bÁo cÁo nckh sinh viÊn-nĂm 2012 -...

31
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỶ LỢI BAN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HỘI NGHỊ NCKH SINH VIÊN NĂM 2012 http://www.wru.edu.vn BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 “GIỚI THIỆU MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TĂNG CƯỜNG BỔ SUNG NƯỚC DƯỚI ĐẤT TỪ NGUỒN NƯỚC MƯA VÀ NƯỚC MẶT KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN NAM TRUNG BỘ Giáo viên hướng dẫn: Th.S Đỗ Tiến Khoa Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa Lớp: S11- 50 CTN Chuyên ngành Cấp Thoát Nước Trường Đại Học Thủy Lợi TP. HỒ CHÍ MINH: 06 2012

Upload: others

Post on 03-Sep-2019

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỶ LỢI BAN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ

HỘI NGHỊ NCKH SINH VIÊN NĂM 2012

http://www.wru.edu.vn

BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012

“GIỚI THIỆU MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TĂNG CƯỜNG BỔ SUNG

NƯỚC DƯỚI ĐẤT TỪ NGUỒN NƯỚC MƯA VÀ NƯỚC MẶT

KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN

NAM TRUNG BỘ ”

Giáo viên hướng dẫn: Th.S Đỗ Tiến Khoa

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa

Lớp: S11- 50 CTN – Chuyên ngành Cấp Thoát Nước

Trường Đại Học Thủy Lợi

TP. HỒ CHÍ MINH: 06 – 2012

Page 2: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 1 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

MỤC LỤC

1. Đặt vấn đề .........................................................................................................

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài .........................................................................

3 .Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................

4. Phạm vi nghiên cứu ..........................................................................................

NỘI DUNG THỰC HIỆN: ...................................................................................

I. CÁC ĐIỀU KIỆN TÍCH TRỮ NƯỚC DƯỚI ĐẤT TỪ NƯỚC MƯA: ..........

1. Các điều kiện lý tưởng để thu gom nước mưa ..................................................

2. Các khía cạnh cần cân nhắc khi tính toán thiết kế bổ cập nước dưới đất từ nước

mưa và nước mặt ...................................................................................................

3. Các vùng có tiềm năng bổ cập .........................................................................

II. CÁC PHƯƠNG PHÁP BỔ CẬP NƯỚC DƯỚI ĐẤT TỪ NƯỚC MƯA VÀ

NƯỚC MẶT: ........................................................................................................

1. Bổ cập nước dưới đất bằng các phương pháp trực tiếp: ...................................

1.1. Các phương pháp ép nước lỗ khoan, hầm mỏ ...............................................

1.1.1. Ép nước qua lỗ khoan và hầm mỏ tự nhiên ................................................

1.1.2. Sử dụng các lỗ khoan ép nước ....................................................................

1.1.3. Bổ cập nước dưới đất trực tiếp bằng nguồn nước mưa dư thừa .................

1.1.3.1. Bổ cập nước mưa cho nước ngầm tại khu vực đô thị ..............................

a. Xây dựng các hố bổ sung nước mưa .................................................................

b. Hầm bổ cập thẳng có giếng phun .....................................................................

2. Các phương pháp bổ sung gián tiếp nước dưới đất ..........................................

III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN CÁC PHƯƠNG PHÁP

BỔ SUNG NHÂN TẠO NƯỚC DƯỚI ĐẤT TẠI CÁC ĐỒNG BẰNG VEN

BIỂN NAM TRUNG BỘ .....................................................................................

1. Các yếu tố khí hậu và thủy văn ........................................................................

1.1. Đặc điểm khí hậu ........................................................................................

1.2. Đặc điểm thủy văn ......................................................................................

Page 3: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 2 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

2. Các yếu tố địa hình ........................................................................................

3. Các yếu tố địa chất - địa chất thủy văn ..........................................................

3.1. Các yếu tố địa chất ......................................................................................

3.2. Các yếu tố địa chất thủy văn: ......................................................................

3.3. Các yếu tố khác ...........................................................................................

IV. LỰA CHỌN CÁC PHƯƠNG PHÁP BỔ SUNG NHÂN TẠO NƯỚC DƯỚI

ĐẤT CHO CÁC ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN NAM TRUNG BỘ ....................

1. Vùng đá gốc nứt nẻ ........................................................................................

2. Vùng đồng bằng ven sông .............................................................................

3. Vùng các đồng bằng ven biển ........................................................................

KẾT LUẬN: ......................................................................................................

Page 4: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 3 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

GIỚI THIỆU MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TĂNG CƯỜNG BỔ SUNG

NƯỚC DƯỚI ĐẤT TỪ NGUỒN NƯỚC MƯA VÀ NƯỚC MẶT

KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN NAM TRUNG BỘ

GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

SVTH: Bùi Xuân Khoa

Chuyên ngành Cấp Thoát Nước

Trường Đại Học Thủy Lợi

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm vừa qua cùng với sự đô thi hóa là vấn đề bê tông hóa cũng

đang xảy ra ở nhiều thành phố lớn. Vấn đề sử dụng nước ở các đô thị cũng đang là vấn

đề bức thiết bởi tài nguyên nước được đánh giá không phải là tài nguyên vô hạn. Vấn

đề cấp nước và sử dụng nước an toàn đang được quan tâm hơn bao giờ hết. Bài toán

cấp nước lúc này không phải là chỉ lấy nước tại nguồn xử lý và đem ra sử dụng mà vấn

đề đặt ra ở chỗ lấy nước rồi cần phải bổ sung nước vào nguồn thì vấn đề cấp nước mới

thực sự an toàn và hiệu quả.

Hiện nay nguồn nước lấy làm nước thô cấp cho nguồn cũng có những lựa chọn

phong phú, nhưng vấn đề quan tâm nhất hiện nay là nguồn nước thô lấy từ nguồn nước

ngầm. Với quá trình sử dụng nước ngày càng tăng, nhiều hộ gia đình hay các công ty

cấp nước đang sử dụng các giếng khoan tập trung hay giếng lẻ để lấy nước cấp cho

sinh hoạt, điều đó làm cho nguồn nước dưới đất bị cạn kiệt hoặc ô nhiễm gây ra những

hậu quả nghiêm trọng, nhất là thay đổi chế độ địa chất thủy văn của nền đất cũng như

gây ra tình trạng ô nhiễm nước và thiếu hụt nước trong tương lai.

Đề tài này dừng lại ở việc phân tích và giới thiệu các điều kiện để tích trữ và

một số phương pháp bổ cấp nước dưới đất bằng nguồn nước mặt và quan tâm nhất ở

đây và vấn đề bổ cập nước dưới đất từ nguồn nước mưa.

2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI

Đề tài thực hiện nhằm phân tích và giới thiệu một số phương pháp bổ cập

nguồn

Page 5: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 4 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

nước ngầm là điều kiện, tiền đề để đi sâu hơn vào nghiên cứu và lựa chọn được

phương pháp bổ cập nước dưới đất thích hợp tại mỗi địa phương tùy thuộc vào địa

hình, điều kiện khí tượng, địa chất và địa chất thủy văn. Đề tài cũng nêu lên một số

điền kiện có thể ứng dụng để bổ cập nước dưới đất cho khu vực ven biển Nam trung

bộ, nơi mà nguồn nước mặt thường xuyên khan hiếm cũng như nguồn nước ngầm có

độ nhiễm mặn cao.

- Tận dụng nguồn nước sông hồ làm nước thô để bổ cấp cho nguồn nước ngầm khi

các biện pháp bổ cập tự nhiên không đáp ứng đủ nhu cầu khai thác nước cấp của con

người

- Kiểm soát xâm ngập mặn tai những vùng ven biển, tăng cường dòng chảy trên

sông, giảm dòng chảy mặt và xói mòn đất, tận dụng nguồn nước mưa, nước lũ lụt để

giảm khả năng phá hoại của chúng và kiểm soát sụt lún mặt đất.

- Cải thiện chất lượng nước trong các tầng chứa nước

- Cải thiện lớp phủ thực vật

- Nâng cao mực nước trong các giếng khai thác đã bị khô

- Bổ cập nguồn nước ngầm từ nguồn nước mặt cũng là phương pháp tích trữ nước

mà không tốn diện tích chứa đựng trên bề mặt, bên cạnh đó lại giảm được khả năng

nhiễm bẩn của nguồn nước mặt do quá trình thấm lọc qua các lớp vật liệu lọc tự nhiên

qua các tầng địa chất.

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Đề tài được thực hiện dựa trên việc tiếp cận và phân tích những tài liệu từ sách

báo, tạp chí có liên quan và xuất phát từ những ý tưởng cá nhân dựa trên những

nguyên tắc vận động của nguồn nước

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đề tài không thực hiện trên một vị trí địa lý hay không gian hoặc thời gian

nào, mà chỉ phân tích, đánh giá và giới thiệu các phương pháp bổ cập nguồn nước

ngầm, từ đó dựa vào điều kiện địa lý tự nhiên, khí tượng, điều kiện địa chất, điều

kiện địa chất thủy văn, để chọn ra được phương pháp thực hiện tối ưu cho mỗi

vùng.

Page 6: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 5 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

NỘI DUNG THỰC HIỆN

I. CÁC ĐIỀU KIỆN TÍCH TRỮ NƯỚC DƯỚI ĐẤT TỪ NƯỚC MƯA.

1. Các điều kiện lý tưởng để thu gom nước mưa

- Nơi có lượng mưa bình quân hằng năm cao, khu vực hay bị bão, lũ..mà không đủ

không gian để xây các bể chứa trên mặt, đặc biệt đối với vùng đô thị

- Mực nước nằm đủ sâu thường là lớn hơn 8m và có sẵn không gian ngầm

- Địa tầng có tính thấm nằm nông hoặc sâu trung bình

- Nước dưới đất có chất lượng kém, và mục đích đặt ra là phải cải tạo chất lượng

nước

- Nơi có thể có sự xâm nhập của nước mặt, đặc biệt các vùng ven biển

- Tốc độ bốc hơi từ các khối nước mặt là cao

2. Các khía cạnh cần cân nhắc khi tính toán thiết kế bổ cập nước dưới đất từ

nước mưa và nước mặt

- Đặc điểm ĐCTV của vùng, bao gồm bản chất và qui mô tầng chứa nước, lớp

đất phủ, địa hình, độ sâu mực nước ngầm, đặc điểm hóa học của nước dưới đất

- Nguồn nước để bổ cập cho nước dưới đất đây là một trong những đòi hỏi đầu

tiền để bổ cập cho nước dưới đất, được đánh giá dưới dạng dòng chảy mặt dư

thừa theo mùa

- Hiện trạng sử dụng đất, các khu công nghiệp, các vành đai xanh, diện tích mái

nhà, hình thái dòng chảy tại các sông, suối.

- Đặc điểm khí hậu như thời gian mưa, kiểu mưa và cường độ mưa

3. Các vùng có tiềm năng bổ cập

- Vùng mực nước dưới đất thường xuyên bị giảm do cung vượt quá cầu

- Vùng có nhiều tầng chứa nước chưa bão hòa

- Vùng ven biển dễ bị xâm ngập mặn

- Vùng nước dưới đất không có đủ vào các tháng cạn kiệt

Page 7: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 6 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

- Vùng đô thị hóa nhanh, thấm của nước mưa vào đất giảm mạnh và bổ cập cho

nước dưới đất bị cạn kiệt để đảm bảo nước lấy cấp cho sinh hoạt và kiểm soát

hiện tượng sụt lún nền trong các đô thị lớn hiện nay.

II. CÁC PHƯƠNG PHÁP BỔ CẬP NƯỚC DƯỚI ĐẤT TỪ NƯỚC MƯA VÀ

NƯỚC MẶT

Các phương pháp bổ cập nước dưới đất hiện nay có thể được chia thành 2

nhóm:

- Nhóm các biện pháp bổ cập trực tiếp bao gồm các phương pháp thấm

qua lỗ khoan, qua hầm mỏ, qua các hố nhân tạo

- Nhóm các biện pháp bổ sung gián tiếp bao gồm các phương pháp thấm

qua đáy sông, đáy hồ.

Đề tài sẽ đi giới thiệu và phân tích 2 nhóm phương pháp bổ cập nước dưới đất như

trên:

1. Bổ cập nước dưới đất bằng các phương pháp trực tiếp

1.1 Các phương pháp ép nước lỗ khoan, hầm mỏ

1.1.1 Ép nước qua lỗ khoan và hầm mỏ tự nhiên

Phương pháp này được áp dụng tại những vùng có sẵn hầm mỏ hoặc các moong

khai thác sỏi, đá, sét, quặng sắt… đã bỏ trống hoặc nơi cần thiết đặc biệt cho

bảo vệ môi trường. Do điều kiện chênh áp nên nước được thấm xuống lòng đất

và bổ cập cho nguồn nước ngầm mạch nông, hoặc trung nông. Tuy nhiên để

tránh hiện tượng tắc nghẽn tại các lỗ hổng thấm nước thì nước phải được sơ

lắng, đặc biệt đối với nước mưa mùa bão lũ..Phương pháp này lượng nước bổ

cập nhanh so với tự nhiên tuy nhiên chất lượng nước dưới đất dễ bị nhiễm bẩn

do hàm lượng chất lơ lửng, các hóa chất trên mặt đất và cả các vi sinh vật.

1.1.2 Sử dụng các lỗ khoan ép nước

Phương pháp này cho phép ép nước mặt vào đất thông qua các lỗ khoan ép

nước và được khai thác thông qua các lỗ khoan nước khác.

Page 8: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 7 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

Hình vẽ trên cho ta thấy nước được bổ cập trực tiếp thông qua các lỗ khoan có

sẵn. Nước sau khi được bổ cập được chứa trong các tầng xung quanh lỗ khoan

và được khai thác tại cùng một lỗ khoan để sử dụng. Theo phương pháp này ta

gọi là hệ thống chứa và khai thác tầng chứa nước ( ASR). Hoặc nước được ép

vào một lỗ khoan và được khai thác tại 1 lỗ khoan khác gần lỗ khoan bổ cập để

tăng thời gian di chuyển và tận dụng khả năng tự xử lý nước của tầng chứa

nước. Phương pháp này gọi là phương pháp Chứa – Vận chuyển – Khai thác (

ASTR ). Phương pháp này cho chất lượng nước khai thác lên tốt hơn phương

pháp ( ASR ) do có thời gian di chuyển và tận dụng được khả năng tự xử lý của

tầng chứa.

Phương pháp bổ cập nước trực tiếp từ các giếng khoan được áp dụng tại địa

chất tầng chứa bị phủ một lớp thấm yếu và cũng áp dụng tại những nơi diện tích

đất nhỏ hẹp nhưng nguồn nước ngầm bị khai thác quá mức. Tuy nhiên phương

pháp này yêu cầu chất lượng nước bổ cập cao hơn phương pháp ép nước từ hầm

mỏ tự nhiên.

Đặc điểm của phương pháp này là có thể áp dụng cho từng hộ gia đình

đang sử dụng các lỗ khoan để khai thác nước ngầm hoặc các lỗ khoan đã bị bỏ

hoang. Nước mưa được dẫn từ máng thu nước tới ống PVC sau đó được nối với

ống hút của máy bơm. Khi mưa tới mở van khóa nối giữa ống dẫn nước mưa và

nước theo ống hút của máy bơm bổ cập trực tiếp vào nguồn: Theo mô hình sau

Page 9: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 8 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

Page 10: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 9 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

Page 11: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 10 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

1.1.3 Bổ cập nước dưới đất trực tiếp bằng nguồn nước mưa dư thừa.

Công nghệ chứa và thu gom nước mưa hợp lý để sử dụng cho mục đích trước

mắt đã trở thành quên thuộc và được áp dụng hầu hết ở các địa phương . Tuy

nhiên thu gom nước mưa để bổ cấp cho tài nguyên nước dưới đất hiện nay đang

bị khai thác mất an toàn là một bài toán mới và không hề đơn giản. Các biện

pháp thu gom và bổ sung nhân tạo nước dưới đất từ nước mưa được trình bày

trong đề tài bao gồm: Các hố bổ sung, các hào rãnh, các giếng đào, các lỗ khoan

bỏ hoang trong các hộ gia đình, các hầm thẳng đứng, các hào ngang kết hợp lỗ

khoan, các đạp chắn, hồ thấm và đập đất….

1.1.3.1 Bổ cập nước mưa cho nước ngầm tại khu vực đô thị

a. Xây dựng các hố bổ sung nước mưa.

Trong các vùng địa chất ven sông có tính thấm nằm ở độ sâu không lớn, ta thu

gom nước mưa và có thể thực hiện bổ cập cho nước ngầm thông qua các hố bổ cập.

Công nghệ này thích hợp cho các toà nhà có diện tích mái 100 m2

, trong đô thị

có thể được xây dựng tại các khu chung cư, hội trường, nhà thi đấu, sân vận

động…Nước được thu trên mái nhà và dẫn xuống các hố bổ cập xây dựng tại khu vực

Page 12: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 11 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

xung quanh mà vẫn không ảnh hưởng tới diện tích hữu ích của ngôi nhà. Và phương

pháp này được xây dựng để bổ cập cho các tầng chứa nước nằm nông.

Các hố bổ cập có hình dạng và kích thước bất kỳ ( có thể là tiết diện tròn,

vuông, chữ nhật ) và thường có chiều rộng 1 đến 2 m và chiều sâu 2 đến 3m được lấp

bằng cuội (kích thước 5 đến 20cm), sỏi (kích thước 5 đến 10mm) và cát thô (kích

thước 1,5 đến 2mm) dưới dạng chọn lọc. Cuội ở đáy hố, sỏi ở giữa và cát ở trên cùng

để hàm lượng bột trong dòng chảy mặt sẽ lắng đọng trên mặt của lớp cát thô và có thể

loại bỏ dễ dàng. Đối với diện tích mái nhà nhò, các hố này có thể được lấp bằng gạch,

đá vỡ và diện tích cũng có thể nhỏ hơn.

Nên phủ một tấm lưới trên mái nhà để ngăn cản lá cây hoặc chất thải rắn đi vào

hố, cũng nên có một bể lắng ở mặt đất để ngăn cản các hạt mịn đi vào hố bổ cập. Nên

Page 13: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 12 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

định kỳ vệ sinh bề mặt của lớp cát trên cùng để dy trì tốc độ bổ cập. Cũng nên có bộ

phận xả trước hố bổ cập để loại bỏ các cơn mưa đầu tiên.

Ta có thể hình dung rõ nguyên tắc hoạt động của hố bổ sung thông qua hình vẽ

mô phỏng các hệ thống thu gom và bổ cập nước mưa:

Page 14: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 13 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

b. Hầm bổ cập thẳng có giếng phun.

Thích hợp với mực nước ngầm sâu, tầng nước nằm dưới lớp đất sét dày không thể

thấm qua được dẫn đến bổ cập tự nhiên kém

Giếng phun có thể có hoặc không có các bộ phận lắp ráp đi kèm, khi không có bộ

phận lắp rắp được đổ thêm lớp sỏi giúp nước liên tục bổ cập vào tầng nước

Giếng phun không có bộ phận lắp rắp có thể mang lại hiệu quả cao hay không phụ

thuộc vào lượng nước cần được bổ cập.

Page 15: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 14 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

Với phương pháp bổ cập bằng hầm bổ cập có giếng tiêm, ta có thể bổ cập cho

nguồn nước dưới đất một lượng nước lớn, gần như tức thì và có thể kiểm soát được

chất lượng nước bổ cập nhờ vào hệ thống lọc được sử dụng trong hầm bổ cập. Đồng

thời có thể tăng lượng nước bổ cập bằng cách mở rộng hầm và tăng thêm số lượng

giếng tiêm hay tăng thêm số lượng các hầm trong khu vực cần bổ cập

Nguồn nước dùng để bổ cập đa dang hơn có thể là nguồn nước mặt, nước mưa hay

nước thải sinh hoạt sau khi qua xử lý.

2. Các phương pháp bổ sung gián tiếp nước dưới đất

Thấm qua đáy sông là phương pháp bổ sung nước dưới đất gián tiếp được thực

hiện bằng cách bố trí các công trình khai thác gần các con sông, hồ, kênh, suối. Khi

các công trình khai thác hoạt động sẽ tạo ra nguồn bổ sung từ nước sông, hồ, kênh,

suối và tham gia một phần vào lượng nước được khai thác ( Theo như hình minh họa

dưới đây )

Trong phương pháp này, ngoài các đặc điểm địa chất thủy văn không thể thay đổi,

nguồn bổ sung cho tầng chứa nước bị chi phối bởi hai yếu tố:

- lưu lượng khai thác từ hành lang khai thác Q

- khoảng cách L giữa hành lang khai thác và sông.

Bổ sung nhân tạo nước dưới đất bằng phương pháp này thường gặp các vấn đề như:

Page 16: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 15 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

- Nước sông, hồ, kênh suối có thể bị nhiễm bẩn do nước thải công nghiệp,

do các sự cố tràn dầu

- Các chất lơ lửng như bột và các chất hữu cơ, các chất bẩn như sắt,

mangan bị giữ lại hình thành một lớp tắc nghẽn ở đáy và bờ sông

- Sự pha trộn giữa nước thấm từ sông và nước dưới đất có thành phần hóa

lý khác nhau có thể gây ra tắc nghẽn .

Hình 2 - Thấm qua trầm tích đáy sông

III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN CÁC PHƯƠNG

PHÁP BỔ SUNG NHÂN TẠO NƯỚC DƯỚI ĐẤT TẠI CÁC ĐỒNG

BẰNG VEN BIỂN NAM TRUNG BỘ

Lựa chọn các phương pháp bổ sung nhân tạo bị chi phối bởi các yếu tố khí hậu, thủy

văn, địa chất và địa chất thủy văn, địa hình địa phương, số lượng và chất lượng nguồn

nước.

III.1 - Các yếu tố khí hậu và thủy văn

Các điều kiện khí hậu và thủy văn ảnh hưởng tới khả năng ứng dụng các phương pháp

bổ sung nhân tạo vì chúng quyết định lượng nước sẵn có để tàng trữ.

III.1.1 - Đặc điểm khí hậu.

Nhiệt độ

Khu vực Nam Trung Bộ có nhiệt độ cao quanh năm, nhiệt độ trung bình năm dao động

từ 26,5 đến 27,5 oC. Nhiệt độ trung bình thấp nhất thường xảy ra vào tháng 1 (24,2 -

Page 17: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 16 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

25,3 oC), sau đó tăng dần và thường đạt cực đại vào tháng 6, tháng 7 ở Khánh Hòa;

tháng 4, tháng 5 ở Ninh Thuận và tháng 5, tháng 6 ở Bình Thuận, sau đó lại giảm dần

đến tháng 1 năm sau. Nhiệt độ tối cao trung bình hàng năm đạt tới 30,5-31,5 oC; cao

nhất xảy ra vào tháng 6, 7 và 8, đạt 33,6-34,6 oC, riêng Bình Thuận xảy ra vào tháng 5

hoặc tháng 6 đạt 32,5-33,5 oC; thấp nhất xảy ra vào tháng 12 và tháng 1, đạt 26,5-29,5

oC. Nhiệt độ tới thấp trung bình năm dao động trong khoảng 23,5-25 oC; với tỉnh

Khánh Hòa là 20,5-24,5 oC, với tỉnh Ninh Thuận là 24,5-26 oC, với tỉnh Bình Thuận là

21,5-25 oC

Lượng mưa

Tổng lượng mưa trung bình năm trong toàn khu vực phổ biến từ 1150-1950mm; riêng

tỉnh Ninh Thuận lượng mưa trung bình năm từ 700-800mm. Những tháng có lượng

mưa lớn và cường độ mưa cao là những khoảng thời gian có thể thu gom nguồn nước

mưa để bổ sung cho nước dưới đất. Ngoài ra mưa có tác dụng pha loãng, vì vậy vào

mùa mưa tổng độ khoáng hóa của nước dưới đất thường nhỏ hơn vào mùa khô, các

vùng có khí hậu khô tổng độ khoáng hóa của nước dưới đất lớn hơn ở những vùng khí

hậu ẩm ướt.

Bốc hơi

Tổng lượng bốc hơi trung bình hàng năm đạt từ 1120-1920mm , phân bố không đều

trong các tháng. Lượng bốc hơi tiềm năng hàng năm thường cao hơn lượng mưa trung

bình năm. Bốc hơi có tác dụng cô đặc muối trong nước. Vào mùa khô tổng độ khoáng

hoá của nước dưới đất cao hơn mùa mưa.

III.1.2 - Đặc điểm thủy văn

Các sông ở khu vực Nam Trung Bộ đều bắt nguồn từ những vùng núi cao của sườn

đông dãy Trường Sơn. Ở thượng lưu có nhiều dãy núi bám sát bờ sông nên độ dốc rất

lớn, lũ lên xuống rất nhanh, thời gian truyền lũ ngắn. Ở đoạn đồng bằng, lòng sông

rộng và nông, mùa kiệt nguồn nước rất nghèo nàn, nhưng khi lũ lớn nước tràn ngập

mênh mông vùng hạ lưu gây ngập úng dài ngày vì các cửa sông nhỏ và các công trình

che chắn nên thoát lũ kém. Các sông đều là sông vừa và nhỏ với diện tích lưu vực nhỏ

hơn 10.000km2 Dòng chảy năm của các sông khu vực Nam Trung Bộ phân phối

không đều trong năm do sự phân phối không đều của lượng mưa và hình thành hai

Page 18: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 17 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

mùa rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn. Lượng dòng chảy 4 tháng mùa lũ chiếm khoảng từ 65-

75% lượng dòng chảy cả năm. So sánh với nhu cầu dùng nước, sự phân phối dòng

chảy hai mùa như trên rất bất lợi cho sản xuất: trong khi nhu cầu nước trong các tháng

1-8 (mùa cạn) rất cao thì dòng chảy trên sông nhỏ, trái lại nhu cầu dùng nước trong các

tháng 9-12 (mùa lũ) không cao lắm thì phần lớn nước tập trung trong những tháng này.

Vì vậy trữ nước để bổ sung nhân tạo cho nước dưới đất trong mùa lũ để phục vụ nhu

cầu nước trong mùa cạn là hết sức cần thiết. Ngoài ra, vào mùa mưa nước sông cung

cấp cho nước dưới đất, thành phần hóa học của nước sông có ảnh hưởng trực tiếp đến

thành phần hóa học của nước dưới đất và vào mùa khô nước dưới đất không chịu tác

động của nước sông cũng là những điểm cần chú ý khi xây dựng các công trình bổ

sung nhân tạo. Trong những năm gần đây khu vực Nam Trung bộ có diễn biến thời tiết

hết sức phức tạp, hạn hán kéo dài làm cho lưu lượng các dòng sông xuống thấp, các

hoạt động kinh tế-xã hội ven sông phát triển mạnh mẽ làm cho nguồn nước các sông bị

ô nhiễm và nhiễm mặn.

Tình hình xâm nhập mặn

Tại tỉnh Khánh Hòa, tại các sông Dinh (sông Cái Ninh Hòa), sông Cái Nha

Trang về mùa mưa nước thường đục, độ tổng khoáng hóa của nước sông thấp (0,05

đến 0,1 g/l), về mùa khô phần hạ nước sông bị nhiễm mặn bởi thủy triều. Ranh giới

nhiễm mặn sâu về phía thượng lưu từ 3km (sông Dinh) đến 10 km (sông Cái Nha

Trang).

Tại tỉnh Ninh Thuận, xâm nhập mặn đáng chú ý tại sông Cái Phan Rang, ngay

cả vào mùa mưa nước sông bị nhiễm mặn khoảng 1 km từ cửa sông, vào mùa khô ranh

giới mặn tiến sâu vào đất liền 4,6km.

Tại tỉnh Bình Thuận, tại sông Lũy vào mùa khô ranh giới mặn tiến sâu vào đất

liền tới 4,2km, tại sông Lòng Sông chảy qua vùng Tuy Phong vào mùa khô lưu lượng

giảm rất mạnh nên nước mặn đã xâm nhập vào phía thượng nguồn >3km. Tại sông Cái

Phan Thiết vào mùa khô lưu lượng sông chỉ còn 0,025m3/s tạo điều kiện cho xâm

nhập mặn vào rất sâu trong đất liền, tuy nhiên do có đập chắn (cách cửa sông 7,6km,

nên nước mặn đã bị chặn lại ở đây.

Tình hình ô nhiễm

Page 19: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 18 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

Theo kết quả quan trắc của các Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh Khánh Hòa,

Ninh

Thuận và Bình Thuận cho thấy tại tỉnh Khánh Hòa nhìn chung các chỉ tiêu đều thấp

hơn tiêu chuẩn cho phép, riêng chỉ tiêu COD và Coliform đều vượt hàm lượng cho

phép. Tại tỉnh Ninh Thuận nước sông đã bị ô nhiễm BOD, COD và Coliform và có

dấu hiệu ô nhiễm nhẹ mangan và thủy ngân. Tại tỉnh Bình Thuận các sông chính đã bị

ô nhiễm vượt cả tiêu chuẩn loại B đối với các thông số BOD, COD, mangan, nitơrit và

có dấu hiệu ô nhiễm nhẹ thủy ngân và mangan.

III.2 - Các yếu tố địa hình

Địa hình của các đồng bằng ven biển Nam trung bộ có các dạng địa hình với

những đặc điểm sau :

Địa hình núi trung bình: Phát triển dọc theo bờ biển dưới dạng các núi sót điển

hình. Ở đây quá trình trao đổi nước xảy ra mạnh, nước mưa và nước mặt cung cấp cho

tầng chứa nước, thành phần hóa học của nước dưới đất được hình thành trong quá

trình hòa tan, rửa lũa. Tổng khoáng hóa của nước thường nhỏ, loại hình nước ít thay

đổi

Địa hình đồng bằng bóc mòn - tích tụ: Đây là các dải đồng bằng trước núi.

Trong vùng có các đồng bằng Diên Khánh, đồng bằng Ninh Sơn. Trong địa hình này,

nước mặt và nước mưa cung cấp cho nước dưới đất. Các quá trình hoà tan chiếm ưu

thế, nước dưới đất có độ tổng khoáng hóa cao hơn ở miền núi.

Địa hình đồng bằng và cồn cát ven biển: Phân bố kéo dài dọc theo bờ biển. như

đồng bằng Vạn Ninh - Ninh Hoà, Nha Trang - Cam Ranh, Phan Rang và đồng bằng

Phan Thiết - Hàm Tân. Trong loại địa hình này xảy ra các quá trình bốc hơi, hoà tan

các muối và quá trình xâm nhập mặn do ảnh hưởng của khai thác. Tổng khoáng hóa và

thành phần hóa học của nước có sự biến đổi phức tạp. Một điểm nổi bật về địa hình

vùng Nam Trung Bộ là tồn tại những dãy cồn cát kéo dài từ vài chục đến hàng trăm

km, rộng từ 5 đến 10km. Xen kẹp giữa những cồn cát cao có nhiều trũng lòng chảo

rộng. Đây là những điều kiện rất thuận lợi để tạo ra những bồn thấm ở trên những dải

cồn cát cao, nước sau khi thấm qua các tầng cát có thể chảy bằng trọng lực ra những

vùng thấp hơn ở xung quanh và được khai thác phục vụ cấp nước tại các vị trí gần các

Page 20: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 19 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

khu dân cư, ngoài ra các vùng trũng giữa các cồn cát là những vị trí lý tưởng để thu

gom và chứa nước mưa hoặc nước sông với thể tích lớn vào mùa mưa để bổ sung cho

nước dưới đất.

III.3 - Các yếu tố địa chất - địa chất thủy văn

III.3.1 - Các yếu tố địa chất

Các yếu tố địa chất có sự ảnh hưởng sâu sắc đến sự lựa chọn các phương pháp bổ sung

nhân tạo nước dưới đất. Phục vụ cho mục đích lựa chọn các phương pháp bổ sung

nhân tạo nước dưới đất thích hợp, có thể chia các đồng bằng Nam Trung Bộ thành các

vùng : vùng đá gốc nứt nẻ, vùng các đồng bằng ven sông và vùng các đồng bằng ven

biển

Vùng đá gốc nứt nẻ

Trong vùng này có các tầng chứa nước khe nứt trong các đá Paleozoi, Mezozoi, phun

trào

Bazan và trầm tích Neogen. Vùng này phân bố khá rộng, thường nằm ở các phía bắc

và tây của các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Đây là các vùng núi thấp,

gò đồi có độ cao từ 15m đến hàng trăm mét. Lớp phủ trên mặt mỏng, mực nước dưới

đất nằm trong khoảng 10 đến 15m, và dao động theo mùa. Nguồn nước chính có thể sử

dụng cho các công trình bổ sung nhân tạo nước dưới đất là nước mưa.

Vùng các đồng bằng ven sông

Trong vùng này có các tầng chứa nước lỗ hổng trong các thành tạo Pleistocen và

Holocen có nguồn gốc sông, sông-biển, phân bố ở các thung lũng sông, có cao độ từ 5

đến 15m. Thường là vùng tập trung phát triển các khu dân cư, đô thị, thị xã của các

tỉnh ven biển Nam Trung Bộ. Mực nước dưới đất ở vùng này dao động theo mùa và

thay đổi trong khoảng từ 1,5 đến 5m. Nguồn nước chính có thể sử dụng cho các công

trình bổ sung nhân tạo nước dưới đất là nước mưa và nước sông.

Vùng các đồng bằng ven biển

Trong vùng này có các tầng chứa nước lỗ hổng thuộc các trầm tích gió, biển, phân bố

dọc theo bờ biển, tạo thành các cồn cát, dải cát ven biển. Cao độ từ 5 đến 25m, đôi khi

tới 50m. Là vùng phát triển các khu du lịch, nghỉ dưỡng của các tỉnh ven biển Nam

Trung Bộ. Mực nước dưới đất thay đổi trong khoảng từ 2 đến 5m. Nguồn nước chính

Page 21: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 20 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

có thể sử dụng cho các công trình bổ sung nhân tạo nước dưới đất là nước mưa, nước

sông và nước hồ.

III.3.2 - Các yếu tố địa chất thủy văn

Các tầng chứa nước lỗ hổng.

Tầng chứa nước lỗ hổng trầm tích Holocen

Tầng chứa nước lỗ hổng trầm tích Holocen phân bố chủ yếu ở các thung lũng

sông lớn và ở các vùng đồng bằng trong vùng. Bề dày thường gặp từ 5,0 đến 10 m.

Nước trong tầng thuộc loại nước ngầm, có mực nước thay đổi từ 1,0 m đến 1,5m. Kết

quả hút thí nghiệm tại các lỗ khoan và giếng dân dụng cho thấy: lưu lượng thay đổi

trong khoảng rộng từ 0,18 đến 4,4 l/s, thường gặp từ 0,5 đến 1,0 l/s. Thành phần hóa

học nước thuộc loại bicarbonat clorur natri, clorur bicarbonat natri. Độ khoáng hóa của

nước từ 0,12 đến 10,5 g/l, giá trị thường gặp từ 0,2 đến 0,5g/l, thuộc loại nước nhạt.

Vùng ven các cửa sông và vùng thấp ven biển, nước trong tầng chứa này thường bị

nhiễm mặn, độ khoáng hóa từ 1,5 đến 10 g/l.

Tầng chứa nước lỗ hổng trầm tích Pleistocen

Tầng chứa nước lỗ hổng trầm tích Pleistocen lộ ra ở phía tây Ninh Hòa, tây

thành phố Nha Trang và thị xã Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa; thung lũng sông

Kinh Dinh, bắc Phan Rang thuộc tỉnh Ninh Thuận; Phan Rí Cửa, Phan Thiết và Hàm

Tân thuộc tỉnh Bình Thuận và phần lớn phân bố ở đáy các đồng bằng ở độ sâu từ 3 đến

30 m. Bề dày trầm tích 10 đến 20m.

Nước trong tầng này chủ yếu là nước ngầm, có mực nước tĩnh thay đổi từ 0,0

đến 7,0 m, thường gặp 1,0 đến 3,0 m. Đôi nơi gặp nước áp lực khá mạnh, nước phun

cao từ

+ 0,93 đến + 3,6 m. Nhìn chung tầng này có khả năng chứa nước trung bình. Tổng độ

khoáng hoá thay đổi rất lớn theo diện. Vùng bắc Khánh Hòa (Ninh Hòa) thường là

nước nhạt, có tổng độ khoáng hóa thay đổi từ 0,17 đến 0,89 g/l, loại hình hóa học nước

chủ yếu là clorur bicarbonat, bicarbonat clorur; còn lại ở Nha Trang Cam Ranh (Khánh

Hòa) và Ninh Thuận nước trong chúng thường bị nhiễm mặn, có tổng độ khoáng hóa

từ 1,62 đến 11,0 g/l, với loại hình hóa học chủ yếu là Clorurrur - natri. Một số khu vực

Page 22: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 21 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

của tỉnh Bình Thuận nước trong tầng này có độ khoáng hóa cao từ 1,0 đến 2,73 g/l,

không phải do sự xâm nhập mặn của nước biển, mà do sự xâm nhập của nước khoáng

bicarbonat. Động thái của nước thay đổi theo mùa, biên độ dao động mực nước thay

đổi từ 0,5 - 1,5 m. Nguồn cung cấp cho chúng là nước mưa ở phần lộ và nước ngấm từ

các tầng chứa nước lỗ hổng Holocen và nước mặt.

Các tầng chứa nước khe nứt

Tầng chứa nước trầm tích Neogen

Tầng chứa nước này lộ ra ở Mộ Tháp (Nam Phan Rang) và phân bố ở đáy đồng

bằng Phan Thiết. Thành phần bao gồm: cát kết, cuội sạn kết, sét bột kết, gắn kết yếu.

Bề dày tầng chứa nước thay đổi từ 10 đến 15 m. Nước trong chúng chủ yếu là nước

ngầm và áp lực yếu. Mực nước tĩnh thay đổi từ 1,21 m đến 37,7 m. Lưu lượng các lỗ

khoan từ 0,18 đến 2 l/s, thường gặp 1,0 đến 1,5 l/s. Hệ số thấm trung bình 2 đến 5

m/ngày. Mức độ giàu nước trung bình. Động thái của nước trong các tầng Neogen biến

đổi theo mùa, biên độ dao động giữa hai mùa từ 0,5 m đến 1,5, bình quân 1,0 m.

Nguồn cung cấp cho tầng chủ yếu thấm từ các tầng chứa nước phía trên.

Tầng chứa nước khe nứt trầm tích Creta

Tạo nên tầng chứa nước này là các đá thuộc hệ tầng Đăk Rium . Chúng lộ ra ở

Hòn Một (Ninh Hòa) và rải rác một số nơi khác. Thành phần là cuội kết, sạn kết cát

kết, bột kết. Bề dày > 100m. Thành tạo này nhìn chung có mức độ chứa nước kém.

Tuy nhiên, trong các đới phá hủy kiến tạo chúng lại có khả năng tàng trữ nước. Lỗ

khoan LK810 đã khoan vào đới nứt nẻ cho lưu lượng Q = 2,72 l/s, mực nước phun cao

trên mặt đất + 0,25 m. Nước thuộc loại bicarbonat – natri - magne, độ khoáng hóa 0,46

g/l.

Tầng chứa nước khe nứt trầm tích Jura (j)

Tầng chứa nước khe nứt trầm tích Jura phân bố rộng rãi ở diện tích phần phía

tây của 3 tỉnh, trong đó phổ biến ở 2 tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận. Nước trong tầng

này thuộc loại nước ngầm, mực nước tĩnh thay đổi từ 1,0 đến 5,0m. Tính thấm của đá

từ kém đến trung bình, thay đổi từ 0,05 đến 2,86 m/ngày, thường gặp <1,0 m/ngày.

Lưu lượng các lỗ khoan từ 0,09 đến 0,57 l/s, nơi gặp các đới phá hủy kiến tạo có thể

đạt tới 5 - 6 l/s.

Page 23: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 22 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

Nước trong tầng chứa nước khe nứt Jura có độ khoáng hóa từ 0,43 đến 9,31 g/l,

có nơi đạt tới 58,2 g/l (Ninh Hòa - Khánh Hòa). Đối với trầm tích Jura phân bố ven

biển thường có tổng khoáng hóa > 1,0 g/l do sự xâm nhập mặn của nước biển vào tầng

chứa nước và liên quan đến nước khoáng (Hàm Tân - Bình Thuận). Những khu vực

giáp biển, nước trong tầng này thường bị nhiễm mặn (ven biển Ninh Hòa, đồng bằng

Nha Trang)

Còn lại các khu vực phía tây nước trong chúng thường nhạt, có thể khai thác

cung cấp nước cho nhân dân trong vùng với quy mô không lớn. Động thái mực nước

thay đổi theo mùa, với biên độ dao động không lớn khoảng 0,3 - 0,4 m. Nguồn cung

cấp cho tầng là nước mưa, nước sông suối và nước từ các tầng chứa nước nằm trên

ngấm xuống và được thoát theo các mạng xâm thực địa phương. Có thể tóm tắt rằng

về mặt địa chất thủy văn các tầng chứa nước lỗ hổng trong các trầm tích Holocen và

Pleistocene đều là các tầng chứa nước không áp, lộ ra trên mặt hoặc nằm rất nông,

thành phần thạch học bao gồm các loại cát thạch anh hạt từ mịn đến trung, có tính

thấm cao, có mực nước dưới đất nằm sâu, bề dày không bão hòa khá lớn. Những yếu

tố này rất thích hợp cho phương pháp bổ sung nhân tạo nước dưới đất bằng các bồn

thấm và cho phép nghĩ đến một khả năng tàng trữ nước được bổ sung rất lớn.

III.3.3 - Các yếu tố khác

Khai thác nước dưới đất

Tại Bình Thuận: Số lượng lỗ khoan tay khá lớn, khoảng 3.769 lỗ khoan. Trong

đó, các lỗ khoan trong chương trình UNICEF là 1.437 lỗ khoan, chiếm 38,5%. Chất

lượng các lỗ khoan nhìn chung còn thấp. Việc cung cấp nước cho các đô thị ở Bình

Thuận hiện tại chủ yếu dựa vào các nguồn nước mặt. Khai thác nước ngầm được thực

hiện ở những vùng đơn lẻ như Đại Hoà (Tuy Phong), thị trấn Sông Mao (Bắc Bình),

nhà máy nước Hoà Phú và một vài nơi khác bằng những trạm khai thác nhỏ với lưu

lượng không quá 500 m3/ngày. Tại các lỗ khoan khai thác vào mùa khô thường không

có đủ nước hoặc chất lượng nước khai thác kém (nhiễm mặn). Nguồn cung cấp nước

chính vẫn dựa vào nước mặt tại các hồ chứa.

Tại Ninh Thuận: Năm 1933, tại thị xã Phan Rang, công trình cấp nước gồm 3 lỗ

khoan nông 8m, công suất 2.200m3/ngày và chất lượng nước kém (nhiễm mặn). Một

Page 24: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 23 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

tổ chức tư nhân đã xây dựng một trạm cấp nước ở cảng cá Đông Hải gồm 3 lỗ khoan

khai thác thường xuyên 250 – 300m3/ngày. Theo thống kê của chương trình nước sạch

sinh hoạt nông thôn Ninh Thuận đến năm 1996 trong toàn tỉnh đã thi công được 255 lỗ

khoan tay, 595 giếng sục bùn, đào được 802 giếng khơi, cải tạo được 567 giếng khơi

và 5 hệ thống nước tự chảy. Năm 1997 Công ty cấp nước Ninh Thuận bắt đầu thi công

7 lỗ khoan sâu 15 –17m dọc quốc lộ 1 khai thác nước trong trầm tích Đệ tứ ở vùng

Phước Dân (Ninh Phước) với tổng công suất dự kiến 2.100m3/ngày. Trong chương

trình chống hạn năm 2005, khoảng 50 lỗ khoan khai thác với công suất 15m3/ngày đã

được khoan tại 13 xã ven biển.

Tại Khánh Hoà: ở Nha Trang công suất khai thác 7000m3/ngày, ở Cam Ranh

khai thác được 500m3/ngày. Chương trình UNICEF có 335 lỗ khoan máy, 625 lỗ

khoan tay tổng lượng khai thác khoảng 19.000 m3/ngày.

Rõ ràng là hiện nay tại các tỉnh Nam Trung Bộ, lượng khai thác nước dưới đất

phục vụ mục đích cấp nước chưa lớn do đặc điểm là các tầng chứa nước thường bị cạn

kiệt trong mùa khô. Một khi các công nghệ bboor sung nhân tạo nước nước đất được

áp dụng, trữ lượng các tầng chứa nước sẽ được tăng cường đáng kể, chất lượng nước

sẽ được cải thiện, nguồn nước dưới đất sẽ góp phần giảm nhẹ áp lực thiếu nước vào

mùa khô do chất lượng của các nguồn nước mặt không có lợi.

Sử dụng đất

Diện tích đầm hồ nuôi tôm: Ninh Hòa (1313 ha), Cam Ranh (729ha), Vạn Ninh

(323 ha), Nha Trang (282ha). Tốc độ khai phá đất làm đầm hồ nuôi tôm đặc biệt tăng

trưởng nhanh trong vòng 10 năm trở lại đây. Việc khai phá làm hồ nuôi tôm dẫn nước

mặn lấn sâu vào đất liền làm mặn hóa các tầng chứa nước ven biển, muối hóa đất.

IV - LỰA CHỌN CÁC PHƯƠNG PHÁP BỔ SUNG NHÂN TẠO NƯỚC DƯỚI

ĐẤT CHO CÁC ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN NAM TRUNG BỘ

Tuỳ thuộc mục đích bổ sung nhân tạo nước dưới đất, vị trí, đặc điểm khí hậu,

thủy văn, địa chất và địa chất thủy văn có các phương pháp bổ sung nhân tạo khác

nhau thích hợp cho từng vị trí. Dưới đây là sự lựa chọn các phương pháp bổ sung nhân

tạo nước dưới đất thích hợp cho từng vùng khác nhau tại các đồng bằng ven biển Nam

Trung Bộ.

Page 25: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 24 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

IV.1 - Vùng đá gốc nứt nẻ

Vùng này thường bao gồm tầng chứa nước lỗ hổng trong các trầm tích Đệ tứ

không phân chia có bề dày không lớn nằm trên tầng chứa nước khe nứt trong các loại

đá gốc.

Phương pháp bổ sung nhân tạo nước dưới đất thích hợp nhất cho vùng này là sử

dụng phương pháp bồn thấm (thông qua các hố móng, moong khai thác) hoặc phương

pháp bồn thấm kết hợp với các lỗ khoan ép nước. Các bồn thấm có thể xây dựng trong

tầng chứa nước lỗ hổng Đệ tứ không phân chia.

Một phương pháp khác cũng có thể áp dụng có hiệu quả trong vùng này là xây

những đập và rãnh thấm kề nhau trên cùng một đường đẳng độ cao địa hình, trên bờ

các rãnh thấm này trồng các loại cây thích hợp. Công trình loại này, ngoài mục tiêu

tăng cường bổ sung cho nước dưới đất, còn giảm thiểu hiện tượng xói mòn và cải thiện

môi trường lớp phủ.

Một điểm hạn chế khi áp dụng các phương pháp bổ sung nhân tạo nước dưới

đất trong vùng này và nguồn nước để bổ sung không nhiều, dựa chủ yếu vào nước

mưa, tập trung từ tháng 7 đến tháng 10. Do vậy khả năng cung cấp nước sẽ hạn chế.

IV.2 - Vùng đồng bằng ven sông

Vùng này thường bao gồm các tầng chứa nước lỗ hổng trong các trầm tích bở

rời Holocene và Pleistocene. Các tầng chứa nước trong vùng này thường có quan hệ

thủy lực với nước sông. Nguồn nước để bổ sung cho các tầng chứa nước ngoài nước

mưa còn từ nước sông, đôi khi chiếm một tỷ lệ đáng kể.

Phương pháp bổ sung nhân tạo nước dưới đất thích hợp nhất là thấm qua đáy

sông. Các bãi lỗ khoan khai thác nên được bố trí thành hình vòng cung cạnh sông ở

khoảng cách sao cho thời gian di chuyển của nước sông đến lỗ khoan bảo đảm trong

khoảng từ 50-60 ngày là thời gian được coi là đủ để loại bỏ hết các vi trùng gây bệnh

trong nước bổ sung. Việc bố trí theo hình vòng cung để tránh trường hợp nước sông bị

nhiễm bẩn sẽ phải ngưng toàn bộ bãi giếng ngay lập tức. Trong các lòng sông có thể

Page 26: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 25 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

xây dựng các đập ngăn để lưu trữ nước sông và do đó gia tăng thời gian thấm bổ sung

cho nước dưới đất. Phương pháp làm lụt có kiểm soát sẽ tạo ra hiệu quả cao nếu tìm

được những vị trí trũng có khả năng chứa một lượng lớn nước sông tràn ra trong mùa

lũ lụt để tăng cường bổ sung cho nước dưới đất. Dân cư không nên sinh sống trong

những vùng này và chỉ nên canh tác các loại cây theo thời vụ. Phương pháp thấm qua

đáy sông nếu dựa trên các kết quả khảo sát chi tiết, tỷ mỷ sẽ bảo đảm cung cấp một

lượng nước lớn không chỉ đáp ứng cho mục đích sinh hoạt và ăn uống mà còn cho cả

mục đích tưới và công nghiệp với chất lượng nước tốt.

IV.3 - Vùng các đồng bằng ven biển

Vùng này có các tầng chứa nước lỗ hổng trong các trầm tích gió biển Holocen,

không áp lộ trên mặt, mực nước dưới đất từ 2 đến 5 m, thường bao gồm cát thạch anh

hạt mịn đến thô, nguồn nước sẵn có là nước mưa, thời gian sẵn có nước là các tháng 7,

8, 9 và 10. Do mực nước nằm sâu, tính thấm của đất đá rất cao, và khả năng tàng trữ

của tầng chứa nước trong vùng này rất lớn. Trên những đồi cát ở địa hình cao, phương

pháp bổ sung nhân tạo nước dưới đất thích hợp nhất là phương pháp bồn thấm, trong

khi những vùng trũng được bao quanh bằng các dải cồn cát lại là những vị trí rất thích

hợp để áp dụng các phương pháp thu gom nước mưa. Từ các đặc điểm địa lý tự nhiên,

đặc điểm địa chất kiến tạo, đặc điểm địa chất thủy văn mô tả ở trên, có thể rút ra kết

luận sau:

Vùng các đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ có nhiều điều kiện thuận lợi để áp

dụng bổ sung nhân tạo nước dưới đất. Phương pháp bổ sung nhân tạo bằng bồn thấm

là một phương pháp thích hợp nhất để tăng cường trữ lượng nước dưới đất có hiệu quả

đối với các vùng đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, nơi nước dưới đất là nguồn cấp

nước chủ yếu cho sinh hoạt và công nghiệp. Các lý do cụ thể là:

Về nguồn nước để bổ sung: tại các đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ nguồn

nước có thể sử dụng để bổ sung là nước mưa, nước mặt trong các sông lớn và trong

các hồ. Mặc dù được coi là vùng khô hạn nhất của cả nước, nhưng lượng mưa trung

bình năm ở các đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ nhỏ nhất là 913mm tại trạm Phan

Rang Bảng 2.1), nhưng vẫn cao hơn rất nhiều miền khô hạn trên thế giới (ví dụ như

Ấn Độ, Châu Phi, Trung Á, nơi mà lượng mưa trung bình năm chỉ vào khoảng 250 đến

Page 27: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 26 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

300mm). Trên 80% lượng mưa thường tập trung vào các tháng 7, 8, 9 và 10. Vào

những tháng này có thể sử dụng nước mưa như là một nguồn bổ sung rất hiệu quả.

Mặc dù các sông có chung một đặc điểm là ngắn và dốc, lưu lượng nhỏ và thường bị

cạn kiệt vào mùa khô. Nhưng vào mùa mưa, nhất là khi có các cơn mưa lớn, mực nước

sông dâng cao, gây lũ lụt cục bộ một số vùng. Nước lụt vào mùa mưa cũng là một

nguồn nước để bổ sung rất hiệu quả nếu được quan trắc, đo đạc và tính toán cẩn thận.

Về địa hình: trong vùng tồn tại những dãy cồn cát kéo dài từ vài chục đến hàng

trăm km, rộng từ 5 đến 10km. Xen kẹp giữa những cồn cát cao có nhiều trũng lòng

chảo rộng. Đây là những điều kiện rất thuận lợi, trước hết nếu tạo ra những bồn thấm ở

trên những dải cồn cát cao, nước sau khi thấm qua các tầng cát có thể chảy bằng trọng

lực ra những vùng thấp hơn ở xung quanh và được khai thác phục vụ cấp nước tại các

vị trí gần các khu dân cư, thứ hai các vùng trũng giữa các cồn cát là những vị trí lý

tưởng để thu gom và chứa nước mưa hoặc nước sông với thể tích lớn vào mùa mưa để

bổ sung cho nước dưới đất.

Về mặt địa chất, địa chất thủy văn: Các tầng chứa nước lỗ hổng trong các trầm

tích Holocen và Pleistocene đều là các tầng chứa nước không áp, lộ ra trên mặt hoặc

nằm rất nông, thành phần thạch học bao gồm các loại cát thạch anh hạt từ mịn đến

trung, có tính thấm cao, có mực nước dưới đất nằm sâu, bề dày không bão hòa khá lớn.

Những yếu tố này rất thích hợp cho phương pháp bổ sung nhân tạo nước dưới đất bằng

các bồn thấm và cho phép nghĩ đến một khả năng tàng trữ nước được bổ sung rất lớn.

Về mặt kinh tế xã hội thì đây là vùng thường xuyên thiếu nước cho sinh hoạt và

sản xuất, cảnh quan thiên nhiên tiêu điều cằn cỗi, quá trình sa mạc hóa lãnh thổ đang

ngày một gia tăng, quá trình xâm nhập mặn từ biển vào đất liền làm thoái hóa chất

lượng nước dưới đất cũng như đất đai ven bờ biển.

Các vùng đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ hiện tại và tương lai cần cung cấp

một lượng nước rất lớn và chất lượng tốt hơn. Chỉ có bổ sung nhân tạo nước dưới đất

bằng phương pháp bồn thấm mới có thể bảo đảm cung cấp một lượng nước lớn với

chất lượng đảm bảo. Hiện tại các vùng có khả năng cung cấp nước thường nằm xa các

khu dân cư, khu công nghiệp, các vùng thương mại giải trí, xây dựng và bố trí các

Page 28: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 27 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

công trình bổ sung nhân tạo nước dưới đất bằng bồn thấm gần với vùng có nhu cầu

cung cấp nói trên rất có lợi về kinh tế.

Tóm lại tại vùng đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, do đặc điểm tự nhiên và

đặc điểm xã hội, có nhiều yếu tố thuận lợi để có thể triển khai các phương pháp bổ

sung nhân tạo nước dưới đất để nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng nước dưới đất.

Các điều kiện tự nhiên, địa chất, địa chất thủy văn của vùng rất thích hợp cho bổ sung

nhân tạo nước dưới đất bằng phương pháp bồn thấm. Phương pháp bồn thấm đặc biệt

hiệu quả khi cư dân cần cung cấp nước có chất lượng tốt hơn hoặc khi vùng cung cấp

nước nằm xa trong khi có thể bố trí vùng bổ sung gần với vùng cung cấp có hiệu quả

cao về kinh tế. Các bồn thấm đặc biệt có hiệu quả trong việc loại bỏ các chất nhiễm

bẩn và tăng cường trữ lượng cho nước dưới đất. Các bồn thấm thấm có thể áp dụng ở

nhiều vị trí, tuy nhiên cần phải cân nhắc nhiều yếu tố để chọn được vị trí thích hợp.

Page 29: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 28 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

KẾT LUẬN

Các phương pháp bổ sung nhân tạo đã được áp dụng từ nhiều năm trước trên

thế giới để quản lý tài nguyên nước. Các phương pháp bổ sung nhân tạo có mục tiêu

cơ bản nhất là chứa và xử lý nước. Vai trò của bổ sung nhân tạo sẽ ngày càng trở nên

quan trọng khi nhu cầu nước gia tăng, ảnh hưởng của sự thay đổi của khí hậu trở nên

rõ ràng. Việc áp dụng các phương pháp này tại Việt Nam đặc biệt là tại các thành phố

lớn, các vùng đồng bằng ven biển thường xuyên bị nhiễm mặn là hết sức cấp thiết

trong hoàn cảnh hiện nay.

Đề tài giới thiệu và phân tích về các phương pháp bổ cập nước dưới đất thường

dùng hiện nay, trên cơ sở đó phân tích đặc điểm tự nhiên vùng đồng bằng ven biển

Nam Trung Bộ có nhiều yếu tố tự nhiên và xã hội, thuận lợi để có thể triển khai các

phương pháp bổ sung nhân tạo nước dưới đất nhằm tăng cường trữ lượng khai thác và

cải thiện chất lượng nước dưới đất. Do đặc điểm tự nhiên, địa hình, cấu trúc địa chất

và địa chất thủy văn của các đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, khi áp dụng các

phương pháp bổ sung nhân tạo nước dưới đất, cần phải lựa chọn phương pháp đặc thù

cho từng vùng, đó là: vùng đá gốc nứt nẻ, vùng đồng bằng ven sông và vùng các dải

cát ven biển. Phương pháp bổ sung nhân tạo nước dưới đất bằng bồn thấm là một

phương pháp tăng cường trữ lượng nước dưới đất có hiệu quả đối với các đồng bằng

ven biển, nơi mà nước dưới đất là nguồn cấp nước quan trọng cho sinh hoạt và công

nghiệp và quốc phòng.

Đề tài trên được thực hiên trên cơ sở nhận xét đánh giá nhu cầu thực tế về tài

nguyên nước, vấn đề quản lý và sử dụng tài nguyên nước, đặc biệt là tận dụng nguồn

nước mưa dư thừa hiện nay, từ đó phân tích tài liệu, đánh giá và đưa ra ứng dụng cụ

thể. Qua đề tài này lại giúp bản thân em có một hướng suy nghĩ mới cho chuyên ngành

của mình, đó là một kỹ sư Cấp thoát nước không chỉ dừng lại ở chỗ chỉ biết lấy nước

từ nguồn cấp cho sinh hoạt và công nghiệp, mà hơn vào đó là bài toán cấp nước bền

vững, lấy nước phải có sự bổ sung nước, cung và cầu phải đảm bảo sự cân bằng. Đề tài

nghiên cứu khoa học sinh viên lần này cũng giúp cho bản thân hiểu biết hơn về tư duy

Page 30: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 29 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

trong cách tiếp cận nghiên cứu một đề tài nghiên cứu khoa học, đây cũng sẽ là một bài

tập duyệt quý giá cho đồ án tốt nghiệp phía trước và trong công việc sau này.

Trong quá trình thực hiện đề tài bản thân đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình

của thầy giáo hướng dẫn Th.S Đỗ Tiến Khoa, các thầy cô trong ban KHCN- Cơ sở 2

Đại học Thủy Lợi, một lần nữa xin được cảm ơn thầy đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình

để em có thể hoàn thành đề tài trong thời gian vừa qua.

Tuy nhiên do tài liệu đầu vào còn thiếu, số liệu về đặc điểm tự nhiên của khu

vực áp dụng chủ yếu là tham khảo tài liệu và tạp san, chưa đi thực tế nên có thể chưa

chính xác, cộng với kinh nghiệm kiến thức chưa nhiều, cách tiếp cận vần đề còn chưa

cao nên sẽ còn nhiều sai sót rất mong các thầy cô trong ban KHCN đọc, tham khảo và

cho em ý kiến để em chỉnh sửa, rút kinh nghiệm làm bài học cho quá trình làm đồ án

tốt nghiệp sắp tới và công việc sau này.

Sinh viên thực hiện:

Bùi Xuân Khoa

Page 31: BÁO CÁO NCKH SINH VIÊN-NĂM 2012 - cs2.tlu.edu.vncs2.tlu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/03/BAO_CAO_NCKH_SINH_VIEN_2012... · đề bức thiết bởi tài nguyên nước được

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Trang 30 HỘI NGHỊ NCKH SV NĂM 2012

Sinh viên thực hiện: Bùi Xuân Khoa GVHD: Th.S Đỗ Tiến Khoa

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Học, Phan Thị Kim Văn, Nguyễn Chí Nghĩa, Phạm Khánh Huy, 2006.

Nghiên cứu địa chất thuỷ văn đồng vị vùng cát tỉnh Bình Thuận phục vụ quản lý bổ

sung tầng chứa nước . Tạp chí các khoa học Trái đất

2. Đỗ Tiến Hùng, Nguyễn Trung Dĩnh , 2005. Báo cáo tài nguyên nước dưới đất

tỉnh Khánh Hòa.

3. Gale I.A., Neumann I.I., Calow R.C., Moench M., 2000: Tổng quan tính hiệu

quả của Bổ sung nhân tạo nước dưới đất, Chương trình Hệ thống nước dưới đất và

Chất lượng, Báo cáo tổng kết Bước 1 CR/02/108N. Biên dịch và giới thiệu: Nguyễn

Thị Kim Thoa, Bùi Trần Vượng. Hà Nội

4. Huisman L.&Olsthoorn T. N., 2005. Bổ sung nhân tạo nước dưới đất. Dịch và

giới thiệu: Nguyễn Thị Kim Thoa, Bùi Trần Vượng, Hà Nội

5. Võ Anh Kiệt, Nguyễn thị Thu Loan, Lại Thị Lương, Vũ Văn Chỉnh, 2007. Đặc

điểm khí hậu thủy văn khu vực Nam Trung Bộ những năm gần đây. Tập san Địa chất

thủy văn – Địa chất công trình miền Trung Việt Nam

6. Võ Công Nghiệp, Vũ Ngọc Trân,2003. Bổ sung nhân tạo nước ngầm bắt đầu khi

nào và ở đâu? Tập san Địa chất thủy văn – Địa chất công trình miền Trung Việt Nam

7. Bùi Trần Vượng, 2011, Bổ sung nhân tạo nước dưới đất , Tuyển tập báo cáo

khoa học Đoàn địa chất thủy văn- Địa chất công trình miền nam Việt Nam

8. Nước mưa và chúng ta- 100 cách sử dụng ( Bản dịch của nhóm tác giả

Raindrop- Nhật Bản, 1995 ), Cục bảo vệ môi trường.

9. Thủy văn công trình, Trường Đại học Thủy Lợi- Hà Nội, 2006