c viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh vŨ thÁi...

201
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH VŨ THÁI DŨNG CÔNG TÁC DÂN VN CA ĐẢNG BLIÊN KHU VIT BC TTHÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1954 LUN ÁN TIN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LCH SĐẢNG CNG SN VIT NAM HÀ NI - 2017

Upload: others

Post on 03-Sep-2019

5 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VŨ THÁI DŨNG

CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC

TỪ THÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1954

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2017

Page 2: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VŨ THÁI DŨNG

CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC

TỪ THÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1954

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Mã số: 62 22 03 15

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Viết Thảo

2. PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà

HÀ NỘI - 2017

Page 3: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu

của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là

trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn

đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Vũ Thái Dũng

Page 4: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................................................... 8

1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án .......................................... 8

1.2. Những nội dung liên quan tới đề tài luận án mà các công trình đã đề cập

và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết .............................. 28

Chương 2: CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC

TỪ THÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1952 .......................................... 30

2.1. Những yếu tố tác động đến công tác dân vận của Đảng ở Liên khu Việt

Bắc trong những năm đầu kháng chiến ........................................................... 30

2.2. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc được thành lập, lãnh đạo thực hiện công tác

dân vận từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1952 ................................................... 56

Chương 3: ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

CÔNG TÁC DÂN VẬN TỪ THÁNG 7-1952 ĐẾN THÁNG 7-1954 ........ 86

3.1. Những chủ trương của Trung ương Đảng về công tác dân vận trước yêu

cầu mới của cuộc kháng chiến chống Pháp ..................................................... 86

3.2. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc lãnh đạo thực hiện công tác dân vận trong

giai đoạn mới (7-1952 - 7-1954) ...................................................................... 93

Chương 4: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ......................................... 122

4.1. Một số nhận xét ............................................................................................... 122

4.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ........................................................................... 131

KẾT LUẬN ........................................................................................................... 145

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÔNG

BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................ 148

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 149

PHỤ LỤC .............................................................................................................. 172

Page 5: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã khẳng định công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược, có

ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách mạng. Đường lối và quá trình tổ chức

chỉ đạo thực hiện công tác dân vận là một thành công quan trọng, quyết định sức

mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp

(1945-1954). Để có được chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng

chiến chống Pháp của dân tộc, việc vận động quần chúng nhân dân cung cấp nhân

lực, vật lực ở hậu phương là một trong những nhân tố thường xuyên, quan trọng

quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh cách mạng.

Tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân là

quan điểm bao trùm trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh, là cơ sở để hình thành tư

tưởng về dân vận của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cách mạng là sự nghiệp của

nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng có trách nhiệm

đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Ngay

trong cuốn Đường cách mệnh (1927) Người đã khẳng định: “Cách mệnh là việc

chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người” [173, tr. 262]. Đó là tư

tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ cơ sở nhận thức khoa học: Cách

mạng là sự nghiệp của nhân dân. Vấn đề cơ bản đảm bảo thành công của mọi cuộc

cách mạng là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp được đông đảo nhân dân

trong lực lượng của cách mạng. Muốn vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải thực

hiện tốt công tác dân vận, Người nêu lên một luận đề như một chân lý: “Dân vận

kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [169].

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Trung ương Đảng và Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã nhận định nguy cơ thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, nên

đã cử cán bộ ở lại tiếp tục củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Việt Bắc lại một lần nữa

vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chọn làm căn cứ địa, nơi

đứng chân của các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Tháng 10-1946, Trung

Page 6: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

2

ương Đảng cử cán bộ lên Việt Bắc để xây dựng căn cứ địa kháng chiến, chọn Thái

Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang làm An toàn khu của Trung ương. Việt Bắc trở

thành vùng hậu phương - căn cứ địa đặc biệt quan trọng của cuộc kháng chiến

chống Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cách mạng đã do Việt

Bắc mà thành công thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi” [176, tr. 239].

Việc lựa chọn Việt Bắc làm căn cứ địa cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt,

đúng đắn và khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, đồng thời

làm rõ hơn vai trò to lớn của Đảng bộ Liên Khu Việt Bắc trong việc vận động

đồng bào các dân tộc trên địa bàn Liên khu đóng góp sức người, sức của cho sự

nghiệp đấu tranh cách mạng, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Việc vận động các tầng

lớp nhân dân các dân tộc trên địa bàn Việt Bắc tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân

trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược là thành công lớn của Trung ương

Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng bộ Liên Khu Việt Bắc.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, căn

cứ địa kháng chiến được xây dựng, củng cố về mọi mặt, sẵn sàng cho cuộc kháng

chiến lâu dài của quân và dân Việt Nam. Tại Liên khu Việt Bắc, chính quyền nhân

dân các cấp được chăm lo củng cố và kiện toàn; khối đoàn kết toàn dân được tăng

cường; quần chúng nhân dân các dân tộc trên địa bàn Liên khu được quy tụ trong

Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt với các đoàn thể (nông hội, hội phụ nữ, hội

thanh niên…). Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở Việt Bắc đã vận động

nhân dân các dân tộc trên địa bàn đóng góp to lớn sức người, sức của cho kháng

chiến, cung cấp nhân lực chủ yếu cho chiến trường. Nhờ chủ động trong công tác

chuẩn bị nên khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, việc di chuyển các cơ quan đầu

não lãnh đạo kháng chiến được thực hiện đúng kế hoạch. Việc chủ động trong công

tác xây dựng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, quân và dân Việt Nam đã đánh bại âm

mưu của thực dân Pháp trong việc đánh vào cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến;

làm thất bại hoàn toàn chủ trương đánh nhanh, thắng nhanh của địch.

Nhìn lại những chủ trương, đường lối trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ

chức thực hiện công tác dân vận của Đảng suốt những năm tháng đầy khó khăn, thử

thách với cách mạng Việt Nam là một việc làm rất cần thiết, nhất là sau khi vừa

Page 7: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

3

giành được chính quyền cách mạng, cả dân tộc phải đương đầu với kẻ thù lớn

mạnh. Nghiên cứu nội dung này không chỉ khẳng định sự đúng đắn về đường lối

kháng chiến của Đảng, làm sáng tỏ tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp mà toàn Đảng, toàn dân đã quyết tâm giành thắng lợi, đúc kết

những kinh nghiệm lịch sử có giá trị quan trọng cho công tác dân vận của Đảng

trước những vận hội và thách thức trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời góp phần tôn

vinh công lao đóng góp của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc

Việt Bắc luôn một lòng, một dạ đi theo Đảng làm nên sức mạnh tổng hợp toàn dân

tộc để có được thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu,

chấn động địa cầu. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Công tác dân vận của Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954”, làm đề tài Luận án tiến sĩ

chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

- Làm sáng tỏ quá trình lãnh đạo thực hiện công tác dân vận của Trung ương

Đảng và các Đảng bộ ở Liên khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến; góp phần quan

trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

- Góp phần đúc rút những kinh nghiệm để vận dụng vào quá trình hoạch định

chủ trương, chính sách dân vận của Trung ương Đảng trong thời kỳ mới, tạo sự đồng

thuận của mọi tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu một cách có hệ thống các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài:

Văn kiện của Trung ương Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, các công

trình nghiên cứu liên quan đến công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ kháng

chiến chống Pháp. Hệ thống hoá, khái quát hóa những tư liệu đó theo trình tự thời

gian gắn liền với quá trình lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong cuộc kháng

chiến chống Pháp. Từ đó, làm rõ những chủ trương, biện pháp, những quyết sách về

công tác dân vận của Đảng trong giai đoạn từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954 của

cuộc kháng chiến chống Pháp.

Page 8: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

4

- Phân tích làm rõ những yếu tố tác động đến công tác dân vận của Đảng ở

Liên khu Việt Bắc.

- Từ các văn kiện của các Liên Khu ủy, Khu ủy, Tỉnh ủy (trong phạm vi

nghiên cứu của luận án), làm sáng tỏ chủ trương của các Đảng bộ trong quá trình cụ

thể hóa, tổ chức thực hiện công tác dân vận của Đảng trên tất cả các lĩnh vực, đối

với các giai tầng ở Việt Bắc từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.

- Trên cơ sở phân tích những chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng và

sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đối với công tác dân vận ở Việt Bắc (từ

tháng 10-1949 đến tháng 7-1954), nhận xét những thành công, ưu điểm, hạn chế trong

công tác dân vận của Đảng thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

- Từ những thành công, hạn chế và nguyên nhân, luận án đúc kết một số kinh

nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn góp phần bổ sung vào quá trình hoàn thiện chủ

trương, chính sách dân vận của Đảng trong thời kỳ mới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu những quan điểm, chủ trương, chính sách và quá trình tổ

chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc

trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giai đoạn từ tháng 10-1949

đến tháng 7-1954.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Thời gian: Luận án nghiên cứu trong phạm vi thời gian từ tháng 10-1949

(Liên khu Việt Bắc được thành lập) đến tháng 7-1954 (khi kết thúc cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp xâm lược).

- Nội dung: Trên địa bàn Việt Bắc, công tác dân vận của Đảng có sự tham

gia của Trung ương Đảng, các cơ quan Trung ương Đảng đóng trên địa bàn, của các

cấp bộ Đảng từ Khu, Liên khu đến cơ sở, Đảng bộ các cơ quan, đơn vị đóng trên địa

bàn. Luận án tập trung nghiên cứu những chủ trương, chính sách về công tác dân

vận của Đảng và quá trình các Khu uỷ, Liên khu uỷ ở Việt Bắc tổ chức chỉ đạo thực

hiện công tác dân vận phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (từ

tháng 10-1949 đến tháng 7-1954).

Page 9: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

5

- Không gian: Luận án tập trung nghiên cứu chủ yếu các khu, liên khu và các

tỉnh (gồm có 17 tỉnh, đặc khu và 01 huyện: các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn,

Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Bắc

Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Quảng Yên, Hải Ninh, đặc khu

Hồng Gai và huyện Mai Đà của tỉnh Hòa Bình) trên địa bàn Việt Bắc.

4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu

4.1. Cơ sở lý luận

Tác giả luận án vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của

chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chủ trương,

đường lối của Đảng về công tác dân vận làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành. Trong đó, chủ yếu

là hai phương pháp lịch sử và lôgíc; ngoài ra, luận án cũng áp dụng phương pháp

phân tích, thống kê, so sánh tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm.

- Luận án sử dụng các phương pháp phê phán sử liệu và lấy các văn bản nghị

quyết, chỉ thị gốc của Đảng làm cơ sở đối chiếu với sự kiện, nhân vật lịch sử trong thực

tiễn để phân tích, đánh giá làm rõ quá trình Đảng bộ các Tỉnh uỷ, Khu uỷ, Liên khu uỷ

ở Việt Bắc chỉ đạo thực hiện công tác dân vận từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.

- Khảo sát thực tế tại một số di tích lịch sử cách mạng, bảo tàng các dân tộc

Việt Bắc, bảo tàng chiến tranh... thuộc địa bàn Liên khu Việt Bắc trước đây. Nghiên

cứu sinh trực tiếp đến một số tỉnh: tỉnh Cao Bằng, huyện Na Rì và huyện Chợ Đồn

(Bắc Kạn), huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn), ATK Định Hoá và huyện Đại Từ (Thái

Nguyên), huyện Sơn Dương và huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang), tỉnh Lào Cai,

tỉnh Bắc Giang, huyện Từ Sơn (Bắc Ninh), huyện Đoan Hùng (Phú Thọ)...

- Phương pháp phỏng vấn nhân chứng, trong quá trình thực hiện luận án,

nghiên cứu sinh trực tiếp trao đổi và phỏng vấn một số nhân chứng là cựu chiến

binh thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (tại Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc

Ninh) và nhiều chuyên gia nghiên cứu về các lĩnh vực của cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp, về công tác dân vận (tại Ban Dân vận Trung ương, Viện Lịch Đảng,

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam...).

Page 10: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

6

4.3. Nguồn tài liệu

Luận án chủ yếu sử dụng những nguồn tư liệu được khai thác sau:

- Các văn kiện, các nghị quyết, chỉ thị, báo cáo của Trung ương Đảng, của

các tác giả nước ngoài viết về chiến tranh Việt nam, về ý nghĩa của kháng chiến

chống Pháp với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới;

- Luận án khai thác trực tiếp các tài liệu gốc tại Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phòng Tư liệu Viện Lịch sử

Đảng, Thư viện quốc gia Việt Nam.

- Các tư liệu, tài liệu, sách đã xuất bản của các địa phương ở khu vực miền

núi phía Bắc, đặc biệt là Liên khu Việt Bắc, của một số nhân chứng lịch sử, một

số chuyên gia nghiên cứu về kháng chiến chống Pháp....

- Luận án cũng tham khảo những bài nghiên cứu, những hồi ký có liên quan

đến việc chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng đã được công bố trong các

cuốn sách, tạp chí chuyên ngành, các kỷ yếu hội thảo khoa học, hồi ký của các đồng

chí lão thành cách mạng.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Tái hiện một cách có hệ thống, toàn diện về quá trình Đảng bộ Liên khu

Việt Bắc lãnh đạo thực hiện công tác dân vận từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.

- Đánh giá khách quan, khoa học những ưu điểm, chỉ ra những hạn chế và

đúc kết một số kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn đối với công tác dân vận

hiện nay.

- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp thêm tư liệu cho công

tác nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua khảo sát thực tiễn

của các tỉnh miền núi phía Bắc, đặc biệt là Liên khu Việt Bắc, đề xuất đối với Đảng và

Chính phủ về chăm lo, cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần tổng kết thực tiễn, cung cấp

những luận cứ khoa học cho việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới.

Page 11: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

7

- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác

nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở một mức

độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị thực tiễn đối với công tác

dân vận của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu có liên

quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận án kết cấu gồm

4 chương, 8 tiết.

Page 12: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

8

Chương 1

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Liên quan đến đề tài của luận án đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập

tới, có thể khái quát thành các nhóm công trình sau:

1.1.1. Một số công trình nghiên cứu về công tác dân vận của Đảng

Đề cập tới những vấn đề lý luận liên quan đến công tác dân vận nói chung

trong các thời kì lịch sử, tiêu biểu là các công trình:

Cuốn sách Về công tác quần chúng [166] của tác giả Nguyễn Văn Linh,

trong đó, tác giả chỉ rõ vai trò quan trọng của công tác vận động quần chúng trong

sự nghiệp cách mạng Việt Nam: “Công tác vận động quần chúng trong mỗi giai

đoạn cách mạng đều có ý nghĩa quyết định” [166, tr. 30]. Theo tác giả, việc vận

động, tuyên truyền và giáo dục quần chúng hiểu về vai trò làm chủ thực sự của

mình là vấn đề quan trọng của công tác dân vận trong cách mạng Việt Nam, xây

dựng và củng cố khối đại đoàn kết, nhằm đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù

địch chia rẽ Đảng và quần chúng. Nhiệm vụ của các cấp uỷ đảng trong công tác vận

động quần chúng phải xác định “lấy dân làm gốc”, phải trở thành nền nếp của xã

hội, tất cả phải do nhân dân, vì nhân dân mới có thể thực hiện thắng lợi được mọi

nhiệm vụ. Cán bộ các ngành, các cấp phải coi trọng công tác vận động quần chúng,

xem công tác này là yếu tố sống còn trong mọi hoạt động cách mạng. Chỉ có như

vậy mới góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng, gây dựng lòng tin cho quần

chúng nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân đến mọi thành công.

Bài viết Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

[183] của tác giả Đỗ Mười đã nhấn mạnh: Nếu Đảng lãnh đạo tốt hơn, Nhà nước

quản lý tốt hơn, công tác vận động quần chúng của Mặt trận và các đoàn thể tốt hơn

thì những thành tựu cách mạng còn lớn hơn nữa. Đổi mới công tác quần chúng, phải

đổi mới công tác Mặt trận, công tác công đoàn, công tác thanh niên, công tác phụ nữ,

Page 13: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

9

công tác đối với trí thức, với công thương, với cựu chiến binh, với các tôn giáo, các

dân tộc...

Trong công trình Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc

thống nhất [31] của Ban Dân vận Trung ương đã nhấn mạnh nội dung và quá trình

thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường

Mặt trận dân tộc thống nhất”; vấn đề đoàn kết dân tộc đặt ra trong tình hình,

nhiệm vụ mới; tầm cao và chiều sâu mới của chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong

thời kỳ mới.

Cuốn Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh [30] của Ban Dân vận

Trung ương đã nhấn mạnh tư tưởng về dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư

tưởng của Người thể hiện rất rõ trong bài “Dân vận” đăng trên báo Sự thật ngày

15-10-1949:

Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để

sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành

những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã

giao cho… Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân

vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành

công [176, tr. 698-700].

Trong cuốn sách Chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh [194] của tác giả

Phùng Hữu Phú đã nhấn mạnh những cơ sở và quá trình hình thành chiến lược đại

đoàn kết Hồ Chí Minh. Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong cách mạng

giải phóng dân tộc. Đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ

chủ nghĩa xã hội. Những nội dung cơ bản của chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí

Minh. Kế thừa, phát triển chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong sự nghiệp

xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Về công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, trong cuốn sách Đổi

mới công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới [61]

của Tổng Cục Chính trị nghiên cứu công tác dân vận dựa trên quan điểm của chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò quần chúng và vận động quần

chúng; cuốn sách cũng xác định rõ vị trí, vai trò và nội dung công tác dân vận, đặc

Page 14: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

10

biệt là đối với Quân đội nhân dân. Trên cơ sở đó, đề xuất những kiến nghị, giải

pháp tiếp tục đổi mới công tác dân vận của Đảng nói chung và của Quân đội Nhân

dân Việt Nam nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu

xây dựng quân đội trong giai đoạn mới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [97] của Đại

tướng Võ Nguyên Giáp. Nội dung cuốn sách gồm 3 phần với 10 chương, trình bày

một cách khoa học, toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản về tư tưởng Hồ Chí

Minh và con đường cách mạng Việt Nam, làm rõ những đóng góp mới về quá

trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Cuốn sách, giới thiệu một

cách có hệ thống những luận điểm sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về đường

lối và phương pháp, về chiến lược và sách lược cách mạng, về tổ chức các lực

lượng cách mạng, về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, tư tưởng nhân văn, đạo đức,

văn hóa Hồ Chí Minh, phương pháp luận Hồ Chí Minh.

Tác giả Dương Xuân Ngọc có bài viết về Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo

tiến hành công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh [187]. Theo tác giả, công

tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của

Đảng, từ thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cho tới thời kỳ

đổi mới, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là điều kiện quan trọng

đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội, thắt chặt

mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.

Bài viết 75 năm công tác dân vận của Đảng [192], tác giả Tòng Thị Phóng chỉ

rõ quá trình từ thực tiễn đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước dưới sự

lãnh đạo của Đảng. Đảng đã rút ra được những bài học lớn, trong đó có hai bài học

liên quan trực tiếp, gắn bó mật thiết với công tác dân vận của Đảng. Sự nghiệp cách

mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên

thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện

vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân

dân. Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn

dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài

học lớn của cách mạng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết.

Page 15: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

11

Bài viết Đổi mới nội dung, phương thức vận động quần chúng [167] của

đồng chí Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh một số điểm: Các đoàn thể phải nhanh

chóng đổi mới phương thức hoạt động, giảm bớt những cuộc họp để ra nghị quyết,

chỉ thị, thông báo, hay để phổ biến nghị quyết của cấp trên; Trái lại, phải biết tổ

chức những cuộc họp để cùng nhau bàn bạc giải quyết những vấn đề bức bách do

đoàn viên, hội viên, quần chúng tại chỗ đặt ra. Cán bộ đoàn thể phải đi sâu vào

lĩnh vực kinh tế, phải có ít nhiều kiến thức về quản lý kinh tế, quản lý công

nghiệp, nông nghiệp; phải hiểu chính sách, luật pháp để chính mình thực hiện và

tuyên truyền, phổ biến cho đoàn viên, hội viên và quần chúng thực hiện.

Bài viết Xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân: Nhân tố

quyết định sự vững mạnh của Đảng, làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam

[197] của đồng chí Trương Tấn Sang khẳng định: Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh

sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng

trong suốt 80 năm qua, ở tất cả các giai đoạn cách mạng, Đảng đều gắn bó mật

thiết, máu thịt với nhân dân. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong

80 năm qua rất đa dạng, phong phú, thể hiện ở một số nội dung, phương thức sau

đây: Thứ nhất, mọi hoạt động của Đảng đều nhằm mục đích phục vụ Tổ quốc,

phụng sự nhân dân; Thứ hai, sau khi giành được chính quyền, Đảng chăm lo xây

dựng chính quyền thực sự "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"; xây dựng

mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân thông qua mối quan hệ giữa chính quyền với

nhân dân; Thứ ba, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được thể hiện ở

mối quan hệ giữa Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; Thứ tư, mối liên hệ mật thiết

giữa Đảng với nhân dân được thể hiện ở sự liên hệ giữa cán bộ, đảng viên với

quần chúng nhân dân.

Trong bài viết Một số bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận của

Đảng sau 25 năm đổi mới [107], tác giả Hà Thị Khiết khẳng định: Những chủ

trương, chính sách về công tác dân vận, đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khối liên

minh công - nông - trí thức - doanh nhân - thanh niên - phụ nữ… ngày càng hoàn

thiện. Phân tích những thành tựu và hạn chế trong công tác dân vận của Đảng sau

25 năm đổi mới, tác giả chỉ rõ: thường xuyên củng cố và phát huy sức mạnh khối

Page 16: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

12

đại đoàn kết toàn dân tộc, để công tác dân vận ngày càng được triển khai sâu rộng

trong các cấp, các ngành, các lĩnh vực và trong quần chúng nhân dân; đồng thời,

huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân thực hiện

thành công các nhiệm vụ chính trị, mục tiêu cách mạng của Đảng trong thời kỳ

đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Để tăng cường công tác lãnh đạo quần chúng của Đảng, đồng chí Đinh Thế

Huynh có bài viết Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác quần chúng - Thực tiễn

và một số kinh nghiệm [106]. Để lãnh đạo nhân dân đạt được mục tiêu đó, Đảng

Cộng sản Việt Nam phải tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo đối với công

tác quần chúng, giữ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Đảng cần tăng

cường đổi mới phương thức lãnh đạo và tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chính

sách đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của các giai tầng trong xã hội.

Nhằm Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần

chúng trong tình hình mới [108], tác giả Hà Thị Khiết nhấn mạnh: Công tác vận

động quần chúng là nhiệm vụ chiến lược, phải được tiến hành thường xuyên trong

mọi hoàn cảnh, trên mọi địa bàn, đối với mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc, tôn

giáo, người Việt Nam ở nước ngoài. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và hạn

chế của công tác dân vận, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

vận động quần chúng, tác giả đưa ra những giải pháp có tính cấp thiết và phù hợp

với công tác dân vận trong tình hình đất nước có nhiều sự thay đổi ngày một cơ

bản và toàn diện.

Cuốn sách Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công

tác dân vận [85] đã cung cấp thêm tư liệu về những vấn đề lý luận và kinh nghiệm

thực hiện công tác dân vận với hơn 30 bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng,

Nhà nước, lãnh đạo bộ, ban, ngành, các nhà khoa học. Nội dung cuốn sách đã đưa

ra những phân tích sâu sắc, toàn diện, làm nổi bật cơ sở lý luận, thực tiễn và

những kinh nghiệm của công tác dân vận trong từng thời kỳ cách mạng. Từ đó,

phải nhận thức sâu sắc rằng: Dân vận là công việc rất quan trọng, phải làm thường

xuyên, làm hằng ngày, hằng giờ, không ngừng nghỉ, không mệt mỏi, không phô

trương hình thức, nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc trong công

Page 17: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

13

cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân vận được xác định là nhiệm vụ

chiến lược của Đảng, là một trong những công tác cơ bản, có tính chiến lược, gắn

liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một trong những

truyền thống tốt đẹp và nguồn gốc sức mạnh của Đảng là mối quan hệ gắn bó máu

thịt giữa Đảng với nhân dân.

Các công trình nêu trên đã đề cập đến tầm quan trọng của công tác dân vận,

cơ sở lý luận và thực tiễn công tác dân vận của Đảng trong các thời kỳ lịch sử, đặc

biệt là đi sâu phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận và chính sách đại

đoàn kết toàn dân tộc nói chung.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp (1945-1954) và công tác dân vận trong thời kỳ này

Những công trình nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp (1945-1954):

Công trình của Ban Nghiên cứu Lịch sử quân sự - Tổng cục Chính trị - Bộ

Quốc phòng về Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1 [46] đã trình bày quá

trình hình thành và lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954). Bên cạnh việc nêu các quan

điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá trình thành lập các đơn vị vũ

trang, công trình còn đề cập đến các hoạt động đấu tranh vũ trang trong cuộc kháng

chiến chống Pháp tại nhiều địa phương trong cả nước, trong đó, Quân đội nhân dân

Việt Nam là lực lượng đóng vai trò quyết định.

Cuốn sách Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, (Sơ thảo), tập 1 [45] của Ban

Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương đã trình bày quá trình truyền bá chủ nghĩa

Mác-Lênin vào Việt Nam và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1920-1930).

Cao trào cách mạng năm 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh. Quá trình khôi phục và

phát triển phong trào cách mạng (1932-1935); Cuộc vận động dân chủ (1936-1939);

Đảng lãnh đạo toàn dân nổi dậy giành chính quyền (1939-1945); Đảng lãnh đạo

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nghệ thuật quân sự là một yếu tố

quan trọng góp phần vào những thắng lợi của cách mạng, nhấn mạnh vấn đề này,

Page 18: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

14

đồng chí Lê Trọng Tấn đã viết cuốn Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 - Một bước

phát triển sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam [199]. Công trình đã trình bày

diễn biến cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, đặc biệt tác giả đã phân

tích, luận giải một số vấn đề về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, các

đặc điểm nổi bật trong quá trình chỉ đạo chiến lược và chiến dịch của Đảng thời kỳ

kháng chiến chống thực dân Pháp.

Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử

Đảng đã biên soạn cuốn Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập III: Đảng

lãnh đạo kháng chiến và kiến quốc (1945-1954) [104]. Cuốn sách phản ánh thời

kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng từ tháng 9-1945, thành lập nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến tháng 7-1954, ký Hiệp định Giơnevơ, kết thúc

thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Những sự kiện được

trình bày trong cuốn sách khắc họa lại những nội dung cơ bản của thời kỳ lịch sử

này. Đó là quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chế độ mới dưới chính thể Nhà nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đấu tranh chống “thù trong, giặc ngoài”; quá trình

Đảng lãnh đạo công tác chuẩn bị cho kháng chiến toàn quốc và chủ động phát

động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ

xâm lược và đó cũng là quá trình Đảng có sự lớn mạnh vượt bậc về chính trị, tư

tưởng và tổ chức.

Trong bộ sách Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)

của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam phản ánh sâu sắc và toàn diện cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh

đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kết thúc thắng lợi bằng chiến

thắng Điện Biên Phủ. Thắng lợi đó là một trong những thành tựu lớn của Đảng,

nhân dân Việt Nam và là đề tài lịch sử thu hút sự quan tâm của nhiều chính trị gia,

nhà sử học và nhà quân sự trong và ngoài nước. Bộ sách gồm 7 tập (hiện nay đã

xuất bản 5 tập):

Tập I - Chuẩn bị Toàn quốc kháng chiến [231]: trình bày các sự kiện lịch sử từ

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công đến trước ngày Toàn quốc kháng chiến (19-

12-1946), gồm Chương I: Trước cuộc kháng chiến; Chương II: Kháng chiến ở miền

Page 19: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

15

Nam, chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến; Chương III: Thực hiện hòa hoãn,

chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh lan rộng.

Tập II - Toàn quốc kháng chiến [232]: viết về giai đoạn lịch sử từ ngày Toàn

quốc kháng chiến đến chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 kết thúc thắng lợi,

gồm Chương IV: Cuộc chiến đấu tại đô thị bắc vĩ tuyến 16 mở đầu Kháng chiến

toàn quốc; Chương V: Chuyển đất nước vào thời chiến; Chương VI: Tiếp tục triển

khai thế trận chiến tranh nhân dân, thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”; Chương

VII: Chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947.

Tập III - Triển khai kháng chiến toàn diện [233]: trình bày giai đoạn lịch sử

từ đầu năm 1948 đến cuối năm 1949, gồm Chương VIII: Phát triển chiến tranh du

kích; Chương IX: Xây dựng, củng cố hậu phương kháng chiến; Chương X: Đoàn

kết chiến đấu với cách mạng Lào, Campuchia và Trung Quốc, tăng cường hoạt

động đối ngoại; Chương XI: Tiến lên vận động chiến.

Tập IV - Bước ngoặt của cuộc kháng chiến [234]: phản ánh cuộc kháng chiến

của dân tộc trong thời gian năm 1950, gồm Chương XII: Tăng cường hoạt động đối

ngoại, đoàn kết quốc tế, đấu tranh chính trị; Chương XIII: Xây dựng, phát triển lực

lượng kháng chiến; Chương XIV: Đẩy mạnh đấu tranh quân sự, từng bước giành

thế chủ động chiến lược; Chương XV: Chiến thắng Biên giới thu đông 1950 - bước

ngoặt của cuộc kháng chiến.

Tập V - Phát triển thế tiến công chiến lược [235]: phản ánh cuộc kháng chiến

của nhân dân từ sau Chiến dịch Biên giới thu đông 1950 đến giữa năm 1953, gồm

Chương XVI: Khuếch trương chiến thắng Biên giới, tiến công địch ở Trung du,

đồng bằng Bắc bộ; Chương XVII: Xây dựng lực lượng, củng cố hậu phương kháng

chiến; Chương XVIII: Đẩy mạnh đấu tranh ở vùng địch chiếm đóng, giữ thế chủ

động chiến lược trên chiến trường chính Bắc bộ; Chương XIX: Chủ động tiến công

lên Tây Bắc, sang Thượng Lào, tạo thế và lực mới.

Bộ sách Lịch sử Việt Nam do Viện Sử học biên soạn được kết cấu theo các

thời kỳ: Thời kỳ cổ - trung đại (từ thời tiền sử đến năm 1858, khi thực dân Pháp nổ

sung xâm lược Việt Nam); Thời kỳ cận đại (thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, biến

Việt Nam thành thuộc địa đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công) và

Page 20: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

16

Thời kỳ hiện đại (từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay). Bộ

sách Lịch sử Việt Nam gồm 15 tập, trong đó tập 10 và tập 11 nghiên cứu toàn diện

và sâu sắc về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Nội dung cụ thể

như sau:

Tập 10 - Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1950 [236] do Nguyễn

Văn Nhật chủ biên. Tập sách được biên soạn thành 6 chương, trình bày một cách

tương đối toàn diện tiến trình lịch sử giai đoạn từ tháng 9-1945 đến cuối năm

1950 với các nội dung: Việt Nam từ thành lập nền Dân chủ Cộng hòa đến ký

Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp (9-1945 - 3-1946); Kháng chiến Toàn quốc bùng nổ

(12-1946); đường lối kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh

sinh” của Đảng; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; xây dựng và củng cố hậu

phương, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta; đấy mạnh kháng

chiến (1948-1950).

Tập 11 - Lịch sử Việt Nam từ năm 1951 đến 1954 [237] do Nguyễn Văn

Nhật chủ biên. Tập sách được biên soạn thành 6 chương, trình bày một cách tương

đối toàn diện tiến trình lịch sử giai đoạn từ đầu năm 1951 đến 7-1954 với các nội

dung: Chương 1 - Âm mưu mới của đế quốc Pháp, Mỹ trong cuộc chiến tranh

Đông Dương; Chương 2 - Tiếp tục xây dựng, phát triển hậu phương kháng chiến

(1951-1952); Chương 3 - Xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh

đấu tranh quân sự, giữ vững thế chủ động tiến công địch trên chiến trường (1951-

1952); Chương 4 - Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, thực hiện giảm tô,

giảm tức và cải cách ruộng đất (1953-1954); Chương 5 - Cuộc tiến công chiến

lược Đông - Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ; Chương 6 - Hội nghị

Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết

thúc thắng lợi.

Trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ [94] của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

nói về quyết định lịch sử trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng bao giờ cũng

cho rằng, cơ sở hình thành của nó chính là tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh cùng với

sự chỉ đạo tài tình của Người với chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như với toàn bộ

tiến trình cuộc kháng chiến. Nhưng dù khiêm nhường thế nào đi chăng nữa, với vị

Page 21: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

17

trí, vai trò và dấu ấn sâu đậm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Điện

Biên Phủ, Đại tướng đã quy tụ đầy đủ sáu điểm về phẩm chất và tư cách người làm

Tướng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Trí - Tín - Dũng - Nhân - Liêm - Trung.

Luận văn thạc sĩ lịch sử của tác giả Nguyễn Thị Xuân về Đảng bộ Liên khu

IV lãnh đạo xây dựng kinh tế trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-

1954) [240] tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định:

Xây dựng hậu phương đảm bảo nguồn lực về kinh tế có vai trò quyết định thắng

lợi trong chiến tranh cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,

xuất phát từ mục đích của cuộc kháng chiến, từ đường lối kháng chiến toàn dân,

toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, quán triệt sâu sắc tư tưởng của Lênin, từ

kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo xây dựng căn cứ địa thời kỳ đấu tranh giành

chính quyền, ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng đã chủ động xây dựng căn cứ

địa, hậu phương của kháng chiến, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng kinh tế

kháng chiến, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để đưa

cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Để tổng kết thắng lợi và đúc kết những bài học kinh nghiệm của cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp, Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc

Bộ Chính trị đã xuất bản công trình Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp - Thắng lợi và bài học [20]. Cuốn sách là công trình được nghiên cứu công

phu, có những bước phát triển mới theo tư duy chính trị - quân sự không ngừng

được hoàn thiện và đổi mới của Đảng. Công trình góp phần quan trọng vào việc

tổng kết 30 năm Đảng lãnh đạo chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân; rút

ra bài học kinh nghiệm lớn - là những di sản quý báu mới của dân tộc Việt Nam

trong thời đại Hồ Chí Minh.

Các công trình nghiên cứu trên đưa ra bức tranh tổng thể lịch sử cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp, cung cấp cho luận án bối cảnh lịch sử và những vấn đề,

yêu cầu đặt ra đối với công tác dân vận trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng

thời, qua các công trình nghiên cứu này có thể thấy công tác dân vận là một nội

dung quan trọng của cuộc kháng chiến.

Page 22: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

18

Đề cập sát hơn đến công tác dân vận trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp

có thể kể đến các công trình cơ bản:

Cuốn Những năm tháng không thể nào quên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp,

trong đó tái hiện lại những hình ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm

tháng của thời kì đầu mới giành được chính quyền, thời kỳ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã kêu gọi, vận động đoàn kết toàn dân tộc khi vận mệnh của Tổ quốc như ngàn cân

treo sợi tóc. Cuốn sách là những tình cảm thể hiện lòng thành kính và tưởng nhớ đến

những công ơn to lớn của Người đối với dân tộc, đất nước Việt Nam.

Luận án tiến sĩ lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc xây

dựng các vùng tự do lớn trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-

1954) [69] của tác giả Đào Trọng Cảng tại Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định: Hậu phương là một trong những

nhân tố quyết định thắng lợi của chiến tranh cách mạng. Hậu phương là nơi xây

dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, là nơi

đứng chân của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, là nơi cung cấp sức người,

sức của cho chiến tranh và cũng là nơi để rút lui củng cố lực lượng, tiếp tục những

cuộc chiến đấu mới về sau. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân

tộc đã chứng tỏ rằng vấn đề xây dựng hậu phương rất được coi trọng, là một trong

những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của sự nghiệp cứu nước và giữ

nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, Đảng

và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác xây dựng hậu phương - nhân

tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng.

Trong cuốn Những chặng đường lịch sử [95] của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

đã nhấn mạnh hai thời kỳ đấu tranh cách mạng có quan hệ đến sự tồn vong của dân

tộc - chuẩn bị giành chính quyền và năm đầu tiên sau Cách mạng Thánh Tám 1945

của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt

của Đảng ở thời điểm lịch sử trọng đại đầy khó khăn thử thách ấy, tác giả đã tái

hiện bức tranh lịch sử hoành tráng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của

Đảng, đặc biệt là vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác vận động toàn dân

đoàn kết vượt qua những giai đoạn cách mạng "ngàn cân treo sợi tóc".

Page 23: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

19

Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Quân sự của tác giả Nguyễn Mạnh Hà về

Chính sách chính trị, quân sự của Pháp ở Việt Nam trong giai đoạn 1945-1954 và

nguyên nhân thất bại của chúng [99] tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam đã trình

bày một cách có hệ thống những nội dung chủ yếu trong chính sách chính trị, quân

sự của Pháp, chỉ ra các căn nguyên thất bại của chúng và khẳng định tính nhất quán,

xuyên suốt trong chính sách xâm lược của Pháp là bằng mọi cách áp đặt trở lại và

duy trì sự thống trị thực dân, chứng minh nguyên nhân sâu xa và trực tiếp làm bùng

nổ cuộc chiến tranh là do chính sách thực dân xâm lược đã lỗi thời, phản động của

Pháp, đồng thời khẳng định nguyên nhân khiến chính sách chính trị, quân sự của

Pháp thất bại là do chiến tranh xâm lược phi nghĩa và một nguyên nhân quyết định

là gặp phải một đối thủ kiên cường là dân tộc Việt Nam quyết tâm hy sinh chiến

đấu vì độc lập, tự do.

Hậu phương trong chiến tranh nhân dân Việt Nam là nhân tố thường xuyên

quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, nhận thức được

tầm quan trọng của hậu phương, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng

đã biên soạn và xuất bản cuốn Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945-

1975) [64]. Công trình đã đánh giá về vai trò của căn cứ địa - hậu phương qua hai

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thông qua đó, công trình đã

góp phần cung cấp những luận giải quan trọng nhằm đánh giá đúng vai trò của các

căn cứ cách mạng trên địa bàn Liên khu Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp xâm lược.

Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị đã biên soạn và

xuất bản cuốn sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975) - Thắng lợi và bài

học [19]. Đây là công trình tổng kết toàn diện sự lãnh đạo của Đảng đối với chiến

tranh cách mạng, nội dung được trình bày khái quát những sự kiện và tiến trình lịch

sử, những nhận định, đánh giá về sự lãnh đạo của Đảng đối với chiến tranh cách

mạng Việt Nam, đúc kết những bài học cơ bản trong sự lãnh đạo của Đảng và Chủ

tịch Hồ Chí Minh. Đảng đã phát huy truyền thống yêu nước và lòng tự tôn dân tộc,

xây dựng, củng cố, phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân Việt Nam - những người

làm chủ đất nước, tạo nên sức mạnh, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các lực lượng

Page 24: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

20

cách mạng và của cả loài người tiến bộ, phân hóa, cô lập triệt để kẻ thù, thực hiện

thắng lợi chiến lược "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại

thành công". Bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong cuộc chiến tranh cách

đây 70 năm có ý nghĩa thực tiễn lớn lao và có giá trị lâu dài đối với sự nghiệp lãnh

đạo của Đảng và đối với kế sách dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay. Tiến hành chiến tranh và xây dựng hòa bình có quy luật

riêng, nhưng đều có quy luật chung của đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, đều lấy

chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ

nam cho hành động.

Luận án tiến sĩ lịch sử Quá trình thực hiện chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí

Minh trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) [102] của tác

giả Khuất Thị Hoa, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã nghiên

cứu một cách có hệ thống những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về

chiến lược đại đoàn kết được thực hiện trong cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp xâm lược. Những hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí

Minh trong quá trình lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện chiến lược chiến lược

đại đoàn kết thời kỳ kháng chiến và việc hoạch định đường lối, chính sách của

Đảng, Nhà nước trên cơ sở chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, từ đó đúc kết

những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn trong cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp, đế quốc Mỹ và trong công cuộc đổi mới ngày nay.

Viện khoa học Xã hội Việt Nam đã xuất bản cuốn sách 60 năm toàn quốc

kháng chiến - Ký ức lịch sử và bài học kinh nghiệm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc [229],

cuốn sách góp phần làm sáng tỏ thêm về sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình, sáng suốt của

Trung ương Ðảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nền hòa bình không còn

có thể cứu vãn, phải chủ động mở ra cuộc kháng chiến toàn quốc. Mặt khác, công

trình đã tái hiện bối cảnh lịch sử, nguyên nhân, diễn biến của quá trình toàn dân đứng

lên tham gia kháng chiến và rút ra một số kinh nghiệm lịch sử như: “vừa đánh, vừa

đàm, vừa huy động sức mạnh toàn dân tham gia đánh giặc giữ nước”,...

Những công trình trên đề cập một cách toàn diện về cuộc kháng chiến chống

thực Pháp từ năm 1945 đến năm 1954, trong đó, khi phân tích về nguyên nhân

Page 25: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

21

thắng lợi của cuộc kháng chiến cũng đã phác họa một số nét cơ bản liên quan đến

công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ này. Các công trình cũng phản ánh sâu sắc,

cụ thể, toàn diện, công tác dân vận của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp của nhân dân Việt Nam.

Các công trình của tác giả nước ngoài với nhiều góc độ khác nhau, trên

những quan điểm khác nhau về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt

Nam như:

Tác phẩm Đông Dương hấp hối [184] của tướng Nava.H, đây là cuốn hồi ký

của vị Tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương - Henri Navarre. Trở về Paris

sau khi thất trận ở Điện Biên Phủ, năm 1956, ông đã viết cuốn hồi ký này với mục

đích “đơn giản chỉ vì quan tâm đến sự thật”. Đây là hồi ký của một danh tướng bại

trận, được viết theo cách nhìn của cá nhân tác giả, chắc chắn sẽ mang tính chủ quan

và không tránh khỏi độ thiếu chính xác. Henri Navarre đã phải thừa nhận sự lãnh

đạo tài tình và trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí

Minh cùng sức mạnh ngàn năm của dân tộc Việt Nam.

Tác giả Pátti.L.A viết cuốn Tại sao Việt Nam? [190] (dày gần 1.000 trang).

Trong đó, tác giả Pátti.L.A - một sĩ quan tình báo Mỹ, người đã có mặt can dự vào

những biến động của lịch sử Việt Nam ở thời điểm bước ngoặt quyết định của Cách

mạng Việt Nam đã không đi thẳng vào những vấn đề còn đang nóng bỏng tính thời

sự của thập kỷ 70 để giải đáp câu hỏi "Tại sao Mỹ thua ở Việt Nam?" mà lại đi

ngược thời gian lên thập kỷ 40 để giải đáp câu hỏi "Tại sao nước Mỹ đã từng sát

cánh với những người cách mạng, những người cộng sản Việt Nam trên một trận

tuyến chung chống chủ nghĩa phát xít?". Là một nhân chứng lịch sử, tác giả đã gợi

lại ký ức của một thời mà những người cách mạng Việt Nam, tiêu biểu là Chủ tịch

Hồ Chí Minh - Người đã trân trọng đưa những tư tưởng của bản Tuyên ngôn Độc

lập của Georges Washington lên trang mở đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập của dân

tộc Việt Nam. Câu trả lời cũng là cách vạch ra những sai lầm của giới cầm quyền

Mỹ sau cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ II đã đẩy nhân loại vào cuộc chiến tranh

lạnh, tự biến mình là sen đầm quốc tế, từ bỏ những giá trị tiến bộ của chính bản

Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 để dấn thân vào sự thù địch với phong

Page 26: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

22

trào cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, cũng là chuốc lấy

những thất bại cay đắng trên chiến trường Việt Nam.

Ngoài ra, còn nhiều tài liệu, bài viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của

nhân dân Việt Nam như: J. Laniel với tác phẩm Thảm họa Đông Dương từ Điện

Biên Phủ đến cuộc đánh đổ ở Giơ-ve-vơ [130]; Thư gửi các chiến binh ở Đông

Dương [186] của Nava.H; Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương (1945-1954)

[98] của Y.Gơ-ra; Thời điểm của những sự thật [185] của Nava.H; Nước Đại Nam

đối diện với Pháp và Trung Hoa [220] của Tsuboi.Y; Roy.J viết tác phẩm Trận

Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp [195]; Câu chuyện về một nền hòa bình

bị bỏ lỡ [196] của J.Sainteny…

Các công trình trên với nhãn quan chính trị hoặc là của các chính khách,

hoặc là của các nhà khoa học, hoặc là nhân chứng lịch sử về phía đối phương cũng

có đề cập gián tiếp về quá trình tập hợp, tổ chức vận động nhân dân trong cuộc

kháng chiến toàn dân, toàn diện này.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến công tác dân vận ở Việt

Bắc trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp

Công trình Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-

2010) [27] của Ban Dân vận Trung ương. Bằng lịch sử phong phú, sinh động của

công tác dân vận từ thời kỳ Đảng còn hoạt động bí mật, bất hợp pháp đến lúc trở

thành Đảng cầm quyền, trong chiến tranh và trong hoà bình, từ cuộc vận động giải

phóng dân tộc cho đến hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ; công tác dân vận

của Đảng luôn bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị của đội ngũ cán

bộ Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí

của công tác dân vận. Việc vận động đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc trong thời kỳ

chống Pháp được khắc hoạ đậm nét trong cuốn sách. Các tác giả nhấn mạnh việc

xây dựng hậu phương, căn cứ địa Việt Bắc trở thành trung tâm kháng chiến dựa trên

cơ sở sự đoàn kết, đồng lòng của các dân tộc trên địa bàn Việt Bắc dưới sự chỉ đạo

của Khu uỷ Liên khu. Các tác giả cũng chỉ rõ: Trong suốt quá trình lãnh đạo cách

mạng Việt Nam, Đảng luôn xác định công tác dân vận là một bộ phận cấu thành

quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng; là nhiệm vụ chiến lược, phải

Page 27: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

23

được tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, trên mọi địa bàn, đối với mọi

tầng lớp nhân dân. Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hơn 80 năm qua,

Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân vượt qua bao gian nan, thử thách,

tiến hành Tổng khởi nghĩa thành công trong Cách mạng Tháng Tám 1945, tiếp đó là

đấu tranh bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, trường kỳ kháng chiến chống

thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc,

đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay do

Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa

lịch sử, một lần nữa cho thấy sự phát triển và trưởng thành của Đảng ta. Những kết

quả ấy không chỉ làm cho toàn Đảng, toàn dân vững tin đi tiếp chặng đường đã lựa

chọn mà còn khẳng định sự phát triển mới của Đảng trong việc khơi dậy và phát

huy tiềm năng, sức sáng tạo to lớn của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của

Đảng trong thời kỳ mới. Đồng thời chứng minh hùng hồn sức mạnh của mối quan

hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Dân, là sức mạnh trường tồn của sự nghiệp bảo

vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

Bộ Tư lệnh Quân khu I đã biên soạn và xuất bản cuốn Tổng kết chỉ đạo thực

hiện nhiệm vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống

thực dân Pháp (1945-1954) tập I [58]. Công trình đã tổng kết những đặc điểm của

chiến tranh cách mạng tại chiến trường Việt Bắc. Diễn biến lớn về chỉ đạo thực hiện

nhiệm vụ chiến lược qua các thời kỳ: xây dựng thực lực cách mạng, chuẩn bị và tiến

hành kháng chiến cùng chủ lực của bộ đội, đánh bại cuộc tiến công của Pháp lên

Việt Bắc; Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang Việt Bắc, phát triển chiến tranh

du kích kết hợp với tác chiến tập trung,...

Bộ Tư lệnh Quân khu I đã biên soạn và xuất bản Tổng kết chỉ đạo thực hiện

nhiệm vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực

dân Pháp (1945-1954) tập III [59]. Công trình nêu lên những đặc điểm liên quan tới

công tác hậu cần ở Việt Bắc; trình bày công tác tổ chức và bảo đảm hậu cần cho lực

lượng vũ trang Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp; rút ra những kinh

nghiệm chủ yếu của hậu cần Việt Bắc; giới thiệu biên niên những sự kiện hậu cần

Việt Bắc…

Page 28: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

24

Tác giả Cao Xuân Lịch trong tác phẩm Một số trận đánh trên chiến trường

Việt Bắc (1945-1954) [132] đã nhấn mạnh tinh thần cách mạng tiến công, ý chí

khắc phục khó khăn, chiến đấu dũng cảm, mưu trí sáng tạo của lực lượng vũ trang

Việt Nam nói chung và quân dân Việt Bắc nói riêng qua các trận đánh: Bông Lau,

Lũng Phồn, Cẩm Lý, Bản Chại, chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, chiến dịch

biên giới 1950…

Luận án Phó Tiến sĩ Lịch sử của tác giả Nguyễn Xuân Minh về An toàn khu

(ATK) Trung ương ở Việt Bắc (trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954)

[182] tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong luận án, tác giả khẳng định: Cuộc kháng

chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược kéo dài 9 năm đã

giành được thắng lợi to lớn, đánh dấu bằng chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954)

và việc ký Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình

ở Đông Dương. Cuộc kháng chiến đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu,

trong đó có bài học về xây dựng và bảo vệ An toàn khu (ATK) nơi cư trú và hoạt

động của các cơ quan đầu não kháng chiến. An toàn khu (gọi tắt là ATK) là một

vùng an toàn, nằm sâu trong căn cứ địa Việt Bắc, chủ yếu thuộc địa phận Nam Chợ

Đồn (Bắc Cạn). Định Hoá, Võ Nhai, Phú Lương, Đại Từ (Thái Nguyên), Sơn

Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang). Đó là nơi ở và làm việc của các cơ

quan Trung ương Đảng, Chính phủ, mặt trận, Bộ Tổng tư lệnh - Tổng chỉ huy và Bộ

Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm 1947-1954. An

toàn khu Trung ương ở Việt Bắc có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp

kháng chiến của dân tộc. Nó là một trong những nhân tố có tính chất quyết định đối

với thắng lợi của kháng chiến. Việc nghiên cứu ATK Trung ương ở Việt Bắc, khôi

phục quá trình xây dựng, bảo vệ ATK trong kháng chiến chông thực dân Pháp, là

điều rất cần thiết. ATK không phải là một đơn vị hành chính, mà là một khu vực

lãnh thổ trong vùng Việt Bắc. Đó là nơi có đầy đủ các yếu tố thuận lợi về điều kiện

tự nhiên và xã hội, nhất là có cơ sở quần chúng vững chắc, đảm bảo an toàn cho sự

hoạt động của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của kháng chiến. Nghiên cứu ATK

Trung ương, ngoài nội dung dựng lại quá trình xây dựng, bảo vệ lực lượng mọi mặt,

bảo vệ địa bàn và đất đứng chân, tác giả còn khẳng định vai trò to lớn của nhân dân

Page 29: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

25

các dân tộc đối với cuộc kháng chiến nói chung và trong việc xây dựng, bảo vệ

ATK Trung ương nói riêng.

Cuốn sách Chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực dân Pháp

(1945-1954) [1] của tác giả Vũ Văn Ba đã tái hiện lại quá trình hình thành, phát

triển chiến tranh du kích trên chiến trường Việt Bắc giai đoạn từ năm 1940 đến năm

1954, qua đó cuốn sách đã khái quát những đặc trưng của chiến tranh du kích trong

khởi nghĩa vũ trang, kháng chiến chống Pháp trên chiến trường Việt Bắc, góp phần

to lớn trong chiến tranh cách mạng của Việt Nam.

Công trình Sơ thảo lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam

(1930-1996) [28] của Ban Dân vận Trung ương đã nghiên cứu một cách toàn diện

và sâu sắc quá trình lãnh đạo công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam qua

các thời kỳ từ 1930-1996 và những bài học lịch sử về công tác dân vận của Trung

ương Đảng.

Luận văn thạc sĩ lịch sử của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc về An toàn khu

Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc [188] thực hiện tại Đại học Sư

phạm Thái Nguyên. Trong luận văn, tác giả đã chỉ rõ: Căn cứ địa Việt Bắc là nơi

Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh triển khai và xúc tiến mạnh mẽ quá

trình chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa, xây dựng lực lượng vũ trang tập trung, lãnh

đạo và động viên nhân dân cả nước đứng lên giành chính quyền tháng 8-1945.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Bắc được Trung ương Đảng và Chủ

tịch Hồ Chí Minh quyết định xây dựng và củng cố làm chỗ đứng chân của các cơ

quan đầu não lãnh đạo kháng chiến. An toàn khu Trung ương Định Hoá nằm ở

trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, nơi có địa thế hiểm trở “tiến có thể đánh, lui có thể

giữ”, có đầy đủ yếu tố địa lợi, nhân hoà, đã trở thành địa bàn hoạt động an toàn của

các cơ quan đầu não kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ

tịch Hồ Chí Minh, trong suốt thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân

các dân tộc huyện Định Hoá sớm nhận thức được trách nhiệm to lớn của mình, đã

vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, phát huy cao độ truyền thống đấu tranh và những

thế mạnh của địa phương, làm tròn vai trò của một An toàn khu Trung ương trong

căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.

Page 30: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

26

Luận án tiến sĩ lịch sử của tác giả Phan Thị Thoa về Hoạt động tài chính ở

Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1945-1954)

[202] thực hiện tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận án tìm hiểu về các hoạt động

tài chính ở Liên khu Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ

1946-1954. Vai trò lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, những đóng góp của quần

chúng nhân dân trên phương diện tài chính. Từ đó khẳng định những giá trị to lớn,

ý nghĩa sâu sắc của vấn đề đối với sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp

(1946-1954).

Luận án tiến sĩ lịch sử của tác giả Âu Thị Hồng Thắm về Tỉnh Bắc Kạn trong

Căn cứ địa Việt Bắc từ năm 1942 đến năm 1954 [201] tại Học viện Khoa học xã

hội. Luận án nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các cơ sở cách mạng

nói riêng, phong trào quần chúng nói chung ở Bắc Kạn trong Căn cứ địa Việt Bắc từ

năm 1942 đến năm 1945; Sự ra đời, phát triển của căn cứ kháng chiến và phong trào

đấu tranh ở Bắc Kạn trong Căn cứ địa Việt Bắc từ năm 1946 đến năm 1954 - Làm

rõ vị trí, vai trò và đóng góp của Bắc Kạn trong Căn cứ địa Việt Bắc từ năm 1942

đến năm 1954.

Luận án tiến sĩ lịch sử về Đảng bộ Liên khu Việt Bắc thực hiện nhiệm vụ xây

dựng Đảng (1949-1956) [129] của tác giả Nguyễn Thị Lan tại Đại học Khoa học xã

hội và Nhân văn. Luận án tập trung nghiên cứu và làm rõ quá trình Đảng bộ Liên

khu Việt Bắc thành lập và thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ tháng 10-1949 đến

7-1952, thời kỳ thực hiện chỉnh đốn Đảng từ 7-1952 đến 7-1954, giai đoạn chỉnh

đốn Đảng gắn với giảm tô, cải cách ruộng đất từ tháng 7-1954 đến 8-1956.

Cuốn sách Việt Bắc chiến thắng [198] của Sở Thông tin Chiến khu IV đã ghi

lại những chiến công oanh liệt của quân và dân Việt Bắc trong cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp: trận ngã ba Đoan Hùng, trận đèo Bông Lau, trận Phủ Thông...

Phòng Tuyên truyền Liên khu Việt Bắc đã biên soạn và xuất bản cuốn sách

10 trận thắng lớn xuân hạ 1949 [193]. Cuốn sách giới thiệu 10 trận đánh lớn trên

mặt trận Việt Bắc để chuẩn bị tổng phản công: phục kích Điền Xá; tiêu diệt đồn và

phá cầu Bản Trại; tiêu diệt đồn Đèo Khách; kỳ tập Móng Cái; phục kích Châu Sơn;

phục kích Thất Khê - Lũng Phẩy...

Page 31: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

27

Đề cập tới cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Bắc có thể kể đến các

công trình sau:

Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam (2006), Lịch sử Chính phủ

Việt Nam - tập I (1945-1955) [17]; Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Quốc hội Việt Nam

(2000), Lịch sử Quốc hội Việt Nam - (1946-1960) [18]; Bộ Quốc phòng, Viện Lịch

sử Quân sự Việt Nam (1990), Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975)

[67]; Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Hồ Chí Minh với việc xây dựng ATK

Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc (1947-1954) [52]; Đảng ủy - Ban Chỉ huy

Quân sự tỉnh Bắc Kạn (2001), Bắc Kạn - Lịch sử kháng chiến chống thực dân

Pháp (1945-1954) [87]; Đảng ủy - Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh Lào Cai (2001), Lào

Cai - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) [88]…

Ngoài ra trong các công trình lịch sử Đảng bộ địa phương cũng đề cập tới

những nội dung công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp

như: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc

Giang (1926-1975) [2]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn (2000), Lịch sử

Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn [3]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (2003), Lịch sử

Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000) [4]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang

(2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang [5]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu

(1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu tập I (1945-1975) [6]; Ban Chấp hành Đảng

bộ tỉnh Lạng Sơn (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn [7]; Ban Chấp hành Đảng

bộ tỉnh Lào Cai (1993), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai [8]; Ban Chấp hành Đảng bộ

tỉnh Phú Thọ (2004), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ [9]; Ban Chấp hành Đảng bộ

tỉnh Sơn La (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La [10]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh

Thái Nguyên (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên [11]; Ban Chấp hành Đảng

bộ tỉnh Tuyên Quang (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1975) [12];

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc

[13]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái

[14]… Những công trình trên đề cập đến lịch sử của Chính phủ, Quốc hội, các ban,

ngành và các địa phương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên nhiều

phương diện khác nhau, trong đó, cũng đã đề cập đến công tác dân vận của Đảng

trên một vài khía cạnh, ở các địa phương, các ban ngành…

Page 32: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

28

1.2. NHỮNG NỘI DUNG LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN MÀ CÁC

CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐỀ CẬP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG

NGHIÊN CỨU, GIẢI QUYẾT

1.2.1. Những nội dung liên quan tới luận án mà các công trình đã đề cập

Qua các công trình đã công bố có thể thấy đã có rất nhiều các công trình của các

học giả trong và ngoài nước viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của Đảng và nhân

dân. Trong các công trình đó nội dung về công tác dân vận của Đảng được đề cập, đã

được phản ánh ở những mức độ khác nhau:

- Một số công trình khoa học đã đề cập đến vấn đề lý luận chung về công tác

dân vận của Đảng trong các thời kỳ cách mạng nói chung cũng như trong kháng

chiến chống Pháp nói riêng.

- Làm rõ được chủ trương, quan điểm của Đảng nói chung về cuộc kháng

chiến chống Pháp, trong đó có liên quan tới chủ trương, quan điểm tập hợp lực lượng,

vận động, tổ chức quần chúng thực hiện đường lối kháng chiến.

- Phác họa được bối cảnh lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

của nhân dân Việt Nam đặc biệt là những khó khăn, thách thức mà nhân dân Việt

Nam phải đối mặt.

- Đánh giá thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong

đó đề cập tới thành công của Đảng đã tạo nên sức mạnh tổng hợp trong kháng

chiến. Vì vậy, có liên quan tới công tác dân vận của Đảng qua các chặng đường

kháng chiến.

Nhìn chung, cho đến nay, các công trình đã nghiên cứu về chủ trương chính

sách của Đảng đối với công tác dân vận trong thời kỳ chống Pháp nhưng mới chỉ dừng

lại ở những nét khái quát, trên những lĩnh vực cụ thể hoặc ở một vài vùng hoặc địa

phương cụ thể. Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về

công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp

từ góc độ lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết

Trong khuôn khổ đề tài luận án tiến sĩ, tôi tập trung nghiên cứu, giải quyết

những vấn đề sau:

Page 33: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

29

- Tổng thuật phân tích các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án đã được

trình bày ở trên.

- Hệ thống hoá tư liệu, tập hợp tư liệu, tài liệu lịch sử về công tác dân vận của

Trung ương Đảng, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc và Đảng bộ các tỉnh trên địa bàn Liên

khu Việt Bắc giai đoạn từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.

- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn công tác dân vận của Đảng trong

kháng chiến chống Pháp. Những yếu tố tác động đến công tác dân vận của Đảng khi cả

nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

- Phân tích, luận giải một cách có hệ thống và toàn diện các chủ trương chính

sách của Trung ương Đảng, quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ Liên

khu Việt Bắc về công tác dân vận từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.

- Qua khảo sát thực địa một số di tích lịch sử cách mạng, bảo tàng quân khu,

bảo tàng các dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc, đặc biệt là các tỉnh trước đây

thuộc Liên khu Việt Bắc; trao đổi, phỏng vấn một số nhân chứng lịch sử, các

chuyên gia về lĩnh vực kháng chiến chống thực dân Pháp và lĩnh vực dân vận, qua

đó tái hiện quá trình tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Trung

ương Đảng và Đảng bộ Liên khu Việt Bắc từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.

- Đánh giá khách quan những thành công, hạn chế và nguyên nhân của công

tác dân vận trên địa bàn Liên khu Việt Bắc của Trung ương Đảng và Đảng bộ Liên

khu Việt Bắc qua các dữ liệu lịch sử cụ thể. Từ đó, luận án đúc kết một số kinh

nghiệm chủ yếu góp phần tiếp tục hoàn thiện chủ trương chính sách của Đảng về

công tác dân vận trong tình hình hiện nay.

Page 34: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

30

Chương 2

CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC

TỪ THÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1952

2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG

Ở LIÊN KHU VIỆT BẮC TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG CHIẾN

2.1.1. Khái quát chung về địa bàn Việt Bắc

Địa danh “Việt Bắc” được biết đầu tiên là một vùng lãnh thổ trong quá

trình vận động cuộc cách mạng tháng Tám. Theo tác phẩm “Kinh nghiệm Việt

Minh ở Việt Bắc”, do Mặt trận Việt Minh phát hành tại Việt Bắc tháng 2-1944,

“Việt Bắc là khái niệm được dùng để chỉ những tỉnh trung du và thượng du Bắc

Kỳ, địa thế hiểm trở, nhiều núi rừng, giao thông thiếu thốn, dân chúng phần đông

là dân tộc thiểu số” [79, tr. 486].

Địa hình Việt Bắc chia thành 2 vùng rõ rệt là vùng thượng du và vùng trung

du. Rừng núi chiếm 90% diện tích lãnh thổ với nhiều vùng núi đất, rừng già xen với

những vùng núi đá vôi cùng mật độ sông suối khá dày. Cả ba mặt: Bắc, Tây Nam và

Đông Nam của Liên khu là những dãy núi đá cao bao bọc, tạo thành một phòng

tuyến thiên nhiên hùng vĩ. Dãy Tam Đảo với đỉnh cao 1.591m là bình phong phía

Tây. Dãy Cứu Quốc chạy từ Cao Bằng tới Bắc Kạn che chắn phần Đông Bắc. Dãy

Bảo Đài có thung lũng Chi Lăng chạy theo đường số 1 và đường sắt phía nam. Dãy

Yên Tử nhìn xuống đường 18 và sông Bạch Đằng. Trên các dãy núi đá có nhiều

hang động, có thể sử dụng làm nơi ẩn nấp và cất giấu lương thực, thực phẩm an

toàn như: hang Pác Pó (Hà Quảng, Cao Bằng), hang Phượng Hoàng (Võ Nhai, Thái

Nguyên), hang Nà Pài (Chợ Đồn, Bắc Kạn)…

Việt Bắc có nhiều sông, suối như sông Lô, sông Thương, sông Gâm… Sông

Lô bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) xuyên dọc Hà Giang, chảy qua Tuyên

Quang, xuôi về Phú Thọ hợp với sông Hồng tại Việt Trì (Phú Thọ) - Đây là tuyến

đường thuỷ quan trọng nối liền nhiều tỉnh Việt Bắc với nhau, với thủ đô Hà Nội và

các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Sông Gâm cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua

Cao Bằng, Hà Giang đổ vào Na Hang (Tuyên Quang). Hệ thống sông, suối dày đặc

Page 35: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

31

ở khắp các tinh trên địa bàn Liên khu vừa là nguồn cung cấp nước, thuỷ sản phục vụ

đời sống và sản xuất của đồng bào Việt Bắc, vừa đóng vai trò quan trọng về mặt

giao thông. Tuy nhiên, do lòng hẹp với độ dốc khá lớn, hệ thống sông ngòi trên địa

bàn Việt Bắc thường gây nguy hiểm cho thuyền bè qua lại nhất là vào mùa mưa từ

tháng 3 đến tháng 8, nước lũ dâng cao đột ngột, dòng sông chảy xiết; trong khi đó

vào mùa khô nước cạn nên thuyền bè đi lại cũng rất khó khăn.

Về mặt giao thông, từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sau khi thiết lập chế độ

thuộc địa ở Việt Nam, thực dân Pháp đã mở một số con đường nối Việt Bắc với

miền xuôi như: đường thuộc địa số 4 chạy dọc biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng

qua Lạng Sơn đến Tiên Yên (Quảng Ninh) dài 300 km; đường thuộc địa số 3 từ

Cao Bằng xuống Bắc Kạn, Thái Nguyên về Hà Nội với chiều dài 286 km; đường

thuộc địa số 1 chạy dọc đường sắt từ Hữu Nghị quan qua Lạng Sơn, Bắc Giang,

Bắc Ninh đến Hà Nội dài 170 km. Bên cạnh đó, Việt Bắc còn có các tuyến đường

liên tỉnh như đường 1b (Lạng Sơn - Thái Nguyên); đường 2b (Thái Nguyên -

Tuyên Quang); đường 3b (Bắc Kạn - Cao Bằng). Trên những con đường này, xe

cơ giới có thể qua lại nhưng gặp nhiều nguy hiểm vì mặt đường hẹp, hiểm trở,

nhiều đèo, dốc cao và dài như đèo Giàng, đèo Gió (đường số 3); đèo Bông Lau,

đèo Lũng Phầy (đường số 4).

Việt Bắc là địa bàn quan trọng về chiến lược, là “nơi dụng binh lợi hại”, “tiến

có thể đánh, lui có thể giữ”. Đặc biệt, từ Việt Bắc phong trào cách mạng Việt Nam dễ

dàng liên lạc với phong trào cách mạng thế giới, trước hết là với cách mạng Trung

Quốc ở phía Bắc, cách mạng Lào ở phía Tây Bắc để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, tiến

hành liên minh chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.

Việt Bắc là nơi có nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có và đa dạng. Với diện

tích rừng rậm rộng lớn, Việt Bắc có nhiều loại gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu,

pơmu và bạt ngàn tre, nứa, song, mây; các loại dược liệu như sa nhân, thục sâm,

tam thất và các loại hạt có dầu như sở, trẩu, lai; các đặc sản như nấm hương, mộc

nhĩ, mật ong, cùng nhiều chủng loại động vật quý hiếm như hổ, báo, gấu, trăn, tắc

kè và đặt biệt là voọc mũi hếch… Việt Bắc có nhiều loại khoáng sản quý như sắt,

than, bô-xít, mangan, lưu huỳnh, vàng, bạc, các loại đá quý…

Page 36: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

32

Việt Bắc còn có nguồn tài nguyên đất đai, gồm: Đất phù sa, được hình

thành do quá trình bồi đắp dọc các con sông, suối, được phân bố chủ yếu vùng

Quảng Ninh, Bắc Giang và Thái Nguyên; đất xám bạc màu, phân phố ở Bắc

Giang, Thái Nguyên, Quảng Yên; đất đỏ vàng (đất Feralit) phân bố chủ yếu ở

Quảng Yên, Hải Ninh, đất nâu đỏ trên đá magma bazơ và trung tính phân bố ở

Lạng Sơn, Thái Nguyên; đất đỏ nâu trên đá vôi, tập trung ở Cao Bằng, Lạng Sơn,

Bắc Kạn, có thể trồng cây lương thực, hoa màu và các cây công nghiệp. Việt Bắc

không chỉ có ruộng bậc thang đặc trưng của khu vực Tây Bắc, mà còn có những

cánh đồng lúa lớn trải dài: cánh đồng Mường Lò (Yên Bái), cánh đồng Mường

Tấc (Sơn La), cánh đồng Mường Than và Mường Thanh (Lai Châu), trong đó

cánh đồng Mường Thanh diện tích lên tới 140 km2.

Tuy có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhưng dưới sự thống trị của

thực dân Pháp, đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc Việt Bắc không phát

triển, trình độ sản xuất lạc hậu, chủ yếu nặng về khai thác thủ công, trồng trọt và

chăn nuôi. Dù còn rất nhiều khó khăn, nhưng trong cuộc kháng chiến kiến quốc,

nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã từng bước khai thác, tận dụng nguồn tài nguyên

thiên giàu có, xây dựng nền kinh tế kháng chiến, phát huy tích cực nền kinh tế tự

cấp, tự túc, ra sức đóng góp sức người, sức của thực hiện nhiệm vụ kháng chiến.

Việt Bắc là địa bàn tụ cư của 28 dân tộc, gồm: Kinh, Tày, Nùng, Thái,

Mường, H’mông, Dao, Sán Chay (Cao Lan - Sán Chỉ), Sán Dìu, Giáy, Khơ-mú,

Kháng, Xinh-mun, Hà Nhì, Lào, La Chí, La Ha, Phù Lá, La Hủ, Lự, Lô Lô, Mảng,

Pà Thẻn, Cơ Lao, Cống, Bố Y, Si La, Pu Péo. Ngoài ra, Việt Bắc còn có một bộ

phận nhân dân theo đạo Công giáo, sinh sống trên địa bàn các tỉnh: Bắc Ninh, Lạng

Sơn, Phú Thọ, Tuyên Quang và một bộ phận Hoa kiều sinh sống và định cư ở vùng

Quảng Ninh. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, các dân tộc nơi đây với

truyền thống yêu nước, lao động cần cù, đoàn kết, gắn bó, yêu thương, tương trợ lẫn

nhau đã chung lưng đấu cật, xây dựng quê hương đấu tranh chống giặc ngoại xâm,

bảo vệ vùng “phên dậu” trọng yếu của đất nước.

Khi thực dân Pháp xâm lược và thiết lập ách thống trị ở Việt Nam, nhân dân

các dân tộc Việt Bắc đã liên tiếp đứng lên chống xâm lược. Đặc biệt, từ khi Đảng

Page 37: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

33

Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân Việt Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đấu

tranh cách mạng, gây dựng và phát triển lực lượng, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành

chính quyền về tay nhân dân năm 1945. Việt Bắc được Trung ương Đảng chọn làm

nơi đứng chân các cơ quan đầu não của cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng

dân tộc, nơi gắn liền với những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí

Minh, khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra, Việt Bắc một lần nữa được Trung

ương Đảng chọn làm căn cứ địa cách mạng.

Truyền thống yêu nước và cách mạng, tình đoàn kết yêu thương, tương trợ

lẫn nhau của đồng bào các dân tộc cùng địa thế hiểm trở của vùng căn cứ địa cách

mạng là điều kiện thuận lợi trong việc đảm bảo bí mật cho quá trình tiến hành công

cuộc kháng chiến, cũng như trong công tác dân vận của Đảng với đồng bào các dân

tộc trên địa bàn Việt Bắc.

Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, công tác dân vận của Đảng ở Việt Bắc

cũng gặp những khó khăn do phần lớn địa bàn Việt Bắc là khu vực miền núi, dân cư

thưa thớt, giao thông đi lại khó khăn, sự khác biệt về phong tục, tập quán sinh hoạt,

ngôn ngữ, nhất là trình độ học vấn hạn chế của nhân dân các dân tộc Việt Bắc nên

công tác dân vận của Đảng gặp nhiều khó khăn cần khắc phục.

Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), Việt Bắc chính thức có 3 khu

hành chính - quân sự gồm: Khu I (gồm 4 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên,

Phúc Yên), Khu X (gồm 6 tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên

Quang, Vĩnh Yên) và Khu XII (gồm 6 tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải

Ninh, Quảng Yên, Hồng Gai). Tháng 7-1947, Khu XIV được thành lập, cũng nằm

trong địa bàn của Việt Bắc (gồm 2 tỉnh: Sơn La, Lai Châu và một phần tỉnh Phú

Thọ, châu Mai Đà của tỉnh Hoà Bình).

Để thống nhất việc chỉ huy và củng cố các cấp bộ Đảng, ngày 20-01-1948,

Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh 120/SL về việc thống nhất Khu I và Khu

XII thành Liên khu I (gồm 10 tỉnh vùng Đông Bắc là: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái

Nguyên, Lạng Sơn, Hải Ninh, Quảng Yên, Hồng Gai, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc

Yên); Khu X và Khu XIV hợp nhất thành Liên khu X (gồm 8 tỉnh vùng Tây Bắc và

Page 38: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

34

Trung du Bắc Bộ là: Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh

Yên, Lai Châu, Sơn La và châu Mai Đà của tỉnh Hoà Bình).

Xuất phát từ tình hình thực tế và yêu cầu của cuộc kháng chiến, ngày 29-9-

1949 Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 28 về việc thống nhất hai Liên khu I và X

thành Liên khu Việt Bắc. Nghị quyết Hội nghị thống nhất hai liên khu I và X đã

được Trung ương Đảng thông qua ngày 27, 28-10-1949, Liên khu Việt Bắc chính

thức được thành lập. Đến ngày 4-11-1949, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hoà đã ra Sắc lệnh số 127 về hợp nhất Uỷ ban kháng chiến của hai Liên khu I và X

thành Uỷ ban Hành chính kháng chiến Liên khu Việt Bắc. Sự ra đời của Liên khu

Việt Bắc thể hiện một bước phát triển mới của cuộc kháng chiến trên địa bàn trung

du và vùng núi phía Bắc, đồng thời đặt ra những nhiệm vụ quan trọng trong quá

trình thực hiện công tác dân vận của Đảng ở khu vực này.

Thời kỳ đầu, phạm vi hoạt động của Liên khu Việt Bắc trong 17 tỉnh, đến

năm 1950, tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên hợp nhất thành Vĩnh Phúc. Trước yêu cầu

mới của cuộc kháng chiến, ngày 27-7-1952, Trung ương Đảng ra Nghị quyết thành

lập khu Tây Bắc. Các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Lào Cai và Yên Bái của Liên khu Việt

Bắc cắt ra thành lập khu Tây Bắc. Theo Nghị quyết số 45 của Bộ Chính trị, ngày

28-8-1954, khu Tây Bắc cắt lại 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái về Liên khu Việt Bắc.

Ngày 17-2-1955, Trung ương quyết định thành lập Đặc khu Hồng Quảng gồm có

đặc khu Hồng Gai và tỉnh Quảng Yên trực thuộc Trung ương. Đến ngày 12-6-1956,

Bộ Chính trị quyết định thành lập Khu tự trị Việt Bắc, ngày 19-8-1956, Khu tự trị

Việt Bắc chính thức hoạt động và Liên khu Việt Bắc ngừng hoạt động. Lãnh đạo

các mặt công tác trong Liên khu Việt Bắc có Liên khu uỷ Việt Bắc cũng được thành

lập từ các liên khu uỷ tiền thân, nó hoạt động trong khoảng thời gian từ tháng 12-

1949 đến tháng 11-1956.

2.1.2. Chủ trương của Trung ương Đảng về công tác dân vận trong

những năm đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời,

mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do. Nhân dân Việt

Nam từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân của đất nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo

Page 39: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

35

của Đảng, quyết tâm bảo vệ nền độc lập mới giành được. Đảng ra hoạt động công

khai và lãnh đạo chính quyền. Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể tổ chức chính trị

xã hội như: Hội Thanh niên, Hội Công thương... phát triển nhanh chóng.

Bên cạnh những thuận lợi, Nhà nước Việt Nam non trẻ phải đương đầu với

muôn vàn khó khăn, thách thức. Đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Kinh tế

đình đốn, hầu hết các cơ sở sản xuất đều đóng cửa, hàng vạn công nhân không có

việc làm. Nạn đói từ cuối 1944 đến đầu năm 1945 làm chết gần 2 triệu đồng bào.

Hàng chục vạn hecta ruộng đồng bỏ hoang. Mùa mưa bão năm 1945, vỡ đê sông

Hồng làm ngập lụt 9 tỉnh Bắc Bộ, khiến cho đời sống nhân dân thêm khó khăn.

Ngân khố quốc gia chỉ còn 1.233.000 đồng, trong đó hơn một nửa là tiền rách. Việc

buôn bán, giao lưu trao đổi trong nước với nước ngoài bị đình trệ. Về tình hình xã

hội, hơn 90% dân số Việt Nam mù chữ, các tệ nạn, hủ tục lạc hậu của chế độ cũ

thực sự là gánh nặng cho chính quyền cách mạng non trẻ.

Thù trong, giặc ngoài cấu kết hòng tiêu diệt nhà nước dân chủ nhân dân đầu

tiên ở Đông Nam Á. Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hoà chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.

Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ

quốc lâm nguy!

Trước những khó khăn và thách thức của lịch sử, ngày 3-9-1945, trong phiên

họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra 6 nhiệm vụ

cấp bách nhằm vận động nhân dân thực hiện ngay chiến dịch tăng gia sản xuất để

chống đói; mở phong trào xóa nạn mù chữ; tổ chức sớm cuộc tổng tuyển cử theo chế

độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân; phát động

phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ những thói hư tật xấu do chế độ

thực dân để lại; bỏ ba thứ thuế gồm thuế thân, thuế chợ, thuế đò, tuyệt đối cấm hút

thuốc phiện; tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết. Sau đó, Người nêu ba

nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, giặc ngoại xâm.

Ngày 7-9-1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời dân chủ cộng hoà đã ký Sắc

lệnh số 11 về Bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác nhằm cải cách chế độ thuế

khoá, đỡ gánh nặng cho dân chúng, giảm thuế điền thổ 20% trong cả nước, chủ

Page 40: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

36

trương giảm tô 25%, miễn thuế cho vùng lũ lụt, thành lập Ban khuyến nông với

nhiệm vụ giúp đỡ nông dân khắc phục khó khăn về vốn, giống, nông cụ, sức kéo…

Từ ngày 10 đến ngày 11-9-1945, Hội nghị Cán bộ Bắc Kỳ của Đảng Cộng

sản Đông Dương được triệu tập, Trung ương Đảng mở cuộc vận động toàn dân,

nhất là đối với công nhân, thanh niên, phụ nữ nhằm kêu gọi xây dựng khối đoàn

kết các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Uỷ ban nhân dân các

cấp trong cả nước (tỉnh, kỳ, huyện và làng) về công tác vận động quần chúng nhân

dân. Người nhấn mạnh: “…việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có

hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu

ta, kính ta” [167, tr. 65].

Thực hiện nhiệm vụ cách mạng cấp bách đang đặt ra, Trung ương Đảng lãnh

đạo các đoàn thể vận động toàn dân tham gia thực hành tiết kiệm, tăng gia sản xuất,

cứu đói và xoá nạn mù chữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Tăng gia sản xuất!

Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa… Đó là cách thiết thực để ta giữ

vững quyền tự do, độc lập” [175, tr. 115]. Trong bức thư gửi đồng bào cả nước ra

sức chống đói, Người viết: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ,

chúng ta không khỏi động lòng. Vậy, tôi đề nghị đồng bào cả nước và tôi xin thực

hành trước: cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi

bữa một bơ) để cứu dân nghèo” [175, tr. 33]. Mặt trận Việt Minh, Ban cứu tế xã hội

và các đoàn thể cứu quốc phát huy mọi khả năng, làm tốt công tác dân vận, tổ chức

những đoàn vận động cứu đói. Đảng và Chính phủ chỉ đạo phong trào, vận động

nhân dân tăng gia sản xuất. Với khẩu hiệu “Không một tấc đất bỏ hoang”, “tấc đất

tấc vàng”, phong trào thi đua dấy lên ở khắp các địa phương trong cả nước.

Ngày 8-9-1945, Chính phủ lâm thời công bố Sắc lệnh số 14 về Tổng tuyển

cử để bầu Quốc dân đại hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc bầu

Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, soạn thảo Hiến pháp để

nhanh chóng khẳng định tính pháp lý của chính quyền nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí

Minh khẳng định:

Page 41: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

37

Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những

người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng

tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ứng cử, hễ là

công dân thì đều có quyền đi bỏ phiếu, không chia gái, trai, giàu, nghèo,

tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều

có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng,

tức là dân chủ, đoàn kết [175, tr. 153].

Để thu hút tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng, Trung ương Đảng chủ

trương thành lập Ban Dân vận phụ trách các giới. Ngày 29-5-1946, Hội Liên hiệp

Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập với mục đích: Đoàn kết

tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước, không phân biệt giai cấp, tôn

giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam độc lập thống nhất -

dân chủ - phú cường; Ngày 27-5-1946, Hội nghị Đại biểu Công nhân toàn quốc

quyết định thành lập Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhằm đoàn kết và thống

nhất các tổ chức của giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động công nghiệp, viên

chức nhà nước; Tháng 7-1946, Đảng đã vận động giới trí thức Việt Nam thành lập

Đảng Xã hội Việt Nam nhằm đoàn kết trí thức Việt Nam yêu nước; Ngày 20-10-

1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ra đời đã tập hợp rộng rãi phụ nữ yêu nước

trong các giai cấp, tầng lớp ở nông thôn và thành thị, thực hiện quyền lợi của chị

em phụ nữ và đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

Để tăng cường công tác dân vận trước tình hình mới, Hội nghị cán bộ

Trung ương Đảng được tổ chức (từ ngày 31-7 đến ngày 1-8-1946). Trên cơ sở

đánh giá việc thống nhất các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, hội nghị đã chủ trương

củng cố và phát triển Hội Liên Việt ở Trung ương, các tỉnh thành… Về công tác

dân vận, hội nghị chủ trương thành lập Ban Công vận toàn quốc, xúc tiến việc xây

dựng công đoàn và các Liên đoàn lao động để tập hợp đông đảo công nhân và lao

động vào Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Về công tác vận động phụ nữ, Đảng

chủ trương chăm lo, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ ở các Xứ, chú ý đời sống cán bộ

nữ, xây dựng hình thức tổ chức thích hợp như hội “áo chiến sĩ”, “xã tế”, tái bản tờ

Tiếng gọi phụ nữ. Về công tác vận động thanh niên, Đảng yêu cầu Đoàn Thanh

Page 42: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

38

niên cứu quốc cần quan hệ chặt chẽ với Nha Thanh niên, chú ý tổ chức học sinh,

sinh viên, tổ chức những nhóm thanh niên mác xít, chấn chỉnh Đoàn Thanh niên

Việt Nam để tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên.

Đảng đã phát động một cao trào toàn dân chống nạn mù chữ để mở mang kiến thức

cho nhân dân lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi:

Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, mọi người Việt Nam

phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức

mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải

biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho

những người chưa biết chữ…[175, tr. 40].

Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật

đầu hàng, đã nổ súng đánh chiếm ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, cuối tháng 11-1946, quân

Pháp đánh chiếm Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Tại Hà Nội,

quân đội thực dân Pháp liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày

17-12-1946, quân Pháp cho xe phá các công sự ở phố Lò Đúc, đặc biệt, chúng đã gây

ra vụ thảm sát nhiều đồng bào ở phố Hàng Bún và Yên Ninh, gây xung đột đổ máu ở

cầu Long Biên, khu Cửa Đông. Ngày 18-12-1946, Tướng Moóc-li-e gửi cho Chính

phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi

phá bỏ mọi công sự chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ chiến

đấu và giao quyền kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô Hà Nội cho chúng. Pháp tuyên

bố nếu các yêu cầu trên không được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chấp

nhận thì chậm nhất vào sáng 20-12-1946 quân Pháp sẽ hành động.

Trong bối cảnh đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng

trong ngày 18 đến 19-12-1946 dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị

nhận định, thực dân Pháp đã cắt đứt mọi con đường đàm phán, cố tình gây ra cuộc

chiến tranh xâm lược, dã tâm xâm lược Việt Nam một lần nữa. Trên cơ sở đánh giá

tương quan so sánh lực lượng, Hội nghị khẳng định, cuộc kháng chiến của nhân dân

Việt Nam là cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.

Lịch sử đã đặt dân tộc Việt Nam trước một sự lựa chọn mới. Thực tế cho thấy

khả năng hòa hoãn không còn. Địch đã công khai tuyên bố chúng sẽ hành động sáng

Page 43: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

39

ngày 20-12 nếu Chính phủ Việt Nam khước từ những điểm nêu trong tối hậu thư của

chúng. Trong thời điểm lịch sử đó, Trung ương Đảng đã kịp thời hạ quyết tâm phát

động toàn dân kháng chiến và chủ động mở cuộc tổng giao chiến lịch sử trước khi

thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội vào ngày 20-12-1946

như chúng đã nêu lên trong tối hậu thư gửi cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng

hoà. Trước tình hình đó, ngày 18 và 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông),

Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết

định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.

Vào hồi 20 giờ ngày 19-12-1946, quân dân thủ đô Hà Nội đã nổ súng mở đầu

cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Ngày 20-12-1946, tại Hang Trầm (Chương Mỹ,

Hà Đông), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của

Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

Nhân dân cả nước đã đứng lên theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

"Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta

càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp

nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,

nhất định không chịu làm nô lệ...” [175, tr. 534].

Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất nước,

là lời hịch cứu quốc, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào dân tộc, truyền thống anh

hùng bất khuất, kiên cường của nhân dân Việt Nam; làm cho cả nước sục sôi đứng

lên chiến đấu với ý chí "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", vì độc lập tự do thiêng

liêng của Tổ quốc.

Tháng 3-1947, qua thực tiễn những ngày đầu của cuộc chiến đấu, đồng chí

Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đã viết một loạt bài đăng trên báo Sự thật để

làm sáng tỏ thêm đường lối kháng chiến của Đảng. Những bài viết này được xuất

bản thành tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi.

Page 44: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

40

Trong đó, đồng chí Trường Chinh đã xác định mục tiêu của cuộc kháng chiến:

Dân tộc Việt Nam kháng chiến đánh bọn thực dân phản động Pháp xâm lược nhằm

giành độc lập và thống nhất; Về mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đồng

chí Trường Chinh chỉ rõ: Cuộc kháng chiến này chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng

đất nước, củng cố và mở rộng chế độ cộng hoà dân chủ. Cuộc kháng chiến của Việt

Nam là một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình

là chính. Đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí, động viên nhân lực,

vật lực, tài lực của cả nước cho chiến đấu và để chiến thắng. Do tương quan lực

lượng giữa ta và địch chi phối, phương châm chiến lược là đánh lâu dài. Đó là một

quá trình vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực lượng. Để đánh lâu dài, phải tự lực

cánh sinh, không ngừng phát huy sức mạnh của cả dân tộc đấu tranh vì độc lập tự do,

đồng thời hết sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để chiến đấu và chiến thắng kẻ

thù. Tác phẩm đã củng cố niềm tin, động lực và sức mạnh kháng chiến cho sự nghiệp

cách mạng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và sựa vào sức mình là

chính, Đảng tập trung công tác tuyên truyền, chăm lo bảo đảm đời sống nhân dân,

“dốc lực lượng của 25 triệu đồng bào vào cuộc chiến đấu” [45, tr. 533]. Đồng thời,

ra sức phát huy vai trò của nhân dân vào củng cố Nhà nước và bộ máy kháng chiến.

Với nguồn lực hạn chế, phương châm chiến lược được xác định là đánh lâu dài, vừa

đánh vừa giữ gìn lực lượng. Do đó, các cấp tăng cường giác ngộ, tổ chức nhân dân,

động viên lực lượng toàn dân vào cuộc kháng chiến.

Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, công tác dân vận có nhiều thay

đổi cho phù hợp với điều kiện và tình hình mới. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ

tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết

sinh”, kháng chiến toàn dân toàn diện được truyền tải, lan tỏa tới toàn thể dân

chúng, đông đảo các tầng lớp, các giới nhân dân đã nhất tề đứng dậy, anh dũng

chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Bước sang năm thứ 3 chống thực dân Pháp, giai đoạn đất nước khó khăn “vừa

kháng chiến, vừa kiến quốc”. Nhằm động viên, phát huy tối đa sức người sức của cho

cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo “Dân vận” đăng trên Báo Sự

Page 45: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

41

Thật, (120), ngày 15-10-1949 với bút danh X.Y.Z. Tác phẩm Dân vận hàm chứa

những quan điểm chủ trương lớn của Đảng trong công tác vận động quần chúng chỉ gói

gọn trong dung lượng gần 600 từ. Bài viết rất ngắn gọn nhưng đã đề cập, giải đáp

những vấn đề rất căn bản, cấp thiết của công tác vận động quần chúng nhân dân tham

gia các phong trào cách mạng. Bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với quần chúng, văn

phong xúc tích, mạch lạc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ làm theo, bài báo đã đi vào

lòng người của bao thế hệ người Việt Nam.

Trong bài báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải 4 vấn đề cơ bản, quan trọng

và rất thiết thực trong công tác dân vận: Thứ nhất, tiền đề, cơ sở của công tác dân

vận. Thứ hai, dân vận là gì? Người đưa ra khái niệm: "Dân vận là vận động tất cả

lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực

lượng toàn dân, để thực hành những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho".

Đó là tập hợp và huy động cho được sức mạnh của toàn dân vào các phong trào

cách mạng. Thứ ba, “Ai phụ trách dân vận?”. Hồ Chí Minh chỉ rõ lực lượng làm

công tác dân vận là “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội

viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt Việt Minh, v.v...) đều phải phụ trách Dân

vận”. Thứ tư, “Dân vận phải thế nào?”. Đây chính là vấn đề được Hồ Chí Minh đặt

ra về phương pháp dân vận với những yêu cầu rất cụ thể với cán cán bộ dân vận.

Người đúc kết, chỉ bằng 12 từ, những người làm công tác dân vận phải “óc nghĩ,

mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, chứ không phải chỉ nói xuông, chỉ

ngồi viết mệnh lệnh. Cuối cùng, Người kết thúc bài báo bằng một câu mang tính

chân lý: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành

công” [169].

Nhận thấy âm mưu của thực dân Pháp sẽ quay trở lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh

cùng Trung ương Đảng lựa chọn Việt Bắc làm căn cứ địa kháng chiến lâu dài đã thể

hiện rõ tầm nhìn lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn và khoa học. Do đã xác định được

căn cứ địa, các cấp đã khẩn trương di chuyển cơ quan, kho tàng, máy móc, nguyên

vật liệu và các vật dụng thiết yếu đến những nơi an toàn và lên chiến khu. Cuộc

tổng di chuyển diễn ra trong các tháng 10, 11 và 12-1946 với sự giúp đỡ của đông

Page 46: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

42

đảo nhân dân các địa phương. Đến tháng 5-1947, cuộc tổng di chuyển hoàn thành,

đại bộ phận các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận

Việt Minh, quân đội đã ổn định tại thủ đô kháng chiến Thái Nguyên, Tuyên Quang,

Bắc Kạn.

Do làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân, căn cứ địa kháng chiến

không ngừng được xây dựng, củng cố về mọi mặt, trụ vững trong cuộc kháng chiến

lâu dài của quân và dân Việt Nam. Việc vận động mọi tầng lớp nhân dân các dân

tộc trên địa bàn Việt Bắc, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là thành công lớn của Đảng và Chủ tịch

Hồ Chí Minh.

Trong những ngày đầu kháng chiến, khối đoàn kết toàn dân được tăng

cường, quần chúng nhân dân các dân tộc trên địa bàn Việt Bắc đa số đã được quy tụ

trong Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt với các đoàn thể Nông hội, Hội phụ nữ,

Hội thanh niên…. Các tổ chức Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở Việt Bắc

đã vận động nhân dân các dân tộc trên địa bàn đóng góp to lớn sức người, sức của

xây dựng và bảo vệ căn cứ địa kháng chiến.

Trong vùng địch tạm chiếm, công tác vận động các giới được tăng cường

bằng việc tổ chức công đoàn bí mật, phát huy vai trò của công đoàn trong việc tổ

chức sản xuất, chiến đấu, vận chuyển và đào tạo công nhân chuyên nghiệp.

Ở vùng tự do, các Đảng bộ ở Liên khu Việt Bắc chủ trương: động viên nông

dân hăng hái tham gia dân quân, xây dựng làng kháng chiến, phục vụ chiến đấu, sản

xuất; động viên giới trí thức, văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến, giáo dục tuyên

truyền kháng chiến; động viên thanh niên gia nhập quân đội, dân quân để chiến đấu

và phục vụ chiến đấu, tuyên truyền sản xuất, tham gia bình dân học vụ; động viên

phụ nữ tham gia cứu thương, tiếp tế, tăng gia sản xuất, giúp đỡ gia đình chiến sĩ.

Đối với đồng bào Công giáo, Trung ương Đảng đã chủ trương vận động giáo

dân tham gia kháng chiến, khắc phục những thành kiến, nhận thức lệch lạc với giáo

dân và giáo sĩ. Vạch trần những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc của địch hòng chia rẽ

đồng bào với Chính phủ và Mặt trận Việt Minh.

Page 47: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

43

Tổ chức Đảng, Mặt trận ở Liên khu Việt Bắc trực tiếp tham gia lãnh đạo

công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số chống lại âm mưu lập các vùng tự trị

của địch; chăm lo đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào, tôn trọng phong tục

tập quán, thuyết phục và cảm hoá các Lang, Phìa, Thổ ty; lập uỷ ban dân tộc thiểu

số ở từng vùng, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ dân vận.

Đối với Hoa kiều, Trung ương Đảng yêu cầu phải tôn trọng và bảo vệ tài sản,

giúp họ di cư, tản cư; phát huy vai trò của cán bộ người Hoa để vận động đồng bào

người Hoa, kịp thời chấn chỉnh lại Ủy ban Hoa vận.

Công tác địch vận được Đảng xác định không chỉ là công việc của bộ đội mà

là công việc quan trọng của Đảng, của các đoàn thể. Do vậy phải sử dụng nhiều

hình thức, tranh thủ mọi cơ hội để tuyên truyền, vận động làm tan rã tinh thần binh

lính địch. Cổ vũ lính Pháp phản chiến, đối xử nhân đạo với tù binh.

Để thực hiện các chủ trương của Trung ương, các tổ chức Đảng, chính quyền

địa phương đã đẩy mạnh công tác vận động quần chúng. Trên địa bàn Việt Bắc,

Khu X tiến hành tổ chức Hội Văn hóa kháng chiến tới cấp khu và có cán bộ phụ

trách riêng. Đối với tư sản, địa chủ đã đặt những hình thức tổ chức ở các địa

phương cho thích hợp; đối với đồng bào dân tộc thiểu số, Khu uỷ chỉ đạo tiến hành

đào tạo và sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số; đối với đồng bào Công giáo chủ

trương gây một phong trào Công giáo chống thực dân Pháp, cử đồng bào Công giáo

tới chứng kiến những nơi bị giặc tàn phá. Thành lập các hội “bảo vệ tài sản và tính

mạng cho dân”; Ở Khu 12, việc đẩy mạnh công tác vận động đồng bào vùng địch

chiếm đóng, tiễu trừ thổ phỉ được Khu uỷ trực tiếp chỉ đạo thực hiện.

Ở các địa phương, Trung ương Đảng chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên

truyền “đoàn kết kháng chiến”, “mùa Đông kháng chiến” với nhiều hình thức như:

nói chuyện, bích báo, diễn thuyết… Đông đảo quần chúng đã tham gia ủng hộ bộ

đội, tiếp tế lương thực phục vụ kháng chiến.

Trên mặt trận đấu tranh quân sự, Trung ương Đảng chỉ đạo các địa phương

phải động viên đồng bào cả nước ra sức kháng chiến, lệnh cho toàn thể bộ đội, dân

quân tự vệ kiên quyết chiến đấu, xung phong tiêu diệt địch. Mỗi quốc dân phải là

một chiến sĩ, mỗi làng xóm phải là một chiến hào. Ở Việt Bắc, bộ đội vừa phân tán

Page 48: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

44

làm công tác vũ trang tuyên truyền, vận động nhân dân kháng chiến, vừa rải lực

lượng thành phân đội ngăn chặn địch trên các tuyến đường vào căn cứ. Nhân dân ở

các địa phương Việt Bắc đã đóng góp sức người, sức của để xây dựng căn cứ địa,

nhiều gia đình đã nhường nhà để cán bộ ở, đóng cơ quan,… Hàng trăm đội du kích

thoát ly ra đời ngày đêm canh gác, bảo vệ căn cứ kháng chiến.

Như vậy, trong thời gian ngắn sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng đã định hình

ngày càng rõ những nội dung cơ bản, mục tiêu, đối tượng, phương pháp tiến hành

công tác dân vận trong bối cảnh mới - bối cảnh Đảng cầm quyền, thực hiện công tác

dân vận trong kháng chiến. Đây là cơ sở quan trọng để các Đảng bộ quán triệt và vận

dụng sáng tạo trong thực tế công tác dân vận.

Từ chủ trương trên, ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, dưới sự

lãnh đạo của Đảng, công tác dân vận đã đạt thành công to lớn, góp phần quan trọng

vào thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến của Đảng. Nhân dân từ miền xuôi

đến miền ngược, từ đồng bằng đến miền núi, không phân biệt già trẻ, trai gái, thành

phần giai cấp, tôn giáo, dân tộc đã tích cực tham gia xây dựng chính quyền, tăng gia

sản xuất, cứu đói, xoá nạn mù chữ, chuẩn bị thực lực mọi mặt, chủ động sẵn sàng

bước vào cuộc chiến đấu đầy cam go, ác liệt để bảo vệ nền độc lập, tự do.

2.1.3. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ các Khu, Liên khu trên địa

bàn Việt Bắc từ tháng 12-1946 đến tháng 10-1949

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về xây dựng căn cứ địa kháng

chiến, Khu uỷ các Khu I, X, XII, XIV (từ ngày 20-1-1948, 4 khu được sáp nhập

thành 2 liên khu là Liên khu uỷ I và Liên khu uỷ X) và các Tỉnh uỷ trên địa bàn

Việt Bắc nhanh chóng triển khai tuyên truyền nội dung các chỉ thị, nghị quyết của

Đảng để vận động quần chúng nhân dân đẩy mạnh công tác chuẩn bị mọi mặt cho

cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài của dân tộc.

2.1.3.1. Chủ trương và sự chỉ đạo của Khu uỷ I

Khu I được thành lập tháng 11-1946, bao gồm 4 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn,

Thái Nguyên, Phúc Yên. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Khu uỷ I

tăng cường công tác vận động đồng bào các dân tộc, các giới, các tổ chức đoàn thể

quần chúng trên địa bàn Khu tham gia ủng hộ cách mạng và xây dựng căn cứ địa

chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Page 49: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

45

Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, ngày 15-10-1947 về chủ trương vận

động nhân dân phá cuộc tấn công mùa đông của thực dân Pháp, các cán bộ, các đồng

chí của Cứu quốc Hội Khu uỷ I đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân

tham gia phá cuộc tấn công mùa đông của thực dân Pháp. Hướng dẫn cho quần chúng

làm vườn không nhà trống, tăng gia sản xuất, ủng hộ bộ đội. Tuyên truyền cho dân

không sợ và không khinh địch, hiểu âm mưu tấn công lên Việt Bắc của thực dân

Pháp, tin tưởng vào cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Ngoài ra, công tác tuyên

truyền còn nhằm vào việc vạch rõ những hành động dã man, tàn bạo của giặc đối với

đồng bào, đối với tôn giáo ngay trên địa bàn Khu. Trong các cuộc kỷ niệm cách

mạng, Khu uỷ nêu cao vai trò lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc của Cứu quốc

Hội, tinh thần hy sinh chiến đấu của các chiến sĩ cộng sản.

Các hình thức vận động, tuyên truyền của Khu uỷ I rất đa dạng, dễ nghe, dễ

hiểu, bao gồm các hình thức cơ bản như:

Phát thanh tin tức kèm theo các khẩu hiệu hô hào, được quần chúng chú

ý nghe; triển lãm tranh ảnh lưu động đạt được nhiều kết quả; Sở Thông

tin Khu có Đoàn Ca kịch Việt Bắc với hình thức chèo, cải lương tượng

trưng các khẩu hiệu thành một màn kịch, đã thu được nhiều kết quả

trong hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn; tranh ảnh được vẽ và phát cho

các phòng để bày, Sở Thông tin Khu cũng phát hành được một số tranh

địch vận, kinh nghiệm Việt gian in màu; mít tinh - biểu tình là hình

thức tuyên truyền được các cơ quan thông tin dùng trong những dịp kỷ

niệm Tổng Khởi nghĩa, Quốc khánh… do các đoàn thể quần chúng

chúng hay các Uỷ ban Kháng chiến, Uỷ ban Hành chính địa phương

triệu tập [226, tr. 8].

Đến cuối năm 1947, toàn Khu I đã có 2 tờ báo lớn là Tờ Việt Bắc Quyết

chiến (tuần báo do Phòng Chính trị - Bộ Chỉ huy Vệ quốc Đoàn - Chiến khu I phụ

trách), tờ báo này chỉ phát hành trong quân đội và gửi các cơ quan nên dân chúng ít

được xem; Tờ Ánh sáng (tuần báo do Khu bộ Việt Minh Khu I phụ trách), báo này

có tính chất huấn luyện, số lượng báo in ra ít chỉ đủ chia đi các tỉnh bộ, huyện bộ,

các đoàn thể cứu quốc và các cơ quan.

Page 50: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

46

Cứu quốc Hội ở các tỉnh trên địa bàn Khu I rất chú trọng công tác tuyên

truyền với nhiều hình thức và nội dung phong phú như:

Hội Văn hoá mác-xít ở tỉnh, ở các huyện có Uỷ ban Tuyên truyền công

khai sách mác-xít và báo Sự thật. Hình thức tuyên truyền cá nhân đa

dạng, gây thêm uy tín cho cách mạng, công tác cách mạng khoa học và

nhân dân hiểu chiến sỹ cách mạng đã dày công nghiên cứu, một số đông

trí thức trước kia xa lánh, thờ ơ với cách mạng, nay thì gần gũi và tham

gia cách mạng [217, tr. 2-3].

Công tác dân vận của Khu uỷ I trong thời kỳ này đã đạt được những thành

công trên nhiều mặt như: Chấn chỉnh công tác dân vận của các Tỉnh uỷ Cao Bằng,

Bắc Kạn, Thái Nguyên và Phúc Yên về việc vận động nhân dân tham gia phá tan

cuộc tiến công mùa đông của thực dân Pháp; Công tác chuẩn bị kháng chiến nói

chung và công việc dân quân, tuyên truyền đến nhân dân tiến bộ hơn trước; Xoá bỏ

tư tưởng địa phương hẹp hòi trong các cấp và gây dựng tinh thần đoàn kết giữa

quân đội, hành chính và mặt trận. Công tác vận động, lôi kéo thân hào, thân sĩ ở

Khu I đạt kết quả cao (đặc biệt là ở Phúc Yên) nhờ thực hiện đúng đắn chủ trương

của Đảng. Khu uỷ I đã mạnh dạn điều động những cán bộ dân vận có năng lực tham

gia công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số phục vụ kháng chiến.

Bên cạnh những thành tựu nổi bật thì công tác dân vận của Khu uỷ I cũng tồn

tại một số hạn chế: Bộ máy làm công tác dân vận từ cấp Khu đến các cấp dưới chưa

có sự liên kết, Khu uỷ chưa đi sát phong trào và chỉ đạo chưa kịp thời cấp dưới. Công

tác dân vận Khu vẫn chưa rút được kinh nghiệm trong công tác vận động quốc dân

thiểu số và chưa có kế hoạch đặc biệt đối với phong trào quốc dân thiểu số. Công tác

tuyên truyền, xuất bản báo, sách đã có nhưng chưa thực hiện được công tác tuyên

truyền báo Cứu quốc, Sự thật tới được các tầng lớp nhân dân.

2.1.3.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Khu uỷ X

Sau khi được thành lập, Khu uỷ X gồm có 6 tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Yên

Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên. Đây là địa bàn có nhiều đồng bào các dân

tộc thiểu số sinh sống, chính vì vậy, Khu uỷ X xác định, công tác dân vận của Khu

là vận động đồng bào các dân tộc ủng hộ và tham gia kháng chiến. Các tiểu ban

Page 51: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

47

chuyên môn: công vận, thanh vận, phụ vận, công giáo vận, Hoa vận vẫn hoạt động

đều và phát triển mới phù hợp với tình hình kháng chiến của Khu.

Thực hiện chủ trương của Khu uỷ X về công tác dân vận, trong Nghị quyết

Hội nghị Khu uỷ X ngày 28-4-1947 về công tác Vùng dân tộc thiểu số đã chỉ rõ: Đối

với đồng bào dân tộc thiểu số cần phải đem lại quyền lợi thực tế cho họ (đặt phòng

phát thuốc, mở trường học, tiếp tế bán muối rẻ cho đồng bào); Đề nghị lên Chính phủ

xoá thuế ở những làng bị địch tàn phá nặng nề như ở Quang Huy, Thu Cúc…

Có hình thức khen thưởng cho những thủ lĩnh dân tộc thiểu số tốt. Với

đồng bào công giáo, phải tích cực hoạt động ở những nơi công giáo đông

đúc, phải đào tạo những cán bộ công giáo ngay ở các địa phương, làm tai

mắt cho cách mạng. Với bà con Hoa kiều cần đặc biệt chú ý đến công tác

Hoa vận miền biên giới Lào Cai nơi bà con Hoa kiểu tản cư và tập trung

rất đông, nên tiếp tế muối gạo cho họ được mua dễ dàng và có thể cho họ

được hưởng một phần nào về chế độ di cư, tản cư của Chính phủ, để tỏ

rõ Hoa - Việt thân thiện nhưng không quên đề phòng bọn gián điệp cho

Tưởng và cho Pháp [120, tr. 1].

Công tác vận động đồng bào thời gian này đã có những kết quả rõ rệt: Tinh

thần nhân dân lên khá cao và có ý thức hơn, nhất là sau trận thắng sông Lô. Đồng

bào đã biết cách thức làm vườn không nhà trống, sơ tán, báo động được thi hành

trong dân chúng. Đồng bào công giáo đa số tốt, nhiều nơi đồng bào căm phẫn vì

thực dân Pháp phá nhà thờ, đồng bào công giáo đấu tranh không tham gia Liên đoàn

Công giáo phản động.

Sau Hội nghị ngày 28-4-1947 về công tác Vùng dân tộc thiểu số, Khu uỷ X

tiếp tục tổ chức Hội nghị Cán bộ Cứu quốc Hội toàn khu từ ngày 19 đến ngày 22-9-

1947, Nghị quyết Hội nghị xác định: “Nhiệm vụ công tác dân vận của Khu uỷ thời

kỳ này trước hết là: Cải thiện đời sống sinh hoạt cho nhân dân, các cấp phải hết sức

chú trọng việc cải thiện sinh hoạt cho nhân dân và do đó làm cho nền kinh tế trong

Khu phát triển” [154, tr. 6];

Dùng các nhà tư sản trí thức tốt, có danh vọng, năng lực vào các cơ quan

chính quyền, các ngành văn hoá, chuyên môn; Vấn đề dân tộc thiểu số:

Page 52: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

48

nghiên cứu cách thức giải quyết quyền lợi và giúp đỡ các đồng bào thiểu

số: Thổ, Dao, Mông… cho hợp lý. Chú ý giải thích cho các dân tộc thiểu

số tránh sự hiềm khích lẫn nhau để thực hiện chủ trương toàn dân đoàn

kết. Đề nghị lên Chính phủ cho thành lập Sở Dân tộc thiểu số ở Khu và

Ty Dân tộc thiểu số ở Tỉnh. Mời các Lãnh tụ Dân tộc thiểu số dự vào

việc thành lập Sở và Ty dân tộc thiểu số [119, tr. 6].

Để nâng cao hiệu quả của công tác dân vận trên địa bàn, Khu uỷ X tiếp tục tổ

chức Hội nghị ngày 11-11-1947, Nghị quyết Hội nghị xác định nhiệm vụ công tác

dân vận của Khu thời kỳ này là: Tổ chức Hội Văn hoá kháng chiến tới cấp Khu, cử

cán bộ phụ trách. Đối với tầng lớp tư sản, địa chủ đặt những hình thức tổ chức ở các

địa phương cho thích hợp. Đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số và dùng cán bộ dân tộc

thiểu số để hiểu và nắm bắt được nguyện vọng của đồng bào.

Ngày 28-12-1947, Ban Thường vụ Khu uỷ X ra Nghị quyết Số 486 về việc

Thành lập Ban Vận động Dân tộc miền núi, Ban có nhiệm vụ:

Đoàn kết tất cả đồng bào miền núi; Động viên đồng bào miền núi tham

gia kháng chiến chống thực dân Pháp; Bênh vực quyền lợi của đồng bào

miền núi; Nâng cao trình độ sinh hoạt cho đồng bào miền núi; Mở

trường nâng cao trình độ văn hoá, chính trị cho đồng bào miền núi và

đào tạo cán bộ dân tộc miền núi (trường Trung học miền núi); Đề nghị

khen thưởng đồng bào miền núi có công với nước [121, tr. 10].

2.1.3.3. Chủ trương và sự chỉ đạo của Khu XII

Sau khi thành lập, Khu XII gồm 6 tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải

Ninh, Quảng Yên, Hồng Gai. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Khu XII

đã đẩy mạnh công tác vận động đồng bào vùng địch chiếm đóng, tiễu trừ thổ phỉ. Các

địa phương trên địa bàn Khu XII đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền “đoàn kết kháng

chiến”, “mùa Đông kháng chiến” với nhiều hình thức như nói chuyện, bích báo, diễn

thuyết… Đông đảo quần chúng đã tham gia ủng hộ bộ đội, tiếp tế lương thực phục vụ

kháng chiến.

Trong Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Khu uỷ XII lần thứ 2 đã xác định nhiệm

vụ công tác vận động các tầng lớp nhân dân: Các đoàn thể quần chúng của Khu như

Page 53: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

49

Mặt trận Việt Minh ngay sau khi chấn chỉnh lại các đoàn thể cứu quốc, số và chất

lượng hội viên Việt Minh tăng lên đáng kể. Tính theo từng tỉnh: “Bắc Ninh có 45.064

hội viên; Bắc Giang có 67.509 hội viên; Lạng Sơn có 72.674 hội viên; Tính theo từng

giới: Phụ lão có 18.520 hội viên; Phụ nữ có 39.400 hội viên; Thanh niên có 48.210

hội viên; Nông dân có 43.615 hội viên; Thiếu nhi có 33.502 hội viên” [137, tr. 9].

Hội Liên Việt: Đã có tổ chức và đang phát triển ở Bắc Ninh, Bắc Giang và

Lạng Sơn. Đoàn thể Liên Việt thu hút hầu hết các tầng lớp thân sĩ trong Khu. Các

Ban Chấp hành huyện, tỉnh trong hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh đã thành lập và

hoạt động rất hiệu quả.

Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng của Cứu quốc Hội Khu uỷ XII

với nội dung chính là tuyên truyền vận động trong Hội và tuyên truyền kháng chiến.

Trong đó, tuyên truyền trong Hội để cho quần chúng hiểu rõ chủ nghĩa, chính sách,

chủ trương của Hội, có thiện cảm với Hội và để dần dần vận động họ vào các đoàn

thể quần chúng. Công tác tuyên truyền, vận động của Hội đã có kết quả tốt, kết nạp

thêm nhiều quần chúng tích cực vào Hội.

Bên cạnh việc tuyên truyền Hội, ở Khu uỷ XII còn hình thức tuyên truyền,

vận động kháng chiến. Mục đích là để động viên nhân dân tham gia kháng chiến

dưới nhiều hình thức như: chủ trương kháng chiến, phát triển, củng cố dân quân,

phát triển củng cố làng hay vùng chiến đấu, giữ gìn bí mật… Phổ biến và làm cho

nhân dân hiểu rõ âm mưu của thực dân Pháp để dân chúng vạch mặt nạ bọn Mặt

trận quốc gia thống nhất, giải thích âm mưu lập chính phủ bù nhìn của Bô-la-éc,

đề phòng tấn công Việt Bắc, gặt lúa cất thóc, đóng thuyền phòng lụt, đắp đê, vệ

sinh thôn quê… Hình thức tuyên truyền, vận động thông qua phòng thông tin, chòi

phát thanh, tuyên truyền lưu động, tranh ảnh khẩu hiệu, báo chí, bích báo, ca kịch

lưu động, ca dao kháng chiến.

2.1.3.4. Chủ trương và sự chỉ đạo của Khu uỷ XIV

Tháng 7-1947, Khu XIV được thành lập gồm 2 tỉnh: Sơn La, Lai Châu, một

phần tỉnh Phú Thọ và châu Mai Đà của tỉnh Hoà Bình. Ngay sau khi được thành

lập, Khu uỷ XIV đã nhận được Chỉ thị của Trung ương Đảng về công tác dân vận

trong đó đề ra chủ trương chung về việc vận động các giới cũng như kế hoạch tổ

Page 54: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

50

chức chấn chỉnh các Ban Dân vận trên địa bàn Khu. Thực hiện Chỉ thị của Trung

ương, Khu uỷ XIV đã đẩy mạnh công tác chuẩn bị kháng chiến, vận động nhân dân

tập trung phá hoại các kiến trúc kiên cố còn lại ở vùng địch có thể dùng làm căn cứ

đóng quân; đào hố cản kỵ binh vào làng cướp phá.

Tiếp đó, ngày 7-9-1947, Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị về việc vận động

“Ủng hộ Mùa đông binh sĩ” nhằm khuyến khích tinh thần tự nguyện của người dân,

quyên góp ủng hộ cho chiến sĩ và thực hiện Chỉ thị về việc “Phá kế hoạch tấn công

mùa đông của địch”. Để tăng cường, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng tham

gia phong trào ủng hộ kháng chiến, Khu uỷ XIV đã củng cố các ban dân vận từ tỉnh

đến cấp cơ sở nhằm tập hợp mọi lực lượng tham gia vừa sản xuất, vừa chiến đấu

chống thực dân Pháp xâm lược. Để thực hiện những chủ trương của Trung ương

Đảng về vận động toàn dân tham gia ủng hộ kháng chiến, Khu uỷ XIV ra Chỉ thị số

37 gửi các cấp bộ địa phương thực hiện ngay phong trào “Ủng hộ Mùa đông binh

sĩ” để các chiến sĩ kịp có áo mặc trong mùa đông, Khu uỷ vận động đồng bào làm

gấp và ủng hộ cho kháng chiến: Mỗi làng 02 áo trấn thủ hay một chăn cho bộ đội,

phổ biến kiểu áo và chăn của bộ đội năm 1947 để các làng làm cho thống nhất, vận

động anh em thợ may, các bà, các cô may áo, chăn cho bộ đội để nâng cao tinh thần

ủng hộ chiến sĩ của họ [125, tr. 8].

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về tổ chức bộ máy làm công tác

dân vận, Bộ Tổ chức của Trung ương đã chỉ đạo các khu, tỉnh, huyện cần thành lập

Ban Dân vận các cấp để nghiên cứu và điều hành việc vận động các giới và quần

chúng vào các đoàn thể nhằm huy động toàn dân tham gia kháng chiến. Cuối năm

1947, Khu uỷ XIV đã tổ chức xong Ban Dân vận Khu và đang tổ chức tiểu ban vận

động các giới (thanh vận, phụ vận, dân tộc thiểu số, vận động Liên Việt…). Tuy

nhiên, ở một số địa phương tỉnh, huyện, châu chưa tổ chức được Ban Dân vận hoặc

chưa có người phụ trách chuyên môn về dân vận và vận động các giới nên công tác

vận động đạt kết quả chưa cao.

Công tác dân vận miền núi ở những vùng địch chiếm đóng được Khu uỷ thường

xuyên quan tâm. Ban Thường vụ Khu uỷ XIV chỉ đạo đẩy mạnh công tác đào tạo cán

bộ địa phương nhằm phục vụ công tác vận động đồng bào miền núi. Các cấp bộ đoàn

Page 55: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

51

thể phải coi việc đào tạo cán bộ địa phương là việc tối quan trọng đối với tất cả các cán

bộ chính trị, cán bộ quân sự và cán bộ làm công tác dân vận; việc lựa chọn cán bộ địa

phương người miền núi không nhất thiết phải có trình độ văn hoá, cũng như hiểu biết

cao về chính trị như miền xuôi mà phải chọn những người có tinh thần cách mạng hăng

hái, huấn luyện cho họ, đưa họ về địa phương để hoạt động.

Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng về việc phá kế hoạch mùa đông của

thực dân Pháp được thi hành nhanh chóng và chu đáo, Khu uỷ XIV yêu cầu các cấp

bộ phải có kế hoạch thi hành các công tác chính: Củng cố các căn cứ địa về mọi

mặt, dân vận, quân sự, kinh tế… và các căn cứ địa phải có sự liên lạc với nhau;

quân sự hoá các cơ quan và bộ máy kháng chiến, bộ đội cũng như dân quân phải

tích cực bảo vệ các cơ quan khi đóng cũng như khi đi, nhất là các cơ quan trọng

yếu; củng cố bộ máy hành chính và kháng chiến ở vùng địch kiểm soát; họp dân

làm mít tinh, giải thích vạch rõ âm mưu của địch và cổ động nhân dân đoàn kết chặt

chẽ hơn, tham gia tác chiến, giúp đỡ bộ đội và tăng gia sản xuất; dùng mọi hình

thức tuyên truyền và tiếp tục trừ gian trong vùng địch kiểm soát, khiến cho địch

không thể tiến xa khỏi nơi chúng chiếm đóng; tăng cường công tác địch vận với

lính địch (cả lính Pháp, lính lê dương, lính thuộc địa).

2.1.3.5. Chủ trương và sự chỉ đạo của Liên Khu uỷ I

Để thống nhất việc chỉ huy và củng cố các cấp bộ Đảng, ngày 20-01-1948,

Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh 120/SL về việc thống nhất Khu I và Khu

XII thành Liên khu I gồm 10 tỉnh vùng Đông Bắc: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái

Nguyên, Lạng Sơn, Hải Ninh, Quảng Yên, Hồng Gai, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc

Yên. Ngay sau khi thành lập, Liên Khu uỷ I đã thực hiện những chủ trương của Hội

nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng về công tác dân vận trong giai đoạn

cách mạng mới, công tác dân vận cần củng cố, kiện toàn các cấp Hội và định rõ

chương trình hành động.

Hội Thanh niên Cứu quốc: ngay sau khi sát nhập Khu I và Khu XII, Khu bộ

Việt Minh đã tổ chức Ban Chấp hành Thanh niên Cứu quốc lâm thời và tổ chức Hội

nghị đại biểu toàn Liên khu từ ngày 31-3 đến 5-4 để thảo luận về phong trào thanh

niên ở miền ngược, miền xuôi và miền bị kiểm soát. Hội nghị đã ấn định một

Page 56: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

52

chương trình thời gian tới và có kế hoạch phát triển rõ ràng. Sự liên lạc với Mặt trận

và các đoàn thể khác ngày càng chặt chẽ và có sự phối hợp lẫn nhau.

Số lượng đoàn viên thanh niên trong Liên khu có tất cả 124.864 (chiếm

80% tổng số thanh niên trong Liên khu). Thành phần là thanh niên nông

dân, thanh niên trí thức, tiểu tư sản, một số đồng bào công giáo. Công tác

của thanh niên chủ yếu là hoạt động quân sự, nhất là thanh niên trong

vùng tạm chiếm [136, tr. 67].

Thực hiện Chỉ thị của Trung ương về kế hoạch vận động thanh niên tình

nguyện tòng quân, Ban Chấp hành Liên khu Đảng bộ Liên khu I xác định đây là

một trong những nhiệm vụ quân sự quan trọng để chuẩn bị cho việc Đẩy mạnh

phong trào thi đua ái quốc nhằm mục đích tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản

công. Liên Khu uỷ I đã ra Chỉ thị:

Vận động thanh niên tòng quân với mục đích: làm cho thanh niên hăng hái

tình nguyện đầu quân, ghi tên vào sổ càng nhiều càng hay, ít nhất là đủ số

tân binh mà Bộ Tư lệnh Liên khu đang cần. Kế hoạch vận động được đưa

ra là tuyên truyền đi trước để gây một phong trào sôi nổi để vận động

thanh niên ghi tên vào “Tuần lễ tòng quân” và đề cao những thanh niên

tình nguyện tòng quân. Việc vận động thanh niên tòng quân bắt đầu trước

hết là các đồng chí trẻ tuổi ở các chi bộ xã phải có nhiệm vụ xung phong

tình nguyện tòng quân. Ở các cuộc mít tinh ngày Căm thù đều nói đến

việc tòng quân và vận động thanh niên ghi tên [141, tr. 17-18].

Ban Chấp hành Phụ nữ Cứu quốc Liên khu đã được thành lập, Hội nghị Phụ

nữ Liên khu I ngày 27-4 đến ngày 2-5 đã thảo luận về phong trào phụ nữ miền

ngược, miền xuôi cũng như bị kiểm soát. “Số lượng đoàn viên phụ nữ trong toàn

Liên khu tính đến cuối năm 1948 là 181.873 (75% tổng số phụ nữ trong toàn Liên

khu). Ban Chấp hành Hội Phụ nữ Cứu quốc các cấp đã được kiện toàn tương đối

đầy đủ” [136, tr. 67].

Nông dân Cứu quốc Hội của Liên khu uỷ I đang tiến hành thành lập Ban

Chấp hành. Ngay từ khi mới sát nhập, Khu bộ Việt Minh đã cử một đồng chí ra phụ

trách việc thành lập Ban Chấp hành Nông dân Cứu quốc lâm thời. Tính đến cuối

Page 57: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

53

năm 1948, số lượng nông dân trong Cứu quốc Hội toàn Liên khu có 138.336 người.

Phong trào nông dân tiến triển mạnh mẽ do các cán bộ đã đi sâu vào các phong trào

để tuyên truyền giác ngộ cho nông dân; đã có những công tác thực tế như vận động

giảm tô, điều tra nông thôn, vận động tự túc… Ngoài ra, cán bộ nông vận phối hợp

công tác với các cơ quan chuyên môn của chính quyền như canh nông, tín dụng, sản

xuất; các cấp đảng bộ chú ý giúp đỡ nông dân; đã đào tạo được một số cán bộ xã để

gây cơ sở hoạt động ở miền ngược và vùng tạm chiếm. Nông dân rất tích cực tham

gia kháng chiến như: phá hoại, phối hợp với du kích để tiêu diệt, quấy rối địch hoặc

rào làng chiến đấu.

Công tác tuyên truyền của Mặt trận giúp dân chúng hiểu rõ về Mặt trận Việt

Minh và tin tưởng vào sự lãnh đạo kháng chiến của Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí

Minh đứng đầu. Đề cao vai trò của Mặt trận, vận động toàn dân đoàn kết, gia nhập

Hội Liên Việt, động viên tinh thần dân chúng tham gia kháng chiến với những

hành động cụ thể: canh gác, rào làng, đào hầm, lấp làng chiến đấu. Tổ chức tuần lễ

“Ngày xung phong phá hoại” và đề phòng cuộc tấn công của Pháp lên Việt Bắc

lần thứ 2, kết hợp với luyện quân đội lập chiến công, ủng hộ và đỡ đầu bộ đội và

du kích. Vận động nhân dân giảm ăn Tết Nguyên đán, bỏ đốt vàng mã, vận động

tự túc ăn mặc, tăng gia sản xuất…

2.1.3.6. Chủ trương và sự chỉ đạo của Liên khu uỷ X

Theo Sắc lệnh số 120/SL, ngày 20-01-1948 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về

việc thống nhất Khu X và Khu XIV thành Liên khu X với 08 tỉnh vùng Tây Bắc và

Trung du Bắc Bộ là: Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh

Yên, Lai Châu, Sơn La và châu Mai Đà của tỉnh Hoà Bình.

Tháng 6-1948, nhằm đẩy mạnh công tác dân vận trong giai đoạn mới để

phục vụ cho công tác kháng chiến và kiến quốc, Đảng bộ Liên khu X đã tổ chức

Hội nghị dân vận toàn Liên khu. Nghị quyết Hội nghị dân vận của Liên khu ra đời

giữa lúc Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị cho các cấp bộ chuẩn bị thống nhất

Mặt trận Việt Minh và Liên Việt để xây dựng một mặt trận dân tộc thống nhất

rộng rãi. Hội nghị cán bộ Dân vận Liên khu X đã thảo luận dự án, kế hoạch dựa

trên chủ trương đó. Bản Nghị quyết Hội nghị Dân vận được cán bộ các ngành dân

Page 58: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

54

vận trong Liên khu thi hành và thực hiện chỉ thị của Trung ương, đồng thời vạch

rõ cho các cán bộ làm công tác dân vận hiểu nhiệm vụ, quyền hạn và phương pháp

làm việc của Ban Dân vận và các tiểu ban ấn định một chủ trương, kế hoạch vận

động các giới.

Theo Nghị quyết Hội nghị, phải đặt vấn đề dân vận là vấn đề cốt yếu của

cuộc kháng chiến, việc vận động các giới, các tầng lớp nhân dân là một trong những

công tác quan trọng nhất. Công tác dân vận đều hướng theo mục đích đoàn kết để

kháng chiến và kiến quốc trên lập trường “Toàn dân đoàn kết rộng rãi”. Trong đó,

phải tổ chức và kiện toàn Ban Dân vận các cấp và các tiểu ban. Các tỉnh, huyện uỷ

phải cử 01 đồng chí trong cấp uỷ làm Trưởng ban Dân vận; Chi uỷ cử 01 đồng chí

chi uỷ viên phụ trách dân vận. Tiểu ban vận động các giới ở cấp khu, tỉnh (công

vận, thanh vận, phụ vận…) có từ 03 đến 05 đồng chí. Ở các tỉnh khó khăn như Lào

Cai, Sơn La, Hà Giang, và châu Đà Bắc, do hoàn cảnh đi lại khó khăn thiếu nhiều

cán bộ nên tổ chức Ban Dân vận kiêm tiểu ban phụ trách miền núi. Bên cạnh đó,

phải nhận định rõ nhiệm vụ quyền hạn của Ban Dân vận và các tiểu ban:

Ban Dân vận và tiểu ban có nhiệm vụ nghiên cứu tình hình về mọi mặt kinh

tế, chính trị, văn hoá của mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài tổ chức, tổng kết

kinh nghiệm ở các địa phương để xây dựng kế hoạch vận động các giới. Nghiên cứu

kế hoạch xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi. Cải thiện đời sống cho

nhân dân. Mở rộng ảnh hưởng của Hội trong nhân dân để nghiên cứu sinh hoạt, đời

sống, tâm lý của từng giới để đặt kế hoạch tuyên truyền, vận động cho sát.

Quyền hạn của Ban Dân vận và các tiểu ban là chỉ huy trực tiếp của cấp bộ

Hội và tương đương. Ban Dân vận và các tiểu ban vận động các giới có quyền hạn

về mọi mặt công tác chuyên môn. Ban Dân vận và các tiểu ban không được chỉ huy

trực tiếp Hội đoàn, các đoàn thể quần chúng, mà chỉ liên lạc, trao đổi tài liệu cùng

nhau đặt kế hoạch chung và mọi vấn đề đưa lên cấp uỷ. Những chỉ thị, nghị quyết,

thông cáo của Ban Dân vận và các tiểu ban vận động các giới, gửi xuống các cấp bộ

hội phải được cấp uỷ thông qua mới được thi hành và coi như chỉ thị của cấp uỷ.

Các cán bộ dân vận cấp uỷ phải đi kiểm tra phong trào các địa phương, có quyền

Page 59: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

55

can thiệp (khi mang giấy giới thiệu) để cấp uỷ địa phương sửa chữa những điểm trái

với nguyên tắc và nghị quyết đã có trong vấn đề dân vận, những chủ trương mới

đưa lên cấp uỷ trên thông qua và ra các chỉ thị để thi hành.

Công tác dân vận thời kỳ này xác định nhiệm vụ trọng tâm là: Xây dựng Mặt

trận Dân tộc thống nhất thực sự và rộng rãi; Cải thiện sinh hoạt cho nhân dân; Động

viên nhân dân thi đua yêu nước; Vận động đồng bào vùng địch tạm kiểm soát; Làm

cho các đoàn thể quần chúng độc lập hoạt động về mọi mặt và tự chỉ huy phong trào;

Mở rộng ảnh hưởng của Hội trong nhân dân.

Cuộc kháng chiến kiến quốc của dân tộc bước sang thời kỳ mới, với yêu cầu

cần phải có khối đại đoàn kết toàn dân mới giành được thắng lợi. Nhiệm vụ “Chuẩn

bị tổng phản công” ngày càng đòi hỏi một sự đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ hơn. Sự

đồng thời tồn tại hai hệ thống tổ chức Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt có nhiều

điều bất lợi cho việc tập hợp quần chúng nhân dân. Cả Mặt trận Việt Minh và Liên

Việt đều là tổ chức mặt trận dân tộc phụng sự cho một mục đích là “Giành độc lập,

thống nhất cho nước” và làm chung một công tác là “Kháng chiến, kiến quốc”. Đối

với dân chúng, hai mặt trận đồng thời tồn tại sẽ dễ làm cho họ phân vân, không biết

đâu mới là tổ chức chính và không biết theo bên nào. Công tác vận động đồng bào

sẽ gặp nhiều khó khăn, tổ chức của các giới cũng khó hành động, hội viên ở trong

hai đoàn thể phải khai hội nhiều, số nguyệt phí tăng, phong trào đoàn thể khó phát

triển, lại dễ sinh việc chia rẽ, bè phái và giành giật hội viên của nhau. Do đó, nếu

không hợp nhất Mặt trận và Liên Việt thì không thống nhất được lực lượng toàn dân

để dốc mọi khả năng của dân tộc vào cuộc chuẩn bị tổng phản công. Trái lại, nếu

thống nhất được Mặt trận Việt Minh và Liên Việt thì sẽ có đủ cán bộ hoạt động cho

đoàn thể, làm cho Liên Việt phát triển mạnh hơn nữa, vững chắc hơn nữa. Các tổ

chức trong mặt trận sẽ dễ dàng chỉnh đốn, mỗi giới sẽ dễ dàng thống nhất tổ chức

và chủ trương hành động của giới mình. Chính vì vậy, mặt trận sẽ ngày càng thống

nhất, đoàn kết và bền chặt.

Nhìn chung, cho đến trước khi thành lập Liên khu Việt Bắc (10-1949), cũng

có thể hiểu là trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, công tác dân vận của các

Đảng bộ Khu, Liên khu trên địa bàn Việt Bắc đã tập trung thực hiện được nhiều nội

Page 60: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

56

dung quan trọng: quan tâm, đi sâu thực hiện dân vận với đồng bào dân tộc thiểu số

Việt Bắc; hình thành, củng cố hệ thống tổ chức thực hiện công tác dân vận và đội

ngũ cán bộ dân vận; tuyên truyền, vận động nhân dân hiểu rõ, quán triệt đường lối

kháng chiến và ủng hộ, tham gia kháng chiến; giữ vững tư tưởng, tích cực tham gia

chiến dịch Việt Bắc (Thu - Đông 1947). Đây là những tiền đề quan trọng để Đảng

bộ Liên khu Việt Bắc tăng cường công tác dân vận sau khi Liên khu ra đời.

2.2. ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC ĐƯỢC THÀNH LẬP, LÃNH ĐẠO

THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN VẬN TỪ THÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1952

2.2.1. Liên khu Việt Bắc được thành lập

Xuất phát từ tình hình thực tế và yêu cầu của cuộc kháng chiến, Hội nghị

Ban Thường vụ Trung ương Đảng vào ngày 28 và ngày 29-9-1949 ra Nghị quyết số

28/NQ-TW về việc thống nhất hai Liên khu I và Liên khu X thành Liên khu Việt

Bắc. Nghị quyết Hội nghị thống nhất hai Liên khu I và Liên khu X ngày 27, 28-10-

1949 đã được Trung ương thông qua.

Tiếp sau đó, ngày 04-11-1949, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

đã ra Sắc lệnh số 127/SL về hợp nhất Uỷ ban Kháng chiến của hai Liên khu thành

Uỷ ban Hành chính kháng chiến Liên khu Việt Bắc. Đồng chí Chu Văn Tấn (Tân

Hồng) làm Chủ tịch, đồng chí Bùi Quang Tạo và đồng chí Thân làm Phó Chủ tịch.

Thời kỳ đầu, phạm vi hoạt động ở Liên khu Việt Bắc trong 17 tỉnh: Cao Bằng,

Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái,

Sơn La, Lai Châu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Quảng

Yên, Hải Ninh, Đặc khu Hồng Gai và huyện Mai Đà của tỉnh Hòa Bình. Năm

1950, 2 tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên hợp nhất thành Vĩnh Phúc. Ngày 27-7-1952,

Trung ương ra Nghị quyết thành lập khu Tây Bắc gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu,

Lào Cai và Yên Bái của Việt Bắc cắt ra cho khu Tây Bắc.

Việt Bắc là khu hành chính - quân sự với diện tích 102.700 km2 (chiến

1/10 diện tích cả nước). Phía Bắc là biên giới Việt - Trung, phía Nam giáp với

các tỉnh Liên khu III, phía Đông là bờ biển vịnh Bắc Bộ chạy dọc các tỉnh Quảng

Yên và Hải Ninh, phía Tây là biên giới Việt - Lào. Việt Bắc có vị trí giao thông

khá thuận tiện, giáp với thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải Phòng.

Page 61: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

57

2.2.2. Tình hình mới và chủ trương của Trung ương Đảng về công tác

dân vận

Năm 1949, cách mạng thành công, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được

thành lập (01-10-1949) đã có những tác động tới bối cảnh lịch sử cách mạng thế giới

nói chung và châu Á nói riêng. Đến tháng 1-1950, mối quan hệ của nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hoà với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã được xác lập làm

thay đổi cán cân lực lượng cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Liên Xô và

các nước dân chủ nhân dân Á - Âu giành nhiều thắng lợi trong việc xây dựng đất

nước. Liên minh toàn diện giữa Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa hình thành.

Nhiều hiệp ước hữu nghị và hợp tác được kí kết, góp phần tăng cường sức mạnh của

hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Thời kỳ này, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh ở châu Á, châu

Phi và khu vực Trung Cận Đông đã làm cho hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế

quốc bị lung lay trên phạm vi toàn thế giới. Phong trào cách mạng trên giải phóng

dân tộc phát triển mạnh mẽ. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và tăng

cường về mọi mặt. Phong trào giải phóng dân tộc vẫn tiếp tục phát triển làm rung

chuyển hậu phương của chủ nghĩa đế quốc. Phong trào bảo vệ hoà bình thế giới trở

thành phong trào quần chúng rộng rãi.

Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Trung Quốc, Liên Xô. Ngày

18-1-1950, Chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, sau đó là Chính phủ Liên Xô

và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên đã công nhận và đặt quan hệ

ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Cuộc kháng chiến của nhân

dân Việt Nam bắt đầu nhận được viện trợ về vật chất của Trung Quốc và Liên Xô.

Một số cố vấn của Trung Quốc đã đến giúp đỡ Việt Nam. Nhân dân nhiều nước châu

Á, châu Phi đã dành cho nhân dân Việt Nam cảm tình đặc biệt và sự ủng hộ tích cực.

Phong trào phản chiến của nhân dân tiến bộ Pháp phát triển rầm rộ. Cách mạng Việt

Nam có điều kiện mở rộng quan hệ với các Đảng Cộng sản và Chính phủ Trung

Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân, các lực lượng hòa bình, dân chủ và tiến

bộ trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ vật chất, tinh thần từ bên ngoài, tăng

thêm sức mạnh cho cuộc kháng chiến.

Page 62: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

58

Về phía đế quốc, đứng đầu là Mỹ, từ năm 1950, Mỹ đã căn bản hoàn thành

việc chia lại thị trường thế giới tư bản dưới sự khống chế của Mỹ. Mỹ còn ra sức

tiếp tay cho các đế quốc khác trong cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa, chuẩn bị

điều kiện hất cẳng bọn thực dân cũ, thay bằng chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.

Trong quan hệ với Đông Dương, để cứu nguy cho Pháp đang sa lầy trong

cuộc chiến tranh và thực hiện ý đồ can thiệp sâu vào Đông Dương, Mỹ đã quyết

định tăng cường viện trợ cho Pháp và quân đội bù nhìn. Sự can thiệp của đế quốc

Mỹ vào chiến tranh Việt Nam và mưu đồ của thực dân Pháp đối với chiến tranh

Việt Nam đã có những thay đổi. Tình hình kinh tế và chính trị nước Pháp không ổn

định, ngày càng sa lầy và thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông

Dương, kinh tế suy thoái, phải nhận viện trợ của Mỹ. Đế quốc Mỹ thực hiện kế

hoạch Mácsan với âm mưu vừa vực dậy, vừa khống chế các nước Tây Âu.

Tại Pháp, cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài; thất bại bước đầu trong chiến

tranh ở Đông Dương làm cho Pháp thêm khó khăn. Phong trào phản chiến của nhân

dân tiến bộ Pháp phát triển. Bị thất bại trong chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh"

thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng sang "đánh lâu dài" với âm mưu "lấy chiến

tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt". Chúng ráo riết bình định

vùng tạm chiếm, đẩy mạnh xây dựng chính phủ bù nhìn, mở rộng ngụy quân. Mỹ

trở thành tên sen đầm quốc tế, tăng cường giúp đỡ Pháp và can thiệp trực tiếp vào

cuộc chiến tranh Đông Dương.

Tình hình quốc tế lúc này có tác động vào Đông Dương trên hai phương

diện: Sự ủng hộ về tinh thần và giúp đỡ về vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa

cho cuộc kháng chiến của ba nước Đông Dương là một nhân tố tích cực; Song song

với những nhân tố mới tích cực, việc Mỹ cấu kết với Pháp, tăng cường can thiệp

vào Đông Dương… cũng gây cho cuộc kháng chiến của nhân dân Đông Dương

nhiều khó khăn. Điều đó đòi hỏi Đảng phải có những chủ trương, chính sách phù

hợp với tình hình mới.

Ở trong nước, sau 16 năm kể từ Đại hội lần thứ I của Đảng, tình hình có

những chuyển biến căn bản. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đưa nhân

dân Việt Nam từ người mất nước lên địa vị làm chủ đất nước. Nhưng do dã tâm

Page 63: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

59

xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam phải tiếp tục cầm súng đứng

lên đánh giặc để bảo vệ nền tự do, độc lập. Qua hơn 5 năm chiến đấu, cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam đã liên tiếp thu được

nhiều thắng lợi, thực dân Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến và khó tránh

khỏi thất bại. Thế và lực của cuộc kháng chiến từ sau chiến thắng Biên giới

(1950) có bước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn mới cuộc

kháng chiến lại có những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng phải giải quyết những vấn

đề lý luận và thực tiễn cấp bách để đưa cách mạng tiến lên.

Ở hai nước bạn Lào và Campuchia, cuộc kháng chiến cũng giành được

những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng của

cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Đảng Cộng sản Đông Dương đã luôn làm

tròn vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, Đảng

cũng bộc lộ một số thiếu sót, hạn chế trong quá trình lãnh đạo. Mặt khác, cuộc kháng

chiến của ba nước Đông Dương tuy cùng chung một mục tiêu, cùng một chiến

trường, nhưng mỗi nước đã có những bước phát triển riêng biệt. Tình hình đó đang

đòi hỏi mỗi nước cần phải thành lập một chính đảng cách mạng theo Chủ nghĩa Mác-

Lênin, trực tiếp đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử trước dân tộc mình và chủ động góp

phần vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân ba nước.

Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được

triệu tập nhằm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của tình hình mới. Đại hội họp tại

xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình), huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang từ

ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Về dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại

biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên đang sinh hoạt trong Đảng bộ toàn

Đông Dương.

Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh

đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ

những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển

chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội... Ba nhiệm

vụ đó khăng khít với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là hoàn thành giải phóng dân tộc,

phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược... Lực

Page 64: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

60

lượng của cách mạng Việt Nam gồm có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai

cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra, còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước

và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó hợp lại thành khối đoàn kết toàn

dân mà nền tảng là công, nông và lao động trí thức. Giai cấp công nhân là giai cấp

tiên phong lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân

chủ nhân dân. Cách mạng Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo,

nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất (tháng 3-1951) đã đề ra

những công việc quan trọng và cấp bách trước mắt đó là: sản xuất lương thực; dân

công; giảm chi; thuế; đấu tranh kinh tế tài chính với địch. Như vậy, Hội nghị đã tập

trung giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, tài chính để bồi dưỡng sức dân và bảo đảm

cung cấp đầy đủ mọi mặt cho quân đội; thực hiện phương châm tác chiến là tiêu

diệt địch, phát triển lực lượng ba thứ quân; tăng cường công tác địch vận.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai (tháng 9-1951): Nhằm

củng cố và phát triển phong trào đấu tranh ở vùng sau lưng địch, Hội nghị đề ra

3 công tác lớn: công tác dân vận, vận động ngụy binh và phát triển chiến tranh

du kích. Ở vùng sau lưng địch công tác dân vận là công tác chính, làm gốc cho

mọi công tác khác… Xây dựng và giữ vững được cơ sở nhân dân tức là tích trữ

được lực lượng, tạo điều kiện cần thiết để phát động, giữ vững và đẩy mạnh đấu

tranh vũ trang. Vận động ngụy binh là một công tác quan trọng trong vùng bị

tạm chiếm và vùng du kích, là công tác vận động quần chúng.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (tháng 4-1952): Với

phương châm nhạy bén, bám sát quần chúng, thống nhất chỉ đạo, tổ chức Đảng phải

chặt chẽ, bí mật, gọn gàng, các cấp ủy Đảng đã đẩy mạnh công tác vận động quần

chúng, làm cho nhân dân thấy rõ những âm mưu xảo quyệt của địch, xác định trọng

tâm chính của phong trào đấu tranh là phá cho được kế hoạch bình định của địch.

2.2.3. Chủ trương của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc về công tác dân vận từ

tháng 10-1949 đến tháng 7-1952

Trước tình hình mới của cuộc kháng chiến, kiến quốc, Đảng bộ Liên khu

Việt Bắc đã có những chủ trương lớn về công tác dân vận nhằm huy động sức

Page 65: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

61

người, sức của phục vụ kháng chiến. Để đẩy mạnh công tác dân vận trên địa bàn

Liên khu, Đảng bộ Liên khu đã triệu tập Hội nghị Cán bộ dân vận và các Đảng đoàn

(từ ngày 4 đến 5-10-1949) nhằm đề ra phương hướng cho công tác trước mắt của

ngành dân vận, trong đó, phải nắm vững những ngành chính yếu trong thời điểm

này là công giáo, Hoa kiều, miền núi, biên giới, căn cứ địa. Những công tác cần kíp

của các Ban, các ngành nói chung là đào tạo cán bộ và củng cố các tổ chức cơ quan

quần chúng để nắm vững các tổ chức đó; đào tạo các cán bộ địa phương trong vùng

địch. Địch đánh lên chỗ nào thì cán bộ phải ở lại để lãnh đạo phong trào, sau khi

địch rút đi cán bộ phải luôn gần gũi, tuyên truyền, động viên nhân dân, huấn luyện

công tác bí mật cho cán bộ vùng tự do và vùng địch.

Một trong những nội dung quan trọng mà Đảng bộ Liên khu Việt Bắc chủ

trương trong thời kỳ này là thống nhất Mặt trận Việt Minh với Hội Liên Việt. Đối

với Mặt trận Việt Minh: các giới xúc tiến việc củng cố, tuyên truyền, giải thích cho

các cấp và quần chúng hiểu ý nghĩa của việc thống nhất Mặt trận Việt Minh với Hội

Liên Việt; theo chỉ thị của Tổng bộ thì bao giờ thống nhất hết ở cấp dưới mới được

thống nhất toàn bộ. Đối với Hội Liên Việt: phải chấn chỉnh ban chấp hành các cấp,

đưa những người có năng lực, tinh thần, hoạt động thực sự vào các ban chấp hành

để thay thế những người chưa làm được việc.

Trong thời gian này, thực dân Pháp và các thế lực phản động luôn dùng

chiêu bài kích động công giáo, âm mưu chia rẽ khối đoàn kết của toàn dân. Không

để kẻ thù chia rẽ và phá hoại sức mạnh của khối đoàn kết, đặc biệt là đoàn kết giữa

đồng bào các tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến vấn đề vận

động tôn giáo, mà còn mềm dẻo trong cách ứng xử với với các vị chức sắc tôn giáo,

với các giáo dân. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở vào giai

đoạn gay go, quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư chúc mừng đồng bào

công giáo Việt Bắc nhân dịp Noel (tháng 12-1949) động viên và kêu gọi đồng bào

lương, giáo đoàn kết chặt chẽ đẩy mạnh kháng chiến:

Cuộc kháng chiến ngày càng đến gần toàn thắng, đó là nhờ sự đoàn kết

khăng khít và sự anh dũng chiến đấu của toàn dân ta, giáo cũng như

lương. Sang năm mới, cuộc kháng chiến sẽ bước sang giai đoạn mới, tức

Page 66: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

62

là chuẩn bị mau đầy đủ để chuyển sang hướng tổng phản công. Tôi tin

rằng các Vị sẽ nỗ lực kêu gọi đồng bào lương và giáo đoàn kết chặt chẽ

hơn nữa, thi đua tham gia kháng chiến mạnh hơn nữa, để mau đi đến

thắng lợi hoàn toàn [101, tr. 1].

Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân

Việt Nam có những phát triển mới, việc thống nhất các đoàn thể quần chúng, các

giới trở thành yêu cầu cấp thiết của công tác dân vận lúc này. Để kịp thời chỉ đạo

công tác dân vận, Hội nghị cán bộ các ngành dân vận Đảng bộ Liên khu Việt Bắc

được triệu tập (từ ngày 25 đến ngày 27-5-1950). Hội nghị đặt ra những chủ trương,

nhiệm vụ và chương trình công tác cơ bản:

Chống chính sách chia rẽ của địch, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết,

vận động nhân dân tích cực chống chính quyền bù nhìn và xây dựng chính quyền

cách mạng, phá việc lập xứ Cao Lạng tự trị và mưu mô phát triển thổ phí hoá của

Pháp ở Hoành Bồ (Hòn Gai), nắm vững công giáo ở trung du, đặc biệt là chú trọng

các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và Vĩnh Phúc, đả phá tư tưởng cầu an, thân Mỹ và sợ

Mỹ, gây cho nhân dân có tinh thần chịu đựng gian khổ để chiến thắng.

Đảng bộ Liên khu chú trọng đẩy mạnh công tác xây dựng Mặt trận Dân tộc

thống nhất và củng cố các tổ chức quần chúng phải hoàn thành việc thống nhất Việt

Minh với Liên Việt ở cấp Khu và các tỉnh ở miền ngược; chấn chỉnh lề lối làm việc

cho đúng tính chất mặt trận, sắp xếp các tổ chức quần chúng theo tinh thần Nghị

quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ III và Nghị quyết Đại hội các ngành, xúc tiến việc

thành lập công đoàn giáo giới, công đoàn viên chức, các uỷ ban xí nghiệp, củng cố

công đoàn cơ sở vận tải.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã vận

động nhân dân thi hành Sắc lệnh Tổng động viên bằng những công tác cụ thể như:

Giải thích và phổ biến sâu rộng vấn đề “hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị

chuyển mạnh sang tổng phản công” trong nhân dân để có ý thức đúng

về tổng động viên; phối hợp với chính quyền thi hành sắc lệnh tổng

động viên; vận động nhân dân đóng công lương, đóng thuế bằng thóc,

bán thóc, quân lương; huy động nhân công sửa chữa cầu cống, đường

Page 67: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

63

xá theo chương trình của Bộ Quốc phòng và giao thông công chính;

tiếp tục vận động nhân dân cấp dưỡng bộ đội địa phương; phát triển

phong trào tòng quân luyện tập quân sự, thi đua lập thành tích; vận

động nhân dân tham gia chuẩn bị chiến trường về mọi mặt (y tế, vận

tải, phá hoại…) [111, tr. 28].

Nhằm đẩy mạnh công tác vùng địch, Đảng bộ Liên khu chủ trương vận động

thực hiện khẩu hiệu của Trung ương Đảng “tất cả cán bộ dân vận trở về với quần

chúng mình phụ trách trong lòng địch”, lãnh đạo xúc tiến việc phát triển cơ sở trong

lòng địch, chú trọng những vùng kinh tế quan trọng, các thị trấn, các đường giao

thông chính và vùng công giáo.

Liên khu tập trung xây dựng khối liên minh công, nông, binh để bộ đội và

nông dân hiểu rõ vai trò công nhân và sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức những cuộc

liên hoan công - nông - binh tại nhưng địa phương có xí nghiệp và bộ đội đóng

quân; vận động nông dân ủng hộ và bán rẻ lương thực cho bộ bội và công nhân các

xí nghiệp; vận động công nhân và bộ đội đóng ở địa phương tổ chức những tuần lễ

giúp đỡ nông dân (sản xuất nông cụ; cấy, gặt giúp nông dân…).

Để phục vụ cho những chiến dịch lớn trong thời gian vừa qua, công tác dân

vận của Đảng đã có những chuyển hướng mới. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Việt Bắc

lần thứ nhất (từ ngày 11 đến ngày 20-5-1951) đã xác định chuyển hướng công tác dân

vận và Mặt trận Dân tộc thống nhất:

Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã có những chủ trương, định hướng mới Công

tác dân vận từ sau Chiến dịch Biên giới (1950), chú trọng công tác huy động nhân

lực, dân công và tổ chức đội ngũ dân công tương tự như các đơn vị bộ đội, các cán

bộ là người chịu trách nhiệm về kết quả công tác của các đoàn dân công mà cấp trên

giao. Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ Liên khu, công tác dân công được tổ chức chặt

chẽ và kiểm điểm kết quả công tác rõ ràng, nên cán bộ nhận thức được việc bám sát

quần chúng rất quan trọng, thấy rõ được sức mạnh và sáng kiến của quần chúng, tôn

trọng cách làm việc dân chủ, động viên và phát huy được khả năng và tinh thần tích

cực của quần chúng.

Page 68: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

64

Về công tác Mặt trận, Đại hội Đảng toàn quốc và Đại hội thống nhất Mặt trận

Việt Minh - Hội Liên Việt được tổ chức. Mặt trận là khối liên minh giai cấp và các

Đảng phái lấy công tác dân vận để tập hợp và vận động quần chúng thi hành các

chính sách của Đảng và tuyên truyền gây ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng.

Quy chế tổ chức và lề lối làm việc của Mặt trận đã được xây dựng đúng với chính

sách liên minh giai cấp và liên minh các Đảng phái của Đảng, Mặt trận sẽ đứng lên

điều hoà quyền lợi của các giai cấp và các vấn đề lớn, ích quốc lợi dân, không can

thiệp vào các việc riêng của đoàn thể, Mặt trận ở cấp nào sẽ phụ thuộc vào sự lãnh

đạo của cấp uỷ ngang cấp ấy và chịu sự chỉ huy theo hệ thống dọc của nó.

Đảng bộ Liên khu Việt Bắc chủ trương phát triển củng cố tổ chức quần

chúng để phát huy tinh thần yêu nước chân chính và ý chí kiên quyết kháng chiến

đến toàn thắng của nhân dân. Đảng bộ xác định nhiệm vụ của công tác dân vận thời

kỳ này là phải hoàn chỉnh việc chuyển hướng các tổ chức theo giai cấp, lãnh đạo

các tổ chức mưu lợi ích thiết thực cho quần chúng và cho quốc gia, tìm cách mở

rộng công tác dân vận trong các đoàn dân công. Ngoài ra, phải đặt biệt chú ý phát

triển tổ chức quần chúng tại những vùng mới được giải phóng và những nơi cơ sở

cách mạng còn non yếu, làm thế nào để tổ chức quần chúng thu hút được “đông đảo

quần chúng công giáo ở miền xuôi và quần chúng dân tộc Dao, H’Mông, Thái,

Nùng, Ngái ở Tây Bắc và Đông Bắc” [153, tr. 52]. Trong việc củng cố các tổ chức

quần chúng ngoài công tác giáo dục quần chúng, đào tạo những cán bộ quần chúng

có tinh thần năng lực, phải vận động các tổ chức thi đua đạt thành tích kháng chiến,

kiến quốc để đề cao tổ chức mình với quốc dân. Kinh nghiệm trong thời gian qua

cho thấy cần phải ấn định hướng chính của công tác dân vận thích hợp với khả năng

của mỗi tổ chức. Theo chủ trương của Trung ương Đảng, công tác dân vận ở Liên

khu Việt Bắc được định hướng chính cho các tổ chức:

Thanh niên trong các tổ chức phải nêu cao gương xung phong tích cực thực

hiện nhiệm vụ công tác của tổ chức;

Tổ chức phụ nữ ngoài tăng gia sản xuất cần gây dựng phong trào phụ nữ chủ

động trong các công việc đồng áng và công việc trong các cơ quan, nhà máy (trước

Page 69: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

65

đây vẫn do nam giới phụ trách). Những địa phương có chiến dịch, phụ nữ đảm

nhiệm thêm việc săn sóc thương binh trong các quân y viện;

Tổ chức nông dân thi đua tăng gia sản xuất, bảo đảm cung cấp lương thực

cho bộ đội, lập những kỷ lục về tăng năng suất của ruộng đất, thực hiện “vụ mùa

thắng lợi”, thi đua đề cao chiến sĩ nông nghiệp;

Tổ chức công nhân đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, đề cao những tấm gương

anh hùng lao động, sản xuất. Lao động trí óc thi đua sửa đổi lề lối làm việc, cải tạo

tư tưởng để tăng hiệu suất công việc.

Công tác giáo dục quần chúng phát huy tinh thần yêu nước chân chính và chí

kiên quyết kháng chiến đến toàn thắng để làm thất bại hoàn toàn mọi mưu mô chia

rẽ, lừa phỉnh thâm độc của địch, sẵn sàng chịu đựng mọi hy sinh, khắc phục mọi

khó khăn gian khổ, thiếu thốn để kháng chiến lâu dài và kháng chiến toàn thắng.

Căn cứ vào tình hình chung và chủ trương mới của Đảng bộ Liên Khu, công

tác vận động, tuyên truyền nhân dân của toàn Liên khu Việt Bắc trong thời kỳ đầu

năm 1951 đều nhằm mục đích: Nhân đà thắng lợi, đẩy mạnh việc tuyên truyền, vận

động đồng chí và quần chúng tích cực phục vụ tiền tuyến để tiêu diệt sinh lực địch

trên chiến trường Liên khu, làm cho sức ta hơn hẳn sức địch, góp phần chuẩn bị

chuyển mạnh sang Tổng phản công.

Những nhiệm vụ cụ thể được Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đặt ra như: Mở

cuộc tuyên truyền, vận động xây dựng ý thức giữ bí mật, phòng gian, phòng không;

tuyên truyền vận động nhân dân trong các công tác chính:

Sửa đường, vận tải, bán thóc, tiếp lương, mua công trái; tuyên truyền

khuếch trương chiến thắng, đẩy mạnh những nhiệm vụ thường xuyên

trong và ngoài Đảng; tuyên truyền đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng

trung du, địch vận, nguỵ vận, đánh những đòn nặng vào tinh thần địch;

ấn định rõ việc tuyên truyền từng đợt trong từng thời điểm do địa

phương quyết định [57, tr. 2].

Đảng bộ Liên khu đã đề ra kế hoạch thực hiện nhằm giải thích sâu rộng ý

nghĩa quan trọng của việc động viên nhân lực, vật lực, tài lực cho nhân dân. Nêu rõ

sự quan trọng của từng nhiệm vụ trong từng thời điểm của cuộc kháng chiến để nhân

Page 70: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

66

dân hiểu rõ và kịp thời chống phá những quan điểm sai trái trong Đảng cũng như

ngoài quần chúng; tránh tuyên truyền một chiều, nêu khó khăn và nêu triển vọng.

Bước sang năm 1952, công cuộc kháng chiến, kiến quốc của quân và dân Việt

Nam có những chuyển biến mới. Hướng công tác dân vận và mặt trận lúc này nhằm

thực hiện ba nhiệm vụ lớn năm 1952 của Đảng và Chính phủ: Một là, tiêu diệt sinh

lực địch, phát triển chiến tranh du kích; Hai là, phá chính sách lấy chiến tranh nuôi

chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch; Ba là, tăng gia sản xuất và

tiết kiệm để bồi dưỡng quân và dân.

Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định ba nhiệm vụ trong đó nhiệm vụ trọng

tâm công tác dân vận ở vùng tự do là vận động nhân dân sản xuất tiết kiệm; ở vùng

du kích và vùng tạm chiếm chú trọng phát triển du kích chiến tranh, tranh đấu

chống địch áp bức bóc lột hàng ngày.

Ở vùng tự do, công tác dân vận và mặt trận là động viên mọi lực lượng nhân

dân thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm, kết hợp với việc thu thuế nông nghiệp

trong 1952 và đóng góp phục vụ tiền tuyến. Thực hiện nhiệm vụ những công tác

trọng yếu: Nhận rõ nhiệm vụ sản xuất và tiết kiệm là việc cần thiết nhất ở vùng tự

do. Tất cả các ngành, các giới phải giải thích rõ ý nghĩa kinh tế, chính trị và vận

động nhân dân tích cực thực hiện chương trình sản xuất tiết kiệm của Đảng và

Chính phủ; Vận động nhân dân lập kế hoạch gia đình đồng thời phát động phong

trào ký giao ước ái quốc; Phát triển vận tải và tiểu công nghệ phục vụ cho sản xuất

nông nghiệp; Tích cực sửa chữa những sai lầm trong việc thực hiện chính sách

ruộng đất để đẩy mạnh sản xuất; Thực hiện kế hoạch vụ mùa và chuẩn bị giống cho

vụ chiêm (1953); Vận động nhân dân bảo vệ đê điều và mương phai. Chú trọng giải

thích việc thu thuế rẫy, giáo dục và động viên nhân dân có ý thức trong công tác

dân công và hiểu đúng về công tác tòng quân.

Ở vùng du kích và vùng bị tạm chiếm, quá trình vận động nhân dân vừa qua

đã chỉ rõ nhân dân trong vùng bị chiếm và vùng du kích rất tốt. Trước áp bức, bóc

lột của giặc, nhân dân căm hờn và luôn tin tưởng vào Chính phủ của Chủ tịch Hồ

Chí Minh và sự toàn thắng của kháng chiến. Căn cứ vào chủ trương của Trung ương

về dân vận, trọng tâm công tác ở các vùng này là phải lợi dụng những thắng lợi mà

Page 71: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

67

nâng cao tinh thần yêu nước của nhân dân, phát triển cơ sở quần chúng, đẩy mạnh

phong trào tranh đấu của nhân dân giành quyền lợi thiết thực hàng ngày chống địch

tuyển mộ và cướp bóc, giáo dục nhân dân làm công tác nguỵ vận, nhằm phá chính

sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch

kết hợp với việc tổ chức, lãnh đạo nhân dân sản xuất để tự cải thiện đời sống nhưng

phải gắn sản xuất với bảo vệ mùa màng, tài sản chống địch cướp phá.

Để đẩy mạnh việc thực hiện những nhiệm vụ lớn ở vùng tự do và vùng địch

của Đảng và Chính phủ, việc tăng cường thi đua trở thành phong trào thường

xuyên, liên tục và rộng khắp. Đảng bộ Liên khu đã “phát động phong trào ký giao

ước ái quốc; đề cao thành tích và bồi dưỡng các chiến sĩ thi đua” [158, tr. 16]; phổ

biến sâu rộng trong nhân dân bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hội nghị

Chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc.

2.2.4. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1952

Để tăng cường công tác dân vận giai đoạn mới, trong chỉ đạo thực hiện, trước

hết Đảng bộ Liên khu Việt Bắc tập trung củng cố bộ máy dân vận. Ban Chấp hành

Đảng bộ Liên khu ra Thông tri số 12, ngày 20-12-1949 về việc thành lập Phòng Dân

vận thuộc Văn phòng Liên khu Đảng bộ Việt Bắc:

Bắt đầu từ ngày 22-12-1949, Văn phòng Đảng bộ Liên khu Việt Bắc

thành lập thêm một số bộ phận phụ trách theo dõi những công việc giấy

tờ của ngành Dân vận gồm các Ban Giáo, Hoa, thiểu vận, Đảng đoàn,

mặt trận và Đảng đoàn các giới công, nông, thanh, phụ. Phòng đó lấy tên

là Phòng Dân vận do đồng chí Dương - Thường vụ, Khu uỷ viên phụ

trách [145, tr. 21].

Trên cơ sở bộ máy, tổ chức được củng cố, chuyên trách, có hệ thống, công

tác dân vận được triển khai toàn diện, thực tiễn và sát với từng đối tượng, từng

nhiệm vụ.

Thực hiện nhiệm vụ chung của các ngành dân vận và mặt trận Việt Bắc

trong việc thực hiện những nhiệm vụ lớn của Đảng:

Page 72: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

68

Nhiệm vụ chung của công tác dân vận thời kỳ này là đi sâu vào quần chúng,

đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, củng cố tư tưởng chính trị; qua việc thực

hiện các chính sách và lo cải thiện đời sống cho quần chúng nhằm củng cố tổ chức và

tranh thủ ủng hộ của quần chúng nhân dân; muốn quần chúng có ý thức với tổ chức

phải làm cho họ có ý thức tự động tham gia việc củng cổ tổ chức của họ; củng cố

nông hội là chính, nhiệm vụ chung của các ngành, củng cố được nông hội thì mới

thực tế củng cố được các tổ chức khác; Đảng bộ các cấp phải theo dõi, thực tế lãnh

đạo thực hiện củng cố tổ chức, tranh thủ quần chúng.

Công tác Nông vận: đại bộ phận kinh tế của Liên khu là nông nghiệp. Nông

dân là lực lượng căn bản to lớn nhất của kháng chiến và kiến quốc. Trong quân đội

cách mạng cũng như trong các cơ quan đoàn thể, chính quyền đại đa số là nông dân.

Cho nên đoàn kết và huy động được mọi khả năng của nông dân thì kháng chiến,

kiến quốc mới bảo đảm thành công.

Ở vùng tự do muốn phát triển sản xuất, trong vùng địch muốn chống chính

sách cướp của bắt người của chúng phải phát động được quần chúng nông dân,

nắm vững các tầng lớp bần, cố nông. Thanh niên, phụ nữ nông thôn chiếm số

đông, họ đều xuất thân từ nông dân. Do đó, muốn động viên được lực lượng này

và củng cố các tổ chức quần chúng thì phải lấy việc củng cố nông hội làm chính.

Việc vận động đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo cũng lấy công tác nông vận làm

chính vì 90% nhân dân thiểu số và tôn giáo là nông dân.

Nhận thức rõ tính chất kinh tế, xã hội và cách mạng nên công tác dân vận của

Đảng trong sự nghiệp vận động cách mạng từ trước đến nay đều hướng về nông thôn.

Vai trò của công tác nông vận và việc củng cố nông hội là trọng tâm của công tác dân

vận và Mặt trận. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng và của các ngành, các tổ chức quần

chúng chứ không phải chỉ là nhiệm vụ riêng của cán bộ nông vận. Thực hiện những

nhiệm vụ lớn của Trung ương Đảng và Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định nhiệm

vụ của công tác nông vận:

Ở vùng tự do phải tuyên truyền, vận động nông dân hiểu rõ họ là nòng cốt

trong việc thực hiện chính sách sản xuất và tiết kiệm. Chương trình sản xuất của

Chính phủ kết hợp với việc vận động thu thuế nông nghiệp năm 1952 và phục vụ

Page 73: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

69

cho tiền tuyến. Bên cạnh đó, nông hội phải tích cực thi hành những chính sách

ruộng đất của Đảng và tăng cường công tác lãnh đạo thi đua nông nghiệp. Củng cố

vững chắc nông hội, chú trọng vận động sự tham gia của nam nữ thanh niên và

nông hội; Trong vùng du kích và vùng tạm chiếm phải vận động nông dân tích cực

tranh đấu bằng mọi hình thức thích hợp chống địch cướp phá tài sản, bắt giết người,

thực hiện nhiệm vụ sản xuất kết hợp với bảo vệ và cất giấu tài sản.

Công tác Phụ vận: cần nhấn mạnh tầm quan trọng của lực lượng phụ nữ trong

sản xuất và vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ là một tổ chức liên hiệp nhiều bộ phận

của các tầng lớp phụ nữ khác nhau (công, nông, tiểu tư sản, tư sản…) nên hoạt động

của nó theo tính chất mặt trận rộng rãi. Các chị em phụ nữ công tác trong các cơ

quan, đoàn thể hay chính quyền hoặc trong các tổ chức quần chúng (công đoàn, nông

hội, thanh niên) đều phải thực hiện những nhiệm vụ trong bộ phận công tác của mình.

Thực hiện những nhiệm vụ lớn của Đảng và Chính phủ, Đảng bộ Liên khu

Việt Bắc xác định công tác phụ vận xác định:

Ở vùng tự do cần tuyên truyền để phụ nữ nhận rõ nhiệm vụ sản xuất là yêu

nước, đề cao thành tích sản xuất có kết quả là thực tế nuôi trồng, còn ở tiền tuyến

phải bảo vệ thiếu nhi và đề cao vai trò bình đẳng của phụ nữ trong gia đình và ngoài

xã hội. Tích cực vận động phụ nữ vào nông hội và thực tế tham gia củng cố nông

hội. Đảng và các ngành, các cấp cần giúp phụ nữ tham gia vào các ngành hoạt động

nhất là kinh tế tài chính; Trong vùng địch: “Phải kết hợp nhiệm vụ phá chính sách

lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt với việc thực hiện

sản xuất và bảo vệ cất giấu tài sản. Giúp đỡ cho phụ nữ buôn bán giữa vùng bị tạm

chiếm với vùng du kích và vùng tự do” [158, tr. 20].

Công tác Thanh vận: được Liên Khu uỷ xác định phải đẩy mạnh sản xuất,

học tập chương trình sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ để hiểu rõ nhiệm vụ mình

đang phát huy tác dụng xung phong phổ biến và thực hiện chính sách. Thiết thực

tham gia thúc đẩy việc lập chương trình, kết hoạch hoạt động cho các tổ đổi công,

hợp công và xung phong làm những việc khó và mới. Đề cao và đào tạo chiến sĩ lao

động thanh niên. Lấy những gương thanh niên trong mùa thi đua (công, nông và

quân đội) năm qua để đề cao và giáo dục thanh niên.

Page 74: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

70

Tích cực vận động thanh niên vào nông hội và tham gia củng cố nông hội.

Cùng với phụ nữ và các ngành khác làm nhiệm vụ bảo vệ, giáo dục và tổ chức thiếu

nhi. Trong vùng du kích và vùng tạm chiếm, vận động thanh niên tích cực tham gia

du kích chiến tranh và chống địch bắt lính.

Công tác Công vận: công tác thi đua công nghiệp đã đạt nhiều kết quả và có

nền nếp, cơ sở công đoàn được củng cố. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định nhiệm

vụ của công tác công vận giai đoạn này là:

Vận động công nhân thực hiện chương trình sản xuất theo hướng ngoài các

xưởng vũ khí còn chú ý đến tiểu công nghệ và vận tải nhằm phục vụ sản xuất nông

nghiệp và củng cố cơ sở của khối liên minh công nông trong đó đề cao vai trò của

giai cấp công nhân. Vận động trí thức và viên chức tích cực tham gia xây dựng

chuyên môn phục vụ cho sản xuất và thực hành tiết kiệm. Kết hợp phong trào thi đua

chung với phong trào thi đua công nghiệp, để phong trào này trở thành thường xuyên;

Trong vùng địch, cần “gây phong trào đấu tranh rộng rãi chống áp bức bóc lột của

giặc để đòi quyền lợi thiết thực hàng ngày và chống địch bắt lính, củng cố, phát triển

cơ sở. Đồng thời giáo dục cho công nhân có ý thức thường xuyên phá hoại kinh tế

địch” [158, tr. 22].

Công tác Mặt trận: Mặt trận Dân tộc thống nhất là khối liên minh các giai

cấp các tầng lớp cách mạng hoặc yêu nước tán thành kháng chiến. Đây là khối đoàn

kết toàn dân để đưa kháng chiến và kiến quốc đến toàn thắng. Vì vậy, chính sách

Mặt trận là chính sách đoàn kết toàn dân, phải được thực hiện ở khắp nơi trong mọi

ngành và công tác Mặt trận cũng là nhiệm vụ của tất cả các ngành. “Tất cả các cấp

bộ Đảng các cán bộ và đảng viên cần hiểu rõ và kiên quyết sửa chữa những thái độ

không đúng đối với những thân sĩ, các cán bộ ngoài Đảng. Để đoàn kết thực sự với

các tầng lớp, chính sách và thái độ đoàn kết phải dựa trên phương châm: có lý, có

lợi, đúng mực” [158, tr. 23].

Công tác của Uỷ ban Mặt trận: những nhiệm vụ lớn của Đảng được Uỷ ban

Mặt trận Liên khu Việt Bắc xác định: Phải chấn chỉnh lại lề lối làm việc của Uỷ ban

Mặt trận theo đúng chỉ thị của Trung ương Đảng nhất là đối với cấp huyện và xã.

Trong vùng tự do, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện nhiệm vụ sản

Page 75: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

71

xuất và tiết kiệm trong việc động viên các tầng lớp tư sản dân tộc, phú nông, địa

chủ bỏ vốn sản xuất kinh doanh theo đúng chính sách của Chính phủ. Trong vùng

địch tạm chiếm, cần động viên nhân dân chống lại chính sách lấy chiến tranh nuôi

chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch, chú trọng công tác vận động

những thành phần địa chủ, kỳ hào, tư sản, thổ ty, thổ hào… Uỷ ban Mặt trận các

cấp phải sửa chữa lại tổ chức và lề lối làm việc theo đúng quan điểm mới sau Đại

hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt toàn quốc, định hướng Uỷ ban Mặt trận vào

công tác vận động các tầng lớp tư sản, địa chủ, phú nông, kỳ hào… vận động đoàn

kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.

Đối với dân tộc thiểu số: Việt Bắc là địa bàn có nhiều thành phần dân tộc

khác nhau, ngay các tỉnh trung du cũng rải rác có đồng bào miền núi. Vì vậy, công

tác dân vận ở Liên khu Việt Bắc chủ yếu là công tác vận động đồng bào các dân tộc

miền núi và đoàn kết các dân tộc. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ rõ những điểm

cần thực hiện của chính sách dân tộc thiểu số:

Giải thích cho đồng bào miền núi thấy rõ âm mưu của địch và quyền lợi của

chính quyền nhân dân đưa lại. Các cấp phải giải quyết những xích mích, hiểu lầm của

đồng bào địa phương do địch gây nên, do thành kiến dân tộc, do sự khác nhau về

phong tục, tập quán… để đoàn kết chặt chẽ và tăng cường quan hệ giúp đỡ lẫn nhau.

Giáo dục cho đồng bào hiểu rõ kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực

dân Pháp và can thiệp Mỹ, nâng cao lòng yêu nước, tin tưởng vào Chính phủ.

Đồng thời giáo dục cho đồng bào hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người công

dân Việt Nam.

Đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ nơi khác đến với cán bộ địa phương, tăng

cường đào tạo cán bộ địa phương để phát triển nguồn nhân lực tại chỗ. Cán bộ hoạt

động ở miền núi phải lấy việc phục vụ nhân dân, đem lại quyền lợi cho nhân dân là

chính để phát động nhân dân tích cực tham gia mọi công tác kháng chiến, đấu tranh

với địch, chống âm mưu chia rẽ, đàn áp của địch.

Đối với công giáo: “Tôn trọng tự do tín ngưỡng” đó là chính sách của Đảng

đối với tôn giáo. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã xác định trong công tác vận động

đồng bào công giáo cần phải vạch rõ tội ác và chính sách thâm độc của Pháp - Mỹ

Page 76: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

72

để đồng bào hiểu rõ. Đồng thời tỉnh táo đề phòng địch dùng tôn giáo để chống

kháng chiến. Các đoàn thể phải tích cực cử cán bộ gây cơ sở ở vùng công giáo. Phải

lấy việc thực hiện chính sách nông thôn, chính sách sản xuất tiết kiệm, để giác ngộ

tranh thủ quần chúng công giáo.

Đối với Hoa kiều: vận động Hoa kiều phát triển sản xuất. Lấy công tác Hoa

vận để phát triển và tranh thủ quần chúng, tăng cường đoàn kết Hoa - Việt. Ở những

nơi có Hoa kiều thì tích cực vận động họ tham gia công tác kháng chiến, đồng thời

tham gia vào bộ máy các cơ quan chính quyền địa phương như người Việt. Vận

động Hoa kiều và các tổ chức quần chúng Việt Nam và đào tạo cán bộ Hoa kiều.

Từ những nhiệm vụ chung của năm 1949 nhằm đẩy mạnh công tác dân vận

trong trong giai đoạn chiến lược tích cực cầm cự chuẩn bị Tổng phản công được Đảng

bộ Việt Bắc triển khai và đạt được một số kết quả quan trọng:

Các tổ chức cứu quốc chú ý tới phần công tác nội bộ để củng cố và phát

triển các tổ chức. Đề cao những thành tích và quá trình hoạt động. Tích cực đào tạo

cán bộ để đủ sức lãnh đạo phong trào. Khuyến khích và đề cao những thành tích

tăng gia sản xuất của nông dân: “Nông dân Cứu quốc đã củng cố ban chấp hành cấp

xã và hướng dẫn cách tự hoạt động. Toàn khu đã mở được 465 lớp huấn luyện với

11.853 học sinh tham dự” [140, tr. 3].

Thanh niên Cứu quốc ở các tỉnh đã có 2/3 cán bộ chuyên trách hoạt động,

cấp huyện và xã vẫn còn tình trạng không ổn định vì cán bộ thay đổi luôn hoặc phải

kiêm nhiệm thêm công tác khác. Ở miền ngược nói chung các cấp đều thực hiện

chậm vì phần nhiều là làm việc thiếu kế hoạch và chưa hiểu nhiệm vụ, quyền hạn

của mình. Thiếu nhi Cứu quốc ở cấp Khu đã thành lập (2-1949) và tích cực hoạt

động, đặc biệt là ở các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh, Phúc Yên, Thái Nguyên, Bắc

Giang đều có một Ban Thiếu nhi Cứu quốc và có một đồng chí phụ trách.

Phụ nữ Cứu quốc trong toàn Liên khu đã mở được 377 lớp huấn luyện

và có 7.406 học sinh tham dự. Số lượng các tổ chức quần chúng phụ

nữ: Đoàn Phụ nữ Cứu quốc: số lượng 381.172; Hội Tương tế: 18.894

hội viên; Hội Mẹ Chiến sĩ: 80.000 hội viên; Hội Phụ mẫu: 20.000 hội

viên; Nữ công nhân: 836 hội viên. Tổng số hội viên trong Mặt trận Liên

Page 77: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

73

hiệp Phụ nữ: số lượng 554.518 hội viên. Tổng số cán bộ toàn Việt Bắc

có 611 người. Thành tích về công tác kháng chiến: 437 tiểu đội nữ du

kích; 14 tiểu đội tác chiến; 29 tiểu đội cứu thương; 57 tiểu đội nữ dân

quân. Thành tích chiến đấu: Giết 85 thực dân Pháp; làm bị thương 55

thực dân Pháp [144, tr. 4].

Việc vận động đồng bào công giáo đứng vào hàng ngũ kháng chiến đã được

các ban dân vận Liên khu và tỉnh bám sát, dùng người công giáo có uy tín làm cán bộ

trong các cơ quan chính quyền hoặc đoàn thể để lôi kéo công giáo. Luôn gần gũi và

giải thích cho cha cố và giáo dân hiểu rõ thắng lợi của mặt trận dân chủ thế giới và

cuộc kháng chiến của dân tộc. Bên lương và các cán bộ phải bỏ thành kiến, thái độ

gây hại cho sự đoàn kết. Thành lập Uỷ ban liên lạc cấp Liên khu gồm những người

công giáo có uy tín để giải quyết những xích mích, hiểu nhầm đề đạt những nguyện

vọng của công giáo với Đảng và Chính phủ. Chính quyền và Mặt trận phải chú ý giúp

đỡ các cha cố nhưng cũng phải cương quyết trừng trị những người chủ trương đi

ngược lại kháng chiến. Nhiều cha cố có tinh thần kháng chiến trong vùng địch đã

hưởng ứng những cuộc vận động của Chính phủ như mua công phiếu kháng chiến,

góp quỹ tham gia kháng chiến. Liên khu đã thành lập Hội Giáo dân kháng chiến để

làm công tác vận động cha cố tham gia kháng chiến. Hội có ảnh hưởng rất lớn trong

các vùng công giáo thuộc Bắc Giang, Bắc Ninh, nhưng nhiều nhất ở Phúc Yên, Cao

Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên. Bộ máy công giáo vận ở hầu hết các nơi đã được

thành lập và có một đồng chí phụ trách hoặc có Ban Công giáo vận từ 2 đến 3 người

chuyên trách.

Công tác Hoa vận là một trong những nội dung quan trọng của vận động

quần chúng nhân dân. Đặc biệt là miền duyên hải Liên khu có nhiều Hoa kiều định

cư và sinh sống.

Số Hoa kiều ở đây có ước tính khoảng 45.000 người, là người Ngái, Thổ,

Nùng và người Quảng Đông, Quảng Tây. Do sự di dân của các dân tộc ở

vùng Quảng Đông, Quảng Tây, vì hoàn cảnh kinh tế và mối quan hệ về

địa dư của hai nước nên họ tự ý di cư sang hoặc do mộ phu của các đồn

điền, các xí nghiệp và hầm mỏ của Pháp. Những nơi Hoa kiều tập trung

Page 78: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

74

chủ yếu ở dọc đường số 4 từ Tiên Yên đến Móng Cái; dọc đường số 13 từ

Lục Nam đến Đình Lập; trong các thung lũng, núi rừng rải rác ven bờ biển

Hòn Gai, Hoành Bồ, Cẩm Phả mỏ, Cẩm Phả bến, đảo Cát Bà, trong thị xã

Hòn Gai và một số ở các cù lao nhỏ ngoài biển [67, tr. 137].

Việc đẩy mạnh công tác Hoa vận là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trong

giai đoạn này. Tuyên truyền sâu rộng những thắng lợi của giải phóng quân, vạch rõ

hành động phản dân, phản nước của Quốc dân Đảng. Vạch rõ sự liên quan giữa hai

cuộc kháng chiến hai nước.

Đầu năm 1950, sau khi chiến dịch Lê Hồng Phong kết thúc Trung ương

Đảng đề ra khẩu hiệu hoàn thành nhiệm vụ chuyển sang Tổng phản công, cùng lúc

đó Liên Xô, Trung Hoa và các nước dân chủ mới công nhận nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà. Tháng 4-1950, Sắc lệnh Tổng động viên được ban hành về công tác

Mặt trận Liên khu xúc tiến việc thống nhất Việt Minh với Liên Việt và việc

chuyển hướng các giới.

Từ chiến dịch Biên Giới đến chiến thắng Trung du, thực dân Pháp thất bại

nặng nề, tinh thần sút kém. Biên giới Việt Nam được được giải phóng một khu vực

rộng lớn, trong vùng tạm chiếm Trung du cũng như Tây Bắc, cơ sở của cách mạng

ngày càng phát triển. Đồng bào công giáo có thiện cảm và tham gia kháng chiến

nhiều hơn. Ở miền núi, cách mạng đã lôi kéo được nhiều đồng bào thiểu số khu vực

Điện Biên, Long Hê và đặc biệt là Thổ ty Đồng Văn, Mai Đà. Trong miền tự do chiến

thắng sôi nổi, đồng bào hăng hái phục vụ tiền tuyến, phục vụ kháng chiến.

Trước tình thế thay đổi của Liên khu Việt Bắc, trong năm 1950, công tác dân

vận hướng vào việc giải thích tình hình và khuếch trương thắng lợi để động viên

đồng chí, nhân dân phục vụ tiền tuyến. Tích cực tiến hành cuộc chấn chỉnh tổ chức

cải tiến để nâng cao chất lượng các hình thức vận động, tuyên truyền đạt hiệu quả

cao. Công tác tuyên truyền, vận động tổng động viên trong toàn Liên khu là tập

trung mọi khả năng và phương tiện để chuẩn bị mở một chiến dịch lớn. Hàng vạn

truyền đơn đã được phát tới từng thôn xóm. Các đoàn vận động gồm đại biểu quân,

dân, chính đi tới từng nhà để giải thích. Nhiều hình thức đã được áp dụng như giảng

Page 79: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

75

trong các lớp huấn luyện, soạn thành bài học cho các lớp Bình dân học vụ và tiểu

học vụ.

Việc tuyên truyền được thực hiện rầm rộ nên nhân dân vùng địch cũng

như vùng tự do đều biết đến Sắc lệnh Tổng động viên. Trong 3 tháng

hơn 100.000 dân công đã hoàn thành việc sửa chữa 698 km đường với

hàng trăm cầu để xe chạy; 18.066 tấn thóc công lương và quân lương đã

cung cấp cho nhu cầu kháng chiến [56, tr. 37-38].

Để kịp thời tổng kết công tác dân vận, tháng 3-1950, Đảng bộ Liên khu Việt

Bắc đã triệu tập Hội nghị Cán bộ dân vận toàn Liên khu lần thứ nhất (từ ngày 4 đến

ngày 13-3-1950). Hội nghị đã tổng kết công tác của Mặt trận Dân tộc thống nhất sau

khi thi hành chính sách củng cố mặt trận của Trung ương, Liên khu đã củng cố các

đoàn thể, các giới, xúc tiến thống nhất Mặt trận Việt Minh với Hội Liên Việt. Công

tác tổ chức, chấn chỉnh các giới trên địa bàn Liên khu đạt được nhiều kết quả. Trừ

một phần lớn Lai Châu, Lào Cai và một vài vùng ảnh hưởng thổ ty, còn lại hầu hết

trên địa bàn Liên khu kể cả vùng địch, đều có cơ sở quần chúng. Các giới, các đoàn

thể đã được chấn chỉnh và thống nhất tới cấp tỉnh. Nhưng một vài tỉnh miền ngược và

vùng địch mới thống nhất tới xã, có nơi lại chưa chia thành giới mà chỉ có một hình

thức là Việt Minh (Sơn La, Hải Ninh). Số lượng so với những năm đầu toàn quốc

kháng chiến đã tăng lên nhiều. Việc huấn luyện các đoàn viên đã được chú trọng hơn.

Đáng chú ý nhất là trong năm 1950 đã khôi phục lại được cơ sở ở Hòn Gai, phát triển

công tác tới địa phận Lai Châu.

Các giới đã thực hiện những khẩu hiệu chính công tác của mình như: Nông

dân tăng gia sản xuất, giảm tô, thanh niên tòng quân, luyện tập quân sự… tránh

được tình trạng ôm đồm, dẫm chân lên nhau trong công tác. So sánh về tổ chức thì

công đoàn vẫn có tổ chức chặt chẽ nhất nhưng tiến bộ nhanh hơn cả là nông dân và

phụ nữ.

Liên hiệp Công đoàn Việt Bắc đã tổ chức cho công nhân và người lao động

thi đua thực hiện Sắc lệnh Tổng động viên phục vụ tiền tuyến. Để hoàn thành

nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng phản công, công nhân và lao động

Page 80: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

76

vùng tự do đã nỗ lực thi đua thực hiện Sắc lệnh nhằm tăng cường sản xuất phục vụ

tiền tuyến để chiến thắng:

Từ khi có Sắc lệnh Tổng động viên, công nhân các xí nghiệp nô nức thi

đua làm cho mức sản xuất được tăng tiến trong từng bộ phận từ 20% đến

50%, nhất là việc sản xuất vũ khí mới S.K.Z đã cung cấp đủ cho mặt trận

Tây Bắc và Đông Bắc. Nhiều nơi công nhân đã cải tiến kỹ thuật, thu được

kết quả nhất là trong hoàn cảnh khan hiếm nguyên vật liệu. Ngoài ra công

nhân còn thi đua kiến thiết, xây dựng được một số công trường xí nghiệp

lớn và chuẩn bị cho việc sản xuất đại quy mô. Ở các xí nghiệp bị địch uy

hiếp, công nhân đã chuyển dịch máy móc và xây dựng nhà máy mới, bảo

đảm cho việc sản xuất. Công tác Tổng động viên đã gắn liền với các cuộc

vận động từng thời gian như gây thành tích chào mừng Đại hội Công đoàn

toàn quốc, hoan nghênh ngày thành lập Uỷ ban Xí nghiệp, kỷ niệm Quốc

tế Lao động, sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh… [147, tr. 78].

Trong năm 1950, với những thay đổi căn bản trên chiến trường, Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc chỉ đạo các tỉnh kịp thời vận động nhân dân tham gia dân công

phục vụ kháng chiến với kết quả rất cao:

Tỉnh Bắc Giang: Dân số toàn tỉnh là 377.271 người, đã thống kê được tất

cả dân công của tỉnh là 115.642 người (trong đó hơn nửa là phụ nữ). Số

dân công huy động mới: 1.000 dân công cho Cục Vận tải, 1.000 dân

công cho di chuyển vũ khí, 4.000 dân công tham gia sửa đường, 5.000

dân công phục vụ trực tiếp cho chiến dịch; Tỉnh Phú Thọ: Dân số toàn

tỉnh là 36 vạn, tất cả dân công của tỉnh là 121.500 người. Số dân công có

thể huy động được ngay và có thể đi xa được khoảng 5.000 người. Số

dân công huy động mới: 800 thanh niên do Thanh niên Trung ương huy

động; một số lượng lớn đang vận tải thóc thuế, thóc công lương, quân

lương đã thu được để nhập kho; chuẩn bị sửa đường quốc lộ 2 và đường

xe lửa tuyến Lào Cai - Yên Bái; Tỉnh Thái Nguyên: Dân số toàn tỉnh là

16 vạn, ước tính khoảng 6 vạn người tham gia dân công. Số dân công đã

huy động mới: 2.700 dân công tham gia sửa đường quốc lộ số 3; 1.000

Page 81: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

77

dân công cho Cục Vận tải và một số lượng lớn dân công đang vận

chuyển thóc lập kho; Tỉnh Bắc Ninh: Dân số toàn tỉnh là 50 vạn, có thể

huy động ngay 29.409 dân công; Tỉnh Quảng Yên: Dân số toàn tỉnh là

30 vạn, có thể huy động ngay 4.000 dân công [112, tr. 9-10].

Bước sang năm 1951, để chuẩn bị cho các chiến dịch Cao Bằng, Lạng Sơn và

công tác trong các vùng mới được giải phóng, ngày 26-1-1951, Đảng bộ Liên khu Việt

Bắc đã ra Nghị quyết về việc Chỉ đạo công tác công đoàn và vận động các giới:

Đối với công tác công đoàn cần nắm vững được tình hình công nhân, kịp

thời bảo vệ được xưởng khi địch tấn công Thái Nguyên. Cần nắm được trọng tâm

công tác và phát động những cuộc vận động rầm rộ như: Tuần lễ liên minh công -

nông - binh và cuộc vận động công nhân tăng năng suất để hoan nghênh các chiến

sĩ biên giới. Vận động công nhân tham gia vận tải, sửa chữa cầu đường, sản xuất vũ

khí, đạn dược.

Vận động nông dân ủng hộ và bán rẻ lương thực cho bộ đội tham gia kháng

chiến. Nông dân giúp đỡ lẫn nhau tăng gia sản xuất để nuôi dưỡng dân lực. Hội

viên của Hội Nông dân Cứu quốc đã tích cực tham gia công tác kháng chiến và đạt

nhiều thành tích rất lớn.

Công tác vận động nhân dân các tỉnh tham gia tòng quân của Đảng bộ Liên

khu theo báo cáo của một số tỉnh, thống kê như sau:

Tham gia tòng quân ở các tỉnh Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà

Giang có 453 hội viên; Tham gia du kích ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc

Ninh có 1.041 hội viên; Tham gia phục vụ chiến dịch ở Thái Nguyên,

Bắc Giang, Hải Ninh, Phú Thọ, Bắc Ninh, Quảng Yên các hội viên sửa

đường, vận tải… được 40.292.414 ngày công [150, tr. 29].

Công tác vận động phụ nữ đã chú ý đến vùng mới giải phóng, tập hợp phụ nữ

để huấn luyện kháng chiến. Việc vận động phụ nữ chăm sóc, giúp đỡ thương binh

và các gia đình thương binh, tử sĩ đã hoàn thành tốt. Những thắng lợi oanh liệt ở

biên giới đã làm cho thế và lực của cách mạng ngày càng mạnh, địch bước đầu suy

yếu. Sau chiến thắng biên giới toàn thể chị em phụ nữ từ những nơi xa xôi nhất đã

Page 82: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

78

hăng hái tham gia công tác phục vụ chiến trường. Nhân đà chiến thắng của chiến

dịch Biên Giới cũng như để tiếp tục tinh thần anh dũng của chị em, Đảng bộ Liên

khu Việt Bắc đã đẩy mạnh việc huy động phụ nữ phục vụ chiến trường, tiêu diệt

giặc, góp phần cùng toàn quốc mau hoàn thành nhiệm vụ chuyển mạnh sang Tổng

phản công. Tuyên truyền để chị em trong Hội và ngoài Hội hiểu nhiệm vụ đi dân

công. Tổ chức khuyến khích và hoàn nghênh phong trào đi dân công của phụ nữ.

Giáo dục cho phụ nữ hiểu và ý thức với công tác để làm với tinh thần tích cực, thực

sự. Tôn trọng kỷ luật trong khi phục vụ chiến trường.

Công tác vận động thanh niên đã có những chuyển hướng phương thức vận

động mới, nhằm củng cố tổ chức và phát huy khả năng của thanh niên - đội xung

phong công tác được thành lập. Vận động mọi tầng lớp thanh niên tham gia du kích

và bổ sung quân số, thành lập các đội xung phong kháng chiến. Hội nghị Thanh vận

vùng bị chiếm và vùng du kích Việt Bắc (12-1951) đã tuyên truyền giáo dục thanh

niên và xây dựng tinh thần yêu nước chân chính, căm thù giặc, làm cho họ giác ngộ

chính trị cùng tham gia tranh đấu quyết liệt. Giáo dục cho thanh niên quan điểm

trường kỳ gian khổ kháng chiến nhưng nhất định thắng lợi để họ không lạc quan

trước những thắng lợi và bi quan trước những thất bại tạm thời, tin tưởng sự lãnh đạo

của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Giáo dục cho thanh niên hiểu được nhiệm vụ

của họ đối với kháng chiến, ý thức và phương pháp tranh đấu chống địch, nhất là

chống bắt phu, bắt lính. Phải thường xuyên và kịp thời phản tuyên truyền của địch,

ngăn những ảnh hưởng tuyên truyền của địch đối với thanh niên:

Phải tuyên truyền giải thích cho thanh niên hiểu những chủ trương, chính

sách của địch và những luận điệu tuyên truyền của chúng trong chính

sách “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người

Việt” và cụ thể đối với thanh niên là việc bắt phu, bắt lính. Dùng mọi

hình thức để tuyên truyền, giáo dục thanh niên: phương pháp hiệu quả

nhất là lấy những hành động thực tế phân tích và rút ra những bài học để

tuyên truyền giáo dục thanh niên. Phổ biến tin tức báo chí vào vùng tạm

chiếm và vùng du kích… [151, tr. 16-17].

Page 83: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

79

Công tác Mặt trận chú trọng vào việc vận động đoàn kết lương giáo, vận

động lôi kéo thổ ty, bảo vệ hoà bình. Vận động đoàn kết để kháng chiến, động viên

nhân lực, vật lực để phục vụ cho tiền tuyến.

Công tác Tổng động viên phục vụ tiền tuyến và nhiệm vụ công tác vận động

công nhân năm 1951 của Đảng đoàn Liên hiệp Công đoàn Liên khu Việt Bắc đã xác

định nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng và toàn dân từ đầu năm 1950 là “Hoàn

thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang Tổng phản công”. Riêng ngành công

vận, căn cứ vào đường lối, chính sách chung của Đảng, đưa và Nghị quyết của Hội

nghị Công đoàn toàn quốc và của Liên Khu uỷ đã tập trung vào vận động công nhân

và lao động thi đua Tổng động viên.

Trong năm 1951, việc huy động nhân công kiến thiết giao thông vận tải đã

chuyển hướng kịp thời đưa công tác này lên vị trí quan trọng phục vụ cho quân sự

và qua đó đạt được nhiều thành tích trong việc kiến thiết đường giao thông vận tải

trong Liên khu. Do hoàn cảnh cấp bách, các cấp bộ toàn Liên khu đã tập trung một

số lượng lớn cán bộ vận tải tham gia xây dựng ngành vận tải quốc phòng ở các tỉnh

biên giới, đồng thời củng cố tổ chức vận tải ở các tỉnh trung du để chuyển tiếp quân

lương và hàng hoá lên chiến trường.

Dưới sự lãnh đạo công khai của Đảng, toàn dân tích cực thi đua đẩy mạnh

công cuộc “Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang Tổng phản công”:

Công tác công vận có nhiệm vụ thực hiện những chủ trương, chính sách

của Đảng bộ Liên khu là xây dựng Việt Bắc thành 2 căn cứ địa vững

mạnh và tiến lên tiêu diệt sinh lực địch trên toàn bộ chiến trường Việt Bắc.

Tổ chức lãnh đạo quần chúng lao động và công nhân ở vùng tự do cũng

như vùng tạm chiếm đoàn kết chặt chẽ trong tổ chức công đoàn để thiết

thực tham gia xây dựng Đảng và củng cố khối liên minh công - nông - trí

thức, lao động làm nền tảng chính quyền nhân dân và Mặt trận Dân tộc

thống nhất [134, tr. 56].

Trong các xí nghiệp, việc thi đua sản xuất đã gắn liền với Tổng động viên

thành phong trào quần chúng rộng rãi, dù nguyên vật liệu khan hiếm nhưng mức

sản xuất của các ngành công nghiệp, kỹ nghệ quốc phòng đã tăng tiến vượt bậc,

Page 84: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

80

nhiều chiến sĩ thi đua cải tiến kỹ thuật, phát huy sáng kiến. Nhiều cơ sở sản xuất

vận tải quốc phòng pháo binh, hoả xa đã được xây dựng, củng cố và phát triển

rộng rãi…

Công tác Tổng động viên nhân lực trong mọi ngành công nhân và lao động

trong năm 1951 đã gắn liền được phong trào thi đua với công tác Tổng động viên,

tăng năng xuất để phục vụ tiền tuyến và đề cao công tác kiến thiết các đường giao

thông và vận tải. “Để thiết thực phục vụ cho nhu cầu tiền tuyến và thực hiện thắng

lợi công cuộc Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang Tổng phản công

thực hiện đúng phương châm “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả cho chiến thắng” của

Đảng đề ra” [134, tr. 40-41].

Bước sang năm 1952, theo đà phát triển trên các chiến trường, nhiệm vụ

khuếch trương lực lượng vũ trang trở nên cấp thiết. Liên Khu uỷ Việt Bắc nhận thấy

vấn đề giáo dục và động viên về nghĩa vụ tòng quân cho nhân dân có vai trò quan

trọng. Liên Khu uỷ đã chỉ rõ một số công tác chính cần thực hiện trong năm 1952

về nghĩa vụ tòng quân: Tuyên truyền giáo dục nhân dân về nghĩa vụ tòng quân, giáo

dục nhằm đề cao các chiến thắng quân sự, các gương chiến đấu anh dũng của bộ đội

ở tiền tuyến, các gương xung phong tòng quân của thanh niên để tạo tinh thần phấn

khởi và tin tưởng trong nhân dân. Trong việc tuyên truyền giáo dục phải tạo thành

phong trào quần chúng sâu rộng, tổ chức thanh niên phải làm cốt cán, các đoàn thể

khác như nông dân, phụ nữ, phụ lão… có nhiệm vụ phối hợp để gây phong trào.

Việc tuyên truyền vận động phải làm thường xuyên, gắn với việc tuyên truyền các

thành tích công tác khác.

Trong vùng địch hậu phải chú ý kịp thời chống luận điệu phản tuyên truyền

của địch, gắn với công tác chống tuyển mộ nguỵ binh, đẩy mạnh động viên thanh

niên tòng quân. Thiết thực giúp đỡ các gia đình có con em tòng quân, các gia đình

thương binh, tử sĩ. Nhiệm vụ của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc và các đoàn thể địa

phương là thiết thực giúp đỡ các gia đình có con em tòng quân, gia đình thương

binh, tử sĩ để an ủi tinh thần và giúp đỡ một phần cho họ về vật chất theo khả năng

của từng địa phương. Tại các thôn xóm có nhiều người đi bộ đội, có thể vận động

nhân dân cam kết giúp đỡ nhau để các chiến sĩ yên tâm chiến đấu. Các cấp Đảng bộ

Page 85: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

81

phải coi việc tuyển lựa tân binh là nhiệm vụ của Đảng, không được giao khoán hết

cho các cơ quan chuyên môn. Các đảng viên phải xung phong chứ không được coi

mình chỉ có nhiệm vụ động viên quần chúng.

Song song với việc vận động tòng quân, Đảng bộ Việt Bắc đẩy mạnh công

tác tuyên truyền, vận động đồng bào chống chính sách của địch “lấy chiến tranh

nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Nội dung

cụ thể gồm tuyên truyền những thắng lợi quân sự kết hợp với việc tố cáo tội ác của

giặc, đề cao gương anh dũng và phổ biến lời tuyên bố của Chính phủ đối với nguỵ

binh, nhằm mục đích đẩy mạnh công tác dân vận, nguỵ vận, phát triển chiến tranh

du kích.

Tin tức phổ biến một cách rộng rãi và nhanh chóng: Nhân dân ở những vùng

du kích và những nơi có cơ sở cách mạng cũng như một số nơi vùng tạm chiếm và

vùng chưa có cơ sở, vùng đồng bào công giáo, bảo an, tề phản động trên địa bàn Liên

khu đều biết tin thắng trận. Kết quả đạt được như vậy là do cán bộ đã biết căn cứ vào

tình hình từng nơi, từng vùng mà có dùng phương pháp tuyên truyền thích hợp. Ở

vùng du kích thì phát thanh, nói chuyện, ở những nơi chưa có cơ sở, có bảo an hay

phản động thì dùng vũ trang tuyên truyền, ở thị xã thì dùng truyền miệng, ở các xã

mới được giải phóng thì trưng bày tranh ảnh của Ty Thông tin… Đặc biệt là dùng lực

lượng của cán bộ, đảng viên, bộ đội, quần chúng làm công tác tuyên truyền.

Kết hợp tuyên truyền chiến thắng với việc phá chính sách của địch “lấy chiến

tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”: song song với tuyên

truyền võ trang quân sự, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc cũng chủ trương tuyên truyền

chính trị, vạch rõ âm mưu của địch, giải thích chính sách của Chính phủ đối với

nguỵ binh: “Bắc Giang đã phát 5.000 truyền đơn cho nguỵ binh, Bắc Ninh đã phát

7.500 bản tuyên bố của Chính phủ cho nhân dân và gia đình nguỵ binh” [54, tr. 8-

9]. Kết hợp tuyên truyền chiến thắng với giáo dục tư tưởng, một mặt nhân dân có

kinh nghiệm kháng chiến, mặt khác tăng cường giáo dục ý thức kháng chiến trường

kỳ, gian khổ nhất định thắng lợi, tư tưởng tiêu diệt sinh lực địch, phát triển du kích

chiến tranh, phát triển cơ sở nên nhân dân rất phấn khởi, tin tưởng, hạn chế chủ

Page 86: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

82

quan khinh địch. Nhờ quân sự hoạt động mạnh, mở đường đi trước, giải phóng

nhiều xã, công tác tuyên truyền gây cơ sở chính trị phần nhiều đi vào chiều sâu.

Thực hiện Chương trình sản xuất và tiết kiệm năm 1952, Hội Nông dân Cứu

quốc Việt Bắc đã tuyên truyền, vận động học tập nhằm nâng cao ý thức tham gia

sản xuất với mục đích sản xuất vì dân, vì nước và phát triển sản xuất để đẩy kháng

chiến mau thắng lợi với các mục tiêu nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá âm mưu lấy

chiến tranh nuôi chiến tranh, bồi dưỡng sức dân để có sức duy trì chiến tranh đến

thắng lợi. Kháng chiến cần gắn với kiến quốc, phát triển sản xuất không những để

kháng chiến mà còn gây nền móng nhằm kiến thiết kinh tế. Sản xuất cải thiện được

đời sống cho nhân dân, sản xuất gắn liền với thực hành tiết kiệm, trong quá trình

sản xuất phải cố gắng sử dụng ít nhân công, ít giống mà vẫn đạt năng suất cao. Giáo

dục cho cán bộ và nhân dân yêu lao động, yêu khoa học, quý trọng sản xuất…

Từ sau chiến thắng Biên Giới (1950), Việt Nam đã giành lại thế chủ động và

liên tiếp mở các chiến dịch tấn công địch và tiêu diệt những bộ phận sinh lực quan

trọng của địch, làm cho địch khó khăn, lúng túng. Tuy nhiên, chúng đã cố gắng

nhiều hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường, một mặt cầu xin Mỹ viện trợ,

mặt khác ra sức khai thác nhân, tài, vật, lực và bình định hậu phương, tích cực thực

hiện mục tiêu:

Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt.

Chúng đánh ra Hoà Bình, chợ Bến, hòng chiếm lại Hoà Bình để gây khó

khăn cho ta. Nhưng quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt,

chủ trương kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Lao động, Chính

phủ kiên quyết phá tan kế hoạch chiếm đóng mới của địch, làm chúng

ngày càng thêm khó khăn [227, tr. 1].

Những nhiệm vụ nhằm đẩy mạnh hoạt động trong vùng địch và vùng du kích

để chống chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người

Việt” của địch chủ yếu là tuyên truyền giải thích cho nhân dân hiểu rõ âm mưu của

địch, vạch mặt những tội ác của chúng đối với đồng bào, đồng thời phổ biến những

chính sách, chủ trương của Đảng và những tin tức thắng lợi làm cho nhân dân nhất

là vùng công giáo và miền núi. Đồng bào ngày càng tin tưởng và kiên quyết đứng

Page 87: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

83

vào hàng ngũ kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Giáo dục cho

nhân dân hiểu rõ ý thức giữ bí mật và bảo vệ cán bộ, bộ đội, cơ sở, gây cho họ có

tinh thần tranh đấu, chống địch. Vận động nhân dân cương quyết chống chính sách

bắt phu, bắt lính của địch và làm công tác vận động nguỵ binh phải phát động thành

một phong trào quần chúng rộng rãi trong toàn Liên khu, phổ biến chính sách của

Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khoan hồng đối với nguỵ binh, nhất là đối

với các gia đình có con em đi lính cho địch và trong hàng ngũ nguỵ binh làm cho họ

hiểu rõ chính sách của Chính phủ.

Ở vùng trung du, đẩy mạnh sự đoàn kết lương, giáo vạch rõ âm mưu lợi dụng

tôn giáo của địch, phổ biến chính sách tôn trọng tín ngưỡng của Chính phủ, nêu cao

thành tích kháng chiến của đồng bào tôn giáo và sự đoàn kết giữa lương, giáo để

phục vụ kháng chiến. Ở miền ngược, tăng cường đoàn kết dân tộc, nêu cao những

tấm gương hăng hái phục vụ chiến dịch của đồng bào miền ngược, đẩy mạnh tuyên

truyền giáo dục cho đồng bào nhất là những vùng xa mà cán bộ và bộ đội ít qua lại

hiểu về dã tâm của thực dân Pháp là muốn bắt nhân dân Việt Nam làm nô lệ một lần

nữa. Chính phủ của dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đem lại quyền lợi cho

dân, Đảng lãnh đạo đánh Pháp đem lại nhiều thắng lợi lớn.

Tổng kết công tác dân vận năm 1951 và 6 tháng đầu năm 1952 của Đảng bộ

Việt Bắc tại Hội nghị Cán bộ dân vận Liên khu (từ ngày 15 đến ngày 20-5-1952) đã

chỉ rõ những thành tích của công tác dân vận thời kỳ này: Nhiều nơi cán bộ đã đi sát

dân, tìm hiểu dân và chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục để nhân dân tự giác,

tự động thi hành các chính sách của Đảng, Chính phủ. Các tỉnh, huyện của Liên khu

đã biết kết hợp công tác, lãnh đạo tổ chức quần chúng để thi hành các chính sách

đồng thời trong khi thi hành các chính sách đó cần củng cố các tổ chức quần chúng

và vận động đoàn kết thực sự các giai cấp. Các tỉnh, huyện dưới sự lãnh đạo của

Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, đã biết đi đúng đường lối trong việc củng cố các tổ

chức quần chúng, tổ chức kiểm tra, giám sát để các hội viên, đoàn viên có ý thức

trách nhiệm vào việc củng cố tổ chức của họ, do đó nhiều nơi trên địa bàn Liên khu

các tổ chức quần chúng được chặt chẽ, ý thức hội viên tốt. Nhiều địa phương đã chú

ý bàn bạc và giải quyết những vấn đề thiết thực của đời sống nhân dân nhằm giác

Page 88: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

84

ngộ quần chúng và củng cố tổ chức hoặc thực hiện đoàn kết giữa các dân tộc, nhất

là vận động sản xuất tiết kiệm để đẩy mạnh công tác dân vận ở các vùng đồng bào

công giáo và đồng bào miền ngược. Những cán bộ dân vận đã tuyệt đối tin ở dân,

kiên quyết đi sâu và nhân dân và nhẫn nại giải thích nên cuối cùng đã giác ngộ được

nhân dân và thực hiện được nhiệm vụ mà Trung ương Đảng giao phó.

Tiểu kết Chương 2

Công tác dân vận của Đảng nói chung và của Liên khu uỷ Việt Bắc nói riêng

giai đoạn từ năm 1949 đến năm 1952 được triển khai toàn diện và đạt được những

thành tựu to lớn, tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân và thống nhất các giai cấp, các

dân tộc, tôn giáo trên địa bàn Liên khu Việt Bắc. Để phát triển và củng cố Hội Liên

Việt, chăm lo đoàn kết lương giáo, Đảng chủ trương mở rộng đoàn kết dân tộc, vận

động các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc,

ban Dân vận và các đảng, đoàn, Mặt trận Việt Minh, Hội Liên Việt, các đoàn thể

cứu quốc tăng cường cán bộ về các địa phương xây dựng tổ chức. Mặt trận Việt

Minh, Hội Liên Việt, các đoàn thể cứu quốc và mặt trận của các giới đã phát triển

rộng khắp, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở góp phần động viên các tầng lớp

nhân dân tự nguyện góp công sức trong quá trình xây dựng và củng cố chính quyền

cách mạng, đồng thời chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Các đoàn thể cứu quốc thu hút hầu hết người trong các giới. Ở nhiều nơi,

một số đoàn thể mới được thành lập làm nòng cốt trong các phong trào, cụ thể

như Đoàn thanh niên làm nòng cốt trong phong trào dân quân, tòng quân giết

giặc; đoàn thể phụ nữ làm nòng cốt trong sản xuất, vận động nuôi quân, đoàn thể

của nông dân làm nòng cốt trong phong trào tăng gia sản xuất, vận động giảm

tô… Các đoàn thể cứu quốc còn lập ra nhiều tổ chức quần chúng như Hội mẹ

chiến sĩ, Hội giúp binh sĩ bị nạn…

Nhằm thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, khắc phục nạn đói, củng cố và

xây dựng hệ thống chính quyền, Đảng và Chính phủ rất quan tâm đến công tác vận

động toàn dân đấu tranh trên mặt trận văn hoá, diệt “giặc dốt” và đẩy lùi những hủ

tục lạc hậu. Đảng đã phát động một cao trào toàn dân chống nạn mù chữ để mở

mang kiến thức cho nhân dân lao động.

Page 89: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

85

Trong những năm 1949-1952, công tác vận động nhân dân các dân tộc trên

địa bàn Liên khu Việt Bắc tham gia phục vụ tiền tuyến, phục vụ chiến trường được

Đảng bộ Liên khu rất chú trọng và lãnh đạo thực hiện sát sao. Công tác vận động

các gia đình tương trợ lẫn nhau để tiếp tục tăng gia sản xuất trong thời gian đi dân

công và vận động nhân dân giúp đỡ dân công trong thời gian đi công tác. Đối với

các chiến sĩ ngoài mặt trận vận động đồng bào hoan nghênh những chiến công để

động viên tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ. Đối với các thương binh, tử sĩ và

gia đình bộ đội phải vận động nhân dân giúp đỡ về mọi mặt. Đây chính là sức

mạnh đoàn kết, một lòng kháng chiến chống thực dân Pháp của quân dân Việt

Bắc, làm nên những thắng lợi quan trọng, đóng góp vào cuộc kháng chiến chung

của đất nước.

Như vậy, công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc trong giai đoạn

1949-1952 đã đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt: tổ chức bộ máy

được kiện toàn; cán bộ dân vận được tăng cường, trong đó đã có cán bộ chuyên

trách; định hình nội dung, phương pháp dân vận tới từng đối tượng, từng nhiệm vụ

của công tác dân vận, của từng tình thế (khi có chiến sự làm nhiệm vụ chiến đấu và

khi tập trung làm làm nhiệm vụ hậu phương).

Page 90: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

86

Chương 3

ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

CÔNG TÁC DÂN VẬN TỪ THÁNG 7-1952 ĐẾN THÁNG 7-1954

3.1. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC

DÂN VẬN TRƯỚC YÊU CẦU MỚI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

Sang năm 1952, cuộc kháng chiến của quân dân Việt Nam đã bước vào năm

thứ sáu với những chuyển biến quan trọng trên chiến trường. Đảng chủ trương đẩy

mạnh cuộc kháng chiến, chuẩn bị chuyển sang tổng phản công. Để thực hiện thắng

lợi những chủ trương đã đề ra và cụ thể hoá những nhiệm vụ trong giai đoạn mới,

Đảng luôn sáng suốt lựa chọn những thời điểm có tính quyết định để kịp thời chỉ

đạo trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến.

Để kịp thời ứng phó với tình hình mới, đầu năm 1952, Ban Bí thư Trung ương

Đảng ra Chỉ thị gửi các Liên khu ủy và Tỉnh ủy trong vùng địch hậu, trong đó yêu

cầu các cán bộ làm công tác dân vận ở vùng địch hậu phải thận trọng về xây dựng và

chỉnh đốn tổ chức quần chúng mà công tác đầu tiên cần phải làm là chú trọng việc

lãnh đạo nhân dân đem lại quyền lợi thiết thực cho nhân dân, giúp nhân dân giải

quyết các việc cần thiết trước mắt. Vận động và tổ chức nhân dân phối hợp chặt chẽ

với bộ đội và dân quân du kích địa phương để chống giặc càn quét, bảo vệ sản xuất,

nhà cửa của nhân dân, chống giặc bắt lĩnh, bắt phu, nộp thóc, thuế. Trong quá trình

thực hiện các công việc trên, phải tiến hành việc xây dựng và chấn chỉnh các tổ chức

quần chúng.

Cũng trong thời gian này, thực dân Pháp âm mưu cấu kết với bọn phản động

lang đạo, phìa tạo ở địa phương, thẳng tay đàn áp, bóc lột đồng bào các dân tộc

thiểu số. Đặc biệt, chúng ra sức dùng chính sách lừa bịp, chia rẽ xúi giục hận thù

giữa các dân tộc, giữa đồng bào các dân tộc với đồng bào Kinh hòng phá hoại chính

sách đại đoàn kết chống thực dân xâm lược của Đảng và Chính phủ. Chúng xúc tiến

lập lại xứ Mường, xứ Thái, xứ Nùng, xứ Tây Kỳ “tự trị" nhằm mục đích tận dụng

sức người, vơ vét của cải của đồng bào, phá hoại công cuộc kháng chiến.

Page 91: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

87

Trước âm mưu thâm độc của thực dân Pháp và tay sai, tháng 8-1952, Bộ

Chính trị ra Nghị quyết về chính sách dân tộc thiểu số. Nghị quyết đã chỉ ra một

số thiếu sót trong công tác vận động dân tộc thiểu số, đó là biểu hiện coi nhẹ công

tác đoàn kết các dân tộc, coi thường âm mưu chia rẽ của địch, công tác vận động

lệch một chiều, chưa có biện pháp tích cực giúp đỡ đồng bào dân tộc cải thiện đời

sống, đội ngũ cán bộ dân tộc còn yếu và thiếu… Để khắc phục nhanh những thiếu

sót trên, Trung ương Đảng chỉ rõ: Công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số là

một trong những công tác quan trọng vào bậc nhất của Đảng, Chính phủ và Mặt

trận nhằm đẩy mạnh chính sách đại đoàn kết các dân tộc vào công cuộc chống

thực dân, đế quốc.

Nội dung của công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số được xác định

một cách toàn diện cả về chính trị, quân sự, xây dựng kinh tế, xây dựng văn hoá và

nếp sống mới. Bộ Chính trị yêu cầu mọi hoạt động đều phải nhằm vào việc tập

trung lực lượng toàn dân đoàn kết kháng chiến, tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược,

đánh bại can thiệp Mỹ, đánh đổ Việt gian bù nhìn, giành độc lập tự do cho tất cả các

dân tộc Việt Nam. Phương châm vận động tuyên truyền là đoàn kết, nắm vững quần

chúng, chủ yếu là nông dân; phát triển lực lượng tiến bộ, lôi kéo những phần tử ở

lớp trên, cô lập và đánh bại bọn phản động, bọn theo Pháp chống lại nhân dân.

Trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc cần phải chú ý làm tốt các

nhiệm vụ: lôi kéo tầng lớp trên, vận dụng đúng chính sách đối với ngụy binh và gia

đình ngụy binh; kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, tích cực đào tạo cán bộ

vùng dân tộc; về kinh tế chưa chủ trương thủ tiêu chế độ phong kiến ở miền núi mà

chỉ hạn chế dần dần và cần phải làm có trọng điểm; phải tôn trọng tiếng nói và chữ

viết của đồng bào, vận động bỏ nếp sống lạc hậu; về quân sự cần phát triển dân

quân du kích để tham gia tiễu phỉ giữ làng; ra sức xây dựng và phát triển Đảng

trong đồng bào các dân tộc.

Để giành những thắng lợi to lớn hơn nữa cho cuộc kháng chiến của nhân

dân, trong giai đoạn phản công, ngày 9-1-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra

Chỉ thị gửi các Liên khu uỷ để động viên nhân lực, vật lực phục vụ mặt trận. Căn cứ

vào kinh nghiệm trước đây, Trung ương Đảng chỉ đạo các liên khu và các tỉnh đặc

Page 92: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

88

biệt chú ý đả thông tư tưởng cán bộ của ngành, các cấp về sự quan trọng và cấp

bách của công tác phục vụ này để đảm bảo thắng lợi mới của cuộc kháng chiến.

Đồng thời, các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải giải thích và thực hiện đầy đủ

khẩu hiệu tất cả để chiến thắng, tất cả cho tiền tuyến.

Chỉ thị nêu rõ yêu cầu của việc cung cấp mặt trận gồm mấy điểm sau:

Về dân công, cung cấp số dân công cần thiết trong thời gian sắp tới là việc

trọng yếu bậc nhất. Đó cũng là một việc gay go, vì mới đây một số lớn

đồng bào đi dân công vừa về địa phương có người tinh thần phấn khởi,

nhưng còn một số tinh thần chán nản. Cho nên cán bộ các cấp liên khu và

tỉnh cần phải giải thích sâu rộng trong nhân dân để họ tự giác ra sức phục

vụ kháng chiến, đồng thời phải giúp đỡ gia đình có người ra tiền tuyến về

mặt sản xuất; Về gạo, lương thực, phải phụ trách việc xay giã và đưa đủ số

gạo cần thiết trong thời gian đã định; Về sửa đường, công tác này nặng và

gấp hơn trước nên sửa đường là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của các liên

khu và tỉnh; Về các phương tiện vận tải, các tỉnh phải chuẩn bị động viên

theo thể lệ đã quy định [77, tr. 7-9].

Trước yêu cầu cấp bách đó, Trung ương quyết định tất cả các liên khu và các

tỉnh thành lập Hội đồng cung cấp Mặt trận, phụ trách toàn bộ công tác cung cấp cho

mặt trận về nhân lực, vật lực. Hội đồng cung cấp Mặt trận sẽ làm việc dưới sự chỉ

đạo của Thủ tướng Chính phủ. Chỉ thị của Ban Bí thư đã kịp thời đẩy mạnh vận

động các cấp, các ngành huy động nhân lực, vật lực phục vụ cuộc kháng chiến.

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa II (họp từ ngày 25

đến ngày 30-1-1953): Hội nghị xác định để duy trì kháng chiến trường kỳ và đưa

cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, trước mắt, phải tập trung giải quyết hai

vấn đề chính:

Một là, lãnh đạo kháng chiến và chính sách quân sự. Để đánh thắng thực dân

Pháp, bọn can thiệp Mỹ và lũ Việt gian bù nhìn, phải có một quân đội nhân dân thật

mạnh và luôn luôn tiến bộ. Phương hướng chiến lược của cách mạng trong giai đoạn

này là: Bộ đội chủ lực ở chiến trường Bắc Bộ thì phải dùng vận động chiến linh hoạt,

để tiêu diệt từng mảng sinh lực địch, làm cho địch yếu đi. Chiến trường sau lưng địch

Page 93: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

89

phải mở rộng du kích chiến để tiêu diệt và tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch; để

chống địch càn quét, bảo vệ tính mạng, tài sản cho dân; để khuấy rối, phá hoại, kiềm

chế địch, tuyên truyền và giáo dục quần chúng. Ngoài việc tăng cường bộ đội chủ lực

và xây dựng bộ đội địa phương, vùng tự do và những căn cứ du kích, cần phải xây

dựng những tổ chức dân quân, du kích không thoát ly sản xuất. Phải kết hợp những

hình thức đấu tranh (giữa bộ đội chủ lực, du kích) một cách linh hoạt, khéo léo. Phải

nhận thức được tính chất trường kỳ của kháng chiến để giữ gìn sức chiến đấu. Phải

tăng cường công tác chính trị, công tác quân sự trong bộ đội.

Hai là, phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức để tiến đến

cải cách ruộng đất. Trước hết, phải ra sức phát động quần chúng nông dân, làm

cho quần chúng tự giác tự nguyện đứng ra đấu tranh triệt để giảm tô, thực hiện giảm

tức và giành lấy ưu thế chính trị ở nông thôn. Đảng và Chính phủ phải lãnh đạo, tổ

chức, giúp đỡ, kiểm tra. Sau khi giảm tô, giảm tức, quần chúng đã được phát động,

tổ chức đã vững chắc, lực lượng đã đầy đủ, ưu thế chính trị đã về tay nông dân lao

động, đa số nông dân được yêu cầu thực hiện cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất

sẽ giải quyết nhiều vấn đề về quân sự, kinh tế, chính trị... Phát động quần chúng

triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức là một việc rất to lớn và quan trọng. Nó sẽ làm

đà cho công việc cải cách ruộng đất sau này. Đảng phải định phương châm, chính

sách, phải có kế hoạch, phải có tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra. Trước nhất phải thống

nhất tư tưởng trong Đảng, từ trên xuống dưới, phải đả thông tư tưởng các tầng lớp

nhân dân, đặc biệt là nông dân.

Hội nghị xác định những công tác chính trong năm 1953:

Một là, phát động quần chúng; Hai là, tăng cường sự chỉ đạo chiến tranh

của Đảng, đẩy mạnh các công tác chỉnh quân và tác chiến để tiêu diệt

nhiều sinh lực của địch; Ba là, phải chú ý cải thiện đời sống nhân dân,

giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân, tích cực đề phòng và chống nạn đói;

Bốn là, về công tác sau lưng địch, tiếp tục tăng cường về mọi mặt, phát

triển chiến tranh du kích, chống và phá càn quét để củng cố và mở rộng

vùng du kích và căn cứ du kích. Phá âm mưu của địch xây dựng ngụy

quyền và ngụy quân, chống địch phá hoại và cướp bóc kinh tế, chống sự

Page 94: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

90

tuyên truyền lừa bịp của địch. Phải tăng cường việc tuyên truyền, giáo

dục và tổ chức nhân dân. Phải thực hiện thống nhất lãnh đạo của Đảng và

của Chính phủ ở sau lưng địch; Năm là, về chỉnh Đảng, kết hợp với công

tác phát động quần chúng để chỉnh đốn chi bộ xã. Tiếp tục chỉnh huấn

cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng [77, tr. 135].

Trước yêu cầu mới về công tác vận động quần chúng vùng kháng chiến, Hội

nghị Nông vận và dân vận toàn quốc được triệu tập (diễn ra từ ngày 5-2 đến ngày 18-

3-1953), Hội nghị chỉ rõ vai trò to lớn của nông dân trong cách mạng dân tộc dân

chủ, coi cách mạng dân tộc dân chủ là cách mạng nông dân và cơ sở của nó là ruộng

đất, nông dân là động lực trong cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp công nhân

lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Hàng triệu chiến sĩ nông dân khi đã giác

ngộ thì họ là những chiến sĩ quyết chiến quyết thắng. Hội nghị nêu rõ: chính sách

ruộng đất của Đảng chưa được thi hành triệt để, chưa nhận rõ vai trò của nông dân và

chưa chú ý đến quyền lợi của nông dân, quá nhân nhượng đối với địa chủ, không dám

phóng tay phát động quần chúng.

Hội nghị nghe báo cáo và thảo luận về sự lãnh đạo công tác nông vận ở

khu, tỉnh. Báo cáo nêu rõ, lãnh đạo công tác nông vận tuy đã đi vào cụ

thể, đã chú ý giải quyết khó khăn cho nông dân, nhưng lãnh đạo thiếu

kịp thời, nhiều nơi còn ít chú ý giải quyết quyền lợi cho bần, cố nông,

nhiều phong trào chỉ trên hình thức, tình trạng cơ sở trắng còn nhiều...

Hội nghị nhất trí cần nâng cao lập trường tư tưởng của giai cấp công

nhân và đường lối quần chúng lãnh đạo nông dân trong kháng chiến và

kiến quốc [170].

Hội nghị Cán bộ toàn quốc về vấn đề phát động quần chúng nông dân (tháng

3-1953): Hội nghị được triệu tập để thảo luận làm rõ một số nội dung về công tác vận

động quần chúng nông dân. Tại Hội nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh cần

chỉ rõ công tác phát động quần chúng nông dân như sau:

Ai phát? Cán bộ phải phát. Muốn phát phải hiểu rõ chính sách của Đảng,

của Chính phủ, phải hiểu rõ quần chúng; Phát là thế nào? Là phải đoàn kết

bần, cố, trung nông. Phải tổ chức họ chặt chẽ, phải giáo dục cho họ giác

Page 95: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

91

ngộ; Động rồi phải làm gì? Phải triệt để giảm tô để cải thiện đời sống nông

dân. Giảm tô rồi phải thi đua tăng gia sản xuất. Cán bộ phải nắm vững

chính sách của Đảng, của Chính phủ đi đúng đường lối quần chúng, tuyệt

đối không bao biện, lúc phát động nông dân phải đoàn kết giác ngộ họ.

Cán bộ phải nói cho nông dân hiểu rõ. Đồng bào thiểu số hay đa số, lương

hay giáo, cán bộ biết cách làm thì đều vận động được [179, tr. 92].

Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa II (họp từ ngày 14 đến

ngày 23-11-1953): Hội nghị quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến

hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Từ tháng 4 đến tháng 8-1953, Đảng phát

động quần chúng triệt để giảm tô đợt 1 được tiến hành ở 22 xã thuộc Liên khu Việt

Bắc và Liên khu IV, đợt 2 mở rộng trong phạm vi 162 xã thuộc 10 tỉnh Liên khu Việt

Bắc và Liên khu IV. Hội nghị cũng được nghe hai bản báo cáo quan trọng do Chủ

tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh trình bày và thông qua Cương lĩnh

ruộng đất của Đảng.

Hội nghị cũng đã nghe các báo cáo về Chính quyền dân chủ nhân dân và cải

cách ruộng đất; Quân đội nhân dân với cải cách ruộng đất; Công tác tổ chức đối với

cuộc vận động cải cách ruộng đất. Hội nghị Trung ương lần thứ năm và Hội nghị

toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã quyết định phát động quần chúng triệt để giảm

tô và tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng", thông

qua Cương lĩnh ruộng đất của Đảng.

Ngày 26-1-1954, Bộ Chính trị ra Chỉ thị gửi các Liên khu uỷ về công tác ở

những xã đã vận động quần chúng giảm tô. Nội dung Chỉ thị nhấn mạnh việc đề

phòng âm mưu của địa chủ; bảo vệ và giúp đỡ những cán bộ mới được cất nhắc trong

phong trào; đảng viên và chi uỷ phải đoàn kết với những cốt cán ngoài Đảng trong

Nông hội; bước đầu chỉnh đốn cấp huyện, có kế hoạch cho các huyện uỷ tham gia

phát động quần chúng. Đặc biệt chú trọng công tác giáo dục nông dân tăng cường

đoàn kết, ổn định việc tăng gia sản xuất, quan tâm đến đời sống hằng ngày của quần

chúng để đẩy mạnh mọi công tác kháng chiến và sửa đổi lề lối làm việc.

Ở những xã đã phát động quần chúng giảm tô thì Việt gian phản động, cường

hào gian ác đã bị đánh đổ, thế lực kinh tế, chính trị của giai cấp địa chủ đã bị suy

Page 96: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

92

yếu. Đảng và Chính phủ đã bước đầu giành được ưu thế chính trị cho nông dân lao

động, thoả mãn một phần yêu cầu kinh tế của nông dân. Các tổ chức quân, dân,

chính, Đảng ở nông thôn bước đầu được chỉnh đốn. Sau khi giảm tô, thoái tô, nông

dân hăng hái sản xuất, phong trào đổi công giúp nhau làm ăn, phục vụ kháng chiến

phát triển mạnh. Công tác thuế nông nghiệp, đi dân công, tòng quân, học tập văn

hoá... đều được đẩy mạnh.

Để tiếp tục giành được nhiều thắng lợi mới, nắm vững cơ hội tốt, nhân đà

thắng lợi, Bộ Chính trị quyết định phải động viên quân đội và nhân dân tiếp tục

đánh giặc và phục vụ tiền tuyến không những trong mùa xuân này, mà còn cần mở

rộng thắng lợi trong mùa hạ. Ngày 8-2-1954, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về động viên

quân đội và nhân dân tiếp tục đánh giặc và phục vụ tiền tuyến: Đảng uỷ các cấp cần

phải nhận rõ chủ trương quân sự của Trung ương, phải đặt nhiệm vụ tác chiến và

phục vụ tiền tuyến là nhiệm vụ trung tâm thứ nhất trong mọi công tác lúc này và

phải quyết tâm huy động nhân lực, vật lực để phục vụ tiền tuyến. Đồng thời kết hợp

chặt chẽ việc phục vụ tiền tuyến với việc phát động quần chúng giảm tô, cải cách

ruộng đất và việc tăng gia sản xuất. Nơi nào có vùng mới giải phóng, thì phải kết

hợp giữa tác chiến với củng cố vùng mới giải phóng về mọi mặt như đào tạo cán bộ,

xây dựng lực lượng vũ trang, sửa chữa đường sá, phục hồi sản xuất, chăm lo đời

sống của nhân dân để giữ vững thắng lợi và giúp cho tiền tuyến liên tục đánh giặc.

Đảng uỷ, các cấp chỉ huy quân đội và dân quân du kích ở những vùng sau

lưng địch phải ra sức mở rộng chiến tranh du kích kết hợp với việc tích cực chống

địch bắt lính, phá kế hoạch bổ sung quân số của địch, triệt để lợi dụng sơ hở của

địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng và củng cố vùng căn cứ du kích, mở rộng

vùng du kích, thu hẹp vùng tạm bị chiếm.

Thực hiện mục tiêu phá kế hoạch bắt lính của địch và đẩy mạnh phong trào

chống bắt lính ở vùng sau lưng địch và vùng tạm bị chiếm, ngày 9-3-1954, Ban Bí

thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc chống địch bắt lính. Chỉ thị yêu cầu các cấp

uỷ phải nhận thức rõ âm mưu của địch và nhiệm vụ rất trọng yếu của đấu tranh

chống bắt lính. Tuyên truyền rộng rãi chống địch bắt lính: vạch rõ âm mưu thâm độc

của địch dùng người Việt đánh người Việt, đưa thanh niên làm bia đỡ đạn cho chúng

Page 97: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

93

để kéo dài chiến tranh xâm lược, gây ra cảnh cốt nhục tương tàn, làm cho nhiều gia

đình lâm vào cảnh tang tóc. Vạch rõ những luận điệu độc lập giả hiệu của đế quốc và

bọn bù nhìn phản quốc, vạch rõ mưu mô của địch tuyên truyền lập địa phương quân để

dễ bắt lính cơ động đi đánh nơi khác; đề phòng tư tưởng chủ quan của nhân dân và cán

bộ xem thường sự nguy hiểm của nguỵ binh. Phải vận động, giáo dục mọi tầng lớp

nhân dân hiểu rõ âm mưu của địch và nhiệm vụ chống bắt lính trong nhân dân, làm

cho nhân dân quyết tâm và hăng hái chống địch bắt lính, kịp thời nêu rõ những thủ

đoạn bắt lính dã man của địch và những cuộc đấu tranh anh dũng chống địch bắt

lính của nhân dân.

Ở những vùng sau lưng địch, phải động viên, giáo dục và tổ chức thanh

niên tham gia du kích, chuẩn bị chống địch càn quét, kết hợp chặt chẽ với chống

địch bắt lính. Phải dùng đủ mọi hình thức đấu tranh từ đấu tranh lẻ tẻ, bí mật đến

dùng những hành động vũ trang chống lại khi bị giặc bắt, dùng lực lượng vũ trang

cứu những thanh niên bị bắt, đánh giải thoát những thanh niên bị bắt tập trung ở

trại, ở trường.

Thông qua những nội dung của Hội nghị Trung ương lần thứ năm và Hội

nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã tạo đà phấn khởi của các tầng lớp nhân

dân cả nước. Đặc biệt, với thắng lợi của việc phát động quần chúng thực hiện

chính sách ruộng đất theo Cương lĩnh ruộng đất của Đảng trong năm 1953 và

tiếp theo đó là năm 1954, đã góp một phần quyết định vào thắng lợi của chiến

cuộc Đông Xuân 1953-1954 và đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ,

kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

3.2. ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG TÁC

DÂN VẬN TRONG GIAI ĐOẠN MỚI (7-1952 - 7-1954)

3.2.1. Sự thay đổi về địa giới hành chính Liên khu Việt Bắc

Năm 1952, cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn quyết liệt.

Trong giai đoạn này, ở vùng tạm chiếm và vùng du kích, công tác vận động quần

chúng nhằm giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh mọi mặt của nhân dân chống áp

bức, để bảo vệ quyền lợi cho nhân dân, phá chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến

tranh, dùng người Việt đánh người Việt”; phát triển sản xuất để cải thiện đời sống

Page 98: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

94

nhân dân; giáo dục để nâng cao trình độ giác ngộ của quần chúng; tăng cường đại

đoàn kết toàn dân.

Sau khi Chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi (2-1952), kết quả đã giải

phóng được 20.000 dân, ở vùng sau lưng địch, giải phóng 2 triệu dân, mở rộng và

khôi phục nhiều căn cứ và khu du kích. Đây là chiến thắng lớn nhất sau chiến dịch

Biên Giới, phá tan âm mưu lập "hành lang Đông Tây" và giành lại thế chủ động trên

chiến trường Bắc Bộ của địch. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã phát triển

lên một giai đoạn mới, Trung ương Đảng chủ trương tiến công lên Tây Bắc, đây là

nơi có vị trí chiến lược rất quan trọng, nơi hiểm yếu, nhưng địch có nhiều sơ hở, lực

lượng tương đối yếu, bố trí phân tán và rải rác. Tháng 4-1952, Bộ Chính trị và Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc mở chiến dịch giải phóng Tây Bắc nhằm tiêu diệt

một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn.

Tháng 5-1952, Trung ương Đảng chủ trương tách 4 tỉnh Yên Bái, Lào Cai,

Lai Châu và Sơn La khỏi Liên khu Việt Bắc, thành lập một khu hành chính - kháng

chiến mới với mật danh Khu 20. Ngày 17-7-1952, Trung ương ra nghị quyết thành

lập khu Tây Bắc. Các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Lào Cai và Yên Bái của Liên khu Việt

Bắc cắt ra cho Khu Tây Bắc.

Sau khi thành lập Khu Tây Bắc, Liên khu Việt Bắc còn lại các tỉnh Cao Bằng,

Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hải Ninh, Quảng Yên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Thái

Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Yên. Trong Ban Chấp hành Đảng

bộ Liên khu Việt Bắc, một số đồng chí chuyển sang đảm nhận nhiệm vụ mới tại Khu

uỷ Tây Bắc đã đặt ra cho Đảng bộ Liên khu Việt Bắc những yêu cầu mới về việc kiện

toàn bộ máy tổ chức, cán bộ để tiếp tục lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kháng chiến đi

đến thắng lợi. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình cách mạng trong giai đoạn mới Đảng

bộ Liên khu Việt Bắc đã sớm triển khai việc kiện toàn Ban Chấp hành Đảng bộ.

Đồng chí Nguyễn Khang tiếp tục đảm nhiệm cương vị Bí thư Liên khu uỷ.

Sự điều chỉnh về địa giới hành chính và bộ máy tổ chức của Đảng bộ Liên

khu Việt Bắc diễn ra trong bối cảnh Trung ương Đảng triển khai thực hiện Nghị

quyết Hội nghị lần thứ ba, đặt ra cho Đảng bộ Liên khu những nhiệm vụ mới trong

công tác vận động quần chúng tập trung vào công tác chuẩn bị tổng phản công.

Page 99: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

95

Theo tinh thần của Nghị quyết, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định nhiệm vụ

chính của Liên khu trong giai đoạn này là tiêu diệt sinh lực địch, đồng thời bồi

dưỡng, tích trữ lực lượng vật chất và tinh thần cho cuộc kháng chiến. Để thiết thực

chuẩn bị tổng phản công, Đảng bộ Liên khu xác định phải tiến hành chỉnh quân,

đề cao chất lượng chính trị của bộ đội; chỉnh Đảng đề cao trình độ tư tưởng và ý

thức chính trị của đảng viên, làm cho toàn Đảng thống nhất về tư tưởng và hành

động và phải phát động quần chúng một cách đầy đủ, thực sự giành lấy ưu thế

quần chúng hơn nữa. Đại đa số quần chúng trên địa bàn Liên khu là nông dân,

muốn giành được ưu thế quần chúng phải cải thiện đời sống cho nông dân. Phải ra

sức thực hiện chính sách ruộng đất, cần phải chỉnh đốn công tác quần chúng, trước

hết là công tác nông vận.

Liên khu uỷ xác định Chính sách ruộng đất của Đảng ở giai đoạn này là chính

sách giảm tô giảm tức, chia ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho dân cày

nghèo, sử dụng công điền và ruộng đất vắng chủ một cách hợp lý. Mục đích là đoàn kết

dân tộc để kháng chiến, cô lập bọn đế quốc xâm lược, giảm nhẹ sự bóc lột của phong

kiến, cải thiện đời sống cho nông dân. Phải giành ưu thế chính trị cho nông dân lao

động, nhất là bần, cố nông.

Cuộc vận động giảm tô giảm tức phải trải qua 3 bước: Một là, giác ngộ

nông dân làm cho họ có ý thức về quyền lợi chính đáng của họ, giải thích

chính sách của Đảng cho địa chủ khiến họ hiểu việc họ phải làm; Hai là,

phát động quần chúng nông dân đòi giảm tô giảm tức theo đúng sắc lệnh

của Chính phủ; Ba là, đảm bảo cho địa chủ thu tô, thu tức để thực hiện đoàn

kết kháng chiến” [76, tr. 65].

3.2.2. Chủ trương của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc về công tác dân vận

trong giai đoạn mới

Bước sang năm 1952, Trung ương Đảng chủ trương vận động toàn dân thực

hiện kế hoạch sản xuất tiết kiệm, cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo cung cấp

đầy đủ quân lương cho bộ đội nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến, chuyển sang tổng

phản công. Nhiệm vụ chính của công tác dân vận được xác định phải đề cao công

tác vận động đồng bào các dân tộc ở vùng biên giới, ở các nơi lạc hậu, ở các căn cứ

Page 100: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

96

biệt lập ngay sau lưng địch; phát triển thêm công tác võ trang, tuyên truyền, tiến tới

thống nhất phương pháp chỉ huy theo dõi từ Trung đoàn đến Liên khu, đào tạo thêm

cán bộ để cung cấp kịp thời sự đòi hỏi của công tác; phát triển du kích chiến tranh,

giúp đỡ du kích trong kế hoạch công tác chính trị, làm cho các đội du kích trưởng

thành nhanh chóng; Vận động dân chúng sâu và thiết thực hơn nữa, sửa chữa kế

hoạch vận động đỡ đần chiến sĩ.

Để bảo đảm thực hiện tốt chủ trương của Trung ương, Đảng bộ Liên khu

Việt Bắc chỉ đạo việc xây dựng và phát triển bộ máy chính quyền và các đoàn thể

nhân dân để tăng cường công tác dân vận và gây một cuộc vận động lớn trong nhân

dân và các giới nhằm hết sức cố gắng thực hiện kế hoạch sản xuất năm 1952.

Công tác nông vận: mục tiêu của công tác vận động nông dân thời kỳ này là

cải thiện nông thôn, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã đề ra các khẩu hiệu: Nông thôn

kháng chiến, Nông thôn kiến quốc, Nông thôn tiến bộ…; giải quyết vấn đề điền

địa, công điền, dồn điền của Pháp và Việt gian cho dứt khoát; chấn chỉnh và phát

triển tổ chức nông dân cho mạnh mẽ. Trung, bần, cố nông là lực lượng chính trong

nông thôn, phải lấy lực lượng ấy làm nòng cốt để lôi kéo những tầng lớp nông dân

khác trong việc đoàn kết nông thôn. Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng giải

phóng dân tộc cho nên phải có sự liên hiệp giữa địa chủ, phú nông với trung, bần,

cố nông. Phải có sự đoàn kết đi đôi với sự tranh đấu của nông dân. “Tính chất của

nông dân là thích quyền lợi thực tế, cần cù cho nên công tác nông vận phải: Mang

lại lợi ích thực tế cho người nông dân; Lấy việc cụ thể làm lợi ích tuyên truyền;

Công tác nông vận phải là công tác lâu dài, liên tục và tỉ mỉ” [155, tr. 48-49]. Phát

động nông dân nâng cao năng suất, có kế hoạch cụ thể, thúc đẩy việc thực hiện kế

hoạch tăng gia sản xuất. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc chủ trương giảm địa tô 25%

và giải quyết vấn đề ruộng đất ở vùng thôn quê, khuyến khích và đề cao thành tích

tăng gia nông nghiệp.

Công tác thanh vận: đề cao vai trò của thanh niên trong cuộc kháng chiến;

động viên toàn thể thanh niên xung phong tham gia kháng chiến và kiến quốc;

thống nhất các tổ chức thanh niên thành một mặt trận thanh niên rộng lớn; giáo dục

thanh niên và đào tạo cán bộ thanh niên cho mọi ngành hoạt động xã hội; cải thiện

Page 101: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

97

đời sống và sinh hoạt cho thanh niên. Công tác vận động thanh niên cần hướng vào

những phong trào sôi nổi, luôn luôn đổi mới những hình thức và phương pháp hoạt

động. Trong cuộc kháng chiến, các thanh niên đã chiến đấu anh dũng, đoàn thanh

niên đã cung cấp những tài liệu về hoạt động của thanh niên cho các ban thanh niên

hiện đang chiến đấu ở mặt trận và kiến thiết ở hậu phương nhằm khích lệ, động viên

tinh thần xung phong của thanh niên.

Công tác công vận: Đảng bộ Liên khu Việt Bắc chủ trương phải củng cố lại

công tác vận động công nhân ở Hòn Gai, nhiệm vụ chính là vận động công nhân cải

tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và khai thác mỏ. Bên cạnh đó, công đoàn

khai thác mỏ phải chú trọng đến việc cải thiện đời sống công nhân, nâng cao mức

sống cho họ. Giáo dục và huấn luyện cho công nhân thật có ý thức chính trị hơn các

giới khác.

Công tác phụ vận: Từ trước đến nay, phụ nữ tham gia phong trào và kháng

chiến rất đông, đã làm tất cả công tác mà nam giới đã làm kể cả trên lĩnh vực quân

sự. Từ khi kháng chiến nổ ra, phụ nữ đã tham gia vào công việc đồng áng, thay cho

thanh niên nam giới ra trận. Chính vì vậy, nhiệm vụ mấu chốt của công tác vận

động phụ nữ thời kỳ này là hướng trào lưu phụ nữ vào công tác kinh tế và xã hội,

đồng thời giúp đỡ chị em tiến bộ. Liên khu uỷ chỉ đạo việc thúc đẩy các Liên hiệp

Phụ nữ hoạt động và giúp đỡ để giữ vững cán bộ hiện có và đào tạo nhiều cán bộ

địa phương. Nâng cao giáo dục phụ nữ về mọi mặt công tác, chuyển hướng công tác

phụ nữ về kinh tế và xã hội. Định hướng cho phụ nữ tranh đấu và thống nhất nội bộ.

Công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số: Ngày 16-8-1952, Ban Bí thư

Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc Thi hành chính sách dân tộc thiểu số ở Khu QT

(Quang Trung) thuộc Liên khu Việt Bắc. Để thực hiện tốt chính sách của Đảng đối

với đồng bào các dân tộc thiểu số, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã xác định những

nhiệm vụ cụ thể đối với công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số là tuyên

truyền, giáo dục tinh thần đoàn kết kháng chiến và lòng yêu nước của các dân tộc

thiểu số làm cho đồng bào tin tưởng vào kháng chiến nhất định thắng lợi; đề cao

tinh thần căm thù của đồng bào với thực dân Pháp và tay sai.

Page 102: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

98

Ở Liên khu Việt Bắc rất nhiều đồng bào các dân tộc miền ngược sinh sống

tại những nơi hẻo lánh (thung lũng, miền rừng núi) trình độ hiểu biết còn hạn chế,

cán bộ làm công tác dân vận ở những vùng này phải có sự nghiên cứu về các dân

tộc để hiểu rõ nguyện vọng, tính chất của từng vùng, từng dân tộc. Như vậy mới có

thể giải quyết được một các xác thực và hợp lý quyền lợi của quốc dân miền ngược.

Công tác vận động đồng bào miền ngược cơ bản là chăm lo, cải thiện đời sống vật

chất cho đồng bào.

Khẩu hiệu vận động được nêu ra:

Dao, Nùng, Thổ, Kinh đoàn kết một lòng; Đả phá mưu mô và chính sách

chia rẽ các dân tộc của thực dân phản động Pháp; Nỗ lực thi đua ái quốc;

Hết sức làm ra nhiều ngô, khoai, bông, lúa để kháng chiến; Hăng hái đi

học chữ; Hăng hái đi họp; Cương quyết bài trừ hủ tục; Quyết tâm giữ

vững chiến khu Việt Bắc; Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm;

Hồ Chủ tịch muôn năm [155, tr. 1-2].

Đi đôi với việc tuyên tuyền, vận động, việc cải thiện sinh hoạt cho quốc dân

miền ngược được thực hiện theo hai nguyên tắc là căn cứ vào tình hình kinh tế, văn

hoá, chính trị, xu hướng, nguyện vọng của mỗi dân tộc phải được nghiên cứu tỉ mỉ,

đầy đủ và thích hợp với từng dân tộc, từng địa phương. Tăng gia sản xuất; chú trọng

nhu cầu cần thiết hàng ngày, tiếp tế vải, gạo, muối… cho đồng bào. Nâng cao sự

hiểu biết của đồng bào, phát triển tiểu học và Bình dân học vụ; mở những lớp huấn

luyện ngắn và phát những tài liệu ngắn cho đồng bào; vận động đồng bào xoá bỏ

những hủ tục, lễ nghi, tập quán lạc hậu để xây dựng đời sống mới.

Trước tình hình mới của kháng chiến và yêu cầu của công cuộc cải cách

ruộng đất, từ ngày 27 đến ngày 29-4-1953, Hội nghị Thường vụ Đảng bộ Liên khu

Việt Bắc họp bàn về công tác phát động quần chúng thực hiện giảm tô, giảm tức.

Hội nghị nghe báo cáo về việc phát động quần chúng và tổ chức lãnh đạo thí điểm ở

các xã Đồng Bẩm, Dân Chủ, Phú Xuân, Nha Lộng, Đức Liên, Đồng Tiến (Phổ Yên,

Thái Nguyên) và ba xã Hợp Tiến, Đào Quản, Hưng Đạo thuộc tỉnh Bắc Giang.

Để bảo đảm lực lượng và thực hiện những nhiệm vụ trước mắt của cuộc

kháng chiến, toàn Liên khu sẽ mở một cuộc vận động tòng quân rộng khắp từ 1-6

Page 103: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

99

đến 30-6-1953, với mục đích tuyên truyền giáo dục cho thanh niên và nhân dân, đặc

biệt các gia đình thanh niên đi tòng quân hiểu rõ nghĩa vụ tòng quân, nhiệm vụ xây

dựng quân đội. Phương châm của cuộc vận động là chống càn, chống phá việc

tuyển mộ của địch, kết hợp công tác phát động quần chúng với việc vận động tuyển

mộ tân binh.

Thực hiện Chỉ thị phát động quần chúng giảm tô thuộc vùng dân tộc thiểu số

sinh sống lẫn với người Kinh ở Liên khu Việt Bắc của Ban Bí thư Trung ương Đảng

ngày 05-12-1953, “Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã phát động quần chúng ở một số

xã có dân tộc thiểu số ở lẫn với người Kinh trong đợt 1 và đợt 2. Trong 40 xã phát

động quần chúng ở Thái Nguyên và Bắc Giang đợt 2 thì gần 20 xã có dân tộc thiểu

số” [82, tr. 527-536]. Cuộc vận động giảm tô những vùng dân tộc thiểu số ở lẫn với

người Kinh nhất định phải có cán bộ dân tộc thiểu số tham gia và cần giáo dục cho

tất cả cán bộ thấm nhuần chính sách dân tộc.

Một trong những nội dung quan trọng của công tác dân vận mà Đảng xác

định là công tác vận động đồng bào công giáo. Thực hiện chủ trương của Trung

ương Đảng, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định việc vận động đồng bào công

giáo cần phải:

Thành thực đoàn kết và cương quyết trừng trị bọn công giáo phản động;

Phải thống nhất kế hoạch vận động và phối hợp kế hoạch với các ngành;

Phải tập trung công tác với những nơi công giáo yếu nhất để nắm chắc lấy;

Trung lập hoá cha cố và làm cho giáo dân thoát ly dần ảnh hưởng của cha

cố; Lợi dụng sự cách biệt và những mâu thuẫn nội bộ của công giáo đẻ lôi

kéo dần từng bộ phận (dòng áo đen với dòng áo trắng, già với trẻ, cha cố

với thầy già, họ này với họ khác, giáo dân nghèo với giáo dân giàu…);

Dùng lợi ích thực tế và lối tuyên truyền giản dị, gần gũi cụ thể làm

phương tiện lôi kéo; Dùng đồng bào lương để vận động giáo dân (phổ

biến ý thức giáo vận trong đồng bào lương); Các cấp bộ phải coi công tác

giáo vận là một công tác quan trọng (thái độ lừng chừng của công giáo là

một điểm yếu mất đoàn kết dân tộc hiện tại)” [223, tr. 23].

Page 104: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

100

Coi công tác giáo vận là một công tác trường kỳ, khó khăn do đó cần cán bộ

có năng lực, tạo điều kiện giúp đỡ cán bộ về mọi phương diện; Tích cực đào tạo cán

bộ giáo vận và có chính sách rõ ràng, mạnh dạn dùng những người công giáo tốt,

nuôi dưỡng, giáo dục và giác ngộ họ, đem những thắng lợi nhỏ để kích thích tinh thần

cán bộ. Phải coi công tác giáo vận là công tác vận động chứ không phải là công tác

đối phó.

Ở Liên khu Việt Bắc, số lượng Hoa kiều chiếm một phần dân số khá lớn, rải

rác xung quanh các cứ điểm quân sự quan trọng, dọc nhiều đường giao thông chính,

biên giới Liên khu; Đây là một lực lượng khá quan trọng, Đảng xác định việc vận

động Hoa kiều là một nhiệm vụ quan trọng để cuộc kháng chiến vững vàng thêm.

Chính vì vậy, công tác Hoa vận được xác định là một bộ phận quan trọng trong

công tác dân vận kháng chiến của ta.

Người Hoa sinh sống ở Liên khu Việt Bắc tập trung chủ yếu tại vùng

duyên hải và biên giới, ước chừng 45.000 người, là người Ngái, Thổ,

Nùng và người Quảng Đông, Quảng Tây. Do sự di dân của các dân tộc ở

vùng Quảng Đông, Quảng Tây; Vì hoàn cảnh kinh tế và sự quan hệ về

địa dư của hai nước nên họ tự ý di cư sang; Một bộ phận do sự mộ phu

của các đồn điền, các xí nghiệp và hầm mỏ của Pháp. Hoa kiều tập trung

chủ yếu ở dọc đường số 4 từ Tiên Yên đến Móng Cái; dọc đường số 13

từ Lục Nam đến Đình Lập; Ở trong các thung lũng, núi rừng rải rác ven

bờ biển Hòn Gai, Hoành Bồ, Cẩm Phả mỏ, Cẩm Phả bến, đảo Cát Bà,

trong thị xã Hòn Gay và một số ở các cù lao nhỏ ngoài biển [55, tr. 33].

Hoa kiều ở Liên khu Việt Bắc chủ yếu là nông dân, trình độ thấp, còn nhiều mê

tín, dị đoan và tinh thần phân biệt dân tộc một cách rõ rệt. Việc giải quyết vấn đề Hoa

kiều theo tinh thần dân chủ rộng rãi, cần tôn trọng quốc tịch Hoa kiều. Công tác Hoa

vận là công tác thi hành chính sách đại đoàn kết của ta, phải hướng vào quảng đại quần

chúng cần lao để phát triển tổ chức. Công tác Hoa vận phải kiễn nhẫn, tỉ mỉ và liên tục.

Cũng như đối với các bộ phận dân tộc Việt Nam, phải tìm phương pháp để cải thiện

sinh hoạt và đời sống cho Hoa kiều. Mục tiêu của công tác Hoa vận là: Tăng cường

Page 105: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

101

công tác võ trang tuyên truyền, tiễu phỉ, trừ đặc vụ; Đặt cơ sở và phát triển các tổ chức

quần chúng: nông hội, công đoàn…; Cải thiện đời sống và sinh hoạt cho Hoa kiều.

Bước sang năm 1954, tình hình kháng chiến chống Pháp của quân và dân

Việt Bắc có nhiều chuyển biến mới, thế và lực trên chiến trường đã có những thay

đổi đáng kể. Để thực hiện chương trình kế hoạch cầu đường năm 1954 phục vụ cho

cuộc kháng chiến, Trung ương giao cho Liên khu Việt Bắc nhiệm vụ xây dựng 2

công trường lớn để kiến thiết 2 con đường mới. Nhiệm vụ của Liên khu phải hoàn

thành trong 5 tháng đầu năm 1954 và phải khởi công từ tháng 1-1954. Thi hành

nhiệm vụ của Trung ương giao cho, Liên khu đã vận động ra công trường một số

lượng lớn dân công, cán bộ cùng với thóc gạo, thực phẩm dùng cho dân công. Đặc

biệt là vấn đề huy động dân công hết sức quan trọng và cần kíp, quyết định sự thành

công của kế hoạch.

Căn cứ vào nhu cầu cấp bách của kế hoạch và khả năng của các tỉnh, Đảng

bộ Liên khu Việt Bắc đã giao chỉ tiêu vận động dân công và thóc gạo phục vụ dân

công cho các tỉnh như sau:

Về dân công: Huy động dân công loại A và B. Thời gian từng đợt dân công

phải làm việc trên công trường là 3 tháng rưỡi:

Lạng Sơn huy động 13.000 dân công, chia làm 2 đợt: đợt 1 là 5.000 dân

công; đợt 2 là 8.000 dân công; Bắc Giang phải huy động 4.000 dân

công; Bắc Ninh phải huy động 5.000 dân công; Cao Bằng huy động

2.000 dân công; Thái Nguyên huy động 1.000 dân công [161, tr. 65].

Dân công huy động theo đúng thể lệ huy động dân công của Chính phủ.

Trước khi huy động cần tổ chức cho dân công học tập, nghiên cứu một cách đơn

giản chính sách, đả thông cho họ về nhiệm vụ tránh lộ bí mật. Các tỉnh uỷ phải

báo cáo số lượng và chất lượng dân công, phải tập trung đầy đủ và đúng hạn ở

công trường. Phải chú ý huy động đảng viên đi lãnh đạo dân công, tỉnh phải cử

những cán bộ có ý thức lao động, có tinh thần xung phong gương mẫu. Dân công

phải biên chế thành những đơn vị từ cấp xã, thành lập các đoàn thể quần chúng để

lãnh đạo các giới.

Page 106: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

102

Về thóc gạo: “Bảo đảm cung cấp cho số lượng dân công tham gia làm đường

đủ gạo. Liên khu uỷ quyết định phân phối như sau: Lạng Sơn bảo đảm: 1.800 tấn;

Bắc Giang phải đảm bảo: 500 tấn; Thái Nguyên phải đảm bảo: 500 tấn” [161, tr. 66].

Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà Trung ương Đảng giao cho

Liên khu Việt Bắc, các ỉnh uỷ cần nhận thức rõ tầm quan trọng và nhận rõ trách

nhiệm phải lãnh đạo thực hiện.

Trong năm 1954, trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến chống Pháp, đánh

giá sự cần thiết về số lượng tân binh để bổ sung vào các đơn vị, Bộ Tư lệnh Liên

khu Việt Bắc đã có kế hoạch tuyển mộ gửi các Tỉnh đội thi hành. Ban Thường vụ

Liên khu uỷ ra Thông tri về việc tuyển tân binh yêu cầu tỉnh uỷ các tỉnh phải phối

hợp giúp đỡ các Tỉnh đội để bảo đảm vận động tuyển mộ quân số cho năm 1954.

Con số tân binh cần tuyển chia theo các tỉnh: “Bắc Giang là 500 người,

Bắc Ninh là 450 người, Quảng Yên là 700 người, Vĩnh Phúc 600 người,

Phú Thọ 600 người, Lạng Sơn 300 người, Cao Bằng 300 người, Tuyên

Quang 250 người, Bắc Kạn 300 người, Hà Giang 200 người, Thái

Nguyên 500 người” [161, tr. 74].

Để vận động và làm cho nhân dân ủng hộ, hiểu rõ cuộc kháng chiến của quân

dân ta, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã triệu tập Hội nghị cán bộ tuyên huấn (từ ngày

23 đến ngày 30-3-1954) với mục tiêu nâng cao ý thức kháng chiến trường kỳ, tự lực

cánh sinh, quyết tâm khắc phục khó khăn, tin tưởng vững chắc kháng chiến nhất

định thắng lợi. Cuộc kháng chiến ngày một trưởng thành, lực lượng ngày càng

mạnh, khu du kích đã mở rộng, đất đai nhiều nơi được giải phóng. Tuy nhiên,

những khó khăn do hành động của địch ngày càng dã man, yêu cầu của kháng chiến

nhanh chóng phát triển, đòi hỏi mọi tầng lớp nhân dân phải khắc phục mọi khó

khăn, tích cực đấu tranh chống địch, hăng hái sản xuất, tòng quân, đi dân công phục

vụ tiền tuyến để giành thắng lợi hoàn toàn. Lấy các gương chiến đấu anh dũng,

thành tích sản xuất để giáo dục, nâng cao tinh thần vượt trở ngại trong nhân dân.

Với cán bộ, bộ đội, du kích cần nâng cao ý thức phục vụ nhân dân. Đồng thời chủ

trương giải đáp thắc mắc của quần chúng trong mọi công tác chiến đấu, sản xuất,

sinh hoạt hàng ngày.

Page 107: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

103

Cuộc kháng chiến của quân dân Việt Bắc đang đi vào giai đoạn mới, giai

đoạn chuẩn bị về mọi mặt: quân sự, kinh tế, chính trị, xã hội đồng thời phải tạo nên

những điều kiện thuận lợi cho cuộc tổng phản công. Liên khu uỷ phải vận động cho

toàn khối dân tộc có một tinh thần bền bỉ, dẻo dai, để chịu đựng và vượt qua tất cả

mọi khó khăn để nhân dân có đủ ăn, đủ mặc, đủ điều kiện để chống giặc và đánh bại

giặc, nhân dân sẽ coi việc kháng chiến là bổn phận tất nhiên của người công dân.

Muốn được như vậy, việc tổ chức cuộc vận động nhân dân phải được chấn

chỉnh quy củ, khoa học và đơn giản. Từ bộ máy dân vận của đoàn thể cho đến các

tổ chức quần chúng, công tác dân vận phải thật sự thiết thực và có kế hoạch cụ thể.

Như vậy, so với giai đoạn trước, thời kỳ này công tác dân vận của Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc tập trung chủ yếu vào vận động toàn dân thực hiện kế hoạch sản

xuất tiết kiệm, đảm bảo cung cấp đầy đủ quân lương cho bộ đội nhằm đẩy mạnh

cuộc kháng chiến, chuyển sang tổng phản công. Công tác vận động đồng bào các

dân tộc ở vùng biên giới được đề cao; phát động nhân dân tham gia phát triển chiến

tranh du kích, giúp đỡ du kích; động viên toàn thể thanh niên các dân tộc trên địa

bàn xung phong tham gia kháng chiến và kiến quốc… đây là những nhiệm vụ quan

trọng mà Đảng bộ Liên khu đã xác định phải thực hiện để đưa cuộc kháng chiến đến

thắng lợi.

3.2.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ Liên

khu Việt Bắc từ tháng 7-1952 đến tháng 7-1954

Bước sang năm 1952, tình hình công tác dân vận của Liên khu Việt Bắc đạt

được nhiều thành tựu quan trọng. Các cơ sở quần chúng đã nhanh chóng gây dựng lại

và phát triển khá mạnh ở hầu hết các nơi trong vùng bị tạm chiếm. Ban chấp hành đã

được củng cố ở tất cả các cấp, công tác của các giới đã đi vào chiều sâu hơn trước,

phong trào thanh niên, phụ nữ hăng hái tham gia vào các tổ chức cứu quốc nhất là ở

trong vùng địch tạm chiếm. Phong trào nông dân đã lớn mạnh và lôi kéo được nhiều

bần, cố nông tham gia vì quyền lợi cho họ thiết thực hơn, lãnh đạo họ tranh đấu đòi

giảm địa tô thắng lợi.

Vai trò của công tác dân vận ở Liên khu ngày càng được đề cao. Trong đó,

lực lượng mới bao gồm giới tư sản, địa chủ, trí thức trước đây lừng chừng

Page 108: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

104

đã tham gia kháng chiến. Một số đồng bào công giáo cũng đã tham gia các

đoàn thể kháng chiến. Tinh thần dân chúng lên cao, đã phá tan được âm

mưu chia rẽ của địch, địch đã thất bại trong việc định thành lập Liên ban

Thổ, Nùng, Dao [53, tr. 20].

Phong trào thi đua nộp thuế nông nghiệp: Phấn khởi trước thắng lợi to lớn của

quân và dân Việt Bắc trên mặt trận Hoà Bình và các mặt trận khác, đồng bào các dân

tộc trên địa bàn Liên khu Việt Bắc đã nô nức thi đua nộp thuế nông nghiệp. Huyện

Định Hoá (Thái Nguyên) có sáng kiến mở Đại hội giao lương ở các xã để phát động

phong trào thi đua nộp thuế và được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Đồng bào giúp

đỡ nhau thu hoạch, vận chuyển, phơi khô quạt sạch, chọn thóc tốt để đóng thuế lương

thực. Ở Tuyên Quang, Lạng Sơn, đồng bào rủ nhau sửa chữa đường thôn bản để đưa

xe trâu, xe quệt vào tận nơi vận chuyển thóc. Những tổ giao lương ở Lạng Sơn,

Tuyên Quang xung phong đi vận chuyển thóc đã được huy động vận chuyển ở từng

thôn, từng hộ, giúp đỡ những nhà neo người, có con đi bộ đội, gia đình thương binh,

tử sĩ... Ở Thái Nguyên, việc vận động bán gạo để Chủ tịch Hồ Chí Minh khao quân

đã hoàn thành tốt, mặc dù nhiệm vụ đưa ra rất gấp và phải thực hiện trong thời gian

ngắn, giữa lúc nhân dân đang ở trong tình trạng giáp hoa, giáp hạt nhưng với tinh

thần sẵn có của đồng bào trong tỉnh, đã thu được kết quả khả quan với 160 tấn. Ngoài

ra, còn nhiều địa phương dân chúng đã tự nguyện bán thóc, gạo cho bộ đội với giá rẻ

hơn thị trường. Việc mua gạo để Chủ tịch Hồ Chí Minh khao quân được dân chúng

nhiệt liệt hưởng ứng và hăng hái xung phong bán, không riêng gì các nông gia mang

thóc bán, mà đến ngay cả đồng bào chuyên sống với nghề buôn bán cũng nô nức bỏ

tiền đong thóc để xung phong bán.

Phong trào thi đua nộp thuế diễn ra rầm rộ, sôi nổi, đồng bào rất nhiệt tình

giúp đỡ nhau và tinh thần, ý thức bảo vệ của công, nộp đâu gọn đấy, làm ngày chưa

đủ, tranh thủ vận chuyển cả đêm để kịp nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước. Sau khi

nộp thuế xong, các địa phương đều tổ chức Hội nghị kiểm thảo ở từng thôn, từng

xã. Trong Hội nghị, đồng bào đã mạnh dạn phê bình thái độ quan liêu của một số

cán bộ hay uỷ viên Ban Thuế, một số đồng bào cũng tự phê bình khuyết điểm của

mình về giấu sản lượng, khai man, nộp thóc chưa tốt. Cán bộ cũng trung thực nhận

Page 109: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

105

lỗi, tự phê bình nghiêm túc. Những cuộc Hội nghị kiểm thảo rút kinh nghiệm kịp

thời và thiết thực đã góp phần củng cố tình đoàn kết giữa cán bộ và nhân dân. Đó là

dịp để nhân dân phát huy lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm ủng hộ Chính phủ, thể

hiện lòng tin vô hạn với Chủ tịch Hồ Chí Minh và tình thương yêu bộ đội đang cần

sự chi viện đóng góp to lớn từ hậu phương.

Bên cạnh việc thi đua hưởng ứng cuộc vận động nộp thuế nông nghiệp, Đảng

bộ Liên khu Việt Bắc cũng chú trọng nâng cao mức sinh hoạt của nhân dân ở vùng

tự do, dưới chế độ dân chủ nhân dân đời sống được nâng cao, nhân dân hăng hái

tham gia mọi công tác kháng chiến, tòng quân, đi dân công… lòng tin tưởng vào

sức mạnh của toàn dân vào cuộc kháng chiến nhất định thắng lợi ngày càng được

củng cố.

Thực hiện nghĩa vụ tòng quân trong đợt Trung ương Đảng chủ trương

chuyển mạnh sang tổng phản công và chuẩn bị cho những chiến dịch lớn, Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc đã chỉ đạo các tỉnh vận động nhân dân tham gia tòng quân.

Tỉnh uỷ Thái Nguyên đã nêu cao khẩu hiệu “Thanh niên xung phong

tòng quân” được tuyên truyền khắp các huyện, xã trong tỉnh. Sau 02 tuần

lễ ghi tên tòng quân do thanh niên tổ chức đã có tới 9.400 thanh niên và

nữ ghi tên. Nông dân đã vận động được ¾ số lượng đoàn viên tham gia

du kích và vận động được hơn 3.000 đoàn viên thường xuyên luyện tập

quân sự. Thanh niên vận động hầu hết đoàn viên vào dân quân du kích

và cũng đã tổ chức phát động 100 ngày luyện tập quân sự [11, tr. 131].

Để có đủ số lượng bộ đội phục vụ cho chiến trường, Tỉnh uỷ Phú Thọ cũng

đẩy mạnh công tác vận động tuyển mộ tân binh:

Tỉnh uỷ đã xây dựng thêm 2 đại đội bộ đội địa phương Lâm Thao và

Đoan Hùng, 4 trung đội của 2 huyện Phù Ninh, Thanh Ba, bổ sung thêm

491 bộ đội địa phương, tuyển mộ 703 bộ đội chủ lực. Tổng số đã vận

động là 1.413 tân binh bổ sung cho bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực,

vượt mức Liên khu đã giao cho là 200 người [213, tr. 18].

Tỉnh uỷ đã bổ khuyết và có kế hoạch tổ chức việc tuyên truyền giáo dục vận

động thanh niên và nhân dân, phối hợp được công tác vận động của các ngành,

Page 110: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

106

thêm vào đó đã gây ảnh hưởng tốt tới phong trào phát triển quần chúng nên công

tác tân binh đã có kết quả cao hơn, hiện tượng bộ đội đảo ngũ còn nhưng rất lẻ tẻ.

Song song với việc vận động tòng quân, việc vận động cấp dưỡng bộ đội cũng

nhanh chóng được triển khai trên địa bàn Liên khu. Tỉnh Thái Nguyên đã đi đầu

trong việc vận động cấp dưỡng bộ đội địa phương đạt kết quả cao: “Thóc 551.517 kg;

Tiền 786.423 đồng; Quần áo 603 bộ quần áo nâu, 605 trấn thủ” [11, tr. 124]. Việc

vận động cấp dưỡng bộ đội địa phương quân được đặt biệt chú ý nên đã đem lại kết

quả khả quan, dân chúng có ý thức về việc này, đã có nhiều địa phương đem số áo

nẹp, cờ thần ra may quần áo cho anh em bộ đội. Phong trào đỡ đầu bộ đội chính quy

cũng được triển khai thực hiện tại các tỉnh trong Liên khu. Tiêu biểu như Tỉnh uỷ

Thái Nguyên đã “Vận động ủng hộ bộ đội chính quy mỗi xã 13 áo trấn thủ, ngoài ra

còn nhận đỡ đầu nhiều đơn vị thuộc đại đoàn 308. Do sự cố gắng trong công tác vận

động quần chúng nên đã thu được kết quả trội số áo trấn thủ đã hứa với Chủ tịch Hồ

Chí Minh, hơn nữa các địa phương còn nhận đỡ đầu 162 tiểu đội” [11, tr. 126].

Bên cạnh đó, hoạt động bồi dưỡng sức dân theo chủ trương của Đảng được

nhiều địa phương của Liên khu thực hiện bằng nhiều hình thức như: giảm tô, giảm

tức, chia lại ruộng công, tạm giao ruộng đất vắng chủ cho nông dân thiếu ruộng

hoặc không có ruộng, động viên nông dân hăng hái tham gia sản xuất. Phong trào

thi đua nộp nhanh, nộp đủ, nộp vượt mức thuế dấy lên sôi động trong các vùng căn

cứ, hậu phương và cả vùng địch tạm chiếm. “Mức đóng góp của nhân dân chiếm

khoảng 20% thu hoạch. Vụ mùa năm 1952, Liên khu Việt Bắc thu được 107.765 tấn

thóc thuế” [162, tr. 17].

Theo nghị quyết của Trung ương Đảng, trong năm 1952, các đoàn thể phải cử

bí thư hay phó bí thư đảng đoàn chịu trách nhiệm về công tác vận động, tuyên truyền

trong đoàn thể của mình. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc quy định cách thức làm việc

giữa Ban Tuyên huấn Liên khu với ban tuyên huấn của các ngành, các cấp nhằm mục

đích nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, vận động đoàn kết toàn dân trong

thời kỳ mới của cuộc kháng chiến chống Pháp. Để công tác tuyên huấn và công tác

dân vận được đẩy mạnh, Liên khu uỷ yêu cầu: Công tác tuyên truyền, vận động của

các đoàn thể công, nông, thanh, phụ, bộ đội phải báo cáo kết quả định kỳ. Liên khu

Page 111: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

107

cũng thường xuyên triệu tập hội nghị mở rộng công tác tuyên truyền với các đoàn

thể và bộ đội để thống nhất kế hoạch tuyên truyền, vận động, giáo dục.

Công tác thanh vận trong năm 1952 đã thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ

yếu do Trung ương và Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đề ra, toàn thể thanh niên của

Liên khu được động viên góp sức hoàn thành nhiệm vụ của cuộc kháng chiến.

Thanh niên toàn Liên khu hăng hái tham gia tòng quân và luyện tập quân sự cho du

kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Những vùng địch tạm chiếm cũng như

khu vực miền núi, thanh niên đã nỗ lực góp một phần quan trọng vào việc sửa chữa

cầu đường, đi dân công, phục vụ cho các chiến dịch lớn. Công tác thanh niên đã giữ

vững và phát triển được cơ sở, tổ chức của mình, luôn cảnh giác và đấu tranh với

âm mưu của địch, chống chia rẽ lương giáo, chống bắt lính… Thanh niên ở Liên

khu đã tham gia tích cực vào công cuộc chống giặc dốt, giặc đói, đẩy mạnh công tác

Bình dân học vụ và tăng năng suất ở nông thôn.

Công tác vận động thiếu nhi tham gia sản xuất tiết kiệm trong năm 1952 đã

đạt được nhiều kết quả. Các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh, Phúc Yên, Thái Nguyên, Bắc

Giang đều có ban và có một người phụ trách công tác thiếu nhi. Thời kỳ này, việc

giáo dục thiếu nhi thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhấn mạnh

ba điểm: “yêu Tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động”. Trong khi tham gia sản

xuất, giáo dục cho thiếu nhi chuộng lao động, tăng gia nhiều thì ích lợi cho bản thân,

cho gia đình là thực hiện được việc thương đồng bào, yêu Tổ quốc mà Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã dạy.

Nhiệm vụ của các em là cổ động, tuyên truyền nhân dân, người thân tham

gia sản xuất tiết kiệm. Riêng từng đợt các em có thể làm những việc sau:

các gia đình học tập chương trình ở xóm: tổ chức rước đuốc, cổ động,

tuyên truyền tới toàn dân tham gia việc học tập ở xóm. Trông em nhỏ,

trông nhà để bố mẹ, anh chị đi học tập. Ngày đại hội sản xuất: rước đuốc,

hoá trang, tham gia góp vui. Phụ trách và các em diễn kịch, múa, hát với

nội dung hướng về sản xuất tiết kiệm. Làm kế hoạch gia đình: các em lớp

4, lớp 5 đi viết chương trình giúp các gia đình không biết chữ. Tham gia

Page 112: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

108

vào các buổi họp ở gia đình về trình bày ý kiến công việc trong nhà và

nhân sự, nhân công của gia đình [157, tr. 2].

Công tác nông vận trong năm 1952 có nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện chủ

trương của Đảng và Chính phủ về cuộc vận động toàn dân tăng gia sản xuất và tiết

kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: Muốn đánh thắng thì quân và dân phải ăn no.

Muốn ăn no thì phải có nhiều lương thực. Muốn nhiều lương thực thì phải cày cấy

nhiều… Chiến sĩ ở trước mặt trận thi đua giết giặc lập công thì đồng bào ở hậu

phương phải thi đua tăng gia sản xuất. Trong hoạt động của các tổ chức quần chúng,

ở Phú Thọ vai trò của Nông hội là nổi bật nhất với việc phát động quần chúng,

chuẩn bị phát động, giáo dục động viên nông dân tiến hành các công tác sản xuất,

thuế nông nghiệp, dân công phục vụ công trường. Trong quá trình đấu tranh và sản

xuất, Nông hội đã có điều kiện thuận lợi để phát triển và củng cố tổ chức.

Những nơi chưa phát động quần chúng, qua các đợt học tập, hầu hết các

xã đã được chấn chỉnh và chấp hành, đưa bần cố nông tích cực vào, số

hội viên cũng phát triển mạnh. Ở những nơi phát động quần chúng, Nông

hội càng được củng cố vững mạnh, tổ chức Nông hội chiếm 26% dân số,

bần cố nông trong các cơ quan chấp hành chiếm 73,3%. Sau khi củng cố

lại tổ chức, mọi mặt hoạt động được đẩy mạnh, tinh thần nông dân rất

phấn khởi tích cực tham gia công tác Hội [213, tr. 35].

Thực hiện chủ trương của Trung ương, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch

Hồ Chí Minh, phong trào sản xuất và tiết kiệm được nhân dân hưởng ứng rộng rãi.

Cán bộ các cơ quan, xí nghiệp, học sinh và quân đội trên địa bàn Liên khu Việt Bắc

tích cực tham gia sản xuất lương thực và thực phẩm. Phong trào sản xuất nông

nghiệp nhanh chóng trở thành một phong trào quần chúng mạnh mẽ, rộng khắp.

Nông dân thi đua trồng nhiều lúa, nhiều màu, nhiều bông, đẩy mạnh chăn nuôi gia

súc, khôi phục nghề phụ gia đình. Phong trào đổi công, hợp công phát triển, tạo

thành sức mạnh chống thiên tai, địch hoạ. Công tác vận động nông dân ở Liên khu

ngày càng được củng cố và thực hiện tới cấp xã, “Liên khu đã mở được 465 lớp

huấn luyện với 11.853 người tham dự” [112, tr. 1].

Page 113: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

109

Công tác phụ vận: Những thắng lợi liên tiếp trong các chiến dịch lớn trên

chiến trường đã làm cho tương quan lực lượng giữa ta và địch ngày càng thay đổi.

Sau khi Chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi, toàn thể phụ nữ ở Liên khu Việt

Bắc từ những nơi xa xôi nhất đã hăng hái tham gia công tác phục vụ chiến trường.

Nhân đà chiến thắng của các chiến dịch, cũng như để tiếp tục tinh thần xung phong

anh dũng, Liên khu uỷ đã đẩy mạnh việc huy động phụ nữ phục vụ chiến trường,

tiêu diệt giặc, góp phần cùng toàn quốc mau hoàn thành nhiệm vụ tổng phản công.

Tuyên truyền, vận động để chị em trong Hội và ngoài Hội hiểu và tham

gia nhiệm vụ đi dân công. Phụ nữ toàn khu đã mở được 377 lớp huấn

luyện và có 7.406 người tham dự. Tổ chức khuyến khích và hoàn nghênh

phong trào đi dân công. Giáo dục cho chị em hiểu và ý thức với công tác

để làm với tinh thần tích cực, thực sự. Tôn trọng kỷ luật trong khi phục

vụ chiến trường [146, tr. 3].

Công tác vận động chị em phụ nữ đi dân công phục vụ kháng chiến được đẩy

mạnh ngay từ đầu năm 1953.

Kết quả các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hải

Ninh, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc đã vận động một số lớn phụ nữ phục vụ

kháng chiến với 92.458 chị em đi phục vụ và bố trí một số lượng lớn cán

bộ tỉnh, huyện lãnh đạo và chú trọng công tác này nhằm củng cố và đẩy

mạnh năng suất ngoài công trường, đảm bảo nhiệm vụ, đồng thời chú ý

đến việc bảo vệ sức khoẻ cho chị em. Nhân những ngày 8-3, 20-10 động

viên chị em tăng năng suất, gây tinh thần thi đua của chị em trong Hội. Ở

những xã phát động phong trào thi đua, chị em sẵn sàng đi dân công, số

lượng chị em đăng ký đi dân công luôn vượt con số đề ra [113, tr. 51].

Công tác vận động dân công phục vụ kháng chiến của Đảng bộ Liên khu

Việt Bắc đạt kết quả cao, đi đầu là Tỉnh uỷ Phú Thọ đã:

Huy động tất cả là 91.508 dân công, trong đó có 45.250 dân công loại A,

44.780 dân công loại B và 478 dân công loại C. Những dân công được

huy động đã thực hiện tất cả là 4.269.036 nhân công, trung bình mỗi dân

công loại A và B một năm phục vụ 60 ngày. Người nhiều nhất là 150

Page 114: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

110

ngày, người ít nhất là 30 ngày. Về phương tiện phục vụ công tác dân

công hoả tuyến đã huy động 937 chiếc xe đạp làm 3 đợt, mỗi đợt 20

ngày, 87 xe trâu, 758 thuyền nan của nhân dân, mỗi cái phục vụ 41 ngày

và 619 thuyền gỗ trong công đoàn mỗi chiếc phục vụ 30 ngày [9, tr. 20].

Nhiệm vụ dân công, công tác cầu đường, giao thông phục vụ tiền tuyến được

đảm bảo cho chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch Thượng Lào. Đi đầu trong công tác

này là Tỉnh uỷ Phú Thọ đã triển khai và thực hiện đầy đủ, mặc dù bị địch phá hoại

ác liệt nhưng kể từ “sau chiến dịch Thượng Lào, suốt năm giao thông bị gián đoạn

chỉ có 10 ngày. Công tác cầu đường phục vụ các chiến dịch đã tu bổ đường Quốc lộ

số 2, Đường 15 và Đường liên tỉnh 11 đã thực hiện được 90%” [9, tr. 21]. Tỉnh uỷ

đã nhận thấy tầm quan trọng của công tác cầu đường nên khi có nhu cầu của kế

hoạch vận tải quốc phòng đã tăng cường lãnh đạo, bảo đảm giao thông liên tục cho

các chiến dịch.

Thực hiện yêu cầu của Trung ương Đảng về công tác vận động nhân dân ủng

hộ, đóng góp, tham gia phục vụ kháng chiến, Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã làm tốt việc vận

động nhân dân trong toàn tỉnh chuẩn bị 200 tấn gạo để cấp phát và vận chuyển cho

dân công:

Đợt 1 có 6.313 dân công trợ cấp hết 5.706 kg gạo; Đợt 2 có 2.595 dân

công trợ cấp 717 kg gạo; Đợt 3 số lượng gạo dân công vận chuyển để

phục vụ chiến dịch là 84.365 kg gạo và 475 kg muối. Về phương tiện: tỉnh

đã chuẩn bị kịp thời, mỗi gia đình phải có 1 đôi bồ có nắp để chuẩn bị đi

dân công. Các phương tiện khác tỉnh đã chuẩn bị cho các xã: mỗi người 1

con dao, 1 nón áo tơi, bát đũa, bồ có nắp, thuốc men. Một tiểu đội có 2

cuốc, 2 xẻng, nồi nấu cơm. Sau 3 đợt vận động dân công với số lượng

4.282 dân công đã chuyển vận được 10.450.716 kg gạo [213, tr. 8-9].

Thực hiện kế hoạch cầu đường của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, Tỉnh uỷ

Quảng Yên đã vận động nhân dân tham gia dân công phục vụ kế hoạch cầu đường,

kế hoạch phục hồi đường sắt, khai thác mỏ Hồ Thiên.

Tỉnh uỷ Quảng Yên đã huy động số lượng dân công là 4.116 người hầu

hết là xung phong, vượt mức yêu cầu của Liên khu (Khu yêu cầu 4.000

Page 115: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

111

người). Trong kế hoạch phục hồi đường sắt của Liên khu, tỉnh huy động

3.092 dân công và 1.500 dân công làm đường mỏ than Hồ Thiên. Ngoài

ra, tỉnh còn huy động một số lượng lớn dân công phục vụ hoạt động quân

sự ở địa phương [215, tr. 105].

Công tác vận động đồng bào miền ngược được Đảng bộ Liên khu Việt Bắc

chú trọng củng cố. Liên khu đã cử một số cán bộ lên chiến khu Việt Bắc xây dựng

phong trào, công tác vận động quốc dân miền ngược đã được chấn chỉnh và tích luỹ

thêm nhiều kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến. Về mặt tổ chức, Liên khu đã thành

lập Phòng Quốc dân Miền núi ở cấp khu và cấp tỉnh. Về công tác cán bộ, Liên khu

uỷ chủ trương đào tạo cán bộ địa phương gồm đủ các dân tộc sinh sống trên địa bàn,

đặc biệt chú ý cán bộ người dân tộc Dao, cán bộ người Kinh phải giúp đỡ cho các

cán bộ của địa phương.

Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định việc vận động đồng bào miền ngược

phải thiết thực cải thiện đời sống của đồng bào, Liên khu uỷ đã chỉ đạo mua một tấn

muối để phát cho đồng bào, nhất là những vùng bị địch tàn phá và đồng bào dân tộc

Dao. Hình thức vận động, tuyên truyền cổ động đồng bào miền núi trong thời kỳ

này là nêu cao uy tín của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, uy tín của chính quyền,

làm cho đồng bào tin tưởng vào Chủ tịch Hồ Chí Minh và cuộc kháng chiến; đem

những tin thắng trận tuyên truyền để đồng bào tin tưởng vào thắng lợi của cuộc

kháng chiến chính nghĩa; cổ động phong trào tham gia bộ đội, du kích, xây dựng

làng chiến đấu; dùng hình thức đơn giản, dễ hiểu (tranh ảnh, đặt bài hát ca dao, kịch

bằng thơ…). Công tác tổ chức cho đồng bào miền ngược tham gia kháng chiến chủ

yếu là hình thức phát động phong trào triệt để phá hoại, vận động đồng bào tham

gia “Tuần lễ tiếp tế” huy động toàn dân vận tải gạo, muối tích trữ vào những nơi đã

định; vận động phong trào tăng gia sản xuất, tổ chức cuộc thi đua tăng gia sản xuất,

phát rẫy trồng bắp sau vụ gặt; vận động đồng bào thực hiện đời sống mới.

Công tác vận động đồng bào công giáo ở các tỉnh trên địa bàn Liên khu đã

xác định rõ nhiệm vụ vận động đồng bào công giáo tham gia các tổ chức kháng

chiến. Liên khu đã thành lập Ban Giáo vận và có cán bộ giáo vận các cấp. Các Ban

Giáo vận đã làm tốt công tác liên lạc để giúp đỡ nhau rút kinh nghiệm về các mặt

Page 116: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

112

công tác trong toàn Liên khu. Để vận động đồng bào công giáo đứng vào hàng ngũ

kháng chiến, Liên khu uỷ đã chủ trương dùng người công giáo có uy tín trong các

cơ quan chính quyền hoặc đoàn thể để lôi kéo đồng bào công giáo. Thực hiện chủ

trương của Liên khu, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã đi đầu trong việc đẩy mạnh công tác

giáo vận, tỉnh đã thành lập Ban Giáo vận và đã triển khai thành lập tại 5 huyện: Yên

Phong, Võ Giàng, Quế Dương, Gia Bình và Lương Tài. Công tác vận động của Ban

Giáo vận đã lôi kéo được giáo dân ở các huyện vào các tổ chức cứu quốc.

Đảng bộ Liên khu chỉ đạo đẩy mạnh công tác Hoa vận, mở cuộc Đại biểu hội

nghị Hoa kiều sau khi thành lập Ty Hoa kiều để động viên tinh thần nhân dân. Hạn

chế những thành kiến giữa cán bộ Việt Nam và Trung Hoa trong những cuộc gặp

gỡ, phê bình; vạch rõ mối quan hệ giữa hai cuộc kháng chiến hai nước. Công tác

vận động Hoa kiều giai đoạn này chủ yếu là tuyên truyền sâu rộng những thắng lợi

của giải phóng quân. Đã làm cho quần chúng Hoa kiều hiểu rõ và hoàn toàn tin

tưởng vào sự thắng lợi của giải phóng quân và nhất là gần đây Chính phủ Cộng hoà

nhân dân Trung Hoa mới ra đời họ lại càng thêm phấn khởi, những cuộc mít tinh

rầm rộ ở những vùng có Hoa kiều đã được tổ chức để hoan nghênh Chính phủ Cộng

hoà nhân dân Trung Hoa.

Như vậy, điểm mới của công tác dân vận ở Liên khu Việt Bắc trong thời kỳ

này mục đích là thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về đẩy mạnh cuộc

kháng chiến, chuyển sang tổng phản công. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã nhanh

chóng kiện toàn các tổ chức và đội ngũ cán bộ dân vận. Theo đó, các đoàn thể phải

cử bí thư hay phó bí thư đảng đoàn chịu trách nhiệm về công tác vận động, tuyên

truyền trong đoàn thể của mình. Vai trò của công tác dân vận ở Liên khu ngày càng

được đề cao, đã kêu gọi những lực lượng mới (giới tư sản, địa chủ, trí thức, đồng bào

công giáo…) tham gia các đoàn thể kháng chiến. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ

đạo các tỉnh vận động nhân dân tham gia tòng quân phục vụ cho việc chuyển mạnh

sang tổng phản công và chuẩn bị cho những chiến dịch lớn. Nhiệm vụ dân công,

công tác cầu đường, giao thông phục vụ tiền tuyến đã được Liên khu đảm bảo để

phục vụ cho các chiến dịch quan trọng (Chiến dịch Tây Bắc, Chiến dịch Thượng

Lào, Chiến dịch Điện Biên Phủ…) đi đến thắng lợi.

Page 117: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

113

Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc trong chiến cuộc Đông

Xuân và chiến dịch Điện Biên Phủ

Sau những thắng lợi của quân dân Việt Nam trên mặt trận quân sự Hòa Bình,

Tây Bắc và Thượng Lào, quyền chủ động chiến lược trên chiến trường được củng

cố vững chắc, không chỉ trên chiến trường Bắc Bộ mà đã mở rộng trên toàn chiến

trường miền Bắc Đông Dương. Lực lượng kháng chiến trong nhân dân đã lớn

mạnh. Hậu phương kháng chiến được tăng cường về mọi mặt. Khối đại đoàn kết

toàn dân được củng cố. Các chính sách kinh tế, tài chính của Đảng và Chính phủ

được nhân dân hưởng ứng. Điều kiện giành thắng lợi quyết định của cuộc kháng

chiến tăng lên rõ rệt.

Về phía thực dân Pháp, càng kéo dài chiến tranh xâm lược, địch càng gặp

khó khăn lớn, thất bại nặng nề và càng phụ thuộc vào đế quốc Mỹ. Tháng 5-1953,

Chính phủ Pháp cử tướng Nava (H.Navarre) - Tham mưu trưởng lục quân khối

Trung Âu của NATO, sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông

Dương thay tướng Xalăng. Kế hoạch quân sự Nava được Hội đồng Chính phủ và

Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua ngày 24-7-1953. Nhiệm vụ trung tâm của kế

hoạch là tổ chức khối cơ động chiến lược mạnh gấp ba lần binh lực hiện có, nhằm

giành thế chủ động tiến công chiến lược trên chiến trường. Với việc thực hiện kế

hoạch này, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều tin tưởng trong 18 tháng sẽ "chuyển

bại thành thắng". Để thực hiện kế hoạch, Nava ra sức bắt lính để tăng cường quân

ngụy, tập trung lực lượng cơ động mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Từ Hè - Thu 1953,

thực dân Pháp liên tiếp mở những cuộc hành quân càn quét trong vùng chiếm đóng

ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Nam Bộ.

Trước những diễn biến mới của cuộc kháng chiến, công tác chuẩn bị thực

hiện kế hoạch được khẩn trương triển khai. Hội đồng Cung cấp tiền phương được

thành lập để chỉ đạo công tác huy động sức người, sức của, tổ chức vận chuyển ra

mặt trận. Trước đó, tháng 7-1953, Bộ Chính trị quyết định thành lập Ủy ban Chi

viện tiền tuyến nhằm huy động tối đa sức người, sức của của hậu phương vào việc

chuẩn bị cho Đông Xuân đánh lớn.

Page 118: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

114

Để chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân, công tác xây dựng

lực lượng vũ trang địa phương ở vùng tự do, công tác vùng địch hậu được khẩn

trương triển khai. Hàng chục vạn dân công được động viên, điều động vào việc

chuẩn bị vận tải cho các chiến trường. Hàng vạn xe đạp thồ và xe đẩy thô sơ, hàng

nghìn thuyền, mảng, hàng đoàn ngựa được huy động để vận chuyển lương thực, đạn

dược, thuốc men ra tiền tuyến... Tất cả đều tập trung bảo đảm cho kế hoạch Đông -

Xuân 1953-1954 toàn thắng.

Vấn đề bảo đảm giao thông vận tải là nhiệm vụ quan trọng phục vụ nhiệm vụ

quân sự. Ngày 15-6-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc lãnh đạo

công tác làm cầu đường giao thông vận tải để đảm bảo việc vận chuyển quân sự, để

sẻ bớt gánh nặng vận chuyển cho dân và đồng thời cũng để mở rộng việc vận

chuyển kinh tế.

Các cấp uỷ Liên khu Việt Bắc và Tỉnh uỷ các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn,

Thái Nguyên, Bắc Kạn, Bắc Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn La,

Phú Thọ, Hòa Bình phải tăng cường việc lãnh đạo công tác cầu đường,

điều động những cán bộ tích cực, có năng lực phụ trách các công tác ấy

[82, tr. 244].

Thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, “chiến dịch cầu đường” được triển khai

trên quy mô lớn tại khắp các tỉnh thuộc vùng tự do Việt Bắc, Tây Bắc, Liên khu III,

Liên khu IV. Với khẩu hiệu “Quân sự trên hết, tiền tuyến trên hết!”, hàng vạn dân

công ở các địa phương, trên khắp các công trường cầu, phà, với những phương tiện

thô sơ là chủ yếu, đã quyết tâm khắc phục mọi khó khăn làm đường, cầu đúng tiêu

chuẩn kỹ thuật, đúng thời hạn. Cùng với đường liên tỉnh trong từng khu và liên khu

đã hình thành hệ thống đường chiến lược nối liền Việt Bắc với Tây Bắc, Tây Bắc

với Liên khu III và Liên khu IV. Trong năm 1953, mặc dù địch đánh phá ác liệt

nhưng dân công cả nước đã làm mới được 156 km, sửa chữa, tu bổ đưa vào hoạt

động thêm 2.075 km đường bộ. Các tập đoàn vận tải của nhân dân được Chính phủ

khuyến khích phát triển.

Thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ

đạo công tác vận động nhân dân tham gia vận tải phục vụ tiền tuyến. Phương tiện

Page 119: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

115

vận tải chủ yếu trên đường thủy là thuyền, trên đường bộ là xe súc vật kéo và xe

đạp. “Lực lượng xe đạp thồ ở Liên khu Việt Bắc phát triển nhanh chóng: Phú Thọ

năm 1953 có 616 chiếc, Thái Nguyên 700 chiếc. Năm 1953, Hội đồng cung cấp mặt

trận đã huy động được 12.400 xe đạp thồ của đồng bào Việt Bắc phục vụ các chiến

dịch” [54, tr. 63-64]. Năm 1953, dưới sự chỉ đạo của Liên khu ủy Việt Bắc, các tỉnh

ủy, huyện ủy tập trung chỉ đạo cứu đói và chữa bệnh đi đôi với tăng gia sản xuất,

vận động nhân dân vùng căn cứ giúp dân vùng mới giải phóng để sản xuất.

Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, trên các chiến trường chính, hậu

phương và vùng sau lưng địch, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Liên khu Việt Bắc dốc

sức tiến hành nhiều hoạt động tổ chức lực lượng, huy động sức người, sức của với tinh

thần quyết tâm cao giành thắng lợi tại chiến dịch Điện Biên Phủ. Trung ương Đảng và

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định những khó khăn về cung cấp, tiếp tế sẽ giải quyết

được, vì nhân dân có lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm cao; cuộc kháng chiến đang

trên đà thắng lợi; toàn dân tin tưởng, đoàn kết. Vì vậy, dù khó khăn đến đâu, nhân dân

cũng sẽ đem hết tinh thần và sức lực, của cải vật chất phục vụ kháng chiến, phục vụ

bộ đội đánh địch ở Điện Biên Phủ. Trong suốt quá trình chuẩn bị và thực hiện chiến

dịch, Đảng chú trọng đến vấn đề phát huy sức mạnh của cả dân tộc, đặc biệt là sức

mạnh của nhân dân ở các hậu phương Liên khu Việt Bắc, đồng thời tổ chức chiến đấu

rộng khắp trên các chiến trường nhằm “chia lửa” với Điện Biên Phủ.

Từ cuối tháng 11 đến đầu tháng 12-1953, công tác chuẩn bị cho chiến dịch

Điện Biên Phủ diễn ra dồn dập, khẩn trương. Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ

trương mở chiến dịch tiêu diệt quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ theo

phương án đánh nhanh giải quyết nhanh, dự kiến đánh trong ba đêm hai ngày.

Lãnh đạo thực hiện phương án đánh chắc tiến chắc, Trung ương Đảng và Chủ tịch

Hồ Chí Minh hết sức quan tâm chỉ đạo quân đội, các ngành, các địa phương hoàn

thành nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến dịch. Quyết tâm chiến lược của Trung

ương Đảng đã nhanh chóng biến thành ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn

quân và toàn dân ta. Với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng",

các cấp ủy Đảng, các ban ngành động viên nhân dân dồn sức người, sức của cho

chiến dịch. Các chiến sĩ công binh, thanh niên xung phong và nhân dân địa phương

Page 120: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

116

anh dũng mở đường, sửa đường, phá bom nổ chậm, nêu cao tinh thần quyết tâm

mở đường thắng lợi để bộ đội nhanh chóng kéo pháo vào trận địa.

Phong trào hậu phương chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ đã được

nhân dân Liên khu Việt Bắc nhiệt tình ủng hộ. Liên khu đã đóng góp hàng vạn dân

công vận chuyển lương thực, súng đạn, thuốc men cho mặt trận. Hàng vạn thanh

niên xung phong đã mở hàng ngàn kilômét đường, huy động thuyền bè, xe đạp thồ,

ngựa thồ và hàng ngàn xe trâu bò được huy động phục vụ chiến dịch. Đảng bộ Liên

khu Việt Bắc đã tập trung chỉ đạo tất cả bộ máy Đảng, chính quyền, các tổ chức

đoàn thể quần chúng như Mặt trận, Hội Phụ nữ, Thanh niên... khẩn trương tổ chức

vận động đồng bào các dân tộc hăng hái tham gia các đoàn dân công mở đường, vận

tải và đóng góp lương thực thực phẩm, ngựa thồ, thuyền mảng phục vụ chiến dịch.

Các đoàn cán bộ cử người đến các vùng sâu, rẻo cao vận động đồng bào. Từ các

đồng chí lãnh đạo chủ chốt đến cán bộ, đảng viên không quản ngại hy sinh gian

khổ, đi đến những nơi khó khăn nhất để động viên, hướng dẫn đồng bào tham gia

phục vụ chiến dịch. Hàng ngàn thanh niên, gái trai ở các địa phương đã tích cực

tham gia đi dân công phục vụ chiến dịch. Để có đủ gạo tiếp tế cho bộ đội, đồng bào

giã gạo cả ban đêm, nhiều gia đình mang cả ngựa đi chở vũ khí, đạn dược, lương

thực, thực phẩm phục vụ từ 1 đến 2 tháng. Nhiều người hết thời gian phục vụ theo

qui định nhưng vẫn ở lại, ngày đêm cùng bộ đội trên các tuyến đường. Thắng lợi

bước đầu của công tác phát động quần chúng tại Liên khu Việt Bắc đã tiếp thêm sức

mạnh cho bộ đội và dân công vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, phát huy cao độ

chủ nghĩa anh hùng cách mạng để giành toàn thắng cho chiến dịch.

Mọi công tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương, đầu tháng 3-1954, các công

việc chuẩn bị cho chiến dịch đã hoàn thành. Bộ Chính trị chỉ đạo phải tổ chức dự

trữ gấp đôi hay ít nhất gấp rưỡi so với yêu cầu của mặt trận. Từ cơ quan của Chính

phủ đến các Liên khu ủy, Khu uỷ, Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính kháng chiến các cấp

thuộc Việt Bắc, Tây Bắc, Liên khu III, Liên khu IV động viên nhân dân phát huy

cao độ lòng yêu nước, chí căm thù giặc và tinh thần cách mạng, tình nguyện vào bộ

đội, đi dân công hỏa tuyến... Trên 100.000 dân công được tăng cường cho công tác

phục vụ chiến trường.

Page 121: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

117

Các Tỉnh uỷ thuộc Liên khu Việt Bắc chỉ đạo các ngành, các cấp động viên

nhân dân ra sức thi đua đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến. Dưới sự lãnh

đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng ở nhiều nơi mở các

cuộc vận động tuyên truyền nhân dân đấu tranh bằng các biện pháp thích hợp như

tổ chức các cuộc họp với những gia đình có người thân đi lính cho địch; họp đoàn

thanh niên ký giao ước không đi lính cho địch. Nhiều hình thức đấu tranh binh vận

được thực hiện như rải truyền đơn, dán áp phích, vây bốt kết hợp với gọi loa thuyết

phục địch ra hàng. Những cuộc đấu tranh bằng hình thức tuyên truyền, vận động

mang lại những thắng lợi quan trọng, hàng ngàn lính nguỵ bỏ hàng ngũ địch, bỏ

súng quay trở về với nhân dân. Song song với công tác vận động quần chúng làm

công tác binh vận, tại vùng tự do, các cấp chính quyền, đoàn thể vận động nông dân

đấu tranh đòi địa chủ, phú nông phải triệt để giảm tô, thoái tô và bước đầu tiến hành

cải cách ruộng đất.

Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nhân dân các dân

tộc nỗ lực khắc phục những khó khăn, trở ngại, ngày đêm ra sức phục vụ chiến dịch

Điện Biên Phủ. Trong cuộc đấu tranh để bảo vệ tuyến đường qua Đèo Cà - Yên Thế,

Pha Đin - Điện Biên Phủ, dân công và thanh niên xung phong có đóng góp quan

trọng để bảo vệ tuyến đường. Được sự chỉ đạo, động viên của Đảng bộ và các cấp

chính quyền, hàng vạn dân công và công nhân kiên trì bám trụ ngày đêm, dũng cảm,

gan dạ tháo gỡ bom nổ chậm, nhanh chóng sửa đường, cầu phà, đảm bảo giao thông

thông suốt. Trong những ngày diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ ác liệt, đoàn Thanh

niên với sức trẻ, tinh thần dũng cảm chiến đấu và đảm bảo giao thông. Lực lượng

thanh niên hướng dẫn ô-tô chở hàng và kéo pháo an toàn lên chiến dịch Điện Biên

Phủ. Đồng bào Tây Bắc tổ chức cứu chữa, chăm sóc thương bệnh binh.

Số vật chất và nhân lực do đồng bào Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu III và

Liên khu IV đóng góp cho chiến dịch là rất lớn, bảo đảm sức khoẻ cho bộ

đội xây dựng trận địa và chiến đấu ròng rã trong nhiều tháng. Các địa

phương đã huy động trên 260.000 (tính ra trên 14 triệu ngày công) dân

công miền ngược, miền xuôi, cả vùng tự do và vùng tạm bị chiếm, đã

phục vụ tiền tuyến. 20.991 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện vận

Page 122: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

118

chuyển thô sơ và nửa thô sơ; cung cấp cho chiến dịch (số huy động tại

gốc) 250.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt và hàng nghìn tấn thực phẩm

khác. Tính riêng số vật phẩm chuyển được ra mặt trận là hơn hai vạn tấn

[19, tr. 202].

Trước yêu cầu to lớn và khẩn trương của chiến dịch, từng đoàn dân công Liên

khu Việt Bắc già, trẻ, gái, trai trong những bộ quần áo nâu, chàm của đồng bào Kinh,

Tày, Nùng, H’Mông, Dao ngày đêm vượt núi, băng rừng, vượt đèo cao, suối sâu, vận

chuyển vũ khí và lương thực phục vụ chiến dịch. Nhân dân các địa phương ven

đường quốc lộ có sáng kiến lập nhiều tổ, đội nhân dân, ngày đêm bám sát bảo vệ các

cung đường, bảo đảm giao thông thường xuyên thông suốt tới mặt trận. Bảo đảm vật

chất cho nhiệm vụ chiến đấu đòi hỏi phải huy động một khối lượng rất lớn về sức

người sức của. Công tác vận chuyển tiếp tế đã góp phần quyết định vào thắng lợi trên

chiến trường.

Đầu tháng 3-1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.

Ngày 13-3-1954, dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, quân đội nổ súng

mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngày 30-3-1954,

quân đội mở đợt tiến công thứ hai đánh đồng loạt các ngọn đồi phía đông của phân

khu trung tâm. Đánh vào khu đông, bộ đội tiêu diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần

lớn các điểm cao quan trọng ở phía đông, củng cố từ trên đánh xuống, tạo thêm điều

kiện chia cắt, bao vây, khống chế địch, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt địch.

Ngày 01-5-1954, bộ đội mở đợt tiến công thứ ba. Quân đội lần lượt đánh chiếm

những cứ điểm còn lại ở phía đông và phía tây, bẻ gãy những cuộc phản kích của

địch. Ngày 7-5-1954, bộ đội Việt Nam đã phất cao cờ chiến thắng, tiến thẳng vào sở

chỉ huy địch, tướng Đờ Cáttơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm

bị bắt sống.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên

Phủ đã toàn thắng. Chiến thắng Điện Biên Phủ có sự đóng góp to lớn của quân dân

Việt Bắc với trên 26 vạn dân công miền ngược, miền xuôi, cả vùng tự do và vùng bị

tạm chiếm vừa ra sức bảo vệ hậu phương, vừa ra sức cung cấp sức người, sức của

cho tiền tuyến.

Page 123: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

119

Đi đầu toàn Liên khu với những đóng góp, ủng hộ cho chiến dịch là tỉnh

Thái Nguyên đã đóng góp 3.051 tấn thóc, 31.041.I41 đồng, 2.215 bộ

quần áo trị giá 1.075.000 đồng, mua công phiếu kháng chiến 1.299.000

đồng, ủng hộ bộ đội địa phương và thương binh 21.027.733 đồng và 604

tấn thóc; tỉnh Tuyên Quang đã đưa ra mặt trận 829 tấn gạo, 43 tấn thóc, 7

tấn rau và 305.612 ngày công phục vụ chiến dịch [55, tr. 22].

Đây là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của quân

đội Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần quyết định làm phá

sản Kế hoạch Nava của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, là chiến thắng có ý nghĩa

quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, một chiến công vĩ

đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, cổ vũ phong trào chống chủ nghĩa

thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới. Trong con mắt của các học giả nước

ngoài, Điện Biên Phủ là trận Valmy của các dân tộc da màu; "trên thế giới, trận

Oatéclô cũng ít có tiếng vang hơn. Điện Biên Phủ thất thủ đã gây ra những nỗi kinh

hoàng ghê gớm, báo hiệu sự tan rã của các thuộc địa và sự cáo chung của nền cộng

hoà. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn đang âm vang” [195].

Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến trường kỳ,

anh dũng của quân dân Việt Nam. Điện Biên Phủ ghi một mốc son chói lọi vào lịch

sử dân tộc và thời đại, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh

Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi lớn nhất của cuộc chiến tranh

nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt

Nam. Điện Biên Phủ đánh dấu chủ nghĩa thực dân bắt đầu quá trình sụp đổ, là niềm

hy vọng lớn lao và tươi sáng, ngọn cờ cổ vũ các dân tộc thuộc địa đấu tranh vì độc

lập tự do. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi cao nhất của cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đi vào lịch sử dân tộc như một

Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX. Điện Biên Phủ lừng lẫy

năm châu, chấn động địa cầu, là niềm hy vọng lớn lao và tươi sáng cổ vũ cho các dân

tộc thuộc địa đấu tranh vì độc lập tự do.

Page 124: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

120

Tiểu kết Chương 3

Bước vào giai đoạn khốc liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,

quân và dân Việt Nam phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách. Để có thể

vượt qua những năm tháng hiểm nghèo đó, Đảng xác định phải huy động được

sức mạnh của toàn dân tộc, từng bước khắc phục khó khăn. Đảng đã lãnh đạo

toàn dân vừa kháng chiến vừa xây dựng mọi mặt cho Nhà nước Dân chủ cộng

hoà, đấu tranh quyết liệt chống lại âm mưu, thủ đoạn của thù trong, giặc ngoài.

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân thực hiện những việc cấp bách

nhằm tăng cường thực lực cách mạng, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, bồi

dưỡng sức dân, củng cố, phát triển lực lượng kháng chiến để chuẩn bị cho giai đoạn

tổng phản công.

Bước sang năm 1952, sau khi Chiến dịch Hoà Bình thắng lợi, cuộc kháng

chiến của quân và dân Việt Nam đã có những chuyển biến mới, trước tình hình đó,

Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chủ trương,

chính sách đẩy mạnh đoàn kết các dân tộc, động viên sức người, sức của cho giai

đoạn mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhân dân cả nước tự nguyện

góp tiền bạc, mua sắm vũ khí, gửi chăn màn, quần áo cho các chiến sĩ chiến đấu

trong các chiến dịch lớn của cuộc kháng chiến. Cuộc động viên, tổ chức lực lượng

toàn dân đánh giặc phát triển mạnh mẽ trong thời gian cả nước chuyển vào chiến

tranh, thực hiện cuộc tổng di chuyển; thực hiện vườn không nhà trống, bao vây

địch; xây dựng căn cứ và hậu phương kháng chiến...

Phát động cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, Trung ương Đảng chủ trương

giáo dục, động viên và hướng dẫn toàn thể đồng bào đồng lòng, quyết tâm đánh thắng

giặc, mỗi người đều trở thành một chiến sĩ. Niềm tin ở sức mạnh vô địch của toàn dân

kháng chiến đã được Hồ Chí Minh khẳng định ngay từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc

sắp bùng nổ: "20 triệu người Việt Nam kiên quyết chống lại 10 vạn thực dân Pháp,

chúng ta nhất định sẽ thắng lợi" [165, tr. 159].

Trung ương Đảng chủ trương thực hiện công tác vận động nhân dân tham gia

kháng chiến trên mọi mặt trận, vừa huy động, vừa bồi dưỡng sức dân. Thực hiện

chủ trương của Trung ương, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã ban hành những chính

Page 125: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

121

sách khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất, kinh doanh, tiến hành giảm tô,

giảm tức, động viên nhân dân tăng gia sản xuất, chi viện sức người, sức của cho

chiến dịch.

Các hình thức và biện pháp đại đoàn kết toàn dân được mở rộng hơn với sự

thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt), thu hút thêm các đảng

phái yêu nước và đồng bào yêu nước không đảng phái, không phân biệt giai cấp,

tôn giáo, sắc tộc, xu hướng chính trị. Đảng thực hiện chủ trương tăng cường đoàn

kết dân tộc. Khối đại đoàn kết dân tộc càng thêm bền chặt khi thống nhất Việt

Minh, Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt (1951). Phong trào thi đua ái quốc, một

phương pháp tổ chức toàn dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động và trở thành một

chủ trương của Đảng nhanh chóng được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng sâu

rộng, tạo thành sức mạnh cho cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.

Page 126: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

122

Chương 4

NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM

4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT

Trong những năm tháng trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm

lược, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ và các cấp chính quyền, đoàn

thể Liên khu Việt Bắc bằng nhiều cách thức, phương pháp vận động khác nhau đã

tiến hành công tác dân vận, vận động, cổ vũ nhân dân các địa phương thi đua sản

xuất, giết giặc, nỗ lực chiến đấu, ngày đêm đem sức người, sức của ủng hộ kháng

chiến. Quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng, thấm nhuần lời dạy của Chủ

tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, các cấp chính

quyền, đoàn thể đã khơi dậy trong mỗi một người cán bộ, đảng viên và nhân dân

tinh thần dũng cảm, ý chí cách mạng, nhiệt huyết hy sinh, phấn đấu vì quê hương,

đất nước. Sức mạnh của công tác dân vận đã, vận động toàn quân, đoàn kết toàn dân

quyết tâm chiến đấu, lao động, sản xuất đồng thời phát huy vai trò của công tác dân

vận làm tan rã hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền, chống địch lập tề; động viên hàng

ngàn thanh niên viết đơn xung phong ra chiến trường, hàng chục ngàn dân công đi

tiền tuyến vận tải lương thực, thực phẩm, vũ khí phục vụ các chiến dịch, đặc biệt là

chiến dịch Điện Biên Phủ. Tất cả những yếu tố đó, tạo nên sức mạnh, tiền đề vững

chắc để kế thừa, phát huy trong các giai đoạn cách mạng tiếp theo.

Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc từ tháng 10-1949 đến

tháng 7-1954, đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần vào thắng lợi của cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Liên

khu, của các Tỉnh uỷ và các tổ chức quần chúng trên địa bàn với công tác dân vận

diễn ra trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn, thử thách của cuộc kháng chiến chống

Pháp. Tuy nhiên, công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã đạt nhiều kết

quả to lớn, góp phần quan trọng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân,

hoàn thành nhiệm vụ của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Page 127: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

123

4.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân

Đảng bộ Liên khu Việt Bắc nhanh chóng hoàn thiện những chủ trương và

kiện toàn tổ chức, đội ngũ cán bộ dân vận đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp

Ngay sau khi đất nước giành được độc lập, để có thể phát huy tối đa sức

mạnh của quần chúng và huy động sức người, sức của mọi tầng lớp nhân dân, các

giới đồng bào cho sự nghiệp củng cố nền độc lập, yêu cầu đặt ra đối với công tác

dân vận của Trung ương Đảng thời kỳ này là phải nhanh chóng tập hợp, tổ chức

toàn dân tham gia kháng chiến, kiến quốc, giữ vững nền độc lập, tự do và xây dựng

chế độ mới. Tình hình cách mạng có những yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn mới,

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã chủ trương thành lập Hội Liên hiệp

Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) và Mặt trận Việt Minh. Công tác Mặt trận

trở thành cơ sở chính trị, là chỗ dựa vững chắc của Đảng, của chính quyền cách

mạng, đồng thời là tổ chức giữ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Trước những yêu cầu của cuộc kháng chiến, Trung ương Đảng quyết định

thành lập Liên khu Việt Bắc (năm 1949). Việc thành lập Liên khu Việt Bắc đã đáp

ứng được yêu cầu và phù hợp với tình hình mới của cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp xâm lược. Liên khu Việt Bắc được thành lập với 17 tỉnh là nơi cư trú của

28 dân tộc, là nơi được Trung ương Đảng lựa chọn làm căn cứ địa đầu não của cuộc

kháng chiến, nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Trong

quá trình kháng chiến, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định công tác dân vận là một

trong những công tác quan trọng nhất để vận động đồng bào, xây dựng khối đại

đoàn kết toàn dân, đưa kháng chiến đến thắng lợi. Việt Bắc là cái nôi cách mạng,

đồng bào các dân tộc nơi đây có truyền thống yêu nước, luôn tin tưởng sự lãnh đạo

của Đảng, Chính phủ và cuộc kháng chiến của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Ngay sau khi thành lập, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về công

tác dân vận, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã nhanh chóng triển khai toàn diện, đồng bộ

việc vận động đồng bào các dân tộc trên địa bàn đoàn kết thực hiện đường lối kháng

chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Trong quá trình lãnh đạo thực

hiện công tác dân vận trên địa bàn Liên khu, các cấp uỷ Đảng Việt Bắc luôn coi trọng

Page 128: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

124

nhiệm vụ vận động quần chúng nhân dân nhằm phục vụ đường lối kháng chiến kiến

quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của toàn Đảng, toàn

quân và toàn dân. Đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội

nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc và nhân dân trên địa bàn Liên khu. Đảng

bộ Liên khu Việt Bắc luôn lấy tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm

kim chỉ nam cho mọi chủ trương, hành động trong công tác dân vận của Liên khu.

Bài báo đã thể hiện một cách đầy đủ, toàn diện và sâu sắc những quan điểm, tư tưởng

của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác này. Người chỉ rõ vai trò của công tác dân

vận: “Việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo

thì việc gì cũng thành công” [177, tr. 234] nghĩa là dân vận là cái gốc, là điểm xuất

phát của mọi phong trào cách mạng của quần chúng và là sự khởi đầu của mọi thành

công. Muốn sự nghiệp cách mạng thành công, trước hết phải biết tuyên truyền và vận

động nhân dân - chính là làm tốt công tác dân vận.

Vận dụng những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Dân

vận” và quán triệt chủ trương của Đảng về công tác dân vận, Đảng bộ Liên khu Việt

Bắc thông qua hoạt động của Mặt trận và các tổ chức quần chúng đã lãnh đạo nông

dân tích cực thực hiện giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất, thi hành nhiều chủ

trương, biện pháp cụ thể để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nhà tư sản, nhân

sĩ dân chủ, thân sĩ yêu nước, triệt để phân hóa giai cấp địa chủ, ổn định tư tưởng và

đoàn kết những địa chủ kháng chiến cùng con em họ đang tham gia công tác ở hậu

phương hay tiền tuyến.

Song song với việc hoàn thiện những chủ trương, đường lối về công tác dân

vận, sau khi được thành lập, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc nhanh chóng kiện toàn hệ

thống tổ chức bộ máy làm công tác dân vận của Liên khu, xây dựng đội ngũ cán bộ

dân vận của Mặt trận Liên Việt để thực hiện nhiệm vụ đoàn kết toàn dân kháng chiến

chống thực dân Pháp, phá tan âm mưu thâm độc của thực dân Pháp thi hành chính

sách “Dùng người Việt đánh người Việt; lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.

Để phá tan âm mưu chia rẽ dân tộc của địch, thông qua tổ chức Mặt trận, Đảng

bộ Liên khu đã xác định nhiệm vụ quan trọng của công tác dân vận trên địa bàn là

vận động đồng bào dân tộc thiểu số miền ngược, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu

Page 129: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

125

tranh vũ trang, diệt ác, phá tề, thực hiện đoàn kết các tôn giáo, dân tộc, đoàn kết trí

thức, văn nghệ sĩ, xây dựng một nền văn hóa kháng chiến. Bộ máy và cán bộ dân vận

của Liên khu đã lãnh đạo, vận động quần chúng nhân dân đẩy mạnh sản xuất, đáp

ứng nhu cầu tối thiểu của nhân dân trong hoàn cảnh kháng chiến. Nhiều phong trào

thi đua của các giới đồng bào đã diễn ra sôi nổi, liên tục và rộng khắp trong thời kỳ

kháng chiến, như phong trào: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

Thực hiện chủ trương của Trung ương về tăng cường công tác dân vận trong

tình hình mới, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ đạo các cơ quan, cán bộ dân vận

của Liên khu tập trung củng cố, phát triển các đoàn thể nhân dân như Hội Nông dân

Cứu quốc, Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc,… Công tác vận

động các giới như thanh vận, công vận, nông vận, phụ vận, vận động đồng bào

thiểu số, đồng bào Công giáo, đồng bào trong vùng địch chiếm đã được Liên khu uỷ

chú trọng và tăng cường hơn trước. Đảng bộ Liên khu đã thi hành nhiều chủ trương,

biện pháp cụ thể để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp tư sản, nhân sĩ

dân chủ, thân sĩ yêu nước, đoàn kết những địa chủ kháng chiến.

Quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác dân vận một cách toàn diện,

đồng bộ, sát thực tiễn

Ngay sau khi được thành lập (10-1949), Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ

đạo và tổ chức thực hiện công tác vận động đồng bào và nhân dân các tỉnh trên địa

bàn Liên khu vừa kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, vừa bảo vệ thành

quả cách mạng.

Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp có những

phát triển mới, việc thống nhất các đoàn thể quần chúng, các giới trở thành yêu

cầu cấp thiết của công tác dân vận lúc này. Để kịp thời chỉ đạo công tác dân vận,

Hội nghị Cán bộ các ngành dân vận Đảng bộ Liên khu Việt Bắc được triệu tập và

chỉ rõ công tác dân vận của Liên khu lúc này tập trung vào việc động viên toàn

nhân dân tích cực phục vụ tiền tuyến và tích cực tiến hành cuộc chấn chỉnh tổ

chức, cải tiến các hình thức vận động, tuyên truyền đạt hiệu quả cao. Việc tuyên

truyền vận động nhân dân được thực hiện rầm rộ nên nhân dân vùng địch cũng

như vùng tự do đều biết đến Sắc lệnh Tổng động viên. Trong một thời gian ngắn

Page 130: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

126

hơn 10 vạn dân công đã hoàn thành sửa chữa hàng trăm ki-lô-mét đường với hàng

trăm cầu để xe chạy; gần 2 vạn tấn thóc công lương và quân lương đã được cung

cấp để phục vụ cuộc kháng chiến.

Giai đoạn 1951-1952, công cuộc kháng chiến của quân và dân Việt Nam có

những chuyển biến mới. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định hướng công tác dân

vận và Mặt trận của Liên khu lúc này nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn của Đảng và

Chính phủ: Tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích; Phá chính sách

lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch; Tăng

gia sản xuất và tiết kiệm để bồi dưỡng quân và dân.

Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định thực hiện ba nhiệm vụ trong đó nhiệm

vụ trung tâm công tác dân vận ở vùng tự do là sản xuất tiết kiệm, ở vùng du kích và

vùng tạm chiếm làm phát triển du kích chiến tranh, tranh đấu chống địch áp bức bóc

lột hàng ngày.

Những năm 1953-1954, để tiến tới thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng

trong giai đoạn này, phải phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, thực hiện

giảm tức, chia lại công điền, chia hẳn ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho

nông dân, chủ yếu là triệt để giảm tô, nhằm thoả mãn bước đầu yêu cầu chính đáng

về kinh tế của nông dân. Bên cạnh việc thi đua hưởng ứng cuộc vận động nộp thuế

nông nghiệp, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc cũng chú trọng nâng cao sinh hoạt của

nhân dân ở vùng tự do, dưới chế độ dân chủ nhân dân đời sống được nâng cao, hăng

hái tham gia mọi công tác kháng chiến, tòng quân, đi dân công…

Chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân, Đảng bộ Liên khu Việt

Bắc đã huy động sức người, sức của từ các vùng tự do và cả trong vùng tạm bị địch

chiếm đóng để đảm bảo cho hoạt động quân sự trên các chiến trường. Hàng chục vạn

dân công được động viên, điều động vào việc chuẩn bị vận tải cho các chiến trường.

Hàng vạn xe đạp thồ và xe đẩy thô sơ, hàng nghìn thuyền, mảng, hàng đoàn ngựa

được huy động để vận chuyển lương thực, đạn dược, thuốc men ra tiền tuyến... Từ

cuối tháng 11 đến đầu tháng 12-1953, công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên

Phủ diễn ra dồn dập, khẩn trương. Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, trên các

chiến trường, hậu phương và vùng sau lưng địch, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân

Page 131: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

127

Liên khu Việt Bắc dốc sức tiến hành nhiều hoạt động tổ chức lực lượng, huy động

sức người, sức của với tinh thần quyết tâm cao giành thắng lợi tại chiến dịch Điện

Biên Phủ. Quân dân Liên khu Việt Bắc đã đóng góp hàng vạn dân công vận chuyển

lương thực, súng đạn, thuốc men cho mặt trận. Hàng vạn thanh niên xung phong đã

mở hàng ngàn kilômét đường, huy động thuyền bè, xe đạp thồ, ngựa thồ và hàng

ngàn xe trâu bò được huy động phục vụ chiến dịch. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã

tập trung chỉ đạo tất cả bộ máy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể quần chúng

như Mặt trận, Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên... khẩn trương tổ chức vận động đồng bào

các dân tộc hăng hái tham gia các đoàn dân công mở đường, vận tải và đóng góp

lương thực thực phẩm, ngựa thồ, thuyền mảng phục vụ chiến dịch.

Trước yêu cầu cấp thiết, khẩn trương của chiến dịch Điện Biên Phủ, từng

đoàn dân công Liên khu Việt Bắc già, trẻ, gái, trai trong những bộ quần áo nâu,

chàm của đồng bào Kinh, Tày, Nùng, H’Mông, Dao ngày đêm vượt núi, băng rừng,

vượt đèo cao, suối sâu, vận chuyển vũ khí và lương thực. Nhân dân các địa phương

ven đường quốc lộ có sáng kiến lập nhiều tổ, đội nhân dân, ngày đêm bám sát bảo

vệ các cung đường, bảo đảm giao thông thường xuyên thông suốt tới mặt trận. Công

tác vận chuyển tiếp tế đã góp phần quyết định vào thắng lợi trên chiến trường. Bảo

đảm vật chất cho nhiệm vụ chiến đấu đòi hỏi phải huy động một khối lượng rất lớn

về sức người sức của. Riêng trong bảo đảm chiến dịch phần lớn phải dựa vào dân,

vào sự chi viện của hậu phương. Đây là nhân tố hết sức quan trọng bảo đảm cho

thắng lợi của chiến dịch. Chiến thắng Điện Biên Phủ là minh chứng sống động của

tinh thần đoàn kết, đóng góp nhân lực, vật lực của nhân dân trong cả nước nói chung

và của đồng bào Liên khu Việt Bắc nói riêng.

Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã có những đóng góp to

lớn trong sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc. Để có được

những thành công đó là do các nhân tố cơ bản sau đây:

Một là, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và

Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận ở Liên khu Việt Bắc chính là nhân tố

quan trọng nhất quyết định những thành công to lớn của công tác này ở Việt Bắc.

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng được thể hiện qua nhiều chỉ thị, nghị quyết về công

Page 132: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

128

tác dân vận, chỉ đạo việc hoàn thiện, kiện toàn bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ

làm công tác dân vận.

Hai là, Công tác dân vận được Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định là công

tác quan trọng nhất trong việc tập hợp, vận động nhân dân tham gia vào các tổ chức

đoàn thể và sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng Liên khu cùng nhân dân tranh đấu với

địch và thi hành những chính sách của Đảng và Chính phủ mục đích đem lại quyền

lợi cho nhân dân. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc rất quan tâm, chú trọng thực hiện

công tác vận động đồng bào các dân tộc tham gia mặt trận dân tộc thống nhất rộng

rãi - Mặt trận Liên Việt và các đoàn thể quần chúng. Đó là nội dung của công tác

dân vận mà Liên khu uỷ Việt Bắc đã rất thành công trong việc lãnh đạo quần chúng

nhân dân tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.

Ba là, Việt Bắc là cái nôi cách mạng, đồng bào các dân tộc nơi đây có truyền

thống yêu nước, hăng hái tham gia kháng chiến, luôn tin tưởng vào cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp của Đảng, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp cách

mạng. Đây chính là cơ sở để toàn dân đoàn kết một lòng, xây dựng khối đại đoàn

kết dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo nên sức mạnh vật chất

và tinh thần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc đến thắng lợi.

Với ý chí "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định

không chịu làm nô lệ", nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chiến đấu kiên

cường và chiến thắng ngày càng to lớn, tiêu biểu là chiến thắng lẫy lừng Điện Biên

Phủ. Chúng ta đã bảo vệ được chính quyền cách mạng, đánh bại cuộc chiến tranh

xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, kết

thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ và hào hùng của toàn Đảng,

toàn quân và toàn dân ta.

4.1.2. Hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những thành tựu và đóng góp của công tác dân vận trong cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, việc lãnh đạo thực hiện công

tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc cũng còn một số tồn tại, hạn chế.

Liên khu Việt Bắc với địa bàn rộng lớn nhưng địa bàn rừng núi chiếm tới

90%, giao thông đi lại khó khăn. Thành phần dân cư chủ yếu là đồng bào các dân

Page 133: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

129

tộc thiểu số sinh sống với những tập quán sinh hoạt và ngôn ngữ có nhiều khác biệt

giữa các dân tộc nên gây ra những khó khăn cho công tác vận động đồng bào của

Đảng bộ Liên khu. Trên địa bàn Liên khu vừa có vùng giải phóng, vừa có vùng tạm

bị chiếm, đặc biệt là bị địch kích động, chia rẽ, nạn thổ phỉ diễn ra ở nhiều nơi (Hà

Giàng, Lào Cai, Lạng Sơn). Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận của Liên khu còn

hạn chế số lượng và chất lượng, chủ yếu hoạt động dựa trên kinh nghiệm, gây ra

không ít khó khăn trong việc vận động đồng bào và nhân dân trên địa bàn.

Trong một số thời điểm, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc còn có những nhận thức

về đường lối dân vận của Trung ương Đảng chưa đầy đủ và sâu sắc, đặc biệt là đối

với công tác vận động đồng bào miền ngược, công giáo và Hoa kiều. Chính vì vậy,

quá trình triển khai thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu gặp nhiều khó

khăn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tham gia kháng chiến. Ở

những vùng đồng bào các dân tộc miền núi (Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hoà Bình),

mỗi khi địch đến chiếm và ta phải rút lui là mất đất, mất cả dân chúng.

Nguyên nhân là do nhận thức của một số cán bộ dân vận còn kém, chưa gây

được cơ sở vững chắc trong dân chúng miền núi, phong trào chỉ là hình thức mà

chưa làm cho dân chúng giác ngộ sâu sắc, thiết tha với nền độc lập. Đảng bộ Liên

khu chưa hiểu và chưa chú ý giải quyết được nguyện vọng của đồng bào miền núi

một cách thực tế, không chú trọng đào tạo cán bộ địa phương, chỉ để một số cán bộ

dưới xuôi lên công tác, nên không đi sát với nhân dân. Trong thời kỳ đẩy mạnh

kháng chiến, chuẩn bị cho tổng phản công, yêu cầu về công tác vận động thanh niên

tòng quân trở nên cấp thiết và khẩn trương, Liên khu uỷ đã sát sao chỉ đạo việc

động viên thanh niên tòng quân, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nặng về mệnh

lệnh, có nơi bắt thanh niên tòng quân như bắt lính, việc giúp đỡ và săn sóc gia đình

chiến sĩ, thương binh, tử sĩ chưa được chú trọng nên ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần

của thanh niên, làm giảm sút sự nhiệt tình của họ.

Để tiến thêm một bước trong việc xóa bỏ sự chiếm hữu ruộng đất bất công của

địa chủ, nhằm tăng cường hơn nữa sở hữu ruộng đất cho nông dân, bồi dưỡng lực

lượng chính cho cuộc kháng chiến, phát triển sản xuất, chi viện cho chiến trường thì

việc tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động cách mạng ruộng đất là cần thiết. Song xét về

Page 134: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

130

vấn đề đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn cao của cuộc kháng chiến thì không nhất

thiết phải phóng tay phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách

ruộng đất như đã làm. Do vậy, việc đề ra chủ trương cải cách ruộng đất và quá trình

thực hiện đã phạm sai lầm ngay từ đầu và càng về sau càng nặng nề và nghiêm trọng.

Chính sách ruộng đất của Đảng trong từng thời kỳ trước năm 1953 có khác

nhau, nhưng đều tựu chung lại ở một điểm: chính sách đó một mặt biểu hiện đường

lối đại đoàn kết dân tộc, phân hoá giai cấp địa chủ, tranh thủ tất cả các tầng lớp đứng

về phía dân tộc chống kẻ thù chủ yếu nhất là đế quốc xâm lược, một mặt cũng biểu

hiện không tách rời nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc với nhiệm vụ xoá bỏ sở

hữu ruộng đất phong kiến đưa ruộng đất về tay nông dân. Cải cách ruộng đất trong

những năm 1953-1954 thực sự đã trở thành một cuộc đấu tranh giai cấp giằng co, gay

go và quyết liệt, gây tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân trong khi nhiệm vụ dân

tộc chưa hoàn thành.

Tính riêng từ tháng 4-1953 đến 12-1953, ba đợt giảm tô đã được thực hiện

trong phạm vi toàn miền Bắc. Tuy nhiên, khẩu hiệu trung lập phú nông không thích

hợp, ảnh hưởng đến chủ trương cô lập địa chủ. Khẩu hiệu ấy đi đôi với khẩu hiệu

thanh toán tiền công quỵt, làm cho nhiều nơi đả kích phú nông, đẩy phú nông về phe

địa chủ và ảnh hưởng một phần nào đến trung nông.

Một số chủ trương, chính sách và biện pháp thực hiện có tính “tả” khuynh

trong việc thực thi chính sách ruộng đất của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc trong những

năm 1953-1954 đã hạn chế phần nào đến việc phát huy khối đại đoàn kết toàn dân.

Đặc biệt là những khuyết điểm, sai lầm về cách làm và phương thức tiến hành do

Đảng bộ không chấp hành đúng nguyên tắc tổ chức của Đảng trong việc tổ chức cơ

quan cải cách ruộng đất theo hệ thống riêng với quyền hạn quá lớn vượt quyền cấp ủy

Đảng và chính quyền từ cấp khu trở xuống. Không thực hiện đúng đường lối giai cấp

nông thôn của Đảng là dựa hẳn vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông,

liên hiệp với phú nông, phân biệt và có chính sách phù hợp với từng loại địa chủ. Số

người bị quy sai thành phần là địa chủ, phú nông chiếm tỷ lệ quá lớn. Trong đấu tranh

nặng về sử dụng biện pháp đấu tố tràn lan.

Page 135: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

131

Nhìn thẳng vào những sai phạm trong cải cách ruộng đất, Trung ương Đảng

nhận định: Những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến, kéo dài về nhiều mặt, những sai

lầm về những vấn đề nguyên tắc, trái với chính sách của Đảng, trái với nguyên tắc và

điều lệ của một Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, trái với chế độ pháp luật của nhà

nước dân chủ nhân dân. Những sai lầm đó không những đã hạn chế những thắng lợi

đã thu được, mà lại gây ra những tổn thất rất lớn cho cơ sở của Đảng, của chính

quyền, của các tổ chức quần chúng, ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách mặt trận

của Đảng ở nông thôn cũng như ở thành thị, ảnh hưởng nhiều đến tinh thần đoàn kết

và phấn khởi trong Đảng và trong nhân dân, đến công cuộc củng cố miền Bắc, đến sự

nghiệp đấu tranh để thực hiện thống nước nhà. Hội nghị đã thẳng thắn vạch ra những

sai lầm, phân tích những nguyên nhân và gọi đúng tên những sai lầm là tả khuynh.

Trên cơ sở đó, Hội nghị đưa ra những biện pháp hữu hiệu và kiên quyết sửa sai. Một

biểu hiện trước tiên của tinh thần nhìn thẳng, dũng cảm sửa chữa sai lầm là thi hành

biện pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo Uỷ ban Cải cách ruộng đất Trung ương.

4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

Trong kháng chiến chống Pháp, Liên khu Việt Bắc có vai trò là hậu phương

lớn, là căn cứ địa kháng chiến của cả nước với khu đầu não của cuộc kháng chiến

đặt tại ATK (An toàn khu); bên cạnh đó, Liên khu Việt Bắc có phạm vi địa giới

rộng lớn, trải rộng trên 17 tỉnh, là địa bàn tụ cư của 28 dân tộc sinh sống nên Việt

Bắc được Trung ương Đảng xác định là hậu phương lớn của kháng chiến, đồng bào

các dân tộc trên địa bàn Liên khu đi theo tiếng gọi của Đảng, của Bác vừa ra sức

sản xuất đáp ứng nhu cầu vừa cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến.

Từ thực tiễn công tác dân vận của Đảng trên địa bàn Việt Bắc từ khi kháng

chiến toàn quốc bùng nổ đến thắng lợi oanh liệt của Chiến dịch Điện Biên Phủ, kết

thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc đã để lại nhiều kinh

nghiệm lịch sử quý báu:

Một là, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, các ngành về vai trò,

tầm quan trọng của công tác dân vận trong kháng chiến chống thực dân Pháp,

đặc biệt đối với địa bàn chiến lược Việt Bắc

Page 136: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

132

Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ: Một trong nguy cơ lớn nhất, đáng sợ nhất đối

với một đảng cầm quyền là đảng đó quan liêu, xa rời quần chúng, tự cắt đứt mối

quan hệ với quần chúng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn:

…một giây một phút cũng không thể giảm bớt mối quan hệ giữa ta và dân

chúng. Giữ chặt mối quan hệ với dân chúng và luôn luôn nắng nghe ý kiến

dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng

lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng cũng

như đứng lơ lửng giữa trời nhất định thất bại [181, tr. 300].

Từ những bài học lịch sử của dân tộc và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ

tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác dân vận, theo Người công tác dân vận là

công tác vô cùng quan trọng quyết định tới vận mệnh của dân tộc, quyết định sự

thành bại của cách mạng. Người khẳng định: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân

vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì

cũng thành công” [169].

Mỗi thời kỳ cách mạng, công tác dân vận của Đảng có nội dung, phương thức

khác nhau nhưng đều nhằm tập hợp các tầng lớp nhân dân thành một lực lượng to

lớn, đoàn kết xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam tham gia vào các phong trào cách

mạng vì độc lập dân tộc, vì xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngay từ khi

mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết sức coi trọng công tác vận động quần

chúng. Điều này xuất phát từ quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, là

công việc chung của dân chúng chứ không phải là công việc của một số ít; mọi thắng

lợi của cách mạng phải dựa trên cái nền của nhân dân. Công tác vận động quần chúng

xuất phát từ chính nhân dân và trở lại vì lợi ích của nhân dân.

Nhận thức đầy đủ về vai trò của quần chúng nhân dân trong tiến trình cách

mạng, mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, Đảng đã có những chủ trương, đường

lối nhằm tập hợp, tổ chức, hướng dẫn quần chúng rất đúng đắn; Nhà nước có nhiều

chính sách được triển khai trong thực tiễn và đi vào cuộc sống của quần chúng nhân

dân, phù hợp với từng vùng, từng miền, đặc biệt là những chủ trương, chính sách

đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới.

Page 137: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

133

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Trung ương Đảng xác

định Liên khu Việt Bắc một trong những vùng căn cứ địa cách mạng trọng điểm,

trung tâm đầu não kháng chiến, đây là địa bàn tụ cư của 28 dân tộc, gồm: Kinh,

Tày, Nùng, Thái, Mường, H.mông, Dao, Sán Chay (Cao Lan - Sán Chỉ), Sán Dìu,

Giáy, Khơ - mú, Kháng, Xinh - mun, Hà Nhì, Lào, La Chí, La Ha, Phù Lá, La Hủ,

Lự, Lô Lô, Mảng, Pà Thẻn, Cơ Lao, Cống, Bố Y, Si La, Pu Péo. Các dân tộc nơi

đây có truyền thống lao động cần cù, đoàn kết, gắn bó, yêu thương, tương trợ lẫn

nhau. Việt Bắc có một bộ phận nhân dân theo đạo công giáo, sinh sống trên địa bàn

các tỉnh: Bắc Ninh, Lạng Sơn, Phú Thọ, Tuyên Quang… Tuy nhiên, phần lớn địa

bàn là khu vực miền núi, dân cư thưa thớt, giao thông đi lại khó khăn, đặc diểm

phong tục tập quán sinh hoạt, ngôn ngữ, nhất là trình độ học vấn hạn chế... của nhân

dân các dân tộc Việt Bắc cũng gây ra nhiều khó khăn trong công tác dân vận của

Đảng, nhất là làm sao cho đồng bào hiểu và đi theo cách mạng.

Công tác dân vận là một bộ phận quan trọng của Đảng, nhằm xây dựng khối

đại đoàn kết toàn dân đặc biệt là trong những năm trường kỳ kháng chiến chống

thực dân Pháp (1945-1954), dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ và

chính quyền, đoàn thể quần chúng ở Liên khu Việt Bắc đã nhận thức được tầm quan

trọng của công tác dân vận, bằng nhiều cách thức, phương pháp vận động khác

nhau đã tiến hành công tác vận động, động viên nhân dân tham gia hưởng ứng các

phong trào thi đua: “Diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm…”; động viên toàn dân

thi đua “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nỗ lực chiến đấu, ngày đêm

đem sức người, sức của ủng hộ trên chiến trường. Thực hiện chủ trương của Trung

ương, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc coi công tác dân vận là nguồn sức mạnh để toàn

quân, toàn dân quyết tâm chiến đấu, lao động, sản xuất; động viên hàng ngàn thanh

niên viết đơn xung phong ra chiến trường, hàng chục ngàn dân công đi tiền tuyến

vận tải lương thực, thực phẩm, vũ khí phục vụ các chiến dịch, nhất là chiến dịch

Điện Biên Phủ. Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu trong giai đoạn này chủ

yếu tập trung vào vận động nhân dân tham gia đóng góp sức người, sức của cho

Đông - Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên

Phủ, đánh thắng thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Page 138: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

134

Dưới sự chỉ đạo thường xuyên và trực tiếp của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc,

căn cứ địa kháng chiến được xây dựng, củng cố về mọi mặt, sẵn sàng cho cuộc

kháng chiến lâu dài của quân và dân ta. Tại Liên khu Việt Bắc, chính quyền nhân

dân được chăm lo củng cố và kiện toàn từ cấp liên khu cho đến cấp tỉnh, cấp huyện

và cấp xã; khối đoàn kết toàn dân được tăng cường; quần chúng nhân dân các dân

tộc trên địa bàn Liên khu được quy tụ trong Mặt trận Việt Minh và Liên Việt với

các đoàn thể (nông hội, hội phụ nữ, hội thanh niên…). Đảng, chính quyền, các tổ

chức đoàn thể ở Liên khu Việt Bắc đã vận động nhân dân các dân tộc trên địa bàn

đóng góp to lớn sức người, sức của cho kháng chiến, cung cấp nhân lực chủ yếu cho

chiến trường.

Đồng thời với việc xây dựng lực lượng vũ trang, tại căn cứ địa Việt Bắc,

Liên Khu uỷ cùng đoàn thể các cấp luôn nhận thức rõ vai trò quan trọng của công

tác dân vận, các cấp uỷ đảng, các cơ quan dân vận của Liên khu đã tổ chức thực

hiện vận động, hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân ra sức tăng gia sản xuất, từng bước

giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất cho đồng bào; vừa huy động vừa bồi dưỡng sức

dân; xây dựng kinh tế kháng chiến. Nhân dân các dân tộc trên địa bàn Liên khu Việt

Bắc hăng hái tăng gia sản xuất, trở thành nơi cung cấp nhân lực, lương thực, thực

phẩm cho chiến trường. Thắng lợi của cuộc phản công chiến lược Đông - Xuân

1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đã in đậm dấu ấn của

nhân dân các dân tộc ở Liên khu Việt Bắc. Mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến,

nhân dân các dân tộc đã đóng góp sức người, sức của vào thắng lợi quyết định của

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Hai là, quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương của Đảng về

công tác dân vận phù hợp với thực tiễn, đặc điểm của Liên khu

Để thực hiện tốt công tác dân vận, trước hết Đảng cần có chủ trương, chính

sách đúng và hợp lòng dân. Chủ trương, chính sách hợp lòng dân, khi triển khai, dù

chưa phổ biến, tuyên truyền sâu rộng, vận động thuyết phục chưa nhiều, nhưng vẫn

đến được với nhân dân, nhân dân vẫn đồng tình hưởng ứng thực hiện. Ngược lại,

chủ trương, chính sách không hợp lòng dân, thì rất khó vận động, thuyết phục nhân

Page 139: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

135

dân thực hiện có hiệu quả, không thể phát động được các phong trào hành động

cách mạng hiện thực hóa chủ trương, đường lối, chính sách đó vào cuộc sống.

Bên cạnh việc không ngừng nâng cao năng lực, trí tuệ và luôn đổi mới nội

dung, phương thức lãnh đạo công tác dân vận, Đảng phải đề cao vai trò của nhân

dân trong tham gia xây dựng chủ trương, chính sách. Là đảng cầm quyền, mọi

đường lối, chính sách của Đảng đề ra đúng đắn, sát với thực tiễn, hợp với lòng dân

sẽ là định hướng quan trọng cho mọi hoạt động diễn ra trên mọi lĩnh vực. Đường

lối, chính sách của Đảng đề ra cho từng giai đoạn cách mạng phải xuất phát từ lợi

ích chính đáng của nhân dân, bao gồm lợi ích chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Căn

cứ vào mục tiêu đề ra cho từng giai đoạn phát triển của cách mạng mà xác định lợi

ích nào trong các lợi ích đã xác định giữ vị trí trung tâm chi phối.

Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ và kháng chiến chống thực dân

Pháp, hàng loạt những phong trào vận động quần chúng nhân dân đã đi vào lịch sử

công tác dân vận trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh cách mạng, tiêu biểu

là các phong trào: “Phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói” trước Cách mạng Tháng

Tám; “Hũ gạo kháng chiến”, “Quỹ độc lập”, “Kháng chiến kiến quốc”,... thời kỳ

chống thực dân Pháp; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”,

“Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”,... thời kỳ kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước; Phong trào làm chủ tập thể thời kỳ cả nước quá độ lên

chủ nghĩa xã hội; phong trào “Xóa đói, giảm nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới”... thời kỳ đổi mới. Thông qua công tác

dân vận mà trí tuệ, sức sáng tạo vĩ đại của nhân dân đã dẫn tới những thành tựu có

tính lịch sử của cách mạng Việt Nam.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn xác định công tác dân vận là

nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, phải nâng cao nhận thức về công tác

dân vận một cách toàn điện, đồng bộ và sâu sắc. Trong những năm toàn quốc kháng

chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), Đảng luôn coi trọng công tác vận động

nhân dân đoàn kết, thực hiện cuộc kháng chiến toàn diện, giữ vững chính quyền

cách mạng, đánh đổ thực dân xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ.

Page 140: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

136

Thực hiện những chủ trương của Trung ương Đảng về công tác dân vận,

Đảng bộ Liên khu Việt Bắc thời kỳ này đã bám sát những nhiệm vụ của Đảng,

trong đó, kháng chiến là nhiệm vụ chủ yếu, xây dựng đất nước là một nhiệm vụ cơ

bản, nhiệm vụ trước mắt là củng cố chính quyền cách mạng. Muốn thực hiện

nhiệm vụ cách mạng phải củng cố, phát triển Đảng và Mặt trận Việt Minh. Mặt

trận Việt Minh được Liên khu uỷ Việt Bắc xác định phải bao gồm mọi tổ chức

cứu quốc và mọi tầng lớp nhân dân. Sau khi Trung ương Đảng chỉ đạo thành lập

Bộ Dân vận, các cấp tỉnh, huyện trên địa ban Liên khu đã thành lập Ban Dân vận;

trong Ban Dân vận có các tiểu ban: Công vận, Nông vận, Thanh vận, Phụ vận,

Thiểu vận, Giáo vận… ngoài ra còn có Ban Địch vận, Hoa vận để giúp Đảng phụ

trách giới vận (1949).

Vận dụng sáng tạo những chủ trương của Đảng về công tác vận động đồng

bào các dân tộc trên địa bàn Liên khu Việt Bắc - trong vùng giải phóng, các đoàn

thể quần chúng tiếp tục được củng cố và hoàn thiện, đã có bước phát triển mau

chóng, thu hút đông đảo thanh niên nam nữ các dân tộc tham gia, thanh niên tình

nguyện đi dân công hoả tuyến, sửa đường, vận chuyển lương thực, thuốc men, đạn

dược cho mặt trận. Được sự động viên, vận động của các đoàn thể quần chúng,

các đơn vị bộ đội tỉnh, huyện, các đơn vị thanh niên xung phong, hàng ngàn dân

công ngày đêm bám đường, bám cầu phà dưới bom đạn giặc, bảo đảm giao thông

liên tục. Hàng vạn dân công, thanh niên xung phong và bộ đội vận chuyển cả ngàn

tấn lương thực, thực phẩm, súng đạn ra tiền tuyến, đón và chăm sóc hàng trăm

thương binh từ mặt trận trở về.

Nhằm khuyến khích sản xuất, nhiều chính sách của Đảng được ban hành như

chính sách về thuế nông nghiệp, giảm tô, cải cách ruộng đất, khai hoang, phục hoá,

đổi công sản xuất… tạo điều kiện cho nhiều ngành sản xuất được phục hồi và phát

triển. Chính sách thuế khoá được cải tiến, đơn giản, công bằng và hợp lý, nhất là

chính sách thuế nông nghiệp đã làm cho nhân dân ở Liên khu Việt Bắc phấn khởi

và tích cực đóng góp cho kháng chiến.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là

thành công to lớn công tác dân vận của Đảng. Đó là thắng lợi của đường lối mở

Page 141: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

137

rộng đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, với yêu cầu vận

động tất cả các lực lượng của mỗi một người dân, không bỏ sót một người dân nào,

góp thành lực lượng toàn dân. Đó là sự sáng tạo và phát triển công tác dân vận

trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền vừa kháng chiến vừa kiến quốc.

Ba là, lãnh đạo công tác dân vận với nhiều hình thức, phương pháp linh

hoạt, bám sát nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng

Công tác dân vận được xác định là công tác khoa học và mang tính nghệ thuật.

Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì việc xác định đúng những nội dung,

phương thức và đối tượng vận động phải phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của cách

mạng và đặc điểm, lợi ích, trình độ và khả năng của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội.

Mỗi giai đoạn cách mạng, Trung ương Đảng luôn xác định công tác dân vận

là nhiệm vụ chiến lược, phải được tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh,

trên mọi địa bàn, đối với mọi tầng lớp nhân dân. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc bằng

nhiều hình thức và biện pháp đã đưa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước

đến với đông đảo quần chúng nhân dân, phù hợp với từng đối tượng quần chúng

nhân dân trên địa bàn Liên khu, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,

đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây. Trong cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp, Đảng bộ Liên khu đã sáng tạo nhiều hình thức dân vận phù hợp với

điều kiện, hoàn cảnh và nhiệm vụ cách mạng.

Liên khu Việt Bắc với diện tích tự nhiên rộng lớn, trải rộng trên địa bàn 17

tỉnh, số lượng đồng bào các dân tộc thiểu số tụ cư rất đông đảo với 28 dân tộc.

Đảng bộ Liên khu đã xác định rõ các giai cấp, tầng lớp cơ bản như công nhân, nông

dân, trí thức đều có biến đổi so với thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám. Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc luôn chăm lo, củng cố và kiện toàn bộ máy tổ chức dân vận từ

cấp liên khu cho đến cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; Xây dựng và tăng cường khối

đoàn kết toàn dân; đồng bào các dân tộc trên địa bàn Liên khu được tập hợp trong

Mặt trận Việt Minh và Liên Việt với các đoàn thể (công hội, nông hội, hội phụ nữ,

hội thanh niên…).

Công tác dân vận được Đảng bộ Liên khu Việt Bắc thực hiện với nhiều hình

thức vận động phong phú, phương pháp vận động linh hoạt, khéo léo, bám sát

Page 142: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

138

nhiệm vụ trong từng giai đoạn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chính vì

vậy, Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở Liên khu Việt Bắc rất thành

công trong việc vận động nhân dân các dân tộc trên địa bàn luôn tin tưởng vào sự

lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự nguyện đóng góp sức người, sức

của cho kháng chiến, cung cấp nhân lực chủ yếu cho chiến trường.

Ngày nay, đời sống các tầng lớp nhân dân khu vực miền núi phía Bắc vốn trước

kia là địa bàn Liên khu Việt Bắc đã được cải thiện rõ rệt, song nhìn chung vẫn còn

nghèo, đặc biệt là ở những khu vực vùng sâu, vùng xa và vùng biên giới. Sự phân hoá

về khoảng cách giàu - nghèo không chỉ giữa vùng nông thôn với thành thị mà sự phân

hoá rõ rệt nhất là khu vực miền núi với đồng bằng. Sự chênh lệch về mức sống và chất

lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư khá rõ nét. Điều đó có tác động không nhỏ,

thậm chí rất phức tạp tới tư tưởng, phẩm chất đạo đức và lối sống của quần chúng. Vì

vậy, các hình thức, phương pháp công tác dân vận phải đa dạng, phù hợp với từng

hoàn cảnh, điều kiện, đối tượng cụ thể, với nhiều cấp độ khác nhau để tập hợp mọi

đối tượng thành khối đại đoàn kết dân tộc. Có như vậy mới phát huy được khả năng

sáng tạo phong phú của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở đâu có sự

cố kết của cộng đồng, sự tập hợp của nhân dân, ở đó phải có Đảng lãnh đạo và có

sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách cụ thể tạo điều kiện vật chất

và pháp lý cho hoạt động của các đoàn thể nhân dân.

Bốn là, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho mọi tầng lớp nhân dân,

đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số

Để thực hiện thành công công tác dân vận, một trong những yếu tố quan

trọng hàng đầu xuất phát từ những quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật,

chương trình, kế hoạch về kinh tế - xã hội và hoạt động của hệ thống chính trị, phải

đáp ứng được nguyện vọng, lợi ích chính đáng của các nhân dân, giai cấp và các

tầng lớp xã hội.

Tư tưởng lấy dân làm gốc đã trở thành truyền thống đạo lý xuyên suốt quá

trình lịch sử Việt Nam và được các bậc minh quân, trung thần, các bậc tiền nhân

vận dụng rất thành công trong quá trình dựng nước và giữ nước. Thời nhà Lý, vua

Lý Công Uẩn vì trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân mà dời đô về Thăng Long, cốt

Page 143: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

139

để dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ. Trong Phạt tống lộ bố văn của Lý Thường Kiệt

coi đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân. Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn lại rất coi

trọng việc khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, bởi đó mới là thượng sách

giữ nước. Đại công thần Nguyễn Trãi luôn xem việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Việc

coi trọng và tiết kiệm sức dân không chỉ là quy luật tồn vong của một chế độ, mà

phải trở thành một đường lối, một chính sách trị nước tích cực của mọi chế độ chính

trị. Vấn đề nâng cao trình độ dân trí, tuyên truyền thuyết phục quần chúng đi đôi với

giải quyết hài hoà các lợi ích có những nội dung mới, phải được coi trọng. Kinh

nghiệm công tác dân vận của Đảng và của các đoàn thể nhân dân mấy chục năm

qua đã khẳng định vấn đề này. Ba yếu tố: Dân trí - dân sinh - dân chủ luôn luôn gắn

bó hữu cơ, chặt chẽ với nhau là điều kiện, là tiền đề cho nhau, hỗ trợ nhau cùng

phát triển vững chắc, lâu dài.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa những tư tưởng lớn ấy, nhưng ở tầm cao

hơn, nhân văn hơn, đó là Người đặt dân lên vị thế người làm chủ đất nước; trong tất

cả mọi việc, kể cả huy động sức dân trước hết vẫn là vì chính lợi ích của dân, vì theo

Người lợi ích của dân càng cao, sức dân càng mạnh. Người khẳng định cách mạng là

sự nghiệp của quần chúng, quần chúng là động lực của cách mạng. Chính quần chúng

nhân dân là lực lượng cách mạng đông đảo nhất, trực tiếp thực hiện đường lối cách

mạng, biến đường lối cách mạng của Đảng thành hiện thực. Có được dân, quy tụ

được lòng dân là có tất cả, làm được tất cả, điều này đã trở thành phương pháp luận

trong tư tưởng của Người vì Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó ngàn lần dân liệu

cũng xong. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến

của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối cách mạng, đường lối đổi mới của

Đảng. Cũng chính phong trào cách mạng của nhân dân là yếu tố quan trọng nhất cụ

thể hóa đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước thành hiện thực.

Suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thực hiện chủ

trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận, Đảng bộ Liên khu

Việt Bắc rất quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho mọi tầng lớp nhân

dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Đối với mỗi tầng lớp nhân dân, Đảng bộ

luôn có những chỉ đạo riêng phù hợp với nguyện vọng của từng đối tượng vận động.

Page 144: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

140

Trong công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng bộ Liên khu đã chỉ

rõ phải đem lại quyền lợi thực tế như: đặt phòng phát thuốc, mở trường học, tiếp tế

bán muối rẻ cho đồng bào, xoá thuế, giảm tô ở những vùng bị địch tàn phá nặng

nề… Tổ chức Đảng, Mặt trận không ngừng chăm lo đời sống vật chất và văn hoá

của đồng bào, tôn trọng phong tục tập quán, thuyết phục và cảm hoá các Lang, Phìa,

Thổ ty; lập uỷ ban dân tộc thiểu số ở từng vùng. Đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ dân

vận là người dân tộc thiểu số của địa phương.

Đối với đồng bào Công giáo, Đảng bộ đã chỉ rõ, công tác vận động giáo dân

có ý nghĩa hết sức quan trọng, khắc phục những thành kiến, nhận thức lệch lạc với

giáo dân và giáo sĩ. Vạch trần những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc của địch hòng

chia rẽ đồng bào với Chính phủ và Mặt trận Việt Minh. Nội dung, hình thức chủ

yếu là khích lệ lòng yêu nước, sử dụng phương pháp nêu gương những cá nhân yêu

nước, trừng trị các phần tử phản động để răn đe.

Đối với Hoa kiều, tôn trọng và bảo vệ tài sản, giúp họ di cư, tản cư; phát huy

vai trò của cán bộ người Hoa để vận động đồng bào người Hoa, kịp thời nâng cao

vai trò hoạt động của Ủy ban Hoa vận.

Để làm tốt công tác dân vận trong thời kỳ mới, các cấp uỷ đảng và các đoàn

thể nhân dân phải có sự quan tâm sâu sát, có những quyết định cụ thể, chăm lo lợi

ích thiết thực, cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của quần chúng. Phải tìm những

biện pháp giải quyết ổn thỏa những vấn đề nóng, gây bức xúc trong nhân dân, như:

đất đai, việc làm, y tế, giáo dục, giàu - nghèo... Đồng thời nêu cao vai trò tiên

phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Phải quán triệt sâu sức tư tưởng Hồ Chí

Minh: làm sao cho nhân dân hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của

mình, để dân nói, dân làm,... Phải mở rộng dân chủ thực sự với nhân dân; tiếp tục

khẳng định và làm rõ nỗi dung cốt lõi của dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đó

là giải quyết vấn đề kinh tế và tài chính thế nào cho hợp lý, cho lợi dân” [178, tr. 4].

Năm là, chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, cán bộ làm công tác

dân vận, gắn với đổi mới phương thức, đa dạng hóa các hình thức vận động

nhân dân

Page 145: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

141

Thực tiễn công tác dân vận ở Việt Nam hơn 80 năm qua đã chứng minh

chất lượng và hiệu quả công tác dân vận phụ thuộc trực tiếp, quyết định ở chất

lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận. Đội ngũ này góp phần quan trọng

vào việc đề xuất, kiến nghị, tham gia xây dựng đường lối, chủ trương về công tác

dân vận và quyết định trong việc quán triệt, thực hiện, biến đường lối, chủ trương

đó thành hiện thực.

Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc, đội ngũ cán bộ làm công tác

dân vận là những người “vào sinh ra tử”, “ba cùng” với nhân dân, góp phần làm nên

những chiến công hiển hách trong lịch sử quang vinh của Đảng và của dân tộc. Đội

ngũ cán bộ làm công tác dân vận tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng,

thành thạo công việc được giao; luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân,

phải luôn nắm vững và vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công

tác dân vận cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác này.

Thực hiện những chủ trương của Trung ương về công tác xây dựng tổ chức

bộ máy và đào tạo đội ngũ cán bộ dân vận, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc trong kháng

chiến chống thực dân Pháp đã thường xuyên xây dựng, củng cố và hoàn thiện tổ

chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ dân vận; trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng bộ có

những đổi mới về phương thức công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Thực hiện nhiệm vụ đoàn kết toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp, phá tan âm

mưu thâm độc của thực dân Pháp thi hành chính sách “Lấy chiến tranh nuôi chiến

tranh; dùng người Việt đánh người Việt” [177, tr. 522-523], Đảng bộ Liên khu Việt

Bắc đã chỉ đạo các cơ quan, cán bộ dân vận của Liên khu tập trung củng cố, phát

triển các đoàn thể nhân dân như Hội Nông dân Cứu quốc, Đoàn Thanh niên Cứu

quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc,… Công tác vận động các giới như thanh vận, công

vận, nông vận, phụ vận, vận động đồng bào thiểu số, đồng bào Công giáo, đồng bào

trong vùng địch chiếm đã được Liên khu uỷ chú trọng và tăng cường hơn trước. Các

cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số

và cán bộ làm công tác dân vận phải trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có

trách nhiệm với dân, nghe dân nói - nói dân hiểu…

Page 146: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

142

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: trong bất cứ hoàn cảnh và thời điểm lịch sử

nào, người cán bộ làm công tác dân vận phải tận trung với nước, tận hiếu với dân, phải

là những người hiểu dân, tin dân, vì dân và nắm được nguyện vọng của nhân dân, đồng

cam cộng khổ, gắn bó với dân. "Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt

trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi

viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc" [177, tr. 233-234].

Công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay đã có những điểm mới so với thời

kỳ lịch sử trước đây. Công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận

phải gắn liền, đi đôi với xây dựng, củng cố, kiện toàn các tổ chức làm công tác dân

vận. Cùng với xây dựng và sắp xếp hợp lý đội ngũ cán bộ, phải quan tâm xây dựng

cơ chế, chính sách, phương thức làm việc, chăm lo tạo điều kiện cho cán bộ làm công

tác này có cơ hội phấn đấu trưởng thành. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân

vận hội đủ phẩm chất của người cán bộ cách mạng; với nghĩa cơ bản nhất là người

lãnh đạo, định hướng quần chúng, tổ chức điều hành công việc, là hạt nhân của tổ

chức, là nòng cốt của phong trào. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất cứ lĩnh vực, địa

phương nào, cán bộ cũng đóng vai trò quyết định. “Cán bộ là gốc của mọi công việc.

Công việc thành công hay thất bài đều do cán bộ tốt hay kém” [168, tr. 313]. Bởi vậy,

xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận phải xuất phát từ phong trào quần chúng, có đủ

phẩm chất năng lực và tâm huyết, quan tâm chăm lo đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán

bộ dân vận các cấp đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra.

Trong những năm tháng trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm

lược, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ và các cấp chính quyền, đoàn

thể Việt Bắc bằng nhiều cách thức, phương pháp vận động khác nhau đã tiến hành

công tác dân vận, vận động, cổ vũ nhân dân các địa phương thi đua sản xuất, giết

giặc, nỗ lực chiến đấu, ngày đêm đem sức người, sức của ủng hộ chiến sỹ chiến đấu

trên chiến trường.

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: phải luôn luôn đổi mới phương

pháp công tác dân vận cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử. Đây cũng là

kinh nghiệm quý báu được đúc kết từ lịch sử. Trong cách mạng dân tộc, dân chủ,

Page 147: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

143

lực lượng đấu tranh là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước chống lại các lực

lượng phản dân tộc và phản dân chủ; đấu tranh chủ yếu thông qua các tổ chức

chính trị của mình: Đó là Đảng Cộng sản, Mặt trận và các thành viên của Mặt trận.

Qua các giai đoạn cách mạng, tùy tình hình trong nước và quốc tế, Đảng đưa ra

các chiến lược, sách lược đấu tranh khác nhau, những khẩu hiệu tập hợp lực lượng

khác nhau, nhưng đều thống nhất ở mục tiêu chung là mở rộng lực lượng cách

mạng, huy động tất cả mọi lực lượng cách mạng...

Những bài học kinh nghiệm chủ yếu trong công tác dân vận của Đảng được

đúc kết luôn đồng hành cùng dân tộc ta trên con đường chấn hưng đất nước hiện nay.

Tiểu kết Chương 4

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Trung ương Đảng luôn

xác định công tác dân vận là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ hoạt

động lãnh đạo của Đảng; là nhiệm vụ chiến lược, phải được tiến hành thường xuyên

trong mọi hoàn cảnh, trên mọi địa bàn, đối với mọi tầng lớp nhân dân. Phát huy

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hơn 80 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã

lãnh đạo quần chúng nhân dân vượt qua bao gian nan, thử thách, tiến hành Tổng

khởi nghĩa thành công trong Cách mạng Tháng Tám 1945, tiếp đó là đấu tranh bảo

vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, trường kỳ kháng chiến chống thực dân

Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả

nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện những chủ trương của Trung ương Đảng về công tác dân vận,

Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã có những hình thức và biện pháp đại đoàn kết toàn

dân, mở rộng hơn với sự thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên

Việt), thu hút thêm các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước không đảng phái,

không phân biệt giai cấp, tôn giáo, sắc tộc, xu hướng chính trị. Khối đại đoàn kết

dân tộc càng thêm bền chặt khi thống nhất Việt Minh, Liên Việt thành Mặt trận

Liên Việt.

Sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã

đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, một lần nữa cho thấy sự

Page 148: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

144

phát triển và trưởng thành của Đảng. Những kết quả ấy không chỉ làm cho toàn

Đảng, toàn dân vững tin đi tiếp chặng đường đã lựa chọn mà còn khẳng định sự

phát triển mới của Đảng trong việc khơi dậy và phát huy tiềm năng, sức sáng tạo

to lớn của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng trong thời kỳ mới.

Đồng thời chứng minh hùng hồn sức mạnh của mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa

Đảng với Dân, là sức mạnh trường tồn của sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát

triển đất nước, vì mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công

bằng, văn minh.

Page 149: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

145

KẾT LUẬN

Trung ương Đảng xác định công tác dân vận là vận động tất cả các lực lượng

của mọi tầng lớp nhân dân góp thành lực lượng toàn dân để thực hiện những chính

sách kháng chiến, kiến quốc của Đảng và Chính phủ. Công tác dân vận là gốc của

đại đoàn kết toàn dân. Vì vậy, nội dung công tác dân vận gồm nhiều mặt: tuyên

truyền giáo dục, tổ chức, lãnh đạo đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân, dân tộc và

hoà bình thế giới, ba công tác này có liên quan mật thiết với nhau. Tuyên truyền,

vận động là chủ yếu của công tác dân vận, vì đây là công tác giác ngộ quần chúng

nhân dân, làm cho họ nhận rõ chính sách cách mạng của Đảng và chính sách áp

bức, bóc lột của thực dân Pháp.

Trong việc củng cố các tổ chức quần chúng cần phải tuyên truyền, vận động

quần chúng mà trước tiên phải củng cố về tư tưởng, tinh thần cho quần chúng. Việc

tuyên truyền, vận động phải đi đôi với tổ chức và lãnh đạo nhân dân tranh đấu vì có tổ

chức thì mới có sức mạnh, nếu không lực lực quần chúng sẽ rời rạc không thể thực

hiện được nhiệm vụ cách mạng. Tuy nhiên, muốn tổ chức ngày càng phát triển và củng

cố phải tiến hành tranh đấu, trong vùng địch thì tranh đấu với giặc để giành lại những

quyền lợi hàng ngày, ngoài vùng tự do thì tăng gia sản xuất, bồi dưỡng lực lượng của

ta, phục vụ công tác tiền tuyến, phòng gian bảo mật, đề phòng máy bay bắn phá, bài trừ

văn hoá phong kiến đế quốc còn lại… tất cả những việc làm đó đều có ý nghĩa mục

đích tranh đấu với địch. Có tuyên truyền, vận động đề cao giác ngộ quần chúng thời

mới tổ chức và lãnh đạo được quần chúng tham gia kháng chiến. Có tổ chức thì mới dễ

dàng tuyên truyền, vận động quần chúng và hướng dẫn cho họ đấu tranh. Có tranh đấu

thì mới đề cao được giác ngộ quyền lợi cho quần chúng và mới làm cho tổ chức ngày

càng vững mạnh. Vì vậy, việc tuyên truyền, vận động và củng cố tổ chức phải tiến

hành ngay trong thực tế đấu tranh với địch và thi hành các chính sách của Đảng, của

Chính phủ thì mới có kết quả.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về vận động quần chúng nhân

dân ủng hộ và tham gia kháng chiến, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định công tác

dân vận là công tác quan trọng nhất trong việc tập hợp, vận động nhân dân tham gia

Page 150: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

146

vào các tổ chức đoàn thể và sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng Liên khu cùng nhân

dân tranh đấu với địch và thi hành những chính sách của Đảng và Chính phủ mục

đích đem lại quyền lợi cho nhân dân. Muốn thực hiện được như vậy người cán bộ

dân vận phải làm cho dân tin, dân yêu. Đó là nội dung của công tác dân vận mà

Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã rất thành công trong việc lãnh đạo quần chúng nhân

dân tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.

Đồng bào các dân tộc trên địa bàn Liên khu Việt Bắc đã thực hiện triệt để

chiến tranh du kích làm cho quân địch đi tới đâu cũng vấp phải sức kháng chiến của

quần chúng nhân dân; phá hoại cầu đường ngăn cản giao thông vận tải của địch, khi

giặc tới thì thực hành vườn không nhà trống, triệt để giữ bí mật theo khẩu hiệu “ba

không” khiến cho địch có mắt như mù, có tai như điếc, nhanh chóng bị bộ đội và du

kích tiêu diệt. Nhiều đội du kích dũng cảm đã làm cho quân Pháp vô cùng hoảng sợ.

Nhân dân Liên khu Việt Bắc đã đóng góp nhiều sức người, sức của cho kháng

chiến thắng lợi. Hàng vạn thanh niên các dân tộc đã hăng hái tham gia bộ đội, anh

dũng cầm súng đánh giặc. Trong 5 chiến dịch lớn của quân và dân ta: Biên Giới,

Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, Hoà Bình và Điện Biên Phủ, Liên khu Việt Bắc

đã phục vụ tiền tuyến tới 13 triệu ngày công. Với tinh thần quyết thắng, nhân dân đã

lấy sức người và dụng cụ thô sơ mà chuyển được hàng chục vạn tấn lương thực và vũ

khí qua hàng mấy trăm cây số từ hậu phương ra mặt trận, chèo đèo, lội suối đảm bảo

cung cấp đầy đủ, nhanh chóng cho chiến dịch. Mặc dù gặp nhiều khó khăn lớn và

địch luôn oanh tạc nhưng nhân dân Liên khu Việt Bắc đã thi đua vừa chống giặc, vừa

sản xuất, nên kháng chiến không những được bảo đảm lương thực mà còn cung cấp

hàng chục vạn tấn thóc gạo cho tiền tuyến. Những cống hiến lớn lao ấy của nhân dân

Liên khu Việt Bắc đã góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, đem lại hoà bình

cho đất nước.

Công tác dân vận dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã đạt

được những thành quả to lớn, đặc biệt là tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân, thực

hiện tốt nhiệm vụ phục vụ kháng chiến đi đến thắng lợi. Công tác dân vận trên địa

bàn Liên khu Việt Bắc đã góp phần quyết định vào thắng lợi trên chiến trường. Bảo

đảm vật chất cho nhiệm vụ chiến đấu đòi hỏi phải huy động một khối lượng rất lớn

Page 151: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

147

về sức người, sức của. Chiến thắng Điện Biên Phủ là minh chứng sống động của tinh

thần đoàn kết, đóng góp nhân lực, vật lực của nhân dân trong cả nước nói chung và

của đồng bào các dân tộc Liên khu Việt Bắc nói riêng.

Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo công tác dân vận vẫn còn một số hạn

chế, khiếm khuyết. Trong một số giai đoạn, nhận thức về đường lối dân vận của

Đảng chưa đúng và đầy đủ, đặc biệt là đối với công tác vận động đồng bào miền

ngược, công giáo và Hoa kiều. Một số chủ trương, chính sách và biện pháp vận

động nhân dân còn mang tính “tả” khuynh, nhất là trong việc thực thi chính sách

ruộng đất của Đảng trong những năm 1953-1954 đã hạn chế đến việc phát huy cao

độ truyền thống đại đoàn kết của dân tộc. Trong ba đợt giảm tô đã được thực hiện

trong phạm vi toàn miền Bắc, khẩu hiệu trung lập phú nông không thích hợp, ảnh

hưởng đến chủ trương cô lập địa chủ. Khẩu hiệu ấy đi đôi với khẩu hiệu thanh toán

tiền công quỵt, làm cho nhiều nơi đả kích phú nông, đẩy phú nông về phe địa chủ

và ảnh hưởng một phần nào đến trung nông. Cải cách ruộng đất thời kỳ này bộc lộ

khuyết điểm, sai lầm về cách làm và phương thức tiến hành: không chấp hành đúng

nguyên tắc tổ chức của Đảng trong việc tổ chức cơ quan cải cách ruộng đất theo hệ

thống riêng với quyền hạn quá lớn vượt quyền cấp ủy Đảng và chính quyền từ cấp

khu trở xuống.

Những thành công, hạn chế, khiếm khuyết của quá trình lãnh đạo công tác

dân vận ở Việt Bắc đã để lại những kinh nghiệm quý, có giá trị lý luận và thực tiễn

đối với công tác dân vận của Đảng trong điều kiện lịch sử mới.

Page 152: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

CỦA TÁC GIẢ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Vũ Thái Dũng (2012), “Vai trò của Đảng bộ tỉnh Sơn La trong chiến dịch Tây

Bắc”, trong cuốn Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình giải phóng dân

tộc và xây dựng đất nước, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.158-163.

2. Vũ Thái Dũng (2013), “Về phương hướng chiến lược và chủ trương tác chiến

của Đảng trong Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ”, Tạp

chí Lịch sử Đảng, (5), tr.79-81.

3. Vũ Thái Dũng (2013), “Xây dựng lực lượng cách mạng chuẩn bị khởi nghĩa

giành chính quyền tại tỉnh Tuyên Quang”, trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa

học Khởi nghĩa Thanh La trong tiến trình Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb

Chính trị quốc gia, tr.174-178.

4. Vũ Thái Dũng (2013), “Nông dân Bắc Kạn tham gia xây dựng, củng cố chính

quyền và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)” trong

cuốn Lịch sử Phong trào nông dân và Hội Nông dân tỉnh Bắc Kạn (1930-

2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.67-76.

5. Vũ Thái Dũng (2016), “Những tư tưởng sáng tạo về dân vận và quan điểm chỉ

đạo đối với công tác dân vận của Hồ Chí Minh”, trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo

khoa học Hồ Chí Minh - Tầm nhìn thời đại, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ

Chí Minh, tr.272-282.

6. Vũ Thái Dũng (2016), “Công tác dân vận của Đảng năm đầu sau Cách mạng

Tháng Tám (8-1945 - 12-1946)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (7), tr.14-19.

7. Vũ Thái Dũng (2016), “Công tác vận động nhân dân những ngày đầu toàn quốc

kháng chiến”, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, ngày 16-11.

8. Vũ Thái Dũng (2017), “Xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc thiểu số vùng

Tây Nguyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, trong cuốn 70 năm ngày Bác Hồ

gửi thư Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku (19-4-1946 - 19-4-

2016), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.158-168.

Page 153: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Văn Ba (Chủ biên) (1998), Chiến tranh du kích trong kháng chiến chống

thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc

Giang (1926-1975), Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng

(1930-2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu

tập I (1945-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (1993), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (2004), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ,

Tập 1 (1930-1968), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái

Nguyên, Tập 1 (1939-1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên

Quang (1940-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Phúc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 154: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

150

15. Ban Chấp hành Nông dân Cứu quốc, tỉnh Phú Thọ (1952), Chỉ thị về hoàn

thành giảm tô, giảm tức ngày 14-4-1952, Trung tâm Lưu trữ Uỷ ban Nhân

dân tỉnh Phú Thọ, Phú Thọ.

16. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) (2013), Nghị quyết số 25-NQ/TW

về “Tăng cường đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận

trong tình hình mới”, Hà Nội.

17. Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam (2006), Lịch sử Chính phủ Việt

Nam, tập 1 (1945-1955), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Quốc hội Việt Nam (2000), Lịch sử Quốc hội Việt

Nam 1946-1960, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh

cách mạng Việt Nam 1945-1975 thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

20. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - thắng lợi và bài học, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

21. Ban Dân vận Liên khu uỷ I (1948), Chỉ thị, chương trình, báo cáo của Ban Dân

vận Liên khu uỷ I năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 252.

22. Ban Dân vận Liên khu uỷ I (1948), Nghị quyết Hội nghị Ban Dân vận Liên khu

uỷ I năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu

uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 251.

23. Ban Dân vận Liên khu uỷ X (1948), Nghị quyết Hội nghị Ban Dân vận Liên khu

uỷ X tháng 6-1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên

khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 312.

24. Ban Dân vận Liên khu X (1948), Báo cáo của Ban Dân vận Liên khu X về tình

hình dân vận năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 465.

Page 155: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

151

25. Ban Dân vận Trung ương (2006), 75 năm công tác dân vận của Đảng, một số

vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Ban Dân vận Trung ương (2006), 75 năm công tác dân vận của Đảng Cộng sản

Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Ban Dân vận Trung ương (2015), Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản

Việt Nam (1930-2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Ban Dân vận Trung ương (1999), Sơ thảo Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng

sản Việt Nam (1930-1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Ban Dân vận Trung ương (2002), Truyền thống 72 năm công tác dân vận của

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Ban Dân vận Trung ương (1995), Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Ban Dân vận Trung ương (1994), Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt

trận dân tộc thống nhất, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Ban Giáo vận Khu uỷ XII (1949), Biên bản Hội nghị Giáo vận toàn Khu uỷ 12

và công văn của Khu uỷ XII gửi các Tỉnh uỷ để nghiên cứu thi hành các

điểm trong biên bản, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông

Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 43.

33. Ban Giáo vận Liên khu X (1949), Báo cáo của Ban Giáo vận Liên khu X về tinh

hình công giáo quý II năm 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương

Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị

bảo quản số 476.

34. Ban Giáo vận Liên khu X (1949), Báo cáo, nghị quyết, thi đua hội nghị cán bộ

giáo vận Liên khu X lần thứ 2 từ 25 đến 27-2-1949, Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số

01, Đơn vị bảo quản số 475.

35. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc năm 1947 - tập I, Việt Bắc.

36. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc năm 1948 - tập II, Việt Bắc.

Page 156: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

152

37. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc năm 1948 - tập III, Việt Bắc.

38. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc năm 1948 - tập IV, Việt Bắc.

39. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc năm 1949 - tập V, Việt Bắc.

40. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1971), Văn kiện Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc năm 1950 - tập VI, Việt Bắc.

41. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1971), Văn kiện Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc năm 1951 - tập VII, Việt Bắc.

42. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1971), Văn kiện Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc năm 1952 - tập VIII, Việt Bắc.

43. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1971), Văn kiện Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc năm 1953 - tập IX, Việt Bắc.

44. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1971), Văn kiện Đảng bộ

Liên khu Việt Bắc năm 1954 - tập X, Việt Bắc.

45. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (1981), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt

Nam, sơ thảo, Tập 1 (1920-1954), Nxb Sự thật, Hà Nội.

46. Ban Nghiên cứu Lịch sử Quân sự - Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng

(1974), Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

47. Ban Phụ vận Khu uỷ I (1947), Báo cáo của Ban Phụ vận Khu uỷ I về tinh hình

công tác quý III năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 08.

48. Ban Phụ vận Khu uỷ X (1947), Báo cáo của Ban Phụ vận Khu uỷ X về công tác

tổ chức hội và một số mặt công tác khác năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số

01, Đơn vị bảo quản số 33.

Page 157: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

153

49. Ban Thanh vận Khu uỷ X (1947), Báo cáo của Ban Thanh vận Khu uỷ X về tình

hình thanh vận năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 32.

50. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2005), Lịch sử Biên niên công tác tư

tưởng - văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam 1925-1995, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

51. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2000), Sơ thảo công tác tư tưởng của

Đảng Cộng sản Việt Nam 1930-2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

52. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1997), “Hồ Chí Minh với việc xây dựng

ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc (1947-1954)”, Hội thảo khoa

học ATK Định Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954),

Thái Nguyên.

53. Ban Tuyên huấn Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Nghị quyết Hội nghị Cán bộ

Tuyên huấn Liên khu uỷ Việt Bắc về tổ chức Ban Tuyên huấn các cấp, học

tập chính trị, tuyên truyền, phát triển văn nghệ nhân dân trường Đảng cấp

khu, tỉnh tháng 12-1951, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 1722.

54. Ban Tuyên huấn Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Báo cáo của Ban Tuyên huấn Liên

khu uỷ Việt Bắc và kinh nghiệm về đặt lưới tuyên truyền, nhận xét công tác

tuyên truyền các tỉnh, tình hình công tác quý I, II, III năm 1952, Cục Lưu trữ

Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954),

Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1728.

55. Ban Tuyên huấn Liên khu uỷ Việt Bắc (1953), Chương trình công tác năm, kế

hoạch công tác tuyên huấn trong dân công, báo cáo của Ban Tuyên huấn

Liên khu uỷ Việt Bắc 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 1736.

Page 158: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

154

56. Ban Tuyên truyền Liên khu uỷ Việt Bắc (1950), Báo cáo của Ban Tuyên truyền

Liên khu uỷ Việt Bắc về nhận xét công tác tuyên truyền 1950 và kinh

nghiệm tuyên truyền Đảng, vùng tạm cấp năm 1950, Cục Lưu trữ Văn

phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục

lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1776.

57. Ban Tuyên truyền Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Nghị quyết của Ban Tuyên truyền

Liên khu uỷ Việt Bắc về đẩy mạnh tuyên truyền phục vụ tiền tuyến, Cục Lưu

trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954),

Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1777.

58. Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu I (1990), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm

vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực

dân Pháp (1945-1954), tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

59. Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm

vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực

dân Pháp (1945-1954), tập III, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

60. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị (2000), Đẩy mạnh công tác dân vận tham

gia xây dựng nền chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai

đoạn cách mạng mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

61. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị (1996), Đổi mới công tác dân vận của

Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

62. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần (1995), Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân

dân Việt Nam, tập I (1944-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

63. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần (1979), Những sự kiện về lịch sử hậu cần

quân đội (1930-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

64. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến

tranh nhân dân Việt Nam (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

65. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), tập I, tập II, Nxb Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

Page 159: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

155

66. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1993), Lịch sử cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), tập VI, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

67. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1990), Việt Bắc 30 năm chiến

tranh cách mạng (1945-1975), Tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

68. Bộ Tư lệnh Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Báo cáo của Bộ Tư lệnh Liên khu uỷ

Việt Bắc về tổng hợp tình hình cơ sở, khu căn cứ du kích, tình hình cơ sở 6

tháng đầu năm và một số vấn đề khác năm 1952, Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số

01, Đơn vị bảo quản số 874.

69. Đào Trọng Cảng (1993), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc xây

dựng các vùng tự do lớn trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp

(1946-1954), Luận án tiến sĩ lịch sử, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.

70. Đảng Cộng sản Việt Nam (1949), Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

gửi các Liên khu I và X về đẩy mạnh chiến dịch Tây Bắc, phá âm mưu chiếm

đóng trung du của địch và một số vấn đề khác năm 1949, Cục Lưu trữ Văn

phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục

số 01, Đơn vị bảo quản số 125.

71. Đảng Cộng sản Việt Nam (1981), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, (Sơ thảo),

tập 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

72. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng, Toàn tập 1930, tập 3, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

73. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

74. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

75. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

76. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

Page 160: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

156

77. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 14, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

78. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

79. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, Toàn tập 1930, tập 2, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

80. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

81. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

82. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 14, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

83. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

84. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Đảng Cộng sản Việt Nam - 80 năm xây dựng

và phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

85. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về công tác dân vận, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

86. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực

dân Pháp, tập I (1945-1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

87. Đảng ủy, Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh Bắc Kạn (2001), Bắc Kạn - Lịch sử

kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

88. Đảng ủy, Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh Lào Cai (2001), Lào Cai - Lịch sử kháng

chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

89. Lê Quang Đạo (1995), “Đại đoàn kết dân tộc”, in trong sách Cách mạng tháng

Tám - Một số vấn đề lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

90. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2011), Lược sử Đoàn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh thiếu nhi Việt Nam (1931-

2011), Nxb Thanh niên, Hà Nội.

Page 161: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

157

91. Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã

hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.

92. Nguyễn Minh Đức (2004), Hồ Chí Minh với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

(1945-1954), Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội.

93. Võ Nguyên Giáp (1994), “Điện Biên Phủ xưa và nay”, Tạp chí Xưa và nay, (2),

Tháng 5-1994.

94. Võ Nguyên Giáp (1999), Đường tới Điện Biên Phủ, Nxb Quân đội nhân dân,

Hà Nội.

95. Võ Nguyên Giáp (1994), Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

96. Võ Nguyên Giáp (1960), Những năm tháng không thể nào quên, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

97. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt

Nam, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội.

98. Y. Gơ-ra (1979), Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương (1945-1954), Bản dịch

lưu tại thư viện Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, kí hiệu VL/624-630.

99. Nguyễn Mạnh Hà (1996), Chính sách chính trị, quân sự của Pháp ở Việt Nam

trong giai đoạn 1945-1954 và nguyên nhân thất bại của chúng, Luận án

Phó Tiến sĩ Khoa học Quân sự, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.

100. Lê Mậu Hãn (1999), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

101. Hồ Chí Minh (1949), Thư gửi đồng bào Công giáo Việt Bắc nhân dịp Lễ Noel

tháng 12-1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu

uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 509.

102. Khuất Thị Hoa (2000), Quá trình thực hiện chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí

Minh trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954),

Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

103. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng (2004), Giáo

trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hệ cử nhân Chính trị, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

Page 162: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

158

104. Học viện CT-HC quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng (2009), Lịch sử

biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập III: Đảng lãnh đạo kháng chiến

và kiến quốc (1945-1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

105. Hội Nông dân Việt Nam (1999), Công tác vận động nông dân trong thời kì

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Nông nghiệp , Hà Nội.

106. Đinh Thế Huynh (2012), “Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác quần chúng

- thực tiễn và một số kinh nghiệm”, Tạp chí Dân vận, (1-2012).

107. Hà Thị Khiết (2010), “Một số bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận của

Đảng sau gần 25 năm đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, (816).

108. Hà Thị Khiết (2013), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận

động quần chúng trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, (6-2013).

109. Không rõ tên (1948), Báo cáo của Chính uỷ và Bộ Tư lệnh khu về tình hình

công tác quân sự và công tác năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung

ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn

vị bảo quản số 76.

110. Không rõ tên (1949), Nghị quyết Hội nghị các Trưởng Ban Dân vận, các đảng

đoàn và cuộc họp các ban và đảng đoàn 2 liên khu I và X năm 1949, Cục

Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc

(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1782.

111. Không rõ tên (1950), Nghị quyết Hội nghị Cán bộ dân vận và sơ kết tạm cấp

ruộng đất các bí thư đảng đoàn, quân dân chính Trung du và đảng đoàn

các ngành dân vận 1950, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 535.

112. Không rõ tên (1950), Tài liệu Hội nghị Huy động dân công ở Trung du tháng

12-1950, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ

Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 533.

113. Không rõ tên (1953), Báo cáo của Khu hội Phụ nữ về tình hình công tác và

phong trào phụ nữ năm 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 1905.

Page 163: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

159

114. Không rõ tên (1953), Chỉ thị giảm tô, giảm tức, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.

115. Khu uỷ I (1947), Báo cáo của Khu uỷ I về tình hình công tác quý II-1946, tình

hình xã hội, hàng binh, Việt kiều ở Cao Bằng và quý II, IV năm 1947, Cục

Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc

(1946-1956), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 02.

116. Khu uỷ I (1947), Công văn của Khu uỷ I năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số

01, Đơn vị bảo quản số 03.

117. Khu uỷ X (1947), Báo cáo của Khu uỷ X về tình hình công tác quý I, II, III và

IV năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu

uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 13.

118. Khu uỷ X (1947), Biên bản họp Ban Chấp hành, nghị quyết hội nghị đại biểu

của Phụ nữ Cứu quốc Khu X năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung

ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn

vị bảo quản số 37.

119. Khu uỷ X (1947), Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Cứu quốc hội toàn Khu X, Cục

Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc

(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 10.

120. Khu uỷ X (1947), Nghị quyết Hội nghị Khu uỷ X về Công tác vùng dân tộc thiểu

số, về tình hình thực hiện và kiểm điểm các công tác của khu, về kế hoạch

phá cuộc tấn công mùa đông của địch, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương

Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị

bảo quản số 09.

121. Khu uỷ X (1947), Nghị quyết, chỉ thị, báo cáo của Khu uỷ X về công tác năm

1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt

Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 12.

122. Khu uỷ XII (1947), Báo cáo của Khu uỷ XII về công tác tổ chức “Lớp tháng

tám” tình hình Hội quý II, III, IV năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung

ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn

vị bảo quản số 45.

Page 164: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

160

123. Khu uỷ XII (1947), Nghị quyết Hội nghị Cán bộ dân vận Khu uỷ XII lần thứ

hai, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt

Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 42.

124. Khu uỷ XIV (1947), Báo cáo của Khu uỷ XIV về tình hính chính quyền, kháng

chiến hành chính về tình hình nội bộ và mọi mặt công tác quý 4-1947, Cục

Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc

(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 59.

125. Khu uỷ XIV (1947), Các chỉ thị, thông tri của Khu uỷ XIV năm 1947, Cục

Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc

(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 58.

126. Khu uỷ XIV (1947), Nghị quyết Hội nghị Vận động dân tộc miền núi của Khu

uỷ XIV tháng 12-1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông

Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 57.

127. Kỳ bộ Việt Minh Bắc Kỳ (1949), Chỉ thị về công tác vận động quần chúng

của Kỳ bộ Việt Minh Bắc Kỳ, gửi cho các cán bộ Việt Minh toàn xứ, Ký

hiệu X1/16.10, II4/01/7, Tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử Đảng.

128. Hoàng Ngọc La (1995), Căn cứ địa Việt Bắc (1940-1945), Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

129. Nguyễn Thị Lan (2015), Đảng bộ Liên khu Việt Bắc thực hiện nhiệm vụ xây

dựng Đảng (1949-1956), Luận án tiến sĩ lịch sử, Đại học Khoa học xã hội

và Nhân văn.

130. J.Laniel (1954), Thảm họa Đông Dương từ Điện Biên Phủ đến cuộc đánh đổ ở

Giơ-ve-vơ, Bản dịch lưu tại Thư viện Viện Lịch sử Quân sử Việt Nam, ký

hiệu VL/436.

131. V.I.Lênin (1980), Bàn về chiến tranh, quân đội, khoa học quân sự và nghệ

thuật quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

132. Cao Xuân Lịch (Chủ biên) (1991), Một số trận đánh trên chiến trường Việt

Bắc (1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

133. Liên hiệp Công đoàn Khu X (1947), Báo cáo của Liên hiệp Công đoàn Khu X

về phong trào công nhân trong năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung

ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01,

Đơn vị bảo quản số 35.

Page 165: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

161

134. Liên hiệp Công đoàn Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Báo cáo của Liên hiệp Công

đoàn Liên khu uỷ Việt Bắc về tổng kết thi đua sản xuất lập công, đề cao chiến

sĩ năm 1951, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ

Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1874.

135. Liên khu uỷ I (1949), Báo cáo công tác Hoa vận miền Duyên Hải của Liên

khu I năm 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên

khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 154.

136. Liên khu uỷ I (1948), Báo cáo của Liên khu uỷ I về tình hình chung của Liên

khu và một số vấn đề khác năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương

Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị

bảo quản số 70.

137. Liên khu uỷ I (1948), Báo cáo của Liên khu uỷ I về tình hình công tác quý I, II,

III năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu

uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 69.

138. Liên khu uỷ I (1948), Các chỉ thị, nghị quyết của Liên khu uỷ I năm 1948, Cục

Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc

(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 68.

139. Liên khu uỷ I (1948), Nghị quyết Hội nghị cán bộ, biên giới, giáo vận Liên

khu uỷ I năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông

Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 66.

140. Liên khu uỷ I (1949), Báo cáo của Liên khu uỷ I về kinh nghiệm công tác vùng

địch tạm chiếm và công tác dân vận 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung

ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn

vị bảo quản số 141.

141. Liên khu uỷ I (1949), Các chỉ thị, nghị quyết của Liên khu uỷ I năm 1949, Cục

Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc

(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 139.

142. Liên khu uỷ I (1949), Nghị quyết Hội nghị Thường vụ và Ban Chấp hành Liên

khu Đảng bộ I năm 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 129.

Page 166: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

162

143. Liên khu uỷ I (1949), Tài liệu các hội nghị chuyên đề do Liên khu uỷ I triệu

tập năm 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu

uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 136.

144. Liên khu uỷ Việt Bắc (1949), Báo cáo kiểm điểm của Liên khu uỷ Việt Bắc về

thành tích và việc thi hành công tác phụ vận 2 Liên khu uỷ I và X năm

1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt

Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 516.

145. Liên khu uỷ Việt Bắc (1949), Các chỉ thị, thông tri, thông báo, công văn của

Liên khu uỷ Việt Bắc - 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 515.

146. Liên khu uỷ Việt Bắc (1950), Các chỉ thị, kế hoạch của Khu hội Phụ nữ Việt

Bắc năm 1950, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên

khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1901.

147. Liên khu uỷ Việt Bắc (1950), Các đề án, kế hoạch, báo cáo của Liên hiệp

Công đoàn Liên khu uỷ Việt Bắc năm 1950, Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số

01, Đơn vị bảo quản số 1873.

148. Liên khu uỷ Việt Bắc (1950), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành, chỉ thị, báo

cáo của khu đoàn Thanh niên Việt Bắc năm 1950, Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01,

Đơn vị bảo quản số 1888.

149. Liên khu uỷ Việt Bắc (1950), Tài liệu Hội nghị Cán bộ toàn Liên khu uỷ Việt

Bắc lần thứ nhất từ 4 đến 13-3-1950, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương

Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị

bảo quản số 530.

150. Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Các chỉ thị, báo cáo của Khu hội Nông dân Việt

Bắc 1951, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ

Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1911.

Page 167: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

163

151. Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Khu đoàn mở

rộng và Hội nghị Cán bộ Thanh vận năm 1951, Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01,

Đơn vị bảo quản số 1889.

152. Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Nghị quyết Hội nghị Đảng đoàn các ngành dân

vận Liên khu uỷ Việt Bắc họp thường lệ ngày 7 đến 9-1-1951, Cục Lưu trữ

Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954),

Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 687.

153. Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Tài liệu Đại hội Đảng bộ Liên khu uỷ Việt Bắc

lần thứ nhất tháng 5-1951, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 681.

154. Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Báo cáo của Liên khu uỷ Việt Bắc về công tác

địch hậu năm 1952, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên

khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 842.

155. Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Các chỉ thị, báo cáo của Liên khu uỷ Việt Bắc

năm 1952, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ

Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 835.

156. Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Các chỉ thị, kế hoạch, báo cáo của Khu hội

Nông dân Việt Bắc 1952, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 1913.

157. Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành đoàn Thanh

niên Cứu quốc Liên khu uỷ Việt Bắc mở rộng (1952), Cục Lưu trữ Văn

phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục

số 01, Đơn vị bảo quản số 1891.

158. Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Nghị quyết Hội nghị Cán bộ dân vận Liên khu

uỷ Việt Bắc tháng 5-1952, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 828.

Page 168: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

164

159. Liên khu uỷ Việt Bắc (1953), Các chỉ thị, báo cáo của Liên hiệp công đoàn

Liên khu uỷ Việt Bắc 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 1877.

160. Liên khu uỷ Việt Bắc (1953), Các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, báo cáo của

Khu đoàn Thanh niên Việt Bắc năm 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung

ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01,

Đơn vị bảo quản số 1894.

161. Liên khu uỷ Việt Bắc (1953), Các thông tri, báo cáo của Liên khu uỷ Việt Bắc

năm 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ

Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 959.

162. Liên khu uỷ Việt Bắc (1954), Nghị quyết Hội nghị Tuyên huấn của Liên khu

uỷ Việt Bắc tháng 3-1954, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 1739.

163. Liên khu uỷ X (1948), Thông cáo, công văn của Liên khu uỷ X về tổ chức Ban

Hoa vận Liên khu và phân phát sử dụng muối, Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số

01, Đơn vị bảo quản số 321.

164. Liên khu uỷ X (1949), Nghị quyết Hội nghị Đại biểu Việt Minh toàn Liên khu

X (từ ngày 9 đến ngày 12-3-1949), Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương

Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị

bảo quản số 497.

165. Trần Huy Liệu (1957), Lịch sử 80 năm chống Pháp, quyển I, Nxb Văn Sử Địa,

Hà Nội.

166. Nguyễn Văn Linh (1987), Về công tác quần chúng, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

167. Nguyễn Văn Linh (2009), “Đổi mới nội dung, phương thức vận động quần

chúng”, Tạp chí Dân vận, (8-2009).

Page 169: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

165

168. C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - I.V. Xtalin (1977), Bàn về mối liên hệ giữa

kinh tế, hậu phương, chiến tranh, quân đội và quốc phòng, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

169. Hồ Chí Minh (1949), “Dân vận”, Báo Sự thật, (15-10-1949).

170. Hồ Chí Minh (1953), “Bài phát biểu tại Hội nghị Nông vận và dân vận toàn

quốc”, Báo Nhân dân, (21-5-1953).

171. Hồ Chí Minh (1974), Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

172. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

173. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

174. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

175. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

176. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

177. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

178. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

179. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

180. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

181. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

182. Nguyễn Xuân Minh (1996), An toàn khu (ATK) Trung ương ở Việt Bắc (trong

kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954), Luận án Phó Tiến sĩ Lịch

sử, Đại học Sư phạm Hà Nội.

183. Đỗ Mười (1993), “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân”, Tạp chí Dân vận, ( 12-1993).

184. H.Nava (1958), Đông Dương hấp hối, Nxb Pion, Bản dịch tiếng Việt của Viện

sử học.

185. H.Nava (1979), Thời điểm của những sự thật, Nxb Pion, Bản dịch tiếng Việt

của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, kí hiệu VL/3061.

186. H.Nava (1958), Thư gửi các chiến binh ở Đông Dương, Nxb Pion, Bản dịch

tiếng Việt lưu tại Viện Lịch sử Việt Nam, kí hiệu VL/433.

187. Dương Xuân Ngọc (2005), “Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công

tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Dân vận, (10).

Page 170: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

166

188. Nguyễn Thị Bích Ngọc (2008), An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng

chiến Việt Bắc, Luận văn thạc sĩ lịch sử, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

189. Trịnh Nhu (1996), Về con đường cách mạng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

190. L.A.Pátti (1995), Tại sao Việt Nam ? Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

191. Đặng Phong, Lịch sử kinh tế Việt Nam (1945-2000), tập I (1945-1954), Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

192. Tòng Thị Phóng (2005), “75 năm công tác dân vận của Đảng”, Tạp chí Dân

vận, (10-2005).

193. Phòng Tuyên truyền Liên khu Việt Bắc (1949), 10 trận thắng lớn xuân hạ

1949, Cứu quốc Trung ương, Việt Bắc.

194. Phùng Hữu Phú (Chủ biên) (1996), Chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

195. J.Roy (1994), Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

196. J.Sainteny (2004), Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ (viết năm 1954),

Bản dịch của Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

197. Trương Tấn Sang (2010), “Xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân

dân: Nhân tố quyết định sự vững mạnh của Đảng, làm nên thắng lợi của

cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Dân vận, (1-2-2010).

198. Sở Thông tin Chiến khu IV (1948), Việt Bắc chiến thắng (1948), Sở Thông tin

Chiến khu IV, Khu IV.

199. Lê Trọng Tấn (1984), Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 - Một bước phát

triển sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

200. Văn Tạo (1991), "Việt Minh - Liên Việt - hai mặt trận của một quá trình biết

đánh, biết thắng từng bước trong Cách mạng Việt Nam", Tạp chí Lịch sử

Đảng (4), năm 1991.

201. Âu Thị Hồng Thắm (2013), Tỉnh Bắc Kạn trong Căn cứ địa Việt Bắc từ năm 1942

đến năm 1954, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Khoa học xã hội.

Page 171: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

167

202. Phan Thị Thoa (2011), Hoạt động tài chính ở Liên khu Việt Bắc trong kháng

chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1945-1954), Luận án tiến sĩ lịch

sử, Đại học Sư phạm Hà Nội.

203. Tiểu ban Công vận Khu uỷ X (1947), Báo cáo của Tiểu ban Công vận Khu uỷ

X về tình hình công tác công vận tháng 9, 10 và tình hình chung năm

1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt

Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 31.

204. Tỉnh uỷ Bắc Giang (1948), Báo cáo của Tỉnh uỷ Bắc Giang về tình hình công

tác các tháng, công tác dân vận, tổ chức quần chúng và một số vấn đề

khác năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên

khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 86.

205. Tỉnh uỷ Bắc Giang (1953), Nghị quyết Hội nghị Bảo vệ cầu đường, các đảng

đoàn, công, nông, thanh, phụ vận, Liên Việt tỉnh đội và hội nghị cán bộ

tỉnh Bắc Giang năm 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,

Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo

quản số 981.

206. Tỉnh uỷ Bắc Kạn (1948), Báo cáo của Tỉnh uỷ Bắc Kạn về tình hình Hội bộ

Bắc Kạn về tình hình chính quyền năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số

01, Đơn vị bảo quản số 82.

207. Tỉnh uỷ Bắc Kạn (1949), Báo cáo của Tỉnh uỷ Bắc Kạn về Tổng kết kinh

nghiệm công tác và tình hình mọi mặt trong năm 1949, Cục Lưu trữ Văn

phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục

lục số 01, Đơn vị bảo quản số 169.

208. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Bắc Ninh mọi mặt công tác

năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ

Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 53.

209. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (1948), Báo cáo của Tỉnh uỷ Bắc Ninh về tình hình công tác

dân vận từ Tổng khởi nghĩa tới 31-5-1948, về công tác quý II, III năm

1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt

Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 91.

Page 172: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

168

210. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (1948), Biên bản, nghị quyết Tỉnh uỷ Bắc Ninh triệu tập bàn

về vấn đề giáo vận, vấn đề giải tán Hội tề và một số vấn đề khác năm

1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt

Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 89.

211. Tỉnh uỷ Hải Ninh (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Hải Ninh về tình hình Hoa kiều

và báo cáo tình hình công tác năm 1952, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung

ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn

vị bảo quản số 900.

212. Tỉnh uỷ Phú Thọ (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Phú Thọ về tình hình, kinh

nghiệm phát triển Hội, công tác Hội ở một số huyện hữu ngạn sông Hồng,

về tổ chức hệ thống các cấp chỉ đạo năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số

01, Đơn vị bảo quản số 19.

213. Tỉnh uỷ Phú Thọ (1953), Báo cáo của Tỉnh uỷ Phú Thọ về tình hình công tác

năm và tình hình giáo dân trong năm 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung

ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn

vị bảo quản số 1010.

214. Tỉnh uỷ Quảng Yên (1949), Báo cáo của Tỉnh uỷ Quảng Yên về tình hình địch

vận, tình hình đấu tranh của công nhân và một số vấn đề khác năm 1949,

Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc

(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 214.

215. Tỉnh uỷ Quảng Yên (1954), Báo cáo của Tỉnh uỷ Quảng Yên về tình hình công

tác năm; tình hình địch hậu và một số vấn đề khác trong năm 1954, Cục

Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc

(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1094.

216. Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1949), Báo cáo của Tỉnh uỷ Thái Nguyên về tình hình

công tác dân vận, chính quyền trong tỉnh và một số vấn đề khác năm

1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt

Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 217.

Page 173: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

169

217. Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Thái Nguyên về tình hình

hội, huyện Võ Nhai và một số vấn đề khác năm 1946-1947, Cục Lưu trữ

Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954),

Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 07.

218. Tỉnh uỷ Vĩnh Yên (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Vĩnh Yên về công tác quý III,

IV và báo cáo về tình hình Hội của tỉnh năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng

Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số

01, Đơn vị bảo quản số 25.

219. Tỉnh uỷ Yên Bái (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Yên Bái về tình hình Hội, Mặt

trận, chính quyền và một số công tác khai thác năm 1947, Cục Lưu trữ

Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954),

Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 29.

220. Y.Tsuboi (1990), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nxb Khoa

học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.

221. Uỷ ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc (1951), Bản dự thảo kinh nghiệm công

tác vùng địch (7-1949 đến 4- 1951) của Liên khu Việt Bắc, Hồ sơ 1187,

Tr. 32-33, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.

222. Uỷ ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc (1952), Công văn của Ủy ban kháng

chiến hành chính tỉnh Thái Nguyên về dân phá kho thóc chính phủ và vay

tiền tiếp tế thóc giống cho dân 1952, Hồ sơ 109676, Trung tâm Lưu trữ quốc

gia III.

223. Uỷ ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc (1953), Biên bản các cuộc họp của

Ban Nội chính Liên khu Việt Bắc 1953, Hồ sơ 1.191, Trung tâm Lưu trữ

quốc gia III.

224. Uỷ ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc (1953), Chỉ thị của Ủy ban Kháng

chiến hành chính Liên khu Việt Bắc về xử lý đối với các vụ tham ô năm

1953, Hồ sơ 10977, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.

225. Uỷ ban Kháng chiến hành chính Liên khu I (1948), Báo cáo của Uỷ ban

Kháng chiến hành chính Liên khu I về 1.000 ngày 19-12-1946 đến tháng

5-1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ

Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 74.

Page 174: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

170

226. Uỷ ban Kháng chiến Khu I (1947), Báo cáo của Uỷ ban Kháng chiến Khu I về

tình hình công tác quý IV năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương

Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị

bảo quản số 04.

227. Uỷ ban Mặt trận Liên Việt Liên khu Việt Bắc (1952), Nghị quyết của Uỷ ban

Mặt trận Liên Việt Liên khu Việt Bắc về nhiệm vụ công tác năm và Nghị

quyết Hội nghị Ban Thường trực Uỷ ban Liên Việt khu tháng 11 năm 1952,

Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc

(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1869b.

228. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2000), Biên niên sự kiện lịch

sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (Dự thảo), Hà Nội, Lưu tại Trung

tâm tư liệu, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

229. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2007), 60 năm toàn quốc kháng chiến - Ký

ức lịch sử và bài học kinh nghiệm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, Nxb Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

230. Viện Kinh tế (1966), Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến kháng

chiến thắng lợi (1945-1954), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

231. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2001), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp (1945-1954), Tập I - Chuẩn bị Toàn quốc kháng chiến, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

232. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2005), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp (1945-1954), Tập II - Toàn quốc kháng chiến, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

233. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2009), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp (1945-1954), Tập III - Triển khai kháng chiến toàn diện, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

234. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2011), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp (1945-1954), Tập IV - Bước ngoặt của cuộc kháng chiến, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

Page 175: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

171

235. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp (1945-1954), Tập V - Phát triển thế tiến công chiến lược, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

236. Viện Sử học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2013), Lịch sử Việt

Nam, Tập 10 - Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1950, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

237. Viện Sử học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2014), Lịch sử Việt

Nam, Tập 11 - Lịch sử Việt Nam từ năm 1951 đến 1954, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

238. Viện Sử học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2017), Lịch sử Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

239. Viện Sử học, Lịch sử Việt Nam tập X (1945-1950), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

240. Nguyễn Thị Xuân (2005), Đảng bộ Liên khu IV lãnh đạo xây dựng kinh tế

trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Luận văn thạc sĩ

lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Page 176: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

172

PHỤ LỤC

Page 177: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

173

PHỤ LỤC 1

MỘT SỐ SẮC LỆNH VÀ QUYẾT NGHỊ VỀ LIÊN KHU VIỆT BẮC

SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

SỐ 127-SL NGÀY 4 THÁNG 11 NĂM 1949 CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Chiểu Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 tổ chức Chính quyền nhân dân,

Chiểu Sắc lệnh số 254-SL ngày 19-11-1949 tổ chức Chính quyền nhân

dân trong thời kỳ kháng chiến,

Xét nhu cầu hiện thời và để thực hiện việc gian chinh,

Chiểu đề nghị của Hội đồng Quốc phòng Tối cao,

theo nghị quyết của Hội đồng Chính phủ sau khi Ban thường trực Quốc

hội thoả thuận.

RA SẮC LỆNH: Điều 1- Nay hợp nhất Liên khu 1 và Liên khu 10 thành Liên khu Việt Bắc. Điều 2- Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Liên khu Việt bắc gồm có: - 1 Chủ tịch, - 2 Phó chủ tịch,

- 2 hay 4 uỷ viên, - 1 đến 3 cố vấn. Điều 3- Về phần tổ chức các ngành chuyên môn trong Uỷ ban Kháng

chiến Hành chính Liên khu Việt Bắc, Hội đồng Quốc phòng tối cao có thể tuỳ tình thế và nhu cầu công việc quy định cho thích hợp.

Điều 4- Hội đồng Quốc phòng Tối cao chiểu Sắc lệnh thi hành.

CHỦ TỊCH NƯỚC (Đã ký)

Hồ Chí Minh

Nguồn: Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

Page 178: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

174

SẮC LỆNH

CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

SỐ 128-SL NGÀY 4 THÁNG 11 NĂM 1949

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Chiểu Sắc lệnh số 254-SL ngày 19-11-1949 tổ chức Chính quyền nhân

dân trong thời kỳ kháng chiến,

Chiểu Sắc lệnh số 127 ngày 4 tháng 11 năm 1949 thành lập Liên khu

Việt Bắc,

Chiểu đề nghị của Hội đồng Quốc phòng Tối cao,

Theo quyết nghị của Hội đồng Chính phủ.

RA SẮC LỆNH:

Điều 1- Nay cử các vị có tên sau đây vào Uỷ ban Kháng chiến Liên

khu Việt Bắc:

- Chủ tịch, kiêm Uỷ viên quân sự: Thiếu tướng Chu Văn Tấn:

- Phó Chủ tịch: Ô. Bùi Quang Tạo, Ô. Nguyễn Duy Thần.

- Uỷ viên: Ô. Nguyễn Văn Tuất, Ô. Nguyễn Quang Tạo.

Điều 2- Hội đồng Quốc phòng Tối cao chiểu Sắc lệnh thi hành.

CHỦ TỊCH NƯỚC

(Đã ký)

Hồ Chí Minh

Nguồn: Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

Page 179: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

175

SẮC LỆNH

CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

SỐ 134-SL NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 1949

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

- Chiểu Sắc lệnh số 50-SL ngày 18-6-1949 tổ chức Bộ Quốc phòng;

- Chiểu Sắc lệnh số 53 ngày 22-3-1946 và số 71 ngày 22-5-46 tổ chức

và ấn định quy tắc Quân đội Quốc gia Việt Nam;

- Chiểu Sắc lệnh số 127 ngày 4-11-1949 thành lập Liên khu Việt Bắc;

Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh

Quân đội Quốc gia Việt Nam.

RA SẮC LỆNH:

Điều 1- Nay cử các vị có tên dưới đây sung vào Bộ Tư lệnh quân đội

địa phương và dân quân Liên khu Việt Bắc:

Thiếu tướng Chu văn Tấn: Chính trị uỷ viên;

Đại tá Lê Quang Ba: Tư lệnh Liên khu;

Đại tá Thanh Phong: Phó Tư lệnh Liên khu;

Điều 2- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội Quốc

gia và Dân quân Việt Nam chiểu sắc lệnh thi hành.

CHỦ TỊCH NƯỚC

(Đã ký)

Hồ Chí Minh

Nguồn: Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

Page 180: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

176

ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG

Số: 17/NQ

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

QUYẾT NGHỊ

Về việc sắp xếp và bổ sung cán bộ cho khu XX mới thành lập

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG QUYẾT NGHỊ

1. Khu uỷ khu XX sẽ gồm đồng chí Bùi Quang Tạo làm Bí thư, các

đồng chí Học, Quyết, Trung, Đình, Bằng, Giang và hai Khu uỷ viên nữa

của Liên khu Việt Bắc do Liên khu uỷ Việt Bắc đề nghị.

2. Liên khu uỷ Việt Bắc sẽ điều động giúp cho khu XX

- 4 tỉnh uỷ viên,

- 51 cán bộ huyện (trong số này có thể lấy 30 cán bộ huyện đang học

lớp huấn luyện cán bộ thiểu số của Liên khu uỷ Việt Bắc),

- Một số cán bộ Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn chọn trong số cán bộ cũ

trước công tác ở các ngành, các địa phương hiện đã trở về công tác ở Cao - Bắc -

Lạng.

Ban Liên khu uỷ Việt Bắc và các đồng chí kể trong điểm 1 ở trên, có

nhiệm vụ thi thành Quyết nghị này.

Ngày 15 tháng 7 năm 1952

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG

T/M BAN BÍ THƯ

LÊ VĂN LƯƠNG

(đã ký)

Nguồn: Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

Page 181: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

177

PHỤ LỤC 2

LƯỢC ĐỒ CÁC CHIẾN DỊCH LỚN TRONG KHÁNG CHIẾN

CHỐNG THỰC DÂN PHÁP TRÊN ĐỊA BÀN LIÊN KHU VIỆT BẮC CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947

(Từ ngày 7-10 đến ngày 20-12-1947)

Nguồn: Bảo tàng Quân khu 1

Page 182: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

178

CHIẾN DỊCH CAO - BẮC - LẠNG (Từ ngày 15-3 đến ngày 30-4-1949)

Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên

Page 183: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

179

CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU - ĐÔNG 1950 (Từ ngày 16-9 đến ngày 17-10-1950)

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt

Page 184: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

180

CHIẾN DỊCH TÂY BẮC (Từ ngày 14-10 đến ngày 10-12-1952)

Nguồn: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam

Page 185: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

181

CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ (Từ ngày 13-3 đến ngày 7-5-1954)

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam

Page 186: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

182

PHỤ LỤC 3

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÔNG TÁC DÂN CÔNG

TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

Dân công các tỉnh đồng bằng vận tải lương thực, vũ khí lên chiến dịch Nguồn: Bảo tàng Biên phòng

Page 187: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

183

Đoàn xe đạp thồ vận chuyển vũ khí, lương thực cho chiến dịch Biên Giới Nguồn: Bảo tàng Lịch Sử Quân Sự Việt Nam

Dân công vận chuyển lương thực, vũ khí phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam

Page 188: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

184

Đại đội dân công xe đạp thồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Lịch Sử Quân Sự Việt Nam

Dân công và bộ đội khiêng phụ tùng xe máy vượt gần 100km để lắp thành xe ôtô phục vụ chiến dịch giải phóng Điện Biên

Nguồn: Bảo tàng Quân khu 1

Page 189: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

185

Dân công dùng bè mảng chở xăng dầu phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Hậu cần

Dân công tiếp vận chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam

Page 190: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

186

Từng mảng bè vượt ghềnh thác, chở lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam

Dân công Cao - Bắc - Lạng vận chuyển lương thực ra mặt trận Nguồn: Bảo tàng Văn hoá các Dân tộc Việt Nam

Page 191: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

187

Xe trâu vượt dốc chở lương thực ra mặt trận Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Ngựa thồ trong chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Page 192: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

188

Đồng bào Thái gùi gạo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam

Đồng bào H’Mông đi dân công góp sức cho chiến dịch giải phóng Điện Biên Nguồn: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

Page 193: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

189

Đồng bào thiểu số Tạ Khoa phục vụ thương binh tại Đội điều trị I, Điện Biên Phủ

Nguồn: Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam

Xưởng may quân nhu phục vụ chiến sĩ giải phóng Điện Biên Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Page 194: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

190

Công binh và dân công chặt cây mở đường cho chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Page 195: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

191

Dân công sửa đường để đưa những chiến sĩ bị thương về hậu phương Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Page 196: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

192

Mở đường vào Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Page 197: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

193

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ

Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Page 198: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

194

Xe đạp thồ của ông Bùi Tín, dùng để vận chuyển trong chiến dịch Điện Biên Phủ đạt trọng tải từ 80kg đến 213kg

Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Page 199: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

195

Xe cút kít của ông Trịnh Đình Bầm, đạt thành tích 280kg/chuyến tiếp vận chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Page 200: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

196

Chiếc xe đạp thồ của ông Trịnh Ngọc, đạt kỷ lục với tải trọng 345,5kg, chở nặng nhất bằng xe đạp thồ trong chiến dịch Điện Biên

Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Page 201: C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI DŨNGhcma.vn/Uploads/2018/1/12/vu_thai_dung_la.pdf · kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng

197

Các chiến sỹ Điện Biên Phủ bên cạnh chiếc xe thồ trưng bày tại triển lãm "Điện Biên Phủ - một thiên sử vàng" Nguồn: Bảo tàng Quân khu 4