cÁc gi m Êu chi ĐẠi hỌc ĐÀ nẴng thÀnh ĐẠi hỌc … · người về hưu lớn...
TRANSCRIPT
92
Chương 5
CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ THỰC HIỆN MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG THÀNH ĐẠI HỌC
NGHIÊN CỨU NĂM 2020
5.1. Giới thiệu
Trên thế giới hiện nay có nhiều hệ thống xếp hạng các trường Đại học. Hệ thống
xếp hạng của Đại học Giao thông Thượng Hải (SJTU) và hệ thống xếp hạng của phụ
trương Báo Times (THES) được các trường Đại học quan tâm nhiều nhất. Dù theo hệ
thống xếp hạng nào đi nữa thì thành quả nghiên cứu khoa học của cán bộ và sinh viên (kể
cả cựu sinh viên) của nhà trường cũng là tiêu chí quan trọng nhất để quyết định đẳng cấp
của nó trên bảng xếp hạng các trường đại học thế giới. Các trường Đại học Việt Nam nói
chung hiện nay còn yếu về nghiên cứu khoa học và đó là nguyên nhân cơ bản giải thích
vì sao hiện nay chưa có trường đại học nào của ta lọt vào danh sách các trường đại học có
thứ hạng cao trên thế giới và khu vực.
Tuy hiện nay chưa có hệ thống xếp hạng các đại học nào có được sự đồng thuận
của tất cả mọi người nhưng các quốc gia đều có chung khát vọng là có một số trường của
quốc gia mình được lọt vào top các trường được xếp hạng cao theo SJTU hay THES. Đó
là bước phấn đấu hết sức cam go của các trường đại học cũng như của các chính phủ.
Ước mơ đó sẽ không bao giờ đạt được nếu chúng ta không có những đại học
nghiên cứu thực sự.
Điểm yếu của các trường Đại học nước ta hiện nay không phải là không có cán bộ
làm nghiên cứu khoa học mà do không có điều kiện để họ nghiên cứu. Xử lý bất cập này
việc đầu tiên nên làm là giảm tải cho cán bộ giảng dạy đi đôi với nâng cao đời sống của
giảng viên. Tỉ lệ sinh viên/giảng viên ở các trường quá cao khiến giảng viên không còn
thời gian làm công tác nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên nếu giảm tải mà không đi kèm
theo việc nâng cao đời sống của giảng viên thì họ cũng phải đi làm thêm, dạy thêm các
trường tư thục để có thêm thu nhập. Bài toán thúc đẩy nghiên cứu khoa học ở các trường
đại học vì vậy vẫn không có lời giải. Việc thứ hai là tăng cường đầu tư cơ sở vật chất
phục vụ nghiên cứu khoa học theo chiều sâu đồng bộ với đào tạo các nhà nghiên cứu. Có
thiết bị hiện đại mà không có đội ngũ cán bộ nghiên cứu chuyên nghiệp sẽ gây lãng phí
lớn cho đầu tư.
93
Đầu tư để xử lý những vấn đề cơ bản trên đây rất tốn kém và trong tình hình kinh
tế hiện nay chúng ta không thể tiến hành đồng loạt ở tất cả các trường đại học. Vì vậy
trước mắt chúng ta cần thiết tổ chức một số trường đại học nghiên cứu mô hình mới với
cơ chế hoạt động đặc biệt. Nhà nước tập trung đầu tư các trường đại học nghiên cứu này
để chúng nhanh chóng phát triển trở thành đầu tàu cho hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam. Các trường đại học này được tổ chức, đầu tư theo chuẩn quốc tế. Chương trình
giảng dạy, đội ngũ giảng viên cũng theo chuẩn quốc tế ngay từ lúc bắt đầu đào tạo. Suất
đầu tư trên đầu sinh viên, chi phí cho hoạt động của trường cũng sẽ cao hơn rất nhiều mà
nếu chúng ta cứ dựa trên chuẩn đầu tư hiện nay thì không thể nào làm được.
Nói như vậy có nghĩa là chúng ta chấp nhận có sự phân tầng Đại học, chấp nhận
sự đầu tư không đồng đều giữa các trường đại học hiện nay. Các trường đại học mô hình
mới được đầu tư mạnh, có cơ chế tự chủ cao sẽ phát triển theo hướng nghiên cứu, đào tạo
đội ngũ cán bộ trình độ và chất lượng cao theo chuẩn quốc tế. Các trường đại học khác
tiếp tục đảm đương việc đào tạo đội ngũ nhân lực đại trà. Khi một trường nào đó hay một
số ngành của một trường nào đó đủ mạnh thì có thể được hưởng qui chế đặc biệt và được
đầu tư như mô hình đại học nghiên cứu. Hệ thống giáo dục đại học của chúng ta sẽ dịch
chuyển dần theo hướng đại học nghiên cứu để có thể gia nhập vào hệ thống xếp hạng thế
giới.
Chúng ta cũng cần đặc biệt quan tâm là việc xếp hạng các đại học thế giới dựa vào
thành công của cựu sinh viên trong hoạt động nghề nghiệp và trong nghiên cứu khoa học.
Vì vậy số lượng sinh viên lớn, đặc biệt là học viên sau đại học, và đa dạng ngành nghề là
lợi thế mạnh trong xếp hạng.
Cái khó là tập cho cán bộ của trường có niềm đam mê nghiên cứu khoa học. Một
thầy giáo dạy Đại học ở nước ngoài ngoài giờ dạy ở lớp, họ làm công tác nghiên cứu
khoa học, không có việc gì khác. Phòng thí nghiệm gắn liền với cuộc sống của họ. Phòng
thí nghiệm đôi lúc không có gì to tát, chỉ là một góc phòng nhỏ ở đó họ lắp đặt những vật
dụng nghiên cứu. Họ quên đi tất cả những cám dỗ đời thường để ngày đêm suy nghĩ, đeo
đuổi vấn đề khoa học mà họ quan tâm. Nhà nước đầu tư cho họ những điều kiện cần thiết
để họ thực hiện nghiên cứu. Họ có nhóm nghiên cứu gồm những đồng nghiệp, nghiên
cứu sinh. Nhà nước đảm bảo cho họ một mức lương tương đương với thu nhập mà họ có
được nếu làm ở những đơn vị khác ngoài trường đại học. Chừng ấy điều kiện đủ để biến
các thầy giáo dạy đại học trở thành những nhà nghiên cứu giỏi.
Những điều kiện để tạo niềm đam mê nghiên cứu khoa học của giảng viên như
vậy, trước mắt nước ta chưa có thể thực hiện đại trà nhưng đối với một số trường Đại học
nghiên cứu theo mô hình mới điều đó hoàn toàn khả thi.
Khi đưa ra diễn đàn về việc xây dựng một số trường đại học tiêu chuẩn quốc tế để
phát triển thành đại học đẳng cấp quốc tế trong tương lai ắt hẳn chúng ta sẽ nhận được rất
94
nhiều ý kiến khác nhau của người dân cũng như của những người làm công tác quản lý
nhà nước. Ý kiến người dân sẽ xoay quanh vấn đề sự công bằng trong giáo dục, tại sao
các trường này lại được ưu tiên đầu tư, tại sao những người làm công tác giảng dạy ở đây
lại hưởng lương cao hơn rất nhiều so với các đồng nghiệp ở các trường khác… Ý kiến
của những người quản lý nhà nước sẽ liên quan đến cơ chế tài chính, tổ chức nhân sự, qui
chế tuyển sinh, đào tạo… Nếu chúng ta cứ bận tâm mãi đến những vấn đề này thì giáo
dục đại học của ta rất khó tạo ra được sự bức phá và mục tiêu để có những trường lọt vào
bảng xếp hạng 500, 200… trên thế giới vẫn còn rất xa vời.
Hiện nay Chính phủ đã có chủ trương xây dựng 4 trường Đại học nghiên cứu theo
mô hình mới. Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn để tạo ra bước khởi đầu quan
trọng cho cho đại học Việt Nam bước chân vào làng đại học đẳng cấp quốc tế. Đại học
Đà Nẵng được Chính phủ lựa chọn là một trong 4 nơi xây dựng trường đại học mô hình
mới này. Trường Đại học mô hình mới sẽ là trường Đại học nghiên cứu làm đầu tàu giúp
Đại học Đà Nẵng thực hiện thành công kế hoạch chiến lược của mình.
5.2. Các giải pháp thực hiện chiến lược
1. Nâng cao số lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu
Nhanh chóng bồi dưỡng đội ngũ lãnh đạo, đội ngũ quản lý các cấp có tư duy chiến
lược và nhạy bén với sự phát triển của thời kỳ mới. Trong qui hoạch cán bộ cần tìm kiếm,
phát hiện những nhân tố mới, đó là những người có lòng nhiệt huyết, có tầm nhìn. Chúng
ta cần nhanh chóng đưa những cán bộ trẻ khoảng 30-40 tuổi vào hàng ngũ lãnh đạo các
khoa, trường cùng với những cán bộ giàu kinh nghiệm để sự nghiệp đổi mới của chúng ta
được liên tục.
Tăng cường đội ngũ cán bộ giảng dạy đảm bảo tỉ lệ sinh viên chính qui/giáo viên
là 20 năm 2015. Tỉ lệ này hiện nay của chúng ta là 25. Từ nay đến 2015, chúng cần bổ
sung thêm 500 cán bộ giảng dạy trẻ, một mặt để thay thế cán bộ lớn tuổi đã nghỉ hưu và
mặt khác tăng cường thêm số lượng giảng viên để rút giảm tỉ lệ sinh viên/giảng viên hiện
có. Tốc độ tăng số lượng giảng viên như vậy khoảng 100 giảng viên mới/năm. Đây quả là
một thử thách rất lớn đối với công tác cán bộ.
Hình 5.1 giới thiệu tổng số cán bộ về hưu trong toàn Đại học Đà Nẵng từ năm
2005 đến năm 2015. Trong giai đoạn 10 năm, số lượng cán bộ về hưu của toàn Đại học
Đà Nẵng khoảng 30 người/năm. Số lượng về hưu cao nhất là 68 người vào năm 2014. Số
lượng cán bộ về hưu của từng trường được trình bày trên hình 5.2. Theo đó số lượng
người về hưu lớn nhất thuộc hai trường Đại học Bách Khoa và Đại học Sư Phạm (hình
5.2). Nếu tính bình quân thời gian đào tạo một cán bộ từ lúc nhận về trường đến khi có
thể đứng bục giảng và làm nghiên cứu khoa học là 8 năm (2 năm tập sự, chuẩn bị ngoại
ngữ; 2 năm cao học; 1 năm chuẩn bị đề tài, tìm học bổng nghiên cứu sinh; 3 năm làm
95
luận án tiến sĩ) thì số cán bộ nhận về năm 2009 đến năm 2017 mới thực sự phát huy tác
dụng.
Như trên đã trình bày, để đạt chuẩn Đại học nghiên cứu năm 2020, mỗi năm Đại
học Đà Nẵng phải bổ sung thêm khoảng 100. Nếu kể trung bình mỗi năm có 30 cán bộ về
hưu thì mỗi năm chúng ta cần tuyển thêm ít nhất 130 cán bộ giảng dạy nữa. Trong năm
2008, chúng ta đã tuyển thêm tổng công 117 cán bộ giảng dạy (hình 5.3). Cũng trong
năm 2008, chúng ta đã gửi đi đào tạo sau đại học 43 cán bộ trong và 65 cán bộ ở nước
ngoài, tổng cộng 108 người.
Trong những năm tới nếu chúng ta tăng cường thêm 30% số lượng cán bộ tuyển
mới và gửi đi đào tạo so với tốc độ hiện nay thì chúng ta có thể đạt được chỉ tiêu về đội
ngũ cán bộ đảm bảo cho việc phát triển đại học nghiên cứu.
23 22
15
26
46
42
33
43
33
68
41
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Hình 5.1: Tổng số cán bộ nghỉ hưu trong toàn Đại học Đà Nẵng theo năm
2. Củng cố chất lượng đội ngũ
Việc tăng cường số lượng cán bộ không quan trọng bằng việc nâng cao chất lượng
đội ngũ giảng viên. Trên thực tế phần lớn giảng viên trẻ ở lại trường đều là sinh viên giỏi
của các khoa được giữ lại làm cán bộ giảng dạy. Về năng lực, các giảng viên này đảm
bảo trình độ chuyên môn tuy nhiên do là cựu sinh viên của trường nên nếp suy nghĩ, kiến
thức chuyên môn, phương pháp học tập, nghiên cứu không được cập nhật. Vì vậy những
cán bộ mới này sau khi được tiếp nhận cần được gửi đi đào tạo ở nước ngoài ở bậc sau
đại học. Trong những năm gần đây, chúng ta đã có chủ trương này, kết quả là số lượng
cán bộ trẻ đi học tập nước ngoài bằng các nguồn tài chính khác nhau đã tăng đột biến. Để
tăng hiệu quả đào tạo cán bộ trẻ kịp thời đáp ứng nhu cầu phát triển theo hướng đại học
nghiên cứu trong những năm tiếp theo chúng ta thực hiện các chủ trương sau:
96
9
8
5
10
13
6
3
8
10
21
14
2 2
3 3
7
5
4
7
4 4
3
6 6
3
6
16
22
16
20
14
17
12
0 0 0
2
3
2
3
1
0
8
3
4 4
2
1
3
4
3
1
0
8
3
2 2 2
4 4
3
4
6
5
10
6
0
5
10
15
20
25
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Trường ĐHBK
Trường ĐHKT
Trường ĐHSP
Trường ĐHNN
Trường CĐCN
Cơ quan ĐHĐN
Hình 5.2: Tổng số cán bộ nghỉ hưu từng Trường theo năm
Hình 5.3: Số cán bộ tuyển mới của Đại học Đà Nẵng
11
32
19
60
81
117
9 10
40
30
2320
0
20
40
60
80
100
120
140
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Năm
Số
lư
ợn
g c
án
bộ
tu
yển
mớ
i CBGD
CBPV
97
Hình 5.4: Thống kê tình hình đào tạo cán bộ
- Đào tạo theo nhóm: Nên gửi tập trung một nhóm nhỏ cán bộ đến từng
phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu ở nước ngoài để được đào tạo một
hướng chuyên sâu. Công tác hợp tác quốc tế vì vậy cần đi trước để làm
công tác chuẩn bị, tiến hành ký kết các hợp đồng cụ thể nhằm lên kế hoạch
gửi thường xuyên cán bộ đến phòng thí nghiệm xác định theo một hướng
khoa học định trước
- Bồi dưỡng ngoại ngữ một cách bài bản cho cán bộ trẻ mới ở lại trường.
Trong năm đầu tiên ở lại trường, cán bộ trẻ ngoài việc làm quen với công
tác chuyên môn, cần tập trung học ngoại ngữ sao cho năm thứ hai, cán bộ
này có thể dự tuyển các chương trình đào tạo cán bộ ở nước ngoài hoặc
đăng ký xin các học bổng quốc tế.
- Đa dạng hoá các điểm đến học tập của cán bộ trẻ. Việc tiếp nhận các nền
văn hoá đa dạng cũng như phương pháp nghiên cứu khoa học, giảng dạy
của các nước khác nhau rất cần thiết để phát triển nhà trường. Vì vậy cần
khuyến khích cán bộ trẻ đi học tập ở nhiều nước và vùng lãnh thổ khác
nhau. Những nước có nền giáo dục tiên tiến đang có xu hướng phát triển
tiếp nhận sinh viên, nghiên cứu sinh nước ngoài ở khu vực Bắc Á (Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) hay các nước châu Âu có nền giáo dục được
chính phủ bao cấp (Pháp, Đức...) là những điểm đến thuận lợi mà chúng ta
cần đặc biệt quan tâm khai thác.
48
13
9
44
7
1
9
42
1113
4
35
8
1
34
31
1312
5
1
17
20
3
0
10
20
30
40
50
60
Thạc sĩ Tiến sĩ Thực tập Thạc sĩ Tiến sĩ Thực tập
2006
2007
2008
août-09
Đào tạo trong nước Đào tạo ở nước ngoài
98
- Tiếp tục thực hiện chủ trương “Cán bộ trẻ phải được đào tạo sau đại học ở
nước ngoài”. Trong những năm gần đây với chủ trương cứng rắn yêu cầu
cán bộ giảng dạy trẻ phải đi học sau đại học ở nước ngoài chúng ta đã đạt
được thành công đáng kể về đào tạo cán bộ và đổi mới phuơng pháp giảng
dạy, nghiên cứu cũng như cập nhật chương trình. Các cán bộ trẻ sau khi đi
học ở nước ngoài về đã tạo ra những hướng nghiên cứu mới, thiết lập được
các mối quan hệ hợp tác với đồng nghiệp quốc tế, tạo nên những chuyển
biến tích cực trong đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Trong những năm tới đây, Đại học Đà Nẵng tiếp tục duy trì chủ trương này. Với
kinh nghiệm đã tích lũy được, nhà trường sẽ đẩy mạnh hơn nữa công tác gửi cán bộ ra
nước ngoài đào tạo tập trung theo các nhóm để phát huy tác dụng mạnh mẽ hơn trong quá
trình xây dựng Đại học Đà Nẵng thành đại học nghiên cứu.
Kế hoạch công tác của một cán bộ trẻ ở lại trường của Đại học Đà Nẵng theo 2
phương án sau:
+ Phương án 1:
Năm đầu tiên: ¾ thời gian học ngoại ngữ, ¼ thời tập sự chuyên môn
Năm thứ hai: ½ thời gian tập trung học ngoại ngữ, ½ thời gian chuẩn bị đề
cương nghiên cứu, tìm kiếm các nguồn học bổng
Năm thứ ba: đi học nước ngoài
+ Phương án 2:
Hai năm đầu tiên: học chương trình cao học trong nước, chuẩn bị ngoại
ngữ, tìm kiếm học bổng
Năm thứ ba: Đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài
Cả hai phương án trên những cán bộ trẻ sau 3 năm không đi được nước ngoài thì
khuyến khích chuyển công tác khác. Những trường hợp đặc biệt được xem xét cho học
trong nước nhưng để làm cán bộ giảng dạy thực hành.
Các nguồn học bổng:
Học bổng của Chính phủ thông qua đề án 322
Kinh phí dành cho đào tạo của các dự án tăng cường năng lực đào tạo và
nghiên cứu khoa học
Học bổng của các chương trình hợp tác song phương
Học bổng của các chính phủ nước ngoài
Học bổng cạnh tranh tìm trên mạng
99
Để tiếp cận với các nguồn học bổng trên, ngoài trình độ chuyên môn, kết quả học
tập tốt của ứng viên, trình độ ngoại ngữ mang tính chất quyết định. Vì vậy trong tuyển
chọn cán bộ mới cần đặc biệt quan tâm đến yếu tố này.
3. Phát triển cơ sở vật chất và trang thiết bị nghiên cứu khoa học
Cơ sở vật chất hiện nay của Đại học Đà Nẵng chỉ đáp ứng được 10% tiêu chuẩn
cần thiết để đào tạo đại học chính qui. Vì vậy để đạt được yêu cầu phát triển thành đại
học nghiên cứu, chúng ta cần nhanh chóng mở rộng cơ sở hạ tầng. Nhiệm vụ trọng tâm
của giai đoạn 2010-2015 là:
- Hoàn tất các hạng mục công trình xây dựng cơ sở hạ tầng đã được phê
duyệt cho giai đoạn 2 và giai đoạn 3 Làng Đại học Đà Nẵng ở Hoà Quý-
Điện Ngọc
- Tiến hành xây dựng các công trình đã được phê duyệt cho phân hiệu Đại
học Đà Nẵng tại Kontum
- Qui hoạch mặt bằng, xây dựng cơ sở vật chất trên không gian mở rộng của
Trường Đại học Bách Khoa
- Xây dựng Trường Đại học Nghiên cứu trong Khu công nghệ cao Đà Nẵng
- Xây dựng Khoa Y-Dược trên diện tích đất 5ha đã được Thành phố duyệt
cấp
- Nâng cấp các cơ sở hiện có của các trường Đại học Kinh tế, Đại học Sư
Phạm, Trường Cao Đẳng Công Nghệ.
Phấn đấu đến năm 2015, diện tích mặt bằng sử dụng cho đào tạo ở Đại học Đà
Nẵng tính trên đầu sinh viên tăng gấp 3 lần so với hiện nay
Trên cơ sở kinh nghiệm của các nhóm giảng dạy-nghiên cứu đã thành lập, trong
những năm tiếp theo, việc trang bị cơ sở vật chất của Đại học Đà Nẵng thực hiện theo
hướng đầu tư đồng bộ cả lực lượng cán bộ và trang thiết bị. Thực tế trong những năm qua
cho thấy có rất nhiều phòng thí nghiệm được đầu tư chiều sâu nhưng hiệu quả khai thác
chưa được như mong đợi. Lý do đơn giản là thiếu đội ngũ chuyên môn để khai thác.
4. Giải pháp tổ chức
- Bổ nhiệm các trường thành viên một Phó hiệu trưởng chuyên phụ trách công
tác nghiên cứu khoa học
- Bổ nhiệm mỗi khoa một Phó chủ nhiệm khoa phụ trách công tác nghiên cứu
khoa học
- Tách Ban Khoa học và Quản lý Đào tạo sau đại học hiện nay thành hai đơn vị:
+ Ban Khoa học, chuyển giao công nghệ và quan hệ doanh nghiệp
100
Nhiệm vụ của Ban là tập trung nghiên cứu chiến lược phát triển khoa học công
nghệ, quản lý đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ các cấp, phụ trách công tác đăng ký
bản quyền sở hữu trí tuệ đồng thời thiết lập quan hệ mật thiết với các doanh nghiệp, địa
phương, đơn vị sản xuất kinh doanh để tìm kiếm các cơ hội hợp tác chuyển giao công
nghệ
+ Trường Sau đại học (Post Graduate School)
Trường Sau đại học làm chức năng tổ chức đào tạo, quản lý học viên sau đại học
một cách thống nhất trong toàn Đại học Đà Nẵng. Đây là đơn vị chuyên trách làm nhiệm
vụ phát triển đào tạo sau đại học, với mục tiêu gia tăng số lượng học viên sau đại học
bằng số luợng sinh viên Đại học ở những ngành có đào tạo.
Ở các trường thành viên các nhóm nhiên cứu là tế bào của Khoa. Tất cả cán bộ
giảng dạy, cán bộ nghiên cứu và học viên sau đại học của khoa gắn liền với một nhóm
nghiên cứu. Các kỹ thuật viên của Khoa làm nhiệm vụ phục vụ nghiên cứu, giảng dạy ở
các nhóm nghiên cứu. Không có một cá nhân nào của Khoa đứng ra ngoài các nhóm
nghiên cứu.
Trưởng khoa có bộ phận hành chính giúp việc điều phối công tác giảng dạy nghiên
cứu của Khoa.
Hình 5.5: Tổ chức các bộ phận của Khoa
Cách tổ chức lại các Khoa ở các trường thành viên trong thời gian tới được trình
bày trên hình 5.5. Theo sơ đồ tổ chức này, cơ sở vật chất của các khoa được xây dựng
thống nhất theo từng cụm gồm khu làm việc của ban chủ nhiệm khoa và bộ phận hành
chính, phòng làm việc của cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, bàn làm việc của các học viên
cao học, xưởng giảng dạy thực hành, phòng thí nghiệm của các nhóm nghiên cứu. Các
giảng đường dạy lý thuyết sử dụng chung cơ sở vật chất của trường cũng như của Đại
học Đà Nẵng.
Lãnh đạo Khoa
Cán bộ quản lý hànhchính khoa
Kỹ thuật viên khoa
Cán bộ giảng dạy, nghiên cứu
Nghiên cứu sinh, học viên cao học
Nhóm nghiêncứu 1
Nhóm nghiêncứu 2
Nhóm nghiêncứu n
101
Phấn đấu đến năm 2015, tất cả các Phó Giáo Sư của Đại học Đà Nẵng có “góc
nghiên cứu” và không gian làm việc phù hợp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo
của mình.
Thực hiện mô hình trên là bước cơ bản để chuyển hướng Đại học Đà Nẵng sang
Đại học nghiên cứu.
5. Thực hiện qui chế: nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ bắt buộc đối với giảng
viên
Do khối lượng giờ giảng quá lớn nên thời gian qua công tác nghiên cứu khoa học
của giảng viên chưa được qui định đúng mức. Vì vậy thành quả nghiên cứu khoa học
trong toàn trường chưa xứng tầm với một đại học trọng điểm. Những thành quả nghiên
cứu khoa học mà nhà trường đã đạt được trong giai đoạn 1994-2009 như sau:
Stt Công trình khoa học Số lượng Trọng số Côngtrình qui
dẫn
1 Đề tài độc lập cấp Nhà nước 0 20 0
2 Đề tài nghiên cứu cơ bản cấp Nhà Nước 25 6 150
3 Đề tài trọng điểm cấp Bộ 48 8 384
4 Đề tài cấp Bộ 536 5 2680
5 Đề tài cấp Tỉnh, Thành phố 33 5 165
6 Đề tài cấp cơ sở 831 2 1662
7 Nhiệm vụ ươm tạo công nghệ 4 9 36
8 Bằng phát minh, sáng chế 4 18 72
9 Bài báo được đăng trên các tạp chí quốc tế 221 15 3315
10 Bài báo đăng trên tạp chí quốc gia 1157 8 9256
11 Báo cáo hội nghị khoa học các cấp 870 4 3480
Tổng 100 21200
Để có thể đánh giá được thành quả tổng hợp của công tác nghiên cứu khoa học,
chúng ta tạm thời chấp nhận bảng trọng số đối với các dạng sản phẩm nghiên cứu khoa
học, chẳng hạn 20 cho một đề tài cấp Nhà Nước, 15 cho một bài báo quốc tế, 8 cho bài
báo đăng trên tạp chí quốc gia, 2 cho đề tài cấp cơ sở… Các trọng số này được xác định
một cách tương đối.
102
Tổng số công trình qui đổi giai đoạn 2005-2009 khoảng 10.000. Dự kiến ttoorng
công trình qui đổi giai đoạn 2010-2015 đạt gấp đôi (khoảng 20.000) và giai đoạn 2016-
2020 đạt trên gấp ba (khoảng 35.000) (hình 5.6). Đặc biệt trong giai đoạn 2016-2020,
chất lượng các công trình được nâng cao, đặc biệt là số bài báo đăng trên tạp chí nước
ngoài gia tăng đáng kể.
4000
7000
10200
20000
35000
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
GĐ 94-99 GĐ 00-04 GĐ 05-09 GĐ 10-15 GĐ 16-20
Hình 5.6: Số công trình qui đổi
6. Thực hiện việc phân tầng chương trình Đại học và phân luồng chương trình sau
đại học
Hiện nay Đại học Đà Nẵng có 123 chuyên ngành ở các cấp đào tạo khác nhau với
tổng số sinh viên các hệ lên đến trên 75.000 sinh viên (hình 5.7). Vì vậy việc phát triển
cùng lúc tất cả các chuyên ngành theo hướng đại học nghiên cứu là khó có thể thực hiện
được do bất cập về nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ. Vì vậy chúng ta
nên thiết lập lộ trình để từng bước đưa các chuyên ngành đi vào quĩ đạo của Đại học
nghiên cứu. Những chuyên ngành chưa đi vào quĩ đạo này tiếp tục công tác giảng dạy
truyền thống của mình. Đó là sự phân tầng chương trình đào tạo đại học. Trong phạm vi
cả nước sự phân tầng này cũng cần được thực hiện dưới dạng đại học tinh hoa và đại học
cho số đông. Trong phạm vi một trường đại học, chúng ta chia ra các chương trình đào
tạo chất lượng cao và các chương trình đào tạo truyền thống. Chương trình chất lượng
cao cần có sự đầu tư kinh phí lớn hơn vì vậy ngoài ngân sách nhà nước cấp, người học
cũng cần đóng góp bổ sung để có đủ điều kiện hoạt động.
103
Hình 5.7: Qui mô đào tạo của Đại học Hình 5.8: Chỉ tiêu tuyển sinh sau đại học
Đối với hệ đào tạo sau đại học, qui mô tuyển sinh của Đại học Đà Nẵng đã tăng
đều hàng năm với tốc độ 30%/năm (hình 5.8) với 24 chuyên ngành Thạc sĩ và 13 chuyên
ngành Tiến sĩ. Dự kiến đến 2015, toàn Đại học Đà Nẵng có 35 chuyên ngành Thạc sĩ và
22 chuyên ngành Tiến sĩ. Đại học Đà Nẵng chủ động đề xuất với Bộ về phương thức đào
tạo sau đại học cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu thực tế hơn. Cụ thể sẽ chia chương
trình đào tạo bậc Thạc sĩ thành hai nhóm: nhóm thạc sĩ nghiên cứu và nhóm thạc sĩ
chuyên nghiệp. Chương trình thạc sĩ nghiên cứu sẽ đi theo hướng chuyên sâu về lý
thuyết, hàn lâm nhằm đào tạo những cán bộ khoa học tiếp tục làm nghiên cứu sinh.
Chương trình thạc sĩ chuyên nghiệp sẽ đi theo hướng thực tiễn, cung cấp cho người học
những kiến thức nâng cao về thực tiễn để tác nghiệp hiệu quả hơn. Đại bộ phận những
người đi theo hướng này sẽ ra làm việc, không tiếp tục làm nghiên cứu sinh sau khi tốt
nghiệp trình độ Thạc sĩ.
Thống kê đào tạo sau đại học trong nhiều năm qua cho thấy số lượng học viên sau
khi tốt nghiệp Thạc sĩ tiếp tục làm nghiên cứu sinh rất ít. Trong khi đó chương trình đào
tạo thạc sĩ của chúng ta hiện nay lại thiết kết cho những người làm công tác nghiên cứu vì
vậy không phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của thị trường lao động.
Dựa trên cơ sở phân tích trên đây, trong giai đoạn 2010-2015, Đại học Đà Nẵng sẽ
có sự phân công chương trình đào tạo sau đại học như sau:
- Trường Đại học nghiên cứu: chủ yếu đào tạo các chương trình tiên tiến
chất lượng cao bậc đại học, chương trình thạc sĩ nghiên cứu và nghiên cứu
sinh tiến sĩ
- Các trường Đại học thành viên khác: đào tạo chủ yếu các chương trình đại
học truyền thống, chương trình thạc sĩ chuyên nghiệp và một số lượng hạn
chế nghiên cứu sinh thực hiện các đề tài tiến sĩ liên quan đến thực tiễn
Nhờ sự phân công cụ như trên, chất lượng các chương trình đào tạo sẽ được cải
thiện. Trường Đại học nghiên cứu sẽ tập trung đào tạo chuyên sâu, làm công tác nghiên
cứu khoa học, công bố công trình trên tạp chí khoa học nước ngoài. Các trường đại học
29040
3475936747
24093
3203929835
40916
49467
55805
61079 61448
75675 75688
25374 27506
3161328299
38941
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
80000
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Năm
Số
lư
ợn
g S
V-H
SChính qui
Tại chức
Tổng
161202
330
408439
580
848
12 11 10 14 8 9 11
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Năm
Số
lư
ợn
g h
ọc v
iên
SĐ
H
Cao học
NCS
104
thành viên khác tiếp tục các chương trình đào tạo truyền thống, tham gia nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ, xử lý những vấn đề mà thực tế sản xuất tại địa phương
yêu cầu.
Biến thiên tỉ lệ số học viên sau đại học theo hướng nghiên cứu/số học viên theo
hướng chuyên nghiệp (r) có thể dự báo như biểu sau đây:
Năm 2010 2012 2014 2016 2018 2020 2022 2024 2026
r (%)Chưaxácđịnh
5 10 20 30 50 55 60 65
Hình 5.9: Phát triển các chuyên ngành nghiên cứu
Trong những năm đầu tiên của thập niên 2010, sự “phân luồng” đào tạo sau đại
học tại Đại học Đà Nẵng chưa thật sự rõ nét vì vậy tỉ lệ giữa học viên nghiên cứu và
chuyên nghiệp chưa được xác định hay với tỉ lệ thấp. Sau khi sự “phân luồng” được xác
lập, tỉ lệ này gia tăng nhanh chóng, đạt 50% vào năm 2020. Khi Đại học Đà Nẵng thực sự
trở thành đại học nghiên cứu, tỉ lệ r được giữ ổn định ở khoảng 65-70%. Theo mô hình đề
xuất trên đây thì những ngành đã được phép đào tạo sau đại học thì ưu tiên chuyển sang
đại học nghiên cứu trước. Hiện nay trong toàn Đại học Đà Nẵng chúng ta có 36 ngành
được đào tạo sau đại học. Vì vậy lộ trình phân tầng chuyên ngành của Đại học Đà Nẵng
có thể được đề xuất như hình 5.9.
7. Xây dựng chuẩn đầu ra cho sinh viên tốt nghiệp
Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về “ba công khai”: công khai
chất lượng đào tạo; công khai các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên; công
0
10
20
30
40
50
60
70
80
2010 2012 2014 2016 2018 2020
Chuyên ngành đại học nghiên cứu
Chuyên ngành đại học giảng dạy
105
khai thu chi tài chính… việc đầu tiên chúng ta phải xây dựng cho được chuẩn đầu ra của
sinh viên và công bố công khai cho toàn xã hội biết.
Với định hướng phát triển thành đại học nghiên cứu, đào tạo đội ngũ nhân lực chất
lượng và trình độ cao, Đại học Đà Nẵng xác lập chuẩn đầu ra cho sinh viên kể từ khóa
2010 như sau:
- Đạo đức: Có tinh thần tự hào dân tộc, yêu nước, yêu đồng bào; Luôn có
hoài bão học tập, rèn luyện tài năng để phục vụ Tổ Quốc; Luôn đặt lợi ích
của tập thể trên lợi ích của cá nhân; Có tinh thần vị tha, thương yêu đồng
loại; Có ý thức bảo vệ môi trường và cải thiện cuộc sống ngày càng tốt đẹp
hơn.
- Trình độ tư duy: Có năng lực tư duy và sáng tạo, nhanh chóng đề ra
những giải pháp cho một vấn đề do thực tiễn đặt ra. Có lập trường và bản
lĩnh, khi lựa chọn một phương án nào đều có lập luận bảo vệ phương án đó
một cách logic. Luôn đề xuất những giải pháp khác biệt so với các giải
pháp truyền thống.
- Năng lực chuyên môn: Nắm vững các nguyên lý, nguyên tắc, qui luật cơ
bản của lĩnh vực chuyên ngành và biết ứng dụng chúng một cách sáng tạo
trong xử lý những vấn đề thực tế; nắm bắt được thực tế ứng dụng của lĩnh
vực chuyên môn hiện nay và xu hướng phát triển của nó trong tương lai
- Khả năng làm việc theo nhóm: Hòa đồng với tập thể, chia sẻ thông tin,
biết cách dựa vào sức mạnh tập thể để tìm ra giải pháp cho một vấn đề; có
khả năng diễn đạt ý tưởng gọn gàng, trong sáng; có năng lực tiếp thu, phân
tích và tổng hợp ý kiến của nhiều người; biết cách gợi ý để tranh thủ ý kiến
của đồng nghiệp; sử dụng thành thạo các công cụ làm việc từ xa theo nhóm
- Năng lực chỉ huy, lãnh đạo: Biết tập hợp sức mạnh tập thể, biết nhận ra
thế mạnh của từng người để phân công nhiệm vụ phù hợp; Có năng lực tổ
chức, có năng lực đề xuất các chiến thuật xử lý những tình huống ngắn
hạn, trung hạn để đạt được những mục tiêu chiến lược lâu dài cho tổ chức,
đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý.
- Khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ: Đọc tài liệu bằng tiếng nước ngoài
thành thạo; Viết báo cáo chuyên môn, văn bản giao dịch bằng tiếng nước
ngoài chuẩn mực; Giao tiếp, trình bày báo cáo tham luận trôi chảy bằng
tiếng nước ngoài thông dụng; Biết hai ngoại ngữ trong đó có tiếng Anh.
- Khả năng ứng xử: Khéo léo trong ứng xử, khôn ngoan trong đàm phán,
phát ngôn chuẩn mực, thể hiện nề nếp văn hóa, đạo đức trong mọi tình
huống
106
- Tự học tập nghiên cứu phát triển: Có năng lực xác định được những vấn
đề chuyên môn cần nghiên cứu; Biết tổ chức công tác nghiên cứu khoa
học, tìm kiếm tài liệu, phối hợp chuyên môn với đồng nghiệp; Cần cù,
nhẫn nại, tự tin khi thực hiện nghiên cứu khoa học
- Tổ chức cuộc sống và thích nghi với môi trường công tác: Tổ chức tốt
cuộc sống trong mọi hoàn cảnh; Luôn lạc quan, tư tin những lúc khó khăn;
Hòa nhập nhanh chóng với mọi hoàn cảnh sống; Tự học tập, thích nghi với
môi trường công tác; có thể làm tốt những lĩnh vực chuyên môn chưa học
ở nhà trường.
Chuẩn đầu ra nói trên có thể gộp lại thành 4 nhóm tiêu chí sau đây:
Stt Nhóm tiêu chí Giải pháp thực hiện Đánh giáĐiểm tối
đa
1Đạo đức, tác phong
- Giáo dục chính trị, công dân- Hoạt động Đoàn Thanh niên- Hoạt động xã hội
- Điểm đạo đức- Nhận xét của các tổ chức đoàn thể
50
2Trình độ chuyên môn
- Phương pháp giảng dạy tiêntiến- Chương trình đào tạo tươngthích với các nước tiên tiến vàđược kiểm định chất lượng- Giảm tỉ lệ sinh viên/giảng viên- Giảm số lượng sinh viên/lớp- Mỗi sinh viên có một giáo viên cố vấn học tập, nghiên cứu- Tăng cường số lượng các môn học tự chọn- Tăng cường thực hành, thực tập- Mời cán bộ thực tiễn báo cáo chuyên đề- Trao đổi sinh viên với các trường đại học quốc tế
- Kết quả học tập, kết quả tốt nghiệp- Kết quả đánh giá của doanh nghiệp về thực tập và quatham gia cácchuyên đề thực tiễn- Kết quả phỏng vấn xin việc làmsau khi tốt nghiệp
30
3Kỹ năng sống, hội nhập
- Giảng dạy ngoại ngữ theo chuẩn quốc tế; Giảng dạy các môn chuyên môn trực tiếp bằng ngoại ngữ- Nắm vững các công cụ công nghệ thông tin- Thực hiện các bài tập, đồ án, đề tài tốt nghiệp theo nhóm- Hợp tác chặt chẽ giữa nhà
- Trình độ ngoại ngữ được đánh giá bằng các chuẩn quốc tế; Khả năng giao tiếp thực tế với người nước ngoài- Thời gian giao lưu, thực tập ở
10
107
trường và doanh nghiệp để nâng cao chất lượng các đợt thực tập- Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp nhận sinh viên nước ngoàiđến học tập, thực tập; tạo điều kiện cho sinh viên Đại học ĐàNẵng ra nước ngoài thực tập- Tập dợt khả năng lãnh đạo, chỉ huy thông qua tổ chức các nhóm nghiên cứu, các nhóm học tập, các tổ chức đoàn thể
nước ngoài- Kết quả hoạt động của tổ, nhóm chuyên môn vàđoàn thể
4
Năng lực tưduy và tiềm năng pháttriển
- Thiết kế lại các giáo trình,mỗi môn học phải nêu rõnhững vấn đề mang tính nguyên lý, quy luật tổng quát trước, sau đó mới đến phần ứng dụng- Rèn luyện kỹ năng nghiêncứu khoa học ngay từ những năm đầu tiên- Mỗi sinh viên có một góc nghiên cứu, tự chọn một đề tài,lĩnh vực nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giáo viên- Tổ chức thảo luận nhóm, thuyết trình, báo cáo đề tài- Tham gia cùng giáo viên giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra trong sản xuất và đời sống
- Kết quả nghiêncứu khoa học, các cuộc thi sáng tạo sinh viên- Đánh giá của giáo viên hướng dẫn về năng lực nghiên cứu phát triển
10
Tạm thời chúng tôi đề xuất điểm đánh giá cho các nhóm tiêu chí (tổng số điểm là
100). Có thể phân loại sinh viên tốt nghiệp theo tổng số điểm các nhóm tiêu chí trên như
sau:
STT Xếp loại Tổng số điểm các nhóm tiêu chí
1 A Từ 90 trở lên
2 B Từ 80 đến 89
3 C Từ 70 đến 79
4 D Dưới 70
Nguồn lực tài chính đầu tư cho mỗi sinh viên hiện nay (kinh phí từ ngân sách Nhà
Nước và học phí khoảng 5 triệu đồng/sinh viên) có thể đảm bảo đạt được chuẩn C.
108
Để đạt chuẩn B, đầu tư ước tính trên đầu sinh viên phải gấp đôi hiện nay (khoảng
10 triệu đồng/sinh viên) và để đạt chuẩn A, đầu tư trên đầu sinh viên ít nhất phải gấp 3
lần hiện nay (khoảng 15 triệu đồng/sinh viên).
Dự kiến thời gian tìm được việc làm thích hợp của sinh viên đạt chuẩn A là ngay
trong tháng đầu tiên sau khi tốt nghiệp; Sinh viên đạt chuẩn B là trong 3 tháng sau khi tốt
nghiệp; Sinh viên đạt chuẩn C là 6 tháng sau khi tốt nghiệp; 50% sinh viên đạt chuẩn D
tìm được việc làm 12 tháng sau khi tốt nghiệp. Số sinh viên còn lại phải chuyển đổi
ngành nghề hoặc làm việc không phù hợp với kỹ năng đào tạo.