các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu trái Đất...

18
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÁI ĐẤT 1. Các tác nhân tự nhiên Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu trên Trái Đất trước hết là do thành phần của hệ thống khí hậu thay đổi như bức xạ Mặt Trời và đặc điểm của bề mặt đệm và những nhân tố vũ trụ. Nếu coi khí quyển, đại dương và bề mặt đất như là những nhân tố bên trong của hệ thống khí hậu, thì những nhân tố trong lòng Trái Đất và bên ngoài Trái Đất là nhân tố bên ngoài của hệ thống khí hậu. Bởi vậy, những biến đổi khí hậu của hằng số Mặt Trời, quỹ đạo Trái Đất xung quanh Mặt Trời, sự phun trào núi lửa… tất cả được coi là những nhân tố bên ngoài. 1.1. Nhân tố Mặt Trời, mối tương quan giữa Mặt Trời và Trái Đất - Trong thời kì tồn tại của Trái Đất, lượng bức xạ của Mặt Trời thay đổi, tất nhiên khí hậu biến đổi. Lượng bức xạ Mặt trời và sự phân bố của nó trên bề mặt Trái Đất, không thể không thay đổi. Tâm sai của quỹ đạo Trái Đất dao động với chu kì 92.000 năm và do đó khoảng cách giữa trái đất và mặt trời cũng biến đổi theo. Trục trái đất nghiêng với mặt phẳng hoàng đạo với chu kì là 40.000 năm : độ nghiêng càng nhỏ thì bức xạ mặt trời tới vùng cực càng nhỏ. - Do các nguyên nhân trên, lượng nhiệt tiếp thu được ở mỗi khu vực trên bề mặt Trái Đất biến đổi không giống nhau : ở các vĩ độ cao biến đổi nhiều hơn vĩ độ thấp. VD : khi trục Trái Đất nghiêng với hoàng đạo 10 thì trị số năm bức xạ mặt trời ở vĩ độ 800B tăng lên 4,02%, còn ở 00 giảm 0,35%. - Hoạt động của mặt trời tăng, bức xạ cực tím tăng lên. Tuy nó

Upload: lang1234

Post on 27-Jul-2015

1.172 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÁI ĐẤT

1. Các tác nhân tự nhiên

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu trên Trái Đất trước hết là do thành phần của hệ thống khí hậu thay đổi như bức xạ Mặt Trời và đặc điểm của bề mặt đệm và những nhân tố vũ trụ.

Nếu coi khí quyển, đại dương và bề mặt đất như là những nhân tố bên trong của hệ thống khí hậu, thì những nhân tố trong lòng Trái Đất và bên ngoài Trái Đất là nhân tố bên ngoài của hệ thống khí hậu. Bởi vậy, những biến đổi khí hậu của hằng số Mặt Trời, quỹ đạo Trái Đất xung quanh Mặt Trời, sự phun trào núi lửa… tất cả được coi là những nhân tố bên ngoài.

1.1. Nhân tố Mặt Trời, mối tương quan giữa Mặt Trời và Trái Đất

- Trong thời kì tồn tại của Trái Đất, lượng bức xạ của Mặt Trời thay đổi, tất nhiên khí hậu biến đổi. Lượng bức xạ Mặt trời và sự phân bố của nó trên bề mặt Trái Đất, không thể không thay đổi. Tâm sai của quỹ đạo Trái Đất dao động với chu kì 92.000 năm và do đó khoảng cách giữa trái đất và mặt trời cũng biến đổi theo. Trục trái đất nghiêng với mặt phẳng hoàng đạo với chu kì là 40.000 năm : độ nghiêng càng nhỏ thì bức xạ mặt trời tới vùng cực càng nhỏ.

- Do các nguyên nhân trên, lượng nhiệt tiếp thu được ở mỗi khu vực trên bề mặt Trái Đất biến đổi không giống nhau : ở các vĩ độ cao biến đổi nhiều hơn vĩ độ thấp. VD : khi trục Trái Đất nghiêng với hoàng đạo 10 thì trị số năm bức xạ mặt trời ở vĩ độ 800B tăng lên 4,02%, còn ở 00 giảm 0,35%.

- Hoạt động của mặt trời tăng, bức xạ cực tím tăng lên. Tuy nó không làm trạng thái nhiệt của tầng đối lưu biến đổi mà tác động đến khí hậu thông qua các quá trình trung gian. Các phân tử oxy ở tầng cao của khí quyển, do tác động của bức xạ cực tím, liên kết với nhau thành ozôn và ozon lại hấp thụ bức xạ nhiệt của Trái Đất. Như vậy lượng bức xạ cực tím làm tăng nhiệt của bề mặt Trái Đất.

- Bức xạ cực tím có thể tạo thành các hạt nhân ngưng kết ở trên cao, đó là các phân tử hút ẩm. Vậy bức xạ sóng ngắn của mặt trời biến thế năng thành động năng. Từ đó hoàn lưu khí quyển mạnh lên, đặc biệt là hoàn lưu kinh hướng và kết quả cuối cùng là nhiệt độ ở vĩ độ cao tăng còn ở vĩ độ thấp giảm.

1.2. Nhân tố bụi trong không khí

- Lượng bức xạ mặt trời tới bề mặt Trái Đất phụ thuộc vào trạng thái của khí quyển.

Page 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

- Bụi núi lửa bốc lên nhưng rơi xuống chậm (trong một vài năm) có ý nghĩa khí hậu rất quan trọng. Những hạt bụi nhỏ ít giữ nhiệt của Trái Đất, nhưng lại làm tăng bức xạ khuếch tán, do đó làm tăng anbedo của Trái Đất, do đó bức xạ giảm đi

- Bức xạ khuếch tán càng tăng thì chiều dài đường đi của tia bức xạ càng lớn, vì vậy bức xạ ở vĩ độ cao bị tiêu hao nhiều hơn ở vĩ độ thấp, về mùa đông nhiều hơn mùa hè. Như vậy, lượng bụi của núi lửa trong khí quyển biến đổi giải thích hiện tượng lạnh đi của khí hậu.

1.3. Nhân tố bề mặt đệm

1.3.1. Lớp băng vĩnh cửu

- Khi đề cập đến ảnh hưởng của bề mặt đệm đến biến đổi khí hậu thì không thể không chú ý đến băng lục địa và băng biển.

- Sự hình thành băng một mặt do liên quan với khí hậu, mặt khác nó lại ảnh hưởng lớn đến khí hậu. Nơi nào mà lớp phủ băng thâm nhập đến thì nơi đó nhiệt độ hạ xuống và sẽ tạo điều kiện cho băng hà phát triển. Bề mặt băng có khả năng bức xạ nhiệt mạnh, ngược lại hấp thụ nhiệt yếu do đó nhiệt độ sẽ giảm nhanh.

- Giả thiết nếu đưa khối băng ở Bắc Cực đi thì nhiệt độ ở phía bắc của vĩ tuyến 70 oB sẽ tăng lên 7 oC; ở khu vực chí tuyến lên 1 oC và ở gần Nam Cực lên từ 1 – 3 oC. Nếu giả thiết là khối băng ở Nam Cực thì nhiệt độ tăng lên đến 15 oC

1.3.2. Địa hình bề mặt.

- Diện tích đại dương, lục địa có ảnh hưởng đến khí hậu ở trên quy mô hành tinh. VD : nếu tăng diện tích lục địa ở vĩ độ cao thì nhiệt độ không khí ở trên trái đất sẽ giảm đi và ngược lại.

- Ảnh hưởng của địa hình đến khí hậu rất rõ vì ở trên núi cao khí quyển loãng, hơi nước và bụi ít do đó nhiệt độ mất nhiều. Nếu núi ở trên Trái Đất cũng nhiều và càng cao thì nhiệt độ càng thấp. Nếu địa hình hiện tại được san bằng thì nhiệt độ không khí giảm xuống 0,70C. Trong các thời kì tạo núi nhiệt độ giảm xuống.

- Các sườn núi đón gió nhận được lượng mưa lớn hơn so với sườn khuất gió. Tốc độ gió ở sườn đón gió lớn hơn sườn khuất gió. Ở sườn khuất gió, có gió lặng và thường xuất hiện các xoáy nhỏ.

1.3.3. Lớp phủ thực vật

- Lớp phủ thực vật làm cho quá trình trao đổi nhiệt và ẩm ở lớp không khí sát mặt đất rất phức tạp. Lớp phủ thực vật ngắn giữ bức xạ mặt trời. VD : các cánh đồng lúa có thể ngăn đến 10 – 20% lượng bức xạ tới. Nhưng lớp phủ bề mặt lại ngăn bức xạ nhiệt của bề mặt. Vì vậy, dưới lớp phủ nhiệt độ giảm, biên độ dao động nhỏ.

- Bốc hơi trên lớp phủ thực vật lớn nhưng sự trao đổi ẩm nhỏ nên độ ẩm không khí trong tầng

Page 3: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

thực vật lớn

- Aûnh hưởng của rừng đối với khí hậu cũng giống như của lớp thảm cỏ nhưng với quy mô lớn hơn. Rừng rậm chỉ cho qua 2 – 7% lượng bức xạ tới. Thời gian chiếu sáng giảm có khi chỉ còn 5 – 7 giờ trong một ngày. Do đó, về mùa đông trong rừng ấm hơn còn mùa hè mát hơn. Độ ẩm không khí trong rừng cao hơn ngoài cánh đồng trống.

1.3.4. Thủy văn

- Thủy văn có ảnh hưởng lớn đến khí hậu, nhất là những vùng có diện tích bề mặt nước lớn.

- Dưới tác động của nhiệt làm bốc hơi nước, những khu vực có diện tích mặt nước lớn thì lượng hơi nước càng nhiều, làm cho độ ẩm không khí tăng cao, lượng mưa lớn và nhiệt độ giảm thấp hơn những nơi khác.

2. Nhân tố con người

- Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu toàn cầu như hiện nay chính là sự tăng lên không ngừng như hiện nay chính là do tác động của con người đối với môi trường tự nhiên gây nên hiệu ứng nhà kính (hiện tượng không thể phản hồi nhiệt của trái đất vào vũ trụ). Nhiệt độ của khí quyển tăng là do lượng CO2 mà con gnười tạo ra trong quá trình đốt nhiên liệu và sử dụng quá nhiều hóa chất .

- Một trong những nguyên nhân chính là sự tăng lên không ngừng của các loại khí gây hiệu ứng nhà kính như CFC, CO2, CH4, … được tạo ra trong quá trình sản xuất cũng như sinh hoạt của con người.

- Bức xạ nhiệt của mặt trời là bức xạ sóng ngắn nên dễ dàng xuyên qua bầu khí quyển đến mặt đất, ngược lại bức xạ nhiệt từ mặt đất vào vũ trụ lại là bức xạ sóng dài nên không có khả năng xuyên qua lớp khí CO2 dày và bị CO2 với nước trong khí quyển hấp thụ. Như vậy lượng nhiệt trên sẽ làm cho nhiệt độ bầu khí quyển bao quanh trái đất tăng lên. Lớp khí CO2, NOx, CH4, CFC bao phủ quanh trái đất giống như một tấm kính chắn giữ nhiệt lượng của trái đất tỏa ngược vào vũ trụ, làm cho khí hậu toàn cầu ngày càng tăng lên

- Sự nóng lên của khí hậu toàn cầu có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọngBăng tan tại hai cực sẽ làm cho mực nước biển tăng cao, dẫn đến nguy cơ làm mất đi những vùng duyên hải thấp ven biển hay những đảo nổi trên biển.

Page 4: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

Sông ngòi Việt Nam

Với mục đích giúp mọi người biết rõ hơn về các "con sông quê hương". Tôi xin giới thiệu với các bạn các bài viết về một số con sông chảy qua lãnh thổ Việt Nam.

1. SÔNG HỒNG

Sông Hồng dài 1.149 km chảy từ Trung Quốc qua Việt Nam đổ ra biển Đông. Đoạn chảy trên đất Việt Nam dài 510 km.

Tên gọi Còn có các tên gọi khác như Hồng Hà (Tiếng Hoa: 紅河 Honghe), hay sông Cái (người Pháp đã phiên tên gọi này thành Song-Koï). Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc được gọi là Nguyên Giang (元江, pinyin yuan2 jiang1), đoạn đầu nguồn có tên là Lễ Xã Giang (禮社江). Đoạn từ Lào Cai đến Việt Trì gọi là Sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là Nhĩ Hà hoặc Nhị Hà.

Dòng chảy và lưu lượng Hệ thống sông Hồng tại Việt Nam.Sông Hồng bắt nguồn từ dãy Ngụy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung

Page 5: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

Quốc ở độ cao 1.776 m. Chủ yếu nó chảy theo hướng tây bắc-đông nam, qua huyện tự trị Nguyên Giang của người Thái (傣 Dăi), Di (彞), Cáp Nê (哈尼 Hani, ở Việt Nam gọi là người Hà Nhì) trước khi sang Việt Nam ở thị trấn Hà Khẩu (Trung Quốc), giáp giới với thành phố Lào Cai của Việt Nam, rồi chảy qua phía đông thủ đô Hà Nội trước khi đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt (ranh giới giữa hai tỉnh Thái Bình và Nam Định). Đồng bằng sông Hồng nằm trên lưu vực con sông này. Các sông nhánh chính của sông Hồng có thể kể đến là sông Đà, sông Lô (với phụ lưu là sông Chảy và sông Gâm). Sông Hồng có phân lưu phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội đến Phả Lại thuộc Hải Dương và sông Luộc chảy từ Hưng Yên đến huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Hai sông này nối sông Hồng với hệ thống sông Thái Bình. Phân lưu phía hữu ngạn là sông Đáy và sông Đài (còn gọi là Lạch Giang), nối sông Hồng và sông Đáy là hai sông Phủ Lý và sông Nam Định. Ở Trung Quốc, các sông như sông Lý Tiên (tức sông Đà), sông Đăng Điều (tức sông Nậm Na), sông Bàn Long (tức sông Lô) và sông Phổ Mai (tức sông Nho Quế) cùng một số sông nhỏ khác như sông Mễ Phúc, sông Nam Khê chảy qua biên giới hai nước vào Việt Nam.

Sông Hồng có lưu lượng nước bình quân hàng nǎm rất lớn, tới 2.640 m³/s với tổng lượng nước chảy qua tới 83,5 tỷ m³, tuy nhiên lưu lượng nước phân bổ không đều. Về mùa khô lưu lượng giảm chỉ còn khoảng 700 m³/s, nhưng vào cao điểm mùa mưa có thể đạt tới 30.000 m³/s.

Lợi ích và những vấn đề chính Nước sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ-hồng do phù sa mà nó mang theo, đây cũng là nguồn gốc tên gọi của nó. Lượng phù sa của sông Hồng rất lớn, trung bình khoảng 100 triệu tấn trên nǎm tức là gần 1,5 kg phù sa trên một mét khối nước.

Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ ở vùng duyên hải thuộc hai tỉnh Thái Bình, Nam Định. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ.

Vấn đề lũ lụt và hệ thống đê điều chống lũ lụt cũng là một sự kiện to lớn mà chính phủ Việt Nam cũng như những người dân sống trong khu vực con sông này chảy qua phải để tâm. Tuy nhiên về mùa khô thì vấn đề lại là thiếu nước do khô hạn có thể xảy ra bởi những hậu quả do hiện tượng chặt phá rừng phòng hộ đầu nguồn.

Trong khuôn khổ hợp tác khoa học giữa Trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng (thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Việt Nam) và Viện Địa lý tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), Hội thảo lần thứ 3 về "Phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường lưu vực sông Hồng - Nguyên Giang" đã được tiến hành trong hai ngày 31 tháng 10 và 1 tháng 11 năm 2001 tại Hải Phòng, Việt Nam.

Khai thác thuỷ điện Nguồn thuỷ năng trong lưu vực sông Hồng tương đối dồi dào, điều kiện khai thác thuận lợi nhất là công trình trên sông nhánh, cho đến nay đã xây dựng các trạm thuỷ điện sau:

Các trạm phát điện có công suất lắp máy dưới 10.000 kW tổng cộng là 843 với tổng công suất

Page 6: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

lắp đặt là 99.400 kW và 1 trạm thuỷ điện loại vừa ở Lục Thuỷ Hà có công suất 57.500 kW, như vậy mới khai thác chưa đến 5% khả năng thuỷ điện có thể khai thác trong lưu vực. Tổng công suất các trạm thuỷ điện trong lưu vực có thể khai thác đạt 3.375 triệu kW trong đó dòng chính sông Hồng chỉ chiếm 23% còn 77% tập trung ở các sông nhánh.

Nét nổi bật về khai thác thuỷ điện lưu vực sông Hồng là:

Tập trung khai thác thuỷ điện trên các sông nhánh có đầu nước cao lưu lượng nhỏ, kiểu đường dẫn chuyển nước sang lưu vực địa hình thấp là kinh tế nhất. Dòng chính sông Hồng chảy theo đường thẳng, ít gấp khúc và chêch lệch thuỷ đầu tập trung không nhiều vì vậy phần lớn khai thác kiểu thuỷ điện sau đập, có nhiều khó khăn vì núi cao khe sâu phải làm đập cao để tạo đầu nước sẽ không kinh tế. Các thuỷ điện trên sông nhánh thường xa khu dân cư và đất canh tác rất phân tán, làm thế nào để công trình thuỷ điện đồng thời kết hợp cấp nước cho sản xuất và đời sống của nông dân là vấn đề cần nghiên cứu giải quyết đạt hiệu ích kinh tế. Các tỉnh, thành phố chảy qua Lào Cai,Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình Các cây cầu :Thăng Long, Nhật Tân (dự án), Tứ Liên (dự án), Long Biên, Chương Dương, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Việt Trì.2. SÔNG MÊ KÔNG

Sông Cửu Long, hay Cửu Long Giang (chữ Hán: 九龍江), là tên gọi chung cho các đoạn sông thuộc về sông Mê Kông chảy trên lãnh thổ của Việt Nam.

Sông Mê Kông là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới. Tính theo độ dài nó đứng thứ 12 (thứ 7 tại châu Á), còn tính theo lưu lượng nước nó đứng thứ 10 trên thế giới (lưu lượng hàng năm đạt khoảng 475 tỷ m³). Lưu lượng trung bình 13.200 m³/s, vào mùa nước lũ có thể lên tới 30.000 m³/s. Lưu vực của nó rộng khoảng 795.000 km² (theo số liệu của Ủy ban sông Mê Kông) hoặc hơn 810.000 km² (theo số liệu của Encyclopaedia Britannica 2004). Từ Tây Tạng nó chảy qua tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Các quốc gia kể trên (trừ Trung Quốc) nằm trong Ủy ban sông Mê Kông. Giao thông bằng đường thủy trên sông Mê Kông gặp nhiều khó khăn do dòng chảy bị thay đổi nhiều theo mùa, các đoạn chảy xiết và các thác nước cao

Page 7: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

Dòng chảy

Cảnh sông Mê Kông trước hoàng hôn tại biên giới Lào-Thái Lan Đầu nguồn của dòng sông đến nay chưa xác định rõ, do vậy độ dài chính xác của nó cũng không chắc chắn vì lý do chính là sự tồn tại của một số sông nhánh trong những khu vực mà con người chưa thể đặt chân đến. Những nhà thám hiểm Trung Quốc tin rằng đầu nguồn của con sông này nằm ở núi Cát Phú (吉富; Jifu)

thuộc huyện Tạp Đa (杂多; Bính âm: Záduō), châu tự trị dân tộc Tạng Ngọc Thụ (玉樹; Bính âm: Yùshù), tỉnh Thanh Hải ở phía tây bắc Trung Quốc, với độ cao trung bình khoảng 5.200 m trên mực nước biển. Cuộc thám hiểm sớm hơn do Michel Peissel dẫn đầu thì cho rằng đầu nguồn của nó nằm ở trung tâm của hẻm núi Rupsa-La (xa hơn về phía tây, tại độ cao 4.975 m). Các con số về độ dài của nó do vậy dao động trong khoảng 4.350-4.909 km.

Gần một nửa chiều dài con sông này chảy trên lãnh thổ Trung Quốc, ở đó đoạn đầu nguồn nó được gọi là Dza Chu trong tiếng Tây Tạng tức Trát Khúc (扎曲; Bính âm: Zā Qū), và nói chung

được gọi là Lan Thương Giang trong tiếng Hán (瀾滄江; Bính âm: Láncāng Jiāng; Wade-Giles: Lan-ts'ang Chiang), có nghĩa là "con sông cuộn sóng". Trát Khúc hợp lưu với một nhánh khác tên là Ngang Khúc (扎曲; Bính âm: Áng Qū) ở gần Xương Đô (昌都; Bính âm: Chāngdū) tạo ra Lan Thương Giang. Phần lớn đoạn sông này có các hẻm núi sâu, và con sông này rời Trung Quốc khi độ cao chỉ còn khoảng 500 m so với mực nước biển.

Sau đó, đoạn sông Mê Kông dài khoảng 200 km tạo thành biên giới giữa hai nước Myanma và Lào. Tại điểm cuối của biên giới, con sông này hợp lưu với sông nhánh Ruak tại Tam giác vàng. Điểm này cũng là điểm phân chia phần Thượng và phần Hạ của Mê Kông.

Sông Mê Kông sau đó tạo thành biên giới của Lào và Thái Lan, trước khi dòng chảy chạy vào đất Lào. Nó được người Lào và người Thái gọi với tên Mènam Khong (Mènam nghĩa là "sông"). Sử Việt Nam thì gọi là Sông Khung. Khoảng sông ở Lào đặc trưng bởi các hẻm núi sâu, các dòng chảy xiết và những vũng nước sâu khoảng nửa mét vào mùa khô. Nó mở rộng ra ở phía nam Luang Prabang, ở đó nó có thể rộng tới 4 km và sâu tới 100 mét, mặc dù dòng chảy của nó vẫn rất trái ngược nhau.

Con sông này sau đó lại làm biên giới của Lào và Thái Lan trong đoạn chảy qua Viêng Chăn, sau

Page 8: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

đó lại là một đoạn ngắn chảy trên đất Lào. Ở đoạn này có chi lưu chính hữu ngạn từ Thái Lan đổ vào: Mènam Mun dài 750 km. Nó bao gồm cả khu vực Si Phan Đôn (bốn ngàn đảo) phía trên thác Khone gần biên giới Campuchia. Thác nước này dài 15 km, cao 18 m khá hùng vĩ và gần như không thể vượt qua đối với giao thông bằng đường thủy.

Tại Campuchia, con sông này có tên là sông Mékôngk hay Tông-lê Thơm (sông lớn). Vùng nước chảy xiết Sambor phía trên Kratie là cản trở giao thông cuối cùng. Ở phía trên Phnom Penh nó hợp lưu với Tông-lê Sáp, con sông nhánh chính của nó ở Campuchia. Vào mùa lũ, nước chảy ngược từ sông Mê Kông vào Tông-lê Sáp.

Bắt đầu từ Phnôm Pênh, nó chia thành 2 nhánh: bên phải là sông Bát Sắc (sang Việt Nam gọi là Hậu Giang hay sông Hậu) và bên trái là Mê Kông (sang Việt Nam gọi là Tiền Giang hay sông Tiền), cả hai đều chảy vào khu vực đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ Việt Nam, dài chừng 220-250 km mỗi sông. Tại Việt Nam, sông Mê Kông còn có tên gọi là sông Lớn, hay sông Cửu Long.

Sông Cửu Long tại Việt NamLưu lượng hai sông này rất lớn, khoảng 6.000 m³/s về mùa khô, lên đến 120.000 m³/s vào mùa mưa, và chuyên chở rất nhiều phù sa bồi đắp đồng bằng Nam Bộ.

Sông Tiền có lòng sông rộng với nhiều cù lao ở giữa dòng, chảy qua Tân Châu (Châu Đốc), Hồng Ngự và Cao Lãnh đến Cai Lậy thì chia làm bốn sông đổ ra biển bằng sáu cửa: Sông Mỹ Tho, chảy qua tỉnh lỵ tỉnh Tiền Giang là thành phố Mỹ Tho và phía nam Gò Công, ra biển bằng Cửa Tiểu qua đường sông Cửa Tiểu và Cửa Đại qua đường sông Cửa Đại. Sông Ba Lai chảy qua phía bắc tỉnh Bến Tre (tên cũ Kiến Hòa), ra Cửa Ba Lai. Sông Hàm Luông, chảy qua phía nam tỉnh Bến Tre, ra Cửa Hàm Luông. Sông Cổ Chiên, làm thành ranh giới tỉnh Bến Tre-Trà Vinh (Vĩnh Bình), đổ ra biển bằng Cửa Cổ Chiên và Cửa Cung Hầu. Sông Hậu chảy qua Châu Phú (Châu Đốc), Long Xuyên (An Giang), Cần Thơ, Trà Ôn, Long Phú, và đổ ra biển bằng ba cửa: Cửa Định An, Cửa Ba Thắc', Cửa Tranh Đề. Do chín cửa sông này mà sông Mê Kông còn được gọi là sông Cửu Long, tức sông chín rồng. Hiện nay đoạn sông Hậu chảy ra biển chỉ còn 2 cửa là Tranh Đề và Định An. Khoảng 90 triệu người dân có cuộc sống dựa vào con sông này.

Lịch sửSự khó khăn về giao thông thủy của con sông này làm chia cắt con người sống hai bên bờ hơn là liên kết họ. Nền văn minh được biết sớm nhất là nền văn hóa Mã Lai, Ấn Độ hóa hồi thế kỷ 1, của Vương quốc Phù Nam, trong lưu vực sông Mê Kông. Sự khai quật ở Óc Eo, gần Rạch Giá ngày nay, đã tìm thấy những đồng tiền khác xa với Đế chế La Mã. Vương quốc Phù Nam được nối tiếp bởi quốc gia Khmer Chân Lạp (Chenla) cho đến thế kỷ 5. Đế chế Khmer Angkor là quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cuối cùng trong khu vực. Sau khi quốc gia này bị tiêu diệt sông Mê Kông đã là đường biên giới của các quốc gia đối đầu nhau như Xiêm và Việt Nam, với Lào và Campuchia nằm trong tầm ảnh hưởng của họ.

Người châu Âu đầu tiên thám hiểm sông Mê Kông là người Bồ Đào Nha có tên là Antonio de Faria vào năm 1540; bản đồ của người châu Âu năm 1563 có vẽ lại con sông này, mặc dù chỉ có một đoạn nhỏ ở khu vực đồng bằng châu thổ. Sự quan tâm của người châu Âu không có chung mục đích: những người Tây Ban Nha và người Bồ Đào Nha chỉ thực hiện những cuộc thám hiểm

Page 9: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

nhằm mục đích truyền giáo và buôn bán, trong khi đó người Hà Lan Gerrit van Wuysthoff đã dẫn đầu một cuộc thám hiểm đến tận Viêng Chăn (1641-1642).

Người Pháp có sự quan tâm đặc biệt tới khu vực này vào giữa thế kỷ 19, sau khi chiếm đóng Sài Gòn năm 1861 và áp đặt sự bảo hộ Campuchia năm 1863.

Cuộc thám hiểm có hệ thống đầu tiên diễn ra năm 1866-1868 bởi người Pháp là Ernest Doudard de Lagrée và Francis Garnier. Họ đã phát hiện ra rằng Mê Kông có quá nhiều thác nước và những chỗ chảy xiết để có thể coi là có lợi trong giao thông thủy.

Từ năm 1893, người Pháp mở rộng quyền kiểm soát của họ đối với con sông này tới tận Lào bằng việc thiết lập ra Liên bang Đông Dương trong những năm đầu tiên của thế kỷ 20. Điều này đã chấm dứt sau Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc và người Mỹ can thiệp vào khu vực.

Sau Chiến tranh Việt Nam, những bất đồng giữa Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc khi đó đã hạn chế sự hợp tác của các bên trong việc khai thác tiềm năng của dòng sông này. Tuy nhiên, hiện nay các bên đã xích lại gần nhau hơn trong vấn đề này.

Các vấn đề Có hai vấn đề chính gây mâu thuẫn giữa các bên là việc xây dựng các con đập hay việc phá hủy những chỗ chảy xiết.

Một loạt các đập đã được xây dựng trên các nhánh của dòng sông này, đáng kể nhất là đập Pak Mun tại Thái Lan. Nó bị công kích dữ dội do chi phí cao cũng như ảnh hưởng xấu tới môi trường và tới cuộc sống của những khu dân cư chịu ảnh hưởng.

Người Trung Quốc hiện đang tiến hành một chương trình lớn về xây dựng các đập trên sông: họ đã hoàn thành các đập tại Mạn Loan (漫湾), Đại Triều Sơn (大朝山), Cảnh Hồng (景洪), đang

tiến hành xây đập Tiểu Loan (小湾 Xiaowan) và khoảng hơn một chục đập khác đang được nghiên cứu. Người ta lo ngại rằng các đập này sẽ ngăn cản chuyển động của trầm tích và sẽ gây thiệt hại cho nông nghiệp và nghề cá ở phía hạ lưu. Sự giảm đi của các dao động mức nước theo mùa cũng sẽ ảnh hưởng mạnh đến Tông-lê Sáp và biển Hồ.

Các chính phủ Lào và Campuchia cũng có kế hoạch xây dựng các đập ngăn nước, hiện đang bị một số người phản đối.

Chính quyền Trung Quốc cũng thực hiện việc làm sạch các tảng đá và cồn cát từ dòng chảy để tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông, và điều này cũng khuyến khích Lào làm như vậy. Các nhà môi trường cho rằng điều này sẽ làm tăng sự lưu thông nước và kết quả của nó là sự gia tăng xói mòn cũng như gây thiệt hại cho nguồn cá.

Con người Ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long (tổng diện tích khoảng 3,3 triệu hecta đất nông nghiệp) khi chảy vào Việt Nam, có khoảng 17 triệu người đang sinh sống vào thời điểm đầu 2006, tăng 5 triệu so với 16 năm trước đó.

Page 10: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

Trong số họ, có khoảng 9,5 triệu người trong độ tuổi lao động (trên 15 tuổi), hay 55%.

Các động vật quý hiếm Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới (WWF) cho biết: các nhà khoa học sẽ tìm kiếm các sinh vật như cá úc, cá trê, cá đuối gai độc khổng lồ, cá nhái răng nhọn, cá chép lớn, cá tầm (để làm trứng cá muối) và cá hồi ăn thịt ở sông Mê Kông – các loài cá này có thể nặng tới hơn 90 kg và dài hơn 1,80 mét.

Zed Hogan, phụ trách dự án do WWF và Hội địa lý quốc gia tài trợ cho biết, các động vật này là "độc nhất" và "đang biến mất với tốc độ nhanh chóng".

Theo Hogan, khi nghiên cứu cá úc khổng lồ ở sông Mê Kông, Campuchia, các nhà khoa học sẽ theo dõi sự di chuyển của cá với hy vọng hiểu thêm về hướng di trú của chúng và nguyên nhân chúng bị chết. Sự biến mất các loài cá này là dấu hiệu đầu tiên cảnh báo tình trạng đánh bắt quá mức hoặc các xáo trộn khác ở các sông, hồ nơi chúng cư trú.

Một số sinh vật khổng lồ nước ngọt được ghi vào sách đỏ các loài đang bị đe dọa của Hiệp hội Bảo tồn Thế giới.

Cá úc khổng lồ sông Mê Kông được coi là loài cá nước ngọt lớn nhất cùng họ với loài cá nhám chó, đã được đưa vào danh sách những loài bị đe dọa vào năm 2003, sau khi nghiên cứu chỉ ra số lượng cá giảm ít nhất 80% trong hơn 13 năm qua.

Robin Abell, nhà sinh học của WWF cho biết: "Các loài cá khổng lồ là những sinh vật nước ngọt có trọng lượng tương đương với voi và tê giác và nếu chúng biến mất thì thế giới sẽ bất ổn. Cuối cùng, chúng ta sẽ nhận thức tốt hơn về cách quản lý việc đánh bắt và bảo vệ các nơi cư trú nhằm cứu vớt các loài trong tương lai". (Nguồn: Associated Press, tháng 11 năm 2004) 3. SÔNG HƯƠNG

Sông Hương hay Hương Giang (Hán Nôm 香江) là con sông chảy qua thành phố Huế ở tỉnh Thừa Thiên-Huế, miền Trung Việt Nam.

Sông Hương có hai nguồn chính và đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn. Dòng Tả Trạch chảy từ dãy Trường Sơn Đông về phía tây bắc với 55 thác nước hùng vĩ, sau đó chảy chậm qua ngã ba sông Bằng Lãng. Hữu Trạch ngắn hơn và là nhánh phụ, chảy qua 14 thác nguy hiểm và vượt qua phà Tuần để tới ngã ba Bằng Lãng nơi dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương.

Page 11: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

Từ Bằng Lãng đến cửa sông Thuận An, sông Hương dài 30km và chảy rất chậm (bởi vì mực nước sông không cao hơn mấy so với mực nước biển). Khi chảy quanh dọc chân núi Ngọc Trản, sắc nước sông Hương xanh hơn hơn – đây là địa điểm Điện Hòn Chén. Tại đây có một vực rất sâu.

Sông Hương rất đẹp khi chiêm ngưỡng nó từ nguồn và khi nó chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm và mang theo hương thơm của hệ thực vật nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua những làng mạc xanh tươi và râm mát như Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh và hoà lẫn vào với hương thơm của hoa cỏ Huế... Con sông với sắc xanh lung linh, trong trẻo như một viên ngọc dưới ánh mặt trời. Nó từng là nguồn cảm xúc của bao thế hệ du khách khi họ đi thuyền dọc theo sông Hương để nhìn ngắm phong cảnh nên thơ và lắng nghe những điệu ca Huế truyền thống trong đêm tĩnh mịch.

Các công trình kiến trúc hai bên bờ sông gồm thành quách, thị tứ, vườn tược, chùa chiền, tháp và đền đài... ánh phản chiếu của chúng trên dòng nước khiến con sông thậm chí còn mang thêm nhiều chất thơ và tính nhạc. Nhiều người luôn gắn liền sự thanh bình, thanh lịch và cảnh vật lặng lẽ của Huế với dòng Sông Hương.

Núi Ngự Bình (còn gọi là Bằng sơn) cao 105 mét có hình dáng cân xứng và ấn tượng. Ở hai bên Bằng Sơn là hai ngọn núi nhỏ tên là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Sau khi quan sát thấy Bằng Sơn trông giống như một tấm bình phong, nhà Nguyễn đã quyết định chọn Huế làm nơi xây dựng Kinh thành. Vua Gia Long đã đồng ý với những thầy địa lý chọn ngọn núi đó làm án thờ phía trước của của hệ thống tường bao chắc chắn có chức năng bảo vệ thành, và đổi tên nó là Ngự Bình.

Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình là một món quà vô giá thứ hai thiên nhiên dành cho Huế. Sông núi bổ sung cho nhau tạo nên một cảnh quan sông núi tuyệt đẹp cho Huế. Từ lâu, núi Ngự và sông Hương đã được coi là những biểu tượng của Huế, và mọi người cũng thường gọi Huế là “Vùng đất của sông Hương và núi Ngự”.

Sông Hương và núi Ngự Bình được nhắc đến trong lời bài hát Ai ra xứ Huế sáng tác bởi nhạc sỹ Duy Khánh:

Ai ra xứ Huế thì ra Ai về là về núi Ngự Ai về là về sông Hương Nước sông Hương còn vương chưa cạn Chim núi Ngự tìm bạn bay về Người tình quê ơi người tình quê thương nhớ xin trở về

Page 12: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

. SÔNG LAM ( sông Cả)

Sông Lam, tên gọi khác là Ngàn Cả, là một con sông ở Bắc Trung Bộ, Việt Nam.

Click this bar to view the full image.

Sông bắt nguồn từ vùng Nậm Căn, Lào. Phần chính của dòng sông chảy qua Nghệ An, phần cuối của sông Lam hợp lưu với sông La từ Hà Tĩnh, tạo thành biên giới của Nghệ an và Hà tĩnh đổ ra biển tại cửa Hội. Cụ thể, trên lãnh thổ Việt Nam, nó chảy qua địa phận huyện Nam Đàn, giữa các huyện Hưng Nguyên, Nghi Lộc của tỉnh Nghệ An rồi vào và Đức Thọ, Nghi Xuân, thị xã Hồng Lĩnh của tỉnh Hà Tĩnh trước khi đổ ra cửa Hội.

Tổng chiều dài của sông khoảng 300 km. Sông chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, khi gần tới biển chảy ngược lên hướng Bắc. Có một số nhánh sông nhân tạo lấy nước từ Sông Lam như sông Đào.

Ngàn Cả hay sông Cả là tên cũ của sông Lam. Ngày nay, sông Cả chỉ phần nhánh chính từ Nghệ An của sông Lam. Nhánh này hợp với nhánh lớn thứ hai là sông La, từ Hà Tĩnh, để tạo thành phần hạ nguồn của sông Lam. Tiếng Cả vừa hàm nghĩa là "lớn", vừa có hàm nghĩa là "mẹ", mẹ của những con sông nhỏ đổ về như Nậm Nơm, Nậm Mộ, sông Giăng, và sông La. Còn tên "sông Lam" có lẽ do màu nước xanh. Sông còn có các tên như Lam Giang, Thanh Long Giang, Lam Thủy.Theo vi.wikipedia.org

. SÔNG MÃ

Sông Mã là một con sông của Việt Nam và Lào có chiều dài 512 km, trong đó phần trên lãnh thổ Việt Nam dài 410 km và phần trên lãnh thổ Lào dài 102 km.

Click this bar to view the full image.

Page 13: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi khí hậu Trái Đất luu

Sông Mã bắt nguồn từ phía Nam tỉnh Điện Biên chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam qua huyện Sông Mã của tỉnh Sơn La, qua lãnh thổ Lào, rồi tới tỉnh Thanh Hóa. Tại Thanh Hóa, sông tiếp tục giữ hướng Tây Bắc - Đông Nam chảy qua các huyện phía Bắc của tỉnh, hội lưu với sông Chu rồi đổ ra vịnh Bắc Bộ ở cửa Hới nằm giữa huyện Hoàng Hóa và thị xã Sầm Sơn cùng hai cửa phụ là Lạch Trường và cửa Lèn.

Lưu vực của sông Mã rộng 28.400 km², phần ở Việt Nam rộng 17.600 km², cao trung bình 762 m, độ dốc trung bình 17,6%, mật độ sông suối toàn lưu vực 0,66 km/km².[1]. Lưu lượng nước trung bình năm 52,6 m³/giây.

Các phụ lưu lớn của sông Mã là sông Chu, sông Bưởi, sông Cầu Chày đều hợp lưu với sông Mã trên địa phận Thanh Hóa. Ngoài ra còn có các phụ lưu nhỏ như sông Lũng, sông Sơn Trà, sông Nậm Soi.

Sông Mã chủ yếu chảy giữa vùng rừng núi và trung du. Phù sa sông Mã là nguồn chủ yếu tạo nên đồng bằng Thanh Hóa lớn thứ ba ở Việt Nam.

Theo vi.wikipedia.org