c huỳnh giáo chủ trở về - wordpress.com...Đức huỳnh giáo chủ trở về. bàn tay...

8
Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về. Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh. Đi xa thì phải dặn rành… (Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ở làng Nhơn Nghĩa {Xà No}, ngày rằm tháng 6 Canh Thìn 1940) Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt mù, Bồ Tát giáng trần không có thì giờ nhàn rỗi ngồi uống trà run đùi ngâm thơ vịnh nguyệt. Mỗi hành động, mỗi lời nói của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ đều khế hợp với thiên cơ đạo lý. Ngày 14-6- Canh Thìn (1940) tại làng Nhơn Nghĩa, Đức Thầy có làm thơ vịnh Hằng Nga dụng ý gởi một thông điệp quan trọng cho đệ tử hậu lai biết rằng Thầy sẽ mượn xác tái sanh thời cuối Hạ Nguơn như sau: Thơ xướng. Khen ai cắc cớ bấm trời tây, Từ cõi Niết Bàn Phật Tỉnh giấc HẰNG NGA khéo vẽ mày Hằng Nga là mặt Trăng = Xác Nữ = xác cô Một phiến linh đinh trôi mặt biển, Tại sao Cô mà lại xưng Cậu? Nửa vừng lửng đửng dán trên mây. và tại sao xưng Cậu mà lại là Cô? Cá ngờ câu thả tơi bời lội, Người đạo thấy xác Nữ sợ đạo tà, Chim tưởng cung trương sập sận bay; vội vã bỏ Thầy Nên một nên hai còn bé tuổi, Mười lăm mười bảy bốn phương hay. Thơ họa. Mây hồng năm sắc ở phương Tây, Từ cõi Niết Bàn Phật Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày; Ô Kim nói lái là Kim Ô là mặt Trời = Hồn Nam = Đức Cậu Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Trổi giọng đờn kêu ngâm nga ca kệ Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. truyền rao trầm bổng giọng Lôtô Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội, Trò đừng sợ, chính Thầy trở về ứng khẩu thuyết Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay; chánh pháp Kinh Phật Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi, Thức giấc đời mê phải được hay. Mở đầu bài thơ xướng bằng câu: Khen ai cắc cớ bấm trời tây, một chữ là một nhiệm mầu! Cụm từ cắc cớ có nghĩa là không thường, lạ đời, dị kỳ, dị sự. Nhưng thật đó chính là dị pháp, diệu pháp huyền cơ. Chữ khen là điều tốt lành, ý nói điềm lành đến từ cõi Tây phương Cực Lạc {bấm trời Tây}. Chữ bấm nghĩa là bấm quẻ coi điềm lành cắc cớ đó là gì. Câu thứ nhì giải đáp rõ: Tỉnh giấc Hằng Nga khéo vẽ mày, cụm từ Tỉnh giấc Hằng Nga, nghĩa là sau một thời gian vắng bóng, nay Đức Thầy tái thế mượn xác nữ {Cô = Hằng Nga}; cụm từ Tỉnh giấc ám chỉ sự tái sanh tái thế. Cụm từ cắc cớ có cái lý đặc biệt là Đức Thầy tái thế thay vì như xưa nhiều lần mượn xác Nam, thì nay cắc cớ mượn xác Nữ, khiến phần đông bổn đạo không thể nào ngờ, không dè, mượn xác mà tại sao xưng Cậu? {Kim Ô mà nói đảo ngược là Ô Kim}. Vì vậy họ lo sợ Ngài là tà ma và xa lánh, ví như cá sợ mắc lưỡi câu và chim sợ cung tên bắn. ngờ câu thả tơi bời lội, Chim tưởng cung trương sập sận bay. Những chữ cá chim là những từ ám chỉ người trong bổn đạo. Vì nghịch cảnh, tà ma lộng hành, cắc cớ Đức Thầy về phải mượn xác nữ nhằm tạo điều kiện tiếp cận người đạo, nhưng lại khiến người đạo vô cùng bàng hoàng lo sợ, không những họ tránh xa Ngài, mà họ còn chê bai, khinh bỉ nhún trề…Chỉ có những ai đại căn mới hiểu được chuyện cắc cớ này! Đây là cơ sàng lọc tuyển chọn: Chấp tướng chấp danh là rớt! Bài thơ họa cũng cho biết từ Tây phương Đức Thầy tái thế, khẳng định hồn linh Ngài là Ô Kim nói lái đảo ngược từ chữ Kim Ô nghĩa là Mặt Trời {Cậu}. Ngài tái thế mượn xác Người Thiện Nữ học hành chưa thông, ứng khẩu thuyết Phật pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai nghe:

Upload: others

Post on 07-Jan-2020

5 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: c Huỳnh Giáo Chủ trở về - WordPress.com...Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về. Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh. Đi xa thì

Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về.

Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh.

Đi xa thì phải dặn rành… (Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ở làng Nhơn Nghĩa {Xà No}, ngày rằm tháng 6 Canh Thìn 1940)

Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt mù, Bồ Tát giáng trần không có thì giờ nhàn rỗi ngồi uống trà run đùi ngâm thơ vịnh nguyệt. Mỗi hành động, mỗi lời nói của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ đều khế hợp với thiên cơ đạo lý. Ngày 14-6- Canh Thìn (1940) tại làng Nhơn Nghĩa, Đức Thầy có làm thơ vịnh Hằng Nga dụng ý gởi một thông điệp quan trọng cho đệ tử hậu lai biết rằng Thầy sẽ mượn xác tái sanh thời cuối Hạ Nguơn như sau:

Thơ xướng.

Khen ai cắc cớ bấm trời tây, Từ cõi Niết Bàn Phật Tỉnh giấc HẰNG NGA khéo vẽ mày Hằng Nga là mặt Trăng = Xác Nữ = xác cô

Một phiến linh đinh trôi mặt biển, Tại sao Cô mà lại xưng Cậu?

Nửa vừng lửng đửng dán trên mây. và tại sao xưng Cậu mà lại là Cô? Cá ngờ câu thả tơi bời lội, Người đạo thấy xác Nữ sợ đạo tà,

Chim tưởng cung trương sập sận bay; vội vã bỏ Thầy

Nên một nên hai còn bé tuổi, Mười lăm mười bảy bốn phương hay.

Thơ họa.

Mây hồng năm sắc ở phương Tây, Từ cõi Niết Bàn Phật

Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày; Ô Kim nói lái là Kim Ô là mặt Trời = Hồn Nam = Đức Cậu

Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Trổi giọng đờn kêu ngâm nga ca kệ

Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. truyền rao trầm bổng giọng Lôtô

Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội, Trò đừng sợ, chính Thầy trở về ứng khẩu thuyết Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay; chánh pháp Kinh Phật

Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi, Thức giấc đời mê phải được hay.

Mở đầu bài thơ xướng bằng câu: Khen ai cắc cớ bấm trời tây, một chữ là một nhiệm mầu! Cụm từ cắc cớ có nghĩa là không thường, lạ đời, dị kỳ, dị sự. Nhưng thật đó chính là dị pháp, diệu pháp huyền cơ. Chữ khen là điều tốt lành, ý nói điềm lành đến từ cõi Tây phương Cực Lạc {bấm trời Tây}. Chữ bấm nghĩa là bấm quẻ coi điềm lành cắc cớ đó là gì.

Câu thứ nhì giải đáp rõ: Tỉnh giấc Hằng Nga khéo vẽ mày, cụm từ Tỉnh giấc Hằng Nga, nghĩa là sau một thời gian vắng bóng, nay Đức Thầy tái thế mượn xác nữ {Cô = Hằng Nga}; cụm từ Tỉnh giấc ám chỉ sự tái sanh tái thế.

Cụm từ cắc cớ có cái lý đặc biệt là Đức Thầy tái thế thay vì như xưa nhiều lần mượn xác Nam, thì nay cắc cớ mượn xác Nữ, khiến phần đông bổn đạo không thể nào ngờ, không dè, mượn xác Cô mà tại sao xưng Cậu? {Kim Ô mà nói đảo ngược là Ô Kim}. Vì vậy họ lo sợ Ngài là tà ma và xa lánh, ví như cá sợ mắc lưỡi câu và chim sợ cung tên bắn.

Cá ngờ câu thả tơi bời lội, Chim tưởng cung trương sập sận bay.

Những chữ cá chim là những từ ám chỉ người trong bổn đạo. Vì nghịch cảnh, tà ma lộng hành, cắc cớ Đức Thầy về phải mượn xác nữ nhằm tạo điều kiện tiếp cận người đạo, nhưng lại khiến người đạo vô cùng bàng hoàng lo sợ, không những họ tránh xa Ngài, mà họ còn chê bai, khinh bỉ nhún trề…Chỉ có những ai đại căn mới hiểu được chuyện cắc cớ này! Đây là cơ sàng lọc tuyển chọn: Chấp tướng chấp danh là rớt!

Bài thơ họa cũng cho biết từ Tây phương Đức Thầy tái thế, khẳng định hồn linh Ngài là Ô Kim nói lái đảo ngược từ chữ Kim Ô nghĩa là Mặt Trời {Cậu}. Ngài tái thế mượn xác Người Thiện Nữ học hành chưa thông, ứng khẩu thuyết Phật pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai nghe:

Page 2: c Huỳnh Giáo Chủ trở về - WordPress.com...Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về. Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh. Đi xa thì

Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. Lòng trong Thánh kệ tình bơi lội, Dạ sạch Phật kinh ý luyện bay

Câu sấm: Sáng suốt Ô Kim bởi vẹn mày, tại sao không viết đúng là Kim Ô mà lại cố ý viết đảo ngược lại là Ô Kim? Đức Thầy dụng ý là: Vì hoàn cảnh Hạ nguơn mạt pháp tà ma lộng hành, tùy cơ ứng biến Thầy về mượn xác Nữ {Cô} mà phải xưng là Cậu (Đức Cậu) để nhắc cho đệ tử nhớ rằng Thầy trở về, Cô Cậu, Cậu Cô; Ô Kim, Kim Ô. Phải chăng đây là trường hợp dị sự như Ông Ba Nguyễn văn Thới tiên tri:

Ai biết nước xuôi nuôi nước ngược, Bịnh căn vô dược được thọ trường. Dị thế dị thường tường dị lộ, Phật Trời cứu độ ngộ Phật Trời. Dị cư dị thời lời dị thuyết, Dị đoan dị tiếc kiết dị minh. Dị sự dị ninh linh dị pháp, Vô nhơn đối đáp pháp thinh không. Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu, Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh. Phép phép linh linh ninh quốc sự, Nhơn dân vô lự tự an khương. An quốc an Vương khương thới nhạc, Di Đà Di Lạc đạt Vi Vô. (Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị 83: 85, Ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915)

Ông Ba Thới tiên tri gần ngày Tận Thế và Hội Long Hoa, sẽ có một đấng Bồ Tát xưng ĐỨC CẬU giáng trần với hành trạng nhiều đặc điểm: dị thế, dị thường, dị lộ, dị thuyết, dị pháp, dị cư, dị thời, dị sự, và hành đạo tưởng như dị đoan tà giáo, nhưng mà có phép mầu dị linh khiến người dân được an khương thời Di Lạc Phật Vương sắp tới. Thánh địa Di Lạc ở miền Nam VN.

Dị thế là Bồ Tát ra đời thuyết pháp nhằm thời ma chướng hoành hành; Dị thường là Bồ Tát có hành trạng kỳ lạ, ví như mượn xác Nữ mà xưng là Đức Cậu; Dị thuyết là thuyết pháp khác thường, khi ngâm nga ca hát, khi rao đờn, khi rao giọng lôtô; Dị pháp là pháp khác thường, kỳ lạ tưởng chừng như dị đoan nhưng có phép linh nhiệm mầu khó nghĩ bàn; Dị cư là Bồ Tát thuyết pháp mà mang hành trạng Cư Sĩ tại gia xưng khùng điên, không xuất gia ở chùa; Dị sự là Bồ Tát làm những chuyện kỳ cục khó hiểu, hư hư thực thực… Tất cả những điều dị kỳ đó của Đức Cậu kết hợp thành pháp linh rất mầu nhiệm.

Dị sự dị ninh linh dị pháp, Vô nhơn đối đáp pháp thinh không. Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu, * Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh.

***

Ý gì TIÊN TRƯỞNG muốn khuyên đời, * Mà đời lầm lạc lắm đời ôi! Đạo đức nhuốc nhơ mà sao đặng, Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời! (Lộ Chút Cơ Huyền, Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

Say ngọc Bồ Đề đức hạnh cao, Say dân ngu muội tưởng điên nào. Say chừng nó biết TA TIÊN TRƯỞNG, * Say chén quỳnh tương chốn núi cao. (Say, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939) dè dè

Page 3: c Huỳnh Giáo Chủ trở về - WordPress.com...Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về. Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh. Đi xa thì

Đêm dài dặn cạn dầu tiêm lụn, Chẳng thấy ai tìm kiếm Bóng TRĂNG.

Để làm cho mích bụng CHỊ HẰNG, Nơi CUNG NGUYỆT chờ trông mõn dạ.

(Diệu Pháp Quang Minh, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1940)

Cuối Hạ Nguơn, Đức Thầy giáng trần mượn xác tái sanh với dáng Người Thiện Nữ ra đời truyền pháp, nhưng chẳng thấy ai tìm để học đạo, khiến Thầy buồn.

*** Thầy TIÊN môn đệ tục, Tiên Trưởng

Đạo chánh tín đồ tà; Cha hiền sanh con dữ, Tức bụng chị HẰNG NGA.

HẰNG NGA bóng vẫn sáng, Mặc dù nhiều mây áng; Khi ngọn gió thổi qua, Ánh TRĂNG huờn tỏ rạng.

Tỏ rạng là ánh TRĂNG, Mây không thể cản ngăn; Cản ngăn chỉ phí sức, Không thắng nổi CHỊ HẰNG.

CHỊ HẰNG soi thế gian, Cho kẻ tối thấy đàng; Không vì câu danh lợi, Vạn cổ vẫn minh quang.

Minh quang tánh của TRĂNG, Như minh quang đạo HẰNG; Khoảng thế gian càng tối, Ánh quang minh càng tăng. (Lá Thơ Đông Kinh Q. 1, tr.132, Bồ Tát Thanh Sĩ viết ở Tokyo ngày 10-6-1964)

*** Phụ lục: Minh họa hành trạng Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ trở về.

Tưởng rằng CẬU ở lầu son, Con tìm gặp CẬU thon von châu mày.

Tưởng rằng CẬU ở lầu đài, Ai dè CẬU tợ ăn mày tả tơi.

Tưởng rằng CẬU ở ngôi trời, Xác thân đẹp đẽ tuyệt vời xa xa.

Ai ngờ như quỷ như ma, Nói đây đồng đạo cả nhà mến thương.

Tưởng rằng CẬU ở tòa chương, Đâu ngờ CẬU lại phơi xương biển hồ.

Tưởng rằng má phấn đắp tô, Ai dè ngó CẬU trầm trồ biết bao !

Ăn xin thân phận ngạt ngào, Xin ân xin đức đồng bào ráng cho.

Xin Thầy độ bữa cơm no, Thân Này khổ sở biển gò sang qua.

Tưởng rằng CẬU ở cung nga, Dè đâu không cửa không nhà dân ơi.

Niên như điển, nguyệt như thoi, Vần xây thế giới luân hồi chẳng chơi.

Có Người Thiện Nữ truyền lời, Nhứt vân thiên lộ máy trời thinh thinh.

………………………………………………………………………

Non đoài giữ dạ tín thành, Thầy cho CƯ SĨ học hành chưa thông.

Anh em ai có phục tòng, Theo TÔI học đạo phải dùng tai nghe. (Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An tr. 103 & 109, lưu ở đình Tòng Sơn năm 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

Đức Thầy tái thế mượn xác Người Thiện Nữ học hành chưa thông, dốt viết không rành văn tự, dụng thần thông ứng khẩu thuyết pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai nghe. Thời đại văn minh có phương tiện máy ghi âm cassette, băng đĩa… Khi Bồ Tát thuyết, bạn đạo dùng máy ghi âm hoặc đưa lên trang mạng quảng bá rộng rãi cho bá tánh nghe.

Page 4: c Huỳnh Giáo Chủ trở về - WordPress.com...Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về. Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh. Đi xa thì

Tưởng rằng CẬU đã ngao chơi, Dè đâu vâng lịnh ngôi Trời phải lâm.

Tưởng rằng đeo đẳng vàng râm, Ai dè CẬU lại giả câm giả khùng. Tưởng rằng CẬU lại anh hùng,

Dè đâu CẬU khổ Cậu khùng ngày nay. Bá gia bá tánh an bài,

Nhắc cho đồng đạo ngày nay đặng nhờ. Tưởng rằng CẬU hãy tôn thờ,

Ai dè trôi dạt bên bờ sông dương. Thôi thôi từ giã muôn đường,

CẬU cười ba tiếng dân nhường cùng nhau. Cười rằng cơm đói cháo rau,

Một ngày một bữa chùi lau vui vầy. Cười rằng mất chức mất thầy,

Mất nhà mất cửa giờ này tan hoang. Cười rằng dân chúng trần gian,

Thật là ngu muội giang san trôi rồi. Cười rằng dân chúng ôi thôi,

Tại đời bạc bẽo như vôi kia kìa. Cười rằng dân tộc rẽ chia,

Cười rằng không thức canh khuya sưu tầm. Cười rằng dân chúng còn lầm,

Lầm TA xuống thế tay cầm ngọc châu. Lầm TA ở chốn đảnh đầu,

Dè đâu mượn xác công hầu bày khai. Lầm TA lại hỡi con trai, *

Hằng Nga - Cô Hay là con gái ngày mai rồi tường. Ô Kim - Cậu Lầm TA phải chịu oan ương,

Nói đây cô bác đoạn trường biết bao ! Thôi thôi kính chúc đồng bào,

Buổi chiều CẬU nói ngạt ngào vô biên. Ở đây kính chúc đạo hiền,

Chúc cầu anh chị bốn miền âu lo. Thôi thôi đừng sợ đói no,

Ráng tu ráng sửa qua đò nay mai. Biết rằng đời tục không lai,

Đời Tiên gần đến nay mai rồi tường. Thôi nghe CẬU ráng nhẫn nhường,

Nhẫn người qua được đoạn đường thoát nguy. Nhường người mở lối ta đi,

Đừng sợ ai có khinh khi chi mình. Cứ tu CẬU lại cầu xin,

Cầu xin cho chúng rửa mình sạch trong. Đừng tưởng CẬU ở non bồng,

Cậu ở dưới thế toại lòng cùng nhau. Tu xin bá tánh ngạt ngào,

Gởi thơ thăm hết đồng bào bốn phương. Thôi thôi bút mục phô trương,

Khùng Điên tỏ hết đoạn trường canh thâu. Nói ra bút mực đôi câu,

Gởi cùng Bần Sĩ ngõ hầu tâm nao. Kính thưa anh chị Kinh Đào,

Page 5: c Huỳnh Giáo Chủ trở về - WordPress.com...Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về. Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh. Đi xa thì

Buổi chiều CẬU viếng đồng bào CẬU thăm. Thấy người cũng được thâm tâm,

Vui mừng CẬU lại nhiều năm tuyệt vời. Nay mai CẬU sẽ xa vời,

Giã từ đồng đạo đôi lời cậu khuyên. Giã từ ĐỨC CẬU Khùng Điên,

Đặng mà CẬU lái con thuyền ra đi. Giã từ đôi khúc ai bi,

Chừng nào trở lại ra thi bớ trò. Thi rằng nơi chốn ráng lo,

Ráng lo cầu nguyện CẬU cho sau này. Ráng cầu nguyện Phật nguyện Thầy, Đặng CẬU về tới sửa xây cho mình.

CẬU đi bá tánh chúng sinh, Không cầu đi mãi rung rinh cửa trời.

Giã từ đồng đạo nơi mơi, Cậu đi nơi khác tuyệt vời kính khuyên.

Giã từ đồng đạo vô biên, Đến thăm một chút sĩ hiền rõ chưa ?

Rõ rồi sớm muối chiều dưa, Rõ rồi ĐỨC CẬU mới đưa thơ đề.

Rõ rồi ĐỨC CẬU mới về, Rõ rồi ĐỨC CẬU mới kề thi văn.

Giã từ sự khổ khó khăn, Lui thuyền trở lại sáng trăng trong lòng.

CẬU về nơi cõi rừng tòng, Hay là ven biển mênh mông đại ngàn.

Thuyền kia qua lại rước ngang, Thôi thôi từ giã đạo tràng bình yên.

Chúc cho bá tánh thị thiềng, Thật là vô lượng vô biên chỗ này.

(trích mặt B băng cassette ghi âm Đức Cậu Bần Sĩ Vô danh ứng khẩu thuyết pháp ở Kinh Đào, kết tập sách Phật Di Lạc Giáng Thế tr. 119-123, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1998)

Trong những thập niên 80-90, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh âm thầm len lỏi qua những vùng như Cần Giờ, Cần Đước, Rạch Giá, Giồng Riềng, Kinh Đào, Phú Thuận, Vàm Cống… ; Đức Cậu đến nơi nào thuyết pháp, đồng đạo dùng máy cassette ghi âm. Nhờ vậy mà hàng trăm băng thuyết pháp của Đức Cậu được đồng đạo chuyển đi khắp nơi truyền bá từ trong nước ra hải ngoại.

Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh xuất thân không học, viết không rành văn tự, ứng khẩu thuyết pháp, Đúng như lời tiên tri của Đức Phật Thầy Tây An :

Niên như điển, nguyệt như thoi,

Vần xây thế giới luân hồi chẳng chơi. Có Người Thiện Nữ truyền lời,

Nhứt vân thiên lộ máy trời thinh thinh. ………………………………………………………………………

Non đoài giữ dạ tín thành, Thầy cho CƯ SĨ học hành chưa thông.

Anh em ai có phục tòng, Theo TÔI học đạo phải dùng tai nghe.

(Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An tr. 103 & 109, lưu ở đình Tòng Sơn năm 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

Người chấp tướng không thể nhìn ra hành trạng Đức Thầy trở về. Vì họ nghĩ rằng Thầy trở về với tướng nam oai phong ngồi trên chín bệ cao sang, chớ đâu ngờ Thầy hóa thân Bồ Tát làm thân lươn chui dưới bùn sình để độ chúng sanh. Vì nghịch cảnh, tà ma lộng hành, Thầy thay hình đổi dạng hóa ra xác nữ dốt để dễ tiếp cận người đạo. Trong sấm giảng Thầy dặn rằng:

Page 6: c Huỳnh Giáo Chủ trở về - WordPress.com...Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về. Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh. Đi xa thì

Ra đi dặn lại ít lời, Khuyên trong bổn đạo vậy thời ráng nghe.

Dầu ai tài phép bày khoe, Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo.

Lựa cho phải cột phải kèo, Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm.

Ngọc kia ẩn dạng khó tầm, * Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình.

(Dặn Dò Bổn Đạo, Đức Thầy viết ở Hòa Hảo tháng 2 Canh Thìn 1940, chép theo bản chánh do ông Nguyễn Chí Diệp giữ, Giáo Hội PGHH ấn hành năm 1965)

Câu Ngọc kia ẩn dạng khó tầm, ám chỉ Thầy trở về để ra đề thi phá chấp tướng. Thầy trở về ẩn tướng, mượn xác nữ dốt, viết không rành văn tự. Ví như viên ngọc quý ẩn trong tảng đá thô sơ, chỉ có người thợ ngọc tài giỏi mới có thể biết được viên ngọc quý ẩn trong đá. Thầy trở về ẩn trong tướng nữ dốt thuyết pháp, chỉ có người đạo nào thuần thành mới có thể nghe và hiểu được lời vi diệu của Thầy, ví như chỉ có người tri âm như Tử Kỳ mới có thể nghe và thấu hiểu được tiếng đờn Bá Nha trên bến Hàm Dương.

Thân KHÙNG đêm vắng khóc thầm, Ông Đạo Khùng

Cựa mình cũng nhớ giấc nằm nào an. Từ nay cách biệt xa ngàn,

Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy. Giữa chừng đờn nỡ dứt dây, (1)

Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa. Tỉnh say trong giấc mộng hoa,

Mơ màng cũng tưởng như TA bên mình. ……………………………………………………………..

Tới đây từ biệt khắp cùng, Thầy báo trước

Thầy lìa khỏi xác Thiên Cung phản hồi.* đêm 16-4-1947

(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1940 tại Hòa Hảo)

* Câu sấm: Thầy lìa khỏi xác thiên cung phản hồi, ám chỉ sự cố súng nổ đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng thuộc tỉnh Long Xuyên.

(1) Cụm từ đờn nỡ dứt dây, chữ dứt nghĩa là tạm dừng khi Thầy vắng bóng một thời gian, khi nào Thầy trở về, Thầy sẽ tiếp tục khảy đờn tìm lại người đạo, ví như Bá Nha ước hẹn ngày trở lại bến Hàm Dương khảy đờn tìm lại bạn tri âm Tử Kỳ.

… Đờn kêu rụng rớt xóm làng, Đầy đường đầy đống tràn lan bớ trần.

Đờn kêu hao hớt bao phần, Vậy mà không biết rần rần làm chi.

TA đờn khúc hát lâm li, Đờn kêu thông báo dị kỳ ác ôn.

Đờn kêu đừng có bôn chôn, Tới đây lấp biển dời cồn biết không.

Đờn kêu rộ rộ rần rần, Đờn kêu sắp đến giặc Tần băng sang.

Đờn kêu kéo dọc kéo ngang, Rọi rồi thấy đó lân bang khóc ròng.

Đờn kêu TA quá não nồng, Nức nở tấm lòng mới vội đờn ra.

Đờn kêu quyết liệt vậy mà, Tay chơn run rẩy Thân Già biết sao!

* Sự tích Ngọc Ẩn

Đời Chiến Quốc có người ở nước Sở họ Biện tên Hòa, lên núi Kim Sơn lấy được viên ngọc phác {tức là ngọc còn ẩn trong đá} đem về dâng lên vua Lệ Vương. Vua bảo thợ ngọc xem, thợ xem rồi tâu đó chỉ là đá. Vua khép tội khi quân, chặt chân bên trái của Biện Hòa. Đến đời Võ Vương, Hòa lại đem ngọc phác ấy dâng lên vua lần nữa. Vua Võ Vương cũng bảo thợ ngọc coi, và cũng lại khép Biện Hòa về tội dối gạt vua, và bị chặt nốt chân bên phải. Đến đời Sở Văn Vương, Hòa lại muốn đem ngọc phác dâng lên vua, nhưng vì 2 chân đều đã bị chặt cụt, không thể nào đi được, đành phải ôm ngọc mà khóc ròng rã 3 ngày đêm đến nỗi mắt chảy ra máu! Có người hỏi, thì Biện Hòa đáp không phải vì

muốn được vua thưởng mà đem dâng ngọc,

nhưng quá đau khổ vì ngọc mà bảo là đá, ngay

mà bị khép tội là gian đó thôi! Vua Sở Văn

Vương nghe chuyện, bảo thợ ngọc phá viên đá

ra xem, thì trong đá có viên ngọc rất quý, ngọc

tốt không tì vết. Chừng đó nỗi oan của Biện Hòa

mới được giải tỏa.

Page 7: c Huỳnh Giáo Chủ trở về - WordPress.com...Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về. Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh. Đi xa thì

Cậu đờn dân ráng mà trau, trau giồi Đờn kêu tấc đất ngọn rau không còn.

Đờn kêu núi nọ còn mòn, Biển hồ sắp cạn người còn hay không?

Đờn kêu ứng hiện Tây Đông, Trời rơi lệ, Phật khóc ròng sầu bi!

Cậu đờn lẳn tẳn lì ti, Đờn kêu mọi việc sự gì cũng ra.

Đờn kêu ơi hỡi từng nhà, Khôn ngoan lập đức sau mà nhờ thân.

Đờn kêu rộ rộ rần rần, Đờn kêu sau cuối mới cần Phật Tiên.

Đờn kêu đến sự không hiền, Rồi đây sắp loạn tứ phiên ạt ào.

Đờn kêu cung cấm sang giàu, Khôn rồi ráng lánh ráng nào nhờ thân.

Đờn kêu bảy nhựt tối tân, TA ngồi tính lại giờ gần không xa.

Đờn kêu ơi hỡi vậy mà, Đờn Trời TA khảy thiết tha dạn dày.

Đờn kêu chúng gấp tranh tài, Trời đà định việc trong ngoài thí nhau.

Đờn kêu Đức Cậu ráng rao, Cuồng điên sắp tới ba đào bủa vây.

Đờn kêu động tới cội Thầy, Tiếng đờn đâu có sợi dây bớ trần.

Đờn kêu xa lại kêu gần, Kêu rằng sắp bị giặc Tần sang Nam…

(trích mặt B băng Mùa Hè năm Dê, do Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết năm 2002, Tiếng Đờn Đạo Khùng tr. 4-5, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống)

…Tình duyên gặp gỡ muôn thuở nào phai, Lô tô một bài tặng ban đồng đạo. Giờ này TA thảo bút nọ TA nghiên, Thương kẻ cuồng điên tới Đời không biết. Từ đây TA thuyết để lại một bài, Chúa Thánh lập Đài ra tay trừng trị. Ai người dũng sĩ có trí ráng tường, Phong cảnh thê lương dọn đường cho gấp. Chớ rồi Trời sắp thanh toán nợ nần, Tất cả hầu gần Các Lân cũng rụi. Thương thay Chú Cuội ngồi Gốc Đa Già, Gốc Đa Già= Đạo Phật vô vi

Khổ sở kia cà ôm mơ HẰNG mộng. Bổn đạo ngóng trông Phật Thầy Thấy rồi nghiệp cộng sinh chúng liên miên, Tận thế cận kề

Chú Cuội như điên mơ màng TRĂNG sáng. Chờ Thầy về

Thấy rồi quý đáng không biết làm sao, Chú Cuội khóc gào CHỊ HẰNG đâu mất. Chú Cuội= Bổn Đạo Thật là tin tấc {tức} những chuyện lạ kỳ, CHỊ HẰNG = Đức Thầy Cậu nói vô vi trong bài mầu nhiệm. Hiểu rồi ráng kiếm có hiếm nghe dân, Rộ rộ rần rần Cậu phân rồi biết. Bài này Cậu thuyết đạm bạc buổi trưa,

Sống để coi nếu ai nói đúng, Mùi Dậu Thân rơi rụng đầy đường. Con Gà bay chẳng qua mương, Chưa hết năm Dậu 2017

Tí te tiếng gáy vấn vương não sầu! Thế giới tan nát vì bom nguyên tử!

(Thiên Lan Khảo Bút tr. 27, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống)

Quân Tàu coi đông đảo hung hăng vậy mà ăn không hết một con Gà! Nghĩa là chưa hết năm Gà 2017, Mỹ và đồng minh đánh tan Trung Quốc dẫn đến Tận Thế. Ráng sống coi lời tiên tri đúng vậy hay không!

Page 8: c Huỳnh Giáo Chủ trở về - WordPress.com...Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về. Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh. Đi xa thì

Phú Thuận nên chừa ngăn ngừa tất cả. Thì rồi hối hả xem đạo ra sao, Ngăn ngỏ đón rào từ đây mới thấy. Bài này mành giấy ký bút nên thơ, Sự tới bây giờ tràn bờ như thác. Mượn danh Bồ Tát Cậu tá hồng trần, Ở đây nhiều phần mau mau dẹp dọn. Từ rày cả bọn sắp tới kia kìa, Chắc ta phải lìa chia hai tất cả. Luận bài rồi đã lý nọ càng phân, Kêu bớ người dân Tân Dân gần đến. Thuyền cầu cặp bến Cậu gởi đến xem, Kêu chị kêu em đừng thèm nghĩ nữa. Binh trời khói lửa cháy giữa không gian, Thế Chiến Ba

Sự thế rõ ràng lan tràn sắp tới. Khắp miền thế giới bốn biển năm châu, Nó cũng luận hầu xây đầu hết trọi. Ngọc Hoàng đang gọi tụi nó bó tay, Ray rứt không hay nước nào cũng đánh. Có CHIM vổ cánh thì nó tung tăng, chim = Chiến đấu cơ và hỏa tiễn nguyên tử

Thấy khổ khó khăn lăng nhăng hết trọi. Chắc rằng không khỏi tôi mọi chúng sinh, Cậu nói thất kinh ráng nhìn cho kỹ. Từ đây anh chị chắc bị câu lưu, Cậu nói nó thù người tu quá sức. Ráng về lập tức triệu ức bỏ mau… từ bi bố thí giải nghiệp mới kịp thoát đại nạn sắp tới

(Hằng Nga Sấm Truyền tr. 26-27, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết ở Phú Thuận ngày 28-3-Tân Mùi 1991, kết tập băng Phú Thuận 3, Thiền Tịnh Bửu Sơn ấn tống 2007)

Sydney, 21-10-2016, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo * (Facebook Mõ Tre & Blog Kinh Sam That Son) https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Lời bình: Muốn thấy Đức Thầy trở về, phải có cái tâm không chấp trước, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm! Bài thi này khá cao, không trách vì sao phần đông tín đồ của Đức Thầy không nhận ra Thầy trở về, mà cứ chờ mãi, và chờ mãi…. Nếu không có người lãnh sứ mạng giảng giải, sẽ bí cơ, bế tắt. Nhiều kẻ nói Đức Thầy bị gạt trong đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng, nhưng không ngờ Thầy đã biết trước tất cả. Ngay trong đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng, Đức Thầy đã ký thác cho Việt Minh đánh 3 cuộc chiến: chống Pháp, Mỹ và Tàu. Thầy biết sau cuộc chiến chống Pháp, còn cuộc chiến khốc liệt chống Mỹ, rồi chống Tàu càng khốc liệt hơn nữa! Dân tộc VN phải trả quả bằng 3 cuộc chiến; và riêng Đức Thầy {hậu kiếp Đức Trạng Trình}, phải bị Bửu Vinh chặt làm 3 khúc để trả cái quả vì ngày xưa Trạng Trình lập kế cho Nguyễn Hoàng trên đường Nam tiến với câu sấm bất hủ: Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân, Thầy trả cái quả 3 chủng tộc bị nhà Nguyễn diệt chủng gồm có dân tộc Chàm, Thủy Chân Lạp, và Tây Nguyên. Luật nhân quả thật là sòng phẳng. Đức Thầy từng nói trong quyển Khuyến Thiện: Luật nhân quả thật là cao viễn, Suốt cổ kim chẳng lọt một ai. Thật vậy, Đức Thầy là Bồ Tát giáng trần cứu thế cũng phải trả quả vào Đốc Vàng cho Bửu Vinh chặt 3 khúc đêm 16-4-1947. Sau khi cả dân tộc VN trả quả bằng 3 cuộc chiến chống Pháp, Mỹ, và Tàu, thì giống Hồng Lạc mới thấy thái bình vĩnh cửu trong thời Di Lạc sắp tới. Đức Thầy thuyết:

Thiên cơ ai dám nói thừa, Mà trong bá tánh chẳng ưa Điên Khùng! (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Thầy viết năm 1939)