cạnh tranh của michael porter

71
- 1 - MĐẦU Ý nghĩa ca đề tài nghiên cu: Cnh tranh trong giai đon mca nn kinh tế thtrường là mt yếu tquyết định đến sthành công hay tht bi ca doanh nghip và ca mi quc gia. Ngày nay nhng li thế riêng ca mt quc gia không chlà nhng li thế truyn thng vđất đai, nhân lc, ngun lc v.v.. na mà phn ln đó chính là chiến lược phát trin, cnh tranh ca quc gia và ca tng doanh nghip. Ngành chế biến và xut khu sn phm gca thành phHChí Minh nói riêng và ca Vit Nam nói chung tht schmi khi sc và trthành mt trong nhng ngành xut khu dn đầu ca Vit Nam trong nhng năm gn đây. Mt khác trong xu thế hi nhp kinh tế ca Vit Nam ra thtrường thế gii, thtrường Mlà mt thtrường rt ln, đầy tim năng và cũng là thtrường tiêu thrt khó tính đối vi tt ccác nước và vic chiếm thphn trên thtrường này chđược quyết định bi khnăng và năng lc cnh tranh ca tng quc gia, tng doanh nghip. Vn đề cnh tranh và tìm cách nâng cao li thế cnh tranh ca mình chính là yếu tquyết định sphát trin ca mi quc gia và ca tng doanh nghip. Chúng ta nên nhrng “người chiến thng hôm qua chưa chc giành thng li vào ngày mai”, do đó vic vn dng các gii pháp, không ngng nâng cao năng lc cnh tranh ca quc gia và ca doanh nghip ngày hôm nay chính là yếu tquyết định đến chiến thng ngày mai. Mc đích nghiên cu: Mc đích ca lun văn này chính là tìm hiu, phân tích vthế cnh tranh hin ti ca các doanh nghip sn xut và xut khu gtrên địa bàn thành phHChí Minh so vi khu vc và thế gii và nhng nguyên nhân chyếu quyết định đến li thế cnh tranh ca quc gia và ca tng doanh nghip để tđó tìm ra nhng gii pháp hu hiu cho tng doanh nghip và nhng kiến nghđể phát trin ngành chế biến và xut khu gca thành phHChí Minh sang th

Upload: thu-trang-vu

Post on 30-Jul-2015

470 views

Category:

Documents


2 download

TRANSCRIPT

Page 1: cạnh tranh của Michael Porter

- 1 -

MỞ ĐẦU

Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu:

Cạnh tranh trong giai đoạn mở cửa nền kinh tế thị trường là một yếu tố

quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp và của mỗi quốc

gia. Ngày nay những lợi thế riêng của một quốc gia không chỉ là những lợi thế

truyền thống về đất đai, nhân lực, nguồn lực v.v.. nữa mà phần lớn đó chính là

chiến lược phát triển, cạnh tranh của quốc gia và của từng doanh nghiệp. Ngành

chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của

Việt Nam nói chung thật sự chỉ mới khởi sắc và trở thành một trong những

ngành xuất khẩu dẫn đầu của Việt Nam trong những năm gần đây. Mặt khác

trong xu thế hội nhập kinh tế của Việt Nam ra thị trường thế giới, thị trường Mỹ

là một thị trường rất lớn, đầy tiềm năng và cũng là thị trường tiêu thụ rất khó

tính đối với tất cả các nước và việc chiếm thị phần trên thị trường này chỉ được

quyết định bởi khả năng và năng lực cạnh tranh của từng quốc gia, từng doanh

nghiệp. Vấn đề cạnh tranh và tìm cách nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình

chính là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia và của từng doanh

nghiệp. Chúng ta nên nhớ rằng “người chiến thắng hôm qua chưa chắc giành

thắng lợi vào ngày mai”, do đó việc vận dụng các giải pháp, không ngừng nâng

cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và của doanh nghiệp ngày hôm nay chính

là yếu tố quyết định đến chiến thắng ngày mai.

Mục đích nghiên cứu:

Mục đích của luận văn này chính là tìm hiểu, phân tích vị thế cạnh tranh

hiện tại của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ trên địa bàn thành phố

Hồ Chí Minh so với khu vực và thế giới và những nguyên nhân chủ yếu quyết

định đến lợi thế cạnh tranh của quốc gia và của từng doanh nghiệp để từ đó tìm

ra những giải pháp hữu hiệu cho từng doanh nghiệp và những kiến nghị để phát

triển ngành chế biến và xuất khẩu gỗ của thành phố Hồ Chí Minh sang thị

Page 2: cạnh tranh của Michael Porter

- 2 -

trường Mỹ - một thị trường tiềm năng mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn

mở rộng thị trường của mình.

Phương pháp, phạm vi nghiên cứu:

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là duy vật biện chứng, dựa vào quan

sát, phân tích và nhận định (thông qua các cơ quan chức năng, các chuyên gia,

các kết quả nghiên cứu đã công bố) về vai trò và vị thế cạnh tranh của các doanh

nghiệp, thông qua khảo sát một số doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và khu vực lân cận để tìm hiểu thêm

nguyên nhân, những khó khăn và dựa vào những kinh nghiệm thức tế mà người

viết có được trong nhiều năm liền hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu đồ gỗ để

từ đó tổng hợp ra, rút ra kết luận và đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhất, khả

thi nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường Mỹ.

Phạm vi nghiên cứu được gói gọn trong những doanh nghiệp sản xuất và

xuất khẩu các sản phẩm gỗ vừa và nhỏ ra thị trường thế giới (có thể bao gồm

hoặc không bao gồm thị trường Mỹ) và nằm trong khu vực thành phố Hồ Chí

Minh.

Bố cục:

Bài luận văn được chia ra làm 3 chương, nội dung từng chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài

Chương 2: Đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và

nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh, tình hình xuất khẩu hàng gỗ sang thị trường Mỹ

Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp

xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Mỹ.

Page 3: cạnh tranh của Michael Porter

- 3 -

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH

1.1.1. Khái niệm về lợi thế cạnh tranh

Lợi thế cạnh tranh là lợi thế so với các đối thủ khác có được bằng cách

cung cấp cho người tiêu dùng những giá trị lớn hơn bằng hoặc là cung cấp với

giá thấp hơn hoặc cung cấp giá trị dịch vụ lớn hơn phù hợp với giá cao hơn.

Cần nên hiểu rằng cạnh tranh không phải loại trừ đối thủ cạnh tranh để từ

đó không dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh, dùng những thủ đoạn xảo

quyệt nhằm tạo cho mình một vị thế độc tôn tranh trên thị trường, để khách

hàng không có thể có sự lựa chọn nào khác.

Cạnh tranh là một tiến trình đổi mới không ngừng, nếu doanh nghiệp nào

bằng lòng với vị thế cạnh tranh hiện tại của mình thì chắc chắn sẽ rơi vào tụt

hậu. Do đó doanh nghiệp luôn luôn phải gia tăng không ngừng vị thế cạnh tranh

của mình, luôn luôn có sự biến đổi và đổi mới, ngày càng tạo ra những giá gia

tăng thêm cho khách hàng.

1.1.2. Các quan điểm về lợi thế và chiến lược cạnh tranh

1.1.2.1. Quan điểm của Adam Smith

Theo quan điểm của Adam Smith, nguồn gốc của quá trình thương mại

giữa hai hay nhiều quốc gia là do quốc gia đó có lợi thế cạnh tranh tuyệt đối về

một ngành nào đó so với quốc gia khác. Lợi thế cạnh tranh có được tính bằng

thời gian hao phí lao động cần thiết để sản xuất ra sản phẩm nào đó ngắn hơn so

với các quốc gia khác.

1.1.2.2. Quan điểm của David Recardo

Theo học thuyết của David Recardo, các quốc gia không có lợi thế cạnh

tranh tuyệt đối vẫn có thể có lợi thế cạnh tranh tương đối, và việc mua bán trao

đổi giữa hai quốc gia vẫn có thể thực hiện được nhờ vào lợi thế cạnh tranh này.

Page 4: cạnh tranh của Michael Porter

- 4 -

Lợi thế cạnh tranh tương đối được tính bằng tỷ lệ tiêu hao nguồn lực để

sản xuất ra sản phẩm A so với sản phẩm B của một quốc gia (quốc gia 1) thấp

hơn quốc gia khác (quốc gia 2) và ngược lại quốc gia 2 sẽ có tỷ lệ tiêu hao

nguồn lực giữa sản phẩm B so với sản phẩm A là thấp hơn quốc gia 1 mặc dù có

thể quốc gia 1 có lợi thế cạnh tranh tuyệt đối cả hai sản phẩm A và B so với

quốc gia 2. Do đó quốc gia 1 tiến hành chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm A và

quốc gia 2 tiến hành chuyên môn hóa sản xuất ra sản phẩm B và hai quốc gia

tiến hành trao đổi cho nhau thì cả hai quốc gia đều có lợi.

Tuy nhiên theo quan điểm của hai quốc gia thì việc cạnh tranh chỉ được

xét trên hai quốc gia mà thôi. Trên thực tế, không chỉ có 2 quốc gia cạnh tranh

lẫn nhau mà thị trường thế giới có sự tham gia của tất cả quốc gia trên thế giới

và lý luận của David Recardo đã bỏ qua chi phí vận chuyển giữa 2 quốc gia.

Tuy nhiên đây là cơ sở cho việc mua bán trao đổi giữa hai hay nhiều quốc gia

trên thế giới.

1.1.2.3. Quan điểm của Michael Porter về lợi thế cạnh tranh Quốc gia –

Mô hình viên kim cương.

Michael Porter là giáo sư quản trị kinh doanh tại khoa kinh doanh đại học

Harvard và là chuyên gia hàng đầu về chiến lược kinh doanh và tính cạnh tranh

quốc tế.

Theo quan điểm truyền thống, các lý thuyết kinh tế đề cập các yếu tố sau

cho vấn đề tạo nên lợi thế cạnh tranh cho các khu vực và quốc gia:

- Đất đai

- Vị trí địa lý

- Tài nguyên thiên nhiên

- Lao động và

- Dân số địa phương

Page 5: cạnh tranh của Michael Porter

- 5 -

Porter cho rằng sự phát triển lâu dài giữa các ngành công nghiệp khó có

thể dựa trên 5 yếu tố trên.

Chiến lược, cấu trúc, cạnh tranh của doanh

nghiệp

Các điều kiện yếu tố đầu vào

Các điều kiện của cầu

Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan

Hình 1.1: Mô hình viên kim cương của Michael Porter

Michael Porter đã đưa ra mô hình phân tích tại sao một vài quốc gia lại

có lợi thế cạnh tranh hơn các quốc gia khác. Mô hình này đưa ra các yếu tố

quyết định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia, các yếu tố này được xem

như là “viên kim cương của Michael Porter – Porter’s Diamond”. Lý thuyết này

cho rằng điểm tựa quốc gia của một tổ chức đóng vai trò quan trọng trong việc

hình thành nên lợi thế cạnh tranh toàn cầu. Điểm tựa này cung cấp các yếu tố cơ

bản, hỗ trợ các tổ chức trong việc xây dựng lợi thế cạnh tranh toàn cầu. Porter

đưa ra bốn yếu tố trong mô hình viên kim cương của mình như sau (xem hình

1.1):

- Các điều kiện của yếu tố đầu vào:

Hiện trạng của một quốc gia liên quan đến các yếu tố sản xuất như lao

động kỹ năng, cơ cấu hạ tầng v.v… chúng có liên quan đến cạnh tranh cho

những ngành riêng.

Các yếu tố này có thể chia thành các nhóm như nguồn nhân lực (trình độ

học vấn, chi phí lao động, sự cam kết v.v…), các nguồn nguyên liệu (nguồn

Page 6: cạnh tranh của Michael Porter

- 6 -

nguyên liệu tự nhiên, không gian v.v…), nguồn kiến thức, nguồn vốn và cơ sở

hạ tầng. Các yếu tố này cũng bao gồm các yếu tố như chất lượng nghiên cứu

trường đại học, sự bãi bỏ các quy định của thị trường lao động, khả năng chu

chuyển nhanh của thị trường chứng khoán của quốc gia v.v…

Các yếu tố quốc gia này thường cung cấp những lợi thế cạnh tranh đầu

tiên và từ đó lợi thế cạnh tranh được xây dựng trên cơ sở này. Mỗi quốc gia có

một nhóm các điều kiện yếu tố cụ thể vì thế nên mỗi quốc gia sẽ phát triển

những ngành công nghiệp mà nhóm điều kiện các yếu tố đầu vào của nó là tối

ưu. Điều này cũng giải thích được sự tồn tại của các quốc gia gọi là “quốc gia

có nguồn lao động rẻ”, các nước nông nghiệp (đất nước rộng lớn với nguồn tài

nguyên đất đai dồi dào).

Michael Porter chỉ ra rằng các yếu tố này không phải có từ thiên nhiên

hay được thừa hưởng mà nó có thể thay đổi hay phát triển. Ví dụ như các sáng

kiến về chính trị, tiến bộ công nghệ hoặc thay đổi về văn hóa xã hội có thể hình

thành nên những yếu tố đầu vào của quốc gia.

- Các điều kiện của cầu:

Các điều kiện của cầu ảnh hưởng đến việc hình thành nên các điều kiện

yếu tố đầu vào của quốc gia. Chúng tác động đến không gian, xu hướng cải tiến

và phát triển sản phẩm. Theo Porter các nhu cầu được thể hiện bởi ba đặc tính

chính sau: sự hỗn hợp (sự hỗn hợp giữa nhu cầu và sở thích người tiêu dùng),

phạm vi và tốc độ phát triển, phạm vi và tốc độ phát triển và các cơ chế mà nó

truyền những sở thích từ thị trường trong nước sang thị trường nước ngoài.

- Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan:

Một ngành công nghiệp thành công trên toàn thế giới có thể tạo nên lợi

thế cạnh tranh cho các ngành hỗ trợ hoặc có liên quan. Những ngành công

nghiệp cung cấp có tính cạnh tranh sẽ tăng cường sức mạnh cho việc đổi mới và

quốc tế hóa các ngành ở những giai đoạn sau trong chuỗi hệ thống giá trị. Bên

Page 7: cạnh tranh của Michael Porter

- 7 -

cạnh những nhà cung cấp, những ngành công nghiệp có liên quan cũng rất quan

trọng. Đây là những ngành công nghiệp có thể sử dụng và phối hợp các hoạt

động riêng lẻ với nhau trong chuỗi giá trị hoặc chúng có liên quan đến những

sản phẩm bổ sung (ví dụ như phần cứng, phần mềm v.v…)

- Chiến lược, cơ cấu, đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp:

Đây là điều kiện của một quốc gia mà nó quyết định cách các công ty

được thành lập, được tổ chức và được quản lý và nó quyết định các đặc điểm

của cạnh tranh trong nước.

Ở đây các lĩnh vực văn hóa đóng một vai trò quan trọng. Ở các quốc gia

khác nhau, các yếu tố như cơ cấu quản lý, đạo đức làm việc, các tác động qua

lại giữa các công ty được hình thành khác biệt nhau. Điều này sẽ cung cấp

những lợi thế và bất lợi thế cho những ngành công nghiệp riêng.

Các mục tiêu tập thể tiêu biểu nhất liên quan đến các mô hình cam kết

của công nhân là một yếu tố tối quan trọng. Nó bị ảnh hưởng mạnh của cấu trúc

sở hữu và sự kiểm soát. Ví dụ như các công ty tư nhân hoàn toàn hoạt động

khác biệt so với các công ty nhà nước.

Porter cho rằng các đối thủ cạnh tranh trong nước và việc tìm kiếm lợi

thế cạnh tranh trong một quốc gia có thể giúp cung cấp các tổ chức các cơ sở để

đạt được lợi thế cạnh tranh trên quy mô toàn cầu.

Porter cho rằng các ngành kinh tế của quốc gia sẽ thành công nếu “hệ

thống kim cương” này vận hành thuận lợi. Tác động tương hỗ của các nhóm

nhân tố này thúc đẩy sự phát triển của ngành và lợi thế của một yếu tố này sẽ

tạo điều kiện thuận lợi và phát triển các nhóm yếu tố khác.

1.1.2.4. Hệ thống chuỗi giá trị của Michael Porter:

Phân tích chuỗi giá trị mô tả các hoạt động mà tổ chức thực hiện, liên kết

chúng tới vị thế cạnh tranh của tổ chức.

Page 8: cạnh tranh của Michael Porter

- 8 -

Phân tích chuỗi giá trị mô tả các hoạt động trong và xung quanh tổ chức

và liên hệ chúng tới việc phân tích các thế mạnh cạnh tranh trong tổ chức. Vì

thế nó đánh giá các giá trị nào mà các hoạt động riêng rẽ sẽ tăng thêm cho sản

phẩm và dịch vụ của tổ chức. Ý tưởng này được xây dựng dựa trên các yếu tố

bên trong của tổ chức hơn là sự tập hợp các yếu tố về máy móc, thiết bị, con

người và tài chánh. Chỉ có những điều này được sắp xếp vào hệ thống và các

hoạt động hệ thống, thì điều hoàn toàn có thể xảy ra là khách hàng có thể trả cho

nó một cái giá cao hơn.

Porter cho rằng khả năng để thực hiện những hoạt động riêng biệt này và

để quản lý kết nối giữa các hoạt động này là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh.

Cơ sở hạ tầng

Quản trị nguồn nhân lực

Phát triển công nghệ

Khả năng thu mua

Hình 1.2. Mô hình chuỗi giá trị của Michael Porter

Hậu cần đầu vào

Hoạt động Hậu cần đầu ra

Tiếp thị và bán hàng

Dịch vụ

Các

hoạ

t độn

g hỗ

trợ

Porter phân biệt các hoạt động chính yếu và các hoạt động hỗ trợ. Các

hoạt động chính yếu liên quan trực tiếp đến việc tạo ra và phân phối các sản

phẩm và dịch vụ. Chúng có thể phân thành 5 nhóm: hậu cần đầu vào (bao gồm

việc tiếp nhận, bảo quản, kiểm soát hàng tồn kho, vận chuyển v…), hoạt động

sản xuất (bao gồm vận hành máy móc, đóng gói, lắp ráp, bảo trì thiết bị, kiểm

tra và tất cả các hoạt động khác tạo nên giá trị mà nó truyền giá trị từ khâu đầu

vào đến sản phẩm cuối cùng), hậu cần đầu ra (hoạt động đòi hỏi việc cung cấp

thành phẩm đến tay khách hàng: kho bãi, hoàn tất đơn hàng, vận chuyển, quản

trị phân phối), tiếp thị và bán hàng (các hoạt động liên quan đến việc tìm cách

Các hoạt động chính

Page 9: cạnh tranh của Michael Porter

- 9 -

làm cho khách hàng mua hàng bao gồm lựa chọn kênh phân phối, quảng cáo,

khuyến mại, bán hàng, chính sách giá cả, quản trị bán lẻ v.v…) và dịch vụ (các

hoạt động duy trì và gia tăng giá trị sản phẩm bao gồm hỗ trợ khách hàng, dịch

vụ sửa chữa, lắp đặt, đào tạo, phụ tùng, nâng cấp v.v…). Mỗi một yếu tố này sẽ

được liên kết để giúp đỡ các hoạt động nhằm cải tiến hiệu quả. Có 4 lĩnh vực

của hoạt động hỗ trợ: khả năng thu mua được (thu mua các nguyên liệu, dịch vụ,

phụ tùng, văn phòng, máy móc v.v…), phát triển công nghệ thông tin (nhằm để

hỗ trợ cho các hoạt động của chuỗi giá trị như nghiên cứu và phát triển, tiến

trình tự động, thiết kế, tái thiết kế v.v…), quản lý nguồn nhân lực (các hoạt

động liên quan đến tuyển dụng, phát triển, đào tạo, bồi thường cho nhân viên và

quản lý v.v…) và cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp (bao gồm quản trị tổng quát,

quản trị kế hoạch, luật pháp, tài chính, kế toán, đối ngoại, quản trị chất lượng

v.v…)

1.1.2.5. Quan điểm của Michael Porter về chiến lược cạnh tranh

Khi bàn về lợi thế cạnh tranh của các công ty trong cùng ngành thì

Michael Porter đã đưa ra 4 chiến lược nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các

đối thủ như sau:

• Chiến lược khác biệt hóa (Differentiation)

Chiến lược khác biệt hóa tập trung vào chọn lựa một hay nhiều tiêu

chuẩn được sử dụng bởi người tiêu dùng trên thị trường và định vị công việc

kinh doanh duy nhất để đáp ứng được những tiêu chuẩn đó. Với chiến lược này

thường kết hợp với việc bán hàng hóa với giá cả cao hơn thông thường là để

phản ánh chi phí sản xuất cao hơn và giá trị gia tăng tăng thêm cho người tiêu

dùng.

Sự khác biệt hóa thường cung cấp với giá cao, phần tăng lên cao hơn chi

phí sản xuất tăng thêm, điều này có thể tạo cho người tiêu dùng lý do chính

đáng để mua sản phẩm có sự khác biệt hóa.

• Chiến lược sản xuất với giá thấp (Cost Leadership)

Page 10: cạnh tranh của Michael Porter

- 10 -

Với chiến lược này, mục tiêu của doanh nghiệp, công ty là trở thành

người sản xuất với giá thấp nhất trong ngành dựa vào quy mô sản xuất lớn.

Nhiều phân khúc thị trường trong ngành được cung cấp với mục tiêu giảm thiểu

chi phí. Nếu giá bán được bằng hoặc gần ngang với mức trung bình của thị

trường thì nhà sản xuất với chi phí thấp sẽ có lợi nhuận cao nhất. Chiến lược

này thường áp dụng cho các công ty hoạt động có quy mô lớn, cung cấp những

sản phẩm tiêu chuẩn với ít sự khác biệt hóa.

• Chiến lược tập trung vào sự khác biệt hóa (Differentiation Focus)

Trong chiến lược tập trung vào sự khác biệt hóa, công ty nhắm vào sự

khác biệt hóa chỉ trong một hoặc một số nhỏ các phân khúc thị trường mục tiêu.

Nhà sản xuất sẽ có cơ hội cung cấp cho khách hàng đặc biệt cần phân khúc này

sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn khác so với các đối thủ cạnh tranh tập trung vào

nhóm khách hàng lớn hơn. Để thực hiện được chiến lược này, cần phải xác định

được khách hàng cần và muốn sự khác biệt này.

• Chiến lược tập trung vào chi phí (Cost Focus)

Với chiến lược này công ty tìm kiếm lợi thế về giá hạ chỉ trong một

lượng nhỏ phân khúc thị trường. Sản phẩm cơ bản và tương tự như các sản

phẩm khác với giá bán cao hơn. Chiến lược này gọi là chiến lược ăn theo (me

too).

1.1.3. Cái nhìn mới về cạnh tranh.

1.1.3.1. Cách nhìn của Michael E. Porter

Ngày nay với chiến lược ăn theo hầu như không còn phù hợp nữa, các

công ty nên tìm ra con đường để phát triển và xây dựng lợi thế hơn là chỉ tìm

cách xóa bỏ bất lợi thế.

Các công ty với chiến lược giá hạ nghĩ rằng họ phải có được thị phần

lớn, đó là cách để chiến thắng. Tuy nhiên vẫn có những công ty với thị phần nhỏ

nhưng vẫn đạt được lợi nhuận lớn. Do đó cách nghĩ trên là sai lầm. Để một

chiến lược phát huy tác dụng tối đa của nó thì cần phải gắn liền với sự tiến hóa

của ngành đó.

Page 11: cạnh tranh của Michael Porter

- 11 -

Với chiến lược khác biệt hóa, điều quan trọng là phải tạo ra sự khác biệt

không chỉ bao hàm các tính chất bất lợi mà còn bao hàm tính chất bất lợi khi so

sánh với các chiến lược khác. Có nghĩa là công ty phải làm sao tạo ra sự khác

biệt mà các công ty khác khó có thể sao chép được, nếu không thì sản phẩm của

công ty sẽ bị sao chép một cách dễ dàng.

Ngày nay với nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, công ty cần

phải thích nghi với sự thay đổi, phù hợp với nhu cầu của khách hàng, từ công

nghệ đến phương pháp quản lý. Quan sát một số công ty lớn chúng ta cũng thấy

rằng họ thường không thay đổi chiến lược cạnh tranh của họ nhưng chúng ta

cũng nhận thấy rằng có sự thay đổi liên tục các chi tiết trong sản phẩm của họ,

chi tiết dịch vụ nhằm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Tuy nhiên đôi khi cần thay đổi chiến lược cạnh tranh của mình khi nhu

cầu của nhóm khách hàng lớn thay đổi, ví dụ như đời sống kinh tế của khách

hàng ngày càng được tăng cao thì nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm và

dịch vụ tốt hơn ngày càng được nâng lên, do đó công ty cần phát hiện kịp thời

những phân khúc thị trường mới để thực hiện chiến lược cạnh tranh của mình

cho phù hợp.

Hiện nay vai trò của công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong quá

trình hoạch định chiến lược cạnh tranh của một công ty, công nghệ mới sẽ xóa

sạch những lợi thế tiềm năng và vì thế lợi thế còn lại sẽ ngày càng quan trọng

hơn.

1.1.3.2. Những vấn đề lưu ý về lợi thế cạnh tranh

Mục đích của các doanh nghiệp hiện nay là tìm cách để nâng cao vị thế

cạnh tranh của mình ở thị trường trong nước cũng như trên thế giới, theo trình

bày của Tôn Thất Nguyễn Thiêm – tiến sĩ xã hội học, kinh tế - trong giáo trình

thị trường cơ cấu và chiến lược thì để gia tăng vị thế cạnh tranh của một doanh

nghiệp, doanh nghiệp cần phải tập trung vào các vấn đề về: chất lượng về sản

phẩm, thời gian, không gian, dịch vụ, thương hiệu và giá cả.

• Chất lượng sản phẩm:

Page 12: cạnh tranh của Michael Porter

- 12 -

Khi bàn về chất lượng sản phẩm ông cho rằng đổi mới chất lượng sản

phẩm liên tục là một cách để chứng minh với thị trường thực lực của doanh

nghiệp vừa làm nản chí đối thủ cạnh tranh, hơn nữa việc đổi mới, nâng cao chất

lượng sản phẩm nhằm biến đổi ngày càng cao nhu cầu của khách hàng. Việc

thay đổi thường xuyên chất lượng và chi tiết sản phẩm cũng nằm trong nội dung

chiến lược khác biệt hóa của Michael Porter.

• Chất lượng thời gian:

Thời gian là một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh, khi tung ra một sản

phẩm mới, doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành nhanh, vì thời cơ không chờ

một ai cả, nếu không sẽ không kịp với các đối thủ. Thời gian cần phải đảm bảo

để hàng hóa có mặt trên thị trường đúng thời điểm, đúng theo nhu cầu của khách

hàng, đó là điều sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên cần

phải đảm bảo rằng thời gian kịp lúc nhưng phải đảm bảo chất lượng sản phẩm

và dịch vụ tăng thêm.

• Chất lượng không gian:

Không gian ở đây chính là không gian khách hàng cần để thỏa mãn nhu

cầu của mình chứ không phải không gian mà doanh nghiệp cần để trưng bày và

bán sản phẩm.

• Chất lượng dịch vụ

Nhằm để tạo nên lợi thế cạnh tranh cho công ty mình, chất lượng dịch vụ

cần phải được chú trọng đúng mức, hãy luôn ghi nhớ khách hàng là thượng đế,

do đó cần phải chú trọng 3 yếu tố chính trong chất lượng dịch vụ đó là cơ sở vật

chất, con người và dịch vụ hậu mãi. Trong đó cần quan tâm nhiều đến dịch vụ

hậu mãi và thực hiện đúng như những gì đã cam kết với khách hàng.

• Chất lượng thương hiệu

Đó chính là tiếng tăm của thương hiệu, tiếng tăm của doanh nghiệp được

định hình qua một quá trình mà doanh nghiệp chứng minh được với khách hàng

là sản phẩm dịch vụ của họ đã mang lại một giá trị gia tăng nhất định. Do đó các

doanh nghiệp cần nâng cao thương hiệu của mình trên thị trường, xây dựng cho

Page 13: cạnh tranh của Michael Porter

- 13 -

mình hình ảnh thương hiệu của mình trên thị trường trong nước cũng như trên

thế giới.

• Chất lượng giá cả

Giá cả phải hợp lý và hợp thời, phù hợp với chất lượng sản phẩm và dịch

vụ mà công ty cung cấp trên thị trường phù hợp với từng chiến lược cạnh tranh

mà công ty đang theo đuổi.

1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VỊ THẾ CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM.

Hiện tại năng lực cạnh tranh của Việt Nam được xếp vào thứ 77 trên 104

nước vào năm 2004, đều này có nghĩa là năng lực cạnh tranh của Việt Nam chỉ

đạt ở mức trung bình và đã tụt 17 hạng so với năm 2003 (đạt 3.23 điểm năm

2004). So với nước dẫn đầu về năng lực cạnh tranh – Phần Lan đạt 5.95 điểm thì

năng lực cạnh tranh chúng ta càng thua xa.

Bảng 1.1.: So sánh năng lực cạnh tranh của một vài quốc gia trên thế giới

Quốc gia Thứ tự GCI-2004

Điểm 2004

Thứ tự GCI-2003

Thứ tự BCI

Thứ tự chiến lược và hoạt động công ty

Thứ tự chất lượng môi trường cạnh tranh quốc

gia

Phần Lan 1 5.95 1 2 1 5

Mỹ 2 5.82 2 1 2 2

Đức 13 5.28 13 3 1 5

Singapore 7 5.56 6 10 13 8

Malaysia 31 4.88 29 23 28 23

Thái Lan 34 4.58 32 37 36 36

Trung Quốc 46 4.29 44 47 39 47

Indonesia 69 3.72 72 44 38 46

Philippines 76 3.51 66 70 50 77

Việt Nam 77 3.47 60 79 81 79

Nguồn: Diễn đàn kinh tế Thế Giới (WEF) –

Global Information Technology report 2004-2005

Page 14: cạnh tranh của Michael Porter

- 14 -

Cần phải nói thêm rằng năng lực cạnh tranh thể hiện qua chỉ số cạnh

tranh tăng trưởng (GCI), chỉ số GCI của chúng ta cũng thua xa một số nước

Đông Nam Á như Singapore (xếp hạng 7 đạt 5.56 điểm), Malaysia (xếp hạng 31

đạt 4.88 điểm), Thai Lan (xếp hạng 34 đạt 4.58 điểm), Indonesia (xếp hạng 69

đạt 3.72 điểm) và Philippines (xếp hạng 76 đạt 3.51 điểm). Năm 2003 năng lực

cạnh tranh của Việt Nam đứng trên Philippines nhưng đến năm 2004 năng lực

cạnh tranh của Việt Nam thì tụt hơn Philippines đến 7 bậc.

Ngoài chỉ tiêu này, năng lực cạnh tranh của quốc gia cũng được đo bằng

chỉ số cạnh tranh kinh doanh (BCI), chiến lược và hoạt động của công ty và chất

lượng của môi trường cạnh tranh quốc gia. Trong các chỉ tiêu này thì Việt Nam

cũng thua xa so với các nước trong khu vực.

Trong bảng 1.1 sẽ cho ta thấy năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với

các nước đứng đầu trên thế giới và ở trong khu vực.

Môi trường kinh doanh quốc gia của Việt Nam được đánh giá chưa phải

là môi trường kinh doanh tốt, chỉ xếp hạng 79 trên tổng cộng 103 nước được

xem xét. Môi trường kinh doanh cũng một phần ảnh hưởng đến năng lực cạnh

tranh của một quốc gia.

(Để tham khảo vị thế cạnh tranh của các nước khác, xin xem phụ lục 1)

1.3. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM GỖ MỸ

1.3.1. Một vài thông số kinh tế của nước Mỹ.

- Dân số: Theo nguồn U.S. Bureau of Economics Analysis thì dân số

hiện tại của nước Mỹ là 293.655.404 người (năm 2004), ước tính đến năm 2050

dân số đạt đến 403,943,147 người. Điều này cũng chứng tỏ được rằng Mỹ là

một thị trường tiêu thụ lớn.

- Tổng diện tích: 9,629,091.00 km2, diện tích này bằng một nửa diện tích

của nước Nga, bằng 3/10 diện tích của Châu Phi, bằng một nửa diện tích của

Page 15: cạnh tranh của Michael Porter

- 15 -

Nam Mỹ, lớn hơn Trung Quốc một ít và rộng gấp 2.5 lần diện tích của Đông

Âu.

- Tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ (GDP): 46.939,80 tỷ USD (năm 2004)

- Thu nhập bình quân đầu người được thể hiện qua bảng 1.2.

Bảng 1.2: Thu nhập bình quân quốc dân trên đầu người của Mỹ

Năm 2001 2002 2003 2004

Thu nhập- GDP /người (USD) 30,575.00 30,804.00 31,472.00 32,937.00

- Cán cân vãng lai của Mỹ luôn luôn bị âm, xuất khẩu hàng hóa và dịch

vụ và các khoản thu nhập nước ngoài luôn luôn thấp hơn lượng nhập khẩu hàng

hóa và dịch vụ và các khoản chi thu nhập cho nước ngoài. Theo như sơ đồ bên

dưới, thì các giao dịch của cán cân vãng lai luôn luôn ở mức âm và ngày càng

tăng, ví dụ như năm 2000 âm 100 tỷ USD thì năm 2004 âm gần 200 tỷ USD.

Giao dịch tài khoản vãng lai của Mỹ Đơn Vị: tỷ USD

Nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ và các khoản thanh toán thu nhập

Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ và các khoản thu nhập

Cán cân vãng lai

Nguồn: Cục phân tích kinh tế Mỹ

Hình 1.3. Sơ đồ giao dịch tài khoản vãng lai của Mỹ

- Xét về chênh lệch giữa xuất và nhập hàng hóa thì Mỹ luôn luôn ở trong

tình trạng nhập siêu, theo như sơ đồ bên dưới, càng ngày Mỹ nhập siêu càng

Page 16: cạnh tranh của Michael Porter

- 16 -

lớn, như năm 1999, hàng tháng Mỹ nhập siêu khoảng 20 tỷ USD thì đến năm

2005 có tháng Mỹ nhập siêu lên đến 60 tỷ USD.

Cán cân thương mại về hàng hóa và dịch vụ (hàng tháng, số liệu đã điều chỉnh) Đơn vị: Tỷ USD

Nguồn: Cục phân tích kinh tế Mỹ

Hình 1.4. Sơ đồ cán cân thương mại về hàng hóa dịch vụ của Mỹ

1.3.2. Thị trường nhập khẩu sản phẩm gỗ của Mỹ.

Thị trường Mỹ là một trong những thị trường quan trọng nhất thế giới,

triển vọng để buôn bán với thị trường Mỹ rất có ý nghĩa quan trọng đối với

những nhà xuất khẩu mặt hàng gỗ. Do đó các nhà xuất khẩu gỗ trên thế giới sẽ

có cơ hội rất lớn để gia tăng quan hệ làm ăn với đối tác Mỹ nếu họ biết nắm bắt

được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ.

Chỉ giữa năm 1996 và 2000, tốc độ tăng trưởng tăng thêm của hàng nhập

khẩu Mỹ đối với mặt hàng tiêu dùng (furniture) tăng thêm 19.5%. Lượng hàng

nhập khẩu các sản phẩm gia dụng bằng gỗ đều gia tăng dần qua các năm, đặc

biệt là lượng hàng gia tăng từ các nước Đông Nam Á, trong đó Trung Quốc là

một trong những nước dẫn đầu và ngày một gia tăng thị phần của mình trên thị

trường Mỹ trong những năm gần đây.

Page 17: cạnh tranh của Michael Porter

- 17 -

Theo như các số liệu dự báo thị trường, lượng tiêu thụ hàng furniture ở

Mỹ sẽ gia tăng 25.5% từ năm 2005-2010 trong khi ở Liên Minh Châu Âu người

ta dự đoán tốc độ này chỉ gia tăng 12% (theo nguồn www.csilmilano.com)

Việc chi tiêu vào các sản phẩm gia dụng của dân Mỹ khác nhau ở các

bang, việc chi tiêu hàng năm cao nhất được ghi nhận ở các bang miền Tây nước

Mỹ, mức chi tiêu này cao hơn mức chi tiêu trung bình của nước Mỹ. Hiện tại

California được xem là thị trường quan trọng nhất về furniture của nước Mỹ.

Hai bang Texas và Floria là hai bang lớn của Mỹ đang tăng trưởng một cách

đáng kể và là những thị trường đang hấp dẫn các nhà xuất khẩu Furniture.

Theo số liệu thống kê ngoại thương Mỹ thì Canada là nước xuất khẩu

sang Mỹ lớn nhất về mặt hàng gỗ, với 4 tháng đầu năm năm 2005 họ đã xuất

sang Mỹ tổng kim ngạch đạt 4,771,379,000 USD, tăng hơn cùng kỳ năm 2003 là

11.39%, kế đến là Trung Quốc với tổng kim ngạch trong 4 tháng đầu năm 2005

là 647,358,000 USD, tăng 42.14% so với cùng kỳ năm 2004. Như vậy có thể

nói rằng Trung Quốc là nước đang ngày một chiếm dần thị phần của Mỹ đối với

mặt hàng gỗ. So với các nước Đông Nam Á, thì Việt Nam đứng sau Indonesia,

Malaysia và Philippines. Trong 4 tháng đầu năm năm 2005 thì kim ngạch xuất

khẩu Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt 13,312,000 USD tăng 35.45% so với

cùng kỳ năm 2004 và đứng ở vị trí thứ 29 trên thế giới (tính trong 4 tháng đầu

năm năm 2005).

12.86%

8.80%

61.80%

16.54% Châu Á

Châu Âu

Canada

Còn lai

Nguồn: Số liệu thống kê ngoại thương của Mỹ.

Hình 1.5. Sơ đồ thị trường nhập khẩu sản phẩm gỗ Mỹ - xếp theo tiêu

chuẩn NAICS-321

Page 18: cạnh tranh của Michael Porter

- 18 -

(Lưu ý: Tiêu chuẩn NAICS là tiêu chuẩn “hệ thống phân loại công

nghiệp Bắc Mỹ, 321 là mã dành cho hàng gỗ - wooden furniture)

Nhìn chung thị trường tiêu thụ sản phẩm đồ gỗ của Mỹ rất lớn và là một

tiềm năng cho những nhà xuất khẩu, tính trong 4 tháng đầu năm năm 2005

lượng hàng gỗ Mỹ nhập khẩu đạt 7,720,699,000 USD tăng 17.6% so với cùng

kỳ năm 2003, trong đó thị trường Mỹ nhập khẩu lớn nhất là Châu Mỹ (Canada,

Mexico). Cũng theo số liệu tính toán từ bảng phụ lục 2 ta nhận thấy, lượng hàng

nhập khẩu của Mỹ từ châu Á trong 4 tháng đầu năm 2005 chỉ đạt 12.86% so với

trên toàn thế giới. Trong khi đó lượng hàng nhập khẩu gỗ của Mỹ từ Châu Âu

chỉ đạt được 8.8%, chỉ tính riêng thị trường nhập khẩu từ Canada đã chiếm đến

61.80%. (Vui lòng xem số liệu trong bảng phụ lục 2).

1.3.3. Một số lưu ý khi tham gia kinh doanh buôn bán với thị trường Mỹ.

Thị trường Mỹ là một thị trường tương đối khó tính, tuy nhiên nếu các

doanh nghiệp biết được và tìm hiểu các quy định, yêu cầu của Mỹ khi xuất khẩu

sản phẩm hàng hóa sang thì việc kinh doanh thì họ sẽ vượt qua được rào cản

này. Ở đây người nghiên cứu xin đưa ra một số điểm mà các doanh nghiệp cần

phải lưu ý như sau:

- Các quy định về kê khai hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ, sự kê khai phải

chính xác, rõ ràng và đầy đủ thông tin.

- Những quy định về bao bì hàng hóa, nhãn mác, đóng gói và những lưu

ý khi sử dụng sản phẩm nếu sản phẩm có thể gây nguy hiểm trong sử dụng.

- Những quy định về hóa đơn thương mại, cách ghi tên hàng, hàng hóa và

những quy định về chất lượng, xử lý hàng hóa v.v…

(Để tìm hiểu thêm một vài quy định cụ thể về hàng hóa xuất sang thị

trường Mỹ, xin mời xem phụ lục 3 – Một số quy định của Mỹ về nhập khẩu sản

phẩm gỗ)

Page 19: cạnh tranh của Michael Porter

- 19 -

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC

DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU GỖ Ở THÀNH

PHỐ HỒ CHÍ MINH SANG THỊ TRƯỜNG MỸ

2.1. Tình hình xuất khẩu các sản phẩm gỗ ở thành phố Hồ Chí Minh vào thị

truờng Mỹ trong thời gian qua.

Ngành chế biến gỗ của Việt Nam nói chung và của thành phố Hồ Chí

Minh nói riêng thời gian gần đây đã vươn lên thành một trong bảy ngành dẫn

đầu kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ ra thị trường Mỹ.

Nhìn chung Mỹ là thị trường đầy tiềm năng và hứa hẹn cho các doanh

nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ cho cả nước nói riêng và cho các tỉnh phía Nam

nói chung. Hiện tại Bình Dương được xem là tỉnh có doanh số xuất khẩu các sản

phẩm gỗ cao nhất cả nước, kế đến các tỉnh có doanh số xuất khẩu gỗ cũng khá

cao đó là Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai.

Cùng với EU và Nhật Bản, Mỹ hiện tại là nhà nhập khẩu lớn nhất của

Việt Nam về mặt hàng gỗ (trong đó chủ yếu là khu vực thành phố Hồ Chí Minh

và Bình Dương, Đồng Nai). Trong năm 2004, xuất khẩu hàng furniture của Việt

Nam sang Mỹ đạt 374 triệu USD so với chỉ 1 triệu USD năm 1998, xếp hạng

thứ 10 những nhà xuất khẩu lớn nhất vào Mỹ

ĐV: Triệu USD

1 4 9 1379

177

374

0

100

200

300

400

1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004

Nguồn: US Department of Commerce

Hình 2.1. Sơ đồ kim ngạch xuất khẩu hàng furniture của Việt Nam sang Mỹ

Page 20: cạnh tranh của Michael Porter

- 20 -

Qua sơ đồ trên ta nhận thấy tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu gỗ của

Việt Nam nói chung và của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng gia tăng một cách

đáng kể, năm 2003 từ 177 triệu USD đã tăng lên 374 triệu USD trong năm 2004

(tăng 111,23%)

Trong xu thế phát triển chung của toàn nước đối với mặt hàng xuất khẩu

sang thị trường Mỹ, có thể nói doanh số xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2005

đã tăng lên 119.35% so với cùng kỳ năm 2004. Kim ngạch xuất khẩu của các

tỉnh trọng điểm phía Nam theo đó cũng gia tăng đáng kể.

Bảng dưới đây liệt kê thị trường các nước mà doanh nghiệp Việt Nam đã

xuất khẩu sang trong 5 tháng đầu năm 2005 và so với cùng kỳ năm 2004.

Bảng 2.1. Thị trường xuất khẩu gỗ của Việt Nam.

Đơn vị: Nghìn USD

Thị trường Tháng 5/05 5 tháng 2005 5 tháng 2004 % thay đổi Mỹ 39.644 191.312 87.218 119,35Nhật Bản 15.592 87.542 65.444 33,77Anh 8.609 58.182 53.182 9,40Đức 3.924 36.487 24.910 46,48Pháp 3.356 29.978 21.480 39,56Hà Lan 2.685 23.989 16.842 42,44Trung quốc 7.193 22.811 7.811 192,03Hàn Quốc 3.817 19.172 12.876 48,90Tây Ban Nha 2.598 15.261 9.538 60,00Đài Loan 2.802 15.156 22.513 -32,68Úc 2.693 11.950 9.835 21,51Bỉ 1.720 10.108 8.607 17,44Italy 849 8.645 5.266 64,15Đan Mạch 754 7.261 8.546 -15,03Thuỵ Điển 706 7.011 4.904 42,97Canada 1.912 6.932 4.344 59,57Hi Lạp 714 5.671 3.962 43,13Phần Lan 252 5.647 4.844 16,58

Nguồn: Vinanet

Page 21: cạnh tranh của Michael Porter

- 21 -

Nhìn vào bảng trên ta cũng nhận thấy được rằng lượng tăng xuất khẩu

các mặt hàng gỗ của Việt Nam sang Mỹ đang ở mức rất cao, điều này cũng

khẳng định được rằng Mỹ là thị trường xuất khẩu rất có triển vọng mà Việt Nam

cần phải đầu tư và thâm nhập vào.

Theo thương vụ Việt Nam tại Mỹ, ước tính trong năm 2005 lượng hàng

gia dụng gỗ của Việt Nam sang Mỹ ước tính đạt khoảng 500-550 triệu USD,

tăng gần 50% so với năm 2004 (năm 2004, kim ngạch nội thất đồ gỗ nước ta

sang thị trường này là khoảng 360 triệu USD)

Hiện nay, nhiều nhà nhập khẩu Hoa Kỳ đã bắt đầu có xu hướng chuyển

nguồn cung cấp từ Trung Quốc sang Việt Nam. Với diễn biến mới này, tốc độ

tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm gỗ Việt Nam trong những tháng

tới sẽ có bước đột phá mạnh.

Thời gian qua, số lượng các nhà nhập khẩu gỗ Hoa Kỳ sang khảo sát tình

hình sản xuất gỗ của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tăng và nhiều doanh

nghiệp đã đặt hàng đem về Hoa Kỳ để giới thiệu và tìm hiểu phản ứng của thị

trường.

Sản phẩm gỗ của Việt Nam chỉ mới xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ từ

cuối năm 2001 và hiện sản phẩm gỗ của Việt Nam chỉ đứng thứ 12 tại thị trường

này, chiếm 0,86% tỷ trọng trong khối lượng nhập khẩu đồ gỗ tại đây.

Yêu cầu của đối tác Mỹ đặt ra cho hàng xuất khẩu rất cao. Họ thường

khảo sát thị trường xem xét nhà xưởng, năng lực sản xuất rồi mới đi đến quyết

định đặt hàng

Khi soạn thảo hợp đồng, hầu hết các doanh nghiệp Mỹ đều đưa ra những

quy định rất rõ ràng về chủng loại gỗ, kích cỡ sản phẩm...

Theo như kết quả khảo sát điều tra của tôi và một số bạn ở cơ sở II,

trường Đại Học Ngoại Thương thực hiện trong tháng 4 năm 2005, số lượng

doanh nghiệp điều tra là 370 doanh nghiệp của một số doanh nghiệp trên địa bàn

Page 22: cạnh tranh của Michael Porter

- 22 -

thành phố Hồ Chí Minh và khu vực lân cận thì có đến 82% doanh nghiệp có

doanh số xuất khẩu tăng đều trong 3 năm gần đây.

Cũng theo số liệu điều tra này thì số doanh nghiệp xuất sang thị trường

Mỹ rất cao (121 doanh nghiệp chiếm 17.5%), chỉ sau các nước EU (158 doanh

nghiệp, chiếm 23.2%)

(Xem phụ lục 4, kết quả khảo sát các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu

gỗ trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh và khu vực lân cận)

Hiện nay trên cả nước có khoảng 1200 doanh nghiệp chế biến gỗ, trong

đó địa bàn thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến khoảng 50% và chiếm đến

khoảng 70% năng lực chế biến và tốc độ phát tăng trưởng trên 70%/năm. Do đó

có thể khẳng định rằng thành phố Hồ Chí Minh là một trong những khu vực

đứng đầu về xuất khẩu gỗ sang thị trường Mỹ.

2.2. Ưu thế của thành phố Hồ Chí Minh, ưu thế khác biệt so với các khu

vực trong nước.

Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 0,6% diện tích và 6,6% dân số so với cả

nước. Qua 10 năm phát triển (1991 – 2000), tỷ trọng kinh tế của Thành phố Hồ

Chí Minh vẫn tiếp tục gia tăng, điều này cho thấy Thành phố Hồ Chí Minh là nơi

hoạt động kinh tế năng động nhất của cả nước, là nơi có nhiều cơ hội để các doanh

nghiệp phát triển.

Bảng 2.2: So sánh một số chỉ tiêu kinh tế của Hồ Chí Minh so với cả nước

qua 5 năm.

Các chỉ tiêu so với cả nước 1990 1995 2000 1. GDP 13,66% 16,67% 19,3% 2. Giá trị sản xuất công nghiệp 26,24% 28,55% 29,69% 3. Giá trị dịch vụ 20,09% 22,12% 24,74% 4. Bán lẻ của Thành phố 23,41% 28,76% 28,32% 5. Tổng thu ngân sách trên địa bàn 22,6% 34%

Page 23: cạnh tranh của Michael Porter

- 23 -

Chỉ tiêu so với cả nước năm 1990

Chỉ tiêu so với cả nước năm 1995

Chỉ tiêu so với cả nước năm 2000

Hình 2.2. Sơ đồ so sánh các chỉ tiêu của thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước qua các năm

Nguồn: www.dpi.hochiminhcity.gov.vn

Cơ cấu khu vực kinh tế trong GDP của thành phố Hồ Chí Minh cũng rất

khác biệt so với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước, đây cũng là một

lợi thế cho các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh:

Bảng 2.3: So sánh cơ cấu kinh tế của Hồ Chí Minh so với vùng kinh tế

trọng điểm phía Nam và cả nước năm 1995 và 2000.

Khu vực kinh tế 1995 2000

TPHCM VKTTĐPN Cả nước TPHCM VKTTĐPN Cả nước

Khu vực I (Nông

lâm ngư nghiệp)

3,3% 5,9% 27,2% 2,3% 5,3% 25,4%

Khu vực II (Công

nghiệp – Xây dựng)

38,9% 49,7% 28,8% 41,1% 55,5% 34,5%

Khu vực III (Dịch

vụ)

57,8% 44,4% 44,1% 54,6% 39,2% 40,1%

Tốc độ tăng trưởng GDP, công nghiệp và dịch vụ của TPHCM,

VKTTĐPN và cả nước giai đoạn 2001 – 2010

Page 24: cạnh tranh của Michael Porter

- 24 -

Bảng2.4: So sánh tốc độ tăng trưởng của Hồ Chí Minh so với các vùng

kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước và dự báo cho thời kỳ 2006-2010.

Giai đoạn 2001-2005 2006-2010

TPHCM VKTTĐPN Cả nước TPHCM VKTTĐPN Cả nước

1. Tốc độ tăng GDP 11% 12% 7% 13% 8%

2. Tốc độ tăng trưởng

công nghiệp

13% 15% 10% 12,7% 14% 11%

3. Tốc độ tăng dịch vụ 9,6% 10% - 13,5% 15% -

Nguồn: www.dpi.hochiminhcity.gov.vn

Một Thành phố có số dân trên 7 triệu người vào năm 2010 và mức sống

tương đối cao (thu nhập bình quân/ đầu người vào năm 2010 là trên 3.000USD),

Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tiêu thụ hàng hoá lớn nhất của cả nước.

Từ nay đến năm 2010, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là đầu mối xuất nhập

khẩu lớn nhất của cả nước với hệ thống cảng biển khá phát triển. Việc hình

thành các hệ thống giao thông quan trọng như tuyến đường Đông – Tây, đường

Xuyên Á, cũng như việc mở rộng các tuyến đường trọng yếu trên địa bàn Thành

phố, … đã mở ra cơ hội gia tăng hoạt động thương mại dịch vụ trên địa bàn

Thành phố Hồ Chí Minh, do tổng mức lưu chuyển hàng hoá gia tăng cũng như

gia tăng khách du lịch bằng đường bộ.

Với vị thế về vị trí địa lý và với vai trò là trung tâm phát triển của cả

nước, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ có rất nhiều ưu thế về lợi thế

cạnh tranh so với các vùng khác trong nước.

2.3. Phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất và xuất

khẩu gỗ ở thành phố Hồ Chí Minh.

2.3.1. Các yếu tố nội tại tác động đến năng lực cạnh tranh của các doanh

nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ ở thành phố Hồ Chí Minh.

Page 25: cạnh tranh của Michael Porter

- 25 -

2.3.1.1. Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ.

Hoạch định chiến lược là một quy trình xác định các định hướng lớn cho

phép doanh nghiệp thay đổi, cải thiện và củng cố vị thế cạnh tranh của mình.

Việc ứng dụng quy trình hoạch định chiến lược, hầu như cho đến nay mới chỉ là

"mảnh đất riêng" của các doanh nghiệp lớn. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu chỉ

ra rằng hoạch định chiến lược có liên quan chặt chẽ đến hiệu quả tài chính của

các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng cho đến nay vẫn còn rất nhiều doanh

nghiệp nhỏ và vừa chưa quan tâm đến công tác này.

Theo số liệu thống kê của diễn đàn kinh tế thế giới, trong bảng báo cáo

công nghệ thông tin toàn cầu 2004-2005, chiến lược và hoạt động công ty của

Việt Nam đứng hạng 81 trên thế giới, thua xa Singapore xếp hạng 13, Malaysia

xếp hạng 28, Trung Quốc xếp hạng 39 và Phillipines xếp hạng 50.

Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ vừa và nhỏ không có

chiến lược cạnh tranh rõ ràng, có một số doanh nghiệp không có chiến lược

cạnh tranh, và chỉ làm hàng theo yêu cầu của khách hàng, theo những mẫu mã

đã có sẵn từ phía khách hàng. Tuy biết rằng thị trường Mỹ là một thị trường lớn

và tiềm năng, các công ty vẫn cứ hoạch định là thâm nhập vào thị trường Mỹ

nhưng không có một chiến lược khả thi để thâm nhập vào thị trường này. Có thể

quy cho những nguyên nhân sau:

- Do không có thời gian: ở các doanh nghiệp nhỏ, người chủ doanh

nghiệp thường là người điều hành trực tiếp, do đó thời gian của họ chủ yếu được

giành cho việc giải quyết những vấn đề tác nghiệp hàng ngày và hầu như không

còn thời gian để quan tâm tới việc hoạch định dài hạn.

- Do không quen với việc hoạch định chiến lược: có nhiều chủ doanh

nghiệp chưa nhận thức được công dụng của hoạch định chiến lược hoặc họ cho

rằng chiến lược không có liên quan nhiều đến tình trạng kinh doanh của họ.

Page 26: cạnh tranh của Michael Porter

- 26 -

- Do thiếu kỹ năng: các chủ doanh nghiệp nhỏ, do hạn chế về trình độ

nên thường thiếu những kỹ năng cần thiết để bắt đầu hoạch định một chiến lược,

ngoài ra họ cũng không muốn tốn tiền để thuê tư vấn.

- Do thiếu niềm tin: có nhiều chủ doanh nghiệp vốn rất nhạy cảm với

những thông tin quan trọng liên quan đến công việc kinh doanh của họ và họ

thấy không thoải mái khi phải chia sẻ những tính toán chiến lược của mình cho

nhân viên hoặc người ngoài.

Những lý do trên làm cho hoạch định chiến lược ngày càng trở nên mờ

nhạt trong quan niệm của các nhà quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vậy làm

thế nào để hoạch định chiến lược thực sự có một chỗ đứng như nó cần phải có

trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do không có chiến lược cạnh tranh rõ ràng

nên việc khẳng định và cũng cố vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường thế

giới là một vấn đề khó khăn và cần phải khắc phục.

2.3.1.2. Nguồn nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp

Nguồn nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp chủ yếu là nguyên liệu gỗ,

nguyên liệu đầu vào tác động rất lớn đến chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm

và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

Nguồn nguyên liệu gỗ hiện tại có được từ nguồn nguyên liệu gỗ trong

nước (từ rừng trồng và rừng tự nhiên) và nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu.

Nếu như năm 1990 Việt Nam khai thác bình quân 1,8 triệu m3 gỗ một

năm thì từ năm 2000 đến nay khai thác bình quân 300.000m3 gỗ rừng tự nhiên.

Theo đánh giá của các chuyên gia, thành phố Hồ Chí Minh chiếm khoảng

70% năng lực sản xuất các sản phẩm gỗ xuất khẩu trong cả nước, do đó nhu cầu

sử dụng nguồn nguyên liệu cũng rất cao (chiếm đến 70%)

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, diện tích rừng

tự nhiên hiện có của Việt Nam là 9.44 triệu ha, trữ lượng 720,9 triệu m3 gỗ. Để

bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển bền vững, Chính phủ đã giới hạn khai

Page 27: cạnh tranh của Michael Porter

- 27 -

thác gỗ từ những rừng tự nhiên tại địa phương chỉ khoảng 300.000 m3 mỗi năm

trong giai đoạn 2000 đến 2010, chủ yếu để phục vụ cho nhu cầu xây dựng, sản xuất

đồ gỗ trong nước (250.000 m3) và sản xuất hàng mỹ nghệ xuất khẩu (50.000 m3).

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng đang triển khai chương trình trồng

mới 5 triệu ha rừng và cho đến năm 2010 Việt Nam sẽ có thêm 2 triệu ha rừng

phòng hộ, rừng đặc dụng và 3 triệu ha rừng sản xuất.

Bảng 2.5. Sản lượng gỗ khai thác của Việt Nam qua các năm

Năm Tổng số ( Nghìn m3 ) Chỉ số phát triển ( Năm trước =100 ) - %

1990 3445.5 105.6 1991 3209.6 93.2 1992 2686.5 83.7 1993 2883.8 107.3 1994 2853.2 98.9 1995 2793.1 97.9 1996 2833.5 101.4 1997 2480.0 87.5 1998 2216.8 89.4 1999 2122.5 95.7 2000 2375.6 111.9 2001 2397.2 100.9 2002 2504.0 104.5 2003 2500.0 99.8

Nguồn: Tổng cục thống Kê

Để bù đắp sự thiếu hụt về nguyên liệu gỗ rừng tự nhiên, hàng năm Việt

Nam phải nhập khẩu khoảng 250.000 đến 300.000 m3 gỗ từ các nước lân cận và

tăng cường sử dụng gỗ rừng trồng, ván nhân tạo để sản xuất hàng xuất khẩu.

Nguồn gỗ nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á như Campuchia, Lào, Indonesia,

Malaysia thường không ổn định do chính sách lâm sản của các quốc gia này

luôn thay đổi, trong khi nguồn nhập khẩu từ các quốc gia khác như New

Zealand, Australia, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Canada, Mỹ, Châu Phi lại

Page 28: cạnh tranh của Michael Porter

- 28 -

cách xa về địa lý nên giá thành nguyên liệu bị đội lên rất cao, giảm khả năng

cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam.

Cho đến nay, nguồn gỗ nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là từ Malaysia

(60 triệu USD), Lào (36 triệu USD), Campuchia (29 triệu USD), Indonesia (18

triệu USD)... Song thực tiễn nhiều năm qua đã chỉ ra: các quốc gia có rừng tự

nhiên trong khu vực như Indonesia, Myanmar, Lào, Campuchia v.v... ngày càng

hạn chế tối đa việc khai thác xuất khẩu gỗ do nguồn tài nguyên rừng ngày càng

cạn kiệt và do tác động từ các khuyến cáo của các tổ chức quốc tế. Hơn thế nữa,

thế giới trong xu thế quản lý rừng thương mại đã có hàng loạt biện pháp, trong

đó biện pháp hữu hiệu nhất là quản lý bằng hệ thống chứng chỉ được cấp với

rừng trồng và được thế giới công nhận như hệ thống FSC (Forest Stewardship

Council) với 28 triệu ha; hệ thống quản lý môi trường ISO 14001 với 103 triệu

ha; sáng kiến rừng bền vững Mỹ (the American Sustainable Forestry Initiative)

với 38 triệu ha và Hội đồng chứng nhận rừng Châu Âu Pan (Pan European

Forest Certification Council) với 43 triệu ha.

Sử dụng phổ biến nhất là hệ thống chứng chỉ của tổ chức FSC bởi các

tiêu chí của tổ chức phi chính phủ này là: quản lý tài nguyên thế giới bền vững,

vì lợi ích lâu dài các mặt: xã hội, môi trường, kinh tế nhằm đảm bảo rừng trên

thế giới được bảo vệ cho các thế hệ sau. Để vào được các thị trường lớn như:

EU, Mỹ, khối liên hiệp Anh, các sản phẩm gỗ xuất khẩu của các nước - trong đó

có Việt Nam phải có một trong những chứng chỉ trên và thuận lợi nhất là sử

dụng chứng chỉ FSC. Do đó, việc cân nhắc nhập khẩu hàng gỗ từ các quốc gia

có rừng FSC là một trong những tiêu chí lựa chọn thị trường nguyên liệu gỗ của

Việt Nam. Thị trường gỗ của Malaysia, New Zealand, Nam Phi và Mỹ chính là

các thị trường Việt Nam đang hướng tới. Bên cạnh đó, tiềm năng thị trường

nguyên liệu gỗ của một số quốc gia khác như Brazil cũng nên được định hướng.

Page 29: cạnh tranh của Michael Porter

- 29 -

Bảng 2.6. Kim ngạch nhập khẩu gỗ của Việt Nam từ các nước/khu vực

(đvt:1.000 USD)

Nước/khu vực Năm 2000

Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003

Campuchia 11.698 17.580 28.022 28.9000 Indonesia 20.431 22.718 14.475 17.3000 Lào 36.024 34.778 36.181 Malaysia 27.560 30.438 61.448 59.500 Thái Lan 9.295 5.753 11.114 Singapore 11.018 2.779 5.222 Đài Loan 4.361 6.399 11.265 New Zealand 2.796 4.154 8.885 Mỹ 745 4.934 16.658 17.3000 Các nước khác 27.654 31.779 56.417

Tổng cộng 151.582 161.312 249.687 250.000

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê

Hiện nay, ở Việt Nam chưa có khu rừng nào có chứng chỉ rừng (FSC),

trong khi đó nhu cầu sử dụng các sản phẩm có chứng chỉ nguồn gốc xuất xứ

ngày một cao ở hầu hết các thị trường lớn.

Do những tác động của con người như khai thác lâm sản (hợp pháp và

bất hợp pháp), chuyển đổi đất lâm nghiệp sang trồng trọt và chăn nuôi, xây

dựng, đô thị hóa v.v... nên diện tích rừng tự nhiên đã và đang bị giảm đi đáng

kể. Theo ước tính của FAO, hàng năm diện tích rừng tự nhiên trên toàn cầu mất

đi khoảng 9 triệu ha (FAO, 2001). Ở Việt Nam, năm 1943 tổng diện tích rừng cả

nước khoảng 14,3 triệu ha song đến năm 2001 diện tích rừng chỉ còn khoảng

11,3 triệu ha và diện tích đất không có rừng khoảng 8 triệu ha. Môi trường sống

của nhiều loài động, thực vật rừng cũng biến mất hoặc bị thoái hóa nghiêm

trọng.

Thực tế cho thấy nếu chỉ có các biện pháp truyền thống như tăng cường

luật pháp, tham gia các công ước... thì không thể bảo vệ được diện tích rừng tự

nhiên hiện còn của nhân loại, nhất là rừng nhiệt đới tập trung chủ yếu ở các

nước đang phát triển. Một trong những biện pháp quan trọng hiện nay, được cả

Page 30: cạnh tranh của Michael Porter

- 30 -

cộng đồng quốc tế cũng như từng quốc gia đặc biệt quan tâm, kết hợp với các

giải pháp truyền thống nêu trên là cần phải thiết lập quản lý rừng bền vững và

chứng chỉ rừng.

Chứng chỉ rừng (Forest Certification) chính là sự xác nhận bằng văn bản

– giấy chứng chỉ rằng một đơn vị quản lý rừng được cấp chứng chỉ đã đáp ứng

đầy đủ những tiêu chuẩn về quản lý rừng bền vững. Giấy chứng chỉ này là thông

điệp bảo đảm với người tiêu dùng và tất cả những ai quan tâm đến bảo vệ rừng

và môi trường rằng sản phẩm rừng của đơn vị được cấp chứng chỉ đã được sản

xuất trên cơ sở rừng được tái tạo lâu dài, không ảnh hưởng đến các chức năng

sinh thái của rừng và môi trường xung quanh và không làm suy giảm tính đa

dạng sinh học.

Hiện nay, nhiều người tiêu dùng đã nhận thức được tầm quan trọng của

các mặt hàng đồ gỗ được cấp chứng chỉ rừng, thậm chí hội người tiêu dùng tại

Anh, Hà Lan còn có xu hướng tẩy chay sử dụng các loại hàng không có nguồn

gốc xuất xứ. Nhu cầu đối với gỗ nhiệt đới đã được chứng chỉ ở thị trường châu

Âu và Mỹ đã vượt quá cung. Hiện có hơn 8.000 sản phẩm trên khắp thế giới có

mang biểu trưng của chứng chỉ rừng (FSC) từ cửa gỗ đến lược chải đầu, từ văn

phòng phẩm đến giấy toilet. Ngày nay, mạng lưới lâm sản toàn cầu, một nhóm

các tổ chức và công ty cam kết sản xuất và buôn bán gỗ và lâm sản đã được

chứng chỉ, đã có mạng lưới ở 18 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới với hơn

600 thành viên. Theo kết quả thống kê nhu cầu sử dụng hàng có chứng chỉ rừng

đã gia tăng với tỷ lệ 2-3% mỗi năm ở Anh. Ở Hà Lan có 500 công ty cùng với

nhà nhập khẩu gỗ nhiệt đới lớn nhất ở châu Âu và lớn thứ 2 trên toàn thế giới,

hiện đã cam kết chỉ mua sản phẩm đã có FSC. Các mạng lưới bán lẻ rất lớn từ

Anh và Mỹ cũng hoạt động với vai trò xúc tác cho những thay đổi bởi họ đang

gia tăng yêu cầu các nhà cung cấp của họ cung cấp cho họ gỗ đã được chứng

chỉ.

Page 31: cạnh tranh của Michael Porter

- 31 -

Có thể nêu đây mục tiêu dài hạn của IKEA, một tập đoàn đang hoạt động

mạnh tại Việt Nam, là đảm bảo rằng tất cả các sản phẩm gỗ tại IKEA đều có

nguồn gốc từ các khu rừng đã được xác định là quản lý tốt. Bước đầu tiên trong

việc đạt được mục tiêu này là yêu cầu tất cả những nhà cung cấp lâm sản thực

hiện các yêu cầu tối thiểu sau: Gỗ sử dụng phải được sản xuất tuân thủ theo luật

pháp và các quy định về hoạt động lâm nghiệp hiện hành; Gỗ sử dụng không

được khai thác từ các khu rừng cổ xưa hoặc có giá trị bảo tồn cao, trừ phi khu

vực rừng đó đã được chứng chỉ theo các nguyên tắc và tiêu chí của FSC hoặc

một hệ thống tương tự. Bước thứ 2 để đạt được mục tiêu này là nới rộng các yêu

cầu trên đối với các nhà cung cấp các lâm sản khác. Để kiểm tra các thành tựu

đạt được sau khi thực hiện các bước trên, IKEA sẽ thiết lập một hệ thống cho

phép theo dõi hành trình gỗ trong sản phẩm nó tạo thành đến các đơn vị quản lý

rừng cụ thể.

2.3.1.3. Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp

Có thể nói rằng chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn

vào nguồn nguyên liệu gỗ. Chất lượng nguồn nguyên liệu tốt thì sẽ dẫn đến chất

lượng của sản phẩm tốt. Theo đánh giá của các đối tác nước ngoài thì sản phẩm

gỗ của Việt Nam so về chất lượng và kiểu dáng thì không thua kém gì so với

các sản phẩm của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia, Indonesia

v.v…

Tuy nhiên vấn đề quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ

không được thực hiện một cách chặt chẽ. Chất lượng sản phẩm được hình thành

từ các khâu riêng biệt của quá trình sản xuất, các khâu của quá trình sản xuất

thường bao gồm:

- Khâu kiểm tra nguồn nguyên liệu gỗ, kiểm tra chất lượng sản phẩm

gỗ, các số liệu kỹ thuật của sản phẩm gỗ từ khâu sấy gỗ, ra phôi v.v…. Các vấn

đề mà hầu hết các doanh nghiệp không đạt được về mặt chất lượng như độ ẩm

của sản phẩm, độ đồng màu của sản phẩm, các số liệu kỹ thuật của sản phẩm

Page 32: cạnh tranh của Michael Porter

- 32 -

v.v… Hiện nay theo quy định chung của các khách hàng Mỹ, độ ẩm của sản

phẩm gỗ thành phẩm an toàn là nhỏ hơn 12% cho sản phẩm trong nhà và nhỏ

hơn 16-17% cho sản phẩm ngoài trời (độ ẩm này tùy thuộc vào thỏa thuận giữa

hai bên mua và bán). Do đó việc kiểm tra độ ẩm gỗ ngay từ khâu ra phôi là rất

quan trọng, vì giải pháp để khắc phục giảm độ ẩm của sản phẩm khi là thành

phẩm là rất khó khăn. Vấn đề này được giải quyết từ khâu sấy gỗ.

- Khâu kiểm tra từng khâu trong quá trình sản xuất, từng công đoạn

một.

- Khâu kiểm tra thành phẩm, đóng gói v.v…

Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chú trọng nhiều đến khâu

kiểm tra chất lượng cho từng công đoạn và các sai sót trong quá trình sản xuất

trong từng khâu là khó phát hiện được.

Ngoài ra chất lượng của các thành phần phụ (accessories) cũng ảnh

hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm mà vấn đề này chưa được các doanh

nghiệp đặc biệt quan tâm.

Với nhu cầu sử dụng các sản phẩm gỗ FSC ngày một lớn không chỉ ở các

nước Châu Âu mà là ở Mỹ là một nhu cầu và đòi hỏi ngày càng cao, trong khi

số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ có được chứng chỉ này không nhiều, đây

là lý do khiến cho việc thâm nhập vào thị trường Mỹ khó khăn so với các doanh

nghiệp lớn khác như Scancom, Ikea v.v… và các nước trong khu vực.

Với cùng một loại gỗ như gỗ dầu (Keruing), nhưng loại gỗ có nguồn gốc

FSC luôn luôn mắc hơn gỗ không có nguồn gốc FSC (đôi khi mắc hơn đến 1.5

lần) nhưng các công ty nước ngoài sẵn sàng mua với loại gỗ FSC.

Điều kiện để doanh nghiệp có thể sản xuất và cung cấp sản phẩm với loại

gỗ FSC (thông thường sản phẩm được đóng biểu tượng FSC lên) thì bắt buộc

doanh nghiệp phải có chứng chỉ công nhận của quốc tế - chứng chỉ COC (Chuỗi

hành trình của sản phẩm) và phải có số COC. Ngoài cạnh được công nhận

Page 33: cạnh tranh của Michael Porter

- 33 -

chứng chỉ COC, doanh nghiệp phải kiểm soát chuỗi hành trình sản phẩm qua

các khâu sau:

- Thu mua nguyên liệu gỗ

- Đầu vào tốt

- Kiểm tra trong sản xuất

- Hàng hóa thành phẩm và lưu kho.

- Việc bán hàng

Ngoài ra doanh nghiệp phải có chứng từ phù hợp chứng minh thành

phẩm có nguồn gốc từ rừng trồng và được xuất trình cho cơ quan thẩm tra khi

có yêu cầu.

Theo kết quả thống kê của tôi và sinh viên Trường Đại Học Ngoại

Thương thực hiện trên các doanh nghiệp phía Nam, chỉ có khoảng 40% số

doanh nghiệp cho rằng chất lượng sản phẩm gỗ là một trong những lợi thế cạnh

tranh của họ.

2.3.1.4. Khả năng cạnh tranh về mặt giá cả của doanh nghiệp

Có thể nói giá cả là một yếu tố quan trọng trong việc tạo nên lợi thế cạnh

tranh của doanh nghiệp. Giá cả của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào giá

thành để sản xuất ra sản phẩm. Đối với những mặt hàng gỗ tiêu dùng thông

dụng, những mặt hàng mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể làm được thì giá

cả là công cụ cạnh tranh chủ yếu giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như

nước ngoài. Các yếu tố đầu vào quyết định đến tính cạnh tranh của giá cả bao

gồm:

- Nguồn nhân công của doanh nghiệp:

Có thể nói nguồn lực lượng lao động của cả nước nói chung và của thành

phố Hồ Chí Minh nói riêng tương đối rẻ, đây là một lợi thế cạnh tranh cho các

doanh nghiệp đối với các đối thủ cạnh tranh khác như Trung Quốc, Malaysia,

Page 34: cạnh tranh của Michael Porter

- 34 -

Đài Loan, Hồng Kông, Singapore v.v… Một số lượng rất lớn các doanh nghiệp

xuất khẩu trực tiếp sang thị Trường Mỹ là doanh nghiệp nước ngoài như Đài

Loan, Singapore v.v… họ qua Việt Nam để tận dụng lợi thế cạnh tranh giá lao

động rẻ.

Tuy nhiên với thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay chỉ ở

mức khoảng trên 500 USD/năm, thì điều này cũng chứng tỏ được rằng giá lao động

của Việt Nam tương đối rẻ. Ở thành phố Hồ Chí Minh, giá thuê công nhân chỉ

khoảng 1.5USD- 2 USD một ngày trong khi đó giá thuê nhân công ở các tỉnh miền

Trung lại càng thấp hơn chỉ khoảng 1USD/ngày. Thu nhập đầu người của Việt

Nam thua xa các nước Việt Nam đang đối đầu trong cạnh tranh quốc tế trong khu

vực như Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, v.v…

Chỉ số GNI cũng một phần nào phản ánh được giá cả lao động của các nước

trong khu vực, mức độ phát triển của một quốc gia và thu nhập của mỗi người dân

và tất nhiên là chi phí lao động luôn luôn gắn liền với thu nhập bình quân trên đầu

người. Qua bảng thống kê trong phụ lục 5 có thể dễ dàng nhận thấy GNI/người của

Việt Nam (năm 2003) chỉ có 480 USD/năm, trong khi Trung Quốc là 1,094 USD,

Malaysia là 4,164 USD và cũng dễ dàng nhận thấy rằng so với các nước trong khu

vực (trừ Campuchia, Lào và Myanma), GNI/người của Việt Nam thấp hơn nhiều

các nước này, điều này cũng phản ánh chi phí lao động của Việt Nam so với các

nước này rất cạnh tranh, đặc biệt là nguồn lao động thủ công. Ở đây cũng xin nói rõ

rằng chi phí lao động thủ công chính là yếu tố chính cấu thành nên chi phí của sản

phẩm đối với mặt hàng gỗ, đều này cũng là một yếu tố chính quyết định khả năng

cạnh tranh của ngành hàng chế biến và xuất khẩu gỗ của Việt Nam nói chung và

của Hồ Chí Minh nói riêng.

- Giá cả nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp:

Theo như phân tích ở trên, nguồn nguyên liệu gỗ của Việt Nam phụ

thuộc nhiều vào gỗ nhập khẩu. Có đến 80% nhu cầu về gỗ phải nhập khẩu từ các

nước láng giềng như Indonesia, Malaysia, Lào, Cam pu chia v.v… và hầu như

Page 35: cạnh tranh của Michael Porter

- 35 -

tất cả gỗ mang nguồn gốc rừng trồng (FSC) phải được nhập từ Bắc Mỹ, Ba Lan,

Phần Lan, Châu Phi, v.v… Do đó có thể khẳng định rằng giá cả nguyên liệu của

Việt Nam cao hơn hẳn so với các nước trong khu vực và điều này cũng ảnh

hưởng nhiều đến giá cả sản phẩm và giảm tính cạnh tranh so với các nước trong

khu vực.

Trong những năm gần đây theo đánh giá của các doanh nghiệp ở phía

Nam, giá nhập khẩu gỗ tăng từ 10-30%, điều này sẽ tăng thêm giá thành sản

xuất sản phẩm, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ.

Theo thời báo kinh tế ngày nay (ngày 19/05/2005), giá các loại gỗ MDF

tăng từ 210 USD lên 250 USD/m3. Các loại gỗ thông mua từ Bắc Âu tăng từ 180

USD lên 205 USD/m3. Các loại ván, gỗ nguyên liệu khác như Falcat tăng từ 265

USD lên 330 USD/m3, PB tăng từ 130 USD lên 160 USD/m3…

Mặt khác với nhu cầu sử dụng gỗ FSC ngày càng cao trong khi đó ở Việt

Nam chưa có khu rừng nào đạt được chứng chỉ FSC, cho nên tất cả nguyên liệu

gỗ FSC phải được nhập từ nước ngoài, do đó giá cả nguyên liệu rất cao do phải

tốn tiền vận chuyển, chi phí nhập khẩu v.v…

Cũng theo kết quả khảo sát các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh,

có đến 64% doanh nghiệp cho rằng giá cả nguyên liệu gỗ nhập khẩu cao hơn so

với trong nước.

Có thể quy cho việc tăng giá gỗ gồm một số nguyên nhân sau:

- Đa số khách hàng nước ngoài chỉ ưa chuộng các sản phẩm có nguồn gỗ

đặc chuẩn nên các loại gỗ trong nước không đáp ứng được yêu cầu.

- Cầu đang vượt cung về nguyên liệu gỗ xuất khẩu, do các nguyên nhân

sau:

+ Trên khắp thế giới người ta ngày càng quan tâm đến việc khai thác bất

hợp lý rừng, đặc biệt là việc phá huỷ rừng nhanh chóng từ các rừng nhiệt đới.

Điều này có nghĩa là việc cung cấp gỗ cứng từ những rừng này giảm dần trong

Page 36: cạnh tranh của Michael Porter

- 36 -

khi nhu cầu về gỗ trên thị trường thế giới ngày một tăng nhanh, đẩy giá nhập

khẩu gỗ tăng cao.

+ Tốc độ trồng rừng chậm hơn nhiều so với tốc độ gia tăng nhu cầu tiêu

thụ sản phẩm trên thế giới, do đó nhu cầu gỗ vượt xa khả năng cung cấp.

+ Hai nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất là Trung Quốc và Hàn Quốc gia

tăng số lượng nhập khẩu nguyên liệu, sự tăng trưởng nhanh kinh tế ở Trung

Quốc và Hàn Quốc khiến cho nhu cầu sản phẩm tăng nhanh, do đó làm tăng

nhanh lượng cầu trong khi cung không đổi.

- Giá cả nhiên liệu ngày một leo thang dẫn đến chi phí vận chuyển tăng

lên, chi phí vận chuyển tăng lên từ 10-20 USD/m3.

- Giá cả các yếu tố liên quan đến giá thành/giá cả sản phẩm:

Giá các sản phẩm hỗ trợ cho các sản phẩm gỗ cũng tăng lên trong thời

gian qua. Không chỉ giá các loại nguyên liệu gỗ tăng cao, giá các phụ liệu kèm

theo như sắt, thép sử dụng trong chế biến đồ gỗ nội thất cũng tăng chóng mặt,

giá inox tăng hơn 40% so cùng kỳ. Với mức tăng này giá thành sản phẩm gỗ

xuất khẩu tại các công ty tăng thêm 15% - 20%. Nơi nào chế biến mặt hàng sử

dụng nhiều phụ liệu, mức tăng có thể lên đến 30%.

Ngoài ra các chi phí khác như chi phí điện nước, chi phí điện thoại, chi

phí thuê văn phòng v.v…. cũng ảnh hưởng rất lớn đến giá cả sản phẩm và lợi

thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Hiện tại chi phí điện thoại đường dài và quốc

tế của Việt Nam thuộc loại cao so với các nước trong khu vực, trong khi đó điện

thoại nội hạt theo thống kê của ngân hàng Thế Giới thì Việt Nam thuộc loại

thấp, thấp hơn so với mức trung bình của Châu Á Thái Bình Dương và thế giới.

Tuy nhiên Philippines vẫn là nước ưu đãi về chi phí điện thoại nội hạt, theo số

liệu thống kê của ngân hàng Thế Giới, năm 2003 chi phí điện thoại nội hạt của

Việt Nam tương đương với Malaysia và Singapore (0.02 USD/3’), trong khi đó

Thái Lan là nước có chi phí điện thoại mắc nhất trong khu vực (0.07USD/3’)

Page 37: cạnh tranh của Michael Porter

- 37 -

Còn về chi phí điện, giá điện kinh doanh ở Việt Nam tuy không cao

nhưng chất lượng của dịch vụ cung cấp còn bị hạn chế, trung bình gây thêm tổn

thất về chi phí điện của doanh nghiệp từ 10-15%

Chi phí cho thuê mặt bằng của Việt Nam cũng thuộc loại không cao lắm

so với các nước khác trong khu vực, ví dụ, mức giá thuê ở khu vực thành thị có

5 hạng từ khoảng mức trần sàn 0,18-2,16 USD/m2/năm lên tới 1-12

USD/m2/năm, đây là mức giá tuy không cao lắm nhưng có sự khác biệt rất

nhiều về khả năng tiếp cận giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI

với doanh nghiệp Nhà nước.

Ngược lại, chi phí văn phòng vào loại cao so với các thành phố lớn ở các

nước khu vực. Tại thành phố Hồ Chí Minh giá thuê văn phòng loại tốt lên tới

15- 20 USD/m2/tháng.

Nhìn chung xét yếu tố cạnh tranh về mặt giá cả, với ưu thế về mặt chi phí

nhân công (một yếu tố chính quyết định giá cả), mặt hàng gỗ của Hồ Chí Minh

hoàn toàn có khả năng cạnh tranh so với các nước trong khu vực như Trung

Quốc, Đài Loan v.v…

2.3.1.5. Thương hiệu của doanh nghiệp

Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ đều không chú trọng

nhiều đến thương hiệu. Hiện tại có hơn đến 90% đồ gỗ xuất khẩu của Hồ Chí

Minh mang thuơng hiệu nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là phần lớn các

doanh nghiệp xuất khẩu qua trung gian và mang nhãn hiệu của công ty trung

gian hay nhãn hiệu nước ngoài.

Do đó về vấn đề thương hiệu, Việt Nam thua xa Đài Loan nơi mà họ có

thế mạnh rất lớn về xuất khẩu gỗ trong khi đó nguồn nguyên liệu trong nước của

họ không phải là thế mạnh, tuy nhiên họ biết liên kết lại với nhau để bảo vệ

thương hiệu của mình. Do đó một phần lớn lượng xuất khẩu của chúng ta sang

Mỹ đều bán qua nước trung gian là Đài Loan.

Page 38: cạnh tranh của Michael Porter

- 38 -

Nguyên nhân các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam chưa chú trọng

nhiều đến thương hiệu là do các doanh nghiệp Việt Nam chưa nhận thức đúng

mức về thương hiệu, do đó họ còn gặp khó khăn về việc xây dựng và phát triển

thương hiệu. Mặt khác nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp này chưa có

nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng thương hiệu, kinh phí để đầu tư cho việc

xây dựng thương hiệu còn ít.

Người tiêu dùng (hay người nhập khẩu Mỹ) họ thích mua những mặt

hàng có thương hiệu là vì họ cảm thấy an tâm về xuất xứ hàng hóa, uy tín của

thương hiệu đó, sự an tâm về chất lượng hàng hóa, giảm rủi ro v.v…

Trong khi đó ở Việt Nam, trên 90% các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu

gỗ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và không có một thương hiệu rõ ràng, người

Mỹ rất e ngại khi làm việc với doanh nghiệp không danh tiếng hay không

thương hiệu, họ không bao giờ làm việc với ai khi không hiểu rõ về đối tác của

mình.

Do đó, xét về mặt thương hiệu, mặt hàng gỗ của Việt Nam nói chung và

của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng là kém cạnh tranh hơn hẵn so với các

nước trong khu vực như Đài Loan, Malaysia, Trung Quốc v.v… và một số

doanh nghiệp ở nước ngoài tận dụng cạnh tranh về mặt giá cả của Việt Nam với

thương hiệu của mình đã thiết lập nhà máy sản xuất tại Việt Nam hoặc mua các

sản phẩm gỗ của Việt Nam để xuất sang thị trường Mỹ.

2.3.1.6. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp

Nguồn nhân lực của doanh nghiệp phản ánh trình độ, mức độ chuyên

môn của doanh nghiệp và nó cũng là yếu tố tác động lên chuỗi giá trị của doanh

nghiệp theo mô hình của Porter và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp.

Hầu hết khả năng chuyên môn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt

Nam thấp, có nhiều doanh nghiệp cán bộ quản lý thiếu kỹ năng về ngoại ngữ.

Page 39: cạnh tranh của Michael Porter

- 39 -

Tuy nhiên trong những năm gần đây, chất lượng nguồn nhân lực trong

các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày một cải tiến. Theo kết quả khảo sát qua

một số doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận thì có đến

73% các cán bộ quản lý, kinh doanh đã qua khóa đào tạo nghiệp vụ ngoại

thương, trình độ học vấncủa đội ngũ quản lý là 11% trên đại học, 69% ở bậc Đại

học và cao đẳng, còn lại là bậc phổ thông.

Còn về trình độ ngoại ngữ thì theo khảo sát tỷ lệ người biết ngoại ngữ

khá cao, chiếm đến 96%, trong đó có 56.2% cán bộ có trình độ C và trên C,

27.3% cán bộ có trình độ B, 4.1% cán bộ có trình độ A và có 12.4% cán bộ biết

2 ngoại ngữ.

Còn về trình độ vi tính thì theo kết quả điều tra thì có đến 94% cán bộ

biết sử dụng vi tính, trong đó có 51% cán bộ có trình độ C.

Tuy nhiên khi so sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á thì trình

độ tiếng Anh của Việt Nam chỉ đứng hạng thứ 6 (đứng đầu là Singapore)

Đối với các doanh nghiệp, tỷ lệ người biết chữ là một yếu tố khách quan

đối với họ, tuy nhiên đối với phạm vi vĩ mô của một quốc gia, nó cũng phản ánh

trình độ nguồn nhân lực và năng lực cạnh tranh của quốc gia đó.

Theo số liệu thống kê trên thì tỷ lệ biết chữ của Việt Nam tương đương

đối với các nước trong khu vực, năm 2002 là 93.9% (xem phụ lục số 6)

Tuy nhiên có thể khẳng định rằng nguồn lao động của Việt Nam rất khéo

léo và chịu khó học hỏi, nhiều sản phẩm cần đến sự khéo léo của tay nghề mà

máy móc khó có thể thực hiện được đều được sản xuất tốt dựa vào bàn tay khéo

léo của nhiều thợ Việt Nam. Đây cũng là một lợi thế cạnh tranh của ngành của

Việt Nam so với các nước trong khu vực.

Xét về lực lượng lao động, theo cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh,

lao động của thành phố Hồ Chí Minh khá dồi dào. Năm 2003 ở thành phố Hồ

Page 40: cạnh tranh của Michael Porter

- 40 -

Chí Minh có 2.503.213 người đang làm việc, năm 2004 là 2.561.104 người,

trong đó có trên 1 triệu người làm việc trong các ngành sản xuất.

Nhìn chung nguồn nhân lực, lao động của doanh nghiệp có các đặc điểm

sau:

- Trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa đồng đều, nhiều công ty chế biến

hàng xuất khẩu vẫn chưa áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng toàn diện như

tiêu chuẩn ISO, sản xuất theo các tiêu chuẩn Quốc tế phù hợp với chất lượng

hàng xuất khẩu vì vậy mà chuyên môn của các chuyên viên kỹ thuật ở các công

ty cũng đòi hỏi khác nhau.

- Các kỹ sư được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật ở nước ta chưa phổ

biến

- Chất lượng tay nghề của thợ ở các doanh nghiệp không ổn định, đều

này chủ yếu do nguyên nhân mức độ ổn định của nguồn nhân lực của công nhân

không được đảm bảo.

- Các công ty chủ yếu sản xuất dựa trên kinh nghiệm là chính mà không

theo một quy trình kỹ thuật nào, đều này hạn chế việc nâng cao trình độ của các

cán bộ kỹ thuật

2.3.1.7. Chất lượng dịch vụ, khả năng đáp ứng yêu cầu khách hàng của các

doanh nghiệp.

Trong chuỗi giá trị của Porter, vai trò của dịch vụ là một trong những yếu

tố quan trọng trong việc gia tăng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, dịch vụ

mà các doanh nghiệp cần quan tâm trong việc xuất khẩu gỗ sang thị trường Mỹ

là dịch vụ tiếp thị và bán hàng, dịch vụ hậu mãi v.v…

Hiện tại có thể nói rằng chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp vừa và

nhỏ chưa cao, họ hoạt động còn thiếu hệ thống, thiếu tính khoa học, thiếu tính

chuyên nghiệp, đây cũng là lý do khiến do giảm năng lực cạnh tranh khi tham

gia vào thị trường Mỹ.

Page 41: cạnh tranh của Michael Porter

- 41 -

Chất lượng dịch vụ ở đây còn bao hàm chất lượng đảm bảo đúng lúc, kịp

thời. Khách hàng luôn luôn thích được đáp ứng những việc đáp ứng nhu cầu kịp

lúc. Đa số nguồn nguyên liệu của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào nguồn

nhập khẩu, do đó doanh nghiệp không chủ động được nguồn nguyên liệu của

mình và khó có khả năng kiểm soát chặt chẽ thời gian sản xuất để đáp ứng cho

khách hàng.

Uy tín là một yếu tố quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh,

việc giao hàng đúng lúc là một yếu tố quan trọng nhằm nâng cao chất lượng

dịch vụ, sản xuất của công ty mình. Tuy nhiên, theo như hàng năm, đối với mặt

hàng xuất khẩu gỗ, mùa cao điểm (mùa khách hàng đặt hàng nhiều) bao gồm từ

tháng 11 năm này đến tháng 5 năm sau, do đó trong mùa cao điểm các doanh

nghiệp thường luôn luôn giao hàng không đúng trong hợp đồng (trung bình trễ

từ 1-2 tuần/đơn hàng). Đã có không ít doanh nghiệp giao hàng trễ và bị phạt hợp

đồng hoặc là bị hủy hợp đồng.

Một nghịch lý là ngày nay vấn đề giao dịch hoàn toàn được thực hiện qua

email là chủ yếu, nhưng một số doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn rất xa lạ với

việc sử dụng email trong giao dịch hằng ngày.

Các công cụ bán hàng và tiếp thị cho thị trường Mỹ của các doanh

nghiệp đa số là chưa hoàn chỉnh, đa số các doanh nghiệp bán hàng qua trung

gian, sản xuất theo đơn hàng và mẫu mã của khách hàng.

2.3.2 Các yếu tố từ môi trường bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh

của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ ở Tp. Hồ Chí Minh.

2.3.2.1. Các yếu tố môi trường vĩ mô:

a. Yếu tố của môi trường kinh tế.

Môi trường kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển của một

ngành. Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế phát triển năng động nhất của cả

nước và là một đầu tàu, mũi nhọn trong việc đưa nền kinh tế của đất nước đi

Page 42: cạnh tranh của Michael Porter

- 42 -

lên. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam hàng năm rất cao so với các nước

trong khu vực, năm 2004 đạt 7.7% đứng thứ nhì trong các nước Đông Nam Á,

đứng thứ 2 sau Singapore và ước tính là tốc độ phát triển GDP trong năm 2005

là 7.5% (so với dự báo năm 2005 là 8.5%). Tốc độ phát triển của ngành chế biến

và xuất khẩu gỗ tăng trưởng rất cao trong những năm gần đây và là một trong

bảy ngành xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam và ngành chế biến và xuất khẩu gỗ

đã lọt vào câu lạc bộ “1 tỷ USD” về doanh số xuất khẩu trong năm 2004.

Sự tăng trưởng của ngành của đạt được mức cao, tính đến tháng 10 năm

2005, doanh số xuất khẩu ngành chế biến gỗ đạt được 1,211 tỷ USD (tăng

43.1% so với cùng kỳ năm ngoái) và ước tính trong năm 2005 đạt được doanh

số 1,37 tỷ USD và là ngành có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao thứ ba so với

than đá (80.3%) và gạo 49%) (Theo DB Research Report, World Bank, IMF &

ADB Reports, Publications by Ministry of Planning and Investment)

Nằm trong ngành có tốc độ tăng trưởng hàng năm cao, các doanh nghiệp

chế biến và xuất khẩu gỗ ở Hồ Chí Minh có cơ hội thuận lợi để phát triển và mở

rộng thị trường xuất khẩu của mình sang Mỹ.

Với giá dầu thế giới ngày một leo thang dẫn đến chi phí vận chuyển ngày

càng cao làm cho giá cả tăng lên khi nhập vào Mỹ, làm giảm tính cạnh tranh về

mặt giá cho cho các doanh nghiệp. Hơn nữa giá cả nguyên liệu gỗ trên quốc tế

ngày càng gia tăng chủ yếu do giá vận chuyển trên thế giới đang tăng do sự gia

tăng của giá dầu, nạn cháy rừng, và các nước xuất khẩu nguyên liệu gỗ hạn chế

xuất khẩu gỗ thô làm cho nguồn nguyên liệu gỗ ngày càng khan hiếm.

b. Yếu tố của môi trường văn hóa, xã hội.

Những mặt hàng gỗ xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Mỹ là mặt hàng

trang trí nội thất, trong nhà bếp như bàn ghế, giường, tủ, kệ bếp, cửa v.v… và

bàn ghế ngoài trời, đòi hỏi bởi sự khéo léo và đôi tay tài hoa của người thợ. Việt

Nam vốn được biết đến như là một quốc gia giàu truyền thống văn hóa và những

Page 43: cạnh tranh của Michael Porter

- 43 -

sản phẩm họ tạo ra cũng rất khéo léo và thu hút được sự chú ý của thị trường

Mỹ.

Hơn nữa người Việt Nam được xem là người cần cù, chịu khó học hỏi,

đặc biệt là Hồ Chí Minh là nơi tập trung nhiều người tài giỏi, sẽ là một yếu tố

thuận lợi cho các doanh nghiệp trong vùng thu hút được nhân tài.

c. Yếu tố của môi trường luật pháp, chính trị

Việt Nam đang chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu

gỗ tập trung vào thị trường Mỹ nói riêng, do đó các thủ tục pháp luật ngày càng

được cải tiến và tinh giản gọn nhẹ, thúc đẩy và tạo điều kiện cho việc xuất khẩu

gỗ ngày một dễ dàng. Hơn nữa, Hồ Chí Minh được xem là một nơi có điều kiện

thuận lợi và chế độ chính trị tương đối ổn định, do đó các đối tác Mỹ cũng cảm

thấy an tâm khi làm ăn với chúng ta.

Ở Hồ Chí Minh cũng đang đưa đặt cao vấn đề thương hiệu hàng hóa xuất

khẩu, do đó về vấn đề thương hiệu, các doanh nghiệp có cơ hội nhận được sự hỗ

trợ của cơ quan có thẩm quyền để phát triển thương hiệu của mình trên thị

trường Mỹ.

Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã tạo cơ hội tiếp cận thị

trường rất lớn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là những sản

phẩm chế tạo sử dụng nhiều lao động, trước đây chịu mức thuế quan cao tới

40%, nay Việt Nam được hưởng Quy chế tối huệ quốc (MFN), Quy chế thương

mại bình thường (NTR) nên mức thuế suất nhập khẩu chỉ còn 3 - 4%. Điều này

đã mở đường cho sự tăng trưởng của ngoại thương giữa hai nước trong năm

2002 và tiếp tục từ đó tới nay.

Việt Nam đang trên đường gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO),

đây là cơ hội rất lớn khi trở thành thành viên chính thức của WTO, đây là cơ hội

cho các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ ở Hồ Chí Minh cọ xát với các doanh

nghiệp khác trong khu vực, do đó vấn đề cạnh tranh không chỉ gói gọn trên

Page 44: cạnh tranh của Michael Porter

- 44 -

phạm vi một quốc gia mà lan rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Đây cũng vừa là cơ

hội và cũng là thách thức cho các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ trên địa bàn thành

phồ Hồ Chí Minh.

d. Ảnh hưởng của công nghệ

Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất và nâng cao năng

lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và của quốc gia nói riêng. Sự phát

triển và ứng dụng khoa học công nghệ sẽ làm giảm chi phí sản xuất, giảm giá

thành, rút ngắn thời gian sản xuất và vì thế lợi thế cạnh tranh sẽ được nâng lên.

Nằm ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, các doanh nghiệp có nhiều cơ

hội tiếp cận với công nghệ hiện đại áp dụng trong sản xuất. Thành phố Hồ Chí

Minh là một trung tâm lớn về khoa học kỹ thuật, do đó việc tiếp cận các tiến bộ

khoa học kỹ thuật của các doanh nghiệp khá dễ dàng.

Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều thiếu vốn và do đó kỹ thuật

chưa được đầu tư đúng mức, đặc biệt là máy móc thiết bị phục vụ trong sản

xuất. Các đối tác Mỹ rất quan trọng công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, trước

khi tiến hành làm ăn với một doanh nghiệp nào, họ cũng tiến hành khảo sát khả

năng cung cấp, tiêu chuẩn nhà xưởng, chất lượng nhà xưởng, máy móc kỹ thuật

v.v… Một khi các yếu tố trên đủ những tiêu chuẩn cơ bản của họ thì họ mới tiến

hành kinh doanh.

Cũng theo kết quả khảo sát trên 370 doanh nghiệp ở các tỉnh phía Nam,

100% doanh nghiệp xem trọng vai trò của công nghệ áp dụng trong sản xuất.

Hầu hết các doanh nghiệp nhận thức rằng việc đầu tư công nghệ sẽ gia tăng

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Đúng thế công nghệ có những vai trò quan trọng sau trong việc nâng cao

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:

Page 45: cạnh tranh của Michael Porter

- 45 -

Công nghệ chế biến là nhân tố chính quyết định chất lượng mặt hàng

gỗ.Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay chất lượng hàng hoá cao

đóng góp hơn 70% năng lực cạnh tranh của sản phẩm

Công nghệ chế biến hiện đại còn là nhân tố quyết định mẫu mã sản

phẩm .Mẫu mã sản phẩm là nhân tố không thể thiếu trong một sản phẩm , đặc

biệt là mặt hàng gỗ xuất khẩu.

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ

trong và ngoài nước luôn chú ý đầu tư công nghệ chế biến , xem nó là nguồn lực

chính cho năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình.Việt Nam muốn hội nhập

tốt thì không thể đứng ngoài cuộc chơi "công nghệ"này.

Vòng đời sản phẩm có giới hạn. Trong hội nhập ngày nay với sự bùng

nổ của chủng loại hàng hoá (mặt hàng gỗ), vòng đời sản phẩm có xu hướng

ngày càng rút ngắn nên các doanh nghiệp nhất thiết phải liên tục đầu tư công

nghệ hiện đại, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao của thị trường, người tiêu dùng…

Trong hội nhập, nâng cao chất lượng sản phẩm kèm theo hạ giá thành

sản phẩm là nhân tố quyết định tới khả năng tiêu thụ của sản phẩm. Mặt hàng gỗ

cũng thế, chỉ có con đường đầu tư công nghệ hiện đại kèm với tuân thủ nghiêm

ngặt quy trình quản lý chất lượng mới làm được điều nói trên.

Đầu tư công nghệ thể hiện quyết tâm của doanh nghiêp trong việc

nâng cao uy tín thương hiệu của doanh nghiệp. Thương hiệu doanh nghiệp ngày

nay là nguồn sống cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp.

Cạnh tranh trong môi trường khốc liệt như hiện nay, công nghệ là một

nguồn năng lượng cho sự tồn vong của sản phẩm gỗ. Đặc biệt là khi các doanh

nghiệp xuất khẫu gỗ Trung Quốc đang ra sức chiếm lĩnh thị trường thế giới.

Doanh nghiệp không chỉ tồn tại mà còn phát triển, mở rộng quy mô

hoạt động. Nghiên cứu công nghệ và ứng dụng công nghệ hiện đại là một tất

Page 46: cạnh tranh của Michael Porter

- 46 -

yếu khách quan mà bất cứ một doanh nghiệp xuất khẩu nào cũng phải thực hiện

để có thể tiến xa hơn.

Một mặt hàng gỗ chứa hàm lượng công nghệ cao sẽ dễ xâm nhập vào

nhiều thị trường khác nhau, tìm được các kênh phân phối mới…

Ngành xuất khẩu gỗ Việt Nam còn non trẻ, chưa có thương hiệu trên

trường quốc tế và thị trường riêng. Cho nên để có thể cạnh tranh được với sản

phẩm các doanh nghiệp nước ngoài vốn đã có mặt lâu năm trên thương trường

quốc tế, Việt Nam chỉ còn có cách đem "chất lượng" thông qua việc đầu tư công

nghệ mới có thể đưa doanh nghiệp xuất khẩu gỗ Việt Nam lên trên hàng rào

cạnh tranh chất lượng mà các thị trường yêu cầu…

e. Ảnh hưởng của các quy định của Mỹ về hàng nhập khẩu gỗ.

Có thể nói Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam, việc Mỹ

đã áp đặt thuế chống bán phá giá của Trung Quốc đối với mặt hàng gỗ trong

năm 2004 làm cho các sản phẩm gỗ của Trung Quốc kém cạnh tranh về giá, đã

tạo cho các nhà nhập khẩu đồ gỗ Mỹ chuyển hướng sang làm ăn tại Việt Nam.

Do đó đây là cơ hội tốt các doanh nghiệp Việt Nam nên tận dụng và đón nhận.

Tuy nhiên cần cũng lưu ý rằng việc cạnh tranh bằng giá chưa phải là

chính sách cạnh tranh tối ưu sang thị trường Mỹ. Trung Quốc đã từng nổi tiếng

là nước xuất khẩu với giá rẻ liền bị Mỹ áp đặt mức thuế nhập khẩu nhằm chống

bán phá giá cho mặt hàng này. Hiện tại Việt Nam cũng là một trong những nước

bán giá rẻ (do nguồn nhân công rẻ), nguy cơ bị Mỹ kiện bán phá giá đối với mặt

hàng gỗ rất lớn. Các doanh nghiệp cũng cần nên chuẩn bị đối phó với nguy cơ

này.

Việc quy định chặc chẽ và khắc khe của Mỹ về những tiêu chuẩn chất

lượng hàng hóa, nguyên liệu sản phẩm gỗ cũng là những rào cản kỹ thuật mà

các doanh nghiệp cần nên lưu ý như mức độ an toàn khi sử dụng sản phẩm, chất

lượng gỗ phải không có độc tố, những quy định nghiêm ngặt về xuất khẩu, bao

Page 47: cạnh tranh của Michael Porter

- 47 -

bì, nhãn mác v.v… và các doanh nghiệp cần phải đáp ứng được những kiểm

định cần thiết cho sản phẩm xuất khẩu.

2.3.2.2. Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường vi mô

a. Ảnh hưởng của sản phẩm thay thế.

Ngành chế biến và xuất khẩu gỗ hiện tại vẫn đang đứng một vị trí nhất

định trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, với nhu cầu đa dạng hóa của người tiêu

dùng, các sản phẩm gỗ kết hợp với các nguyên liệu khác như sắc, gốm, thép

v.v… đang được khách hàng Mỹ ưa chuộng. Do đó, đối với những mặt hàng có

sự kết hợp giữa gỗ và sắt thì Việt Nam gặp sự cạnh tranh rất gay gắt từ Đài

Loan, Trung Quốc. Trên thị trường hiện tại, đối với một số hàng nội thất lúc

trước được sản xuất bằng gỗ, hiện tại người tiêu dùng đang có xu hướng chuyển

sang các nguyên liệu thay thế như sắt, thép không gỉ, nhựa v.v…, nếu các nhà

xuất khẩu của Hồ Chí Minh không tự đa dạng hóa sản phẩm của mình thì có thể

khó đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng Mỹ.

b. Ảnh hưởng của các đối thủ cạnh tranh, ma trận hình ảnh cạnh tranh.

Các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ ở Hồ Chí Minh cần phải xác định đối thủ

cạnh tranh của mình là ai và thế mạnh, điểm yếu của họ là gì. Tìm hiểu được

điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp có chiến lược phát triển đúng đắn, tìm

được lợi thế cạnh tranh cho mình.

Ở đây có thể kể ra những công ty đang là đối thủ cạnh tranh chính của

các doanh nghiệp ở Hồ Chí Minh là các doanh nghiệp ở Bình Dương và ở khu

vực Miền Trung. Hồ Chí Minh, Bình Dương và Miền Trung (Quy Nhơn) đang

là ba khu vực sản xuất và xuất khẩu gỗ hàng đầu sang thị trường Mỹ. Ở mỗi khu

vực có một lợi thế riêng của mình, ví dụ khu vực Bình Dương và Miền Trung

với lợi thế về giá rẻ (do chi phí nhân công, chi phí thuê mặt bằng v.v…) tương

đối rẻ. Mặt khác với vị trí địa lý không được thuận lợi, việc tiếp xúc và đàm

phán với khách hàng gặp nhiều khó khăn, chi phí vận chuyển ở Miền Trung cao

Page 48: cạnh tranh của Michael Porter

- 48 -

hơn ở Hồ Chí Minh, đó chính là những bất lợi mà các doanh nghiệp ở Miền

Trung gặp phải.

Tuy nhiên nhìn trên phương diện cạnh tranh rộng hơn, ra khỏi phạm vi

quốc gia, so với các nước trong khu vực, các doanh nghiệp sản xuất và xuất

khẩu gỗ ở Hồ Chí Minh nói riêng và ở Việt Nam nói chung, chịu sự cạnh tranh

gay gắt của các nước trong khu vực, ở đây có thể kể đến một vài nước mà chúng

ta chịu sự cạnh tranh gay gắt như Đài Loan, Indonesia, Trung Quốc.

Bảng 2.7: Ma trận hình ảnh cạnh tranh của Hồ Chí Minh so với các

nước trong khu vực.

DN ở Hồ Chí Minh Indonesia Trung Quốc Ấn Độ

Các yếu tố chính ảnh hưởng đến lợi thế

cạnh tranh của doanh nghiệp

Mức độ

quan trọng

Phân loại

Tổng số điểm quan trọng

Phân loại

Tổng số điểm quan trọng

Phân loại

Tổng số điểm quan trọng

Phân loại

Tổng sđiểm qu

trọng

1. Chiến lược phát triển/ Chiến lược quảng bá/ tính đa dạng của sản phẩm

0.2 1 0.2 4 0.8 2 0.4 4 0.8

2. Giá cả sản phẩm

- Giá cả nguồn nguyên liệu

0.1 2 0.2 4 0.4 2 0.2 4 0.4

- Giá cả nhân công 0.1 4 0.4 1 0.3 4 0.4 2 0.2

- Thuế nhập khẩu của Mỹ chống bán phá giá.

0.1 4 0.4 4 0.4 1 0.1 4 0.4

3. Thương hiệu sản phẩm

0.1 1 0.1 3 0.3 2 0.2 4 0.4

4. Chất lượng dịch vụ/ nguồn nhân lực của doanh nghiệp

0.1 1 0.1 3 0.3 2 0.2 3 0.3

5. Chất lượng sản phẩm

0.3 3 0.9 3 0.9 2 0.6 3 0.9

Tổng cộng 1.0 2.4 3.4 2.1 3.4

Page 49: cạnh tranh của Michael Porter

- 49 -

Ở đây tôi xin được đưa ra bảng so sánh hình ảnh ma trận cạnh tranh của

Hồ Chí Minh (Việt Nam) và các nước Indonesia, Trung Quốc và Ấn Độ qua

bảng 2.7 (bảng này được thu thập trên cơ sở đánh giá của văn phòng đại diện

mua hàng KarstadtQuelle Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực mua hàng xuất

khẩu gỗ ở Việt Nam và các nước trong khu vực).

Lưu ý và nhận xét:

1. Trong bảng phân tích hình ảnh cạnh tranh trên, các yếu tố cấu thành

nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cho điểm trọng số (mức độ

quan trọng) tùy theo mức độ quan trọng của từng yếu tố quyết định nên năng

lực cạnh tranh của sản phẩm, điểm trọng số này được nhiều người đồng tình

nhất và tổng của nó là 1.

2. Phân loại được chia thành 4 cấp bậc, với 4 là yếu tố mà doanh nghiệp

đó có ưu thế nhiều nhất, 3 là có ưu thế trên trung bình, 2 là ở mức trung bình và

1 là ở mức kém.

3. Việc cho điểm và trọng số ở đây chỉ mang tính chất tương đối và theo

chủ quan và nhận xét của người đánh giá, tuy nhiên việc cho điểm được đưa ra

trên cơ sở đánh chung của nhiều người. Và cũng qua bảng so sánh hình ảnh

cạnh tranh của các doanh nghiệp ở Hồ Chí Minh này, chúng ta có thể dễ dàng

nhận ra được những điểm nào ta có thế mạnh và những điểm nào chúng ta chưa

mạnh so với đối thủ cạnh tranh.

4. Kết quả cuối cùng cho thấy Hồ Chí Minh có khả năng cạnh tranh hơn

so với Trung Quốc nhưng so với Indonesia và Ấn Độ thì cạnh tranh của Hồ Chí

Minh không bằng hai quốc gia này.

c. Ảnh hưởng của các ngành công nghiệp hỗ trợ, các nhà cung cấp.

Để có thể có một sản phẩm cạnh tranh trên thị trường thì các ngành công

nghiệp hỗ trợ phải tốt để tạo thêm sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ở

thành phố Hồ Chí Minh, các ngành công nghiệp hỗ trợ thật sự chưa đủ điều kiện

Page 50: cạnh tranh của Michael Porter

- 50 -

cung cấp và đủ sức cạnh tranh với các nước khác trong khu vực như Trung

Quốc, Đài Loan v.v…

Yếu tố đầu tiên góp phần tạo nên năng suất sản xuất đó là máy móc thiết

bị phục vụ trong sản xuất. Hầu hết máy móc thiết bị sử dụng ở các nhà xưởng

được nhập từ các nước trong khu vực như Đài Loan, Hàn Quốc v.v… và là

những máy móc thiết bị hầu hết đã qua sử dụng. Do đó có thể nói rằng chi phí

sản xuất góp phần từ tài sản cố định (máy móc) ở Hồ Chí Minh là khá cao.

Các ngành công nghiệp hỗ trợ bổ sung cho sản phẩm gỗ như các vật liệu

bằng sắt, nhôm, inox v.v… không phải bao giờ cũng dễ tìm kiếm ở Việt Nam,

hầu hết các sản phẩm, nguyên liệu này đều được nhập từ Đài Loan, Trung Quốc,

Hàn Quốc v.v… và Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh đối với những nguồn

nguyên liệu này.

Đối với gỗ thô, Việt Nam cũng phải nhập từ các nước trong khu vực như

Indonesia, Ấn Độ, Đài Loan v.v… nên khá bị thụ động và nguồn cung cấp này

không được ổn định. Chính những khó khăn về các ngành công nghiệp có liên

quan và sự bất ổn định của nhà cung cấp nguyên liệu là một trong những lý do

khiến cho các doanh nghiệp ở Hồ Chí Minh kém cạnh tranh hơn so với một vài

nước trong khu vực.

2.4. Đánh giá chung năng lực cạnh tranh của Việt Nam qua ma trận

SWOT.

Tóm lại, qua phân tích trên, có thể tóm tắt một vài điểm mạnh, điểm yếu,

cơ hội và thách thức và một số giải pháp cơ bản của các doanh nghiệp chế biến

và xuất khẩu gỗ của thành phố Hồ Chí Minh qua ma trận SWOT như sau (những

giải pháp cụ thể, chi tiết sẽ được trình bày trong chương 3):

Page 51: cạnh tranh của Michael Porter

- 51 -

SWOT

Cơ hội (Opportunities)

1. Nằm trong khu vực phát triển năng động nhất của cả nước, với tốc độ tăng trưởng ngành cao.

2. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ thúc đẩy thương mại giữa hai nước.

3. Đang trên đường gia nhập WTO.

4. Các nhà nhập khẩu Mỹ quay sang Việt Nam từ Trung Quốc do Trung Quốc bị Mỹ áp đặt mức thuế chống bán phá giá.

Thách thức (Threats)

1. Công nghệ còn lạc hậu. 2. Nguy cơ bị Mỹ kiện bán phá giá đối với mặt hàng gỗ. 3. Những rào cản kỹ thuật khắc khe của Mỹ khó đạt được. 4. Đe dọa của các sản phẩm thay thế khi doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng. 5. Chịu khả năng cạnh tranh gay gắt của các nước trong khu vực, đặc biệt là khi gia nhập WTO. 6. Giá cả nguyên liệu đầu vào tăng.

Điểm mạnh (Strengths)

1. Có nguyên liệu một phần có sẵn trong nước. 2. Năng lực dồi dào, công nhân khéo léo, sáng tạo nên chất lượng sản phẩm được đảm bảo. 3. Giá cả sản phẩm tương đối rẻ do nguồn nhân công dồi dào và chi phí nhân công rẻ. 4. Nguồn lao động khéo léo, chịu học hỏi, trình độ nghiệp vụ được cải thiện. 5. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với quy mô sản xuất từ nhỏ đến lớn.

Kết hợp S-O

- Xác định chiến lược phát triển cho doanh nghiệp.

- Xác định chiến lược cạnh tranh phù hợp với chiến lược của doanh nghiệp.

- Thành lập kế hoạch xâm nhập, mở rộng sang thị trường Mỹ.

Kết hợp S-T

- Nên chuẩn bị đối phó với nguy cơ chống bán phá giá của Mỹ.

- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên tập trung vào chiến lược khác biệt hóa sản phẩm.

Điểm yếu (Weakness)

1. Thiếu chiến lược phát triển cho doanh nghiệp. 2. Nguồn nguyên liệu nhập khẩu chưa ổn định, thiếu liên kết giữa các doanh nghiệp trong vùng. 3. Thiếu nguồn gỗ tái sinh (FSC), chưa có khu rừng nào được chứng nhận nguồn gốc FSC Việt Nam. 4. Chất lượng sản phẩm chưa cao, không đồng đều. 5. Chưa có nhiều doanh nghiệp đạt chứng chỉ COC, ISO v.v… 6. Chưa chú trọng nhiều về thương hiệu sản phẩm. 7. Trình độ nguồn nhân lực không đồng đều và thiếu ổn định. 8. Dịch vụ chăm sóc khách hàng, mức độ chuyên nghiệp của doanh nghiệp chưa cao. 9. Công nghệ sản xuất còn lạc hậu, thủ công, quy mô vừa và nhỏ, khả năng tài chính còn yếu.

Kết hợp W-O

- Ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào, giảm chi phí nhập khẩu nguyên liệu qua quá nhiều khâu trung gian, nên liên kết nhập khẩu nguyên liệu

- Kiểm tra chặt chẽ chất lượng sản phẩm qua việc kiểm tra từng khâu trong quy trình sản xuất

- Đào tạo công nhân viên kiến thức về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.

- Nâng cao thương hiệu của mình, nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu

- Giảm khâu mua bán qua trung gian, nên chuyển sang bán hàng trực tiếp.

- Đăng ký để đạt được chứng chỉ COC.

- Chú trọng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả. Nhận thức tầm quan trọng của nguồn nhân lực.

Kết hợp W-T

- Nên đầu tư công nghệ thích hợp cho quá trình sản xuất.

- Nghiên cứu các yêu cầu chất lượng sản phẩm và những quy định khác của thị trường Mỹ.

- Nâng cao chất lượng dịch vụ theo hướng chuyên nghiệp hóa.

Page 52: cạnh tranh của Michael Porter

- 52 -

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH

TRANH CHO CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU SẢN

PHẨM GỖ SANG THỊ TRƯỜNG MỸ

3.1. Định hướng phát triển của ngành chế biến gỗ.

3.1.1. Mục tiêu tổng quát phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam:

- Phát triển công nghiệp phải đảm bảo sự ổn định cao về mọi mặt, tăng

trưởng với tốc độ nhanh, thu ngắn thời gian chuyển đổi nền kinh tế Tỉnh sang cơ

cấu: Công nghiệp, Xây dựng - Dịch vụ - Nông Lâm nghiệp.

- Giải quyết được nhiều việc làm trên cơ sở đảm bảo đời sống của người

lao động ngày một nâng lên; tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương; bảo đảm

cho các cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có tích lũy để tái đầu

tư đổi mới thiết bị, công nghệ và mở rộng sản xuất.

- Phát triển công nghiệp tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế khác

cùng phát triển, phù hợp với quá trình độ thị hóa và xây dựng nông thôn mới

theo hướng CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.

3.1.2. Mục tiêu phát triển ngành gỗ của Chính phủ:

Từng bước đầu tư chiều sâu, mở rộng năng lực sản xuất của các cơ sở

sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu theo hướng tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, có

trang trí bề mặt đẹp, mẫu mã đa dạng và luôn đổi mới phục vụ tốt cho nhu cầu

tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Xây dựng thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tạo nguồn hàng xuất khẩu

với giá trị gia tăng cao, đảm bảo vai trò động lực, vị trí mũi nhọn để thực hiện

thành công mục tiêu chiến lược.

Mục tiêu tổng quát của ngành xuất khẩu gỗ Việt Nam sang Mỹ là năm

2005 kim ngạch xuất khẩu đạt 600 triệu USD, đến năm 2010 kim ngạch đạt

1200 triệu USD (theo bộ thương Mại Việt Nam)

Page 53: cạnh tranh của Michael Porter

- 53 -

Với chủ trương tạo mọi điều kiện để phát triển ngành công nghiệp chế

biến gỗ xuất khẩu, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp quy liên quan

đến rất nhiều lĩnh vực như phát triển vùng nguyên liệu, giao đất giao rừng, khai

thác, chế biến, lưu thông, tín dụng, xuất nhập khẩu...

Về xuất nhập khẩu, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/1998/NĐ-CP

ngày 31/7/1998, Quyết định 65/1998/QĐ-TTg ngày 24/3/1998 của Thủ tướng

Chính phủ và Thông tư 122/1999/TT-BNN-PTNT ngày 27/3/1998 của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn nhằm quản lý việc xuất khẩu đồ gỗ sản xuất từ

rừng tự nhiên trong nước, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho

việc nhập khẩu gỗ nguyên liệu cũng như xuất khẩu sản phẩm gỗ từ rừng trồng,

gỗ nhập khẩu. Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã xây dựng các mức thuế

suất cụ thể, có phân biệt đối với các sản phẩm xuất khẩu được làm từ nguyên

liệu gỗ có xuất xứ khác nhau. Sản phẩm xuất khẩu được làm từ gỗ rừng tự nhiên

chịu thuế suất cao hơn sản phẩm làm từ gỗ rừng trồng. Gỗ rừng tự nhiên có mức

thuế suất bình quân là 5-10%, sản phẩm từ gỗ rừng trồng thuế suất 0%.

Về nhập khẩu, trừ gỗ nhập khẩu từ Campuchia phải có giấy phép xuất

khẩu, nhập khẩu của Bộ Thương mại hai nước, các doanh nghiệp được nhập

khẩu theo nhu cầu, không phải xin giấy phép của các cơ quan quản lý và được

hưởng mức thuế suất nhập khẩu thấp nhất hiện hành (0%).

Ngoài ra, các chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu thông qua Quỹ hỗ trợ

phát triển, chính sách thưởng xuất khẩu cũng là động lực thúc đẩy xuất khẩu các

mặt hàng gỗ của Việt Nam.

3.1.3. Mục tiêu phát triển ngành gỗ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Riêng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, theo quyết định số

140/2002/QĐ-UB ngày 03/12/2002 thì chương trình mục tiêu ngành chế biến gỗ

cũng đã triển khai và thực hiện một số kế hoạch liên quan đến việc trồng rừng,

xây dựng trung tâm thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp, trung tân đào tạo công

nghiệp chế biến gỗ, đầu tư đổi mới công nghệ, thực hiện quy trình quản lý chất

Page 54: cạnh tranh của Michael Porter

- 54 -

lượng và chứng chỉ rừng (xem chi tiết trong phụ lục 7 và các văn bản pháp quy

của Trung Ương và thành phố trong phụ lục 8)

3.2. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp

sản xuất và xuất khẩu gỗ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh sang thị

trường Mỹ.

3.2.1. Giải pháp 1: chiến lược phát triển của doanh nghiệp.

* Cơ sơ đề xuất giải pháp.

- Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ (đặc biệt là vừa và

nhỏ) ở thành phố Hồ Chí Minh chưa có chiến lược phát triển cụ thể.

- Các doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ nhưng chưa có

chiến lược cụ thể.

- Hầu hết các doanh nghiệp chưa chú trọng đến phát triển mẫu mã, sản

phẩm mới, chưa có hoặc chưa chú trọng bộ phận R&D.

- Chưa xác định cụ thể điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức để từ

đó có những giải pháp phát triển phù hợp.

* Thực hiện.

Chiến lược kinh doanh và chiến lược cạnh tranh khi tham gia và gia nhập

vào thị trường Mỹ thông qua việc doanh nghiệp phân tích các yếu tố trong ma

trận SWOT. Có nghĩa là doanh nghiệp phải nhận biết các điểm mạnh, điểm yếu,

cơ hội và thách thức.

Các doanh nghiệp cần phải xác định chiến lược kinh doanh và chiến lược

cạnh tranh dài hạn, trung hạn và ngắn hạn cho mình. Để xây dựng chiến lược

cho mình, ba giai đoạn chủ yếu sau phải tuân theo:

Phân tích Hoạch định Thực thi

Page 55: cạnh tranh của Michael Porter

- 55 -

Dựa vào những phân tích trong chương 2, chứng tỏ thị trường Mỹ là một

thị trường rất lớn và tiềm năng cho Việt Nam nói chung và cho khu vực thành

phố Hồ Chí Minh nói riêng. Do đó các doanh nghiệp nên phân tích, hoạch định

và thực thi chiến lược thâm nhập và cạnh tranh hàng hóa của mình trên thị

trường Mỹ một cách cụ thể. Một điều mà ai cũng thừa nhận rằng mặt hàng gỗ

Việt Nam hoàn toàn có khả năng cạnh tranh so với các nước trong khu vực

nhưng thị phần của Việt Nam vào thị trường Mỹ chưa cao, điều này tùy thuộc

rất lớn vào cách tiếp cận của các doanh nghiệp vào thị trường Mỹ. Theo tôi các

doanh nghiệp cần xác định các yếu tố quan trọng sau của mình sau đó lựa chọn

cho mình chiến lược cạnh tranh cho phù hợp.

- Xác định thế mạnh / điểm yếu của doanh nghiệp: Doanh nghiệp phải

xác định cho được thế mạnh thực sự của mình mà nó có thể có lợi thế cạnh tranh

so với các đối thủ là gì. Hầu hết các doanh nghiệp đều có lợi thế về chi phí lao

động rẻ, điều này hoàn toàn đúng với hầu hết đa số các doanh nghiệp vừa và

nhỏ Việt Nam. Tuy nhiên các doanh nghiệp cần rút ra bài học từ Trung Quốc,

một nước có chi phí sản xuất khá rẻ về mặt hàng gỗ và đã bị Mỹ áp dụng thuế

nhập khẩu để chống bán phá giá. Ngày nay không phải chiến lược cạnh tranh

với chi phí rẻ là chiến lược tối ưu. Các doanh nghiệp cần nên nghiên cứu tập

trung vào chiến lược kinh doanh khác như chiến lược khác biệt hóa. Cần phải

xác định sản phẩm của doanh nghiệp mình có những đặc biệt gì hơn so với đối

thủ và có thể thỏa mãn nhu cầu của một số khách hàng đặc biệt hay không.

Dựa vào việc xác định thế mạnh cạnh tranh của mình, doanh nghiệp có

thể chọn các chiến lược cạnh tranh nhằm vào thế mạnh canh tranh của mình.

Các chiến lược cạnh tranh có thể chọn lựa xin xem chương 1- các chiến lược

cạnh tranh của Michael Porter.

Để thực hiện tốt vấn đề hoạch định chiến lược, trước hết, đó là thiện chí

hay sự cam kết của ban lãnh đạo trong việc tư duy dài hạn và luôn tính đến các

suy nghĩ này trong từng hành động, điều này đòi hỏi các nhà lãnh đạo một mặt

Page 56: cạnh tranh của Michael Porter

- 56 -

phải giành thời gian cho việc tổ chức các cuộc họp riêng về chủ đề chiến lược

cũng như giành mối quan tâm thường trực cho việc cân nhắc các quyết định

hàng ngày trong khuôn khổ các lựa chọn dài hạn của doanh nghiệp;

Bên cạnh đó, cần cụ thể hoá các mục tiêu và phương tiện cho việc thực

hiện chiến lược, không chỉ dừng lại ở lời phát biểu trịnh trọng về chiến lược hay

các giải pháp chung chung, mà cần phải đưa ra được một loạt các mục tiêu,

quyết định và hành động theo các lịch trình cho chính họ lập ra;

Cuối cùng là thiện chí có tính toán của mọi cấp độ quản lý, nhằm tránh

nguy cơ không thừa nhận của các cán bộ cấp dưới. Các phương pháp đơn giản

và chặt chẽ cần được thích ứng một cách linh hoạt nhất với doanh nghiệp, bởi vì

việc ưa chuộng các phương pháp chính thống hoặc có quá nhiều ràng buộc

thường dẫn đến thất bại.

- Xác định các cơ hội và nguy cơ của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp

cần xác định và tận dụng cơ hội của môi trường bên ngoài, đánh giá các nguy cơ

để có biện pháp hạn chế nó. Nguy cơ mà các doanh nghiệp thường gặp đó chính

là cạnh tranh của các đối thủ trong nước và các nước trong khu vực.

Sơ đồ sau sẽ giúp doanh nghiệp xác định được lợi thế cạnh tranh lâu dài

cho mình:

Những lợi thế

cạnh tranh lâu dài

Xu hướng thị trường và sản

phẩm

Điểm mạnh dịch vụ và sản

phẩm

Các cơ hội trên thị trường

Kỹ năng và năng lực

Phân tích môi trường

Phân tích khách hàng

Phân tích cạnh tranh

Kiểm toán nội bộ

Page 57: cạnh tranh của Michael Porter

- 57 -

Ngoài ra, nhằm thâm nhập và mở rộng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, các

doanh nghiệp cần phải tiếp cận theo những hướng sau đây:

Đẩy mạnh khâu nghiên cứu thị trường (R&D), quảng bá sản phẩm, thiết

kế những sản phẩm mới phù hợp với thị trường. Xác định được thị hiếu tiêu

dùng của thị trường Mỹ qua nghiên cứu, tìm hiểu trên các phương tiện thông tin

đại chúng, bạn bè, các tổ chức xúc tiến thương mại v.v… để từ đó xem sản

phẩm của mình, chất lượng sản phẩm đã phù hợp với thị trường này chưa.

Tham gia hội chợ triển lãm là cách tốt nhất để quảng bá hình ảnh sản

phẩm và thương hiệu của mình đối với nhà nhập khẩu/ phân phối và tiêu dùng

Mỹ. Hàng năm, Mỹ tổ chức khá nhiều các hội chợ triển lãm chuyên ngành hàng

gỗ, đây là cơ hội để cọ xát giữa người mua và người bán trên chính thị trường

Mỹ. Có thể tham khảo một số hội chợ ngành hàng gỗ tại Mỹ như sau:

Thời gian Tên hội chợ Địa điểm Thành phố

26-28/1 Surfaces. Floor Covering Show USA Las Vegas

28-30/1 Orlando Furniture and Accessory Market USA Orlando

6-8/2 Edison Furniture & Accessory Market USA Edison

17-18/2 Carolinas Industrial Woodworking Expo - Cabinets, industrial woodworking, furniture

USA Greensboro

15-16/4 Mid-Atlantic Industrial Woodworking Expo - Furniture, cabinet, industrial wood products, woodworking machinery

USA Ft. Washington

27-28/4 Las Vegas International Hotel & Restaurant Show - Furniture, furnishings, fixtures

USA Las Vegas

14-17/5 ICFF International Contemporary Furniture Fair USA New York

14-17/9 the Chicago Fair in USA from September 14 through 17 USA Chicago

Page 58: cạnh tranh của Michael Porter

- 58 -

Ngoài ra, việc tiếp cận thị trường Mỹ cũng nên được thực hiện qua nhiều

nguồn khác nhau như các tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam, phòng thương

mại, Bộ thương mại của Việt Nam, đại sứ quán, thương vụ của Việt Nam ở Mỹ

hoặc từ website, internet v.v… Qua cuộc khảo sát ta thấy hầu hết các doanh

nghiệp chưa quan tâm đến việc thâm nhập, tìm kiếm khách hàng qua các tổ chức

xúc tiến của chính phủ và phi chính phủ.

* Hiệu quả của giải pháp.

- Doanh nghiệp tự xác định cho mình chiến lược phát triển phù hợp (dài

hạn, trung hạn và ngắn hạn), xác định được ma trận SWOT cho riêng mình để

có những giải pháp phù hợp trong từng giai đoạn phát triển.

- Doanh nghiệp xác định chiến lược cạnh tranh phù hợp tùy theo những

đặc điểm riêng của mình. Ví dụ chiến lược tập trung vào sự khác biệt đối với

những doanh nghiệp nhỏ, thu hút một phân khúc thị trường nhất định, giá có thể

cao nhưng tạo được sự khác biệt hóa trong sản phẩm, chiến lược giá hạ áp dụng

cho những doanh nghiệp sản xuất với quy mô lớn, sản xuất đại trà, những mặt

hàng thông dụng v.v…

- Có kế hoạch thâm nhập, mở rộng sang thị trường Mỹ.

3.2.2. Giải pháp cho nguồn nguyên liệu đầu vào.

* Cơ sở đề xuất giải pháp.

- Giá cả nguyên liệu gỗ cao.

- Doanh nghiệp không chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào

- Doanh nghiệp thường khó xác định được nhu cầu nguyên liệu gỗ hàng

năm.

* Thực hiện.

- Các doanh nghiệp cần phải chủ động trong nguồn nguyên liệu gỗ, phải

bảo đảm nguồn nguyên liệu đúng chất lượng, thời gian cung cấp kịp thời cho

Page 59: cạnh tranh của Michael Porter

- 59 -

sản xuất. Để thực hiện tốt khâu chuẩn bị nguồn nguyên liệu cho sản xuất, các

doanh nghiệp cần thực hiện tốt khâu thống kê và dự báo nhu cầu cho từng năm

cho từng loại gỗ, từ đó có thể chủ động hơn trong khâu thu mua nguyên liệu.

- Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ mua nguyên liệu thường qua rất là

nhiều khâu trung gian, do đó chất lượng thường không đảm bảo, giá cả đội lên

rất cao. Do đó các doanh nghiệp nên liên kết lại với nhau để nhập khẩu gỗ với

số lượng lớn, giảm chi phí nhập khẩu và tận dụng giá rẻ với số lượng lớn.

- Các đối tác để liên lạc nhập khẩu gỗ, thông tin từ thị trường, nhà cung

cấp có thể tìm hiểu qua các trang web chuyên ngành, từ cục xúc tiến thương mại

v.v…

* Hiệu quả của giải pháp.

- Ổn định được nguồn nguyên liệu đầu vào.

- Giảm đáng kể chi phí nhập khẩu nguyên liệu, giảm chi phí nguyên liệu.

3.2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.

* Cơ sở đề xuất giải pháp.

- Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp không đồng đều.

- Thiếu đầu tư máy móc nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm.

* Thực hiện.

- Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp phải được tiến hành từ khâu

nguyên liệu đến khâu sản xuất và thành phẩm. Yêu cầu của thị trường Mỹ về

chất lượng sản phẩm rất cao, đặc biệt là hàng hóa nội thất, gỗ chủ yếu để sản

xuất mặt hàng này là gỗ cao su và gỗ thông, yêu cầu của Mỹ là gỗ phải không

có độc tố, chất lượng gỗ và sản phẩm phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho tiêu

dùng. Để đảm bảo chất lượng hàng hóa đạt tiêu chuẩn sang thị trường Mỹ, các

doanh nghiệp phải thực hiện công việc kiểm tra chất lượng sản phẩm ở từng

công đoạn một cho đến khi đóng gói và xuất khẩu.

Page 60: cạnh tranh của Michael Porter

- 60 -

- Việc đầu tư máy móc thiết bị cũng là một yếu tố quan trọng trong việc

nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản phẩm.

- Các doanh nghiệp cũng rất cần phải nghiên cứu các quy định về thủ tục

và chất lượng sản phẩm khi xuất sang thị trường Mỹ để từ đó có được những

thông tin cần thiết để đáp ứng nhu cầu của đối tác, đảm bảo chất lượng hàng hóa

xuất khẩu.

- Cần phải đào tạo kiến thức cho cán bộ công nhân viên về tiêu chuẩn

chất lượng sản phẩm và yêu cầu họ phải tuân theo.

- Nguồn nhân lực cần phải ổn định và phải qua đạo tạo về tay nghề mới

bảo đảm được chất lượng của sản phẩm.

* Hiệu quả của giải pháp.

- Nâng cao và cải tiến chất lượng sản phẩm.

- Khắc phục những lỗi ngay từ đầu trong giai đoạn sản xuất để giảm

thiểu tổn thất xảy ra.

3.2.4. Giải pháp nâng cao thương hiệu và hình ảnh doanh nghiệp

* Cơ sở đề xuất giải pháp.

- Thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam chưa được biết đến.

- Các doanh nghiệp chưa coi trọng việc phát triển thương hiệu

- Các sản phẩm xuất khẩu thường qua trung gian và mang thương hiệu

nước thứ ba.

* Thực hiện.

Các doanh nghiệp đã đến lúc nên coi trọng thương hiệu của sản phẩm

mình và có chiến lược cụ thể để giới thiệu thương hiệu của sản phẩm mình trên

thị trường quốc tế và Mỹ. Để dễ dàng hơn trong việc nâng cao thương hiệu của

mình trên thị trường quốc tế các doanh nghiệp nên thực hiện các yêu cầu sau:

Page 61: cạnh tranh của Michael Porter

- 61 -

- Liên lạc với hội bảo hộ thương hiệu Việt thành phố Hồ Chí Minh,

trang web thương hiệu Việt hay phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam để

có sự hỗ trợ trong kế hoạch nâng cao thương hiệu của mình. Tháng bảy năm

2005. thành phố Hồ Chí Minh đã thí điểm chọn một số doanh nghiệp có nhiều

năm đạt danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao và có chiến lược xuất khẩu rõ

ràng và thị trường xuất khẩu ổn định để ủng hộ tài chính trong việc quảng bá

thương hiệu Việt, trong thời gian tới chương trình này sẽ được tiến hành rộng

rãi. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp có thể quảng bá danh hiệu của mình.

- Luôn luôn đề cao thương hiệu doanh nghiệp trong xuất khẩu, sử dụng

thương hiệu, nhãn mác của mình trên sản phẩm và tránh sử dụng thương hiệu

hay nhãn mác của người mua đối với những mẫu mã hàng hóa độc quyền của

mình.

- Nâng cao hình ảnh, chất lượng của công ty, công ty nên tập trung

nâng cao hình ảnh chất lượng sản phẩm và quy trình công nghệ sản xuất của

mình. Đối tác Mỹ chỉ có thể yên tâm làm ăn với công ty nào đã đạt chứng chỉ

chất lượng sản xuất nhà máy. Do đó các doanh nghiệp nên hệ thống và sắp xếp

lại quy trình sản xuất, liên lạc với tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế để được

đánh giá nhà máy, mục đích là đạt được các tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc

tế (ISO).

- Chứng chỉ COC cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá doanh

nghiệp sử dụng nguồn nguyên liệu gỗ FSC và tạo ra các sản phẩm gỗ FSC. Đây

là một yêu cầu ngày càng lớn của các đối tác và người tiêu dùng Mỹ nói chung

và Châu Âu nói riêng. Các doanh nghiệp cũng nên liên kết với các cơ quan quốc

tế để được đánh giá và xét được cấp chứng chỉ này khi có nhu cầu.

- Phong cách hoạt động chuyên nghiệp (có trang web để quảng bá hình

ảnh sản phẩm của mình, các bảng báo giá, cơ sở dữ liệu khoa học v.v…) cũng là

cách để nâng cao chất lượng thương hiệu của mình.

* Hiệu quả của giải pháp.

Page 62: cạnh tranh của Michael Porter

- 62 -

- Càng ngày nâng cao thương hiệu của Việt Nam sang thị trường Mỹ.

- Giảm khâu mua bán qua trung gian và chuyển sang bán trực tiếp cho

khách hàng qua việc phát triển thương hiệu.

3.2.5. Giải pháp đối với nguồn nhân lực cho doanh nghiệp

* Cơ sở đề xuất giải pháp.

- Các doanh nghiệp chưa chú ý đến tầm quan trọng của nguồn nhân lực

- Nguồn nhân lực nhìn chung chưa ổn định.

- Chưa có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực.

* Thực hiện.

Theo như trình bày trong mục 2.2.3.5, chất lượng nguồn nhân lực của

thành phố Hồ Chí Minh ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên nhìn chung các

doanh nghiệp chưa có chế độ, chính sách thỏa đáng để giữ người tài, hiệu quả

sử dụng nguồn nhân lực chưa cao và chưa nhận thức hết tầm quan trọng của

nguồn nhân lực đến sự phát triển của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần lưu ý

đến tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong xu thế hội nhập và cạnh tranh của

ngành ngày càng diễn ra nhanh chóng và gay gắt.

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự phát

triển bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông (ICT). Khối lượng thông

tin và tri thức nhân loại tăng nhanh với gia tốc lớn. Điều này vừa khiến cho

vòng đời của thông tin nhanh chóng bị rút ngắn lại, thông tin nhanh chóng bị lạc

hậu, nhưng với khối lượng đồ sộ của thông tin bắt buộc hoạt động của con

người phải tăng tốc, phải được nâng cấp để bắt kịp sự biển đổi này.

Nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, nguồn vốn tư bản, nguồn lao động

dồi dào v.v… hiện không còn là yếu tố quyết định đến sự phát triển bền vững,

lợi thế cạnh tranh mà yếu tố chính tạo nên sự phát triển lâu dài và bền vững đó

chính là nguồn vốn trí thức, nguồn nhân lực của doanh nghiệp.

Page 63: cạnh tranh của Michael Porter

- 63 -

Những tiêu chuẩn về nguồn nhân lực ngày nay có chiều hướng thay đổi

từ cần cù, trung thành, có trách nhiệm chuyên sang có tính sáng tạo, có khả

năng xử lý vấn đề, có khả năng phân tích, có tinh thần đồng đội, có khả năng ăn

nói diễn đạt v.v.... Do đó các doanh nghiệp cần lưu ý những đặc tính này của

nguồn nhân lực đặc biệt là trong đội ngũ kinh doanh của mình.

Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc cạnh tranh giữa các quốc

gia rất gay gắt và do đó việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với

trong nước và trong nước với nước ngoài cũng khá gay gắt, phần thắng chỉ

nghiêng về các quốc gia/ doanh nghiệp có nguồn nhân lực chất lượng cao, được

đào tạo tốt. Do đó vấn đề tuyển chọn chất lượng nguồn nhân lực trong khâu đầu

vào của doanh nghiệp cần được chú trọng cao, nhằm đảm bảo được chất lượng

hoạt động của doanh nghiệp sau đó.

Doanh nghiệp cần phải có chính sách phù hợp để ổn định nguồn nhân lực

bởi vì đa số các doanh nghiệp thuê lao động theo mùa khi có nhu cầu, do đó rất

bị động trong việc kiểm soát nguồn nhân lực. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và

nhỏ không thực hiện việc ký kết hợp đồng dài hạn với công nhân viên và không

có chính sách thỏa mãn nhằm thu hút, giữ nhân tài, do đó sự thay đổi nguồn

nhân lực trong công ty là rất lớn, gây ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, dịch

vụ của doanh nghiệp…

Cần phải có chương trình bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực để nâng cao

trình độ và tay nghề cho cán bộ công nhân viên. Cần phải có quỹ để đào tạo

nguồn nhân lực, tạo nên môi trường hoạt động ngày càng chuyên

nghiệp…Nhằm để đào tạo tốt nguồn nhân lực, các doanh nghiệp nên cử cán bộ

tham gia những khóa đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, kết hợp

với các tổ chức, trung tâm đào tạo để tiến hành phối hợp đào tạo cho cán bộ

công nhân viên của mình.

Ngoài ra, doanh nghiệp có thể hỗ trợ về mặt tài chính cho cán bộ công

nhân viên tham gia các khóa học về ngoại ngữ, vi tính, nghiệp vụ v.v…

Page 64: cạnh tranh của Michael Porter

- 64 -

* Hiệu quả của giải pháp.

- Giúp doanh nghiệp hiểu rõ tầm quan trọng của nguồn nhân lực và coi

trọng việc ổn định nguồn lực trong công ty trong việc quyết định năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp.

- Nguồn nhân lực được nâng cao theo hướng chuyên môn hóa, am hiểu

về kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ.

3.2.6. Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ cho doanh nghiệp

* Cở sở đề xuất giải pháp.

- Chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp nhìn chung chưa cao, chưa

mang tính chuyên nghiệp

- Phục vụ những yêu cầu, thắc mắc của khách hàng thường là chậm trễ,

không đúng lúc.

- Thời gian giao hàng thường chậm trễ và thiếu những thông tin giao

dịch cần thiết cho khách hàng về chi tiết đơn hàng.

* Thực hiện.

Theo sơ đồ chuỗi giá trị của Porter, dịch vụ là một khâu quan trọng trong

việc gia tăng giá trị cho doanh nghiệp. Dịch vụ ở đây nên hiểu rộng hơn không

chỉ là dịch vụ ở khâu hậu mãi mà là dịch vụ ở tất cả các khâu của quá trình.

Chất lượng dịch vụ cần phải được chú tâm ở tất cả các khâu từ khâu chào giá,

marketing, bán hàng, hậu mãi… Dịch vụ cần phải chú ý vào khâu phục vụ đúng

lúc, đúng thời điểm, và mức độ chuyên nghiệp trong khâu phục vụ khách hàng,

hiểu biết sâu về sản phẩm, chức năng v.v…Để nâng cao chất lượng dịch vụ của

doanh nghiệp, doanh nghiệp cần chú ý những điểm sau:

- Tăng cường khâu quản trị một cách hiệu quả, quản lý theo phong cách

hiện đại và chuyên nghiệp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ của công ty.

Page 65: cạnh tranh của Michael Porter

- 65 -

- Luôn luôn coi trọng yếu tố thời gian trong kinh doanh và luôn giữ uy tín

với khách hàng, ví dụ như thời gian thực hiện xong bảng chào hàng, thời gian

giao hàng đúng hạn v.v… Ví dụ như doanh nghiệp có thể đưa ra quy định tất cả

các email, yêu cầu khách hàng phải được phản hồi trong vòng 24 tiếng đồng hồ.

- Bảo đảm rằng thông tin cung cấp cho khách hàng là chuẩn xác, có sự

chuyên môn hóa trong đội ngũ nhân viên để tạo điều kiện cho phong cách phục

vụ nhu cầu khách hàng được tốt hơn. Ví dụ như trước khi giao hàng phải thông

báo giao hàng (pre-shipment advice) và sau khi giao hàng phải thông báo kịp

lúc chi tiết giao hàng (shipment advice). Trong trường hợp giao hàng trễ, phải

thông báo cho khách hàng và yêu cầu họ chấp nhận giao trễ ít nhất là một tuần

trước ngày xuất hàng được quy định trong đơn hàng v.v…

- Có sự huấn luyện, đào tạo cho nhân viên để hiểu thấu và nắm bắt được

công việc mình làm, phải có sự phối hợp nhịp nhàng, khoa học giữa các phòng

ban trong việc phục vụ khách hàng.

- Công nhân viên phải có trình độ chuyên môn nhất định, có óc sáng tạo

phù hợp với công việc mình làm nhằm tạo điều kiện tốt hơn trong khâu dịch vụ

cung cấp cho khách hàng.

* Hiệu quả của giải pháp.

- Chất lượng phục vụ khách hàng của doanh nghiệp mang tính chuyên

môn hóa, chuyên nghiệp hơn.

- Phục vụ đúng lúc theo đúng tiêu chí “on time” chứ không phải “in

time”.

3.2.7. Giải pháp công nghệ cho doanh nghiệp

* Cơ sở đề xuất giải pháp.

- Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh

tranh. Chỉ có đầu tư công nghệ mới có khả năng cạnh tranh cao và thâm nhập thị

trường cao.

Page 66: cạnh tranh của Michael Porter

- 66 -

- Công nghệ sản xuất gỗ của Hồ Chí Minh nhìn chung còn lạc hậu, đa số

là sản xuất thủ công, năng suất thấp.

* Thực hiện.

Sơ đồ sau đây sẽ thể hiện vai trò của công nghệ trong sự kết hợp với vai

trò của công nghệ trong quá trình sản xuất để tạo nên lợi thế cạnh tranh.

Công nghệ: Áp dụng công nghệ phù hợp Công nghệ tiên tiến, sử dụng hiệu quả yếu tố đầu vào, đổi mới công nghệ

Quản trị: Phù hợp quản trị sản xuất với chiến lược sử dụng công nghệ nhằm giảm chi phí của quá trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm

Nâng cao chi phí đầu tư cho máy móc thiết bị dẫn đến:

- Giảm chi phí lao động - Giảm chi phí năng lượng - Giảm chi phí nguyên vật liệu - Nâng cao độ tin cậy trong quá

trình sản xuất

Giảm chi phí quá trình sản xuất dẫn đến: - Giảm chi phí sản phẩm không

đạt chất lượng - Giảm chi phí tồn trữ - Nâng cao hiệu quả sản xuất

Chi phí sản xuất thấp Chất lượng sản phẩm và dịch vụ tăng

Thời gian sản xuất ngắn hơn

Nâng cao lợi thế cạnh tranh

Nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ qua biểu đồ trên, các

doanh nghiệp cần phải đầu tư vào công nghệ để phục vụ trong quá trình sản xuất

nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh. Các lưu ý khi đầu tư công nghệ sản xuất:

Page 67: cạnh tranh của Michael Porter

- 67 -

- Dựa vào nhu cầu sản xuất thực tế và nhu cầu đặt hàng thực tế và dự báo

nhu cầu cho tương lai để quyết định đầu tư cho công nghệ.

- Dựa vào năng lực tài chính hiện tại và khả năng thanh toán để quyết

định đầu tư.

- Có thể tham gia các hội chợ công nghệ đồ gỗ tổ chức hàng năm ở thành

phố Hồ Chí Minh để xem công nghệ (máy móc) sản xuất nào là phù hợp cho

doanh nghiệp.

- Có thể tìm kiếm, ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ với các đối

tác nước ngoài.

- Kết hợp hiệu quả giữa đầu tư công nghệ và quản trị sản xuất để đạt

được hiệu quả tối ưu, nâng cao năng lực cạnh tranh.

* Hiệu quả của giải pháp.

- Giúp doanh nghiệp hiểu được tầm quan trọng của đầu tư công nghệ

trong sản xuất.

- Giúp doanh nghiệp lựa chọn quyết định đầu tư công nghệ thích hợp.

3.3. Một vài kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan chức năng.

3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước.

Tạo nguồn nguyên liệu dồi dào trong nước, chất lượng cao thay thế

nhập khẩu đáp ứng các đơn đặt hàng lớn. Với 3 xu hướng nguyên liệu chính: gỗ

nhân tạo, gỗ có chứng nhận FSC và gỗ tái chế, các tiêu chuẩn về môi trường sẽ

được thị trường đặt ra ngày càng nhiều cho thương mại đồ gỗ, kể cả việc xác

định tính hợp pháp và khả năng tái sinh của khu vực khai thác. Do đó, đối với

các sản phẩm gỗ khai thác tại Việt Nam cần mời các tổ chức quốc tế có thẩm

quyền kiểm tra việc quản lý khai thác gỗ và cấp chứng chỉ xác nhận gỗ được

khai thác. Đặc biệt, việc xây dựng và các tiêu chí quản lý rừng bền vững, các

Page 68: cạnh tranh của Michael Porter

- 68 -

khu rừng có chứng chỉ FSC cần được tiến hành nhanh chóng, triệt để nhằm đạt

được một số lợi thế cho ngành lâm nghiệp Việt Nam.

Nâng cao nhận thức toàn diện về vai trò, vị trí mới của sản phẩm gỗ

trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực quốc gia.

Nâng cao vai trò, chức năng của các hiệp hội ngành nghề, trước hết là

ngành hàng gỗ Việt Nam trong hiệu quả liên kết chuỗi doanh nghiệp, tạo lợi thế

cạnh tranh quốc gia.

Thành lập Ban chỉ đạo (hoặc Ban chủ nhiệm) cấp thành phố để thúc

đẩy tiến độ đầu tư chương trình mục tiêu phát triển ngành chế biến gỗ.

Nhà nước ban hành mới và chỉnh sửa các luật hiện có để tạo sự thống

nhất giữa luật và các văn bản dưới luật, phù hợp với hệ thống luật quốc tế và

những cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ nhằm tạo môi

trường pháp lý ổn định, minh bạch, giúp các doanh nghiệp cả Việt Nam và các

đối tác Hoa Kỳ yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh, tích cực đầu tư và tìm

kiếm các đối tác thương mại tại Việt Nam.

Việt Nam chuẩn bị sẵn sàng các hành trang cần thiết để đối phó thắng

lợi với các vụ tranh chấp thương mại có thể sẽ xảy ra trong tương lai cho ngành

gỗ. Chúng ta, một mặt, phải học cách thích ứng với thực tiễn kinh doanh quốc

tế, trong đó các tranh chấp thương mại là hiện tượng bình thường, bằng cách

phối hợp chặt chẽ với các bị đơn khác để có tiếng nói thống nhất phản đối đơn

kiện; thuê khoán tư vấn pháp lý giỏi... Mặt khác, phát huy vai trò của các hiệp

hội xuất khẩu Việt Nam trong việc phối kết hợp các doanh nghiệp trong nước,

các nhà nhập khẩu hàng của Việt Nam ở Hoa Kỳ, người tiêu dùng Hoa Kỳ, kể

cả các chính khách... Tiến hành những cuộc tuyên truyền vận động về sản phẩm

của Việt Nam không hề bán phá giá, về lợi ích của việc tăng cường trao đổi

buôn bán sản phẩm giữa hai bên...

Page 69: cạnh tranh của Michael Porter

- 69 -

Nên nhanh chóng gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) nhằm

tạo cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất gỗ ở Việt Nam nói chung và ở Hồ Chí

Minh nói riêng có cơ hội thúc đẩy thương mại với các nước trên thế giới và Mỹ.

Có kế hoạch đào tạo lâu dài nguồn nhân lực nhằm mục đích nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vì chất lượng nguồn nhân lực của

quốc gia là một yếu tố quan trọng quyết định nên sự phát triển lâu dài và tạo nên

lợi thế cạnh tranh cho quốc gia đó. Việc cải tiến nguồn nhân lực có thể được

thực hiện từ khâu giáo dục đào tạo, công tác quản lý giáo dục của Việt Nam…

Cần phải có sự hỗ trợ về mặt tài chính, tín dụng để doanh nghiệp có

đủ năng lực tài chính thực hiện chính sách quảng bá sản phẩm, đầu tư đổi mới

thiết bị công nghệ.

3.3.2. Kiến nghị đối với các cơ quan chức năng thành phố.

Ngành Lâm nghiệp cần nên nhanh chóng đăng ký, lập hồ sơ và hoàn

tất hồ sơ để được công nhận của thế giới nguồn gốc gỗ rừng trồng (FSC).

Về nguồn hàng nhập khẩu, các cơ quan chức năng (như hiệp hội

v.v…) cần cung cấp thông tin đầy đủ về giá cả, thị trường gỗ nguyên liệu và nhà

xuất khẩu gỗ khi doanh nghiệp có yêu cầu và có thể tư vấn cho doanh nghiệp thị

trường nhập khẩu nguyên liệu nào là phù hợp khi có yêu cầu.

Tăng cường việc trồng rừng khai thác gỗ, tăng cường giao rừng cho

dân theo chế độ khoán, khuyến khích người dân trồng rừng và gắn liền lợi ích

trồng rừng cho người dân.

Đối với cục xúc tiến Thương mại cần phải phát huy vai trò của mình

trong việc quảng bá hình ảnh, sản phẩm của các doanh nghiệp sang thị trường

Mỹ. Hỗ trợ các doanh nghiệp về mặt tài chính và hướng dẫn, trợ giúp họ trong

việc quảng bá sản phẩm sang thị trường Mỹ.

Các cơ quan chức năng (ví dụ như phòng Thương Mại) có thể tổ chức

thường xuyên những khóa học ngắn hạn, những buổi hội thảo chuyên ngành gỗ

Page 70: cạnh tranh của Michael Porter

- 70 -

xuất sang thị trường Mỹ nhằm phổ biến kiến thức, các yêu cầu của thị trường

Mỹ, thị hiếu v.v… và giải đáp thắc mắc cho các doanh nghiệp.

Chú trọng xúc tiến xuất khẩu, đăng ký vào bảo hộ thương hiệu. Nâng

cao vai trò chủ đạo trong việc hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện chiến lược

nâng cao thương hiệu và bảo hộ thương hiệu hàng Việt Nam tại thị trường Mỹ.

Thành lập các Viện nghiên cứu sản phẩm, thị trường gỗ, thị trường

tiêu thụ sản phẩm, tư vấn thông tin giá cả, bạn hàng v.v…

Các bộ ngành có thể phối hợp với các trường đào tạo kỹ thuật thành

lập các trung tâm đào tạo lành nghề mộc nhằm bổ sung lực lượng nghề mộc cho

các doanh nghiệp.

Kiến nghị Sở Công nghiệp thành phố chủ trì và triển khai nhanh các

dự án về đổi mới công nghệ, thiết bị phục vụ ngành chế biến gỗ theo Quyết định

của UBND thành phố.

Quy chuẩn thống nhất các thông số kỹ thuật kiểm tra chất lượng sản

phẩm gỗ theo ISO 9000, ISO 1400…

Page 71: cạnh tranh của Michael Porter

- 71 -

KẾT LUẬN

Lợi thế cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hóa là một yếu tố quyết định đến

sự phát triển và thịnh vượng của mỗi doanh nghiệp. Tận dụng được những lợi

thế vốn có của mình, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu trên Tp. Hồ Chí

Minh cần phải có chính sách, chiến lược phát triển của mình để giành được lợi

thế cạnh tranh không những ở trong nước mà còn so với các nước trong khu vực

và thâm nhập vào thị trường Mỹ - một thị trường đầy hứa hẹn nhưng khó tính.

Tuy nhiên việc thành công hay không khi thâm nhập vào thị trường này,

đòi hỏi các doanh nghiệp phải tận dụng hết khả năng, thế mạnh của mình, biết

đón lấy những thời cơ, cơ hội một cách tốt nhất.

Qua đề tài nghiên cứu này, hy vọng các doanh nghiệp biết cách vận dụng

các giải pháp một cách tốt nhất tùy theo tình hình thực tế của mình mà có những

chiến lược phát triển, cạnh tranh phù hợp nhất khi tham gia vào thị trường Mỹ.

Tuy nhiên, vì thời gian nghiên cứu có giới hạn, chắc chắn đề tài này có nhiều

thiếu sót, kính mong sự đóng góp của quý thầy cô, các bạn và các doanh nghiệp

để cho đề tài nghiên cứu này ngày càng được hoàn thiện hơn.