bÁo cÁo - loggingoff.info · các công cụ pra như sơ đồ tài nguyên, sơ đồ ven phân...

53
MNG LƯỚI CÁC TCHC PHI CHÍNH PHVIT NAM VTHC THI LÂM LUT, QUN TRRNG VÀ THƯƠNG MI LÂM SN (VNGO-FLEGT) BÁO CÁO Kết qutham vn cng đồng vtính hp pháp ca gvà các sn phm gti huyn Nam Đông, tnh Tha Thiên Huế Đơn vthc hin : - Trung tâm Phát trin Nông thôn min Trung (CRD) - Trung tâm Nghiên cu và Tư vn Qun lý Tài nguyên (CORENARM) - Trung tâm Nghiên cu Phát trin Xã hi (CSRD) - Trung tâm Nghiên Cu và Tư vn Phát trin bn vng (CRCSD) Tháng 11/2012

Upload: others

Post on 26-Sep-2019

9 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

MẠNG LƯỚI CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ VIỆT NAM

VỀ THỰC THI LÂM LUẬT, QUẢN TRỊ RỪNG VÀ THƯƠNG MẠI LÂM SẢN

(VNGO-FLEGT)

BÁO CÁO

Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ tại huyện Nam Đông,

tỉnh Thừa Thiên Huế Đơn vị thực hiện: - Trung tâm Phát triển Nông thôn miền Trung (CRD) - Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn Quản lý Tài nguyên (CORENARM) - Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Xã hội (CSRD) - Trung tâm Nghiên Cứu và Tư vấn Phát triển bền vững (CRCSD)

Tháng 11/2012

0

Mục lục

I. Bối cảnh ...................................................................................................................................... 2

II. Mục tiêu và nội dung tham vấn .............................................................................................. 2 2.1 Mục tiêu tham vấn ................................................................................................................. 2

2.2 Nội dung tham vấn ................................................................................................................ 2

III. Tiến trình và phương pháp thực hiện tham vấn ................................................................. 3 3.1 Lựa chọn cộng đồng tham vấn .............................................................................................. 3

3.2 Làm việc với các bên liên quan trước khi tham vấn .............................................................. 4

3.3 Thảo luận nhóm với địa diện của các thôn ............................................................................ 4

3.4 Họp thôn ................................................................................................................................ 5

3.5 Phỏng vấn sâu ........................................................................................................................ 5

IV. Kết quả và thảo luận .............................................................................................................. 5 4.1 Địa bàn tham vấn ................................................................................................................... 5

4.2 Nhận thức của người dân liên quan đến định nghĩa gỗ hợp pháp ......................................... 6

4.3 Các quy định về khai thác gỗ hợp pháp ................................................................................. 6

4.4 Các quy định về vận chuyển gỗ hợp pháp trong nước (Cường) .......................................... 11

4.5 An toàn về môi trường ......................................................................................................... 14

4.6 An toàn về xã hội ................................................................................................................. 16

V. Kết luận và đề xuất ................................................................................................................ 18 5.1 Kết luận................................................................................................................................ 18

5.2 Đề xuất của người dân ......................................................................................................... 19

Phụ lục: ........................................................................................................................................ 20 Phụ lục 1: Tổng hợp thông tin từ thảo luận nhóm ..................................................................... 20

Phụ lục 2: Danh sách thành viên nhóm tham vấn cộng đồng .................................................... 48

Phụ lục 3: Danh sách đại biểu tham dự cuộc họp huyện ........................................................... 48

Phụ lục 4: Danh sách người dân tham gia thảo luận nhóm ....................................................... 48

1

I. Bối cảnh Từ năm 2010, Chính phủ Việt Nam đã tham gia đàm phán với EU về Hiệp định đối tác tự nguyện (VPA) đối với thực thi lâm luật, quản trị rừng và thương mại lâm sản, gọi tắt là FLEGT. Một yêu cầu do EU đặt ra trong quá trình đàm phán cũng như thực hiện hiệp định sau này là phải có sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan để giảm thiểu tác động tiêu cực của VPA/FLEGT đối với các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như các hộ gia đình trồng rừng, các cộng đồng địa phương tham gia bảo vệ rừng và các doanh nghiệp chế biến quy mô nhỏ hoặc các nhóm dịch vụ có liên quan khác. Một trong những nội dung quan trọng trong đàm phán là Định nghĩa gỗ hợp pháp. Cho đến nay, Chính phủ Việt Nam đã soạn thảo Dự thảo 5 về Định nghĩa gỗ hợp pháp và đang trong tiến trình hoàn thiện để chuẩn bị cho lần đàm phán lần thứ 3 sắp đến trong năm 2012. Để cung cấp thông tin từ phía người dân/cộng đồng cho quá trình hoàn thiện Dự thảo này, các tổ chức Phi chính phủ Việt Nam thuộc mạng lưới VNGO-FLEGT tiến hành tham vấn cộng đồng nhằm thu thập ý kiến của người dân/cộng đồng trồng rừng và tham gia quan lý bảo vệ rừng về Định nghĩa gỗ hợp pháp. Tham vấn này do Trung tâm phát triển nông thôn miền Trung (CRD), Trung tâm nghiên cứu và quản lý tài nguyên (CORENARM), Trung tâm nghiên cứu phát triển xã hội (CSRD) và Trung tâm nghiên cứu và tư vấn phát triển bền vững (CRCSD) cùng phối hợp thực hiện trong thời gian từ ngày 10/10 đến ngày 30/10 năm 2012 tại tỉnh Thừa Thiên Huế.

II. Mục tiêu và nội dung tham vấn

2.1. Mục tiêu tham vấn 2.1.1. Mục tiêu chung

Thu thập các ý kiến của người dân/cộng đồng về những vấn đề liên quan đến tính hợp pháp của gỗ và sản phẩm gỗ nhằm đóng góp cho cho dự thảo tính hợp pháp của gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam

2.1.2. Mục tiêu cụ thể

• Khảo sát sự hiểu biết/nhận thức của người dân/cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và sản phẩm gỗ

• Phân tích việc thực thi lâm luật và ảnh hưởng của nó đến quyền lợi và nghĩa vụ của người dân/cộng đồng

• Tổng hợp các nguyện vọng/đề xuất của người dân liên quan đến việc đảm bảo tính hợp pháp của gỗ và sản phẩm gỗ gắn kết với cải thiện sinh kế

2.2. Nội dung tham vấn

2.2.1. Các quy định về khai thác gỗ hợp pháp trong nước (Nguyên tắc 1 của Dự thảo 5)

- Hồ sơ khai thác gỗ hợp pháp của chủ rừng là Hộ gia đình, Cá nhân và Cộng đồng

+ Khai thác chính ở rừng tự nhiên

+ Khai thác tận dụng, tận thu gỗ ở rừng tự nhiên

+ Khai thác gỗ ở rừng trồng tập trung bằng vốn do chủ rừng tự đầu tư

- Hồ sơ khai thác gỗ hợp pháp của Hộ gia đình, Cá nhân và Cộng đồng nhận khoán quản lý bảo vệ rừng hoặc tham gia đồng quản lý rừng với các chủ rừng nhà nước

2

+ Khai thác chính ở rừng tự nhiên

+ Khai thác tận dụng, tận thu gỗ ở rừng tự nhiên

+ Khai thác gỗ từ rừng trồng tập trung bằng vốn do chủ rừng tự đầu tư

- Quy trình khai thác gỗ hợp pháp (Các hồ sơ xác minh khai thác đúng phạm vi ranh giới, diện tích, chủng loại, khối lượng theo giấy phép được cấp hoặc bản đăng ký khai thác)

+ Gỗ rừng tự nhiên

+ Gỗ rừng trồng

2.2.2. Các quy định về vận chuyển gỗ hợp pháp (Nguyên tắc 3 của Dự thảo 5)

- Hộ gia đình, Cá nhân và Cộng đồng vận chuyển gỗ khai thác trong nước trong các trường hợp sau:

+ Gỗ mua

+ Gỗ đem bán

2.2.3. An toàn về môi trường

- Đảm bảo việc bảo tồn tài nguyên rừng ở những khu rừng được phép khai thác gỗ

- Những đóng góp trong việc đảm bảo môi trường sống của các cộng đồng dân cư

+ Khu vực khai thác gỗ

+ Tuyến đường vận chuyển gỗ

2.2.4. An toàn về xã hội

- Sự tham gia đầy đủ và có hiệu quả của cộng đồng trong quá trình lập kế hoạch khai thác, thiết kế khai thác và khai thác gỗ

+ Kế hoạch khai thác gỗ đạt được sự đồng thuận của cộng đồng sống ven khu rừng được phép khai thác

+ Người dân/Cộng đồng sống ven rừng tham gia thiết kế và giám sát quá trình khai thác ở những khu rừng đó

- Cơ chế chia sẻ lợi ích

+ Sự hưởng lợi của người dân/cộng đồng sống ven khu rừng được khai thác gỗ

+ Tính minh bạch trong việc hưởng lợi từ khai thác và vận chuyển gỗ

III. Tiến trình và phương pháp thực hiện tham vấn Tiến trình thực hiện tham vấn cộng đồng được thực hiện theo các bước cùng với các phương pháp tham vấn cụ thể trong từng bước như sau:

3.1 Lựa chọn cộng đồng tham vấn Các cộng đồng/thôn tham vấn phải đáp ứng các tiêu chí sau:

+ Đại diện cho khu vực nghiên cứu ở miền Trung Việt Nam;

+ Có rừng (rừng tự nhiên và rừng trồng), sống gần rừng (khu rừng được phép khai thác gỗ) và gắn bó lâu đời với rừng (đời sống dựa vào rừng);

+ Là đầu mối giao thông của các tuyến đường vận chuyển gỗ và các sản phẩm gỗ;

3

+ Có các cơ sở chế biến lâm sản (xưởng cưa, xưởng mộc…).

Dựa trên các số liệu sẵn từ các báo cáo của các cơ quan ban ngành có liên quan và số liệu thống kê cùng với các kiến thức thực tiễn của thành viên trong Nhóm thực hiện tham vấn cộng đồng, huyện Nam Đông tỉnh Thừa Thiên Huế được chọn làm địa bàn thực hiện tham vấn. Cụ thể là hoạt động tham vấn được thực hiện tại 3 xã Thượng Nhật, Thượng Long và Thượng Quảng là các xã đại diện cho huyện Nam Đông về các tiêu chí lựa chọn nêu trên.

3.2 Làm việc với các bên liên quan trước khi tham vấn Tổ chức 1 buổi họp với các bên liên quan cấp huyện và xã bao gồm: Phó chủ tịch huyện, Trưởng phòng hành chính tổng hợp huyện, đại diện của Ban quản lý rừng phòng hộ, Phòng nông nghiệp và PTNT, Phòng công thương, Hạt kiểm lâm (mỗi đơn vị 1 người), và 3 lãnh đạo của 3 xã Thượng Long, Thượng Nhật và Thượng Quảng là những xã được chọn để tham vấn cộng đồng. Tại cuộc họp, đại diện nhóm tham vấn cộng đồng trình bày tóm tắt về tiến trình đàm phán VPA/FLEGT, mục tiêu và kế hoạch thực hiện tham vấn tại địa phương. Các đại biểu đã đóng góp ý kiến để thống nhất về việc lựa chọn các thôn trong mỗi xã để thực hiện tham vấn và điều chỉnh kế hoạch thực hiện tham vấn cho phù hợp. Sau cuộc họp, Nhóm tham vấn đã đến làm việc trực tiếp với các cơ quan này để thu thập các thông tin, số liệu thứ cấp có liên quan.

3.3 Thảo luận nhóm với địa diện của các thôn Thảo luận nhóm được thực hiện trên trên các nhóm khác nhau (bảng 1). Các công cụ PRA như sơ đồ tài nguyên, sơ đồ VEN phân tích sự tham gia của các bên liên quan, … đã được áp dụng để khai thác thông tin.

Bảng 1: Đối tượng được tham vấn về định nghĩa gỗ hợp pháp ở cấp cộng đồng

Đối tượng Số lượng nhóm

Số lượng người

Thôn/xã

Nhóm 1A: Các cộng đồng được Nhà nước giao, cho thuê rừng, đất trồng rừng (Chủ rừng)

3 24 Thôn 4/Thượng Nhật

Thôn 4/Thượng Long

Thôn 4/Thượng Quảng

Nhóm 1B: Các cộng đồng nhận khoán quản lý bảo vệ rừng hoặc tham gia đồng quản lý rừng (Bên nhận khoán)

3 24 Thôn 4/Thượng Nhật

Thôn 4/Thượng Long

Thôn 4/Thượng Quảng

Nhóm 1C: Các cộng đồng sống gần rừng, ven rừng và phụ thuộc vào rừng nhưng không thuộc hai đối tượng trên

3 24 Thôn 4/Thượng Nhật

Thôn 4/Thượng Long

Thôn 4/Thượng Quảng

Nhóm 2A: Các hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao, cho thuê đất trồng rừng (Chủ rừng)

3 24 Thôn 4/Thượng Nhật

Thôn 4/Thượng Long

Thôn 4/Thượng Quảng

Nhóm 2B: Các hộ gia đình, cá nhân nhận khoán quản lý bảo vệ rừng trồng

3 24 Thôn 4/Thượng Nhật

4

hoặc tham gia đồng quản lý rừng (Bên nhận khoán)

Thôn 4/Thượng Long

Thôn 4/Thượng Quảng

3.4 Họp thôn Sau kết quả thảo luận nhóm với các địa diện của thôn, tiến hành tư liệu hóa và tổ chức họp thôn để trình bày những thông tin thu thập được đồng thời thảo luận thêm để cộng đồng có những thông tin bổ sung hay chỉnh sửa các kết quả. Đối tượng tham gia họp thôn là toàn thể người dân trong thôn. Thời gian họp thôn tiến hành từ 2 đến 3 tiếng.

3.5 Phỏng vấn sâu Tiến hành phỏng vấn sâu 6 hộ gia đình ở 3 xã Thượng Quảng, Thượng Nhật và Thượng Long. Nội dung phỏng vấn sâu để viết các nghiên cứu trường hợp với các chủ đề là (1) Khai thác và vận chuyển gỗ rừng tự nhiên giao khoáncộng đồng, (2) Khai thác và vận chuyển gỗ rừng tự nhiên giao khoán nhóm hộ, (3) Khai thác và vận chuyển gỗ rừng trồng và (4) An toàn về môi trường và xã hội. Ngoài ra, đã tiến hành phỏng vấn một số đại diện chính quyền xã để tìm hiểu về thực trạng khai thác và vận chuyển gỗ của người dân địa phương và quản lý của chính quyền xã.

IV. Kết quả và thảo luận

4.1 Địa bàn tham vấn Huyện Nam Đông được chọn là huyện đại diện cho tỉnh Thừa Thiên Huế để thực hiện tham vấn. Đây là một trong hai huyện miền núi của tỉnh, có tổng dân số là 22504 người, trong đó 80% là đồng bào dân tộc thiểu số người dân tộc Cơ Tu và 20% còn lại là người Kinh. Huyện có 9 xã và một thị trấn (hình 1).

Hình 1: Bản đồ hành chính huyện Nam Đông

5

Tổng diện tích đất lâm nghiệp của huyện là 54657,46 ha, chiếm 84% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó, đất rừng đặc dụng là 26079,26 ha, đất rừng phòng hộ là 11733,8 ha và đất rừng sản xuất là 16844,4 ha. Đối tượng quản lý và sử dụng rừng bao gồm: Hộ gia đình được giao đất rừng sản xuất trong 50 năm; Cộng đồng dân cư thôn được giao rừng sản xuất (rừng tự nhiên) để quản lý bảo vệ trong 50 năm, hầu hết rừng được giao cho cộng đồng là rừng nghèo; UBND huyện/xã quản lý diện tích rừng và đất rừng chưa có chủ thể quản lý; và cơ quan đơn vị nhà nước (Vườn quốc gia Bạch Mã và Khu bảo tồn Sao la và Ban quản lý rừng phòng hộ Nam Đông) chủ yếu quản lý rừng đặc dụng và rừng phòng hộ. Bảng 2: Diện tích rừng phân theo đối tượng quản lý và sử dụng (ha)

Loại đất đất lâm nghiệp

Tổng diện tích

Hộ gia đình

Cộng đồng dân cư

Cơ quan, đơn vị nhà

nước UBND xã Tổ chức

khác

Đất rừng sản xuất 16844.4 5339.95 1794.29 1187.64 8480.52 42

Đất rừng phòng hộ 11733.8 0 0 10194.21 1539.59 0

Đất rừng đặt dụng 26079.26 0 0 26079.26 0 0

Tổng diện tích 54657.46 5339.95 1794.29 37461.11 10020.11 42

Nguồn: Thống kê diện tích đất đai huyện Nam Đông năm 2011 Giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình trên địa bàn huyện được thực hiện từ năm 1998, trong khi giao rừng sản xuất cho cộng đồng dân cư quản lý bảo vệ mới được thực hiện từ năm 2005. Ngoài được giao rừng và đất rừng để quản lý và sử dụng, hộ gia đình còn nhận khoán quản lý bảo vệ rừng theo hợp đồng hàng năm với Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Nam Đông, tuy nhiên số lượng không đáng kể. Năm 2012, trên toàn huyện chỉ có 8 hộ nhận khoán quản lý bảo vệ rừng với tổng diện tích là 1400 ha. Các hộ nhận khoán quản lý bảo vệ rừng được quyền khai thác tận thu, nhưng số lượng không đáng kể và chủ yếu là khai thác cây chết, sâu bệnh để làm củi.

4.2 Nhận thức của người dân liên quan đến định nghĩa gỗ hợp pháp Không những người dân địa phương mà ngay cả lãnh đạo huyện và cán bộ các phòng ban của huyện đều không có thông tin về việc Chính phủ thực hiện đàm phán VPA/FLEGT. Nhóm tham vấn cộng đồng là người đầu tiên mang các thông tin về VPA/FLEGT đến với địa phương. Kết quả tham vấn cho thấy, người dân hiểu đơn giản rằng gỗ hợp pháp là gỗ được khai thác có các giấy phép do chính quyền thôn/xã cấp. Hầu hết họ không biết đến các thủ tục hồ sơ khác như bảng kê lâm sản, hồ sơ thiết kế khai thác, … Một số cán bộ thôn có biết về các hồ sơ pháp lý cần thiết khi khai thác và vận chuyển gỗ nhưng nhưng không nắm được nội dung của các hồ sơ và họ cũng không biết cơ quan nào làm, phê duyệt hồ sơ.

4.3 Các quy định về khai thác gỗ hợp pháp 4.3.1 Khai thác gỗ từ rừng tự nhiên Luật quản lý và phát triển rừng hạn chế khai thác gỗ ở khu vực rừng phòng hộ, qui định rằng cường độ khai thác ở rừng phòng hộ không quá 20% trử lượng rừng. Tuy nhiên, theo người dân địa phương, khai thác gỗ ào ạt không chỉ xảy ra ở rừng sản xuất mà ngay cả rừng phòng hộ đầu nguồn. Theo báo cáo của Hạt kiểm lâm huyện Nam Đông, tổng lượng gỗ khai thác từ rừng tự nhiên năm trên địa bàn huyện Nam Đông năm 2010 là 1.362,23 m3. Lâm trường là đơn vị khai thác gỗ chủ yếu trên địa bàn, khai thác liên tục từ những năm 1970 cho đến nay.

6

Người dân địa phương được phép khai thác gỗ để sử dụng như xây dựng nhà cửa và không được phép khai thác gỗ cho mục đích thương mại, tuy nhiên lượng gỗ được cấp phép khai thác là không đáng kể. Ngoài ra, tình trạng người dân khai thác gỗ lậu vẫn còn rất phổ biến với lượng gỗ khai thác hàng năm không nhỏ. Theo báo cáo của Hạt kiểm lâm huyện Nam Đông, năm 2011 có 48 vụ vi phạm trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng, xử lý và tịch thu 10,7m3 gỗ tròn 77,063m3 gỗ xẻ các loại và hủy tại rừng 16,226m3 gỗ xẻ các loại và 87,493m3 gỗ tròn các loại. Do gỗ được khai thác trong trường hợp này đương nhiên là gỗ không hợp pháp nên hình thức khai thác này không được thảo luận sâu trong quá trình tham vấn. Lâm trường khai thác gỗ rừng tự nhiên: Kết quả phỏng vấn cán bộ xã cho thấy, Lâm trường khai thác gỗ theo đúng các qui định pháp lý. Cụ thể là hàng năm tỉnh giao chỉ tiêu khai thác gỗ cho Lâm trường. Lâm trường xây dựng phương án điều chế rừng, hồ sơ thiết kế khai thác đồng thời làm đơn xin khai thác gửi lên Sở nông nghiệp phát triển nông thôn (NNPTNT). Lâm trường tiến hành khai thác khi có giấy phép của Sở. Sau khi khai thác, gỗ được tập kết về bãi gỗ và bảng kê lâm sản được lập với sự xác nhận của Kiểm lâm và gỗ được đóng dấu búa. Sau đó, Lâm trường đóng lệ phí môi trường cho huyện. Gỗ có dấu búa kiểm lâm đi kèm với bảng kê lâm sản, chứng từ đóng lệ phí môi trường và giấy phép khai thác gỗ được xem là gỗ khai thác hợp pháp. Tuy nhiên, kết quả tham vấn cộng đồng cho thấy, hầu hết người dân không thừa nhận tính hợp pháp của gỗ do Lâm trường khai thác mặc dù họ khẳng định rằng Lâm trường thực hiện đúng các qui định về pháp lý. Theo người dân, việc khai thác gỗ được xem là hợp pháp chỉ khi đơn vị khai thác phải có trách nhiệm với cộng đồng/người dân sinh sống ở khu vực rừng bị khai thác, và họ đề nghị:

(1) Lâm trường cần phải thông qua thôn về các hồ sơ khai thác rừng (bao gồm phương án điều chế rừng, kế hoạch khai thác rừng, và giấy phép khai thác rừng) và Ban quản lý thôn sẽ xác nhận vào các hồ sơ này. Qua đó, người dân có thể tham gia ý kiến điều chỉnh phương án khai thác để đảm bảo sử dụng rừng bền vững và hạn chế những tác động xấu đến môi trường, đồng thời người dân có thể giám sát được hoạt động khai thác gỗ trên địa phận của thôn; (2) Khi vận chuyển gỗ ra khỏi địa phận của thôn, cần phải có xác nhận của ban quản lý thôn về số lượng, chủng loại gỗ được vận chuyển để đảm bảo Lâm trường khai thác đúng theo giấy phép, tránh trường hợp lạm dụng khai thác vượt chỉ tiêu gây tàn phá rừng; (3) Lâm trường phải bồi thường cho dân các thiệt do khai thác gỗ gây ra như sạt lở đất, mất đất do mở đường khai thác vận chuyển gỗ, …; (4) Lâm trường phải nộp lệ phí cho thôn tính bằng khoảng 5% giá trị gỗ khai thác để sử dụng vào việc sửa lại đường sá, kênh mương bị hư hại gây ra do xe vận chuyển gỗ, bồi dưỡng cho những người có trách nhiệm giám sát, theo dõi việc khai thác gỗ trên địa bàn của thôn, đồng thời chi cho hoạt động quản lý bảo vệ rừng của thôn. Ban quản lý thôn sẽ xác nhận các khoản chi trả của Lâm trường cho người dân cũng như cho tập thể thôn.

Như vậy, gỗ khai thác được xem là hợp pháp khi có đầy đủ các hồ sơ theo qui định pháp lý đồng thời có các xác nhận nêu trên của Ban quản lý thôn. Người dân khai thác gỗ rừng tự nhiên: Kết quả tham vấn chỉ ra qui trình xin phép và khai thác gỗ của người dân là: Hàng năm dân làm đơn xin khai thác gỗ làm nhà và gửi lên xã; xã tổng hợp nhu cầu về gỗ của người dân và làm tờ trình đề xuất lên huyện; huyện tổng hợp nhu cầu của các xã và đề xuất lên tỉnh; Tỉnh xét duyệt và phân bổ chỉ tiêu cho từng huyện; Sau đó, huyện phân bổ chỉ tiêu cho từng xã kèm theo phương án khai thác chỉ rõ loài cây, lô, khoảnh được khai thác và xã phân bổ chỉ tiêu cho từng thôn; Thôn họp dân bình chọn hộ theo chỉ tiêu được phân bổ; Hộ được chọn làm đơn giử lên xã; Xã duyệt gửi lên huyện; Huyện cấp giấy phép cho hộ gia đình; Khi có giấy phép, dân tiến hành khai thác gỗ theo sự chỉ dẫn của

7

cán bộ lâm nghiệp xã và kiểm lâm địa bàn; Sau khi khai thác, gỗ được tập hợp về một điểm để các cán bộ này đo đếm khối lượng, lập bảng kê Lâm sản đồng thời xác nhận vào bảng kê. Gỗ có giấy phép khai thác đi kèm với bảng kê lâm sản được xem là gỗ hợp pháp để sử dụng làm nhà nhưng không hợp pháp trong mua bán. Trong trương hợp khai thác gỗ ở rừng đã được giao cho cộng đồng thôn, người dân phải đóng lệ phí cho thôn theo qui ước quản lý bảo vệ rừng của thôn. Vì vậy gỗ khai thác hợp pháp phải có thêm giấy biên nhận tiền của thôn. Nhìn chung, người dân đồng tình với việc thực hiện theo đúng qui trình này. Tuy nhiên, họ than phiền rằng thủ tục cấp giấy phép mất quá nhiều thời gian, có khi chờ cả năm mới xin được giấy phép. Vì thế, ở nhiều xã người dân không thực hiện theo qui trình này, chỉ làm đơn xin thôn xác nhận sau đó gửi lên xã xác nhận và tiến hành khai thác. Hợp 1: Người dân khai thác gỗ làm nhà không theo qui đinh Ông Trần Văn Trí, 29 tuổi, sống cùng bố mẹ ở thôn 2 xã Thượng Nhật, huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 2007, ông Trí lập gia đình và tiếp tục sống với bố mẹ đến năm 2009. Sau đó, vợ chồng anh tách hộ và chuyển về sống ở khu vực dãn dân của thôn 1 xã Thượng Quảng trong ngôi nhà tạm bợ do vợ chồng anh tự làm. Năm 2011, gia đình anh được nhà nước hỗ trợ 17 triệu đồng theo chương trình xóa nhà tạm. Vợ chồng anh vay mượn ngân hàng, bà con họ hàng thêm khoảng 80 triệu để xây dựng một ngôi nhà mới. Được biết huyện cho phép các hộ thuộc diện xóa nhà tạm được khai thác gỗ để làm nhà nhưng thủ tục phức tạp và phải chờ lâu mới có được giấy phép khai thác, anh đã làm đơn xin phép khai thác 2 khối gỗ thuộc nhóm III để làm nhà và gửi lên trưởng thôn xác nhận, sau đó gửi lên xã xác nhận. Anh chỉ mất hai ngày để có xác nhận của thôn và xã. Ngay sau khi có xác nhận, anh tiến hành khai thác gỗ thuộc khu vực vùng đệm của Vườn quốc gia Bạch Mã. Khi vận chuyển gỗ về, ngang qua trạm kiểm lâm của của Vườn quốc gia, cán bộ kiểm lâm đã chặn lại và kiểm tra. Anh xuất trình giấy xin phép khai thác đồng thời kiểm lâm kiểm tra thấy số lượng và chủng loại gỗ khai thác. Vì có giấy xin phép được thôn xã xác nhận đồng thời số gỗ anh khai thác đúng theo giấy xin phép, nên kiểm lâm đã cho phép anh vận chuyển gỗ về nhà. Người dân đề nghị cần rút ngắn thời gian cấp giấy phép để người dân có thể tiến hành xây dựng nhà cửa theo kế hoạch đã định. Hơn nữa đối với rừng đã giao cho cộng đồng thôn quản lý bảo vệ (50 năm), cho đến nay cộng đồng vẫn chưa được phép khai thác gỗ cho mục đích thương mại do rừng còn quá nghèo nhưng về lâu dài cộng đồng cần phải có quyền này để đảm bảo lợi ích của cộng đồng khi tham gia quản lý bảo vệ rừng. Cộng đồng đã có kế hoạch 5 năm về quản lý bảo vệ trong đó có khai thác rừng đã được chính quyền huyện và các cơ quan chuyên mô phê duyệt. Vì vậy, người dân muốn khai thác gỗ chỉ cần xin phép thôn với tư cách là chủ rừng và chính quyền xã là đủ cơ sở để xác nhận tính hợp pháp của gỗ phục vụ cho mục đích sử dụng hiên nay và kể cả mục đích thương mại sau này. 4.3.2 Khai thác gỗ rừng trồng Rừng trồng trên địa bàn tham vấn chủ yếu là rừng Keo, có thể chia làm 3 loại: (1) Rừng trồng 661 do Lâm trường trồng bằng nguồn vốn nhà nước, (2) Rừng trồng 661 do người dân trồng bằng nguồn vốn nhà nước, và (3) Rừng trồng do dân tự trồng. Lâm trường trồng rừng 661 từ đầu những năm 2000. Hầu hết đất trồng rừng 661 của lâm trường là đất sản xuất nương rẫy trước đây của đồng bào dân tộc. Quyền sử dụng đất của đồng bào dân tộc trên diện tích nương rẫy được xác lập bởi luật tục địa phương, tuy nhiên nhà nước không công nhận quyền này mặc dù người dân khai hoang và canh tác hàng chục năm và về mặt luật pháp, toàn bộ đất trồng rừng 661 này là đất của nhà nước do Lâm trường quản lý. Người dân tham gia trồng rừng 661 từ năm 2002. Được Lâm trường cung cấp giống, phân bón và trả tiền công trồng và chăm sóc rừng, người dân hào hởi nhận trồng rừng ngay trên đất họ đang canh tác. Đất này cũng được người dân khai hoang và canh tác trong nhiều năm

8

trước khi trồng rừng đồng thời quyền sử dụng được xác lập theo luật tục địa phương, nhưng chưa được nhà nước giao (không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Sau khi trồng rừng, cả rừng và đất đều thuộc về Lâm trường vì vậy người dân không được tiếp tục sử dụng. Đối với rừng do dân tự trồng bao gồm đất đã được giao và đất chưa được giao cho hộ gia đình và người dân trồng rừng bằng chính nguồn vốn của gia đình. Loại rừng này được trồng chủ yếu vào giữa những năm 2000 và hầu hết người dân đã thu hoạch và trồng lại. Theo báo cáo của Hạt kiểm lâm huyện Nam Đông, diện tích rừng trồng được khai thác trên địa bàn huyện liên tục tăng trong những năm gần đây. Diện tích rừng trồng được khai thác trong năm 2011 là 359,35 ha, gấp 8 lần so với năm 2008 (Biểu đồ 1)

45

219.8

321.09359.35

050

100150200250300350400

2008 2009 2010 2011

Diệ

n t í

ch (h

a)

Năm

Biểu đồ 1: Diện tích rừng trồng được khai thác qua các năm (ha) Nguồn: Báo cáo Hạt kiểm lâm huyện Nam Đông

Khai thác gỗ rừng trồng 661 do Lâm trường trồng: Lâm trường bắt đầu khai thác rừng trồng 661 từ năm 2010. Qua tham vấn cộng đồng, người dân cho rằng Lâm trường đã làm đúng theo các qui định của nhà nước, cụ thể là: Lâm trường làm đơn xin khai thác kèm theo hồ sơ thiết kế khai thác và gửi lên sở NN-PTNT tỉnh; Tỉnh ra quyết định và cấp giấy phép khai thác cho Lâm trường. Khi có giấy phép, Lâm trường tiến hành khai thác. Bảng kê lâm sản được lập có xác nhận của kiểm lâm, đồng thời Lâm trường đóng thuế tài nguyên cho huyện. Theo qui định pháp luật, gỗ được khai thác kèm theo giấy phép khai thác, bảng kê lâm sản và chứng từ nộp thuế như trên là gỗ hợp pháp. Tuy nhiên, hầu hết người dân chưa đồng tình và có một số đề xuất cụ thể là:

(1) Lâm trường phải chia một phần lợi ích từ khai thác rừng trồng cho những người dân có đất (canh tác it nhất 5 năm trước khi trồng rừng) thuộc rừng trồng được khai thác vì đây là đất do dân khai hoang và được cộng đồng thừa nhận quyền sử dụng theo luật tục địa phương. Ban quản lý thôn sẽ xác nhận khoản lợi ích chia sẻ cho dân; (2) tương tự như khai thác rừng tự nhiên, Lâm trường phải thông qua thôn, xã về hồ sơ khai thác rừng, và hồ sơ phải được Ban quản lý thôn thôn, chính quyền xã xác nhận và; (3) Lâm trường phải bồi thường cho dân các thiệt do khai thác gỗ gây ra như sạt lở đất, mất đất do mở đường khai thác vận chuyển gỗ, …Ban quản lý thôn sẽ xác nhận khoản chi trả bồi thường của Lâm trường cho người dân.

Như vậy gỗ khai thác hợp pháp cần phải có giấy tờ xác nhận trên đây của Ban quản lý thôn.

9

Khai thác gỗ rừng trồng 661 do người dân trồng: Những hộ sử dụng đất của mình để trồng rừng 661 được phép khai thác rừng. Thực ra, do thiếu đất canh tác nên những hộ dân này đã nhiều lần viết đơn lên chính quyền đòi lại diện tích đất mà họ đã sử dụng để trồng rừng trước đây. Trước nhu cầu bức xúc của người dân, tỉnh đã quyết định cho phép các hộ trồng rừng 661 khai thác rừng để lấy đất canh tác. Theo đó, người dân được hưởng 70% và nộp lại cho xã 30% tổng giá trị khai thác. Theo qui định pháp luật, hộ gia đình muốn khai thác rừng trồng phải làm đơn xin khai thác kèm theo phương án khai thác và giửi lên UBND xã để xin giấy phép khai thác. Khi khai thác, hộ gia đình phải lập bảng kê lâm sản có xác nhận của kiểm lâm đồng thời phải nộp thuế tài nguyên. Tuy nhiên, kết quả tham vấn cho thấy trong thực tế người dân thực hiện theo qui trình là: hộ gia đình viết đơn xin khai thác và gửi UBNDX; khi có xác nhận của UBND xã, hộ gia đình bán rừng cây dứng cho người thu mua theo giá thỏa thuận. Hợp đồng được ký kết giữa người hộ gia đình và người thu mua trong đó thỏa thuận hộ gia đình trích lại 30% giá trị rừng bán được cho người thu mua và người thu mua có trách nhiệm nộp cho xã; Người thu mua lập bảng kê lâm sản đồng thời nộp số tiền 30% cho xã. Người dân cho rằng do trình độ hạn chế nên họ không thể tự lập bảng kê lâm sản theo như qui định pháp luật. Hơn nữa, người dân chỉ bán rừng dựa trên diện tích cây đứng cho người thu mua và không có trường hợp nào người dân tự khai thác và tính thành khối để bán, vì vậy họ không thể lập bảng kê lâm sản. Do vậy, người dân đề xuất trường hợp người thu mua có giấy xin khai thác của hộ đã được chính quyền xác nhận và họ tự lập bảng kê lâm sản có xác nhận của cơ quan liên quan đồng thời có chứng từ nộp thuế thì gỗ khai thác của họ phải được xem là hợp pháp. Ngoài ra, người dân còn đề xuất hộ gia đình khai thác rừng phải bồi thường cho những hộ khác về những thiệt hại gây ra do khai thác rừng, và phải có xác nhận của thôn cho khoản bồi thường này. Gỗ khai thác hợp pháp cần phải kèm theo giấy xác nhận này của thôn. Khai thác gỗ rừng trồng do người dân tự trồng: Kết quả tham vấn cho thấy người dân ít nhiều hiểu được qui định pháp lý về khai thác gỗ rừng trồng do hộ gia đình tự trồng. Tuy nhiên, trong thực tế họ không thực hiện theo đúng các qui định này vì không đủ khả năng để làm các thủ tục này do không biết chữ. Tương tự khai thác gỗ rừng trồng 661, người dân bán rừng cây đứng cho người thu mua theo giá thỏa thuận và người thu mua làm toàn bộ các thủ tục như bảng kê khai lâm sản và thậm chí đơn xin phép khai thác rừng để có thể khai thác gỗ rừng trồng một cách hợp pháp. Hộp 2: Người dân bán rừng trồng không theo qui định pháp lý Ông Nguyễn Văn Linh 65 tuổi sống tại thôn 3, xã Thượng Long huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 2007, gia đình ông trồng 1,6 Keo bằng tiền của gia đình trên mãnh đất do gia đình khai hoang và sử dụng từ năm 1982 nhưng vẫn chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2011, gia đình ông bán keo để lấy tiền xây nhà. Người thu mua đầu tiên đến trả ông 3,8 triệu đồng, ông không đồng ý. Một tháng sau, một người thu mua khác đến trả 4,8 triệu đồng và ông đồng ý bán. Người thu mua giao tiền đặt cọc 2 triệu đồng, và sau đó một tháng họ đến khai thác. Trước khi khai thác, người thu mua trả đủ tiền cho ông Linh. Mọi thủ tục giấy tờ pháp lý liên quan người thu mua tự lo liệu, ông Linh không hề biết đến và cũng không quan tâm là người thu mua phải làm những thủ tục gì và họ có phải là người thu mua hợp pháp hay không. Ông cũng không nộp bất cứ khoản tiền gì cho chính quyền địa phương. Trong điều kiện này, người dân đề xuất các hồ sơ pháp lý do người thu mua làm và có xác nhận của hộ gia thì được xem là hợp pháp. Người dân đồng tình với việc đóng thuế môi trường, tuy nhiên để thuận lợi cho người dân thuế này nên thu từ người thu mua gỗ thay vì

10

thu từ hộ gia đình bán rừng. Gỗ có đầy đủ các hồ sơ theo qui định có xác nhận của hộ bán rừng đồng thời kèm theo chứng từ nộp thuế của người thu mua được xem là gỗ hợp pháp. Kết quả tham vấn cộng đồng cho thấy, hiện nay vẫn còn một diện tích rất lớn đất trồng rừng của người dân chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mặc dù diện tích đất này do người dân khai hoang từ những năm 1970 và được sử dụng qua vài ba thế hệ. Người dân cho rằng qui định gỗ hợp pháp phải được khai thác từ rừng trồng trên đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng là không phù hợp, và họ đề xuất gỗ khai thác từ rừng trồng trên đất do người dân tự khai hoang và sử dụng qua nhiều năm cũng nên được xem là gỗ hợp pháp nếu đất đó được sử dụng đúng theo quy hoạch của địa phương và không có tranh chấp.

4.4 Các quy định về vận chuyển gỗ hợp pháp trong nước (Cường) 4.4.1 Vận chuyển gỗ khai thác từ rừng tự nhiên

Tại địa bàn thực hiện tham vấn, gỗ khai thác từ rừng tự nhiên được thực hiện bởi các nhóm đối tượng (1) Cộng đồng và nhóm hộ được giao rừng và nhận khoán quản lý bảo vệ rừng và (2) Cộng đồng, hộ gia đình sống gần rừng nhưng chưa được giao rừng hay nhận khoán quản lý bảo vệ rừng.

Hiện nay hoạt động khai thác gỗ từ rừng tự nhiên vẫn còn diễn ra, một phần là gỗ khai thác hợp pháp (do các chủ rừng và bên nhận khoán rừng thực hiện theo đúng pháp luật) và một phần gỗ khai thác không rõ nguồn gốc (được các cá nhân khai thác tự do, không có giấy phép khai thác của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt). Hoạt động khai thác bất hợp pháp chủ yếu diễn ra trên diện tích rừng của nhà nước quản lý (BLQ rừng phòng hộ quản lý).

Một thực tế cho thấy, gỗ tồn tại ngay trong cộng đồng (dù có nguồn gốc hay không có nguồn gốc rõ ràng) vẫn ít được sự giám sát của kiểm lâm. Nhiều hộ gia đinh cất trữ gỗ bất hợp pháp tại thôn với khối lượng lớn, trong nhiều năm nhưng không ai xử lý.

a) Gỗ khai thác cho xóa nhà tạm, tách hộ:

Gỗ khai thác từ rừng tự nhiên cộng đồng, nhóm hộ được giao khoán hay nhận khoán quản lý bảo vệ rừng chủ yếu cung cấp gỗ cho các hộ xóa nhà tạm hay tách hộ. Lượng gỗ khai thác bình quân cho mỗi cộng đồng hàng năm khoảng 10-12 m3 cho 3-4 hộ gia đình. Gỗ khai thác thương phẩm chưa xảy ra ở địa phương một mặt do chưa có cơ chế hướng dẫn về khai thác gỗ thương phẩm cho rừng cộng đồng (rừng giao hay nhận khoán), ngoài ra vì diện tích rừng tự nhiên giao cộng đồng trữ lượng gỗ thấp (rừng nghèo) nên không có gỗ để khai thác tại thời điểm giao khoán, hay nhận rừng để quản lý bảo vệ.

Quá trình vận chuyển gỗ khai thác cho các hộ xóa nhà tạm hay tách hộ chủ yếu xảy ra quanh địa phương. Sau khi nhận giấy phép khai thác của UBND huyện cấp, các hộ gia đình tiến hành khai thác và vận chuyển gỗ từ rừng tự nhiên về thôn. Gỗ trong trường hợp này được xem là hợp pháp khi có đầy đủ các thông tin sau:

- Có giấy phép khai thác của chính quyền địa phương;

- Gỗ khai thác đúng địa điểm, chủng loại, đủ số lượng và trong thời gian cho phép khai thác (1 tháng);

- Đúng chủ hộ khai thác và không cần có dấu búa của kiểm lâm.

Như vậy đối với rừng cộng đồng hay nhóm hộ, gỗ được vận chuyển được coi là hợp pháp chỉ cần những thủ tục rất đơn giản. Tuy nhiên, vấn đề tồn tại lớn nhất là sẽ xảy ra hiện tượng lợi dụng thủ tục đơn giản này để thực hiện các đợt vận chuyển gỗ bất hợp pháp tại địa phương. Vai trò giám sát của kiểm lâm địa bàn là rất quan trọng để quản lý tốt nguồn gốc gỗ khai thác từ rừng tự nhiên giao khoán cho cộng đồng hay nhóm hộ.

11

So với quy định của pháp luật, quá trình vận chuyển gỗ khai thác cho xóa nhà tạm và tách hộ tại địa phương có điểm khác biệt như sau: Không cần bảng kiểm kê lâm sản có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã. Sau khi hộ gia đình được cấp giấy phép khai thác của UBND huyện và tiến hành khai thác gỗ. Kiểm lâm địa bàn sẽ đến nhà kiểm tra gỗ đủ số lượng, chủng loại và trong thời gian khai thác cho phép để xác minh tính hợp pháp của lô gỗ.

Qua thảo luận với cộng đồng được giao nhận khoán quản lý bảo vệ rừng, nếu rừng có khả năng khai thác gỗ thương phẩm (bán ra bên ngoài cộng đồng) và vận chuyển hợp pháp thì cần các điều kiện sau đây:

- Được giấy phép khai thác của UBND huyện: địa điểm khai thác (rừng đảm bảo đủ trữ lượng khai thác), chủng loại và quy cách (loài được phép khai thác và kích thước tiểu thiếu được phép khai thác), số lượng khai thác, thời gian khai thác và kỹ thuật khai thác bền vững;

- Đại diện cộng đồng hay nhóm hộ tiến hành bài cây dưới sự giám sát của kiểm lâm địa bàn. Kỹ thuật khai thác được tập huấn trước đó. Không cần đơn vị điều tra của tỉnh lên thực hiện vì tốn kém chi phí.

- Kiểm lâm địa bàn hỗ trợ giám sát quá trình khai thác và ký xác nhận vào hồ sơ lô gỗ khai thác và đóng dấu búa kiểm lâm;

Với các thủ tục như trên thì gỗ khai thác có thể được chủ hộ, bên nhận khoán rừng bán và vận chuyển ra khỏi địa phương hợp pháp. Từ đó, giảm đi các chi phí gián tiếp và nâng cao hiệu quả kinh tế nhờ bán gỗ có giá cao.

b) Thủ tục vận chuyển trong mua, bán gỗ cho các đối tượng khác tại địa phương

Trên địa bàn tham vấn có xảy ra các loại hình mua bán, trao đổi sản phẩm gỗ chưa qua chế biến cụ thể như sau:

- Gỗ khai thác từ rừng tự nhiên giao cho nhóm hộ để bán cho các hộ xóa nhà tạm và tách hộ tại địa phương;

- Gỗ mua và bán tự do qua lại trong cộng đồng và;

- Gỗ mua và bán tự do ra khỏi cộng đồng.

Trong đó, gỗ được nhóm hộ khai thác và bán cho các hộ xóa nhà tạm được xem là hợp pháp và đảm bảo đầy đủ các thủ tục theo yêu cầu. Còn gỗ khai thác tự do ở địa phương, không có giấy phép khai thác được xem là gỗ không hợp pháp.

Với thủ tục vận chuyển trong mua gỗ và bán gỗ rừng tự nhiên, cộng đồng đều hiểu rằng cần phải tuân thủ các thủ tục theo quy định của nhà nước. Nghĩa là gỗ khai thác phải có giấy phép khai thác của nhà nước.

Mua bán gỗ rừng tự nhiên ở địa phương là rất ít, chủ yếu đối với các hộ cán bộ có kinh tế cao và một số trường hợp các hộ có nhu cầu mua gỗ ít để làm giường, tủ hay các vật dụng khác trong gia đình. Tại địa phương, khi mua bán thì cả bên mua và bên bán không cần một loại giấy tờ gì. Thỏa thuận giá bán, nếu hai bên đồng ý thì thực hiện. Đặc biệt, người mua cũng hiểu rằng gỗ mua là không hợp pháp nên yêu cầu giấy tờ về nguồn gốc gỗ cũng không có. Sau khi mua, rủi ro bị bắt gỗ thì bên mua chịu thiệt hại hoàn toàn. Thực tế, gỗ mua bán cho những người trong thôn thì chưa có hiện tượng bị bắt gỗ. Trường hợp bán cho bên ngoài thôn, những người mua gỗ phải thực hiện các “thủ tục khác” để hợp lý hóa lô gỗ và được sự chấp nhận của kiểm lâm địa phương. Đa phần gỗ bán tại thôn giá rất rẻ (thấp hơn giá bên ngoài thị trường hơn một nữa, sau khi đã trừ các khoản chi phí theo luật định và chi phí vận chuyển) là do gỗ không rõ nguồn gốc.

12

Trong trường hợp các hộ dân vận chuyển gỗ đi chế biến hay mua gỗ từ các cơ sở sản xuất, điều mà họ quan tâm là giấy phép vận chuyển, theo hiểu biết của người dân thì họ chỉ cần thông báo về ngày giờ, số lượng gỗ cho UBND xã và kiểm lâm. Khi được sự đồng ý của UBND xã và kiểm lâm thì họ yên tâm vận chuyển.

Từ thực tiễn trên, cộng đồng địa phương đề xuất về tính hợp pháp trong mua bán và vận chuyển gỗ khai thác từ rừng tự nhiên như sau:

(1) Gỗ vận chuyển, mua bán phải là gỗ hợp pháp.

(2) Nếu gỗ được mua bán và vận chuyển ra khỏi thôn thì yêu cầu gỗ phải giấy phép khai thác do UBND huyện cấp và bảng kê lâm sản có xác nhận của UBND xã và đóng búa kiểm lâm trên địa bàn huyện. Như vậy, gỗ có thể lưu thông trong huyện, tỉnh hoặc trong nước và cũng có thể xuất khẩu ra bên ngoài;

(3) Đối với trường hợp gỗ mua bán, lưu thông trong thôn phục vụ các lợi ích của cộng đồng (xóa nhà tạm, tách hộ, làm nhà cộng đồng) thì gỗ được xem là hợp pháp khi có giấy phép khai thác của UBND huyện, ký xác nhận của UBND xã và kiểm lâm địa bàn, không cần đóng dấu búa kiểm lâm.

5.4.2 Vận chuyển gỗ khai thác từ rừng trồng tập trung, trồng cây phân tán ở vườn hộ

Từ năm 2010, trên địa bàn các xã tham vấn bắt đầu khai thác gỗ từ rừng trồng tập trung để bán. Loài cây trồng rừng sản xuất gỗ là keo (Acacia spp.), cung cấp gỗ bột giấy cho các cơ sở sản xuất giấy.

Các thủ tục trong quá trình mua bán và vận chuyển gỗ chủ yếu do bên thu mua chịu hoàn toàn trách nhiệm. Trước tiên, chủ thu mua tiến hành thương thảo với các hộ gia đình về giá cả. Nếu hai bên đồng ý sẽ tiến hành bản thỏa thuận mua bán bằng viết tay. Nội dung của bảng thỏa thuận là: vị trí và diện tích rừng trồng, số lượng tiền (tổng số tiền mua, số tiền đặc cọc trước) và thời gian khai thác xong rừng và bàn giao mặt bẳng cho hộ, hai bên ký tên vào bảng thỏa thuận. Sau đó, chủ thu mua tiến hành khai thác và vận chuyển gỗ ra khỏi địa bàn. Các thủ tục tiếp theo để vận chuyển gỗ rừng trồng keo ra khỏi xã, huyện Nam Đông và tỉnh Thừa Thiên – Huế thì người dân không nắm rõ. Ngoài thủ tục duy nhất là trao đổi giá bán và bảng thỏa thuận mua bán với người mua, hộ gia đình không cần làm bất cứ các thủ tục nào khác.

Kết quả thảo luận nhóm cho thấy các hộ gia đình bán gỗ rừng trồng keo cũng có biết sơ bộ về thủ tục theo quy định của nhà nước. Tuy nhiên các hộ gia đình không thực hiện mà giao cho bên thu mua thực hiện bởi các lý do như sau:

(1) Diện tích rừng trồng và khối lượng bán ít, manh mún nên đi làm mất thời gian;

(2) Nhiều hộ không biết chữ, không quen việc, đi lại xa xôi (lên xã, lên huyện...) rồi lại tốn kém hơn nhiều và không hiệu quả. Chủ thu mua rừng của nhiều hộ, diện tích rộng lớn, khối lượng khai thác nhiều đi làm một lần sẽ đỡ tốn kém và hiệu quả hơn từng hộ;

(3) Không biết giá cả bán sản phẩm trong khi độc quyền đơn vị thu mua, nên khi tự làm thủ tục thì bán không ai mua hoặc bán với giá rất thấp. Như vậy, tính toán bị thiệt hại kinh tế hơn nhiều khi giao trọn gói cho bên mua thực hiện

(4) Cơ chế quản lý nhà nước nhiêu khê, xin thủ tục ở cấp xã, huyện tốn nhiều thời gian. Thay vào đó phải chạy đi chạy lại cùng với các chi phí gián tiếp khác.

Để khắc phục những khó khăn trên và đảm bảo gỗ khai thác từ rừng trồng hợp pháp cũng như bán với giá cao, các nhóm hộ có những đề xuất như sau:

13

(1) Gỗ có hồ sơ rõ ràng nhưng thủ tục đơn giản: Hộ gia đình viết tờ trình gửi xã, xã kết hợp với kiểm lâm địa bàn rà soát và ký xác nhận (vị trí, diện tích rừng, năm trồng, loài cây và ước lượng trữ lượng gỗ khai thác).

(2) Thủ tục vận chuyển: Chỉ cần giấy xác nhận của UBND xã và kiểm lâm địa bàn về lô gỗ rừng trồng là đủ. Trong quá trình vận chuyển đóng các khoản chi phí theo luật định khi vận chuyển gỗ ra khỏi địa phương.

(3) Hộ gia đình, cá nhân phải tự làm các thủ tục để khai thác và vận chuyển nhằm tăng thêm nguồn thu từ rừng, thay vì phải để bên thu mua làm thủ tục và mua với giá thấp hơn. Đại diện các hộ gia đình tiến hành làm thủ tục, khai thác và vận chuyển sẽ hiệu quả hơn nhiều so với việc bán gỗ cho các tư thương.

Hiện nay trên địa phương có trồng cây phân tán, trong vườn hộ hoặc trang trại nhằm mục đích lấy gỗ lớn (sao đen, dầu rái, sến trung, kiền kiền, lim xanh, gỗ, huỷnh, mít...). Diện tích trồng các loài cây này chưa đến tuổi khai thác. Tuy nhiên, theo đề xuất của cộng đồng thủ tục khai thác và vận chuyển gỗ này tương tự như gỗ khai thác từ rừng tự nhiên nhưng thủ tục đơn giản hơn, cụ thể là:

(1) Hộ gia đình viết giấy lên xã (có cả kiểm lâm địa bàn): loài cây, diện tích, vị trí trồng, số lượng khai thác;

(2) Kiểm lâm địa bàn xác nhận để khai thác;

(3) Khi vận chuyển, chỉ cần giấy xác nhận của UNND xã (cùng kiểm lâm địa bàn xác nhận) là có thể vận chuyển gỗ để lưu thông, mua bán trên thị trường.

4.5 An toàn về môi trường Quản lý rừng có trách nhiệm là một khái niệm thường được nhắc đến trong việc bảo tồn rừng bền vững. Theo khái niệm này thì tiêu chí về an toàn môi trường trong khai thác lâm sản cũng là một tiêu chí quan trọng để quản lý rừng có trách nhiệm. Trong báo cáo này, an toàn về môi trường trong khai thác lâm sản được nhìn nhận trên 02 khía cạnh là bảo tồn tài nguyên rừng & đa dạng sinh học và những đóng góp trong việc đảm bảo môi trường sống của các cộng đồng dân cư sống gần rừng. Đảm bảo an toàn môi trường trong khai thác rừng được nhấn mạnh qua 3 giai đoạn là trước khi khai thác, trong khi khai thác và sau khi khai thác. Vấn đề an toàn môi trường trong khai thác lâm sản cũng đã được đề cập trong thông tư 35/2011/TT-BNNPTNT ngày 20/5/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về hướng dẫn thực hiện khai thác, tận thu gỗ và lâm sản ngoài gỗ. Tại điều 05 của thông tư này thì trước khi khai thác, tận thu gỗ chủ rừng là tổ chức có khai thác rừng theo phương thức khai thác chính phải xây dựng Phương án điều chế rừng hoặc Phương án quản lý rừng bền vững. Điều 06 của thông tư cũng đã chỉ ra chủ rừng là hộ gia đình có khai thác rừng theo phương thức khai thác chính, khai thác gỗ phục vụ cho nhu cầu hàng năm từ rừng tự nhiên phải xây dựng phương án khai thác. Để hướng dẫn xây dựng Phương án điều chế rừng và phương án khai thác thì Bộ NN&PTNT cũng đã ban hành quyết định 40 ngày 07 tháng 07 năm 2005 về quy chế khai thác gỗ và lâm sản. Theo quyết định 40 thì các chủ rừng là tổ chức hay hộ gia đình đều phải tiến hành hàng loạt các nội dung của công tác thiết kế khai thác trong xây dựng phương án điều chế hay phương án khai thác. Thực hiện đầy đủ các nội dung của công tác thiết kế cũng sẽ đảm bảo được vấn đề an toàn về môi trường trong khai thác rừng. Tuy nhiên, quyết định 40 đã không đề cập đến sự tham gia của người dân sinh sống gần khu rừng của các tổ chức được quyền tham gia vào quá trình xây dựng phương án điều chế hay phương án khai thác của các chủ rừng. Bảo tồn tài nguyên rừng và đa dạng sinh học: Kết quả tham vấn tại huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế đối những cộng đồng tham gia nhận khoán rừng, những cộng đồng được giao rừng, những cộng đồng sống gần các khu rừng của Ban quản lý rừng phòng hộ cho thấy

14

họ đã không nhận thức đầy đủ về việc bảo tồn tài nguyên rừng và đa dạng sinh học mà nguyên nhân chính đó là do họ không được cung cấp thông tin đầy đủ cũng như không được chứng kiến quá trình khai thác gỗ của các chủ rừng là các tổ chức quản lý rừng đóng trên địa bàn. Hơn 80% người dân địa phương được tham vấn đều nhận định là trước khi tiến hành khai thác, trong khu rừng có rất nhiều loại gỗ quý (lim, kiền, gõ, trâm…) nhưng sau khi những khu rừng này bị khai thác thì hầu như các loại gỗ quý này đều đã không còn, thậm chí cây con của các giống gỗ quý này cũng không được tìm thấy. Sự biến mất của một số loại cây gỗ quý đã tác động rất mạnh đến nhận thức của người dân trong cộng đồng và như một hệ quả, người dân trong cộng đồng cũng đã có những nhận thức sai lệch về sự cần thiết trong đảm bảo đa dạng sinh học và bảo tồn tài nguyên rừng. Bảo tồn đa dạng sinh học trong khai thác gỗ theo người dân địa phương là việc làm cần thiết, họ nhận thấy việc làm này thực sự rất có ý nghĩa cho cộng đồng mình không chỉ trước mắt mà còn lâu dài. Có nhiều giải pháp đã được cộng đồng đề xuất như cách thức chặt cây gỗ, chọn hướng cây ngã đỗ hay làm giàu rừng. Nhưng hơn bao giờ hết, người dân nhận thấy việc quan trọng nhất là cần thay đổi nhận thức của người dân về bảo tồn tài nguyên rừng, muốn vậy cần phải để họ tham gia cùng với các công ty, các ban quản lý vào các hoạt động trồng và khai thác rừng. Đảm bảo môi trường sống của các cộng đồng dân cư sống gần rừng: Việc khai thác rừng của các công ty, ban quản lý rừng phòng hộ tại các khu rừng phân bố gần cộng đồng đã ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân. Nguồn nước khe suối bị nhiễm bẫn, lượng nước trong các khe suối bị giảm mạnh vào mùa khô, sạt lỡ đất, mất đất sản xuất và đường sá bị hư hỏng là những tác động môi trường mà tất cả cộng đồng tham vấn trên địa bàn huyện Nam Đông đều nêu ra trong đợt tham vấn. Công ty Long Phụng được UBND tỉnh cho phép khai thác gỗ tại khu vực rừng phòng hộ gần cộng đồng dân cư của 02 xã Thượng Long và Thượng Quảng huyện Nam Đông, công ty Phạm Khanh được khai thác gỗ rừng trồng tại khu vực đồi Dù xã Thượng Long. Thực tế cho thấy việc khai thác đã gây ra nhiều tác động về môi trường đối với các cộng đồng dân cư sống gần rừng. 100% người dân được tham vấn đều nhận định việc khai thác rừng đã làm cho nguồn nước suối bị ô nhiễm. Người dân thôn 2 xã Thượng Long và thôn 4 xã Thượng Quảng cho biết khi khai thác gỗ dòng suối AKa và suối ARươi đã bị tác động mạnh mẽ, nước suối chuyển từ màu xanh sang màu đỏ của đất rừng, trước đây trong mùa khô thì dòng suối này vẫn là nơi cung cấp nước cho các hoạt động về sinh hoạt và sản xuất cho người dân, nhưng khi khai thác rừng vào mùa khô thì nước dòng suối bị cạn kiệt nghiêm trọng, người dân không có đủ nước để sản xuất và sinh hoạt. Một vấn đề môi trường khác mà hầu hết các cộng đồng đều xác định là hoạt động khai thác rừng của các công ty đã làm mất diện tích đất sản xuất của người dân do đường vận chuyển gỗ đi ngang qua diện tích đất canh tác của hộ. Tại thôn 3 xã Thượng Long có 12 hộ bị mất đất do làm đường vận chuyển, tại thôn 4 xã Thượng Long có 10 hộ, tại thôn 4 xã Thượng Quảng có 7 hộ. Việc mất đất canh tác của người dân thường không được thông báo trước, người dân chỉ biết mất đất khi sự việc đã diễn ra và người dân không còn cách nào khác đành phải chấp nhận cho xe chở gỗ chạy qua khu vực đất sản xuất của mình. Bên cạnh vấn đề về ô nhiễm nguồn nước, mất đất sản xuất thì việc vận chuyển gỗ cũng đã làm hư hỏng các tuyến đường trong thôn, thôn 4 có 30 mét đường bị hư hại, thôn 3 có 20 mét đường bị hư hỏng.

15

Hộp 3: Ông Hồ Văn Pua sống tại thôn 4 xã Thượng Long có 1 ha trồng keo, 1 ao cá với diện tích khoảng 70 m2, ngoài ra gia đình ông cũng có chăn nuôi lợn. Năm 2011, khi công ty Phạm Khanh tiến hành khai thác gỗ tại khu vực đồi Dù cũa xã Thượng Long đã làm xáo trộn cuộc sống của gia đình. Hoạt động khai thác gỗ của công ty với việc làm đường vận chuyển gỗ đã làm cho gia đình ông mất 0,07 ha cây cao su (gần 31 cây), một loại cây trồng có giá trị kinh tế cao và mang lại nguồn thu nhập cho hộ, gia đinh ông cũng đã được công ty đền bù với số tiền là 200.000 VNĐ/cây cao su nhưng ông không hài long vì số tiền này là thấp hơn nhiều so với số tiền mà những cây cao su bị ngã có thể mang lại cho ông. Theo ông, số tiền đền bù chưa bằng thu nhập của 31 cây cao su đó mang lại cho gia đình ông trong một năm. Tuy nhiên, ông không có cách nào khác là đành phải chấp nhận việc đền bù. Nguồn nước mà gia đình ông sử dụng chủ yếu lấy từ suối AKa, thời gian đầu khi tiến hành khai thác rừng, do bụi bẫn và đất lỡ trong quá trình khai thác, dòng suối AKa bị nhiễm bẫn nên gia đình ông phải lấy nước về và để cho nước lắng đọng thì sử dụng, tuy nhiên một thời gian sau thì mực nước trong dòng suối AKa bị giảm xuống nghiêm trọng, ao cá của ông không có nước vào nên ông cũng không nuôi được cá, thiệt hại cho gia đình ông gần 2,5 triệu đồng/năm. Các hoạt động về chăn nuôi lợn cũng tạm thời phải ngưng lại do thiếu nước. Để có nước sử dụng, gia đình phải đi vào những khe suối nhỏ ở xa hơn để lấy nước, xa hơn 4-5 lần so với đi lây nước tại suối Aka. Thiếu nước sản xuất do rừng bị khai thác nhiều đã làm ảnh hướng đến đới sống gia đình ông cũng như làm giảm nguồn thu cho gia đình. Có thể thấy hoạt động khai thác gỗ đã có những tác động không nhỏ về vấn đề an toàn môi trường, những cộng đồng phân bố tại các khu rừng là những đối tượng chịu tác động trực tiếp nhất. Để có thể thực hiện được việc đảm bảo an toàn môi trường trong khai thác gỗ thì cộng đồng thôn có 02 nhóm đề xuất - Đối với cộng đồng khai thác gỗ: (i) Phải trích nộp 2-5% số tiền có được từ việc bán gỗ để sử dụng vào việc duy tu, bảo dường các công trình công cộng; (ii) Khi khai thác phải có sự giám sát của cán bộ kiểm lâm địa bàn. - Đối với công ty và Ban quản lý: (i) Trước khi tiến hành khai thác, BQL và công ty phải họp với cộng đồng để công khai số lượng, diện tích, loại cây được khai thác tại địa phương; (ii) Các cộng đồng sống gần kề được quyền cử người tham gia giám sát quá trình khai thác, (iii) Trích nộp 3-5% doanh số của việc khai thác cho cộng đồng để duy tu, bảo dưỡng các công trình, (iv) Khi khai thác phải tiến hành trồng dặm ngay tức khắc, không được khai thác trắng. Nhìn chung, vấn đề đặc biệt quan tâm của cộng đồng là cần tăng cường vai trò của họ trong các hoạt động liên quan đến khai thác gỗ. Theo họ gỗ được khai thác bởi Ban quản lý hay công ty chỉ có tính pháp lý khi các hồ sơ liên quan đến việc khai thác gỗ có được sự tham gia của cộng đồng và được cụ thể hoá bằng chữ ký của đại diện cộng đồng trong các giấy tờ liên quan đến thủ tục khai thác gỗ hợp pháp.

4.6 An toàn về xã hội An toàn xã hội trong khai thác gỗ được nhìn nhận là các quyền hợp pháp và truyền thống của người bản địa về sở hữu sử dụng và quản lý tài nguyên được công nhận và tôn trọng. Để đảm bảo an toàn xã hội trong quản lý và khai thác gỗ thì một yêu cầu cơ bản là cộng đồng cần phải được tham gia đầy đủ và có hiệu quả trong quá trình lập kế hoạch khai thác, thiết kế khai thác và khai thác gỗ. Bên cạnh đó, cơ chế chia sẽ lợi ích cũng là thành tố quan trọng để đảm bảo an toàn xã hội. Sự tham gia đầy của cộng đồng trong quá trình lập kế hoạch khai thác và khai thác gỗ: Đối với việc khai thác lâm sản được thực hiện bởi người dân trong cộng đồng thì an toàn xã hội trong khai thác lâm sản không phải là vấn đề lớn vì hầu như trong tất cả các hoạt động

16

liên quan đến khai thác lâm sản đều có tham khảo ý kiến của người dân trong cộng đồng. Thời gian gần đây, những cộng đồng có thực hiện các hoạt động liên quan đến lâm sản đã cụ thể hoá những quy định về khai thác lâm sản trong các quy ước, hương ước. Tất cả các quy ước hay hương ước đều đã được soạn thảo công khai với sự tham gia đóng góp ý kiến của phần lớn các thành viên trong cộng đồng, những quy ước và hương ước này đã trở thành chuẩn mực để áp dụng tại cộng đồng. Có thể thấy các quyền của người bản địa đã được cộng đồng tôn trọng và công nhận trong phạm vi cấp thôn, cấp xã. Tuy nhiên các hoạt động khai thác lâm sản do các công ty hay Ban quản lý tiến hành vẫn chưa chú trọng nhiều đến yếu tố an toàn xã hội. Tất cả cộng đồng được tham vấn đều cho là hoạt động khai thác lâm sản của công ty, của các Ban quản lý trên thực tế đã không tôn trọng quyền của người dân bản địa. Người dân không được tham gia vào bất kỳ hoạt động nào của quá trình khai thác, thậm chí dù đó là hình thức tham gia thấp nhất (chỉ được nhận tin), họ không được thông báo về kế hoạch khai thác, không được thông báo về thiết kế khai thác. Việc không được tham gia vào quá trình quá trình lập kế hoạch khai thác, thiết kế khai thác và khai thác gỗ đã cho thấy quyền của người dân bản địa không được tôn trọng. Khi tiến hành sử dụng và khai thác gỗ, bên cạnh những vấn đề về môi trường mà cộng đồng đã nêu ra thì họ cũng cho là có một số vấn đề xã hội đối với bản thân các cộng đồng. Cộng đồng không được tạo cơ hội việc làm. Theo cách giải thích từ cộng đồng thì họ đã không được các công ty hay Ban quản lý rừng phong hộ thuê sử dụng trong quá trình khai thác lâm sản nên họ đã không có được việc làm. Đồng thời khi khai thác lâm sản cũng đã làm cho một số lâm sản ngoài gỗ bị cạn kiệt, vì vậy người dân cũng mất đi việc làm và nguồn thu nhập đáng kể; Tranh chấp đất giữa ban quản lý và người dân bản địa. Việc tranh chấp đất xảy ra vì người dân địa phương bị mất diện tích đất rừng mà họ đã sử dụng từ xa xưa để canh tác một số loại cây lương thực (lúa, sắn) nhưng sau đó bị thu hồi bởi lâm trường, mất đất canh tác người dân thiếu tư liệu sản xuất nên họ thường cố gây sức ép lên Ban quản lý rừng phòng hộ bằng việc chặt phá những loại cây mà Ban quản lý trồng trên diện tích trước đây họ canh tác. Những việc làm này tạo ra sự tranh chấp, xung đột giữa người dân địa phương với Ban quản lý rừng phòng hộ.

Hộp 4: Trước năm 1995 gia đình ông Hồ Thanh Thức, 70 tuổi sống tại thôn 1 xã Thượng Long đã khai hoang diện tích rừng khoảng 3 ha để trồng lúa Ba Trăng và sắn nếp tại khu vực đồi Dù, cách trung tâm của thôn khoàng 3 km. Nhờ vào việc trồng lúa và sắn mà gia đình ông có được cái ăn. Ông Thức sử dụng diện tích đất rừng được 05 năm, từ năm 1995 đến năm 1999 mặc dù diện tích đất này không có thẻ đỏ nhưng theo ông đó là diện tích đất thuộc về chủ quyền của ông. Đến năm 2000 toàn bộ diện tích đất của gia đình ông bị Ban quản lý rừng phòng hộ Nam Đông thu hồi để trồng keo, khi bị thu hồi đất gia đình ông đã không được ban quản lý giao khoán để quản lý diện tích rừng keo, Ban quản lý cũng không có bất kỳ sự hỗ trợ nào cho gia đình ông Thức. Năm 2011, BQL rừng phòng hộ Nam Đông tiến hành thanh lý diện tích rừng keo trồng trên đất của gia đình ông Thức. Ngay sau khi keo bị chặt hạ, BQL rừng phòng hộ Nam Đông đã tiến hành trồng lại keo, gia đình ông Thức cũng vào lại diện tích rừng đó và chặt bỏ các cây keo con để trồng lại cao su và sắn. Ban quản lý rừng phòng hộ Nam Đông và gia đình ông Thức đã nhiều lần thảo luận để giải quyết tranh chấp về đất đai này, tuy nhiên sự việc vẫn chưa có kết quả rõ rệt. Cơ chế chia sẽ lợi ích từ khai thác rừng: Theo ý kiến của các cộng đồng được tham vấn thì cơ chế hưởng lợi của những cộng đồng được giao khoán đã được cụ thể hoá trong các hợp đồng giao khoán, cơ chế hưởng lợi của những cộng đồng được giao rừng tự nhiên mặc dù còn nhiều vấn đề cần phải bàn, đặc biệt là việc thương mại hoá gỗ rừng tự nhiên trong các khu rừng do cộng đồng quản lý nhưng nhìn chung các cộng đồng cũng đã xác định được cơ chế hưởng lợi của những thành viên tham gia quản lý rừng cộng đồng thông qua nhưng quy ước,

17

hương ước. Ví dụ cộng đồng thôn 4 xã Thượng Quảng đã xác lập cơ chế hưởng lợi của cộng đồng mình là sẽ ưu tiên cho những hộ nghèo có nhu cầu khai thác gỗ để làm nhà, mỗi lần khai thác thì hộ phải nộp cho cộng đồng 200.000 VNĐ/m3, khi khai thác lâm sản phụ thì hộ được giữ 60% và nộp cho cộng đồng 40%. Nhìn chung, trong nội bộ cộng đồng đã hình thành cơ chế chia sẻ lợi ích cho riêng mình, tuy nhiên cơ chế chia sẽ lợi ích giữa cộng đồng với các chủ rừng khác như Ban quản lý rừng phòng hộ thì vẫn chưa được cụ thể hoá, tất cả những cộng đồng được tham vấn đều không đồng tình với các chủ rừng đóng trên địa bàn trong việc chia sẽ lợi ích vì họ gần như không được các chủ rừng chia sẽ lơi ích khi họ tiến hành khai thác gỗ. Nhiều cộng đồng cũng đã đề xuất các chủ rừng cần phải trích nộp lại cho cộng đồng 3-5% doanh thu từ việc khai thác gỗ để cộng đồng duy tu, bảo dưỡng các cơ sở hạ tầng của cộng đồng bị hư hại và việc phân chia phải được tiến hành công khai minh bạch thông qua việc công bố cho người dân về kế hoạch khai thác và số tiền mua bán gỗ cho cộng đồng tại các cuộc họp thôn. Một lần nữa, theo đề xuất của cộng đồng thì người dân phải được chia sẽ lợi ích từ việc khai thác rừng và được đảm bảo quyền lợi của mình bằng việc tham gia vào các hoạt động khai thác gỗ trên địa bàn mình, chữ ký xác nhận của các cộng đồng sống gần rừng là một tiêu chí quan trọng cho việc xác lập tính hợp pháp của gỗ.

V. Kết luận và đề xuất

5.1 Kết luận Bốn nhóm đối tượng quản lý và sử dụng rừng và đất rừng trên địa bàn huyện Nam Đông đó là hộ gia đình cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ quan đơn vị nhà nước và UBND huyện/xã. Trong đó, hộ gia đình cá nhân và cộng đồng dân cư chủ yếu quản lý và sử dụng rừng và đất rừng sản xuất. Mặc dù hoạt động giao đất giao rừng cho hộ gian đình/cộng đồng được thực hiện hơn 10 năm qua, nhưng diện tích rừng và đất rừng giao cho hộ gia đình và cộng đồng dân cư chiếm tỉ lệ nhỏ so với tổng diện tích toàn trên toàn huyện. Khai thác gỗ rừng tự nhiên trên địa bàn huyện chủ yếu được thực hiện bởi Lâm trường, nay là Ban quản lý rừng phòng hộ. Mặc dù Lâm trường khai thác gỗ theo đúng các qui định pháp lý hiện hành, tuy nhiên người dân không cho rằng đây là gỗ hợp pháp vì Lâm trường chưa thực hiện các trách nhiệm với người dân/cộng đồng bị ảnh hưởng bởi việc khai thác rừng. Người dân, ngay cả cộng đồng được giao rừng để quản lý bảo vệ trong 50 năm, chỉ được phép khai thác gỗ rừng tự nhiên để sử dụng làm nhà ở nhưng không được phép khai thác cho mục đích thương mại. Vì vậy, lượng gỗ rừng tự nhiên do người dân khai thác (không kể khai thác lậu) là không đáng kể và việc vận chuyển gỗ rừng tự nhiên do dân khai thác chỉ nằm trong phạm vi thôn, xã mà thôi. Rừng trồng trên địa bàn huyện bao gồm rừng do Lâm trường trồng bằng vốn ngân sách nhà nước và rừng do dân trồng bằng vốn ngân sách nhà nước hoặc dân tự đầu tư. Rừng trồng bằng vốn ngân sách nhà nước chủ yếu là do Ban quản lý rừng phòng hộ khai thác. Tương tự với rừng tự nhiên, người dân cũng không chấp nhận tính hợp pháp của gỗ rừng trồng do lâm trường khai thác và lý do chủ yếu là BQLRPH trồng rừng trên đất khai hoang của dân nhưng không chia sẻ lợi ích khai thác rừng cho dân. Hầu hết các hộ gia đình không trực tiếp khai thác rừng trồng của họ mà chỉ bán rừng cây đứng cho người thu mua. Người thu mua khai thác đồng thời làm tất cả các thủ tục pháp lý liên quan trong quá trình mua và vận chuyển gỗ. Khai thác rừng gây ra những tác động xấu đối với môi trường và gây ra những thiệt hại không nhỏ đối với người dân sống gần khu vực rừng khai thác. Tuy nhiên, người dân không được tham gia vào quá trình xây dựng phương án điều chế rừng, xây dựng thiết kế khai thác rừng của Lâm trường và Lâm trường cũng không thông qua cộng đồng về các hồ sơ thủ tục khai thác rừng.

18

5.2 Đề xuất của người dân 1) Các đơn vị khai thác phải thực hiện các trách nhiệm đối với người dân/cộng đồng sống gần khu vực rừng khai thác, bao gồm: đền bù cho người dân về các thiệt hại do khai thác rừng gây ra; Đóng góp lệ phị cho địa phương (thôn, xã) để đầu tư sửa chữa các công trình công cộng bị hư hại do khai thác và vận chuyển gỗ và để hỗ trợ cho công tác quản lý bảo vệ rừng của địa phương. 2) Người dân cần được tham gia vào việc xây dựng phương án điều chế rừng và thiết kế khai thác rừng, hoặc ít ra các đơn vị khai thác phải thông qua cộng đồng các hồ sơ thủ tục pháp lý trước khi tiến hành khai thác rừng để cộng đồng có thể giám sát được hoạt động khai thác, ngăn chặn việc lạm dụng khai thác vượt mức cho phép. 3) Đối với rừng giao cho cộng đồng quản lý bảo vệ lâu dài (50 năm) đã có kế hoạch quản lý sử dụng rừng 5 năm do chính quyền huyện và các cơ quan chuyên môn phê duyệt, cộng đồng chỉ cần xin phép UBND là có thể khai thác gỗ hợp pháp thay vì phải theo đúng các thủ tục theo qui định của các văn bản pháp lý hiện hành (Thông tư 35). 4) Đất đai do người dân tự khai hoang và sử dụng trong thời gian lâu dài, được cộng đồng thừa nhận theo luật tục của địa phương và không có tranh chấp thì cần được xem là đất hợp pháp mặc dù chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Và như vậy, gỗ khai thác từ rừng trồng trên đất này cũng phải được xem là gỗ hợp pháp. 5) Đối với rừng trồng của hộ gia đình, các hồ sở thủ tục pháp lý liên quan đến khai thác và vận chuyển gỗ do người thu mua gỗ đứng ra làm thay cho hộ gia đình bán rừng nên được xem là hợp pháp và cần phải có những qui định và hướng dẫn cụ thể trong trường hợp này. 6) Đối với gỗ khai thác từ cây trồng phân tán trong vườn nhà, trang trại, …, chỉ cần có đơn xin khai thác và bản kê lâm sản do xã và kiểm lâm địa bàn xác nhận thì gỗ được xem là hợp pháp và có thể lưu thông, mua bán trên thị trường. 7) Hộ gia đình và cộng đồng nhận khoán cần được tập huấn về các thủ tục pháp lý trong khai thác và vận chuyển gỗ, đồng thời cần được tập huấn về các kỹ thuật bài cây để họ có thể tự làm dưới sự giám sát của các cơ quan chuyên môn nhằm giảm chi phí và đơn giản hóa thủ tục trong khai thác.

19

Phụ lục:

Phụ lục 1: Tổng hợp thông tin từ thảo luận nhóm

TỔNG HỢP 1 1/ Về khai thác gỗ từ rừng tự nhiên

-Thực trạng: Từ năm giao rừng cho cộng đồng thôn quản lý năm 2007 đến nay, trong thôn có khoảng 14 hộ được phép khai thác gỗ. Một số loài cây được người dân khái thác chủ yếu là chò, đào và và các loài gỗ tạp khác. Các hộ được khai thác gỗ để làm nhà. Đối tượng là các hộ nghèo xóa nhà tạm, tách hộ.

Theo người dân, gỗ được khia thác từ rừng tự nhiên nhưng đảm bảo hợp pháp là phải có giấy phép của UB xã và gỗ không có dấu búa. Người dân chỉ cần được thôn xác nhận hoàn cảnh bằng một biên bản họp thôn và tở trình gửi đến UB xã. Nếu xã đồng ý thì người dân được phép khai thác. Trưởng thôn và các tổ trưởng cùng người khai thác sẽ chọn cây, quá trình này không có sự tham gia của cán bộ kiểm lâm.

Cán bộ kiểm lâm chỉ kiểm tra khối lượng gỗ khai thác có đúng với yêu cầu ban đầu hay không, nếu dư thì sẽ tịch thu phần dư.

Đề xuất: Chỉ cần có giấy xác nhận của thôn để gửi lên xã. Và giấy phép của UBND xã hoặc huyện là đủ.

Gỗ chỉ được dùng trong phạm vi gia đình nên không cần dâu búa Kiểm lâm.

* Về trường hợp khai thác gỗ cho mục đích thương mại thì người dân không đưa ra được đề xuất vì hiện tại người dân không nắm được thủ tục nên không biết có khó khăn gì.

2/ Khai thác ( và mua bán) gỗ từ rừng trồng

Thực trạng: Hiện nay hầu hết người dân bán gỗ keo không cần một loại giấy tờ gì. Họ đồng ý bán keo cho chủ thu mua khi cả hai bên thỏa thuận và đồng ý giá bán. Hai bên chỉ cần giấy xác nhận là đã nhận đủ tiền, có xác nhận của UB xã. Nguyên nhân là do người dân không nắm được thủ tục hay yêu cầu nào khi bán keo, nếu có thì cũng không đi làm do diện tích ích, trình độ thấp, không biết làm ở đâu, hoặc gặp ai. Và người dân nghĩ nếu có giấy tờ thì do người mua họ làm hết cả và không biết họ làm khi nào.

Đề xuất: Nếu người dân có diện tích trồng keo lớn thì người dân sẽ tự chủ động đi làm, như vậy thì cần có quy định cụ thể là bao nhiêu ha trở lên thì cần phải làm.

Vì người dân mua bán nhỏ lẻ, gỗ không có giấy tờ nên chỉ cần giấy xác nhận giữa hai bên là đã nhận tiền giữa hai bên.

3/ Khai thác gỗ tận thu, tận dụng gỗ từ rừng tự nhiên

Thực trạng: Hiện nay, người dân không khai thác các cây cháy, ngã đổ, cong keo. Theo người dân cho hay các loài này chỉ dùng để làm củi, nhưng hiện nay người dân có thể tận dụng gỗ keo trên nương rẫy về làm củi, đỡ tốn công vào rừng khai thác củi. Trước đây, nêu người dân vào rừng lấy củi thì chỉ chặt những cây nhỏ, cành nhành nhỏ, không phân biệt các cây gỗ quý.

Đề xuất: Người dân không quan tâm về các loài cây gỗ này nên không muốn biết về các thủ tục này

4/ Mua – bán gỗ từ rừng tự nhiên

* Gỗ rừng tự nhiên

Thực trạng:

20

Người dân không mua gỗ có dấu búa kiểm lâm vì theo người dân nghĩ dó là gỗ bất hợp pháp bị kiểm lâm tịch thu rồi mới bị đóng búa.

Theo người dân nếu mua gỗ từ rừng tự nhiên mà được gọi là hợp pháp thì phải có giấy phép của UB xa hoặc huyện. Người mua gỗ sẽ mua giấy phép này từ những người đã có giấy phép nhưng do điều kiện khai thác còn hạn chế như sức người hay dụng cụ khai thác còn hạn chế nên họ bán lại. Và người mua là người trực tiếp vào rừng khai thác gỗ. Như vậy, người dân mua gỗ là mua gỗ còn trên rừng và có giấy phép khai thác là gỗ đó là hợp pháp.

Trường hợp người dân mua gỗ đã được khai thác thì không cần giấy tờ gì vì người dân không quan tâm là gỗ có hợp pháp hay không. Người dân chỉ mua gỗ từ các hộ khác trong thôn nên cũng không yêu cầu giấy tờ gì để đảm bảo. Nếu trong quá trình vận chuyển bị kiểm lâm bắt thì người mua đành chụi và bị tịch thu nhưng hầu như không bị bắt.

Đề xuất: giấy phép khai thác của UBND, giấy nhận tiền giữa hai bên mua và bán

5/ An toàn môi trường

Thực trạng: Rừng tự nhiên do thôn 4 quản lý thuộc diện rừng phòng hộ. Trước đây trong rừng có các loài cây gỗ quý như lim, kiền, gõ…nhưng do chiến tranh tàn phá và người dân khai trác quá nhiều nên hiện nay trong rừng không cong các loài cây gỗ quý nữa mà chủ yếu là các loài gỗ nhóm IV. V như chò, đào.

Một số ảnh hưởng do quá trình khai thác rừng gây ra là: nắng hạn, lũ lụt, sạt lở, ảnh hưởng đến môi trường, dịch bệnh. Năm 2006, khi cơn bão số 6 đi qua thì trong thôn có xảy ra bệnh dịch tả. Theo bà con thì là do nguồn nước bà con sử dụng là nước tự chảy, nước mùa này đục 24/24.

Khi khai thác người dân thường chọn cây ở những khu vực bằng phẳng, không quá dốc. Theo bà con chặt ở những khu vực này thì khi cây ngã không bị văng xa và ít càn quét rừng khi cây đổ và lăn. Bà con cũng chọn hướng cây đổ tránh những hướng có nhiều cây non tái sinh.

Đề xuất: Hỗ trợ giống cây bản địa như sến cho người dân trồng.

Hy vọng có các dự án hỗ trợ thôn để trồng cây bản địa và cây mây.

6/ An toàn về xã hội

Thực trạng: Các lâm trường khi khai thác gỗ không có họp thôn để thông báo thời gian, kế hoạch khai thác và không có một khoản đóng góp nào cho thôn

Đề xuất: Lâm trường nên tiến hành họp thôn vì gỗ lâm trường khai thác là gỗ thương mại, gỗ được bán đi. Và như thế là ảnh hưởng đến lợi ích của người dân trong thôn. Các lâm trường nên trích khoảng 500-600.000đ/m3 cho thôn đẻ thôn sử dụng vào việc chi trả cho người dân tham gia tuần tra, bảo vệ rừng, phát dọn dây leo hoặc sữa chửa đường xá khi có hư hỏng do xe của lâm trường.

Nếu có quy chế về mức thu phí thì cần đồng bộ giữa các thôn, đảm bảo tính công bằng và được xã phê duyệt mới được tiến hành.

7. Cơ chế chia sẻ lợi ích

Thực trạng: Trong thôn đã xây dựng quy chế riêng là mỗi hộ được phép khai thác gỗ làm nhà thì phải nộp lại thôn 100.000đ/m3. Số tiền này được dùng cho việc bồi dưỡng tuần tra, tiền nước cuộc họp thôn xác nhận. Cuộc họp thôn diễn ra công khai, có giám sát và biên bản. Tổ trưởng các nhóm phải báo lại cho trưởng thôn. Theo người dân số tiền 100.000Đ là vừa đủ không cần cao hơn nữa vì thôn đã có quy chế và người dân đã thông qua. Trừ mọi chi phí như tiền công, ăn uống, phí nộp thôn thì người được khai thác còn lợi khoảng 50% giá trị gỗ khai thác, nhưng quan trọng là có gỗ

21

Đề xuất: Thôn thống nhất và có quy chế rõ ràng và đã thống nhất nên không cần thay đổi gì hơn nữa về khoản tiền đóng góp cho thôn.

Cần có quy chế, quy ước rõ ràng về hình thức xử phạt giữa các thôn với nhau để bảo vệ rừng tốt hơn vì hiện tại giữa các thôn còn châm chước khi phải xử phạt người khác.

-------------------------------------------------------------------------------- TỔNG HỢP 2

1/ Khai thác gỗ từ rừng tự nhiên

Thực trạng: Năm 2005, rừng tự nhiên được giao cho 2 nhóm hộ trong thôn quản lý là rừng nghèo. Các hộ tham gia vào nhóm này trên tinh thần tự nguyện, yêu quý và muốn bảo vệ rừng, các hộ này người dân tộc Kinh. Trước đó năm 2003, Chi cục Kiểm lâm tỉnh đã tiến hành điều tra rừng, và quá trình này có sự tham gia của các thành viên trong nhóm bảo vệ nhưng kết quả cuối cùng không thông báo đến cho người dân biết. Năm 2012, tiến hành giao đất giao rừng, và hiện nay rừng đã có số đỏ.

Trong thôn chưa tiến hành khai thác gỗ trong rừng tự nhiên cho mục đích thương mại nhưng theo người dân thì quy trình để được khai thác gỗ trong rừng cộng đồng là thì mọi thủ tục phải thông qua UBND huyện. Nhóm được giao rừng nhưng không có quyền gì để quyết định khai thác. Theo nguyên tắc là có điều tra rừng, thiết kế bài cây. 5 năm tiến hành đánh giá rừng nếu đủ tiêu chuẩn mới cho khai thác. Nếu gỗ bán tự do cho thị trường trong tỉnh thì cần Hạt kiểm lâm huyện cấp phép, nếu gỗ bán đi các tỉnh khác thì cần giấy phép của sở nông nghiệp cấp. Gỗ muốn lưu thông thì cần có dấu búa kiểm lâm và kèm theo giấy phép từ Hạt. Sau khi khai thác thì kiểm lâm sẽ đánh giá và tiến hành đóng búa kiểm lâm. Ví dụ khi được phép khai thác 100m3 thì khoảng mới khai thác 10% thì hạt kiểm lâm sẽ lên kiểm tra và đóng búa kiểm lâm.

Tờ trình gửi UB xã→ UB huyện phê duyệt→Hạt kiểm lâm, sở Nông Nghiệp tiến hành điều tra, bài cây →thống nhất cây khai thác →khai thác

Người dân cho rằng thủ tục trên là rườm rà, phức tạp và tốn kém chi phí cho khâu thiết kế bài cây được thục hiện bởi cán bộ kiểm lâm cấp tỉnh do người dân không nắm được hiện trạng rừng có bao nhiêu m3. Người dân phải trả các khoản chi phí cho khâu thiết kế bài cây khi phải mời cán bộ cấp tỉnh.

Đề xuất: Giảm bớt các khâu đi lên cấp tỉnh, chỉ cần ngang cấp xã, huyện

Giảm thời gian khâu thiết kế bài cây. Tập huấn cho người dân về thiết kế bài cây, sau này sẽ tham gia cùng cán bộ kiểm lâm địa bàn tham gia thiết kế bài cây.

Nhóm biết được cây đủ thời gian khai thác, kích thước khai thác thì nhóm sẽ đề xuất lên cấp quản lý. Ví dụ nhóm sẽ viết đề xuất gửi UB xã hoặc các cấp trên và nếu ban quản lý nhất trí với nhóm bài cây thì tiến hành, nhóm sẽ tham gia giám sát.

Hiện tại thôn chưa có kế hoạch khai thác nếu sau này thì do nhóm tự lập, nhóm thiết kế, kiểm lâm giám sát. Và không cần họp thôn vì hiện tại là rừng giao cho nhóm hộ quản lý

* Trường hợp khai thác gỗ cho nhu cầu sử dụng hằng năm:

Thực trạng: Theo nguyên tắc thì rừng chưa được kiểm tra để xác định trữ lượng thì không được phép khai thác gỗ. Nhưng theo chủ trương của nhà nước vẫn cho phép khai thác gỗ để xóa nhà tạm, tách hộ. Do đó vẫn có trường hợp khai thác gỗ trong rừng cộng đồng. Trong trường hợp các hộ muốn khai thác gỗ về làm nhà thì cần xin giấy phép UB xã, không cần thông qua thôn hay nhóm hộ quản lý và xã có thể cho phép khai thác tại một địa điểm khác ngoài vị trí rừng giao của cộng đồng, hoặc các nhóm quản lý có thể châm chước vì tình hàng

22

xóm, mục đích chính đáng mà có thể cho các hộ đó vào rừng khai thác. Hộ gia đình viết đơn gửi UB xã xin phép khai thác gỗ để làm nhà trong một hạn mức nào đó thì sẽ được UB cấp giấy tạm, nếu sau khi hoàn thành số gỗ khai thác dư so với đề nghị ban đầu thì sẽ bị tịch thu.

Đề xuất: Người dân chỉ cần viết tờ trình gửi UBND xã và xã cấp giấy phép khai thác

Trường hợp người dân muốn vào rừng khai thác tại diện tích rừng của thôn, nhóm hộ quản lý thì cần thông báo cho nhóm quản lý mặc dù nhóm ra quyết định cho phép khai thác.

2/ Khai thác (- mua bán) gỗ rừng trồng

Thực trạng: Cách đây khoảng hai năm thì người dân bán keo không biết gì về thủ tục, muốn bán thì cần có giấy tờ gì. Chỉ có những người biết như cán bộ xã, làm nhà nước thì họ phải làm, còn xã cũng không quản lý về điều này, có ai tới làm hay nộp thì thu thêm tiền. Nhưng từ khi có thông tư 01, thông tư 35 ra đời, thì người dân muốn bán keo thì phải đi làm thủ tục tại UB xã. Theo người dân thì bán keo cần có Bản kê lâm sản khai thác.

Quy trình: Người dân điện cán bộ kiểm lâm – điền thông tin vào biểu mẫu có sẵn – kiểm lâm địa bàn về điều tra rồi làm bảng kiểm kê lâm sản – cấp giấy phép cho mỗi chuyến xe.

Người dân nắm rõ quy định và chủ động thực hiện vì đây là quyền lợi của người dân bán keo. Thủ tục bán keo cũng dễ dàng, nhẹ nhàng chỉ cần kiểm lâm địa bàn ký và xuất trình giấy này trong qua trình vận chuyển. Để làm giấy tờ thì người dân chỉ cần đóng 200.000đ/ha, đây được coi là lệ phí bến bãi. Ngoài số tiền đó người dân không phải trả một khoảng chi phí nào khác như công cho cán bộ kiểm lâm đển kiểm tra vì đây là công việc của họ. Nếu không có giấy tờ thì ra trạm kiểm lâm LaHy nộp 200.000đ/chuyến. Nếu bên mua làm thì bên bán cũng cần ký giấy tờ. Nói chung thủ tục mua bán keo đơn giản, tùy thuộc bên mua, bên bán thỏa thuận.

Đề xuất: Thủ tục khai thác, mua bán gỗ rừng trồng thì người dân nắm rõ và nhận thấy dễ thực hiện, không có khó khăn gì nên không có đề xuất gì để thay đổi. Và giấy tờ cần thiết để vận chuyển gỗ là bảng kê lâm sản có xác nhận của kiểm lâm địa bàn và giấy phép khai thác của UB xã.

3/ Khai thác tận dụng, tận thu gỗ Thực trạng:Theo người dân cho hay, thì trên nương rẫy trồng có cây gỗ không phải là keo thì muốn khai thác cũng cần phải xin giấy xác nhận của UBND xã/cán bộ lâm nghiệp xã đồng ý mới được phép khai thác. Nhưng do số lượng quá ít, và gỗ được khai thác cũng chỉ dùng làm đồ sinh hoạt trong gia đình nên hầu như mọi người đều bỏ qua.

Người dân cũng có nắm về các quy định của pháp luật nhưng chưa thực hiện vì nghĩ là mất thời gian khi xin phép nên không thiết tha để thực hiện khi phải xin phép khai thác gỗ trong vườn nhà chỉ vì để lấy gỗ phục vụ vho gia đình mà không có mua bán nào

Đề xuất: không có đề xuất

4/ Mua – bán gỗ rừng từ rừng, rừng trồng

* gỗ từ rừng tự nhiên

Hiện trạng: Hiện tại trong thôn chưa bán gỗ theo dạng thương mại. Còn các trường hợp khai thác gỗ lậu và bán lại cho người dân thì chắc chắn là không có giấy tờ gì nên nếu bán cho người ngoài xã mới lo kiểm lâm bắt và tịch thu. Người dân biết được đâu là gỗ hợp pháp khi nắm được dấu búa kiểm lâm là gỗ hợp pháp. Nhưng hầu như người dân để mua gỗ không quan tâm về vấn đề này khi vẫn mua gỗ lậu do suy nghĩ chỉ vận chuyển nội bộ nên không lo lắng nhiều.

Đề xuất: Gỗ có dấu búa kiểm lâm, giấy phép khai thác, giấy nhận tiền

23

5/ An toàn môi trường

Hiện trạng: Trước đây trong rừng tự nhiên có nhiều cây gỗ quý như lim, kiền, gõ…nhưng hiện nay nếu các cây gỗ quý này còn thì rất ít và cây rất nhỏ. Người dân thường chặt những cây như Chò, Đào, cây gỗ tạp về làm nhà cửa. Cây được chặt phải đảm bảo yêu cầu và kích thước, đường kính phải lớn hơn 35cm, chu vi vành phải hơn 200cm. Ngoài ra, người dân không được phép khai thác những cây gỗ quý, mặc dù cây bị bọng vì cây này được dùng để làm giống.

Trên thực tế người dân khai thác dựa vào kinh nghiệm và sử dụng máy móc hiện đại để rút ngắn thời gian và công sức cũng như hạn chế những tác hại mạnh khi khai thác rừng. Ví dụ nếu dùng cưa máy thì khi cây đổ sẽ không lăn xa và làm nát một diện tích rừng. Cũng nên chọn hướng cây đổ về phía có ít cây con.

Ngoài hoạt động khai thác và tuần tra, giám sát rừng thì người dân chưa có biện pháp nào làm giàu rừng, phục hồi rừng. Theo người dân là trồng cây bản địa khó, người dân không có sẵn giống cây để mỗi lần sau khai thác là trồng.

Đề xuất: Hỗ trợ giống cây bản địa cho người dân như sến, lim.. Theo người dân đầu tiên nên trồng cây bản địa quanh khu vực vườn nhà

6/ An toàn xã hội

Thực trạng: Theo người dân hiện nay không có quy định nào bắt buộc lâm trường phải họp với thôn để thông báo về kế hoạch khai thác gỗ của lâm trường cũng như một khoản phí nào cho thôn. Nếu lâm trường khai thác thì theo quy định chỉ nộp cho UB, sau đó UB dùng cho mục đích làm lại đường hư hỏng.

Một số tác động đến môi trường do qua trình khai thác, vận chuyển lâm sản:

+Đầu tiên là nguồn nước: nước cạn kiệt vào mùa khô, và chảy mạnh vào mùa mưa

+Xe chở gỗ trên rừng thường tạo ra những đường nước chảy nguy hiểm, gây sạt lở. Nước ô nhiễm, đục nước chảy về khu dân cư

Đề xuất: Nếu lâm trường có kế hoạch khai thác gỗ thì chỉ cần họp với 2 nhóm quản lý không cần họp thôn. Lâm trường không cần đóng góp cho thôn, nếu được thì chỉ là hỗ trợ thêm cho thôn. Giống như bãi gỗ tại thôn là 5 triệu đồng/ năm

7/ Cơ chế chia sẻ lợi ích

Thực trạng: trong thôn ( hay 2 nhóm hộ quản lý) không có cơ chế chia sẻ lợi ích. Đối với các trường hợp được phép khai thác gỗ rừng tự nhiên thì không cần phải đóng bất kỳ một khoản nào cho thôn. Và thôn cũng không mong muốn người dân đóng góp.

Đề xuất: Trường hợp, sau này thôn được phép khai thác gỗ từ rừng cộng đồng thì người dân được hưởng lợi 20% và nộp xã 20%. Số tiền này được dùng cho việc chi trả tiền công cho các thành viên trong nhóm tuần tra bảo vệ rừng dựa trên số ngày công đã được chấm trước đó.

Không cần phải đóng góp cho thôn. Nhóm sẽ thống nhất về kế hoach và các khoản chi, trong đó sẽ có người chụi trách nhiệm về số tiền này.

--------------------------------------------------------------

TỔNG HỢP 3

1/ Khai thác gỗ từ rừng tự nhiên

Thực trạng:

24

Rừng được “Lâm trường” giao cho cộng đồng quản lý bảo vệ từ năm 1996, diện tích khoảng 60 ha. Các hoạt động quản lý được người dân thực hiện trong quá trình quản lý bảo vệ rừng là Tuần tra bảo vệ rừng: cứ 1 tháng 1 lần, mỗi lần đi 2-3 người, hỗ trợ 30.000 đồng/người/lần đi; Vệ sinh rừng: chặt dây leo, bụi rặm. Hiện nay khoản chi phí hỗ trợ này không còn nữa;

Hăng năm, người dân vẫn được phép vào rừng khai thác gỗ để làm nhà theo quy định của nhà nước. Đối tượng là những hộ nghèo xóa nhà tạm, tách hộ.

Thủ tục để hộ được khai thác gỗ: Hộ viết đơn thông qua họp thôn để xin phép khai thác => trình lên UBND xã/Cán bộ lâ nghiệp xã để xử lý. Sau đó nhận giấy phép khai thác. Tiến trình xử lý đơn sau khi trình lên xã thế nào các hộ không biết mà chủ yếu do cấp trên xử lý và trả kết quả.

Giấy phép khai thác gỗ được cấp trong vòng 1 tháng và hộ phải khai thác đủ số lượng và chủng loại được phê duyệt. Nếu trong thời gian 1 tháng hộ không khai thác đủ số lượng thì chấm dứt việc khai thác. Ngược lại, nếu chưa đủ 1 tháng nhưng hộ đã khai thác đủ số lượng gỗ được duyệt thì cán bộ lâm nghiệp thu lại giấy phép khai thác và chấm dứt việc khai thác gỗ của hộ.

Nhận xét: Người dân có thắc mắc về thủ tục khai thác gỗ thì trực tiếp hỏi cán bộ xã, cán bộ xã sẽ hướng dẫn cách điền thông tin vào tờ trình. Trưởng thôn sẽ là ngưới là thông báo cho cán bộ kiểm lâm xã khi người dân trong thôn đã khai thác và chuyển gỗ về nhà.

Theo người dân gỗ hợp pháp thì cần có giấy phép khai thác của xã, không cần có dấu búa kiểm lâm

*Quy trình vận chuyển gỗ:

Gỗ đưa ra khỏi rừng là gỗ có quy cách thành phẩm để làm nhà (kèo, cột...), không cho phép đưa “gỗ phách” kéo về nhà. Nếu vi phạm thì sẽ bị bắt và tịch thu lâm sản – xem như đó là gỗ trái phép.

2/ Mua bán gỗ

*rừng tự nhiên:

Thực trạng: Chưa có hộ gia đình nào đi mua gỗ để làm nhà hoặc sử dụng đóng đồ mộc gia dụng vì

không có tiền và hộ có thể vào rừng để khai thác gỗ (hoặc xin giấy phép khai thác, hoặc khai thác gỗ bất hợp pháp) để đáp ứng nhu cầu của gia đình. Vì điều kiện gia đình còn khó khăn nên khi mua gỗ thì người dân chỉ mua nhỏ lẻ, phân ra nhiều đợt. Gỗ được mua lại từ các hộ khác trong thôn nên người mua cũng không yêu cầu về giấy tờ gì, và người bán cũng không đưa ra được giấy tờ để chứng minh là gỗ hợp pháp.

Gỗ bất hợp pháp bị bắt, kiểm lâm sẽ đóng búa. Loại gỗ này bán không ai dám mua vì mua và vận chuyển sẽ bị kiểm lâm bắt. Gỗ này chỉ mới có búa còn không có một giấy tờ gì chứng minh nguồn gốc gỗ nên nó vẫn là gỗ chưa có lý lịch – gỗ bất hợp pháp. Đây là cách để tránh vận chuyển gỗ lậu và dân ăn trộm gỗ bị bắt sau khi bị kiểm lâm bắt giữ và đang để ở địa phương.

Nhận xét: Gỗ lậu có thể giữ ở nhà dân mà không bị bắt và cũng không cần giấy tờ gì. Khi bán người mua chấp nhận bị bắt nếu kiểm lâm phát hiện khi đưa ra khỏi địa bàn.

* Rừng trồng:

Thực trạng:

25

Người thu mua tự làm thủ tục giấy tờ để được khai thác và vận chuyển. Giữa người mua và hộ gia đình chỉ viết giấy thỏa thuận (tên hộ, diện tích, vị trí, số tiền bán, thời gian khai thác trả lại hiện trạng, số tiền đặt cọc...). Được biết, khi mua bên chủ thu mua có làm các thủ tục ở xã (nhưng người dân không rõ là làm những thủ tục gì), khi chở gỗ đóng cho xã 200.000 đồng/xe chở gỗ keo, cộng đồng địa phương không có những hưởng lợi gì khác từ rừng trồng trên địa bàn.

Nhận xét: Thực tế người dân vẫn biết khi bán gỗ rừng trồng cần làm các thủ tục nhưng vì quá rườm ra, hơn nữa lại không biết chữ, không quen việc tiếp xúc với cán bộ, từ đó mất nhiều thời gian. Ngoài ra, khi tự làm thủ tục thì người thu mua mua giá rất thấp.

Theo người dân việc mua bán gỗ rừng trồng thì chỉ cần giấy nhận tiền giữa hai bên, có xác nhận của xã.

3/ An toàn về môi trường

*Đối với rừng trồng

Thực trạng: Người dân nhận thấy được những ảnh hưởng do quá trình khai thác trắng rừng keo

nhưng do kinh tế nên người dân vẫn phải chặt trắng và bán một lần.

Ở thôn 6 xã Thượng Long nhận thấy rằng trong quá trình khai thác gỗ, xe chạy qua đường ở thôn sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Xe chở gỗ nặng lắm, đường thôn lại nhỏ nên xe chở gỗ gây hư hỏng đường, nhất là vào mùa mưa hoặc mùa khô xe chạy nhưng đến mùa mưa mới thấy đường hư. Trong khi đó, xe chạy qua đường của thôn không có đóng góp gì cho thôn cả, nhưng khi đường hư hỏng đi đất nhớp, nguy hiểm gây tai nạn (do nhiều ổ gà) thì bà con ở trong thôn phải gánh chịu.

Đề xuất cho quá trình vận chuyển gỗ: Xe chạy qua thôn phải xe trọng lượng nhỏ, không cho xe lớn đi qua vì sẽ làm hỏng đường....Ô tô lớn chở gỗ phải đậu ở ngã 3 đường vào xã Thượng Long và xã Thượng Quảng để gỗ chở gom bởi xe tải trọng nhỏ gom gỗ từ trong các thôn ra. Làm như vậy đường mới bảo vệ và sử dụng lâu dài.

*Đối với rừng tự nhiên:

Thực trạng: Khi khai thác gỗ của lâm trường, chặt nhưng cây gỗ tốt (cây to, thẳng), cắt lấy khúc

gỗ đẹp còn lại bỏ lại trong rừng. Khi chặt cây đỗ làm gãy đỗ nhiều cây gỗ nhỏ và cây tái sinh. Rừng giao cho cộng đồng rất nghèo, không còn cây gỗ quý nữa. Rừng bị khai thác hết rồi mới giao cho cộng đồng.

Hiện nay rừng giao cộng đồng chưa áp dụng các biện pháp làm giàu rừng vì điều kiện sống còn khó khăn, không có kinh phí để thực hiện. Về kỹ thuật làm giàu rừng thì người dân rất hiểu. Những kiến thức học được nhờ dự án hành lang xanh tập huấn (kỹ thuật gieo ươm cây bản địa, kỹ thuật ươm cây rai, kỹ thuật làm vườn ươm, kỹ thuật trồng rừng cây bản địa...). Trên địa bàn xã có các thôn 3, 5 và 7 có trồng, mỗi thôn 10 ha. Trong khi đó thôn 6 chưa thực hiện vì không có kinh phí.

Ông..., trong 60 ha rừng nhận khoán, các thôn trong xã khi khai thác 1 cây thì trồng lại 1 cây. Tuy nhiên công việc này không thực hiện được vì không có cây giống và ý thức của người dân chưa cao. Rừng giao cho cộng đồng nên người dân không đầu tư dẫn đến hiệu quả kém. Thôn 5, 7 làm điển hình nhưng bảo vệ không tốt, không áp dụng các biện pháp làm giàu rừng, ngược lại các cây gỗ to chất lượng tốt bị khai thác hết. Thiếu sự kiểm tra giám sát vì không có kinh phí. Ở địa phương khai thác gỗ từ rừng tự nhiên theo kiểu “trâu mạnh trâu

26

được, cá mạnh cá được”, chẳng có ai kiểm tra. Ở tỉnh Quảng Nam thì họ làm công tác quản lý bảo vệ rừng rất tốt, thường xuyên tuần tra và quản lý rất nghiêm.

Đề xuất: Hỗ trợ kinh phí, giống cây bản địa, các mô hình vườn ươm để người dân có thể thực hiện các biện pháp bảo vệ rừng.

Hỗ trợ chi phí cho đội ngũ tuần tra bảo vệ rừng, để hoạt động này được diễn ra thường xuyên và mạnh.

4/ an toàn xã hội

Hiện trạng:

Khi các hộ có nhu cầu khai thác gỗ để làm nhà thì trong thôn có họp để xác nhận hoàn cảnh, giúp trưởng thôn có thông tin về hộ gia đình khai thác, để sau này thông báo về tiến trình khai thác cho cán bộ kiểm lâm địa bàn.

Lâm trường khi khai thác thì không thông báo hay họp thôn về kế hoạch này.

Một ví dụ là tranh chấp đất giữa lâm trường và người dân xã Thượng Long và Thượng Quảng: Đất thôn 1, 2, 3, 4, 5 và 6 bị lâm trường thu hồi là diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn khoảng 200 ha thuộc dự án 661 (khu vực giáp xã Thượng Long và Thượng Quảng). Sau khi chương trình 661 kế thúc, diện tích đất đó lại bị thu hồi và không giao cho dân. Trong khi đó Lâm trường thuê người từ nơi khác đến trồng rừng. Người dân phát hiện và đã sử dụng thuốc diệt cỏ phun chết 3-4 ha rừng trồng. Vụ việc xảy ra nhưng chính quyền ban ngành địa phương xã, huyện và Lâm trường không biết.

Đề xuất: Khi Lâm trường có hoạt động trồng cây thì nên thuê người dân địa phương trong thôn, trong xã, không mời người từ nơi khác đến.

Chính quyền đại phương nên có biện pháp giải quyết thích đáng về trường hợp tranh chấp đất này vì người dân đang gặp khó khăn về thiếu đất lâm nghiệp.

5/ Cơ chế chia sẻ lợi ích

Hiện trạng: Hiện nay rừng giao cho cộng đồng quản lý và bảo vệ. Những hộ gia đình xin gỗ xóa

nhà tạm, tách hộ thì không cần đóng tiền cho cộng đồng vì đây là những hộ nghèo, kinh tế khó khăn hơn nữa rừng là rừng chung của cộng đồng và người dân đã phải nộp chi phí làm thủ tục trên xã là 50.000 đ/hộ.

Tổng chi phí để khai thác gỗ (cưa, vận chuyển...) chiếm khoảng 50% giá trị gỗ so sánh khi mua tại địa phương. Cụ thể bình quân 1m3 gỗ tổng chi phí khoảng 3,5 triệu đồng (gỗ nhóm 4, 5 như chò, đào).

Đề xuất: Nếu sau này rừng giao cho hộ gia đình, nhóm hộ quản lý bảo vệ thì cần thu một phần kinh phí từ những hộ xin gỗ xóa nhà tạm và tách hộ. Khoản kinh phí thu được sử dụng cho việc vệ sinh rừng, làm giàu rừng được tốt hơn.

--------------------------------------------------------------------------

TỔNG HỢP 4

1/ Khai thác gỗ rừng trồng:

Hiện trạng: Ở địa phương rừng trồng giao cho các hộ gia đình vào năm 2001 (rừng trồng keo) và

năm 2002 (rừng trồng cao su). Rừng trồng giao cho người dân được khai thác trong năm

27

2012. Hiện nay rừng và đất rừng các hộ chưa được gia sổ đỏ, mới chỉ tiến hành khâu rà soát và đo đạt diện tích, ranh giới vào năm 2009.

Diện tích rừng và đất rừng giao cho hộ gia đình ở thôn 4 thuộc rừng phòng hộ do đó quá trình khai thác phải được nhà nước đồng ý. Năm 2006 các hộ gia đình có làm đơn xin khai thác diện tích rừng trồng keo năm 2001 nhưng không được chấp nhận. Đến năm 2012 mới có chủ trương cho người dân khai thác diện tích rừng trồng được nhà nước giao năm 2001 (rừng trồng keo).

Nhận xét: Nếu người dân muốn bán gỗ keo trên diện tích do lâm trường cấp thì phải được sự đồng tý của lâm trường và theo chủ trương của nhà nước. Đôi với diện tích đất do người dân khai hoang, phát thì thời gian bán do người trồng quyết định

2/ Mua – bán gỗ rừng trồng

Hiện trạng: Mọi thủ tục để dược khai thác, vận chuyển gỗ để do người thu mua làm hết. Người bán chỉ cần giá hợp lý là đồng ý bán.

Nhận xét: theo người dân thì chỉ cần bảng viết tay thỏa thuận giữa bên mua và hộ gia đình, các thủ tục pháp lý đều do bên mua thực hiện vì nhiều lý do. Hộ gia đình không quen việc, diện tích rừng nhỏ nên tốn thời gian chạy đi chạy lại để làm các thủ tục. Vì vậy, để chủ thu mua làm các thủ tục cho khỏe. Hộ gia đình biết rằng quá trình làm các thủ tục, chủ thu mua tính toán các chi phí và sẽ mua giá thấp hơn. Tuy nhiên, nếu hộ tự đi làm thì lại bị mua giá còn thấp hơn nhiều.

Người dân cũng nhận thức rằng vận chuyển gỗ yêu cầu phải có giấy phép của Lâm trường.

3/ An toàn về môi trường

Đối với rừng tự nhiên: Trong quá trình khai thác rừng, người dân có ý thức bảo vệ cây con, tránh thiệt hại do cây chặt gãy đổ, không khai thác những cây còn nhỏ (D < 40 cm đối với gỗ nhóm 4 và 5).

Đối với rừng trồng: Sauk hi khai thác thì tiến hàn trồng cây con liền

4/ Cơ chế hưởng lợi

Hiện nay tại địa phương, chi phí khoảng 3 triệu đồng để thuê kéo 1 m3 gỗ từ rừng tự nhiên về thôn.

Người bán keo không tốn một chi phí nào để đóng góp cho thôn vì người dân nghĩ mọi thủ tục do người thu mua làm hết trong đó có cả các khoản tiền phải nộp khác nữa

TỔNG HỢP 5

Trên địa bàn thôn có hai loại rừng khai thác: + Rừng tự nhiên: đã và đang được khai thác từ năm 1996

+ Rừng trồng: từ năm 2007 đến 2012

Đơn vị khai thác:

+ Công ty Long Phụng

+ LT

- Hiện trạng thực tế: + Đơn vị khai thác không thông báo cho thôn

28

+ Vận chuyển gỗ không qua đường của thôn. Nhưng khai thác rừng 661 thì có báo cho dân, vì dân đề nghị khai thác để giao đất cho dân, nhưng chỉ thông báo thời gian khai thác cho thôn.

+ Dân không biết thủ tục pháp lý khai thác rừng

- Đề xuất của dân + Cần phải thông báo cho dân biết về phương án điều chế rừng, bởi vì:

* Dân/ thôn nắm được số lượng, khu vực khai thác, loại gỗ, các biện pháp quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng, rừng giao cho dân bảo vệ

+ Cần thông báo cho dân biết về hồ sơ thiết kế khai thác, vì:

* Muốn biết nó có ảnh hưởng đến đất sản xuất?

* Muốn biết mùa khai thác có hợp lý? Nguồn nước, dân cần gỗ để làm nhà (rừng dự trữ)

+ Cần biết về bảng kiểm kê khai thác để:

* Xác định khối lượng khai thác có hợp lý không?

* Kiểm tra số lượng khai thác cho phép

+ Đối với rừng TN:

* Dân được giao quyền quản lý bảo vệ; yêu cầu khi khai thác phải xin phép địa phương, thông báo cho thôn

* Trình giấy tờ khai thác cho thôn (BQL)

* Đóng lệ phí theo yêu cầu thôn (1 triệu/ 1m3 gỗ Lim/ Kiền) để chi: quản lý bảo vệ, chăm sóc rừng

+ Đối với rừng trồng

Dân không được thông báo khi LT trồng trên đất của dân (trước đó dân đã khai hoang). Yêu cầu:

* Khai thác rừng và trả đất lại cho dân

* Xin phép thôn/ dân (chủ đất) trước khi trồng

* Kết hợp (LT) với dân để trồng và hưởng lợi: LT hỗ trợ giống, chăm sóc, cụ thể:

+ Giống: 900.000đ/ ha

+ Công phát thực bì: 1 triệu/ ha

+ Công chăm sóc: 2 triệu/ năm

* Xem xét khu vực trồng có ảnh hưởng đến đất sản xuất của dân

* Chia sẻ lợi ích/ hưởng lợi: Khi khai thác rừng tồng: LT 50%, dân 50%

- Ảnh hưởng của việc khai thác: + Khu vực đất sản xuất bị sạt lở: năm 1990 có 7,5 ha lúa, năm 2012 chỉ có 5,5 ha (mất

do sạt lở)

+ Đất nương rẫy: 17/ 150 ha sạt lở do khai thác rừng

+ Khe suối trước nhỏ, giừ trở thành to hơn

29

+ Khe nước bị ngăn bởi làm đường vận chuyển nên đã làm thay đổi dòng chảy

+ Giảm số lượng lớn gỗ quý như: Lim giảm 100% (hầu như không còn); giảm 90% gỗ Gõ và 80% gỗ Kiền (hiện tại chỉ còn lại những cây gỗ nhỏ có đường kính lớn nhất khoảng 40 cm, trong khi đó trước đây có những cây có đường kính khoảng 1,5m)

- Khai thác và vận chuyển gỗ hợp pháp + Thực tế: Người dân tự do vào rừng chặt và không xin phép ai (có xin phép cũng

không cơ quan nào cấp phép, vì dân muốn khai thác gỗ Lim, Kiền, Gõ)

+ Theo thảo luận, mọi người cho rằng làm như vậy là không đúng, để thực hiện đúng cần phải làm các bước như sau:

* Viết đơn gửi thôn: nói rõ hình thức khai thác

* Thôn xác nhận

* Gửi BQL xã

* Gửi lên huyện

* Huyện cấp giấy phép

* Cán bộ lâm nghiệp chỉ cây để dân khai thác

* Sau khi khai thác CB lâm nghiệp nghiệm thu

* Có biên bản xác nhận: số lượng, loại gỗ

- Khó hăn mà người dân chưa thực hiện theo các bước trên là vì:

+ Người dân không trả được lệ phí cho đơn vị tư vấn hồ sơ và người kiểm tra, nghiệm thu

- Để dân thực hiện được, cần:

+ Có mẫu đơn viết sẵn, vì dân đa số người không biết chữ

+ Hỗ trợ kinh phí tư vấn vì đa số dân khai thác về làm nhà chứ không phải kinh doanh (buôn bán trao đổi)

- Theo thảo luận mua gỗ giữa những người trong địa phương/ thôn là không đúng/ không hợp pháp. Nếu mua hợp pháp thì người có gỗ phải thực hiện đúng như các bước trên

- Khai thác rừng trồng cá nhân:

+ Thực tế: buôn bán tự do, lệ phí do xã thu, dân đều biết việc này là không hợp pháp

+ Để hợp pháp cần phải thực hiện như sau: • Hộ làm tờ trình báo cáo thôn: diện tích, số lượng cây khai thác

• Nhận giấy phép khai thác từ xã

• Tiến hành khai thác

• Người mua đóng lệ phí thôn xã

+ Dân không thực hiện các bước trên là vì: • Thôn không giám sát do xã thu lệ phí (thôn không quan tâm)

• Dân không chịu đóng lệ phí

30

• Trình độ hạn chế (ngại viết đơn), đi lại khó khăn (lên xã xin cấp giấy)

+ Đề xuất để thay đổi thủ tục khi người dân bán rừng cá nhân: • Diện tích bán/ khai thác < 1 ha giao quyền cho thôn cấp phép khai thác

• Diện tích khai thác > = 1 ha do xã cấp phép

• Xã trích 50% kinh phí thu được từ việc khai thác cho thôn. Thôn dung kinh phí 50% đề chi: Hỗ trợ người đi kiểm tra, nộp quỹ thôn

• Giao cho người thu mua lập bảng kiểm kê, vì dân thông thường là trao đổi/ bán cây đứng nên không lập được bảng kiểm kê

• Người thu mua, khai thác gây thiệt hại cho người khác thì phải đền bù

- Đề xuất khi LT trồng trên đất của người dân đã khai hoang: • Thì khi khai thác thì phải chia lại cho chủ đất 20% thu được (đã trừ các chi phí

khai thác, vận chuyển).

• Đất do dân khai hoang từ 5 năm trở lên yêu cầu Nhà nước công nhận quyền sử dụng

--------------------------------------------------------------------

TỔNG HỢP 6

1. Các quy định về gỗ hợp pháp:

1.1.Đối với trường hợp mua gỗ:

• Hiện trạng:

Câu 1: Một số hộ dân trong thôn cũng đi mua gỗ, loại gỗ mà bà con thường mua là

đào, chò, sến…Mục đích của việc mua gỗ là dùng để đóng các vật dụng sinh hoạt gia

đình như bàn, ghế, giường tủ và làm nhà

Câu 2. Yêu cầu của bà con đối với các loại giấy tờ khi mua gỗ tự nhiên

a) Trên thực tế khi mua gỗ, bà con thường mua lại của những hộ khai thác trong thôn

hoặc của những hộ khác khai thác ngoài thôn. Người mua gỗ không quan tâm đến

các loại giấy tờ chứng minh gỗ hợp pháp, họ cũng không quan tâm đến gỗ được bán

có dấu búa hay không vì họ hiểu là tất cả các loại gỗ được mua bán trong thôn đều là

gỗ khai thác không hợp pháp. Người dân khi mua gỗ chỉ quan tâm đến giá cả và chất

lượng của gỗ được bán.

31

b) Theo hiểu biết của người dân về gỗ tự nhiện hợp pháp thì gỗ phải có giấy phép cho

khai thác của UBND huyện, không cần thiết phải đóng búa hay không, nếu đóng búa

thì càng tốt, nếu không thì chỉ có giấy phép cho khai thác của UBND huyện là đủ.

Câu 3. Hiểu biết của người dân về mua gỗ rừng trồng: Đối với gỗ mua là rừng trồng, theo

hiểu biết của người dân về tính hợp pháp của gỗ rừng trồng chỉ cần có biên bản thoả thuận

của bên mua và bên bán là hợp pháp.

Câu 4. Đề xuất của bà con về những loại giấy tờ để chứng minh những lô gỗ khi khai thác là

hợp pháp

a) Đối với gỗ rừng tự nhiên:

• Trường hợp gỗ rừng tự nhiên khai thác để làm nhà: Chỉ cần giấy phép của UBND

huyện

• Trường hợp gỗ rừng tự nhiên khai thác dung vào mục đích thương mại: Giấy phép

của UBND huyện và dấu búa của hạt kiểm lâm

b) Đối với gỗ là rừng trồng:

• Trường hợp người trồng rừng trực tiếp bán gỗ: Giấy tờ mua bán (loại cây, số lượng,

đường kính) có xác nhận của UBND xã. Cây gỗ không cần thiết phải được đóng

búa.

• Trường hợp gỗ được bán cho người thu mua và người này bán lại cho người dân:

Bên cạnh biên bản mua bán giữ người thu mua và chủ rừng đã được UBND xã xác

nhận, khi người dân đến mua gỗ của người thu mua thì chỉ cần người thu mua và

người dân ký vào biên bản mua bán thì biên bản này sẽ được dùng để chứng minh gỗ

này là hợp pháp.

1.2. Đối với trường hợp bán gỗ

Câu 5. Bà con trong thôn cũng đã từng mang gỗ đi bán cho những người dân trong thôn của

mình cũng như cho những người dân ngoài thôn, thậm chí là bán cho các cơ sở cưa xẻ gỗ.

Loại gỗ mà bà con thường mang đi bán là gỗ tạp (đào, chò, sến)

Câu 6. Giấy tờ khi bán gỗ tự nhiên: Theo ý kiến của người dân thì gỗ rừng tự nhiên mà người

dân mang đi bán là gỗ khai thác bất hợp pháp, tính chất bất hợp pháp của gỗ được người dân

hiểu là do gỗ này được khai thác không tuân theo đúng các qui định của nhà nước. Người dân

hiểu rằng để khai thác rừng tự nhiên hợp pháp thì họ phải làm đơn gửi UBND xã và kiểm lâm

32

-> UBND huyện-> Cấp giấy phép khai thác -> Đóng dấu búa của kiểm lâm. Gỗ hợp pháp là

gỗ có giấy phép khai thác và được đóng búa. Tuy nhiên, trình tự thủ tục qui định như vậy,

người dân hiểu rõ tiến trình và cách làm này, tại cuộc họp thôn thực tế cho thấy thì người

dân không tuân thủ theo tiến trình này, lý do mà họ không làm vì nếu thực hiện theo thủ tục

thì UBND huyện sẽ không/hạn chế phê duyệt cho những hộ khai thác gỗ rừng để bán, một

yếu tố quan trọng khác là mặc dù theo qui định thì từ 5-10 ngày họ phải nhận được thông báo

từ phía UBND huyện, tuy nhiên trong thực tế thì họ phải chờ đợi quá lâu, có lúc 3-4 tháng

mới có công văn trả lời. Vì gỗ khai thác không hợp pháp nên khi bán gỗ rừng tự nhiên cho

người mua, người dân không có bất kỳ giấy tờ nào.

Câu 7. Giấy tờ khi bán gỗ rừng trồng

Trong cuộc họp thôn, ý kiến của người dân về việc các giấy tờ cần thiết liên quan đến mua

bán gỗ rừng trồng cho thấy họ không hiểu rõ về những qui định để bán gỗ rừng trồng, theo họ

thì khai thác gỗ rừng trồng thì chỉ cần gọi người thu mua đến bán và ký xác nhận vào biên

bản mua bán là họ đã hoàn thành trách nhiệm, những thủ tục khác họ không quan tâm vì cho

rằng người thu mua sẽ phải chịu trách nhiệm này chứ không phải người dân.

Câu 8: Đề xuất của bà con đối với gỗ rừng trồng và rừng tự nhiên

• Đối với gỗ rừng trồng: Biên bản mua bán giữa 02 bên, UBND xã xác nhận, đại diện

cộng đồng thôn xác nhận

• Đối với gỗ rừng tự nhiên: Giấy phép UBND huyện, hạt kiểm lâm đóng búa

Nhận xét: Mặc dù người dân hiểu về tiên trình để khai thác gỗ hợp lý, tuy nhiên người dân

không hiểu rõ về thời gian để thực hiện tiến trình, ví dụ: Theo qui định là khi người dân lam

fthủ tục đề nghị cho khai thác rừng tự nhiên thì 03 ngày phải thông báo hỗ sơ hợp lệ hay

không, sau 10 ngày thì phải phản hồi là có cho phép khai thác hay không. Chính sự thiếu

hiểu biết về thời gian đã tạo cho họ tâm lý e ngại khi thực hiện các thủ tục mua bán.

2. An toàn về môi trường

2.1 Đảm bảo bảo tồn về tài nguyên rừng và đa dạng sinh học

Câu 9. Những loại cây gỗ hiện có trong các khu rừng thuộc địa phận của ban quản lý rừng

phòng hộ Nam Đông phân bổ gần địa bàn thôn 3, xã Thượng Long bao gồm các loại cây như

lim, kiền, gõ, huê, trâm, trắc, chò, đào, sơn, chuồn, sến, đá. Theo bà con thì những loại cây

như lim, kiền, gõ, huê, trâm, trắc là những loại gỗ quý.

33

Câu 10. Khi khai thác bà con thường chặt những loại gỗ có vị trí thuận lợi cho việc khai thác,

các loại cây gỗ có giá trịnh kinh tế cao như kiền, gõ. Mục đích chặt những cây gỗ này là để

làm nhà hay bán lại để kiếm tiền. Trên thực tế, người dân không quan tâm đến việc bảo tồn

những loại cây gỗ sau khi khai thác, lí do mà họ không quan tâm là vì rừng không phải của

họ, họ chỉ khai thác lén lút nên nếu có cơ hội là họ khai thác, không kể đó là loại gỗ cực kỳ

quý hiếm.

• Có trường hợp Lâm trương nhờ dân khai thác (lậu) với mục đích cá nhân – bán LT

với giá 6tr, bán ngoài 8tr ko họp pháp vì ko đưuọc phép

Câu 11. Theo bà con thì làm thế nào để khi khai thác thì vẫn bảo tồn, đặc biệt là những loại

gỗ quý hiếm. Theo bà con thì để sau khi khai thác mà tài nguyên rừng vẫn được bảo tồn thì cá

nhân họ cần phải được phép khai thác, trước khi khai thác phải có phương án khai thác được

UBND huyện phê duyệt, khi khai thác phải có sự giám sát của Kiểm lâm địa bàn. Trong quá

trình khai thác không được khai thác những cây gỗ có nhiều hạt giống, những cây gỗ có

đường kính > 40cm thì mới khai thác; phải chọn hướng ngã để hạn chế tối đa các loại cây

nhỏ, cây gỗ tái sinh bị gãy đổ; trường hợp khai thác cây gỗ ảnh hưởng lên các cây giống thì

phải nhổ cây giống mang đi trồng ở nơi khác.

2.2 Những đóng góp trong việc đảm bảo môi trường sống

Câu 12. Sau khi khai thác gỗ trong rừng của BQLRPH/Lâm trường/xã, môi trường sống của

bà con có bị ảnh hưởng không?

Khi tiến hành khai thác, công ty ông La đã tiến hành làm đường, mở đường. Hoạt động này

đã làm mất đất nương rẫy của 12 hộ dân trong thôn, trong quá trình khai thác do bụi bẫn hoà

vào suối nên cũng đã làm cho hệ thống nước tự chảy của thôn bị nhiễm bẫn, nước sinh hoạt

có màu đỏ của đất. Khi vận chuyển gỗ, do xe tải có trọng lượng lớn nên đã làm cho đường bị

hư hại, gần 50 met đường của thôn bị hư hỏng.

Sau khi khai thác gỗ, lượng nước trong các khe suối giảm hẳn, vào mùa khô thì hầu như

không có nước để sinh hoạt.

Câu 13. Theo bà con các đơn vị khai thác gỗ (kể cả thôn mình) phải làm gì để đảm bảo môi

trường sống của người dân xung quanh khu rừng được khai thác:

• Đối với cộng đồng khai thác gỗ: (i) Phải trích nộp 2-5% số tiền có được từ việc bán

gỗ để sử dụng vào việc duy tu, bảo dường các công trình công cộng; (ii) Khi khai

thác phải có sự giám sát của cán bộ kiểm lâm địa bàn

34

• Đối với BQL và công ty: (i) Trước khi tiến hành khai thác, BQL và công ty phải họp

với cộng đồng để công khai số lượng, diện tích, loại cây được khai thác tại địa

phương; (ii) Các cộng đồng sống gần kề được quyền cử người tham gia giám sát quá

trình khai thác, (iii) Trích nộp 3-5% doanh số của việc khai thác cho cộng đồng để

duy tu, bảo dưỡng các công trình, (iv) Khi khai thác phải tiến hành trồng dặm ngay

tức khắc, không được khai thác trắng.

• Một số trường hợp xe chở gỗ đi qua tuyến đường của thôn, nếu chở quá tải trọng th́

cộng đồng thôn có quyền yêu cầu dừng xe và báo cho cấp thôn/ xã để xử phạt (tiền

phạt trích quỹ thôn). Người có quyền chặn xe, xử phạt: Trưởng thôn, bí thư thôn,

thôn đội trưởng, công an viên, lâm nghiệp xã.

Nhận xét: Theo ý kiến của cộng đồng thì đối với gỗ khai thác bởi các công ty, ban

quản lý chỉ được xem là hợp pháp khi các công ty, ban quản lý phải tham vấn cộng

đồng thôn trong quá trình xây dựng phương án khai thác hay phương án điều chế

rừng, gỗ hợp pháp ngoài việc đóng búa thì cần phải có biên bản khai thác, trong đó

có chữ ký của cộng đồng xác nhận việc công ty, BQL đã khai thác dưới sự đồng

thuận từ người dân và không làm ảnh hưởng đến môi trường.

3. An toàn về xã hội:

2.1.Sự tham gia của cộng đồng trong tiến trình lập kế hoạch khai thác, thiết kế khai

thác và giám sát:

Câu 14. Việc Lâm trường/ BQLRPH khai thác gỗ rừng trồng rừng tự nhiên cần phải được

thông báo cho người dân. Lí do của việc thông báo này nhằm cung cấp thông tin cho người

dân về những gì sẽ xảy ra trên địa bàn của họ, họ cũng có thể phối hợp với BQL hay công ty

tiến hành khai thác đây cũng là cơ hội tạo công ăn việc làm cho dân.

Câu 15. Theo bà con, BQLRPH/Lâm trường có nên mời đại diện của thôn tham gia thiết kế

và giám sát khai thác gỗ trong các khu rừng gần thôn không? Hãy cho biết lý do tại sao?:

Theo ý kiến người dân thì BQLRPH hay các công ty cần phải mời đại diện thông tham gia

thiết kế và giám sát gỗ. Nguyên nhân là việc khai thác gỗ sẽ ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh

cuộc sống của người dân (môi trường, tín ngưỡng, xã hội). Vì vậy khi khai thác cần phải có

sự tham gia của người dân.

• Việc khai thác, vận chuyển gỗ có ảnh hưởng đến đường sá nông thôn

35

• Việc làm đường có thể gây mất đất sản xuất, đất nương rẫy của bà con làm bà con bị

đói

• Gây sạt lỡ đất, ô nhiêm môi trường không khí – bụi, ô nhiễm nguồn nước, làm thiếu

nước cho sinh hoạt sản xuất, gây ra một số bệnh cho người dân.

• Để thống nhất về cơ chế trích nộp tiền cho thôn/ xã cho việc trùng tu đường sá và

bảo vệ môi trường

Thực tế, BQLRPH và công ty đã khai thác rừng nhiều lần nhưng chưa bao giờ có họp

thôn để lấy ý kiến về trích nộp hay cơ chế, trách nhiệm bảo đảm việc khai thác an

toàn, bền vững.

Nhận xét: Việc khai thác gỗ cũng gây tác động về mặt xã hội với người dân, do vây

khi khai thác cần phải tham khảo các ý kiến của người dân. Trong hồ sơ khai thác,

gỗ hợp pháp cần phải có xác nhận của người dân là BQL hay công ty đã tham vấn

người dân khi xây dựng phương án khai thác gỗ.

2.2 Cơ chế hưởng lợi:

Câu 16. Tại cuộc thảo luânh nhóm, các ý kiến đều cho rằng thực tế các công ty hay BQL khi

tiến hành khai thác chưa có bất kỳ đóng góp nào cho thôn cho việc trùng tu đường sá từ phía

các đơn vị, tổ chức khai thác.

Câu 17. Theo bà con, để minh bạch, công bằng trong việc hưởng lợi từ việc khai thác gỗ của

BQLRPH/Lâm trường ở những khu rừng gần thôn thì phải nên như thế nào?

• Đóng góp 3-5%/ tổng tiền. Trưởng thôn là người quản lý quỹ và báo cáo dân trong

các buổi họp thôn định kỳ để minh bạch nguồn quỹ này. Có quy chế trích nộp và sử

dụng quỹ do cộng đồng xây dựng và thực hiện

• Ban quản lý rừng phòng hộ và công ty phải tham khảo ý kiến người dân khi lập hồ

sơ, thoả thuận phương án đến bù cho những hộ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi việc làm

đường, mở đường.

----------------------------------------------------------------------------

TỔNG HỢP 7

1. Các qui định về khai thác gỗ hợp pháp

1.1. Hồ sơ khai thác gỗ hợp pháp

36

Câu 1. Cộng đồng thôn 4 – Tlong nhận khoán bảo vệ rừng trồng 661 (rừng keo xen cây bản

địa –sao đen – theo tỷ lệ 3 hàng keo 1 hàng sao đen) từ năm 1996. Cộng đồng được hỗ trợ

tiền công cho việc phát thực bì, chăm sóc bảo vệ trong 3 năm. Mức tiền công được BQLRPH

trả trong 03 năm như sau: Năm 1 là 800k/ha, năm 2 là 400k/ha và năm 3 là 400k/ha

Câu 2. Cộng đồng đã tiên hành khai thác gỗ keo

Câu 3. Năm 2012 cộng đồng đã khai thác keo sau khi có sự đồng ý từ phía tỉnh UBND tỉnh

Thừa Thiên Huế

Câu 4 và câu 5. Cách thức thực hiện các thủ tục để có thể khai thác gỗ keo

- Bà con đề xuất cho đại biểu hội đồng nhân dân xã trong các cuộc tiếp xúc cử tri

- UBND xã làm đề xuất gửi UBND Huyện

- UBND huyện làm đề xuất gửi tỉnh

- Tỉnh ra quyết định cho phép khai thác

Câu 6. Khi hộ vào rừng để khai thác thì có giấy cho phép của UBND tỉnh cho phép thì có thể

vận chuyển gỗ ra ngoài.

1.2 Quy trình khai thác gỗ hợp pháp

Câu 7. Sau khi khai thác bà con cần phải làm gì để vận chuyển gỗ ra ngoài một cách hợp lý.

Theo ý kiến của cộng đồng sau khi khai thác họ chỉ cần ký vào biên bản mua bán thì thương

lái có quyền chuyển gỗ ra khỏi rừng.

Trong thực tế có một điều khác biệt ở đây là các hộ dân không tự chọn lựa thương lái để mua

bán gỗ keo mà các thương lái này đã được BQLRPH và UBND xã lựa chọn, các thương lái

này sau khi mua gỗ sẽ trích nọpp cho UBND xã và BQLRPH. Nếu gỗ tận thu, gãy đỗ: Xin

phép UB xã gỗ tận thu BQLRPH đi kiểm tra và xác nhận diện tích gãy đổ thương lái đóng

lệ phí xe qua địa phận thôn/ xã (50.000/ xe)

Câu 8. Theo bà con thì thủ tục khai thác gỗ như vậy là khá phức tạp, để đơn giản hơn thì bà

con đề xuất thủ tục khai thác như sau: Hộ nhận khoán gửivăn bản lên UB xã Chủ rừng

(Ban quản lý hay công ty) UB Huyện ra quyết định.

Câu 9. Đối với chương trình 661, người dân được hỗ trợ hầu như hoàn toàn về giống và công

(trả tiền khoán bảo vệ). Trong năm 2012 người dân được quyền khai thác toàn bộ nên người

dân thấy mình thực sự có lợi.

37

Hiện nay, đất rừng theo CT 611 đã được bàn giao lại cho BND Huyện để cấp lại cho dân xã

Thượng Long. Trường hợp đất CT 661 vẫn do BQL quản lý, người dân đầu tư sản xuất thì

người dân đề xuất tỷ lệ hưởng lợi là: dân 70% - BQL 30%.

2. Các quy định về vận chuyển gỗ hợp pháp trong nước

2.1 Mua gỗ

Câu 10. Có 1 số người trong thôn đi mua gỗ từ 1 số người đi khai thác trong thôn vì họ ko đi

rừng được

Câu 11. Khi mua gỗ rừng tự nhiên bà con ko cần người bán cung cấp giấy tờ gì cả vì họ hiểu

rằng việc gỗ được mua bán trong thôn không được khai thác hợp pháp. Trường hợp hộ gia

đình đến các cơ sở sản xuất gỗ để mua thì họ cũng không chú trọng đến các loại giấy tờ để

chứng tỏ gỗ của các cơ sở được khai thác hợp pháp hay không hợp pháp.

Trong trường hợp các hộ dân vận chuyển gỗ đi chế biến hay mua gỗ từ các cơ sở sản xuất,

điều mà họ quan tâm là giấy phép vận chuyển, theo hiểu biết của người dân thì họ chỉ cần

thông báo về ngày giờ, số lượng gỗ cho UBND xã và kiểm lâm. Khi được sự đồng ý của

UBND xã và kiểm lâm thì họ yên tâm vận chuyển.

Câu 12. Khi mua gỗ rừng trồng thì bà con cũng chỉ cần người bán ký vào biên bản mua bán,

trên thực tế người dân hoàn toàn rất hiếm mua gỗ rừng trồng, nếu cần thiết phải mua gỗ rừng

trồng thì họ cũng chỉ mua với số lượng rất hạn chế và dựa trên thoả thuận miệng với các hộ

khác.

Câu 13: Đề xuất những loại giấy tờ để chứng minh gỗ hợp pháp

• Đối với gỗ rừng trồng: Biên bản mua bán giữa 02 bên, UBND xã xác nhận

• Đối với gỗ rừng tự nhiên do Ban quản lý và công ty khai thác: Giấy phép UBND

huyện, dấu búa của hạt kiểm lâm.

• Đối với gỗ rừng tự nhiên do dân khai thác: Giấy phép cho phép khai thác của UBND

huyện không cần dấu búa của kiểm lâm.

Nhận xét: Đề xuất về các loại giấy tờ để chứng minh tính hợp pháp của gỗ ở nhóm IIB về cơ

bản là giống với nhóm IC. Tuy nhiên cũng có một số khác biệt. Đối với gỗ rừng trồng thì

cộng đồng đề xuất chỉ cần có biên bản mua bán và UBND xã xác nhận là đủ và không cần có

xác nhận của cộng đồng. Với trường hợp gỗ rừng tự nhiên do cộg đồng khai thác thì cũng

không cần có dấu búa của kiểm lâm.

38

2.2 Bán gỗ

Câu 14. Bà con đã từng bán gỗ rừng tự nhiên và gỗ rừng trồng.

Câu 15. Bán gỗ rừng tự nhiên: ko có giấy tờ, không có giấy phép (dân khai thác tự do) nên

không quan tâm đến giấy tờ, theo hiểu biết của người dân thì để có thể bán được gỗ tự nhiên

hợp pháp thì cần có giấy cho phép khai thác gỗ của UBND huyện, gỗ được đóng dấu búa

kiểm lâm.

Câu 16. Bán gỗ rừng trồng: có biên bản mua bán giữa người bán và người mua, UBND xã

xác nhận

3. Môi trường

3.1.Bảo tồn tài nguyên rừng

Câu 19. Khi khai thác gỗ keo của chương trình 661, người dân tiến hành khai thác theo kiểu

chặt trắng, không quan tâm đến các cây sao đen đã được trồng trước đó. Vì vậy, theo ý kiến

người dân thì sau khi khai thác keo thì hơn 2/3 số cây sao đen bị chết đồng thời khi tiến hành

đốt rừng để trồng lại keo thì số 1/3 số cây sao đen còn lại cũng đã bị chết. Rõ ràng, việc trồng

cây bản địa và giao khoán cho các hộ trồng quản lý và bảo vệ theo chương trình 661 là một

sự lãng phí rất lớn về công sức và tiền bạc của nhà nước.

Câu 20. Theo ý kiến của cộng đồng thì để bảo vệ cây sao đen nên trồng cây sao đen thành

đường ranh giới, hoặc là trồng tách biệt với cây keo, hoặc nếu trồng xen thì khi khai thác phải

có sự giám sát chặt chẽ từ bên giao khoán.

3.2. Đóng góp trong việc đảm bảo môi trường sống

Câu 21. Diện tích rừng giao khoán cho cộng đồng theo chương trình 661 là do người dân khai

thác, khi tiến hành khai thác trắng thì cũng đã có những tác động về môi trường đối với người

dân đó chính là hiện tượng nước bị thiếu hụt trong mùa hè, Tại con suối AKa của thôn, do

việc khai thác trắng mà nguồn nước trong suối cạn, nước sinh hoạt chủ yếu cho người dân là

lấy từ con suối này nên đã ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt và sản xuất của người dân.

Câu 22. Theo bàn con thì cần phải làm gì để đảm bảo môi trường sống của người dân trong

khu vực rừng bị khai thác. Theo ý kiến người dân thì cần rút kinh nghiệm từ chương trình

661, không nên cho phép người dân khai thác ồ ạt, khai thác trắng mà cần phải có lộ trình

khai thác cụ thể.

39

4. An toàn về mặt xã hội

Câu 23 và 24. Ban quản lý rừng phòng hộ chưa hề tiến hành khai thác rừng trong khu vực

giao khoán cho dân nên họ cũng chưa lấy ý kiến của người dân về kế hoạch khai thác khu

rừng của họ trong khu vực giao khoán.

Câu 25. Theo bà con, BQLRPH/Lâm trường có nên họp với hộ để thông báo kế hoạch khai

thác gỗ trong những khu rừng giao khoán cho hộ không? Hãy cho biết lý do tại sao? Thực sự

thì BQL chưa hề khai thác trong khu rừng giao khoán. Theo ý kiến của người dân thì BQL

cần phải họp với hộ dân để thông báo kế hoạch khai thác gỗ. Lí do là vì khu rừng này cũng có

một phần đóng góp công sức của dân, nên người dân cần phải được thông báo. Một lí do khác

để người dân biết tham gia khai thác như là việc hỗ trợ giải quyết lao động nhà rỗi tại địa

phương

Câu 26. Theo bà con, BQLRPH/Lâm trường có nên mời đại diện của hộ tham gia thiết kế và

giám sát khai thác gỗ trong các khu rừng giao khoán cho hộ không? Hãy cho biết lý do tại

sao? Ý kiến người dân là có vì họ cho rằng họ được giao khoán và trồng nên hiểu rất rõ về vị

trí, số lượng, kích cỡ của các loại cây gỗ nên cần được tham gia vào thiết kế. Đồng thời họ

cũng cho rằng người dân cần tham gia vào quá trình giám sát việc khai thác để đảm bảo rừng

khai thác theo đúng hồ sơ và hạn chế ảnh hưởng đến đời sống bà con.

Câu 27. Theo bà con, để tôn trọng các quyền của người dân trong việc lập kế hoạch, thiết kế

và giám sát khai thác gỗ trong các khu rừng nhận khoán thì phải làm như thế nào? Ý kiến đề

xuất của người dân trong vấn đề này là họ cần phải được tham gia từ khâu thiết kế cho đến

khâu giám sát và được quyền ký vào các hồ sơ khai thác rừng. Rừng chỉ được xem là hợp

pháp khi có chữ ký của cộng đồng thôn.

-----------------------------------------------------------------

TỔNG HỢP 8

I. Các quy định về khai thác gỗ hợp pháp

1. Khai thác gỗ tận thu:

Câu 1. Rừng tự nhiên được giao khoán cho cộng đồng thôn từ năm 1996, thôn hầu như ko áp

dụng các biện pháp Kỹ thuật lâm sinh (như tỉa thưa, luỗng phát, làm giàu rừng). Chủ yếu chỉ

có hoạt động tuần tra bảo vệ và xử phạt (khoảng 5-10 vụ/ năm – từ 1996-2004).

Câu 4. Những cây gỗ như thế nào thì được phép tân thu? Thôn đã có tận thu các loại cây gỗ

nhưng không xin phép xã và ban quản lý rừng phòng hộ. Theo bà con thì những cây gỗ bị

40

chết khô, chết cháy do sét đánh, bị đỗ gãy, lọc lõi, họ không quan tâm đến đường kính của gỗ

được tận thu.

Câu 5. Hiểu biết của người dân về trình tự khai thác gỗ tận thu

Làm đơn gửi UB xã và BQL gửi UBND Huyện UBND huyện duyệt và

HKL đóng búa

2. Khai thác gỗ từ rừng tự nhiên:

Câu 8. Nhiều hộ cũng đã làm đơn theo đúng tiến trình để xin khai thác. Tuy nhiên việc xin

phép lâu, nhiều trường hợp ko được UB xã thông báo xác nhận lại cho dân về kết quả thụ lý

hồ sơ nên dân ko muốn xin phép. Theo bàn con thì sau khi chặt hạ cần có dấu búa kiểm lâm

thì có thể mang về nhà nếu đó là gỗ thương mại, nếu gỗ chỉ mang về làm nhà thì khi có giấy

phép của UBND huyện thì có quyền chặt mang về nhà mà không cần có dâu búa kiểm lâm.

Câu 9. Theo bàn con thì thủ tục xin phép khai thác gỗ tận thu hay gỗ rừng tự nhiên thì thủ tục

như vậy là hợp lý, một đề xuất đối với quy trình này của người dân là cần phải thông báo cho

người dân sớm về kết quả xét duyệt của cơ quan chức năng đối với các hồ sơ xin khai thác

mà cộng đồng đã gửi. Đồng thời cũng có một đề xuất khác của cộng đồng là gỗ tận thu, khai

thác từ rừng tự nhiên vào mục đích làm nhà cửa thì chỉ cần UBND xã và Ban quản lý xét

duyệt, không cần UBND huyện, không cần đóng búa của kiểm lâm.

3. Quy định vận chuyển gỗ hợp pháp:

3.1 Gỗ mua

Câu 11. Người dân ở địa phương có mua gỗ nhưng với số lượng ít

Câu 12. Khi mua gỗ chỉ thỏa thuận giá cả giữa 2 bên chứ ko có giấy tờ hợp pháp (chấp nhận

nếu bị bắt thì bị tịch thu)

Câu 13. Khi mua gỗ rừng trồng thì bà con yêu cầu người bán ký vào biên bản mua bán để có

thể vận chuyển gỗ

Câu 14 Đề xuất của cộng đồng đối với gỗ hợp pháp:

Đối với gỗ RTN: Bên bán cần có giấy phép khai thác có xác nhận của chính quyền, gỗ có dấu

búa của kiểm lâm và phải chuyển hóa đơn/ biên bản mua bán bao gồm nội dung về tên loại

gỗ và khối lượng gỗ cho bên mua

Đối với gỗ RT: chỉ cần giấy phép và biên bản mua bán

41

- Nếu vận chuyển trong thôn/ xã: ko cần giấy phép vận chuyển

- Nếu ngoài xã thì cần phải có giấy phép vận chuyển

Giấy phép vận chuyển nên bao gồm: số lượng, chủng loại và thời gian

Nếu bán cho nhiều đối tượng thì hồ sơ gốc cộng đồng giữ, còn người mua bao nhiêu thì

chỉ cần UB xã vàKL địa bàn xác nhận là được

3.2 Gỗ bán

Câu 15. Cộng đồng có bán gỗ nhưng hoàn toàn ko có giấy tờ hợp pháp

Câu 16,17 và câu 18 trả lời tương tự như 2 cộng đồng bên trên.

3. An toàn môi trường:

3.1 Tài nguyên rừng và DDSH

Câu 19. Khu rừng ban quản lý có nhiều loại cây gỗ quý như

• Nhóm I: gỗ Huê, Lim, Gõ, Kiền, Trâm

• Nhóm III: Đào, chò, chua trường, chua đá, kiền

• Nhóm II: Giổi nghệ, giổi gừng, chua, sến

Câu 20. Khi khai thác gỗ bà con thường chặt những loại cây gỗ quý, càng quý thì càng thích

khai thác. Mục đích của việc khai thác này là làm nhà, bán, làm vật dụng, gỗ tạp làm củi. Bà

con cũng nghĩ đến việc cần bảo tồn tài nguyên rừng tuy nhiên vì việc khai thác gỗ hiện nay

chưa được kiểm soát chặt chẽ nên việc bảo tồn tài nguyên rừng theo ý kiến bà con vẫn chưa

chú trọng.

Câu 21. Ý kiến của bà con về việc khai thác tài nguyên rừng vẫn được bảo tồn: Trước khi

khai thác cần tham vấn ý kiến dân, trong quá trình khai thác giữ lại những cây giống, những

cây gỗ quý hiếm, luống phát tạo điều kiện cho cây phát triển, trồng dặm lại rừng ngay khi

khia thác xong.

3.2 Đảm bảo môi trường:

Câu 22. Xí nghiệp Long Phụng (1990) có khai thác rừng tự nhiên (có giấy phép) và có mở

đường khai thác vận chuyển trong rừng ẢNh hưởng: mất rừng sản xuất của dân, có 10 hộ

bị ảnh hưởng; xói mòn đất rừng theo các đường khai thác vận chuyển; nguồn nước bị ảnh

hưởng, mất nước từ đầu nguồn.

42

23. Các đơn vị khai thác gỗ cần phải làm gì? Người dân đề xuất các công ty khi khai thác

phải tham vấn cộng đồng khi lên kế hoạch thiết kế khai thác:

• Họp tham vấn cộng đồng và được cộng đồng xác nhận

• Khai thác và vận chuyển phải có sự giám sát của cộng đồng xác nhận của CĐ

(BQL thôn)

• Khai thác thì phải trích phí lại cho người dân: 2-4%

• Hồ sơ mua bán phải công khai cho dân

- Việc giám sát là cần thiết vì:

4. An toàn xã hội:

Câu 24. Dân chưa tiến hành việc khai thác gỗ tận thu ở ở những khu rừng được giao khoán

quản lý.

Câu 25, 26 và 27: Thực tế BQL chưa tiến hành khai thác ở những khu rừng được giao khoán

nên không thể nói là người dân có được mời tham gia hay không

Câu 28. Theo bà con, BQLRPH/Lâm trường có nên họp với hộ để thông báo kế hoạch khai

thác gỗ trong những khu rừng giao khoán cho cộng đồng không? Hãy cho biết lý do tại sao?

Bà con cho rằng họ cần phải tham gia họp về kế hoạch khai thác với lí do là rừng giao khoán

là do dân quản lý nên khi khai thác phải họp với cộng đồng.

Câu 29. Theo bà con, BQLRPH/Lâm trường có nên mời đại diện của thôn/nhóm hộ tham gia

thiết kế và giám sát khai thác gỗ trong các khu rừng giao khoán cho thôn/nhóm hộ không?

Hãy cho biết lý do tại sao? Ý kiến người dân là nên mời vì họ cần phải thương thảo với BQL

trong trường hợp việc khai thác này ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của hộ

Câu 30. Theo bà con, để tôn trọng các quyền của người dân trong việc lập kế hoạch, thiết kế

và giám sát khai thác gỗ trong các khu rừng nhận khoán thì phải làm như thế nào? Cộng đồng

phải được tham gia trong suất quá trình khai thác, sự tham gia của cộng đồng phải được thể

hiện như một đơn vị có tư cách pháp nhân trong việc ký vào các hồ sơ khai thác.

5. Chia sẽ lợi ích

Câu 31. Thôn chưa tiến hành việc khai thác ở khu rừng giao khoán nên cũng chưa nghĩ đến

cơ chế chia sẽ lợi ích.

43

Câu 32. Cũng có một số trường hợp hộ gia đình tân thu gỗ trong rừng nhận khoán, trường

hợp này thì cộng đồng thường ưu tiên cho những hộ sử dụng gỗ vào mục đích làm nhà.

Câu 33. Ý kiến của cộng đồng về việc chia sẻ lợi ích từ khai thác gỗ tận dụng, tận thu. Thực

tế là cộng đồng cũng đã không tiến hành nhận khoán bảo vệ rừng nên người dân không có ý

kiến về việc chia sẽ lợi ích

Câu 34. Theo bà con có cần xây dựng cơ chế có cần thiết phải xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích

từ rừng nhận khoán, đặc biệt từ việc khai thác gỗ tận dụng, tận thu hay không? Theo ý kiến

người dân thì đây là việc làm cần thiết

Câu 35. Nếu có thì bà con đề nghị nên chia sẽ lợi ích như thế nào? Ưu tiên cho các hộ nghèo

khai thác gỗ làm nhà, nếu cộng đồng khai thác mục đích thương mại thì sau khi trừ đi chi phí

sẽ trích nộp số tiền còn lại vào quỹ thôn. Cơ chế chia sẽ lợi ích được người dân đề xuất như

sau

- Đối với gỗ tận thu:

• Khi cộng đồng khai thác: nếu bán trừ hết chi phí còn lại thì nộp quỹ . Nếu hộ nào xin

làm nhà thì trích quỹ 5% 2%

• Nếu BQL Khai thác: thì cần trích % từ tổng thu – 5% 20%

- Gỗ rừng tự nhiên:

• Cộng đồng KT – tương tự

• BQL: Tương tự

- Câu 38. Để tôn trọng quyền lợi của dân trong tiến trình thì cần mời dân để tham

khảo ý kiến và người dân địa phương được tham gia khai thác và giám sát. Người

dân đề xuất trong tương lai nếu BQL khai thác thì cần họp với thôn, mời đại diện

của thôn để tham gia lập kế hoạch khai thác họp dân lại để thông qua kế haoch

-----------------------------------------------------------------

TỔNG HỢP 9

I. Các quy định về khai thác gỗ hợp pháp:

1. Khai thác ở RTN

Câu 1. Cộng đồng thôn 4 đã được giao rừng từ năm 2005 (60,3ha) – loại rừng phòng hộ

44

Câu 2 và 3. Thôn đã được cho phép khai thác 1 lần để làm nhà rông cộng đồng. Khối lượng:

2 cây gỗ tròn – 4m3 – gỗ chò

Câu 4. Lượng gỗ khai thác nằm trong kế hoạch KThac 5 năm của thôn

Câu 5 và câu 6 Quy trình khai thác gỗ rừng tự nhiên giao cho cộng đồng thôn

• Làm đơn xin xã: tờ trình – vị trí khai thác, lô khai thác, số lượng, loại cây

• Tờ trình gửi HKLam

• HKL gửi lên UB Huyện

• Huyện cấp giấy phép khai thác

• UB xã và KL địa bàn giám sát việc khai thác

Câu 7. Khi vào rừng khai thác cần phải có giấy phép của UB Huyện. Tổ chức khai thác: Họp

thôn, xác định mức đóng góp theo ngày công của từng hộ và trích quỹ của thôn để thuê trâu

kéo gỗ về

- Trình tự khai thác:

• Với mục đích Sử dụng tại địa phương: thống nhất với qd của nhà nước

• Mục đích Bán quỹ xung thôn: giấy tờ cho phép của UB huyện, xác nhận của thôn

+ đóng búa KL

2. Gỗ tận thu

Câu 8. Thôn chưa bao giờ áp dụng các biện pháp lâm sinh làm giàu rừng

Câu 11. Những cây gỗ tận thu là nhưng cây chết, khô, gãy ngọn

Câu 12. Nếu tận thu, cộng đồng chỉ xin phép thôn, đóng lệ phí

- Đề xuất quy trình:

• Trường hợp : Cá nhân khai thác làm nhà chỉ cần xin thôn xã

• TH2: cộng đồng khai thác thương mại: xin xã HKlam

- Quy định gỗ tận thu (theo hiểu biết của người dân): D>70cm, là gỗ có thể sử dụng

được cho các mục đích (dân hiểu sai đây là gỗ cây sống). Trong các giấy tờ của cộng

đồng chưa có quy định nào đối với gỗ tận thu

1. Quy trình khai thác gỗ hợp pháp từ RTN

45

Câu 15. Sau khi khai thác, kiểm lâm đóng búa thì thôn được chuyển gỗ ra khỏi rừng.

Câu 16. Thủ tục khai thác rừng tự nhiên theo đánh giá của người dân là phù hợp và không

cần thiết phải chỉnh sửa. Tuy nhiên đối với cây gãy đổ thì theo ý kiến người dân họ chỉ cần

xin phép cộng đồng và trích % để nộp quỹ thôn, không cần báo cho hạt kiểm lâm.

II. Quy định vận chuyển gỗ hợp pháp:

1. Gỗ mua:

Mua như thế nào?

- Từ RTN: mua tự do, chỉ thỏa thuận tiền, khối lượng và loại gỗ giữa bên mua và bên

bán. Nếu bị bắt thì chấp nhận bị bắt

- Từ RT: tự do. Nhưng nếu theo hướng hợp pháp cần có giấy tờ, ko cần đóng búa

Làm thế nào để gỗ hợp pháp:

- RTN: người bán phải có giấy tờ, gỗ phải được đóng búa

- RT: xác nhận cảu UB xã và KL, ko cần đóng búa

III. Môi trường

- Loại cây khai thác từ RTN: tất cả các loại cây gỗ to trong nhóm: Đào*, chò*, tràm

chũa, lim*, da chồn, chua trường*, huê, gội, giổi quả, Ươi (cưa cây thu quả)

- Khai thác gỗ: dụng cụ- cưa máy, trâu kéo, chọn cây có d>50cm, chọn các loại trong

nhóm gỗ tốt ko chú ý đến việc bảo tồn

- Khai thsc bền vững (theo ý người dân): chú ý ko chặt các cây con mục đích khi

luỗng phát, chăm sóc rừng; chặt dây leo; khai thác tránh gây thiệt hại cho cây con;

trồng thêm bằng cách nhổ và trồng cây dặm theo mục đích

- Đóng góp bảo vệ môi trường: 200.000/khối

IV: An toàn xã hội:

- Kế hoạch khai thác gỗ do toàn dân lập ra

- BQL rừng xác nhận việc khai thác loại cây và trữ lượng gỗ khai thác

- Đối với BQL: thực tế ko có thông báo cho cộng đồng, chỉ báo UB xã

- Đề xuất:

46

• BQL/ cty nếu khai thác cần có thông báo dân nếu xe khai thác có đi ngang qua rừng

cộng đồng yêu cầu BQL/ cty thực hiện trách nhiệm về môi trường và xã hội đối

với cộng đồng.

V. Chia sẻ lợi ích:

- Nếu hộ khai thác làm nhà thì trích nộp 200.000/ khối

- Nếu bán, trừ hết chi phí, chia lại 70 % cho các hộ trong cộng đồng theo tỷ lệ đóng

góp công, 30% trích nộp quỹ

- Để minh bạch: chấm công, chia theo công và công khai quỹ trong các cuộc họp

thôn về các khoản thu chi

- Nếu BQL, cty khai thác thì trích nộp lại cho cộng đồng 30%

---------------------------------------------------------

TỔNG HỢP 10

1. Khai thác gỗ rừng trồng:

- Được giao đất trồng rừng từ năm 1996

- Cao su: đã cạo mũ

- Keo: đã có khai thác (ít nhất đưuọc 3 kỳ vì dân chỉ trồng khoảng 3-4 năm là khai

thác!!!

- Khi khai thác gỗ:

• Nếu gia đình tự trông thì ko xin phép

• Nếu trồng với vốn vay từ WB3 thì phải báo cho xã, huyện

Thủ tục khai thác rừng WB3: chưa biết vì chưa khai thác

- Mua bán: gia đình từ trồng thì tự liên lạc với thương lái đạp rừng (?) cam kết

mua bán thương lái nộp lệ phí cho xã để xin giấy phép vận chuyển (ko biết bao

nhiêu)

2. Quy trình khai thác:

- Theo quy trình của nhà nước: hộ gd xin xã xin huyện cho phép khai thác

- Theo ý kiến người dân thủ tục ko quá khó để thực hiện

- Hưởng lợi từ việc bán rừng: 25-30 triệu/ ha. Trừ chi phí còn lại khoảng 15 triệu

47

Gỗ rừng trồng: việc mua bán gỗ rừng trồng theo nhận thưc của người dân thì ko cần giấy tờ xác nhận. để xác nhận nguồn gốc/ tính hợp pháp của gỗ rừng trồng chỉ cần: giấy mua bán – x

-----------------------------------------------------------------------

Phụ lục 2: Danh sách thành viên nhóm tham vấn cộng đồng

Stt Họ và tên Địa chỉ Số điện thoại

1 Hoàng Huy Tuân Khoa LN – ĐHNL Huế 0914263761

2 Lê Trọng Thực Khoa LN – ĐHNL Huế

3 Phạm Cường Khoa LN – ĐHNL Huế 0905801501

4 Lê Thị Mỹ Hạnh CSRD 0128760063

5 Nguyễn Thị Bích Ngọc Corenam 01216593234

6 Lê Thị Tịnh Chi Corenam 0985820115

7 Lê Văn Lân CRD 01202555932

8 Nguyễn Thanh Hiền CRD 0972173020

9 Phạm Đình Hiện CRD 0985743817

Phụ lục 3: Danh sách đại biểu tham dự cuộc họp huyện

Stt Họ và tên Địa chỉ Số điện thoại

1 Trần Quốc Phụng UBND huyện 0914094389

2 Hoàng Văn CHúc Hạt kiểm lâm 0914079005

3 Phan Trần Duy Phương Phòng TNMT 0982098380

4 Nguyễn Hà Nhân Phòng NNPTNT 0985654239

5 Trần Văn Khôi Ban QLRPH

6 Phạm Văn Cường Xã T Long 01688588973

7 Trần Văn Biển Xã T Nhật 01688314585

8 Hồ Văn Bó Xã T Quảng

Phụ lục 4: Danh sách người dân tham gia thảo luận nhóm

Stt Họ và tên Điện thoại Xã Nhóm

1 Trần Văn Mái T Nhật 1A1

2 Nguyễn Văn Ất 01658306793 T Nhật 1A1

3 Hồ Thị Mứt T Nhật 1A1

4 Lê Thị Chớ T Nhật 1A1

48

5 Hồ Thị Hòa T Nhật 1A1

6 Trần Văn Huấn T Nhật 1A1

7 Nguyễn Văn An T Nhật 1A1

8 Nguyễn Văn La T Nhật 1A1

9 Trần Xuân Brương 01216518895 T Nhật 1B1

10 Trần Xuân Thủy T Nhật 1B1

11 Nguyễn Ngọc Thủy 01698791659 T Nhật 1B1

12 Võ Thị Phương 01669942019 T Nhật 1B1

13 Nguyễn Văn Đen 0546533645 T Nhật 1B1

14 Nguyễn Ngọc Máy T Nhật 1B1

15 Hồ Thị Cát T Nhật 1B1

16 Trần Thị Bứa 0546533679 T Nhật 1B1

17 Hồ Văn Trân 01648527123 T Nhật 2B1

18 Hồ Văn Vang 01662377528 T Nhật 2B1

19 Hồ Thị Phương T Nhật 2B1

20 Nguyễn Thị Loan T Nhật 2B1

21 Hồ Văn Lung T Nhật 2B1

22 Hồ Văn Vết T Nhật 2B1

23 Hồ Văn Han T Nhật 2B1

24 Hồ Văn Đa 0546556218 T Nhật 2B1

25 Hồ Thị Dôn T Quảng 1A2

26 Lê Xuân Xiêm 0988537320 T Quảng 1A2

27 Lê Xuân Lài T Quảng 1A2

28 Hoàng Xuân Hải T Quảng 1A2

29 Hoàng Xuân Mai T Quảng 1A2

30 Kim Thị Huệ T Quảng 1A2

31 Hồ Văn Núi T Quảng 1A2

32 Hồ Văn Lực 01656894490 T Quảng 1A2

33 Phạm Văn Kăng T Long 1C1

34 Phạm Văn Ngứt T Long 1C1

35 A Lăng Ai T Long 1C1

36 Phạm Văn Vạch T Long 1C1

37 Hồ Thị Nhột T Long 1C1

38 A Lăng Tường T Long 1C1

49

39 Lê Thị Mai T Long 1C1

40 Trần Thị Đính T Long 1C1

41 Đoàn Thị Bưới T Long 2A1

42 Phạm Thị Hạnh T Long 2A1

43 Hồ Văn A Tơn T Long 2A1

44 Phạm Văn Táy T Long 2A1

45 Hồ Văn Phúc T Long 2A1

46 Nguyễn Văn Ghú 0546294650 T Long 2A1

47 Trần Văn Ót T Long 2A1

48 Trần Văn Điếu 01675719920 T Long 2A1

49 Phạm Văn Tin T Long 1B2

50 Hồ Thương Thực T Long 1B2

51 Hồ Xuân Miêng T Long 1B2

52 Trần Văn Sót T Long 1B2

53 Nguyễn Ngọc Thịnh T Long 1B2

54 Phạm Văn Tiên T Long 1B2

55 Hồ Văn Diên 01658450198 T Long 1B2

56 Phạm Văn Tý 01698210209 T Long 1B2

57 Nguyễn Văn Trung T Long 1C2

58 Phạm Văn Mai T Long 1C2

59 Trần Văn Lách 01654313923 T Long 1C2

60 Hồ Thị Thèo T Long 1C2

61 Nguyễn Thị Thu T Long 1C2

62 Đoàn Văn Péc T Long 1C2

63 Phạm Văn Khó T Long 1C2

64 A Lăng K Lói T Long 1C2

65 Đoàn Văn Đạo T Long 2B2

66 Phạm Văn Phương T Long 2B2

67 Trần Thị Hỏi T Long 2B2

68 Trần Thị Dảy T Long 2B2

69 Trần Thị Rin T Long 2B2

70 Phạm Thị Mần T Long 2B2

71 Tà Rương Mão T Long 2B2

72 Phạm Văn Hải T Long 2B2

50

73 La Hữu Viên 0948588950 T Quảng 1A3

74 Nguyễn Xuân Minh T Quảng 1A3

75 Trần Văn Tạo T Quảng 1A3

76 Phan Văn Hiệp T Quảng 1A3

77 Nguyễn Thị Lài T Quảng 1A3

78 Trần Thị Vẽ T Quảng 1A3

79 Nguyễn Tấn T Quảng 1A3

80 Trần Đình Tiến T Quảng 1A3

81 Nguyễn Văn Cây 0982670205 T Quảng 2A2

82 Hoàng Văn Pháo T Quảng 2A2

83 Lê Xuân Đại T Quảng 2A2

84 Nguyễn Văn Dự T Quảng 2A2

85 Hoàng Xuân Thảo 0979389879 T Quảng 2A2

86 Trần Văn Chăn T Quảng 2A2

87 Hồ Thị Hư T Quảng 2A2

88 Hồ Thị Niệt T Quảng 2A2

89 Hồ Văn Thưới 01677418058 T Quảng 2B3

90 Hồ Văn Chơn T Quảng 2B3

91 Hồ Văn Na T Quảng 2B3

92 Hồ Văn Binh T Quảng 2B3

93 Hồ Văn Ron T Quảng 2B3

94 Hồ Văn Phương T Quảng 2B3

95 Đoàn Văn Đông T Quảng 2B3

96 Hồ Văn Vi 01692814515 T Quảng 2B3

97 Phạm Văn Ngon T Quảng 1B3

98 Đoàn Văn Câm T Quảng 1B3

99 Hồ Văn Ngoái T Quảng 1B3

100 Hồ Văn Hứch T Quảng 1B3

101 Hồ Văn Nốt T Quảng 1B3

102 Hồ Văn Nung T Quảng 1B3

103 Hồ Văn Viêm T Quảng 1B3

104 Hồ Văn No T Quảng 1B3

105 Đoàn Văn Chái 01693521852 T Long 1C3

106 Hồ Văn Hồ 0989001132 T Long 1C3

51

52

107 Hồ Đức Long 01693012632 T Long 1C3

108 Hồ Thị Cái T Long 1C3

109 Đoàn Văn Voi T Long 1C3

110 Đoàn Văn Vân 0985560010 T Long 1C3

111 Hồ Văn Lạc 01676826431 T Long 1C3

112 Hồ Văn Tướp T Long 1C3

113 La Văn Hòn T Quảng 2A3

114 Hồ Văn Bảy T Quảng 2A3

115 Hồ Thị Vết T Quảng 2A3

116 Hồ Thị Vân T Quảng 2A3

117 Hồ Văn Hón T Quảng 2A3

118 Hồ Văn Vương T Quảng 2A3

119 Hồ văn Phái T Quảng 2A3

120 Hồ Thị Hằng T Quảng 2A3