chỢ trong ĐỜi sỐng ngƯỜi viỆt nam...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
---------------------
NGUYỄN THỊ THOA
CHỢ TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT
NAM BỘ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC MÃ SỐ: 603170
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011
Người hướng dẫn khoa học:
TIẾN SĨ TRẦN NGỌC KHÁNH
1
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian theo học chương trình Cao học tại Trường Đại học Khoa học
Xã hội & Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, được quý Thầy Cô nhiệt tình cung cấp
kiến thức chuyên ngành Văn hóa học, tôi đã chọn đề tài “Chợ trong đời sống người
Việt Nam Bộ” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ. Với tôi, đây là một đề tài hoàn
toàn mới lạ, rất ít tư liệu và khoảng cách không gian cũng là một vấn đề đáng ngại,
nhưng Tiến sĩ Trần Ngọc Khánh – với tư cách người hướng dẫn khoa học, đã tận
tình giúp đỡ, hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành một cách tương đối đề
tài nghiên cứu mà mình đã chọn.
Tôi xin kính gửi đến quý Thầy Cô khoa Văn hóa học và các Thầy Cô thỉnh
giảng lời cảm ơn chân thành và sâu sắcc nhất, đặc biệt là Tiến sĩ Trần Ngọc Khánh
đã dành thời gian và tâm trí giúp đỡ tôi có đủ điều kiện hoàn thành nhiệm vụ học
tập của mình trong những năm vừa qua.
Do không được sinh trưởng ở vùng đất Nam Bộ, nên những am hiểu của tôi
về văn hóa địa phương và con người Nam Bộ còn nhiều hạn chế; tuy nhiên, tôi cũng
đã bỏ ra không ít thời gian, công sức và cả tâm huyết của mình khi thực hiện đề tài
này. Có thể nói, việc thiếu sót trong quá trình thực hiện luận văn là điều không thể
tránh khỏi, rất mong được sự góp ý chân tình của quý Thầy Cô, bạn bè để luận văn
được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 4
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 5
3. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 7
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................................ 7
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ............................................................. 8
7. Bố cục luận văn ...................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................... 10
1.1. Khái niệm chợ ...................................................................................................... 10
1.1.1. Định nghĩa ........................................................................................... 10
1.1.2. Mối liên hệ giữa chợ và đô thị ............................................................. 13
1.2. Định vị chợ Nam Bộ theo trục tọa độ văn hóa ..................................................... 15
1.2.1. Chợ Nam Bộ nhìn từ chủ thể văn hóa người Việt....................................... 15
1.2.2. Chợ Nam Bộ nhìn từ thời gian văn hóa ..................................................... 22
1.2.3. Chợ Nam Bộ nhìn từ không gian văn hóa ................................................... 33
1.3. Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................ 41
CHƯƠNG 2. CHỢ TRONG ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
BỘ ........................................................................................................................ 44
2.1. Các loại hình chợ .................................................................................................. 44
2.1.1. Chợ nông thôn ............................................................................................ 45
2.1.2. Chợ thành thị .............................................................................................. 49
2.2. Các kiểu họp chợ đặc trưng của người Việt Nam Bộ .......................................... 52
2.2.1. Chợ họp trên sông nước ............................................................................. 52
2.2.2. Chợ họp cố định trên đất liền ..................................................................... 61
2.3. Phương thức hoạt động mua bán, vận chuyển hàng hóa ...................................... 64
2.3.1. Các hình thức, nguyên tắc mua bán hàng hóa .......................................... 64
2.3.2. Cách thức đo lường, vận chuyển hàng hóa ................................................ 69
3
2.4. Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................ 76
CHƯƠNG 3. CHỢ TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
BỘ ........................................................................................................................ 78
3.1. Nhu cầu chợ của người Việt Nam Bộ ................................................................. 78
3.1.1. Nhu cầu đi chợ ............................................................................................ 82
3.1.2. Nhu cầu giao tiếp văn hóa ................................................................... 80
3.2. Chợ trong tập quán tín ngưỡng của người Việt Nam Bộ ..................................... 82
3.2.1. Tín ngưỡng ở chợ ....................................................................................... 82
3.2.2. Tập quán kiêng kỵ trong kinh doanh ở chợ ................................................ 87
3.3. Chợ trong văn hóa dân gian của người Việt Nam Bộ ........................................... 89
3.3.1. Chợ Nam Bộ trong ngôn ngữ giao tiếp ...................................................... 90
3.3.2. Chợ Nam Bộ trong văn học nghệ thuật ...................................................... 91
3.4. Chợ Nam Bộ qua phong cách mua bán, rao hàng, chào hàng ........................... 105
3.4.1. Phong cách mua bán ở chợ ....................................................................... 105
3.4.2. Phong cách rao hàng, chào hàng ....................................................... 111
3.5. Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................. 1144
CHƯƠNG 4. ẢNH HƯỞNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA ĐỐI VỚI CHỢ
CỦA NGƯỜI VIỆT NAM BỘ ....................................................................... 117
4.1. Chợ Nam Bộ trong quá trình đô thị hóa .............................................................. 117
4.2. Sự biến đổi nhu cầu người bán và người mua ................................................... 122
4.2.1. Người bán ................................................................................................. 123
4.2.2. Người mua ................................................................................................ 126
4.3. Chợ truyền thống trong đời sống hiện đại .......................................................... 129
4.4. Vấn đề bảo tồn và phát triển chợ truyền thống trong quá trình đô thị hóa.......... 136
4.5. Tiểu kết Chương 4 .............................................................................................. 140
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 147
PHẦN PHỤ LỤC ...................................................................................................... 155
A. Phụ lục nội dung .................................................................................................... 155
B. Phụ lục hình ảnh ..................................................................................................... 171
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nam Bộ là vùng đất mới của Việt Nam, nơi có không ít các truyền thống văn
hóa đặc sắc. Tư liệu khoa học về Nam Bộ khá nhiều, phổ biến trong nhiều lĩnh vực
như lịch sử, địa lý, văn học... Tuy nhiên, về lĩnh vực văn hóa, nhiều đặc trưng của
văn hóa Nam Bộ còn chưa được khai thác, trong đó có chợ.
Với tính chất là điểm tập trung, nơi tiếp xúc, trao đổi các nhu cầu trong đời
sống hàng ngày, chợ của người Việt ở Nam Bộ có các hình thái độc đáo gắn với
vùng sông nước. Từ các chợ nổi tấp nập những con thuyền bán rau quả và nông sản
trên các ngã ba, ngã tư hoặc tại các vàm sông, rạch đến các chợ thị nằm ở vị trí
trung tâm thị trấn, gần bến sông để thuận tiện chuyên chở hàng hóa… đã thu hút rất
nhiều sự chú ý, quan tâm, thú vị không chỉ đối với người trong nước mà còn đối với
các du khách nước ngoài.
Là người nghiên cứu văn hóa, bản thân chúng tôi có niềm đam mê đối với sự
đa dạng văn hóa của các vùng miền khác nhau. Khai thác đề tài này, chúng tôi thiết
nghĩ chợ không đơn thuần là nơi mua bán mà còn là nơi tập trung nhiều sắc thái văn
hóa độc đáo của một vùng miền. Đi đến đâu, nếu muốn khám phá những nét thú vị,
đặc sắc về con người và phong cách giao tiếp của họ thì không ở đâu bằng nơi họp
chợ. Câu nói cửa miệng “đem ra chợ bán, đi ra chợ mua” đã trở thành một nét văn
hóa quen thuộc của người dân Việt Nam nói chung.
Ngày nay, chợ bị phai nhạt không ít những nét đặc trưng văn hóa truyền thống
hoặc biến đổi nhiều trong quá trình đô thị hóa do nhiều lý do khác nhau, đặc biệt
trong bối cảnh xã hội tiếp nhận văn minh phương Tây: người ta đem chợ vào trong
các khu nhà rộng lớn và gọi đó là “siêu thị”. Điều này làm mất đi cảnh tượng “trăm
người bán, vạn người mua”, hay cảnh giao tiếp giữa người bán và người mua mà
chỉ còn là giao dịch hàng hóa đơn thuần. Do đó, tìm hiểu về chợ hoặc các đặc trưng
văn hóa ở chợ cũng là yêu cầu cấp thiết trong tình hình hiện nay.
5
Do vậy, chúng tôi đã chọn đề tài “Chợ trong đời sống người Việt Nam Bộ”
làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học. Hy vọng đây sẽ là
nguồn động lực giúp chúng tôi có thêm sự mạnh dạn trên bước đường nghiên cứu
khoa học sau này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Bình thường, ai cũng biết chợ là nơi tập trung mua bán, nơi giao thương thuận
tiện của một làng xã, huyện thị. Nhưng có lẽ vì quá đỗi quen thuộc nên ít ai để ý
chợ được hình thành từ đâu, xuất phát từ nhu cầu gì? Nó có ý nghĩa, vai trò như thế
nào, đặc biệt là trong đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người dân?
Nghiên cứu chợ cũng là một phương cách để nhận biết các đặc trưng văn hóa của
con người trong thời gian văn hóa ở một vùng đất.
Mua bán, trao đổi là một nhu cầu thiết thực trong đời sống người dân. Song
văn hóa phương Đông còn rất ít đề cập hoặc không hiếm khi nhìn chợ bằng con mắt
thiếu thiện cảm. Thực ra, chợ là hình thái trao đổi cổ xưa nhất của loài người, qua
đó mà phát triển thành lĩnh vực thương mại như ngày nay. Chức năng thương mại là
một trong các nhân tố chủ đạo của quá trình đô thị hóa, đồng thời cũng là một thành
tố văn hóa trong quá trình phát triển xã hội. Nghiên cứu chợ trong đời sống vật chất
và tinh thần của cư dân để góp phần nhận biết các nhu cầu, quy luật vận động và
phát triển đời sống văn minh hiện đại trong không gian văn hóa của một vùng đất.
Nghiên cứu chợ của người Việt Nam Bộ, với các hình thức đa dạng của nó
trong nền văn minh sông nước, có thể giúp nhận thức rõ hơn về quá trình tạo lập và
thích nghi của chủ thể người Việt trong quá trình định cư nơi vùng đất mới, góp
phần phác họa bức tranh văn hóa đặc sắc về chợ của người Việt Nam Bộ, qua đó có
thể hiểu biết đầy đủ hơn về các nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của người
Việt ở vùng đất này.
3. Lịch sử vấn đề
Mặc dù đề tài về chợ và văn hóa chợ rất phong phú, song như đã nói, cho đến
nay, hầu như chưa thấy một chuyên khảo nào viết về chợ ở vùng đất Nam Bộ một
6
cách đầy đủ, rõ nét. Có thể khái lược một số công trình, bài viết về chợ mà chúng
tôi đã tiếp cận, tham khảo trong quá trình nghiên cứu đề tài này như sau:
Trong công trình Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (xuất bản lại
năm 1998), tác giả chủ yếu viết về địa lý, các địa danh của Nam Bộ trước đây, trong
đó một số chợ được đề cập và miêu tả khá rõ nét về quy mô, mật độ, tính chất…
được xem như một cuốn sách tham khảo hữu ích nhất, giúp cho luận văn có được
những tài liệu cụ thể hơn về chợ Nam Bộ vào thế kỷ XVII - XVIII.
Trong Chợ Nổi đồng bằng sông Cửu Long (2009) của Nhâm Hùng, ông mô tả
khá rõ chợ nổi Nam Bộ về nguyên nhân, thời gian và không gian hình thành; ngoài
ra, công trình này còn miêu tả rất chi tiết về các chợ nổi tiêu biểu ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Đây là nguồn tài liệu rất bổ ích giúp cho chúng tôi tìm hiểu rõ hơn
về mảng chợ họp trên sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
Với bài viết Chợ Nổi – nét đẹp văn hóa sông rạch ở Cần Thơ trong công trình
Nam Bộ Đất và Người (2004), tác giả Trần Nam Tiến đã đề cập đến không gian và
văn hóa họp chợ của các thương hồ ở các chợ nổi Nam Bộ. Đây cũng là một trong
những bài viết có thể xem như bức tranh phác họa khá sinh động về hiện tượng họp
chợ trên sông ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trong Dấu xưa Nam Bộ của Hồng Hạnh (2006) có bài viết Chợ xưa, chợ nay;
nói về sự thay đổi nhu cầu mua bán của người dân. Qua đó, tác giả đã cho người
đọc thấy rõ cùng với sự phát triển của xã hội thì văn hóa chợ cũng phần nào bị mai
một, mất dần đi tính chất trong sáng và dân dã của văn hóa kinh doanh Nam Bộ.
Ngoài ra, có một số bài viết trên các trang báo, internet viết về chợ Nam Bộ
nói chung, tuy nhiên hầu hết chỉ miêu tả một vài kiểu họp chợ cụ thể... Thêm vào
đó, chúng tôi còn tiếp cận một số tài liệu nằm rải rác trong các công trình nghiên
cứu tập thể hay cá nhân được nêu ở thư mục tài liệu tham khảo, song nhìn chung
các bài viết này chỉ tập trung ở phần mô tả khái quát về chợ.
Vì vậy, nghiên cứu “Chợ trong đời sống người Việt Nam Bộ” có lẽ không chỉ
là đề tài mới mẻ đối với chúng tôi mà còn là một “mảnh đất” màu mỡ chưa được
7
nhiều người khai thác. Có thể nói đây vừa là khó khăn vừa là một động lực lớn của
chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Chợ của người
Việt Nam Bộ trong các lĩnh vực của đời sống văn hóa. Luận văn sẽ tìm hiểu
các hoạt động trao đổi, mua bán, đáp ứng các nhu cầu về đời sống vật chất và
tinh thần của chủ thể người Việt trong thời gian và không gian văn hóa Nam
Bộ.
Phạm vi nghiên cứu : Đề tài giới hạn trong phạm vi vùng Nam bộ, tập trung
nghiên cứu trường hợp một số chợ ở các địa phương miền Tây Nam Bộ và
thành phố Hồ Chí Minh; trong đó chú ý phân tích các đặc điểm hình thành,
phương thức họp chợ truyền thống còn tồn tại đến nay và các loại hình chợ ở
các đô thị như siêu thị, chợ đầu mối... trong quá trình đô thị hóa.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học :
- Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề cơ bản về khái niệm, bản chất, vai
trò và các hoạt động của chợ trong đời sống vật chất và tinh thần của người Việt
Nam Bộ dưới góc nhìn Văn hóa học.
- Trên cơ sở đó, luận văn sẽ góp phần hệ thống hóa và lý giải một cách khoa
học về các nhu cầu mua bán, trao đổi của người dân; phân tích các ưu điểm cũng
như hạn chế của chợ truyền thống trong quá trình đô thị hóa ngày nay.
Ý nghĩa thực tiễn :
- Luận văn hy vọng sẽ góp phần làm cho sự hiểu biết về đời sống văn hóa của
người Việt vùng sông nước Nam Bộ thêm phong phú, đặc biệt là các vấn đề về văn
hóa chợ nói riêng và văn minh thương nghiệp nói chung.
- Luận văn góp phần giúp các cấp chính quyền ở cơ sở đánh giá đúng về thực
trạng các hoạt động mua bán tại chợ, đặc biệt đối với các mô hình chợ truyền thống;
8
hiểu biết rõ hơn về các nhu cầu đời sống của người dân trong quản lý kinh tế - xã
hội và quy hoạch phát triển địa phương.
- Qua đó, kết quả của luận văn sẽ góp thêm vào nguồn tài liệu tham khảo về
các hình thức mua bán, trao đổi truyền thống trong lĩnh vực văn hóa kinh doanh.
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Đề tài Chợ Trong Đời Sống Người Việt Nam Bộ là một bộ phận nghiên cứu
ứng dụng của văn hóa đô thị. Do đó, các phương pháp nghiên cứu trong Văn hóa
học sẽ được vận dụng một cách triệt để. Đặt vấn đề nghiên cứu chợ của người Việt
Nam Bộ trước hết là tìm hiểu bản sắc chợ thông qua các hoạt động sản xuất - trao
đổi, mua bán; các quan hệ ứng xử với môi trường tự nhiên sông nước; quan hệ giữa
người và người trong đời sống vật chất và tinh thần của họ. Luận văn vận dụng cái
nhìn đồng đại và lịch đại để nghiên cứu chợ theo trục tọa độ của chủ thể người Việt,
trong phạm vi không gian và thời gian văn hóa ở Nam Bộ.
Ngoài ra, luận văn còn chú ý vận dụng phương pháp so sánh văn hóa về các
hình thức họp chợ và cách thức mua bán, trao đổi của người Việt với các dân tộc
khác; về các biến đổi của chợ trong quá trình đô thị hóa qua các thời kỳ khác nhau;
kể cả so sánh các tiện ích, tâm lý, nhu cầu đời sống và lý giải về sự tồn tại và phát
triển giữa các hình thức họp chợ truyền thống và các loại hình chợ hiện đại như siêu
thị, chợ đầu mối... trong các đô thị ngày nay.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp liên ngành, kết hợp các
thành tựu của nhiều ngành khoa học khác nhau như các phương pháp lịch sử (được
vận dụng trong chương 1), nhân học - dân tộc học, xã hội học, văn hóa dân gian
(vận dụng trong chương 2, chương 3 và chương 4). Trong quá trình thực hiện đề tài
này, chúng tôi sử dụng các thao tác đi điền dã, miêu tả, tổng hợp số liệu, quan sát
tham dự, phỏng vấn và khảo sát thực địa để tiếp cận đối tượng nghiên cứu.
Để thực hiện luận văn này, ngoài nguồn tư liệu thu thập được trong quá trình
điền dã thực địa,. luận văn còn sử dụng nguồn tài liệu từ các thư viện thuộc khoa
học xã hội và nhân văn, trong đó có các tư liệu về văn học dân gian, tài liệu của các
9
học giả trong và ngoài nước viết về quá trình hình thành và phát triển chợ nói chung
và chợ của người Việt Nam Bộ nói riêng. Ngoài ra, luận văn còn chắt lọc từ các
công trình nghiên cứu, biên khảo, các bài viết đăng trên các tạp chí, hội thảo, hội
nghị, tổng kết, nguồn từ mạng internet.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm có 4 chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung. Nội dung trình bày một số khái niệm về chợ
trong trục tọa độ ba chiều: chủ thể, thời gian, không gian. Trọng tâm đề cập về
nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển chợ trong không gian văn hóa Nam
Bộ của chủ thể người Việt. Chương 1 được coi là tiền đề để triển khai các chương
mục tiếp theo.
- Chương 2: Chợ trong đời sống vật chất của người Việt Nam Bộ. Nội dung
viết về nhu cầu trao đổi mua bán ở chợ trong đời sống vật chất qua các hình thức
họp chợ, vị trí, chức năng, sản phẩm, quy mô; các hoạt động mua bán ở vựa, chành
của các thương lái; các phương thức vận chuyển: đường sông, đường bộ, đường
biển và các cách thức cân đong mua bán ở chợ.
- Chương 3: Chợ trong đời sống tinh thần của người Việt Nam Bộ. Nội dung
trong chưởng đề cập đến tâm lý, kiêng kỵ và tập quán, tính cách của người bán và
người mua thông qua việc mua bán ở chợ; Các tín ngưỡng, phong tục, tập quán
thông qua các biểu hiện trong văn hóa dân gian như ca dao, tục ngữ, các điệu hò,
bài vè, đàn ca tài tử, lối rao hàng….
- Chương 4: Chợ của người Việt Nam Bộ trong quá trình đô thị hóa. Chương
này chủ yếu làm nổi bật các tính chất của chợ của người Việt Nam Bộ trong quá
trình đô thị hóa, quá trình thay đổi nhu cầu của người mua và người bán. … Phân
tích các số liệu khảo sát, điều tra thực địa để thấy được nhu cầu người dân và quy
luật phát triển tất yếu của chợ; làm rõ những ưu điểm và hạn chế của chợ truyền
thống trong đời sống hiện đại. Đưa ra các yêu cầu và giải pháp trong việc duy trì và
phát huy chợ truyền thống trong quá trình đô thị hóa.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm chợ
Thông thường, ai cũng hiểu rằng chợ là nơi diễn ra hoạt động mua bán, trao
đổi hàng hóa và dịch vụ bằng tiền bạc hoặc hiện vật. Có thể nói, chợ ra đời từ rất
sớm trong lịch sử loài người, khi mà con người đã sản xuất được những sản phẩm
nhiều hơn nhu cầu của họ, nên phải mang những sản phẩm dư thừa ấy đi trao đổi
với người khác để lấy một thứ vật dụng nào đó mà họ chưa có, hoặc bán lấy tiền bạc
để tích lũy. Cho nên, khi có nhu cầu trao đổi sản phẩm hoặc bán lấy tiền bạc, người
ta đã chọn một nơi, một khu vực nào đó tiện lợi nhất trong vùng, nơi thường xuyên
tập trung đông người qua lại để họ có thể đến và thực hiện việc trao đổi, mua bán
hàng hóa, nơi đó người ta gọi là “chợ”.
1.1.1.Định nghĩa
Cho đến nay, chợ vẫn còn là một khái niệm tương đối, nhiều học giả nghiên
cứu đã đưa ra các quan niệm về chợ khác nhau. Dưới đây chúng tôi đưa ra một vài
định nghĩa tiêu biểu:
Theo định nghĩa của Hoàng Phê thì “chợ là nơi công cộng để đông người đến
mua và bán trong những buổi, ngày nhất định” [Hoàng Phê 2000:165].
Quan điểm của Võ Thị Thu Sương lại cho rằng: “Chợ là loại hình thương mại
mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm công cộng, tập trung đông
người mua bán, trao đổi hàng hóa, đáp ứng các nhu cầu trong sản xuất, lưu thông
tiêu dùng trong khu vực dân cư. Đối với nhiều vùng, chợ còn là nơi diễn ra các hoạt
động văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc” [Võ Thị Thu Sương 2000:10].
Một quan niệm khác cho rằng: “Chợ là loại hình thương nghiệp truyền thống
phát triển khá phổ biến ở nước ta. Chợ là hiện thân của hoạt động thương mại, là sự
tồn tại của không gian thị trường mỗi vùng, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng
11
xa, vùng biên giới và tập trung nhiều nhất ở các vùng đô thị, các thành phố lớn” [Sở
Thương mại thành phố Hồ Chí Minh 2003:7].
Cũng theo Sở Thương mại thành phố Hồ Chí Minh, trong kết quả điều tra
mạng lưới và lưu lượng hàng hóa chợ năm 1999, thì “Chợ là một nơi (địa điểm)
công cộng, tập trung đông người mua bán trao đổi hàng hóa, dịch vụ với nhau, được
hình thành do yêu cầu của sản xuất, đời sống xã hội và hoạt động theo các chu kỳ
thời gian nhất định” [Sở Thương mại thành phố Hồ Chí Minh 2000:8].
Các quan niệm trên cho thấy: tính chất chung của chợ là một loại hình thương
nghiệp, có tính truyền thống và là một bộ phận của kinh tế thị trường. Đây là nơi tập
trung các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ phong phú của các thành phần
kinh tế mà đa phần là kinh tế cá thể với các mặt hàng tiêu dùng hàng ngày là chủ
yếu. Có thể hiểu đơn giản hơn, chợ là một địa điểm công cộng để mua bán, trao đổi
hàng hóa, dịch vụ của dân cư, mà ở đó bất kỳ ai có nhu cầu cũng đều có thể đến để
mua, bán hoặc trao đổi hàng hóa với nhau.
Trong quá trình phát triển kinh tế, chợ đã dần thay đổi tính chất. Từ chợ truyền
thống hình thành ban đầu ở nông thôn, với tính chất là chuyên buôn bán những mặt
hàng tự sản tự tiêu như lương thực, thực phẩm, phục vụ các nhu cầu thiết yếu hàng
ngày cho con người thì ngày nay, trong quá trình đô thị hóa, chợ gắn liền với đô thị
và mang tính chất kinh tế thị trường. Hàng hóa không chỉ là tự sản tự tiêu mà thêm
vào đó là xuất khẩu, nhập khẩu với những mặt hàng mang tính hiện đại; không chỉ
là các mặt hàng do con người sản xuất, mà ngay bản thân con người cũng là một thứ
hàng hóa trên thị trường lao động.
Bên cạnh ngôi chợ truyền thống gắn với các cộng đồng cư dân và đời sống
kinh tế địa phương đang dần suy tàn bởi sự xâm chiếm của nền kinh tế thị trường là
sự xuất hiện các chợ đầu mối ở các đô thị lớn hoặc ở các địa điểm có vị trí thuận lợi
là các ngã tư giao thông, đặc biệt là sự ra đời các siêu thị hoặc các trung tâm thương
mại với phong cách mua bán mới, được hiểu theo một khái niệm mang tính chất
dịch vụ kinh doanh. Chợ không còn là một từ chỉ địa điểm cố định về mặt không
12
gian, mà trở thành một khái niệm chỉ định các hoạt động thương mại, thành tố văn
hóa ngày càng phổ biến trong các quan hệ giao tiếp của xã hội loài người.
Do vậy, trong Từ điển Bách khoa Việt Nam có ghi: “Chợ là nơi gặp gỡ giữa
cung và cầu các hàng hóa, dịch vụ, vốn là nơi tập trung hoạt động mua bán hàng
hóa giữa người sản xuất, người buôn bán và người tiêu dùng” [Từ điển Bách khoa
Việt Nam 2003:9].
Còn theo quan điểm của Lê Thị Mai: “Chợ là một loại hình hoạt động thị
trường, xuất hiện từ xa xưa cho đến nay ở khắp nơi trên thế giới. Chợ là nơi người
mua, người bán gặp gỡ, trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ do phương thức tổ
chức sản xuất và nhu cầu xã hội quy định” [Lê Thị Mai 2000:12].
Theo các định nghĩa này, xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hóa, khái niệm
chợ biến đổi dần theo thời gian do nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của
người tiêu dùng, đã tạo nên sự chuyển đổi mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế từ lịch sử cho
đến hiện tại, đã gây nên những thay đổi lớn trong mọi lĩnh vực của đời sống: kinh tế
tăng trưởng, thu nhập bình quân tăng, mức sống được cải thiện và nâng cao. Phải
chăng vì vậy mà Lewis Mumford đã coi chợ là « phát minh thiên tài » của xã hội
loài người.
Cho nên, chợ không chỉ dừng lại ở khía cạnh trao đổi hàng hóa mà còn phản
ánh các quan hệ ứng xử, giao tiếp, nhằm đáp ứng các nhu cầu đời sống hàng ngày.
Như một lẽ hoàn toàn tự nhiên, chợ và tính chất mua bán, trao đổi hàng hóa luôn
gắn bó với nhau từ bao đời nay. Đi ra chợ bán và mua một món hàng nào đó là một
nhu cầu không thể thiếu được của mỗi người dân. Chợ đã đóng vai trò rất quan
trọng trong suốt quá trình lịch sử, đó là đảm nhận cung ứng và phân phối sản phẩm
để đáp ứng nhu cầu sinh sống cho con người. Do đó, mỗi nền văn hóa khác nhau thì
sẽ có thói quen mua bán, ứng xử ở chợ khác nhau, và văn hóa chợ là một đặc trưng
của đời sống văn hóa người dân vùng đó.
Ngoài ra, chợ còn đảm nhận vai trò là trung gian giữa người sản xuất và người
tiêu dùng. “Nói đến chợ là nói đến kinh tế hàng hóa, nói đến hình thức giao thương
13
phổ biến xưa nay trên thế giới. Từ những tụ điểm trao đổi, mua bán sản vật đơn giản
từ thời cổ đại cho đến những siêu thị tổ chức cung cấp hàng hóa bằng một dây
chuyền công nghệ hiện đại đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng của con người trong xã hội
ngày nay; từ chợ làng ở nông thôn, chợ vùng cao, ở các vùng dân tộc miền núi cho
tới chợ hẻm phố, chợ đầu mối, chợ trung tâm ở các vùng thị tứ,…tất cả đều mang
tính chất chung như vậy” [Dẫn theo Nhâm Hùng 2009:2].
Tuy nhiên, ngoài vai trò là nơi giao thương phổ biến, chợ còn đóng nhiều vai
trò khác nhau trong đời sống của con người. Chợ từ xưa đã không chỉ thỏa mãn nhu
cầu mua bán, trao đổi của người dân mà còn thỏa mãn cả nhu cầu về văn hóa tinh
thần. Thậm chí ở nhiều vùng nông thôn làng xã, chợ còn là địa điểm diễn ra các
sinh hoạt văn hóa của người dân. Chẳng hạn như một vài chợ ở miền Tây Nam Bộ,
xen lẫn với những hoạt động mua bán là những hoạt động của những gánh hát,
những gánh xiếc, mãi võ bán thuốc cao đơn hoàn tán, những nhóm tập trung biểu
diễn đàn ca tài tử… tạo nên một nét đặc trưng đậm chất Nam Bộ và cũng chỉ có ở
Nam Bộ.
1.1.2. Mối liên hệ giữa chợ và đô thị
Thành thị ra đời có nhiều nguồn gốc khác nhau. Các nhà nghiên cứu trên thế
giới chủ yếu dựa vào chức năng để tìm hiểu về sự ra đời của thành thị. Đó là các
chức năng tài chính – thương mại về kinh tế, phòng vệ về quân sự, hành hương
hoặc thần quyền về tôn giáo, cơ cấu tổ chức về chính trị, v.v.
P. George, một tác giả người Pháp, trong công trình Đô thị và sự kiện thành thị
xuyên thế giới (1952) quan niệm thành thị được khai sinh từ môi trường thương
mại, đến thế kỷ XIX trở thành môi trường kỹ thuật và nhân văn theo các nhu cầu và
phương thức phát triển khác nhau. Theo ông, đô thị có 5 loại hình mà chợ nhỏ là
dạng đô thị đầu tiên. Thành thị xuất hiện chủ yếu ở các địa điểm thuận tiện để trao
đổi thực phẩm hiếm (nhất là ở các cảng) hoặc trong các vòng thành. Thế hệ đô thị
thứ hai là các thành thị thương mại trải qua các thời kỳ khác nhau từ cổ trung đại
đến cận đại, trước khi xuất hiện nền kinh tế công nghiệp và tiền TBCN thế kỷ XIX,
hình thành các mô hình thành thị thương mại và công nghiệp, thành thị thuộc địa do
14
nhu cầu phát triển kinh tế TBCN thế kỷ XIX và XX và thành thị XHCN, trong đó
các chức năng hành chính và tổ chức sản xuất công nghiệp được chú ý nhiều hơn so
với chức năng lưu chuyển hàng hóa và phân phối sản phẩm [Trần Ngọc Khánh
2010, tập bài giảng Văn hóa đô thị].
Nếu như chợ là nơi tập trung các hoạt động trao đổi, mua bán thì mọi thành thị
đều có một hoặc nhiều trung tâm, là hạt nhân thu hút các hoạt động kinh doanh dịch
vụ. Trong các thành thị lớn ở các nước phát triển, người ta gọi đó là khu vực trung
tâm thương mại CBD (Central Business District), nơi tâp trung các hoạt động chủ
yếu của thành thị như tài chính, thương mại, dịch vụ, hành chính, giao thông công
cộng, kể cả công viên, phố đi bộ... để thu hút các thành phần dân cư.
Thành thị là nơi tập trung thu hút số đông dân cư cũng như nhiều thành phần
dân cư, một đô thị càng có mật độ dân cư đông thì nhu cầu của người dân về chợ
càng nhiều. Người dân cần đến chợ trước hết để thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt về vật
chất, nhất là để phục vụ ba bữa ăn hàng ngày trong gia đình. Cho nên, mỗi đô thị
đều nhất thiết phải có một hoặc nhiều chợ trung tâm, ngoài ra còn cần phải có các
chợ buôn bán nhỏ lẻ để cung ứng hàng hóa, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cũng
như sinh hoạt hàng ngày ở các khu dân cư.
Ngay cả trong quá trình đô thị hóa, khi mà các mô hình thương mại và công
nghiệp phát triển mạnh mẽ dẫn tới sự hình thành các cửa hàng, siêu thị, các trung
tâm thương mại sầm uất ở thành thị thì cũng không loại trừ sự có mặt của chợ
truyền thống ngay ở trung tâm thành thị và nhất là trong các khu phố bình dân và
khu lao động nghèo.
Mối quan hệ giữa chợ và đô thị cũng được thể hiện ở việc phản ánh mảng văn
hóa truyền thống. Quá trình lịch sử vùng đất Nam Bộ cũng là quá trình hình thành
cư dân Nam Bộ: quy tụ tứ xứ, từ nhiều nguồn gốc xuất thân, từ nhiều tộc người.
Những lớp lưu dân đến vùng này trong những thời gian khác nhau, từ những hoàn
cảnh lý do khác nhau, nhưng đều có một cách ứng xử chung. Đó là giao lưu tiếp
xúc, cởi mở về văn hóa nói chung và về lối sống, cách thức làm ăn nói riêng, đã làm
cho đô thị ở Nam Bộ rất đa dạng về kinh tế - văn hóa, góp phần làm nhạt đi tính
chất chính trị của các đô thị vùng này.
15
Chợ được coi là yếu tố văn hóa làng xã trong một đô thị có xu hướng phát triển
hiện đại phi nông nghiệp. Dù sống ở đô thị nhưng người dân vẫn muốn nắm bắt
thông tin về xã hội, về thị trường qua chợ. Thông qua chợ, chúng ta có thể thấy
được tính đa chiều cạnh của văn hóa đô thị, và chợ là một thế giới kinh doanh
truyền thống thu nhỏ trong một không gian đô thị rộng lớn.
Như vậy, mối liên hệ giữa chợ và đô thị không chỉ thể hiện ở việc cung cầu và
phát triển hàng hóa mà còn thể hiện mối dây liên kết chặt chẽ giữa thành thị và
nông thôn, giữa truyền thống và hiện đại, giữa người giàu và người nghèo.
1.2. Định vị chợ Nam Bộ theo trục tọa độ văn hóa
Trong quá trình hình thành và phát triển chợ không thể không nhắc tới lịch sử
hình thành của chợ với những chủ thể hoạt động trong một không gian nhất định. Vì
vậy, việc vận dụng trục tọa độ văn hóa Chủ thể - Thời gian – Không gian là một yếu
tố cần thiết để làm nổi bật lên tính chất hoạt động của chợ truyền thống từ trước đến
nay.
1.2.1. Chợ Nam Bộ nhìn từ chủ thể văn hóa người Việt
Miền đất Nam Bộ trước đây đã từng tồn tại nền văn hóa Óc Eo, nhưng nền văn
hóa này đã bị nhấn chìm và đời sống xã hội cổ đại thời đó cũng đã tàn lụi. Kế đến là
quốc gia Chân Lạp. Vào thế kỷ XIII, lúc quốc gia Chân Lạp vẫn còn trong thời đại
AngKor thì miền đất này vẫn còn “đầy rẫy rừng rậm rạp, đầm lầy, dã thú và không
thấy bóng người” [Châu Đạt Quan 1973]. Cho đến thế kỷ XVI, lưu dân người Việt
đã thâm nhập cửa ngõ của vùng đất mới lạ này. Tuy nhiên, thời điểm đó, thiên
nhiên ở vùng đất này cũng vẫn còn hoang dã, xa lạ và đầy hiểm nguy đối với những
lưu dân đầu tiên đặt chân đến đây.
Một vùng đất lạ lùng và hiểm nguy đúng như Châu Đạt Quan đã nhận xét:
“Đất ta càng về phương Nam càng là đất lưu đày, đất của những người không có
quyền sống trên những mảnh đất đã được khai phá, vì vậy cũng là đất của những
người nổi dậy? Miền Tây Nam Bộ là mảnh đất lưu đày và nổi dậy cuối cùng của Tổ
quốc. Đến đây là nơi sơn cùng thủy tận rồi. Đến đây là đến bờ Tây Thái Bình
16
Dương, vịnh Xiêm La mịt mù rồi. Đến đây chỉ còn có hai con đường, một là không
đủ nghị lực sống nữa thì đâm đầu xuống biển mà chết, hai là cố bám lại, đấu tranh
để sống” [Châu Đạt Quan 1973].
Tuy vùng đất hoang dã như vậy, nhưng bằng lòng can đảm và nghị lực sống,
lưu dân người Việt đã tập trung đoàn kết nhau lại cùng chung lưng đấu cật, đổ biết
bao công sức khai phá vùng đất hoang sơ đó để lập làng, lập ấp. Sơn Nam đã nói về
buổi đầu chinh phục vùng đất hoang vu này: “Muôn vật đã vậy, con người tinh
khôn và có tổ chức càng phải thích ứng với môi trường mới, để tồn tại và phát triển”
[Sơn Nam 2006:192]. Và lưu dân người Việt đã có một kỳ công chinh phục thiên
nhiên thật vĩ đại, tạo ra một vùng đất không chỉ đơn thuần là nơi cất nhà làm chỗ trú
chân, dung thân, mà còn tận dụng sự màu mỡ của đất để làm kinh tế rất tốt.
Phần lớn cư dân người Việt đầu tiên thâm nhập vào cửa ngõ Nam Bộ là những
người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, nhưng cùng có chung một đặc điểm về tính
cách là chịu khổ, chịu khó, kiên cường và dũng cảm. Về mặt này, Trần Ngọc Thêm
đưa ra nhận định: “Trên trục chủ thể, có thể nói những lưu dân đầu tiên từ miền
Trung đi vào Nam Bộ là những hạt giống được chọn lọc tự nhiên một cách đặc biệt.
Họ hoặc là những người thuộc tầng lớp cùng đinh nghèo khó nhưng thông minh,
những kẻ tù tội, hoặc là những người thuộc tầng lớp trí thức bất đắc chí – trong bất
cứ trường hợp nào, tất cả họ đều có một điểm giống nhau là bản lĩnh, ngang tàng.
Họ là những người dương tính nhất trong số những người Việt Nam âm tính” [Trần
Ngọc Thêm 2006:5].
Trần Văn Giàu cũng cho rằng: “So sánh với người Trung Bắc, với Huế, Hà
Nội, thì Gia Định – Sài Gòn là đất mới của Tổ quốc. Người vào Nam khai hoang
lập ấp hầu hết là người nghèo khổ dốt nát. Đủ tinh thần thực tiễn mà thiếu chữ, đủ
đạo đức làm dân, làm người mà không thuộc kinh truyện” [Trần Văn Giàu
1987:245-246].
Nhà văn Sơn Nam cũng có ý kiến tương tự khi ông tổng hợp trong công trình
Đất Gia Định – Bến Nghé xưa, người Sài Gòn: “Những người di dân đầu tiên vào
Nam là đủ mọi thành phần nhưng lại không có thương gia: đó là những người trốn
17
thuế, người nông dân không đất, nô tì, điền nô, lưu dân, làm mướn, phạm tội bỏ
trốn, bị xử lưu đày biệt xứ, trốn nợ, lính tráng, thậm chí còn có cả du thử du thực,
lưu manh, đầu trộm đuôi cướp… chỉ có một số ít người được coi là có vật lực đứng
ra chiêu mộ người khác đi khẩn hoang, nhưng họ cũng chỉ là mấy người nông dân
biết làm ăn hơn mà thôi”.
Như vậy, chủ thể người Việt Nam Bộ đầu tiên tuy thuộc nhiều tầng lớp khác
nhau, nhưng nhìn chung là những thành phần không phải vương tộc hay quyền quý
mà là những người thuộc tầng lớp bình dân, tầng lớp nghèo khổ hoặc đã đến bước
“đường cùng” nên phải rời xa quê hương để tìm tới mảnh đất mới sinh sống. Chính
vì sự cùng đường nên khi xâm nhập vào vùng đất mới này, họ chỉ có một con đường
trước hết là chiến đấu để giành sự sinh tồn trước thiên nhiên khắc nghiệt, sau đó là
khai phá đất đai và bắt đầu làm kinh tế.
Theo một số nguồn tài liệu cho biết, sau khi thời đại Angkor bị tàn lụi thì
người Việt là một trong những tộc người sinh tụ đầu tiên và gắn liền với vùng đất
Nam Bộ của Việt Nam. Khi Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược Đàng Trong năm
1698 (đó là cuộc kinh lý miền biên cảnh) thì khi ấy ở khu vực Gia Định, Đồng Nai
đất đai đã mở rộng ngàn dặm, dân số đã có hơn bốn vạn hộ người Việt, đó là những
người đầu tiên đi từ Đàng Ngoài vào từ thế kỷ XVI – XVII. Họ khai phá đất đai,
làm nông nghiệp và lập chợ để buôn bán, trao đổi hàng hóa. Lúc đầu, họ phải khai
phá rừng rậm để lập chợ buôn bán như “chợ Nguyễn Thực ở phía Tây trấn thự, cách
10 dặm, lập năm Đinh Mùi Túc Tông thứ 3 (1727), do người Quảng Ngãi tên là
Nguyễn Văn Thực phá rừng rậm lập chợ ở đây, bèn thành chỗ tụ hội đông ở miền
núi gò” [Trịnh Hoài Đức 1998:186].
Hàng hóa ở Nam Bộ vào thế kỷ XVII – XVIII đã được coi là dồi dào mặt
hàng, phong phú về sản phẩm. Đặc biệt, thời kỳ này Nam Bộ được mệnh danh là
vùng “nhất thóc nhì cau”, bởi theo nhiều nguồn tài liệu thì hai mặt hàng nông sản
này được coi là chủ lực, được bán ở chợ cũng như trên thị trường nhiều nhất. Theo
Sơn Nam thì lúc bấy giờ thóc gạo ở Nam Bộ được vận chuyển ra Phú Xuân – Thuận
Hóa để trao đổi với thương nhân ngoài đó. Lê Quý Đôn cũng có ý kiến tương tự:
18
“Miền Gia Định có rất nhiều thóc lúa… hàng năm, cứ đến tháng Mười Một và tháng
Chạp, người ta thường xay, giã thóc lúa thành gạo đem đi bán lấy tiền tiêu dùng vào
những ngày lễ tiết, chạp giỗ. Những lúc bình thường, người ta chuyên chở gạo thóc
ra bán tại thành Phú Xuân để đổi chác hay mua sắm những hàng vóc nhiễu, trừu
đoạn của người Tàu” [Lê Quý Đôn 1973:136)].
Sau mặt hàng thóc gạo thì cau là mặt hàng nông sản đứng thứ hai ở Nam Bộ
thời bấy giờ, cau được tiêu thụ rất mạnh trên thị trường hàng hóa. Có thể do nhu cầu
của người dân và phong tục ăn trầu cau còn rất phổ biến vào thế kỷ XVII – XVIII.
Một tác giả nước ngoài có viết: “Cau là nguồn lợi lớn ở xứ này, có vườn cau thì
cũng như ở xứ chúng ta có ruộng ô liu vậy” (Borri, Cristophoro 1998:27). Về mặt
này Trịnh Hoài Đức cũng có nhận xét: “Ở huyện Kiến Đăng và Kiến Hưng có
những vườn cau sum suê. Cau tương và cau khô nhà nào cũng có, chất chứa đầy
sân, đầy lẫm để bán các nơi xa gần” [Trịnh Hoài Đức 1998].
Ngoài thóc gạo và cau, Nam Bộ lúc bấy giờ có rất nhiều mặt hàng thủy sản
được bán chạy trên thị trường. Theo Lê Quý Đôn thì nguồn lợi cá tôm ở vùng cửa
Tiểu là rất lớn, nhiều đến nỗi người ta ăn không hết, phải luộc sơ qua rồi đem phơi
nắng để làm khô, bán cho các bạn hàng. Cá khô cũng được bán nhiều ở chợ An
Bình. Ở vùng Đồng Tháp Mười có cá, tôm ở sông rạch, chằm ao, đồng ruộng nhiều
đến nỗi không kể xiết. Trịnh Hoài Đức có viết: “Dân ở đây muối cá làm mắm, chặt
tre kết bè, thuận dòng xuôi xuống bán tại các thị trấn” [Trịnh Hoài Đức 1972:63].
Theo nhiều nguồn tài liệu cho thấy, vào đầu thế kỷ XVIII, hoạt động buôn bán
hàng hóa ở Nam Bộ đã diễn ra rất mạnh mẽ. Ngay từ thời đó, người dân đã tìm
được nơi tiêu thụ hàng hóa cụ thể, thậm chí là xuất ra nước ngoài cũng như nhập về
những mặt hàng mà ở Nam Bộ đang còn thiếu. Tàu ghe buôn bán hàng hóa đi về tấp
nập, thường xuyên với các mặt hàng đa dạng khác nhau. Sơn Nam có thống kê một
vài mặt hàng tiêu biểu được buôn bán ở chợ Cà Mau như sau: “Tại chợ Cà Mau
nhập từ Kam–pốt có: thuốc lá, vôi ăn trầu, dầu chai (để trét ghe), ván đóng ghe, dưa
hấu, khoai lang, đường, nước mắm, cau khô, và bán trở lại chiếu lác (cói), sáp ong
(làm đèn sáp cúng chùa)… Chợ Cà Mau nhập về từ Hải Nam có: dầu phộng, lu to
19
nhỏ (để đựng nước ngọt), tô chén, bàn ghế, heo con, và những mặt hàng từ
Singapore có: vải, vật dùng bằng sắt, tơ lụa, đặc biệt là có á phiện (từ Ấn Độ). Khi
Pháp vừa đến, lại có dầu lửa, trái chà là. Cà Mau bán ra để chở về nam Trung Hoa
nhiều nhất là gạo ngon, và để đưa xuống Singapore, nơi nhiều kiều dân Trung Hoa
nào là cá khô, heo sống, tôm khô” [Sơn Nam 1997:35].
Đến cuối thế kỷ XVIII, ở Nam Bộ thì Sài Gòn được coi là một trung tâm
thương mại lớn nhất trên cả nước. Theo Trịnh Hoài Đức, ông đề cập trong Gia Định
thành thông chí rằng lúc bấy giờ, Gia Định là chỗ đô hội thương thuyền của cả
nước, cho nên trăm món hàng hóa phải tụ hội về đây. Trên sông Bến Nghé, những
tàu buôn và ghe thuyền lớn nhỏ của nước ta và nước ngoài đến đậu liên tiếp. Như
vậy, về mặt hàng hóa ở chợ thì Nam Bộ hầu như không thiếu thứ gì, thành phần
người bán và người mua ở chợ cũng đa dạng và phức tạp, đúng với tính chất ồn ào,
vồn vã của chợ. “Ở trấn Phiên An (phần lớn người Tàu buôn bán), thuyền biển buôn
bán đi về, cột buồm sát nhau, trăm thứ hàng hóa hợp lại, khiến chốn ấy là nơi đô hội
lớn của đất Gia Định, cả nước không nơi nào bằng. Thói quen buôn bán, nhiều
người du đãng ở thành thị, có người ở thuyền gọi là người giang hồ, có người tụ họp
ở với nhau gọi là dân tứ chiếng (chiếng là chính) chỉ những người bốn phương
phiêu lưu tụ họp với nhau” [Trịnh Hoài Đức1998].
Nền kinh tế thị trường bắt đầu manh nha thì vùng đất này được phát hiện như
một vùng đất trù phú và thuận tiện cho việc giao thương buôn bán với các vùng
khác. Cho nên, ngoài chủ thể người Việt, một vài tộc người khác cùng cộng cư cũng
tập trung về đây sinh sống và buôn bán hàng hóa như người Hoa, người Khơ Me,
người Chăm... Trong cuốn Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức có mô tả:
“Gia Định là đất phương Nam của người Việt. Khi mới khai thác, lưu dân nước ta
cùng người Kiều ngụ như Đường, Cao Miên, người Tây Phương, người Phú Lang
Sa (Pháp), người Hồng Mao (Anh), Ma Cao (người Tây ở Ma Cao đến), người Bồ
Đà (Java)…ở lẫn lộn, nhưng về y phục, khí cụ thì người nước nào theo tục ấy”
[Trịnh Hoài Đức 1998].
20
Vì thế, các chợ ở Nam Bộ từ khi mới thành lập cho tới lúc thịnh vượng không
chỉ có người Việt buôn bán mà còn có những tộc người khác cũng tập trung giao
lưu trao đổi hàng hóa. Về mặt này, Trịnh Hoài Đức có ghi chép cụ thể lại như sau:
“Ở chân núi Sum ở đất phủ Chân Sum nước Cao Mên, cách giữa sông Vĩnh Tế cách
bờ Tây bắc 10 dặm, hình núi như hoa sen cắm ở trên đất, ngọn chòm chót vót, hang
hốc gồ ghề, mây trắng thường thường quấn quýt, là bởi vượng khí mỏ bạc nghi ngút
lên. Thổ sản thì có giáng hương, bạch truật, trầm hương, sa nhân, gỗ sao và các thứ
vật quý, người Kinh, người Trung Quốc, người Cao Mên làm nhà ở liền nhau kết
thôn họp chợ,…” [Trịnh Hoài Đức 1998]. Như vậy, ngoài các mặt hàng chủ yếu là
nông sản, thủy sản, thì các loại thổ sản khác cũng được buôn bán rất nhiều, tạo nên
sự trù mật, phong phú cho kinh tế hàng hóa thời bấy giờ.
Trong các tộc người cùng sinh sống và buôn bán ở Nam Bộ lúc bấy giờ, cùng
với người Việt thì người Hoa được xem là một trong những chủ thể buôn bán nhiều
nhất ở Nam Bộ. Mặt hàng họ thu mua đa số vẫn là lúa gạo, rau củ và gia súc, gia
cầm. Sơn Nam có viết trong cuốn Lịch sử khẩn hoang Miền Nam như sau: “Một
thương cảng hình thành từ xưa, phỏng đoán là ở vùng Bãi Xàu (Mỹ Xuyên ngày
nay), nơi sông Ba Xuyên ăn thông ra Hậu Giang. Theo nhật ký của cố đạo
Lavavasseur vào năm 1768 thì thương cảng này mang tên là Bassac thành lập ở mé
sông... Ở đây dùng tiền quan (quan 600 đồng của Việt Nam); một đồng bạc Con Ó
trị giá 5 quan tức 3 ngàn đồng. Chợ bán gạo, nhiều loại trái cây, rau, gà, vịt, heo.
Thuyền chủ toàn là người Hoa, dân ở chợ đa số là người Trung Hoa, quan cai trị là
người Cao Miên. Thuyền buôn đều là của người Trung Hoa, đậu san sát từ 100 đến
150 chiếc để mua gạo và mua đường. Không hiểu họ đem tới đây bán món gì” [Sơn
Nam 1997:52].
Tuy Nam Bộ là vùng đất đa tộc người nhưng chủ thể văn hóa chính của toàn
vùng vẫn là người Việt. Bên cạnh người Việt còn có người Khơ me và người Hoa là
hai tộc người chiếm số đông. Do vậy, đặc trưng văn hóa chủ đạo của các chợ Nam
Bộ là vùng đồng bằng sông nước (do yếu tố địa lý) và tiếp biến các yếu tố văn hóa
21
của nhiều tộc người (người Khơ me, người Hoa, người Chăm…). Xét về mức độ,
những đặc trưng chủ đạo này cũng là những nét đặc thù của vùng văn hóa Nam Bộ.
Đặc trưng đồng bằng sông nước cũng có mặt trong các vùng văn hóa đồng
bằng Bắc Bộ và Trung Bộ, nhưng chỉ có ở Nam Bộ đặc trưng sông nước mới nổi
lên thành một đặc trưng chủ đạo, chi phối toàn diện đời sống cũng như các thành tố
văn hóa khác của các cộng đồng cư dân. Và mặc dù các vùng văn hóa ở Bắc Bộ và
Trung Bộ đều có tiếp biến văn hóa của các tộc người khác nhau, nhưng chỉ ở Nam
Bộ, văn hóa các tộc người cộng cư mới có sự khúc xạ văn hóa của cư dân Việt trong
vùng đến mức làm cho nó trở nên vừa quen vừa lạ đối với chính người Việt đến từ
miền Bắc, miền Trung.
Điều này cho thấy, mặc dù ở chợ của người Việt Nam Bộ có sự pha trộn phức
tạp về chủ thể người bán và người mua, nhưng bù lại đây là động lực để hoạt động
mua bán, trao đổi hàng hóa có cơ hội phát triển tiềm tàng. Về mặt này Sơn Nam cho
rằng: “Nhờ vào yêu cầu khá to của thị trường rộng lớn, người khẩn hoang bước đầu
được khích lệ lớn lao. Cứ tạo nguồn hàng dồi dào, bảo đảm cạnh tranh về chất
lượng. Những mặt hàng tiêu dùng cần thiết đã có thương gia và mạng lưới phân
phối đưa đến, nhỏ nhặt như trầu cau, đã sẵn vùng chuyên canh như Mỹ Tho, Mười
tám thôn Vườn Trầu rồi. Sáp, mật ong, lông chim bán cao giá, người ở rừng tràm
Cà Mau – Rạch Giá khai thác, bán lấy tiền mua vải, vôi ăn trầu, dân ở biển phía
Tây mua từ Xiêm, rất ngon, để sẵn trong hũ (gọi vôi Xiêm)” [Sơn Nam 1997:35].
Cho tới khi người Pháp cai trị ở Nam Bộ, thương nghiệp phát triển nhộn nhịp
hơn. Công cuộc đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Lúc này tại các cụm dân cư có
những mái nhà liền nhau, tường vách cũng nối nhau ôm lấy chợ và những bến bãi,
càng tạo sự phồn thịnh cho việc phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa xuất khẩu
và nhập khẩu. Thời kỳ đó, ngoài lúa gạo thì Nam Bộ còn mua thêm nông sản ở các
nơi khác như: cà phê, cao su, hồ tiêu… để xuất sang nước ngoài, chủ yếu là nước
Pháp. Đồng thời họ cũng nhập về những mặt hàng tân tiến như các lại máy móc, xe
cộ (ô tô và xe gắn máy), vỏ xe, ruột xe, cũng như nhiều mặt hàng tiêu dùng khác.
22
Lúc này các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu hầu như được bày bán ở các chợ,
hàng hóa ở Nam Bộ gần như không thiếu món gì.
Tóm lại người Việt và những tộc người khác chinh phục vùng đất mới không
chỉ để khai phá đất để ở, để sinh sống và đấu tranh sinh tồn, mà việc chinh phục ở
đây đã trở thành một kỳ công vĩ đại, khi vùng đất mới này đã dần phát triển về
thương mại vào bậc nhất trong cả nước. Họ đã làm cho vùng đất này trù phú, ruộng
đất bạt ngàn, do vị trí địa lý thuận lợi, thiên nhiên đặc biệt ưu đãi, công việc buôn
bán phát triển nhanh chóng. Điều đó cũng lý giải một phần tại sao tính cách của
người Việt Nam Bộ trở nên vừa hào hiệp, vừa phóng khoáng lạ thường so với người
Việt miền Bắc và miền Trung.
Chủ thể người Việt và những tộc người khác sống ở Nam Bộ tuy cũng là
những người tiểu nông định cư theo thôn ấp – làng xã kiểu truyền thống Việt Nam
nhưng hình thù thôn ấp luôn phù hợp với môi trường sống của địa hình sông nước;
và thiết chế tổ chức xã hội của làng xã cũng ít bị khép kín với mối quan hệ “trong
họ ngoài làng” như người Việt sống ở miền Trung và miền Bắc. Vì thế, tính cách và
vai trò cá nhân luôn được thể hiện rõ. Họ không dễ bị hòa tan trong cộng đồng làng,
xã mà có tính quyết định trong kinh tế gia đình. Họ luôn thể hiện là những người
mang tính cách năng động và khả năng hòa nhập với xã hội một cách tương đối
nhanh chóng. Hơn nữa, người Việt ở đây luôn mang thế chủ động. Họ chính là
những người khai phá, phát triển kinh tế cho chính mình, nên không bị vướng vào
vòng “trọng nông ức thương” giống như người Việt Bắc Bộ.
Với quan niệm Phi thương bất phú, nghề buôn được coi trọng là một thế mạnh
để thương nghiệp Nam Bộ phát triển ngày càng mạnh mẽ. Điều đó cho thấy, ngay
từ thế kỷ XVII, nhiều thương cảng ở Nam Bộ đã nườm nượp ra đời và đâu đâu cũng
trù mật như Trịnh Hoài Đức đã từng nhận xét “cả nước không đâu sánh bằng”.
1.2.2 Chợ Nam Bộ nhìn từ thời gian văn hóa
Thực ra, thương mại ở Nam Bộ đã hình thành và phát đạt từ thời Phù Nam.
Trong Lương Thư có viết: “Các nước ngoài biên cảnh đi lại buôn bán rất thường
23
xuyên… Chợ ở đây là chốn Đông Tây giao hội; mỗi ngày có hơn vạn người”…
Trong Tấn Thư cũng viết: “Thuế má trong nước (Phù Nam) được trả bằng vàng,
bạc, ngọc trai, trầm hương” [dẫn theo Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc
Đường 1990]. Sau khi vương quốc Phù Nam bị diệt vong thì thương mại nơi đây đã
ngừng phát triển. Tiếp đến là một nền thương mại mới ở Nam Bộ được chính người
Việt trong quá trình khẩn hoang đã tạo ra những sản phẩm nông nghiệp và dùng nó
làm mặt hàng để trao đổi mua bán, tạo tiền đề cho nền kinh tế hàng hóa phát triển ở
Nam Bộ.
Ngoài ra, vào thời điểm này, cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến
Trịnh – Nguyễn cát cứ, một mặt làm cho nền kinh tế đất nước vốn đã lạc hậu lại
càng khốn khó thêm; nhưng mặt khác, khách quan nó đã tạo nên những điều mới
mẻ, những động lực thúc đẩy nền kinh tế nước ta ở cả hai Đàng rẽ sang một hướng
mới, một nền kinh tế hướng ngoại. Từ thế kỷ XVII, Đàng Trong đã có giao lưu
thương mại với các nước như Nhật Bản, Trung Hoa, các nước ở Đông Nam Á và xa
hơn nữa là các nước ở phương Tây.
Trên vùng đất mới,
những lưu dân Việt đã biết
phát huy tính kiên trì, dũng
cảm, cùng với trí sáng tạo và
óc cởi mở, họ luôn muốn tiếp
nhận những điều mới mẻ để
rồi từ bỏ những gì mang tính
truyền thống xem ra đã không
còn phù hợp với vùng đất
hoàn toàn mới lạ này. Vùng đất Nam Bộ, lúc mới khẩn hoang tuy khắc nghiệt vì
hoang dã nhưng lại hào phóng với khí hậu thuận hòa, sông rạch chằng chịt thuận lợi
cho đường thủy phát triển, nhiều cửa sông lớn đổ ra đại dương tạo nên nhiều nét đặc
thù cho sự quần cư và phát triển cuộc sống mới. Và sau khi khai phá vùng đất này
Hình 1. Một ngôi chợ ở Nam Bộ giữa thế kỷ XIX. Ảnh từ nguồn Internet
24
ổn định thì không lâu sau, người dân đã sớm có sản phẩm hàng hóa dư thừa để bán
hoặc đổi lấy sản phẩm khác.
Theo nhiều nguồn tài liệu cho thấy, cùng với sự mở mang đất đai về phía nam,
các chợ cũng hình thành nhiều vì nhu cầu trao đổi hàng hóa. Theo các số liệu đã
thống kê cho biết các chợ lớn ở phủ gồm có: xứ Thuận Hóa có 5 chợ: chợ Dinh, chợ
Sãi, chợ Cam Lộ, chợ Phả Lại, chợ Phú Xuân; phủ Thăng Hoa có 6 chợ: chợ Hội
An, chợ Khánh Thọ, chợ Chiên Đàn, chợ Phú Trạm, chợ Tân An, chợ Khấu Đáy;
phủ Quy Nhơn có 5 chợ: chợ Yên Khang, chợ Tiên Yên, chợ Phúc Sơn, chợ Càn
Dương, chợ Phúc An; phủ Gia Định có 5 chợ: chợ Lạch Cát, chợ Sài Gòn, chợ Phú
Lâm, chợ Lò Rèn, chợ Bình An.
Vào khoảng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, chợ đã hình thành ở khắp các
tỉnh thành ở Nam Bộ với nhiều loại hình chợ như: chợ họp trên sông, chợ của
những ghe buôn nhóm họp ở một giao lộ đường thủy, chợ lưu động bằng các ghe
thuyền, chợ cố định trên đất liền… Các chợ ở đây trao đổi và buôn bán đa dạng các
loại hàng hóa, trong đó nhiều chợ thuộc cấp dinh, cấp trấn phát triển và nhanh
chóng tạo tên tuổi như: chợ Đồng Nai, chợ Bến Cá, chợ Đồng Sử, chợ Lò, chợ Bà
Lân, chợ Thủ Đức, chợ Bà Rịa, chợ Đông Môn, chợ Lò Thiếc… thuộc Đồng Nai;
chợ Bến Thành, chợ Sỏi, chợ Điều Khiển, chợ Nguyễn Thực, chợ Bến Nghé…
thuộc trấn Phiên An (Sài Gòn); chợ Sông Tranh, chợ Cù Úc, chợ Hàng Xoi, chợ Cái
Bè… thuộc trấn Định Tường. Các chợ Long Hồ, chợ Ba Vát, chợ Mỹ Lồng, chợ Trà
Vinh, chợ Hoàn Giang…thuộc trấn Hà Tiên. Đó cũng là các chợ phát triển và buôn
bán sầm uất vào bậc nhất ở Nam Bộ lúc bây giờ (xem Hình 1).
Buổi ban đầu, đất đai còn nhiều rừng rậm nên người dân phải tập trung vào sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu và đó cũng là những sản phẩm chính mà người dân
đem bán ở chợ. Theo nhiều nguồn tài liệu, thì các chợ ở Nam Bộ xuất hiện đầu tiên
phần lớn là ở nông thôn, lúc đầu chỉ là một nơi buôn bán nhỏ lẻ ở những khu vực
tập trung đông dân hơn. Sau đó, do việc tập trung di dân ở các vùng Mũi Xuy ( Bà
Rịa), Đồng Nai, Bến Nghé (Sài Gòn) xuất hiện thì nhiều ngành hàng thủ công
nghiệp cũng lần lượt ra đời và nhanh chóng tìm được hướng phát triển. Ở những
25
vùng có thế mạnh về mặt hàng nào họ sẽ tập trung phát triển và buôn bán về lĩnh
vực đó. Ví dụ, những vùng gần sông, biển thì xuất hiện nghề cá, làm muối, làm
nước mắm, đánh bắt thủy hải sản. Ở vùng ven núi thì có nghề săn bắt, lấy gỗ, làm
mộc. Ngoài ra còn xuất hiện các nghề thủ công như dệt cửi, đóng thuyền, làm đồ
gốm, làm đường, dệt chiếu, đan lát, mở lò rèn,… đó cũng là cơ sở để tạo ra các làng
nghề truyền thống. Điển hình như xóm Lò Gốm mà theo nhận xét của Nguyễn Thị
Hậu thì “bản đồ Thành Gia Định do Trần Văn Học vẽ từ cuối năm 1815 đã có ghi
địa danh xóm Lò Gốm ở khoảng làng Phú Lâm – Phú Định (ngày nay là khu vực
quận 6 tiếp giáp quộc 8). Bài “Phú cổ Gia Định phong cảnh vịnh” sáng tác khoảng
đầu thế kỷ XIX miêu tả “lạ lùng xóm Gò Gốm, chân vò vò bản cổ xây trời”. Trong
62 ty thợ tập trung tại Sài Gòn làm việc cho nhà nước vào cuối thế kỷ XVIII đã có
các ty thợ lò Chum, ngói mộc, gạch mộc, lò gạch…”[Nguyễn Thị Hậu 2001:1]
Hình 2. Một vài chợ và làng nghề ở Nam Bộ, thế kỷ XVII – XVIII.
Hình vẽ của Trần Văn Học. Ảnh từ nguồn Internet
26
Nguyễn Minh Hòa từng đề cập về vài làng nghề đã xuất hiện và phát triển ở
thành phố Hồ Chí Minh mà hiện nay chỉ còn là địa danh: “chẳng hạn như Xóm
Chiếu, chuyên dệt chiếu nay thuộc phường 12, 13, 14 của quận 4; xóm Chỉ, trước
kia chuyên làm chỉ nay là phường 6, quận 5; xóm Củi nay thuộc quận 8 xưa kia là
nơi chuyên bán củi lấy từ rừng ra; xóm Dầu ở quận 5 chuyên bán dầu; xóm Dệt ở
phường 11 quận Gò Vấp chuyên sống bằng nghề dệt của cư dân gốc Quảng Nam;
xóm Đệm buồm chuyên dệt đệm bằng lá buôn, dùng để làm buồm, nay thuộc
phường Phạm Ngũ Lão, quận 1; xóm Giá chuyên làm giá từ đậu xanh ở gần chùa
Cây Gõ, v.v…” [Nguyễn Minh Hòa 2007:94]. Những làng nghề này, hiện nay chỉ
còn là địa danh còn nghề thì hầu như không còn tồn tại nữa (xem Hình 2).
Nhiều nguồn sử sách đã ghi nhận vào năm 1623, khi Chúa Nguyễn cho lập đồn
thu thuế tại Sài Gòn và Bến Nghé thì chẳng bao lâu, quanh hai đồn thuế này hình
thành nên chợ tạo ra cảnh trên bến dưới thuyền buôn bán khá thịnh vượng. Năm
1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh lập phủ Gia Định thì nhiều chợ đã bước vào thời kỳ
phồn thịnh, như chợ Bến Thành, Sài Gòn: “Tàu ghe ở Hải Dương đến mua bán qua
lại, cột buồm liền lạc, hàng hóa đủ trăm thứ, xưng là đại đô hội ở Gia Định cả nước
không đâu sánh bằng” [Trịnh Hoài Đức 1998:148]. Khi các dinh, trấn, được thành
lập với hệ thống huyện, tổng, làng, thôn thì cũng là thời điểm các mạng lưới chợ
phát triển rầm rộ nhất. Nhiều nơi dù chưa đặt lỵ sở hành chính nhưng chợ vẫn phát
triển mạnh mẽ. Nhu cầu buôn bán phát triển trước khi hình thành đô thị, có nghĩa là
“thị” ra đời trước “thành” chứ không nhất thiết phải hình thành đô thị trước rồi mới
có các chợ lớn. Điển hình như chợ Điều Khiển được thành lập từ năm 1731 mà theo
mô tả của Trịnh Hoài Đức thì “cách trấn thự về phía Nam hai dặm rưỡi, xưa trước
nhà Điều Khiển nên gọi tên như thế…Ngày nay nha môn thay đổi mà tên gọi vẫn
như thế, phố xá trù mật” [Trịnh Hoài Đức 1998: 183]. Theo Huỳnh Minh thì chợ
Điều Khiển chính là chợ Thái Bình ngày nay, ông nhận định rằng: “Về sau, khi
quân Pháp xấm chiến miền Nam, cho sửa sang đường sá lại, xây cất thêm nhà cửa ở
khoảng chợ Điều Khiển. Các phố xá, hãng buôn của họ thiết lập ngày một nhiều.
Điển hình là hãng Blancsubé được mở ra ngay góc đường Prères Louis và Arras
(trước 1975 là Võ Tánh – Cống Quỳnh), cho nên tên chợ Điều Khiển dần dần không
27
còn ai nhắc tới nữa, mà lại lấy tên là hãng trên mà gọi là “Lăng Xi Bền”, rồi sau đổi
thành chợ Thái Bình” [Huỳnh Minh 2006: 88 – 89]
Cũng ngay sau khi có chủ trương của nhà Nguyễn về khẩn hoang lập ấp, nhiều
chợ đã ra đời và phát triển lớn mạnh, điển hình như chợ dinh Long Hồ (thành phố
Vĩnh Long ngày nay) mà theo mô tả của Trịnh Hoài Đức thì: “Nhà phố nối liền
nhau, bách hóa tụ tập dăng dài năm dặm, thuyền ghe suốt bến, đền thần, đình làng,
đàn hát náo nhiệt. Là chợ, phố lớn của trấn” [Trịnh Hoài Đức 1998:201]. Đặc điểm
chủ yếu của các chợ dinh, chợ trấn là nơi trao đổi hàng hóa tự sản xuất, tự tiêu thụ,
giúp người dân có nơi tiêu thụ trực tiếp những nông sản do chính họ làm ra. Mặt
khác, họ cũng có thể mua về các loại mặt hàng cần thiết khác như đồ dùng gia đình,
sản phẩm công nghiệp, thủ công nghiệp.
Cũng theo nhiều nguồn tư liệu cho biết, ở Nam Bộ vào khoảng đầu thế kỷ
XVIII thì chưa có các chợ lớn, chợ đầu mối và chợ chuyên doanh. Lúc này, ngoài
các chợ lớn ở các phủ, dinh, còn lại mới chỉ có các chợ chủ yếu là nhỏ lẻ, họp rải
rác theo dọc kênh rạch và chợ lưu động trên các thuyền ghe luồn lách vào tận các
nhà dân để trao đổi mua bán. Có nghĩa là hoạt động giao thương và nhu cầu chợ đã
phủ kín khắp các làng ấp Nam Bộ thời bấy giờ. Điều này chứng tỏ rằng, từ khi có
sự xuất hiện của các thương nhân nước ngoài, nghĩa là có giao thương với các nước
khác trên thế giới theo hướng mở thì thương mại đã phát triển nhanh chóng hơn,
theo đó nhu cầu buôn bán lớn được hình thành và các chợ bán sỉ, chợ chuyên doanh
cũng lần lượt ra đời nhằm cung ứng hàng hóa cũng như bắt kịp tiến độ phát triển
của xã hội ở Nam Bộ. Cuối thế kỷ XVIII, các chợ đã phát triển rất rầm rộ và buôn
bán tấp nập, tạo sự rầm rộ về kinh tế hàng hóa cho cả một vùng Nam Bộ. “Vào năm
1772, bên cạnh và rải rác xung quanh những đồn và dinh đó đã có chợ, hàng quán,
thuyền bán hàng lưu động chạy khắp các ngõ ngách theo các kênh rạch” [Nguyễn
Minh Hòa 2007:68].
Chợ ra đời và ngày càng phát triển lớn mạnh như nhà nghiên cứu Nguyễn
Đình Đầu cho rằng: “Kể từ năm 1772, Sài Gòn là một thành phố đúng nghĩa từ
nguyên của thành và phố. Riêng việc buôn bán tập trung thóc gạo và các nông sản
28
khác đã thu hút tàu bè tứ xứ. Các phố xá và chợ ngày càng nhiều và đông đúc”
[Nguyễn Đình Đầu 1998:18]
Sau chợ cấp dinh, cấp trấn, thì các chợ cấp huyện nối tiếp ra đời và phát triển,
tạo dựng được thanh thế và giàu có cho các địa phương như chợ Cái Bè (Định
Tường), chợ Trà Vinh (lỵ sở Trà Vinh), chợ Sa Đéc (huyện lỵ Vĩnh An)… Mỗi chợ
đều mang một không gian rộng lớn và đa dạng về hàng hóa. Chợ Sa Đéc được miêu
tả như sau: “chợ Sa Đéc ở phía Đông huyện lỵ Vĩnh An, phố chợ ở ven sông nhà
nối liền nhau, san sát như vảy cá, dăng dài năm dặm. Bè tre ở dưới sông cũng dựng
nhà san sát thành hàng. Chỗ thì bán lụa đoạn, đồ dùng Nam, Bắc, chỗ thì bán các
thứ như dầu rái, than gỗ, mây tre, muối mắm, trên bờ dưới sông hàng hóa choáng
mắt say lòng, thực là đất phồn hoa” [Trịnh Hoài Đức 1998:202].
Bước sang thế kỷ XIX, các chợ ở Nam Bộ đã phát triển có quy mô hơn và
được kiểm soát kỹ càng hơn, lúc bấy giờ các chợ đã có xu hướng buôn bán với các
nước khác nhiều hơn. Năm Gia Long thứ 12 (1813) Cần Thơ là nơi trù mật với
nhiều ngôi chợ lớn nhỏ, trong đó đáng chú ý là ba ngôi chợ lớn: “Chợ Sưu ở gần
bến sông Cần Thơ, chợ Tân An ở gần bến sông Bình Thủy và chợ An Đông ở gần
sông Ô Môn” [Huỳnh Minh 2000]. Buôn bán lại được nhà nước khuyến khích nhiều
hơn bằng cách giảm thuế cho các thương nhân. Theo Sơn Nam, “năm 1825, đời
Minh Mạng, có nhiều thuyền đưa gạo từ Xiêm vào Hà Tiên là nơi ít ruộng, nhà vua
đưa ra chủ trương đánh thuế nhẹ để khuyến khích. Đại để, nếu thuyền Xiêm chở
8/10 gạo thì hoàn toàn miễn thuế; chở 5/10 miễn 7/10 thuế. Ta giải thích dễ dàng:
gạo từ Mỹ Tho, Sa Đéc có dư nhưng chuyên chở đến Hà Tiên quá tốn kém, đường
xa…” [Sơn Nam 2007:35].
Lúc này, các tỉnh thành ở Nam Bộ cũng đã có sự liên kết trong giao dịch mua
bán. Sơn Nam có nhận xét về hoạt động thương mại thời kỳ này như sau: “Ta đã
nhứt trí về kiểu kinh tế hàng hóa ở đồng bằng. Những kho hàng Cù Lao Phố, rồi
Chợ Lớn, kho hàng Hà Tiên, Mỹ Tho, Bãi Xàu (Sóc Trăng) hoạt động thường
xuyên nhờ hệ thống chân rết. Miền Đông Nam Bộ có đón nhận lúa gạo và thịt khô,
ngà voi của rừng Camphuchia, Hà Tiên gom đậu khấu, hồ tiêu, thịt khô, ngà voi,
29
những mặt hài sản như bong bóng cá, vi cá, tôm khô, cá khô…. Mỹ Tho liên lạc với
Sa Đéc và lên Phnôm Pênh dễ dàng nhờ sông Tiền” [Sơn Nam 2007:33 – 34].
Tại Nam Bộ, vào giữa thế kỷ XIX, hệ thống các chợ tại các địa phương đã
hình thành như mạng lưới. Tại Nam Bộ vào thời kỳ này có tất cả “93 chợ với các
quy mô khác nhau: Gia Định có 12 chợ, An Giang có 12 chợ, Vĩnh Long có 19 chợ,
Định Tường có 17 chợ, Hà Tiên có 14 chợ và Biên Hòa có 19 chợ” [Nguyễn Chí
Bền 2005:50]. Có thể nói, chợ không thể thiếu vắng trong đời sống của con người
nơi đây bởi tính tiện ích của nó và đã thực sự trở thành nơi trao đổi, mua bán hàng
hóa sản phẩm trong vùng và ra cả khu vực. Cùng với vai trò trung chuyển hàng hóa,
nhiều chợ trở thành chợ đầu mối ở một số nơi có vị trí thuận tiện có thể vận chuyển
hàng hóa bằng các phương tiện khác nhau. Không phải ngẫu nhiên mà chính quyền
Pháp xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên ở Đông Dương dài 71km từ Sài Gòn về Mỹ
Tho vào năm 1885. Đây chính là con đường để vận chuyển lương thực, hàng hóa từ
các tỉnh từ miền Tây Nam Bộ về thủ phủ Sài Gòn mà Mỹ Tho được chọn là trạm tập
kết, trung chuyển (xem Hình 3 và 4).
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp đến Việt Nam và tiến hành khai
thác lớn phía bờ Tây sông Hậu, với chủ trương “đào kênh, lập chợ, mở lộ xe”. Con
kinh xáng Xà No nối Cần Thơ – Rạch Giá đã hoàn thành vào năm 1901 - 1903 mở
ra thời kỳ phát triển lớn mạnh về nông nghiệp, công nghiệp, đặc biệt là thương
nghiệp. Những con kênh được đào đã tạo điều kiện cho nhiều chợ nổi ra đời và
thông thương thuận tiện bằng đường thủy. “Vào đầu thế kỷ XX, người Pháp đào
xong cụm kênh Ngã Bảy. Năm 1916, quận lỵ Phụng Hiệp ra đời. Những năm trước
đó, chợ Phụng Hiệp – Ngã Bảy hình thành trở nên sung túc. Bảy ngã sông tỏa đi
bảy hướng và hội tụ người tứ xứ tìm về làm ăn: kinh Cái Con nối từ sông Hậu vô,
kinh Lái Hiếu đi về miệt Long Mỹ - Rạch Giá, kinh Mương Lộ cặp theo lộ xe đến
Sóc Trăng, kinh Mang Cá rẽ qua Kế Sách, kinh Xẻo Vông ngược lên Cần Thơ, kinh
Xẻo Môn vô cánh đồng Sậy Níu. Và, kinh Quan Lộ xuống Ngã Năm, Bạc Liêu, Cà
Mau… Từ cụm kinh Ngã Bảy, người ta có thể đến khắp Nam Kỳ lục tỉnh bằng
đường thủy và ngược lại” [Nhâm Hùng 2009:116].
30
Hình 3. Chợ Mỹ Tho khoảng cuối thế kỷ XIX. Ảnh từ nguồn Internet
Hình 4. Chợ Bạc Liêu khoảng cuối thế kỷ XIX. Ảnh từ nguồn Internet
Theo Nhâm Hùng, “sau khi hoàn thành cụm kênh Ngã Bảy… Pháp tiếp tục
đào kênh Quan Lộ ăn xuống Bạc Liêu, Cà Mau. Đoạn giữa hình thành cụm kinh
Ngã Năm. Vùng Ngã Năm dân cư khắp nơi về sinh sống, dần trở nên đông đúc…
Từ khi giao điểm Ngã Năm hình thành, chợ Ngã Năm ra đời kể cả trên bờ dưới
sông” [Nhâm Hùng 200:121]. Khu vực chợ Ngã Năm ngày nay thuộc thị trấn Ngã
Năm – Sóc Trăng, là giao điểm của năm con sông hướng về năm ngã: Phụng Hiệp,
Cà Mau, Vĩnh Quới, Long Mỹ, Thạnh Trị, thu hút nhiều người chuyên chở hàng
hóa của mình đến đây trao đổi tạo nên không khí rôm rả của một chợ nổi trên sông
với nhiều mặt hàng chủ yếu là hàng nông thủy sản do người dân làm ra. Cuộc sống
của con người cũng có phần thay đổi theo chiều hướng phát triển: “Chợ Ngã Năm là
nơi giao lưu và hội tụ, trạm trung chuyển hàng hóa, người ở Ngã Năm sống khá
giả” [Sơn Nam 2007:126]. Theo mô tả của Sơn Nam, chợ Ngã Năm lúc bấy giờ
“buổi sáng lúc nhóm chợ xuồng ghe tấp nập đến nỗi chúng ta có thể đi một vòng
qua năm con kênh xáng, bằng cách bước chuyển từ xuồng này sang ghe kia đậu sát
bên… xuồng câu tôm, ghe vòm, ghe chài lớn, tam bản…” [Sơn Nam 2007:122].
Thời kỳ này, nhiều chợ lớn đã hình thành và phát triển lớn mạnh cùng với các
chợ đã hình thành trước đó tạo một không khí thương mại náo nhiệt ở Nam Bộ.
“Chợ Cái Răng (sát Cần Thơ) tuy danh nghĩa là chợ làng, đã phồn thịnh vượt mức,
dự trữ một phần lớn lúa gạo của phía Hậu Giang, công sở của làng to như công sở
của thị trấn, rạp hát, nhà lồng chợ không kém những tỉnh lỵ nhỏ” [Sơn Nam 2007:
31
149]. Dưới sự ảnh hưởng của chế độ thực dân Pháp, kinh tế phát triển nhộn nhịp
hơn. Họ nâng cấp những chợ cũ trước đó và xây dựng thêm nhiều chợ mới. Theo đó
các khu phố - chợ - bến ở các chợ lớn ngày càng sôi nổi, tạo thế lớn mạnh của kinh
tế thị trường dưới thời Pháp thuộc.
Bước sang nửa cuối thế kỷ XX, thời kỳ 1954 -1975, Nam Bộ phụ thuộc vào
viện trợ của Mỹ. Lúc này Mỹ mở cửa cho các nước tư bản như Pháp, Đức, Nhật
Bản… đầu tư ồ ạt vào miền Nam. Thương nghiệp và dịch vụ lại được dịp phát triển
mạnh mẽ hơn, tập trung chủ yếu ở Sài Gòn. “Đến tháng 1 năm 1975 toàn thành phố
có khoảng 1685 công ty thương nghiệp lớn, trong đó có 975 công ty xuất nhập
khẩu, 220 khách sạn, 366.000 hộ tiểu thương, hàng trăm chợ lớn, nhỏ, hàng vạn cửa
hàng lớn nhỏ” [Tạp chí xây dựng Đảng 1998:64].
Sau khi giải phóng đất nước, thời kỳ 1975 – 1985, chính sách “ngăn sông, cấm
chợ” đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển thương nghiệp Nam Bộ, hoạt
động buôn bán bắt đầu bị trì trệ, tình trạng lưu thông hàng hóa tự do trên thị trường
giữa các địa phương bị ngăn cấm do chính sách trên. Hàng hóa lúc này trở nên khan
hiếm, chợ hầu như chỉ phục vụ cho bộ phận lớn người dân khá giả, còn số đông dân
nghèo hầu như chỉ nhận hàng hóa theo tiêu chuẩn chế độ phân phối của Nhà nước.
Sau khi xóa bỏ chính sách “ngăn sông, cấm chợ” chuyển sang cơ chế thị
trường thì hoạt động thương nghiệp lại phát triển lớn mạnh trở lại. Đây là giai đoạn
thịnh vượng của chợ truyền thống với đa dạng các mặt hàng được bày bán. Lúc này,
mạng lưới chợ truyền thống ở Nam Bộ đã hình thành rất nhiều bao gồm các chợ
lớn, nhỏ. Tính đến năm 1999, số lượng chợ ở Nam Bộ đã tăng vượt bậc. Theo kết
quả điều tra mạng lưới và lưu lượng hàng hóa chợ năm 1999, ở Nam Bộ có tổng
2368 chợ cả mới và cũ; trong đó, Đông Nam Bộ có 886 chợ, thành phố Hồ Chí
Minh 304 chợ, đồng bằng sông Cửu Long (Tây Nam Bộ) có 1.178 chợ, tất cả tạo
thành một mạng lưới chợ dày đặc và liên hoàn trong quá trình trao đổi, lưu thông
hàng hóa (xem Bảng 1).
32
Thời gian Đông Nam Bộ TP Hồ Chí Minh Tây Nam Bộ
Dưới 5 năm 131 153 105
Từ 5 – 10 năm 141 11 175
Từ 10 – 15 năm 144 63 164
Từ 15 năm trở lên 470 177 734
Tổng cộng 886 304 1178
Tổng cộng cả Nam Bộ 2368
Bảng 1. Số lượng chợ ở Nam Bộ năm 1999. Nguồn từ Tổng cục Thống kê
Đặc biệt vào khoảng 10 năm trở lại đây, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, kinh tế chuyển đổi theo cơ cấu kinh tế thị trường, mở rộng
quan hệ hợp tác đối ngoại thì thương nghiệp lại được đà khuếch trương lớn mạnh
hơn. Đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt. Một số bộ phận dân cư giàu lên
nhanh chóng, điều này mang đến nhu cầu mua sắm cũng hiện đại và cao cấp hơn,
dẫn đến những thay đổi rõ rệt trong quá trình mua bán, trao đổi hàng hóa của người
dân. Việc ra đời hàng loạt các siêu thị, hệ thống siêu thị và các trung tâm thương
mại đã phản ánh rõ điều đó, về vấn đề này chúng tôi xin được đề cập sâu hơn trong
chương 4 của luận văn.
Tóm lại, Nam Bộ có được sự phát triển vượt bậc về thương mại như vậy cũng
có thể nói do người Việt ở Nam Bộ đã sớm thoát khỏi vòng “trọng nông ức thương”
như người Việt Bắc Bộ, có tinh thần thoáng mở, hào phóng. Sự phát triển vượt trội
về kinh tế hàng hóa ở các chợ Nam Bộ một phần đã thúc đẩy kinh tế thương mại
phát triển mạnh mẽ, cùng với nền văn minh công nghiệp đã kích thích xu hướng đô
thị hóa ở Nam Bộ. Quá trình đô thị hóa cũng đã làm thay đổi diện mạo trong đời
sống văn hóa – kinh tế - xã hội, trong đó không loại trừ làm biến đổi hoạt động của
các chợ truyền thống.
33
1.2.3. Chợ Nam Bộ nhìn từ không gian văn hóa
• Không gian địa lý Nam Bộ
Vùng văn hóa Nam Bộ gồm 19 tỉnh được chia thành hai tiểu vùng là Đông
Nam Bộ và Tây Nam Bộ: các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước,
Bà Rịa – Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh thuộc miền Đông Nam Bộ. Các tỉnh
Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, thành phố Cần
Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau thuộc miền
Tây Nam Bộ.
Về địa hình, đây là vùng đồng bằng sông nước rất đặc trưng, có tổng diện tích
61.300 km2 và có độ phì nhiêu cao nhất trong tất cả các đồng bằng nước ta. Toàn
vùng có khoảng 4.000 kênh rạch với tổng độ dài khoảng 5.700 km tạo thành mạng
lưới đường thủy chằng chịt. Hai hệ thống sông lớn nhất của vùng là hệ thống sông
Đồng Nai và hệ thống sông Cửu Long. Hệ thống sông Đồng Nai ở khu vực Đông
Nam Bộ có lượng phù sa khá thấp, tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm, nhưng nhờ
lòng sông sâu nên là nơi tập trung các cảng chính của khu vực như cảng Sài Gòn,
cảng Cát Lái, cảng Hiệp Phước, cảng Phú Mỹ. Vì tập trung các cảng lớn nên thương
mại xứ miền Đông phát triển hơn miền Tây và thu hút nhiều sự đầu tư trong nước
và nước ngoài. Chính vì vậy, mà mật độ dân số tập trung đông hơn, nhu cầu trao đổi
hàng hóa cũng cao hơn và đó là lý do ở miền Đông, hệ thống các chợ ra đời dày đặc
hơn so với miền Tây.
Hệ thống sông Cửu Long đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành
đồng bằng sông Cửu Long. Với lượng nước trung bình hàng năm vào khoảng 4000
tỷ mét khối, vận chuyển khoảng 100 triệu tấn phù sa, sông Cửu Long đã phối hợp
với biển Đông để tạo ra những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo hai bên bờ các con
sông. Các giồng cát ven biển và đất phèn lắng tụ trầm tích, những đầm lầy trũng
mặn và tương đối thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, tây nam
sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Với đất đai màu mỡ và chuỗi sông rạch chằng chịt
nên thương mại ở miền Tây Nam Bộ chủ yếu phát triển về nông nghiệp như: lúa
gạo, trái cây, rau quả tươi…và mạng lưới chợ ở đây cũng hình thành một cách đặc
34
biệt, đó là chợ nhóm trên sông, vận chuyển, mua bán trao đổi hàng hóa chủ yếu
cũng trên sông. Về mặt này, một nhà nghiên cứu có nhận định rằng: “Trên trục
không gian, ban đầu trung tâm động nằm ở Bắc Bộ (văn hóa Đông Sơn, văn hóa
Đại Việt), đến thời Nguyễn trung tâm động chuyển vào Trung Bộ (kinh đô Huế, các
thành phố cảng ven biển miền Trung). Hiện nay với kinh tế thời mở cửa, trung tâm
động nằm ở Nam Bộ (điển hình là thành phố Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ). Sự
hình thành văn hóa Nam Bộ, trong cả thời gian lẫn không gian, đã gặp tính mở -
thoáng và tính năng động của phương Tây. Về không gian, Nam Bộ là cửa ngõ của
Việt Nam tiếp xúc với các luồng giao thông đường biển từ phương Tây tới” [Trần
Ngọc Thêm 2006:7].
Tuy thương mại ở miền Đông phát triển hơn miền Tây, nhưng văn hóa đặc
trưng của Nam Bộ lại tập trung chủ yếu ở miền Tây. Trước hết, không gian địa lý ở
miền Tây là một vùng sông nước với những con kênh, con rạch đan xen vào nhau.
Những hoạt động hàng ngày của người dân luôn gắn liền với những con sông, dòng
nước. Sông nước đã biến nơi đây thành một vùng “văn hóa nổi”. Tất cả cuộc sống
người dân đến những hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa luôn trôi nổi, bồng bềnh
trên sông, trên kênh rạch. Ở miền Tây, hầu như nhà nào cũng có chiếc thuyền hoặc
ghe, đó là phương tiện để làm ăn sinh sống. Họ lập nghiệp bằng những con thuyền
ghe ấy, có khi buôn bán rày đây mai đó tạo nên đời sống thương hồ “gạo chợ nước
sông”. Họ coi thuyền như nhà mình, có khi nhiều con thuyền gộp lại thành khu dân
cư nổi trên sông. Ngay từ những buổi đầu, Trịnh Hoài Đức nhận xét về Nam Bộ
như sau: “Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở,
hoặc để đi chợ, hoặc để đi thăm người thân thích, hoặc chở gạo củi đi buôn bán rất
tiện lợi. Ghe thuyền chật sông, ngày đêm đi lại không ngớt, mũi thuyền, mui thuyền
liền nhau” [Trịnh Hoài Đức 1998].
• Không gian văn hóa Nam Bộ
Nói đến không gian văn hóa Nam Bộ thì không thể không đề cập đến nơi tụ cư
(tức là làng) của người Nam Bộ, vì đây là một trong những điều kiện để hình thành
nên chợ quê Nam Bộ. Nhìn chung, không gian tổ chức làng của người Việt Nam
35
Bộ, ở góc độ thiên nhiên, điều đập ngay vào mắt người quan sát chính là từng địa
điểm định cư của người Việt Nam Bộ. Họ rất thích ứng với thiên nhiên bởi con
người lựa chọn những nơi thích hợp để định cư nhằm tạo sự thích nghi với thiên
nhiên rất chặt chẽ. Nguyên nhân cũng bởi vùng đất này trước khi người Việt đặt
chân đến là vùng đất hoang vu, việc đầu tiên của những người lưu dân mới là ngoài
việc chinh phục thiên nhiên họ còn phải học cách thích ứng với thiên nhiên. Như đã
nói, buổi ban đầu, lưu dân chọn những giồng (gò đất cao và dài) làm đất đứng chân,
làm tụ điểm, để thỏa mãn hai điều kiện vừa có nước ngọt, vừa cao ráo, giúp cho con
người tránh được các loại côn trùng, rắn rết. Nó hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu
sống còn đầu tiên của người dân mới đến khai phá một vùng đất lạ. Tại những
giồng đất cao ráo này, người Việt tiến hành chặt cây phát hoang để cất nhà ở, trồng
rau màu ngắn ngày; và để có nước ngọt tưới tiêu, họ đào ao lấy nước và ban đất
xuống thấp để lấy nước từ sông rạch vào dễ dàng hơn. Quá trình này diễn ra lâu
dần. đất giồng tương đối hạ thấp xuống thành đầm lầy, đất trũng phù hợp cho phát
triển nông nghiệp.
Cũng về địa điểm định cư, người Việt khi xuống đất trũng lập làng còn chịu
ảnh hưởng của sông nước, người định cư ở làng ven biển của lưu dân làm nghề chài
lưới, dọc hai bờ sông còn có loại làng lập gần nơi giáp nước. Thuyền ghe xuôi
ngược buôn bán thường nghỉ lại đây, chờ con nước lớn để thuận tiện khởi hành ra
sông lớn. Làng mạc mọc lên ở những nơi này, bởi thế ở đâu là nơi giáp nước, ở đó
trên bờ đều là thị trấn, chợ búa, tiệm ăn… lâu dần hình thành nơi buôn bán và phát
triển thành chợ.
Làng người Việt Nam Bộ tuy lập muộn hơn rất nhiều so với làng người Việt
Bắc Bộ, nhưng làng người Việt Nam Bộ lại là nơi sớm tiếp xúc với nền kinh tế hàng
hóa. Điều đó có thể nói, hệ thống sông rạch chằng chịt là một đóng góp khách quan
trong việc phát triển kinh tế thương mại Nam Bộ. Nếu người Việt Bắc Bộ luôn có
định kiến với nghề đi buôn thì người Việt Nam Bộ lại luôn khuyến khích người dân
làm thương mại, nâng tầm nghề buôn bán thành “đạo”, được biểu hiện qua lời ca
dao rất quen thuộc của người thương lái Nam Bộ:
36
Đạo nào vui bằng đạo đi buôn
Xuống biển lên nguồn gạo chợ nước sông.
Tính cách rộng mở như vậy khiến người nông dân có điều kiện làm quen với
những không gian làm ăn rộng lớn từ tỉnh này sang tỉnh khác, tạo cơ hội cho họ tiếp
xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, trong đó ngoài văn hóa của các tộc người
cùng cộng cư còn có cả văn hóa của những nước xa xôi như ở phương Tây. Do đó,
họ học hỏi được nhiều kinh nghiệm khác nhau, cả trên phương diện bán buôn và các
phương diện khác, chứ không bị cầm chân lòng vòng quanh quẩn sau những lũy tre
làng như người Việt Bắc Bộ.
Từ những đặc điểm về thiên nhiên bao la rộng lớn, đặc điểm về nơi tụ cư sinh
sống, đặc điểm về tính cách hào phóng, rộng rãi của người Việt Nam Bộ đã có ảnh
hưởng không nhỏ đến không gian của mỗi khu chợ. Nếu quan sát kỹ những khu chợ
của người Việt ở miền Tây Nam Bộ, ta có thể thấy đó là những khu chợ rất thoáng
mở, không bị bó hẹp bởi diện tích, ít có sự cạnh tranh về vị trí bán buôn. Đó là điều
kiện rất lý tưởng để mở ra một không gian họp chợ đầy màu sắc ở các chợ của
người Việt Nam Bộ.
Hệ thống kinh rạch chằng chịt ở Nam Bộ đã góp phần vào việc sớm hình thành
nền kinh tế hàng hoá ở nơi đây, cùng với “chất xúc tác của một đô thị buôn bán lớn
nhất nước: Sài Gòn – Chợ Lớn, người Nam Bộ, từ thành thị đến nông thôn, không hề
nuôi lòng kỳ thị đối với buôn bán” [Nguyễn Phương Thảo 1997:23].
• Không gian họp chợ của người Việt Nam Bộ
Chợ ở Nam Bộ mang đặc trưng của vùng sông nước. Đặc biệt ở khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, các chợ ở đây đều có chung một đặc điểm về vị trí, đó là
hình thành ngay trên ngã ba, ngã tư sông. Vị trí nào có nhiều nhánh sông hội tụ thì
quy mô, không gian, mật độ mua bán càng dày đặc, số lượng tàu ghe xuôi ngược
tấp nập. Nhìn chung chợ ở miền Tây Nam Bộ thường bày bán những mặt hàng nông
nghiệp như lúa gạo, rau củ quả, cá tôm, các thực phẩm đã chế biến hoặc chưa qua
chế biến và cả những động vật như rắn, chim, thú... Nhìn toàn cảnh một khu chợ
37
như một bức tranh với đa dạng màu sắc, phản ánh đời sống dồi dào về vật chất và
cũng rất phóng khoáng về tinh thần.
Đi vào không gian cụ thể của các chợ Nam Bộ mới thấy được quy mô rộng lớn
của một số chợ, có thể nói vượt xa tầm quan sát của mắt thường. Ví như chợ nổi
Ngã Năm, ngay từ khi hình thành gần một trăm năm trước, diện tích rộng lớn, hầu
như chiếm hết diện tích ở tận điểm hội tụ của năm nhánh sông. Như nhà văn Sơn
Nam nhận xét về chợ Ngã Năm như sau: “Chợ Ngã Năm sung túc hơn nhiều huyện
lỵ, có thể nói là phồn thịnh hơn cả tỉnh lỵ Hà Tiên. Nhà vựa cá, trại cưa, trại xuồng,
trại hòm, chành lúa, nhà máy xay… mọc lên nhanh chóng” [Sơn Nam 2007:122].
Không chỉ có không gian rộng lớn, các chợ Nam Bộ thành lập từ những thế kỷ
trước đã tỏ ra rất sung túc, trù mật, mật độ mua bán dày đặc không kém gì chợ ngày
nay. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hòa Đức miêu tả về chợ Cây Đa như
sau: “Chợ Cây Đa (thung dung thị) ở phía nam trấn thự, ở chân trại bên hữu của
thành lớn, dưới có cây đa cổ, cành lá xòa ra đến nửa mẫu, người buôn họp chợ ở
đấy. Cứ canh tư thì người miền núi cầm đuốc gánh đội dưa, quả, đậu đến họp chợ ở
đầu phía tây, người buôn mua đem về. Đến sáng ra, thì đằng đầu chợ, phía nam,
phía bắc đường phố, cá thịt hàng hóa mới đến bày, mua bán đến chập choạng tối
mới tan” [Trịnh Hoài Đức 1998:184].
Một vài chợ ở Nam Bộ xưa lại không chỉ thuần túy là nơi buôn bán vật chất
phục vụ nhu cầu hàng ngày của người dân mà còn là nơi hội tụ các hoạt động khác
như quân sự, du lịch… tạo nên sự pha trộn giữa kinh tế và văn hóa rất đặc trưng:
“Chợ Bến Thành nhà cửa trù mật, theo ven sông họp chợ. Ở đầu bến, lệ cứ tháng
đầu xuân ngày Tế Mã, thì diễn duyệt thủy binh, bên có đò ngang tiếp chơi khách
ngoại quốc lên bờ. Đầu bắc có ngòi Sa Ngư bắc cầu ván ngang ngòi, hai bên cầu có
phố ngói bách hóa tụ họp. Ven sông thì thuyền buôn lớn nhỏ đi lại nườm nượp”
[Trịnh Hoài Đức 1998:184].
Chợ với phong cách riêng, đặc trưng như một sản phẩm nào đó làm nổi tiếng
một chợ thì ở Nam Bộ ngay từ xưa đã có. Nhiều sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng đã
trở thành thương hiệu hàng hóa khắp vùng gần xa đều biết và đến nay vẫn còn tồn
38
tại. Có thể kể đến như “Chợ Phú Lương (tục danh chợ Bến Tranh) ở phía đông trấn
thự cách hơn mười bốn dặm, nhà ở đông đúc. Bánh Đa (tục danh bánh tráng) chợ
này dày to, thơm, xốp, giá bán cũng rẻ, những người qua lại tất mua để làm quà, xa
gần nổi tiếng” [Trịnh Hoài Đức 1998:185]; hoặc “Chợ Hưng Lợi ở phía nam sông
Bảo Định nhà san sát như vảy cá. Chợ trông xuống sông lớn, người đi lại thường
ghé thuyền đợi nước thủy triều để theo dòng nước mà đi xuôi ngược, cho nên sông
này nhiều thuyền nhỏ bán thức ăn quý, cũng có khi bán thịt chín, gọi là thịt Bái
Đáp. Bởi vì xã Bái Đáp huyện Quảng Điền kinh Phú Xuân làm nghề mổ lợn, bán
nước luộc thịt có cách riêng ăn rất ngon lành” [Trịnh Hoài Đức 1998:188].
Sự nhộn nhịp, sung túc của các chợ Nam Bộ đã từng để lại ấn tượng đối với
những thương nhân nước ngoài tới đây buôn bán, phải chăng đây là một trong
những yếu tố làm cho văn hóa chợ Nam Bộ thêm đặc trưng? Theo nguồn tài liệu
của Nguyễn Thừa Hỷ, năm 1794, một thuyền nhân Nhật Bản có tên Kondo
Morighiga, thuyền của ông bị bão trôi dạt vào cảng Sài Gòn, đã miêu tả lại một
phiên chợ ở Nam Bộ như sau: “Ở thành phố, có độ bảy hoặc tám chợ mà người ta
gọi là Tân Đất. Một bức lũy cao bọc hoàn toàn những khu chợ đó. Ở bên trong là
những cửa hàng cho thuê, giống như những lều trại của chúng ta cho thuê vào ban
ngày, dàn hàng ra khoảng chừng một Cho (đơn vị chiều dài bằng 109m). Hàng ngày
từ sáng sớm đến quá trưa, người ta mang những hàng hóa đến, người thì đội đầu,
người thì vác trên lưng. Họ tranh đua nhau bày biện hàng hóa trên các gian hàng ở
đây, việc mua bán thật là nhộn nhịp khác thường. Chúng tôi lấy làm lạ khi thấy rằng
toàn giới đàn bà con gái buôn bán mà không thấy ở đấy một người đàn ông nào, làm
cho chúng tôi thỉnh thoảng lại đi đến chợ để ngó nhìn các gian hàng và trở nên lúng
túng khi muốn mua hàng” [Dẫn theo Nguyễn Thừa Hỷ 2000:97].
Có lẽ kinh tế hàng hóa đã từng bước hình thành, phát triển từ khá sớm và khá
năng động. Một nền kinh tế thương nghiệp lấy sông nước làm đường vận chuyển
ngày càng lan tỏa nhanh chóng ở nơi đây, cho nên ngay cả tên chợ cũng gắn liền với
sông nước cùng với sự phong phú đa dạng các mặt hàng đã khiến cho không gian
chợ ở đây thêm tấp nập và giàu có như “chợ Bến Cá, cũng gọi là chợ Bình Thảo ở
39
tổng Phú Vang, các nhà buôn tụ họp, trên bến dưới thuyền hàng ngoài, thổ sản, gia
vị sơn hào, vật gì cũng có” [Trịnh Hoài Đức 1998:183].
Không gian chợ Nam Bộ không chỉ đẹp với những bức tranh rau quả tươi rói,
không chỉ sung túc và nhộn nhịp bởi sự tấp nập của người mua kẻ bán, mà còn đặc
trưng bởi cái dư âm hoang dã từ thuở khai hoang. Trong tác phẩm Đất rừng phương
Nam, nhà văn Đoàn Giỏi có một đoạn miêu tả buổi họp chợ nhỏ ở một làng quê U
Minh vào khoảng giữa thế kỷ XX như sau: “Chao ôi! Chợ gì mà lạ lùng thế này…
một con ba ba to gần bằng cái nong, đặt lật ngửa, cứ ngọ nguậy bơi bơi bốn chân
trước ông cụ ngồi lim rim đôi mắt. Những con rùa vàng to gần bằng cái tô, đều tăm
tắp như đổ ở cùng một khuôn ra, nằm rụt cổ trong mấy chiếc giỏ cần xé. Đây là một
con nai người ta vừa xẻ thịt ra bán, cái thủ còn nguyên chưa lột da bày giữa đống
thịt đỏ hỏn trên một tấm lá chằm. Cua biển cũng có, ếch cũng có, nghêu sò cũng có.
Còn cá tôm thì nhiều lắm, đủ các loại tôm, không kể xiết. Tôi bước thêm mấy bước,
qua những đống trái khóm chín vàng tỏ thơm mùi mật, thấy hai con trút nằm
khoanh, vảy xếp lại như những đồng hào lấp lánh. Có tiếng chim mổ nhau kêu
quang quác trong chiếc lồng kẽm… Một chú khỉ con cứ nhảy qua nhảy lại lia lịa,
chờn vờn trèo lên đống bí ngô…” [Đoàn Giỏi 1992]. Phiên chợ được miêu tả như
có cái gì đó bí ẩn và hoang dã của vùng U Minh với những con vật bắt ở trong rừng
được mang ra bán. Nhưng đó lại là cái chất đặc sệt của Nam Bộ được đúc kết lại từ
đời sống văn hóa văn minh miệt vườn của cư dân Nam Bộ từ thuở khai hoang cho
đến nay.
Chợ ban ngày đã vậy, chợ ban đêm thì lại mang một phong cách khác, có vẻ
sung túc hơn, nhưng vẫn có cái gì đó lạ lùng, mang dáng vẻ của những thương nhân
người Hoa: “Đèn măng sông trong các hiệu buôn, các tiệm ăn của người Hoa kiều
thắp lên sáng rực… Từng dãy dài những chiếc cần xé to tướng, những chiếc thúng
đựng đầy ắp không trông rõ và không biết đó là thức gì mà các thương lái mang tới
giao cho chủ vựa. Mỗi người giao hàng thắp một ngọn đèn. Đèn người mua, đèn
người bán cứ như sao sa” [Đoàn Giỏi 1992].
40
Hiện nay, không gian các chợ ở Nam Bộ càng rộng lớn và phồn vinh, sung túc
hơn trước đây. Nền kinh tế càng phát triển, thị trường tiêu dùng cũng đòi hỏi nhu
cầu cao hơn. Sức mua bán ở Nam Bộ những năm gần đây đã chứng tỏ một vùng đất
phát triển mạnh về thương mại, giàu có về vật chất. “Năm 1992 khi thực hiện bộ
phim về môi trường sinh thái khu vực sông Mê Kông, tàu Calypso phải dùng tới
thủy phi cơ bay trên độ cao hơn 100 mét để quay chợ Phụng Hiệp – Ngã Bảy. Ngoài
ra còn phải dùng tới bốn ca nô chuyên dùng tỏa đi khắp bảy ngả để kịp quay cảnh
nhóm chợ vào hừng đông… Chợ nổi Ngã Bảy vào thời cao điểm sung túc đầu thập
niên 90 của thế kỷ trước, có từ 800 - 1000 tàu, ghe đến giao thương mỗi ngày. Ngay
tâm điểm của bảy ngã sông, mật độ mua bán chật kín, khiến việc lưu thông đường
dài luôn bị nạn kẹt tàu. Nếu tính từ tâm điểm sức lan tỏa chợ nổi này lấn ra giữa
sông, chạy dài trên một kí lô mét, dọc theo bảy ngã, ước tính có khoảng có 500 -
700 ha mặt nước cho hoạt động chợ nổi Ngã Bảy” [Nhâm Hùng 2009:23].
Chợ nổi Cái Răng được coi như chợ đầu mối giữa thành phố Cần Thơ lan tỏa
hàng hóa đi các huyện và các tỉnh đi toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chợ tập
trung rất nhiều ghe thuyền từ các tỉnh khác đem hàng hóa đến cho dân địa phương.
Do gần trung tâm thành phố nên chợ nổi Cái Răng có mật độ ghe, thuyền qua lại
buôn bán nhộn nhịp. Hàng hóa đa dạng từ các loại trái cây đến vật dụng gia đình.
Ngoài ra, giới thương hồ còn có những xuồng vàm – đó là những quán ăn, quán giải
khát di chuyển linh hoạt trên sông, sẵn sàng phục vụ nhu cầu của khách từ tô hủ tíu,
tách cà phê, điếu thuốc lá đến cả tiệc nhậu trên sông. Bên cạnh đó còn có cửa hàng
bách hóa, cửa hàng tươi sống di chuyển khắp bến sông để tìm kiếm khách hàng.
Tuy nhiên, không gian chợ ở Nam Bộ lại là tổng thể những bức tranh được
phối hợp hoàn hảo giữa hàng hóa và văn minh miệt vườn. Vì ngoài những hoạt
động buôn bán, chợ Nam Bộ còn thường hay có những hình thức văn nghệ đặc sắc
như: đờn ca tài tử, hò đối đáp trên sông, những tiếng rao hàng rất bài bản… tất cả
hòa quyện vào nhau hình thành nên một không gian họp chợ huyên náo và đầy màu
sắc văn hóa. Người dân Nam Bộ thì sống rất thực thà, hào phóng và hiếu khách.
Với tính cách hào hiệp và phóng khoáng, họ luôn sẵn sàng chia sẻ những cái mà họ
41
có và thích mở lòng để đón nhận tiếp thu những cái mới. Nên khi những nhà buôn ở
nơi khác tới, họ mang theo những nét văn hóa ở nơi họ tới, thì những người dân
Nam Bộ cũng không ngại phô ra những nét văn hóa đặc sắc của mình, tạo thành
một sự pha trộn văn hóa độc đáo, nhưng vẫn giữ được cái nét văn hóa riêng biệt của
mình. Hay nói cách khác, Nam Bộ là một vùng văn hóa phong phú, đa dạng, có
nhiều đặc thù, và có sự sáng tạo độc đáo trên cái nền chung của nền văn hóa truyền
thống của người Việt Nam.
Không gian các chợ ở Nam Bộ nói chung luôn biểu hiện những hoạt động
thương mại vừa có tính quy mô rộng lớn và phóng khoáng, nhưng vẫn thể hiện tính
chất riêng biệt của các địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long. Nó có sức tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển chung của cả khu vực và góp phần thúc đẩy những bước
vươn lên của kinh tế hàng hóa ở Nam Bộ.
1.3. Tiểu kết Chương 1
Nam Bộ tuy là vùng đất mới được khai phá hơn 300 năm, nhưng văn hóa của
nông thôn Nam Bộ bắt nguồn từ nền văn hóa chung của cộng đồng dân tộc Việt
Nam có hơn 4000 năm lịch sử.
Cách đây hơn 300 năm, Nam Bộ là miền đất hoang vu rừng thẳm có nhiều
sông rạch, đầm lầy với đặc điểm “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh”,
nhưng người nông dân Việt với tính cần cù, dũng cảm, thế hệ sau tiếp nối thế hệ
trước quyết tâm chinh phục thiên nhiên, phòng chống thú dữ trên rừng, dưới nước
để sinh sống và sản xuất. Trải qua nhiều biến động của lịch sử, nền kinh tế Nam Bộ
ngày càng phát triển, đường giao thông ngày càng thuận lợi, sự giao lưu kinh tế, văn
hóa, xã hội của nông dân các làng quê ngày càng mở rộng. Nam Bộ đã trở thành
một vùng đất trù phú với nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, là nơi gặp gỡ của nhiều
luồng văn hóa, nhiều nếp sống khác nhau, từ người Khơ Me, người Trung Hoa,
người Chăm, v.v. cho tới nếp sống mới do người phương Tây mang đến vùng đất này.
Tuy nhiên, người dân Nam Bộ đã khéo dung hòa lẫn nhau mà sống, không tỏ
ra phân biệt chủng tộc hay nguồn gốc. Đó là nền tảng để hình thành một vùng văn
42
hóa đặc trưng mà không nơi nào trên đất nước Việt Nam có được. Cũng chính vì sự
dung hòa đó mà nền kinh tế mở, dẫn đến sự phát triển thương mại phát triển sớm và
lớn mạnh vào bậc nhất cả nước. Sự phát triển ấy không thể không kể đến sự đóng
góp đáng kể của chợ truyền thống.
Nhìn từ góc độ thời gian, ngay từ khi hình thành, chợ truyền thống đã được coi
là một nét sinh hoạt kinh tế - văn hóa đặc thù của người Việt Nam Bộ kể từ khi họ
đặt chân vào vùng đất này. Chợ ra đời và phát triển cùng với lịch sử hình thành
vùng đất Nam Bộ. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển đó, chợ luôn giữ vị
trí là một nhịp cầu thương nghiệp của mỗi địa phương, mỗi vùng, miền. Đồng thời,
chợ cũng là nơi chứng kiến biến bao thăng trầm của lịch sử văn hóa – xã hội của
vùng đó.
Chợ xưa ở đồng bằng sông Cửu Long ra đời khá sớm và cùng song hành với
các bước phát triển nông nghiệp. Hàng trăm năm trước đã có chợ dinh, chợ huyện,
chợ tổng, chợ làng. Biết bao từ dùng để chỉ mô hình chợ mà ai cũng quen thuộc
như: chợ lớn, chợ nhỏ, chợ cũ, chợ trời, chợ cá, chợ gạo, v.v…
Văn hóa chợ ở Nam Bộ đã có tự bao đời và ăn sâu vào cuộc sống của con
người nơi đây, trở thành một thói quen gắn bó sâu sắc. Những yếu tố văn hóa – kinh
tế - xã hội đó chính là nền tảng cốt lõi làm nên nét độc đáo của chợ người Việt Nam
Bộ, làm cho nó tồn tại và phát triển cùng với thời gian. Ngược lại, chính chợ đã làm
cho văn hóa vùng miền đó có một đặc trưng riêng biệt, nổi bật và ngày càng thêm
đặc sắc.
Nhìn từ góc độ không gian một ngôi chợ truyền thống ở khu vực đồng bằng
sông Cửu Long, chúng ta thường thấy chợ trên bờ luôn liền kề với sông rạch theo
lối “trên bến dưới thuyền”. Một ngôi chợ hoàn chỉnh sẽ được cấu trúc theo: nhà
lồng chợ - phố xá – bến sông. Nhiều chợ còn liền lạc với cầu cảng, cầu tàu, kho bãi,
nhà vựa. Qua các hình thức buôn bán của chợ có thể thấy được chợ còn là nơi biểu
hiện sự sung túc hoặc nghèo nàn của một địa phương, điển hình là chợ thành phố
thường sung túc và quy mô hơn so với chợ ở nông thôn.
43
Chợ hình thành từ những nhu cầu trao đổi dịch vụ thương mại giữa người sản
xuất với người sản xuất, người sản xuất với người tiêu dùng. Sự tiếp thu cái mới từ
nhiều khía cạnh khác nhau khiến chợ Nam Bộ được coi là một không gian văn hóa
vật chất và tinh thần không thể thiếu được trong đời sống của người dân Nam Bộ.
Cũng chính vì vậy mà làm cho không gian sinh hoạt của chợ ngày càng độc đáo và
sâu sắc hơn.
44
Chương 2
CHỢ TRONG ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM BỘ
Trong chương này, chúng tôi đề cấp đến các vấn đề liên quan đến cách thức tổ
chức họp chợ của người dân Nam Bộ như: loại hình chợ được phân loại theo hai
loại hình: chợ ở nông thôn và chợ ở thành thị. Cùng với các kiểu họp chợ đặc trưng
của người Việt Nam Bộ bao gồm chợ họp trên sông nước và chợ cố định trên đất
liền. Qua đó, các phương thức hoạt động mua bán, đo lường, vận chuyển hàng hóa
cũng được đề cập cụ thể. Các nội dung này nhằm nhấn mạnh những cách thức mua
bán đặc trưng của người Việt Nam Bộ thông qua những hoạt động mua bán tiêu
biểu, thể hiện được nhu cầu về đời sống vật chất dồi dào của người dân Nam Bộ.
2.1. Các loại hình chợ
Ở Việt Nam, người ta phân biệt các loại hình chợ khác nhau, tùy theo tiêu chí,
với các đặc điểm và tính chất khác nhau, gồm có:
- Theo thời gian họp chợ có chợ sáng, chợ chiều, chợ đêm, chợ phiên;
- Theo không gian họp chợ có chợ quê, chợ thị, chợ đồng bằng, chợ trung du,
miền núi…
- Theo khu vực hành chính có chợ làng, chợ xã, chợ huyện, chợ tỉnh;
- Theo tính chất, quy mô trao đổi hàng hóa có chợ đầu mối, chợ chuyên bán sỉ,
chợ bán lẻ, chợ tổng hợp.
- Theo thể loại hàng hóa lại có tên của sản phẩm mà chợ chuyên bán như chợ
hóa chất (như chợ Kim Biên ở thành phố Hồ Chí Minh), chợ trái cây (như chợ nổi
Cái Bè ở Tiền Giang), chợ hoa kiểng (như chợ Cái Mơn chuyên bán hoa kiểng, bon
sai ở Chợ Lách, Bến Tre), chợ gia súc (như chợ Thuộc Nhiêu chuyên bán heo giống
ở Châu Thành, Tiền Giang), chợ đặc sản (như chợ chuyên bán chuột đồng ở Tân
Phú, An Giang; chợ bán rắn, dơi ở Phụng Hiệp, Hậu Giang), chợ thiết bị (như chợ
Tân Thành ở thành phố Hồ Chí Minh chuyên bán các loại phụ tùng xe gắn máy, xe
đạp).
45
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn, chúng tôi phân loại chợ Nam
Bộ theo tiêu chí quá trình hình thành và phát triển chợ Nam Bộ, cả về mặt thời gian
và không gian, gồm hai loại hình chính, đó là chợ nông thôn và chợ thành thị.
2.1.1. Chợ nông thôn
Chợ nông thôn hay còn gọi là chợ quê là những chợ họp trên các địa bàn thôn
xã, người tham gia mua bán chủ yếu là nông dân cùng với hàng hóa mua bán tiêu
biểu là nông sản, thực phẩm, vật tư nông nghiệp,... “Chợ quê là nơi người mua,
người bán gặp gỡ trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhu cầu sản xuất và
sinh hoạt của cộng đồng nông thôn vào những ngày, buổi nhất định. Có các ngành,
hàng hoạt động ở từng khu vực riêng trong chợ” [Lê Thị Mai 2004:92].
Địa điểm họp chợ ở nông thôn có thể là một bãi đất trống, một khúc sông, một
góc làng, xã. Song những địa điểm này đều có một đặc điểm chung là nơi thuận tiện
đi lại và dễ vận chuyển hàng hóa.
Một điều có thể dễ dàng nhận thấy rằng, ngay từ trong quá khứ, họp chợ ở
nông thôn trước tiên xuất phát từ nhu cầu tiêu thụ sản phẩm dư thừa của nông dân
và hình thành theo kiểu tự phát. Chính vì vậy chợ nông thôn có quy mô nhỏ và cơ
sở hạ tầng yếu kém. Nhưng đó là nhu cầu bức thiết của người dân Nam Bộ và có thể
coi là bộ mặt văn hóa trong đời sống vật chất của người dân vùng này, bởi chợ nông
thôn đã trở thành điểm để quy tụ, tập trung các hoạt động trao đổi, mua bán hàng
hóa tổng hợp của người dân. Nhìn về khía cạnh đời sống vật chất, chợ nông thôn có
vai trò, ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy, phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương. Những người tham gia buôn bán tại chợ nông thôn chủ yếu là các hộ nông
nghiệp với các mặt hàng chính là nông sản dư thừa và thực phẩm tươi sống. Phần
lớn, các mặt hàng đó là do các hộ nông dân tự sản xuất và nuôi trồng để đem ra chợ
bán. Đến chợ, người ta có thể tự do trao đổi hàng hóa với nhau theo kiểu thuận mua
vừa bán hoặc cung ứng cho các thương lái đem đi tiêu thụ tại các khu vực lân cận
hoặc tại các chợ ở thành phố, thị xã, thị trấn khác. Chính vì vậy, chợ ở nông thôn có
thể được coi là môi trường giao tiếp tốt nhất để học hỏi kinh nghiệm mua bán, trao
đổi thông tin ở nhiều lãnh vực, kết bạn và hưởng thụ văn hóa vật chất như ăn uống,
46
mua sắm v.v… Dân gian có câu: Trai khôn tìm vợ chợ đông cũng xuất phát từ quan
niệm này.
Mặt khác, chợ nông thôn được coi như một thị trường thu nhỏ vì đã nói là chợ
thì ai có gì cần bán thì cứ mang ra bán còn ai cần mua thì có thể đến mua. Chính vì
vậy, hàng hóa cần bán thì sẽ được tập trung về đây còn hàng hóa cần mua cũng có
người nắm bắt nhu cầu đó mà bổ hàng1 về cung cấp cho người tiêu dùng. Người ta
nghĩ rằng cứ đến chợ thì thượng vàng hạ cám, mặt hàng nào cũng có sẵn và điều
này là có thật. Tuy nhiên, như đã nói, do chợ nông thôn mang tính tự phát nên có
quy mô nhỏ, cơ sở hạ tầng kém; điều này dẫn đến hiện tượng hàng hóa ở chợ nông
thôn mặc dù đa dạng nhưng không phong phú và có phần hạn chế về số lượng cũng
như chất lượng (đó là đối với các mặt hàng sinh hoạt gia đình). Riêng về các mặt
hàng thực phẩm tươi sống thì những chợ này lại rất tươi ngon và giá thành cũng rẻ
so với các chợ ở thành thị, thị tứ, thị trấn. Đây là ưu thế của chợ nông thôn.
Nghiên cứu về hoạt động của chợ nông thôn, chúng ta còn nhận tính tự quản
về mặt tổ chức họp chợ rất cao nhưng lại có tính độc lập tương đối về kinh tế và
đồng đều về mặt xã hội. Đó sẽ là cơ sở cho sự hình thành cũng như phát triển mạng
lưới chợ nông thôn Nam Bộ nói chung.
Nhìn chung chợ nông thôn được chia làm hai dạng hoạt động: chợ họp theo
phiên và chợ họp hàng ngày.
Chợ phiên
Chợ phiên ở nông thôn bắt nguồn từ nền kinh tế tiểu nông, sản xuất hàng hóa
nhỏ, phân tán nguồn hàng ít, không có hàng hóa thường xuyên, cũng như sức mua
bán hạn chế. Hơn nữa, mật độ dân cư thấp, người dân cũng hoạt động theo mùa, vụ
thu hoạch cùng với kiểu phân bố các làng xã nằm rải rác, không tập trung,…nên
phải họp chợ định kỳ để người dân ở nhiều làng xã đến tập trung mua bán. Điều này
đã làm cho xu hướng họp chợ ở khu vực chợ nông thôn là họp theo phiên, một hình
1 Bổ hàng: mua hàng hóa chỉ có ở nơi khác đem về bán lại cho người tiêu dùng ở địa phương. Động thái này chỉ dành cho các tiểu thương có số vốn cố định
47
thức tổ chức hoạt động trao đổi đặc trưng của thị trường hàng hóa ở nông thôn (hình
thức này có phần giống với các hội chợ triển lãm hàng hóa ở các đô thị).
Ngày phiên được sắp xếp hợp lý để trong tháng mọi người đều có thể đi chợ
phiên mua bán hàng hóa. Chợ sẽ họp phiên vào những ngày quan trọng trong tháng
như trước ngày rằm hàng tháng (khoảng 13, 14 âm lịch) và vào cuối tháng (28, 29,
30 âm lịch). Chợ phiên thường chọn họp vào những ngày này vì trùng với các ngày
sóc vọng; mặt khác, thủy triều ở Nam Bộ có hai con nước rong trùng vào các ngày
giữa và cuối tháng âm lịch (tính theo chu kỳ của mặt trăng) thuận tiện cho người
dân đến họp chợ, do đặc trưng của vùng này chủ yếu dùng ghe xuồng làm phương
tiện đi lại và vận chuyển.
Trong những ngày họp chợ phiên ở Nam Bộ, người ta thường bày bán rất
nhiều hàng hóa như quần áo, giày dép, trái cây, nhất là mặt hàng dùng cho việc
cúng bái như giấy tiền vàng mã, hương trầm, bánh trái… Tuy nhiên, đa số người
dân đến với chợ phiên không đơn thuần vì mục đích mua bán hàng hóa mà còn là
nhu cầu về mặt tinh thần rất lớn. Có những người đến chợ chỉ để mua một vài thứ
lặt vặt nhưng cũng phải đi một đoạn đường rất xa để đến chợ. Có những người đến
chợ với mục đích gặp gỡ bạn bè. Có những người chờ đến ngày chợ phiên vì đã hẹn
bạn bè từ phiên chợ trước gặp nhau ở phiên chợ này. Có những người chờ đến ngày
chợ phiên như mong ngày hội nhộn nhịp để vui chơi giải trí. Đối với người nông
dân Nam Bộ xưa, chợ phiên ở nông thôn còn là một địa điểm giao lưu văn hóa khá
thú vị. Ở một vài phiên chợ ở miền Tây Nam Bộ thường là điểm để thưởng thức nét
sinh hoạt văn hóa dân gian như đờn ca tài tử, hò đối đáp, là chốn hẹn hò của nhiều
đôi trai gái.
Ngày nay, do tình hình kinh tế xã hội phát triển, nhu cầu của người dân cũng
tăng lên, chợ phiên ở Nam Bộ cũng ít dần. Tuy nhiên, cũng có một số chợ phiên
được thành lập trong thời gian gần đây. Điển hình như chợ phiên ở ấp Vàng An, xã
Quới An, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Chợ chỉ mới thành lập từ năm 1997
đến nay. Chợ họp vào thứ ba hàng tuần nên còn có tên là chợ Thứ Ba. Chợ nhóm
lúc 5 giờ sáng và họp trong khoảng 4 giờ đồng hồ là tan. Chợ nhộn nhịp do ở gần
48
bến phà Măng Thít, phà đưa từng tốp xe
gắn máy đua nhau bày bán hàng hóa.
Tuy là chợ nhỏ nhưng chợ Thứ Ba bán
đầy đủ các mặt hàng với giá cả phù hợp
với nông dân ở nông thôn. Ngoài ra, ở
Nam Bộ vẫn còn tồn tại một vài phiên
chợ thủ công chuyên bán một mặt hàng
và cũng họp vào những thời điểm nhất
định, đặc biệt là họp vào ban đêm.
Chẳng hạn chợ Ma Lấp Vò ở Đồng
Tháp; người ta thường gọi là chợ ma vì chợ chỉ họp vào ban đêm, không họp ban
ngày: thời gian kéo dài từ chập tối cho đến khoảng 3 giờ sáng nhưng tấp nập. đông
vui hơn cà là từ khoàng 11 đến 1 giờ đêm. Thực ra, tên chợ là chợ chiếu Định Yên
(xem Hình 5), họp trên một khúc sông dài ở phía bên làng chiếu Định Yên, cách thị
xã Sa Đéc khoảng 33km. Càng về khuya chợ càng nhộn nhịp và đông đúc người
mua kẻ bán. Ở làng chiếu truyền thống này, họ dệt chiếu vào ban ngày rồi đến đêm
thì mang ra chợ Ma Lấp Vò bày bán.
Chợ họp hàng ngày
Chợ họp hàng ngày hay còn gọi là chợ làng, vì chợ họp trong làng, trong ấp,
không có nhà lồng mà chỉ có một vài sạp, hàng quán nhỏ lẻ, tạm thời. Chợ thường
chỉ cung cấp thực phẩm phục vụ đời sống hàng ngày như thịt, cá, rau và những vật
dụng khác cho những người dân địa phương xung quanh chợ. Chợ họp hàng ngày ở
nông thôn thường chỉ có quy mô nhỏ, lượng hàng hóa ít, phân tán còn nếu không thì
thường đó là những chợ đặc sản như chợ rắn ở Phụng Hiệp (Hậu Giang), chợ chuột
ở Châu Phú (An Giang), chợ trái cây ở Cái Bè ( Tiền Giang), chợ hoa kiểng ở Chợ
Lách (Bến Tre), v.v… Chợ không ồn ào, náo nhiệt như chợ phiên, nhưng mối quan
hệ giữa người mua và người bán lại rất thân tình, gắn bó. Người bán hàng ngày bán
hàng ở chợ, người mua hàng ngày đi chợ, nên chợ thường ít có sự trả giá, nói thách.
Hình 5: Chợ chiếu Định Yên. Lấp Vò, Đồng Tháp. Ảnh: nguồn Internet
49
Chợ họp hàng ngày cũng không chỉ đơn thuần diễn ra các hoạt động mua bán,
mà còn phản ánh rõ nét văn hóa mang đậm bản sắc của người bản địa. Những yếu tố
văn hóa thường biểu hiện rất rõ ở văn hóa ứng xử giữa người bán và người mua
như: cách chào hàng niềm nở, cách giao tiếp cởi mở. Cách mua bán ở chợ tuy mộc
mạc nhưng bản tính của họ lại rất thật thà, lương thiện. Giao tiếp giữa người bán với
người mua thường ít nói về hàng hóa mà thường là những câu chuyện hỏi thăm về
gia đình, công việc của nhau một cách thân mật.
Do người bán chủ yếu buôn bán các mặt hàng dư thừa do gia đình tự sản xuất
như rau quả, tôm cá, các mặt hàng quen thuộc của miệt vườn, họ ngồi bán quanh
năm suốt tháng, lấy công làm lời; người mua thì vẫn hàng ngày ra chợ nên quan hệ
của người bán và người mua càng ngày càng khắng khít, do vậy chuyện buôn gian
bán lận sẽ không tồn tại trong chợ hàng ngày ở quê. Ở đó cũng là nơi thể hiện tấm
lòng nhân ái giữa những người hàng xóm với nhau. Họ san sẻ với nhau những khó
khăn, giúp đỡ nhau vượt qua cơn hoạn nạn như giúp vốn làm ăn, chia sẻ các mặt
hàng, chung tay quyên góp từ thiện để giúp đỡ ai đó đang gặp khó khăn, thể hiện
một nét đẹp rất sâu sắc của cộng đồng người Việt.
Dù là chợ họp theo phiên hay chợ hàng ngày ở quê thì cũng đều có một tính
chất chung là phản ánh văn hóa vùng miền một cách sâu sắc. Đều lột tả được những
nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của người dân quê vùng miền đó. Do vậy mà chợ quê
đã mang một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân ở mỗi
địa phương nơi họ sinh sống.
2.1.2. Chợ thành thị
Còn gọi là chợ thị hoặc chợ dinh, chợ trấn, là các chợ họp trên địa bàn nội
thành, nội thị trong các thành phố, thị xã và các chợ họp trong các thị trấn, huyện lỵ.
Chợ thành thị thường được trang bị bằng các nhà lồng kiên cố hoặc bán kiên cố do
nhà nước thành lập hoặc do nhu cầu mua bán của người dân mà cộng động địa
phương đó thành lập nên. Ngòai ra cũng có những dãy phố chuyên doanh và một số
chợ tự phát tại các ấp, phường nhỏ. Nhìn chung, chợ thành thị được phân chia thành
3 nhóm chính.
50
Chợ trung tâm
Là những chợ có quy mô lớn, xây dựng với nhà lồng kiên cố, do nhà nước
thành lập. Chợ trung tâm được coi là diện mạo của đô thị, khi mà nhắc đến đô thị đó
người ta có thể nghĩ ngay đến chợ trung tâm của đô thị. Một đô thị có thể có nhiều
chợ trung tâm, tùy theo mật độ dân cư và quy mô của đô thị. Chẳng hạn ở thành phố
Hồ Chí Minh, chợ trung tâm là những chợ có tiếng tăm từ trước đến nay từ chợ Bến
Thành (quận 1), chợ Tân Định (Quân 1) chợ Bà Chiểu (Quận Bình Thạnh), chợ Đa
Kao (Quận 1), chợ Tân Bình (quận Tân Bình), chợ An Đông (quận 5), chợ Lớn
(quận 5),…Hầu như được phân bố đều ra các quận trong thành phố. Do được thành
lập ở những khu dân cư đông đúc nên chợ trung tâm thường cung cấp đa dạng các
mặt hàng, đủ để phục vụ cho số đông cư dân thành thị.
Nhóm chợ chuyên doanh
Chợ chuyên doanh là chợ chuyên bán một chủng loại hàng hóa như thương xá
Đồng Khánh chuyên bán vải vóc và phụ liệu may mặc, chợ có tới 700 hộ kinh
doanh, trung bình mỗi năm nộp ngân sách tới 45 tỷ đồng [Sở Thương Mại Tp.HCM
2003], chợ Kim Biên chuyên các mặt hàng hóa chất, có tới 500 hộ kinh doanh, mỗi
năm nộp ngân sách 10 tỷ đồng [Sở Thương Mại tp.HCM 2003]. Ngoài ra ở thành
thị còn có những đoạn đường cùng bán một mặt hàng và nằm trên một con phố,
người ta thường gọi là phố chuyên doanh. Như phố chuyên doanh mặt hàng băng
đĩa nhạc ở đường Huỳnh Thúc Kháng (quận 1, Tp.HCM). Phố có khoảng hơn 30
cửa hàng bán băng đĩa nhạc, có xen kẽ một vài cửa hàng kim khí điện máy. Phố kéo
dài khoảng hơn 200 m, buôn bán nhộn nhịp suốt ngày đêm. Hay phố chuyên doanh
mặt hàng gạo ở đường Trần Chánh Chiếu (quận 5, Tp.HCM), dài khoảng 1000 m,
có đến gần 80 cửa hàng buôn bán gạo và ngũ cốc các loại.
Nhóm chợ truyền thống
Giống với hình thức họp chợ hàng ngày ở nông thôn. Những chợ này thường
không có nhà lồng kiên cố và không có ban quản lý, nhưng lại rất phổ biến ở đô thị.
Do nhóm chợ này có thể đáp ứng một cách tiện lợi cho đời sống hàng ngày của cư
51
dân đô thị. Thời bao cấp trước đây, do nhà nước không quan tâm đến chợ dân sinh
hàng ngày mà mà thay thế bằng những cửa hàng bách hóa tổng hợp. Sau này, những
hình thức nhóm chợ này dân bị dẹp bỏ do vấn đề mỹ quan, vệ sinh cũng như văn
minh của đô thị. Nhưng do nhu cầu của người dân về chợ ngày càng nhiều nên
những nhóm chợ này không những còn hoạt động một cách tự phát và còn có xu
hướng gia tăng thêm rất nhiều.
Ngoài ra, ở thành thị cũng có tồn
tại chợ phiên nhưng rất ít, và thường
thì những chợ đó không bán những
mặt hàng phục vụ đời sống hàng ngày
của người dân mà chỉ bán những mặt
hàng phục vụ cho một thời điểm nào
đó trong năm, đặc biệt là vào dịp Tết,
các mặt hàng đó thường là hoa, giấy
tiền, vàng mã, câu đối,... Một chợ
phiên điển hình ở thành thị là chợ Chợ Chữ ở đường Hải Thượng Lãn Ông, quận 5,
thành phố Hồ Chí Minh (xem Hình 6). Chợ họp mỗi năm một phiên vào khoảng rằm
tháng Chạp đến giáp Tết (ngày 15 đến 30 tháng Chạp Âm Lịch). Chợ bán đầy đủ
các mặt hàng thủ công bằng giấy như câu đối, đại tự, liễn, lịch, thư pháp,... phục vụ
cho ba ngày Tết. Cứ tới phiên chợ người ta thấy các “ông đồ” bày nghiên mực và
giấy đỏ ngồi trong lều và viết thư pháp. Người mua thường tới chợ để thuê viết
những bài vị của Táo Quân, Thần Tài, những câu đối, liễn, những lời chúc cầu an,
cầu phúc để về treo trong nhà vào dịp Tết.
Khác với chợ quê, chợ thành thị lúc nào cũng đông đúc hơn vì mật độ dân số
cao hơn. Tuy nhiên, chợ ở thành thị lại ít có những không khí thân thiện như chợ
quê. Chợ thành thị không có khái niệm bán thiếu, bán qua loa một mớ tép, một ký
cá rồi bốc thêm vài con, mà cân đong đo đếm chính xác từng li, từng tí. Vì cách
sống ít trọng tình hơn ở nông thôn nên người bán thường nói thách với giá cao, còn
Hình 6: Chợ Chữ ở đường Hải Thượng Lãn Ông. Quận 5, TPHCM. Ảnh từ Internet
52
người mua cũng dè dặt trả giá mặt hàng để khỏi bị mua “hớ”. Hay nói đúng hơn,
mối quan hệ của người bán và người mua chỉ đơn thuần là mua và bán.
Mặt khác, chợ ở thành thị có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế đô
thị. Là nhịp cầu trực tiếp đưa hàng hóa trực tiếp đến tay người tiêu dùng, cải thiện
đời sống người dân. Duy trì và phát huy giá trị truyền thống thương nghiệp của Việt
Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng. Góp phần mở rộng thị trường hàng hóa, đẩy
mạnh lưu thông hàng hóa và kinh doanh dịch vụ; khơi dậy tiềm năng, nguồn lực của
các thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh; đóng góp ngân sách
cho nhà nước; tạo công ăn việc làm cho người lao động. Những yếu tố trên cho
thấy, nhìn chung chợ thành thị đã có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy kinh tế đô
thị ngày càng phát triển.
2.2. Các kiểu họp chợ đặc trưng của người Việt Nam Bộ
Thông thường, kiểu họp chợ thông thường là hình thức tập hợp, mua bán, trao
đổi hàng hóa. Những hình thức này có tổ chức, có quy mô nên gọi là “họp chợ”.
Họp chợ ở Nam Bộ cũng giống như miền Bắc và miền Trung đó là trao đổi mua bán
hàng hóa là chủ yếu. Tuy nhiên, kiểu họp chợ lại có phần khác biệt do đặc trưng về
vùng miền là rất rõ rệt. Dưới đây chúng tôi chia các kiểu họp chợ ở Nam Bộ thành
hai hình thức chính: chợ họp trên sông nước và chợ họp trên đất liền. Qua đó sẽ
thấy được sự khác biệt giữa hai hình thức: chợ họp trên sông nước là hình thức
riêng biệt ở Nam Bộ và chợ họp cố định trên đất liền là hình thức họp chợ nói
chung của người dân Việt Nam.
2.2.1 Chợ họp trên sông nước
Đặc trưng
Chợ họp trên sông nước, hay còn gọi là chợ nổi, là đặc trưng nổi bật ở đồng
bằng sông Cửu Long. Nơi đây, hàng năm sông Mê Kông mang lại lượng nước rất
lớn, cho nên mặt nước bao la là nguồn lực lạ kỳ tạo nên sự dồi dào, phong phú cho
nông sản và tạo nên một nét văn hóa sông nước độc đáo, trong đó nổi bật nhất là
chợ nổi. “Chợ nổi là kiểu cách nhóm chợ ngay trên mặt sông. Người mua kẻ bán
53
giao thương trên ghe, xuồng, tàu bè trên một khoảng thời gian nhất định” [Nhâm
Hùng 2009:16]. Vị trí nào có nhiều nhánh sông hội tụ thì ở đó càng có nhiều người
tập trung mua bán. Như vậy, chợ nổi là một loại hình chợ thường xuất hiện tại vùng
sông nước được coi là tuyến giao thông chính - nơi cả người bán và người mua đều
dùng ghe, thuyền làm phương tiện di chuyển, vận tải và trao đổi hàng hóa với nhau.
Chợ nổi được chia thành hai dạng: dạng chợ họp cố định và dạng chợ lưu
động. Dạng họp cố định trên sông là những chiếc thuyền buôn bán tại chỗ, nhiều
chiếc thuyền thì hình thành nên chợ. Những chợ này thường nhóm ở những nơi ngã
ba, ngã tư sông hoặc ở tại các miệng vàm - nơi giáp nước tàu bè thường ghé lại chờ
con nước để vận chuyển hàng hóa đi tiếp. Những địa điểm họp chợ nổi thường là
nơi thuận tiện cho giao thương bằng đường thủy của các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu
Long. Dạng chợ lưu động giống như hình thức bán rong, bán lẻ. Người thương lái
dùng xuồng ghe của mình chở hàng đi bán ở khắp nơi trên sông, chủ yếu cung cấp
hàng hóa cần thiết hàng ngày cho người dân sống ở ven sông.
Dù là chợ họp cố định hay lưu động thì chợ nổi đã được hình thành từ rất lâu.
Từ đầu thế kỷ XVII, vùng đất thuộc hai bờ sông Tiền cơ bản khai phá xong, tạo lợi
thế cho chợ nổi đồng bằng sông Cửu Long phát triển mạnh mẽ và ngày càng sung
túc. “Chợ Long Hồ ở phía Đông trấn thự cách một dặm, hai mặt trông xuống sông,
chợ này lập từ năm Nhâm Tý đời vua Túc Tông thứ tám (1732), phố xá nối liền,
bách hóa tụ tập dăng dài năm dặm, thuyền ghe suốt bến” [Trịnh Hoài Đức 1998].
Trong Đại Nam nhất thống chí, có đoạn miêu tả chợ Hưng Lợi (ở trấn Định Tường)
như sau: “Hàng hóa liền nhau, chợ gần sông cái. Người đi lại đỗ thuyền đợi nước
thủy triều, cho nên sông có nhiều thuyền bán thức ăn” [Phạm Trọng Điểm 1992].
Một đặc điểm chung của các chợ nổi Nam Bộ đó là vị trí chợ hình thành ngay
trên các ngã ba, ngã tư sông gần với chợ trên bờ. Chợ Ngã Bảy ở Phụng Hiệp, Hậu
Giang, bảy nhánh sông là đầu mối giao thương thuận lợi cho các thương nhân từ các
nơi khác đến trao đổi hàng hóa (xem Hình 7). Hay chợ nổi Ngã Năm (Hậu Giang),
trước đây là nơi giao thương buôn bán vào bậc nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu
Long, chợ được hình thành từ gần một trăm năm trước.
54
Theo mô tả của Sơn Nam, người
chuyên nghiên cứu về Nam Bộ đã viết:
“…xuồng câu tôm, ghe cà vòm, ghe chài
lớn, tam bản kiểu Cần Thơ… chen nhau
trên dòng nước, trong khi tàu đỏ, tàu dòng
ghe xúp lê inh ỏi chen nhau cố vạch một
lối thoát” [Sơn Nam 2007:122]. Những
hoạt động trên cho thấy mức độ sung túc,
đông đảo người đưa ghe xuồng đến nhóm
chợ tại đây đến mức nào.
Theo Nhâm Hùng, “một đặc điểm
hết sức chung: tất cả chợ nổi đều tọa lạc trên trục giao thông và giao thương chiến
lược cạnh sông Tiền, sông Hậu và các chi lưu, kinh đào dài rộng. Từ các chợ nổi có
thể đưa hàng hóa về khắp các địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long và thành phố
Hồ Chí Minh (kể cả vùng sâu) chỉ trong một ngày hoặc trễ lắm là hai ngày” [Nhâm
Hùng 2009:32].
Một đặc điểm nữa cũng rất nổi bật của chợ nổi là thường họp ở cạnh chợ trên
bờ, gần với một khu vực thị tứ đông dân của thành thị. Các chợ trên bờ cũng có vị
trí là quay mặt ra sông theo hướng mở, tạo thế “trên bến dưới thuyền” của vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, các chợ nổi cũng nằm liền kề với những vùng
miệt vườn, miệt rẫy như chợ nổi Phong Điền (thành phố Cần Thơ) nằm cạnh vườn
cam, vườn quýt, vườn dâu. Chợ nổi Cái Bè nằm trên đoạn sông Tiền, giáp vùng có
nhiều trái cây như: bưởi da xanh, xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò Rèn; gần đó là vùng
chợ Lách Bến Tre nổi tiếng với sầu riêng, măng cụt. Dọc con kênh đi vào chợ nổi
Ngã Bảy là một khu vườn với đầy đủ các loại trái cây và rau củ của miệt vườn như:
dừa, cam, dưa hấu, rau cải, các loại củ,… Có lẽ với những vị trí như vậy mới tạo
được sự thuận lợi trong vận chuyển hàng hóa đường thủy cũng như tăng tốc độ giao
thương hàng hóa, giảm chi phí và tăng sức cạnh tranh ở chợ nổi.
Hình 7. Bảy nhánh sông Ngã Bảy, nơi họp
chợ nổi Ngã Bảy. Ảnh từ Internet
55
Như vậy, buôn bán hoàn toàn bằng thuyền ghe trên sông nước là đặc trưng nổi
bật nhất của chợ ở Nam Bộ. Nó phản ánh yếu tố địa lý của vùng dày đặc sông nước
đã ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa sinh hoạt trong đời sống vật chất của người dân,
ngay cả khi họ hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa.
Nguyên nhân hình thành chợ nổi
Theo tác giả Nhâm Hùng trong công trình nghiên cứu Chợ nổi đồng bằng sông
Cửu Long, khái niệm chợ nổi chỉ xuất hiện khoảng ba mươi năm gần đây. Thực ra,
từ xa xưa, khi nói tới chợ ở đồng bằng sông Cửu Long là bao hàm cả hoạt động
nhóm chợ trên bờ và dưới sông. Khi các nhà nghiên cứu để mắt tới, cũng như sự
hấp dẫn của cung cách mua bán trên mặt sông thu hút ngày càng nhiều khách du
lịch, lúc ấy mô hình chợ nổi mới được đề cập nhiều. Từ những cuộc khảo sát thực tế
cũng như tổng hợp từ một vài nguồn tài liệu khác nhau, chúng tôi tổng kết lại một
vài nguyên nhân ra đời của chợ nổi như sau:
Thứ nhất, do đặc trưng về địa lý: sông nước mênh mông là nguyên nhân chính
ra đời mạng lưới chợ nổi ở đồng bằng sông Cửu Long. Bởi hình thức giao thông
đường thủy rất thuận lợi để vận chuyển hàng hóa cũng như đáp ứng nhu cầu đi lại
của người dân. Mặt khác, cũng có lẽ là diện tích đất nông nghiệp ngày càng được
mở rộng, dân số tăng lên, nền kinh tế phát triển mạnh, chợ hình thành ngày càng
nhiều, cách thức mua bán kiểu các chợ truyền thống trên bờ cũng dần dần bị bão
hòa. Do đó, giới thương nhân phải tìm hiểu, sáng tạo ra phương thức giao thương
mới, có thể trao đổi hàng hóa nông sản ngay trên sông bằng thuyền ghe, lâu dần
nhóm thành chợ, và kiểu nhóm chợ này đã mang lại hiệu quả kinh tế tương đối tốt.
Thứ hai, do đặc trưng sản xuất nông nghiệp: nông nghiệp phát triển mạnh mẽ,
đặc biệt là lúa gạo, trái cây và rau củ cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự hình
thành chợ nổi. Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất của cả nước, theo
Trung tâm giống nông lâm ngư nghiệp của Kiên Giang thì hàng năm vùng này đóng
góp trên 50% sản lượng lúa và trên 90% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước.
Theo báo Nhân Dân (nhandan.org.vn) cho biết: diện tích vườn cây ăn trái ở đồng
bằng sông Cửu Long có khoảng 247.000 ha, với sản lượng hơn 2,7 triệu tấn mỗi
56
năm. Năng suất rau bình quân ở đồng bằng sông Cửu Long là 16,25 tấn/ha, sản
lượng đạt 3.863.097 tấn, chiếm khoảng 30% sản lượng rau cả nước. Nông sản dư
thừa trở thành giá trị hàng hóa cần tiêu thụ nhanh để đảm bảo chất lượng và giá cả
của hàng hóa đó. Nông sản làm ra không chỉ giải quyết nhu cầu đời sống mà còn
đòi hỏi sự trao đổi, bán đi số dư thừa để có tiền chi phí cho sinh hoạt gia đình của
người dân. Sức thu hút nông sản từ các đô thị ngày càng gia tăng, đòi hỏi các mặt
hàng nông nghiệp phải được sản xuất nhiều để xuất đi nơi khác. Nông sản dần trở
thành nguồn chủ lực trong ngành giao thương ở trên sông. Nghề thương hồ đường
dài cần có điểm, nơi cung cấp hàng hóa nông sản thường xuyên, giá cả phải chăng
để đưa về tiêu thụ ở các vùng khác.
Thứ ba, do tính cạnh tranh của thị trường: đó là sự tác động mang tính cạnh
tranh của thị trường hàng hóa cũng là nguyên nhân dẫn đến việc ra đời của chợ nổi.
Bởi chợ nổi có ưu thế mua bán trao đổi trực tiếp giữa nông dân và thương lái theo
cách bán trực tiếp trong nhà vựa. Người nông dân chỉ cần thu hoạch nông sản và
đưa lên nhà thuyền để bán trực tiếp cho người thương lái, nhờ vậy mà giảm bớt chi
phí vận chuyển cho người nông dân, cũng như đảm bảo tính “mua tận gốc bán tận
ngọn” cho người thương lái ở nơi khác tới.
Thứ tư, do sự bão hòa của sản xuất nông nghiệp: lực lượng lao động nông
nghiệp ngày càng tăng và chính vì vậy số lượng hàng hóa nông nghiệp ngày càng
nhiều. Có nguồn cung cấp hàng hóa dồi dào nhưng lại thiếu nơi tiêu thụ, do đa phần
người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long làm sản xuất nông nghiệp. Điều này đã
khiến một số bộ phận nông dân đã có xu hướng chuyển sang làm nghề thương lái,
đem hàng hóa tiêu thụ đến những vùng khác.
Thứ năm, do sự phát triển nhanh chóng của xã hội: nông thôn ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long tuy ở thời kỳ đầu khẩn hoang và lập nghiệp còn khó khăn,
nhưng cuộc sống dần ổn định và phát triển kinh tế có quy mô hơn. Do đó, họ không
chỉ giải quyết nhu cầu ăn, mặc, ở thông thường, mà rất cần các loại hàng hóa thiết
yếu từ các đô thị cung cấp như: xăng dầu, bếp ga, nồi cơm điện, quạt máy... cho đến
những mặt hàng y tế, mỹ phẩm, chăm sóc sắc đẹp… những mặt hàng này được bày
57
bán cố định, thường xuyên trên các ghe tạp hóa nổi đậu cố định tại chỗ. Những yếu
tố đó cũng là một nguyên nhân thúc đẩy sự ra đời của mạng lưới chợ nói chung và
chợ họp trên sông nước nói riêng.
Có thể nói, nguyên nhân ra đời cũng chính là xuất phát từ nhu cầu và lợi ích
mà hình thức chợ nổi mang lại. Cung cách mua bán mới, vừa là động lực phát triển
kinh tế, nhưng đồng thời cũng tạo nên nét văn hóa đặc trưng cho đồng bằng sông
Cửu Long xưa và nay. Hình thức chợ nổi thể hiện rất rõ những nét riêng biệt trong
hoạt động giao thương của vùng đất. Ngoài ra, chợ nổi còn phản ánh đậm nét các
yếu tố kinh tế thị trường, cũng như đáp ứng các quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh về thị trường hàng hóa ở Nam Bộ nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng. Bằng chứng là hầu hết những ngôi chợ nổi tiếng từ thế kỷ XVII – XVIII đều
hoạt động theo hình thức buôn bán chợ nổi. Thời kỳ đó, việc lưu thông hàng hóa,
buôn bán với những thương gia trong và ngoài nước cũng thông qua việc giao
thương bằng đường thủy. Không phải ngẫu nhiên mà Trịnh Hoài Đức luôn dùng từ
“thuyền ghe suốt bến” để miêu tả sự trù phú của một ngôi chợ nào đó. Sự ra đời và
phát triển chợ nổi đã khẳng định một dạng hoạt động thương mại đặc biệt gắn với
phương thức vận chuyển, khẳng định tinh thần năng động, đầy sáng tạo của người
dân Nam Bộ.
Hàng hóa ở chợ nổi Nam Bộ
Nói chung, chợ nổi là một bộ phận hữu cơ của văn minh miệt vườn rất đặc sắc
ở miền Tây Nam Bộ. Ngày nay có thể khẳng định rằng hàng hóa ở chợ nổi là hết
sức phong phú, đa dạng, đa ngành hàng, gần như không thua kém gì các chợ trên bờ
(xem Hình 8 + 9 + 10).
Theo Nhâm Hùng cho biết: “Thời sơ khai, hàng hóa chủ lực ở chợ nổi có lẽ là
món ăn, thức uống cung ứng cho người đi ghe đường dài. Thời thịnh hành, hàng
hóa chợ nổi đa ngành, đa dạng vừa cung ứng cho giới thương hồ, vừa giải quyết nhu
cầu cho cư dân địa phương… Thời phát triển, hàng hóa chợ nổi tập trung nhiều nhất
là: trái cây, rau củ, phương thức giao thương chủ yếu là mua bán sỉ” [Nhâm Hùng
2009: 39].
58
Hình 8 + 9. Hàng hóa trên chợ Ngã Bảy, Hậu Giang. Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
Cũng như chợ trên bờ, hàng hóa chợ nổi cũng được chia làm nhiều nhóm hàng
hóa khác nhau nhằm đáp ứng mọi nhu cầu và tiện ích cho người dân vùng ven sông.
Chủ yếu đó là các nhóm hàng hóa:
Nhóm hàng nông sản: bao gồm các loại trái cây, rau, củ, hoa, cây cảnh. Đây là
những mặt hàng chủ đạo ở chợ nổi Nam Bộ. Các loại trái cây nổi tiếng là ngon của
miền Tây như: sầu riêng, măng cụt, xoài, ổi, vú sữa, cam, quýt, dừa, bưởi, dưa
hấu… thường bày bán la liệt trên các ghe thuyền của tiểu thương ở chợ nổi. Các
thương thuyền lớn thì bán sỉ cho tiểu thương trên bờ hoặc các thương lái từ vùng
khác tới bỏ sỉ cho các tiểu thương ở chợ địa phương. Những tiểu thương bán trên
ghe nhỏ thì bán lẻ cho người dân gần chợ hoặc cho khách du lịch. Các loại cây
cảnh, hoa tươi thì thường chỉ bán vào những dịp Tết. Những ngày đầu tháng Chạp
tới giáp Tết, nếu đi chợ nổi sẽ thấy được những sắc màu rực rỡ của mặt hàng hóa
này như: hoa mai, hoa cúc, hoa hồng… có thuyền ghe còn độc quyền bán cành đào
được mang về từ miền Bắc.
Nhóm thực phẩm tươi sống: bao gồm các loại thịt, cá tươi, các loại động vật.
Mặt hàng thịt tươi sống như thịt heo, thịt gà, thịt vịt, thị bò… cũng luôn được bày
bán ở chợ nổi. Có ghe bán cố định, có ghe đi bán rong cho người dân ven sông, tuy
nhiên mặt hàng này bán không nhiều lắm. Về mặt hàng thực phẩm, chợ nổi có nhiều
nhất là cá đồng, cua đồng, tôm tươi, cá biển, hàng khô biển, ốc, nghêu, sò... Ngoài
ra, còn một số các mặt hàng lâm sản như trăn, rắn, chim và một vài loại thú nhỏ như
chồn, chuột, kỳ đà... Đây là những mặt hàng không chuyên do một bộ phận người
59
dân lên rừng săn bắt về bày bán. Một vài tiểu thương ở chợ nổi Ngã Bảy cho biết
những mặt hàng này càng ngày càng ít bán do khan hiếm.
Nhóm hàng thủ công nghiệp: Về mặt hàng này, chợ Nam Bộ cũng có rất nhiều
hàng hóa làm từ gốm sứ: tô, chén, đĩa, ly, lu, hủ, cà ràng, v.v. được sản xuất tại
Vĩnh Long hoặc các thương lái lấy từ miền Đông Nam Bộ như ở Bình Dương,
Đồng Nai về bán. Các loại chiếu, lá chằm đốp, cây tràm dùng để làm lều, lợp nhà
lấy từ Cà Mau, Bạc Liêu chở lên. Ngoài ra, còn có các mặt hàng dùng để đựng hàng
hóa lẻ như: thúng, nia, rổ, sàng, cần xé, làm bằng tre, trúc… Đặc biệt, bán nhiều
nhất là các dụng cụ đánh bắt thủy hải sản như: lưới, vó, các loại cần câu, đăng, chỉa,
nò, v.v…
Nhóm hàng phục vụ vận chuyển:
Gồm xăng, dầu hỏa, dầu chạy máy, nhớt,
ga… Các mặt hàng này thường lấy từ các
đại lý xăng bán lẻ tại các thành phố, thị
xã, chủ yếu phục vụ cho các thương
thuyền ghe chạy bằng máy lưu thông trên
sông. Theo Nhâm Hùng, “Thời mở cửa
còn có dịch vụ trạm xăng nổi có thể chứa
từ 5 đến 10 ngàn lít. Tàu ghe chỉ cần ghé lại, xăng dầu được bơm ngay. Ngoài ra,
nhiều ghe xăng dầu nhỏ lưu động luôn có mặt trên sông; ai có nhu cầu chỉ cần kêu
một tiếng sẽ được đáp ứng” [Nhâm Hùng 2009: 43].
Nhóm hàng gia dụng: Nhóm hàng này gồm đầy đủ các vật dụng thiết yếu phục
vụ cho đời sống hàng ngày của người dân như: quần áo, giày dép, xà bông, dầu gội,
kem đánh răng, bàn chải, đường, sữa, muối… cho đến những vật dụng nhỏ nhặt
như: kim, chỉ, lược chải đầu, gương soi… được bày bán cố định trên các ghe tạp
hóa nổi hoặc các ghe hàng lưu động.
Hình 10. Chợ nổi Cái Bè, Tiền Giang Ảnh: nguồn Internet
60
Có điểm khác biệt so với các
chợ nổi khác ở Thái Lan hay Cam-
pu–chia, Nam Bộ có mặt hàng
chiến lược đóng vai trò phân phối
nguồn lương thực cho cả khu vực
thậm chí còn ra tận các nước Đông
Á là lúa gạo. Tuy nhiên, mặt hàng
này không được bày bán ở trên bờ
(ngoài số lượng có hạn bán lẻ tại
các chợ nhằm cung cấp cho người
mua lẻ về ăn trong gia đình) nhưng cũng không tập trung về các chợ nổi mà có khu
vực nhóm họp riêng và mang nét đặc biệt là vừa ở trên bờ vừa ở dưới nước. Có
nghĩa là thương lái thu mua lúa của nông dân ở các vùng nông thôn khác nhau của
Tây Nam Bộ rồi chở đến các nhà máy xay xát bằng xuồng ghe các loại với các mức
trọng tải khác nhau; ở đây, các chành lúa gạo sẽ thu mua lại và bán cho các thương
nhân từ nơi khác đến hoặc họ cho vận chuyển tiếp lên thành phố Hồ Chí Minh và
xuất khẩu ra các nước lân cận bằng đường bộ hoặc bằng đường thủy với sức mua
tính từ hàng tấn, hàng chục tấn cho mỗi chuyến hàng. Khu vực tập trung nhiều nhà
máy xay xát nhất ở miền Tây Nam Bộ là dọc theo bờ sông Tiền cặp quốc lộ 1A
đoạn từ Cai lậy đến Cái Bè thuộc phạm vi của tỉnh Tiền Giang kéo dài hàng chục
cây số với cả ngàn nhà máy xay xát với quy mô lớn nhỏ khác nhau, và tiêu điểm của
chợ họp kiểu này là chợ lúa gạo Bà Đắc ở xã An Cư, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
(xem Hình 11) mỗi ngày thu nhận về khoảng trên dưới 400 tấn gạo nguyên liệu.
Tóm lại, dù họp trên sông nước, giao thông hoàn toàn bằng đường thủy nhưng
chợ nổi vẫn mang đầy đủ các yếu tố đặc trưng của chợ nói chung, đó là hàng hóa đa
dạng, đáp ứng được các nhu cầu cần thiết của người dân. Qua đó cho thấy, trong
điều kiện địa hình sông nước chằng chịt như ở Nam Bộ, người dân vẫn có thể tận
dụng và sáng tạo để làm kinh tế và phát triển kinh tế một cách thuận lợi nhất.
Hình 11: Bốc xếp gạo ở chợ gạo Bà Đắc, Tiền Giang. Ảnh: nguồn Internet
61
2.2.2. Chợ họp cố định trên đất liền
Đặc trưng
Là cách họp chợ thông thường trên mặt đất của người dân Nam Bộ nói riêng
và người dân Việt Nam nói chung. Vị trí của chợ thường ở nơi tập trung dân cư
đông đúc, là đầu mối giao thương của các xã, làng, thị trấn, thị xã, thành phố. Cũng
như chợ nổi, chợ cố định trên đất liền là nơi tập buôn bán rất nhiều mặt hàng, phục
vụ cho đời sống sinh hoạt của người dân ở địa phương cũng như cung ứng một số
mặt hàng đi nơi khác, thậm chí còn đa dạng các mặt hàng hóa hơn chợ nổi, bởi sự
tiện ích của các loại phương tiện giao thông đường bộ như: xe tải, xe gắn máy, ba
gác, xe đạp… Tính chất chung của chợ họp trên đất liền đó là nơi mua bán công
cộng, trao đổi hàng hóa, dịch vụ của cư dân địa phương. Bởi ở đó, bất cứ ai có nhu
cầu, đều có thể đến để mua bán và trao đổi hàng hóa, dịch vụ với nhau.
Chợ ở đây được hình thành do yêu cầu khách quan của sản xuất và trao đổi
hàng hóa, dịch vụ của người dân. Có thể hình thành một cách tự phát hoặc do nhu
cầu mua bán, trao đổi hàng hóa của người dân địa phương. Vì vậy, trên thực tế có
nhiều chợ đã hình thành từ việc quy hoạch, xây dựng, tổ chức, quản lý chặt chẽ của
các cấp chính quyền và ngành quản lý kinh tế. Các hoạt động mua bán, trao đổi
hàng hóa, dịch vụ trên chợ thường được diễn ra theo quy luật và chu kỳ, thời gian
như chợ họp theo phiên, chợ họp ban đêm hoặc ban ngày vào những ngày giờ nhất
định, sao cho thuận tiện việc mua bán trao đổi hàng hóa. Mặt khác, chu kỳ họp chợ
được hình thành còn do nhu cầu trao đổi hàng hóa, dịch vụ của từng vùng, hoặc do
địa phương quy định mà chợ họp hàng ngày hay theo phiên. Chẳng hạn ở thành thị
thì có nhu cầu họp chợ hàng ngày, vì số lượng dân cư đông đúc; ở nông thôn thì
thường họp theo phiên, do dân cư ít hơn và nhu cầu mua sắm của người dân cũng
thấp hơn.
Quy mô của từng chợ tùy thuộc phần lớn vào sự phát triển kinh tế của địa
phương, vùng miền và nhu cầu tiêu dùng của người dân tại chỗ (đối với những chợ
tự phát). Theo Sở thương mại thành phố Hồ Chí Minh thì chợ họp cố định trên đất
liền được chia thành các quy mô sau:
62
Chợ có quy hoạch: Đây là những chợ đã chính thức được các cấp chính quyền
địa phương và ngành quản lý kinh tế kỹ thuật đưa vào mạng lưới quy hoạch, đầu tư,
xây dựng tổ chức quản lý chặt chẽ nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu thụ hàng
hóa của nhân dân địa phương, trong đó bao gồm cả chợ truyền thống đã hình thành
từ lâu đời. Ngược lại với chợ có quy hoạch là chợ chưa có quy hoạch. Những chợ
này được hình hành một cách tự phát do nhu cầu sản xuất và tiêu thụ hàng hóa của
nhân dân địa phương, chưa được các cấp chính quyền và ngành quản lý kinh tế kỹ
thuật quy hoạch và đầu tư phát triển.
Chợ có ban quản lý: Đây là những chợ nằm trong mạng lưới quy hoạch, được
chính quyền ngành quản lý kinh tế kỹ thuật địa phương thành lập ra ban quản lý
gồm một số người chuyên trách hoặc bán chuyên trách thực hiện các nhiệm vụ tổ
chức, sắp xếp các hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trên chợ; bảo vệ trật tự
an ninh, an toàn, giữ gìn vệ sinh chợ; đồng thời là người tổ chức và quản lý các
khoản lệ phí chợ, quản lý các hoạt động dịch vụ phục vụ cho các hoạt động kinh
doanh mua bán hàng hóa dịch vụ trên chợ; tạo nguồn vốn tự có, nhằm không ngừng
tiếp tục đầu tư phát triển chợ và góp phần cho nguồn ngân sách địa phương. Ngược
lại, trong thực tế đời sống cũng có chợ chưa có ban quản lý. Đây là những chợ chưa
quy hoạch chính thức, quy mô còn nhỏ, chưa thành lập nên ban quản lý. Tuy nhiên,
các chợ này vẫn hoạt động bình thường và thường do các hộ buôn bán tự trông coi.
Chợ kiên cố: là chợ xây dựng một cách kiên cố, chắc chắn, có thời gian sử
dụng lâu dài. Ngoài ra cũng có chợ bán kiên cố là chợ có mức độ xây dựng thấp
hơn, không chắc chắn, thời gian sử dụng ngắn.
Ngoài ra, hình thức kinh doanh chợ trên đất liền cũng có rất nhiều chợ được
hình thành một cách tự phát do nhu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa của dân cư,
những chợ này chưa được quy hoạch, xây dựng, quản lý chặt chẽ. Theo Sở thương
mại Thành Phố Hồ Chí Minh thì tính đến năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh có
tới 173 chợ tự phát các loại. Chợ tự phát được hình thành theo hai hình thức: thứ
nhất, xuất phát từ nhu cầu khách quan ở những khu vực không có chợ như các khu
công nghiệp, khu chế xuất tập trung đông dân cư, các khu dân cư mới. Thứ hai, chợ
63
tự phát hình thành ở những khu vực xung quanh chợ chính thức, ăn theo chợ chính
thức, chủ yếu là họp rải rác xung quanh chợ chính thức, bán các mặt hàng thực
phẩm hàng ngày cho người dân là chính. Các hộ kinh doanh ở chợ tự phát ăn theo
chợ chính thức bao gồm nhiều hình thức khác nhau như kinh doanh cố định, lưu
động, hàng rong... Chợ tự phát ra đời do đời sống kinh tế còn khó khăn, những
người không có công ăn việc làm ở các tỉnh đổ xô về thành phố sinh sống bằng đủ
loại nghề khác nhau. Ngoài ra, một số bộ phận người dân định cư trong thành phố
không có công ăn việc làm cũng tìm đến chợ để buôn bán. Qua thời gian, các khu
vực này hình thành các chợ tự phát; bên cạnh đó, một số tiểu thương ở chợ buôn
bán ế ẩm không chịu nổi mức thuế trong chợ nên tìm cách ra ngoài buôn bán để
không phải chịu mức thuế theo quy định. Về vấn đề này chúng tôi sẽ đề cập sâu hơn
ở chương 4 của luận văn.
Tính chất
Chợ họp cố định trên đất liền khác chợ họp trên sông nước cơ bản ở mặt hình
thức, thể hiện ở cách họp chợ, cách chào hàng, cách vận chuyển hàng hóa và
phương thức mua bán.
Về cách họp chợ thì nếu như chợ trên sông nước thường họp vào ở vị trí ngã
ba, ngã tư sông, nơi con nước lớn nước ròng thì chợ ở trên đất liền họp ở những nơi
đông dân cư, hoặc ở một bãi đất trống, nơi có nhiều người qua lại.
Về cách chào hàng thì chợ họp trên sông nước thường dùng những điệu hò,
điệu hát để chào hàng, hoặc người ta dùng cây tre cắm trước ghe hàng của mình trên
đó treo một cách tượng trưng hàng hóa của mình bán lên để mọi người có thể nhận
biết mà tìm đến mua. Còn chợ họp ở đất liền thì dùng ngôn ngữ thông thường để
chào mời khách và cách thức chưng dọn hàng hóa thì cũng tìm cách phô bày ra để
mọi người dễ dàng nhận thấy.
Về phương thức mua bán, chợ họp trên sông nước thường dùng những cách
thức cân đong đo đếm gần gũi và dân gian hơn, còn chợ trên đất liền thì chú trọng
64
tính chính xác về trọng lượng; ở các chợ lớn thường đã cân đong đo đếm và niêm
yết giá sẵn, người mua có thể coi giá và chọn hàng.
Về phương thức vận chuyển, thay vì chợ trên sông vận chuyển hàng hóa bằng
các loại thuyền, ghe, xuồng thì ở chợ trên đất liền vận chuyển bằng các loại xe cơ
giới, xe chuyên dụng như xe tải, xe máy, ba gác, xe đạp, gánh hàng rong…
Một nhà nghiên cứu nhận định rằng: “Đi từ hình thức chợ truyền thống thường
thấy như ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, chợ trên bờ luôn liền kề với sông
rạch theo lối “trên bến dưới thuyền”. Một ngôi chợ sung túc, hoàn chỉnh sẽ được
cấu trúc như sau: nhà lồng chợ - phố xá – bến sông. Nhiều chợ lớn còn liền lạc với
cầu cảng, cầu tàu, kho bãi, nhà vựa” [Nhâm Hùng 2009:15].
Trong thế kỷ XVIII, ở Nam Bộ đã xuất hiện nhiều thị tứ, nhiều tụ điểm buôn
bán sầm uất, thể hiện những ưu thế vượt trội của chợ họp trên đất liền. Do vậy, chợ
họp trên đất liền đã trở thành một bộ phận cấu thành rất quan trọng của mạng lưới
thương mại ở Nam Bộ từ trước đến nay.
2.3. Phương thức hoạt động mua bán, vận chuyển hàng hóa
2.3.1. Các hình thức, nguyên tắc mua bán hàng hóa
Các hình thức buôn bán ở chợ
Ở nông thôn Nam Bộ, trong điều kiện hàng hóa và sức mua hạn chế, thị trường
kém phát triển; mặt khác, lối tư duy cụ thể, thực tế mang tính thực dụng dẫn đến
hành vi tùy tiện của cả người bán lẫn người mua, cho nên phương thức trao đổi,
mua bán hàng hóa của người dân Nam Bộ rất linh hoạt, thể hiện qua các hàng hóa
không chỉ bán ở chợ mà có thể ở mọi lúc, mọi nơi thông qua nhiều cách thức khác
nhau. Điển hình như buôn ngồi tại chỗ, bán hàng rong, đổi hàng mới lấy hàng cũ…
- Buôn ngồi: là hình thức người bán ngồi bán tại sạp, và trưng bày các mặt
hàng mình cần bán, người mua đi chợ và ghé mua. Hình thức này rất phổ biến và
chủ yếu ở các chợ họp cố định. Người bán chỉ việc ngồi tại những sạp, quầy hàng
hóa được người thương lái sắp đặt sẵn trong chợ để buôn bán hàng ngày (xem Hình
65
12). Do việc buôn bán này diễn ra một cách đều đặn, lâu dài cho nên người bán
cũng có một lượng khách hàng ổn định, thân thiết.
- Bán hàng rong: là
hình thức bán hàng đặc biệt
từ thuở sơ khai, chưa định
hình hoạt động thương mại.
Bán hàng rong là một
phương thức kiếm sống của
đa số người nghèo và đa
phần là xuất hiện ở nông
thôn; sau này ở thành thị cũng xuất hiện nhiều, nhưng chủ yếu người bán cũng là
nhập cư từ nông thôn. Người bán là những người mang hàng hóa đi khắp chợ hoặc
tỏa về các vùng khác xa nơi mình đang ở có khi vài ba chục cây số hoặc tới từng
nhà người dân để buôn bán. Phương tiện vận chuyển là các loại phương tiện thô sơ
như: xe đạp, xe đẩy, xe máy, xe ba gác, thậm chí là một đôi quang gánh hoặc một
cái rổ đựng hàng hóa. Phần lớn là bán các mặt hàng nhỏ, lẻ phục vụ cho nhu cầu
của người dân như thực phẩm tươi sống, kẹo bánh, muối, mắm… Ngày nay còn
xuất hiện hình thức bán rong bằng xe tải chở đa dạng mặt hàng, buôn bán với số
lượng lớn. Cách thức này, người bán rong thường bỏ sỉ cho các thương lái buôn
ngồi tại chỗ hoặc những tiệm tạp hóa tại nhà.
- Đổi hàng mới lấy hàng cũ: Người ta còn gọi hình thức buôn bán này là “đổi
chác”, một hình thức khác của bán rong, nhưng với kiểu bán này thì người bán có
hai vai trò: vừa là người mang hàng đi bán, đồng thời cũng có thể là người mua. Họ
đi đến từng nhà trong xóm để mua đồ cũ, bán đồ mới hoặc đổi đồ mới lấy đồ cũ.
Hàng cũ họ muốn đổi rất thông dụng như máy móc cũ đã lâu không còn sử dụng,
quạt máy, bàn ủi, máy tính, đồng hồ đeo tay, đồng hồ treo tường, v.v. hoặc bình dân
ít vốn hơn thì đi thu mua chai, lọ, lon, giày dép cũ, thậm chí là lông gia cầm như
lông gà, lông vịt… Ngôn ngữ bình dân gọi hình thức kinh doanh này là hành nghề
“ve chai”. Những mặt hàng cũ đổi được chủ yếu họ bán lại cho các vựa để đưa vào
Hình 12. Một sạp hàng ở chợ Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
66
nhà máy tái chế thành các hàng hóa mới. Các hàng hóa này lại được phân phối trên
thị trường và các thương lái lại lấy hàng hóa đó buôn bán lại trên thị trường qua
nhiều hình thức khác nhau. Về vấn đề lưu thông hàng hóa kiểu này, nhà văn
Nguyễn Văn Trấn trong Chợ Đệm quê tôi có viết: “Xã hội phát triển hoài, phát triển
lần lần tới lúc mà nếu không có đổi chác sản phẩm, rồi buôn bán sản phẩm thì có
sản phẩm con người cũng không sống được. Tôi chỉ biết là người ta mang món gì
đó ra chợ để bán, là để chuyển nó thành tiền, để cầm tiền quy ra mua món gì mình
cần. Tiền là giá trị cho sản phẩm này có thể trao đổi với sản phẩm người khác”
[Nguyễn Văn Trấn 1985:134].
- Buôn bán tạp hóa tại nhà: Đây là một kiểu kinh doanh rất thông dụng và
phổ biến ở khắp nơi, đặc biệt là trong nội thành các thành phố. Khi mà người dân ở
thành phố không làm nông nghiệp thì kinh doanh buôn bán là hình thức đơn giản và
hiệu quả nhất để phục vụ cuộc sống của họ. Những người buôn bán này tận dụng
mặt bằng nhà ở để buôn bán các loại hàng hóa, gọi nôm na là “tạp hóa”. Có thể coi
một gian hàng tạp hóa là một cái chợ thu nhỏ, vì trong một gian tạp hóa có đủ các
mặt hàng được bán lẻ, tuy ít nhưng đáp ứng được nhu cầu mua lẻ của người dân.
Với hình thức buôn bán tạp hóa này, người bán có mục đích là bán cho những
người hàng xóm gần nhà hoặc những đi đường một cách rất linh hoạt và đáp ứng
tâm lý “tiện đâu mua đó” của người dân Việt nói chung.
Các hình thức buôn bán của người dân Nam Bộ nói lên được tính đa dạng của
sản xuất kinh doanh, nói lên đặc trưng văn hóa xã hội của mỗi cộng đồng; đồng thời
cũng sản sinh ra nhiều phương thức kinh doanh, hình thành nên văn hóa kinh doanh
của mỗi vùng dân cư.
Nguyên tắc mua bán ở chợ người Việt Nam Bộ
Chợ ở Nam Bộ nói riêng hay ở Việt Nam nói chung luôn có những nguyên tắc
mua bán đặc biệt. Tuy nhiên, nguyên tắc mua bán ở mỗi địa phương đều có những
nét khác nhau, tạo nên đặc trưng riêng biệt của mỗi vùng miền. Nguyên tắc mua bán
ở Nam Bộ là một trong những đặc trưng riêng biệt đó. Ở đây, chúng tôi muốn đề
cập đến chữ “tín” trong nguyên tắc mua và bán của người dân Nam Bộ.
67
Người dân Nam Bộ thường có nguyên tắc mua bán rất nhanh, gọn và trọng
tình nghĩa. Trong đó, chữ “tín” được người thương lái rất coi trọng. Chữ tín trong
mua bán tạo nên “niềm tin” giữa người bán và người mua. Ở các chợ họp trên sông
nước, thông thường, mỗi lần giao dịch chỉ diễn ra trong vòng vài phút. Khi người
bán chào hàng, người mua gọi vào gần ghe để xem hàng và mua. Điều đặc biệt là
mua bán ở đây không cần cân đong đo đếm mà chỉ ước lượng, không kỳ kèo và so
bì thiệt hơn bởi ai cũng muốn mua và ai cũng muốn bán cho nhanh để kịp con nước
và chạy chuyến hàng khác. Vì người làm nghề thương hồ buôn bán bằng phương
tiện tàu thuyền, sự lớn ròng của con nước ảnh hưởng rất lớn đến nhịp điệu mua bán
và giá cả hàng hóa, do vậy cũng ít nhiều tùy thuộc vào thủy triều. Nguyên nhân có
thể lý giải vì cũng mặt hàng đó và chất lượng như nhau nhưng nếu đem sớm hơn
khoảng 15 phút thì có thể giá sẽ cao, nhưng chỉ đến trễ khoảng thời gian trên thì giá
sẽ sụt đi ít nhiều. Không phải thương lái ép giá mà do đến trễ con nước, tàu ghe đã
xuất bến; nếu bây giờ vận chuyển bằng đường bộ thì buộc phải hạ giá mua vào để
bù vào chi phí vận chuyển. Chính vì lẽ đó, người ta thường đưa ra cái giá sao cho
thuận mua vừa bán và bán xong thì mạnh ai nấy lái thuyền đi nơi khác.
Nguyên tắc mua bán kiểu qua loa, chủ yếu dựa vào chữ tín đã được định hình
từ rất lâu ở Nam Bộ. Đó là kiểu mua bán gián tiếp qua đơn đặt hàng cho bạn hàng
đã được các thương nhân áp dụng để cho tiện việc mua bán. Trong sách Gia Định
thành thông chí có viết: “Từ trước tàu buôn đến đây, bỏ neo đã xong, thuê phố ở trọ,
tất đến chủ nhà hàng, kê khai hàng hóa cả thuyền, đưa nộp giao cho cửa quan, rồi
chủ hàng định giá mua cả, xấu tốt xô bồ, không có ứ đọng. Ngày trở buồm, gọi là
hồi Đường, cần dùng hàng gì, cũng phải khai rõ trước kỳ chủ hàng chiếu theo đơn
hẹn mà thu mua thay cho, chủ khách hai bên cùng tiện, đơn hàng tính trả xong,
người khách cứ việc đờn ca chơi nhởi. Đã được nước ngọt trong sạch, lại không hà
sâu gặm khoét ván thuyền. Chỉ đợi đến kỳ hạn chở đầy, sung sướng mà quay về
thôi” [Trịnh Hoài Đức 1998]. Còn Nguyễn Minh Hòa thì cho rằng: “Kiểu mua bán
hàng hóa gián tiếp trải qua nhiều khâu mang tính chuyên môn hóa cao mà mỗi
người (hay một nhóm người) đảm nhiệm một công đoạn (có khi họ không biết
68
nhau) cũng không có ở miền Bắc trước kia, sau này miền Bắc cũng học tập miền
Nam kiểu làm ăn này” [Nguyễn Minh Hòa 2007:92].
Phương thức mua, bán hàng trước trả tiền sau, hay bán hàng “gối đầu” chỉ
nhận một phần đủ mua nguyên vật liệu cho sản xuất là kiểu mua bán khá điển hình
ở Sài Gòn: “Một kiểu làm ăn như bán sỉ, nợ gối đầu, chu trình buôn bán được tách
ra thành từng công đoạn riêng, mỗi người chịu trách nhiệm một khâu: đặt hàng,
đóng gói, vận chuyển, lưu kho, giao hàng, trả tiền” [Nguyễn Minh Hòa 2005:184].
Đây là kiểu buôn bán khá đặc biệt, bởi quan hệ giữa họ không phải là ruột thịt gì,
thậm chí khá xa lạ. Do đó, đây chính là kiểu mua bán của kinh tế hàng hóa đô thị
Nam Bộ. Việc mua bán chỉ dựa vào lòng tin không thôi thì chắc chắn là rủi ro khá
cao, nhưng kiểu mua bán như vậy, thể hiện chữ tín bằng miệng, hay hợp đồng chỉ là
tờ giấy nhỏ viết như người ta viết nháp dường như chỉ để khỏi quên hơn là có giá trị
pháp lý vẫn tồn tại phổ biến cho đến ngày nay.
Thật khó lý giải cho hiện tượng hàng hóa thị trường kiểu Nam Bộ cho dù hiện
nay đã nhân rộng ra trên cả nước là “Ai cũng là con nợ của nhau, từ người sản xuất
nợ người đặt hàng, người mua hàng nợ người sản xuất, người bán lẻ nợ người bán
sỉ, người tiêu dùng nợ người bán lẻ (bằng hình thức mua chịu hay mua trả góp).
Kiểu nợ lòng vòng trở thành một thứ văn hóa rất thú vị và kỳ lạ, nó cột chặt người
ta trong mối quan hệ vừa thân lại vừa sợ khiến những người nơi khác đến vừa dễ
hòa nhập vào nó lại vừa có phần e dè” [Nguyễn Minh Hòa 2007:93].
Trình độ sản xuất còn hạn chế ở quy mô nhỏ thì phần lớn hoạt động mua bán
đều diễn ra giữa những người trong một khu vực thuộc phạm vi hẹp, kết cấu xã hội
của những quan hệ mua – bán nhỏ. Những quan hệ mua – bán này hầu như được
giải quyết trên cơ sở lòng tin, chữ tín. Với các chợ phiên, người mua có thể đặt mua
hàng qua những trao đổi bằng miệng từ phiên chợ trước để đến phiên chợ sau mới
mua và thanh toán tiền, hoặc có thể thanh toán sau, khi có điều kiện mà không cần
thỏa thuận trên giấy tờ văn bản. Với chữ “tín”, người mua có thể mua chịu, mua
được hàng với giá thấp hơn giá thị trường mà không cần mặc cả. Tuy nhiên, giữa
69
người mua và người bán này cũng phải có những quan hệ xã hội nhất định như mối
quen, người quen, họ hàng.
Lâu dần, chữ “tín” trong buôn bán kinh doanh được hình thành nên “thương
hiệu”. Dù là buôn bán lớn hay nhỏ, nhưng thương hiệu là một yếu tố rất quan trong
để thu hút khách hàng. Từ những “thương hiệu” rất đỗi bình dân như “bánh khọt bà
Năm”, “bún mắm bà Ba”… cho đến những cửa hàng như “Thực phẩm A”, “quán ăn
B”, thậm chí là “công ty C”… tuy cùng một mặt hàng những đối với người đi chợ
vẫn thích tới những nơi quen thuộc mà họ gọi là “thương hiệu” đó để mua hàng, vì
họ tin vào uy tín và thương hiệu của người buôn bán đó.
Uy tín trong kinh doanh buôn bán nói chung hay chợ nói riêng là một yếu tố
rất quan trọng, góp phần tạo sự sung túc và thân tình cho một buổi họp chợ. Và đó
cũng là một vai trò quan trọng trong việc lưu giữ và phát huy những giá trị văn hóa
kinh doanh của chợ truyền thống của người Việt ở Nam Bộ.
2.3.2. Cách thức đo lường, vận chuyển hàng hóa
Cách thức đo lường trong kinh doanh ở chợ
Đo lường là một trong những yếu tố quan trọng trong việc xác định tính chất
công bằng trong kinh doanh nói chung và mua bán ở chợ nói riêng. Các thương
nhân Nam Bộ thường xác định việc đo lường hàng hóa bằng cân, đong, đo đếm,
thậm chí họ có thể ước lượng số lượng, trọng lượng hàng hóa.
Ở các chợ truyền thống đến hiện đại đều tồn tại hai kiểu cách mua bán cơ bản
là bán sỉ và bán lẻ (sỉ là số lượng nhiều, đơn vị tính thường là kiện, thùng, công,
tấn…). Nếu người mua là mua sỉ thì người bán sẽ bán với giá rẻ hơn so với người
mua lẻ. Hai kiểu mua bán sỉ và lẻ được cụ thể bằng cách đo lường chung đó là bằng
giạ, ký lô, lường bằng lít, chai, lon…và đếm thì có đếm thiên, trăm, chục… Có khi
tính bằng mớ, rổ, cần xé, công… Tất cả những cách thức đo lường đó đã được giới
thương nhân trong dân gian tự đặt ra và chấp thuận, từ đó họ mang ra sử dụng như
một quy tắc bất thành văn, người mua, người bán cứ theo như thế mà tính toán, đo
lường. Dưới đây là một vài kiểu đo lường thường gặp ở chợ Nam Bộ:
70
- Đo lường bằng giạ: Một giạ có khối lượng khoảng 20 ki lô gam, thường
dùng để tính cho buôn bán các loại ngũ cốc như: một giạ lúa, một giạ đậu xanh, đậu
đen,…Ngày nay, người bán buôn thường ít tính bằng giạ mà thay vào đó là dùng ki
lô gam để có cách tính khoa học, chính xác hơn. Tuy nhiên, ở nông thôn Nam Bộ
thì vẫn còn tồn tại cách tính này. Cách đo lường này thường dùng giữa các thương
lái với nhau hoặc người mua là thương lái mua về bán lại, còn người bán là người
trực tiếp sản xuất ra hàng hóa.
Đo lường bằng lon: Những
người buôn bán xưa thường làm
một cái lon bằng thiếc hoặc nhôm
để đong những hàng hóa rắn mà
nhỏ như: gạo, đậu xanh, đậu
phộng, bột. (xem Hình 13). Chẳng
hạn một lon gạo nếp, một lon đậu
xanh và người ta cũng đã thống
nhất với nhau về giá cả nhất định
cho một lon là bao nhiêu. Cách đo lường này thường được dùng giữa người bán với
người mua lẻ, mua ít về tiêu dùng trong gia đình.
- Đo lường bằng lít: là cách tính dùng cho các chất lỏng như xăng, dầu, rượu,
mật ong, nước mắm… Thường người ta làm ra các chai hoặc can đã được định mức
là một lít, hai lít… thậm chí là hàng ngàn lít để làm số lượng bán ra. Cách tính này
ngày càng được áp dụng nhiều hơn và rộng rãi hơn vì tính tiện lợi của nó.
- Đo lường bằng cách đếm thiên, đếm trăm, đếm chục: là cách tính ra đời rất
lâu ở Nam Bộ. Đếm thiên bằng 1000 đơn vị hàng hóa, đếm trăm bằng 100 đơn vị
hàng hóa, đếm chục bằng 10 đơn vị hàng hóa. Ở một số địa phương Nam Bộ còn
quy ước một chục bằng 12, có nơi một chục bằng 14, 16, có khi tới 18 đơn vị hàng
hóa. Nhà văn Sơn Nam có viết: “Lúa gạo bán rẻ, giới thương gia mua với số lượng
nào đó thôi, cá lóc con to giống bán từng giỏ, tôm càng xanh bán theo đơn vị từng
thùng, hàng hóa tính tạ, yến, trái cây tính chục (chục 12, 14, 18 tùy địa phương)”
Hình 13. Đo lường bằng lon, lít đã được áp dụng từ rất lâu. Ảnh từ nguồn Internet
71
[Sơn Nam 2007:61]. Có thể nói cách tính này phần nào còn nói lên tính rộng rãi,
hào phóng của người Việt ở Nam Bộ.
- Đo lường bằng cách đếm chiếc, đếm cái: là cách tính đơn giản, thông dụng
nhất cho các mặt hàng gia dụng, công cụ. Ví dụ một cái giường, một chiếc xe. Tuy
nhiên, về mặt hàng chén, ly lại được tính bằng chục như chục chén, chục tô, chục
ly. Theo một số người thương lái thì do người mua thường mua chén, bát, ly với số
lượng nhiều để đủ dùng cho mọi người trong gia đình, nên người bán cũng thường
xếp các bộ chén ly theo hàng chục cái, vừa ít bị bể mà lại gọn gàng tiện lợi cho
người mua khi vận chuyển loại hàng hóa này.
- Đo lường bằng cần xé, rổ: là cách tính thường xuất hiện ở nông thôn theo
cách tính ước lượng của người dân địa phương như một rổ cam, một cần xé cam.
Đây là cách bán qua loa, thường cuộc mua bán bằng cả một cần xé, cả một rổ chỉ
xảy ra khi người bán muốn mau chóng bán cho xong một món hàng nào đó.
- Đo lường bằng mớ: là cách thỏa thuận về một khối lượng chung không cần
cân đong đo đếm, chỉ cần trả giá một mớ đó là bao nhiêu, nếu được sự đồng ý của
người bán và người mua thì đã hoàn thành một cuộc mua bán. Cách tính này nói lên
đặc tính không câu nệ, kỳ kèo giá cả để rút ngắn thời gian mua bán của hai bên. Mớ
thường dùng cho các mặt hàng thực phẩm như mớ rau, mớ tôm, mớ tép, mớ cá…
- Đo lường bằng mão: là cách giao dịch trọn một khối lượng hay cả một ghe
hàng mà không cần cân, đếm, phân biệt hàng hóa tốt hay xấu, lớn hay nhỏ. Cách
tính mão thường dùng cho giới thương hồ. “Kiểu giao thương này, dân thương hồ
có nghề lắm mới dám thương lượng. Nhìn một chiếc ghe đang chở hàng, với độ
ngập nước cỡ nào, người ta có thể đoán được chính xác khối lượng, trọng lượng.
Cho nên việc mua bán theo mớ, mão diễn ra ít khi bị lầm lẫn, lỗ lã. Phần nhà nông
hoặc đàng bán, do muốn giải quyết nhanh số hàng nên họ không cần tính toán chi li,
cân, đếm mất thời giờ. Thấy được lời chút họ vẫn có thể bán mớ hoặc mão ngay”
[Nhâm Hùng 2009:46].
72
- Đặc biệt, người Việt Tây Nam Bộ còn có phương thức kinh doanh không cần
cân đong gọi là mua “xa mại”. Xa mại được hiểu với cách chiết tự mại là bán, xa là
chỉ khoảng thời gian trả tiền đến khi lấy hàng cách xa nhau. Cách mua bán này đòi
hỏi người bán giữ chữ tín rất cao vì người mua chưa thấy mặt hàng mà đã trả tiền
trước có khi cả ba, bốn tháng. Nếu như người bán đã nhận tiền mà không chăm sóc
thì việc thu hoạch sẽ kém, lúc ấy người mua bị mất tiền là cái chắc vì tiền đã đưa từ
trước. Tuy nhiên mua bán xa mại này chỉ diễn ra khi người bán gặp trường hợp bất
đắc dĩ cần số tiền lớn mà chưa tới kỳ thu hoạch hoa lợi và giữa người bán với người
mua có lòng tin lẫn nhau chắc chắn và họ giữ chữ tín rất nghiêm. Dân gian gọi là
“mua trâu vẽ bóng”, vì tiền thì trả trước còn hàng hóa thì chưa thấy bởi thời gian
nhận hàng cách xa đến vài tháng, thậm chí trả tiền năm nay mà sang năm mới nhận
được hàng. Cách mua bán xa mại này thường áp dụng cho mua bán lúa còn trên
cánh đồng, gia súc thì mới khởi nuôi chỉ vài ba tháng.
Một số phương thức đo lường trong kinh doanh cơ bản đã hình thành từ thế kỷ
XVII, tuy nhiên có khác một chút ít so với ngày nay. Trịnh Hoài Đức có viết trong
Gia Định thành thông chí: “Tục lấy thóc gạo 10 giạ gọi là trăm, một trăm giạ gọi là
thiên. Cân thì dùng cân Tư Mã (đời Lê) hoặc dùng cân hiện thời, hoặc mỗi cân thêm
ba lạng, năm lạng, nặng nhẹ không đều nhau. Thước đo dài ngắn thì chế riêng khác
nhau. Khi mua bán tất phải hẹn trước rằng là dùng thứ cân nào, thước đo nào, rồi
sau đó mới đánh giá, không thế thì lần sau lừa dối cãi cọ nhau, thành ra kiện tụng.
Vì thế nên gặp ở đường mà hỏi nhau, phải hỏi lại là đo bằng thước nào, mới biết rõ.
Phàm vật khác cũng nhiều thứ như thế. Nhưng mà người ta mua thì đã đắn đo trong
bụng mà theo giá hay không, không lấy cân thước lớn bé, dài ngắn làm quan trọng.
Hiện nay ban hành quốc luật, cân, thước, đấu, học đã có chuẩn đinh, phàm ai làm
riêng không đúng thì chiếu luật trị tội, tức là chế độ đổi mới, trăm vật mới được
ngang bằng” [Trịnh Hoài Đức 1998:149 - 150].
Chợ ra đời từ xưa là do tính tự phát, nên các thương nhân cũng tự quản theo
các quy ước thành lệ đó từ bao giờ. Dù cạnh tranh mạnh mẽ nhưng ít khi xảy ra xích
mích trong quan hệ mua và bán do những luật lệ bất thành văn đó.
73
Phương thức vận chuyển hàng hóa
Ở Nam Bộ cũng như các vùng khác, phương thức vận chuyển hàng hóa thường
phụ thuộc vào tính chất địa lý của từng vùng và còn dựa vào nhu cầu của người
mua, người bán. Ở vùng không có hệ thống sông ngòi dày đặc như miền Đông Nam
Bộ, thì các thương lái thường vận chuyển bằng các phương tiện cơ giới như xe tải,
xe chuyên chở, xe máy. Từ những nhu cầu cần thiết trong việc giao thương buôn
bán đã hình thành nhiều doanh nghiệp chuyên về vận chuyển hàng hóa cho các
thương lái ở các chợ khác nhau. Chẳng hạn ở thành phố Hồ Chí Minh, các chợ đầu
mối chuyên cung cấp đa mặt hàng. Hàng ngày, các xe tải chuyên chở các loại hàng
hóa thường lui tới và nhận hàng để đi giao cho các thương lái tại các chợ bán lẻ
khác trong thành phố. Một số thương lái buôn bán nhỏ thì vận chuyển hàng hóa
bằng xe máy, hoặc xe ba gác, xích lô…
Miền Tây Nam Bộ, do mạng lưới sông ngòi chằng chịt nên phương thức vận
chuyển hàng hóa của các thương lái lại chủ yếu bằng đường thủy. Phương thức vận
chuyển này ít tốn kém và chuyên chở cũng được nhiều, nên từ xa xưa đã rất được
thông dụng. Chính vì vây mà ghe xuồng ở Nam Bộ có vị trí rất quan trọng trong
giao thông đường thủy cũng như vận chuyển các loại hàng hóa khác nhau. Ngay từ
thuở khai hoang, việc đi lại bằng đường thủy vẫn là phương thức tiện lợi và an toàn
nhất. Nhận biết được lợi thế của giao thông đường thủy, các thương lái đã áp dụng
buôn bán trực tiếp bằng các thuyền ghe trên sông hình thành nên chợ nổi. Và từ đó,
việc sử dụng ghe thuyền làm phương tiện đi lại, vận chuyển hàng hóa đã trở thành
nét văn hóa độc đáo trong đời sống cư dân vùng này.
Ghe thuyền ở Nam Bộ rất đa dạng, phong phú với nhiều kiểu loại khác nhau
như các loại xuồng, các loại ghe, các loại tàu lớn nhỏ. Vì phương thức vận chuyển
bằng đường thủy quá phổ biến nên ở Nam Bộ đã có nghề đóng ghe rất đặc trưng từ
xưa để phục vụ cho nhu cầu đi lại cũng như vận chuyển của người dân, đặc biệt là
trong lĩnh vực mua bán vận chuyển hàng hóa. Và có thể nói Nam Bộ là một vùng
văn minh sông rạch vì môi trường sông nước là yếu tố quan trọng tác động đến
phong tục tập quán, nhận thức, sinh hoạt gia đình, sinh hoạt lao động…và đến nhiều
74
khía cạnh khác nhau trong nhận thức, tình cảm của cư dân. “Ở Gia Định chỗ nào
cũng có thuyền ghe hoặc lấy thuyền làm nhà, hoặc lấy thuyền để đi chợ, thăm bà
con, chở củi gạo, đi buôn bán lại càng tiện lợi” [Trịnh Hoài Đức 1998:148].
Chính vì việc sử dụng thuyền ghe nhiều cho việc buôn bán, đi lại trên sông
rạch nên từ thế kỷ XVII, người dân thương hồ đã đặt ra luật lệ giao thông áp dụng
cho việc đi lại, buôn bán trên sông nước: “Thuyền ghe đầy sông, đi lại đêm ngày,
mũi thuyền, đuôi thuyền liền nhau, cho nên có nhiều khi va chạm nhau làm nát
hỏng thuyền rồi đem nhau đi kiện. Nhưng mà ai phải, ai trái, người nọ đổ cho người
kia, rất khó phán đoán cho đúng sự thực. Bấy giờ điều khiển dinh đồn là tham mưu
Nghi Biểu ra lệnh rằng: Phàm thuyền đi không kể là chiều gió dòng nước thuận hay
nghịch, hãy đến gần nhau đều cùng hô lên “bát” (tục đi sang bên tả mình gọi là cậy,
đi sang bên hữu gọi là bát), thì thuyền của ta đi bên hữu, thuyền của người kia cũng
đi về bên hữu, theo thuận mà lái, chèo để cho dễ đi mà tránh nhau. Nếu đã hô “bát”
mà thuyền kia vẫn còn đi về bên tả không chịu tránh đến nỗi đâm vào nhau bị hỏng
thuyền thì thuyền kia có lỗi. Lại như trong đó còn cãi chưa chịu phục, thì lấy thuyền
nào chở nhẹ thuận dòng cứ thế đi nhanh là trái” [Trịnh Hoài Đức 1998:148].
Có thể đặt ra câu hỏi tại sao ở Nam Bộ lại tồn tại một nét văn hóa giao thông
sông nước với những biểu hiện phong phú đa dạng hơn Bắc Bộ trong khi Bắc Bộ
cũng có hệ thống sông ngòi không ít. Giải thích cho điều này, tác giả Trần Văn Nam
có viết: “Nam Bộ có hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc. Điều này đúng nhưng
chưa đủ. Về mặt thủy học, sông ngòi Nam Bộ theo chế độ bán nhật triều, nghĩa là
trong một ngày có hai con nước lớn ròng. Ví dụ từ 6 giờ sáng, nước sông, kinh, rạch
bắt đầu lớn (nước lên) đến 12 giờ thì nước lớn đến đỉnh điểm. Khi đã đầy nước bắt
đầu ròng (nước xuống), nước xuống đến đỉnh điểm gọi là ròng sát (khoảng 6 giờ
chiều). Như vậy, từ 6 giờ 30 chiều nước bắt đầu lên trở lại và chu kỳ sau thường trễ
hơn chu kỳ trước 30 phút. Khi nước lớn thì dòng nước chảy theo chiều ngược lại
của nước ròng. Quy luật này hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến sinh hoạt vùng sông
nước và ảnh hưởng tới kinh tế của người dân. Người dân sẽ đi lại, vận chuyển hàng
hóa theo hai con nước. Chẳng hạn, khi đi nước lớn khi về nước ròng thì cả hai lượt
75
đều đi nước xuôi cho nên việc chèo xuồng ghe không quá nặng nhọc như cư dân
Bắc Bộ. Ở Nam Bộ, nơi trao đổi hàng hóa, nơi họp chợ thường là những nơi giáp
nước. Hai con kênh cùng đổ vào con kênh thứ ba ở hai đầu mỗi độ nước lớn, khi hai
dòng chảy này gặp nhau thì nước không chảy được nữa. Chỗ gặp nhau đó gọi là chỗ
giáp nước… Mấy đặc điểm nêu trên cho thấy, khi nắm được quy luật vận hành của
dòng nước thì việc dùng các phương tiện giao thông thủy là hết sức tiện lợi” [Trần
Văn Nam 2007:7]. Việc kinh doanh ở chợ nổi là rất năng động do phương thức vận
chuyển bằng tàu, thuyền, ghe rất tiện lợi di chuyển từ chỗ này tới chỗ khác một cách
nhanh chóng. Cách đây hơn 200 năm, phương tiện đi lại chủ yếu của người dân
đồng bằng sông Cửu Long là tàu, thuyền, ghe, xuồng các loại cho thấy tầm quan
trọng của giao thông đường thủy từ trước đến nay.
Đối với giới thương hồ làm ăn ở xa tới thì họ vận chuyển hàng hóa bằng cách
tính buôn chuyến. Một chuyến thuyền gỗ hoặc một chuyến thuyền muối… Họ đi
buôn với số lượng nhiều để tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Đó là một cách hoạt
động kinh doanh phổ biến ở những vùng sông nước. Họ đi bán những thứ mà địa
phương họ sản xuất dư thừa và mua về những thứ mà họ không có. Cứ như thế,
hàng hóa ở đồng bằng sông Cửu Long ít tồn tại sự dư thừa cũng như thiếu hụt về
hàng hóa.
Hiện nay, do đời sống phát triển, ở các chợ cũng đã hình thành cách vận
chuyển hàng hóa đa phương thức, tùy theo cách giao dịch theo nhu cầu của người
mua và người bán. Với cách vận chuyển này, người bán và người mua không cần
phải mua bán một cách trực tiếp mà chỉ cần một cuộc điện thoại, người mua đặt
hàng và người bán sẽ mang tới dù ở xa cách mấy.
Vận chuyển hàng hóa còn thể hiện một nét văn hóa trong kinh doanh đó là áp
dụng nguyên tắc kinh doanh bằng chữ «tín». Do người bán và người mua không
trao đổi một cách trực tiếp nhưng dựa theo đơn đặt hàng, người bán phải thể hiện uy
tín của một doanh nghiệp bằng cách giao đúng mặt hàng, đúng số lượng, đúng lịch
trình mà phải đạt chất lượng. Đó sẽ là tiền đề để có mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa
hai bên.
76
2.4. Tiểu kết Chương 2
Người Việt chúng ta ngay từ xưa đã coi trọng nghề “nông” và kỳ thị nghề
“buôn bán”. Trong bốn tầng lớp “sĩ, nông, công, thương” thì nghề thương (tức là
buôn bán) bị xếp xuống hàng cuối cùng. Có câu: “dĩ nông vi bản, dĩ thương vi mạt”
(lấy nông làm gốc, lấy thương làm ngọn). Những câu nói ấy cũng là tâm lý coi
thường của con người đối với những người làm nghề buôn bán. Thái độ kỳ thị ấy đã
dẫn tới tâm lý người dân gốc nông nghiệp coi “chợ” và tất cả những gì liên quan
đến «chợ» đều là thấp kém, không đáng được quan tâm. Từ đó cũng đã ảnh hưởng
rất lớn tới sự phát triển kinh tế cũng như văn hóa kinh doanh của người Việt và làm
nảy sinh tính trì trệ tự cung tự cấp của sản xuất nông nghiệp truyền thống.
Tuy nhiên, khi đặt chân đến vùng đất Nam Bộ, người Việt đã có một sự tiếp
xúc văn hóa một cách rõ rệt với các tộc người cùng cộng cư trong nước và người
nước ngoài di cư tới. Đặc biệt là văn hóa Trung Hoa – một nền văn hóa gốc nông
nghiệp nhưng lại rất coi trọng thương nghiệp. Từ những ảnh hưởng đó mà người
Việt cũng có một cách nhìn thoáng mở hơn về nghề buôn bán nói chung và «chợ»
nói riêng. Lúc này, nghề buôn bán được khuyến khích rất nhiều ở Nam Bộ và chợ
được coi như một tiêu chuẩn với nhiều tiêu chí để người dân lựa chọn. Người dân
muốn định cư cũng chọn địa điểm nào gần chợ để thuận tiện hơn trong việc mua
bán các vật dụng thiết yếu hàng ngày phục vụ cho đời sống vật chất của họ. Có
câu: “nhất cận thị, nhị cận giang” (nhất là gần chợ, nhì là gần sông) là vậy.
Song, vấn đề họp chợ ở Nam Bộ cũng không chỉ đơn thuần là những cuộc giao
dịch mua bán thông thường mà còn thể hiện những nhu cầu về vật chất và tinh thần
rất đa dạng. Riêng nhu cầu về vật chất ở chợ được thể hiện qua các nhu cầu họp chợ
của người dân cũng như các loại hình chợ, các kiểu họp chợ, cách thức vận chuyển
hàng hóa, nguyên tắc đo lường,…Tất cả các yếu tố này cho thấy, trên nền tảng họp
chợ mang tính truyền thống của người Việt Nam nói chung, thì người dân Nam Bộ
lại tạo thêm cho mình những điểm riêng biệt như: họp chợ trên sông nước, vận
chuyển hàng hóa bằng thuyền ghe, những nguyên tắc đo lường mang tính phóng
khoáng, hào hiệp của những người buôn bán ở Nam Bộ. Ngoài ra, những nguyên
77
tắc này còn thể hiện được văn hóa ứng xử trong kinh doanh trên cơ sở uy tín và
niềm tin với nhau trong hoạt động trao đổi mua bán.
Nhu cầu vật chất ở chợ còn thể hiện qua phong cách mua bán ở chợ. Thực
chất, trao đổi hàng hóa, đối với người bán là mang lại lợi nhuận còn đối với người
mua thì mang lại lợi ích. Để đạt được những mục đích đó, thì người bán và người
mua phải thực hiện những cuộc giao dịch ở chợ trên cơ sở giao tiếp với nhau, những
cuộc giao dịch đó đã hình thành nên phong cách mua bán ở chợ. Phong cách này thể
hiện qua lối ứng xử với nhau trong quá trình mua bán, hay là tâm lý cũng như tính
cách của người mua và người bán. Những phong cách ứng xử đó, cũng có những
mặt tích cực và tiêu cực, có những điều phù hợp và những điều chưa phù hợp trong
trao đổi mua bán. Dĩ nhiên, cuộc sống luôn luôn phát triển, làm nảy sinh những nhu
cầu mới về vật chất cũng như tinh thần, những gì tiêu cực sẽ bị bài trừ, những gì
không còn phù hợp với hiện tại sẽ được thay thế những cái phù hợp hơn. Những
người buôn bán ở chợ Nam Bộ cũng đã khéo léo dung hòa giữa truyền thống và
hiện đại, nhằm thỏa mãn nhu cầu về đời sống vật chất lành mạnh và đẹp mắt hơn.
Tóm lại, trong nhu cầu đời sống vật chất ở chợ của người Việt ở Nam Bộ
không đơn thuần là toàn bộ vấn đề về vật chất, nghĩa là chỉ trao đổi, mua bán, và
cuối cùng là quy ra tiền bạc mà còn thể hiện một lối sống trọng tình cảm, trọng chữ
tín của người bán và người mua. Những yếu tố đó đã làm cho hoạt động kinh doanh
ở Nam Bộ luôn nhộn nhịp, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Góp phần làm
cho nền thương nghiệp Nam Bộ luôn là một vùng đứng đầu trên cả nước.
78
Chương 3
CHỢ TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM BỘ
Chương này tìm hiểu về những giá trị văn hóa đặc trưng ở chợ của người Việt
Nam Bộ, những giá trị văn hóa này có ảnh hưởng như thế nào đối với đời sống của
người dân Nam Bộ nói chung. Bao gồm những nội dung: nhu cầu về chợ; chợ trong
phong tục, tập quan, tín ngưỡng; những kiêng kỵ trong kinh doanh. Đặc biệt là tìm
hiểu rõ nét về văn hóa dân gian ở chợ Nam Bộ thể hiện trong ngôn ngữ giao tiếp ở
chợ; trong văn học nghệ thuật như: đờn ca tài tử, những bài ca dao, bài vè, những
điệu hò, lời ru, lối rao hàng,…Trên cơ sở đó cho thấy được ngoài họp chợ thông
thường thì những hoạt động văn hóa mang tính tinh thần ở chợ của người Việt là
những giá trị vô giá mà người dân Nam Bộ đã tạo dựng được trong quá trình khẩn
hoang và phát triển kinh tế.
3.1. Nhu cầu chợ của người Việt Nam Bộ
Chợ ra đời và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hóa xã hội. Tính chất và
trình độ xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, sự phân công lao động xã hội ngày càng
sâu sắc thì nhu cầu trao đổi hàng hóa ngày càng lớn. Và chợ, với tư cách là nơi trao
đổi hàng hóa, dịch vụ giữa người sản xuất với người sản xuất, giữa người sản xuất
với nhiều tiêu dùng ngày càng phát triển. Như một lẽ hoàn toàn tự nhiên, nói đến
chợ là nói tới nhu cầu mua bán, trao đổi sản phẩm hàng hóa; do vậy, chợ là một bộ
phận cấu thành rất cần thiết và không thể thiếu trong đời sống của người dân. Thông
qua bộ mặt xã hội và tình hình sinh hoạt tại chợ, người ta có thể đánh giá được trình
độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đời sống dân cư của một vùng, địa phương.
Người Việt Nam Bộ ngoài nhu cầu trực tiếp đến chợ để mua bán hàng hóa sản
phẩm, họ còn có nhu cầu gián tiếp là đi chợ để giao tiếp về văn hóa trên nhiều lĩnh
vực và phạm vi khác nhau. Do vậy, chúng tôi chia nhu cầu về chợ làm hai hình
thức: nhu cầu mua bán và nhu cầu văn hóa.
79
3.1.1. Nhu cầu mua bán
Chợ đã đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình lịch sử phát triển kinh tế,
đó là đảm nhận và phân phối sản phẩm đáp ứng nhu cầu sinh sống của con người.
Với vai trò trung gian giữa nhà sản xuất và tiêu dùng, chợ truyền thống cũng đã có
nhiều nỗ lực trong việc tiêu thụ hàng hóa do các doanh nghiệp sản xuất ra.
Thông thường nói đến chợ là nói đến kinh tế hàng hóa, nói đến hình thức giao
thương, nói đến những món hàng mua đi bán lại. Từ những chợ có quy mô nhỏ như
buôn bán các sản phẩm tự cung tự cấp cho đến các chợ đầu mối với quy mô lớn,
siêu thị, trung tâm thương mại mang tầm cỡ quốc tế… tất cả đều mang tính chất
cung cầu hàng hóa. Từ xưa, chợ ra đời với mục đích bán những hàng hóa dư thừa và
mua lại hàng hóa thiếu để cân bằng mức sống và tiêu dùng của con người (xem
Hình 14 và 15). Quan niệm của mỗi người là “dư thừa gì thì mang ra chợ bán, thiếu
gì thì ra chợ mua” và cũng chỉ có chợ mới hội tụ được đầy đủ những sản phẩm cần
thiết để phục vụ cho người dân. Ở bất kỳ thời đại nào, ở nơi đâu, dù nông thôn hay
thành thị thì chợ cũng là nơi thỏa mãn nhu cầu mua sắm của mọi người, nhất là
những người nội trợ lo toan cho sinh hoạt của gia đình; lâu dần nhu cầu mua sắm
hàng ngày ở chợ đã trở thành một thứ không thể thiếu trong đời sống văn hóa của
con người Việt Nam nói riêng cũng như các nước Á Đông nói chung.
Hình 14 + 15. Đến chợ để bán những sản phẩm dư thừa. Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
Đối với người phụ nữ Việt Nam nói chung, đi chợ là một thói quen hàng ngày,
thể hiện sự đảm đang, khéo léo trong việc “nữ công gia chánh” của người phụ nữ
truyền thống. Cho nên người ta đi chợ là để chính tay lựa chọn những sản phẩm
80
sinh hoạt hàng ngày, đặc biệt là những món ăn tươi sống để phục vụ cho bữa cơm
gia đình. Đó là một yếu tố cần thiết để duy trì giá trị văn hóa truyền thống của gia
đình người Việt cũng như gìn giữ hạnh phúc gia đình của người phục nữ. Bởi vì
thông qua nhu cầu mua sắm ở chợ để thể hiện được vai trò và trách nhiệm của
người phụ nữ Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.
3.1.2.Nhu cầu giao tiếp và hưởng thụ văn hóa
Ngoài nhu cầu mua bán trao đổi hàng hóa thì chợ cũng là một nơi phục vụ cho
đời sống tinh thần của người dân rất sâu sắc. Trong lĩnh vực thương mại thì không
có từ nào gần gũi và quen thuộc bằng từ “chợ”. Qua thời gian, chợ chính là nơi
chứng kiến bao biến chuyển, những thăng trầm của lịch sử, là nhân chứng của thời
gian, nên chợ cũng được coi là biểu tượng văn hóa trong đời sống của người dân.
Chẳng xa lạ gì khi chợ Bến Thành là biểu tượng văn hóa của Sài Gòn, chợ nổi Cái
Răng là biểu tượng cho văn hóa thương mại sông nước Cần Thơ, chợ nổi Ngã Bảy
là điểm đến du lịch của nhiều du khách cũng như là đầu mối kinh tế quan trọng của
tỉnh Hậu Giang, v.v…
Chợ là nơi diễn ra hoạt động mua bán nhưng nó cũng là môi trường đòi hỏi có
sinh hoạt văn hóa, thường gọi là “văn hóa chợ”. Thể hiện qua các sinh hoạt như
giao tiếp, ẩm thực, văn nghệ, giải trí…Người Việt không lạ lùng gì khi chứng kiến
những sinh hoạt văn hóa thường nhật ở chợ, đó là những tiếng cười nói vui vẻ, chào
nhau, hỏi thăm nhau rất tình cảm. Thêm vào đó là những âm thanh pha lẫn như rao
hàng, chào hàng, trả giá,…làm nhộn nhịp cả một không gian họp chợ. Trong những
ngày chợ phiên, những người đi chợ còn hẹn nhau để cùng đi, cùng thưởng thức sự
nhộn nhịp của các chợ phiên, hay cùng chia sẽ với nhau những chuyện vui buồn
trong cuộc sống, hỏi han nhau xem hôm nay mua gì, nấu món gì cho gia đình,…tuy
là giao tiếp đơn thuần nhưng lại thể hiện những tình cảm gắn bó giữa người với
người rất sâu sắc, mà chợ chính là cầu nối để những người đi chợ cùng thể hiện nét
văn hóa truyền thống ấy.
Tuy là đi chợ để mua hàng hóa, mua thực phẩm phục vụ cho ba bữa cơm hàng
ngày, nhưng những người đi chợ vẫn thích ăn uống ở chợ, hay còn gọi là “ăn hàng”
81
(xem Hình 17). Cửa hàng ẩm thực dù chỉ là một mái che nhỏ ở góc chợ, với một bộ
bàn ghế nhỏ nhưng người ta lại thưởng thức ẩm thực một cách sảng khoái nhất.
Người đi chợ thưởng thức ẩm thực không chỉ vì mục đích no bụng, mà cốt để thỏa
mãn nhu cầu thưởng thức văn hóa chợ, qua đó họ cảm nhận được cuộc sống thú vị ở
chợ với những câu chuyện đời rôm rả, làm vơi bớt đi những nhọc nhằn, lo toan trong
cuộc sống.
Hình 16: Ngắm hoa ở chợ hoa Nguyễn Huệ. Ảnh từ Internet
Hình 17: Thưởng thức ẩm thực ở chợ. Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
Thêm vào đó, chợ còn là địa điểm tham quan, cảm nhận, thư giãn. Đó là những
nhu cầu giao tiếp văn hóa rất đặc sắc và cần thiết của người dân Nam Bộ. Điển hình
như chợ Hoa Nguyễn Huệ, nằm trên đường Nguyễn Huệ, Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh (xem Hình 16), chợ chỉ xuất hiện khoảng 10 năm trở lại đây và chỉ có vào
dịp Tết Nguyên Đán hàng năm, một hình thức chợ phiên của thành thị. Chợ thường
được chia thành hai khu riêng biệt, một khu dành cho mua sắm các loại hoa và cây
cảnh, một khu dành cho trưng bày, giải trí. Nhưng dường như người ta đến chợ này
để thỏa mãn nhu cầu giải trí hơn là mua sắm. Vì khu trưng bày có đầy đủ các loại
hoa, những bông hoa lại được trang trí và kết thành những hình thù tượng trưng rất
tinh tế, khéo léo và đẹp mắt, thu hút hàng ngàn lượt khách tham quan mỗi ngày.
Đây là con đường trung tâm của thành phố cho nên chợ này còn là một điểm tham
quan ngày Tết rất thú vị của người dân thành phố cũng như ở nơi khác đến.
Ngoài ra, những hoạt động văn hóa dân gian phục vụ cho nhu cầu giải trí ở chợ
cũng thu hút sự chú ý của những người đi chợ. Có những người từ nơi xa tới chợ
Nam Bộ cốt để được chiêm ngưỡng những cảnh buôn bán “lạ mắt” ở chợ nổi miền
82
Tây, được thưởng thức văn hóa nghệ thuật với một màn biểu diễn văn nghệ “nhà
vườn” nào đó như đờn ca tài tử, hò đối đáp… Hình thức này chủ yếu xuất hiện ở
chợ nổi miền Tây Nam Bộ. Người hoạt động biểu diễn cũng chính là những thương
lái hoặc người dân trong vùng. Không lạ lẫm gì khi tới chợ nổi Nam Bộ nếu bắt gặp
một người chèo ghe, ngẫu hứng hát vài câu vọng cổ, hoặc những cô gái từ ghe bên
này hò đối đáp với những chàng trai ghe bên kia. Họ hát đơn thuần là để tự phục vụ
cho đời sống tinh thần của họ, lâu dần trở thành một hình thức văn nghệ đặc biệt
dành cho khách du lịch khi tham quan chợ. Khi đến chợ, người ta còn được chứng
kiến những màn múa võ đặc sắc của những người mãi võ, hoặc được gặp gỡ, giao
duyên với người khác phái,...Chính vì vậy, những nổi hiện nay như Cái Răng (Cần
Thơ), Ngã Bảy (Hậu Giang), Cái Bè (Tiền Giang),…không chỉ là những chợ buôn
bán hàng hóa mà còn là những địa điểm du lịch nổi tiếng và chủ chốt ở miền Tây
Nam Bộ.
Ngày nay, để đáp ứng nhu cầu văn hóa chợ ngày càng cao của người dân,
nhiều đơn vị phối hợp với cách nhà chức trách để tổ chức các “hội chợ” như: “hội
chợ ẩm thực”, “hội chợ triển lãm trưng bày hàng hóa”, “hội chợ hoa”,…mục đích là
quảng bá sản phẩm nhưng lại đáp ứng được nhu cầu giải trí của khách hàng. Có
những hội chợ còn triển lãm các giá trị văn hóa đặc trưng của các nước trên thế giới,
giúp người mua có thể hiểu được giá trị văn hóa quốc tế thông qua các hội chợ này.
3.2. Chợ trong tập quán tín ngưỡng của người Việt Nam Bộ
3.2.1. Tín ngưỡng ở chợ
Trên đường khai hoang mở cõi về phía Nam, lưu dân người Việt từ thế kỷ
XVII đã có cơ hội tiếp xúc với nhiều tộc người bản địa như Chăm, Khơ me, người
Hoa ở Nam Bộ. Sự giao lưu văn hóa tất yếu dẫn đến hiện tượng giao thoa về các tập
quán tín ngưỡng. Do đó, trong đời sống tâm linh, ngoài niềm tin tôn giáo của lưu
dân từng bước được hình thành bên cạnh niềm tin, thần linh chính thống được họ
mang theo từ quê cũ, còn có cả những tín điều mới có sự pha trộn ít nhiều từ tín
ngưỡng của tộc người bản địa. Giao tiếp tín ngưỡng là một quá trình sàng lọc qua
tâm thức, qua nếp sinh hoạt của lưu dân trên vùng đất mới dưới sự tác động của
83
hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể, từ đó đã từng bước hình thành các tập quán tín
ngưỡng mang nét riêng của mỗi địa phương.
Buổi đầu khai hoang ở vùng đất đầy hoang dã, tai họa luôn rình rập xung
quanh, lưu dân người Việt luôn cảm thấy có một sức mạnh vô hình nào đó đang ở
xung quanh họ. Họ mong muốn được bình yên nơi xứ sở lạ lùng này, để được an
toàn mà làm ăn sinh sống nên họ tin là có một vị thần nào đó phù hộ và phải cầu
cúng để gởi gắm niềm tin. Đó là cơ sở hình thành một số dạng sinh hoạt tâm linh
trên vùng đất mới, với miếu thờ Ông Tà, Ông Địa, Bà Chúa Xứ, Hà Bá, Sơn Thần,
Long Vương, Bà Thủy, Thần Thành Hoàng… Tùy từng lĩnh vực và tùy từng vùng
mà họ thờ một vị thần linh nào đó.
Trong lĩnh vực kinh doanh buôn bán, những người thương lái, mong muốn lớn
nhất trong kinh doanh là lợi nhuận, sự phát tài và may mắn.Cho nên, trong nhà
người thương lái nào hầu như cũng có bàn thờ cúng Thần Tài và Ông Địa (trừ
những gia đình tín ngưỡng Thiên Chúa giáo hoặc đạo Hồi, đạo Tin Lành). Thương
nhân người Việt có niềm tin vào Ông Địa rất lớn vì họ cho rằng chính Ông Địa là vị
thần mang đến sự trù phú cho đất đai, an cư cho nơi ở, cho nên dân gian có câu:
“An cư lập nghiệp”. Khi có sự an cư, họ mong muốn làm ăn được phát tài, mang
đến sự giàu sang, phú quý nên Thần Tài là vị thần mà người dân quan niệm mang
đến cho họ sự giàu sang đó. Họ thờ cúng Thần Tài chung một bàn thờ với Ông Địa.
Các thương lái buôn bán sạp tại chợ thì họ đặt bàn thờ Thần Tài và Thổ Địa tại quầy
sạp, nơi họ buôn bán. Một số nơi quan niệm ngày mùng hai, ngày mùng mười và
ngày mười sáu âm lịch trong tháng là những ngày quan trọng để thờ cúng và cầu
mong phát tài. Những ngày này, người kinh doanh thường cúng dĩa “tam sên” bao gồm
một miếng thịt nhỏ, một con tôm, một trái trứng vịt cho Thần Tài và Thần Thổ Địa.
(xem Hình 18 + 19).
Một số nơi ở Nam Bộ lại thờ cúng Bà Chúa Xứ để cầu tài trong làm ăn buôn
bán. Theo Nguyễn Hữu Hiếu trong Văn hóa tâm linh Nam Bộ thì “Bà chúa Xứ núi
Sam ở Châu Đốc, nơi thu hút đông đảo khách hành hương nhứt ở Nam Bộ, dù được
cải biên, tạo tác từ một tượng nam thần Vishnu của Ấn Độ giáo, nhưng lại được một
84
bộ phận khá lớn người Việt Nam Bộ tin đó là một nữ thần có quyền năng phù hộ
mọi người trong việc làm ăn buôn bán và cầu cúng bà như một vị thần tài” [Nguyễn
Hữu Hiếu 2004:18].
Hình 18. Bàn thờ Thần tài và Ông Địa Hình 19. Dĩa tam sên. Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
Ngoài thờ cúng các vị Thần Tài, Thổ Địa, hay Bà Chúa Xứ… ở tại nhà,
người Việt cũng thường có thói quen hay đi tới chùa để cúng giải hạn, cầu an, xin
xăm vào những ngày đầu năm, hoặc trong cả tháng tháng Giêng âm lịch hàng năm.
Họ quan niệm: tháng Giêng là tháng đầu năm, cần phải tới chùa để cầu xin một năm
mới cho cả gia quyến được mạnh khỏe, tránh khỏi tai họa, và đặc biệt làm ăn gặp
nhiều may mắn, “mua may bán đắt”. Một số người không quên rút cho mình một lá
xăm để xem trước một năm mới này có may mắn hay không, nếu trong lá xăm
không được may mắn, họ sẽ cúng để giải hạn, cầu an, mong tránh hết những xui xẻo
trong năm.
Theo khảo sát thực tế của chúng tôi, không chỉ trong dân gian mà ngay cả
trong hệ thống các siêu thị ở Nam Bộ, đặc biệt là tại Tây Nam Bộ, vào các ngày
mùng hai và mười sáu âm lịch hàng tháng, người ta vẫn tổ chức cúng để cầu mong
có nhiều khách đến siêu thị mua hàng.
Ngoài ra, các ngày mười sáu tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười âm lịch
được coi là ngày giới kinh doanh tổ chức cúng cô hồn rất trọng thể với ý nghĩa cúng
85
thí vong linh và cầu mong các vong linh oan khuất ấy sẽ không quấy phá mà ngược
lại sẽ phò hộ cho họ buôn may bán đắt. Lễ vật cúng ngoài hương đăng, trà bánh,
gạo muối không thể thiếu thì tùy theo quy mô kinh doanh của từng người mà còn có
heo quay, vịt quay, cháo vịt hay cháo trắng và các loại bánh dành cho trẻ con do họ
quan niệm cúng cô hồn là chủ yếu cúng cho các vong linh chết lúc còn non trẻ (xem
Hình 20). Ngoài ra, mỗi khi cúng cô hồn vào các ngày kể trên, người ta còn đốt giấy
tiền vàng bạc, các bộ đồ thế gọi là gửi tới cô hồn với quan niệm các vong linh ấy sẽ
có cái ăn, cái mặc mà phò hộ cho người kinh doanh.
Chúng tôi đã ghi chép thực tế lại một lần cúng cô hồn của một hộ kinh doanh
tại Chợ Lách – Bến Tre như sau:
“Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật. Hôm
nay là ngày mười sáu tháng Bảy năm Tân Mão, nhằm ngày mười lăm tháng Tám
năm 2011. Tôi tên Nguyễn Thị An, sinh năm Bính Ngọ, được 46 tuổi; hiện đang
sống tại tổ 1, ấp Bình Cang, xã Long Bình, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre; có dâng
cúng lễ mọn gồm hương hoa trà bánh, giấy tiền, cháo trắng, gạo muối.
Hôm nay, tôi kính thỉnh mời
các vong hồn chết oan chết ức,
không nhà không cửa, không mẹ
không cha, không người cúng
kiến; các vong hồn xiêu mồ lạc
mả, chiến sĩ tử vong, đồng bào tử
nạn, hà xa ngạ quỷ, thập nhị loại
cô hồn đang lẩn khuất trong khuôn
viên Tổ 1, ấp Bình Cang, xã Long
Bình, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến
Tre; có linh thiêng xin các ông các bà về đây chứng giám lòng thành của tôi, nhậm
chút lễ mọn phù hộ trong nhà trong cửa tôi được bình an, mạnh giỏi, làm ăn gặp
nhiều thuận lợi, mua may bán đắt, có tiền có của để lo cho gia đình. Đến lệ, tôi lại
dâng cúng cho mấy ông, mấy bà.
Hình 20. Mâm lễ cúng cô hồn tại hộ kinh doanh của bà Nguyễn Thị An, Chợ Lách, Bến Tre
Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
86
Nam mô A Di Đà Phật. Nam mô A Di Đà Phật. Nam mô A Di Đà Phật”.
Riêng người làm nghề thương hồ bởi do cuộc sống thường rày đây mai đó,
lênh đênh từ chợ nổi này đến chợ nổi khác, vùng này đến vùng khác, đời sống tín
ngưỡng lại có nét riêng. Họ có muốn đi chùa lễ Phật cũng khó, nên thường bố trí
một bàn thờ Phật trên thuyền của họ. Ngoài ra họ còn thờ Bà Thủy (Thủy Long), Bà
Cậu, Thần Tài… với mong muốn được may mắn, thoát khỏi tai ương, có nạn sẽ
được “bề trên” che chở. Những ngày sóc vọng trong tháng họ thường mua hoa tươi,
bánh trái để cúng. Cũng như trên bờ, ngày làm ăn đều cúng vào ngày mùng hai và
mười sáu âm lịch trong tháng.
Theo tín ngưỡng của giới thương hồ, có việc gì họ cũng thường hay khấn vái
Bà Thủy hoặc Hà Bá, là những vị thần cai quản khúc sông nơi họ buôn bán, theo họ
thì rất linh thiêng. Nếu xảy ra xung đột trong kinh doanh mà không có hướng giải
quyết họ thường hay thề là có Bà Thủy, Hà Bá làm chứng cho sự trong sạch không
gian lận của họ.
Do đặc thù của thương hồ là chuyên mua bán trên sông, tận dụng dòng chảy
của thủy triều để vận chuyển nên họ rất tin vào vận may, những từ ngữ “hên xui”,
“may rủi” luôn được người dân thương hồ nhắc tới. Họ cho rằng, buôn bán trên
sông là nghề “Bà Cậu”, “đầu xuôi đuôi lọt”, họ rất muốn mua nhanh bán nhanh,
mua may bán đắt, nên khi khách xuống ghe mua hàng, bao giờ họ cũng đón tiếp rất
niềm nở, lịch sự và thân thiện; thao tác của họ rất nhanh nhẹn, không để người mua
phải đợi lâu. Vào mỗi buổi sáng sớm, họ cầu mong được gặp một người mở hàng có
duyên cho một ngày bán đắt, để lấy sự may mắn. Vào sáng sớm, lúc mới dọn hàng
ra, nếu có người đến mua đầu tiên, người bán thường nói sát giá để người mua có
thể mua mở hàng giúp mình để cầu may cho cả ngày hôm đó.
Với người thương hồ, do môi trường sinh sống làm ăn cả đời trên dòng sông,
cho nên họ có cách sống phóng khoáng, không buôn gian bán lận. Khác với người
làm nghề chài lưới bắt cá, bắt tôm… dù họ có chung môi trường hành nghề trên
sông, nhưng giới thương hồ cho rằng họ chỉ nương theo dòng nước mà làm ăn, chứ
không khai thác dòng nước, con sông để sinh sống theo kiểu “đâm Hà Bá”, nên
87
trong suy nghĩ của họ thường thoáng và thoải mái hơn. Thậm chí ngay trước tiệc
nhậu, bao giờ họ cũng rót đầy một ly rượu mời Hà Bá, bằng cách tưới rượu xuống
dòng sông, một lối ứng xử rất “văn hóa tâm linh” trên chợ nổi [Nhâm Hùng: 2009]
Tín ngưỡng trong kinh doanh là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống tâm linh của người dân Nam Bộ. Nhờ vào tín ngưỡng mà họ có niềm
tin vào một thế lực vô hình nào đó, điều này phần nào đã góp phần tích cực vào việc
duy trì nét văn hóa tâm linh của người buôn bán nói chung. Qua đó, phần nào tránh
được những gian lận trong kinh doanh, khi mà người thương lái nào cũng quan
niệm “ông trời có mắt”, hay một vị thần linh nào đó luôn dõi mắt vào những hành vi
của họ và phán xét họ nếu họ có gian dối trong mua lường bán gạt.
3.2.2. Tập quán kiêng kỵ trong kinh doanh ở chợ
Yếu tố tâm lý ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của người bán, do đó hình
thành những tập quán kiêng kỵ trong kinh doanh. Ở Bắc Bộ, khi đi buôn bán người
ta kiêng ra ngõ gặp đàn bà con gái, hoặc bước chân đầu tiên phải là chân phải để
“đầu xuôi đuôi lọt”. Ở Nam Bộ, ít có những kiêng kỵ thái quá như ở miền Bắc, tuy
nhiên cũng có một vài tục kiêng kỵ trong đó có tục đốt “phong long”.
Tục đốt phong long là một trong những tục kiêng kỵ trong kinh doanh của
người Việt Nam nói chung và người Nam Bộ nói riêng. Ở miền Bắc gọi tục đốt này
là “đốt vía”, ở miền Nam thì gọi là “đốt phong long”. Với người bán, người mua mở
hàng đầu tiên vào sáng sớm là đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình kinh
doanh và thành quả buôn bán của cả ngày hôm đó. Nếu người đi chợ vào sáng sớm
mà hỏi mua một món hàng nào đó, đã trả giá mà không mua lại bỏ đi sang gian
hàng khác; lúc ấy người bán sẽ thực hành đốt phong long để xua đi sự xui xẻo mà
người mua mang tới.
Thực hành đốt phong long rất đơn giản và được thể hiện bằng nhiều hình thức
khác nhau tùy theo hoàn cảnh thực tế của người bán hàng mà đốt phong long sẽ
được thực hiện ở dạng nào. Có thể kể ra vài hình thức đốt phong long như sau:
Theo cách đốt phong long truyền thống, người ta chỉ cần lấy một miếng giẻ cũ rách,
88
một miếng giấy nháp đốt và vứt đi coi như đã xua đi đen đủi. Nhưng hiện nay, việc
hỏa hoạn ở chợ rất dễ xảy ra cho nên Ban quản lý chợ sẽ bắt phạt nếu thấy đốt giẻ,
giấy đem vứt như thế. Chính điều này trở thành nguyên nhân nảy sinh nhiều hình
thức đốt phong long tiện lợi hơn nhiều. Thí dụ, người ta dùng khoảng vài ba trái ớt
chín đỏ, cầm huơ huơ trước quầy hàng của mình, vừa lẩm bẩm những lời cầu mong
cho có người đến mua hàng, sau đó họ bẻ các trái ớt ra làm ba, làm bốn rồi rải lên
trên hàng hóa của mình để cầu may mắn (xem Hình 21). Linh hoạt hơn, họ không
đốt giấy, không bẻ ớt thì dùng dây nylon cắt ra từng đoạn ngắn (có người không sử
dụng dây nylon thì dùng bao xốp cắt nhỏ ra) rồi thắt gút lại rải lên hàng hóa của mình.
Tục này là một tục mà bất
cứ người thương lái nào cũng áp
dụng ở chợ, cũng như một luật
tục bất thành văn vậy. Tục đốt
phong long tuy mang tính truyền
thống về tâm linh nhưng lại là
một hủ tục kém văn hóa nên
chăng cần phải loại bỏ trong văn
hóa kinh doanh của người Việt
nói chung và người Việt Nam Bộ nói riêng. Bởi từ những hủ tục kém văn hóa này
sẽ gây nên nhiều những sai lầm đáng tiếc như ẩu đả, xung đột giữa người bán và
người mua. Nó trái ngược hẳn với lối ứng xử cởi mở, linh hoạt và trọng tình của
người dân Việt. Đó là cách đuổi khách đi vĩnh viễn và quan trọng hơn là một trong
những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường bởi khói và cũng là một nguyên nhân
gây cháy chợ.
Ngoài ra, người Việt Nam Bộ rất kiêng kỵ việc mới dọn hàng ra có người đến
trả giá mà không mua. Do tâm lý rất xem trọng người mở hàng cho nên người đầu
tiên đến xem hàng và trả giá thì chủ hàng cố gắng phải bán, cho dù có những lúc giá
cả có thiệt chút ít nhưng họ vẫn bán vì tin rằng có như thế thì sự mua bán ngày hôm
ấy mới dễ dàng hơn. Điều này cũng gây tâm lý cho người mua sợ mình là người mở
Hình 21. Bẻ ớt rắc lên hàng để cầu may Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
89
hàng mà “nặng vía” thì thiệt thòi cho chủ hàng. Do vậy mà cũng có trường hợp
người mở hàng không dám trả giá, chủ hàng nói bao nhiêu thì mua bấy nhiêu.
Những kiêng kỵ này dẫn tới hiện tượng có những chủ hàng “đặc cách” khách hàng
của mình hàng ngày cứ đến mua mở hàng dùm và chỉ lấy có một nửa giá tiền, vì họ
cho rằng những người này hạp với mình nếu được họ mở hàng thì cả ngày sẽ bán
được nhiều và thu lời dư để bù vào cái mà mình đã bớt cho người mở hàng.
Tại chợ và trong một số tiệm tạp hóa bán tại nhà, người chủ tiệm hoặc chủ của
cơ sở mua bán còn có sự kiêng kỵ với người mua trong trường hợp trời vừa sụp tối
(dân gian hay dùng từ trời chạng vạng để chỉ khoảng thời gian này) có người đến
tiệm hoặc cửa hàng mua kim chỉ. Lúc ấy, ngoại trừ các cửa hàng thuộc dạng chuyên
kinh doanh mặt hàng phụ liệu may mặc, còn tất cả các tiệm tạp hóa bình thường
khác sẽ tức khắc từ chối ngay, bởi họ tin rằng nếu bán kim chỉ trong thời điểm này
sẽ có điều không may xảy đến với cửa hàng mình. Nhưng qua thời khắc đó, lúc trời
đã tối hẳn thì việc mua bán kim chỉ lại diễn ra bình thường.
Về phía người mua, vấn đề kiêng kỵ khi mua hàng ở chợ là rất ít, ta chỉ có thể
bắt gặp một vài trường hợp mà không phải đại đa số. Một số người kiêng mua hàng
với số lượng nhiều vào ngày đầu tháng (mùng 1 âm lịch), họ kiêng “xuất tiền” vì sợ
bị “dông” cả tháng. Một số người lại kiêng kỵ ăn thịt vịt, cá mè, xôi trắng, thịt chó
vào ngày đầu tháng vì sợ xui cả tháng, nên những ngày đầu tháng họ thường không
mua những món hàng này ở chợ. Một bộ phận khác (chủ yếu bắt gặp ở người Hoa),
họ không mua hàng với số lượng là 4 (ví dụ 4 quả cam, 4 con cá…) vì họ cho rằng
số 4 là số tử, không mang lại may mắn trong cuộc sống của họ.
3.3. Chợ trong văn hóa dân gian của người Việt Nam Bộ
Trong một vài loại hình văn hóa dân gian như ca dao, dân ca, điệu hò, điệu hát
ru thì chợ Nam Bộ vừa là nguồn cảm xúc của con người vừa là nơi để họ giải bày
tâm sự, nó làm cho văn hóa dân gian Nam Bộ giàu tính trữ tình hơn. Và bối cảnh
chợ Nam Bộ là một trong những yếu tố khiến cho bức tranh nghệ thuật dân gian có
những thay đổi, có những nét khác lạ và đặc sắc đó. Sau đây là một vài thể loại văn
90
hóa dân gian Nam Bộ đã nói lên cái hồn của chợ Nam Bộ cũng như nghề thương lái
của người dân nơi đây.
3.3.1. Chợ Nam Bộ trong ngôn ngữ giao tiếp
Có thể nói, hình ảnh chợ với nhưng đặc trưng mua bán của giới kinh doanh từ
tiểu thương cho đến những nhà doanh nghiệp lớn đã trở thành hình ảnh thân quen
trong lòng người Việt. Thân quen, gần gũi đến mức trở thành biểu tượng chung để
chỉ cho một hành động của con người trong dân gian. Đặc biệt, với người Việt Nam
Bộ, trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, việc liên tưởng đến chợ trở nên phổ biến
và thường xuyên được sử dụng trong các tình huống rất lý thú khiến cho người từ
nơi khác mới đến không khỏi ngẩn ngơ trước cách dùng từ của người Việt xứ này.
Người ta hay dùng từ “đồ hàng tôm, hàng cá” để mắng mỏ nhau khi giao tiếp
mà một trong hai bên đã có thái độ thái quá, thiếu kiềm chế lớn tiếng hoặc nói
không đúng với sự thật. Trường hợp con cái trong gia đình (thậm chí cá nhân trong
một tập thể, đơn vị nào đó) có thái độ vô kỷ luật, không nề nếp, hành động tự do
không tuân thủ theo một phép tắc, quy định nào cả thì người ta hay bảo: “Đây
không phải là cái nhà lồng chợ mà muốn ra vô, làm việc thế nào tùy ý”; hoặc đuổi
thẳng: “Dọn ra ngoài nhà lồng chợ mà ở”. Những lúc tức giận, cãi vã người ta lại
dùng các từ có liên quan đến hoạt động ở chợ để thóa mạ nhau. Thí dụ trong quá
trình giao tiếp, nếu như ai đó có hành vi, thái độ vô lễ, lời nói không đúng mực với
người khác lập tức sẽ bị mắng lại một câu mang đầy hình ảnh chợ: “Đồ đá cá, lăn
dưa”. Người ta cũng thường né tránh, không gây gỗ, cự cãi, hiềm khích với những
người hung tợn, thích dùng vũ lực và nói nhỏ với nhau hãy tránh “dân chợ búa” đó.
Hình ảnh “đầu đường xó chợ” cũng được dân gian Nam Bộ dùng để ám chỉ những
người sống lôi thôi, nhếch nhác, thích lê la. Đôi lúc, câu nói:“Ồn ào như vỡ chợ”
được dùng để chỉ sự bực bội, khó chịu trước những âm thanh ồn ào, khó chịu, gây
phiền toái.
Trong cuộc sống thường nhật, có những người do đặc thù của công việc hoặc
do hoàn cảnh đặc biệt nào đó mà họ hiếm khi có được bữa cơm thân mật tại nhà, lại
thường xuyên ăn ở hàng quán, nếu có ai hỏi thăm họ thường dùng từ “cơm hàng
91
cháo chợ” để nói về tình cảnh kém vui của mình. Còn những người có cảnh đời suốt
ngày tất bật mua bán ngoài chợ, ngoài đường kiếm kế sinh nhai thì dân gian hay
dùng từ “chạy chợ” để nói lên sự bươn chải trong cuộc sống của họ. Những lúc thời
tiết ảm đạm hay không khí trong một không gian xác định nào đó buồn bã thì người
ta dùng từ “chợ chiều” để chỉ cảnh không đông vui, náo nhiệt. Còn chỉ sự không
cần thiết của một cá nhân nào trong cộng đồng thì có câu cửa miệng: “Không có mợ
thì chợ vẫn đông”.
Khoảng vài chục năm gần đây, người tiêu dùng mới thường xuyên dùng đến từ
chất lượng để chỉ độ bền của hàng hóa; chứ trước đây và cho đến nay, trong dân
gian Nam Bộ, người ta vẫn sử dụng phổ biến từ “hàng chợ” để chỉ các loại hàng
hóa chất lượng kém để so sánh với “hàng đặt” - là loại hàng hóa được đặt theo yêu
cầu của người mua và độ bền chắc, vẻ đẹp của hàng hóa được người mua xem trọng
mà không hề đặt nặng vấn đề giá cả.
Ngoài ra, mỗi khi muốn nắm bắt thông tin gì sao cho đầy đủ, chi tiết nhất thì
cứ “ra chợ mà hỏi”, điều này có nghĩa chợ trở thành nơi cung cấp, truyền tải thông
tin nhanh nhất đến nhiều thành phần xã hội với số lượng nhiều nhất bằng phương
tiện truyền miệng. Và trong các điều tra xã hội học, để nắm bắt thông tin chuẩn xác,
chúng ta có thể đến bất kỳ một ngôi chợ nào đó và kết quả thu về mang tính khách
quan rất cao bởi nơi đây có nhiều thành phần xã hội tới lui với những mục đích
khác nha phụ thuộc vào nhu cầu của họ.
3.3.2. Chợ Nam Bộ trong văn học nghệ thuật
• Qua ca dao, tục ngữ, bài vè
+ Ca dao
Từ lâu, trong tâm thức của người Việt, chợ là một trong những môi trường đào
luyện con người tốt nhất, bởi ở đó, phẩm chất của người phụ nữ được thể hiện rõ
nét qua sự giao tiếp dịu dàng và khôn khéo trong quá trình mua bán tìm kiếm lợi
nhuận về nuôi sống gia đình. Mặt khác, cũng chính ở chợ, phong thái của người phụ
92
nữ có dịp lộ rõ mà không có sự che đậy, cũng vì thế mà các bà mẹ nông thôn thích
đến chợ tìm dâu cho con trai nhà mình. Dân gian có câu:
Trai khôn tìm vợ chợ đông
Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.
Hay: Con ơi, mẹ bảo con này
Học buôn, học bán cho tày người ta.
Chứ đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
Môi trường sông nước là nhân tố khá quan trọng tác động đến phong tục, tập
quán, nhận thức, sinh hoạt gia đình, sinh hoạt lao động và nhất là tác động đến
nhiều khía cạnh văn hóa khác nhau của cư dân. Trong đó những câu ca dao, dân ca
lại thể hiện khá rõ nét sự đan xen giữa văn minh sông nước và văn hóa miệt vườn.
Những câu ca dao, dân ca chủ yếu xuất hiện ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long,
nơi sông nước mênh mang rất phù hợp với những bài ca dao trọng tình và đầy ý
nghĩa. Có thể nói chợ nổi ở miền Tây nhiều đến mức ở đâu có sông là ở đó có chợ,
dù chỉ là một chợ nhỏ với vài chiếc thuyền buôn bán. Thế nhưng, chỉ bấy nhiêu thôi
cũng đủ để khắc họa được nét văn hóa độc đáo của văn minh miền sông nước.
Bên dưới có sông, bên trên có chợ,
Hai đứa mình kết vợ chồng nghen.
Hay: Chợ Ba Tri thiếu gì cá biển
Anh thương nàng, anh nguyện về đây.
Hoặc: Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu, anh còn say sưa.
Đời sống thương hồ với sự phóng khoáng, vui vẻ, người làm nghề thương hồ
luôn tỏ ra yêu đời dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù khó khăn thế nào bởi họ cho rằng:
Đạo nào vui bằng đạo đi buôn
Xuống biển lên nguồn gạo chợ nước sông.
93
Nói về đồng bằng sông Cửu Long, có lẽ hình ảnh những dòng sông, kinh rạch
với con nước lớn, nước ròng có những xuồng ghe xuôi ngược, những cầu tre, những
hàng dừa…trong đó có hình ảnh chợ và sự sung túc, vui vẻ của buổi họp chợ. Đó là
thành quả của nhiều người dân thương hồ. Tuy đời sống thương hồ có nhiều niềm
vui, sự phóng khoáng nhưng đôi lúc cũng không tránh khỏi những cảnh khổ cực,
những khó khăn trong nghiệp buôn bán trên sông nước để kiếm sống, và chính họ
đã góp phần tạo nên sự nhộn nhịp của một phiên chợ sung túc ở miền Tây Nam Bộ.
Người dân thương hồ đã mượn những câu ca dao để nói về nghề nghiệp bán buôn của
chính họ mỗi khi họ chèo ghe và đối mặt với những dòng chảy của sông nước:
Phong Điền chợ nổi trên sông
Bồng bềnh mặt nước chợ đông sớm chiều.
Hay:
Chèo ghe đi bán cá vồ,
Nước chảy ồ ồ chẳng thấy ai mua.
Chèo ghe đi bán lòng tong,
Nước chảy ròng ròng chẳng thấy ai mua.
Hay:
Bên này sông em bắc cây cầu mười tấm ván
Bên kia sông em lập cái quán mười hai từng1
Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng đợi anh.
Trong dân gian, cũng có câu ca dao nói về sự khen chê của người đời lúc thế
cùng cũng đành phải chấp nhận hoàn cảnh:
Buổi chợ đông, con cá hồng, chê lạt
Buổi chợ tàn, con tép bạc cũng mua.
Hoặc:
Chê đây, lấy đấy sao đành
Em chê cam sành, lấy phải quít hôi
Quít hôi bán một đồng mười
1 Từng: tầng, đây là cách nói của người Việt Tây Nam Bộ
94
Cam ba đồng một, quít ngồi trơ trơ.
Hay:
Có mợ thì chợ cũng đông
Mợ đi lấy chồng thì chợ vẫn vui.
Kinh nghiệm mua bán của con người có câu:
Gà đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua
Gà trắng chân chì, mua chi giống ấy.
Còn phê phán thói trăng hoa của con người, dân gian cũng không quên dành
những lời cảnh tỉnh:
Gái lấy trai, đúng là gái dại
Trai lấy rồi, trai lại bán rao.
Trong các câu ca dao nói về chợ, thì thường tên của chợ lại gắn chặt với địa
danh của nơi đó. Cách gọi tên này thường làm cho người ta dễ nhớ và khi nói đến
tên chợ đó là người ta nghĩ ngay tới đặc điểm như: Chợ Bàm, Chợ Cua, Chợ Dinh,
Chợ Đệm, Chợ Gạo, Chợ Rẫy, Chợ Thơm, Chợ Vải, Chợ Xép, Chợ Cái Bè… Theo
Nguyễn Văn Trần thì “nghe cái tên mà mường tượng những cái chợ chưa vượt ra
ngoài một lãnh vực thiên nhiên, một cái cụm, một cái lùm, một khúc sông” [Nguyễn
Văn Trấn 1985:159]. Kiểu định danh này phải chăng phản ánh xu hướng lập làng từ
yêu cầu nhóm chợ, để rồi từ những chợ này dần sẽ hình thành các xóm, ấp. Đây
chính là điểm giao lưu, trao đổi mua bán và dần không chỉ trở thành nơi định cư mà
còn có tác dụng mời gọi cư dân từ nhiều nơi khác đến.
Ai về Ba Vát, chợ Thơm,
Ruộng mùa lúa tốt, cây vườn xanh tươi.
Hoặc:
Ai về Gia Định thì về,
Nước trong gạo trắng dễ bề làm ăn,
Hay:
Cần Thơ gạo trắng nước trong,
Ai về xứ bạc thong dong cuộc đời.
95
Cần Thơ là một địa danh nổi tiếng với các chợ nổi lớn như Cái Răng, Phong
Điền. Những chợ nổi này đã đi vào lòng người và hầu như bất kỳ một du khách nào
tới Cần Thơ cũng được nghe văng vẳng đâu đây câu ca dao:
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Sáng, Phong Điền,
Anh thương em thì cho bạc cho tiền,
Chớ cho lúa gạo xóm giềng cười chê.
Và: Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Anh có thương em, xin sắm một con đò
Ðể em qua lại mua cò gởi thơ.
Thời vụ mua bán cũng được dân gian thể hiện bằng ca dao:
Chanh chua thì khế cũng chua
Chanh bán có mùa, khế bán quanh năm
Môi trường sông nước, hoàn cảnh sinh hoạt làm nên đặc trưng của chợ, từ đặc
trưng của chợ mà người dân lại sáng tạo ra những câu ca dao đi vào lòng người và
được truyền tải từ đời này sang đời khác.
Chiều chiều vịt lội, cò bay,
Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng.
Vô rừng bứt một sợi mây,
Đem về thắt gióng cho nàng đi buôn.
Đi buôn, đi bán kiếm lời...
Hay:
Cần Thơ là tỉnh
Cao Lãnh là quê
Anh đi lục tỉnh bốn bề
Mải lo buôn bán không về thăm em.
Hay nỗi âu lo về trách nhiệm của mình với gia đình của người phụ nữ:
Trắng da vì bởi phấn rồi,
Đen da vì bởi em ngồi chợ trưa.
96
Chợ trưa thì mặc chợ trưa,
Chỉ lo cha mẹ vẫn chưa vừa lòng.
Hay:
Cậu cai buông áo em ra
Ðể em đi chợ kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa dưa nó héo đi
Lấy chi nuôi mẹ, lấy gì nuôi em?
Hoặc:
Chân đi ba bước lại dừng
Tuổi em còn bé chưa từng đi buôn
Ði buôn cho đáng đi buôn
Ði buôn cau héo có buồn hay không?
+ Tục ngữ
Trong dân gian cũng có rất nhiều câu tục ngữ phản ánh mối quan hệ xã hội
giữa người và người như: Bán anh xa, mua láng giềng gần hay Bán vợ, đợ con.
Ngoài ra, còn có những câu tục ngữ minh chứng cho thói bất cần đời của một số ít
người có lối sống thiếu chín chắn, kém suy nghĩ như: Bán trời không mời thiên lôi
hay Bán trời không cần văn tự. Nói về giai đoạn của một đời người hay sự hên xui
trong làm ăn, mua bán có câu: Buôn gặp thời, câu gặp chỗ hay là: Có tiền mua tiên
cũng được. Khi nói về kiếp sống lênh đênh của giới thương hồ, tục ngữ có câu: Gạo
chợ, nước sông, củi đồng, nồi đất.
+ Bài vè
Ngoài ra, với tính cách phóng khoáng, lạc quan của mình, người Việt Nam Bộ
thích đặt những bài vè về các hoạt động thường ngày của mình, trong đó có cả bài
vè đề cập đến tên của các ngôi chợ ở Nam Bộ dưới tên gọi Vè chợ Lục tỉnh:
Cái chợ đầu đàng, kêu là Chợ Lớn.
Ba con đường lớn là chợ Sài Gòn.
Lắm vợ nhiều con là chợ Bình Đông.
97
Ăn nó no lòng đó là Chợ Gạo.
Cái thời lộn xạo là chợ Bình Tây.
Có lá trên cây là chợ Gò Xoài.
Chợ không có dài là chợ Suối Cụt.
Năm đồng một chục là chợ Trà Cao.
Chợ không có cau là chợ Tân An.
Chợ không có làng là chợ Đất Hộ.
Năm đồng một tộ là chợ Xóm Bún.
Chợ không nên cúng là chợ Lái Thiêu.
Vắng mẹ nó kêu là chợ Bến Nghé.
Chợ đi hay té là chợ Gò Vấp.
Chợ không ăn cắp là chợ Trung Chánh.
Chợ không gánh gánh là chợ Xóm Bưng.
Chợ đi bốn chân là chợ Đồng Nai.
Chợ không có ngay là chợ Bà Quẹo.
Chân đi lặc lẹo là chợ Bến Cầu.
Có đuôi có đầu là chợ Bến Cá.
Có dây có lá là chợ Gò Dưa.
Con gái ngủ trưa là chợ Bến Nẩy.
Chợ không cãi lẫy là chợ Biên Hòa.
Chợ không đàn bà là chợ Cầu Ông Lãnh.
Tối ngủ không lạnh là chợ Xóm Chiếu.
Con ở có hiếu là chợ Nhà Thờ.
Lính trang nghiêm giờ là chợ Thôn Tra.
Bất hiếu mẹ cha là chợ Bến Đũi.
Năm đồng một bụi là chợ Giồng Ông Tố.
Đụng đến máu đổ là chợ Thủ Đức.
Bán không đủ sức là chợ Kỳ Son.
Chao mẹ thương con là chợ Mỹ Lồng.
Đàn bà chết chồng là chợ Rạch Giá.
98
Có cây không lá là chợ Trảng Bàng.
Gần tỉnh gần làng là chợ Tây Ninh.
Chợ đi bùng binh là chợ Võng Dù.
Bò kéo đít tru là chợ Bến Cát.
Mần ăn phát đạt là chợ Bến Thành.
Quấn buộc không rành là chợ Bến Súc.
Hay thúc hay giục là chợ Cà Mau.
Ở xứ nhiều lau đó là chợ Lách.
Bán nồi bán trách là chợ Tri Tôn.
Học khéo học khôn là chợ Trường Bình.
Trống mõ thình thình là chợ Châu Đốc.
Tánh hay nói dóc là chợ Tầm Vu.
Súng nổ liên tu là chợ Hộ Phòng.
Nay nói lòng vòng đó là vè chợ.
Và đây là một bài vè khác về chợ với tên gọi: Vè chợ
Nghe vẻ nghe ve nghe vè cái chợ
Sớm mai xách rổ đi giáp một vòng
Hàng hóa mênh mông kêu bằng Chợ Lớn
Thiên hạ phát ớn là chợ Bình Đông
Ấm bụng no lòng thì đi Chợ Gạo
Thiệt là huyên náo là chợ Bến Thành
Xúm nhau giựt giành là chợ Bến Tranh
Ăn ở hiền lành đi chợ Thủ Đức
Tối mò như mực là chợ Gò Đen
Cẳng bước không quen là chợ Gò Vấp
Khỏi lo đèn tắt là chợ Gò Dầu
Sợ má đợi lâu đi chợ Bà Quẹo
Không trì cũng kéo là chợ Bến Tre
Chợ mà vắng hoe kêu bằng chợ Đuổi
Ăn mặn như muối là chợ Cầu Kho
99
Nấu nướng khỏi lo là chợ Xóm Củi
Coi chừng lửa khói là chợ Lái Thiêu
Vắng mẹ nó kêu là chợ Bến Nghé
Ai mà đau khổ đi chợ Cầu Thương
Gục xuống gục lên kêu bằng chợ ế
Đạp nhằm quỵ té là chợ Cần Chông
Rượt chạy lòng vòng là chợ chồm hổm
Làm ăn yên ổn là chợ Biên Hòa
Hay hát dân ca là chợ Phước Lý
Toàn là thi sĩ là chợ Cần Thơ
Nó cắn ơ hờ là chợ Rạch Kiến
Vừa nói vừa nghiến là chợ Cái Răng
Ăn uống lăng xăng thì là Chợ Quán
Người xưa bàn tán là chợ Bùng Binh
Không dính trong mình là chợ Cần Giuộc
Ngứa gãi sột soạt là chợ Hóc Môn
Nghe kêu hết hồn là chợ Trà Cú
Xe chạy ngắc ngứ là chợ Gò Công
Đi giáp một vòng cũng chưa hết chợ
Thiệt là đáng sợ là cái chợ trời
Ai biết xin mời tiếp theo vè chợ.
• Qua đờn ca tài tử
Nhắc đến loại hình sinh hoạt văn hóa phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long,
nhiều người nghĩ ngay đến đờn ca tài tử. Đây có thể coi là một trong những món ăn
tinh thần của người dân Nam Bộ nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng. Miền
Tây, vùng sông nước mênh mông không những thích hợp với những câu ca dao tình
nghĩa mà còn rất phù hợp cho sinh hoạt đờn ca tài tử, vì những âm điệu giản đơn
của nó và lời ca mộc mạc, tha thiết đi vào lòng người thì không đâu có thể phù hợp
hơn vùng sông nước mênh mông đó.
100
Trong quá trình hình thành đờn ca tài tử, địa điểm để diễn ra loại hình sinh
hoạt âm nhạc dân tộc này có thể là ở trong nhà vào những dịp có tiệc mừng, ngoài
vườn, ngoài chòi, nơi có bóng mát, lều. Đặc biệt, chơi đờn ca tài tử trên sông nước
của giới thương hồ là một kiểu chơi độc đáo, giúp người đi ghe giải sầu mỗi khi họ xa
nhà dài ngày để đi buôn một chuyến hàng, lại vừa có dịp trao đổi thêm nghệ thuật hay
so tài cao thấp với những người thương hồ ở những vùng khác (xem Hình 22+ 23).
Hình 22. Đờn ca tài tử ở chợ nổi Ảnh từ nguồn Internet
Hình 23. Hò chèo ghe trên chợ nổi Ảnh từ nguồn Internet
Bản đờn ca tài tử “Tình anh bán chiếu” của soạn giả Viễn Châu là một bản ca
cổ rất hay và tràn đầy tình nghĩa. Trong đó, tác giả nói lên mối tình đơn phương của
anh trai thương hồ với một cô gái sống ở khu chợ nổi Ngã Bảy: “Ghe chiếu Cà Mau
đã cắm sào trên bờ kênh Ngã Bảy, sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra chào. Cửa
vườn nhà cô đã khép kín tự hôm nào. Tôi vác đôi chiếu bông từ dưới ghe lên Xóm
Rẫy, chiếc áo nhuộm màu đã lấm tấm giọt mồ hôi. Nhà của cô sau trước vắng tanh
trong gió lạnh chiều đông, bỗng có ai dạo lên tiếng nguyệt cầm như gieo vào lòng
tôi một nỗi buồn thê thảm…”. Theo Nhâm Hùng, “bờ kênh Ngã Bảy mà tác giả đề
cập nằm bên cạnh chợ nổi Ngã Bảy. Cái Xóm Rẫy nhà của cô gái chính là phần đất
gọi là Doi Cát. Nơi đây có một khu đất, dân cư làm nghề trồng rẫy. Còn tiếng
nguyệt cầm nào đã gieo vào lòng chàng trai thương hồ một nỗi buồn thê thảm? Phải
chăng tiếng đàn kìm từ cuộc chơi đàn tài tử đâu đó phía chợ nổi vọng lên mà soạn
giả Viễn Châu nghe được, khiến lòng ông cũng ray rứt như nhân vật trong bài ca”
[Nhâm Hùng 2009:74].
101
Thông qua bài hát, tác giả đã gợi lên được những tâm tư tình cảm của người
theo những người theo nghiệp thương hồ. Tuy nghèo nhưng sống bằng tình cảm
chân chất và chung thủy : “Hỡi ôi con sông Phụng Hiệp chảy ra bảy ngã, mà lệ của
tôi nó cũng lênh láng muôn dòng. Có ai biết được tấm lòng của tôi với cô gái mỹ
miều trên kênh Ngã Bảy. Sông sâu bên lở bên bồi, tình anh bán chiếu trọn đời
không phai”.
Trong bài ca cổ Chợ Mới quê hương của Trọng Nguyên lại nói lên tâm sự của
đôi trai gái miệt vườn, trong đó, chợ đã đi vào đời sống của họ như một cái gì đó vô
cùng quen thuộc, tình yêu quê hương qua những cái chợ luôn đi song song với tình
yêu đôi lứa, tạo nên sự lãng mạn nhưng chất chứa nghĩa tình: “Cái chợ có từ hồi
nào và bao nhiêu tuổi, mà ai cũng bảo rằng Chợ Mới quê hương. Ở nơi đó tôi có
một người thương, cứ chiều chiều nàng ra bờ sông giặt áo”.
Và dù đi xa nơi đâu thì con người nơi đây vẫn nhớ về quê hương, nơi đó có
người để họ nhớ thương và có ngôi chợ quen thuộc, nơi mà họ từng hẹn hò, trao
duyên. Đó là thứ tình cảm gắn kết con người lại với nhau mà ít có địa phương nào
có được như những phiên chợ ở vùng sông nước Nam Bộ: “Đêm qua phà Cần Thơ,
anh nhìn theo con nước, có dòng nước nào về Chợ Mới để thăm em”.
Trong các bài ca cổ, dường như tác phẩm nào viết về Cần Thơ, Hậu Giang thì
đều có bóng dáng chợ nổi, trong đó có khá nhiều tác giả với nhiều bài vọng cổ khác
nhau: “Phụng Hiệp xuồng ai xuôi bảy ngã, ghe khóm vẫn gối đầu lên Ngã Bảy đợi
mong. Chợ nổi bồng bềnh, xuồng tấp nập trên sông, khóm nhỏ chờ ai, mắt thâu đêm
trăn trở. Tôi vẫn ngồi đây nghe dập dồn sóng vỗ. Sóng vỗ ngoài sông hay sóng tự
lòng mình”.[Nhâm Hùng 2009]
Với vẻ đẹp của chợ nổi Phụng Hiệp đã được Dương Thị Thu Vân trong Khúc
tình gạo trắng nước trong, đã ca ngợi với sự giàu đẹp, tươi vui của chợ nổi với một
bức tranh hoa trái đẹp mắt: “Phụng Hiệp bốn mùa chợ nổi đông vui, ghe thuyền
khắp nơi về hội tụ mùa hoa trái. Bình minh óng vàng trên sông Ngã Bảy. Ai chẳng
phút xao lòng trước dòng chảy về đâu”.
102
Nhâm Kính trong bài ca cổ Chợ nổi tình ta, lại nhìn chợ nổi bằng nét thân
thiện như một câu chuyện giữa cô gái thương hồ và anh con trai miệt vườn: “Chợ
nổi quê ta cái duyên sông nước, cho thuyền em xuôi ngược năm tháng giữa dòng,
chợ chiều chợ sáng đêm đông, thuyền neo bến đỗ cho phận má hồng về đâu? Phải
duyên phải nợ thì lo gì bờ bến Tây Đông, về chợ nổi quê em là chân trời ước hẹn.
Anh đó em đây là thơ tình trọn vẹn, thì ngại chi sông nhỏ với sông dài”.[Nhâm
Hùng 2009].
Chợ Nam Bộ là đề tài cảm hứng cho nhiều bài bản đờn ca tài tử ra đời. Những
bài ca cổ nào viết về chợ đều thấy con người ở chợ sống bằng nghĩa tình chân chất,
tạo nên sự khác biệt về văn hóa kinh doanh so với các vùng khác trên cả nước.
Trong những lời ca của những bài ca cổ đó chúng ta đều có thể mường tượng ra
được không gian văn hóa của một phiên chợ quen thuộc ở Nam Bộ.
• Qua những điệu hò, lời ru
Nói đến văn hóa dân gian Nam Bộ không thể không nhắc đến các điệu hò, lời
ru. Người ta đi đâu, về đâu, làm gì cũng dùng điệu hò câu hát để diễn đạt tâm tư tình
cảm của mình như: hò đi cấy, hò chèo ghe, hò mái đoản, hò mái dài… Người làm
nghề thương hồ thì gắn với những điệu hò sông nước…
Theo nhạc sĩ Lư Nhất Vũ và Lê Giang thì “hò trên sông nước mang tên gọi
khác nhau. Hò chèo ghe, hò mái đoản (tức hò mái cụt), hò mái thường (hò mái dài),
hò mái hột, hò mái nhì, hò mái ba… là những giọng hò hình thành và phát triển trên
một hình thái địa lý vô cùng đặc biệt. Đó là những hệ thống sông ngòi, kênh rạch
giăng chằng chịt rất thuận lợi cho ghe, xuồng, tàu bè được làm ăn buôn bán. Người
ta cất tiếng lúc ngân vang, bay lượn, dịu dàng hòa lẫn với tiếng nước chảy thao
thao, tiếng sóng vỗ nhẹ vào mạn thuyền, cùng tiếng rì rào của những rặng dừa bát
ngát ven bờ” [Lư Nhất Vũ, Lê Giang: 1986].
Trên sông dài chợ nổi, trai gái sống kiếp thương hồ ngày xưa đều lấy giọng hò,
lấy cách hò đối để làm quen. Người đứng ghe bên này hò đối, người đứng ghe bên
kia hò đáp. Thỉnh thoảng, thấy cô gái chèo ghe nhỏ đi bán hàng một mình nên anh
103
trai thương hồ để ý liền chèo theo cất giọng hò giao duyên, tuy nhiên cũng không
quên nhiệm vụ của mình là còn phải bán buôn để lo toan cuộc sống.
Hò ơ ơ…chào nhau cúi một đôi đường,
Dứt câu hò hát lo đường bán buôn.
Quen nhau trên sông nước đã không giấu được nỗi buồn của người thương hồ
qua câu hò tâm tư của người xa gia đình, xa quê hương:
Cúc mọc dưới sông kêu bằng cúc thủy,
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa,
Gởi thơ thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.
Tiếng hò điệu hát trên sông nước, một phần của đời sống văn hóa cư dân Nam Bộ
từ thời khẩn hoang. Những điệu hò đã phản ánh một cách chân thực những nét sinh
hoạt cũng như tâm tư tình cảm, khát vọng của cư dân vùng sông nước. Nghe những
điệu hò cất lên thì ai cũng chạnh lòng và cảm thông cho nghiệp buôn bán trôi nổi:
Bìm bịp kêu nước lớn ai ơi
Buôn bán không lời chèo chống mải mê.
Ở đâu cũng vậy, có chợ lớn, chợ nhỏ, chợ quê, chợ thành… Nhưng chỉ có ở
Nam Bộ mới có chợ nổi. Và phương tiện buôn bán chính là chiếc ghe tam bản,
xuồng ba lá, ghe dạo cho đến các thuyền vừa và lớn… và nghề buôn bán thương hồ
đôi khi cũng bán buôn theo mùa:
Hò ơ ơ…tháng Giêng, tháng Hai tôi đi bán sương sa, sương sáo.
Tháng Năm, tháng Sáu tôi đi bán bánh bò.
Đặc điểm của sáng tác dân gian về chợ là đều cùng nội dung về chợ, về sông
nước, về con người gắn với nghề thương hồ. Cho nên ở chợ nào họ cất giọng hò
cũng được. Đôi khi những dị bản được điều chỉnh theo địa danh cho phù hợp với
địa danh mới đó:
Hò ơ…ơ ... Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh,
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân.
104
sẽ được điều chỉnh bằng:
Hò ơ…ơ… Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Cái Răng.
Nói chung những sáng tạo dân gian về nội dung các điệu hò đều lấy nền tảng
chủ đạo là sông nước. Một người thấy được sẽ hò, nhiều người bắt chước hò theo,
rồi lại từng bước điều chỉnh dần cho tới khi câu hò được hoàn chỉnh và phù hợp với
hoản cảnh diễn xướng. Ở chợ nổi với nhịp sống bồng bềnh, cây trái, vườn tược kề
bên… lại hội tụ biết bao con người tứ xứ nên dùng lời rao để chào hàng, dùng điệu
hò để giao duyên là rất hợp tình, hợp cảnh, tạo điều kiện cho đôi trai gái bén duyên
để có khi họ kết nghĩa đá vàng.
Hò ơ …ơ… Chợ nổi quê ta mối duyên sông nước
Cho thuyền em xuôi ngược năm tháng giữa dòng
Chợ chiều, chợ sớm, đêm đông
Hoa thơm trái ngọt người xinh gọi mời.
Tiếng hò điệu hát dân gian đã từng say đắm người theo nghiệp thương hồ, làm
nên sinh khí văn hóa của một vùng quê sông nước. Đây còn là một kiểu động viên,
an ủi đối với người thương hồ khi buôn bán tha hương, nhớ xứ, nhớ người. Cho nên
những câu hò giao duyên được người thương hồ hò với những làn điệu tươi vui, như
quên hết sầu muộn.
Người Nam Bộ rất linh hoạt trong sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian. Cùng
một lời nhưng họ có thể đọc thành bài ca dao, họ có thể hò và có thể dùng điệu hò
đó cải biên thành lời ru. Tuy nhiên, điệu hát ru lại vang lên với những âm điệu
thăng trầm, đôi khi tươi vui, đôi khi buồn bã, có những bài hát ru cũng miêu tả nỗi
lòng của một gia đình mang nghiệp bán buôn.
Ơ… ầu ơ…chuyến này anh chở cát, chuyến khác anh chở vôi
Anh làm sao cho duyên nợ lôi thôi. Nay đổi, mai dời
Liệu anh có thương đặng trọn đời
Anh hãy thương ơ... ầu ơ….
105
Tiếng hát ru của dân thương hồ đôi lúc còn mang một nội dung hết sức táo bạo
của những cô gái Nam Bộ, những ngôn ngữ như vừa thật vừa đùa này khác hẳn với
sự dè dặt của những cô gái người Việt Bắc Bộ: Ơ… ầu ơ…gặp anh đi buôn bán
giữa đường/Đây mang cái bụng chửa mà anh có thương nàng hay không?
Rồi đôi khi, người mẹ ru con với lời ru mang nặng tâm sự, như nhớ đến sự khổ
cực khi buôn bán xuôi ngược trên sông: Ơ… ầu ơ…chèo ghe đi bán cá vồ/Nước
chảy ồ ồ chẳng thấy ai mua, ơ… ầu ơ…
Chợ không chỉ là nơi trao đổi hàng hóa mà còn là nơi truyền tải văn hóa.
Những lời ru, điệu hò, điệu hát dân gian được diễn xướng ở chợ, khiến cho người đi
chợ có cảm giác thân thương gần gũi hơn. Và đó chính là cái đặc trưng độc đáo của
văn hóa chợ Nam Bộ, là một nét đẹp làm phong phú thêm cho đời sống tinh thần
của người Việt Nam Bộ.
3.4. Chợ Nam Bộ qua phong cách mua bán, rao hàng, chào hàng
3.4.1. Phong cách mua bán ở chợ
• Đặc trưng phong cách ứng xử ở chợ
Bản chất của kinh doanh là giải quyết nhu cầu của người bán và người mua,
qua đó thiết lập nên mối quan hệ của họ. Mục đích của kinh doanh là đem lại cho
người bán một nguồn lợi nhuận, như vậy lợi nhuận sẽ là mục đích hướng đến hành
vi ứng xử của người bán. Mục đích của người mua là luôn hướng tới lợi ích, cho
nên lợi ích cũng là mục đích hướng đến hành vi ứng xử của người mua. Tuy nhiên,
lợi nhuận và lợi ích của người bán và người mua không phải hoàn toàn chỉ hướng
tới giá trị vật chất mà còn là giá trị tinh thần, thể hiện qua cách ứng xử của người
bán với người mua và ngược lại.
Người dân Việt Nam đều có thói quen đi chợ hàng ngày để mua sắm, đặc biệt
là những thực phẩm tươi sống phục vụ cho ba bữa cơm gia đình, nhất là các chị em
phụ nữ thường chỉ làm công việc nội trợ trong gia đình. Vì thế, chợ đã đóng vai trò
quan trọng trong đời sống sinh hoạt của người dân khi cung ứng các loại hàng hóa
phục vụ cho đời sống của người dân từ trước đến nay. Quan sát có thể nhận thấy, ở
106
chợ là cả một bức tranh phác họa sự sinh động về các mặt hàng với những màu sắc
đa dạng và đẹp mắt của các mặt hàng rau, hàng trái cây, hàng thực phẩm, hàng
hoa,... Đến chợ, người mua có thể nhận biết là hôm nay mặt hàng nào nhiều, mặt
hàng nào rẻ, ngon và chính tay lựa chọn cho mình những món hàng mà gia đình yêu
thích. Do vậy mà chợ luôn có một khối lượng khách hàng ổn định, nào nhiệt hàng
ngày, và đó cũng là một chiều hướng dẫn đến hành vi ứng xử hàng ngày của người
bán và người mua ở chợ.
Quan sát ở từng góc chợ ta thấy, dù quang cảnh có nhếch nhác nhưng sôi
động, ồn ào nhưng mọi người lại cảm thấy rất vui vẻ, phấn chấn. Người ta thường
ví von: “ồn ào như vỡ chợ” là chỉ sự tập trung náo nhiệt đó. Trong bối cảnh náo
nhiệt đó, diễn ra những hoạt động giao tiếp, ứng xử giữa người bán với người bán,
người bán với người mua, người mua với người mua. Đặc biệt là giữa người bán
với người mua, bởi vì mục đích của họ là hướng tới lợi nhuận và lợi ích. Do đó,
giao tiếp giữa người bán và người mua thường thông qua những câu chào hàng, giới
thiệu hàng và người mua thì hỏi thăm về giá cả và chất lượng hàng hóa, qua đó giữa
họ mới tạo dựng được mối quan hệ thân thiết. Nhưng mặt khác, trong bối cảnh các
quan hệ mua bán đều diễn ra giữa những nhóm nhỏ, thường xuyên, lặp lại thì một
sự “bất tín” sẽ dẫn đến vạn sự “bất tin” và cái giá phải trả cho sự bất tín này là
người bán sẽ mất hẳn những khách hàng thân thiết..
Mặc dù ở chợ không có những chương trình khuyến mãi, giảm giá, bốc thăm
trúng thưởng,… nhưng ở chợ đã hình thành mối quan hệ lâu đời giữa người bán và
người mua. Từ đời bà, đời mẹ, rồi tới đời con cháu của người bán hàng và người
mua hàng cũng vậy. Đó là những khách hàng thân quen đã gắn bó lâu đời với gia
đình họ. Với những khách hàng này, người bán khuyên bạn hàng xem có nên mua
món hàng này hay không; họ thường bán cho bạn hàng những món hàng ngon nhất,
an toàn nhất vì chất lượng ngon hay dở và giá cả thì lên hay xuống tùy thời điểm, và
chỉ có người bán mới cập nhật được thông tin này nhanh nhất mà thôi. Với cách ứng
xử này đã phần nào cho thấy trong quan hệ mua bán dù sòng phẳng khi “thuận mua
vừa bán” còn xen vào đó là mối liên hệ tình cảm giữa con người với nhau.
107
Ngoài ra, quan hệ mua bán ở chợ cũng mang đặc điểm sắc thái văn hóa riêng:
thương lái ở chợ chính là cầu nối giữa người sản xuất và người bán, giữa người bán
và người mua. Thương lái lấy hàng của các nhà sản xuất, các chợ đầu mối, các nhà
phân phối và bán lại cho người tiêu dùng. Có người bán những sản phẩm mà họ gặt
hái sau những vụ mùa. Ở đây không chỉ đơn thuần là bán sản phẩm mà trong đó còn
chứa đựng bao công sức, trình độ, sự khéo léo của người lao động làm ra sản phẩm
để người mua được thưởng thức sản phẩm đó.
Ở chợ, người tiêu dùng có thể mua hàng và cũng có thể bán một món hàng,
điều này không thể xảy ở siêu thị hay các trung tâm thương mại hiện đại.Vì ở siêu
thị và các trung tâm thương mại, khách hàng chỉ có thể mua hàng chứ không thể
bán hàng. Vì thế người bán và người mua ở chợ là vô cùng đa dạng, đa thành phần
từ các nơi khác nhau. Chính những điều này đã góp phần làm cho hàng hóa ở chợ
luôn phong phú hơn so với các siêu thị, trung tâm thương mại nhưng giá cả hàng
hóa ở chợ lại rất vô chừng. Điều này cũng đã phần nào ảnh hưởng tới tâm lý của
người mua hàng về chất lượng và giá cả của hàng hóa.
Tuy nhiên, đan xen với những lối ứng xử trọng tình cảm của người bán và
người mua thì ở vẫn còn đâu đó những lối ứng xử kém văn hóa như: mời mọc, năn
nỉ thái quá khiến khách hàng ngại mà mua hàng, lôi kéo khách mua hàng, ép giá,...
Một số người bán hàng còn có thái độ bất lịch sự như chửi khách, thậm chí đánh
khách khi khách xem rồi không mua hàng của họ. “Ồn ào như vỡ chợ” đôi khi là
những câu chuyện rôm rả, phấn chấn nhưng đôi lúc cũng là những xung đột, tranh
cãi, chửi bới nhau,…Ngoài ra, nhìn chung bối cảnh trong chợ còn có những điều bất
tiện. Tuy chợ là bức tranh phác họa sự phong phú của hàng hóa nhưng lại rất rối
rắm khi việc bố trí các quầy hàng không đồng đều, không ngăn nắp. Có những quầy
hàng còn bày thực phẩm chung với hàng gia dụng, quần áo, giày dép. Lối đi vào
chợ thì bị các tiểu thương trong chợ lấn chiếm để thu hút khách hàng, điều này lại
tạo ra sự chật chội, chen lấn, xô đẩy, cãi vã. Những hành vi ứng xử đó đã phản ánh
lối ứng xử thiếu tình cảm, không đẹp mắt, làm mất đi nét văn hóa trọng tình ở chợ
truyền thống.
108
• Tâm lý, tính cách người mua, người bán
- Tâm lý, tính cách người mua
Những người chuyên buôn bán một mặt hàng hoặc đơn thuần một dịch vụ nào
đó ở chợ thường thiết lập những mối quan hệ thường xuyên với những người mua,
người cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ đó cho họ, hơn là chỉ tìm kiếm hàng hóa
hoặc dịch vụ đó trên chợ mỗi khi họ cần. Do lối sống trọng tình của người Việt nói
chung và người Nam Bộ nói riêng nên người ta có thể dễ dàng nhận thấy, những
người đi chợ rất hiếm khi xảy ra cãi cọ hay va chạm nhau. Điều đó thể hiện khả
năng ứng xử cá nhân rất linh hoạt, dễ thích ứng của họ. Dù sao thì ở chợ, giữa người
mua và người bán đều là những người ít nhiều đã có mối quan hệ hàng xóm thân
quen, nhưng cũng đều mong muốn đạt được mục đích “mua rẻ bán đắt”, muốn mua
hàng hóa phải đạt chất lượng, nhưng lại không muốn làm mất lòng nhau. Vì tâm lý
đó nên người mua đã dành khá nhiều thời gian vào một việc thăm dò giá cả hàng
hóa. Do tình trạng rất thiếu thông tin nên phần lớn người mua và người bán ở chợ
đều đi theo những kênh khách hàng, đối tác ổn định, do vậy họ đều tìm đến với
những đối tác quen thuộc.
Khách hàng luôn ở cấp độ người bị động, cũng muốn làm thế nào để không bị
mua đắt bằng cách tìm kiếm và nắm rõ thông tin về sản phẩm và phải có độ tin cậy.
Trong tình trạng thiếu thông tin về sản phẩm, hay những thông tin đó phức tạp và
không ổn định, hoặc thông tin về sản phẩm đó không rõ ràng lại xuất hiện khắp nơi,
vì vậy khi có mối quan hệ giữa người mua với nhau có độ tin cậy lẫn nhau thì có thể
coi mối quan hệ đó như một kênh thông tin, họ có thể hỏi thăm nhau về món hàng
đó. Còn đối với người bán thì người mua cho rằng đây là mối quan hệ của các đối
tác nên việc mặc cả, thương lượng trong mua bán là việc diễn ra thường xuyên và
lâu dần đã trở thành một thói quen của người đi chợ. Sự tương tác giữa các đối tác
trong tình trạng thiếu thông tin về nhau và về thị trường đã thúc đẩy cả người bán
với người mua phải tìm cách để hiểu thông tin về nhau cho rõ ràng. Trong bối cảnh
đó thì một trong những cách được đa số lựa chọn là trong thời gian thương lượng họ
dùng thời gian chủ yếu vào việc mặc cả giá, cho dù phần lợi ích thu được rất nhỏ bé
109
chỉ vài ngàn đồng thậm chí vài trăm đồng. Việc xuất hiện hiện tượng mặc cả, trả
giá, thương lượng, chê bai hàng hóa bán đắt là việc diễn ra thường xuyên trong giao
dịch mua bán ở chợ nói chung.
Cũng vì người đi chợ thiếu thông tin thị trường, sợ bị mua đắt, nên trước khi
họ quyết định mua hàng họ thường đi một vòng quanh khu vực bán loại hàng cần
mua, vào sạp nào đó hỏi giá và mặc cả xong rồi tiếp tục đi hỏi một vài sạp hàng
khác. Đây là giai đoạn khảo sát giá cả trên thị trường vào ngày đó để nắm bắt được
thông tin về thời giá; và việc mặc cả, thương lượng giá giả, mua bán lại diễn ra ở
chỗ khác, nó nằm ở một cuộc trao đổi mua bán với những người bán thân tình, đã
có mối quan hệ từ trước và do đó cũng đã có một lòng tin nhất định giữa hai bên.
Phần lớn, quan hệ mua bán hoàn tất ngay khi người mua cảm thấy đạt được mục
đích của mình là “mua rẻ” với mặt hàng mà người mua cảm thấy hài lòng.
Đi chợ thì người mua thường bị “mua lầm” chứ không có người bán bị “bán
lầm”. Điều này cho thấy người tiêu dùng luôn trong tình trạng bị thua thiệt trong
mối quan hệ mua bán. Vì thế khi đi chợ, người tiêu dùng không chỉ lo lắng về chất
lượng sản phẩm, mà còn cân nhắc xem mình có bị mua đắt, mua “hớ” hàng hay
không. Bởi vì hàng hóa ở chợ thường không có tem, nhãn mác của nhà sản xuất, mà
nếu có tem người mua cũng khó phân biệt được đâu là hàng thật, đâu là hàng giả;
trong khi trên thị trường thì tràn ngập hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng,
người mua lại có tâm lý sợ mua phải nhái, hàng giả với giá cả của hàng thật.
Người mua còn lo lắng về vệ sinh an toàn thực phẩm ở chợ. Đó là vấn đề đáng
quan tâm đối với các chợ hiện nay. Người tiêu dùng mua thực phẩm ở chợ để phục
vụ cho các bữa cơm hàng ngày không khỏi lo lắng khi thực phẩm bày bán ở chợ
không được qua kiểm nghiệm rõ ràng về các loại bệnh như dịch, cúm, hay các loại
bệnh khác ở gia súc và gia cầm. Nhiều tiểu thương vì lợi nhuận của bản thân đã bày
bán xen kẽ những thực phẩm như gia súc đã bị bệnh, đã chết còn rau, củ, quả thì bị
bơm, tiêm, ngâm thuốc trừ sâu, các hóa chất bảo quản… gây nguy hại trực tiếp đến
sức khỏe của con người.
110
Tuy nhiên, nhiều người tiêu dùng dù biết tình trạng hàng hóa không rõ nguồn
gốc, xuất xứ, nhưng người dân vẫn mua hàng thường ngày và một số người ăn uống
ngay tại chợ với một khu vực bán thực phẩm ăn liền kém vệ sinh,…Điều này phần
nào phản ánh tâm lý đại khái, qua loa, linh hoạt dẫn đến tùy tiện của người dân Việt
Nam Bộ nói riêng và người Việt Nam nói chung.
- Tâm lý, tính cách người bán
Mục đích của kinh doanh là đem lại cho chủ thể nguồn lợi nhuận. Lợi nhuận là
mục đích dẫn đến tâm lý cũng như hành vi của họ, vì đó là điều để họ tồn tại và
phát triển sự nghiệp nhưng lại không phải là chuẩn mực duy nhất định hướng cho
hành vi của họ. Bên cạnh đó còn có những điều đáng quan tâm về mặt xã hội khác
như dư luận xã hội, đạo đức hoặc những quy định bất thành văn của cộng đồng dân
cư nói chung, nơi mà họ đang làm ăn buôn bán.
Trong cuộc trao đổi, thương lượng giữa người mua và người bán, thường
người bán là người kiên trì hơn cả, bởi với họ, khách hàng là thượng đế. Khi khách
hàng trả giá, họ sẽ bán trong mức độ có thể có lời dù ít hay nhiều. Với người bán,
việc “lấy công làm lãi” cũng là một yếu tố định hướng cho hành vi thương lượng
mặc cả của họ. Tuy nhiên, tình trạng này cũng chỉ xuất hiện ở chợ quê, nơi mà trình
độ sản xuất kém phát triển, thị trường hoạt động ở quy mô nhỏ, hạn hẹp.
Mục đích của người bán cũng là mong muốn bán chạy hàng và mong muốn
này là lâu dài, nên những lần đầu họ thường tạo uy tín và niềm tin cho khách hàng
bằng cách bán rẻ với mặt hàng chất lượng để “lấy mối” lần sau nữa. Đây cũng là
tiền đề để tạo lập mối quan hệ thân thiết với khách hàng, để khách hàng luôn chú ý
đến hàng hóa của mình. Người bán thường chọn sạp ở vị trí thích hợp, giao thông
thuận lợi, có nhiều người qua lại ghé xem hàng. Để tăng thêm tính thẩm mỹ, họ
thường bày hàng một cách đẹp mắt, đẩy những mặt hàng tươi ngon, chất lượng lên
trên để trưng bày và thu hút sự chú ý của người mua.
Nhận biết được tâm lý “tiện đâu mua đó” của người tiêu dùng nên các thương
nhân Nam Bộ, đặc biệt là ở thành thị còn tận dụng ngay cả nhà ở để buôn bán các
111
mặt hàng hóa giống như một cái chợ thu nhỏ. Khắp các đường phố ở Nam Bộ, đâu
đâu cũng bày bán các quầy hàng với phong phú các loại mặt hàng khác nhau. Một
số tiểu thương còn bày bán ở ngoài chợ, trên lề đường nhằm bán cho các khách
hàng đi đường, hay họ tiện đường ghé vào mua hàng mà không cần gởi xe.
Những mối quan hệ kinh doanh tại chợ đã giúp cho người bán có cơ hội mở
rộng thị trường. Họ không chỉ kinh doanh tại nơi họ bán mà còn có thể mở cửa hàng
ở thị trường xa làm chi nhánh. Quá trình tham gia và những quan hệ thị trường đã
giúp chủ thể kinh doanh thay đổi tư duy và hành vi kinh tế. Điều này được thể hiện
rõ nét ở hiện tượng có không ít những thương nhân sau một thời gian tích lũy vốn
đã đầu từ vào sản xuất và đã trở thành những cơ sở sản xuất lớn.
Tuy nhiên, về phía tâm lý người bán vẫn còn tồn tại những tiêu cực, tình trạng
“treo đầu dê bán thịt chó” vẫn tồn tại ở khắp các chợ nói chung. Những thương lái
thường “mượn” một thương hiệu nào đó có tiếng tăm để treo bảng quảng cáo,
nhưng khi người mua vào mua thì lại bán mặt hàng khác. Lúc đầu, họ đánh vào tâm
lý của người mua bằng mặt hàng an toàn, chất lượng bằng biển quảng cáo để thu hút
người mua ghé xem hàng, nhưng lại bán cho khách hàng mặt hàng kém chất lượng,
nguồn gốc không rõ ràng, nếu người mua không xem kỹ sẽ bị nhầm lẫn và mua lầm.
Nhưng nếu khách hàng nhận biết được mặt hàng đó là giả thì họ mời mọc một cách
thân tình để đánh vào tâm lý cả nể, mua đại khái cho xong ở một số khách hàng.
Một bộ phận thương nhân khác, đặc biệt, các tiểu thương kinh doanh thực
phẩm tươi sống, vì lợi ích cá nhân mà mất đi nhân cách đạo đức của nghề buôn bán,
nghề mà người dân Nam Bộ coi là một “đạo” thì giờ đây họ buôn bán cả những thịt
gia súc, gia cầm đã mắc bệnh và chết. Những thực phẩm này lấy tận gốc với giá rất
rẻ và bán cho người mua với giá cả bằng thị trường, làm ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng. Đây cũng là một nguyên nhân tiêu cực
làm cho nạn dịch bệnh ở gia súc và gia cầm ngày càng lan rộng ra từ địa bàn này
đến địa bàn khác.
Vì những hành vi và thái độ của người bán mà chợ truyền thống dần mất đi vị
trí trong lòng người tiêu dùng, do “một lần bất tín vạn lần bất tin” nơi người bán.
112
Hiện nay, người mua thường có xu hướng đi vào siêu thị, tuy mắc hơn chợ một chút
nhưng họ đã thỏa mãn tâm lý mua hàng có xuất xứ rõ ràng, thực phẩm thì được
kiểm dịch rõ rệt và không cần phải mất thời gian thương lượng hay trả giá.
3.4.2. Phong cách rao hàng, chào hàng
Rao hàng, chào hàng là những hình thức tiếp thị, quảng bá sản phẩm bằng
những ngôn ngữ thông thường chỉ dành cho người bán hàng. Thông qua những
tiếng rao, lời chào, chủ yếu thu hút khách hàng ghé xem và mua sản phẩm của
mình. Đối với những người buôn bán ở chợ cố định trên đất liền thường dùng
những ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày để rao hàng, hay chính xác hơn là chào hàng.
Người bán thường tự khen chất lượng hàng hóa của mình bằng những lời quảng bá
như: “chị ơi! Mua rau đi, rau của em tươi ngon và rẻ nhất chợ đấy!”. Để bán được
giá, người bán cũng dùng những từ ngữ để gợi cho người mua phải suy nghĩ về chất
lượng sản phẩm như: “Chị thêm vài ngàn nhưng lại mua được hàng tốt nhất, tiền
nào của nấy, của rẻ là của ôi”. Với phương châm “vui lòng khách đến, vừa lòng
khách đi”, đôi khi người bán còn làm “mát lòng” người mua bằng cách khen người
mua nhưng thực tế cũng là quảng bá cho hàng hóa của mình như: “chị thật là tinh
mắt đấy, chị chọn hàng này ngon nhất cửa hàng em rồi đấy!” hay “chị mặc cái áo
này em thấy chị trẻ đẹp hẳn ra”,… Đôi khi người bán còn dùng ngôn từ để thề thốt,
để tạo lòng tin cho người mua: “em thề có bán đắt, có cân thiếu cho chị” hoặc “em
thề có trời đất chứng giám em không bán sai cho ai hết”. Khi thương lượng được,
người bán còn kèm theo mấy câu nói để vừa lòng khách như: “Em có bớt thì bớt
cho chị chút ít cho vui thôi, chứ em thấy chị nhanh nhảu, dễ mến nên em để vốn cho
chị, lần sau nhớ ghé hàng em chị nhé…”
Riêng đối với những người dân thương hồ, buôn bán trên chợ nổi, phong cách
rao hàng có phần đặc biệt và lý thú hơn. Không biết từ khi nào, chợ đã có những
tiếng rao hàng thánh thót, văng vẳng, vừa thông tin các thức ăn thức uống cho
khách đi chợ, cũng vừa góp phần thêm sự rộn rã, nhộn nhịp trong sinh hoạt của mỗi
phiên chợ. Tiếng rao hàng dần thành một lối diễn xướng dân gian của người thương
hồ Nam Bộ. Theo nhà văn Sơn Nam “lối rao hàng, bánh bò không… lần lần hiểu ra:
113
bánh bò hông, bánh bò hơ… mở đầu cho một điệu hò đặc biệt ở Cần Thơ, giọng hò
bánh bò” [Sơn Nam 2005:89].
Lối rao hàng cũng là một kiểu thông tin, chào mời, tiếp thị, quảng cáo hàng
hóa. Đó là lối rao hàng có ngôn ngữ, âm thanh, kèm theo sự uyển chuyển của ngữ
nghĩa khiến người nghe dễ nhớ, dễ hiểu. Người sử dụng lối rao hàng tại chợ từ xưa
đến nay thường chung một đặc điểm: chỉ rao hàng đối với thức ăn, thức uống. Các
ngành hàng hóa thì lại có lối tiếp thị riêng. Còn các thương lái đi bán rong ở các ngõ
hẻm thì cũng rao lớn tiếng để người dân biết và ra mua như: ai mua muối đi, ai mua
rau đi, ai ăn chè đậu đen đi… Cách rao hàng của người Nam Bộ uyển chuyển và
trong nội dung còn kích thích vị giác, khiến người nghe cảm nhận được mùi vị của
món ăn, khơi gợi dậy cảm giác thèm ăn: Ai mua bánh ít, bánh tro/Nhưn tôm nhưn
thịt nhưn dừa ngọt ngon.
Ngày nay, các chợ có quá nhiều các điểm bán đồ ăn, thức uống nên lời rao
ngày càng nhạt nhẽo, khô khan, đôi khi kéo dài thành một chuỗi như: cà phê, nước
ngọt, hủ tíu, phở…đây! Lối rao hàng ấy không còn uyển chuyển, mượt mà như lối
rao hàng ngày xưa nữa. Có thể nói tốc độ mua bán ngày càng cao, đòi hỏi con người
phải làm nhanh, ăn nhanh, nên lối rao hàng cũng ngắn lại, khô khan và thiếu đi sức
hấp dẫn, sống động. Hiện nay, ở các chợ hầu như đã mất hẳn đi lối rao hàng theo
những câu ca dao truyền thống như trước đây.
Tuy nhiên ở Nam Bộ hiện nay
vẫn còn tồn tại một lối rao hàng vô
cùng độc đáo nữa, không cần phải
dùng đến lời rao, hay chào hàng bằng
miệng nữa, mà rao hàng bằng “cây
bẹo” (xem Hình 24), lối rao hàng này
chỉ có xuất hiện ở chợ nổi vùng đồng
bằng sông Cửu Long mà thôi. Có lẽ
phong cách rao hàng bằng “cây bẹo”
Hình 24. Đặc trưng phong cách rao hàng của
chợ nổi Tây Nam Bộ. Ảnh từ nguồn Internet
114
là một trong những đặc trưng nổi bật nhất của chợ nổi đồng bằng sông Cửu Long.
Giới thương hồ thường dùng một cây tre dài (hay còn gọi là cây sào), ở đó người ta
“bẹo” lơ lửng những món hàng có trên ghe, mỗi thứ một ít gọi là hàng mẫu, để khi
khách hàng tới họ thấy người thương hồ này bẹo thứ gì thì có nghĩa là trong ghe bán
thứ hàng hóa đó, khách đi chợ cứ ghé thẳng tới ghe và mua hàng.
Đây là hình thức tiếp thị khá thú vị, thu hút sự tò mò của rất đông khách du
lịch từ xa đến. Khi khách đi chợ, “thấy nhô lên vô số những cây sào bẹo hàng như
những cột “ăng ten” kỳ lạ di động giữa sông. Cây bẹo này treo vài ba trái khóm, các
cây bẹo kia thì cũng lũng lẳng những của sắn, của khoai. Những cây bẹo khác lại
treo dính chùm các loại trái cây vườn như: chôm chôm, nhãn, bòn bon, vú sữa… Sự
đa dạng chủng loại rau quả cũng như màu sắc tươi mới càng làm cho khung cảnh chợ
nổi thêm vui mắt… một đặc điểm khá kỳ thứ: ghe nào có cây bẹo treo tấm lá lợp nhà,
có nghĩa là người chủ muốn rao bán cả chiếc ghe, tức “bán nhà” luôn” [Nhâm Hùng
2009:51].
3.5. Tiểu kết Chương 3
Cùng với đời sống về vật chất thì nhu cầu về tinh thần ở chợ của người Việt
Nam Bộ là vô tận. Thể hiện qua những nhu cầu họp chợ, những phong tục tập quán,
tín ngưỡng, trong văn hóa dân gian và còn thể hiện cả ở trong văn học nghệ
thuật,…Nhu cầu chợ của người dân là rất quan trọng trong việc phục vụ ba bữa cơm
hàng ngày. Tuy nhiên, đối với người dân Nam Bộ, nhu cầu về chợ không chỉ thể
hiện trong việc đi chợ mua bán mà còn là nhu cầu về giao tiếp với văn hóa chợ. Họ
tới chợ đôi khi chỉ để thưởng thức những hoạt động văn hóa nghệ thuật dân gian đặc
sắc, tổ điểm cho tinh thần của người dân thêm phong phú và đa dạng.
Trong đời sống tâm linh, vẫn trên cơ sở văn hóa tâm linh truyền thống như thờ
cúng ông bà tổ tiên, những kiêng kỵ, những tín ngưỡng các vị thần phù hộ cho việc
buôn bán,... Nhưng để phù hợp với vùng đất mới cũng như ảnh hưởng bởi những
văn hóa tộc người khác cùng sống trên vùng đất Nam Bộ, người Việt Nam Bộ đã
khắc họa lên những hình tượng vị thần mới như ông Thần Tài, ông Địa, bà chúa
115
Xứ,…Riêng đối với người dân thương hồ thì có thêm Bà Thủy, Bà Cậu, Hà
Bá,…những người cai quản dưới sông. Những tín ngưỡng đó đã tạo cho họ niềm tin
trong cuộc sống ở vùng đất mới và quản thúc họ trong khuôn khổ của hoạt động
mua bán.
Trong văn hóa dân gian, chợ lại được khắc họa qua những ngôn ngữ giao tiếp
hàng ngày hết sức bình dân cũng như thể hiện qua những làn điệu văn hóa dân gian
rất bình dị. Đó là những điệu hò, những bài ca dao, lời ru, bài vè, những bài đờn ca
tài tử,…tưởng chừng như quá quen thuộc ở Nam Bộ, nhưng khi tìm hiểu mới thấy
rằng, qua đời sống thực tế, qua những tâm tư, tình cảm của người dân mà những làn
điệu ấy mới được hình thành. Cho nên, ngôn từ của những làn điệu đó cũng vô cùng
mộc mạc như chính lời nói của người dân nơi đây. Chỉ khác là trên môi trường sông
nước, những lời mộc mạc ấy đã trở thành làn điệu hết sức uyển chuyển giống như
người thương hồ chèo ghe buôn bán vậy. Lâu dần những làn điệu ấy đã trở thành
một nghệ thuật.
Chứng tỏ rằng, chợ ở Nam Bộ đã thể hiện một phong cách rất riêng thông qua
những hoạt động mang tính tinh thần trong hoạt động kinh doanh. Những hoạt động
này không chỉ dành riêng cho những người mua, người bán ở chợ mà còn ảnh
hưởng đến cả một cộng đồng bởi cái tầm vĩ mô của nó. Đó là một bức tranh phác
thảo đời sống dân cư miệt vườn của người dân Nam Bộ được đưa vào một bức tranh
thu nhỏ đó là họp chợ. Qua đó, chợ đã chuyển tải cả một diện mạo của văn hóa xã
hội Nam Bộ trên cơ sở hoạt động kinh doanh, mua bán ở chợ.
Tóm lại, trong đời sống tinh thần, chợ Nam Bộ đã tạo cho mình một phong
cách riêng biệt. Dù họp chợ trên một môi trường bao la, rộng lớn, mang tính mở
nhưng lại không bị hòa tan với văn hóa kinh doanh của cả nước nói chung. Có lẽ
đặc trưng vùng miền là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành nên văn hóa
chợ ở Nam Bộ. Tuy nhiên, nếu không có tinh thần hoạt động sáng tạo thì cũng
không có một phong cách văn hóa đặc trưng như vậy. Chứng tỏ rằng, người dân
Nam Bộ rất tinh tế trong việc vận dụng, dung hòa giữa văn hóa truyền thống và
sáng tạo thêm cho mình một diện mạo văn hóa hoàn toàn mới. Những yếu tố đó
116
cũng có thể góp phần thúc đẩy thương mại Nam Bộ phát triển theo phương thức vừa
mạnh mẽ vừa linh hoạt, uyển chuyển. Có tác dụng làm cho cuộc sống cá nhân và
cộng đồng được hoàn thiện hơn, phong phú hơn.
117
Chương 4
TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
ĐỐI VỚI CHỢ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM BỘ
4.1. Chợ Nam Bộ trong quá trình đô thị hóa
Đô thị bao gồm thành thị, thành phố là trung tâm kinh tế, chính trị, khoa học,
văn hóa của quốc gia, vùng miền hay địa phương; là khu vực hành chính tập trung
với mật độ cao các cơ sở hạ tầng, kinh tế, văn hóa; là nơi tập trung đông dân cư sinh
sống, sản xuất, buôn bán, làm dịch vụ … Đô thị nằm gần các trục đường giao thông
chính với mạng lưới giao thông hiện đại, là nơi có cơ cấu kinh tế công nghiệp, dịch
vụ, thương mại cao hơn cơ cấu nông nghiệp và thủ công nghiệp.
Những đô thị Nam Bộ dưới thời Nguyễn vào thế kỷ XVIII – XIX là những
trung tâm kinh tế thương mại sầm uất vào bậc nhất trong cả nước. Trong các tài liệu
cho thấy, ngoài việc ghi chép những đô thị mang chức năng trung tâm hành chính
thì nhà cửa, phố xá, đặc biệt là chợ búa luôn được nhắc đến như một thành phần
quan trọng và không thể thiếu được của thành thị đó.
Chợ mang tính chất kinh tế hàng hóa có mối liên hệ mật thiết với đô thị về
nhiều phương diện như kinh tế - xã hội, văn hóa. Thông qua sự phát triển kinh tế
hàng hóa đưa tới việc hình thành đô thị và ngược lại đô thị càng phát triển thì kinh
tế hàng hóa càng bùng nổ mạnh mẽ hơn. Có thể nói, đô thị Nam Bộ không xuất phát
là một nông thôn mang đậm tàn dư công xã, thủ công nghiệp không tách rời với
nông nghiệp. Đô thị Nam Bộ là một nền kinh tế năng động và phát triển với tính
chất hướng ngoại.
Kinh tế hàng hóa Nam Bộ mang tính hướng ngoại, mở cửa giao thương với thế
giới bên ngoài, điều này được thể hiện rõ nét từ thế kỷ XVII – XVIII. Theo nhiều
nguồn tài liệu thì trong vòng hai thế kỷ này, giao thương Nam Bộ đã phát triển và
mở rộng rất nhiều, bên cạnh các thương nhân Châu Á quen thuộc còn có sự xuất
118
hiện của các thương nhân Phương Tây. Tuy chưa phải là nhiều và thường xuyên
nhưng cũng đã đánh dấu thời kỳ Nam Bộ đi vào luồng giao lưu buôn bán quốc tế.
Việc buôn bán giao lưu với các nước trên thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển công thương nghiệp cũng như các đô thị trong khu vực. Sự khởi sắc của
nền kinh tế hàng hóa, làm cho kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp có những chuyển
biến nhất định. Mỗi quốc gia, mỗi đoàn thương thuyền khi đến đây đều mang theo
những dấu ấn của nền văn minh bản địa hoặc chí ít cũng mang lấy vài nét văn hóa
cộng cư của nhiều tộc người.
Một cuộc sống mới hình thành, tuy chưa phải là tất cả mà chỉ tập trung ở một
số nơi, một số bộ phận dân cư ở chốn thị thành. Người dân Nam Bộ lúc này đã biết
đến nhiều thứ mà vốn trước đó họ hoàn toàn xa lạ, nhất là những vật phẩm mang
đến từ Phương Tây như đồng hồ, súng đạn, tiền bạc… đã đi vào đời sống và chi
phối mạnh mẽ cả về tư duy, nhận thức của con người. Giờ đây người dân đã sống
thực dụng hơn, năng động hơn nhiều trong cả suy nghĩ lẫn hành động; điều này rất
đúng với tính cách của những người dân chốn thị thành.
Quá trình đô thị hóa ở Nam Bộ cho thấy sự phát triển mối liên hệ giữa chợ và
đô thị qua các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, vì đô thị Nam Bộ xuất phát từ một nông thôn tự cung tự cấp và tự
sản xuất nông sản hàng hóa, ra đời sớm cùng với sự khai phá nông nghiệp, cho nên
khi có kinh tế hàng hóa nông nghiệp và thủ công nghiệp thì cũng là lúc bắt đầu hình
thành đô thị, chứ không phải đợi tới khi nào công cuộc khai phá nông nghiệp hoàn
toàn xong rồi mới có đô thị. Những thương cảng như Nông Nại Đại Phố, phố chợ
Mỹ Tho, Hà Tiên… đều hình thành và phát triển trong thời kỳ khẩn hoang (từ thế
kỷ XVII – XVIII) cho đến thế kỷ XX, các trung tâm thương mại này đã rất lớn
mạnh «cả nước không đâu sánh bằng». Điều này chứng tỏ rằng nền kinh tế hàng
hóa đã phát triển khá sớm và lớn mạnh dẫn tới sự ra đời của các đô thị.
Thứ hai, đô thị ở đây là những trung tâm thương nghiệp, nơi tập trung nhiều
nghề thủ công chuyên nghiệp, nhất là những ngành nghề chế biến nông lâm thủy
119
sản và là trung tâm thương mại chuyên xuất khẩu nông sản ra nước ngoài, đồng thời
phân phối các loại hàng hóa khác từ ngoài vùng và nội vùng thông qua hệ thống các chợ.
Thứ ba, đô thị đồng thời là những cảng thị thiết lập ở những nơi thuận tiện cho
giao thông trong nước cũng như ngoài nước. Tức là đô thị được thiết lập từ những chỗ
buôn bán rầm rộ nhất, sầm uất nhất và có nhiều tiềm năng phát triển thương mại nhất.
Thứ tư, đô thị xuất phát từ nông thôn sản xuất ra hàng hóa, nhưng một khi
được hình thành thì nó lại là động lực có tính chất quyết định nhịp độ, quy mô phát
triển của hàng hóa địa phương. Có nghĩa là nơi đâu đô thị càng phát triển thì kinh
tế, thương mại mới có nhiều cơ hội tăng trưởng mạnh mẽ hơn.
Ngoài ra, những dãy phố chuyên doanh (chợ chuyên kinh doanh trên các con
đường phố) là một bộ phận quan trọng của diện mạo đô thị. Hầu như không có đô
thị nào là không có những con đường kinh doanh đó. Người dân tận dụng mặt tiền
của những con đường làm địa điểm kinh doanh hàng hóa. Đó cũng là một điểm
quan trọng thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa chợ và đô thị. Trương Quang Thao
cũng cho rằng: “Dù gì đi nữa thì trong quan niệm chung của nhiều người, phố là
một đoạn đường mà hai bên có cửa hàng mua bán đứng xen nhau. Phố còn có nghĩa
là đô thị, là thành phố nữa. Phố phường là sự kéo dài của chợ, đồng thời cũng là
một thứ chợ thường trực bám theo những trục đường dẫn tới và ở gần chợ” [Trương
Quang Thao 2001:143].
Loại hình phố chợ này chỉ xuất hiện ở các đô thị, điều này chứng tỏ nhu cầu
của người dân ở đô thị là rất lớn. Cho nên, “phố chuyên doanh là một phần hiện hữu
trong diện mạo đô thị Việt Nam nói chung. Nó có lịch sử và cả một tiến trình lịch sử
phát triển rất lâu dài. Loại phố chuyên doanh ở Việt Nam là sự kết hợp độc đáo giữa
phố và chợ, giữa văn hóa làng xã và văn hóa đô thị, giữa kinh tế tư nhân và kinh tế
cộng đồng, giữa kiến trúc ở và kiến trúc thương mại, giữa nhà ở và hè phố, giữa văn
hóa ở và văn hóa kinh doanh” [Nguyễn Minh Hòa 2007:9].
Chẳng xa lạ gì khi Trịnh Hoài Đức rất hay dùng từ “phố chợ” để mô tả quang
cảnh những nơi thuộc trung tâm thương mại sầm uất vào bậc nhất ở Nam Bộ trong
120
thế kỷ XVII – XVIII như phố chợ Mỹ Tho, phố chợ Sài Gòn. Vị trí của các đô thị
luôn ở trung tâm của mạng lưới giao thông đường thủy từng khu vực, tận dụng sự
thuận tiện của hệ thống sông rạch, đường biển và những bến – chợ trước đó để hình
thành các bến cảng trong đó có những cảng quan trọng như cảng Sài Gòn, Cù Lao
Phố, Ba Vát, Hà Tiên. Có thể nói, đặc điểm hình thành và phát triển của đô thị Nam
Bộ là những “đô thị sông nước” với những khu chợ kinh doanh buôn bán tấp nập.
Người ta biết đến đô thị không chỉ là những thành quách, các công trình hành chính
hay tôn giáo mà còn được biết đến với những bến – chợ nổi tiếng, với sự phong phú
của hàng hóa, sự giao lưu trao đổi buôn bán trù mật của chợ, sự đông đúc trong giao
tiếp mua bán của cư dân (xem Hình 25 + 26).
Hình 25. Nhà lồng chợ Mỹ Tho khoảng cuối thế kỷ XIX
Ảnh: nguồn Internet
Hình 26. Nhà lồng chợ Mỹ Tho ngày nay Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
Các đô thị Nam Bộ từ khi hình thành và trong quá trình phát triển luôn gắn
liền với khu vực sản xuất công nghiệp và vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long. Lúa
gạo và nông sản là loại hàng hóa quan trọng vào bậc nhất của Nam Bộ thời bấy giờ.
Những yếu tố thương mại đã biến những khu thương mại thành đô thị theo kiểu
phương Tây. Từ hạ tầng cơ sở như đường bộ thay thế giao thông trên kinh rạch, hệ
thống điện, đường cống ngầm thoát nước… đến việc phát triển các ngành nghề dịch
vụ. Cư dân cũng dần biến đổi nhu cầu đời sống thành tầng lớp thị dân và lối sống
văn hóa đô thị.
Có ý kiến cho rằng, Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XX vẫn chưa có đô thị và
một nền văn hóa đô thị. Các kinh đô thường nặng về chức năng hành chánh và quân
121
sự, mặc dù là trung tâm của đất nước nhưng do luôn chịu tác động mạnh mẽ từ
những vùng nông thôn xung quanh nên hầu như tính chất đô thị khá mờ nhạt. Các
cảng dù là cảng biển hay cảng sông, thực chất cũng chỉ là những bến chợ trung
chuyển, dịch vụ mà không gắn liền với khu vực kinh tế sản xuất hàng hóa. Điều này
có thể đúng với các đô thị cổ phía Bắc hay miền Trung, còn các đô thị ở Nam Bộ
hình thành có phần khác biệt so với những đô thị khác như Hà Nội, Huế, Hội An.
Bước đầu, sự hình thành các đô thị Nam Bộ mang tính chất là trung tâm kinh tế
nông nghiệp, yếu tố này trong quá trình phát triển đã thể hiện ngày càng nổi bật.
Điểm lại những đô thị thời Nguyễn ở Nam Bộ ta thấy vào nửa đầu thế kỷ XIX, đây
là những trung tâm kinh tế sầm uất với ưu thế hàng hóa là nông sản. Trong sử sách,
bên cạnh việc ghi chép những tòa thành mang chức năng trung tâm hành chính thì
nhà cửa, phố xá, chợ búa luôn được nhắc đến như một thành phần quan trọng của
tòa thành đó.
Các đô thị lớn ở Nam Bộ hiện nay đã xây dựng rất nhiều chợ có quy mô lớn về
diện tích và số lượng hàng hóa, cung cấp đầy đủ nhu cầu của người dân trong nước
và khách du lịch nước ngoài. Ngoài ra, một số chợ còn được nâng cấp thành những
trung tâm thương mại bề thế để đổi mới diện mạo của đô thị. Một số chợ lại trở
thành biểu tượng văn hóa của đô thị, sự gần gũi và quen thuộc của chợ đến nỗi nếu
bỏ đi ngôi chợ đó thì hầu như đô thị đó sẽ thiếu hẳn một thứ rất quan trọng. Như
chợ Bến Thành là một ngôi chợ không thể thiếu trong đời sống văn hóa người dân ở
thành phố Hồ Chí Minh, nó đã trở thành một biểu tượng văn hóa quan trọng mỗi khi
người ta nhắc tới Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù đây không phải ngôi chợ chuyên
dành cho người dân lui tới để mua bán những vật dụng sinh hoạt hàng ngày. Người
dân đến chợ Bến Thành hầu như chỉ để chiêm ngưỡng hàng hóa cũng như hồi ức lại
về một ngôi chợ cổ ngày xưa. Khách du lịch tới chợ Bến Thành để thỏa mãn một
chuyến du lịch và mua cho mình một món đồ truyền thống Việt Nam làm kỷ niệm
cho chuyến đi du lịch của mình (xem Hình 27 + 28).
Mối quan hệ giữa chợ và đô thị còn thể hiện ở tính tự cung tự cấp ở mỗi khu
vực chợ trong đô thị. Ở nông thôn Việt Nam nói chung hay Nam Bộ nói riêng, cứ
122
mỗi làng mới có một cái chợ nhỏ, có khi hai ba làng mới có một chợ. Điều này thể
hiện tính tự cung tự cấp của người dân, dù chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu hàng hóa
trong sinh hoạt hàng ngày mà thôi. Ở thành thị, ngoài những chợ lớn ra thì hầu như
mỗi ấp, thậm chí mỗi khu vực nhỏ đã có một chợ nhằm cung cấp đủ hàng hóa cho
cư dân đô thị sinh hoạt hàng ngày.
Hình 27 + 28. Chợ Bến Thành xưa & nay. Ảnh: nguồn Internet
Như vậy, đô thị sẽ không thể hình thành được nếu như không có vai trò và
chức năng của chợ. Bởi chợ là nơi tạo ra và duy trì các mối quan hệ xã hội, để
người dân có sự cân bằng về vật chất và tinh thần, là nơi cung cấp nhiều sự lựa chọn
hàng hóa với nhiều mức giá khác nhau cho các tầng lớp dân cư đặc biệt là tầng lớp
dân có thu nhập trung bình và thấp. Chợ cũng có vai trò hỗ trợ kinh tế cho địa
phương, cũng như mối quan hệ giữa thành thị và nông thôn, giữa nội thành và ngoại
thành. Một vai trò quan trọng khác của chợ đối với đô thị là sự lưu giữ và thực hành
văn hóa địa phương, tạo ra bản sắc cộng đồng của thành phố.
4.2. Sự biến đổi nhu cầu người bán và người mua
“Đô thị hóa là một quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang kinh
tế công nghiệp, du lịch và thương mại. Sản xuất nông nghiệp giảm, sản xuất phi
nông nghiệp tăng và sự di dân nông thôn ra thành thị ngày càng tăng làm cho bộ
mặt đô thị thay đổi theo xu hướng ngày càng hiện đại. Quá trình đô thị hóa thường
gắn liền với chủ trương phát triển công nghiệp của một vùng, một địa phương hoặc
một khu vực» [Huỳnh Lứa 2000:165].
123
Khác với một thời đại nông nghiệp truyền thống, đô thị hóa tập trung về phát
triển công nghiệp, bao gồm kinh tế, thương mại và mở rộng không gian đô thị. Nền
kinh tế càng phát triển quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Đô
thị hóa góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của khu vực, nâng cao đời
sống của người dân; dĩ nhiên, nhu cầu về buôn bán kinh doanh cũng thay đổi theo
từ xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp. Nhu cầu của người tiểu thương và
người tiêu dùng cũng thay đổi thể hiện qua thái độ, hành vi, phong cách ứng xử của
người bán và người mua.
4.2.1. Người bán
Từ trước đến nay, một đặc điểm rất khác biệt ở chợ là đa số người bán hàng
phải có chào mời khách mua hàng hay còn gọi là nghệ thuật chào mời khách. Nghệ
thuật chào mời được thể hiện đa sắc thái ở chợ. Nếu như cả chục cửa hàng bán một
kiểu hàng hóa giống nhau, chất lượng như nhau và giá cả như nhau, thì người bán
sẽ là yếu tố quan trọng nhất quyết định thành quả bán hàng của họ. Người bán phải
chào mời thế nào để khách ghé vào cửa hàng và quan trọng hơn phải biến người
mua hàng thành khách hàng thân thiết của mình. Niềm nở quá thì khách ái ngại, im
ắng quá thì khách cũng không biết đâu mà đến. Văn hóa ứng xử ở chợ có cơ hội bộc
lộ thông qua phong cách ứng xử và bán hàng của người kinh doanh.
Mục đích của người kinh doanh luôn là bán chạy hàng với một lợi nhuận nhất
định. Nhu cầu của họ chính là những mặt hàng đang chiếm ưu thế ngoài thị trường
để phục vụ người tiêu dùng và quan trọng là đạt được mục đích của họ.
Trong quá trình đô thị hóa, nền kinh tế thị trường đang phát triển ồ ạt thì sự
cạnh tranh trong kinh doanh, dịch vụ diễn ra gay gắt. Chợ tự phát mọc lên khắp nơi,
bộ phận người làm kinh doanh buôn bán ngày càng nhiều, do vậy tình trạng mất cân
bằng giữa cung và cầu đang là vấn đề khó khăn đối với nhiều người tiểu thương.
Câu nói «trăm người bán vạn người mua» hay cảnh «ồn ào như vỡ chợ» xem ra rất
ít gặp ở chợ truyền thống trong đời sống hiện đại ngày nay.
124
Thêm vào đó, sự xuất hiện của các hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại với
vô số những chương trình khuyến mãi, giảm giá, bốc thăm trúng thưởng để thu hút
khách hàng đã khiến những tiểu thương trong chợ truyền thống bị chia sẻ một lượng
khách hàng đáng kể, phần lớn là những người có thu nhập cao và trung bình. Quan
sát ở các chợ truyền thống hiện nay, số lượng người tiêu dùng thường xuyên đến
chợ truyền thống mua sắm đã giảm sút đáng kể. Trước đây, các tiểu thương ăn nên
làm ra là vì phần đông người dân còn giữ thói quen đi chợ truyền thống và họ cũng
đã có một lượng khách hàng thân thuộc nhất định. Nhu cầu tiêu dùng của đại bộ
phận dân chúng cũng không quá cao nên chợ là một sự lựa chọn phù hợp nhất.
Hình 29. Mua hàng trong siêu thị Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
Hình 30. Một góc chợ truyền thống Ảnh từ nguồn Internet
Trong quá trình đô thị hóa, nhu cầu của người tiêu dùng thay đổi, nhu cầu ăn
ngon mặc đẹp hơn, nhu cầu mua sắm của họ cũng cần được nâng cấp với một không
gian thoáng mát hơn, hiện đại hơn, sang trọng hơn. Nhiều người tiêu dùng đã «bỏ
rơi» chợ truyền thống đến với siêu thị và các trung tâm thương mại để «tận hưởng»
một không gian mua sắm tiện nghi, hiện đại cũng như được hưởng những chương
trình khuyến mãi hấp dẫn trên (xem Hình 29). Do vậy, các tiểu thương cũng phải
biến đổi nhu cầu bán buôn của mình để phù hợp với điều kiện hiện tại.
Có rất nhiều tiểu thương không chịu nổi mức thuế hơn nữa việc kinh doanh
không khả quan nên họ đã phải “bỏ nghề” hoặc sang sạp để chuyển sang một hình
thức kinh doanh khác nhằm đảm bảo thu nhập của gia đình họ. Cụ thể như chợ
Phạm Văn Hai (quận Tân Bình, Tp.HCM) theo Ban quản lý chợ cho biết ở khu nhà
lồng C của chợ cách đây vài năm có tới gần 200 hộ kinh doanh bằng sạp trong chợ,
125
nhưng hiện tại chỉ còn khoảng 20 hộ kinh doanh là còn hoạt động, nhưng cũng
không hiệu quả. Theo Ban quản lý chợ Bà Chiểu cho biết số lượng tiểu thương
ngưng bán hẳn thì chiếm khoảng 10% nhưng có tới gần 40% tiểu thương tạm thời
nghỉ bán.
Nhiều tiểu thương cũng biết tận dụng ưu thế của nền kinh tế hiện đại, nghĩa là
thay vì việc kinh doanh buôn bán cho người dân thì họ chuyển sang kinh doanh theo
hình thức thương mại du lịch. Hình thức này chủ yếu bán cho khách du lịch ở xa
tới. Thông htường bất cứ ai đi du lịch cũng muốn ghé vào chợ vùng đó để coi hàng
hóa, hoặc coi những món hàng nào đó đặc biệt mà khu vực họ không có họ sẽ mua
làm kỷ niệm. Lâu dần, chợ trở thành điểm đến của khách du lịch. Điều này lại dần
trở thành một thực trạng, đó là tiểu thương bán quá đắt cho khách du lịch. Vì họ biết
rằng mỗi khách chỉ mua một lần rồi đi chứ không còn là khách hàng thân thuộc
hàng ngày như trước đây. Do vậy, ở chợ vẫn còn những tiếng chào mời, tiếng rao
hàng của người bán, nhưng đã bị nhạt nhẽo, khách sáo chứ không còn thân thuộc,
gần gũi với người mua nữa.
Một số bộ phận tiểu thương khác thì chuyển sang hình thức kinh doanh bán sỉ,
hoặc mở cửa hàng lớn hơn. Thay vì một sạp nhỏ bán hàng ngày ở chợ thì giờ đây họ
đã thành lập một cửa hàng lớn bán ở mặt tiền đường phố nào đó. Có những tiểu
thương có ý tưởng kinh doanh táo bạo hơn, họ thành lập công ty với những sản
phẩm chuyên biệt, độc quyền và để tránh tình trạng cạnh tranh, hàng hóa của họ đã
được đăng ký bản quyền và được pháp luật bảo hộ. Khi công ty đi vào hoạt động ổn
định, có được một lượng khách hàng nhất định và thu nhập cao, họ bắt đầu mở rộng
mạng lưới kinh doanh với các chi nhánh ở những khu vực khác hoặc rộng hơn là
trên cả nước. Họ cũng chạy theo nhịp chảy của đô thị hóa, nên hình thức bán buôn
nhỏ, lời ít xem ra đã không còn phù hợp. Với những biến đổi nhu cầu kinh doanh
của người bán, chợ truyền thống cũng đang dần bị mờ nhạt bởi những phương cách
kinh doanh lớn hơn, hiện đại hơn, thu lợi nhuận nhiều hơn.
Tuy nhiên, cũng sẽ vẫn còn một bộ phận tiểu thương coi công việc buôn bán ở
chợ là một nhu cầu thiết yếu, đó là công việc gắn với cuộc đời họ như máu thịt. Một
126
nghề gia truyền được kế thừa từ đời này đến đời khác, từ đời bà đến đời mẹ rồi tới
đời con cháu. Dù trong chợ vắng khách hay đông khách thì họ vẫn cứ ngồi đó để
kinh doanh bán lẻ và ít ra đối với họ cũng vẫn còn một lượng khách hàng, tuy
không nhiều nhưng vẫn còn thói quen đi chợ truyền thống (xem Hình 30).
4.2.2. Người mua
Ngoài chức năng mua bán, chợ là một không gian giao tiếp độc đáo, đó là nơi
tập trung những đặc điểm văn hóa về nhiều mặt. Chính điều này đã thu hút người
tiêu dùng đến với chợ. Trước đây, nhu cầu cuộc sống của người dân thấp, vì vậy
mỗi làng xã đã quy định họp chợ theo phiên. Dù cuộc sống tự cung tự cấp, trong
nhà đã có nuôi trồng sẵn gia súc, gia cầm, cá, rau… đủ phục vụ cho ba bữa cơm
hàng ngày, nhưng người dân vẫn muốn đến chợ để mua sắm những vật dụng cần
thiết khác như quần áo, giày dép… thậm chí chỉ để mua một vài thứ nhỏ nhặt như
muối, mắm, gia vị. Họ đến chợ cũng không đơn thuần chỉ để mua sắm mà được gặp
bạn bè, người thân, được trò chuyện để bù vào thời gian nhàn rỗi, những chị em nội
trợ có khi dành cả một buổi để đi mua sắm tại chợ. Một cuộc giao dịch, trả giá,
thương lượng ở chợ có khi diễn ra một khoảng thời gian dài mới mua được một
món đồ ưng ý.
Nhưng trong thời hiện đại, người phụ nữ đã coi chuyện nội trợ chỉ là một phần
nhỏ trong cuộc sống. Họ đã có những công việc bên ngoài như làm việc trong văn
phòng với giờ hành chính. Vì vậy, thời gian làm công việc gia đình đã bị rút ngắn,
bữa cơm hàng ngày đã không được chăm chút mà chỉ qua loa cho xong bữa. Thời
gian đi chợ chỉ là thời gian tranh thủ, muốn mua mau chóng cho xong và không cần
phải kì kèo trả giá vài đồng. Ngoài ra, một số gia đình khá giả đã mướn người giúp
việc để lo công việc nội trợ.
Nhu cầu đời sống hàng ngày cao, người dân chuyển sang làm công nghiệp
nhiều hơn là nông nghiệp, vấn đề tự cung tự cấp cũng dần bị xóa bỏ, thay vào đó
người dân cũng cần đến chợ mua sắm thực phẩm nhiều hơn. Tuy nhiên, người dân
hiện đại cũng chỉ có một thời gian ít ỏi để dành cho việc đi chợ, thường thì họ chỉ
tạt qua chợ vỉa hè, chợ chồm hổm để mua đồ ăn hàng ngày như rau quả, thịt cá (xem
127
Hình 31 + 32 Những nhu cầu về văn hóa ở chợ cũng không còn cần thiết đối với
người dân hiện đại nữa. Nhịp sống công nghiệp trong quá trình đô thị hóa đã cuốn
họ theo với luồng sống năng động. Họ cần nhiều thời gian để làm việc và kiếm tiền
hơn là nhu cầu về văn hóa tinh thần.
Hình 31+ 32. Tranh thủ mua hàng ở chợ tự phát. Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
Lâu dần, thời gian tranh thủ đi chợ của họ cũng trở nên hiếm hoi. Siêu thị với
những món hàng tự chọn, tiết kiệm thời gian và không cần phải trả giá, cũng như
tâm lý về vệ sinh an toàn thực phẩm đã trở thành lựa chọn của phần lớn người dân
thành thị. Những gia định hiện đại chuyển sang xu hướng đi siêu thị theo lịch vào
cuối tuần, hoặc vào một buối tối để mua thực phẩm cho cả tuần, bảo quản bằng cách
«nhét» đầy vào trong tủ lạnh, đa phần là những thực phẩm đã qua chế biến sẵn để
tiết kiệm thời gian và công sức.
Hiện nay còn có những dịch vụ mua bán tiện ích khác đáp ứng đầy đủ nhu cầu
của người tiêu dùng như mua hàng qua điện thoại, có nhân viên giao hàng tận nơi.
Ngoài ra, sự bùng nổ của công nghệ truyền thông đa phương tiện như internet đã
sinh ra một hình thức mua bán mới: mua bán qua mạng, với đầy đủ các sản phẩm đa
dạng, phong phú không khác gì ở ngoài chợ. Khách hàng chỉ cần vào mạng, tìm
kiếm những món đồ mình ưng ý và đặt mua ngay trên mạng. Những món hàng này
cũng có nhân viên giao hàng tận nơi, cũng được cam kết bảo hành, giá cả cũng
không quá cao so với hàng hóa ở chợ. Người tiêu dùng lựa chọn cách mua hàng này
để đáp ứng được nhu cầu về sản phẩm mà cũng vừa tiết kiệm công sức đi lại, lại có
thêm thời gian để làm công việc khác. Lâu dần, hình thức kinh doanh này cũng đã
128
hình thành một kiểu chợ rất phổ biến hiện nay : kiểu chợ online, siêu thị online,
chuyên mua bán qua mạng internet.
Mặt khác, trong xã hội hiện đại, người tiêu dùng cũng còn có nhu cầu về chợ
với những mục đích khác nhau: nhiều người tiêu dùng đôi khi có nhu cầu đi chợ,
nhưng với tư cách là một khách du lịch. Họ đi đến một nơi xa nào đó, ngoài những
khu vui chơi giải trí và nơi họ cần ghé vào chính là chợ. Không phải ngẫu nhiên mà
ngay cả người Việt khi đi du lịch cũng ghé qua chợ địa phương để có cái nhìn bao
quát, tìm kiếm cái gì mà ở vùng mình ở chưa có thì họ mua về làm kỷ niệm. Trong
khi nhìn ngắm, trả giá, đợi mua những món hàng đó thì cũng là lúc họ giao tiếp, hỏi
han, tìm hiểu về văn hóa chợ. Thậm chí, nếu họ muốn trải nghiệm ngôn ngữ địa
phương thì không nơi nào tốt hơn chợ. Người trong nước đã thế, với du khách nước
ngoài thì chợ càng là điểm đến hấp dẫn để họ tìm hiểu, khám phá về mọi mặt, đặc
biệt là bản sắc văn hóa vùng miền đó.
Tuy nhiên, cái gì thuộc về truyền thống thì nó vẫn còn có giá trị, ngay cả đối
với con người bận rộn của thời hiện đại. Nhu cầu về mua sắm và thưởng thức không
khí chợ không hẳn đã không còn là nhu cầu của các chị em nội trợ. Ngày nay, việc
xách một cái làn đi chợ, được trả giá từng đồng bạc lẻ lại là khao khát bình dị của
nhiều người mà không phải lúc nào cũng có được. Phụ nữ hiện đại làm việc bên
ngoài tuy có thu nhập tốt hơn, nhưng họ lại mất khoảng thời gian được làm công
việc giản dị của một người nữ công gia chánh. Dù sống trong thời hiện đại, tiện lợi
về mọi mặt, nhưng các chị em vẫn không quên được giá trị văn hóa truyền thống.
Họ vẫn muốn con cái họ biết nấu nướng, biết đi chợ, biết chọn thực phẩm, biết trả
giá, biết cởi mở giao tiếp thân tình như các bà, các cô buôn bán ở chợ.
Nhiều bà mẹ cũng không quên dạy cho con cái họ học hỏi những công việc đó.
Cảm giác được chính tay chăm sóc gia đình, cho người chồng và những đứa con
vẫn là khao khát của nhiều phụ nữ. Với suy nghĩ trong đầu rằng: hôm nay ăn gì ?
Thịt cá này có an toàn hay không ? Rau có tươi và sạch hay không ? Họ vẫn muốn
được nghe mời chào mua thứ này, thứ kia, được đi vào trong khu chợ đông đúc, hay
nhìn những con cá, con tôm còn tươi sống, hay tự tay chọn mua những mớ rau xanh
129
mướt ở chợ. Cảm nhận được sự tất bật của người nội trợ mới chính là hạnh phúc, là
niềm vui của một người phụ nữ và đó mới là những giá trị văn hóa truyền thống mà
chỉ có người đi chợ truyền thống mới có thể cảm nhận được.
4.3. Chợ truyền thống trong đời sống hiện đại
Chợ truyền thống mang một giá trị văn hóa tinh thần rất đặc sắc của người dân
Việt Nam nói chung. Đó là một dạng giao tiếp xã hội thông qua nhu cầu mua và
bán. Ở đó không chỉ có mua và bán mà còn hàng trăm câu chuyện giao tiếp giữa
người với người, giữa hàng xóm láng giềng, giữa những người quen, những câu
chuyện không đầu không đuôi, nhưng làm cân bằng lối sống, chất lượng sống của
một bộ phận cư dân. Bởi vậy, chợ truyền thống đã trở thành một giá trị văn hóa
không thể thiếu đối với người dân Việt từ trước đến nay. Nhưng trong đời sống hiện
đại, chợ truyền thống gần như đang mất dần vị trí của mình cả về mặt văn hóa vật
chất và tinh thần. Có lẽ việc này xuất phát từ nhiều yếu tố chủ quan và khách quan
khác nhau. Dưới đây chúng tối đưa ra một vài nhận định về chợ truyền thống trong
cuộc sống hiện đại ngày nay.
Trong những năm gần đây, sức thu hút người tiêu dùng đến với các chợ truyền
thống giảm đáng kể. Chợ đã mất đi tính độc tôn trong đời sống tiêu dùng của người
dân. Không chỉ do sự ra đời và cạnh tranh của hàng loạt siêu thị và các trung tâm
thương mại mà còn là những yếu tố tiêu cực từ chính các chợ truyền thống gây ra.
Nam Bộ, một vùng đất có nền kinh tế hàng hóa phát triển từ rất sớm và đang
chuyển mình theo nền văn minh công nghiệp, theo nhịp sống nhộn nhịp của đô thị;
thương mại ngày càng mở rộng và phát triển rầm rộ vào bậc nhất trong cả nước.
Con người sống đời sống hiện đại hơn nhưng lại thực dụng hơn. Giờ đây siêu thị và
các trung tâm thương mại đã tỏ ra ưu thế hơn hẳn so với chợ truyền thống cả về cơ
sở hạ tầng, trang thiết bị hiện đại và độ tin cậy đối với người tiêu dùng, trong khi đó
chợ truyền thống lại ngày càng xuống cấp trầm trọng cùng với những vấn đề tiêu
cực của nó.
Theo số liệu khảo sát của Sở Thương mại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng
10 năm 2002, có đến 139/186 chợ truyền thống tại thành phố Hồ Chí Minh bị xuống
130
cấp chiếm 76.8%. Các quận nội thành có 71/100 chợ bị xuống cấp, các quận mới có
37/47 chợ, các huyện ngoại thành có 31/39 chợ bị xuống cấp. Các biểu hiện xuống
cấp phổ biến ở các chợ chủ yếu là bị dột mái, mục nát, sàn nhà, các quầy bị hư
hỏng, hệ thống cấp thoát nước bị tắc nghẽn, tình trạng ngập nước, lầy lội phổ biến ở
các chợ, nguy cơ hỏa hoạn cao. Ngoài ra, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm cũng là
vấn đề lo ngại của người tiêu dùng khi đến chợ.
Trong nhà lồng chợ, ngoài các khu bán các mặt hàng thời trang, mỹ phẩm,
giày dép và các mặt hàng tiêu dùng khác được bày bán ở khu vực khô ráo, sạch sẽ;
còn lại là khu thực phẩm tươi sống, rau củ, khu bán thủy hải sản, thịt gia cầm…
thuộc thế mạnh của chợ truyền thống lại luôn trong tình trạng ẩm thấp, sình lầy,
không đảm bảo vệ sinh môi trường trong không gian chợ bởi nước rửa thực phẩm,
nước rửa cá sống khi mổ, đánh vảy, nước rửa thịt sống bị ứ đọng lại do nền chợ
thấp, cống không thông luôn bốc mùi nghiêm trọng, làm cho chợ vốn dĩ đã xuống
cấp trông càng tệ hại, nhếch nhác hơn, nhất là vào mùa mưa.
Qua khảo sát thực tế tại chợ Bà Chiểu thành phố Hồ Chí Minh, tình hình cơ sở
vật chất của chợ này đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Trong thời gian qua, các
tuyến đường xung quanh chợ (gồm Bùi Hữu Nghĩa, Vũ Tùng, Phan Đăng Lưu,
Trịnh Hoài Đức) đã được nâng cấp lòng lề đường, nên hiện tại nền sàn nhà của chợ
đã thấp hơn so với mặt đường khoảng 30cm. Số lượng tiểu thương kinh doanh lên
tới 1.456 sạp, kinh doanh đủ các mặt hàng, trong khi nhà lồng chợ lại chật hẹp; sàn
ở chợ luôn đọng nước, gây mùi và mất vệ sinh nghiêm trọng.
Bên cạnh các chợ xuống cấp do xây dựng quá lâu lại không được nâng cấp sửa
chữa, nhiều chợ mặc dù mới được xây cất gần đây nhưng lại do ý thức xây dựng
kém, tính đồng bộ về cơ sở vật chất không bảo đảm cũng là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng xuống cấp ở các chợ. Mặt khác, có nhiều chợ truyền thống không có hệ
thống thoát nước do hệ thống đường sá sau này mới được nâng cấp, mà chợ thì lại
xây cất từ trước đó đã lâu không còn phù hợp, nhưng do thói quen và sự tiện lợi
nhóm chợ của người bán lẫn người mua mà các chợ này vẫn còn tồn tại. Theo số
liệu kiểm tra của Sở Thương mại thành phố Hồ Chí Minh, có 82/181 chợ tự phát
131
không có hệ thống thoát nước, trong số 186 chợ truyền thống có 22 chợ bị ngập
hoàn toàn và 43 chợ bị ngập một phần.
Địa điểm Số
chợ
Có
QĐ
Chưa
có QĐ
Dân số Dân số bình quân/
1 chợ
Quận nội thành 102 77 35 3.604.558 35.339
Huyện ngoại thành 48 5 40 994.522 20.719
Các quận mới 45 10 37 850.522 18.892
Tổng số 207 95 112 5.449.217 26.325
Bảng 2. Bảng phân bố chợ truyền thống ở TP Hồ Chí Minh, năm 2003.
Nguồn: Sở Thương mại thành phố Hồ Chí Minh
Ngoài ra, tình trạng quá tải ở nhiều chợ và việc sử dụng không hết công suất,
mặt bằng kinh doanh bị bỏ trống cũng là nguyên nhân dẫn đến việc xuống cấp của
nhiều chợ. Hầu hết các chợ không chỉ kinh doanh trong nhà lồng mà còn sử dụng
các hành lang xung quanh chợ để bố trí các hộ tiểu thương vào kinh doanh trong các
con hẻm chung quanh chợ.
Các vấn đề trên cho thấy vấn đề xuống cấp ở các chợ truyền thống là rất trầm
trọng, rất đáng báo động, điều này làm giảm đi đáng kể số lượng người tiêu dùng
đến chợ. Ngày nay, khi đời sống được tăng lên, mọi nhu cầu cũng được tăng lên,
người ta đi mua sắm cũng ăn mặc đẹp hơn, vì thế họ không thể vào những ngôi chợ
mà tình trạng cơ sở vật chất xuống cấp, mất vệ sinh đến như vậy.
Quan sát ở nhiều đô thị, chúng ta thấy có một số chợ lâu đời, cũ kỹ, xuống cấp
được sửa chữa mới hoặc xây dựng lại thì lại bị bỏ trống, không khai thác hết mặt
bằng kinh doanh trong chợ; trong khi đó, một số chợ lại quá đông và các sạp bày
bán lại quá chật chen lấn trong chợ. Điều này dẫn đến tình trạng một số chợ không sử
dụng được hết mặt bằng kinh doanh trong khi một số chợ lại quá tải (xem Hình 33).
132
Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu mặt bằng kinh doanh cũng diễn ra một cách phổ
biến. Phần lớn các chợ có lầu đều không khai thác được hết mặt bằng ở tầng lầu để
đưa vào kinh doanh. Nhiều chợ phải bỏ trống tầng lầu và một số tiểu thương trong
chợ phải bỏ sạp trong nhà lồng để đi ra ngoài kinh doanh, dẫn đến tình trạng thừa
mặt bằng trong nhà lồng đồng thời quá tải ở khu vực ngoài nhà lồng, nhất là các
tuyến đường dẫn vào chợ.
Hình 33. Chợ Cũ ngày nay, trước kia là trung tâm mua bán của Mỹ Tho Đại Phố
Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
Theo kết quả khảo sát của Sở Thương mại thành phố Hồ Chí Minh, đến tháng
12 năm 2002, đối với các chợ có quyết định công nhận thì có tới 33% số chợ không
sử dụng hết công suất về mặt bằng. Cũng theo Sở Thương mại thành phố Hồ Chí
Minh thì hiện nay có 15 chợ có lầu với tổng diện tích là 52.857 m2. Trong đó số
tầng lầu là 25 tầng, 11 tầng được sử dụng đúng công năng, 6 tấng lầu không đưa
vào kinh doanh được và 8 tầng lầu phải chuyển công năng. Như vậy thì có tới 56%
số tầng lầu không được sử dụng hoặc chuyển công năng.
Các đô thị hiện nay cũng đang thực hiện chương trình cải tạo, xây dựng mới
các chợ. Các khu chợ kiểu này hoạt động rất trật tự và văn minh, sạch sẽ. Tuy nhiên
tốc độ kinh doanh lại chậm nên chưa thể đáp ứng được hết nhu cầu của người tiêu
dùng. Đi tìm hiểu một vài nguyên nhân vì sao một vài chợ mới xây và một số chợ
133
cũng xuống cấp trầm trọng khi được xây dựng lại và nâng cấp thì lại mất vị trí trong
lòng người tiêu dùng, có nghĩa là ít người tiêu dùng lui tới mua sắm, mặt bằng lại
không được khai thác hết triệt để, mặc dù những chợ này đã tốn những khoản đầu tư
xây dựng không hề nhỏ. Theo chúng tôi, có thể xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, người tiêu dùng vốn đã quen thuộc với không khí chợ truyền thống
huyên náo trước kia. Họ đi chợ không chỉ để mua sắm mà còn là một thói quen khi
họ luôn muốn duy trì ngôi chợ vốn dĩ đã thân thuộc với địa phương họ, tuy có chật
hẹp một chút nhưng người ta vẫn thích trao đổi với nhau ở đó. Khi xây dựng lại một
ngôi chợ khang trang, có lầu và cơ sở vật chất hiện đại thì người dân đã cảm thấy xa
lạ và thiếu vắng cái gì đó thuộc về truyền thống. Tuy thừa không gian thoáng đãng
nhưng lại thiếu không khí của một ngôi chợ náo nhiệt. Điển hình như chợ Văn
Thánh ở quận Bình Thạnh, vốn xây dựng tốn đến 12 tỉ đồng, quy mô kiên cố, rộng lớn,
nhưng khi xây dựng xong thì có tới hơn phân nửa số sạp bị bỏ trống vì sức mua thấp.
Thứ hai, thiết kế của chợ chưa thật sự phù hợp với nhu cầu thực tế của người
tiêu dùng. Chợ cũ trước đó chỉ là một ngôi chợ vừa hoặc nhỏ, khi quy hoạch xây
dựng lại thì quá lớn; số lượng tiểu thương không đủ để kinh doanh trên toàn diện
tích sử dụng của ngôi chợ đó. Ngoài ra, đối với các tầng lầu, phần lớn các chợ có
tầng lầu không khai thác hết, vì người đi chợ ngại đi lên lầu, nguyên nhân một phần
cũng do không trang bị thang máy, thang cuốn. Những mặt hàng họ cần mua hầu
như các tuyến đường gần chợ đã có bán sẵn, nên người tiêu dùng cũng không cần
thiết lên lầu để mua. Do vậy, đối với mô hình chợ mang tính truyền thống thì việc
xây lầu đã tỏ ra không được hiệu quả cho lắm.
Thứ ba, do cơ sở vật chất được nâng cấp, mức thuế cũng tăng, các tiểu thương
không chịu nổi mức thuế quy định ở chợ và vì thế xảy ra tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh giữa các hộ kinh doanh tự phát lấn chiếm lòng lề đường xung
quanh chợ và những hộ kinh doanh trong chợ, trong khi các cơ quan hữu trách
không kiên quyết giải tỏa khu vực tự phát bên ngoài chợ. Điều này dễ hiểu bởi
người tiêu dùng vào chợ thì cảm thấy bất tiện, mất thời gian trong khi nhu cầu của
họ chỉ là mua một vài mớ rau, vài con cá… cho nên không cần phải vào trong nhà
134
lồng. Như vậy, mô hình chợ mới này chỉ phù hợp với việc tham quan, nhìn ngắm
hơn là mua sắm.
Thứ tư, địa điểm xây dựng chợ không thuận lợi và công suất chợ không phù
hợp. Có những chợ được xây dựng quá lớn so với mật độ dân cư trong vùng dẫn
đến tình trạng cung lớn hơn cầu. Tuy nhiên, điều này cũng khó mà khắc phục do
chính sách phát triển đô thị, cụ thể là từng khu vực hoặc tùy vào chính sách phát
triển của chủ đầu tư xây dựng chợ.
Thứ năm, trật tự an ninh và an toàn giao thông xung quanh chợ kém, chưa
đảm bảo, không tuyệt đối an toàn đối với người đi chợ, đặc biệt là sự mọc lên chợ
tự phát ngay cạnh chợ chính, là nguyên nhân gây mất trật tự, gây kẹt xe. Một vấn đề
nữa là nơi gởi xe, một số chợ còn không có chỗ dành cho khách gởi xe. Theo khảo
sát thì chỉ có 70,3% trên tổng số chợ được công nhận và 57,9% tổng số chợ chưa
được công nhận là có bãi giữ xe [Sở Thương mại Tp.HCM 2003:28]. Những chợ có
bãi giữ xe hoặc có tầng hầm cho người đi chợ gởi xe nhưng lại mất tiền gởi xe,
nhiều chợ lấy phí gởi xe rất cao, trong khi người dân đi chợ chỉ mất vài ngàn để
mua rau thì cũng phải tốn đến vài ngàn đồng để gởi xe. Vì vậy, họ chỉ cần tạt qua
chợ tự phát là đã đủ đáp ứng nhu cầu ăn uống hàng ngày rồi.
Thứ sáu, những người tiêu dùng yêu thích chợ truyền thống bởi sự gần gũi,
đông đúc và sôi động của nó. Không gian tuy không rộng rãi nhưng là một không
gian giao lưu thân thiện, chứ không phải mỗi sạp ở chợ được quây bởi bốn bức
tường riêng biệt như chợ mới được xây dựng.
Ngoài ra, còn một số vấn đề tiêu cực trong chợ truyền thống. Hiện nay, vấn đề
lạm phát ngày càng tăng cao, một số tiểu thương trong chợ tự động tăng giá cả mà
không có sự bình ổn giá giống như siêu thị hay trung tâm thương mại. Điều đó dẫn
tới tâm lý hoang mang, mất lòng tin đối với người tiêu dùng khi mua sắm tại chợ.
Có thể nhận thấy một vấn đề đang làm mờ nhạt chợ truyền thống hiện nay đó là dù
ở siêu thị người tiêu dùng tuy phải chịu mức thuế, nhưng giá cả cũng chỉ tương
đương thậm chí còn rẻ hơn so với ở chợ hiện nay. Những tình trạng như vậy đã làm
cho chợ truyền thống mất dần vị trí trong đời sống hiện đại.
135
Hình ảnh của ngôi chợ truyền thống hiện nay cũng đủ các mặt hàng đa dạng về
kiểu dáng, mẫu mã, nhưng đã khác về cách trưng bày hàng hóa, chỗ ngồi bán và
người bán cũng tiết kiệm lời chào hỏi người mua hơn. Họ giao tiếp cứng nhắc hơn,
những lời rao hàng cũng trở nên nhạt nhẽo, vô vị hơn. Chợ truyền thống ngày nay
đang tập hợp nhiều quầy bách hóa nhỏ giống nhau, không còn không gian cho
những sạp dành cho những nghệ nhân dân gian như đờn ca tài tử, nặn tò he, vẽ chân
dung, thư pháp… Mà nếu có thì cũng chỉ là một góc nhỏ chật hẹp, tối tăm và rất ít
người thưởng lãm. Ẩm thực thì không còn phong phú với những món ăn truyền
thống trước kia, mà thay vào đó là những món mới như hot dog, lẩu, những món ăn
nhanh theo kiểu châu Âu.
Trong khi đó, nhiều nơi hình thành cụm dân cư, nhiều khu đô thị mới, hiện đại
với những chung cư cao tầng, nhưng hầu như lại thiếu vắng những ngôi chợ truyền
thống. Tại các khu đô thị mới hầu như chỉ có một vài siêu thị, cửa hàng tự chọn với
một số hàng hóa nhu yếu phẩm, đồ đông lạnh, đồ hộp, hầu như không cung cấp
được thực phẩm và yêu cầu mua bán giá rẻ của người tiêu dùng. Như vậy, xem ra
chợ tự phát, chợ chồm hổm lại thu hút nhiều người tiêu dùng bởi sự tiện lợi, người
tiêu dùng sẽ không cần phải gởi xe, chỉ cần ghé ngang là có thể mua được sản
phẩm. Chợ chồm hổm, chợ tự phát ngày nay lại bày bán đủ mọi thứ thực phẩm tươi
sống như tôm, cá, rau quả… với giá cả phù hợp. Từ đây, lại phát sinh ra vấn đề mỹ
quan đô thị. Đô thị mới đang mất dần đi vẻ đẹp mà thay vào đó là sự nhếch nhác, ô
nhiễm môi trường. Tính đến tháng 12 năm 2002, ở thành phố Hồ Chí Minh đã có
tới 173 chợ tự phát [Sở Thương mại Tp.HCM 2003:31]; trong thời gian gần đây,
chợ tự phát bùng phát ngày càng nhiều.
Quan sát các chợ hiện nay, vào những buổi sáng sớm đã không còn những
buổi họp chợ nhộn nhịp nữa, mà thay vào đó là một vài giờ họp chợ chớp nhoáng,
lộn xộn, nhưng nó vẫn tồn lại một cách hồn nhiên ngay lề đường mà chưa có một
biện pháp xử lý nào thỏa đáng. Trong quy hoạch xây dựng các khu đô thị thì không
thể thiếu được chợ và trung tâm thương mại. Thế nhưng các khu đô thị đua nhau
mọc lên, nhưng người ta hầu như chỉ tập trung vào phần công trình sinh lợi mà ít có
136
phần công trình sinh hoạt cộng đồng cho người dân giống như chợ, vì vậy dẫn đến
việc cơ sở hạ tầng không phát triển một cách đồng bộ.
Hơn nữa, việc mua sắm thực phẩm và đồ dùng tại các siêu thị lớn tỏ ra có ưu
thế hơn nhiều so với chợ truyền thống về sự văn minh, sự tiện lợi khi chọn hàng,
nguồn gốc xuất xứ, giá cả được niêm yết rõ ràng, hàng hóa phong phú và liên tục có
các chương trình giảm giá đặc biệt, khuyến mãi hấp dẫn. Nhiều người tiêu dùng khó
tính còn cho rằng, chọn mua hàng thực phẩm, đồ dùng tại các siêu thị hiện đại khiến
họ cảm thấy yên tâm hơn bởi cơ sở hạ tầng, không khí sạch sẽ thoáng mát, điều kiện
bảo quản thực phẩm đến công tác quản lý, phục vụ, kiểm soát chất lượng đầu vào
cũng như đầu ra của sản phẩm ngày càng khắt khe. Về đặc điểm này, các mô hình
kinh doanh truyền thống chưa thể làm được trong một sớm một chiều.
Việc chiếm lĩnh của các siêu thị, các chuỗi siêu thị, các trung tâm thương mại
với những thương hiệu lớn thuộc sở hữu của nước ngoài và việc «đua đòi», ăn theo
của một số bộ phận người tiêu dùng Việt Nam đang làm lu mờ dần vai trò của chợ
truyền thống, những quan hệ và hình ảnh về một ngôi chợ thân thương dần bị xóa
bỏ, trong khi chợ là một yếu tố văn hóa quan trọng cần phải được giữ gìn và phát
huy vẻ đẹp văn hóa đó.
4.4. Vấn đề duy trì và phát triển chợ truyền thống ở đô thị ngày nay
Chợ là không gian rất sống động để mỗi người cảm nhận về văn hóa của nơi
họ sống với nhiều sắc màu thú vị khác nhau. Không phải ngẫu nhiên mà chợ được
coi như là một dạng giao tiếp xã hội thông qua quá trình mua và bán. Ở đó đã diễn
ra rất nhiều câu chuyện giữa người với người: giữa những người quen, người lạ,
những câu chuyện bâng quơ, nhưng nó lại làm cân bằng lối sống, chất lượng sống
của mỗi bộ phận dân cư. Có thể nói, chợ truyền thống đã tồn tại và song hành cùng
với sự phát triển của Nam Bộ, thông qua hoạt động giao thương cũng như sự thay
đổi diện mạo của từng ngôi chợ theo từng giai đoạn đã phần nào phản ánh được văn
hóa tiêu dùng của cư dân Nam Bộ từ trước đến nay.
137
Tuy nhiên, đã từ rất lâu rồi, hình ảnh những cô lái đò vừa chèo đò vừa hò đối
đáp với người con trai trên những chiếc ghe chở hàng, những lúc tổ chức cuộc vui
chơi đờn ca tài tử, những người phụ nữ Nam Bộ mặc áo nâu quấn khăn rằn rao hàng
bằng những làn điệu ngọt ngào ở chợ một thời đã không còn thấy nữa. Những phiên
chợ truyền thống nổi tiếng một thời cũng chỉ còn phảng phất đâu đây, ở những món
ăn dân dã còn được người bán duy trì nơi góc chợ. Quả thật, một phần đời sống của
người dân được khắc họa qua sự phát triển của chợ truyền thống, hay cũng có thể
nói rằng chợ là nơi lưu giữ tổng thể những nét văn hóa cũng như tục lệ của người
dân nơi đó, đến nỗi tưởng chừng cái chợ chỉ là sự hiện hữu cụ thể mà người ta vẫn
nhìn thấy, vẫn biết, nhưng bản chất văn hóa bên trong của nó thì không phải ai cũng
cảm nhận được, chỉ khi nào đã mất đi người ta mới thấy sự tiếc nuối trong ký ức.
Trong quá khứ, chợ là sự giao lưu đông đúc nhưng gần gũi đối với người dân
Việt. Tiếc rằng, ngày nay chúng ta ít bắt gặp những cảnh họp chợ huyên náo đó.
Trong quá trình đô thị hóa, chợ đơn thuần chỉ là những cửa hàng bách hóa tổng hợp
và chức năng chính cũng chỉ là mua và bán. Giao tiếp với văn hóa chợ gần như đã
mất hẳn trong cuộc sống đô thị hóa. Hiện nay, nhiều cụm dân cư, khu đô thị mới,
hiện đại với những cơ sở hạ tầng cao cấp, nhưng có lẽ do “quá hiện đại” hay do
mức sống quá cao nên ở những khu như vậy hình như đã vắng hẳn bóng dáng của
chợ truyền thống. Nhìn chung, những khu thương mại cao cấp, siêu thị đã thay thế
cho chức năng của chợ.
Một thực trạng cho thấy những khu đô thị, tái định cư, chung cư đang thiếu
chợ. Nguyên nhân là do quy hoạch không xác định đất xây dựng chợ dành cho
người dân, hoặc họ tận dụng đất đai để xây dựng chợ theo kiểu hiện đại và bán hàng
theo cung cách phục vụ ở siêu thị. Mặc dù những khu đô thị có quy mô rất lớn
nhưng lại không hề có chỗ cho chợ nên nhu cầu có một chợ dân sinh là vấn đề cấp
bách ở những khu đô thị mới, hiện đại này.
Có cung ắt có cầu. Hiện nay ở các khu đô thị đã xuất hiện rất nhiều khu chợ tự
phát: chợ trên cầu, chợ dưới lòng đường, chợ trước trường học… Tại những chợ
này, khách dừng xe mua hàng lấn chiếm lòng lề đường gây cảnh ùn tắc giao thông
138
thường xuyên diễn ra; mặc cho chính quyền thường xuyên tuyên truyền về việc thực
hiện nếp sống văn minh đô thị, số lượng chợ tự phát, những xe hàng lớn nhỏ vẫn
ngày càng mọc lên như nấm.
Phải chăng chính những khu quy hoạch thiếu vắng chợ truyền thống đó mà
sinh ra chợ tự phát, chợ chồm hổm, những xe hàng rong cạnh khu trung tâm thương
mại rộng lớn hoặc ngay các trục lộ giao thông? Thực tế cho thấy, những chợ tự phát
có chật hẹp nhưng lại đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân là đi chợ thuận tiện
và được mua món hàng họ thích. Hơn nữa, một vài chợ truyền thống lại được phá đi
và xây dựng lại cao cấp hơn, nhà kính, bê tông kiên cố, thiết kế khép kín, có máy
lạnh; nhưng việc thay thế chợ cũ bằng những ngôi nhà kính bê tông cao tầng đang
đặt ra những câu hỏi: tương lại các chợ truyền thống sẽ ra sao? Những người dân có
mức thu nhập trung bình và thấp sẽ mua sắm trong các chợ như thế nào? Vì sao
những chợ mới xây lại thưa vắng người mua kẻ bán trong khi các chợ tự phát lại
càng ngày càng đông?
Trước hết, việc quy hoạch, xây dựng lại chợ, hoặc nâng cấp là vấn đề hết sức
quan trọng và cần thiết. Nhưng giải pháp nào để trong quá trình nâng cấp, giữ gìn
và phát triển chợ truyền thống mà vẫn còn giữ được giá trị văn hóa lâu đời cho ngôi
chợ? Phải chăng việc quy hoạch phải có cách nhìn thực tế, nội dung của việc quy
hoạch phải đáp ứng được những khó khăn, vướng mắc hiện nay đối với chợ truyền
thống. Mỗi chợ cần tạo dựng được được thế mạnh cũng như những nét độc đáo
riêng biệt vốn có của mình; mặt khác, những chợ lâu đời khi được lên kế hoạch
nâng cấp, xây dựng lại cũng phải tạo ra hướng mở để có một vị trí xứng đáng và
phù hợp với truyền thống họp chợ của người dân Viêt Nam nói chung.
Một số chợ lớn ở thành thị Nam Bộ đã «lột xác» để trở thành các trung tâm
mua sắm hiện đại. Tuy là chợ nhưng bên trong không còn là các sạp bán buôn quen
thuộc mà thay vào đó là những gian hàng bày bán toàn hàng hiệu, hàng cao cấp
dành cho giới thu nhập cao. Hầu hết, những hàng nhu yếu phẩm đều dạt ra bán trên
lề đường hoặc những con phố gần đó. Như vậy, chợ hiện đại, siêu thị, trung tâm
139
thương mại ra đời vô tình đã làm phát sinh thêm những chợ chồm hổm, chợ tạm
thời, bán rong nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thực của người dân.
Tất cả những điều trên dẫn đến hậu quả là hạ tầng đô thị bị ô nhiễm, nếp sống
cư dân đô thị và người tiểu thương bị xáo trộn. Như vậy, phải làm sao duy trì được
mô hình chợ truyền thống hợp lý hơn, thuận tiện hơn cho người mua và người bán?
Tiến hành nâng cấp, sửa chữa những khu vực bị hư hỏng để tránh tình trạng ngập
nước, mất vệ sinh. Tuy nhiên cũng chỉ nên sửa chữa, nâng cấp chứ không nên đập
bỏ chợ cũ xây dựng chợ mới, hoặc nếu có xây dựng thì nên xây dựng lại giống như
mô hình chợ cũ.
Cũng cần phải giữ lại được những mặt hàng truyền thống mang tính dân dã để
kêu gọi người dân tìm về những giá trị văn hóa dân tộc như rổ, rá, chổi… được đan
bằng tre; khuyến khích tiểu thương kinh doanh cả những món ăn truyền thống quen
thuộc tại các chợ. Tuy nhiên, phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và phải được
các cơ quan chức trách kiểm định rõ ràng để ổn định tâm lý cho các thực khách khi
tới chợ thưởng thức ẩm thực.
Có ý kiến cho rằng cần phải dẹp bỏ triệt để các chợ tự phát, chợ vỉa hè, người
bán rong. Như thế vừa làm cho phố phường sạch đẹp, đường phố văn minh mà tạo
được công bằng cho các hộ kinh doanh. Chợ vỉa hè, chợ tự phát, gánh hàng rong,
tuy đáp ứng tiện lợi nhu cầu của người tiêu dùng, nhưng mặt khác lại là nguyên
nhân gây mất trật tự an ninh công cộng, gây ra nạn kẹt xe và nhiều tệ nạn xã hội
khác. Quan sát ở các chợ tự phát, chợ vỉa hè, gánh hàng rong, chúng ta thấy họ là
những thành phần bán chui, trốn thuế, bán hàng kém chất lượng với giá rẻ. Và mỗi
khi có nhân viên chức trách xuất hiện để kiểm tra thì họ lập tức dọn hàng, chạy tán
loạn cả một khu chợ, làm mất trật tự an ninh của khu vực chợ.
Nhưng những vấn đề như vậy cũng rất khó kiểm soát bởi những tiểu thương tự
phát này đa phần là những người không có nghề nghiệp, bằng cấp và thiếu công ăn
việc làm. Nếu xóa bỏ triệt để những chợ tự phát, chợ vỉa hè, bán hàng rong thì các
cơ quan chức trách cũng nên tạo điều kiện cho họ có công ăn việc làm. Ví dụ:
chuyển những tiểu thương này vào bán buôn trong chợ chính và có thể giảm bớt
140
thuế cũng như tiền thuê mặt bằng cho các hộ tiểu thương quá khó khăn; đưa ra
những hình phạt nặng nề đối với những tiểu thương cố ý bán buôn trái với quy định.
Như vậy, vẫn có thể giải quyết được nhu cầu cung cầu của người bán và người mua,
vẫn tạo được sự công bằng với các tiểu thương buôn bán trong chợ chính và đảm
bảo được vẻ mỹ quan của đô thị.
Ban quản lý chợ nên phối hợp với các tiểu thương thực hiện một số biện pháp
kích thích nhu cầu của người tiêu dùng như : đưa ra các hình thức khuyến mãi, tặng
quà cho khách khi mua hàng với số lượng nhiều, tặng quà cho khách hàng thân
thuộc thường xuyên tới chợ. Ngoài ra, cũng cần tăng mãi lực cho tiểu thương để
tiểu thương phát triển thêm ngành hàng, có thể liên kết với các công ty du lịch đưa
khách hàng đến tham quan chợ. Nhưng cũng phải nghiêm cấm các tiểu thương cũng
không được tự ý tăng giá cả hàng hóa để tránh những tình trạng mất khách hàng
vĩnh viễn.
Các hàng hóa ở chợ nên niêm yết giá cả sẵn để tránh tình trạng nói thách.
Hàng hóa thực phẩm cần phải được kiểm định vệ sinh an toàn thực phẩm một cách
triệt để, rõ ràng chứ không đơn thuần làm cho có theo kiểu đối phó với lực lượng
kiểm tra như một số chợ hiện nay đang thực hiện là không nên. Nếu chợ truyền
thống có đảm bảo những yêu cầu tối thiểu như vậy thì may ra còn có thể giữ được
vị trí vốn có của mình cũng như tạo được uy tín, lòng tin đối với người tiêu dùng.
Như một kiến trúc sư lớn tuổi đến từ Đại học Hawaii (Mỹ) cho rằng: “Trong
các dự định canh tân đô thị, Việt Nam đang tìm kiếm mô hình nước ngoài. Thay vì
đến Singapore để bắt chước hình mẫu quá khác biệt về duyên cớ sinh thành, các bạn
hãy đến Manila - ở đó các bạn học được nhiều điều hơn. Các bạn sẽ thấy những sai
lầm mà họ đã mắc cách đây mấy chục năm mà tránh giẫm lên vết xe đổ ấy. Các bạn
sẽ giữ được những thứ giá trị hiện có thay vì tự hủy hoại những thứ mà trong tương
lai phải rất tốn kém mới phục hồi lại được, thậm chí không thể làm nó hồi sinh”
[Dẫn theo Trần Huy Anh. Nguồn: www.tuanvietnam.net].
Sự tồn tại của chợ truyền thống là một tất yếu khách quan, phù hợp và không
thể thiếu đối với cuộc sống người dân vốn có truyền thống văn hóa gốc nông nghiệp
141
như Việt Nam. Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy chợ truyền thống hiện nay đã trở
thành một yêu cầu cấp thiết. Để thực hiện vấn đề này, không thể thiếu vai trò của
chính quyền các cấp, trách nhiệm của các nhà quản lý có liên quan. Công tác quản
lý hoạt động của chợ phải được quan tâm nhiều hơn, đúng cách hơn, việc sắp xếp,
kiểm tra chợ phải có kế hoạch cụ thể.
Khi thực hiện quy hoạch hoặc kế hoạch xây dựng lại, nâng cấp đối với chợ thì
không thể áp dụng định kiến hay áp đặt của một cá nhân hay tổ chức mà phải tuân
thủ quy luật mang tính khách quan. Đặc biệt là ý thức tích cực của mỗi người dân
khi tham gia mua bán ở chợ cũng là một điều hết sức cần thiết. Về vấn đề này, có lẽ
các nhà chức trách nên vận động sự đồng tình cũng như quy tắc ứng xử với cộng
đồng của người dân, tức là tuyên truyền và nâng cao ý thức của người dân trong quá
trình giữ gìn và phát huy chợ truyền thống. Bên cạnh đó, để tạo cơ sở khoa học cho
công tác quản lý, quy hoạch chợ cũng rất cần có các công trình nghiên cứu, các
cuộc khảo sát, hội thảo ở cấp độ quốc gia, ở từng khu vực, hay từng địa phương
nhằm khẳng định tính tích cực, lợi ích và giá trị của chợ truyền thống.
4.5. Tiểu kết Chương 4
Đô thị hóa về khía cạnh văn hóa là quá trình chuyển đổi văn hóa nông thôn
thành văn hóa đô thị. Trải qua quá trình lịch sử hình thành và phát triển, qua những
biến động của đô thị hóa, văn hóa cũng chịu ảnh hưởng và ít nhiều cũng có phần
biến đổi. Theo Trần Ngọc Khánh: “Thành thị là một tấm áo khoác vật chất, nơi con
người sinh cơ lập nghiệp. Đó là thế giới tự nhiên thu nhỏ do con người tạo tác, là
khoảng không gian tự nhiên được con người khuất phục, chiếm hữu. Thành thị
thuộc phạm trù văn hóa nên mang tính kế tục, tự cổ chí kim, từ khoảng không gian
sinh tồn (œukoumène) đến các hình thái đô thị, với các chức năng khác nhau qua
từng thời kỳ, biểu hiện tính đa dạng của diện mạo văn hóa đô thị”.[Trần Ngọc
Khánh. Nguồn: www.vanhoahoc.net].
Văn hóa Nam Bộ là sự kết hợp của nhiều nhân tố hỗn hợp của văn hóa cư dân
Việt giữa ba miền Bắc, Trung, Nam. Dù là những đô thị mới nhưng văn hóa Nam
Bộ vừa mang tính chất chung của đô thị cổ Việt Nam, vừa mang tính chất riêng của
142
đô thị hiện đại có xu hướng thương mại hóa. Qua đó, đô thị hóa cũng gây nên sự
phân hóa sâu sắc về văn hóa, xã hội cũng như nhu cầu của mọi bộ phận dân cư của
Nam Bộ, thể hiện ở việc ngày càng có nhiều người giàu lên nhanh chóng nhờ vào
các hoạt động dịch vụ thương mại, trong khi số lượng người nghèo cũng chiếm một
số lượng không ít, do thất học, thất nghiệp, không có công ăn việc làm.
Mặc dù đô thị hóa là một quy luật không thể đảo ngược, cuộc sống ngày càng
văn minh, hiện đại, nếp sống của con người cũng phải hiện đại hơn. Nhưng hiện đại
không có nghĩa là xóa sạch tất cả những nền nếp truyền thống của văn hóa dân tộc.
Dù sao thì quá trình đô thị hóa cũng chỉ là do chính người Việt tạo ra và phát triển
mà thôi.
Xây dựng đô thị theo một nếp sống văn minh mới là phát triển đất nước trên
mọi phương diện, nhưng nếu mất đi những gì thuộc về truyền thống thì chắc chắn
đô thị đó cũng sẽ không có được giá trị văn hóa truyền thống. Cái mà cả một quốc
gia cần chứ không đơn thuần là một đô thị cần. Một đô thị phát triển lớn mạnh
nhưng thiếu hình bóng của một ngôi chợ truyền thống thì ắt hẳn đô thị đó vẫn chưa
được gọi là đô thị có giá trị văn hóa. Hay nói đúng hơn, chợ là một nét văn hóa
truyền thống đặc sắc của đất nước, cho nên chợ cần phải được duy trì những giá trị
vốn có. Dù xã hội có phát triển đến đâu thì chợ cũng cần được trau chuốt, giữ gìn và
phát huy giá trị đặc thù của nó.
143
KẾT LUẬN
Trong lịch sử khẩn hoang miền Nam, công cuộc khai phá rừng lập ấp đã nói lên
kỳ công vĩ đại của người Việt Nam Bộ. Họ đã tạo ra một vùng đất trù phú, màu mỡ,
thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp với một lượng nông sản lớn. Và cũng
không lâu sau khi khẩn hoang ổn định, vùng đất mới này đã có sản phẩm dư thừa để
trao đổi, mua bán. Chợ cũng hình thành và phát triển cùng với cuộc khẩn hoang và
phát triển kinh tế của người dân nơi đây.
Cũng ngay thời bấy giờ tức đầu thế kỷ XVII, thuyền buôn của các nước khác
như Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Trung Hoa,…đã tới buôn bán với Đàng trong. Trên cơ
sở đó đã tạo tiền đề thuận lợi cho thương mại Đàng Trong nói chung và Nam Bộ nói
riêng phát triển mạnh mẽ. Với đặc điểm dân cư kiều ngụ đa dạng của nhiều nước
cùng sinh sống trên cơ sở nền tảng thủ công nghiệp khá phát triển nên sản xuất hàng
hóa cũng sớm xuất hiện. Do đó việc trao đổi hàng hóa ở chợ Nam Bộ cũng sớm
phát triển và mở rộng ngay từ đầu thế kỷ XVII. Hàng hóa lúc bấy giờ đã khá đa
dạng và phong phú, đặc biệt là các mặt hàng chủ lực là thóc, cau, thủy hải sản,…đã
trở thành những mặt hàng chủ lực thời bấy giờ.
Do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ nên Nam Bộ đã sớm trở thành vùng kinh tế
lớn vào bậc nhất cả nước. Cùng với lịch sử phát triển kinh tế, Nam Bộ đã sớm hình
thành những đặc trưng riêng biệt trong hoạt động thương mại thông qua các loại
hình chợ, các phương thức mua bán và cách thể hiện những nét văn hóa đặc sắc của
vùng miền thông qua tổ chức họp chợ của người dân. Đó cũng chính là nhữnh đặc
điểm thú vị nhất trong sự phát triển thương mại của Nam Bộ so với những vùng còn
lại trên cả nước. Cũng như các vùng khác, Nam Bộ cũng có những loại hình chợ
khác nhau trên cơ sở hai loại hình chính là chợ thành thị và nông thôn. Tuy nhiên,
những kiểu họp chợ đặc trưng của Nam Bộ, đặc biệt là chợ họp trên sông nước là
một điểm đáng thu hút nhất đối với người nước ngoài và ngay cả chính người Việt.
Cách họp chợ này đã thấy được những đặc trưng vùng miền là rất rõ rệt. Chợ họp
144
trên sông nước không chỉ thể hiện văn hóa kinh doanh mang tính phóng khoáng, cởi
mở, hào hiệp của người Nam Bộ mà còn thể hiện một kiểu sinh hoạt thương mại rất
đặc biệt mà khi nhắc đến chỉ có chợ ở Nam Bộ mới thể hiện hết sự sinh động, hấp
dẫn của nó. Ngoài ra, nguyên tắc trong kinh doanh lấy chữ tín làm đầu cùng với
những phương thức mua bán vận chuyển hàng hóa; những phương thức đo lường
trong kinh doanh; cũng như những cách thức đo lường trong mua bán,…tất cả đều
thống nhất trong một phương thức kinh doanh nói chung ở Nam Bộ đã cho thấy: dù
mang hình thức kinh doanh trên nền tảng văn hóa truyền thống của người Việt nói
chung thì với đặc trưng vùng miền, người Việt Nam Bộ vẫn sáng tạo cho mình một
hình thức kinh doanh riêng biệt trên cơ sở sự hội nhập của các tộc người trong và
ngoài nước.
Đặc biệt trong đời sống tinh thần, chợ lại có vai trò đặc biệt quan trọng thể hiện
qua những hoạt động mang tính tâm linh của người dân Nam Bộ. Đó là những tín
ngưỡng, những phong tục tập quán, những kiêng kỵ trong kinh doanh ở
chợ,…những yếu tố đó không chỉ chi phối đời sống tâm linh mà còn tạo cho họ
niềm tin trong cuộc sống, trong một môi trường sống trên một vùng đất chỉ mới
hình thành hơn 300 năm qua. Điều đặc biệt nhất ở chợ Nam Bộ đó chính là những
hoạt động thương mại hòa quyện với văn hóa dân gian, tạo thành một hình thức văn
hóa độc đáo, vừa có tính truyền thống trên sự sáng tạo mới của người dân Việt vùng
Nam Bộ. Bởi chỉ qua những lời nói mộc mạc, chân chất nhưng qua môi trường mua
bán trên sông nước Nam Bộ, những ngôn từ đó đã trở thành làn điệu, những bài dân
ca, điệu hò, những lời ca tài tử v.v… để khi người dân sinh hoạt bằng những làn
điệu dân gian đó, đã làm toát lên đời sống tâm tư, tình cảm cũng như những cảm
nghĩ của người dân mang nghiệp thương hồ. Những đặc điểm văn hóa đó đã làm
cho chợ ở Nam Bộ trở nên vừa quen vừa lạ đối với mỗi người khi muốn tìm hiểu về
văn hóa Nam Bộ.
Trong quá trình đô thị hóa, cùng với những biến động và phát triển kinh tế, chợ
truyền thống cũng có những sự thay đổi nhất định. Từ việc xuống cấp, hư hỏng cho
đến việc cải cách, xây dựng lại chợ đều có những sự không cân đối, không phù hợp
145
đã làm chợ truyền đang đứng trước một thực trang đáng lo ngại. Việc «hiện đại
hóa» chợ truyền thống bằng những ngôi chợ nhà kính, bê tông, sinh hoạt kinh doanh
khép kín đã làm cho chợ bị mất dần tính dân dã cũng như những hoạt động dân gian
thuần túy. Nó cũng còn không phù hợp với phong cách mua bán mang tính truyền
thống của người dân Việt. Thêm vào đó là những trung tâm thương mại, những siêu
hiện hiện đại xuất hiện cùng với những tiện ích của nó, thì hầu như một số đông
người tiêu dùng đã dần xa lánh chợ truyền thống để tìm đến những khu mua sắm
hiện đại này.
Hơn nữa văn hóa tinh thần cũng không còn ý nghĩa nhiều đối với cuộc sống đô
thị mà thay vào đó là cuộc sống vật chất lấn át cũng với những phong cách mua bán
tinh vi nhất của thời hiện đại. Bởi đã lâu người tiêu dùng đã không còn bắt gặp
những làn điệu văn hóa dân gian như đàn ca tài tử, những điệu hò, lời ru, tiếng rao ở
chợ nữa mà chỉ còn những cảnh ồn ào, mua bán nhộn nhịp nhưng chớp nhoáng mỗi
khi họp chợ.
Thiết nghĩ, chợ có vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của mỗi người
dân. Là nơi tạo ra và duy trì các mối quan hệ xã hội, để người dân có sự cân bằng
trong cuộc sống. Thông qua mua bán, trao đổi hàng hóa giữa các vùng miền, chợ lại
có vai trò cần thiết trong việc duy trì và phát triển mối quan hệ giữa thành thị và
nông thôn, giữa nội thành và ngoại thành, giữa các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Có thể thấy rằng, chợ là những gì quen thuộc, gần gũi nhất, tuy dân dã nhưng mỗi
chợ chính là nơi thể hiện rõ nhất những gì thuộc về đặc trưng vùng miền. Dù là một
ngôi chợ lớn ồn ào, náo nhiệt, hay chỉ là một góc chợ nhỏ lác đác người mua, người
bán nhưng nó thể hiện đời sống vật chất và tinh thần hêt sức phong phú trong cuộc
sống mỗi người dân thông qua phong cách ứng xử, giao tiếp với nhau ở chợ. Cho
nên, một ngôi chợ dù cũ nhưng cũng có lịch sử hình thành và mang một giá trị nhất
định trong nó, bởi vì nó không chỉ tồn tại như một sự việc được tái hiện hàng ngày
mà chợ còn là nơi chứng kiến, tiếp nhận và truyền tải văn hóa từ truyền thống cho
đến hiện đại.
146
Vấn đề duy trì và phát huy chợ truyền thống là hết sức cần thiết trong đời sống
hiện nay. Khi mà cuộc sống luôn chảy theo một dòng chảy của thời đại, người ta
cũng đang chạy theo cuộc sống và hầu như đã quên đi những gì thuộc về truyền
thống lúc nào không hay biết. Đối với chợ cũng vậy, nhiều người đã không còn cảm
thấy sức hút quan trọng của chợ truyền thống khi mà ở bất cứ chỗ nào hiện nay
cũng có thể coi là nơi mua bán, trao đổi hàng hóa.
Do đó, phát huy, bảo vệ và duy trì chợ truyền thống cần được thực hiện cấp
thiết. Ý thức không chỉ ở các nhà chức trách, những nhà quản lý, đầu tư mà còn ở
ngay chính mỗi người dân Việt Nam. Một tác giả người nước ngoài có viết: “Khi
chợ đang ở trong danh sách “đỏ” không ai có thể đoán được tuổi thọ của chợ trong
thời buổi này. Nhưng việc mất đi nét văn hóa trruyền thống sẽ dẫn đến sự mất mát
văn hóa của người dân địa phương. Chính văn hóa địa phương ấy là thứ gắn chặt và
làm nên thói quen kinh tế, xã hội của người Việt. Liệu người Việt Nam có để điều
quý giá này ra đi?” [Drew Taylor: Doanh nhân Sài Gòn Cuối Tuần]./.
147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu viết dùng để tham khảo và trích dẫn
1. Bảo Định Giang (chủ biên) 1984: Ca dao, dân ca Nam Bộ.– NXB TP.HCM
2. Borri, Cristọphoro (bản dịch của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn
Nghị) 1998: Xứ Đàng Trong năm 1621.– NXB TPHCM
3. Cao Tự Thanh 2007: 100 Câu hỏi về Gia Định Sài Gòn – lịch sử trước 1802.–
NXB Văn Hóa Sài Gòn
4. Châu Đạt Quan (bản dịch của Lê Hương) 1970: Chân Lạp phong thổ ký.––
NXB Sài Gòn: Kỷ nguyên mới
5. Đàm Trung Phường 1995: Đô Thị Việt Nam.– NXB Xây Dựng. HN
6. Đào Trọng Năng (Nguyễn Thục Ý dịch) 1984: Những vấn đề quy hoạch đô thị
và dân cư. – NXB KHKT. HN
7. Đỗ Long (chủ biên) 1997: Tâm lý tiêu dùng và xu thế diễn biến.– NXBKHXH
HN
8. Đoàn Giỏi 1992: Đất rừng phương Nam.– NXB Kim Đồng
9. Dư Phước Tân 2005: Kinh tế vỉa hè tại thành phố Hồ Chí Minh – tồn tại và
các giải pháp.– Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học. Viện kinh tế Tp.HCM
10. Hồ Bá Thâm 2003: Văn hóa Nam Bộ - vấn đề và phát triển.– NXB Văn hóa
Thông tin
11. Hoàng Phê 2000: Từ điển tiếng Việt.– NXB Đà Nẵng
12. Hồng Hạnh 2006: Dấu xưa Nam Bộ.– NXBVăn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
13. Huỳnh Công Tín 2006: Cảm nhận bản sắc văn hóa Nam Bộ.– NXB Văn hóa
Thông tin
148
14. Huỳnh Lứa 2000: Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII,
XIX.– NXB Khoa học Xã hội
15. Huỳnh Lứa (chủ biên) 1985:Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ.– NXB
TP.HCM
16. Huỳnh Mẫn Chi 2008: Người và Đất Tiền Giang.– NXB Công an Nhân dân
17. Huỳnh Minh 2002: Bạc Liêu Xưa.– NXB Thanh Niên
18. Huỳnh Minh 2003: Cà Mau Xưa.– NXB Thanh Niên
19. Huỳnh Minh 2001: Cần Thơ Xư.– NXB Thanh Niên
20. Lê Giang, Lư Nhất Vũ 1983: Tìm hiểu dân ca Nam Bộ.– NXB TPHCM
21. Lê Huỳnh Hoa 2005: Cảng Sài Gòn và biến đổi kinh tế Nam Kỳ thời Pháp
Thuộc (1860 -1939).– Luận án Tiến Sĩ khoa học lịch sử
22. Lê Như Hoa 1998: Văn hóa tiêu dùng.– NXB Văn hóa Thông tin. Hà Nội
23. Lê Quý Đôn (bản dịch của Lê Xuân Giáo) 1973: Phủ biên tạp lục. Tập 2.– Phủ
Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn
24. Lê Thị Mai 2004: Chợ quê trong quá trình chuyển đổi.– NXB Thế Giới
25. Lê Trung Hoa 2003: Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (Địa
danh Tp. HCM).– NXB Khoa học Xã hội
26. Lê Trung Hoa 2005: Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và Tiếng Việt văn
học.– NXB Khoa học Xã hội
27. Lê Trung Hoa 2003: Từ điển Địa danh Sài Gòn – Tp.HCM.– NXB Trẻ
28. Li Tana 1999: Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và
18.– NXB Trẻ
29. Lương Minh, Các Ngọc 2000: Đời chợ.– NXB Trẻ
30. Lý Khắc Cung 1993: Chuyện chợ giời.– NXB Văn hóa dân tộc. Hà Nội
31. Mạc Đường 2002: Dân tộc học – đô thị và vấn đề đô thị hóa.– NXB Trẻ
149
32. Mạc Đường 1994: Xã hội người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh sau 1975:
tiềm năng và phát triển.– NXB Khoa học Xã hội
33. Nam Hà 2005: Đất Miền Đông (3 tập).– NXB Công an Nhân dân
34. Nguyễn Chí Bền 2005: Những hằng số của văn hóa dân gian người Việt Nam
Bộ. Bài viết in trong Tìm hiểu đặc trưng Di sản văn hóa văn nghệ dân gian
Nam Bộ.– NXB Khoa học Xã hội
35. Nguyễn Công Bình 2008: Đời sống xã hội Nam Bộ.– NXB Đại học Quốc gia
TPHCM
36. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường 1990: Văn hóa và cư dân
đồng bằng sông Cửu Long.– NXB Khoa học Xã hội
37. Nguyễn Đình Đầu 2007: 100 Câu hỏi về Gia Định Sài Gòn - Địa Lý.– NXB
Văn nghệ
38. Nguyễn Đình Đầu 1994: Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn.– NXB TPHCM
39. Nguyễn Hiến Lê 2007: 7 ngày trong Đồng Tháp Mười.– NXB Văn hóa Thông tin
40. Nguyễn Hữu Hiếu 2004: Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ .– NXB Trẻ
41. Nguyễn Minh Hòa 2007: Phố chuyên doanh ở Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí
Minh.– NXB Đại học Quốc gia TPHCM
42. Nguyễn Minh Hòa 2006: Vùng đô thị Châu Á và thành phố Hồ Chí Minh
43. Nguyễn Nghị 2007:100 Câu hỏi về Gia Định Sài Gòn, lịch sử thời kỳ 1862 –
1945. – NXB Văn hóa Sài Gòn
44. Huỳnh Ngọc Trảng 2007: Đình Nam Bộ Xưa & Nay. – NXB Đà Nẵng
45. Nguyễn Phương Thảo 1997: Văn hóa dân gian Nam Bộ, những phác thảo.–
NXB Giáo dục
46. Nguyễn Thị Thủy 2003– Quá trình đô thị hóa ở ven đô thành phố Hồ Chí
Minh.– Luận án Tiến sĩ Lịch sử, trường ĐH KHXH & NV TPHCM
150
47. Nguyễn Thừa Hỷ, Đỗ Bang, Nguyễn Văn Đang 2000: Đô thị Việt Nam dưới
thời Nguyễn.– NXB Thuận Hóa
48. Nguyễn Văn Trấn 1985: Chợ Đệm quê tôi.– NXB Văn nghệ TPHCM
49. Nhâm Hùng 2007: Cái Răng hình thành và phát triển. – NXB Văn nghệ
50. Nhâm Hùng 2009: Chợ nổi đồng bằng sông Cửu Long.– NXB Trẻ
51. Nhiều tác giả 2005: Nam bộ, Đất và Người. Tập 1,2,3,4,5,6,7.– NXB Trẻ
52. Nhiều tác giả 2007: 100 Câu hỏi về Sài Gòn Gia Định - Khảo cổ học.– NXB
Văn hóa Sài Gòn
53. Nhiều tác giả 2005: Ấn tượng Sài Gòn – Thành Phố Hồ Chí Minh.– NXB Trẻ
54. Nhiều tác giả 2006: Cộng đồng ngư dân người Việt ở Nam Bộ.– NXB Khoa
học Xã hội
55. Nhiều tác giả 1995: Đồng bằng sông Cửu Long, nghiên cứu và phát triển.–
NXB Khoa học Xã hội
56. Nhiều tác giả 2005: Nam Bộ - Dân tộc và tôn Giáo.– NXB Khoa học Xã hội
57. Nhiều tác giả 2005: Những vấn đề của phát triển không gian đô thị.– NXB Đại
học Quốc gia TPHCM
58. Nhiều tác giả 2007: Sài Gòn Xưa & Nay.– NXB Trẻ
59. Nhiều tác giả 2000: Văn hóa Nam Bộ trong không gian xã hội Đông Nam Á.–
NXB Đai học Quốc gia TPHCM
60. Nhiều tác giả 2004: Văn hóa truyền thống trong phát triển đô thị-.– NXB Đại
học Quốc gia TPHCM
61. Phạm Côn Sơn 2008: Non nước Việt Nam, sắc màu Nam Bộ.– NXB Phương
Đông
62. Phạm Đức Dương 2002: Từ văn hóa đến văn hóa học.– NXB VH-TT
63. Phạm Trọng Điểm (người dịch) 1992: Đại Nam nhất thống chí. Quốc sử quán
triều Nguyễn biên soạn.– NXB Thuận Hóa
151
64. Phan An 2005: Người Hoa ở Nam Bộ.– NXB Khoa học Xã hội
65. Phan Khoang 1967: Việt sử xứ Đàng Trong. – Nhà sách Khai Trí
66. Phan Quang 1985: Đồng bằng sông Cửu Long. – NXB Mũi Cà Mau
67. Phan Thị Vàng Anh 1995: Hội chợ. Tập truyện ngắn.– NXB Trẻ TPHCM
68. Phan Trung Nghĩa 2006: Công tử Bạc Liêu, sự thật và giai thoại.– NXB Trẻ
69. Phan Xuân Biên, Trần Nhu (chủ biên) 2005: Thành phố Hồ Chí Minh 30 năm
xây dựng và phát triển.– NXB Giáo dục
70. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn 2002: Đại Nam Thực Lục (tập1).– NXB Giáo
dục. Hà Nội
71. Sở Thương mại TPHCM 2000: Kết quả điều tra mạng lưới và lưu lượng hàng
hóa chợ năm 1999.– NXB Thống kê
72. Sở Thương mại TPHCM 2000: Đề án quy hoạch phát triển mạng lưới chợ,
siêu thị, trung tâm thương mại địa bàn TPHCM giai đoạn 2001 – 2020
73. Sở Thương mại TPHCM 2003: Chợ, siêu thị, trung tâm thương mại TPHCM.–
NXB Thống kê
74. Sơn Nam 2007: Đất Gia Định, Bến Nghé xưa và người Sài Gòn – NXB Trẻ
75. Sơn Nam 2005: Đình miếu và Lễ hội dân gian Việt Nam.– NXB Trẻ
76. Sơn Nam 1992: Đồng bằng sông Cửu Long, nét sinh hoạt xưa và văn hóa miệt
vườn.– NXB Trẻ
77. Sơn Nam 1995: Giới thiệu Sài Gòn xưa.– NXB Kim Đồng
78. Sơn Nam 2007: Hương rừng Cà Mau.– NXB Trẻ
79. Sơn Nam 2006: Lịch sử khẩn hoang Miền Nam.– NXB Trẻ
80. Sơn Nam 2005: Nói về Miền Nam, cá tính Miền Nam, thuần phong mỹ tục
Miền Nam.– NXB Trẻ
152
81. Sơn Nam 2006: Sài Gòn xưa ấn tượng 300 năm và tiếp cận với đồng bằng
sông Cửu Long.– NXB Trẻ
82. Sơn Nam 2005: Tìm hiểu đất Hậu Giang và lịch sử đất An Giang.– NXB Trẻ
83. Sơn Nam 1970: Văn minh miệt vườn hay đồng bằng sông Cửu Long.– NXB An
Tiêm
84. Sơn Nam, Tô Nguyệt Đình 2007: Chuyện xưa tích cũ .– NXB Trẻ
85. Thạch Phương, Lê Trung Hoa (chủ biên) 2002: Từ điển Sài Gòn – Thành phố
Hồ Chí Minh.– NXB Trẻ
86. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh 1992: Văn hóa dân
gian người Việt ở Nam Bộ.– NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội
87. Thích Đồng Bổn 1991: Phong tục dân gian Nam Bộ và Phật Giáo.– NXB Văn
hóa Sài Gòn
88. Trần Bạch Đằng (chủ biên) 1996: Địa chí Đồng Tháp Mười.– NXB Chính trị
Quốc gia. Hà Nội
89. Trần Hoàng Kiêm 1999: Đồng bằng sông Cửu Long, vị trí địa lý và tiềm năng.
– NXB Thống Kê
90. Trần Hồng Liên: Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ, Tín ngưỡng và Tôn Giáo.–
NXB Khoa học Xã hội.
91. Trần Huy Anh: Chợ Hà Nội hôm nay và ngày mai.– Bài viết đăng trên Tuần
báo Việt Nam
92. Trần Huy Hùng Cường 2006: Giới thiệu các tuyến du lịch ở Nam Bộ.– NXB Trẻ
93. Trần Ngọc Hiên, Trần Văn Chử (đồng chủ biên) 1998: Đô thị hóa và chính
sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.– NXB
Chính trị Quốc gia. Hà Nội
94. Trần Ngọc Khánh 2000: Vận dụng các nguyên lý văn hóa trong nghiên cứu
ứng dụng văn hóa học đô thị - vanhoahoc.net
153
95. Trần Ngọc Khánh 1999: Văn hóa đô thị và yêu cầu chuẩn mực hóa các quy tắc
và nếp sống trong quá trình đô thị hóa – vanhoahoc.net
96. Trần Ngọc Thêm 2006: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam.– NXB Tổng hợp
TPHCM
97. Trần Ngọc Thêm 2006: Tính cách văn hoá người Nam Bộ như một hệ thống.–
NXB ĐHQG TPHCM
98. Trần Ngọc Thêm, Lê Ngọc Trà (chủ biên) 2001: Văn hóa Việt Nam, đặc trưng
cách tiếp cận.– NXB Giáo dục
99. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) 1998: Địa chí văn hóa thành phố
Hồ Chí Minh. Tập 1.– NXB TPHCM
100. Trần Văn Nam 2007: Cảm nhận ca dao Nam Bộ.– NXB Văn nghệ
101. Trịnh Duy Luân, Nguyễn Quang Vinh 1998: Tác động kinh tế - xã hội của đổi
mới trong lĩnh vực nhà ở đô thị.– NXB Khoa học Xã hội
102. Trịnh Hoài Đức (Đỗ Mộng Khương dịch) 1998: Gia Định thành thông chí.–
NXB Giáo dục
103. Trịnh Hoài Đức (bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo) 1972: Gia Định thành
thông chí. Tập thượng, trung, hạ.– Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa, Sài
Gòn
104. Trung tâm nghiên cứu đô thị và phát triển cộng đồng 2004: Văn hóa truyền
thống trong phát triển đô thị.– NXB Đại học Quốc gia TPHCM
105. Trương Quang Thao 2003: Đô thị học, những khái niệm mở đầu.– NXB Xây dựng
106. Trương Vĩnh Ký 1997: Ký ức về Sài Gòn và các vùng phụ cận.– NXB Trẻ
107. Từ điển bách khoa Việt Nam 2003. Tập 1,2.– NXB Từ điển bách khoa. Hà Nội
108. Võ Thị Thu Sương 2000: Chợ TPHCM, thực trạng và xu hướng phát triển.–
Luận văn cử nhân. TPHCM
154
109. Võ Văn Sen 1996: Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở miền Nam Việt Nam.–
NXB.TPHCM
110. Vương Hồng Sển 2004: Sài Gòn năm xưa.– NXB TPHCM
111. Vương Liêm 2004: Đồng quê Nam Bộ trong thập niên 40.– NXB TPHCM
B. Tài liệu Internet
1. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
2. wikimedia.com
3. www.tuanvietnam.net
4. www.vanhoaviet.biz.vn
5. www.binhduong.gov.vn
6. www.skydoor.net
7. nhandan.org.vn
8. http://thoangsaigon.com/2011/01/ch%E1%BB%A3-n%E1%BB%95i-cai-be/
9. http://blog.yume.vn/xem-blog/miet-vuon-nam-bo-don-
tet.buivanbong.35CD2883.html
10. http://www.lukhach24h.com/listing/cho-noi-phung-hiep.htm
11. http://www.saga.vn/Cohoigiaothuong/Thitruong1/tthh/12598.saga
12. http://www.google.com.vn/imgres?q=b%C3%A1n+h%C3%A0ng+rong&um=
1&hl
13. http://www.lukhach24h.com/listing/cho-noi-phung-hiep.htm
14. http://blog.yume.vn/xem-blog/miet-vuon-nam-bo-don-
tet.buivanbong.35CD2883.html
155
PHẦN PHỤ LỤC
A. Phụ lục nội dung
A1. Bảng thống kê một số chợ nổi nổi ở Tây Nam Bộ
STT Tên gọi Địa chỉ Điểm đặc biệt
1 Chợ nổi Cái Bè Tiền Giang Trái cây là hàng hóa chủ yếu
2 Chợ nổi Trà Ôn Vĩnh Long Chuyên bán sĩ trái cây của nhà vườn
3 Chợ nổi Phong Điền Cần Thơ Hàng hóa như chợ trên đất liền
4 Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ Nông sản chiếm ưu thế
5 Chợ nổi Phụng Hiệp Hậu Giang Rùa, rắn, dơi, v.v…
6 Chợ nổi Ngã Năm Sóc Trăng Nơi ghe xuồng neo chờ lấy hàng hóa
7 Chợ nổi Miệt Thứ Kiên Giang Không tiền => dùng hàng đổi hàng
8 Chợ nổi Gành Hào Cà Mau Chiếu, than, củi, phân cá,…
A2. Bảng thống kê một số chợ đặc sản ở Nam Bộ
STT Tên gọi Địa chỉ Điểm đặc biệt
1 Chợ chữ Sài Gòn Quận 5, TPHCM
Nhóm vào dịp Tết Nguyên Đán.
Câu đối, thư pháp
2 Chợ Thuộc Nhiêu Tiền Giang Chuyên bán heo giống, heo thịt các loại cho cả khu vực Tây Nam Bộ
3 Chợ Vĩnh Kim Tiền Giang Chỉ nhóm vào sáng sớm. Cung cấp trái cây chuyên canh
156
4 Chợ Bà Đắc Tiền Giang Chợ lúa gạo lớn nhất nước
5 Chợ Lách Bến Tre Cung cấp hoa kiểng cả khu vực TNB
6 Chợ Ma Lấp Vò Đồng Tháp Nhóm chợ về đêm (từ 12 => 2 giờ sáng). Chỉ bán chiếu
7 Chợ Âm phủ Cần Thơ Nhóm chợ đêm đến 2,3 giờ sáng tan. Người mua bán nói rất nhỏ, chỉ rì rầm
8 Chợ rắn Hậu Giang Chuyên bàn rắn, rùa, chim, v.v…
9 Chợ Châu Đốc An Giang Chuyên bán mắm, khô các loại
10 Chợ Châu Phú An Giang Chuyên bán thịt chuột đã và chưa sơ chế
11 Chợ Tri Tôn An Giang Các sản phẩm làm từ đất nung: nồi, om...
B. Một số bài viết về chợ trong và ngoài nước
B1. Chợ Bến Thành
Nguyên thủy, chợ Bến Thành đã có từ trước khi người Pháp xâm chiếm Gia
Định. Ban đầu, vị trí của chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé, cạnh một bến sông gần
thành Gia Định (bấy giờ là thành Quy, còn gọi là thành Bát Quái). Bến này dùng để
cho hành khách vãng lai và quân nhân vào thành, vì vậy mới có tên gọi là Bến
Thành, và khu chợ cũng có tên gọi là chợ Bến Thành.
Chợ Bến Thành thời kỳ đầu được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh, được mô
tả như là “phố chợ nhà cửa trù mật ở dọc theo bến sông. Chỗ đầu bến này có lệ đến
đầu mùa xuân gặp ngày tế mã, có thao diễn thủy binh, nơi bến có đò ngang chở
khách buôn ngoài biển lên. Đầu phố phía Bắc là ngòi Sa Ngư, có gác cầu ván ngang
qua, hai bên nách cầu có dãy phố ngói, tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông ghe
buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền. Tuy nhiên, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi
(1833-1835), thành Quy bị triệt hạ, phố chợ Bến Thành cũng không còn sầm uất
như trước.
157
Trước khi Pháp đánh chiếm Gia Định, khu vực xung quanh thành Gia Định
(bấy giờ là thành Phụng) mới chỉ có 10 vạn dân và chợ Bến Thành là nơi đông đúc
nhất. Cạnh khu chợ, dọc theo bờ sông Bến Nghé, các ghe thương thuyền thường
đậu chen chúc nhau, tạo thành một thành phố nổi trên mặt nước. Tuy nhiên, khi ấy
khu họp chợ trên bến mới chỉ là một dãy nhà trống lợp ngói. Tháng 2 năm 1859,
Pháp chiếm thành Gia Định và hai ngày sau, các binh lính người VIệt đã tổ chức
hỏa công thiêu rụi cả phố, tất nhiên chợ Bến Thành cũng bị thiêu hủy. Sau khi đã
vững chân trên mảnh đất Nam Kỳ, năm 1860, người Pháp đã cho xây cất lại chợ
Bến Thành ở địa điểm cũ (thời Việt Nam Cộng hòa là địa điểm Tổng Ngân khố, nay
là Trường đào tạo cán bộ ngân hàng trên đường Nguyễn Huệ). Ngôi chợ được xây
cất lại bằng cột gạch, sườn sắt, lá. Đến tháng 7 năm 1870, chợ bị cháy mất một gian,
phải xây cất lại bằng cột gạch, sườn sắt, lợp bằng ngói, tất cả có năm gian: gian thực
phẩm, gian hàng cá, gian hàng thịt, gian hàng ăn uống và gian hàng tạp hóa. Trong
năm gian hàng này, chỉ có gian hàng thịt được lợp bằng tôn, nền lót đá xanh.
Thời đó, khu chợ được xây dựng bên bờ phía Nam một con kênh, được gọi là
kinh Lớn. Phía trước chợ, dọc bờ kênh là một con đường được người Pháp đặt tên là
Charler, hay một tên gọi khác là đường Quảng Đông (Rue de canton), bởi đa số
người Hoa làm nghề buôn bán ở đây đều là người Quảng Đông. Phía đối diện bờ
kênh là đường Rigault de Genouily. Do vị trí nằm giao điểm của khu đô thị và hợp
lưu của hai tuyến đường thủy là kênh Lớn và rạch Cầu Sấu (này là đường Hàm
Nghi), ghe thuyền có thể cập bến và đổ người lên chợ bất cứ ở phía bên này hay bên
kia. Còn bên đất liền muốn qua chợ thì có thể đi qua những chiếc cầu gỗ xinh xắn,
do đó chợ Bến Thành luôn luôn nhộp nhịp.
Vào năm 1887, người Pháp cho lấp con kênh và sát nhập hai con đường lại
làm một thành đại lộ Charner. Dân bản xứ gọi nôm na là đường Kinh Lấp (nay là
Đại lộ Nguyễn Huệ). Khu chợ càng trở nên đông đúc với các cửa hiệu phần nhiều là
của người Hoa, người Ấn Độ và người Pháp. Tuy nhiên, khoảng giữa năm 1911,
ngôi chợ trở nên cũ kỹ và lâm vào tình trạng có thể bị sụp đổ. Để tránh tai họa,
người ta phải phá chợ, chỉ còn gian hàng thịt, vì mái tôn nhẹ nên chưa bị phá. Đồng
158
thời, người Pháp cũng lựa chọn một địa điểm để xây cất một khu chợ mới lớn hơn
để phục vụ nhu cầu buôn bán sầm uất ngày càng phát triển. Địa điểm được lựa chọn
nằm gần ga xe lửa Mỹ Tho (nay là bến xe Sài Gòn), tức là địa điểm chợ Bến Thành
ngày nay.
Khu vực xây chợ, vốn là một cái ao sình lầy cũ, gọi là ao Bồ Rệt (Marais
Boresse), được người Pháp cho lấp đi. Khuôn viên chợ quy hoạch bốn mặt bởi bốn
con đường. Mặt tiền là Place Cuniac, tên đặt theo viên Xã Tây (Ủy viên hội đồng)
Cuniac, người đã đề ra công việc lấp ao. Người Việt thì quen gọi đó là Bùng binh
chợ Bến Thành cho dù tên chính thức đã từng đổi là “Công trường Cộng Hòa”,
“Công trường Diên Hồng”, rồi “Quảng trường Quách Thị Trang”. Mặt Bắc chợ là
Rue d’Espagne, phía Đông là Rue Viénot, và phía Tây là Rue Schroeder. Năm
1955, thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam, bốn con đường này đổi tên thành đường
Lê Thánh Tôn, đường Phan Bội Châu và đường Phan Châu Trinh.
Ngôi chợ mới do hãng thầu Brossard et Maupin khởi công xây dựng từ năm
1912 đến cuối tháng 3 năm 1914 thì hoàn tất. Lễ ăn mừng chợ khánh thành được
báo chí thời đó gọi là “Tân Vương Hội”, do được diễn ra trong ba ngày 28,29 và 30
tháng 3 năm 1914, với pháo bông, xe hoa và hơn 100.000 người tham dự, kể cả từ
các tỉnh đổ về.
Khu chợ mới này vẫn mang tên gọi chợ Bến Thành, ngoài ra người dân còn
gọi là chợ Mới, để phân biệt chợ Cũ tại địa điểm cũ, vốn chỉ còn lại gian hàng thịt.
Phần còn lại bị phá đi và được người Pháp xây dựng thành cơ quan Ngân khố. Hai
con đường bên hông chợ mãi đến năm 1940 còn là bến xe miền Đông và miền Tây,
bến xe này mới được dời đi chỗ khác.
Chợ Bến Thành hoạt động liên lục trong 70 năm. Từ ngày 01 tháng 7 đến ngày
15 tháng 8 năm 1985, chợ Bến Thành được cải tạo và sửa chữa lớn.
(Theo www.vanhoaviet.biz.vn)
159
B2. Chợ Thủ Dầu Một (Bình Dương)
Hiện chợ Thủ Dầu Một tọa lạc trên một vị trí tương đối bằng phẳng, nằm sát
sông Sài Gòn và các con đường bao quanh chợ, phía Bắc giáp với đường Nguyễn
Thái Học, phía Nam giáp đường Bạch Đằng, phía Tây giáp đường Đoàn Trấn
Nghiệp, Đông giáp đường Trần Hưng Đạo. Chợ là trung tâm có vị trí khá thuận lợi
cho việc trao đổi và buôn bán.
Chợ Thủ Dầu Một, lúc khởi nguồn được gọi là chợ Phú Cường. Theo lịch sử
địa phương, vùng đất Phú Cường đến đầu thế kỷ XVII vẫn còn là đất hoang, cảnh
quan nơi đây chính là những khu rừng rậm. Trong đó, hình ảnh nổi bật là những
rừng dầu cổ thụ ở khu vực Chánh Nghĩa hiện nay, nhất là vùng ven sông lúc đó chỉ
là những bãi lầy, ngập nước hình thành dần do phù sa sông Sài Gòn bồi đắp. Về
phía Nam của Phú Cường với những mái nhà ngói chìm trong những tán lá cây
xanh. Con rạch nhỏ được phủ kín những thuyền buồm, ngôi chợ được đặt ở khúc
rạch đầu tiên.
Khi Nguyễn Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh – NV) vào kinh lược đất Gia Đinh
năm 1698. Khu vực Phú Cường ngày nay, cư dân hội tụ có phần muộn hơn so với
Lái Thiêu, Thị Tính nhưng lại tập trung đông và nhanh hơn do vị trí hình thành lỵ
sở của tổng Bình Điền, huyện Bình An thuộc tỉnh Biên Hòa lúc đó.
Địa danh Phú Cường xuất hiện vào khoảng năm 1838 (đời vua Minh Mệnh)
cùng với sự thay đổi nhiều tên tổng và thôn của huyện Bình An. Vì vậy, tên gọi chợ
Phú Cường cũng có thể được phôi thai trong khoảng thời gian này. Chợ Phú Cường,
trong lịch sử hình thành muộn hơn so với một số chợ của huyện Bình An như chợ
Tân Hoa, chợ Thị Tính, chợ Bình Nhâm Thượng.
Phần “Thị Điểm” (Chợ Quán) của sách Đại Nam Nhất thống chí – bộ sách địa
lý được biên soạn trong khoảng thời gian từ 1864 - 1875, đã nói đến tên chợ Phú
Cường: “Chợ Phú Cường ở thôn Phú Cường, huyện Bình An tục danh là chợ Thủ
Dầu Miệt (hay Dầu Một) ở bên lỵ sở huyện, xe cộ ghe thuyền tấp nập đông đảo”.
Đến năm 1889, trên địa bàn huyện Bình An, tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập, chợ
160
Phú Cường trở thành chợ tỉnh Thủ Dầu Một. Từ đó, tên chợ Thủ hoặc Thủ Dầu Một
lại được nhắc nhiều đến trong dân gian và cả trong thơ ca, sách báo.
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về
Đưa về chợ Thủ bán ve
Bán bộ đồ chè bán cối đâm tiêu…
Trước khi người Pháp xâm chiếm đồn binh Thủ Dầu Một năm 1861, thì chợ
Phú Cường đã là nơi buôn bán sầm uất, ghe thueyèn quy tụ về trao đổi buôn bán
hàng hóa.
Sau khi người Pháp chiếm Nam Kỳ lục tỉnh, trong đó, có tỉnh Biên Hòa (huyện
Bình An thuộc tỉnh Biên Hòa); người Pháp đã tiến hành phục hồi và biến hổi hoàn toàn
chợ Phú Cường với công cuộc lát đá và đắp đường cao bên trong. Theo Địa phương chí
Bình Dương viết vào năm 1888, nhà cầm quyền Pháp cho lập con rạch Phú Cường ăn
thông với sông Sài Gòn và đã hoàn thành công việc này vào năm 1890.
Đến năm 1935, người Pháp nhận thấy việc đầu tư vào chợ có lợi lớn, họ đã
tiến hành phục hồi và biến đổi hoàn toàn chợ Phú Cường mô phỏng theo kiểu các
ngôi chợ xưa ở Pháp có cấu trúc gần giống chợ Nam Vang (Camphuchia) và chợ
Bến Thành (Sài Gòn). Điểm đặc biệt của mô hình trên là họ vẫn tôn trọng, giữ
nguyên vị trí cũ. Năm 1938, chợ Thủ được khánh thành với mô hình mới, kiến trúc
phóng khoáng, trang nhã vào thời đó và có lợi thế hơn nhiều nơi khác.
Chợ được phân thành bảy khu lớn nhỏ và được xây dựng theo kiểu hình chữ
nhật gồm ba căn nhà tách biệt nhau. Từ đường Trần Hưng Đạo đi vào, ta bắt gặp
căn nhà dài một lầu, một trệt nhà còn gọi là (khu Thương Xá) xây dựng và bố trí
phân theo từng phân khu nhỏ dân gian vẫn thường gọi là “sạp chợ” để bày bán các
mặt hàng hóa. Sau khu Thương Xá là căn nhà ngang (khu ăn uống), xây dựng giữa
khu Thương Xá và Khu Đồng hồ, được bài trí thành ba gian chính để phục vụ việc
ăn uống. Phía sau là căn nhà dài – nhà dãy chợ (hay khu chợ Đồng Hồ) cũng được
xây dựng và trí trí theo từng phân khu nhỏ kể cả ngay dưới chân Tháp Đồng Hồ chợ.
161
Nhà dãy chợ là căn đầu tiên thực dân Pháp xây dựng vào năm 1935, với lối
kiến trúc tạo dáng hình con tàu mà đỉnh tháp là chiếc đồng hồ nặng về mô típ Châu
Âu, do ông Bonnernain - kiến trúc sư người Pháp thiết kế và thành thành năm 1938.
Dãy nhà xây dựng theo kiến trúc nhà dài, có diện tích 2.590m2, có hai mái chia
thành hai tầng, chiều cao từ nền đến đỉnh là 10.3m. Nhà có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc hình thành và phát triển của chợ Thủ.
Tháp Đồng Hồ chợ được xây dựng theo kiểu hình lục giác gắn liền với nhà dãy
chợ, có chiều cao 23.72m, gồm bốn lầu. Lầu trệt từ nền tới trần có chiều cao 6,5m
được đổ bằng bê tông, cốt thép, có bậc thang lên xuống làm bằng sắt và được gắn ở
phía trong của tháp. Ngoài lát đá và ghép gạch bông ở mặt phía Đông và Tây của
tháp. Từ lầu hai trở lên tháp được đắp đường cao bên trong thành tám cột trụ ở các
cạnh hình lục giác. Tháp được xây dựng theo kiểu tam cấp càng lên cao càng thu
hẹp. Lên đến lầu ba tháp được đổ tấm đan bê tông và xây cao chừng một mét để làm
nền cho mặt đồng hồ cũng là nơi để gắn đồng hồ. Trên nền của mặt đồng hồ được
làm bằng nền màu trắng, con số màu xanh và kim chỉ đồng hồ được sơn màu đen.
Trên đông hồ được đổ bốn tâm đan bê tông gắn phía đồng hồ để che nắng mưa.
Trên đỉnh tháp được gắn 4 chiếc đồng hồ. Chính từ những chiếc đồng hồ được bố trí
theo Đông – Tây – Nam – Bắc đã tạo nên một dấu ấn đặc sắc, hình thành tình cảm
quen thuộc, sâu sắc của người dân Bình Dương.
Hình ảnh tháp chợ Đồng Hồ là nhịp sống trái tim và là biểu tượng đã trải bao
lần thịnh suy trong lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất này.
Chợ Thủ Dầu Một luôn giữ vị trí là một trung tâm thương mại tiêu biểu của
Bình Dương, đồng thời cũng là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại trong
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Cũng chính vì thế, chợ Bình Dương không
chỉ là nơi mua bán mà còn là biểu tượng văn hóa gắn liền với lịch sử phát triển của
Bình Dương và Nam Bộ.
(Theo: www.binhduong.gov.vn)
162
B3. Trăm năm chợ nổi Ngã Bảy
Đầu thế kỷ XX, người Pháp đào xong cụm kinh Ngã Bảy. Năm 1916, quận lỵ
Phụng Hiệp ra đời. Những năm trước đó chợ Phụng Hiệp - Ngã Bảy hình thành, trở
nên sung túc. Bảy ngã sông, tỏa đi bảy hướng và hội tụ người tứ xứ tìm về làm ăn:
kinh Cái Côn nối từ sông Hậu vô, kinh Lái Hiếu đi về miệtt Long Mỹ - Rạch Giá,
kinh Mương Lộ cặp theo lộ xe đến Sóc Trăng, kinh Mang Cá rẽ qua Kế Sách, kinh
Xẻo Vông ngược lên Cần Thơ, kinh Xẻo Môn vô cánh đồng Sậy Níu. Và, kinh
Quan Lộ xuống Ngã Năm, Bạc Liêu, Cà Mau. Từ cụm kinh Ngã Bảy người ta có
thể đến khắp Nam Kỳ lục tỉnh bằng đường thủy và ngược lại.
Chợ trên bờ trong một thời gian ngắn trở nên quá tải, chợ nhóm lấn xuống bờ
sông – thế rồi, từ kiểu cách nhóm chợ trên sông – chợ nổi Ngã Bảy ra đời!
Gọi đúng là chợ Ngã Bảy – Phụng Hiệp thì phải kể từ tâm điểm, có sức ảnh
hưởng đến vài cây số. Trong vùng ảnh hưởng đó, hàng trăm tàu, ghe luôn neo đậu
mua bán. Ai có nhu cầu thì tấp vào đây bỏ neo chào hàng, hoặc xem các ghe khác
“bẹo hàng” gì, nếu cần mua thì trao đổi ngã giá. Tài liệu lưu lại cho thấy quy mô
ghe, tàu, xuồng thời mới hình thành chợ nổi Phụng Hiệp từ năm, ba trăm chiếc. Đầu
thời kỳ đổi mới, luôn luôn có trên 1000 chiếc mỗi ngày, dịp cao điểm Tết có khi tới
3000 chiếc, nhiều ghe chài, ghe cà vòm, trọng tải đến 30 -40 tấn cùng neo đậu mua bán.
Ngoài lực lượng mua, bán, các bến tàu và nhiều bến đò ngang, các ghe bán
vàm, ghe dạo cả trăm chiếc cũng góp phần làm cho sinh hoạt chợ nổi thêm tấp nập.
Tàu Cần Thơ đi Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang đều ngang chợ Ngã Bảy - Phụng
Hiệp dừng lại xuống khách, rước khách. Cạnh đó, còn có nhiều bến tàu trung bình
tỏa đi các vùng lân cận như Kế Sách, Long Mỹ, Mỹ Tú, Trà Ôn… Từ thời đổi mới,
riêng đò ngang, đò dịch vụ có đến gần trăm chiếc. Nếu đứng ở một góc, một cao
điểm chừng vài chục thước không thể quan sát hết quy mô chợ nổi.
Khác với chợ trên bờ, chợ nổi Ngã Bảy thường nhóm vào tờ mờ sáng (từ 5 giờ
- 8 giờ). Đây là cao điểm mua bán các loại hàng nông sản tươi. Còn từ đó đến chiều
163
chợ vẫn tiếp tục hoạt động mua bán các loại “hàng nằm”, hàng tạp hóa, hàng gia
dụng thiết yếu.
Chợ nổi Ngã Bảy – Phụng Hiệp nằm ở dạng chợ nổi đa ngành từ khi mới ra
đời. Bởi ở vị trí trung tâm của một vùng sản xuất nông nghiệp rộng lớn và là trục
giao thông chiến lược, là chợ đầu mối, vừa thu hút khối lượng lớn hàng hóa, vừa
cung ứng các nơi có yêu cầu. Hàng hóa ở chợ nổi Phung Hiệp rất phong phú, đa
dạng, được lực lượng thương hồ, nông dân đưa tới bao gồm các nhóm hàng trái cây,
nhóm hàng rau củ. Đặc biệt dịp Tết người ta có thể thấy một phần của chợ nổi rực
rỡ màu sắc từ các ghe bán hàng hoa kiểng nhứt là bông vạn thọ, bông cúc, bông
giấy, bông hồng. Ngoài ra, còn có nhóm hàng thủ công và sản vật khác, nhóm hàng
thực phẩm và gia cầm, nhóm hàng gia dụng thiết yếu. Bên cạnh đó, là các mặt hàng
dịch vụ như thức ăn, đồ uống với các loại nước giải khát như trà nóng, nước đá, xi
rô, nước dừa. Dần dần có cả la–ve, nước ngọt, cà phê, đồ hộp. Các loại bánh bao,
bánh lọt, bánh đúc, bánh bò, xôi, bắp, chè đậu, cháo lòng, cháo vịt, cháo gà, mì, hủ
tiếu, hột vịt lộn, cơm dĩa. Sau này lại có thêm bánh mì thịt, cơm hộp. Đầu thời kỳ
đổi mới còn có nhiều ghe bán rượu, món nhậu. Đôi khi vài ba người bạn rủ nhau
xuống ghe ngồi nhậu bồng bềnh trên sông nước để hàn huyên, giải khuây. Song
song đó, dịch vụ đò ngang lúc nào cũng tấp nập, ghe lớn đậu lại giữa sông, muốn có
việc ra, vô bờ thì cứ kêu đò. Khách đi đường dài bị trễ tàu nên mướn đò đuổi theo.
Thời kỳ phát triển nhất, chợ nổi Ngã Bảy – Phụng Hiệp còn có các dịch vụ
mới: Tư nhân lập trạm xăng nổi có sức chứa vài ngàn lít, tàu ghe hết dầu thì ghé lại
bơm. Trên những ghe bán xăng, dầu lưu động khắp chợ nổi, chỉ cần kêu một tiếng
khách sẽ được đáp ứng. Tiệm may nổi giữa sông có đảm nhận việc cắt, sửa, vá quần
áo nhanh cho khách, tiệm tạp hóa nổi bán cả trăm thứ hàng từ nồi, xoong, chảo,
khăn, quần áo, xà bông, đồ chơi trẻ em đến cây kim, sợi chỉ.
Do những nét độc đáo hiếm có, chợ nổi Ngã Bảy – Phụng Hiệp những năm sau
ngày giải phóng, rồi bước sang thời đổi mới không những sầm uất về giao thương
mà còn khởi phát tiềm năng du lịch. Khách trong nước và nước ngoài (khách đi
tham quan và “Tây ba lô”) đi chơi chợ nổi ngày càng đông. Từ năm 1991 – 1998,
164
trung bình mỗi ngày từ vài trăm người. Các Công ty Du lịch ở thành phố Hồ Chí
Minh phối hợp với Công ty Du lịch Cần Thơ đưa chợ nổi vào tour du lịch chính
thức. Khách nghỉ ở các khách sạn Cần Thơ, đến 5 giờ sáng được đưa lên tàu du lịch,
canô xuống theo sông Hậu qua kinh Cái Côn vô chợ nổi Phụng Hiệp, chỉ mất non
một giờ, nếu đi xe chỉ mất 30 phút. Từ đây, khách có thể đi bảy ngã sông, hoặc
mướn đò nhỏ len lỏi vô khu vực tâm điểm, nơi có nhiều tàu ghe đậu mua trái cây,
hòa mình vào sinh hoạt mua bán. Nếu khách ở lại đi chợ đêm thì mướn đò chèo dạo
quanh, nếu thử các món ẩm thực hoặc lên ghe bán đồ nhậu, uống vài ly rượu đế, ăn
hột vịt lộn mà ngắm trời, trăng, mây, nước và làm quen với con người tứ xứ chợ nổi.
Những năm đầu thế kỷ XXI, để giải quyết trở ngại về giao thông đường thủy,
chính quyền huyện Phụng Hiệp tổ chức, di dời chợ nổi đến một vị trí mới, ngược về
hướng kinh xáng Cái Côn ngay chỗ gặp gỡ vàm kinh Ba Ngàn (xã Đại Thành). Từ
đó gọi là chợ nổi Ba Ngàn. Do điều kiện mới hình thành lại xa chợ phố trên bờ nên
khu chợ này khó thu hút giới thương hồ đến mua bán. Tuy nhiên, khi huyện lỵ
Phụng Hiệp được nâng cấp thành thị xã Ngãy Bảy (2006), chính quyền địa phương
đã kịp thời xây dựng dự án khôi phục chợ nổi Ngã Bảy, nhằm giữ gìn và phát huy
một khu chợ nổi – có thể nói là tồn tại lâu đời nhất và lớn nhất Việt Nam.
(Theo Nhâm Hùng – Trích từ Chợ nổi đồng bằng Sông Cửu Long)
B4. Nét độc đáo chợ nổi Thái Lan
Trên thế giới, có lẽ chỉ ở Việt Nam và Thái Lan mới có nhiều chợ nổi. Đặc
biệt, hầu hết đều nằm trên dòng Mê Kông hoặc các chi lưu của dòng sông này.
Giữa thủ đô Bangkok, vẫn có thể đi thuyền dong ruổi thăm chợ nổi, như góc
nhìn của một du khách: “Chẳng phải ngẫu nhiên mà nơi này được mệnh danh là
Vinice của Châu Á. Nét lãng mạn của thành phố gắn liền cới những con kênh, dòng
sông uốn dài theo lối đi. Điểm đặc biệt là giữa chốn phồn hoa, bạn vẫn có thể chọn
một con thuyền ở khu chợ nổi, lênh đênh ngắm Băngkok từ dong nước xanh” [Kinh
Luân – Báo Văn hóa Thông tin ngày 28/10/2004].
165
Trong khi đó, ở huyện Damnoen Saduak thuộc tỉnh Ratchabur cách thủ đô
Bangkok hơn 100 km về hướng Tây Nam, có một chợ nổi khá độc đáo và đa dạng:
chợ nổi Damnoem Saduak! Qua mô tả của Bách kho toàn thư mở Wikipedia thì chợ
khá nhỏ nhưng trải dài vài chục km từ bến thuyền len lỏi khắp các kênh rạch. Các lô
đất ở đây được phân lô và bày bán la liệt hàng hóa. Ghe sử dụng của cư dân địa
phương chính là loại ghe vuông, bằng mũi và chiếc nón lá đặc trưng. Ở đây có tất cả
mọi thứ để thu hút kháh du lịch, từ hàng thủ công mỹ nghệ nến nông sản, trái cây,
gia vị, hoa và ngay cả massage Thái cổ truyền tại chợ. Ngay cả trái cây cũng được
bóc vỏ sẵn. Chợ còn là nơi bán hàng thủ công mỹ nghệ và hàng lưu niệm. Từ chiếc
mặt nạ Thái, tượng boxing hay những chú voi bằng gỗ, quần áo may sẵn hay sản
phẩm chế biến. Theo hết con chợ sẽ là kênh rạch chằng chịt chảy ngang qua các
cánh đồng trái cây như cam, quýt, bưởi,…
Chợ mang tính thương mại chủ yếu để phục vụ khách du lịch. Sự giao thương
ở đây nhắm đến khách vãng lai là chính và sự can thiệp, “nhân tạo” của ngành du
lịch Thái khá đậm nét. Chợ nổi Thái Lan không có sự giao thương rộng lớn (bán sỉ)
giữa các cư dân trong vùng, ít thấy cảnh giao nhận hàng mà chỉ là cuộc mua bán
nhỏ, lẻ, trực tiếp với người “bên ngoài” và “khách du lịch”, nên chợ cũng không
nhóm từ khuya mà chỉ bắt đầu khi trời tờ mờ sáng. Vì là chợ mang tính thương mại
nên chợ không có cảnh trao đổi hàng hóa, vận chuyển hàng hóa hay các cây bẹo
thường thấy ở chợ nổi Việt nam mà thay vào đó là các bảng hiệu”.
Có thể thấy: chợ nổi ở Thái Lan không quy mô và mang tính kinh tế sôi động
như Việt Nam. Tuy vây, từ quy hoạch khu vực chính đến những đoạn sông, kinh
rạch có chợ đều được tính toán chu đáo, cẩn thận, do đó, rất ít những vấn nạn, trở
ngại. Tất nhiên, sự hình thành chợ nổi có bàn tay “dàn dựng” chứ không tự phát, tự
nhiên như các chợ nổi ở Việt Nam. Chính nhờ được quy hoạch, sắp xếp và có bàn
tay can thiệp của con người, nên các chợ nổi ở Thái Lan càng thể hiện được tính
độc đáo, thu hút rất nhiều du khách nước ngoài tới thăm. Họ không chỉ dạo chơi,
ngắn nhìn mà còn có nhiều thứ để mua thưởng thức tại chỗ, hay màng về làm quà
166
lưu niệm. Ngoài ra, có rất nhiều dịch vụ giải trí và chăm sóc sức khỏe phục vụ du
khách ngay tại chợ nổi, khiến ai đến đây cũng đều hài lòng.
(Theo Nhâm Hùng – Trích từ Chợ nổi đồng bằng sông Cửu Long)
B5. Chợ tình Khâu Vai (Hà Giang)
Chợ tình Khâu Vai thuộc xã Khâu Vai, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Đây là
một phiên chợ tình độc đáo của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
Mới 3 giờ chiều 26/3 (âm lịch), phiên chợ Khâu Vai nằm trong làng người
Nùng, trong một thung lũng khá rộng và bằng phẳng đã chật người. Đủ màu sắc
phục trang của các dân tộc H’Mông, Dao, Giáy, Tày, Nùng… khiến cả phiên chợ cứ
rực lên như rừng hoa chuối. Các cô gái, chàng trai thậm chí cả người già, người
trung tuổi, ai nấy đều không giấu nổi được nét rạo rực, bồn chồn trên khuôn mặt,
trong bộ quần áo mới phẳng phiu, có lẽ đã được dành cất cả năm, đến phiên chợ…
trọng đại này mới đem ra dùng.
Từ ngày hôm trước, lều quán đã được dựng khắp thung lũng, nhưng nhiều nhất
vẫn là những quán rượu ngô, thắng cố, nơi dừng chân đầu tiên của các cặp tình nhân
trẻ cũng như già, mới cũng như cũ. Và cũng ngay từ chiều hôm trước, nhiều cặp vợ
chồng, tình nhân vì đường xa, đã “xôi đùm, ngô nắm” lên yên ngựa, hoặc thong thả
theo đường núi cho kịp chợ tình trong tiếng khèn, tiếng hát réo rắt suốt ngày đêm
không tắt trên các triền núi xa xa dẫn đến Khâu Vai ngày chợ.
Cuộc sống ở vùng núi cao thường là rất buồn tẻ. Cả năm mới có một phiên
chợ, lại là phiên chợ tình, bởi vậy, có nhiều gia đình cả bố, mẹ, con dâu, con trai dắt
díu nhau đến chợ vui như trảy hội. Thậm chí, có nhiều cặp vợ chồng lấy nhau từ
hơn chục năm nay, đã có với nhau bốn mặt con và sống cách chợ Khâu Vai gần hai
ngày đường cũng lặn lội đến đây tìm niềm vui…
Bóng chiều chạng vạng bắt đầu đổ xuống thung lũng Khâu Vai trong âm thanh
nhộn nhịp tiếng nói cười, đi lại, gọi nhau và cả tiếng lục lạc, vó ngựa của phiên chợ
lúc nào cũng nhộn nhịp đông vui nhất. Đó đây, trong các lều quán, bắt đầu xuất hiện
167
những cặp tình nhân ngồi sát bên nhau, vừa chụm đầu trò chuyện vừa nhắm thức ăn
và uống rượu. Rượu được rót tràn bát, như tình cảm của người vùng cao lúc nào
cũng lai láng không bến bờ. Họ uống cho ngày gặp lại sau một năm xa cách, có thể
đằng đẵng, đầy nhớ nhung, đến khi nào không thể uống và không nên uống nữa, họ
sẽ dắt tay nhau ra ngọn núi phía xa xa kia để tự tình thâu đêm đến sáng mới trở về
với vợ, chồng mình.
Những người già nhất xã Khâu Vai bây giờ cũng không ai biết chợ tình Khâu
Vai có tự bao giờ. Chỉ biết rằng, từ lúc còn để chỏm, họ đã thấy có chợ tình rồi.
Truyền thuyết bắt nguồn phiên chợ là câu chuyện tình của một người con trai
H’Mông và một người con giá Giáy yêu nhau. Song, tình yêu của họ đã gây ra hiềm
khích giữa hai bộ tộc. Để tránh cuộc đối đầu đẫm máu, họ buộc phải xa rời nhau.
Tuy nhiên, chàng trai và cô gái thề nguyền rằng, dù không lấy được nhau và phải
lập gia đình với người khác thì mỗi năm họ sẽ gặp nhau một lần vào đêm 26/3 tại
chợ Khâu Vai bây giờ. Chợ tình Khâu Vai được hình thành từ đó, mới đầu chỉ là
nơi hẹn hò của những người đã lỡ dở tình duyên với nhau và là đêm chợ truyền
thống của người dân tộc H’Mông, nhưng sau đó được cá dân tộc khác hưởng ứng.
Đến bây giờ Khâu Vai đã trở thành phiên chợ hẹn hò, tìm kiếm tình yêu của tất cả
mọi người từ thanh niên đến người đã có gia đình.
Phiên chợ tình Khâu Vai càng về đêm càng trở nên sâu lắng, chỉ có tiếng trò
chuyện thì thầm và tiếng khèn, tiếng hát réo rắt gọi bạn tình vang lên từ những ngọn
núi, đồi xa xa. Du khách dẫu một lần đến với chợ tình Khâu Vai hẳn sẽ không quên
được những giây phút đầy thi vị này.
(Trích lại từ www.skydoor.net)
B6. Chợ xưa, chợ nay
Bạn bè có đứa bảo tôi là người hoài cổ. Tôi cũng không hiểu sao mình lại thích
đắm chìm vào những chuỗi ký ức đến vậy. Tôi nhớ lần đầu tiên đọc “Đất rừng
Phương Nam”, tôi như bị hút hồn. Cái bí ẩn của phiên chợ miệt rừng U Minh với
trăn, với rắn, với rùa, với ong cứ phả lên một chút gì đó hoang dã, một chút gì chất
168
digan. Nhưng cộng hưởng tất cả thì đó là chính là chất Nam Bộ đặc sệt. Gần đây,
khi xem “Đất Phương Nam” – tôi như hẫng. Những sạp gỗ, những ngôn từ trong
phim nào phải nếp sống của những lưu dân khẩn hoang xưa. Thuở ấy, khi chim
chóc, muông thú, sản vật đầy dẫy, lẽ lào người ta lại bó từng lọn rau, bày từng con
cá. Lưu dân khoái bốc tay, bẻ cây làm đũa, uống rượu bằng tô chắc hẳn sẽ không có
chuyện so kè giá cả, đong hạt tiêu, đếm củ hành. Nhưng thôi đó là chuyện phim.
Nhưng liệu khuôn mặt của chợ xưa ngoài những phiên chợ kiểu “đất rừng
phương Nam” sẽ là những gì nữa. Cái phóng khoáng, cái tật ăn chơi ngút trời của
dân Nam Bộ liệu có đem lại một diện mạo gì khác cho bộ mặt thương mãi thời bấy
giờ. Cái công đầu tiên có lẽ thuộc về mấy ông Hoa kiều người Quảng Đông. Mấy
nhà sưu khảo bảo hồi đó, những cửa hiệu tạp hóa mà mấy ông “Ba Tàu” kêu là
“điếm” đã trở thành một nhu cầu trong việc mua sắm của người dân. Theo thời gian,
chữ “điếm” mất đi phụ âm đầu, dân khẩn hoang chỉ giữ âm tiết cuối và đọc trại đi là
“tiệm”. Ba tôi giải thích đơn giản hơn, người Nam Bộ vốn “làm biếng” trong câu
chữ, đọc sao thấy tiện, thấy nhanh là được…(!). Cũng theo ký ức những bậc lão
niên, những tiệm chạp phô bấy giờ thôi thì bán đủ thứ tả pín lù. Từ cây kim, cọng
chỉ đến cây cải tùa xại, củ cải xá bấu. Nếu rủng rỉnh tiền đã có phong bánh ngọt, thẻ
đường phèn ăn cho mát miệng. Vậy là người dân chẳng đi đâu cho xa, cứ đầu tháng
ra tiệm chạp phô ở đầu kinh mua một lần là đủ xài. Còn cách lượm bạc cắc của mấy
ông Hoa kiều thì đừng cười vội. Ông nào ông nấy giàu nứt trứng mà còn cười mấy
ông Việt không biết tích cốc, phòng cơ. Nhưng biết làm sao được, người dân Nam
Bộ với cách sống phóng khoáng, hào phóng như công tử thì đâu để ý chi chuyện
lượm bạc cắc. Mà suy cho cùng chuyện mua, chuyện bán thời nào cũng vậy, nếu ai
cũng bo bo cái túi riêng thì có lẽ chợ nào, chợ nấy vắng như chùa Bà Đanh. Theo
thời gian, ở những tiệm chạp phô ấy có bán cả rượu chát, xà bông Cô Ba, vải vóc,
gấm nhiễu, nước hoa. Và điều không thể thiếu dược, thể nào các tiệm chạp phô
cũng bày một vài bộ tranh thờ lộng kiếng cho in hình theo các tuồng tích Tam quốc,
Phong thần. Xem ra, lưu dân thời ấy đã biết xài sang lắm và các ông Hoa kiều “tiếp
thị” cũng miễn chê. Tiền, hàng hóa đã luân chuyển, xoay vòng và nó như một mắt
169
xích để cho các lưu dân sống nương tựa vào nhau. Nhưng điều cốt lõi nhất vẫn cần
một chữ tín.
Ngoảnh đi, ngoảnh lại đơn vị tính thời gian đã lên đến hàng trăm năm. Ấy vậy
mà những tiệm chạp phô ở đầu kinh, bên gốc còng già vẫn còn đó. Cái bàn tính gỗ
của ông “Chệt” đã nâu bóng lên theo năm tháng. Nhưng nó đã là một góc hoài niệm
cho những ai còn lưu luyến chuyện xưa. Khách hàng của ông “Chệt” là mẹ tôi, là dì
tôi – những người đàn bà tảo tần với nắng gió, bàn tay nẻ sần với đất đai. Lâu lâu,
nhà có khách là mấy đứa cháu ở quê ra, nó bảo: “ Đi siêu thị sắm đồ cho nhà”. Tôi
chợt giật mình và thầm than cho cái tật hay hoài cổ của mình. Chuyện, bây giờ đã
khác xưa lắm rồi. Còn nhớ, cách đây độ 10 năm, khi Minimart đầu tiên của Công ty
thương nghiệp Cà Mau ra đời, tôi hoài nghi – liệu có khách không. Và trong một bài
ghi nhanh tôi lại quy chụp – số khách hàng đến đây đều mắc hội chứng phim Hồng
Kông. Chưa kịp hoàn hồn lại mọc lên sừng sững một cái siêu thị cao ngất. Tôi nhăn
nhó – “đúng là học đòi”. Nhưng rồi tôi vẫn đến với những điểm đó. Lần 1 vì tò mò,
lần 2 để đúc kết, lần 3 để săn tin, lần 4, lần 5… riết rồi tôi đã trở thành khách quen
mặt ở đó. Có lần bạn bè hỏi, khi đi xa nhớ Cà Mau nhất cái gì. Tôi bảo – Nhớ nhất
cái cửa hàng tự chọn (!).
Tôi chợt nhận ra, mô hình siêu thị, cửa hàng tự chọn hiện nay chỉ khác tiệm
chạp phô một trăm năm trước ở chữ Super Market hoặc Mart hết sức Tây. Nếu một
trăm năm trước ông cha ta đã biết chữ Tây dám về mở Mart lắm chứ chả chơi.
Nhưng dù gì đi nữa, cách đi chợ tự chọn hàng, có xe, có giỏ xách để hàng, tính tiền
vi tính đã là văn minh lắm rồi. Vậy là bên cạnh một chợ nhà lồng xưa, một chợ chạy
còn đó thì những siêu thị này đã hình thành nên một thứ “văn minh siêu thị”, buộc
hậu duệ của lưu dân khẩn hoang xưa phải thay đổi hẳn nếp sống chậm chạp, khề
khà cố hữu của mình.
Nhưng không phải mô hình siêu thị lớn đã đứng được trên đất này. Tôi liên
tưởng đến lượng khách ra vào giữa siêu thị và một loạt các cửa hàng tự chọn ở
đường Đề Thám. Rõ ràng loại trẻ những ai chưa biết đi thang máy, tò mò muốn biết
thì xem ra họ khoái đi những cửa hàng nhỏ hơn. Những cửa hàng tự chọn nhỏ gợi
170
nhớ những tiệm chạp phô xưa, vẫn đủ hàng, vẫn hiện đại, vẫn xe, vẫn vi tính thế
nhưng nó tạo cho khách đến mua hàng một cảm giác gần gũi chứ không xa vời. Đã
có những chị nông dân khi dạo bước giữa những kệ cao nhất, những tầng lầu sang
trọng đã khớp, đã mặc cảm cho cái thân phận quê mùa, nhỏ bé của rmình. Trong
khi, lẽ ra họ là khách hàng mà khách hàng phải là Thượng đế và những khách hàng
chân đất ấy chiếm một tỷ lệ khá cao ở miền cuối đất. Xem ra trong bước đường
thăm dò, hội nhập loại department store (cửa hàng có tính cao cấp sang trọng) đã
phải nhường một bước cho những mô hình nhỏ hơn, gọn hơn.
Trong những tháng ngày bộn bề cuối năm, với những nhu cầu mua sắm gần kề
chợt ngẫm nghĩ chuyện xưa, chuyện nay. Cà Mau bây giờ đã khác xưa. Phố xá, siêu
thị, Shop, Mart… ánh điện sáng choang. Mỗi người mỗi thị hiếu, mỗi điểm hẹn.
Người dân không còn quanh quẩn với những nhu cầu ăn no, mặc ấm. Họ đã nghĩ
đến chuyện ăn ngon, mặc đẹp và tất yếu đi chợ phải sang. Khi tôi phác thảo nên
hình ảnh một siêu thị sáng choang với môt tiệm chạp phô chật chội một thời xem ra
hết sức khập khiễng, thế mà vẫn sâu thẳm đâu đó nó như một mối dây liên hệ: vẫn
đáp ứng như một nhu cầu có thực, vẫn hầm bà lằng hàng hóa. Chỉ có khác, cái sau
văn minh hơn cái trước. Vậy mà để có cái văn minh đó cha ông ta đã đi trọn ngót
trăm năm.
Có cầu toàn quá hay không khi tôi thích đi siêu thị sắm đồ nhưng lòng vẫn
thầm mong tiệm tạp hóa đầu kinh So Le vẫn còn. Chiều 30 Tết, tôi lại về quê cùng
mẹ mua từng món hàng mã, từng ký than nướng bánh bông lan, vài cái ống khói
đèn cho ba tôi. Và thể nào ông Chệt cũng dễ dãi cười khà khi thằng cháu tôi lén
quệt một miếng đường mật đưa vào miệng mút vội một cách ngon lành. Khi viết
những dòng này, tự dưng tôi nhớ quê đến nao lòng.
(Theo Hồng Hạnh – Trích trong Dấu xưa Nam Bộ)
171
C. Phụ lục hình ảnh
Hình 1. Nhà lồng chợ Sa Đéc khoảng cuối thế kỷ XIX. Ảnh từ nguồn Internet
Hình 2. Bến đò Chợ Cá năm 1950, Thủ Dầu Một. Ảnh: nguồn Internet
172
Hình 3. Chợ An Bình, Cần Thơ. Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
Hình 4. Chợ nổi Cái Răng, Hậu Giang. Ảnh: nguồn Internet
173
Hình 5. Chợ nghèo vùng quê Nam Bộ. Ảnh: nguồn Internet
Hình 6. Chợ nghèo vùng sông nước Tây Nam Bộ. Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
174
Hình 7. Nhóm chợ ven sông. Đặc trưng chợ ở Tây Nam Bộ Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
Hình 8. Phỏng vấn ông Trần Văn Nam tại chợ nổi Cái Răng Ảnh: Nguyễn Thị Thoa
175
Hình 9. Chợ nổi Thái Lan. Ảnh: nguồn Internet