bẢn tin thÁng 12/2018 -...
TRANSCRIPT
![Page 1: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/1.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 1/58
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 12/2018
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Sử dụng màng ống nano để cải tiến pin.
Vải thay thế pin dùng cho các thiết bị mang theo người.
Các nhà khoa học tăng 60% tuổi thọ cho pin điện thoại thông minh.
Phương pháp chế tạo pin gần như mọi hình dạng.
Tạo ra các loại pin tốt hơn từ mô phỏng sinh học.
Robot mô-đun có khả năng thay đổi dạng, tự lắp ráp các bộ phận của chúng.
Phát triển công nghệ điện thoại di động để phát hiện HIV.
Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp mắt.
Công nghệ sản xuất điện và làm mát 2 trong 1 từ bức xạ hồng ngoại và ánh sáng mặt trời.
Mỹ 'trình làng' máy quét 3D toàn thân đầu tiên trên thế giới.
MIT chế tạo ra máy bay vận hành chỉ bằng điện, không hề có yếu tố cơ học.
Găng tay điện tử tạo cho robot cảm nhận xúc giác.
Không khí có thể thay thế silicon trong chip nano thế hệ mới.
Thiết bị mới giúp người liệt soạn văn bản bằng ý nghĩ.
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Phương pháp mới làm mát mà không cần điện.
Chế tạo thành công la bàn lượng tử siêu chính xác, vượt trội hơn so với GPS
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Bước đột phá trong quá trình sản xuất nhiên liệu hydro.
Các nhà hóa học phát triển các chất thay thế an toàn cho phthalate dùng trong nhựa.
Sản xuất được tơ nhện nhân tạo nhẹ hơn bông, bền hơn thép.
Màng trong suốt loại bỏ 70% nhiệt mặt trời đi đến.
'Đóng chai' năng lượng mặt trời để dùng dần trong gần 2 thập kỉ.
Những con đường từ nhựa tái chế: Nhẹ hơn, nhanh hơn và bền hơn.
Siêu vật liệu dán cửa kính giúp tiết kiệm hàng triệu đô tiền điện.
Chế tạo vật liệu “thông minh” mới có các ứng dụng y sinh học và môi trường tiềm năng.
Tìm ra chất xúc tác biến khí CO2 độc hại thành sản phẩm có giá trị.
Phương thức lọc etylen giá rẻ và tiêu tốn ít năng lượng.
![Page 2: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/2.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 2/58
Các nhà nghiên cứu phát triển bền vững 'nano-mâm xôi' để trung hòa độc tố carbon
monoxide.
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Phát hiện “công tắc” để tăng sự tích tụ của tinh bột trong tảo.
Thu hồi dưỡng chất từ nước chế biến thủy sản.
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Phát hiện cơ chế phát quang của nấm và tạo ra các men phát quang.
Y DƯỢC
Liệu pháp điện xung cột sống giúp người bị liệt khỏi bệnh.
Cánh tay sinh học điều khiển bằng tín hiệu não.
Đĩa đệm sinh học mới được phát triển từ chính các tế bào của người bệnh.
Phát hiện chất ức chế viêm mới.
Phân tử chống lão hóa' có thể cải thiện phương pháp điều trị gan và thận.
Da nhân tạo từ vi tảo, cung cấp oxi giúp vết thương mau lành.
Tụy nhân tạo thông minh, tương lai cho bệnh nhân tiểu đường.
Máy quét y tế toàn thân đầu tiên trên thế giới cung cấp hình ảnh 3D.
Công nghệ quét mắt giúp chẩn đoán sớm bệnh Parkinson.
Nuôi cấy mô tim đập như tim thật.
Nga thử nghiệm thành công tim nhân tạo.
Sử dụng vật liệu hydrogel siêu kết dính trong tái tạo mô.
Biến mô mỡ trắng thành mỡ nâu để chống béo phì.
Anh bào chế loại thuốc nhỏ mũi ngừa bệnh viêm màng não mô cầu.
Tín hiệu vui cho những bệnh nhân đang điều trị ung thư não ác tính.
Sử dụng ánh sáng để tiêu diệt ung thư vú di căn.
Công nghệ nhận diện ung thư bằng hạt nano giúp dễ dàng tìm ra “địa chỉ khu trú” của
khối u.
Ngăn tế bào khối u dịch chuyển có thể ngăn chặn ung thư di căn.
NÔNG NGHIỆP
Trung Quốc trồng thành công lúa nước mặn, có thể nuôi sống 80 triệu người.
Robot bọ rùa trị giá triệu đô giúp giám sát sức khỏe cây trồng.
Sinh viên Thái chế máy cắt cỏ bằng năng lượng mặt trời.
MÔI TRƯỜNG
Thu hàng triệu USD nhờ biến rác thải thành than sạch.
Vật liệu mới làm sạch và tách nước.
![Page 3: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/3.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 3/58
Các hạt nano kim loại có triển vọng dùng để tạo ra các chất xúc tác thân thiện với môi
trường.
Xử lý thủy ngân độc hại nước ô nhiễm.
Bộ lọc không khí ngăn chặn 90% hạt ô nhiễm, chất gây dị ứng và vi khuẩn.
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Sử dụng màng ống nano để cải tiến pin
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học
tại trường Đại học Rice, việc lồng ghép màng
ống nano cacbon trong quá trình chế tạo pin
góp phần quan trọng để kéo dài tuổi thọ pin.
Nhóm nghiên cứu dẫn dầu là nhà hóa
học James Tour, đã sử dụng màng ống nano
để tìm cách ngăn chặn sự phát triển của các
dentrit trên cực dương kim loại lithium không
được bảo vệ của pin. Nghiên cứu đã được
công bố trên tạp chí Advanced Materials.
Các dentrit thường làm hỏng pin do
tiếp xúc với cực âm của pin, khiến người tiêu
dùng tránh sử dụng pin lithium để thay cho
pin lithium-ion cùng loại. Các chuyên gia có
thể kìm hãm tốc độ phát triển của dentrit
trong pin lithium-ion nhưng lại phải làm
chậm thời gian sạc pin. Nhưng nhóm nghiên
cứu đã phát hiện ra rằng có thể cản trở sự
phát triển của dendrit trong pin lithium nhờ sử
dụng một kỹ thuật đơn giản nhưng mang lại
hiệu quả cao.
"Những gì chúng tôi đã làm rất dễ
dàng", ông Tour nói. "Bạn chỉ cần phủ lên lá
kim loại lithium màng ống nano cacbon đa
vách. Lithium có thể biến đổi ống nano từ
màu đen sang đỏ và màng khuếch tán các ion
lithium".
Sau 580 chu trình sạc và xả sạc với pin
thử nghiệm, các nhà nghiên cứu cho rằng toàn
bộ pin kim loại lithium đã duy trì 99,8% hiệu
suất pin, thể hiện hiệu quả các điện tử di
chuyển trong hệ thống điện hóa.
Loại màng này có thể duy trì mức ion
ổn định để kiểm soát sự phát triển của dendrit
bằng cách đưa vào các ion từ cực dương
lithium trong khi những ion khác được loại bỏ.
“Tiếp xúc vật lý với kim loại lithium
làm biến đổi màng ống nano, nhưng có thể
cân bằng nó bằng cách bổ sung các ion
lithium”, Rodrigo Salvatierra, đồng tác giả
nghiên cứu cho biết. "Bản thân ion phân bố
toàn bộ màng ống nano".
Theo vista.gov.vn, 02/11/2018
Trở về đầu trang
**************
![Page 4: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/4.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 4/58
Vải thay thế pin dùng cho các thiết bị mang theo người
Một yếu tố chính cản trở sự phát triển
của cảm biến sinh học đeo trên người để theo
dõi sức khỏe là thiếu nguồn cung cấp năng
lượng kéo dài. Hiện nay, các nhà nghiên cứu
tại trường Đại học Massachusetts Amherst do
nhà hóa học vật liệu Trisha L. Andrew dẫn
đầu đã đưa ra phương pháp thiết lập hệ thống
tích trữ điện tích dễ tích hợp vào quần áo để
"thêu nên một mẫu hình tích trữ điện tích trên
mọi loại hàng may mặc".
Như Andrew giải thích, "Pin hoặc các
loại thiết bị tích trữ điện tích khác vẫn là
những thành phần hạn chế hầu hết các công
nghệ di động, mang theo người và linh hoạt.
Các thiết bị có xu hướng quá cồng kềnh, nặng
và không linh hoạt".
Phương pháp mới sử dụng siêu tụ điện
siêu nhỏ và kết hợp sợi dẫn điện được phủ hơi
nước với màng polyme, cùng với kỹ thuật
may đặc biệt để tạo ra một mạng lưới linh
hoạt gồm các điện cực thẳng hàng trên mặt
trái của vải. Kết quả là thiết bị ở trạng thái rắn
có khả năng tích trữ điện tích ở mức cao do
kích thước của nó và các đặc tính khác cho
phép cấp điện cho cảm biến sinh học mang
theo người. Dù các nhà nghiên cứu đã thu nhỏ
đáng kể kích thước nhiều linh kiện của mạch
điện tử, nhưng đến nay vẫn không thể dùng
cho các thiết bị lưu trữ điện tích.
Nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng siêu
tụ điện là ứng viên lý tưởng cho vi mạch lưu
trữ điện tích mang theo người vì chúng có
mật độ năng lượng vốn dĩ cao hơn pin.Tuy
nhiên, việc kết hợp các vật liệu hoạt tính điện
hóa có độ dẫn điện cao và khả năng vận
chuyển ion nhanh vào vải là thách thức. Các
nhà khoa học cho rằng quá trình phủ hơi nước
tạo ra màng polyme dẫn điện trên các sợi
xoắn mật độ cao, có thể dễ dàng phồng lên
nhờ có các ion điện phân và duy trì dung
lượng lưu trữ điện tích ở mức cao khi so sánh
với nghiên cứu trước đây về sợi nhuộm hoặc
sợi ép.
Các nhà nghiên cứu vải dệt có xu
hướng không sử dụng phương pháp lắng đọng
hơi do khó khăn kỹ thuật và chi phí cao,
nhưng gần đây, nghiên cứu đã chỉ ra rằng
công nghệ này có thể được mở rộng quy mô
và duy trì hiệu quả chi phí.
Nhóm nghiên cứu đã phối hợp với các
cộng sự khác để kết hợp các tấm tích trữ điện
tích mới được thêu với cảm biến vải điện tử
và bộ vi xử lý công suất thấp để cho ra đời
các sản phẩm may mặc thông minh theo dõi
dáng đi và chuyển động khớp của một người
trong ngày.
Theo vista.gov.vn, 19/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học tăng 60% tuổi thọ cho pin điện thoại thông minh
Các nhà khoa học máy tính tại trường
Đại học Aston đã đưa ra một phương thức để
kéo dài đáng kể tuổi thọ pin cho các thiết bị
di động như điện thoại thông minh và máy
tính bảng bằng cách giảm thiểu 60% mức tiêu
thụ điện năng của các ứng dụng di động.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Emerging Telecommunications
![Page 5: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/5.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 5/58
Technologies, đưa ra giải pháp tích hợp điện
toán di động với điện toán đám mây, kết hợp
với các công cụ đã được phát triển để xác
định các yếu tố tiêu tốn nhiều điện năng nhất
trong một ứng dụng di động và sau đó di
chuyển chúng đến đám mây bằng kỹ thuật
code - offloading.
Các nhà khoa học đã xây dựng một hệ
thống ứng dụng hybrid đám mây di động cho
Android, kết hợp các ứng dụng di động trên
cả nền tảng di động và đám mây. Nhờ ứng
dụng kỹ thuật code - offloading, các bộ phận
tiêu thụ nhiều điện năng của ứng dụng hybrid
đám mây di động đầu tiên được xác định và
sau đó được chuyển vào đám mây và được
thực hiện tại đó thay vì trên chính thiết bị di
động. Vì thế, các linh kiện của thiết bị không
được sử dụng, nên sẽ tiết kiệm điện giúp kéo
dài tuổi thọ pin.
TS. Aamir Akbar, đồng tác giả nghiên
cứu cho biết: "Đến nay, chúng tôi đã thực
hiện các thí nghiệm trên hai ứng dụng
Android khác nhau. ImageEffects là mẫu thử
nghiệm và Instagram giống như ứng dụng
chúng tôi tạo ra và Mather là ứng dụng
nguồn mở có sẵn trên Github. Trên ứng dụng
thứ nhất, chúng tôi đã chứng minh được rằng
mức tiêu thụ điện năng của pin có thể giảm
hơn 60% với chi phí bổ sung chỉ hơn 1 MB
dung lượng sử dụng mạng. Trên ứng dụng
thứ hai, mức tiêu thụ chưa đến 35% điện
năng với chi phí gần 4 KB dữ liệu bổ sung".
Dù bản thân điện toán đám mây di
động không phải là một khái niệm mới, ví dụ
Google Maps truy cập các dịch vụ đám mây
để cung cấp dữ liệu bản đồ và hình ảnh,
nhưng các nhà khoa học máy tính tại trường
Đại học Aston là những người đầu tiên đưa ra
giải pháp chung và linh hoạt để chuyển các
bộ phận tiêu tốn điện năng của ứng dụng di
động lên đám mây.
TS. Peter Lewis, một trong các tác giả
nghiên cứu cho rằng: "Bằng cách cung cấp
công cụ cho các ứng dụng di động và sử dụng
các thuật toán tối ưu hóa để tìm kiếm các cấu
hình ứng dụng hiệu quả, những công cụ sẽ xác
định được các bộ phận ngốn nhiều điện năng
của ứng dụng di động và di chuyển chúng lên
đám mây. Và vì hệ thống của chúng tôi hướng
đến mục đích chung, nên nó có thể được áp
dụng cho bất cứ ứng dụng di động nào".
Các nhà khoa học hiện đang nghiên cứu
ứng dụng kỹ thuật cho robot di động chạy pin
để sử dụng trong nhiều tình huống như trong
các hoạt động tìm kiếm và cứu hộ, trong đó,
tuổi thọ pin đóng vai trò rất quan trọng.
Theo vista.gov.vn, 20/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp chế tạo pin gần như mọi hình dạng
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Viện
Khoa học và Công nghệ tiên tiến Hàn Quốc,
trường Đại học Harvard và Viện Nghiên cứu
công nghệ hóa học Hàn Quốc đã đưa ra
phương pháp chế tạo pin với hầu hết mọi hình
dạng. Trong bài báo công bố trên tạp chí ACS
Nano, các nhà nghiên cứu đã mô tả quy trình
chế tạo pin và thiết bị mà họ tạo ra để chứng
minh phương pháp này là phù hợp.
Hình dạng của nhiều thiết bị nhỏ bị
hạn chế bởi hình dạng pin như đồng hồ thông
minh. Pin nhỏ thường có dạng đồng xu, hình
chữ nhật, hình trụ hoặc dạng túi. Nhóm
nghiên cứu đã nỗ lực đưa ra một phương pháp
mới chế tạo pin có gần như mọi hình dạng mà
một nhà sản xuất sản phẩm có thể thiết kế.
Các nhà khoa học đã lựa chọn pin
kẽm-ion vì chúng có thể được sử dụng an
toàn ở ngoài trời, bởi loại pin này sử dụng các
chất điện phân từ nước. Nhóm nghiên cứu đã
![Page 6: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/6.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 6/58
xem xét các phương thức sản xuất được sử
dụng cho nhiều sản phẩm khác nhau, tìm
kiếm các kỹ thuật chế tạo các linh kiện pin
theo nhiều hình dạng. Đối với cực âm, các tác
giả đã phát hiện ra rằng điện cho phép pin
được cắt thành hình dạng như mong đợi. Đối
với một số linh kiện khác, họ sử dụng phương
pháp gia công cơ khí vi mô. Đối với bao bì,
họ sử dụng phương pháp in litô lập thể. Các
kết nối điện được tạo nên bằng máy in 3D.
Nhóm nghiên cứu đã kết hợp tất cả các ý
tưởng với nhau để cho ra đời một số loại pin
có hình dạng của chữ cái, nhẫn và vòng tròn.
Để kiểm tra ý tưởng, các nhà nghiên
cứu đã chế tạo pin có thể được sử dụng để cấp
điện cho cảm biến ánh sáng gắn vào chiếc
nhẫn đeo trên ngón tay. Thông qua chứng
minh thành công một thiết bị này, nhóm
nghiên cứu đã chỉ ra rằng ý tưởng của họ là
phù hợp. Các nhà khoa học nhấn mạnh quy
trình tương tự có thể được sử dụng để chế tạo
các thiết bị mới và các lựa chọn khác sẵn có
như sử dụng pin kẽm -mangan để cấp điện
cho siêu tụ điện graphene.
Các nhà nghiên cứu cũng nhấn mạnh
pin thiết kế mà chúng tạo ra có thể xả sạc rất
nhanh và sạc đầy lại chỉ trong vài phút. Ngoài
ra, pin cũng có thể được dùng cho nhiều ứng
dụng như thiết bị cấy ghép hoặc đeo trên
người và các sản phẩm mới khác.
Theo vista.gov.vn, 22/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Tạo ra các loại pin tốt hơn từ mô phỏng sinh học
Nhóm nghiên cứu Trường Đại học
Osaka đã báo cáo một tiến bộ mới trong việc
thiết kế các vật liệu để dùng trong pin sạc,
trong điều kiện độ ẩm cao. Sử dụng nguồn
cảm hứng từ mô phỏng sinh học, các nhà
nghiên cứu đã tạo ra được một vật liệu có ion
kali di chuyển nhanh, có thể dễ dàng di
chuyển để đáp ứng với điện trường. Nghiên
cứu này có thể giúp làm cho pin sạc an toàn
và rẻ tiền hơn, giảm đáng kể chi phí của xe
điện và các thiết bị điện tử gia dụng di động.
Pin lithium-ion có thể sạc lại được sử
dụng rộng rãi trong máy tính xách tay, điện
thoại di động và thậm chí cả xe hơi điện và xe
lai nhưng các loại pin này đắt tiền và dễ gây
cháy nổ.
Đối với các vật liệu mới không sử
dụng lithium có thể giúp làm giảm chi phí và
cải thiện sự an toàn của các loại pin này, và
có khả năng đẩy nhanh việc chuyển sang
dùng các loại xe điện tiết kiệm năng lượng.
Cả ion natri và kali là những ứng cử
viên tiềm năng có thể được sử dụng để thay
thế lithium, vì chúng rẻ và có nguồn cung ứng
dồi dào. Tuy nhiên, ion natri và kali là ion
nặng hơn nhiều so với lithium, vì vậy chúng
di chuyển rất chậm qua hầu hết các vật liệu.
Các ion dương này tiếp tục bị chậm lại bởi
lực hấp dẫn mạnh với các điện tích âm trong
vật liệu tinh thể.
“Các ion kali có tính di động thấp ở
trạng thái rắn do kích thước của chúng lớn,
đó là một bất lợi cho việc thiết kế pin”, tác giả
Takumi Konno giải thích.
Để giải quyết vấn đề này, các nhà
nghiên cứu đã sử dụng một cơ chế giống như
các tế bào sống trong đó cho phép các hạt ion
kali lớn đi qua màng đồng thời giữ các hạt
nhỏ ở lại bằng cách xem xét không chỉ bản
thân ion mà còn cả các phân tử nước xung
quanh, được gọi là “lớp hydrat hóa”, được
thu hút bởi điện tích dương của ion.
Trong thực tế, ion càng nhỏ thì lớp
hydrat hóa liên kết càng lớn và chặt chẽ hơn.
Các kênh potassium chuyên dụng trong màng
![Page 7: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/7.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 7/58
tế bào có kích thước phù hợp để cho phép các
ion kali lớn đi qua, nhưng giữ lại các lớp
hydrat hóa lớn của các ion nhỏ hơn.
Các nhà nghiên cứu đã phát triển một
mang tinh thể ion sử dụng nguyên tử
rhodium, kẽm và oxy. Cũng giống như các
kênh dẫn sinh học chọn lọc, tính di động của
các ion trong tinh thể được phát hiện cho thấy
là các ion potassium lớn hơn di chuyển nhanh
hơn so với các ion lithium nhỏ hơn.
Đúng với thực tế, các ion potassium,
được phân cấp là “chất dẫn điện siêu dẫn”, di
chuyển quá dễ dàng Nhóm nghiên cứu nhận
thấy rằng đây là vật liệu có khả năng di
chuyển ion kali hydrat hóa lớn nhất từ trước
đến nay.
Theo vista.gov.vn, 28/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Robot mô-đun có khả năng thay đổi dạng, tự lắp ráp các bộ phận của chúng
Các loại robot phổ biến đều có nhiều
hạn chế. Chúng có thể rất tốn kém và rườm
rà. Chúng thường chỉ thực hiện một loại
nhiệm vụ duy nhất. Nhưng các rô bốt mô đun
- bao gồm nhiều bộ phận hoặc các mô đun có
thể hoán đổi, tự sắp xếp lại - có sự linh hoạt
hơn rất nhiều lần. Nếu một bộ phận nào đó bị
hỏng, chúng ta có thể dễ dàng tháo bỏ và thay
mới. Các thành phần của nó có thể tự sắp xếp
lại hoặc thay đổi, cải tiến tốt hơn khi cần
thiết. Các robot có thể tìm ra cách thức để tự
cấu hình lại chính nó, trên cơ sở các nhiệm vụ
mà chúng được gán và môi trường chúng
đang điều hướng.
Hiện nhóm nghiên cứu Trường Đại học
Cornell đã phát triển thành công robot mô-đun
có thể nhận thức được môi trường xung quanh,
đưa ra quyết định và tự động giả định các hình
dạng khác nhau để thực hiện các nhiệm vụ
khác nhau. Đây được xem là bước phát triển
mới tiến gần hơn với thực tế đối với robôt đa
chức năng, tính thích ứng cao này.
Hadas Kress-Gazit, phó giáo sư về kỹ
thuật cơ khí và hàng không vũ trụ tại Cornell
và nghiên cứu viên chính của dự án cho biết:
“Đây là lần đầu tiên rô-bốt mô-đun được
chứng minh với cấu hình lắp ráp tự động và
hành vi mang tính cảm nhận”.
Kết quả của nghiên cứu này đã được
công bố trên Science Robotics.
Thành phần chính của robot bao gồm
các mô-đun hình khối, có bánh xe có thể tháo
rời và lắp lại để tạo thành các hình dạng mới
với các khả năng khác nhau. Các mô-đun có
nam châm gắn với nhau, và Wi-Fi để giao
tiếp với một hệ thống tập trung.
Các cuộc thử nghiệm kiểm tra cho
thấy, các hệ thống robot mô-đun đã thực hiện
thành công các nhiệm vụ cụ thể trong môi
trường được kiểm soát, tuy nhiên những robot
này là những rô bốt lần đầu tiên có hành vi tự
trị hoàn toàn và chúng có khả năng tự cấu
hình lại dựa trên nhiệm vụ ở trong một môi
trường không quen thuộc.
“Robot tự biết cần phải làm gì chứ
không phải làm theo các bước quy định được
cài đặt sẵn. Nó hoàn toàn tự động điều chỉnh
hướng di chuyển, từ trái sang phải hay như tự
thay đổi hình dạng để thực hiện các nhiệm
vụ”, Kress-Gazit nhấn mạnh.
Theo vista.gov.vn, 05/11/2018
Trở về đầu trang
![Page 8: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/8.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 8/58
**************
Phát triển công nghệ điện thoại di động để phát hiện HIV
Việc kiểm soát virus gây suy giảm
miễn dịch ở người (HIV), một rối loạn tự
miễn làm tê liệt hệ miễn dịch bằng cách tấn
công các tế bào khỏe mạnh, vẫn là thách thức
toàn cầu to lớn đối với sức khỏe của người
dân tại các nước đang phát triển thiếu cơ sở
hạ tầng và chuyên gia y tế được đào tạo. Các
nhà nghiên cứu tại Bệnh viện Phụ nữ
Brigham (Hoa Kỳ) đã thiết kế được một công
cụ chẩn đoán di động, giá cả hợp lý sử dụng
điện thoại di động và công nghệ nano để phát
hiện virus HIV và theo dõi việc kiểm soát
virus trong các khu vực có nguồn lực hạn chế.
Nền tảng mới được mô tả trên tạp chí Nature
Communications.
"Phát hiện sớm HIV là rất quan trọng
để ngăn ngừa sự tiến triển và truyền nhiễm
bệnh. HIV cần được theo dõi về lâu dài, có
thể gây khó khăn khi bệnh nhân phải đi đến
phòng khám hoặc bệnh viện mới làm được
việc này", TS. Hadi Shafiee tại Bệnh viện Phụ
nữ Brigham cho biết. "Hệ thống điện thoại di
động tốc độ nhanh và giá rẻ là một phương
pháp mới để phát hiện bệnh nhiễm trùng cấp
tính, làm giảm nguy cơ lây truyền virus và
cũng có thể được sử dụng để phát hiện sự thất
bại sớm trong điều trị”.
Các phương pháp truyền thống theo dõi
virus HIV rất tốn kém, cần sử dụng phản ứng
chuỗi trùng hợp (PCR). Nhóm nghiên cứu đã
tìm cách thiết kế một công cụ đơn giản, giá cả
hợp lý để xét nghiệm và theo dõi HIV cho
người dân tại các nước đang phát triển ít được
tiếp cận với dịch vụ chăm sóc y tế.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng công
nghệ nano kết hợp với vi mạch, điện thoại di
động và phụ điện điện thoại in 3D để thiết lập
nền tảng xác định các axit nucleic ARN của
virus từ một giọt máu. Thiết bị phát hiện ra
axit nucleic HIV khuếch đại bằng cách theo
dõi trên điện thoại chuyển động của các chuỗi
ADN mà không cần đến thiết bị cồng kềnh
hoặc đắt tiền. Độ chính xác của phát hiện
được đánh giá thông qua mức độ đặc hiệu và
độ nhạy.
Theo kết quả nghiên cứu, công cụ mới
cho phép phát hiện HIV với độ đặc hiệu là
99,1% và độ nhạy 94,6% ở giá trị ngưỡng cấp
độ lâm sàng là 1.000 phần tử virus/ml. Xét
nghiệm được thực hiện cho kết quả trong vòng
một giờ. Đáng chú ý, tổng chi phí vật liệu của
vi mạch, phụ kiện điện thoại và thuốc thử chỉ
mất chưa đến 5 USD cho mỗi xét nghiệm.
“Chúng tôi có thể sử dụng công nghệ
tương tự như một công cụ chẩn đoán nhanh
với chi phí thấp cho các loại virus và vi
khuẩn khác”, Mohamed Shehata Draz, trưởng
nhóm nghiên cứu cho biết. "Nền tảng mới có
thể giúp ích cho rất nhiều người trên toàn thế
giới".
Theo vista.gov.vn, 16/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp mắt
Nhóm sinh viên đại học ở đến từ Đại
học Khoa học và Công nghệ Trường Xuân,
tỉnh Cát Lâm, vùng đông bắc Trung Quốc vừa
sáng chế ra một thiết bị đọc sách đặc biệt.
Thiết bị này nhằm giúp những người
già hay người khuyết tật có thể đọc sách mà
không cần phải dùng tay. Thay vào đó chỉ cần
chớp mắt cũng có thể chuyển các trang sách.
![Page 9: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/9.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 9/58
Sáng chế đặc biệt này sử dụng công
nghệ cảm nhận các tín hiệu của bộ não, nó có
thể giúp người khuyết tật dễ đọc sách hơn
nhiều, Qi Huanqiang, một trong những sinh
viên trong nhóm phát minh cho biết.
Qi Huanqiang trình diễn tính năng đọc sách bằng cách chớp mắt để lật trang
Qi cũng trực tiếp thực hiện tính hữu
dụng của sáng chế bằng cách đeo băng đô có
gắn cảm biến để chuyển một trang trong một
cuốn sách mỗi khi anh chớp mắt.
Chiếc băng đô sẽ giúp phát hiện sóng
não, sau đó gửi đến thiết bị lật trang sách
bằng kết nối Bluetooth. Qi cho biết, sản phẩm
này không tốn kém và hữu ích đối với rất
nhiều người, cả người già hay các nghệ sĩ
dương cầm.
Sáng chế này hiện đang thu hút được
sự chú ý đặc biệt trên các phương tiện truyền
thông xã hội Trung Quốc.
Tuy nhiên, cũng có những luồng ý
kiến trái chiều cho rằng, thiết bị của Qi còn
một số hạn chế như việc chỉ có thể tiến lên,
nhưng không lật ngược trang. Một người khác
nói: “Tôi không nghĩ nó thực tế vì tôi không
thể chớp mắt cho đến khi tôi đọc xong một
trang”.
Theo dantri.com.vn , 18/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Công nghệ sản xuất điện và làm mát 2 trong 1 từ bức xạ hồng ngoại và ánh sáng mặt trời
Lần đầu tiên, các nhà khoa học tại Đại
học Stanford đã chứng minh được rằng sức
nóng từ mặt trời và hơi lạnh từ ngoài không
gian có thể được thu thập đồng thời chỉ với
một thiết bị duy nhất. Nghiên cứu, được công
bố ngày 8/11 trên tạp chí Joule cho thấy, các
thiết bị thu năng lượng mặt trời và năng
lượng ngoài không gian sẽ không chiếm
nhiều diện tích và thực sự có thể giúp các
thiết bị khác hoạt động hiệu quả hơn.
Năng lượng tái tạo ngày càng phổ biến
như một giải pháp thay thế hiệu quả và kinh
tế cho nhiên liệu hóa thạch. Trong đó, năng
lượng mặt trời luôn đứng đầu các bảng xếp
hạng năng lượng tái tạo được yêu thích trên
toàn thế giới. Ngoài ra, còn một nguồn năng
lượng cực mạnh tồn tại bên ngoài không gian.
Zhen Chen, tác giả nghiên cứu cho
biết: "Năng lượng mặt trời là nguồn nhiệt
hoàn hảo cung cấp cho con người trên trái
đất. Nhưng có một điều ít được biết đến là
thiên nhiên cũng cung cấp cho con người một
bộ tản nhiệt hoàn hảo tương tự đến từ ngoài
không gian.”
Bức xạ hồng ngoại - một dạng ánh
sáng vô hình đối với mắt người – thường
được ứng dụng trong các vật thể để tạo ra hơi
nóng. Phần lớn bức xạ hồng ngoại được phản
xạ trở lại mặt đất bởi khí quyển và chỉ có một
số ít thoát ra ngoài không gian. Lượng bức xạ
hồng ngoại phản xạ lại này đủ để các thiết bị
hấp thu, hạ nhiệt và làm mát cho hành tinh
chúng ta. Công nghệ làm mát bức xạ tận dụng
được lượng hồng ngoại dồi dào, tạo ra một
giải pháp thay thế hiệu quả để điều hòa không
khí mà không làm phát sinh khí nhà kính.
Bênh cạnh đó, công nghệ này cũng giúp cải
thiện hiệu suất và giảm thiểu sự quá tải cho
tấm pin mặt trời, nếu hai công nghệ này được
ứng dụng trên cùng một mái nhà.
![Page 10: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/10.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 10/58
"Chúng ta có thể thấy một tấm
pin quang điện được lắp ở trên mái nhà để
cung cấp điện và một thiết bị làm mát bức xạ
lắp ở đây sẽ hạ nhiệt cho ngôi nhà trong
những ngày hè nóng bức", Chen nói.
Dù công nghệ này có nhiều tiềm năng
hứa hẹn, vẫn còn rất nhiều việc phải làm
trước có thể đưa ra thị trường. Trong đó, quan
trọng nhất là phải kiểm tra hiệu quả hấp thụ
năng lượng mặt trời của các tấm pin quang
điện. Tuy vẫn còn nhiều thách thức, nhưng
nhóm nghiên cứu tin rằng, nguồn năng lượng
tái tạo nàycó nhiều tiềm năng thực sự, so với
các quan niệm trước đây.
"Công nghệ này có thể tạo ra cuộc
cách mạng trong công nghệ pin mặt trời hiện
nay", Chen nói. "Nếu nghiên cứu của chúng
tôi được kiểm chứng và tối ưu hóa, thì pin
mặt trời trong tương lai sẽ có chức năng 2
trong 1 là cung cấp điện và làm mát.
Theo cesti.gov.vn, 22/12/2018
Trở về đầu trang
**************
Mỹ 'trình làng' máy quét 3D toàn thân đầu tiên trên thế giới
Tạp chí Desgin Boom mới đây đưa tin,
các nhà khoa học tại Đại học UC Davis, Mỹ
đã phát triển thành công máy quét toàn thân
đầu tiên trên thế giới có thể tạo ra bản quét
3D chi tiết về giải phẫu người.
Máy quét 3D EXPLORER - Ảnh: Design Boom
Chiếc máy này có tên EXPLORER, có
thể quét nhanh gấp 40 lần so với máy chụp
cắt lớp phát xạ positron (PET scan) hiện nay.
EXPLORER kết hợp kỹ thuật PET
scan với chụp cắt lớp vi tính tia X (CT scan),
cho phép tạo ra bản quét 3D toàn bộ cơ thể
chỉ trong khoảng 20-30 giây. Máy được phát
triển trên nền tảng công nghệ mới nhất với
nhiều cải tiến vượt bậc so với những máy
quét hiện hành.
EXPLORER không chỉ nhanh hơn mà
còn có khả năng quét với liều bức xạ thấp hơn
đáng kể. Điều này giúp giảm ảnh hưởng của
bức xạ đối với những bệnh nhân cần chụp cắt
lớp nhiều lần, đồng thời là tin vui trong
nghiên cứu nhi khoa, nơi việc kiểm soát liều
bức xạ tích lũy có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Bên cạnh đó, độ nhạy cao hơn còn cho
phép thiết bị tạo ra bản quét với chất lượng
hình ảnh tốt hơn.
Với sự hỗ trợ của máy quét toàn thân
EXPLORER, các bác sĩ lâm sàng có thể đánh
giá được những gì đang diễn ra trong tất cả
các mô và cơ quan trong cơ thể. Nó có thể đo
được lưu lượng máu và xác định cách cơ thể
hấp thụ glucose. Nhóm nghiên cứu hy vọng
cỗ máy sẽ đem tới những đột phá trong việc
nghiên cứu và điều trị ung thư.
EXPLORER được trang bị gần 2.000
đầu dò khối, có thể thu thập 40 Terabyte
(40.000 GB) chỉ trong một ngày. Cỗ máy nặng
hơn 10 tấn và tiêu thụ xấp xỉ 60 kW điện.
Nhóm nghiên cứu tin rằng thiết bị sẽ sớm
được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Theo baochinhphu.vn, 23/11/2018
Trở về đầu trang
**************
![Page 11: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/11.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 11/58
MIT chế tạo ra máy bay vận hành chỉ bằng điện, không hề có yếu tố cơ học
Sau hàng chục năm nghiên cứu, các
nhà khoa học chứng minh được rằng khí điện
động lực học có thể áp dụng lên máy bay.
Thoạt nhìn, bạn sẽ tưởng đây là
nguyên mẫu máy bay của hai anh em nhà
Wright. Đây là một thiết bị bay hoàn toàn
khác, tuy rằng ý nghĩa của cả hai chiếc máy
bay đều mang tính lịch sử vậy. Hình bạn thấy
trên đây là vật thể đầu tiên có thể bay bằng
động cơ ion.
Các kỹ sư tại Viện Công nghệ
Massachusetts (MIT) thiết kế và chế tạo thiết
bị này nhằm thử nghiệm độ hiệu quả của hệ
thống tạo lực đẩy mới, dựa trên nguyên lý lực
tạo ra từ những hạt mang điện tác động lên
dung dịch. Các bạn đừng nhầm với động cơ
không tưởng (mà cũng chưa chắc là không
tưởng) EM Drive, công nghệ này hoàn toàn
khác.
EM Drive
Nguyên lý này có tên khí điện động
lực học - electroaerodynamic (EAD), đơn
giản hơn nhiều EM Drive. Việc hình thành
các electron và các phân tử mang điện tích –
các ion đều tạo ra lực đẩy trong khí quyển của
Trái đất. Còn một hiện tượng nữa đóng vai trò
quan trọng trong sự hình thành EAD có
tên phóng điện vầng quang – corona
discharge, hiện tượng phóng điện xảy ra khi
ion-hóa các dòng chất lưu (như nước, không
khí) nằm quanh một chất dẫn có dòng điện
chạy qua.
Trong vật lý cơ bản của Newton,
những "dòng gió mang điện tích" sẽ có cùng
hiệu ứng với gió thường làm cánh quạt máy
bay quay hay lượng nhiệt tỏa ra từ một động
cơ phản lực. Trên lý thuyết, khi các phân tử
không khí bị ion hóa di chuyển sẽ tạo ra lực
đẩy. Đã từ lâu, trong giới khoa học, người ta
coi đây là khái niệm rất hay... trên giấy.
Suốt một thập kỉ nghiên cứu chỉ ra rằng khí điện động lực học chỉ là chuyện cổ tích
Để biến chúng thành những động cơ
hiệu quả, lực đẩy phải đủ lớn để mang một
khối lượng lớn (ví dụ như cái máy bay) lên
không được. Bằng chứng chất đầy suốt một
thập kỉ nghiên cứu chỉ ra rằng khí điện động
lực học chỉ là chuyện cổ tích.
Hồi năm 1960, đã có những thử
nghiệm bạn đầu cố gắng đưa EAD vào đời
thực nhưng không có kết quả. Mười năm
trước, NASA kết luận "sử dụng phóng điện
vầng quang để tạo lực đẩy cho thiết bị bay có
vẻ không hiệu quả". Các nhà khoa học vẫn
cứng đầu, họ thấy lực đẩy dù là rất nhỏ nên
suy luận rằng họ chưa tìm ra được thiết kế
hiệu quả hay thậm chí là vật liệu hiệu quả để
EAD có thể trở thành sự thực.
Các nhà khoa học MIT cũng không bỏ
cuộc. Họ sử dụng một kĩ thuật có tên lập trình
hình học để tìm ra thiết kế tối ưu nhất, luận ra
tất cả những ẩn số cần có để EAD hoạt động,
tìm ra một thiết bị bay vượt trội hơn so với
các thử nghiệm trước đây, nhằm giải đáp bí
ẩn EAD.
Phi công điều khiển thiết bị bay là một
thiết bị phát điện tạo ra ít nhất 20.000 volt điện
áp, có thể đưa được máy bay lên không. Phiên
bản máy bay hoàn thiện trông chẳng khác gì
thiết bị bay đầu tiên trong lịch sử của hai anh
em nhà Wright. Một dấu hiệu tốt đấy chứ?
![Page 12: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/12.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 12/58
Thử nghiệm máy bay vận hành bằng điện
Nó chỉ nặng 2,5kg, cả 10 chuyến bay
thử đều không quá được 60 mét. Nhưng
không thể phủ nhận được sự thật: nó đã bay,
lượn êm đềm trên không chỉ với lực tĩnh điện,
cho tốc độ 4,8 mét/giây, tương đương 17,28
km/h. Tuyệt hơn nữa, độ hiệu quả của công
nghệ này tỉ lệ thuận với tốc độ. Tức là nó bay
càng nhanh, năng lượng tiêu tốn sẽ càng ít.
Với tốc độ 300 m/s = 1080 km/h, cái máy bay
sẽ tăng tỉ lệ hiệu quả lên thêm 50%.
Động cơ hiện tại của máy bay chỉ toàn
là dây điện, tăng lượng dây lên cũng không
làm tăng nhiều chi phí. Quy mô chiếc máy
bay sẽ còn có thể tăng được hơn nữa.
Thành công này đã đánh dấu mốc động
cơ sử dụng công nghệ khí điện động lực học –
EAD có "thể rắn": hoạt động không cần tới
nhiên liệu đốt hay bất kì bánh răng nào. Cái
máy bay chạy êm ru như một động cơ điện
đích thực.
Cứ mơ đi nhưng đừng vội bay xa quá,
bởi ta chưa thể có được một chiếc máy bay
dân dụng chạy điện đâu. Rõ ràng là công
nghệ hoạt động được, đúng là có thể tăng quy
mô của nó lên nhưng chưa thể khẳng định ta
biến nó thành một cái máy bay có tải trọng
lớn luôn được. Ta đã có bằng chứng nó hoạt
động được trong tay, hãy cứ chờ xem tương
lai mang lại gì cho ta. Trước mắt có thể nghĩ
ngay tới một phi đội drone chạy điện êm ru.
Nghiên cứu đã được đăng tải trên tạp
chí Nature.
Theo khoahoctot.vn, 26/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Găng tay điện tử tạo cho robot cảm nhận xúc giác
Các kỹ sư tại trường Đại học Stanford
đã phát triển được loại găng tay điện tử chứa
các cảm biến, trong tương lai có thể làm cho
tay robot trở nên khéo léo như tay của người.
Trong bài báo được công bố trên tạp
chí Science Robotics vào ngày 21/11/2018, kỹ
sư hóa học Zhenan Bao cùng nhóm nghiên
cứu đã chứng minh được rằng các cảm biến
hoạt động tốt đủ để cho phép bàn tay robot
chạm vào một quả mọng và cầm quả bóng
bàn mà không làm bẹp chúng.
"Công nghệ này một ngày nào đó sẽ
mang lại cho robot khả năng cảm biến như da
người", bà Bao nói. Theo bà Bao, cảm biến
trong các đầu ngón tay của găng tay đo đồng
thời cả cường độ lẫn hướng của áp lực, hai
đặc trưng cần có để tạo nên sự khéo léo của
bàn tay. Các nhà nghiên cứu vẫn cần hoàn
thiện công nghệ để điều khiển tự động các
cảm biến này. Khi các cảm biến hoạt động,
robot đeo găng tay có thể khéo léo giữ một
quả trứng giữa ngón cái và ngón trỏ mà
không làm vỡ trứng hoặc để rơi.
Thiết bị điện tử mô phỏng cuộc sống
Găng tay điện tử mô phỏng cách các
lớp da người phối hợp hoạt động để mang lại
cho tay của chúng ta sự nhạy cảm đặc biệt.
Lớp da bên ngoài của găng tay điện tử được
gắn các cảm biến để phát hiện áp lực, nhiệt và
các kích thích khác. Đặc biệt, ngón tay và lòng
bàn tay chứa nhiều cảm biến xúc giác. Những
cảm biến này hoạt động cùng với lớp da phụ
được gọi là lớp gai (spinosum), một khu vực vi
mô gồ ghề do có các điểm lồi và lõm.
Sự gồ ghề đó rất quan trọng. Khi ngón
tay của chúng ta chạm vào một vật, lớp ngoài
![Page 13: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/13.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 13/58
cùng của da di chuyển gần hơn đến lớp gai.
Cảm ứng ánh sáng được cảm nhận chủ yếu
bởi các cảm biến gắn trên đỉnh của vị trí lồi.
Áp lực mạnh hơn đẩy lớp da những vị trí lõm
của lớp gai, tạo cảm giác xúc giác mạnh hơn.
Nhưng đo cường độ áp suất chỉ là một
phần của những gì mà lớp gai có thể làm. Lớp
da phụ gồ ghề này cũng giúp tiết lộ hướng
của áp lực hoặc lực cắt. Ví dụ, một ngón tay
ấn về phía Bắc, sẽ phát ra những tín hiệu
mạnh trên mặt phía Nam của những vị trí lồi
vi mô này. Khả năng cảm nhận lực cắt này là
một phần của những yếu tố giúp chúng ta giữ
nhẹ nhưng chắc một quả trứng giữa ngón cái
và ngón trỏ.
Nhóm nghiên cứu đã chế tạo cảm biến
điện tử mô phỏng cơ chế này ở người. Mỗi
cảm biến trên đầu ngón tay của găng tay
robot được làm từ ba lớp linh hoạt phối hợp
hoạt động. Các lớp trên và dưới cùng hoạt
động bằng điện. Các nhà nghiên cứu đã đặt
một mạng lưới các đường dây điện trên mỗi
bề mặt, giống như các hàng trong một trường
và biến đổi sao cho những hàng này vuông
góc với nhau để tạo thành một mảng dày đặc
các điểm cảm biến nhỏ. Họ cũng tạo nên lớp
dưới cùng gồ ghề như lớp gai.
Chất cách điện cao su ở giữa chỉ đơn
giản là ngăn cách lớp điện cực ở trên cùng với
lớp dưới cùng. Nhưng sự ngăn cách đó rất
quan trọng, bởi các điện cực ở gần nhau mà
không tiếp xúc có thể lưu trữ điện năng. Khi
ngón tay robot ép xuống, nén các điện cực ở
phía trên xuống gần đáy, năng lượng tích trữ đã
tăng lên. Những điểm lồi và lõm của lớp dưới
tạo nên một phương thức để lập bản đồ cường
độ và hướng của áp lực đến các điểm cụ thể
trên các lưới vuông góc, giống như da người.
Để kiểm tra công nghệ mới, các nhà
khoa học đã đặt các cảm biến ba lớp trên các
ngón của găng tay cao su và đeo găng cho
bàn tay robot. Mục đích cuối cùng là để gắn
cảm biến trực tiếp vào một lớp vỏ giống da
cho bàn tay robot. Trong một thử nghiệm,
nhóm nghiên cứu đã lập trình bàn tay robot
đeo găng tay để nhẹ nhàng chạm vào một quả
mọng mà không làm hỏng nó. Các nhà nghiên
cứu cũng đã lập trình để bàn tay đeo găng
nâng và di chuyển quả bóng bàn mà không
bóp nát nó, bằng cách sử dụng cảm biến để
phát hiện lực cắt phù hợp để nắm lấy bóng mà
không bóng rơi.
Bà Bao cho rằng nhờ có kỹ thuật lập
trình phù hợp, bàn tay robot đeo găng cảm
biến hiện nay có thể thực hiện nhiệm vụ lặp
lại như nhấc trứng ra khỏi băng chuyền và đặt
vào thùng các-tông. Công nghệ này còn có
nhiều ứng dụng trong phẫu thuật với sự hỗ trợ
của robot, nơi cần có sự điều khiển chính xác
bằng cảm ứng. Nhưng mục tiêu cuối cùng mà
nhóm nghiên cứu đặt ra, là phát triển một
phiên bản găng tay cải tiến tự động điều chỉnh
lực phù hợp để cầm đồ vật theo cách an toàn
mà không cần lập trình trước.
Theo vista.gov.vn, 26/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Không khí có thể thay thế silicon trong chip nano thế hệ mới
Các kỹ sư điện tại trường Đại học
RMIT đã chế tạo được loại bóng bán dẫn mới
có khả năng truyền các điện tử qua những khe
khí nhỏ thay cho silicon. Bước phát triển này
loại bỏ nhu cầu sử dụng chất bán dẫn, làm
cho thiết bị hoạt động nhanh hơn và ít rơi vào
trạng thái quá nóng.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng đột
phá này để phát triển một thiết kế chip nano
kết hợp giữa kim loại và những khe khí hẹp.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Nano Letters.
![Page 14: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/14.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 14/58
"Mỗi máy tính và điện thoại có chứa
hàng triệu đến hàng tỷ bóng bán dẫn điện tử
làm từ silicon, nhưng công nghệ này đang đạt
đến giới hạn vật lý của nó, ở đó các nguyên
tử silicon theo lưu lượng dòng, hạn chế tốc độ
và sản sinh nhiệt", Shruti Nirantar, nhà
nghiên cứu tại RMIT nói. "Công nghệ bóng
bán dẫn rãnh khí của chúng tôi có lưu lượng
dòng chạy qua không khí, do đó, không có va
chạm cản trở để làm chậm và không có lực
cản trong vật liệu gây sản sinh nhiệt".
Trong thập kỷ qua, công suất và hiệu
quả của chip máy tính đã tăng gần gấp đôi cứ
hai năm một lần khi các kỹ sư tìm ra những
phương thức mới để ép ngày càng nhiều bóng
bán dẫn hơn vào chip silicon. Nhưng giờ đây,
các bóng bán dẫn có kích thước nhỏ hơn cả vi
rút nhỏ nhất và các chuyên gia công nghệ cho
rằng có giới hạn về kích thước mà bóng bán
dẫn có thể đạt được. Chip nano từ không khí
có thể cung cấp cho các nhà nghiên cứu cách
tiếp cận với mô hình mới trong các thiết bị
điện tử nano.
"Công nghệ này chỉ đơn giản là có một
con đường khác để thu nhỏ bóng bán dẫn
nhằm duy trì định Luật Moore thêm nhiều
thập kỷ nữa", Shruti nói.
Theo nghiên cứu mới, thiết kế tránh
được một trong những hạn chế với các bóng
bán dẫn dạng rắn truyền thống: đó là có quá
nhiều nguyên tử. Thay vì sử dụng bao bì chân
không để làm cho mật độ các bóng bán dẫn ít
dày đặc hơn, các nhà nghiên cứu đã tạo ra
một khe khí hẹp.
"Khe khí chỉ có kích thước vài chục
nanomet hoặc nhỏ hơn 50.000 lần chiều rộng
của sợi tóc người, nhưng đủ để đánh lừa các
điện tử khiến chúng di chuyển qua chân
không và tái tạo một không gian bên ngoài ảo
cho các điện tử trong khe khí nano", nhà
nghiên cứu Sharath Sriram nói.
Nhóm nghiên cứu cho rằng thiết bị của
họ sẽ dễ dàng tích hợp với các công nghệ điện
tử hiện tại. Đây là một bước tiến hướng tới
công nghệ thú vị nhằm tăng đáng kể tốc độ
của các thiết bị điện tử.
Theo vista.gov.vn, 26/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Thiết bị mới giúp người liệt soạn văn bản bằng ý nghĩ
Các nhà khoa học Mỹ vừa phát triển
thành công thiết bị cho phép người bị liệt sử
dụng suy nghĩ của mình để thực hiện một số
hành động mà trước đó chưa bao giờ nghĩ có
thể làm được.
Khi được gắn vào đầu và kết nối với một máy tính bảng, người bị liệt chân tay có thể sử dụng ý nghĩ
của mình để soạn thảo, gửi tin nhắn văn bản - (Ảnh: BrainGate Collaboration)
Kết quả nghiên cứu được các nhà khoa
học từ Đại học Brown, Trung tâm Y tế
Providence VA, Bệnh viện Đa khoa
Massachusetts và Đại học Stanford (Mỹ) thực
hiện và công bố trên tạp chí khoa học Plos
One.
Theo đó, ba tình nguyện viên bị liệt
tham gia thử nghiệm. Một con chip được gọi
là BrainGate, có kích thước chỉ bằng một viên
aspirin trang bị 100 điện cực được cấy vào
vùng vỏ não vận động của họ.
Chip này gửi tín hiệu đến một máy
tính, nơi phát hiện và thực hiện tác vụ cụ thể.
Máy tính này sẽ "tự động" soạn thảo đoạn văn
bản theo lệnh từ ý nghĩ người dùng. Mỗi lệnh
được gửi đến máy tính bảng thông qua kết nối
Bluetooth, có nghĩa "ý nghĩ" của người dùng
chíp hoạt động như một con chuột không dây.
Khi được gắn vào đầu và kết nối với
một máy tính bảng, người bị liệt chân tay có
thể sử dụng ý nghĩ của mình để soạn thảo, gửi
![Page 15: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/15.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 15/58
tin nhắn văn bản một cách cơ bản, thậm chí là
chơi một bản nhạc piano đơn giản.
Ngoài ra, họ có thể sử dụng các ứng
dụng email, trò chuyện và chia sẻ video phổ
biến, kiểm tra thời tiết, xem video trên
YouTube và mua sắm trực tuyến.
Đặc biệt, một trong ba tình nguyện
viên còn có thể chơi "bản giao hưởng số 9"
nổi tiếng của Beethoven trên một ứng dụng
piano kỹ thuật số.
"Một trong những tình nguyện viên nói
với chúng tôi vào lúc bắt đầu thử nghiệm rằng
cô ấy thực sự muốn chơi nhạc một lần nữa.
Và thật tuyệt vời là cô ấy đã làm được", Tiến
sĩ Paul Nuyujukian, tác giả chính của nghiên
cứu cho biết.
Với việc sử dụng chip BrainGate,
những người tham gia có thể thực hiện tới 22
"lệnh" trong mỗi phút. Trong việc dùng ứng
dụng văn bản, chẳng hạn như Google
Hangouts và tin nhắn văn bản cơ bản, họ có
thể nhập tối đa 30 ký tự mỗi phút.
Trước đó, chip BrainGate đã chứng
minh sự thành công của công nghệ này khi
giúp một phụ nữ bị liệt tự pha và uống cà phê
chỉ bằng những suy nghĩ của mình.
Các nhà nghiên cứu tin rằng BrainGate
có ý nghĩa quan trọng đối với những bệnh
nhân bị liệt và những người bị câm. Nó không
chỉ giúp người bệnh tăng khả năng tương tác
với gia đình, bạn bè mà còn mở ra những con
đường mới cho việc phát triển bản thân, sống
có ích cho xã hội của họ.
Theo tuoitre.vn, 27/11/2018
Trở về đầu trang
**************
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Phương pháp mới làm mát mà không cần điện
Các nhà nghiên cứu tại Viện Công
nghệ Massachusetts (MIT) đã tìm ra một
phương pháp mới để làm mát vào ngày nóng
bằng cách sử dụng vật liệu giá rẻ và không
cần nguồn điện sản sinh từ nhiên liệu hóa
thạch. Hệ thống thụ động này có thể được sử
dụng bổ sung cho các hệ thống làm mát khác
để bảo quản thực phẩm và thuốc trong các địa
điểm nóng nằm ngoài lưới điện. Nghiên cứu
đã được công bố trên tạp chí Nature
Communications.
Hệ thống cho phép phát xạ nhiệt trong
phạm vi ánh sáng hồng ngoại trung có thể
truyền thẳng qua khí quyển và tỏa vào trong
bầu không khí của không gian bên ngoài,
xuyên qua các khí hoạt động giống như nhà
kính. Để tránh hiện tượng làm nóng trong ánh
sáng mặt trời trực tiếp, một dải kim loại nhỏ
treo trên thiết bị sẽ ngăn chặn các tia nắng
trực tiếp từ mặt trời.
Về lý thuyết, hệ thống được thiết kế có
thể làm mát 20 độ C, thấp hơn nhiệt độ môi
trường xung quanh tại địa điểm như Boston.
Cho đến nay, trong thử nghiệm ban đầu, các
nhà khoa học đã đạt khả năng làm mát 6 độ
C. Đối với các ứng dụng yêu cầu làm mát sâu
hơn, phần còn lại có thể đạt được thông qua
các hệ thống làm lạnh thông thường hoặc làm
mát bằng nhiệt điện.
Các nhóm nghiên cứu khác đã cố gắng
thiết kế những hệ thống làm mát thụ động tỏa
nhiệt dưới dạng các bước sóng hồng ngoại
trung, nhưng hệ thống này dựa vào các thiết
bị quang tử phức tạp được biến đổi khá tốn
kém và không sẵn sàng để sử dụng trên diện
rộng. Các thiết bị rất phức tạp vì chúng được
thiết kế để phản xạ tất cả các bước sóng của
ánh nắng mặt trời gần như hoàn hảo và chỉ
![Page 16: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/16.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 16/58
phát ra bức xạ trong dải hồng ngoại trung. Sự
kết hợp của phản xạ và phát xạ có chọn lọc
cần có vật liệu nhiều lớp, trong đó, độ dày
của các lớp được kiểm soát đến độ chính xác
cỡ nanomet.
Nhưng rõ ràng tính chọn lọc tương tự
có thể đạt được bằng cách chỉ ngăn chặn ánh
nắng mặt trời trực tiếp bằng một dải hẹp đặt ở
góc phải để che đường đi của mặt trời trên
bầu trời, nên không cần đến thiết bị theo dõi
hoạt động. Sau đó, một thiết bị đơn giản được
chế tạo từ sự kết hợp của màng nhựa giá rẻ,
nhôm đánh bóng, sơn trắng và lớp cách nhiệt
có thể cho phép phát xạ nhiệt cần thiết thông
qua bức xạ hồng ngoại trung. Đó là cách mà
hầu hết các vật thể tự nhiên nguội đi, dù ngăn
thiết bị khỏi bị nóng do ánh nắng mặt trời trực
tiếp. Trên thực tế, các hệ thống làm mát bức
xạ đơn giản đã được sử dụng từ thời cổ đại để
đạt được khả năng làm mát vào ban đêm. Vấn
đề là các hệ thống này không hoạt động vào
ban ngày vì hiệu ứng nhiệt của ánh nắng mặt
trời mạnh hơn ít nhất 10 lần hiệu ứng làm mát
tối đa có thể đạt được.
Tuy nhiên, những tia nắng nóng của
mặt trời di chuyển theo các đường thẳng và
dễ bị chặn lại như khi gặp bóng cây vào mùa
hè. Nhờ che mát thiết bị bằng cách đặt một
chiếc ô ở phía trên và bổ sung vật liệu cách
nhiệt xung quanh thiết bị để bảo vệ nó khỏi
nhiệt độ không khí xung quanh, các nhà
nghiên cứu đã làm cho việc làm mát thụ động
trở nên khả thi hơn.
Theo Arny Leroy, một yếu tố cản trở
hệ thống là độ ẩm trong khí quyển, có thể
chặn phần nào phát xạ hồng ngoại trong
không khí. Ở một nơi như Boston, gần biển
và tương đối ẩm ướt, điều này giới hạn khả
năng làm mát ở mức khoảng 20 độ C. Nhưng
trong môi trường khô hạn hơn chẳng hạn như
vùng Tây Nam Hoa Kỳ hoặc nhiều sa mạc
hay môi trường khô cằn trên thế giới, khả
năng làm mát tối đa thực sự sẽ lớn hơn nhiều,
có thể là 40 độ C.
Dù hầu hết các nghiên cứu về làm mát
bằng bức xạ đã tập trung vào các hệ thống lớn
hơn có thể được áp dụng để làm mát toàn bộ
các phòng hoặc tòa nhà, nhưng cách tiếp cận
này được khoanh vùng. Điều này sẽ hữu ích
cho các ứng dụng làm lạnh như lưu trữ thực
phẩm hoặc vắc xin khỏi bị hỏng như trong
điều kiện nhiệt đới nóng.
Hệ thống này cũng có thể có ích cho
một số loại hệ thống quang điện tập trung, nơi
các tấm gương được sử dụng để thu ánh nắng
mặt trời vào một pin mặt trời để tăng hiệu
suất của pin. Nhưng các hệ thống này dễ trở
nên quá nóng và thường cần quản lý nhiệt
tích cực nhờ chất lỏng và máy bơm. Thay vào
đó, mặt sau của các hệ thống thu ánh nắng có
thể được trang bị những bề mặt phát xạ hồng
ngoại trung dùng cho hệ thống làm mát thụ
động và có thể kiểm soát nhiệt mà không cần
bất kỳ can thiệp tích cực nào.
Để cải tiến hệ thống, thì thách thức lớn
nhất đối với các nhà nghiên cứu là tìm cách
cải thiện khả năng cách nhiệt của thiết bị để
ngăn chặn hiện tượng quá nóng do không khí
môi trường xung quanh, trong khi không ngăn
tỏa nhiệt.
Nhóm nghiên cứu đã xin cấp sáng chế
cho hệ thống và hy vọng sẽ nhanh chóng tìm
thấy các ứng dụng trong thực tế.
Theo vista.gov.vn, 30/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo thành công la bàn lượng tử siêu chính xác, vượt trội hơn so với GPS
Tên đầy đủ của nó là "gia tốc kế lượng
tử độc lập".
Định vị GPS là một trong những yếu
tố trọng tâm xuất hiện trong rất nhiều công
nghệ hiện đại của thế kỷ này. Nhưng không
phải lúc nào người dùng cũng kết nối được
với GPS: nhà cao, hầm sâu đều có thể chặn
hoặc làm gián đoạn tín hiệu GPS gửi xuống
![Page 17: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/17.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 17/58
từ vệ tinh. Từ đó suy rộng ra, GPS có thể bị
chặn bằng nhiều cách.
Thiết bị với tên gọi khoa học "gia tốc kế lượng tử độc lập"
Để khắc phục điều đó, các nhà khoa
học đi xa hơn việc làm ra tín hiệu không bị
chặn, họ tạo ra hẳn một thiết bị dẫn
đường mới. Các chuyên viên nghiên cứu tại
Đại học Hoàng gia London thiết kế thành
công một cái la bàn lượng tử, dẫn đường mà
không cần tới vệ tinh. Thiết bị với tên gọi
khoa học "gia tốc kế lượng tử độc lập –
standalone quantum accelerometer" đủ nhỏ để
có thể chở đi đây đó, mới được ra mắt công
chúng tại Triển lãm Công nghệ Lượng tử
Quốc tế.
Bằng gia tốc kế lượng tử mới, độ chính xác của thiết bị lên mức cực cao
Gia tốc kế, đúng với cái tên của nó,
là dụng cụ để đo tốc độ của vật thể theo thời
gian, có cả trong smartphone của bạn. Bằng
thông tin lấy được từ vị trí và tốc độ, hệ thống
có thể tính ra được vị trí vật thể. Với gia tốc
kế thông thường, độ chính xác sẽ giảm dần
theo thời gian nếu như không duy trì được kết
nối với một vật làm chuẩn.
Bằng gia tốc kế lượng tử mới, độ chính
xác của thiết bị lên mức cực cao. Bằng việc
đo đạc chuyển động của những nguyên tử
siêu lạnh – trạng thái khiến một hạt thể hiện
thuộc tính lượng tử, ở trạng thái hạt và sóng
cùng một lúc, hệ thống đạt được độ chính xác
cao. Sóng của nguyên tử bị ảnh hưởng bởi gia
tốc, đo đạc độ xô lệch của sóng sẽ ra được
chuyển động của nguyên tử. "Chính xác tới
mức nguyên tử" có nghĩa như vậy đó.
Thiết bị này có thể được lắp đặt trên tàu thuyền, tàu hỏa, máy bay hay bất cứ phương tiện
di chuyển kích cỡ lớn nào
Tuy rằng không thể đặt vừa vào trong
túi áo như một chiếc la bàn thông thường,
thiết bị này có thể được lắp đặt trên tàu
thuyền, tàu hỏa, máy bay hay bất cứ phương
tiện di chuyển kích cỡ lớn nào. Khi không có
GPS, yếu tố lượng tử sẽ cho người điều khiển
phương tiện biết vị trí chính xác của mình.
Bao giờ ta chế tạo được hệ thống tia
laser cực mạnh – thứ giữ cho các nguyên tử
đủ lạnh để thể hiện thuộc tính lượng tử nhằm
đo đạc - và nhỏ gọn, lúc đó ta sẽ có la bàn
lượng tử bỏ túi.
Theo Trí Thức Trẻ
Theo khoahoctot.vn, 23/11/2018
Trở về đầu trang
**************
![Page 18: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/18.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 18/58
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Bước đột phá trong quá trình sản xuất nhiên liệu hydro
Một nhóm các nhà nghiên cứu đến từ
trường Đại học Ben-Gurion ở Negev (BGU)
và Viện công nghệ Technion Israel đã phá vỡ
cơ chế hóa học, mở đường cho khả năng phát
triển một quy trình quang hóa mới và hiệu
quả hơn để sản xuất nhiên liệu hydro từ nước.
Bài báo về nghiên cứu được đăng tải trên tạp
chí Nature Communications.
Trong nghiên cứu, lần đầu tiên các nhà
khoa học tiết lộ phản ứng hóa học cơ bản xảy
ra trong năng lượng mặt trời có thể hình thành
mối liên kết còn thiếu để tạo ra nguồn điện
năng cần thiết để hoàn thành quá trình này.
Nó cho phép quá trình diễn ra tự nhiên thay vì
dựa vào một lượng lớn nguồn năng lượng
nhân tạo hoặc kim loại quý để xúc tác phản
ứng. Sản xuất hydro là một quá trình sạch,
không phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, quá
trình này cho đến nay vẫn bộc lộ một nhược
điểm, đó là đòi hỏi nhiều hơn là tạo ra năng
lượng, khả năng sản xuất thương mại vì thế
cũng bị hạn chế.
Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi TS.
Arik Yochelis TS. Iris Visoly-Fisher và GS.
Avner Rothschild cho biết: "Phát hiện của
chúng tôi có tác động đáng kể đến những nỗ
lực nhằm thay thế nhiên liệu dựa trên carbon
bằng nhiên liệu hydro thân thiện với môi
trường hơn”. Hiện nay, các hãng sản xuất xe
hơi vẫn đang tìm cách phát triển các loại xe
chạy bằng nhiên liệu hydro, vốn so với xe
điện, được coi là nguồn nhiên liệu sạch, hiệu
quả và thân thiện với môi trường, cũng như
cho phép thực hiện tiếp nhiên liệu nhanh
chóng và kéo dài quãng đường di chuyển.
Phương pháp sản xuất hydro nhờ quá
trình điện phân nước nước đòi hỏi phải tách
các phân tử nước (H2O) thành hai nguyên tử
hydro và một nguyên tử oxy. Và nghiên cứu
này cho thấy một bước đột phá trong việc tìm
hiểu cơ chế xảy ra trong quá trình phân tách
quang hóa của hydrogen peroxide (H2O2)
trên các điện cực quang oxit sắt, liên quan
đến sự phân hóa phản ứng oxy hóa bằng ánh
sáng từ cấu trúc bậc 1 thành bậc 2.
Giáo sư Rothschild đã tiến hành một
số thử nghiệm mang tính thách thức trong
nhiều năm nhưng đạt được kết quả. Cho đến
khi hợp tác với TS. Yochelis và Visoly-
Fisher, nhóm nghiên cứu mới gặt hái được
thành công.
TS. Yochelis cho biết: “Ngoài được
đánh giá là bước đột phá khoa học, nghiên
cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng cơ chế
phản ứng quang điện hóa liên quan đến các
phản ứng hóa học trong công trình nghiên
cứu mà GS. Gerhard Ertl đã được trao giải
Nobel Hóa học năm 2007. Bên cạnh đó,
nghiên cứu của chúng tôi mở ra những chiến
lược mới cho quá trình quang hóa".
Theo vista.gov.vn, 02/11/2018
Trở về đầu trang
**************
![Page 19: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/19.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 19/58
Các nhà hóa học phát triển các chất thay thế an toàn cho phthalate dùng trong nhựa
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại
học California, Santa Cruz đã tạo ra các chất
thay thế an toàn hơn cho chất làm dẻo
phthalate được sử dụng để tăng độ dẻo, dai và
tuổi thọ của nhựa. Hạn chế của phthalate là
chúng tách ra khỏi nhựa và nhiễm vào thực
phẩm, nước và môi trường. Có bằng chứng
cho thấy tiếp xúc với phthalate có thể dẫn đến
một loạt các vấn đề sức khỏe.
Các nhà nghiên cứu đứng đầu là
Rebecca Braslau, giáo sư hóa học và hóa sinh
tại trường Đại học California, Santa Cruz đã
giải quyết vấn đề này bằng cách tạo ra các hóa
chất có hiệu quả như chất làm dẻo cho
polyvinyl clorua (PVC) nhưng không bị tách
khỏi các sản phẩm PVC vì chúng có liên kết
hóa học với chuỗi polymer. Kết quả nghiên cứu
đã được công bố trên Tạp chí Polymer Science.
Phthalate được sử dụng trong nhiều loại
sản phẩm, nhưng việc sử dụng phthalate như
chất làm dẻo phổ biến nhất là cho PVC, một
trong những loại nhựa phổ biến.
Sau polypropylene và polyethylene,
PVC là nhựa polymer phổ biến thứ ba và được
sử dụng để sản xuất các sản phẩm như vật liệu
xây dựng, đồ nội thất, quần áo, ống nước tưới
vườn cây, bao bì thực phẩm, hộp đựng máu và
thiết bị y tế.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu để tạo
ra các chất làm dẻo không bị rò rỉ, gắn kết với
PVC nhờ liên kết hóa học và không thể tách
ra khỏi nhựa. Trước đây, phthalate được trộn
lẫn với PVC nghiền mịn và "hòa trộn cùng
với nhau" thay vì liên kết.
Phòng thí nghiệm của nhóm nghiên cứu
đã sản xuất được một số loại chất làm dẻo cố
định. Theo GS. Braslau, quá trình tổng hợp
chất làm dẻo này cần ít bước và ít hóa chất.
Điều quan trọng là nó có thể được mở rộng
quy mô sử dụng trong ngành công nghiệp.
Hoạt động nghiên cứu các chất thay
thế phthalate được đẩy mạnh do lo ngại ngày
càng tăng về nguy cơ tiềm tàng đến sức khỏe
do phthalate gây ra. Một số loại phthalate
được xem là chất gây rối loạn nội tiết vì
chúng hoặc các chất chuyển hóa của chúng
tác động đến hệ thống hoóc-môn của cơ thể.
Hầu hết các nghiên cứu cho thấy tác dụng có
hại đã được thực hiện trên động vật thí
nghiệm, nhưng một số nghiên cứu trên người
cũng đã tìm thấy mối liên hệ giữa việc tiếp
xúc với phthalate và ảnh hưởng bất lợi đến
sinh sản và phát triển.
Cách phthalate ảnh hưởng đến sức
khỏe của con người và mức độ tiếp xúc vẫn là
những câu hỏi chưa có lời giải đáp, nhưng các
nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến tác
động tiềm ẩn đối với trẻ sơ sinh và trẻ em.
Lệnh cấm sử dụng phthalate trong đồ chơi trẻ
em và các sản phẩm chăm sóc trẻ em đã được
áp đặt bởi cả Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, việc sử dụng phthalate
trong các sản phẩm khác vẫn còn phổ biến.
Phthalate được tìm thấy trong tấm ốp và sàn
vinyl, rèm nhà tắm, áo mưa trẻ em và thậm
chí cả trong các sản phẩm chăm sóc cá nhân
như dầu gội và mỹ phẩm. Vì thế, phthalate
hiện phân tán rộng rãi ra môi trường. Nhóm
nghiên cứu hy vọng sẽ phát hiện ra chất làm
mềm cố định an toàn hơn để sử dụng cho
ngành công nghiệp nhựa.
Theo vista.gov.vn, 06/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Sản xuất được tơ nhện nhân tạo nhẹ hơn bông, bền hơn thép
![Page 20: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/20.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 20/58
Từ lâu, sợi tơ nhện đã gây ấn tượng
mạnh vì tính chất mềm mại mà dai chắc của
nó. Nhưng mãi cho tới nay các nhà khoa học
mới thực hiện được việc tổng hợp thành công
sợi tơ nhện nhân tạo.
Công việc này do một nhóm nghiên
cứu tại Đại học Washington (Saint Louis, tiểu
bang Missouri, Mỹ) thực hiện bằng cách sử
dụng vi khuẩn để tổng hợp các protein của
loại tơ nhện. Điều khó khăn nhất là các
protein phải lớn, vì protein càng lớn thì sợi tơ
mới càng dẻo dai và bền chắc. Theo
Christopher Bowen, một thành viên trong
nhóm nghiên cứu, để tạo nên sợi tơ này, cần
phải có một phân tử DNA dài kết hợp bằng
một chuỗi ngắn lặp lại hàng trăm lần.
Sợi tơ nhện tự nhiên có tính chất mềm mại nhưng bền chắc
Nhưng lại có một loại vi khuẩn có xu
hướng phân chia các chuỗi này. Theo giải thích
của Fuzhong Zhang, người đứng đầu công
trình, vì vậy điều cần thiết là phải “giới thiệu”
cho protein của sợi tơ nhện một chuỗi nhỏ đã
được đánh dấu và thông qua một phản ứng hóa
học, chúng phản ứng bằng cách kết hợp với các
protein khác có mang cùng dấu hiệu.
Kết quả, các nhà nghiên cứu đã thu
được loại protein tơ nhện có kích thước lớn
gấp hai lần loại protein trong các thí nghiệm
trước đó, và do vậy đã có thể chuyển biến
thành sợi với những phẩm chất của tơ nhện tự
nhiên. Vì vậy, bước tiếp theo chỉ là đưa vào
công nghiệp hóa quá trình.
Đặc điểm đầu tiên của loại tơ nhện
nhân tạo này là bền chắc còn hơn cả kevlar, là
nhãn hiệu đăng ký cho loại sợi tổng hợp para-
aramid do DuPont phát triển vào năm 1965.
Năm 1970, loại vật liệu cường độ cao này đã
được sử dụng thay thế cho thép trong lốp xe
đua và do có độ bền gấp 5 lần thép nhưng
cũng rất dẻo dai nên thường được sử dụng
làm vật liệu chế tạo áo giáp chống đạn.
Sợi tơ nhện nhân tạo của Đại học Washington
![Page 21: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/21.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 21/58
Và đặc điểm kế tiếp là sợi tơ nhện
nhân tạo này có tỷ trọng còn nhỏ hơn cả bông
vải hoặc nylon, điều hấp dẫn nhất khi được
dệt thành lụa.
Hai đặc điểm này vì vậy, đã gây nhiều
thắc mắc cho giới khoa học. Do đó, TS.
Frauke Gräter tại Viện Nghiên cứu lý thuyết
Heidelberg (Đức) cùng các cộng sự đã làm
sáng tỏ câu hỏi bằng cách phân tích cấu trúc
phân tử của sợi tơ này.
Kết quả phân tích cho thấy, cấu trúc
phân tử của sợi tơ đã được thay thế bằng các
thành phần tinh thể làm cho nó bền chắc hơn
cùng với các thành phần vô định hình làm cho
nó mềm mại hơn. Vì vậy, việc tiếp theo chỉ là
đưa vào công nghiệp hóa.
Theo khampha.vn, 08/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Màng trong suốt loại bỏ 70% nhiệt mặt trời đi đến
Các kỹ sư tại Viện Công nghệ
Massachusetts (MIT) đã tạo ra một màng
khử nhiệt dùng cho cửa sổ tòa nhà để phản xạ
tới 70% nhiệt mặt trời đi đến. Loại màng mới
có thể duy trì độ trong suốt cao khi nhiệt độ
dưới 320C. Trên mức nhiệt này, màng hoạt
động như một "hệ thống tự động" khử nhiệt.
Theo ước tính, nếu tất cả các cửa sổ trong tòa
nhà hướng ra ngoài được phủ màng khử
nhiệt, thì chi phí năng lượng và điều hòa cho
tòa nhà có thể giảm đến 10%.
Màng loại bỏ nhiệt tương tự như màng
bọc thực phẩm trong suốt, có các tính chất
khử nhiệt bắt nguồn từ các vi hạt nhỏ được
gắn bên trong. Những vi hạt này được làm từ
một loại vật liệu thay đổi pha, co lại khi tiếp
xúc với nhiệt độ từ khoảng 29 độ C trở lên.
Trong các cấu hình nhỏ hơn, các vi hạt khiến
cho màng trong suốt mờ hơn.
Màng gắn vào các cửa sổ trong điều
kiện thời tiết mùa hè, có thể làm mát một
cách thụ động cho tòa nhà trong khi vẫn cho
phép một lượng ánh sáng vừa đủ đi qua.
Nicholas Fang, giáo sư kỹ thuật cơ khí tại
MIT, cho rằng vật liệu này cung cấp một giải
pháp thay thế hiệu quả và tiết kiệm năng
lượng cho các công nghệ cửa sổ thông minh
hiện có.
GS. Fang cho rằng: “Cửa sổ thông
minh trên thị trường hiện có hoặc không hiệu
quả trong việc khử nhiệt mặt trời hoặc giống
như một số cửa sổ điện sắc (electrochromic),
cần nhiều năng lượng hơn để hoạt động.
Chúng tôi nghĩ rằng vật liệu và lớp phủ
quang học mới có triển vọng cung cấp các
lựa chọn cửa sổ thông minh hiệu quả hơn".
“Lưới đánh cá trong nước”
Cách đây hơn 1 năm, GS.Fang đã cộng
tác với các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Hồng Kông để tìm cách giảm thiểu sử dụng
năng lượng của các tòa nhà trong thành phố,
đặc biệt là trong những tháng mùa hè, khi các
khu vực này nổi tiếng nóng và việc sử dụng
điều hòa tăng cao đỉnh điểm.
"Giải quyết thách thức này rất quan
trọng đối với khu đô thị như Hồng Kông, nơi
đang đặt ra thời hạn nghiêm ngặt về tiết kiệm
năng lượng", GS. Fang đề cập đến cam kết
của Hồng Kông giảm 40% năng lượng sử
dụng vào năm 2025.
Sau một vài tính toán nhanh, nhóm
nghiên cứu đã phát hiện thấy phần lớn nhiệt
của tòa nhà đi qua cửa sổ dưới dạng ánh nắng
mặt trời.
"Trên mỗi mét vuông, khoảng 500W
năng lượng dưới dạng nhiệt được đưa vào
bởi ánh nắng mặt trời qua một cửa sổ", GS.
![Page 22: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/22.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 22/58
Fang nói. "Công suất đó tương đương với
khoảng 5 bóng đèn".
Các nhà khoa học đã nghiên cứu tài
liệu về vật liệu điện sắc - vật liệu nhạy với
nhiệt độ tạm thời thay đổi pha hoặc màu sắc
để đáp ứng với nhiệt. Cuối cùng, nhóm
nghiên cứu đã tìm ra một vật liệu được làm từ
các hạt poly (N-isopropylacrylamide) -2-
Aminoethylmethacrylate hydrochloride. Các
vi hạt này trông giống như những quả cầu
nhỏ, trong suốt và có nhiều sợi. Ở nhiệt độ
khoảng 29 độ C hoặc cao hơn, các quả cầu về
cơ bản bị ép nước và thu nhỏ thành các bó sợi
chặt phản xạ ánh sáng theo cách khác biệt,
biến vật liệu thành dạng mờ.
"Nó giống như lưới đánh cá trong
nước", GS. Fang nói. “Mỗi bó sợi tạo ra lưới,
phản xạ một lượng ánh sáng nhất định.
Nhưng vì có rất nhiều nước ngấm vào lưới
đánh cá, nên khó nhìn thấy mỗi sợi. Nhưng
khi bạn ép nước ra, sợi lại trở nên hữu hình".
Trong các thí nghiệm trước đây, các
nhóm khác đã phát hiện ra rằng dù các hạt co
lại có thể khử ánh sáng tương đối tốt, nhưng ít
khả năng cản nhiệt. Nhóm nghiên cứu đã phát
hiện ra rằng giới hạn này đã giảm xuống kích
thước hạt: Các hạt được sử dụng trước đây đã
co lại thành đường kính khoảng 100 nanomet
- nhỏ hơn bước sóng của ánh sáng hồng ngoại
- làm cho nhiệt dễ dàng truyền qua.
Thay vào đó, các nhà khoa học đã mở
rộng chuỗi phân tử của từng vi hạt. Do đó,
khi co lại để phản ứng với nhiệt, đường kính
của hạt rơi vào khoảng 500 nanomet, mà GS.
Fang cho rằng "tương thích hơn với quang
phổ hồng ngoại của ánh sáng mặt trời".
Sự khác biệt
Các nhà nghiên cứu đã tạo ra dung
dịch, bao gồm các vi hạt cản nhiệt được đặt
giữa hai tấm kính cỡ 12 inch x 12 inch để tạo
ra cửa sổ phủ màng. Các nhà khoa học chiếu
ánh sáng từ bộ mô phỏng năng lượng mặt trời
lên cửa sổ để mô phỏng ánh nắng mặt trời đi
đến và phát hiện thấy màng đã chuyển sang
dạng sương giá để phản ứng với nhiệt. Khi đo
bức xạ mặt trời truyền qua phía bên kia của
cửa sổ, các nhà nghiên cứu nhận thấy màng
loại bỏ 70% lượng nhiệt do đèn phát ra.
Nhóm nghiên cứu cũng lót vào trong
buồng đo nhiệt lượng nhỏ một màng khử
nhiệt và đo nhiệt độ bên trong buồng khi
chúng chiếu sáng từ bộ mô phỏng năng lượng
mặt trời qua màng. Nếu không có màng, nhiệt
độ bên trong được làm nóng đến khoảng 38,9
độ C. Với màng, buồng bên trong vẫn ở mức
33,9 độ C.
Trong tương lai, nhóm nghiên cứu dự
kiến thực hiện nhiều thử nghiệm đối với
màng để xem liệu việc điều chỉnh công thức
và áp dụng theo những cách khác có thể cải
thiện tính chất cản nhiệt.
Theo vista.gov.vn, 09/11/2018
Trở về đầu trang
**************
'Đóng chai' năng lượng mặt trời để dùng dần trong gần 2 thập kỉ
Hệ thống lưu trữ nhiệt năng mặt trời trong chất lỏng lên đến hơn một thập kỷ của Đại học công
nghệ Chalmers.Ảnh: Đại học Công nghệ Chalmers
Chuyện nghe như bịa này đang được
các nhà khoa học Thụy Điển nghiên cứu và
phát triển trong thực tế.
Năng lượng mặt trời từ lâu đã được
xác định là giải pháp hiệu quả để dần loại bỏ
nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, năng
lượng mặt trời lại không ổn định do những
khó khăn trong việc lưu trữ để sử dụng trong
những ngày không có nắng hay vào ban đêm.
![Page 23: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/23.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 23/58
Mới đây, các nhà khoa học Thụy Điển
đã phát triển một chất lỏng đặc biệt, được gọi
là nhiên liệu nhiệt mặt trời (solar thermal
fuel), có thể lưu trữ năng lượng từ ánh sáng
mặt trời trong hơn một thập kỷ.
"Nhiên liệu nhiệt mặt trời này như một
viên pin có thể sạc lại được, nhưng thay vì
dùng điện thì loại nhiên liệu này nhận nguồn
vào là ánh sáng mặt trời và đầu ra là nhiệt
năng”, ông Jeffrey Grossman, Kỹ sư vật liệu
tại đại học MIT, giải thích.
Trên thực tế, chất lỏng này là một phân
tử ở dạng lỏng đang được các nhà khoa học
đến từ Đại học Chalmers University of
Technology, Thụy Điển nghiên cứu trong hơn
một năm nay.
Phân tử này được tạo thành từ carbon,
hydro và nitrogen. Khi khi tiếp xúc với ánh
sáng mặt trời, thì liên kết giữa các phân tử
của nó sẽ được sắp xếp lại và chuyển sang
thành một dạng mang điện được gọi là chất
đồng phân (isomer).
Năng lượng từ ánh sáng mặt trời sẽ bị
giữ lại trong các liên kết hóa học vững chắc
của isomer và nó sẽ giữ nguyên trạng thái đó
cho đến khi phân tử này nguội lại đến nhiệt
độ phòng.
Khi cần sử dụng năng lượng này, chất
lỏng sẽ được cho chảy qua một chất xúc tác
giúp đưa phân tử về trạng thái nguyên thủy ban
đầu, giải phóng năng lượng dưới dạng nhiệt.
GS Kasper Moth-Poulsen-trưởng nhóm nghiên cứu
“Năng lượng trong dạng chất đồng
phân này có thể được lưu trữ đến 18 năm. Và
khi chúng tôi trích xuất năng lượng đó ra sử
dụng, chúng tôi nhận thấy nhiệt độ tăng lên
còn lớn hơn cả kỳ vọng", GS Kasper Moth-
Poulsen, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết.
Hiện tại, phòng thí nghiệm nghiên cứu
của trường đã đặt một nguyên mẫu hệ thống
năng lượng hoàn chỉnh trên nóc của giảng
đường. Hệ thống này đang thu hút sự chú ý
của rất nhiều nhà đầu tư lớn.
Hệ thống này hoạt động như một chu
trình lặp khép kín. Hệ thống được thiết
kế tương tự một lòng chảo lõm với một chiếc
ống dẫn đặt ngay ở giữa nhằm thu được nhiều
ánh nắng nhất và chất lỏng được bơm qua các
ống trong suốt hướng về ánh sáng mặt trời.
Khi nóng lên, chất lỏng thay đổi từ
dạng nguyên thủy của phân tử nocbocnadien
thành chất đồng phân giữ nhiệt có tên là
quadricyclane. Chất lỏng thu đầy năng lượng
sau đó sẽ được lưu trữ ở nhiệt độ phòng.
Khi chúng ta có nhu cầu sử dụng
nguồn năng lượng này, thì chất lỏng sẽ được
đẩy qua một chất xúc tác giúp chuyển các
phân tử này trở lại dạng nguyên thủy ban đầu,
làm ấm chất lỏng lên 63 độ C. Chất lỏng ấm
này khi đó sẽ được sử dụng cho nhiều mục
đích khác nhau như các hệ thống sởi ấm trong
gia đình, làm ấm hệ thống nước nóng trong
các tòa nhà cao tầng, máy rửa bát, máy sấy
quần áo và nhiều ứng dụng khác nữa.
Chất lỏng đã cạn nhiệt sau đó lại được
bơm ngược lên mái nhà để tái “sạc” nhiệt lại
và bắt đầu một chu trình mới. Đến nay, các
nhà nghiên cứu đã tái sử dụng chất lỏng trong
chu trình này đến hơn 125 lần mà không gây
tổn hại gì đến phân tử.
Theo khampha.vn, 10/11/2018
Trở về đầu trang
**************
![Page 24: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/24.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 24/58
Những con đường từ nhựa tái chế: Nhẹ hơn, nhanh hơn và bền hơn
Hà Lan đang triển khai xây dựng
những con đường được làm từ nhựa tái chế.
Bước đầu của chương trình đã thành công và
dự kiến ý tưởng sẽ được nhân rộng hơn nữa.
Ba công ty Châu Âu đang thử nghiệm
xây dựng con đường được làm từ nhựa tái chế
tại Zwolle, một thành phố ở đông bắc Hà Lan.
Dự án này có tên gọi là PlasticRoad, vừa chính
thức đi vào hoạt động vào tháng trước. Wavin,
công ty sản xuất ống nhựa nhận nhiệm vụ làm
nhựa đường, hợp tác với công ty năng lượng
Total và công ty kỹ thuật KWS.
Con đường nhựa tái chế ở thành phố
Zwolle tuy chỉ trải dài chưa đến 30 mét,
nhưng nó mang trong mình nhiều công nghệ
tân tiến. Các bộ cảm biến được gắn dọc theo
con đường nhằm đo đạc độ bền của đường,
đo số lượng người và xe đạp đang lưu thông
cũng như nhiệt độ hấp thụ của mặt đường.
Bản vẽ mô hình con đường nhựa tái chế trong tương lai. Không chỉ chở phương tiện lưu thông bên trên, bên trong lòng của con đường còn có không gian rỗng để đặt đường ống cáp và chứa
nước mưa. Ảnh: PlasticRoad
Thiết kế của PlasticRoad bao gồm các
phần đường làm tự nhựa tái chế được đúc sẵn,
các module ghép nối giúp con đường được thi
công nhanh chóng. Theo chủ đầu tư và quản
lý dự án, cách thi công này giúp thời gian xây
dựng toàn bộ con đường được rút ngắn rất
nhiều, từ vài tháng xuống còn vài ngày.
Nhựa tái chế có khả năng chống chọi
được với thời tiết và thời gian sử dụng cũng
lâu hơn so với nhựa đường truyền thống.
Theo PlasticRoad, lượng khí thải carbon từ
đường nhựa tái chế cũng ít hơn so với bê tông
hoặc nhựa đường truyền thống, bởi công nghệ
mới này không cần các vật liệu phụ khác trộn
vào để tạo ra nhựa đường. Chưa hết, loại
đường mới được thiết kế với không gian rỗng
bên dưới để đặt các đường ống và dây cáp,
cũng như chứa nước mưa tránh gây ngập lụt.
Hai người đàn ông đang chạy xe đạp trên con đường làm từ nhựa tái chế đầu tiên trên
thế giới. Con đường này được xây dựng ở Zwolle, Hà Lan vào tháng 10 năm 2018. Trong tương lai,
những con đường tương tự sẽ được thi công khắp Hà Lan. Ảnh: PlasticRoad
Gert-Jan Maasdam, giám đốc công
nghệ tại Wavin, chia sẻ loại nhựa đường mới
này được tạo nên từ chất thải tiêu dùng, đồ
nhựa sử dụng hằng ngày bị thải bỏ đi. Dự án
này tập trung vào các loại nhựa như chai nhựa
đựng thức ăn đồ uống và bao bì gói sản phẩm,
thường được bỏ đi sau một lần sử dụng.
PlasticRoad không chia sẻ về chi phí tạo ra
con đường.
Nhân loại thải ra 300 triệu tấn rác thải
nhựa mỗi năm, đó là mối đe dọa cực kì lớn
đối với môi trường. Nhựa mất rất lâu để có
thể phân hủy được, và hầu hết rác thải nhựa
đều được thải trực tiếp vào biển và đại dương,
môi trường sống tự nhiên của các loài sinh
vật khác.
Hiện tại, PlasticRoad đang sử dụng
70% nhựa tái chế cho các con đường, và mục
đích trong tương lai sẽ xây dựng các con
đường hoàn toàn từ nhựa tái chế. Nhóm
nghiên cứu mong muốn trong tương lai xa,
thiết kế này sẽ được sử dụng rộng rãi và
không chỉ là đường đi mà còn là vỉa hè, các
công trình hạ tầng đô thị khác.
Tuy vậy, trước mắt các công ty thi
công phải giải quyết bài toán sức chịu của
![Page 25: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/25.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 25/58
nhựa. Vì nhựa tái chế thường mỏng manh và
không chịu được khối lượng lớn, thế nên
những con đường ở phiên bản hiện tại chỉ có
thể chở được xe đạp hoặc người đi bộ. Ngoài
nhựa tái chế, con đường này còn được pha
trộn với cát hoặc đá nghiền nhuyễn.
Theo khampha.vn, 12/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Siêu vật liệu dán cửa kính giúp tiết kiệm hàng triệu đô tiền điện
Khi nhiệt độ ngoài trời trên 32 độ C,
cửa sổ được dán film sẽ trở nên mờ đi, tán xạ
được 70% sức nóng mặt trời chiếu vào giúp
làm mát trong những ngày nóng nực.
Thời tiết nóng nực không chỉ làm cho
con người cảm thấy khó chịu mà còn làm
giảm hiệu quả công việc, giải pháp đầu tiên
lúc đó nhiều người nghĩ đến có lẽ là bật điều
hòa. Nhưng bật điều hòa liên tục cũng đồng
nghĩa với hóa đơn tiền điện trở thành gánh
nặng cho nhiều hộ gia đình và các văn phòng.
Chỉ tính riêng ở Mỹ, trong một năm,
các tòa nhà văn phòng phải chi đến 29 tỷ USD
cho các thiết bị làm mát, thậm chí con số này
còn tăng lên nữa khi mà khí hậu trên toàn cầu
đang nóng lên. Tiền điện cho điều hòa nhiệt độ
chiếm đến 6% tổng chi tiêu tiền điện của
người Mỹ, các số liệu thống kê cho biết.
Với loại film dán cửa sổ này, các văn phòng sẽ không phải tốn một đồng cho điện điều hòa
Ảnh: Pixabay
Tuy nhiên, với một loại tấm film tán
nhiệt mới, Học viện công nghệ Massachusetts
(MIT) đã tìm ra giải pháp hiệu quả cho vấn đề
này, giúp tiết kiệm hàng trăm ngàn USD phải
chi cho hóa đơn tiền điện của các tòa nhà văn
phòng và các hộ gia đình. Loại film này được
dán lên các cửa sổ và giúp tản được 70% sức
nóng từ ánh nắng mặt trời chiếu vào. Với hệ
thống này, nhóm nghiên cứu dự đoán các
công ty, tập đoàn có thể tiết kiệm được trung
bình 10% chi phí tiền tiện.
Ông Nicholas Fang, giáo sư kỹ thuật
vật liệu, cho biết việc phủ film lên các tấm
kính cửa sổ giúp các tòa nhà tự làm mát thụ
động nhưng vẫn đảm bảo đủ ánh sáng xuyên
qua. Ông cũng cho biết, so với các phương
pháp làm mờ kính hoặc lắp các loại kính cách
nhiệt đắt đỏ hiện nay, thì việc phủ lớp film
mới này tiết kiệm và hiệu quả hơn nhiều.
“Các loại cửa sổ thông minh trên thị
trường hiện nay thường không hiệu quả trong
việc phản nhiệt từ mặt trời và tốn thêm điện
để điều khiển, vì thế, người dùng sẽ phải trả
tiền điện để làm cửa sổ mờ đi. Vì thế, chúng
tôi cho rằng, các loại vật liệu và tấm phủ
quang học mới sẽ là giải pháp hiệu quả hơn
cho những loại cửa sổ thông minh”, ông nói.
Giải pháp tiết kiệm điện đơn giản
cho các vấn đề của những thành phố lớn
Ông Fang bắt đầu thực hiện ý tưởng
này khi hợp tác với một nhóm các nhà nghiên
cứu tại Đại học Hong Kong. Mục đích thực
hiện nghiên cứu này là nhằm giảm lượng tiêu
thụ điện năng trong những tháng hè nóng nực.
“Giải quyết được vấn đề này là một
yếu tố quan trọng sống còn với những thành
phố đông đúc, sôi động như HongKong, bởi
những thành phố này đang ở ngưỡng giới hạn
cuối cùng của việc tiết kiệm điện năng, nghĩa
là các thành phố đó không thể tiết kiệm thêm
được nữa”, ông Fang giải thích.
![Page 26: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/26.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 26/58
Hong Kong hiện đang thực hiện cam
kết đến năm 2025 sẽ giảm được 40% lượng
điện năng tiêu thụ.
Những sinh viên tại MIT đã lưu ý đến
một vấn đề rất lớn từ những ô cửa sổ và làm
thế nào để hạn chế ánh sáng mặt trời chiếu qua.
“Thực tế, đối với mỗi m2 cửa sổ,
khoảng 500 watt điện ở dạng nhiệt năng do
ánh nắng mặt trời xuyên qua. Số điện này
tương đương với khoảng 5 bóng đèn chiếu
sáng”, ông Fang cho biết.
Các nhà nghiên cứu trong nhóm
nghiên cứu của ông Fang đã tập trung vào vấn
đề các loại vật liệu đổi pha làm tán xạ ánh
nắng mặt trời như thế nào. Họ muốn ứng
dụng nghiên cứu các loại vật liệu để tìm ra
một loại cửa sổ mới, đặc biệt là nếu như loại
vật liệu này có thể tán xạ ánh nắng mặt trời và
làm chuyển hướng nhiệt.
Sau khi nghiên cứu các loại vật liệu
nhiệt sắc (vật liệu thay đổi màu sắc tùy thuộc
vào lượng nhiệt chiếu vào), nhóm nghiên cứu
đã quyết định chọn các hạt vi phân poly-2-
aminoethylmethacrylate hydrochloride.
“Loại vật liệu này giống như là một
chiếc lưới đánh cá trong nước. Bản thân mỗi
một sợi lưới này đều phản xạ một lượng ánh
sáng nhất định. Nhưng bởi có rất nhiều nước
bao quanh lưới, nên mỗi sợi lưới lại rất khó
nhìn thấy. Nhưng một khi rút hết nước, thì
các sợi lưới này lại nhìn thấy rất rõ”, ông
Fang cho biết.
Rẻ và dễ chịu
Các nhà nghiên cứu đã dán hai tấm film
tán nhiệt vào một tấm kính cửa sổ 12x12 inch,
sau đó họ chiếu ánh sáng vào để mô phỏng
ánh nắng mặt trời chiếu xuyên qua tấm kính.
Cửa sổ này “mờ đi” khi tiếp xúc với nhiệt.
Thậm chí sự thay đổi ở tấm kính còn
nhìn thấy rõ, các nhà nghiên cứu thấy rằng loại
phim tản nhiệt này tán xạ được 70% lượng
nhiệt phát ra từ bóng đèn chiếu vào tấm kính.
Nếu không có tấm kính này, nhiệt độ
tăng lên đến 102 độ F (gần 39 độ C), nhưng
khi được dán film thì nhiệt độ vẫn chỉ ở mức
93 độ F (gần 34 độ C).
“Đây là một sự khác biệt lớn. Bạn sẽ
cảm nhận được sự thoải mái hoàn toàn khác
biệt” ông Fang cho hay.
Nhóm các nhà nghiên cứu tại MIT
đang tiếp tục nghiên cứu về giải pháp dán tấm
film trên cửa sổ và từ đó ứng dụng sang các
bề mặt khác nhằm tiết kiệm lượng điện tiêu
thụ. Tuy nhiên, cửa sổ vẫn là vị trí lý tưởng
để bắt đầu thử nghiệm này.
“Các cửa sổ là một yếu tố quan trọng
cần đặc biệt chú ý khi nói về hiệu suất của các
tòa nhà”, ông Xiaobo Yin, một giáo sư về kỹ
thuật vật liệu thuộc Đại học Colorado cho biết.
“Các loại cửa sổ thông minh có tính
năng điều tiết lượng ánh sáng mặt trời chiếu
vào có thể là một xu thế của tương lai. Một
ưu điểm quan trọng của nghiên cứu này đó là
vật liệu sử dụng, giúp nâng cao khả năng ứng
dụng và sản xuất các loại cửa sổ thông minh
một cách bền vững”.
Theo khampha.vn, 17/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo vật liệu “thông minh” mới có các ứng dụng y sinh học và môi trường tiềm năng
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại
học Brown đã chứng minh cách sử dụng oxit
graphene (GO) để bổ sung cho một số khung
của vật liệu hydrogel được làm từ alginate,
nguyên liệu tự nhiên có nguồn gốc từ rong
biển hiện đang được sử dụng trong nhiều ứng
dụng y sinh. Trong một bài báo được đăng
trên tạp chí Carbon, các nhà nghiên cứu đã
mô tả phương pháp in 3D để tạo ra cấu trúc
alginate-GO phức tạp và chắc chắc, có khả
năng chống gãy xương cao hơn cấu trúc chỉ
có alginate.
![Page 27: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/27.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 27/58
"Một yếu tố hạn chế sử dụng hydrogel
alginate là vì chúng rất mỏng manh và có xu
bị gãy do tải trọng cơ học hoặc trong môi
trường dung dịch có nồng độ muối thấp",
Thomas Valentin, nghiên cứu sinh tiến sỹ tại
Trường Kỹ thuật Brown và là trưởng nhóm
nghiên cứu nói. "Những gì chúng tôi đã
chứng minh là khả năng gia cố cho các cấu
trúc này chắc hơn nhiều bằng cách sử dụng
các tấm nano oxit graphene”.
Vật liệu này cũng trở nên cứng hoặc
mềm hơn khi được xử lý hóa học, có nghĩa là
nó có thể được sử dụng để làm vật liệu "thông
minh" với khả năng phản ứng với môi trường
xung quanh trong thời gian thực. Ngoài ra,
alginate-GO duy trì khả năng chống lại các
loại dầu của alginate, mở ra tiềm năng sử dụng
vật liệu mới làm lớp phủ chống gỉ mạnh.
Phương pháp in 3D được áp dụng để
chế tạo vật liệu được gọi là in litô lập thể. Kỹ
thuật này sử dụng laser cực tím được điều
khiển bởi một hệ thống thiết kế có sự hỗ trợ
của máy tính để theo dõi các mẫu trên bề mặt
của dung dịch polyme quang hoạt tính. Ánh
sáng làm cho các polyme liên kết với nhau,
tạo thành các cấu trúc 3D rắn từ dung dịch.
Quá trình theo dõi được lặp lại cho đến khi
toàn bộ đồ vật được tạo nên theo từng lớp từ
dưới lên. Trong trường hợp này, dung dịch
polyme được tạo ra bằng cách trộn natri
alginate với các tấm graphene oxit, vật liệu từ
cacbon để tạo thành một tấm nano dày 1
nguyên tử chắc hơn thép.
Một lợi thế của kỹ thuật này là các
polyme natri alginate kết nối qua liên kết ion.
Các liên kết đủ mạnh để giữ vật liệu, nhưng
chúng có thể bị phá vỡ bởi một số phương
pháp xử lý hóa học nhất định. Điều đó mang
lại cho vật liệu khả năng phản ứng với kích
thích bên ngoài. Trước đây, các nhà nghiên
cứu đã chứng minh "liên kết chéo này của
ion" có thể được sử dụng để chế tạo các vật
liệu alginate, có khả năng suy giảm theo yêu
cầu và hòa tan nhanh khi được xử lý bằng hóa
chất để quét sạch các ion khỏi cấu trúc bên
trong của vật liệu.
Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa
học muốn xem graphene oxit có thể thay đổi
các tính chất cơ học của cấu trúc alginate hay
không. Nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng
alginate-GO có thể có độ cứng gấp đôi so với
chỉ riêng alginate và có khả năng chống nứt
mạnh hơn nhiều.
Độ cứng bổ sung cho phép các nhà
nghiên cứu in những cấu trúc có phần nhô ra,
là điều không thể khi chỉ sử dụng alginate.
Hơn nữa, độ cứng tăng lên cũng không ngăn
cản alginate-GO phản ứng với các kích thích
bên ngoài như chỉ có alginate. Các nhà nghiên
cứu đã chứng minh được rằng bằng cách
nhúng vật liệu trong hóa chất để khử các ion,
các vật liệu đã phồng lên và mềm hơn. Các
vật liệu trở lại trạng thái cứng khi các ion
phục hồi do được nhúng trong muối ion. Các
thí nghiệm cho thấy độ cứng của vật liệu có
thể được điều chỉnh theo hệ số 500 bằng cách
thay đổi môi trường ion bên ngoài của chúng.
Khả năng thay đổi độ cứng làm cho alginate-
GO trở nên hữu ích trong nhiều ứng dụng như
nuôi cấy tế bào năng động.
"Bạn có thể tưởng tượng một kịch bản
mà bạn có thể hình dung các tế bào sống
trong một môi trường cứng và sau đó ngay
lập tức chuyển sang một môi trường mềm hơn
để xem xét phản ứng của các tế bào như
nhau", Valentin nói. Điều đó có ích trong việc
nghiên cứu cách tế bào ung thư hoặc tế bào
miễn dịch di chuyển qua các cơ quan trong
toàn bộ cơ thể.
Bởi alginate-GO duy trì tính chất
chống thấm dầu mạnh mẽ của alginate tinh
khiết, nên vật liệu mới có thể tạo ra một lớp
phủ tuyệt vời để giữ cho dầu và các bụi bẩn
khác không tích tụ trên bề mặt. Trong rất
nhiều thí nghiệm, các nhà nghiên cứu đã chỉ
ra rằng lớp phủ alginate-GO có thể giữ cho
dầu khỏi không làm nhiễm bẩn bề mặt của
![Page 28: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/28.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 28/58
thủy tinh trong điều kiện độ mặn cao. Vì thế,
hydrogel alginate-GO rất hữu ích khi được sử
dụng làm lớp phủ và các cấu trúc trong môi
trường biển.
Các nhà khoa học sẽ tiếp tục thử
nghiệm vật liệu mới để tìm ra những phương
thức sản xuất và sử dụng tối ưu các tính chất
của vật liệu.
Theo vista.gov.vn, 22/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Tìm ra chất xúc tác biến khí CO2 độc hại thành sản phẩm có giá trị
Các nhà nghiên cứu đã phát triển các
chất xúc tác có thể chuyển đổi CO2 thành các
sản phẩm có giá trị và nguyên liệu thô dùng
trong hóa học và dược phẩm.
Các nhà khoa học tại Đại học Rutgers,
Mỹ, vừa phát triển thành công một chất xúc
tác có thể biến CO2 carbon dioxide - tác nhân
chính gây nên biến đổi khí hậu toàn cầu -
thành nhựa, chất dẻo nhân tạo và nhiều sản
phẩm khác.
Bằng việc sử dụng điện hóa học, ta có thể biến CO2 thành các sản phẩm có giá trị và nguyên liệu thô dùng trong hóa học và dược phẩm. Ảnh: Getty
Bên cạnh enzyme, các chất xúc tác có
thể biến CO2 và nước thành các khối carbon
gồm một, hai, ba hoặc bốn nguyên tử carbon,
với hiệu suất lên tới 99%. Hai trong số các sản
phẩm được tạo ra là methylglyoxal (C3) và
2,3-furandiol (C4). Hai chất này có thể làm tiền
chất để sản xuất nhựa, keo dính và dược phẩm.
Ngoài ra, methylglyoxal còn có thể
thay thế hoàn chất formaldehyde độc hại
(thường được dùng trong chất tẩy mạnh, chất
bảo quản) với độ an toàn hơn gấp nhiều lần.
"Đây là một bước đột phá mới. Bằng
việc sử dụng điện hóa học, ta có thể biến CO2
thành các sản phẩm có giá trị và nguyên liệu
thô dùng trong hóa học và dược phẩm", giáo
sư Charles Dismukes, chuyên ngành hóa học
và sinh học - Đại học Rutgers, thành viên
nhóm nghiên cứu, cho biết.
Trước đây, các nhà khoa học đã thành
công trong việc sử dụng điện hóa học biến đổi
CO2 thành methanol, ethanol, methane và
ethylene với số lượng lớn. Tuy nhiên theo
Karin Calvinho, nghiên cứu sinh ngành Hóa
học, thành viên nhóm nghiên cứu, cho
rằng quá trình biến đổi này rất tốn kém, không
thể tăng quy mô lên thành sản xuất đại trà.
"Sử dụng 5 chất xúc tác làm bằng
niken và phốt pho, có giá rẻ và dễ tìm, chúng
tôi đã chuyển đổi khí CO2 và nước thành các
sản phẩm gốc carbon", Karin cho hay.
Cách thức biến đổi CO2 thành nhựa, chất dẻo tổng hợp, và dược phẩm. Ảnh: Karin
Calvinho/Rutgers University
Việc lựa chọn chất xúc tác và các điều
kiện khác sẽ xác định cách các nguyên tử
cacbon liên kết với nhau để tạo ra các phân tử
hoặc thậm chí tạo ra các polyme dài hơn và
phức tạp hơn. Chuỗi carbon càng dài, sản
phẩm tạo ra sẽ càng có giá trị.
Các nhà nghiên cứu đã xin cấp bằng
sáng chế cho các chất điện xúc tác mình tạo
ra, rồi lập nên một startup có tên RenewCO2.
Bước tiếp theo, họ sẽ nghiên cứu về phản ứng
hóa học có trong quá trình biến đổi CO2
để tìm ra cách thức chế tạo thêm nhiều chất
có ích và có lợi với môi trường.
![Page 29: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/29.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 29/58
Ảnh: Zee News
Một khi phương pháp đầy đột phá này
được thương mại hóa, đây sẽ là bước tiến lớn
trong ngành khoa học vật chất, ngành sản
xuất vật liệu cũng như bảo vệ môi trường.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Energy & Environmental Science.
Theo khampha.vn, 29/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Phương thức lọc etylen giá rẻ và tiêu tốn ít năng lượng
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại
học Texas đã xin cấp sáng chế tạm thời cho
hợp chất đồng mới có thể được sử dụng để
làm sạch etylen dùng làm nguyên liệu sản
xuất nhựa giống như polyetylen hoặc PVC,
cũng như các hợp chất công nghiệp khác.
Etylen được sản xuất từ dầu thô nhưng
thường thu được dưới dạng hỗn hợp có chứa
etan. Quy trình sản xuất sử dụng ethylen
thường cần có nguồn nguyên tinh khiết hoặc
chứa đến 99,9% etylen.
“Các công nghệ hiện có để tách etylen
và etan tiêu tốn khối lượng lớn năng lượng và
đòi hỏi vốn đầu tư cao”, Rasika Dias, giáo sư
hóa học và hóa sinh tại trường Đại học Texas
nói. “Công nghệ mới của chúng tôi sử dụng
hợp chất đồng có khả năng hấp thụ có chọn
lọc etylen ở trạng thái rắn, để lại etan mà chỉ
tiêu tốn rất ít năng lượng”.
Khả năng hấp thụ etylen của hợp chất
đồng mới có thể dễ dàng được tác động. Do
đó, etylen được hấp thụ sau đó có thể được
giải phóng và thu hồi trong điều kiện nhiệt độ
hoặc áp suất có thay đổi nhẹ, dẫn đến sự tái
tạo của hợp chất đồng ban đầu để tái sử dụng
nhiều lần.
GS. Dias cho biết: “Kết quả là công
nghệ mới của chúng tôi vừa bền vững lại vừa
tiết kiệm năng lượng và có thể là bước đột
phá thực sự trong việc tách các olefin như
ethylene và propylen khỏi parafin, hiện chiếm
0,3% tỷ lệ tiêu thụ năng lượng trên toàn cầu,
tương đương với mức tiêu thụ năng lượng
hàng năm của Singapo".
Kết quả nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí quốc tế Angewandte Chemie mô
tả cách nhiệt được giải phóng ở mức rất thấp
trong quá trình hấp thụ là kết quả của việc tái
sắp xếp cấu trúc đi kèm của hợp chất đồng
khi tiếp xúc với etylen.
Đánh giá về sự phát triển của công
nghệ mới, Fred MacDonnell, nhà nghiên cứu
tại trường Đại học Texas cho rằng nhóm
nghiên cứu của GS. Dias đã cải tiến được một
trong những phương thức tách hóa chất cần
cho nhiều quy trình công nghiệp cũng như
hoạt động sản xuất các sản phẩm được sử
dụng trong đời sống thường nhật. Công nghệ
mới có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giảm
chi phí sản xuất hàng hóa và còn giảm thiểu
triệt để tác động môi trường bằng cách giảm
lượng nhiệt thải vào khí quyển.
Theo vista.gov.vn, 20/11/2018
Trở về đầu trang
**************
![Page 30: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/30.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 30/58
Các nhà nghiên cứu phát triển bền vững 'nano-mâm xôi' để trung hòa độc tố carbon monoxide
Các nhà khoa học từ Viện Công nghệ
Nagoya (NITECH) ở Nhật Bản đã phát triển
một phương pháp bền vững để trung hòa
cacbon monoxit (CO) - một loại khí độc
không màu, không mùi, là sản phẩm của sự
đốt cháy hông đầy đủ của nhiên liệu như khí
tự nhiên, than đá hoặc gỗ. Khói xả từ các
phương tiện giao thông là một nguồn chính
của carbon monoxide. Kết quả nghiên cứu
của họ đã được công bố trên trang bìa tạp chí
Nanomaterials.
Thông thường, các nhà khoa học sử
dụng một chất xúc tác như kim loại quý hiếm
và đắt tiền để chuyển đổi cacbon monoxit
(CO) thành cacbon dioxit (CO2) và dễ dàng
tiêu tan vào bầu khí quyển. Mặc dù đặc tính
của kim loại quý hiếm là có cấu trúc mang
tính ổn định cao trong những điều kiện nhiệt
độ khác nhau, nhưng đó là một nguồn tài
nguyên vô giá và hữu hạn nên các nhà nghiên
cứu đã và đang nỗ lực tìm kiếm một giải pháp
thay thế.
Mới đây, một nhóm nghiên cứu do
Tiến sĩ Teruaki Fuchigami tại NITech dẫn
đầu đã phát triển một hạt phân tử nano có
hình dáng giống quả mâm xôi có khả năng
tăng cường oxy hóa tương tự, từ đó, carbon
monoxit thu được thêm một nguyên tử oxy và
mất độc tính mạnh nhất.
GS. TS. Fuchigami, tại Khoa Khoa học
Đời sống và Hóa học Ứng dụng tại NITech và
là tác giả đầu tiên của bài báo cho biết:
“Chúng tôi nhận thấy rằng các hạt nano có
hình quả mâm xôi đạt được độ ổn định cấu
trúc cao và khả năng kiểm soát phản ứng hiệu
quả ngay cả trong cấu trúc bề mặt nano”.
Cũng theo TS. Fuchigami, điều quan
trọng là phải đảm bảo rằng các hạt có cấu trúc
tuy rất phức tạp nhưng lại có tính ổn định, trật
tự cao. Một phân tử nano đơn lẻ có cấu trúc
đơn giản cũng có khả năng oxy hóa CO,
nhưng nó sẽ không hoạt động một mình mà
kết hợp với các hạt đơn lẻ khác. Những hạt
này khi kết hợp chặt chẽ với nhau sẽ mất đi
khả năng oxy hóa, đặc biệt là trong điều kiện
nhiệt độ tăng cao của động cơ hoặc nồi hơi.
Các hạt nano xúc tác với cấu trúc ba
chiều đơn và phức tạp (3-D) có thể đạt được
cả độ ổn định cấu trúc cao và hoạt tính xúc
tác cao, tuy nhiên, việc sản xuất các hạt này
bằng các phương pháp thông thường không
hề đơn giản. Tiến sĩ Fuchigami và nhóm của
ông đã nghiên cứu giải pháp kiểm soát không
chỉ kích thước của hạt mà còn là cách thức
chúng tương tác, kết hợp với nhau. Họ sử
dụng các hạt nano oxit coban, một loại kim
loại quý hiếm có khả năng oxy hóa tốt nhưng
cuối cùng sẽ kết hợp chặt chẽ với nhau và trở
nên bất hoạt.
Nhóm đã sử dụng các ion sulfate cho
quá trình hình thành hạt oxit coban. Các ion
sulfate giữ các hạt, tạo ra một cây cầu liên kết
hóa học. Được gọi là phối tử, cây cầu này có
nhiệm vụ giữ cho các hạt nano liên kết chặt
chẽ với nhau, đồng thời, ức chế sự phát triển
thành nhóm dẫn đến nguy cơ mất hoạt tính
xúc tác.
Kết quả là các hạt có hình dáng trông
giống như một quả mâm xôi, trong đó, các tế
bào nhỏ gắn kết với nhau thành một khối lớn
hơn tất cả các bộ phận của nó.
"Hiện tượng liên kết chéo hai vật chất
đã được hình thành trong lĩnh vực nghiên cứu
khung kim loại hữu cơ, nhưng, có thể nói đây
là báo cáo đầu tiên ghi nhận hiện tượng này
xảy ra đối với các hạt nano oxit. Ảnh hưởng
của cầu phối tử liên kết đối với sự hình thành
các hạt nano oxit sẽ rất hữu ích để xây dựng
lý thuyết tổng hợp cho các cấu trúc nano
![Page 31: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/31.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 31/58
phức tạp 3-D", Tiến sĩ Fuchigami nói về cấu
trúc nano hình quả mâm xôi.
Cấu trúc nano bề mặt độc đáo của các
hạt phân tử hình quả mâm xôi vẫn ổn định
ngay cả trong quá trình phản ứng xúc tác khắc
nghiệt, nhờ đó, cải thiện hoạt tính oxy hóa
CO trong điều kiện nhiệt độ thấp.
Ngoài ra, nhóm cũng lên kế hoạch
khám phá cấu hình ổn định và linh hoạt nhất
cho xúc tác hóa học và các ứng dụng khác.
Tiến sĩ Fuchigami và nhóm của ông
cho biết sẽ tiếp tục nghiên cứu vai trò của các
phối tử liên kết nhằm việc kiểm soát chính
xác khía cạnh kích thước và hình thái học
trong thiết kế vật liệu nano.
Theo vista.gov.vn, 30/11/2018
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Phát hiện “công tắc” để tăng sự tích tụ của tinh bột trong tảo
Kết quả của một nghiên cứu chung
giữa Viện Công nghệ Tokyo và trường Đại
học Tohoku, Nhật Bản đã làm tăng triển vọng
sản xuất trên quy mô lớn tinh bột có nguồn
gốc từ tảo, một nguồn cung cấp sinh học giá
trị cho nhiên liệu sinh học và các vật liệu tái
tạo khác. Các sản phẩm sinh học này có tiềm
năng thay thế nhiên liệu hóa thạch và góp
phần vào sự phát triển của các hệ thống và xã
hội bền vững.
Công tắc kiểm soát hàm lượng tinh bột
trong tảo do nhóm nghiên cứu đứng đầu là
Sousuke Imamura tại Phòng thí nghiệm Hóa
học và Khoa học sự sống, Viện Nghiên cứu
đổi mới sáng tạo, Viện Công nghệ Tokyo
(Tokyo Tech) phát triển. Nghiên cứu đã được
công bố trên tạp chí Plant.
Nghiên cứu tập trung vào tảo đỏ đơn
bào Cyanidioschyzon merolae. Các nhà khoa
học đã chứng minh rằng hàm lượng tinh bột
có thể tăng đáng kể trong C. merolae thông
qua khử hoạt tính TOR (mục tiêu của
rapamycin), một protein kinaza được biết
đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển
của tế bào. Nhóm nghiên cứu đã quan sát thấy
sự gia tăng đáng kể hàm lượng tinh bột 12 giờ
sau khi TOR ngừng hoạt động do tiếp xúc với
rapamycin và điều này đã dẫn đến làm tăng
10 lần sau 48 giờ.
Quan trọng hơn, nghiên cứu đã nêu chi
tiết cơ chế làm tăng mạnh hàm lượng tinh bột.
Sử dụng phương pháp phổ khối lượng sắc ký
lỏng (LC-MS/MS), các nhà nghiên cứu đã
kiểm tra những thay đổi tinh vi trong cấu trúc
của hơn 50 protein tham gia vào kích hoạt
quá trình tích tụ tinh bột. Kết quả là nhóm
nghiên cứu đã xác định GLG1 là protein quan
trọng. GLG1 hoạt động theo cách tương tự
như glycogenin, loại enzyme được tìm thấy
trong các tế bào nấm men và động vật, có liên
quan đến sự khởi đầu tổng hợp tinh bột (hoặc
glycogen). Cơ chế này sẽ là mối quan tâm to
lớn đối với nhiều ngành công nghiệp đang tìm
cách mở rộng sản xuất nhiên liệu sinh học và
hóa chất sinh học có giá trị gia tăng.
Những phát hiện này có thể thúc đẩy
sản sinh các chất phụ gia nhiên liệu, dược
phẩm, mỹ phẩm và nhựa sinh học thân thiện
với môi trường, cùng với việc loại bỏ túi nhựa
và ống hút dùng một lần ở nhiều nơi trên thế
giới.
So với cây trồng trên cạn, tảo rất hấp
dẫn do năng suất quang hợp cao và khả năng
canh tác tương đối dễ dàng. Tinh bột,
![Page 32: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/32.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 32/58
triacylglycerol (TAG) và các thành phần sinh
khối tảo khác ngày càng được xem là phương
thức triển vọng và mạnh mẽ để đóng góp cho
các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) do
Liên Hợp Quốc đề ra.
Nhóm nghiên cứu cho rằng cần thực
hiện nhiều nghiên cứu sử dụng các loài tảo
khác, cũng như các loài thực vật cao hơn như
Arabidopsis thaliana để cung cấp thêm thông
tin về các cơ chế phân tử cơ bản đằng sau sự
tích tụ của tinh bột. "Thông tin này sẽ giúp
phát triển công nghệ để cải thiện năng suất
sinh tổng hợp tinh bột và đồng thời cải thiện
sản xuất sinh khối bền vững và năng lượng
sinh học", ông Imamura nói.
Theo vista.gov.vn, 06/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Thu hồi dưỡng chất từ nước chế biến thủy sản
Nước từ ngành công nghiệp chế biến
thủy sản chứa các chất dinh dưỡng có giá trị,
có thể được sử dụng làm thực phẩm hoặc
thức ăn nuôi trồng thủy sản. Nhưng hiện nay,
nước chế biến thủy sản được xử lý như chất
thải. Giờ đây, một dự án nghiên cứu của
trường Đại học Công nghệ Chalmers, Thụy
Điển cho thấy tiềm năng tái chế các chất dinh
dưỡng này để đưa trở lại chuỗi thức ăn.
Trong quá trình chế biến thức ăn cho
cá trích, tôm và trai, khối lượng lớn nước chế
biến liên tục được ngành công nghiệp thủy
sản bơm ra dưới dạng chất thải. Nước được
sử dụng khi đun sôi tôm hoặc trai hoặc khi
filê, ướp muối và ướp nước cá trích. Khoảng
7000-8000 lít nước được sử dụng để chế biến
ướp 1 tấn cá trích, trong khi cần 50.000 lít
nước cần cho mỗi tấn tôm bóc vỏ hoặc cho 3
tấn tôm sống.
Tuy nhiên, các dòng nước này chứa
protein, peptit, chất béo và vi chất dinh
dưỡng, nên có thể được tái chế và sử dụng, ví
dụ bởi ngành công nghiệp thực phẩm để làm
thành phần thức ăn chăn nuôi hoặc nuôi trồng
vi tảo. Trên thực tế, nước đun sôi còn sót lại
từ việc chế biến tôm về cơ bản là một nguồn
cung cấp sẵn có.
Dự án nghiên cứu ở Bắc Âu có tên là
Novaqua do GS. Ingrid Undeland tại Khoa
Sinh học và Kỹ thuật sinh học thuộc trường
Đại học Công nghệ Chalmers điều phối, hiện
đã chứng minh tiềm năng chiết xuất các chất
dinh dưỡng quan trọng này từ nước chế biến
thủy sản.
Dự án này được khởi động vào năm
2015 với mục tiêu thu hồi các chất dinh
dưỡng từ nước chế biến thủy sản và đưa ra
những phương thức sử dụng theo hướng mới.
Một phương pháp tương tự đã được thực hiện
thành công trong ngành công nghiệp sữa, nơi
nước sữa, chất lỏng còn lại từ hoạt động sản
xuất pho mát, được sử dụng cho sản phẩm
dinh dưỡng trong thể thao, cũng như trong
nhiều loại thực phẩm khác.
Khi đo thành phần của nước thải chế
biến thủy sản, nhóm nghiên cứu đã phát hiện
ra chúng chứa đến 7% protein và 2,5% chất
béo. Trong nước chế biến tôm, astaxanthin,
một sắc tố đỏ và chất chống oxy hóa thường
được sử dụng như thực phẩm bổ sung, cũng
xuất hiện.
"Các tính toán của chúng tôi cho thấy
trong một nhà máy chế biến cá trích, có đến
15% lượng protein từ cá trích lẫn vào nước
thải và được xử lý như chất thải, qua đó, bị
mất đi", Ingrid Undeland giải thích.
Sử dụng quy trình hai bước, nhóm
nghiên cứu đã tìm cách thu hồi tới 98%
protein và 99% chất béo giàu omega 3. Quá
![Page 33: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/33.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 33/58
trình này tạo ra sinh khối một nửa là rắn và
chất lỏng giàu chất dinh dưỡng. Sau khi khử
nước, sinh khối từ nước sôi của tôm được
chứng minh chứa 66% protein và 25% chất
béo. Hai thử nghiệm đã được thực hiện cùng
với trường Đại học Gothenburg và Skretting
ARC thông qua sử dụng sinh khối mới như
một thành phần trong thức ăn cho cá hồi và
đã thu được những kết quả đáng khích lệ.
Chất lỏng chứa dinh dưỡng đã được sử
dụng cho cá đông lạnh để bảo vệ cá khỏi bị
ôi. Bên cạnh đó, chất lỏng này cũng được thử
nghiệm làm chất nuôi cấy vi tảo và được
chứng minh là tăng cường sự phát triển của
hai loại tảo. Sinh khối tảo sau đó có thể được
dùng làm nguồn protein hoặc chất nhuộm.
Nhìn chung, dự án nghiên cứu đã chỉ ra
một số phương thức để tái chế các chất dinh
dưỡng hiện đang bị thất thoát trong nước chế
biến thủy sản. Bước tiếp theo là thực hiện thử
nghiệm trong ngành công nghiệp thủy sản.
Ở Thụy Điển, nước chế biến thủy sản
được lọc ở phạm vi nhất định trước khi được
đưa ra khỏi các nhà máy. Điều này có nghĩa
là nhiều đơn vị chế biến thủy sản đã trang bị
công nghệ tuyển nổi cần cho bước thứ hai của
hoạt động thái chế dòng thải. Nhưng cũng có
những khoản đầu tư. Thách thức chính sẽ là
các vấn đề liên quan đến chi phí.
Nghiên cứu hiện tiếp tục trong khuôn
khổ dự án AquaStream mới, được tài trợ bởi
Quỹ Hàng hải và Nghề cá châu Âu. Bita
Forghani Targhi chỉ ra rằng một bước quan
trọng tiếp theo sẽ bao gồm tư vấn các doanh
nghiệp địa phương, phỏng vấn họ về các dòng
thải và xác minh sự mất đi chất dinh dưỡng
hiện tại thông qua mô tả đặc điểm chính của
nước chế biến.
Theo vista.gov.vn, 20/10/2018
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Phát hiện cơ chế phát quang của nấm và tạo ra các men phát quang
Các nhà khoa học Nga cùng với các đồng
nghiệp từ Anh, Tây Ban Nha, Braxin, Nhật
Bản và Áo đã mô tả đầy đủ cơ chế phát quang
của nấm. Theo đó, nấm chỉ sử dụng bốn loại
enzym chính để phát sáng và việc chuyển đổi
các enzym này thành các sinh vật khác làm
cho chúng phát quang sinh học.
![Page 34: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/34.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 34/58
Một số sinh vật sống có thể phát sáng
do các phản ứng hóa học đặc biệt xảy ra
trong cơ thể của chúng. Các sinh vật này
được gọi là sinh vật phát quang sinh học,
chẳng hạn đom đóm, sứa và sâu. Các sinh vật
sử dụng khả năng này để thu hút con mồi,
dọa những kẻ săn mồi, giao tiếp hoặc ngụy
trang. Các nhà khoa học đã xác định được
rằng hàng nghìn sinh vật phát quang sử dụng
tổng cộng khoảng 40 cơ chế hóa học khác
nhau để phát sáng. Hầu hết các cơ chế này
chỉ được nghiên cứu một phần.
Việc giải mã cơ chế phát quang của
nấm đã được thực hiện trong nhiều năm
nghiên cứu trước đây trên thực địa. Vào đầu
thế kỷ 19, người ta phát hiện ra rằng sợi nấm
làm cho cây phát sáng. Đến năm 2009,
Anderson G. Oliveira và Cassius V. Stevani,
đồng tác giả của bài báo này, đã khám phá ra
tất cả các loại nấm phát quang đều có chung
một cơ chế sinh hóa. Trong giai đoạn 2015-
2017, nhóm nghiên cứu ở Nga đứng đầu là
Ilia Yampolsky, đã thực hiện rất nhiều khám
phá quan trọng. Đặc biệt, nhóm nghiên cứu
đã xác định được cấu trúc của luciferin, phân
tử phát sáng khi bị oxy hóa. Trong nghiên
cứu mới, các nhà khoa học đã phát hiện một
tập hợp enzym tạo ra phân tử này, cũng như
luciferase, enzym phát quang.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng nhiều
loại tế bào để kiểm tra hoạt tính của
luciferase, bao gồm các tế bào ung thư ở
người và phôi ếch móng (clawed frog). Trong
tất cả các trường hợp, nhóm nghiên cứu đã
thu kết quả tích cực: gen được đưa vào hoạt
động trong tế bào, sẽ phát quang khi được bổ
sung luciferin.
Hệ thống phát quang của nấm đơn giản
một cách đáng ngạc nhiên. Các nhà khoa học
đã phát hiện ra các enzym thực hiện “chu
trình axit caffeic” trong các tế bào nấm: con
đường cho quá trình sinh tổng hợp luciferin
và phát xạ ánh sáng. Hoạt động của các
enzym này là cần thiết và đủ cho bất kỳ sinh
vật nào sản sinh caffeic-acid cũng có thể phát
quang. Và nếu một sinh vật không chứa axit
caffeic, khả năng phát quang của nó có thể
được tạo ra bằng cách bổ sung hai enzym, mà
các tác giả đã chứng minh bằng cách biến đổi
chủng nấm men phát quang trong bóng tối.
Yuliana Mokrushina, đồng tác giả
nghiên cứu cho rằng phát hiện mở ra cơ hội
cho nghiên cứu cơ bản theo hướng mới, như
trong sinh thái nấm hoặc trong vật lý quang
học của enzym, cũng như phát triển công
nghệ phân tử mới.
Hệ thống mới có thể được sử dụng để
quan sát nhiều quá trình sinh học như theo dõi
sự phát triển của khối u và di chuyển của các
tế bào ung thư, cũng như bào chế thuốc mới.
Theo vista.gov.vn, 30/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Y DƯỢC
Liệu pháp điện xung cột sống giúp người bị liệt khỏi bệnh
Nguồn: arstechnica.com
Đa phần bệnh nhân bại liệt đều cảm
thấy tù túng từ khi tai nạn cướp đi khả năng
đi lại trên chính đôi chân của mình và cuộc
sống của họ phải gắn liền trên chiếc xe lăn.
Tuy nhiên, với đột phá trị liệu mới,
liên quan đến việc sử dụng liệu pháp điện
xung cột sống, được các nhà nghiên cứu Thụy
Sĩ thử nghiệm trong nhiều năm qua, các bệnh
nhân bị liệt có thể lại tự bước đi trên chính
![Page 35: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/35.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 35/58
đôi chân của mình, mở ra những hy vọng về
một cuộc sống mới cho họ.
Để thu được kết quả trên, một nhóm
các nhà khoa học gồm các nhà giải phẫu thần
kinh và kỹ sư đã nghiên cứu và thử nghiệm
trong hơn 10 năm liệu pháp điện xung mục
tiêu kích thích các cơ riêng lẻ theo đúng trình
tự vận hành của não bộ. Các xung điện này có
được là nhờ một thiết bị được cấy vào cột
sống liên kết chặt chẽ với những vùng kiểm
soát các cơ ở phần dưới cơ thể.
Theo nhà khoa học thần kinh Gregoire
Courtine, sau vài tháng áp dụng liệu pháp
xung điện mục tiêu, cả 3 bệnh nhân tham gia
thử nghiệm đã có thể vận động các cơ bị liệt
mà không phải kích thích điện. Điều đáng
ngạc nhiên là tất cả đã có thể tự bước đi mà
không cần bất kỳ sự hỗ trợ nào, kể cả đôi tay.
Các nhà nghiên cứu cho rằng việc sử
dụng liệu pháp điện xung mục tiêu, kết hợp
với chương trình trị liệu tích cực, dường như
đã phát huy hiệu quả trong việc phục hồi các
liên kết thần kinh vốn đã bị mất đi khi bệnh
nhân bị thương.
Trong quá trình điều trị, các nhà
nghiên cứu bắt đầu quá trình xung điện hướng
vào một cơ nhằm thôi thúc bệnh nhân bắt đầu
di chuyển. Các cảm ứng trên chân phát hiện
chuyển động nay như giai đoạn ban đầu của
một bước đi. Sau đó, các nhà khoa học tiếp
tục tiến hành các xung điện mục tiêu nhằm
kích thích các chuyển động cơ cần thiết để
hoàn thành bước đi. Trong suốt quá trình lặp
đi lặp lại, các bệnh nhân đã nghĩ về việc di
chuyển các cơ và bước đi.
Do các tế bào thần kinh trong não
được kích thích gần như cùng lúc với xung
điện, nên liệu pháp này được cho là đã "kết
nối lại" não bộ với cơ. Chính vì vậy, bệnh
nhân có thể chỉ huy cơ chuyển động mà
không cần xung điện.
Nghiên cứu này đã nhận được đánh giá
cao từ các chuyên gia thần kinh, gọi đây là
"bước nhảy khổng lồ" trong việc điều trị chấn
thương tủy sống.
Tuy nhiên, nhà khoa học thần kinh
Courtine cảnh báo vẫn phải nghiên cứu và
điều chỉnh liệu pháp trên, bởi cả ba bệnh nhân
mới chỉ bước được các bước đi ngắn và vẫn
dựa chủ yếu vào xe lăn.
Công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ
này được công bố trên tạp chí Nature số ra
ngày 31/10.
Theo vietnamplus.vn, 01/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Cánh tay sinh học điều khiển bằng tín hiệu não
Các nhà khoa học Áo đã giới thiệu một
cánh tay giả có thể được điều khiển bằng ý
nghĩ, đem lại nhiều triển vọng mới cho những
người khuyết tật.
Đối với những người bình thường thì
đánh răng, cạo râu là chuyện đơn giản. Nhưng
với anh Edmund Rath, người mất cánh tay
trái trong tai nạn xe tải năm ngoái, thì
đây chẳng khác gì một thách thức trớ trêu.
May thay, vào tháng 5 vừa qua anh
được các bác sĩ phẫu thuật ở Áo lựa chọn là
người đầu tiên tham gia ca phẫu thuật gắn tay
giả có thể dùng các tín hiệu não để điều
khiển.
Edmund Rath có thể điều khiển cánh tay sinh học bằng tín hiệu từ não bộ. Cùng lúc, cánh tay này
còn có thể gửi tín hiệu theo hướng ngược lại
Quy trình này vốn được biết đến với
tên gọi tích hợp xương (osseointegration, gọi
![Page 36: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/36.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 36/58
tắt là OI), gồm cấy một thanh kim loại vào
xương trên phần tay còn lại của Rath. Thanh
kim loại này có mối nối bên ngoài với cẳng
tay giả sau đó sẽ được các bác sĩ gắn vào bắp
tay cho anh.
Trong ca phẫu thuật được truyền hình
trực tiếp, các bác sĩ đã lấy những dây thần
kinh từng được sử dụng để điều khiển cánh
tay của Rath rồi nối chúng với phần cơ trên
bắp tay còn lại. Các bác sĩ gọi quy trình này
là phục hồi chức năng thần kinh của các vùng
cơ cụ thể.
Và nhờ đó, khi anh nghĩ tới việc di
chuyển bàn tay, các cơ trên bả vai của anh co
lại và được các điện cực trong cánh tay giả
nhận biết từ đó giúp anh thực hiện những cử
động có chủ đích. Hơn nữa, cánh tay này còn
có thể gửi tín hiệu theo hướng ngược lại.
Cánh tay sinh học do các nhà khoa học Áo chế tạo hiện có thể giúp người dùng thực hiện 6 chức
năng, trong đó có nắm và mở bàn tay
Anh Edmund Rath vui mừng chia
sẻ: “Tay giả thông thường sẽ không đem đến
sự tự do nào cả. Bạn gần như chẳng thể di
chuyển chúng ra sau, ra trước hay sang trái
hoặc phải. Nhưng với cánh tay này tôi có thể
cử động giống như tay thật vậy. Giờ đây tôi
đã có thể nâng cả cánh tay lên qua đầu để mặc
áo rồi. Thậm chí tôi còn có thể gập khuỷu tay
vào nữa này”.
Sau gần 6 tháng lắp tay sinh học điều
khiển bằng tín hiệu não, Rath đã có thể thực
hiện được 6 chức năng khác nhau của cánh tay
đặc biệt này, trong đó có nắm và mở bàn tay.
"Tôi không có ý định thay đổi cả thế
giới, nhưng mỗi ngày, việc luyện tập để có
thể điều khiển cánh tay thuần thục là mục tiêu
của tôi. Tôi mong muốn có thể tự mình chăm
sóc bản thân càng nhanh càng tốt”,
anh Edmund Rath nói.
Trên thế giới hiện có hàng triệu người
đang sống trong cảnh mất tay hoặc chân,
trong đó riêng ở Mỹ đã là 2 triệu người. Con
số này được dự đoán còn tăng cao hơn do các
căn bệnh thường thấy như tiểu đường.
Các nhà khoa học Áo cho biết, bước
tiếp theo sẽ là hoàn thiện và đưa vào thử
nghiệm lâm sàng hệ thống phản hồi xúc giác
trên cánh tay, qua đó, bệnh nhân sẽ dễ dàng
cảm thấy sự khác biệt giữa các loại bề mặt,
hay vật đang cầm nắm.
Kỹ thuật OI lần đầu tiên được nhà
nghiên cứu người Thụy Điển Per-Ingvar
Branemark phát minh vào những năm 1950
và chủ yếu được dùng trong phẫu thuật ghép
xương răng. Một đặc điểm của kỹ thuật OI là
người dùng có thể có cảm thụ được một số
cảm giác từ những rung động cơ học trong
xương hàm của họ nhưng hiện chưa có kỹ
thuật tương ứng để khôi phục xúc giác.
Theo khampha.vn, 03/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Đĩa đệm sinh học mới được phát triển từ chính các tế bào của người bệnh
Đau lưng và cổ thường là do các đĩa
đệm bị thoái hóa tiến triển tách rời đốt sống
cột sống. Nhờ nghiên cứu đa ngành mới,
chúng ta có thể sớm có giải pháp tốt hơn cho
vấn đề này: đĩa đệm sinh học được phát triển
từ các tế bào của chính người đó.
Sự thoái hóa đĩa đệm giữa là một vấn
đề phổ biến ảnh hưởng đến rất nhiều người.
Thông thường các đĩa đệm khỏe mạnh có tác
dụng giúp cơ thể vận động linh hoạt hơn cũng
như chịu lực và giảm chấn động, xóc khi cơ
thể vận động. Nếu đĩa đệm bị mòn, nó có thể
![Page 37: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/37.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 37/58
gây đau ở các vùng khác nhau của lưng hoặc
cổ của một người.
Các phương pháp điều trị thoái hóa đĩa
đệm hiện nay giữa bao gồm chủ yếu là thực
hiện phẫu thuật tổng hợp cột sống và thay thế
các đĩa bị hư hỏng bằng đĩa nhân tạo. Tuy
nhiên, những cách tiếp cận này mang lại lợi
ích hạn chế bởi vì chúng không thể khôi phục
đầy đủ chức năng của đĩa đệm, phẫu thuật
thay thế đĩa đệm là rất khó. Các bác sĩ phẫu
thuật phải cẩn thận lấy hết đĩa đệm cũ, nếu
không đóng đĩa đệm nhân tạo sẽ chèn vào tủy
sống gây đau đớn hoặc liệt.
Hiện tại, một nhóm nghiên cứu đa
ngành của Trường Đại học Y Perelman thuộc
Trường Đại học Pennsylvania, Trường Kỹ
thuật và Khoa học Ứng dụng, và Trường Đại
học Thú y phối hợp cùng nghiên cứu phát
triển các đĩa đệm sinh học được tạo ra từ các
tế bào gốc của một cá nhân nhằm mục đích
giải quyết vấn đề này.
Tế bào gốc là các tế bào có khả năng
"biến đổi" thành bất kỳ tế bào chuyên biệt
nào. Đó là lý do tại sao nó trở thành trọng tâm
của nhiều nghiên cứu y học, bao gồm cả
nghiên cứu hiện tại.
Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại
học Pennsylvania đã nghiên cứu về các mô
hình đĩa sinh học trong phòng thí nghiệm sau
đó trong các nghiên cứu động vật nhỏ và gần
đây nhất trong các nghiên cứu động vật lớn
suốt 15 năm qua.
Giáo sư Robert L.Mauck, đồng tác giả
cao cấp của nghiên cứu này cho biết: “Đây là
một bước tiến quan trọng. Việc phát triển một
đĩa lớn trong phòng thí nghiệm để đưa nó vào
không gian trên đĩa và sau đó để nó bắt đầu
tích hợp với mô tự nhiên xung quanh là một
thành công đầy hứa hẹn”.
“Các tiêu chuẩn chăm sóc hiện tại
không thực sự khôi phục được đĩa đệm, vì vậy
chúng tôi hy vọng rằng với thiết bị đĩa đệm
sinh học này có thể phục hồi lại chức năng và
lấy lại đầy đủ các chuyển động cho khớp”,
ông nhấn mạnh.
Các nghiên cứu trên động vật thành
công cho đến nay
Trước đây, các nhà nghiên cứu đã thử
nghiệm các đĩa đệm mới có tên gọi là “cấu
trúc lớp góc cạnh giống như đĩa đệm”
(DAPS) ở đuôi chuột trong thời gian 5 tuần.
Trong nghiên cứu mới, có kết quả
công bố trên tạp chí Science Translational
Medicine, cho thấy nhóm nghiên cứu đã phát
triển thêm các đĩa được thiết kế tân tiến hơn
so với đĩa đệm cũ, được đặt tên là DAPS sửa
đổi đầu mút (endplate-modified DAPS). Sau
đó họ đã thử nghiệm trên chuột một lần nữa,
thời gian thử nghiệm là 20 tuần. Kết quả sau
thử nghiệm cho thấy, cấu trúc mới của đĩa
sinh học cho phép nó giữ được hình dạng tốt
hơn, và tích hợp dễ dàng hơn với các mô
xung quanh.
Sau khi kiểm tra một số mô sâu và
phân tích cơ học kết hợp dùng quét MRI, các
nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, trong mô
hình chuột, eDAPS đã khôi phục lại cấu trúc
và chức năng đĩa gốc một cách hiệu quả.
Thành công ban đầu này đã thúc đẩy
nhóm nghiên cứu thực hiện thử nghiệm
eDAPS ở những con dê và cấy thiết bị vào
các gai cột sống cổ tử cung của một số loài
động vật khác. Họ giải thích rằng, chọn thử
nghiệm trên dê là do đĩa phình trong cột sống
cổ tử cung loài này có kích thước tương tự
như ở người. Hơn nữa, dê có tầm vóc bán
thẳng đứng, cho phép các nhà nghiên cứu đưa
nghiên cứu của họ tiến gần hơn đến các thử
nghiệm trên người.
Hy vọng mới cho các bệnh nhân thoái
vị đĩa đệm
Các thử nghiệm này của các nhà
nghiên cứu trên dê cũng rất thành công. Họ
nhận thấy rằng eDAPS tích hợp tốt với các
![Page 38: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/38.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 38/58
mô xung quanh và chức năng cơ học của đĩa
ít nhất là phù hợp (không nói là vượt trội) với
đĩa cổ tử cung ban đầu của dê. Bước tiếp theo
sẽ bao gồm tiến hành thử nghiệm sâu hơn,
rộng hơn ở dê, điều này sẽ cho phép các nhà
khoa học hiểu rõ hơn về hoạt động của
EDAPS. Họ cũng lên kế hoạch thử nghiệm
eDAPS trong các mô hình thoái hóa đĩa đệm
ở người, do đó hy vọng sẽ tiến gần hơn đến
các thử nghiệm lâm sàng.
Theo vista.gov.vn, 29/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Phát hiện chất ức chế viêm mới
Một nhóm các nhà nghiên cứu đa
ngành dẫn đầu là các nhà khoa học tại Viện
Karolinska ở Thụy Điển đã tạo ra một phân tử
thuốc kháng viêm có cơ chế hoạt động mới.
Bằng cách ức chế một loại protein nhất định,
nhóm nghiên cứu có thể làm giảm các tín hiệu
kích ứng tình trạng viêm. Nghiên cứu đã được
công bố trên tạp chí Science, được thực hiện
phối hợp với trường Đại học Texas, Đại học
Uppsala và Đại học Stockholm.
GS. Thomas Helleday tại Khoa Ung
thư-Bệnh học thuộc Viện Karolinska, Thụy
Điển và là trưởng nhóm nghiên cứu cho biết:
“Chúng tôi đã phát triển được một phân tử
thuốc mới ức chế viêm. Nó tác động đến
protein mà chúng tôi tin rằng là cơ chế chung
cho tình trạng viêm diễn ra trong tế bào”.
Phát hiện này là kết quả của nhiều năm
nghiên cứu về cách cơ thể sửa chữa ADN.
Một trong những mục tiêu là để chống ung
thư bằng cách gây tổn thương ADN của các
tế bào khối u. Một số kết quả đột phá theo
báo cáo đã dẫn đến liệu pháp mới cho ung thư
vú và ung thư buồng trứng bẩm sinh thông
qua sử dụng chất ức chế PARP sẵn có trong
vài năm qua.
Giờ đây, nhóm nghiên cứu đã tạo ra
được một phân tử mới để ức chế enzym giúp
sửa chữa tổn thương oxy cho ADN với khả
năng giảm viêm. Enzym OGG1 được xem ra
ngoài sửa chữa ADN, còn gây viêm.
Chất ức chế ngăn chặn giải phóng các
protein gây viêm như TNF alpha. Trong các
thử nghiệm trên chuột bị bệnh phổi cấp tính,
các nhà nghiên cứu đã giảm viêm thành công
cho chuột.
GS. Helleday cho rằng: "Phát hiện này
có thể cho ra đời một liệu pháp mới điều trị
bệnh rất nặng. Chúng tôi sẽ phát triển chất
ức chế OGG1 để kiểm tra xem liệu nó có thể
dẫn đến phương pháp điều trị mới cho các
bệnh viêm nhiễm để chữa trị hoặc giảm các
bệnh như nhiễm trùng huyết, bệnh phổi tắc
nghẽn mãn tính (COPD) và hen suyễn nặng".
Theo vista.gov.vn, 22/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Phân tử chống lão hóa' có thể cải thiện phương pháp điều trị gan và thận
Các nhà khoa học đã tiết lộ rằng một
loại enzyme có mặt trong gan và thận gây ức
chế hoạt động của một phân tử đóng một vai
trò quan trọng của quá trình chuyển hóa và
tuổi thọ của tế bào. Nghiên cứu của họ cho
thấy rằng việc ngăn chặn enzyme này có thể
là một cách bảo vệ sức khỏe của các cơ quan
này.
Nicotinamide adenine dinucleotide
(NAD +) được gọi là "phân tử chống lão hóa"
![Page 39: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/39.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 39/58
bởi vì nghiên cứu đã chỉ ra rằng nồng độ của
nó giảm dần theo tuổi tác và việc khôi phục
chúng có thể duy trì khoẻ mạnh nhiều năm,
kéo dài tuổi thọ.
Sự gia tăng phân tử “chống lão hoá” có thể thúc đẩy điều trị các bệnh gan và thận
Phân tử này đóng một vai trò quan
trọng trong các quá trình sinh học giúp tế bào
có được năng lượng và duy trì sức khỏe,
chẳng hạn như trao đổi chất, sửa chữa DNA,
biểu hiện gen và tín hiệu tế bào.
Các nhà khoa học phân lớp NAD +
như một coenzyme, có nghĩa là nó không
hành động một mình mà còn giúp các enzym
thúc đẩy các quá trình phát triển tế bào quan
trọng này. Một nhóm enzym mà NAD+ có
liên kết mật thiết đó là sirtuins.
Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng khi
NAD+ giảm theo độ tuổi, nó làm giảm hoạt
động của sirtuin theo những chiều hướng ảnh
hưởng đến sự giao tiếp giữa nhân tế bào và ty
thể của nó (là những ngăn nhỏ xíu tạo ra năng
lượng cho tế bào).
Nghiên cứu gần đây, École
Polytechnique Fédérale de Lausanne (EPFL)
của Thụy Sĩ, đã được công bố trên tạp chí
Nature, đã xác định được hai hợp chất có thể
khôi phục mức NAD + bị suy giảm dần trong
gan và thận.
Các tế bào tổng hợp NAD+ từ đầu
bằng cách sử dụng tryptophan axit amin làm
các khối kiến tạo chính.
Quá trình tổng hợp de novo (tổng hợp
mới) đòi hỏi sự hiện diện của một số enzyme,
bao gồm cả một enzzym có tên gọi là
aminocarboxymuconate-semialdehyde
decarboxylase (ACMSD), có tác dụng hạn
chế việc sản xuất NAD+.
Nhóm nghiên cứu mô tả được cách
thức mà ACMSD kiểm soát mức NAD +
trong các tế bào. Họ đã chứng minh cho thấy
cơ chế này giống nhau ở cả loài
Caenorhabditis elegans (giun tròn) và chuột,
và việc ‘đóng’ ACMSD làm tăng hoạt động
của cả NAD+ và ty thể.
Thuốc ức chế ACMSD có chọn lọc
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng
việc ngăn chặn ACMSD cũng làm tăng hoạt
động của một trong những sirtuins mà NAD +
làm việc cùng với nó. Mức hoạt động sirtuin
cao kết hợp với sự tổng hợp NAD + gia tăng
làm thúc đẩy hoạt động các ty thể.
Nhóm nghiên cứu sau đó đã thử
nghiệm hiệu quả của hai chất ức chế ACMSD
có chọn lọc trong các mô hình động vật mắc
bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và tổn
thương thận. Cả hai hợp chất này cho thấy có
sự "duy trì bảo tồn" chức năng gan và thận.
Elena Katsyuba, Viện Interfaculty về
Bioengineering tại EPFL, tác giả nghiên cứu
nói: “Do enzyme được tìm thấy chủ yếu ở
thận và gan nên chúng tôi muốn kiểm tra khả
năng của các chất ức chế ACMSD để bảo vệ
các cơ quan này khỏi bị thương”.
Vì ACMSD không xảy ra ở những bộ
phận khác trong cơ thể, phát hiện này có thể
mở đường cho một phương pháp điều trị bảo
vệ làm tăng NAD + mà không ảnh hưởng đến
các cơ quan khác.
Theo vista.gov.vn, 22/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Da nhân tạo từ vi tảo, cung cấp oxi giúp vết thương mau lành
Loại da mới từ các vi tảo, thường được
tìm thấy trong sông, suối, ao hồ, có thể quang
hợp và sản sinh ra oxi, nhờ đó tái tạo những
vùng da bị tổn thương.
![Page 40: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/40.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 40/58
Tại buổi diễn thuyết ở trường đại học
Santiago de Chile, nhà khoa học Egaña, tiến
sĩ chuyên ngành Sinh học người và Dược lý,
đã lý giải rằng, sau 8 năm phân tích và thử
nghiệm trên chuột, lợn và cá, ông đang lên kế
hoạch cho các cuộc thử nghiệm lâm sàng trên
người ở bệnh viện Hospital del Salvador, thủ
đô Santiago với 20 bệnh nhân bị các thương
tổn hở trên da.
“Giai đoạn này sẽ kéo dài khoảng 6
tháng. Một bước đi nhỏ nhưng vô cùng quan
trọng để có thể kiểm nghiệm sự an toàn của
công nghệ. Nếu an toàn, chúng ta có thể áp
dụng công nghệ này cho nhiều loại bệnh nhân
khác trong đó có cấy ghép nội tạng và các
bệnh nhân bị ung thư’, tiến sĩ Egaña cho biết.
Nhà khoa học Tomas Egaña mô tả công trình nghiên cứu của mình ở trường
đại học Santiago de Chile hôm 15/11 vừa qua
Nghiên cứu mở ra những hy vọng mới
trong kỹ thuật ghép da nhờ vào việc cấy vi
tảo đã được chỉnh sửa gen để sản xuất oxi, và
nhờ đó tái tạo những vùng da bị tổn thương.
“90% tế bào trên cơ thể của chúng ta
không hẳn là… con người. Cơ thể người là
một hệ thống sinh thái thực sự nơi các vi sinh
vật và các tế bào người cùng tồn tại. Điều
chúng ta muốn xác định là chuyện gì sẽ xảy
ra trong cơ thể nếu chúng ta cấy các vi tảo có
thể quang hợp này lên da”, tiến sĩ Egaña phát
biểu trong bài thuyết trình.
Quang hợp là quá trình mà theo đó
thực vật phá vỡ các phân tử nước nhờ vào
nguồn năng lượng từ ánh sáng mặt trời, từ đó
nhả ra oxi, phụ phẩm mà bất cứ loài sinh vật
sống nào trên Trái Đất cũng cần đến, nhà
khoa học Chile cho biết.
“Câu hỏi phức tạp là chúng ta thu được
gì nếu chúng ta có thể mô phỏng quá trình
này trong điều trị bệnh khi mà có quá nhiều
bệnh sinh ra do thiếu oxi như xuất huyết, các
cơn đau tim và các thương tổn lớn không
lành?”, tiến sĩ Egaña nói thêm.
Miếng da quang hợp màu xanh từ vi tảo hứa hẹn giúp vết thương mau lành hơn
Giai đoạn thứ 2 của nghiên cứu sẽ ứng
dụng công nghệ này trong các ca cấy ghép
nội tạng để nội tạng có thể sống lâu hơn khi
nằm ở ngoài cơ thể, và trong điều trị ung thư
nhằm “tẩy” các tế bào ung thư trên diện rộng.
Mục tiêu chủ yếu của các thử nghiệm
lâm sàng đầu tiên này là tìm cách ngăn sự đào
thải của cơ thể đối với phần da quang hợp
được cấy ghép và theo đó, 6 tháng thử
nghiệm cũng sẽ quyết định phạm vi ứng dụng
tiềm năng của kỹ thuật này trong các lĩnh vực
y khoa khác.
Ý tưởng này xuất hiện sau khi tiến sĩ
Tomas Egaña nhận thấy, vết thương trên diện
rộng khó lành là do không được cung cấp oxi
đầy đủ từ mạch máu khiến quá trình oxi hóa
xảy ra chậm. Vật liệu quan trọng làm nên da
nhân tạo này là các vi tảo thường được tìm
thấy trong nguồn nước ngọt từ sông, suối, ao
hồ. Trong nghiên cứu ban đầu, da nhân tạo từ
vi tảo chỉ có tuổi thọ 10 ngày nhưng cũng đủ
để phục hồi vết thương trên diện rộng.
Theo khampha.vn, 24/11/2018
Trở về đầu trang
**************
![Page 41: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/41.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 41/58
Tụy nhân tạo thông minh, tương lai cho bệnh nhân tiểu đường
Với thiết bị mới này, bệnh nhân tiểu
đường loại 1 sẽ thoát khỏi chiếc ống tiêm, thoát
khỏi mọi lo lắng về mức độ insulin gây ra nguy
cơ hạ đường huyết.
Diabeloop, một công ty khởi nghiệp của
Pháp sắp đưa ra thị trường tuyến tụy nhân tạo
đầu tiên trên thế giới. Trong buổi ra mắt trước
giới truyền thông mới đây, ông Erik
Huneker, người sáng lập Diabeloop, cho
biết thiết bị được thiết kế dành cho bệnh nhân
tiểu đường loại 1 và hiện đã được châu Âu cấp
chứng nhận CE. Đây là chứng nhận dành cho
các sản phẩm thích hợp cho sức khỏe, an toàn
và thân thiện với môi trường.
Toàn bộ tuyến tụy nhân tạo DBLG1, bao gồm máy bơm tự động điều chỉnh mức độ insulin, bộ cảm biến theo dõi đường máu và hệ điều hành bỏ túi
chỉ nhỏ như một chiếc điện thoại
Được biết chỉ riêng tại Pháp, có tới 10 %
bệnh nhân tiểu đường loại 1 trong tổng số
những bệnh nhân tiểu đường, tức vào khoảng
300.000 người. Với thiết bị mới này, từ nay
những người này sẽ thoát khỏi chiếc ống tiêm,
thoát khỏi mọi lo lắng về mức độ insulin gây ra
nguy cơ hạ đường huyết có thể dẫn tới hôn mê
hoặc các nguy cơ biến chứng nghiêm trọng lâu
dài.
Thiết bị có tên "Hệ thống DBLG1", bao
gồm một máy bơm chỉ nhỏ như hộp diêm quẹt
nhưng mỏng hơn dán trên cánh tay và một bộ
cảm biến được đặt tại khoang bụng.
Thông qua kết nối Bluetooth, thông tin
về đường máu được truyền đến phần thứ ba của
tuyến tụy nhân tạo, nằm trong túi của bệnh
nhân. Đây là một chiếc điện thoại thông minh
tinh vi và được cá nhân hóa, có nhiệm vụ phân
tích các thông tin từ cảm biến bằng các thuật
toán phức tạp có tính đến các thông số khác
nhau (trọng lượng của bệnh nhân, tác động
của tốc độ insulin...) và lượng đường trong
máu để máy bơm tự động điều chỉnh liều
insulin cần thiết.
Thiết bị vô cùng đơn giản, chỉ cần gắn lên cơ thể và bỏ vào túi hệ điều hành
Trong thực nghiệm lâm sàng trên 36
bệnh nhân tiểu đường loại 1 ở 9 trung tâm y tế
khác nhau tại Pháp cùng 60 bệnh nhân khác
bên ngoài bệnh viện, DBLG1 đã chứng minh
hiệu quả xuất sắc. GS. Eric Renard, điều phối
viên của Khoa Nội tiết, Tiểu đường và Dinh
dưỡng tại Bệnh viện Đại học Montpellier cho
biết, các cuộc thực nghiệm này nhằm để bảo
đảm rằng mọi bệnh nhân đều biết làm thế nào
để sử dụng thiết bị đúng cách và dễ dàng.
Hiện Diabeloop đang có kế hoạch
thương mại hóa DBLG1 vào quý 1/2019 không
chỉ tại châu Âu mà còn ra cả quốc tế. Song
song, họ cũng sẽ tiếp tục nghiên cứu và phát
triển những phiên bản mới có bộ cảm biến đơn
giản hơn để các bệnh nhân không chuẩn, không
nhạy cảm với paracetamol... có thể sử dụng.
Ngoài ra, trong phiên bản đầu tiên,
DBLG1 chỉ mới được thiết kế cho người lớn,
do vậy họ sẽ điều chỉnh thuật toán, phát triển
phần mềm cũng như thử nghiệm lâm sàng các
phiên bản khác cho thanh thiếu niên từ 13 - 18
tuổi và kế tiếp là phiên bản cho độ tuổi 6 - 12.
Tuy nhiên, Diabeloop cũng cho biết
thêm, để có được DBLG1, cần phải có toa của
bác sĩ chuyên khoa tiểu đường và bệnh nhân
phải tới bệnh viện để được thiết đặt.
Theo khampha.vn, 26/11/2018
Trở về đầu trang
**************
![Page 42: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/42.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 42/58
Máy quét y tế toàn thân đầu tiên trên thế giới cung cấp hình ảnh 3D
Sau hơn một thập kỷ phát triển, máy
quét y tế toàn thân đầu tiên trên thế giới đã tạo
ra những hình ảnh 3D đầu tiên về cơ thể con
người. Thiết bị đột phá này chụp ảnh với tốc
độ nhanh hơn gần 40 lần so với máy quét PET
hiện nay và có thể chụp hình ảnh 3D về toàn
bộ cơ thể người trong một lần quét nhanh.
Máy quét toàn thân mới có tên là
EXPLORER, kết hợp chụp cắt lớp phát xạ
positron (PET) và chụp cắt lớp vi tính (CT).
Sau nhiều năm nghiên cứu, mẫu máy quét thử
nghiệm có kích thước bằng con linh trưởng
đã được tiết lộ vào năm 2016. Sau khi mở
rộng thử nghiệm, thiết bị đầu tiên có kích
thước bằng con người đã được chế tạo vào
đầu năm 2018.
Nhờ hợp tác giữa các nhà khoa học tại
trường Đại học California, Davis và các kỹ sư
tại Trung tâm Chăm sóc sức khỏe hình ảnh
đặt ở Thượng Hải, những hình ảnh đầu tiên
về con người từ máy quét cuối cùng đã được
tiết lộ. Kết quả nghiên cứu được mô tả không
có gì đáng kinh ngạc và nhóm nghiên cứu cho
rằng máy quét EXPLORER có thể cách mạng
hóa cả nghiên cứu lâm sàng và chăm sóc bệnh
nhân.
Ramsey Badawi, giám đốc phụ trách y
học hạt nhân tại trường Đại học Y tế Davis
cho rằng: "Chúng tôi có thể thấy các đặc
trưng không có được trên các lần chụp PET
thông thường. Và chuỗi động cho thấy chất
đánh dấu phóng xạ di chuyển xung quanh cơ
thể ba chiều theo thời gian, gây nên ảo giác.
Không có thiết bị nào có thể thu thập dữ liệu
này ở người, nên đây là điểm thực sự mới".
Máy quét EXPLORER mới tạo nên
những cải tiến rõ nét so với các hệ thống chụp
hình hiện nay. Thiết bị quét nhanh, tạo ra
hình ảnh toàn thân chỉ trong khoảng 20 đến
30 giây, nên nhạy hơn 40 lần so với các hệ
thống quét thương mại hiện tại.
Điều này có nghĩa là máy quét có thể
cung cấp hình ảnh chi tiết bằng cách sử dụng
chất đánh dấu phóng xạ liều thấp hơn mức hiện
có. Độ nhạy cao hơn cho phép các bác sĩ lâm
sàng chụp hình một số mục tiêu phân tử vượt
quá giới hạn của các hệ thống quét hiện tại.
Simon Cherry, đồng tác giả nghiên cứu
cho biết: “Sự cân bằng giữa chất lượng hình
ảnh, thời gian thu nhận và liều bức xạ tiêm sẽ
không giống nhau đối với các ứng dụng khác
nhau, nhưng trong mọi trường hợp, chúng tôi
có thể quét hiệu quả, nhanh hoặc sử dụng bức
xạ liều thấp hơn”.
Có lẽ ứng dụng mới và thú vị nhất của
hệ thống quét này là khả năng chụp toàn bộ
hình ảnh của cơ thể trong các lần quét đơn
giản nhất. Hệ thống PET hiện nay về cơ bản
là chậm và không hiệu quả do phải quét cùng
một lúc từng phần của cơ thể. Trong khoảng
thời gian dài từ 30 đến 40 phút, tất cả những
hình ảnh kích thước nhỏ hơn được tổng hợp
thành hình ảnh 3D lớn hơn. Tuy nhiên, điều
này hạn chế đáng kể khả năng của các bác sỹ
lâm sàng trong việc đo lường tác động của vật
gì đó di chuyển trên toàn bộ cơ thể trong thời
gian thực.
Máy quét EXPLORER có triển vọng
cung cấp một loại hình chẩn đoán hoàn toàn
mới như để đo lưu lượng máu hoặc cách một
người hấp thụ đường glucose trong thời gian
thực trên toàn bộ cơ thể. Hệ thống hình ảnh
mới vẫn cần trải qua một số thử nghiệm và
xác minh trước khi chuyển sang sản xuất
thương mại.
Nghiên cứu mới sẽ được trình bày tại
Hội nghị thường niên Bắc Mỹ của Hiệp hội X
quang sắp tới diễn ra ở Chicago.
Theo vista.gov.vn, 28/11/2018
![Page 43: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/43.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 43/58
Trở về đầu trang
**************
Công nghệ quét mắt giúp chẩn đoán sớm bệnh Parkinson
Chẩn đoán bệnh Parkinson đang là một
thách thức đối với các bác sĩ. Những biện
pháp kiểm tra thần kinh phức tạp có thể giúp
nhận biết căn bệnh này sau khi các triệu
chứng xuất hiện. Tuy nhiên, việc phát hiện
bệnh sớm là rất quan trọng để chiến đấu tốt
hơn với hiện tượng thoái hóa thần kinh.
Một loạt nghiên cứu hiện nay đang tập
trung tìm kiếm một dấu ấn sinh học
(biomarker) hiệu quả và đáng tin cậy để giúp
chẩn đoán bệnh Parkinson. Xét nghiệm máu,
kiểm tra khứu giác và phân tích nước mắt đều
là các giải pháp tiềm năng, hỗ trợ bác sĩ chẩn
đoán bệnh trong những giai đoạn đầu. Tuy
nhiên, nhóm nghiên cứu tại Đại học Quốc gia
Seoul (Hàn Quốc) phát hiện đôi mắt có thể
tiết lộ những dấu hiệu rõ ràng về sự khởi phát
của bệnh Parkinson.
Các nhà khoa học nhận thấy, sự biến
mất các tế bào não sản xuất dopamine [đặc
điểm chính của bệnh Parkinson] dẫn đến sự
thưa thớt dần các tế bào thần kinh tại những
lớp bên trong của võng mạc. Để khám phá
mối tương quan này, nhóm nghiên cứu đã
tuyển chọn 49 người gần đây được chẩn đoán
là mắc bệnh Parkinson nhưng chưa bắt đầu
dùng thuốc. Họ được so sánh với một nhóm
kiểm soát khỏe mạnh – những người ở cùng
độ tuổi nhưng không mắc bệnh.
Nhóm nghiên cứu tiến hành quét mắt
với độ phân giải cao trên tất cả những người
tham gia. Họ phát hiện những người mắc
bệnh Parkinson có các lớp võng mạc mỏng
hơn so với đối tượng khỏe mạnh. Mức độ
mỏng của võng mạc có liên quan trực tiếp đến
mức độ nghiêm trọng của căn bệnh này. Kết
quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Neurology.
“Chúng tôi nhận thấy võng mạc càng
mỏng thì mức độ nghiêm trọng của bệnh
Parkinson càng lớn. Trong tương lai, các nhà
thần kinh học có thể sử dụng phương pháp
quét mắt đơn giản để phát hiện bệnh
Parkinson trong những giai đoạn sớm nhất,
trước khi xuất hiện các vấn đề nghiệm trọng
về cử động, thăng bằng và kiểm soát cơ của
bệnh nhân”, Jee-Young Lee, thành viên của
nhóm nghiên cứu, cho biết.
Nghiên cứu này đã bổ sung thêm nhiều
chứng cứ thuyết phục cho thấy một số bệnh
thoái hóa thần kinh như Parkinson,
Alzheimer, có thể được phát hiện thông qua
biện pháp kiểm tra mắt đơn giản.
Các nhà khoa học dự kiến sẽ tiến hành
xác minh kết quả trong một nhóm người lớn
hơn và theo dõi các đối tượng trong một thời
gian dài hơn. Họ hy vọng rằng, công nghệ
quét mắt không chỉ giúp các bác sĩ chẩn đoán
bệnh Parkinson, nó còn giúp đánh giá dễ dàng
mức độ hiệu quả của các phương pháp điều
trị Parkinson trong tương lai.
Bệnh Parkinsonthường gặp ở người
lớn tuổi, chỉ 10% trường hợp khởi phát bệnh
ở độ tuổi dưới 40. Tỷ lệ phát hiện bệnh
Parkinson trong giới trẻ ngày càng gia tăng.
Thống kê hiện nay trên thế giới có khoảng 6,3
triệu người mắc bệnh Parkinson.
Theo khoahocphattrien.vn, 17/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Nuôi cấy mô tim đập như tim thật
Nhờ thao tác với tế bào gốc, một nhóm
nghiên cứu tại Đức đã nuôi cấy thành công mô
tim nhân tạo có khả năng đập như tim thật.
Chỉ một chuỗi cơ tim nhỏ nhưng với
khả năng đập như vậy cũng có thể sẽ cứu
sống tới 33 triệu người – những trường hợp
mắc chứng rung tâm nhĩ, một trong những
![Page 44: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/44.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 44/58
loại bệnh rối loạn nhịp tim phổ biến nhất hiện
nay, song vẫn chưa có phương pháp điều trị
hiệu quả, một phần cũng do những khó khăn
mà các nhà khoa học gặp phải trong việc tách
tế bào cơ tim và lưu giữ trong thời gian đủ lâu
để phát triển và thử nghiệm các loại thuốc
mới. Vì thế, nhóm nghiên cứu của Đức đã đi
theo hướng nuôi cấy các chuỗi mô tim trong
phòng thí nghiệm – mô tim này không chỉ
khả năng biểu hiện gene và phản ứng với các
loại thuốc theo cách gần giống với tâm nhĩ tự
nhiên mà còn có thể đập giống như tim thật.
Khoảng hơn 33 triệu người trên khắp thế giới đang mắc chứng rung tâm nhĩ. Ảnh: Get Pumed
Để làm được điều này, các nhà khoa
học đã hoàn nguyên tế bào gốc đa tiềm năng
(hiPCSs) ở giai đoạn tế bào gốc, để từ đó có
thể thao tác hướng chúng phát triển thành bất
cứ loại mô nào trên cơ thể. Trong bài báo
công bố trên Tạp chí Stem Cell Reports,
nhóm nghiên cứu đã tạo ra mô tim nhĩ [giống
như của người] bằng cách xử lý hiPCSs trong
dung dịch axit retinoic toàn phần – một chất
được tạo thành từ vitamin A có tác dụng hỗ
trợ sự phát triển của tế bào. Nhờ đó, mặc dù
không cần phải nuôi cấy trong đĩa phẳng hai
chiều, nhưng nhóm vẫn tạo thành công chuỗi
mô 3D và cơ tâm nhĩ giống như thật.
Tới đây, các nhà khoa học sẽ tập trung
tìm cách sử dụng mô tim nuôi cấy để phát
triển phương pháp điều trị chứng rung tâm
nhĩ, như bằng thức ăn và thuốc. Trong thông
cáo báo chí, nhà nghiên cứu Marta Lemme
cho biết, việc nuôi cấy thành công chuỗi cơ
tâm nhĩ này đã mở ra rất nhiều triển vọng,
mặc dù vẫn cần phải cải thiện nhiều thêm nữa
để ngày càng trở nên giống như thật; vì vậy
sắp tới nhóm dự định sẽ thử nghiệm mô
phỏng loạn nhịp tim nhằm tìm ra cơ chế thay
đổi điện rung tâm nhĩ và các loại thuốc điều
trị tiềm năng mới.
Theo khoahocphattrien.vn, 23/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Nga thử nghiệm thành công tim nhân tạo
Ở giai đoạn thử nghiệm trên những con lợn nhỏ, các nhà khoa học đã đánh giá tác động của tim đối với máu và trên toàn bộ cơ thể khi tim hoạt
động ở các chế độ khác nhau - Ảnh: Maxpixel.net
Theo Rossiyskaya Gazeta, các nhà
khoa học ở Trung tâm nghiên cứu y học quốc
gia Nga đã thử nghiệm thành công trái tim
nhân tạo đầu tiên do Nga phát triển.
Kết quả, tim nhân tạo hoạt động liên
tục trong 6 tháng mà không bị trục trặc gì.
Đồng thời, không hề hình thành cục máu
đông và hồng cầu cũng không bị tổn thương.
Giám đốc Trung tâm phẫu thuật động
mạch chủ và động mạch vành Meshalkin
Alexander Chernyavsky nhận xét rằng bộ
phận chính trong thiết bị này là một động cơ,
nó phải hoạt động trong một thời gian dài, với
hiệu suất cao, không làm ấm và không gây ra
ma sát gia tăng.
Các thử nghiệm thành công đầu tiên
của thiết bị được thực hiện với máu tự nhiên,
với sự trợ giúp của các ống, kẹp và cảm biến
đặc biệt mô phỏng sự lưu thông máu ở người.
Các thử nghiệm đã chỉ ra rằng động cơ
đĩa dạng hoạt động với máu rất cẩn thận và
chứng tỏ mức độ tổn thương hồng cầu là thấp.
![Page 45: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/45.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 45/58
Sau đó, đến giai đoạn thử nghiệm trên những
con lợn nhỏ.
Bằng cách cấy ghép tim nhân tạo cho
động vật, các nhà khoa học đã đánh giá tác
động của tim đối với máu, trên toàn bộ cơ thể
khi tim hoạt động ở các chế độ khác nhau.
Trái tim nhân tạo dạng đĩa là một máy bơm
nhỏ. Động cơ quay đĩa, nhờ ma sát ở cấp độ
phân tử, tim hút máu và bơm máu trở lại vào
cơ thể.
Hệ thống tim nhân tạo này được chỉ
định dùng cho những người đang chờ ghép
tim. Tim nhân tạo sẽ cho phép giảm liều
thuốc chống đông máu và thuốc bảo vệ chống
lại cục máu đông mà bệnh nhân phải dùng.
Theo vista.gov.vn, 28/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Sử dụng vật liệu hydrogel siêu kết dính trong tái tạo mô
Các nhà nghiên cứu, khoa học trong
lĩnh vực y học hiện nay vẫn đang nỗ lực tìm
kiếm một loại vật liệu hydrogel tiên tiến có
tác dụng chữa lành những tổn thương như tổn
thương ở tim, tái tạo mô não hoặc nhanh
chóng đóng các vết thương chảy máu. Mới
đây, một nhóm các nhà khoa học tại trường
Đại học Bách khoa Liên bang Thụy Sĩ
(EPFL) đã phát triển thành công một dạng vật
liệu dạng gel siêu co giãn mới mà họ khẳng
định là có tính chất kết dính vô song, đặc biệt
hữu ích trong điều trị những chấn thương liên
quan đến các mô sụn và sụn chêm, giúp làm
liền nhanh vết thương.
Không giống như một số mô khác
trong cơ thể con người, mô sụn và sụn chêm
là những khu vực không được cung cấp máu
thường xuyên, hoặc thậm chí là không được
cung cấp máu, chính vì lẽ đó, những bộ phận
này không có khả năng tự tái tạo sau khi bị
tổn thương. Trong nhiều nghiên cứu trước
đây, các nhà khoa học đã tìm cách tiêm trực
tiếp vật liệu hydrogel trong đó có chứa thuốc
để vận chuyển tới các vị trí đích bị tổn
thương, tuy nhiên, vật liệu này có xu hướng
bị rửa trôi trong môi trường tự nhiên chứa
chất lỏng sinh học của cơ thể con người.
Trong nghiên cứu mới của mình, các
nhà khoa học đã mô tả vật liệu mới mà họ
khẳng định rằng có khả năng kết dính hiệu
quả. Vật liệu hydrogel mới có hàm lượng
nước cao (90%), cấu trúc của nó bao gồm một
mạng lưới liên kết ngang glycol
dimethacrylate cùng với alginate liên kết
ngang, được gia cố bằng cellulose
nanofibrillated.
Cấu trúc cuối cùng được đánh giá là có
độ kết dính cao gấp 10 lần so với các vật liệu
sinh học tổng hợp có sẵn trên thị trường. Do
chứa hàm lượng nước cao, vật liệu mới có
đặc tính tương đồng mạnh mẽ với các tế bào
mô sống tự nhiên bị tổn thương mà nó nhắm
đích. Nhưng quan trọng nhất, mức độ bám
dính của vật liệu tỏ ra đặc biệt hiệu quả theo
thời gian nhờ cấu trúc phân lớp độc đáo có
khả năng hấp phụ các ứng suất cơ học.
Dominique Pioletti, người đứng đầu
nhóm nghiên cứu cho biết: “Cấu trúc mạng
lưới kép phân phối năng lượng cơ học đến
toàn bộ vật liệu hydrogel, do đó, độ bám dính
của vật liệu được cải thiện ngay cả khi nó ở
trong trạng thái chịu lực nén cao hoặc bị kéo
giãn. Trong cấu trúc hydrogel thiếu các cơ chế
giảm xóc, các ứng suất cơ học tập trung vào
bề mặt liên kếtt giữa hydrogel và mô, nhờ đó,
hydrogel có khả thể tách rời khá dễ dàng".
Nhóm nghiên cứu đã thực hiện thử
nghiệm kết dính hydrogel vào một số mô tự
nhiên như mô sụn và sụn chêm trong phòng
![Page 46: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/46.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 46/58
thí nghiệm và họ tỏ ra khá lạc quan với kết
quả. Nhóm cho biết trong tương lai, họ sẽ tiến
hành thêm những nghiên cứu sâu rộng nhằm
thay thế các tấm hợp kim titan cấy ghép để cố
định xương bị gãy trong phẫu thuật chấn
thương chỉnh hình hoặc thay thế phương pháp
sử dụng chỉ khâu để vá vết thương hở, rách.
"Vật liệu mới của chúng tôi đã chứng
tỏ được tính chất cơ học ưu việt của nó.
Chúng tôi đang có kế hoạch trong tương lai
sẽ biến nó thành vật mang chở các tác nhân
đến vị trí nhắm đích nhằm chữa lành những
chấn thương liên quan đến sụn hoặc sụn
chêm", Pioletti chia sẻ.
Nghiên cứu đã được đăng tải trên tạp
chí Applied Materials & Interfaces.
Theo vista.gov.vn, 26/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Biến mô mỡ trắng thành mỡ nâu để chống béo phì
Khi đốt cháy 100g mô mỡ nâu, khoảng 3.400 calo được giải phóng, nhiều hơn mức hầu hết
mọi người nạp vào qua thức ăn và quá đủ để chống béo phì - Ảnh: EAST NEWS
Với phát hiện tác dụng của protein
BMP8b trong việc biến mô mỡ trắng thành
mô mỡ nâu bị đốt cháy nhanh, các nhà khoa
học Anh hy vọng sẽ phát triển một loại thuốc
mới tiềm năng giúp chống béo phì.
Theo trang web của Đại học
Cambridge (Anh), các nhà khoa học của
trường đã phân lập được protein BMP8b biến
mô mỡ thành chất béo nâu bị đốt cháy nhanh.
Ngoài ra, protein đó còn làm tăng hiệu quả
của các công cụ hiện có cho bệnh béo phì.
Cơ thể con người chứa 2 loại chất béo:
chất béo trắng lưu trữ calo và chất béo nâu
đốt cháy chúng trong quá trình sản xuất năng
lượng. Theo các nhà khoa học, chất béo nâu,
giàu các ty thể và mạch máu, có thể trở thành
một công cụ trong cuộc chiến chống béo phì.
Khi đốt cháy 100g mô mỡ nâu, khoảng
3.400 calo được giải phóng - nhiều hơn mức
hầu hết mọi người nạp vào qua thức ăn và quá
đủ để chống béo phì. Thật không may, không
giống như trẻ sơ sinh và động vật ngủ đông,
trong cơ thể người lớn có rất ít mỡ nâu. Ngoài
ra, ngay cả mô mỡ nâu hiện có cũng phải
được kích hoạt.
Hiện nay, các nhà khoa học chỉ biết 2
cách để làm điều này: dùng nhiệt độ lạnh để
tác động hoặc sử dụng các loại thuốc
adrenergic. Cả hai phương pháp đều khó chịu
và việc điều trị bằng thuốc cũng có nguy cơ
gây những cơn đau tim.
Một nhóm nghiên cứu từ Đại học
Cambridge tìm thấy một giải pháp thay thế:
một hợp chất có thể kích hoạt mỡ nâu mà
không gây tác dụng phụ. Protein có tên là
BMP8b lần đầu tiên được phân lập vào năm
2012. Các nhà khoa học khi đó phát hiện ra
rằng việc loại bỏ gien mã hóa chất này làm
gián đoạn chức năng của mỡ nâu ở chuột.
Trong công trình nghiên cứu mới với
thử nghiệm trên loài động vật gặm nhấm, các
nhà khoa học đã chứng minh được rằng sự gia
tăng nồng độ BMP8b biến một phần mô mỡ
trắng thành mỡ nâu. Ngoài ra, protein này còn
kích thích sự tăng trưởng của các mạch máu
và làm cho mỡ nâu nhạy cảm hơn với các tín
hiệu từ đầu cuối các dây thần kinh. Điều này
sẽ làm giảm liều thuốc adrenergic trong điều
trị béo phì, khiến liệu pháp hiệu quả hơn và
an toàn hơn. Trong tương lai gần, các nhà
khoa học dự định tiến hành thử nghiệm lâm
sàng protein BMP8b.
Trước đó, các nhà khoa học đã phát
hiện một loại protein khác cũng có thể giúp
điều trị bệnh béo phì là FGFBP3. Nó làm tăng
tốc độ trao đổi chất, khiến cho cơ thể tiêu tốn
![Page 47: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/47.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 47/58
lượng chất béo dự trữ nhanh hơn. Các đặc
tính độc đáo của loại protein này được phát
hiện một cách tình cờ, trong quá trình nghiên
cứu ung thư ở động vật gặm nhấm.
Theo motthegioi.vn, 29/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Anh bào chế loại thuốc nhỏ mũi ngừa bệnh viêm màng não mô cầu
Thuốc nhỏ mũi chứa vi khuẩn có lợi có thể ngăn ngừa sự phát triển của bệnh viêm màng não mô
cầu - Ảnh: The Daily Mail
Theo The Daily Mail, các nhà khoa học
tại Trung tâm nghiên cứu y sinh Southampton,
Anh, đang phát triển loại thuốc nhỏ mũi chứa vi
khuẩn có lợi có thể ngăn ngừa sự phát triển của
bệnh viêm màng não mô cầu. Hiện tại, thuốc
đang được thử nghiệm.
Các nhà khoa học đã đưa một gien vào
loài vi khuẩn an toàn Neisseria lactamica.
Gien đó giúp vi khuẩn Neisseria lactamica
lưu lại trong mũi (khiến vi khuẩn dễ dàng
bám vào tế bào niêm mạc hơn), gây ra một
phản ứng miễn dịch bảo vệ chống lại họ hàng
của chúng là vi khuẩn Neisseria meningitides
có thể gây bệnh viêm màng não.
Khoảng 10% người lớn có mang vi
khuẩn gây viêm màng não. Những vi khuẩn
này sống trong mũi hoặc cổ họng, mà không
có biểu hiện nào đặc biệt. Nhưng đôi khi
những vi khuẩn này xâm nhập vào dòng máu
và sau đó các vấn đề nghiêm trọng bắt
đầu.Theo Giáo sư Robert Read, giám đốc
trung tâm trên, nếu vi khuẩn Neisseria
lactamica tồn tại trong khoang mũi, thì không
còn chỗ nào cho các vi sinh vật nguy hiểm
xâm lấn nữa.
Mỗi năm ở Anh có 1.500 ca mắc bệnh
viêm màng não mô cầu, có thể gây tử vong
sau 4 giờ kể từ khi bắt đầu có triệu chứng.
Theo khoahocphattrien.vn, 29/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Tín hiệu vui cho những bệnh nhân đang điều trị ung thư não ác tính
Ảnh minh họa. (Nguồn: isramedic.co.il)
Các nhà nghiên cứu Israel đã phát triển
phương pháp điều trị hiệu quả glioblastoma,
một dạng ung thư não ác tính phổ biến nhất,
chiếm 17% tổng số các ca ung thư não hiện
nay trên thế giới.
Theo nghiên cứu của Đại học Hebrew
ở Jerusalem công bố ngày 31/10, phương
pháp mới phát triển sử dụng phân tử để ức
chế sự hình thành protein, một tác nhân quan
trọng cho sự phát triển của u nguyên bào.
Một trong những vấn đề trong điều trị
ung thư glioblastoma là việc xuất hiện hiện
tượng kháng hóa trị.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra
rằng các gien MKNK2 tạo ra 2 protein khác
nhau với hiệu ứng tương phản: Mnk2b, hoạt
động như một gene gây ung thư, và Mnk2a,
hoạt động như một gene ức chế ung thư.
Với phương pháp điều trị phân tử mới,
các phân tử dùng trong quá trình điều trị sẽ
chặn sự nhân rộng của Mnk2b trong các tế
bào ung thư.
![Page 48: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/48.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 48/58
Bằng cách này, nó làm giảm sản xuất
protein gây ung thư Mnk2b và làm tăng mức
độ của protein ức chế ung thư Mnk2a.
Điều này làm giảm hiện tượng kháng
hóa trị liệu ở các tế bào ung thư, qua đó tăng
hiệu quả điều trị khi kết hợp hóa trị với điều
trị phân tử.
Glioblastoma bắt nguồn từ các tế bào
thần kinh vốn làm nhiệm vụ hỗ trợ và bảo vệ
các tế bào thần kinh.
Ở những người bị ung thư, các tế bào
này có hiện tượng tự nhân rộng ồ ạt mà không
có kiểm soát. Những người bị chẩn đoán mắc
căn bệnh này thường chỉ sống được từ 11-27
tháng.
Phát hiện này được cấp bằng sáng chế
quốc tế và đang được tiếp thị trên toàn cầu
bởi công ty chuyển giao công nghệ "Yissum"
của Đại học Hebrew.
Nghiên cứu được hỗ trợ bởi Quỹ
Nghiên cứu và Phát triển Khoa học Đức-
Israel và Cơ quan Sáng tạo Israel.
Theo vietnamplus.vn, 01/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Sử dụng ánh sáng để tiêu diệt ung thư vú di căn
Liệu pháp ánh sáng mới có thể cải thiện đáng kể triển vọng cho những người bị ung thư vú
Tiến sĩ Nalinikanth Kotagiri thuộc
Trung tâm Ung thư Cincinnati ở Ohio vừa
nhận được Giải thưởng về việc nghiên cứu
việc sử dụng ánh sáng để nhắm vào các tế bào
ung thư ở giai đoạn cuối của ung thư vú. Các
nhà nghiên cứu giải thích những lợi ích của
liệu pháp ánh sáng cho ung thư vú di căn.
Do những tiến bộ hiện đại trong y học
và sự lan truyền của các chiến dịch nâng cao
nhận thức cộng đồng, triển vọng cho những
người bị ung thư vú hiện đang rất hứa hẹn.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS), tỷ lệ
sống 5 năm đối với những người bị ung thư
vú giai đoạn 0 hoặc giai đoạn I là gần 100%,
và đối với những người bị ung thư vú giai
đoạn II, khoảng 93%. Tuy nhiên, triển vọng
kém thuận lợi hơn đối với những người bị
ung thư vú có khối u đã lan sang các bộ phận
khác của cơ thể. Cụ thể, ACS ước tính tỷ lệ
sống 5 năm đối với những người bị ung thư
vú di căn là khoảng 22%.
Ba cách chính để giải quyết ung thư là
phẫu thuật, xạ trị và hóa trị. Tuy nhiên, các
tác dụng phụ của các liệu pháp này là đáng
kể, và khi các khối u đã lan rộng, nguy cơ độc
tính thậm chí còn cao hơn. Vì những lý do
này, các nhà khoa học đã làm việc chăm chỉ
trong việc tạo ra các liệu pháp mới, không
độc hại. Đó là sử dụng ánh sáng để kích hoạt
các loại thuốc chống ung thư. Tiến sĩ
Nalinikanth Kotagiri đã tìm cách điều tra ánh
sáng có thể được sử dụng để kích hoạt các
loại thuốc nhạy cảm có thể tiêu diệt tế bào
ung thư, để lại các tế bào khỏe mạnh còn
nguyên vẹn.
Các nhà nghiên cứu giải thích sự cần
thiết phải điều trị ung thư vú thay thế, đặc biệt
là khi ung thư đã lan đến tủy xương. Ung thư
vú di căn có thể được chẩn đoán là có tỷ lệ tái
phát và tử vong cao, và hiện tại không có
phương pháp điều trị hiệu quả. Mặc dù có
nhiều phương pháp điều trị mới hơn, nhiều
bệnh nhân vẫn không chống lại được căn
bệnh này. Những hạn chế lớn bao gồm việc
kháng thuốc để điều trị và những tác dụng
phụ nghiêm trọng do điều trị. Do vị trí phổ
biến của các tế bào ung thư vú, đặc biệt là
trong tủy xương, chứa các tế bào khối u cũng
như tế bào gốc uan trọng, nguy cơ độc tính
![Page 49: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/49.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 49/58
thậm chí còn cao hơn với các liệu pháp thông
thường. Các nhà nghiên cứu đi vào chi tiết
các cơ chế và lợi ích của liệu pháp ánh sáng.
Các liệu pháp như liệu pháp quang động
(PDT), liên quan đến ánh sáng và chất hóa
học được sử dụng kết hợp với oxy phân tử có
thể gây chết tế bào, cung cấp mức độ kiểm
soát cao được sử dụng hiệu quả để quản lý
ung thư từ giai đoạn đầu.
Nó hoạt động trên một nguyên tắc đơn
giản, là loại thuốc nhạy cảm với ánh sáng, vốn
không độc hại, được đưa vào một số mô có thể
gây chết tế bào khi được kích hoạt bởi ánh
sáng. Tiến sĩ Kotagiri giải thích, cũng có
những hạn chế hiện tại đối với liệu pháp ánh
sáng. Mặc dù có sự hỗ trợ của liệu pháp quang
động, nhưng chưa thể thâm nhập sâu vào mô,
do đó, việc sử dụng nó còn hạn chế. Ngoài ra,
các loại thuốc nhạy cảm ánh sáng hiện nay cần
oxy để có hiệu quả, nhưng nhiều khối u, bao
gồm khối u vú, có túi oxy thấp hoặc phát triển
các khu vực có oxy thấp hoặc vắng mặt, có thể
ngăn cản việc ứng dụng hiệu quả liệu pháp
quang động trong điều trị ung thư. Tuy nhiên,
nhóm nghiên cứu đã tìm ra cách khắc phục, họ
đã sử dụng tia cực tím (UV) từ hạt nhân phóng
xạ (hạt nhân phóng xạ hoặc nguyên tử), đã
được sử dụng để hình thành các khối u và mô,
và cố gắng giải quyết sự phụ thuộc oxy bằng
cách sử dụng nhạy cảm ánh sáng kim loại
thuốc cho liệu pháp quang động độc lập với độ
sâu và oxy. Bằng cách thay thế nguồn sáng bên
ngoài, chẳng hạn như laser và đèn, với ánh
sáng từ hạt nhân phóng xạ làm nguồn sáng 'nội
bộ', các nhà khoa học đã có thể kiểm soát tốt
hơn liệu pháp trong cơ thể. Điều này có nghĩa
là liệu pháp hiệu quả hơn với độc tính tối thiểu
cho các cơ quan và mô quan trọng. Vì các hạt
nhân phóng xạ được sử dụng trong chụp ảnh và
định vị các khối u, chúng ta có thể đồng thời
hình ảnh và điều trị di căn ung thư vú bằng
cách sử dụng cùng một hạt nhân phóng xạ.
Trong thời gian tới, Tiến sĩ Kotagiri và
các đồng nghiệp sẽ kiểm tra xem việc sử dụng
ánh sáng hạt nhân phóng xạ để kích hoạt các
loại thuốc chống ung thư nhạy cảm với ánh
sáng ở động vật có hiệu quả sẽ tiêu diệt các tế
bào ung thư di căn và điều trị. Nếu chứng
minh thành công, điều trị dựa trên ánh sáng
này có thể giúp ích cho bệnh nhân, vì nó có
khả năng cải thiện kết quả điều trị ngoài việc
thiết lập để điều chỉnh các loại thuốc nhạy
cảm với ánh sáng được FDA chấp thuận khác
như liệu pháp kích hoạt hạt nhân phóng xạ,
mở rộng phạm vi những loại thuốc này hiện
đang điều trị.
Theo vista.gov.vn, 02/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Công nghệ nhận diện ung thư bằng hạt nano giúp dễ dàng tìm ra “địa chỉ khu trú” của khối u
Các nhà nghiên cứu của Đại học Purdue đã phát triển thành công một kỹ thuật đưa các hạt nano đã được biến đổi polyol giúp chúng có thể xác định vị trí các tế bào ung thư và khối u nhờ vào việc kiểm tra các mạch máu xung quanh các khối u.
(Ảnh: Đại học Purdue)
Các nhà nghiên cứu của Đại học
Purdue đã phát triển thành công một công
nghệ nhằm giúp dễ dàng tìm ra 'địa chỉ khu
trú’ của khối u, đồng thời giảm bớt các tác
dụng phụ đau đớn của liệu pháp hóa trị trên
bệnh nhân. Phương pháp mới này được mô tả
chi tiết trên tạp chí công nghệ nano Small mới
đây.
Yoon Yeo, giáo sư dược phẩm công
nghiệp và vật lý tại Purdue, người đứng đầu
nhóm nghiên cứu cho biết: “Cách phương
pháp tiếp cận truyền thống tương tự như một
người bán hàng bán một gói hàng nào đó cho
![Page 50: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/50.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 50/58
một khách hành nào đó mà không hề hay biết
địa chỉ cụ thể của họ. Cách tiếp cận mới của
nhóm nghiên cứu sẽ cung cấp chỉ dẫn tìm ra
được địa chỉ cụ thể của ung thư sau đó cung
cấp các loại thuốc hóa trị liệu nhắm đích trực
tiếp đến vùng đó để điều trị nó”.
Theo báo cáo của trung tâm kiểm soát
và phòng ngừa dịch bệnh, mỗi năm có khoảng
650.000 bệnh nhân ung thư được hóa trị tại
một bệnh viện ung thư ngoại trú tại Hoa Kỳ.
Những bệnh nhân này có nguy cơ bị các tác
dụng phụ khác nhau có thể dẫn đến phải nhập
viện, làm gián đoạn lịch trình hóa trị và thậm
chí tử vong.
Phương pháp mà nhóm nghiên cứu
Purdue sử dụng là các hạt nano, đây được coi
là các hạt mang thuốc hứa hẹn cần thiết cho
hóa trị liệu nhắm vào các khối u. Nhóm đã
phát triển một kỹ thuật để giúp các hạt nano
biến đổi polyol để chúng xác định được vị trí
các tế bào ung thư và các khối u bằng cách
kiểm tra các mạch máu xung quanh các khối u.
Các hạt nano sau đó tương tác với
thành mạch máu để xâm nhập vào các khối u
và tiêu diệt chúng. Nhóm nghiên cứu cho biết
phương pháp này của họ sẽ giúp các hạt nano
thoát khỏi sự tuần hoàn và xâm nhập vào các
khối u và điều trị ung thư tốt hơn. Họ đã thử
nghiệm phương pháp này cho ung thư vú và
các mô hình khối u ác tính và tin rằng nó
cũng cho thấy hiệu quả đối với nhiều loại
khối u ung thư.
“Hầu hết bệnh nhân không chịu đựng
được khi trải qua liệu pháp hóa trị và chúng
tôi muốn thay đổi điều đó. Phương pháp của
chúng tôi nhắm mục tiêu tới các khối u nên sử
dụng liều lượng thấp hơn và các loại thuốc sẽ
ít gây hại cho các mô bình thường”, Yeo nói.
Công nghệ này được cấp bằng sáng
chế thông qua Văn phòng Thương mại Công
nghệ Purdue.
Theo vista.gov.vn, 22/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Ngăn tế bào khối u dịch chuyển có thể ngăn chặn ung thư di căn
Những hiểu biết mới về cách thức các
tế bào ung thư di chuyển có thể hỗ trợ rất
nhiều trong việc phát triển các phương pháp
điều trị để ngăn chặn sự di căn của ung thư.
Bằng mô hình thử nghiệm, các nhà
khoa học Trường Đại học Minnesota
(Minneapolis) đã ngăn chặn các tế bào ung
thư lan rộng, ngay cả sau khi các tế bào này
đã biến đổi chế độ di chuyển của chúng do đó
khả năng loại bỏ ung thư cao hơn nhiều nếu
bệnh không lan ra ngoài khối u chính.
Các tế bào ung thư là “lén lút” hoạt động, nhưng các nhà nghiên cứu vượt qua chúng
Có khoảng 90% ca bệnh tử vong liên
quan đến ung thư xảy ra do di căn (khối u
xâm nhập vào mô lân cận và lan sang các bộ
phận khác của cơ thể). Việc điều trị ngừng
các tế bào ung thư hoạt động sẽ giúp các bác
sĩ có thêm thời gian để đối phó với khối u
chính. Nhờ đó mà cải thiện đáng kể tỷ lệ sống
cho bệnh nhân.
Nghiên cứu mới, được đăng trên tạp chí
Nature Communications mới đây, có thể đánh
dấu một bước tiến lớn đối với thành tựu này.
Các nhà nghiên cứu đã thiết lập phiên
bản môi trường khối u trong phòng thí
nghiệm và quan sát cách thức tế bào ung thư
vú di chuyển. Sau đó, dùng một số loại thuốc,
họ đã cố gắng ngăn chặn các tế bào bằng cách
phá vỡ các cơ chế giúp tế bào di chuyển được
giống như động cơ, tạo ra các lực để di
chuyển.
Các nhà nghiên cứu vô cùng ngạc
nhiên khi quan sát thấy các tế bào chuyển
![Page 51: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/51.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 51/58
sang một cách di chuyển hoàn toàn khác,
khiến chúng giống với các đốm màu “rỉ sắt”.
“Các tế bào ung thư này hành động rất
lén lút và chúng tôi không ngờ rằng các tế
bào này sẽ thay đổi chuyển động của chúng”,
tác giả cao cấp tiến sĩ Paolo P. Provenzano,
một giáo sư tại khoa kỹ thuật y sinh của Đại
học Minnesota, nhận xét.
Tuy nhiên khi nhóm nghiên cứu nhắm
mục tiêu cả hai chế độ di chuyển của tế bào
cùng một lúc họ đã ngăn chặn các tế bào.
Tiến sĩ Provenzano lưu ý rằng, điều
này gần giống như chúng tôi đã phá hủy GPS
của tế bào để chúng không thể tìm thấy
đườngm phương hướng để đi... Các tế bào chỉ
ở đó và không di chuyển.
Để tìm hiểu rõ xem cách các tế bào
nhận ra và tuân theo những con đường này
như thế nào, nhóm nghiên cứu đã thiết kế các
môi trường vi mô 2-D mô phỏng các dấu hiệu
hướng dẫn trong các khối u.
“Nhờ sử dụng các môi trường vi mô
mạng lưới được kiểm soát này, nhóm nghiên
cứu có thể kiểm tra hàng trăm sự kiện di
chuyển trong một giờ”, tiến sĩ Erdem D.
Tabdanov, khoa kỹ thuật y sinh cho biết.
Họ đã quay lại được những gì đã xảy
ra khi các nhà nghiên cứu sử dụng thuốc
nhắm mục tiêu vào các chuyển động giống
như động cơ của các tế bào ung thư vú. Các tế
bào chuyển sang một chuyển động giống như
chảy, dựa vào các cơ chế khác nhau.
Nhóm nghiên cứu dự định thử nghiệm
phương pháp của họ trên các loại ung thư
khác, sau đó bắt đầu thử nghiệm trên động
vật. Nếu những điều này diễn ra tốt đẹp, các
thử nghiệm trên người sẽ được tiến hành
trong vòng vài năm tới. Các nhà nghiên cứu
cũng sẽ tiến hành điều tra các khía cạnh khác
của phương pháp này, chẳng hạn như sự ảnh
hưởng lên các tế bào khỏe mạnh.
“Cuối cùng, chúng tôi muốn tìm cách
để ngăn chặn sự di chuyển của tế bào ung thư
trong khi tăng cường sự di chuyển của tế bào
miễn dịch để chống lại ung thư”, Tiến sĩ
Paolo P. Provenzano cho biết.
Theo vista.gov.vn, 28/11/2018
Trở về đầu trang
**************
NÔNG NGHIỆP
Trung Quốc trồng thành công lúa nước mặn, có thể nuôi sống 80 triệu người
Lúa biển đã được trồng thành công ở Trung Quốc
Một nhóm các nhà khoa học Trung
Quốc vừa thu hoạch đợt gạo đầu tiên từ giống
lúa chịu mặn được trồng ở tỉnh Sơn Đông.
Đây là sự kiện đánh dấu sự thành công của kế
hoạch đầy tham vọng nhằm gia tăng sản
lượng gạo để cung cấp lương thực cho thêm
80 triệu người.
Loại lúa mới này chịu được kiềm, đã
được các nhà khoa học giới thiệu cách đây
một năm. Lúa được thu hoạch ở thành phố bờ
biển Thanh Đảo, cho ra loại gạo có khả năng
sinh trưởng ở bãi triều hoặc đất mặn.
Để tạo ra giống lúa này, các nhà
nghiên cứu đã phải lai tạo từ rất nhiều giống
lúa gạo khác nhau. “Nếu có thiên tai, Trung
Quốc khó có thể dựa vào nhập khẩu thực
phẩm vì có nhiều rào cản về hậu cần và dân
số lớn. Nếu người Trung Quốc bị đói vì mùa
màng thất bát do thiên tai, tình trạng này sẽ
gây ra bất ổn xã hội và gây mất ổn định cho
thế giới”, hãng tin RT dẫn lời Phó Giám đốc
Trung tâm Nghiên cứu và phát triển lúa chịu
mặn Thanh Đảo, ông Trương Quốc Đông.
![Page 52: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/52.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 52/58
Ông Trương cho biết thêm, sẽ nỗ lực
để biến hơn 65.000 km2 đất ngập mặn thành
đất trồng lúa. Nếu cứ 667 m2 đất trồng được
tối thiểu 300 kg gạo thì toàn bộ số đất ngập
mặn sẽ đem về 30 triệu tấn gạo. Số gạo này
đủ để nuôi 80 triệu người dân Trung Quốc.
Theo RT, để thử nghiệm trồng loại
“lúa biển” này, các nhà nghiên cứu đã lấy
nước từ biển Hoàng Hải, pha loãng rồi dẫn
vào các ruộng gạo phục vụ nghiên cứu.
Các nhà khoa học cho biết, giống lúa
này chưa thực sự sống được tại vùng nước
biển thuần túy. Hiện tại, công nghệ lai tạo,
gây giống lúa mới chỉ có thể cho phép trồng
chúng tại các vùng nước ngọt pha nước mặn.
Trước đó, các nhà khoa học Trung
Quốc cũng đã trồng và thu hoạch thành công
lúa chịu mặn trên một sa mạc ở Dubai.
Theo baochinhphu.vn, 29/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Robot bọ rùa trị giá triệu đô giúp giám sát sức khỏe cây trồng
Robot sử dụng năng lượng mặt trời sẽ
di chuyển dọc theo từng luống để thu thập một
loạt các dữ liệu về sức khỏe cây trồng bằng
một công nghệ cảm biến vô cùng tinh vi.
Thông thường thì nông dân theo dõi
tình trạng cây trồng bằng cách thủ công nên
tốn rất nhiều thì giờ và đòi hỏi nhiều công sức
lao động, chưa kể đến việc do quan sát bằng
mắt thường nên tính chính xác không cao.
Trong khi đó, việc theo dõi sức khỏe cây
trồng là một yếu tố quan trọng trong công
việc canh tác.
Vì vậy mới đây, Alex Wendel, một
nhà nghiên cứu tại Australia, cùng với một
cộng sự, đã thiết kế thành công một robot để
thay thế sức người trong công việc này.
Có tổng kinh phí 1 triệu đô, nguyên
mẫu này là một thiết bị tự động, sử dụng năng
lượng mặt trời và được định vị bằng vệ tinh, sẽ
di chuyển dọc theo từng luống để thu thập một
loạt các dữ liệu về sức khỏe cây trồng bằng
một công nghệ cảm biến vô cùng tinh vi.
Do có hai tấm pin năng lượng gắn theo
bản lề trên hai bên lưng có thể nâng lên hạ
xuống để đón nhận ánh nắng mặt trời theo
hướng tối ưu, giống như cặp cánh, lại có dáng
khum khum nên robot được đặt tên một cách
dí dỏm là Ladybird (Con bọ rùa).
Người cộng sự của Alex Wendel đang theo dõi Ladybird vận hành
Viện Nghiên cứu và Phát triển Nam
Úc SARDI, Trung tâm Robotics của Đại học
Sydney đã cùng Wendel tiến hành thu hoạch
mùa màng trên cánh đồng lần đầu tiên được
'chăm sóc sức khỏe' bởi một robot.
Trước đó, Ladybird đã được thực hiện
một loạt các cuộc thử nghiệm tại nhiều nơi ở
miền bắc nhằm so sánh độ chính xác của robot
với các nhà nghiên cứu, những người cũng
đang thu thập các thông tin tương tự. Các cơ
quan về an toàn sinh học cho cây trồng là CRC
và GRDC cũng tham gia thử nghiệm.
Kết quả, tất cả các thử nghiệm đều cho
thấy Ladybird có thể thu thập được một lượng
lớn dữ liệu chính xác và nhanh chóng hơn chỉ
trong một lần kiểm tra thực địa duy nhất kể cả
trong điều kiện thời tiết khô ráo hay ẩm ướt,
và vẫn di chuyển tới lui một cách nhẹ nhàng
êm ái với vận tốc khoảng 5 km/giờ.
Theo đánh giá, một khi được sản xuất
đại trà, Ladybird sẽ mang lại một tiềm năng
lớn cho ngành nông nghiệp do giảm được
![Page 53: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/53.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12/2018 53/58
công sức lao động, nhưng lại tăng được độ
chính xác về dữ liệu sức khỏe cây trồng.
Theo vista.gov.vn, 16/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Sinh viên Thái chế máy cắt cỏ bằng năng lượng mặt trời
Máy cắt cỏ điều khiển từ xa vận hành
bằng năng lượng mặt trời, có thể cắt tất cả các
loại cỏ, kể cả cỏ mềm.
Ba sinh viên Phân khoa Kỹ thuật Máy
Nông nghiệp của trường Đại học Đại học
Công nghệ RMUTT của Thái Lan là Anyika
Sawangjitr, Pannaphat Surachawaja và
Thanayut Nethibaht vừa thiết kế thành công
một chiếc máy cắt cỏ điều khiển từ xa vận
hành bằng năng lượng mặt trời. Máy có độ an
toàn cao vì lớp vỏ bọc trên máy được thiết kế
để loại bỏ cỏ đã cắt ra phía sau. Máy gọn nhẹ,
dễ vận hành.
Chiếc máy cắt cỏ bằng năng lượng mặt trời được điều khiển từ xa này có vẻ ngoài thật đơn giản
Theo Anyika Sawangjitr, việc sử dụng
dụng cụ cắt cỏ cầm tay hoặc các loại máy cắt
cỏ phải vận hành ở tư thế đứng cần vận dụng
đến lực ly tâm ảnh hưởng rất nhiều đến sức
khỏe. Ngoài ra, bên cạnh việc máy cắt cỏ có
giá thành cao, cũng còn phải xem xét đến yếu
tố an toàn, thời lượng làm việc bền bỉ và việc
dễ dàng bảo dưỡng cho máy. Do vậy, nghiên
cứu đã được tiến hành rất kỹ lưỡng để có thể
cho ra đời chiếc máy cắt cỏ điều khiển từ xa
giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho
người nông dân.
Máy có thể cắt tất cả các loại cỏ, kể cả
cỏ mềm. Bánh xe phía trước của máy là bánh
xe tự do điều khiển từ xa với tần số từ 2,40 -
2,48 GHz, nhận năng lượng thông qua các tế
bào năng lượng mặt trời được lưu trữ trong
pin. Hai động cơ DC, một được thiết trí tại
lưỡi dao cắt và một nằm trong bảng điều
khiển Arduino để điều khiển cho bánh xe
quay. Tuy có cơ chế hoạt động tinh tế như
vậy nhưng nhìn bên ngoài, chiếc máy có vẻ
vô cùng đơn giản do toàn bộ cấu trúc đều
được che phủ bên trên bởi tấm pin năng
lượng mặt trời.
Máy được điều khiển bằng remote với
khoảng cách xa từ 80 - 100 m, có thể tiến về
phía trước, lùi về phía sau hoặc rẽ trái, rẽ phải
với ba tốc độ và có thể xoay tròn ở các khu
vực nhỏ. Khi vận hành ngoài trời, máy sẽ đồng
thời được nạp năng lượng và lưu trữ vào pin.
Các tấm pin mặt trời được đặt trên
máy với góc 13o để có thể thu nhận được
năng lượng mặt trời tối ưu nhất trong mọi
thời điểm. Máy có thể hoạt động liên tục từ 2
đến 3 giờ mỗi ngày.
Trường Đại học Công nghệ RMUTT
(Rajamangala University of Technology
Thanyaburi, Thái Lan) là một trường đại học
non trẻ chỉ mới được thành lập năm
2005. Hiện nay, trường bao gồm rất nhiều
phân khoa từ khoa học công nghệ đến kỹ
thuật nông nghiệp, kiến trúc, quản trị kinh
doanh, cả âm nhạc kịch nghệ, dược liệu
truyền thống
Theo khampha.vn, 19/11/2018
Trở về đầu trang
**************
![Page 54: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/54.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 11/2018 54/58
MÔI TRƯỜNG
Thu hàng triệu USD nhờ biến rác thải thành than sạch
Nhờ phát triển được quy trình sản xuất
than sinh học từ chất thải hữu cơ, một công ty
ở Tây Ban Nha đã kiếm được 'bộn' tiền.
Than sinh học biochar. Ảnh: Ingelia
Biến bùn thải và phân trộn thành
nhiên liệu sinh học
Cách đây 10 năm, bà Marisa
Hernández, đồng sáng lập và CEO của công
ty Ingelia, và hai đồng nghiệp, đã nỗ lực
nghiên cứu để phát triển một quy trình sản
xuất có khả năng biến các loại rác thải hữu cơ
(như bùn thải và phân trộn) thành loại than
sinh học (biochar). Sản phẩm tạo ra thành
công ngoài mong đợi.
Loại than này cháy hoạt tính như than
đá, nhưng điều đáng chú ý nhất đó là tuy tạo ra
lượng nhiệt tương đương nhưng biochar không
thải ra khí CO2, và nồng độ các loại khí độc
hại khác như là nitơ, lưu huỳnh và clo thấp
hơn rất nhiều so với đốt than đá thông thường.
“Dưới điều kiện áp suất 20 bar và nhiệt
độ 200ºC, chúng tôi khử nước cho các chất
hữu cơ và chuyển hơi ẩm thành dạng lỏng.
Nói cách khác, chúng tôi cô đặc đến 95%
lượng chất đốt trong chất thải này”, CEO của
công ty Ingelia cho biết.
Trong suốt quá trình biến đổi nhiệt hóa
(cacbon hóa thủy nhiệt), các loại chất thải có
hại như là nitơ, lưu huỳnh và clo, phần lớn đã
bị chuyển vào trong chất lỏng tàn dư. Sau một
quy trình xử lý kéo dài 8 giờ, kết quả thu
được là một loại nhiên liệu có hình trụ rắn,
khô, hoàn toàn có thể thay thế được các loại
than đá hiện nay.
Công ty Ingelia xử lý chất thải như là bùn thải bằng áp suất và nhiệt độ cao để tạo ra than sinh
học. Ảnh: Shutterstock
Bà Marisa cũng nhấn mạnh, mùi khó
chịu phát ra trong quá trình thủy phân sẽ được
xử lý trong một kho kín, vì thế, hoàn toàn có
thể đặt các nhà máy sản xuất than sinh học
này gần khu dân cư.
“Loại than sinh học của chúng tôi tạo ra
nhiệt lượng tương đương và cơ cấu đốt cháy
như than đá bình thường. So với các nhà máy
thực hiện quy trình ủ phân hay ủ khí biogas
phải mất đến 30 ngày, thì thời gian thực hiện
quy trình của chúng tôi chỉ mất có 8 tiếng”.
Công ty Ingelia đã ứng dụng quy trình
sản xuất than sinh học này tại các nhà máy xử
lý chất thải ở Tây Ban Nha, Anh và Italia.
Thực tế, công ty quản lý rác thải lớn nhất
Italia đã triển khai quy trình này ở nhà máy
Tuscany giúp xử lý 80.000 tấn rác thải mỗi
năm, và thị trấn Oostende của Bỉ cũng đang
lên kế hoạch xây dựng một nhà máy với 4 lò
đốt có công suất xử lý 20.000 tấn rác thải hữu
cơ mỗi năm.
Bà Marisa Hernández, đồng sáng lập và CEO của công ty Ingelia. Ảnh: EIT
![Page 55: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/55.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12 /2018 55/58
Trở thành nguyên liệu sản xuất pin,
polymer sinh học
Giải pháp mà công ty Tây Ban Nha
này hướng đến là đạt được một phương pháp
lưu trữ năng lượng sạch ở dạng sinh khối, tuy
nhiên, không chỉ có vậy, loại than sinh học
biochar còn có nhiều ứng dụng nữa.
Than sinh học còn có rất nhiều ứng dụng khác như sản xuất pin hoặc làm chất bón cho đất trồng Ảnh: Flickr
Loại than này có thể được sử dụng để
làm các loại pin, hay thậm chí là để sản xuất
các loại vật liệu cụ thể như: các chất polymer
sinh học dùng cho sản xuất các sản phẩm
nhựa hoặc có thể là các chất thay thế cho than
bùn, làm đất đai màu mỡ.
Năm 2017, công ty Ingelia đã đạt mức
doanh thu 2,29 triệu USD và năm nay công ty
đang hướng đến mục tiêu tăng lên 3,44 triệu
USD và dự kiến sẽ đạt 107 triệu USD vào
năm 2022.
Những đóng góp của Hernández trong
quá trình phát triển loại than sinh học này
tại Ingelia, đã được đề cử giải thưởng của
Viện Sáng tạo và Công nghệ Châu Âu (EIT)
giành cho các nhà khoa học nữ. Giải
thưởng được công bố đầu tháng này tại hội
nghị thường niên của Viện ở Budapest,
Hungary.
Theo khampha.vn, 03/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Vật liệu mới làm sạch và tách nước
Khung kim loại - hữu cơ (MOF) là một
trong những vật liệu hữu ích và linh hoạt nhất
hiện nay về cấu trúc, độ xốp cao và các tính
chất quang học và điện tử hấp dẫn. Những
đặc điểm này làm cho vật liệu trở nên triển
vọng cho nhiều ứng dụng, bao gồm thu và
tách khí, cảm biến và chất xúc tác quang.
Vì MOF rất linh hoạt về cả thiết kế và
tính hữu dụng của cấu trúc, nên các nhà khoa
học vật liệu hiện đang thử nghiệm MOF trong
một số ứng dụng hóa học. Một trong những
ứng dụng là xúc tác quang, đây là quá trình
trong đó vật liệu nhạy quang bị kích thích bởi
ánh sáng. Năng lượng dư thừa được hấp thụ
làm lệch hướng các điện tử từ quỹ đạo
nguyên tử của chúng, tạo ra "lỗ điện tử". Sự
hình thành các cặp lỗ điện tử này rất quan
trọng trong bất cứ quá trình năng lượng phụ
thuộc vào ánh sáng và trong trường hợp này,
nó cho phép MOF ảnh hưởng đến nhiều phản
ứng hóa học khác nhau.
Một nhóm các nhà khoa học tại trường
Đại học bách khoa liên bang Lausanne
(EPFL) do Kyriakos Stylianou tại Phòng thí
nghiệm Mô phỏng phân tử dẫn đầu, đã phát
triển được một hệ thống dựa vào MOF có thể
thực hiện không chỉ một mà cả hai loại xúc
tác quang: sản xuất hydro và lọc các chất gây
ô nhiễm ra khỏi nước. Vật liệu chứa photphua
niken rẻ tiền, dồi dào (Ni2P) và được phát
hiện thấy thực hiện quang xúc tác hiệu quả
dưới tác động của ánh sáng nhìn thấy.
Loại xúc tác quang đầu tiên sản xuất
hydro, liên quan đến phản ứng tách nước.
Phản ứng này phân chia các phân tử nước
thành các thành phần hydro và oxy. Một
trong những ứng dụng quy mô lớn hơn là sử
dụng hydro cho pin nhiên liệu, là các thiết bị
cung cấp năng lượng được ứng dụng trong
nhiều công nghệ ngày nay, bao gồm vệ tinh
và tàu con thoi.
![Page 56: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/56.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12 /2018 56/58
Loại xúc tác quang thứ hai được gọi là
sự "suy giảm của chất ô nhiễm hữu cơ", đề
cập đến các quá trình phân hủy chất ô nhiễm
trong nước. Các nhà khoa học đã nghiên cứu
khả năng hệ thống quang xúc tác mới dựa vào
MO phân hủy thuốc nhuộm độc hại
rhodamine B, thường được sử dụng để mô
phỏng các chất ô nhiễm hữu cơ.
Các nhà khoa học đã thực hiện cả hai
thử nghiệm theo trình tự, cho thấy hệ thống
quang xúc tác dựa vào MOF có thể kết hợp hệ
thống quang xúc tác của hydro với khả năng
phân hủy của rhodamine B trong một quá
trình duy nhất. Điều này có nghĩa là hiện có
thể sử dụng hệ thống quang xúc tác này để
vừa xử lý chất ô nhiễm, vừa sản xuất hydro
làm nhiên liệu.
Theo vista.gov.vn, 07/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Các hạt nano kim loại có triển vọng dùng để tạo ra các chất xúc tác thân thiện với môi trường
Các nhà khoa học tại Viện Công nghệ
Tokyo đã sản xuất được các hạt nano kim loại
hoạt động hiệu quả gấp 50 lần so với các chất
xúc tác nano lưỡng kim Au-Pd nổi tiếng.
Quá trình oxy hóa các hydrocacbon
thơm rất quan trọng để sản xuất nhiều loại
hợp chất hữu cơ hữu có ích. Quá trình này
cần sử dụng các chất xúc tác và dung môi
thường gây hại cho môi trường. Do vậy, các
nhà nghiên cứu đã tìm cách sử dụng các hạt
xúc tác nano mà không cần đến dung môi cho
quá trình này.
Điều thú vị là các hạt xúc tác gần có
kích thước nano (SNC), bao gồm các kim loại
quý thậm chí còn hoạt động hiệu quả hơn vì
diện tích bề mặt của chúng gia tăng và trạng
thái điện tử độc đáo, tạo ra hiệu ứng thuận lợi
cho quá trình oxy hóa hydrocacbon. VìĐiều
này mang lại cho chúng hiệu quả về mặt chi
phí vì khối lượng kim loại cần cho SNC thấp
hơn so với chất xúc tác có kích thước nano.
Nhóm nghiên cứu bao gồm TS.
Miftakhul Huda, Keigo Minamisawa, TS.
Takamasa Tsukamoto và TS. Makoto Tanabe
tại Viện Công nghệ Tokyo (Tokyo Tech) do
GS. Kimihisa Yamamoto dẫn đầu, đã tạo ra
nhiều loại hạt SNC bằng cách sử dụng
dendrimer, các phân tử hình cầu giống như
cây, có thể được sử dụng làm khuôn mẫu để
chứa các chất xúc tác. "Dendrimer sẽ cung
cấp các không gian nano bên trong phù hợp
cho chuyển đổi xúc tác trong điều kiện có sự
xuất hiện của các hạt hạt kim loại",
TS.Yamamoto giải thích.
Nhóm nghiên cứu đã tạo ra các chất
xúc tác nhiều kích thước phụ thuộc vào kim
loại quý được sử dụng và số nguyên tử của
mỗi hạt xúc tác. Các nhà khoa học đã so sánh
hiệu quả của các chất xúc tác để xác định kim
loại quý tốt nhất nhằm tạo ra các hạt SNC và
sau đó khám phá cơ chế mang lại hiệu quả
xúc tác ở mức cao. Kết quả là các hạt SNC
kích thước nhỏ hơn phát huy hiệu quả cao
hơn, trong khi kim loại ít oxophilic (như bạch
kim) đạt mức cao nhất. Nhóm nghiên cứu cho
rằng bề mặt của SNC bạch kim không dễ bị
oxy hóa, nên có thể tái sử dụng. SNC Pt19 đã
được chứng minh mang lại hiệu quả xúc tác
cao gấp 50 lần so với các chất xúc tác nano
Au-Pd thông thường. Các nhà khoa học sẽ
tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ những hiện
tượng xúc tác này.
Các ứng dụng của chất xúc tác mới có
thể góp phần giảm ô nhiễm và tăng cường sử
![Page 57: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/57.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12 /2018 57/58
dụng hiệu quả tài nguyên kim loại trên Trái
đất.
Theo vista.gov.vn, 22/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Xử lý thủy ngân độc hại nước ô nhiễm
Nước ô nhiễm thủy ngân và các kim
loại nặng độc hại khác là nguyên nhân chính
gây thiệt hại môi trường và các vấn đề sức
khỏe cho người dân trên toàn thế giới. Giờ
đây, các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Công nghệ Chalmers, Thụy Điển đã đưa ra
một phương pháp hoàn toàn mới để xử lý
nước ô nhiễm thông qua quá trình điện hóa.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Nature Communications.
Björn Wickman, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng: “Phương pháp mới của chúng
tôi có thể khử đến 99% hàm lượng thủy ngân
trong chất lỏng. Điều này có thể tạo ra nguồn
nước nằm trong giới hạn an toàn cho con
người sử dụng”.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO),
thủy ngân là một trong những chất gây hại
nhiều nhất cho sức khỏe con người. Nó tác
động đến hệ thần kinh, sự phát triển của
não… Thủy ngân đặc biệt có hại cho trẻ em
và cũng có thể lây truyền từ mẹ sang con
trong quá trình mang thai. Hơn nữa, thủy
ngân lan truyền rất dễ trong tự nhiên và xâm
nhập vào chuỗi thức ăn. Ví dụ, cá nước ngọt
thường chứa hàm lượng thủy ngân cao.
Trong hai năm qua, Björn Wickman
cùng với Cristian Tunsu, nhà nghiên cứu tại
Khoa Hóa học và Kỹ thuật hóa học tại trường
Đại học Chalmers, đã nghiên cứu quá trình
điện hóa để làm sạch thủy ngân khỏi nước ô
nhiễm. Phương pháp này hoạt động thông qua
tách các ion kim loại nặng ra khỏi nước bằng
cách kích thích chúng tạo thành hợp kim cùng
với một kim loại khác.
Phương pháp mới liên quan đến một
tấm kim loại - điện cực - liên kết các kim loại
nặng. Điện cực được làm bằng bạch kim -
kim loại quý và thông qua quá trình điện hóa,
nó hút thủy ngân độc hại ra khỏi nước để tạo
thành hợp kim. Theo đó, nước được xử lý ô
nhiễm thủy ngân. Hợp kim được hình thành
từ hai kim loại rất ổn định, do đó, thủy ngân
không có nguy cơ tái xâm nhập vào nước.
"Hợp kim loại này đã được tạo ra
trước đây, nhưng với một mục đích hoàn toàn
khác. Đây là lần đầu tiên kỹ thuật với hợp
kim điện hóa được sử dụng cho mục đích xử
lý ô nhiễm", Cristian Tunsu nói.
Ưu điểm của kỹ thuật xử lý thủy ngân
mới là điện cực có công suất rất cao. Mỗi
nguyên tử bạch kim có thể liên kết với 4
nguyên tử thủy ngân. Hơn nữa, các nguyên tử
thủy ngân không chỉ liên kết trên bề mặt mà
còn thâm nhập sâu hơn vào vật liệu, tạo ra các
lớp dày. Điều này có nghĩa là điện cực có thể
được sử dụng trong một thời gian dài. Sau khi
sử dụng, nó có thể được làm rỗng một cách
có kiểm soát để được tái chế và thủy ngân
được xử lý một cách an toàn. Một ưu điểm
tích cực nữa của quá trình này là tiêu thụ rất
hiệu quả năng lượng.
"Một điểm điều tuyệt vời nữa là khả
năng chọn lọc rất tốt. Dù có nhiều chất khác
nhau trong nước, nhưng nó chỉ loại bỏ thủy
ngân. Do đó, điện cực không lãng phí công
suất do lấy đi các chất khác ra khỏi nước một
cách không cần thiết”, Björn Wickman nói.
Tiềm năng ứng dụng của phương pháp
mới
Kỹ thuật xử lý thủy ngân trong nước ô
nhiễm có thể được sử dụng để giảm lượng
chất thải và xử lý nước trong các ngành công
nghiệp hóa chất và khai thác mỏ cũng như
trong sản xuất kim loại. Kỹ thuật cũng góp
![Page 58: BẢN TIN THÁNG 12/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/04/Bantin-_KHCN-TG_12-2018.pdf · Trung Quốc sáng chế thiết bị đọc sách bằng cách chớp](https://reader030.vdocuments.pub/reader030/viewer/2022041220/5e09c75d4d4cc7658917638e/html5/thumbnails/58.jpg)
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12 /2018 58/58
phần làm sạch môi trường hiệu quả hơn cho
những nơi có nguồn nước và đất ô nhiễm.
Kỹ thuật thậm chí có thể được áp dụng
để xử lý nước uống trong môi trường bị ảnh
hưởng xấu vì công nghệ này tiêu thụ ít năng
lượng nên có thể sử dụng hoàn toàn pin năng
lượng mặt trời để hoạt động. Vì thế, nó có
triển vọng phát triển thành công nghệ xử lý
nước di động và tái sử dụng.
Nhóm nghiên cứu đang xin cấp sáng
chế và tìm cách thường mại hóa kỹ thuật xử
lý thủy ngân cho nước ô nhiễm.
Theo vista.gov.vn, 26/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Bộ lọc không khí ngăn chặn 90% hạt ô nhiễm, chất gây dị ứng và vi khuẩn
Các kỹ sư Hoa Kỳ đã chế tạo được bộ
lọc ô nhiễm gắn trong mũi với khả năng ngăn
chặn đến 90% hạt ô nhiễm và 70% các hạt
mịn hơn xâm nhập vào phổi. Thiết bị này
“gần như vô hình”, cung cấp phương thức bảo
vệ kín đáo hơn mặt nạ lọc và giúp giải quyết
tác động của tình trạng ô nhiễm đang lan tràn
khắp các thành phố hiện đại. Ô nhiễm không
khí đã cướp đi sinh mạng của khoảng 9 triệu
người mỗi năm trên toàn thế giới.
“Bộ lọc O2 tạo ra một vùng không khí
riêng an toàn và sạch hơn bảo vệ cho người
đeo nó khỏi ô nhiễm không khí, các chất gây
dị ứng, vi khuẩn và nhiều yếu tố khác”, nhóm
nghiên cứu cho biết. “Bộ lọc O2 làm cho các
thành phố trở nên an toàn, không khí lưu
thông sạch và bảo vệ cho cơ thể của bạn khỏi
bị tổn thương”.
Mỗi bộ lọc có thể được đeo trong vòng
tối đa 12 giờ và sử dụng các bộ lọc tĩnh điện
để thu các hạt và nhiều yếu tố gây ô nhiễm
khác. Nhưng khác mặt nạ, bộ lọc O2 không
ngăn chặn được các chất ô nhiễm xâm nhập
vào phổi qua đường miệng.
Ô nhiễm không khí là mối quan tâm
ngày càng gia tăng của các cư dân đô thị và
rất nhiều nghiên cứu gần đây đã tiết lộ tác
động gây sốc gây của chất ô nhiễm đến sức
khỏe của con người.
Theo một báo cáo mới được công bố
của Viện chính sách năng lượng thuộc Đại
học Chicago (EPIC), ô nhiễm không khí trung
bình làm giảm 1,8 năm tuổi thọ của người dân
trên toàn cầu.
Cách đây hơn một thập kỷ, Tổ chức Y
tế thế giới (WHO) đã ban hành các hướng dẫn
về mức độ ô nhiễm không khí tối đa ở
ngưỡng “an toàn”. Nhưng giờ đây, hầu như
mọi quốc gia có thu nhập thấp và trung bình
và một nửa số quốc gia có thu nhập cao đều
sống trong bầu không khí “không trong lành”.
Ô nhiễm tác động mạnh đến các thành phố
đông đúc tại các nước đông dân nhất như Ấn
Độ và Trung Quốc.
Theo vista.gov.vn, 28/11/2018
Trở về đầu trang
**************