Lê Hữu Hải - Trường

Đại học Tiền Giang

25 24/04/2019

Ứng dụng khoa học và công nghệ sử dụng

phân bón hữu cơ vi sinh Hudavil trên một số

cây trồng tại tỉnh Cao Bằng góp phần phát

triển nông nghiệp bền vững.

Sở Khoa học và Công nghệ

tỉnh Cao Bằng

26 16/04/2019 Nghiên cứu cơ sở khoa học sinh thái để phát

triển nông nghiệp bền vững thị xã Duyên

Hải, tỉnh Trà Vinh.

TS Nguyễn Văn Tú - Viện

Sinh học Nhiệt đới

27 16/04/2019

Nghiên cứu thực nghiệm sinh sản nhân tạo,

ương và nuôi thương phẩm cá Dìa bông

(Siganus guttatus, Bloch 1787) tại Bình

Định.

KS Phan Thanh Việt -

Trung tâm Giống Nông

nghiệp

28 16/04/2019 Nghiên cứu và ứng dụng các chế phẩm chiết PGS.TS Nguyễn Quang

Page 50: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 50/53

xuất từ cây quế và cây chiêu liêu trong bảo

quản trái bơ và chanh dây tại tỉnh Đắk Lắk.

Vinh - Viện Công nghệ

Sinh học và Môi trường,

Trường Đại học Tây

Nguyên

29 16/04/2019

Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật xây dựng mô hình

thâm canh hồ tiêu theo tiêu chuẩn VietGAP

nhằm phòng bệnh chết nhanh, chết chậm góp

phần xây dựng nông thôn mới bền vững và

xây dựng nhãn hiệu hồ tiêu tại huyện Tân

Phú, tỉnh Đồng Nai.

Phòng Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn huyện Tân

Phú và Trung tâm Nghiên

cứu cây ăn quả miền Đông

Nam

30 23/04/2019 Nghiên cứu bảo tồn nguồn gen cây mãng cầu

ta (Na) đặc hữu của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

KS. Đỗ Văn Thịnh - Trung

tâm Nghiên cứu Cây ăn quả

miền Đông Nam Bộ

Ngành Y dược

31 29/03/2019 Đánh giá hiệu quả can thiệp đến kiến thức

sử dụng kháng sinh của người dân trong

điều trị tại tỉnh Hải Dương.

TS. Nguyễn Thị Hường

32 05/04/2019

Nghiên cứu thành phần các hoạt chất có tác

động hỗ trợ điều trị ung thư đường tiêu hóa

từ củ ngải bún (Boesenbergia pandurata) ở

An Giang.

PGS.TS. Nguyễn Trung

Nhân - Trường Đại học

Khoa học tự nhiên và

Trung tâm công nghệ sinh

học An Giang

33 12/04/2019

Xây dựng mô hình can thiệp dự phòng,

sàng lọc và kiểm soát ung thư cổ tử cung

của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49

tuổi) dựa vào y tế xã tỉnh Bình Định.

TS Trương Quang Đạt -

Liên hiệp các Hội khoa

học và kỹ thuật Bình Định

34 25/04/2019

Giải pháp phòng chống dịch bệnh truyền

nhiễm để đảm bảo sức khỏe cán bộ chiến sĩ

và học viên đang học tập và làm việc tại

cơ sở 3 Trường Đại học Phòng cháy

chữa cháy.

Thiếu tá Nguyễn Thanh

Vân - Trường Đại học

Phòng cháy chữa cháy

35 26/04/2019 Nghiên cứu quy trình điều chế Felodipin

làm thuốc điều trị bệnh cao huyết áp.

PGS.TS. Vũ Minh Tân -

Trường Đại học Công

nghiệp Hà Nội

36 22/04/2019 Xây dựng mô hình quản lý, chăm sóc sức

khỏe người dân tại cộng đồng bằng sổ sức

khỏe điện tử.

TS. Nguyễn Đình Học -

Sở Y tế tỉnh Bắc Kạn

Page 51: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 51/53

Ngành Giáo dục đào tạo

37 24/04/2019

Giải pháp nâng cao hiệu quả tự học học

phần Kĩ thuật May của sinh viên ngành

Công nghệ May đáp ứng yêu cầu gắn đào

tạo với thực tế sản xuất hàng xuất khẩu.

ThS. Dương Thị Hồng

Lượng - Trường Đại học

Công nghiệp Dệt May Hà

Nội

38 12/04/2019 Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác

quản lý đào tạo của Kiểm toán nhà nước.

TS. Nguyễn Hữu Hiểu và

TS. Lê Anh Vũ Trường

Đào tạo và Bồi dưỡng

nghiệp vụ kiểm toán

39 24/04/2019 Ứng dụng của việc sử dụng portfolio- hồ sơ

sinh viên trong việc cải thiện học từ vựng

của sinh viên Đại Nam.

ThS. Phùng Thị Yên -

Trường Đại học Đại Nam

40 24/04/2019 Sử dụng trò chơi ngôn ngữ để tạo hứng thú

học tiếng Anh cho sinh viên năm nhất Đại

học Đại Nam.

Th.S Nguyễn Thị Nhiên -

Trường Đại học Đại Nam

41 19/04/2019 Nghiên cứu giải pháp tạo nguồn đào tạo

cán bộ chính trị cấp phân đội trong Quân

đội nhân dân Việt Nam hiện nay.

Thiếu tướng, TS Nguyễn

Xuân Trường - Trường

Đại học Chính trị

42 25/04/2019

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phối

hợp thực hiện công tác đào tạo bậc trung

cấp hệ chính quy tại cơ sở 3, Trường Đại

học Phòng cháy chữa cháy.

Đại úy Phạm Thị Hồng

Biên - Trường Đại học

Phòng cháy chữa cháy

43 25/04/2019

Giải pháp nâng cao hiệu quả phối hợp với lực

lượng Công an cơ sở làm tốt công tác bảo

đảm an ninh trật tự xung quanh khu vực

trường đóng quân tại Cơ sở 3 Trường Đại

học Phòng cháy chữa cháy.

Trung tá Bùi Đức Thịnh

và Thiếu úy Vũ Chiến

Thắng - Trường Đại học

Phòng cháy chữa cháy

44 26/04/2019

Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp

nâng cao hiệu quả công tác đào tạo và bố trí,

sử dụng cán bộ công chức người dân tộc

thiểu số tỉnh Bình Phước.

Ông Nguyễn Thành

Chương - Sở Nội Vụ tỉnh

Bình Phước

45 24/4/2019

Nghiên cứu thiết kế và chế tạo bộ Duplexer,

bộ khuếch đại công suất (PA) và bộ tản nhiệt

hiệu suất cao cho hệ thống RRU (Remote

Radio Unit).

Thạc sĩ Đỗ Trọng Tấn -

Trung tâm Công nghệ Vi

điện tử và Tin học (IMET)

Page 52: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 52/53

Ngành văn hóa xã hội

46 29/03/2019

Tổng kết lịch sử Công an tỉnh Sông Bé

(nay là Bình Dương và Bình Phước)

giúp tỉnh Kratíe (Campuchia), giai đoạn

1978 – 1991.

Công an tỉnh Bình Phước

47 19/04/2019 Nghiên cứu giải pháp tạo nguồn cán bộ

chính trị cấp phân đội (CBCTCPĐ) trong

Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.

Thiếu tướng, TS Nguyễn

Xuân Trường - Trường Sĩ

quan Chính trị

48 23/04/2019 Điều chỉnh hệ thống đô thị quốc gia đến

năm 2035, tầm nhìn đến năm 2050.

KTS. Phạm Thị Nhâm -

Viện Quy hoạch đô thị và

nông thôn quốc gia

49 11/04/2019 Nghiên cứu thiết kế cây xanh đường phố

trong các đồ án quy hoạch đô thị Việt Nam.

ThS.KTS. Nguyễn Thị

Hồng Diệp - Viện Quy

hoạch Đô thị và Nông

thôn Quốc gia

50 17/4/2019 Xung đột xã hội và những vấn đề đặt ra đối

với công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở

nước ta hiện nay.

Thiếu tướng, PGS.TS Trần

Vi Dân

51 10/04/2019

Đánh giá thực trạng môi trường lao động,

công tác quản lý an toàn vệ sinh lao động

và sức khỏe người lao động tại các cơ sở

sản xuất VLXD có sử dụng tro, xỉ, thạch

cao tại Việt Nam.

TS.Bác sĩ Lê Thị Hằng -

Bệnh viện Xây dựng

52 11/04/2019 Nghiên cứu thiết kế cây xanh đường phố

trong các đồ án quy hoạch đô thị Việt Nam.

ThS.KTS. Nguyễn Thị

Hồng Diệp - Viện Quy

hoạch Đô thị và Nông

thôn Quốc gia

53 25/04/2019 Văn học đại chúng trong bối cảnh văn hóa

Việt Nam đương đại.

PGS.TS. Nguyễn Đăng

Điệp l - Viện Văn học

54 24/04/2019 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của

lực lượng CSKV trong phòng ngừa tội

phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

Thượng tá Hoàng Giang

Nam - Phòng PX03, Công

an tỉnh Quảng Bình

55 11/04/2019 Diễn ngôn phát triển, chuyển đổi sinh kế và

biến đổi văn hoá ở người Ê Đê và Cơ Ho,

Tây Nguyên.

TS. Hoàng Cầm - Viện

Nghiên cứu Văn hóa

Page 53: BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để

Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 53/53

56 04/04/2019 Vai trò của già làng và người có uy tín

trong phát triển bền vững vùng đồng bào

dân tộc thiểu số tỉnh Bình Phước.

TS. Nguyễn Văn Thắng,

Trường đại học Thủ đô Hà

Nội

57 26/04/2019 Đổi mới, nâng cao chất lượng đánh giá, xếp

loại tổ chức Công đoàn.

Ths. Đặng Quang Hợp -

Viện Công nhân và Công

đoàn

58 26/04/2019 Những giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam

hiện nay.

PGS.TS. Trần Thị Minh

Thi - Viện Nghiên cứu Gia

đình và Giới

59 26/04/2019 Văn học trào phúng Việt Nam (Từ thế kỷ

XVIII đến nửa đầu thế kỷ XX).

PGS.TS. Vũ Thanh - Viện

Văn học

60 05/04/2019 Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng gắn

với xóa đói giảm nghèo ở miền Tây

Nghệ An.

Th.S Đậu Quang Vinh -

Trung tâm Khoa học xã

hội và Nhân văn

Trở về đầu trang

**************