bảo tồn và phát huy giá trị di sản kiến trúc, đô thị việt nam...

12
Bối cảnh kinh tế xã hội và môi trường hoạt động bảo tồn di sản kiến trúc – đô thị Bảo tồn di tích, di sản là một hoạt động có tính đa ngành và liên ngành, liên quan đến một loạt các vấn đề về lịch sử, văn hóa, xã hội, kỹ thuật – công nghệ truyền thống, kỹ thuật – công nghệ mới… Hoạt động bảo tồn di tích vì vậy rất phức tạp, công phu và tốn kém chi phí hơn nhiều so với hoạt động xây dựng mới (xét cùng một quy công trình). Đình Chu Quyến Việt Nam có một hệ thống các di tích lịch sử, văn hoá rất phong phú, dày đặc và đa dạng, trải khắp các vùng miền (theo thống kê của Cục Di sản văn hóa, đến tháng 12/2013, cả nước có khoảng trên 4 vạn di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh). Hệ thống di tích này đã bị xuống cấp khá nặng nề, hầu hết các di tích đều cần được trùng tu, tôn tạo với kinh phí từ vài trăm triệu đến hàng trăm tỷ đồng. Trong giai đoạn 2006-2010, Nhà nước đầu tư 1.635 tỷ đồng cho mục tiêu chống xuống cấp và tôn tạo cho 1198 lượt di tích. Nhưng trên thực tế, kinh phí hỗ trợ từ Chương trình mục tiêu chỉ chiếm từ 50-80% tổng vốn đầu tư các dự án. Phần còn lại được huy động các nguồn vốn từ xã hội. Tuy nhiên, các nguồn vốn trên mới chỉ đáp ứng 15-20% nhu cầu Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) Đăng ngày 12/06/15 (9:45) 0

Upload: others

Post on 23-Aug-2021

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-size… 1/12

Bối cảnh kinh tế xã hội và môi trường hoạt động bảo tồn di

sản kiến trúc – đô thị Bảo tồn di tích, di sản là một hoạt động có

tính đa ngành và liên ngành, liên quan đến một loạt các vấn đề về

lịch sử, văn hóa, xã hội, kỹ thuật – công nghệ truyền thống, kỹ

thuật – công nghệ mới… Hoạt động bảo tồn di tích vì vậy rất phức

tạp, công phu và tốn kém chi phí hơn nhiều so với hoạt động xây

dựng mới (xét ở cùng một quy mô công trình).

Đình Chu Quyến Việt Nam có một hệ thống các di tích lịch sử, văn

hoá rất phong phú, dày đặc và đa dạng, trải khắp các vùng miền

(theo thống kê của Cục Di sản văn hóa, đến tháng 12/2013, cả

nước có khoảng trên 4 vạn di tích lịch sử văn hóa và danh lam

thắng cảnh). Hệ thống di tích này đã bị xuống cấp khá nặng nề,

hầu hết các di tích đều cần được trùng tu, tôn tạo với kinh phí từ

vài trăm triệu đến hàng trăm tỷ đồng. Trong giai đoạn 2006-2010,

Nhà nước đầu tư 1.635 tỷ đồng cho mục tiêu chống xuống cấp và

tôn tạo cho 1198 lượt di tích. Nhưng trên thực tế, kinh phí hỗ trợ

từ Chương trình mục tiêu chỉ chiếm từ 50-80% tổng vốn đầu tư

các dự án. Phần còn lại được huy động các nguồn vốn từ xã hội.

Tuy nhiên, các nguồn vốn trên mới chỉ đáp ứng 15-20% nhu cầu

Bảo tồn và phát huy giá trịDi sản kiến trúc, đô thị ViệtNam (giai đoạn 2010-2015)Đăng ngày 12/06/15 (9:45)

0

Page 2: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-size… 2/12

trùng tu, tôn tạo của hệ thống di tích Việt Nam (nguồn:

cinet.gov.vn). Những năm gần đây, trong khó khăn chung của nền

kinh tế và xã hội Việt Nam, nguồn lực đầu tư cho hoạt động bảo

tồn di tích lại suy giảm. Đây thực sự là một khó khăn lớn khó khắc

phục. Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích lịch sử văn

hóa luôn nhận được sự quan tâm của nhà nước và cộng đồng.

Nhà nước đã liên tục ban hành và điều chỉnh các văn bản pháp

luật về bảo tồn di tích. Luật Di sản văn hóa được ban hành năm

2001, đến năm 2009 đã có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật Di sản văn hóa (số 32/2009/QH12 ngày 18/6/2009). Và sau

đó là các nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện.

Lấy mẫu nấm mốc và khảo sát địa kỹ thuật phục vụ việc lập dự án

tu bổ di tích đình Chu Quyến (Hà Nội) Bên cạnh đó, sự tham gia

có kết quả vào các hoạt động quốc tế như tham gia Công ước Di

sản thế giới, đề nghị đưa di tích Việt Nam vào danh sách di sản

thế giới, tham gia bình chọn kỳ quan thế giới mới… cũng cho thấy

sự quan tâm, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các hoạt động liên quan

đến di sản của Nhà nước ta. Trong quá trình xây dựng và phát

triển kinh tế xã hội của đất nước, luôn phải giải quyết những mâu

thuẫn giữa bảo tồn và phát triển trong các lĩnh vực văn hóa nói

chung và bảo tồn di sản nói riêng. Đặc biệt, đây là vấn đề thường

gặp phải đối với các di sản nằm xen lẫn với các khu dân cư, di sản

cư trú, di sản đô thị. Bảo tồn di sản đồng thời với phát triển kinh

tế, phát triển hạ tầng, nâng cao chất lượng cuộc sống… luôn là

bài toán khó đặt ra đối với các nhà quản lý và các nhà chuyên

môn.

Page 3: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-size… 3/12

Dự án tu bổ đình Chu Quyến được thực hiện để xây dựng những

chuẩn mực trong công tác bảo tồn di tích ở Việt Nam Thực tế

hoạt động bảo tồn di sản kiến trúc, đô thị tại Việt Nam 1.

Bảo tồn đô thị tại Việt Nam Bảo tồn công trình kiến trúc đơn lẻ

là công việc không còn xa lạ, nhưng khi nói tới bảo tồn đô thị hay

cụm dân cư còn nhiều người lúng túng, không biết xác định những

giá trị và phương pháp can thiệp vào đô thị như thế nào. Điều này

cũng dễ hiểu vì từ mấy trăm năm nay công việc chúng ta thường

làm với công trình cụ thể, còn khái niệm bảo tồn đô thị mới xuất

hiện trong mấy thập kỷ cuối của thế kỷ 20, trong giai đoạn đô thị

bùng nổ và kiến trúc phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá, nảy

sinh một thảm họa cho các đô thị bị mất đi bản sắc riêng và mất đi

quá khứ của mình. Bảo tồn đô thị hay cụm dân cư là sự tổng hợp

của bảo tồn những giá trị vật chất và phi vật chất, sự bảo tồn này

phải nằm trong bối cảnh luôn có những nhân tố mới tác động đến

sự biến đổi của đô thị nhưng không làm mất những giá trị gốc. Tại

Việt Nam tới nay đã có một số dự án về bảo tồn đô thị hay một

cụm dân được thực hiện như ở phố cổ Hội An, khu 36 phố

phường Hà Nội, khu trung tâm thị trấn Sa pa và làng cổ Đường

Lâm. - Phố cổ Hội An, khu vực được bảo tồn khoảng trên dưới

2km2 chủ yếu theo ba tuyến phố Bạch Đằng, Nguyễn Thái Học,

Trần Phú và Phan Chu Trinh. Công việc bảo tồn ở đây làm khá

hiệu quả. Khu phố cổ Hội An có được sự thuận lợi cơ bản là đa

phần các nhà cổ đều là sở hữu tư nhân với một chủ và những

người dân rất có ý thức trong việc gìn giữ ngôi nhà của ông, cha

để lại. Đồng thời sức ép của làn sóng công nghiệp hoá đến sau

công việc bảo tồn, nên giá trị của khu phố được khôi phục đúng

thời điểm du lịch phát triển. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần quản lý

việc xây dựng tại khu vực kề cận để giảm thiểu sự ảnh hưởng tới

khu phố cổ. - Thành phố Huế, rất đáng để lựa chọn để đầu tư vào

bảo tồn đô thị với các khu vực rất đặc trưng như khu Đại nội Huế,

một quần thể kiến trúc lớn đã được công nhận di sản thế giới; khu

Page 4: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-size… 4/12

Kim Long và Hương Hồ với chùa Thiên Mụ, Văn Miếu, Võ Miếu,

nhà vườn; khu Đàn Nam Giao và các Lăng tẩm nhà Nguyễn; khu

phố Pháp dọc theo bờ sông Hương. Trong thực tế thành phố đã

làm được nhiều việc nhằm giữ gìn các di sản này, nhưng có lẽ còn

thiếu một quy hoạch bảo tồn toàn diện và thống nhất cho toàn

thành phố. - Khu phố cổ Hà Nội, hay còn gọi là khu 36 phố

phường với diện tích 100ha, đây là cái nôi của đô thị Hà Nội. Cho

đến nay không kể những dự án xây dựng và những quy chế về

quản lý thì chỉ có một số dự án bảo tồn các công trình đơn lẻ

được thực hiện, còn những dự án mang quy mô của bảo tồn đô thị

như bao tồn tuyến phố, ô phố hiện mới chỉ nằm trên giấy. Nguyên

nhân thì có nhiều, có thể nêu ra mấy nguyên nhân chính sau: +

Các dự án chỉ được thực hiện như các dự án đầu tư xây dựng

thông thường và chủ yếu mới dừng lại ở ý tưởng. Các ý tưởng này

chủ yếu dựa trên ý kiến chủ quan của các KTS và nhà quản lý,

chưa nghiên cứu sâu những vấn đề xã hội liên quan tới cuộc sống

của cư dân nên tính khả thi thấp. + Sự phối kết hợp giữa các

ngành, ban chưa cao nên trên góc độ thủ tục hành chính còn

nhiều mâu thuẫn. + Tính pháp lý của việc lập dự án và dự án

chưa có, hoặc có cũng chưa cao nên rất khó trong các bước khai

triển cũng như phối kết hợp. + Các dự án chưa dựa vào cộng

đồng. + Sự quyết tâm của những người thực hiện chưa cao. - Đô

thị Sa pa, quy chế quản lý (Lào Cai) đã được các nhà quy hoạch –

kiến trúc – bảo tồn – quản lý của vùng Aquitaine (CH Pháp)

nghiên cứu và từ đó đề xuất các khu vực cần bảo tồn, tôn tạo,

đồng thời chỉ rõ các công trình cần bảo tồn trong các khu vực và

phương thức bảo tồn như thế nào. Đây là một phương pháp

không có gì mới mẻ và phức tạp đối với những ai đã làm công tác

bảo tồn, nhưng được trình bày từ những vấn đề chung tới riêng

một cách rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu và ai cũng có thể tiếp cận.

Điều đáng nói ở đây là nó đã được đóng dấu, như vậy có tính

pháp lý cao, rất thuận lợi cho công tác quản lý và triển khai chi

tiết. Công việc có thành công hay không phải chờ đợi sự triển khai

và đặc biệt là công tác quản lý như thế nào. - Làng cổ Đường

Lâm, được công nhận di sản thế giới là một ghi nhận lớn đối với

chúng ta. Nhưng hiện nay việc bảo tồn làng cổ đang đứng trước

một thách thức lớn là vừa đảm bảo sự bảo tồn vừa đáp ứng được

sự phát triển. Trong việc này cần có chính sách, hướng dẫn đi

trước, sau đó mới đến các giải pháp về quy hoạch và kiến trúc.

Trong soạn thảo chính sách cần chú ý tới khía cạnh quyền lợi

kinh tế và vật chất của những người sở hữu di sản, có như vậy

mới tạo sự đồng thuận của cộng đồng, một tác nhân quan trong

trong bảo tồn đô thị và các điểm dân cư.

Page 5: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-size… 5/12

Đàn Nam Giao, Thành nhà Hồ và cầu Bạch, khu di tích Lam Kinh

là những “thất bại” nặng nề trong trùng tu do cách làm tùy tiện, xa

rời nguyên lý bảo tồn 2. Đảm bảo sự phát triển bền vững từ

góc độ bảo tồn đô thị. Phát triển bền vững của một đô thị đòi

hỏi nhiều lĩnh vực khác nhau cùng nghiên cứu, để từ đó ghép lại

xây dựng một chiến lược chung. Trong lĩnh vực chuyên sâu về

bảo tồn công trình kiến trúc và đô thị chúng tôi nêu một số vấn đề

đã được nghiên cứu trong những năm qua để đóng góp vào việc

“Phát triển đô thị Hà Nội hướng tới sự phát triển bề vững“. Cần

hiểu khái niệm bền vững: “Là sự phát triển phải thoả mãn nhu cầu

của con người không chỉ trong giai đoạn hiện tại mà còn cho cả

tương lai và phải đáp ứng các yêu cầu kinh tế lẫn bảo vệ môi

trường” hay: “Thế hệ hiện tại phải đảm bảo nhu cầu phát triển của

thế hệ trong tương lai”. Qua đó cho thấy phát triển bền vững có

hai mục tiêu chính: + Phát triển kinh tế phải chú ý tới việc sử dụng

hợp lý các dạng tài nguyên (di sản kiến trúc được coi như một

dạng tài nguyen không tái sinh) và bảo vệ môi trường. + Thế hệ

hôm nay phải có trách nhiệm gin giữ cho thế hệ tiếp theo (các thế

hệ sau phải được hưởng lợi như các thế hệ trước). Để thực hiện

được hai mục tiêu này, các quốc gia, các nhà chiến lược đã đưa

ra nhiều tiêu chí khác nhau nhưng tựu chung có 5 tiêu chí chính

như sau: 1. Cần có được bản sắc. Bản sắc ở đây bao gồm tất cả

các đặc điểm của đô thị từ vị trí, cảnh quan, cấu trúc đô thị… và

các đặc điểm phi vật thể. 2. Cần có tính liên tục và kế thừa. Đô thị

phải có lịch sử, các giai đoạn phát triển không nên phủ nhận lẫn

nhau. 3. Cần có sự đa dạng, tính mềm dẻo và sự thích ứng. Đa

dạng trong các cá thể, trong các tập thể, đa dạng trong nội dung,

trong hình thức… đồng thời trong sự phát triển luôn có thay đổi

nên cần có sự điều chỉnh để tiếp thu được cái mới nhưng không

Page 6: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-size… 6/12

làm hỏng những cái đã có. 4. Cần có khả năng tự hoàn thiện.

Những vấn đề riêng của từng đô thị cần phải do chính đô thị đó

giải quyết. 5. Cần sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Phải cân đối

nguồn “tài nguyên” ta có với sự sử dụng ngày hôm nay và ngày

mai. Với những mục tiêu và tiêu chí cho sự phát triển bền vững áp

dụng vào khía cạnh bảo tồn để nhìn một cách tổng quát về sự

phát triển bền vững của Hà Nội, trong đó những khía cạnh về bản

sắc, tính liên tục và sự kế thừa cũng như khả năng thích ứng

được chú trọng phân tích hơn.

Cổng vào khu di tích đền Đinh – Lê (Hoa Lư, Ninh Bình) “khang

trang” khác hẳn cổng cũ của di tích vốn rất khiêm nhường, hòa

mình vào khung cảnh thiên nhiên xung quanh 3. Những vấn đề

bất cập hiện nay đang gặp phải trong việc bảo tồn đô thị Hà

Nội: - Sự phá vỡ cấu trúc truyền thống. Điều này đang diễn ra rõ

nhất ở khu phố cổ, khu phố mang phong cách châu Âu và những

làng truyền thống, bởi việc xây dựng khá tuỳ tiện do chưa có thiết

kế đô thị một cách rõ ràng và các chỉ số đưa ra còn ít nên thiếu cơ

sở cho quản lý thiết kế, quản lý xây dựng. Đồng thời việc áp dụng

luật trong xây dựng và bảo tồn còn quá mới mẻ nên người thiết

kế, người quản lý chưa theo kịp và sự hiểu biết của người dân còn

quá ít đã phần nào phá hỏng cấu trúc truyền thống của đô thị. -

Sự kết nối giữa cục bộ với tổng thể chưa có hiệu quả. Điều này

thể hiện rõ trên những khía cạnh không gian kiến trúc, hình thức

kiến trúc, giao thông đô thị. Thực tế cho thấy vấn đề này chưa

được chú ý một cách thích đáng và thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa

các cấp quản lý cũng như các ngành chyên môn, dẫn đến tình

trạng từng khu vực nhỏ, từng đọan thì làm khá tốt nhưng khi đấu

nối vào hệ thống chung thì kém hiệu quả và bộc lộ nhiều nhược

điểm. - Tính kế thừa và sự liên tục chưa được quan tâm đúng mức

Page 7: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-size… 7/12

. Nhìn trên bản đồ Hà Nội thấy rõ điểm này trên mạng lưới đường.

Giữa khu phố cổ và khu phố mang phong cách châu Âu có sự kết

nối của hệ thống đường khá rõ nhưng ở các khu mới như Kim

Liên, Trung Tự, Thành Công, Thanh Xuân sự kết nối này chỉ trên

một tuyến đường là chính, do đó không thấy sự chuyển tiếp và kế

thừa từ mạng lưới ô vuông vốn có nhiều ưu điểm. Về công trình từ

khu phố cổ tới các khu phố mang phong cách châu Âu đều có

những công trình khi xây dựng không chú ý tới sự hài hoà chung.

Qua kinh nghiệm của một số nước và qua công việc thực tế ở Việt

Nam có thể nêu ra một số điểm chính trong quá trình bảo tồn di

sản đô thị cần chú ý: + Nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá

trị của di sản. + Xác định những giá trị, những đặc trưng của đô thị

hay cụm dân cư. + Lập quỹ di sản, trong đó có hồ sơ đến từng

công trình cụ thể. + Cần có biện pháp cụ thể cho bảo vệ và bảo

tồn di tích ngay từ khi chưa có khả năng tài chính và các khả năng

khác để triển khai. + Dự án phải đạt được hai kết quả có tầm quan

trọng ngang nhau, đó là gìn giữ được các giá trị vật thể, phi vật

thể và nâng cao chất lượng sống cho các cư dân trong khu vực

bảo tồn. + Các dự án phải có ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh

vực bảo tồn đô thị, công trình, khảo cổ, văn hoá … và rất cần ý

kiến của cộng đồng cư dân được hưởng lợi từ dự án. + Có độ tin

cậy của nguồn vốn, trong đó có thể huy động các nguồn khác

nhau như vốn của các nhà đầu tư, vốn trong cư dân khu vực bảo

tồn, nhưng nguồn vốn nhà nước phải đống vai trò xương sống. +

Cần có đội ngũ quản lý được đào tạo về khoa học bảo tồn và

quản lý . Công việc bảo tồn đô thị là một công việc rất phức tạp

nên sự chuẩn bị cho nó cần có một chiến lược lâu dài và thường

xuyên. Giá trị văn hoá lịch sử của đô thị phải được coi là tài sản

quốc gia. Có như vậy mới gìn giữ được cho thế hệ mai sau, đây là

một khía cạnh của phát triển bền vững. Bảo tồn và phát huy giá

trị hệ thống di sản kiến trúc, di tích lịch sử văn hóa. a. Các

hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản được nhìn nhận, tổ chức

thực hiện, kiểm soát một cách bài bản, chặt chẽ hơn, hướng tới

xây dựng các chuẩn mực trong cách tiếp cận và giải quyết vấn đề

trong lĩnh vực này. - Xuất phát từ nhu cầu và mong muốn nâng

cao chất lượng và chuẩn mực hóa các hoạt động bảo tồn di tích

Dự án thực nghiệm tu bổ, tôn tạo đình Chu Quyến được xây dựng

và thực hiện một cách bài bản trên cơ sở các kết quả khảo sát,

nghiên cứu toàn diện, kỹ lưỡng về di tích và được tổ chức thi công

theo một quy trình khoa học nghiêm ngặt. Thông qua việc thực

hiện dự án này, những chuẩn mực trong công tác bảo tồn, trùng

tu di tích đã được xây dựng để áp dụng với các di tích khác nhằm

nâng cao chất lượng khoa học và hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực

bảo tồn, trùng tu di tích. Dự án trùng tu đình Chu Quyến đã đoạt

giải cao nhất về bảo tồn di sản kiến trúc năm 2010 tại Hội nghị của

Page 8: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-size… 8/12

Hiệp hội Kiến trúc sư Quốc tế (UIA) khu vực châu Á – Thái Bình

Dương. Những kết quả của dự án này đã trở thành “hình mẫu” để

nhân rộng ra các trường hợp khác và là cơ sở khoa học, thực tiễn

để ban hành các quy chuẩn trong hoạt động bảo tồn di tích. - Để

giải quyết các mâu thuẫn, tìm ra giải pháp khả thi cho phương án

xây cầu vượt qua nút giao Ô Chợ Dừa đi trên khu di tích Đàn Xã

Tắc, một cơ chế đối thoại đã được thực hiện. Hội thảo chuyên đề

được tổ chức với sự tham gia của bên quản lý: Bộ Giao thông Vận

tải, UBND thành phố Hà Nội, Ban quản lý các dự án trọng điểm

phát triển đô thị Hà Nội; bên tư vấn: Tổng công ty tư vấn thiết kế

Giao thông vận tải; các nhà khoa học, đại diện cho các hội,

ngành: Hội Di sản văn hóa, Hội Sử học Việt Nam, Hội Khoa học Kỹ

thuật cầu đường… Các tiêu chí đối với phương án cần phải đạt là

nút giao khác mức phù hợp quy hoạch, bảo tồn tốt nhất di tích

Đàn Xã Tắc, đảm bảo phát triển giao thông đô thị và hạn chế giải

phóng mặt bằng. Ngoài ra, cần nghiên cứu cảnh quan kiến trúc

trong khu vực để nâng cao giá trị khu di tích, trở thành một điểm

nhấn trong khu vực. Phương án được lựa chọn sẽ được lấy ý kiến

cộng đồng dân cư 4 phường khu vực quận Đống Đa, trước khi

báo cáo, xin ý kiến các Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Giao

thông Vận tải, Bộ Xây dựng. Như vậy có thể thấy các vấn đề liên

quan đến bảo tồn di sản trong phát triển đã được quan tâm, nhìn

nhận, tổ chức thực hiện và kiểm soát một cách bài bản, chặt chẽ

hơn. - Để tìm ra giải pháp tối ưu cho việc bảo tồn Khu di tích khảo

cổ học 18 Hoàng Diệu thuộc Khu trung tâm Hoàng thành Thăng

Long, UBND thành phố Hà Nội đã chỉ đạo Trung tâm Bảo tồn di

sản Thăng Long – Hà Nội và Sở Quy hoạch – Kiến trúc Hà Nội tổ

chức cuộc thi “Phương án thiết kế kiến trúc bảo tồn và phát huy

giá trị Khu di tích khảo cổ học số 18 Hoàng Diệu”. Các đồ án tham

gia cần đảm bảo các nguyên tắc “Bảo tồn và phát huy giá trị di

sản của Khu di tích khảo cổ học; kiến trúc hài hòa với các công

trình liền kề và cảnh quan chung của khu vực, tiến tới xây dựng

một công viên Lịch sử – Văn hóa Hoàng thành Thăng Long, tôn

vinh giá trị khu di sản”. Cuộc thi đã thu hút sự tham gia của đông

đảo các tổ chức tư vấn thiết kế với 24 đồ án của 23 đơn vị trong

nước và quốc tế tham dự. Các phương án đoạt giải của cuộc thi

tiếp tục được trưng bày, giới thiệu, tổ chức tọa đàm để thu thập ý

kiến, tiến hành nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện nhằm tìm ra

phương án tốt nhất cho việc bảo tồn Khu di tích khảo cổ học số

18 Hoàng Diệu nằm ở trung tâm chính trị của thủ đô và liền kề với

Nhà Quốc hội mới. Những ví dụ trên cho thấy chúng ta đã từng

bước hình thành những khuôn khổ cần thiết cho hoạt động bảo

tồn di sản, dần hướng các hoạt động này thực hiện theo quy trình

nghiêm túc, đúng nguyên tắc bảo tồn, phù hợp với nhu cầu phát

triển, tìm được sự đồng thuận của giới chuyên môn và cộng đồng,

Page 9: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-size… 9/12

hướng đến các lợi ích lâu dài về văn hóa xã hội cho đất nước. b.

Vai trò của KTS trong công tác bảo tồn di tích, di sản được nhìn

nhận đầy đủ hơn, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Thực

tiễn cho thấy, việc bảo tồn di sản, tu bổ di tích có chất lượng cao

được quyết định bởi sự phát triển tương xứng của nguồn nhân lực

hoạt động trong lĩnh vực này, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao.

Ở Việt Nam, hoạt động bảo tồn, tu bổ di tích diễn ra sôi động

trong giai đoạn vừa qua đã bộc lộ những hạn chế, do nhiều

nguyên nhân, nhưng một nguyên nhân quan trọng bắt nguồn từ

nguồn nhân lực (đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao) chưa

đáp ứng được nhu cầu thực tế và mức độ tăng trưởng của hoạt

động bảo tồn, tu bổ di tích. Quyết định 581/QĐ-TTg ngày

6/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược

phát triển văn hoá đến năm 2020 có nhận định “Đội ngũ những

người làm công tác bảo tồn trong cả nước còn thiếu về số lượng,

tính chuyên nghiệp chưa cao, lúng túng trong việc xử lý những

vấn đề phức tạp do thực tiễn đặt ra, làm ảnh hưởng đến chất

lượng bảo tồn và tôn tạo di tích, thậm chí làm sai lệch, biến dạng

tính nguyên gốc của di tích”. Luật Di sản văn hóa được sửa đổi bổ

sung năm 2009 và sau đó là Thông tư số 18/2012/TT-BVHTTDL

Quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di

tích đã quy định cá nhân chủ trì lập quy hoạch, dự án hoặc chủ trì

thi công, giám sát dự án bảo tồn, tu bổ di tích phải có chứng chỉ

hành nghề. Qua đó vai trò của KTS trong trong công tác bảo tồn

di tích, di sản được nhìn nhận đầy đủ hơn. Nhưng cũng vì thế mà

năng lực của đội ngũ này sẽ có vai trò quan trọng trong chất

lượng của các dự án. Tuy nhiên, hiện nay năng lực của các KTS

hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn di sản còn rất hạn chế, chưa đáp

ứng được nhu cầu thực tế. Để cải thiện vấn đề này, từ năm 2010,

Viện Bảo tồn di tích đã đề xuất và được giao thực hiện dự án đào

tạo bồi dưỡng nghiệp vụ tu bổ di tích cho các kiến trúc sư, kỹ sư

xây dựng đang hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn di sản. Cùng với

việc tổ chức các khoá đào tạo, Viện Bảo tồn di tích đã xây dựng

hệ thống lý thuyết chuyên ngành vừa để hình thành bộ giáo trình

chuyên ngành cần thiết cho đào tạo vừa tiến tới tổng hợp, thống

nhất những cơ sở lý luận quan trọng ngành bảo tồn di tích ở Việt

Nam. Đây là bước đi ban đầu rất quan trọng, tuy nhiên cần phải

có sự phối hợp và mở ra ở quy mô rộng lớn hơn mới đáp ứng

được nhu cầu thực tế. c. Việc thiếu cơ sở lý luận, xa rời nguyên lý

bảo tồn dẫn đến những tùy tiện, lệch lạc, không đảm bảo chất

lượng khoa học trong hoạt động bảo tồn di tích, di sản. Trong sự

đa dạng, phức tạp với biên độ rộng của hoạt động bảo tồn di tích,

thực tế luôn tiềm ẩn những thách thức và xuất hiện những kết quả

không mong muốn do những “ngã rẽ” chệch quỹ đạo của sự vận

dụng kể cả trong bối cảnh đã có những cơ sở lý luận và những

Page 10: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-siz… 10/12

chuẩn mực được tạo ra. Và như thế, nếu không có cơ sở lý luận

và chuẩn mực tối thiểu thì không thể tránh được những sự tùy

tiện, phản khoa học trong tu bổ di tích. Việc tu bổ Đàn Nam Giao ở

Thành nhà Hồ – Thanh Hóa (2012) trong dịp chuẩn bị đón bằng

UNESCO công nhận di tích này là Di sản thế giới là một ví dụ về

việc xa rời nguyên lý bảo tồn dẫn đến việc tu bổ tùy tiện, phản

khoa học mà nhiều nhà chuyên môn cũng như dư luận phải lên

tiếng. Ở đây, những người thực hiện dự án đã “phục hồi” kiến trúc

Đàn Nam Giao với các bậc cấp, thềm bằng đá và khu vực trung

tâm mà không có một cơ sở khoa học chắc chắn nào. Về khái

niệm phục hồi, ngay từ năm 1964, các nhà khoa học trên thế giới

đã khẳng định và thống nhất nguyên tắc cơ bản (trong Hiến

chương Venice về bảo tồn và trùng tu các di tích và di chỉ) rằng

“Restoration must stop at the point where conjecture begins” –

Phục hồi phải dừng lại tại điểm xuất hiện giả thuyết. Luật Di sản

văn hóa của Việt Nam cũng quy định rõ “Phục hồi di tích lịch sử

văn hóa, danh lam thắng cảnh là hoạt động nhằm phục dựng lại di

tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh đã bị hủy hoại trên cơ

sơ các cứ liệu khoa học về di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng

cảnh đó”. Như vậy, việc xây dựng mới các thành phần kiến trúc

bằng vật liệu kiên cố ở di tích Đàn Nam Giao, Thành Nhà Hồ hoàn

toàn nằm ngoài các khái niệm cơ bản của hoạt động bảo tồn di

tích cũng như không tuân thủ các văn bản pháp lý hiện hành.

Những sản phẩm đó được làm ra trên cơ sở những giả thiết và sẽ

truyền đến người xem những thông tin không chính xác về lịch sử

và như vậy đó là một sai lầm nghiêm trọng trong bảo tồn di tích.

Sự tùy tiện còn dẫn đến những khái niệm lệch lạc, hoặc cố tình

ngụy tạo như khái niệm “phỏng dựng” (thực chất là việc xây dựng

lại các di tích đã bị mất trên dấu tích nền móng của chúng mà

không hề có cứ liệu, cơ sở khoa học nào, tạo ra một cách làm

phản khoa học, làm méo mó lịch sử). Khái niệm này chưa bao giờ

xuất hiện trong lý thuyết bảo tồn trên thế giới. Vì vậy, việc xây

dựng lại công trình trên cơ sở các giả thiết đầy cảm tính hoàn

toàn không thuộc phạm vi bảo tồn di tích. Điển hình cho cách làm

này là các dự án tu bổ, tôn tạo khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa.

Lần lượt các hạng mục trong khu di tích này là Cầu Bạch, 9 tòa

Thái Miếu, rồi đến Chính Điện ở Lam Kinh đã được “phỏng dựng”

theo sự tưởng tượng “lãng mạn” của các KTS từ dấu tích nền

móng và các chân tảng còn lại của những kiến trúc đã mất mà

không ai có thể biết được chính xác kiến trúc bên trên của các

công trình đó đã từng được làm như thế nào trong lịch sử. Đây

thực sự là một “thảm họa” trong hoạt động bảo tồn, trùng tu di tích

ở Việt Nam. d. Xuất hiện một số xu hướng lệch lạc trong hoạt động

bảo tồn di tích cần phải điều chỉnh và ngăn chặn - Xu hướng thay

thế và làm mới là chủ yếu (hay còn gọi là xu hướng “Trùng tu bền

Page 11: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-siz… 11/12

vững”) Theo xu hướng này, các thành phần bị hư hỏng ở các mức

độ khác nhau đều bị loại bỏ để thay thế và làm mới với mục đích

làm cho di tích bền vững hơn, “khang trang” hơn. Cách làm này

đã hủy hoại những dấu tích vật chất đích thực của di tích, những

thành phần chứa đựng cả những yếu tố lịch sử, văn hóa trong đó.

Khi thay thế chúng ta sẽ có bản sao 1:1 của cái đã bị thay thế,

nhưng cái đó chỉ cung cấp đủ thông tin về quy mô, hình dáng,

kích thước, cấu tạo… tức là các yếu tố về “hình thể”, còn đấu ấn

thời gian, những tính chất riêng có, tinh thần của di tích, những

cái có thể đem đến xúc cảm và sự hưởng thụ thẩm mỹ cho người

xem đã bị loại bỏ. Như thế sau mỗi lần trùng tu, giá trị lịch sử, văn

hóa của di tích lại bị suy giảm, mất mát dần. Điều đó đi ngược lại

với mục đích của bảo tồn - Xu hướng chú trọng tôn tạo hơn bảo

quản, tu bổ. Tôn tạo là những công việc nhằm mục đích cải thiện

môi trường tồn tại của di tích, khôi phục và kiện toàn cảnh quan

bao quanh di tích, tạo thuận lợi cho việc tiếp cận, thăm viếng di

tích, hình thành những cơ sở cần thiết, phù hợp để phục vụ du

khách và các hoạt động tại di tích. Trong các dự án trùng tu, với

cách hiểu đúng về “tôn tạo”, hoạt động này sẽ là những phần việc

như xây tường bao quanh khuôn viên di tích, cải tạo, bổ sung hệ

thống thoát nước mưa, lát nền sân, đường đi trong khuôn viên,

trồng thêm cây xanh, kè hồ nước, xây thêm các công trình phụ trợ,

lắp đặt hệ thống chiếu sáng… Trong thực tế trùng tu di tích ở

nước ta hiện nay, khái niệm “tôn tạo” lại được nhìn nhận theo

những hướng khác nhau như: làm cho di tích “đẹp lên”, khang

trang hơn, đàng hoàng hơn, hay tiện nghi hơn… Vì thế mà nhiều

nhà quản lý và các chủ sở hữu di tích, với mong muốn di tích to

đẹp, “hấp đẫn” hơn, đã lạm dụng tôn tạo để xây dựng những công

trình mới với quy mô và khối lượng lớn. Hậu quả là các thành

phần mới đã lấn át di tích gốc, không gian thâm nghiêm bao

quanh di tích bị biến đổi, các giá trị lịch sử, văn hóa bị suy giảm.

Tôn tạo là hoạt động cần thiết nhưng cần thực hiện trong một

chừng mục nhất định, tương ứng, phù hợp với việc bảo tồn, tu bổ

các yếu tố gốc cấu thành di tích. Xu hướng chú trọng tôn tạo hơn

bảo quản, tu bổ mà thực chất là lạm dụng quá mức để xây dựng

nhiều thành phần mới là xu hướng cần phải ngăn chặn. - Xu

hướng xây dựng mới các di tích đã mất. Những di tích đã từng có

một quá khứ huy hoàng được ghi chép trong sử liệu hoặc truyền

khẩu trong cộng đồng, nay có thể chỉ còn là phế tích nền móng

hay là những công trình của thời kỳ gần đây xây trên vị trí cũ.

Những cứ liệu khoa học xác thực của các công trình đã mất lại

quá ít ỏi, không đủ để làn căn cứ cho việc phục hồi. Trong bối

cảnh đó, với ý muốn tái hiện lại những thứ đã mất, tôn vinh di tích,

hay chỉ đơn giản là mong muốn khu di tích khang trang hơn,

“hoành tráng” hơn, “xứng tầm” hơn, nhiều chủ đầu tư, cơ quan

Page 12: Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam ...dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/5529/1/Bảo tồn... · 2016. 1. 8. · Đình Chu Quyến

4/1/2016 Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản kiến trúc, đô thị Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) - Tạp chí Kiến trúc – Hội KTS Việt Nam

data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22margin%3A%2010px%200px%3B%20padding%3A%200px%3B%20border%3A%200px%3B%20font-siz… 12/12

quản lý đã quyết định tìm cách khôi phục lại nhũng công trình đã

bị mất theo cách thiết kế công trình dựa vào những thông tin ít ỏi,

chủ yếu là một số sự mô tả trong thư tịch, tư liệu cũ hoặc một số

trường hợp còn lại được dấu vết nền móng của công trình đã mất.

Đây thực sự là một cách làm tùy tiện, tốn kém nhiều tiền của

nhưng xa rời các nguyên lý, nguyên tắc của bảo tồn, chủ yếu là

để đáp ứng, thỏa mãn những ý muốn chủ quan nhằm đạt được

những mục đích riêng nào đó khác với mục tiêu của bảo tồn. Dưới

góc nhìn khoa học và từ lý thuyết bảo tồn, cần phải nghiêm túc

nhìn nhận, đánh giá lại những hoạt động “tu bổ, phục hồi” theo xu

hướng này để đưa hoạt động bảo tồn, tu bổ di tích vào đúng hay

chí ít cũng gần hơn với quỹ đạo cần phải có của nó. Những xu

hướng nêu trên có thể đã xuất phát từ các nhu cầu thực tế về sinh

hoạt văn hóa tinh thần của cộng đồng hay phát triển du lịch từ di

sản. Đó là những nhu cầu hợp lý, tất yếu, tuy nhiên do quá lạm

dụng, mà xa rời các nguyên lý, nguyên tắc của bảo tồn di tích nên

đã làm biến dạng, thay đổi những đặc điểm vốn có của di tích, suy

giảm hoặc mất mát hoàn toàn những giá trị lịch sử văn hóa của di

tích. Vì vậy các xu hướng lệch lạc rất cần phải điều chỉnh và ngăn

chặn. Kỳ 2: Định hướng nâng cao chất lượng hoạt động Bảo tồn

Di sản Kiến trúc Đô thị Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 KTS Lê

Thành Vinh – PGS.TS.KTS Phạm Đình Việt – ThS. KTS Nguyễn

Đỗ Hạnh Trích Báo cáo của tiểu ban Bảo tồn di sản kiến trúc

đánh giá kiến trúc đô thị Việt Nam 2010 -2015 TCKT số 05-2015