chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (bĐkh) lại … dong cua bdkh... · web...

82
LỜI GIỚI THIỆU Chúng ta đang sống trong một thế giới mà môi trường có nhiều biến đổi: khí hậu biến đổi, nhiệt độ trái đất tăng lên, mực nước biển dâng cao, hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học… Trong đó, biến đổi khí hậu là một vấn đề hiện đang được các nước trên thế giới quan tâm sâu sắc. Biến đổi khí hậu mà tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu đang diễn ra. Nhiệt độ trên thế giới đã tăng thêm khoảng 0,7 0 C kể từ thời kỳ tiền công nghiệp và hiện đang tăng với tốc độ ngày càng cao. Ngoài các nguyên nhân tự nhiên và tính chất biến đổi phức tạp của các hệ thống khí hậu trên thế giới, hầu hết các nhà khoa học về môi trường hàng đầu trên thế giới đều khẳng định: các loại khí nhà kính phát thải vào khí quyển do các hoạt động của con người đã làm cho khí hậu toàn cầu nóng lên. Biến đổi khí hậu đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia do những ảnh hưởng hiện nay và hiểm họa trong tương lai đối với xã hội loài người. Các hiện tượng khí hậu dị thường và thiên tai liên tục diễn ra ở nhiều vùng trên thế giới. Các nhà khoa học từ lâu cũng đã lên tiếng cảnh báo hiểm họa nghiêm trọng này nhưng chỉ cho đến gần đây, loài người mới thấy được ý nghĩa quan trọng của việc bảo vệ môi trường và thực hiện cuộc chiến thực sự chống lại sự biến đổi khí hậu. Để có thể giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu thế giới cần tăng cường các biện pháp nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ các nước công nghiệp và huy động sự tham gia nhiều hơn nữa của các nước đang phát triển, đề ra các biện pháp khuyến khích các nước này hạn chế mức phát thải, đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế. Theo nghiên cứu mới nhất của Liên Hợp Quốc, Việt Nam là quốc gia đang phát triển thuộc nhóm các nước bị ảnh hưởng nhiều nhất ở khu vực Đông Nam Á từ sự biến đổi khí hậu này. Bởi vậy, việc xây dựng chiến lược quốc gia nhằm đối 1

Upload: others

Post on 25-Feb-2020

7 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

LỜI GIỚI THIỆU

Chúng ta đang sống trong một thế giới mà môi trường có nhiều biến đổi: khí hậu biến đổi, nhiệt độ trái đất tăng lên, mực nước biển dâng cao, hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học… Trong đó, biến đổi khí hậu là một vấn đề hiện đang được các nước trên thế giới quan tâm sâu sắc. Biến đổi khí hậu mà tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu đang diễn ra. Nhiệt độ trên thế giới đã tăng thêm khoảng 0,7 0C kể từ thời kỳ tiền công nghiệp và hiện đang tăng với tốc độ ngày càng cao. Ngoài các nguyên nhân tự nhiên và tính chất biến đổi phức tạp của các hệ thống khí hậu trên thế giới, hầu hết các nhà khoa học về môi trường hàng đầu trên thế giới đều khẳng định: các loại khí nhà kính phát thải vào khí quyển do các hoạt động của con người đã làm cho khí hậu toàn cầu nóng lên.

Biến đổi khí hậu đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia do những ảnh hưởng hiện nay và hiểm họa trong tương lai đối với xã hội loài người. Các hiện tượng khí hậu dị thường và thiên tai liên tục diễn ra ở nhiều vùng trên thế giới. Các nhà khoa học từ lâu cũng đã lên tiếng cảnh báo hiểm họa nghiêm trọng này nhưng chỉ cho đến gần đây, loài người mới thấy được ý nghĩa quan trọng của việc bảo vệ môi trường và thực hiện cuộc chiến thực sự chống lại sự biến đổi khí hậu.

Để có thể giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu thế giới cần tăng cường các biện pháp nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ các nước công nghiệp và huy động sự tham gia nhiều hơn nữa của các nước đang phát triển, đề ra các biện pháp khuyến khích các nước này hạn chế mức phát thải, đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế.

Theo nghiên cứu mới nhất của Liên Hợp Quốc, Việt Nam là quốc gia đang phát triển thuộc nhóm các nước bị ảnh hưởng nhiều nhất ở khu vực Đông Nam Á từ sự biến đổi khí hậu này. Bởi vậy, việc xây dựng chiến lược quốc gia nhằm đối phó và thích ứng với sự biến đổi khí hậu của Việt Nam là một việc làm cấp thiết trong thời gian tới. Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia biên soạn Tổng luận “TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU VÀ SỰ DÂNG CAO NƯỚC BIẾN” nhằm giúp các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu có cách nhìn bao quát hơn về nguy cơ biến đổi khí hậu tòan cầu, từ đó đưa ra các quyết sách hợp lý nhằm thích ứng và đối phó với xu thế này.

TRUNG TÂM THÔNG TIN KH&CN QUỐC GIA

1

Page 2: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

MỞ ĐẦUTrong những năm 80, bằng chứng khoa học về khả năng biến đổi khí hậu toàn cầu

đã dẫn đến sự quan tâm chung ngày càng tăng. Từ năm 1990, một loạt các hội nghị quốc tế đã đưa ra những lời kêu gọi khẩn cấp để có một hiệp ước toàn cầu về vấn đề này. Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) và Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) đã hưởng ứng bằng cách thiết lập nhóm Công tác Liên Chính phủ để chuẩn bị cho các cuộc hiệp thương của Hiệp ước. Đã có sự tiến bộ nhanh chóng, một phần do sự nỗ lực của Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) và các cuộc họp về biến đổi khí hậu ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu.

Đáp lại kiến nghị của Nhóm Công tác, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc tại khóa họp năm 1990 đã thành lập Ủy ban Hiệp thương Liên Chính phủ cho một Công ước khung về Biến đổi khí hậu (INC/FCCC). INC/FCCC đã được ủy nhiệm soạn thảo một Công ước khung và các công cụ pháp lý bất kỳ liên quan được coi là cần thiết. Những nhà thương thuyết từ hơn 150 quốc gia đã gặp nhau trong 5 phiên họp trong khoảng thời gian từ tháng 2/1991 đến tháng 5/1992 và đã chấp nhận Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu vào ngày 9 tháng 5 năm 1992 tại trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York.

Ngay sau đó, tại Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển, hay thường gọi là Hội nghị Thượng đỉnh, đã được tổ chức vào tháng 6 năm 1992, ở Rio de Janeiro, Braxin, 155 quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã ký Công ước Khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu. Mục tiêu của Công ước là nhằm “ổn định các nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu”.

Nghị định thư Kyoto của Công ước khí hậu là văn bản pháp lý để thực hiện Công ước khung về Biến đổi khí hậu có hiệu lực kể từ ngày 16/2/2005 bằng sự phê chuẩn của Nga (tháng 10/2004). Nội dung quan trọng của Nghị định thư Kyoto là đưa ra Chỉ tiêu giảm phát thải khí nhà kính có tính ràng buộc pháp lý đối với các nước phát triển và cơ chế giúp các nước đang phát triển đạt được sự phát triển kinh tế, xã hội một cách bền vững thông qua thực hiện "Cơ chế phát triển sạch"(CDM). Bản thỏa thuận nêu cam kết của các nước công nghiệp hóa giảm phát thải sáu loại khí nhà kính ở mức 5% vào năm 2012.

Tháng 12/2007, Hội nghị về khí hậu của Liên Hợp Quốc được tổ chức tại Bali, Inđônêxia, các đại biểu đến từ gần 190 quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ đã cố gắng tìm ra một lộ trình cho các cuộc đàm phán về một công ước nóng lên toàn cầu mới sẽ có hiệu lực vào năm 2012, khi kết thúc thời kỳ cam kết đầu tiên của Nghị định thư Kyoto. Hội nghị Bali có ba mục tiêu chính: (1) Mở đầu các đàm phán về ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn sau năm 2012; (2) Đưa ra lịch trình đàm phán quốc tế; (3) Đạt được Thỏa thuận quốc tế mới nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu. Các quyết định đưa ra tại Hội nghị Bali lần này sẽ mở đầu cho quá trình đạt được các thỏa thuận vào đầu năm 2009, là một dấu hiệu thể hiện sự đoàn kết của cộng đồng quốc tế

2

Page 3: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

cùng ứng phó với biến đổi khí hậu. Hội nghị các Bên lần này đóng một vai trò quan trọng trong việc thành lập một chương trình nghị sự ứng phó với biến đổi khí hậu trong tương lai.

Báo cáo “Ảnh hưởng của mực nước biển dâng cao đối với các nước đang phát triển: Phân tích so sánh” của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố đầu năm 2007 cho biết: Mực nước biển chỉ cần dâng thêm 1m thì sẽ gây hiểm họa lớn đối với các nước có vùng dân cư và đời sống kinh tế tập trung ở các vùng đồng bằng thấp ở ven biển. Theo Báo cáo Tình trạng môi trường biển của Chương trình hành động toàn cầu thuộc UNEP (2006), thì hiện nay, gần 40% dân số thế giới sống tại các vùng ven biển hẹp (chỉ chiếm 6,7% diện tích bề mặt Trái Đất) và phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Mật độ dân số tại khu vực bờ biển có thể tăng từ 77 người/km2 năm 1990, lên tới 115 người/km2 năm 2025.

Với nguy cơ nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đối với các cộng đồng ven biển là không thể tránh khỏi. Còn theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP, 2007), Việt Nam nằm trong top 5 nước đứng đầu thế giới dễ bị tổn thương nhất trước sự biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển tăng 1m, Việt Nam sẽ mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản lượng nông nghiệp và 10% thu nhập quốc nội (GDP). Nước biển dâng 3-5m đồng nghĩa với một thảm họa có thể xảy ra ở Việt Nam. Việt Nam phải xây dựng kịch bản thích ứng và đối phó chi tiết vấn đề khí hậu và nước biển dâng, để từ đó đưa ra các chính sách, chương trình hành động đúng, bởi biến đổi khí hậu không chỉ đơn giản là vấn đề của từng ngành, mà liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế, xã hội khác.

Như vậy, Trái đất nóng lên, nước biển dâng cao và biến đổi khí hậu đến nay không còn là vấn đề riêng của một nước nào mà đó là vấn đề chung, là trách nhiệm của toàn cầu. Các quốc gia trên thế giới đang rất nỗ lực xây dựng và thực hiện các hành động chiến lược nhằm thích ứng với sự nóng lên toàn cầu, ngăn ngừa và hạn chế tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan do biến đổi khí hậu như nước biển dâng. Tài liệu này tổng hợp chung về tình hình biến đổi khí hậu và đánh giá những ảnh hưởng của sự gia tăng mực nước biển đối với một số quốc gia có biển trong khu vực, dựa trên tổng hợp thông tin từ các Báo cáo lần thứ 4, xuất bản năm 2007 của Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), Báo cáo “Ảnh hưởng khi mực nước biển dâng cao đối với các nước đang phát triển: Phân tích so sánh” của Ngân hàng Thế giới (WB), Báo cáo Phát triển Con người 2007-2008 của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), tài liệu về thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng của một số quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Bănglađét cùng một số kết quả điều tra khảo sát của các nhà khoa học Việt Nam. Hy vọng rằng những đánh giá trên sẽ cung cấp thông tin cho Việt Nam trong việc xây dựng chiến lược và các chương trình nhằm thích ứng với sự biến đổi khí hậu, giảm thiểu những tổn thất do biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển bền vững, hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

3

Page 4: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

I. TỔNG QUAN VỀ SỰ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ DÂNG CAO NƯỚC BIẾN

1.1. TÌNH HÌNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU1.1.1. Một số khái niệmHiệu ứng nhà kínhNhiệt độ bề mặt Trái đất được tạo nên do sự cân bằng giữa năng lượng Mặt trời đến

bề mặt Trái đất và năng lượng bức xạ của Trái đất vào khoảng không gian giữa các hành tinh. Năng lượng Mặt trời chủ yếu là các tia sóng ngắn dễ dàng xuyên qua cửa sổ khí quyển. Trong khi đó, bức xạ của Trái đất với nhiệt độ bề mặt trung bình +16oC là sóng dài có năng lượng thấp, dễ dàng bị khí quyển giữ lại. Các tác nhân gây ra sự hấp thụ bức xạ sóng dài trong khí quyển là khí CO2, bụi, hơi nước, mêtan (CH4), CFC ...

Kết quả của sự của sự trao đổi không cân bằng về năng lượng giữa Trái đất với không gian xung quanh, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển Trái đất. Hiện tượng này diễn ra theo cơ chế tương tự như nhà kính trồng cây và được gọi là “hiệu ứng nhà kính”.

Sự gia tăng tiêu thụ nhiên liệu hoá thạch của loài người đang làm cho nồng độ khí CO2 của khí quyển tăng lên. Sự gia tăng khí CO2 và các khí nhà kính khác trong khí quyển Trái đất làm nhiệt độ Trái đất tăng lên. Vai trò gây nên hiệu ứng nhà kính của các chất khí được xếp theo thứ tự sau: CO2 => CFC => CH4 => O3 =>NO2. Sự gia tăng nhiệt độ Trái đất do Hiệu ứng nhà kính có tác động mạnh mẽ tới nhiều mặt của môi trường Trái đất.

Biến đổi khí hậuHệ thống khí hậu Trái đất bao gồm khí quyển, lục địa, đại dương, băng quyển và

sinh quyển. Các quá trình khí hậu diễn ra trong sự tương tác liên tục của những thành phần này. Quy mô thời gian của sự hồi tiếp ở mỗi thành phần khác nhau rất nhiều. Nhiều quá trình hồi tiếp của các nhân tố vật lý, hóa học và sinh hóa có vài trò tăng tường sự biến đổi khí hậu hoặc hạn chế sự biến đổi khí hậu. Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu đã định nghĩa: “Biến đổi khí hậu là “những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu”, là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.

Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6.• CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí

nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO2 cũng sinh ra tử các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.

• CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.

4

Page 5: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

• N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.• HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản

phẩm phụ của quá trình sản uất HCFC-22.• PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.• SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.Các biểu hiện của biến đổi khí hậu: - Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung. - Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của

con người và các sinh vật trên Trái đất. - Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất thấp,

các đảo nhỏ trên biển. - Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau

của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người.

- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.

- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.

1.1.2. Các nguyên nhân và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầuBằng chứng về sự nóng lên của hệ thống khí hậu được thể hiện ở sự gia tăng nhiệt

độ trung bình của không khí và đại dương trên toàn cầu, tình trạng băng tan và tăng mực nước biển trung bình trở nên phổ biến. 11 trong số 12 năm qua (1995-2006) được xếp vào những năm có nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng kỷ lục (từ năm 1850). Xu thế nhiệt độ tăng trong 100 năm (kể từ năm 1906 – 2005) là 0,740C (0,560C đến 0,920C), lớn hơn xu thế được đưa ra trong báo cáo đánh giá lần thứ 3 của IPCC là 0,6 0C (từ 0,40C đến 0,80C) (1901-2000). Sự gia tăng nhiệt độ đang trở nên phổ biến trên toàn cầu và tăng nhiều hơn ở các khu vực vĩ độ cao ở phía bắc. Khu vực đất liền nóng lên nhanh hơn các khu vực đại dương. Những thay đổi về nồng độ khí nhà kính trong khí quyển, các sol khí, độ che phủ đất và bức xạ mặt trời đã làm thay đổi cân bằng năng lượng của hệ thống khí hậu. Lượng khí thải nhà kính trên toàn cầu do con người đã tăng khoảng 70% so với thời kỳ trước cách mạng công nghiệp, trong khoảng thời gian từ 1970 đến 2004.

Khí CO2 là loại khí nhà kính quan trọng nhất do các hoạt động của con người tạo ra. Từ năm 1970 đến năm 2004, phát thải hàng năm của loại khí này tăng khoảng 80%. Xu thế giảm dài hạn khí thải CO2 trên một đơn vị năng lượng đã bị đảo ngược sau năm 2000.

Năm 2005, nồng độ CO2 trong khí quyển là 379 ppm và CH4 là 1.774 ppm, vượt xa mức tự nhiên trong hơn 650.000 năm qua. Nồng độ CO2 trên toàn cầu tăng chủ yếu do sử dụng nhiên liệu hoá thạch và thay đổi mục đích sử dụng đất (hoạt động này chỉ góp một phần nhỏ). Tăng nồng độ CH4 chủ yếu do nông nghiệp và đốt nhiên liệu hóa thạch. Tốc độ tăng CH4 cũng đã giảm kể từ những năm đầu thập kỷ 90.

Kể từ 1750, nồng độ CO2, CH4, N2O trong khí quyển toàn cầu tăng rõ rệt do các hoạt động của con người và hiện nay vượt xa so với mức của thời kỳ trước cách mạng công nghiệp, làm tan chảy cả các khối băng đã tồn tại qua hàng nghìn năm.

5

Page 6: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Hầu hết sự gia tăng nhiệt độ trung bình trên toàn cầu quan sát được từ giữa thế kỷ 20 có thể do tăng nồng độ khí nhà kính. Trong hơn 50 năm qua, nhiệt độ ở các lục địa (trừ Nam Cực) đã tăng lên đáng kể.

Nóng lên toàn cầu làm gia tăng mực nước biển. Từ năm 1961, mực nước biển trung bình trên toàn cầu dâng cao với tốc độ trung bình là 1,8 mm/năm (từ 1,3-2,3 mm/năm) và từ năm 1993 ở mức 3,1mm/năm (từ 2,4- 3,8 mm/năm), do sự dãn nở vì nhiệt, tan các mũ băng và những tảng băng ở vùng cực. Tốc độ băng tan diễn ra nhanh nhất trong thời gian từ 1993 đến 2003 thể hiện sự biến đổi trong một thập kỷ, chứ chưa phải là một xu thế tan chảy dài hạn rõ ràng.

Nóng lên toàn cầu làm giảm lượng băng và tuyết. Dữ liệu vệ tinh từ năm 1978 chỉ ra rằng, trung bình hàng năm, diện tích băng biển ở Bắc cực giảm khoảng 2,7%/thập kỷ (từ 2,1-3,3%/thập kỷ), mức giảm lớn nhất trong mùa hè là 7,4%/thập kỷ (5,0-9,8%/thập kỷ). Độ che phủ băng và tuyết ở vùng núi nhìn chung giảm ở cả hai bán cầu.

Từ năm 1900 đến 2005, lượng mưa tăng đáng kể ở các khu vực phía đông của Bắc và Nam Mỹ, Bắc Âu, Bắc và Trung Á, nhưng giảm ở Sahel, Địa Trung Hải, Nam Phi và các khu vực Nam Á. Tổng diện tích bị ảnh hưởng bởi hạn hán đã tăng lên từ những năm 1970.

Rõ ràng là trong hơn 50 năm qua: số ngày lạnh, đêm lạnh và sương giá ít hơn ở hầu hết các khu vực đất liền và tăng số ngày nóng, đêm nóng. Các đợt sóng nhiệt trở nên thường xuyên hơn ở hầu hết các khu vực đất liền, tần suất của các hiện tượng như mưa lớn tăng ở hầu hết các khu vực và kể từ năm 1975 phạm vi ảnh hưởng của mực nước biển cao tăng trên toàn thế giới.

Bão nhiệt đới gia tăng, xuất hiện với cường độ mạnh ở Bắc Đại Tây Dương từ khoảng năm 1970 và không thấy tăng lên ở những nơi khác. Cũng không có xu thế rõ ràng về số lượng các cơn bão nhiệt đới hàng năm. Khó có thể xác định được xu hướng lâu dài về hoạt động của bão, đặc biệt trước năm 1970.

Nhiệt độ trung bình của Bắc bán cầu trong nửa sau của thế kỷ 20 cao hơn bất kỳ giai đoạn 50 năm nào trong 500 năm gần đây và có thể cao nhất trong ít nhất 1300 năm qua. Bằng chứng quan sát được từ tất cả các châu lục và hầu hết các đại dương chỉ ra rằng, nhiều hệ thống tự nhiên đang bị ảnh hưởng bởi những biến đổi khí hậu khu vực, đặc biệt là nhiệt độ tăng.

Những biến đổi về tuyết, băng và các vùng đất đóng băng, kích thước các hồ băng và sự bất ổn ở các vùng núi và vùng đóng băng khác dẫn đến những thay đổi ở một số hệ sinh thái ở Nam Cực và Bắc Cực.

Một số hệ sinh thái dưới nước cũng bị ảnh hưởng do tăng lưu lượng nước, ảnh hưởng đến cấu trúc nhiệt và chất lượng nước sông hồ. Với các hệ sinh thái trên cạn, mùa xuân đến sớm hơn, xu thế dịch chuyển lên các cực và dịch chuyển lên cao đối với một số hệ động vật, thực vật có liên quan đến hiện tượng nóng lên gần đây. Còn với các hệ sinh thái biển và nước ngọt, những thay đổi về hệ động vật, thực vật và sự phong phú của tảo, sinh vật phù du và cá liên quan đến sự gia tăng nhiệt độ của nước, cũng như liên quan đến những thay đổi về độ che phủ của băng, độ mặn, hàm lượng ôxy và sự lưu thông của nước.

6

Page 7: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Có thể tóm lược những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các khu vực trên thế giới như sau: Châu Phi - Vào năm 2020, khoảng từ 75 - 250 triệu người sẽ phải chịu áp lực lớn

về nước do biến đổi khí hậu.- Vào năm 2020, ở một số nước, sản lượng nông nghiệp dựa vào nước

mưa có thể giảm tới 50%. Sản xuất nông nghiệp tại nhiều nước châu Phi sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu hơn tới an ninh lương thực và tăng tình trạng suy dinh dưỡng.

- Đến cuối thế kỷ 21, mực nước biển dâng sẽ gây ảnh hưởng tới các vùng trũng ven biển, đông dân cư. Chi phí thích ứng có thể chiếm ít nhất từ 5%-10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

- Năm 2080, diện tích đất khô cằn và bán khô cằn ở châu Phi sẽ tăng từ 5%-8% theo các kịch bản khí hậu.

Châu Á - Đến những năm 2050, lượng nước ngọt có thể sử dụng được ở Trung Á, Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á, đặc biệt tại các lưu vực sông lớn sẽ giảm.

- Vùng ven biển, nhất là các vùng châu thổ rộng lớn đông dân ở Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á sẽ chịu rủi ro nhiều nhất, do lũ từ sông, biển.

- Biến đổi khí hậu kết hợp đô thị hoá, công nghiệp hoá và phát triển kinh tế nhanh chóng gây áp lực tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường.

- Sự hoành hành của dịch bệnh và tỷ lệ tử vong do tiêu chảy, chủ yếu liên quan đến lũ lụt và hạn hán sẽ gia tăng ở Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á do những thay đổi trong chu trình thuỷ văn.

Ôxtrâylia và New Zealand

- Vào năm 2020, suy giảm đa dạng sinh học ở mức cao sẽ diễn ra tại một số điểm giàu đa dạng sinh học, gồm có Rạn san hô Great Barrier và các vùng nhiệt đới ẩm ướt ở Queensland, Ôxtrâylia.

- Đến 2030, các vấn đề về an ninh nguồn nước sẽ trầm trọng hơn ở miền nam và đông Ôxtrâylia, tại miền Bắc và một số vùng Đông New Zealand .

- Vào năm 2030, sản xuất nông, lâm nghiệp sẽ giảm ở hầu hết miền đông nam Ôxtrâylia và các vùng miền đông New Zealand do hạn hán và cháy rừng xảy ra nhiều hơn. Tuy nhiên, một số vùng khác ở New Zealand sẽ được hưởng những lợi ích ban đầu.

- Vào năm 2050, phát triển ven biển và tăng dân số ở một số khu vực thuộc Ôxtrâylia và New Zealand sẽ làm tăng nguy cơ mực nước biển dâng, tăng tần suất và cường độ của bão, lũ ven biển.

Châu Âu - Biến đổi khí hậu sẽ làm tăng sự khác biệt giữa các khu vực. Các tác động tiêu cực bao gồm tăng nguy cơ xảy ra lũ quét trong nội địa, lũ lụt ven biển thường xuyên hơn và xói mòn mạnh hơn (do bão lớn và mực nước biển dâng cao).

- Các vùng núi sẽ phải đối mặt với sự thu hẹp của sông băng, độ che phủ của tuyết giảm và suy giảm số lượng lớn các loài (vào năm 2080, ở

7

Page 8: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

một số khu vực tỷ lệ suy giảm là 60% tuỳ theo các kịch bản phát thải )- Ở Nam Âu - vùng đã từng dễ bị tổn thưởng bởi tính bất thường của khí

hậu - biến đổi khí hậu sẽ làm cho các điều kiện (nhiệt độ cao và hạn hán) nghiêm trọng hơn và nhìn chung làm giảm khả năng sử dụng nước, tiềm năng thuỷ điện, du lịch và năng suất cây trồng.

- Biến đổi khí hậu cũng sẽ làm tăng mối nguy hiểm tới sức khoẻ vì các đợt sóng nhiệt và tần suất cháy rừng tự nhiên.

Châu Mỹ La tinh

- Giữa thế kỷ này, ở miền Đông Amazôn, nhiệt độ tăng cao kết hợp với suy giảm lượng nước sẽ dẫn đến sự thay thế rừng nhiệt đới bằng các hoang mạc. Thảm thực vật bán khô hạn sẽ được thay thế bằng thảm thực vật khô hạn.

- Nguy cơ mất đa dạng sinh học ở mức cao là do sự tuyệt chủng các loài ở nhiều khu vực thuộc vùng nhiệt đới ở Mỹ La tinh.

- Năng suất của một số loại cây trồng quan trọng và khả năng sinh sản của gia súc sẽ giảm gây hậu quả bất lợi tới an ninh lương thực. Nhìn chung, số lượng người có nguy cơ bị đói gia tăng.

- Những thay đổi trong các mô hình về lượng mưa và sự biến mất của các sông băng sẽ gây ảnh hưởng tới khả năng sử dụng nước phục vụ cho con người, nông nghiệp và thuỷ điện.

Bắc Mỹ - Nóng lên ở các dãy núi miền tây sẽ làm giảm lớp tuyết phủ, tăng lũ lụt mùa đông và giảm lưu lượng nước mùa hè khiến cho cuộc cạnh tranh vì tài nguyên nước phân bổ không đều diễn ra khốc liệt hơn.

- Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ này, biến đổi khí hậu ở mức vừa phải sẽ nâng tổng sản lượng của ngành nông nghiệp dựa vào nước mưa thêm từ 5%-20%, nhưng sản lượng tăng thêm lại thay đổi theo vùng.

- Các thành phố đang trải qua các đợt sóng nhiệt sẽ gặp phải thách thức lớn hơn vì trong suốt thế kỷ này các đợt sóng nhiệt gia tăng về số lượng, cường độ và thời gian, gây tác động tiêu cực tới sức khoẻ.

- Các cộng đồng và nơi cư trú ven biển sẽ phải chịu ngày càng nhiều áp lực do các tác động của biến đổi khí hậu.

Các vùng cực

- Các ảnh hưởng chủ yếu sẽ là giảm độ dày và diện tích của các sông băng, mũ băng và băng biển, những thay đổi trong các hệ sinh thái tự nhiên gây ảnh hưởng bất lợi tới nhiều sinh vật gồm các loài chim di cư, động vật có vú và các loài ăn thịt.

- Đối với các cộng đồng ở Bắc cực, các tác động đặc biệt là những tác động do thay đổi trạng thái của băng, tuyết sẽ phức tạp.

- Các tác động tiêu cực sẽ bao gồm tác động tới cơ sở hạ tầng và lối sống truyền thống của các cộng đồng bản địa.

Các đảo nhỏ

- Mực nước biển dâng sẽ làm gia tăng lũ lụt, dông bão, xói lở và các thảm hoạ ven biển khác, đe dọa cơ sở các hạ tầng có ý nghĩa quan trọng, nơi ở và các điều kiện hỗ trợ sinh kế của các cộng đồng trên đảo.

8

Page 9: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

- Phá huỷ hiện trạng ven biển, ví dụ xói lở bờ biển và tẩy trắng san hô sẽ ảnh hưởng tới nguồn tài nguyên địa phương.

- Vào giữa thế kỷ này, biến đổi khí hậu sẽ làm suy giảm tài nguyên nước ở nhiều đảo nhỏ, chẳng hạn như biển Caribê và Thái Bình Dương không có đủ nước để đáp ứng nhu cầu trong thời kỳ mưa ít.

- Do nhiệt độ cao hơn nên các loài ngoại lai sẽ tăng cường xâm lấn, đặc biệt ở các đảo nằm ở vĩ độ trung và cao.

Nóng lên toàn cầu và nước biển dâng có thể tiếp diễn trong nhiều thế kỷ do tính phức tạp và sự phản hồi của các quá trình khí hậu, thậm chí ngay cả khi nồng độ các khí nhà kính đã ổn định. Sau năm 2100, sự thu hẹp của dải băng Greenland sẽ tiếp diễn, góp phần làm cho mực nước biển dâng cao hơn. Các mô hình hiện nay cho thấy dải băng tan chảy hoàn toàn sẽ làm cho mực nước biển dâng cao khoảng 7m.

Các nghiên cứu mô hình toàn cầu hiện nay dự báo, dải băng ở Nam cực vẫn còn quá lạnh để tan chảy trên bề mặt rộng lớn và vẫn tiếp tục tích tụ do mưa tuyết nhiều hơn. Tuy nhiên, khối lượng băng có thể giảm thực sự giảm nếu xu thế tan chảy trội hơn trong cân bằng khối của dải băng. Nóng lên toàn cầu do con người có thể dẫn tới một số tác động đột ngột hoặc không thể đảo ngược, phụ thuộc vào tốc độ và cường độ của biến đổi khí hậu.

Mất một phần dải băng ở vùng cực nghĩa là mực nước biển sẽ dâng cao hàng mét, đường bờ biển sẽ có nhiều thay đổi và các vùng thấp/trũng bị nhấn chìm, gây ảnh hưởng lớn tới các vùng châu thổ sông và các đảo thấp. Những thay đổi này sẽ diễn ra trong thiên niên kỷ nhưng cũng không loại trừ trong thế kỷ này mực nước biển tăng nhanh hơn.

Biến đổi khí hậu có thể gây ra một số tác động lớn. Cho đến nay, theo ước tính, khoảng từ 20%-30% loài có nguy cơ tuyệt chủng nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng khoảng 30C (tương ứng từ năm 1980-1999). Khi nhiệt độ toàn cầu tăng hơn 3,50C, dự báo mô hình cho thấy trên toàn cầu sẽ có từ 40%-70% loài tuyệt chủng.

1.2. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY ĐỔI MỰC NƯỚC BIỂN

Do những hoạt động khác nhau của con người, nồng độ CO2 và các khí nhà kính khác tích luỹ trong khí quyển của Trái đất và gây ra nóng lên toàn cầu. Mực nước biển dâng cao là một trong những tác động có quy mô lớn nhất do hậu quả của nóng lên toàn cầu. Các yếu tố góp phần khiến mực nước biển dâng cao trong thế kỷ 20-21 là:• Sự dãn nở nhiệt do lớp bề mặt đại dương nóng lên.• Sự bổ sung nước cho các đại dương do các vùng có băng tuyết tan chảy, như ở

Hymalaya, Alaska, Patagogia… và các mũ băng ở vùng cực, như Nam Cực và Greenland.

• Sự trao đổi nước với các nguồn trên lục địa như nước ngầm, các tầng ngậm nước, các đập nước, hồ chứa…

Các chỏm băng lớn ở vùng cực chính là nguồn bổ sung nước tiềm tàng cho các đại dương. Nước bổ sung cho các đại dương theo hai cơ chế chung: 1) Tan chảy băng trên

9

Page 10: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

vùng đất, sau đó tạo thành dòng chảy đổ ra các đại dương và 2) Do tính chất động lực học của băng, tạo thành dòng từ đất liền ra biển. Khi băng được chuyển ra biển, ngay lập tức nước biển dâng cao. Cho đến nay, các tính chất động lực học của băng vẫn không hề thay đổi, nhưng các bằng chứng mới đây cho thấy lượng băng đổ ra các đại dương ngày càng nhiều, diễn ra ở cả Bắc cực và Nam cực.

Kể từ Báo cáo đánh giá thứ 3 của IPCC năm 2001, đã có nhiều nỗ lực trong việc đo lượng băng mất đi ở Greenland và sự góp phần của hiện tượng này vào xu thế nước biển dâng. Ringot và Kanagaratnam (2006) đã phát hiện ra sự tăng lên nhanh chóng của các dòng sông băng lớn ở vùng vĩ độ thấp trong những năm 1996- 2000, và lan rộng đến vùng vĩ độ cao vào năm 2005. Kết quả cho thấy tổng lượng băng tan chảy đã tăng gấp đôi so với thập kỷ trước. So sánh sự đóng góp của lượng băng tan của Greenland đối với nước biển dâng với ước tính của IPCC trong thế kỷ 20, các đo đạc mới lớn hơn khoảng từ 2-5 lần.

Tại Nam Cực, sử dụng vệ tinh GRACE, các nhà khoa học đã xác định được sự thay đổi lớn của các tảng băng ở Nam Cực trong giai đoạn 2002-2005. Kết quả cho thấy rằng khối lượng băng đã giảm đáng kể, với tốc độ 152 ± 80 km3/năm; phần lớn khối lượng này từ các tảng băng phía Tây của Nam Cực. Tỷ lệ này lớn hơn gấp nhiều lần so với dự đoán của IPCC trong bản Báo cáo thứ ba, và IPCC cũng đã thừa nhận rằng báo cáo cuối cùng đã không xem xét đến những thay đổi động của các tảng băng phía Tây của Nam Cực.

Bản Báo cáo thứ ba của IPCC cho thấy từ cuối thế kỷ 19 nhiệt độ trung bình bề mặt Trái đất đã tăng xấp xỉ 0,2-0,6oC. Thập kỷ 90 của thế kỷ 20 là thập kỷ nóng nhất trong 1000 năm qua ở bán cầu Bắc. Hai giai đoạn có nhiệt độ tăng nhanh nhất là 1910-1945 và từ 1976 đến nay với khoảng 0,15oC/thập kỷ. Mức tăng nhiệt độ của biển chỉ bằng khoảng một nửa mức tăng nhiệt độ không khí bề mặt đất. Những phân tích mới cho thấy hàm lượng nhiệt của đại dương toàn cầu tăng lên rõ rệt từ những năm 1950, trong đó hơn một nửa lượng nhiệt tăng lên này xảy ra ở lớp nước bên trên, tương đương với mức tăng khoảng 0,040C/thập kỷ.

Hình 1. Sự thay đổi nhiệt độ đại dương và đất liền trên toàn cầu (Nguồn: IPCC 2007)Mực nước biển tăng đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng cho nhiều quốc đảo nhỏ đang

phát triển và cho tất cả các vùng trũng trên thế giới. Báo cáo Phát triển Con người 2007-0008 (UNDP) đưa ra dự báo nếu nhiệt độ tăng thêm 3-4oC, 330 triệu người phải di dời tạm thời hay vĩnh viễn do lũ lụt. Hơn 70 triệu người Bănglađét, 6 triệu người ở

10

Page 11: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

vùng đồng bằng thấp của Ai cập và 22 triệu người Việt Nam có thể bị ảnh hưởng. Các quốc đảo nhỏ ở Thái Bình Dương và vùng Caribê có thể bị thiệt hại hết sức nghiêm trọng. Sự thay đổi hình thái dòng chảy và hiện tượng băng tan sẽ gây ra thêm các áp lực sinh thái, ảnh hưởng xấu đến lưu lượng nước tưới và sự định cư của con người. Trung Á, Bắc Trung Quốc và khu vực phía bắc của Nam Á phải đối mặt với các nguy cơ rất lớn liên quan đến sự tan chảy của các núi băng với tốc độ 10-15m/năm ở dãy Hymalaya. Khi các núi băng tan chảy, 7 hệ thống sông lớn của châu Á sẽ có lưu lượng tăng lên trong khoảng thời gian ngắn, sau đó lại hạ xuống, ảnh hưởng đến nguồn cung cấp nước và duy trì nguồn cung lương thực cho hàng trăm triệu người ở khu vực Nam Á.

Nước biển ấm lên sẽ sinh ra những cơn bão nhiệt đới mạnh hơn. Với hơn 344 triệu người hiện đang phải đối mặt với nguy cơ bị ảnh hưởng bởi các xoáy thuận nhiệt đới, các cơn bão mạnh hơn có thể gây thiệt hại nặng nề cho một số nước. Hiện có 1 tỷ người đang sống ở các khu nhà ổ chuột đô thị, trên các triền đồi có nguy cơ bị sạt lở, hay bên các bờ sông luôn bị ngập lụt đang phải đối mặt với nguy cơ tổn thương nghiêm trọng.

1.3. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY ĐỔI MỰC NƯỚC BIỂNRất khó có thể đánh giá đầy đủ về những ảnh hưởng gián tiếp của mực nước biển

dâng cao do biến đổi khí hậu. Song, có thể nhận thấy các khu vực duyên hải, ven biển sẽ chịu nhiều tác động nhất, mà khu vực này lại là nơi tập trung các đô thị lớn, dân cư đông đúc và các cơ sở hạ tầng quan trọng. Một đánh giá của Chương trình Đánh giá quy mô của Con người đến Sự thay đổi môi trường toàn cầu (UNU-IHDP) cho thấy: hiện nay có rất nhiều trung tâm đô thị đặt tại các vùng thấp ven biển. Đó là các vùng đất tiếp giáp với biển, ở độ cao dưới 10m so với mực nước biển, chiếm 2% diện tích bề mặt Trái đất nhưng tập trung tới 10% dân số thế giới và 13% dân số đô thị. Có 10 nước có số đông dân số sống ở các vùng ven biển có độ cao dưới 10m, với tổng số 463 triệu người, chiếm 73% dân số thế giới sống trong khu vực này (9/10 nước này là ở khu vực châu Á). Trong số 180 nước có dân số sống ở các vùng ven biển thì có tới 70% có các đô thị lớn nhất mở rộng ra sát biển.

Những hậu quả của nước biển dâng cao sẽ liên quan đến các một số lĩnh vực tiềm tàng như thuỷ sản, nông nghiệp, đa dạng sinh học, du lịch. Mực nước biển dâng cao còn dẫn tới những khủng hoảng sinh thái, kinh tế và xã hội như tạo ra các dòng người di cư (tị nạn môi trường) thoát khỏi các vùng bị ảnh hưởng, gây xáo trộn về trật tự xã hội và các vấn đề khác về sức khoẻ môi trường. Có thể tóm lược các ảnh hưởng tiềm tàng về kinh tế xã hội chính của mực nước biển dâng như sau:- Tăng nguy cơ thiệt hại về tài sản và các nơi cư trú vùng ven biển.- Tăng rủi ro ngập lụt và tỷ lệ thương vong.- Phá huỷ các công trình bảo vệ bờ biển và các công trình cơ sở hạ tầng khác.- Suy giảm các nguồn tài nguyên tái tạo và sinh kế.- Suy giảm các chức năng du lịch, giải trí và giao thông.- Thiệt hại về các giá trị về văn hóa.- Nảy sinh các vấn đề mới về tái định cư.

11

Page 12: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

- Tác động đến nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản do suy giảm chất lượng đất và nước.

Tài liệu “Tác động của mực nước biển dâng cao đến các nước đang phát triển: Phân tích so sánh” của Ngân hàng Thế giới (WB) thực hiện tháng 2/2007 đã đánh giá các tác động của mực nước biển dâng cao đối với tất cả các nước đang phát triển bằng cách sử dụng bộ chỉ số đồng nhất các chỉ thị và với các kịch bản khác nhau về mực nước biển dâng cao. Có thể nói, đây là tài liệu đầu tiên được thực hiện theo hình thức này. Năm 2006, Mendelsohn và các cộng sự đã đưa ra thêm bằng chứng, bằng việc đánh giá các tác động của biến đổi khí hậu đối với thị trường tại các nước giàu và nghèo theo các kịch bản khí hậu khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã không đánh giá tác động của mực nước biển dâng cao đến các chỉ thị tự nhiên và xã hội. Với tài liệu này, WB đã chia 84 nước đang phát triển ở ven biển thành 5 nhóm theo 5 văn phòng khu vực của WB gồm: Mỹ Latin và Caribê (25 nước); Trung Đông và Bắc Phi (13 nước); Châu Phi cận Xahara (29 nước); Đông Á (13 nước); và Nam Á (4 nước). Với mỗi nước và khu vực, các nhà khoa học đánh giá tác động của mực nước biển dâng cao theo 6 chỉ thị: đất đai, dân số, tổng sản phẩm quốc nội (GDP), diện tích đô thị và đất ngập nước. Cuối cùng, các tác động này được tính toán theo các kịch bản về mực nước biển dâng cao từ 1-5m.

Các nhà khoa học đã sử dụng phần mềm của Hệ thống thông tin địa lý (GIS) để chồng ghép 6 yếu tố quan trọng bị tác động của các vùng có nguy cơ nhấn chìm theo 5 kịch bản nước biển dâng từ 1-5m. Đánh giá cũng sử dụng các nguồn dữ liệu không gian phân tán tại nhiều trung tâm như Trung tâm Nghiên cứu các Hệ thống môi trường (CESR), Trung tâm quốc tế Mạng thông tin về Khoa học Trái đất (CIESIN), Trung tâm Quốc tế về Nông nghiệp Nhiệt đới (CIAT), Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế (IFPRI), Cơ quan Hàng không và Không gian Quốc gia (NASA), Cơ quan Quản lý Hải dương và Khí quyển quốc gia (NOAA) và WB.

Các kết quả nghiên cứu cho thấy 0,31% (194.309 km2) vùng lãnh thổ của 84 nước đang phát triển bị ảnh hưởng khi mực nước biển dâng cao 1m. Tỷ lệ bị ngập có thể tăng lên 1,2% theo kịch bản nước biển dâng cao 5m. Cho dù tỷ lệ này nhỏ song sẽ có khoảng 56 triệu người (hay 1,28% dân số) ở 84 nước đang phát triển bị ảnh hưởng khi mực nước biển dâng cao 1m. Tác động của mực nước biển dâng cao đến GDP cao hơn chút ít so với tác động đến dân số. Các vùng đất ngập nước cũng chịu tác động đáng kể cho dù nước biển chỉ dâng 1m. Sẽ có 7,3% các vùng đất ngập nước ở 84 nước bị ảnh hưởng khi mực nước biển dâng cao 5m.

Với mỗi chỉ thị, WB đưa ra danh sách 10 nước bị ảnh hưởng nhiều nhất. Theo đó, với kịch bản nước biển dâng cao 1m, Bahamas (khu vực Mỹ latinh và Caribê) là nước bị ảnh hưởng nặng nhất xét về diện tích bị ảnh hưởng (12% tổng diện tích). Việt Nam đứng đầu danh sách 10 nước bị ảnh hưởng về dân số, khu vực đô thị và đất ngập nước (khoảng 10%). Nông nghiệp của Ai Cập bị ảnh hưởng nhiều nhất, gần 13%. 28% diện tích đất ngập nước của Việt Nam, Jamaica và Belize có thể bị ảnh hưởng khi mực nước biển dâng cao 1m. Xét về tất cả các chỉ thị, theo Báo cáo của WB, Việt Nam nằm trong danh sách 5 nước bị ảnh hưởng nhiều nhất cùng với Ai Cập, Suriname và Bahamas.

12

Page 13: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Bảng 1. Tác động của mực nước biển dâng cao đến khu vực Đông ÁCác đối tượng bị

ảnh hưởng

1m 2m 3m 4m 5m

Tổng diện tích 14.140.767 km2

Diện tích 74.020 119.370 178.177 248.970 325.089% 0,52 0,84 1,26 1,76 2,30

Tổng dân số 1.883.407.000 ngườiDân số 37.193.866 60.155.640 90.003.580 126.207.275 162.445.397

% 1,97 3,19 4,78 6,70 8,63Tổng GDP 7.577.206 triệu USD

GDP (triệu USD)

158.399 255.510 394.081 592.598 772.904

% 2,09 3,37 5,20 7,82 10,20Tổng diện tích đô thị 388.054 km2

Đô thị 6.648 11.127 17.596 25.725 34.896% 1,71 2,87 4,53 6,63 8,99

Tổng diện tích đất nông nghiệp 5.472.581 km2

Đất nông nghiệp

45.393 78.347 121.728 174.076 229.185

% 0,83 1,43 2,22 3,18 4,19Tổng diện tích đất ngập nước 1.366.069 km2

Đất ngập nước

36.463 56.579 79.984 110.671 130.780

% 2,67 4,14 5,86 8,10 9,57

Nguồn: WB, 2007

Đông Á sẽ bị ảnh hưởng rất lớn bởi nước biển dâng. Khi nước biển dâng 5m, Đông Á là khu vực ảnh hưởng nghiêm trọng nhất trong khối các nước đang phát triển. Với các kịch bản nước biển dâng tương ứng từ 1m đến 5m, dân số bị ảnh hưởng là khoảng 2% đến 8,6%, trong khi ảnh hưởng đến GDP là 2,09% đến 10,2%. Khu vực đô thị và diện tích các vùng đất ngập nước cũng bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng khi nước biển dâng.

Theo đánh giá này, Việt Nam là nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi nước biển dâng: khoảng 16% tổng diện tích của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng khi nước biển dâng 5m, đưa Việt Nam trở thành nước thứ hai sau Bahamas (60% tổng diện tích) trong số các nước được phân tích trong nghiên cứu này. Đa số ảnh hưởng này tác động đến Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Một phần lớn dân cư Việt Nam và các hoạt động kinh kế nằm ở vị trên vùng đồng bằng của hai con sông này. 10,8% dân số Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng khi nước biển dâng 1m. Đây là tỷ lệ lớn nhất trong số 84 quốc gia

13

Page 14: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

(tiếp theo là Ai Cập với 10,56%). Dân số Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng đến 35% với nước biển dâng ở mức 5m. Ảnh hưởng của nước biển dâng đến GDP của Việt Nam và khu vực đô thị gần với mức ảnh hưởng đến dân số của Việt Nam.

GDP của Thái Lan cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, ảnh hưởng này sẽ đáng kể chỉ khi nước biển dâng ở mức 4m đến 5m. Trong tất cả các chỉ thị, khu vực nông nghiệp Việt Nam sẽ ảnh hưởng nặng nhất ở các nước Đông Á. Đồng thời, nông nghiệp của Myanmar, cũng như các vùng đất ngập nước cũng sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Hầu hết các vùng đất ngập nước của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng của nước biển dâng.

Bảng 2. Tác động của mực nước biển dâng cao ở Nam Á

Các đối tượng bị

ảnh hưởng

1m 2m 3m 4m 5m

Tổng diện tích 4.197.171 km2

Diện tích 12.362 21.983 35.696 52.207 69.225% 0,29 0,52 0,85 1,24 1,65

Tổng dân số 1.306.556.000 ngườiDân số 5.870.472 10.187.694 17.810.069 22.065.103 39.505.521

% 0,45 0,78 1,36 1,69 3,02Tổng GDP 3.295.567 triệu USD

GDP (triệu USD)

18.021 30.957 52.036 72.462 94.020

% 0,55 0,94 1,58 2,20 2,85Tổng diện tích đô thị 241.779 km2

Đô thị 809 1.379 2.311 3.599 5.117% 0,33 0,57 0,96 1,49 2,12

Tổng diện tích đất nông nghiệp 3.023.617 km2

Đất nông nghiệp

3.442 6.951 13.501 23.716 35.190

% 0,11 0,23 0,45 0,78 1,16Tổng diện tích đất ngập nước 579.130 km2

Đất ngập nước

9.184 16.685 25.988 36.109 46.003

% 1,59 2,88 4,49 6,24 7,94Nguồn: WB, 2007

14

Page 15: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Hình 2. Dân số bị ảnh hưởng theo các kịch bản nước biển dâng ở Đông ÁNguồn:WB, 2007

Hình 3. Diện tích đất các quốc gia bị ảnh hưởng theo các kịch bản nước biển dâng ở Đông ÁNguồn: WB 2007

Hình 4. Diện tích đất ngập nước các quốc gia bị ảnh hưởng theo các kịch bản nước biển dâng ở Đông Á

Nguồn: WB, 2007

15

Page 16: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

1.2. CƠ SỞ KHUNG ĐÁNH GIÁ CÁC TÁC ĐỘNG CỦA SỰ DÂNG CAO NƯỚC BIỂN

Các nghiên cứu về tác động của mực nước biển dâng cao thường tập trung vào đánh giá các tác động và sự ứng phó. Năm 2001, Smit và các cộng sự đã đưa ra khung đánh giá, trên cơ sở khung của Klein và Nicholls (1999) làm nền tảng cho thực hiện diễn giải và so sánh. Mực nước biển, cho dù do nguyên nhân nào thì nó cũng có những tác động như tăng xói lở và ngập lụt. Ngược lại các tác động này lại có những tác động đến kinh tế xã hội gián tiếp tuỳ thuộc vào sự tiếp xúc của con người trước các thay đổi này. Các hệ thống bị ảnh hưởng đồng thời cũng có những sự phản hồi quan trọng như tự điều chỉnh và thích ứng với những biến đổi trên. Các vùng ven biển là khu vực bị tác động nhiều nhất khi nước biển dâng. Vùng ven biển chính là nơi diễn ra các quá trình tương tác giữa các hệ thống tự nhiên và hệ thống kinh tế xã hội.

Cả hai hệ thống này đều được đặc trưng bởi các mức ảnh hưởng (tiếp xúc), tính nhạy cảm và khả năng thích ứng trước mực nước biển dâng cao và các thay đổi khác liên quan đến khí hậu và các áp lực không liên quan đến khí hậu. Tính nhạy cảm và khả năng thích ứng kết hợp với mức độ tiếp xúc sẽ xác định tính dễ tổn thương của mỗi hệ thống.

Hình 5. Cơ sở khung đánh giá Tính tổn thương và tác động của sự dâng cao nước biển đối với vùng ven biển

Nguồn: Nicholl, 2002

16

HỆ THỐNG TỰ NHIÊN

Nước biển dâng và các thay đổi khí hậu khác

Khả năng thích ứng kinh tế-xã hội

Tính nhạy cảm về kinh tế-xã hội

Khả năng tự thích ứng

Tính nhạy cảm kinh tế-xã hội

Các ảnh hưởng khác

Khả năng thích ứng theo kế hoạch

Các áp lực không liên quan đến khí hậu

Khả năng thích ứng tự nhiên

Tính nhạy cảm tự nhiên

Khả năng tự thích ứng

Tính tổn thương tự nhiên

Các ảnh hưởng sinh-địa-vật lý

Khả năng thích ứng theo kế hoạch

HỆ THỐNG KT-XH

Page 17: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Mức tiếp xúc được xác định là tính chất và mức độ, mà một hệ thống khi tiếp xúc với các thay đổi về khí hậu như nước biển dâng.

Tính nhạy cảm, là mức độ mà một hệ thống khi bị ảnh hưởng, hoặc bị ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc hưởng lại từ sự thay đổi khí hậu.

Khả năng tự thích ứng, biểu hiện là các phản ứng tự nhiên thích ứng trước mực nước biển dâng cao. Các quá trình thích ứng tự nhiên thường bị giảm nhẹ, hoặc ngừng lại bởi các áp lực do con người.

Khả năng thích ứng theo kế hoạch (đã xuất hiện trong hệ thống kinh tế xã hội) có thể giúp giảm thiểu tính tổn thương bằng rất nhiều giải pháp. Sự tương tác giữa các hệ thống tự nhiên và kinh tế xã hội ở các vùng ven biển diễn ra rất phức tạp. Do vậy, các hình thức thích ứng và điều chỉnh trong mỗi hệ thống và giữa hai hệ thống thường nhằm giảm cường độ của các tác động tiềm tàng khi các tác động này xảy ra. Nhờ đó, các tác động thực thường bớt nghiêm trọng hơn so với tác động tiềm tàng được dự báo ban đầu.

Các kịch bản tương lai về nước biển dângBáo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC đưa ra năm 2007 dự báo về mực nước biển dâng cao

theo các kịch bản khác nhau: Trong 2 thập kỷ tới, nhiệt độ Trái đất sẽ tăng khoảng 0,20C mỗi thập kỷ. Thậm chí nếu nồng độ của các khí nhà kính và các sol khí khác vẫn giữ ở mức năm 2000 thì nhiệt độ trung bình Trái đất vẫn tăng thêm 0,10C mỗi thập kỷ.

Bảng 4. Các kịch bản và nhiệt độ và nước biển dâng theo IPCC (2007)Các kịch bản Sự thay đổi nhiệt độ (0C, giai

đoạn 2090-2099 so với giai đoạn 1980-1999)

Mực nước biển dâng (m, giai đoạn 2090-2099 so

với giai đoạn 1980-1999)Trung bình Giới hạn Phạm vi dao động

Mức nền của năm 2000 0,6 0,3-0,9 -Kịch bản B1 1,8 1,1-2,9 0,18-0,38Kịch bản A1T 2,4 1,4-3,8 0,20-0,45Kịch bản B2 2,4 1,4-3,8 0,20-0,43Kịch bản A1B 2,8 1,7-4,4 0,21-0,48Kịch bản A2 3,4 2,0-5,4 0,23-0,51Kịch bản A1F1 4,0 2,4-6,4 0,26-0,59Nguồn: IPCC, 2007

Kịch bản A1: Nền kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh, dân số toàn cầu đạt cực đại vào những năm giữa thế kỷ và nhiều công nghệ mới hiệu suất cao sẽ được đưa vào sử dụng. Kịch bản A1 chia làm 3 nhóm với các hướng thay đổi khác nhau trong công nghệ:- Nhiên liệu hóa thạch (A1F1).- Nhiên liệu phi hóa thạch (A1T).- Cân bằng giữa các loại năng lượng (A1B).Kịch bản B1: Dân số toàn cầu cũng đạt cực đại vào những năm giữa thế kỷ giống kịch bản A1

nhưng có sự thay đổi nhanh hơn trong cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ và kinh tế nông thôn.Kịch bản B2: Sự tăng trưởng kinh tế và dân số ở mức trung bình, các giải pháp phát

triển kinh tế, xã hội và môi trường bền vững khu vực được chú trọng.Kịch bản A2: dân số toàn cầu tăng trưởng nhanh trong khi phát triển kinh tế và

chuyển giao công nghệ chậm.

17

Page 18: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

II. ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ DÂNG CAO NƯỚC BIỂN TỚI MỘT SỐ QUỐC GIA CÓ BIỂN VÀ VIỆT NAM

2.1. BĂNGLAĐÉTBănglađét là một trong những vùng châu thổ lớn trên thế giới với 230 hệ thống sông

ngòi dày đặc phân bố khắp đất nước. Trong đó lớn nhất là Hệ thống sông Hằng, Brahmaputra và Meghna. Địa hình Bănglađét thoải từ phía Bắc xuống phía Nam với 710 km đường bờ biển. Dải ven biển phía Nam nằm song song với Vịnh Bengal ở mũi phía Bắc của Ấn Độ Dương, nông và có dạng hình cung lõm, thường xuyên bị bão tấn công, gây ra sóng lớn. Dải ven biển tập trung 19 trong số 64 quận của Bănglađét, trong đó có 12 quận tiếp giáp với biển hoặc nằm trên vùng cửa sông. Dân số vùng ven biển là 35,1 triệu người, chiếm 28% tổng dân số (năm 2003). Mật độ dân số ở vùng duyên hải là 482 người/km2, trong khi có những nơi tập trung tới 1.012 người/km2. Nuôi trồng thuỷ sản, nông nghiệp, nuôi tôm, sản xuất muối và du lịch là các hoạt động kinh tế chính ở vùng ven biển Bănglađét.

Bănglađét là nước tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, thiếu vốn đầu tư và cơ sở hạ tầng cần thiết, thiếu năng lực thể chế, phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên.... Những đặc điểm này khiến cho Bănglađét rất dễ tổn thương trước các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, và dân cư ở dải ven biển tổn thương nhiều hơn so với dân cư ở các khu vực khác nếu xảy ra các tác động. Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) năm 2007, mực nước biển dâng 1m sẽ nhấn chìm 18% diện tích đất, trực tiếp đe doạ 11% dân số. Tác động của mực nước sông do mực nước biển dâng cao có thể ảnh hưởng đến 70 triệu người. Nước biển dâng cao 1m sẽ ảnh hưởng tới diện tích rộng lớn vùng ven biển và vùng đồng bằng ngập lũ. Điều này sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, gây ra dòng người tị nạn môi trường. Các đối tượng bị tổn thương nhiều nhất khi nước biển dâng 1m là tài nguyên vùng ven biển, tài nguyên nước, nông nghiệp và đa dạng sinh học, trong đó Sundarbans là khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất. Khu vực Sundarbans là nguồn sinh kế duy trì cuộc sống cho khoảng 10 triệu người. Các hoạt động chính ở Sundarbans là khai thác thuỷ sản, gỗ và mật ong (Bảng 5).

Bảng 5: Nước biển dâng và những ảnh hưởng tiềm tàng ở BănglađétNăm 2020 2050 2100

Mực nước dâng 10cm 25cm 1mDiện tích chìm dưới mực nước biển

2 % diện tích đất (2.500 km2)

4 % diện tích đất (6.300 km2)

17,5 % diện tích đất (25,000 km2).Các khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất gồm Patuakhali, Khulna và Barisal

Bão 1991 trận bão, lốc diễn ra, với mức tăng 10% về cường độ, tốc độ gió tăng từ 225 đến 248 km/h;

Bão làm nước dâng 7,4-9,1m và làm mực nước biển dâng cao 1 m.

Ngập lụt Ngập lụt tăng 20% .

Tăng ngập lụt ở sông đồng bằng ngập lũ sông

Tăng diện tích bị ngập mức độ lũ lụt.

18

Page 19: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Meghna và sông Hằng. Ngập trong mùa mưa làm tăng thiệt hại mùa màng.

Nông nghiệp Nước biển dâng làm giảm 0,2% sản lượng do ngập.Giảm 1% sản lượng so với mức hiện nay.

Mực biển dâng cao 0,3m làm giảm 0,5% sản lượng do ngập.Giảm 2% so với mức hiện nay.

Lũ tàn phá làm thiệt hại trong nhiều năm

Hệ sinh thái Nhấn chìm 15% Sundarbans

Nhấn chìm 40% Sundarbans

Sundarbans có thể mất hoàn toàn. Mất Sundarbans và các vùng ngập nước ven biển làm giảm diện tích các bãi đẻ của nhiều loài cá, làm giảm số lượng quần thể.

Xâm nhập mặn Tăng Tăng TăngNguồn: WB, 2000.

Ngoài các nguyên nhân do băng tan và nước dãn nở do nhiệt, thì sự sụt lún và nâng lên của nền đất là các yếu tố quan trọng góp phần vào nước biển dâng ở Bănglađét. Một nghiên cứu do Trung tâm Nghiên cứu Khí tượng (SAARC) thực hiện năm 2003 dựa trên 22 bộ dữ liệu năm về thuỷ triều tại 3 trạm đo ven biển cho thấy tốc độ nước biển dâng trong 22 năm qua là khá cao. Mức triều dâng ở Hiron Point, Char Changa và Cox’s Bazar tương ứng với các mức 4,0 mm/năm, 6,0 mm/năm và 7,8 mm/năm trong khoảng thời gian từ 1977-1998. Tốc độ triều dâng ở dải ven biển phía tây cao gấp đôi dải ven biển phía đông. Sự khác biệt này có thể do sự sụt lún và nâng lên của nền đất, tuy nhiên xu thế sụt lún là chủ yếu. Để đánh giá chính xác mức nước biển dâng lên ở vùng ven biển Bănglađét, cần có những đo đạc về lượng phù sa ở các vùng châu thổ và tốc độ nâng lên hay sụt lún của nền đất trong đó phải kể đến hai hệ thống sông lớn là sông Hằng và sông Brahmaputra vận chuyển gần 1,6 tỷ tấn phù sa mỗi năm.

Các tác động liên quan đến nước do biến đổi khí hậu và nước biển dâng là những vấn đề nghiêm trọng nhất ở Bănglađét, đặc biệt là liên quan đến ngập lụt ven biển và ven sông. Những thay đổi về nền đáy sông do quá trình vận chuyển phù sa và trầm tích, cũng như những thay đổi về đặc điểm hình thái do biến động mực nước và lưu lượng dòng chảy theo mùa cũng có ý nghĩa quan trọng. Nguy cơ xói lở tăng lên khi mực nước biển và nước sông dâng cao. Nước biển dâng cuốn trôi lớp đất bề mặt ở dải ven biển, khiến cho khu vực trở nên dốc hơn. Dải ven biển của Bănglađét được thành tạo bởi đất bùn và cát do vậy rất dễ tổn thương trước nước biển dâng. Xói lở còn là nguyên nhân khiến con người phải di dời. Hầu hết người nghèo ở Bănglađét không có đất. Nhà có thể bị sập do xói lở và nhiều lần sập như vậy khiến họ càng nghèo khổ hơn. Một nghiên cứu của Viện nghiên cứu Chính sách Trái đất năm 2004 cho thấy sẽ có khoảng 40 triệu người Bănglađét trở thành tị nạn môi trường do nước biển dâng 1m. Xu thế di cư ra các vùng ven biển khá rõ ràng ở Bănglađét. Trong khi tốc độ tăng dân số của nước này là 1,2% (2000-2005) thì tốc độ tăng dấn số ở các vùng ven biển thấp dưới 10m là 2,1%, ở khu vực đô thị là 2,8%. Dòng người tị nạn môi trường này ngoài một số di dời vào sâu trong nội địa, một số khác tìm đường sang các nước láng giềng như Ấn Độ và Pakistăng, gây những bất ổn về xã hội trong khu vực.

19

Page 20: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Nước biển dâng sẽ làm tăng các hoạt động làm thay đổi đặc điểm hình thái học của sông, gia tăng lưu lượng dòng chảy và do vậy làm tăng khả năng xói lở bờ. Xói lở bờ ở các khu vực cồn đôi khi còn xóa sổ chúng trên bản đồ của Bănglađét. Trong giai đoạn 1972-1987, đã có khoảng 196 km2 cồn bị xói lở và tổng số 11 cồn biến mất tại lưu vực sông Meghna.

Xói lở bờ sông là hiện tượng phổ biến dọc theo các Hệ thống sông Hằng, Jamuna và Tista. Trong giai đoạn 1973-1996, đã có khoảng 1,7 triệu ha vùng ngập lũ nhạy cảm với quá trình xói lở bờ sông. Trong khi có 73.552 ha đất bị xói lở chỉ có 10.628 ha đất được bồi tụ. Mức độ xói lở trầm trọng còn phụ thuộc vào lưu lượng dòng chảy sông và lưu lượng này thay đổi lớn theo mùa. Bănglađét là quốc gia có tài nguyên nước dồi dào, song thực tế là có tới hơn 92% lưu lượng dòng chảy hàng năm là từ bên ngoài lãnh thổ. Vào mùa mưa tổng lưu lượng của sông Hằng và sông Brahmaputra có thể đạt đỉnh điểm 80.000 – 140.000 m3/s vào tháng 7-8 hoặc đầu tháng 9, trong khi lưu lượng của sông Hằng vào tháng 2 và tháng 4 chỉ là gần 1.000 m 3/s, sông Brahmaputra thấp hơn 4.000 m3/s trong khoảng tháng 3 và tháng 4. Ngập lụt là một hiện tượng phổ biến ở Bănglađét. Ngập lụt ảnh hưởng tới 80% diện tích lãnh thổ mà nguyên nhân có thể do lũ quét, mưa lớn, ngập lụt theo mùa và ngập lụt vùng ven biển do nước dâng kèm theo bão. Trong những năm bình thường, 20-25% lãnh thổ bị ngập lụt do nước sông dâng hoặc tắc nghẽn dòng chảy. Nghiên cứu năm 2003 của SAARC cho thấy xu thế ngày càng tăng của các cơn bão lớn trên Vịnh Bengal trong thời gian từ tháng 11 năm trước đến tháng 5 năm sau.

20

Hộp 1: Trận lụt lịch sử ở BănglađetLũ lụt là chuyện bình thường về sinh thái ở Bănglađét. Khi khí hậu biến đổi, lũ lụt bất

thường có thể sẽ là đặc điểm nổi bật trong tương lai. Kinh nghiệm sau trận lụt năm 1998 - thường gọi là trận lụt thế kỷ - nêu bật nguy cơ lũ lụt gia tăng sẽ dẫn đến những thụt lùi lâu dài về phát triển con người. Trận lụt năm 1998 là một hiện tượng cực đoan. Trong năm bình thường thì khoảng ¼ đất nước bị ngập lụt. Khi lên tới đỉnh điểm, trận lụt 1998 ngập trắng 2/3 đất nước. Trên 1.000 người chết và 30 triệu người thành vô gia cư. Khoảng 10% diện tích trồng lúa toàn quốc mất trắng. Ngập lụt kéo dài không thể trồng cấy lại nên hàng chục triệu hộ phải đối mặt với khủng hoảng lương thực.

Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng gấp đôi sau lụt. Mười lăm tháng sau lụt, 40% trẻ có tình trạng dinh dưỡng kém vào thời gian ngập lụt vẫn chưa trở lại được mức dinh dưỡng cũ.

Việc đối phó với trận lụt 1998 đôi khi được coi là bài học thành công về xử lý thiên tai. Tuy nhiên, lũ lụt có tác động xấu về lâu dài, rõ nhất là về tình trạng dinh dưỡng của trẻ vốn đã suy dinh dưỡng. Trẻ bị tác động có thể không bao giờ có khả năng phục hồi sau hậu quả. Hộ nghèo phải chịu đựng trong thời gian trước mắt do cắt giảm tiêu dùng và bệnh tật gia tăng, và do phải gánh chịu nợ nần chồng chất hơn.

Nguồn: Báo cáo Phát triển Con người 2007-2008, UNDP.

Page 21: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Hai phần ba trong số 40 triệu lao động có sức khoẻ ở Bănglađét tham gia làm nông nghiệp và các hoạt động liên quan khác. Tỷ lệ đất canh tác bị thu hẹp hàng năm là 100.000 ha, do đô thị hoá và phát triển các khu định cư. Với tốc độ mất đất này, kèm theo các nguy cơ nhiễm mặn và thoái hóa đất, nền nông nghiệp tự cung tự cấp của Bănglađét chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng trong tương lai. Nhiễm mặn tăng do nước biển dâng làm giảm sản lượng nông nghiệp do thiếu nguồn nước ngọt và thoái hóa đất. Độ mặn làm giảm mức năng lượng và khả năng nảy mầm của một số loài thực vật. Trong số 2,85 triệu ha diện tích vùng ven biển thì có tới 1,2 triệu ha đất canh tác bị nhiễm mặn ở các mức độ khác nhau. Ngập triều trong mùa mưa, ngập trực tiếp do nước mặn và nước lợ, ranh mặn tiến sâu trong mùa khô và ngập nước lợ do nuôi tôm là các nguyên nhân chính gây nhiễm mặn ở vùng ven biển Bănglađét.

Người dân Bănglađét chủ yếu nuôi loài tôm hùm Ấn Độ (Peneaus monodon). Độ mặn cần thiết cho sự phát triển tối ưu của loài tôm này là 5-25 ppt và chúng không thể nuôi trong môi trường nước ngọt. Sự xâm nhập mặn tại các vùng duyên hải một mặt giúp nông dân mở rộng diện tích nuôi tôm mang lại thu nhập, nhưng đồng thời cũng gây ra các ảnh hưởng môi trường tiềm tàng khác. Các diện tích đất lớn được chuyển đổi thành các cánh đồng nước mặn diễn ra hàng ngày. Diện tích nuôi tôm tại 3 quận Satkhira, Khulna và Bagerhat tính đến năm 2004 là 115.900 ha, tăng gấp 87 lần so với năm 1975. Đây cũng là chỉ số về sự xâm nhập mặn tăng lên ở các vùng ven biển ở Bănglađét. Trong 3 thập kỷ qua, nhiễm mặn đã làm suy thoái chất lượng đất và nông dân không thể trồng được cây gì trên các vùng đất nhiễm mặn này. Bằng chứng về sự gia tăng nhiễm mặn ở vùng ven biển Bănglađét thể hiện rất rõ. Ví dụ, nhà máy điện của thành phố Khulna đã phải ngược lên thượng lưu để lấy nước ngọt làm mát nồi hơi, trong khi các nhân tố khác cũng góp phần làm tăng nhiễm mặn như khai thác nước ngầm quá mức ở Farakka mà nguyên nhân là do Ấn Độ nắn dòng chảy về Calcutta.

Một đánh giá năm 2005 về sản lượng nông nghiệp sụt giảm cho thấy sản lượng gạo tại làng thuộc quận Satkhira năm 2003 thấp hơn 1.151 tấn so với năm 1985, tương ứng với mức giảm 69%. Trong đó, 77% mức giảm sản lượng này là do các cánh đồng trồng lúa bị chuyển thành các ao nuôi tôm và 23% còn lại là do giảm năng suất. Tốc độ thoái hóa đất do nuôi tôm cũng góp phần khiến sản lượng nông nghiệp giảm. Tốc độ thoái hóa đất ngày càng tăng và diễn ra phổ biến tại các quận Khulna, Satkhira và Bagerhat. Gạo là nguồn lương thực chủ lực của Bănglađét. Ước tính nước này có khoảng 10.000 giống lúa, gồm Aus, Aman, Boro và các giống của Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI). Nước biển dâng làm tăng tần suất ngập lụt và độ mặn, đe doạ đến sản lượng của Aman và Boro. Nước biển dâng cũng có thể làm tăng rủi ro về sức khoẻ, các bệnh lây nhiễm qua đường nước như tiêu chảy, tả…Do nguồn nước ngọt khan hiếm, người dân có khi phải sử dụng nguồn nước bị nhiễm bẩn.

Ngoài ra, vùng ven biển còn là nơi tập trung 21 trung tâm dịch vụ nghề cá của nhà nước. Các trung tâm này nằm rất gần bờ biển và cửa sông, có nguy cơ bị nhấn chìm cao khi nước biển dâng. Đối với người dân Bănglađét, cá là nguồn prôtêin chính, chiếm 60-80% nguồn prôtêin động vật. Suy giảm sản lượng cá có thể dẫn đến các vấn đề về sức khoẻ và xã hội khác như suy dinh dưỡng và nghèo đói.

21

Page 22: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Năm 2003, có khoảng 60 khu nuôi tôm và 124 nhà máy chế biến tôm đặt tại các vùng ven biển, tập trung ở Teknaf, Ukhia và Sadar thana. Nước biển dâng cao có thể nhấn chìm các ao nuôi tôm. Trận lụt năm 2000 ở Bănglađét đã gây thiệt hại ít nhất 500 triệu USD do cây trồng, các trại nuôi cá, tài sản và cơ sở hạ tầng bị hư hại. Ngành nuôi tôm là ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với mức thiệt hại ước tính 250 triệu USD.

Bănglađét còn là một trong những nước sản xuất muối lớn trên thế giới. Bờ biển ở Cox’s Bazar rất phù hợp với việc sản xuất muối. Khoảng 19.670 ha được sử dụng để sản xuất muối dọc theo bờ biển Cox’s Bazar. Tại đây có 216 hồ muối với diện tích 8.153 ha chỉ riêng ở Chakaria và Sadar thana, sản xuất ra 175.030 tấn muối hàng năm. Hơn nữa, các nhà máy chế biến muối đều đặt gần bờ biển. Ngành công nghiệp này bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi mực nước biển dâng. Hai mươi triệu người trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến sản xuất muối bị ảnh hưởng và có thể rơi vào tình trạng thất nghiệp.

Nước biển dâng còn làm thay đổi vị trí của các cửa sông, gây ra sự thay đổi lớn đối với các nơi cư trú và bãi đẻ của các loài sinh vật do tăng hàm lượng muối, phân mảnh và thu hẹp nơi cư trú. Bănglađét còn nổi tiếng với Sundarbans, một di sản thế giới được UNESCO công nhận. Sundarbans chính là rừng ngập mặn lớn nhất trên thế giới, nằm ở phía Đông Nam của Bănglađét trải rộng cả 3 quận Khulna, Satkhira và Bagerhat. Khu rừng này còn là điểm nóng về đa dạng sinh học, trong đó có nhiều loài bị đe dọa tuyệt chủng trong Sách Đỏ của IUCN và là nơi cư trú cuối cùng còn sót lại cho loài hổ Bengal (Panthera tigris). Theo đánh giá năm 2000 của WB, Sundarbans sẽ bị nhấn chìm 15% khi nước biển dâng 10 cm, 40% khi nước biển dâng cao 25 cm và bị nhấn chìm hoàn toàn khi mực nước biển dâng 1m. Mất Sundarbans có nghĩa mất di sản, mất đa dạng sinh học, nguồn lợi thuỷ sản, sinh kế và sau cùng là mất đi hệ sinh thái có năng suất cao.

Bănglađét còn là nơi thu hút khách du lịch bởi có những bãi biển đẹp ở Kuakata Patenga, Cox’s Bazar. Ngành du lịch ở Kuakata bị ảnh hưởng nhiều hơn do nằm gần bờ biển và ở khu vực dễ bị tổn thương hơn so với Cox’s Bazar và Chittagong. Ngoài ra, còn có rất nhiều cơ sở hạ tầng du lịch khác được xây dựng ở khu vực ven biển. Trước nguy cơ nước biển dâng, các tài sản này sẽ bị đe doạ và tiềm năng du lịch thiên nhiên cũng bị ảnh hưởng.

Với một nước có địa hình thấp trũng như Bănglađét, thì các tác động của nước biển dâng là quá rõ ràng. Các hoạt động sinh kế của người dân và các hệ sinh thái quan trọng bị ảnh hưởng. Nước biển dâng sẽ là mối đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn tại của Bănglađét. Chính vì vậy, Chính phủ Bănglađét cần phải có những nỗ lực lớn để giải quyết vấn đề, thông qua một chiến lược tổng thể nhằm đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nhằm đảm bảo tính toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ sự an toàn cho cư dân của mình. Chiến lược quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu của Bănglađét là một phản ứng của chính phủ trước phiên họp lần thứ 7 Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu. Chương trình thích ứng quốc gia (NAPA) đã đưa ra các biện pháp thích ứng dưới dạng một loạt các hành động bổ sung cho các mục tiêu quốc gia và các hiệp ước quốc tế mà Bănglađét đã ký kết. NAPA cũng có mối liên hệ chặt chẽ với các chính sách và các chương trình khác về môi trường như Kế hoạch Hành động quốc gia về đa dạng sinh học, Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý môi trường…

Tuy nhiên, việc thực hiện các hành động thích ứng với biến đổi khí hậu ở Bănglađét gặp phải một số trở ngại. Thứ nhất, thiếu nhận thức về mức độ và quy mô của vấn đề cũng như

22

Page 23: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

các hành động cần phải thực hiện - trở ngại lớn nhất trong số những trở ngại. Sự thiếu nhận thức này tồn tại ở cả các cấp, gồm các nhà ra chính sách cấp quốc gia cho đến cấp ngành và địa phương, các nhóm xã hội dân sự và cả các cộng đồng dễ bị tổn thương. Thứ hai, thiếu sự lồng ghép các tác động của biến đổi khí hậu vào quá trình xây dựng và triển khai các chính sách, các chương trình ở các lĩnh vực nhạy cảm với biến đổi khí hậu. Trở ngại cuối cùng trong thực hiện các hành động là thiếu các công cụ phù hợp, tri thức và phương pháp luận để hướng dẫn cho người ra quyết định.

Trong thời gian trước khi có NAPA, kể từ Kế hoạch 5 năm lần thứ 4 và cuối cùng là Kế hoạch 5 năm lần thứ 5 (1997-2020), vấn đề bảo tồn và bảo vệ môi trường hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế đã được Chính phủ Bằnglađét chú ý đến và tiếp theo đó là Chiến lược Giảm nghèo đói (PRSP). Trong khoảng thời gian từ đó đến nay, Chính phủ Bănglađét đã có những hành động nhằm hạn chế các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu. Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ trong thời gian diễn ra thảm họa đã phối hợp hành động, giảm thiệt hại về người và tài sản. Các sáng kiến ban đầu đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và ghi nhận. Chính phủ Bănglađét đã cho xây dựng gần 2.000 khu nhà tránh bão ở vùng duyên hải, khoảng 200 khu nhà tránh lũ lụt trên nền đất cao cho những người bị đe doạ bởi bão và ngập lụt. Khoảng 3.931 km đê bao vùng ven biển đã được xây dựng qua các năm nhằm bảo vệ đất khỏi bị nhiễm mặn do thuỷ triều và nước dâng do bão và đào thêm 4.774 km hệ thống kênh thoát nước. Chính phủ cũng đã thực hiện Dự án Vành đai Xanh ở các vùng ven biển với sự tham gia của cộng đồng địa phương. Chương trình tái trồng rừng này nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của thiên nhiên, nhất là các ảnh hưởng do bão và nước dâng, đồng thời cải thiện sinh kế cho người dân địa phương.

Gia tăng nhiễm mặn đã làm trầm trọng thêm vấn đề cung cấp nước sạch ở các vùng duyên hải. Công nghệ thu gom nước mưa được chính phủ và các nhóm phi chính phủ tuyên truyền và phổ biến rộng rãi. Nền nông nghiệp thích nghi với ngập lụt được thúc đẩy thông qua nghiên cứu các giống lúa chịu mặn ; lắp đặt hệ thống ống dùng cho tưới tiêu gần mặt đất nhằm giảm tác động của độ mặn…

Các giải pháp thích ứng được đề xuất cho Bănglađét nhằm giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng dựa trên các cơ chế hiện nay, các thực tiễn và các chiến lược tương lai. Các giải pháp này được chia thành 2 nhóm, gồm nhóm ‘can thiệp’ và nhóm ‘hỗ trợ’.

Nhóm các giải pháp can thiệp bao gồm: 1. Thúc đẩy áp dụng nền canh tác vùng ven biển trong điều kiện độ mặn tăng.2. Thúc đẩy ngư nghiệp vùng ven biển thông qua ương, nuôi, đa dạng hóa các thực

tiễn nuôi các loài cá có khả năng chịu mặn ở các vùng ven biển của Bănglađét.3. Xây dựng các khu nhà tránh lũ, thành lập trung tâm thông tin và hỗ trợ cho tình

hình ngập lụt ngày càng tăng.4. Giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu thông qua tái trồng rừng với sự tham

gia của cộng đồng địa phương.5. Cung cấp nước sạch cho các cộng đồng vùng ven biển nhằm giải quyết tình trạng

nhiễm mặn gia tăng do nước biển dâng.6. Tăng tính ‘đàn hồi’ của cơ sở hạ tầng độ thị và các ngành công nghiệp trước các tác

động của biến đổi khí hậu, như ngập lụt và bão.

23

Page 24: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Nhóm các giải pháp hỗ trợ bao gồm:1. Xây dựng năng lực về lồng ghép biến đổi khí hậu vào quá trình quy hoạch, thiết kế

xây dựng cơ sở hạ tầng, quản lý xung đột. 2. Tìm kiếm các giải pháp về bảo hiểm trước các thảm hoạ về biến đổi khí hậu 3. Lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào các chính sách và các chương trình

trong các ngành/lĩnh vực khác nhau.4. Đưa vấn đề biến đổi khí hậu vào chương trình giảng dạy ở cấp trung học trở lên.5. Phổ biến thông tin về biến đổi khí hậu và các giải pháp thích ứng cho các cộng

đồng dễ bị tổn thương, các giải pháp ứng phó khẩn cấp và nâng cao nhận thức về các thảm hoạ liên quan đến khí hậu.

6. Thúc đẩy nghiên cứu các giống cây trồng có khả năng chống mặn, ngập lụt nhằm hỗ trợ cho việc thích ứng trong tương lai.

7. Tìm kiếm và phổ biến các tri thức/kinh nghiệm về thích ứng (bao gồm cả các tri thức bản địa) với khả năng biến đổi của khí hậu.

24

Nhóm Hướng dẫn chính sách và Quản lý

Các nhiệm vụ và kết quả Các tài liệu thứ cấp quan trọng

Ban Điều phối dự án NAPA

Nhóm Quản lý dự án NAPA (Giám đốc Dự án Quốc gia, Điều phối viên dự án quốc

gia)

Nhóm tư vấn quốc gia

Nhóm tư vấn quốc tế

Hội thảo khởi động Thảo luận về Phương pháp luận đánh giá tính tổn

thương và khả năng thích ứng theo ngành

Tổng hợp các tác độngChiến lược, tính tổn thương, các thách thức và

xu thế phát triển, cơ sở khung triển khai

Nhóm chuyên gia đa ngành và Nhóm công tác theo ngành

Tư vấn cho các bên có vai trò ở cấp vùngXác định các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu, các

chiến lược và giải pháp thích ứng trong tương lai

Báo cáo đánh giá theo ngànhCác tác động, tính tổn thương và các giải pháp thích ứng

tiềm tàng

Kết nối các hoạt động tiềm tàng của NAPA

Dựa trên những tư vấn và ý tưởng từ Báo cáo đánh giá theo ngành

Xây dựng tiêu chíđể ưu tiên các giải pháp thích ứng

Tư vấn cho các bên tham gia có vai trò ở cấp quốc gia

Ưu tiên và sắp xếp các dự án/biện pháp thích ứng

NAPA hoàn chỉnhDanh mục các dự án tiềm tàng

được lồng ghép vào Chính sách Quốc giaCơ sở khung và Chương trình được Chính phủ thông qua

Khung chính sách thích ứngPhương pháp và cơ sở khung

được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây

Các nghiên cứu trước đâyBáo cáo về các chiến lược

cho các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt.

Kế hoạch quản lý tài nguyên nước quốc gia.

Chiến lược về giảm đói nghèo.

Kế hoạch Phát triển Quốc giaCác kế hoạch Phát triển của

ngành.

Page 25: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Hình 6. Sơ đồ quy trình soạn thảo NAPA của BănglađétNguồn: Bộ Môi trường và Rừng, Bănglađét, 11/2005

2.2. TRUNG QUỐCĐã có những bằng chứng cho thấy nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng cao đã

gây ra những tác động đối với các vùng ven biển Trung Quốc, gồm gia tăng xói lở, suy thoái các hệ sinh thái, tăng nhiễm mặn, tần suất và cường độ bão. Những tác động này khác nhau ở từng khu vực, tuỳ thuộc vào các điều kiện vật lý, sinh thái, kinh tế xã hội của từng địa phương. Các hoạt động của con người ở vùng ven biển cũng góp phần làm gia tăng những ảnh hưởng này.

Dọc bờ biển Trung Quốc có 14 đơn vị hành chính, trong đó có 8 tỉnh, 2 thành phố lớn (Thượng Hải và Thiên Tân), hai khu hành chính đặc biệt (Hồng Kông và Ma Cao) với tổng diện tích khoảng 1,6x106km2, chiếm 16,8% tổng diện tích lãnh thổ Trung Quốc, nhưng tập trung tới 41,9% dân số và đóng góp 72,5% GDP. Dải ven biển phía Đông này chính là khu vực tập trung dân cư và kinh tế phát triển năng động nhất. Tuy nhiên, các vùng châu thổ thấp và đồng bằng ven biển này lại được đánh giá là khu vực dễ bị tổn thương nhất do nóng lên toàn cầu và nước biển dâng. Dự báo trong tương lai nóng lên toàn cầu và nước biển dâng sẽ tiếp diễn và gia tăng, kèm theo những thảm họa do bão và mưa lớn. Trong thời gian gần đây, phát triển kinh tế nhanh chóng diễn ra đồng thời với việc thu hút số đông dân cư đổ về các vùng duyên hải và đô thị hóa đã gây ra sức ép ngày càng lớn đến tài nguyên vùng ven biển ở Trung Quốc. Các hoạt động của con người tăng lên làm cho những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và mực nước dâng trở nên phức tạp và khó kiểm soát hơn (Bảng 6).

Bảng 6. Số liệu thống kê 14 đơn vị hành chính ven biển ở Trung Quốc Đất liền Đảo Tổng số % tổng số

Diện tích(106 km2) 1.248 0.36 1.608 16,75

Dân số (106) 498,5 29,1 527,6 41,9

Mật độ dân số (người/km2)     321,6  

GDP (109 USD) 596,83 438,33 1.035,16 72,5 Diện tích vùng ven biển dễ bị tổn thương (103 km2)

143,9 9.456,1 9.600 1,5

Dân số khu vực dễ bị tổn thương (106 km2)

162,09 1097 1.259,09 0,13

Nguồn : Uỷ ban Thống kê Nhà nước, Trung Quốc 2000.

Trong những năm gần đây, kinh tế Trung Quốc bùng nổ là nhờ có các chính sách khuyến khích sự phát triển của các vùng duyên hải. Những chính sách đó đã thúc đẩy xu thế và luồng di dân ra các vùng ven biển lớn nhất trong lịch sử. Nước biển dâng cao làm tăng rủi ro ngập lụt ở các vùng dễ bị tổn thương nhất, là nguyên nhân gây tổn thất

25

Page 26: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

về kinh tế và đẩy con người vào tình trạng nguy hiểm. Ngập lụt vùng duyên hải do nước dâng kèm theo bão đã ảnh hưởng đến hàng chục triệu người và thiệt hại hàng chục triệu USD. Trung Quốc cũng là nước nằm trong danh sách 10 nước có phần đông dân số sống ở các vùng ven biển có độ cao chưa đến 10m so với mực nước biển. Trong giai đoạn từ 2000-2005, tốc độ tăng dân số của Trung Quốc là gần 1%, trong khi tốc độ tăng số ở các vùng ven biển có độ cao chưa đến 10m so với mực nước biển là gần 1,9%, ở khu vực đô thị là 3,4%. Nước biển dâng sẽ có những ảnh hưởng lớn đến sinh kế và sự tồn tại của những cộng đồng tại các vùng ven biển thấp này.

Trong 50 năm qua, tốc độ nước biển dâng ở Trung Quốc là 2,5mm/năm. Mực nước biển dâng cao ở các địa phương có sự khác biệt lớn, trong đó có ảnh hưởng của các hoạt động kiến tạo địa chất và hoạt động do con người, tùy địa phương nhưng cùng góp phần làm mực nước biển dâng cao tương đối. Mực nước biển dâng cao tương đối ở khu vực có ý nghĩa quan trọng hơn so với mực nước biển dâng cao toàn cầu. Tốc độ nâng kiến tạo ở Qinhoangdao và bán đảo Sơn Đông cao hơn so với tốc độ nước biển dâng nên mực nước biển khu vực này hạ thấp chút ít. Các vùng đồng bằng ven biển và châu thổ của các con sông lớn nằm trên đới địa chất có tốc độ sụt lún 1-3mm/năm. Tốc độ sụt lún của nền đất còn bị ảnh hưởng bởi tải trọng lớn của các công trình xây dựng cao tầng dày đặc và hoạt động bơm hút nước ngầm quá mức ở các khu vực này. Do vậy, mực nước biển dâng tương đối tại đây có thể cao hơn nhiều so với mực nước biển dâng cao do nóng lên toàn cầu gây ra. Kết quả khảo sát của Bộ Tài nguyên và Đất đai Trung Quốc năm 2003 cho thấy từ tháng 9/2002 đến tháng 9/2003, Thượng Hải lún thêm 13mm mà nguyên nhân chính là do bơm hút nước ngầm và xây dựng các tòa nhà cao chọc trời. Năm 2004, Thượng Hải lún thêm 8mm, gây báo động cho chính quyền địa phương. Mức độ bơm hút nước ngầm ở thành phố này được giới hạn là khoảng 50 triệu m3/năm, song thực tế mức độ khai thác lớn hơn hai lần. Bộ Tài nguyên và Đất đai Trung Quốc dự định kiểm soát tốc độc lún sụt ở Thượng Hải chỉ ở mức 5mm/năm vào năm 2020.

Bảng 7. Ước tính tốc độ nước biển dâng và triều dângNăm Tốc độ nước biển dâng (cm) Tốc độ thuỷ triều dâng (cm)2010   4 52030 Thấp 7 14

Trung bình 14 27Cao 26 49

2050 Thấp 12 23Trung bình 25 47

Cao 44 812100 Thấp 30 56

Trung bình 59 108Cao 96 175

Nguồn: Shouye Yang, Congxian Li, Daidu Fan, Tongji University, Shanghai, “Impacts of climate changes on Chinese coastal zones and the adaptation strategy”, 2004.

26

Page 27: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Thực tế, mực nước biển dâng có thể thay đổi theo hướng tăng hoặc giảm và có sự khác nhau giữa các địa phương. Dự báo tốc độ nước biển dâng vào năm 2050 tại 3 châu thổ lớn ở Trung Quốc có thể rất khác biệt, như 70-90 cm ở vùng châu thổ sông Hoàng Hà, 50-70 cm ở lưu vực sông Dương Tử và 40-60 cm ở châu thổ sông Châu Giang.

Một trong những ảnh hưởng đầu tiên của mực nước biển dâng là gia tăng xói lở bờ biển. Các bờ biển dạng bùn gần các châu thổ sông chiếm khoảng 1/4 đường bờ biển của đại lục. Các châu thổ này có thể tiến ra biển với tốc độ nhanh, do phù sa sông cung cấp rất phong phú. Gần đây, tốc độ bồi tụ của các vùng ngập triều giảm do giảm lượng phù sa từ các sông Trường Giang và Châu Giang, tuy nhiên xu thế bồi tụ vẫn tiếp diễn. Xói lở bờ biển diễn ra mạnh nhất khi lượng phù sa giảm dưới mức tới hạn hoặc hoàn toàn không được cung cấp, mà điển hình là châu thổ sông Hoàng Hà ở phía Bắc tỉnh Giang Tô. Bờ biển khu vực này đã lùi vào sâu 20km và 14.000km2 đồng bằng châu thổ sông đã bị nhấn chìm kể từ năm 1855 khi sông Hoàng Hà được chuyển hướng về Vịnh Bột Hải ở phía Đông Bắc tỉnh Sơn Đông. Gần 70% đường bờ biển dạng bùn của Trung Quốc đang bị nước biển xâm thực do nước biển dâng, giảm phù sa sông, khai thác cát và các công trình xây dựng không hợp lý ở vùng ven hải. Một nghiên cứu khu vực phía Nam bán đảo Sơn Đông dựa trên những quan trắc thực địa dọc theo 33 km đường bờ biển dạng bùn trong 20 năm qua cho thấy các hoạt động khai thác cát, giảm phù sa và nước biển dâng góp phần gây xói lở bờ biển, tương ứng với 50%, 40% và 10%. Như vậy có thể thấy rõ, xói lở vùng ven biển Trung Quốc là hậu quả của sự kết hợp giữa các quá trình tự nhiên và các hoạt động con người.

Gia tăng xâm nhập mặn tại các vùng cửa sông và tầng ngậm nước là một hậu quả khác của nước biển dâng, làm trầm trọng hơn tình trạng thiếu nước ngọt và gia tăng đất nhiễm mặn tại các vùng đồng bằng ven biển. Nước biển xâm nhập tại các vùng cửa sông hình phễu chịu tác động mạnh của quá trình động lực của sông và nước biển dâng, nhất là khi lưu lượng dòng chảy giảm sẽ gây ra những tác động nghiêm trọng đến quá trình xâm nhập mặn. Với Trung Quốc, các châu thổ lớn như Trường Giang (Dương Tử) và Châu Giang có thể bị ảnh hưởng bởi sự nhiễm mặn khi nước biển dâng cao kết hợp suy giảm lưu lượng nước ở thượng nguồn vào mùa khô.

Sông Trường Giang có 3 nhánh và đổ ra biển theo 4 cửa. Nước mặn xâm nhập vào nội địa theo các cửa này với mức độ khác nhau. Xâm nhập mặn trong mùa đông ở nhánh phía Bắc diễn ra theo cấp số do cửa sông dạng hình phễu và lưu lượng thấp nên nước mặn còn có thể xâm nhập sang cả nhánh phía Nam. Dữ liệu quan sát và mô phỏng dạng số cho thấy xâm nhập mặn ở cửa sông Trường Giang chủ yếu bị chi phối bởi lưu lượng dòng chảy sông và ảnh hưởng của thuỷ triều. Các nhân tố chi phối khác là gió, dòng chảy thềm lục địa và khả năng hòa trộn. Dòng chảy thềm lục địa ngoài khơi cửa sông Trường Giang chủ yếu là các dòng biển ấm Đài Loan và dòng Subei Coast mang nước biển đến vùng cửa sông và có nguy cơ xâm nhập qua cửa sông Trường Giang. Tình hình xâm nhập mặn ở cửa sông Trường Giang còn bị tác động của đập Tam Hiệp và dự án bơm nước từ sông Trường Giang lên miền Bắc Trung Quốc.

Đập Tam Hiệp làm tăng lưu lượng xả của sông Trường Giang thêm 1.500 m3/s trong tháng 1 và tháng 2 vào năm khô hạn và dự án bơm nước từ sông Trường Giang

27

Page 28: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

lên miền Bắc Trung Quốc làm giảm 800 m3/s ở nhánh phía đông trong giai đoạn 1. So sánh với các kết quả trước khi có dự án, Đập Tam Hiệp góp phần làm giảm sự xâm nhập mặn từ sông Trường Giang và dự án bơm nước lên miền Bắc Trung Quốc lại làm tăng nguy cơ nhiễm mặn do thay đổi lưu lượng dòng chảy sông. Tại trạm đo Datong, tỉnh An Huy, sự xâm nhập mặn ở cửa sông Dương Tử có hệ số là 0,884, nghĩa là khi lượng nước ngọt giảm xuống dưới mức 7.000m3/giây, nước mặn sẽ tiến sâu vào đất liền hơn 100km. Đảo Chongming hoàn toàn được bao quanh bởi nước mặn trong thời gian 5 tháng khi lượng nước ngọt giảm xuống ngưỡng 7.300-8.000m3/giây.

Các nhà khoa học Trung Quốc dự báo: tại cửa sông Trường Giang, nếu mực nước biển dâng 0,44m vào năm 2050, ranh mặn 1-5%o sẽ xâm nhập vào sâu hơn 3km trong mùa lũ, nước dâng 0,96m vào 2100 ranh mặn 1-5%o sẽ xâm nhập vào sâu hơn 6-8km. Vào mùa khô, nếu nước biển dâng 0,8m ranh mặn này sẽ tiến sâu vào đất liền hàng chục km.

Ngoài lưu vực sông Trường Giang, lưu vực sông Châu Giang cũng có thể bị ảnh hưởng. Lưu vực Châu Giang có tổng diện tích tiêu thoát nước khoảng 453.690km2, trong đó diện tích châu thổ là 9.750km2, với hệ thống sông ngòi chằng chịt và là một trong những hệ thống tiêu thoát nước phức tạp nhất trên thế giới. Khu vực này chịu ảnh hưởng của chế độ khí hậu cận nhiệt đới gió mùa, với lượng mưa trung bình năm lên tới 1.470mm chủ yếu diễn ra trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 9. Vùng châu thổ sông là đồng bằng có độ cao thấp so với mực nước biển. Tại đây, nước mặn thường xâm nhập vào theo các cửa phía Đông, còn ở các cửa phía Tây, dòng chảy sông chiếm ưu thế. Sông Châu Giang đổ ra biển theo 8 nhánh và nước mặn xâm nhập vào đất liền qua các nhánh sông này ở mức độ khác nhau do lưu lượng nước ngọt cung cấp và chế độ triều khác nhau. Tuỳ theo các đặc điểm này mà vào mùa khô nước mặn có thể xâm nhập vào đất liền sâu hơn 20-60 km so với vào mùa mưa.

Kể từ mùa thu năm 2004, tình trạng hạn hán ở lưu vực sông Châu Giang trở nên nghiêm trọng hơn. Mực nước sông ngòi phổ biển ở mức thấp. Xâm nhập mặn diễn ra mạnh mẽ đe doạ an ninh nguồn nước cấp cho các thành phố Ma Cao, Zhuhai, Trung Sơn và Quảng Châu. Trước tình hình đó, tháng 1/2005, Bộ Tài nguyên Nước, Văn phòng Nhà nước về Kiểm soát Ngập lụt và Giảm nhẹ Hạn hán Trung Quốc đã phải thực hiện một dự án đưa nước khẩn cấp về đẩy mặn và bổ sung nước ngọt cho sông Châu Giang trên chiều dài khoảng 1.300km.

Nóng lên toàn cầu cũng làm cho hạn hán diễn ra thường xuyên và trầm trọng hơn, làm cho nước mặn xâm nhập sâu hơn tại các vùng cửa sông hình phễu. Tại một số vùng biến đổi khí hậu làm tăng lượng mưa và dòng chảy giúp ngăn cản quá trình xâm nhập mặn. Dự án đưa nước từ miền Nam lên miền Bắc làm giảm lượng nước sông Trường Giang, làm trầm trọng hơn quá trình xâm nhập mặn nhất là vào mùa khô tại vùng cửa sông. Trong khi đó, các hoạt động xả nước tại Đập Tam Điệp sẽ giúp ngăn ngừa quá trình xâm nhập mặn.

Mực nước biển dâng cao gây ra những xáo trộn trong các hệ sinh thái. Hiện nay, diện tích các khu rừng ngập mặn Trung Quốc là 250x103hm2, giảm đáng kể từ 50x103hm2 hồi những năm 50. Suy giản diện tích rừng ngập mặn trong thế kỷ trước chủ yếu liên quan đến những tác động trực tiếp và gián tiếp của con người, như chuyển

28

Page 29: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

đổi rừng ngập mặn để canh tác và nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng cảng biển và các cơ sở hạ tầng khác. Nhiệt độ và độ mặn chính là các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố của các khu rừng ngập mặn. Nhiệt độ tăng có xu thế làm các khu rừng ngập mặn dịch chuyển về phía Bắc. Các khu rừng ngập mặn tự nhiên xuất hiện nhiều ở tỉnh Phúc Kiến và rừng ngập mặn nhân tạo có nhiều ở tỉnh Chiết Giang. Tốc độ bồi tích ở rừng ngập mặn thường cao hơn mực nước biển dâng do vậy rừng ngập mặn ở Trung Quốc ít có nguy cơ bị nhấn chìm do được cung cấp đủ phù sa. Tuy nhiên, nếu mực nước biển dâng cao vượt quá tốc độ bồi tụ, nước sâu và sóng lớn sẽ ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của các loài ngập mặn như khả năng nảy mầm, sự phát triển của hệ rễ và cây non.

Ngoài hệ thống rừng ngập mặn rộng lớn, tại vùng ven biển các rạn san hô ven biển trải rộng trên diện tích 30x103km2 và đang bị huỷ hoại nhanh chóng bởi các hoạt động khai thác và phát triển của con người. 80% các rạn san hô ở Đảo Hải Nam đã bị phá huỷ do phát triển ven biển và khai thác san hô trong nửa thế kỷ qua. Do san hô chỉ phát triển trong dải nhiệt độ hẹp từ 21-290C nên nhiệt độ bề mặt nước bất thường trong thời gian diễn ra El Nino đã gây sự tẩy trắng hàng loạt. Hơn nữa, san hô chỉ có thể tăng trưởng với tốc độ tối đa 1cm/năm, cao hơn nhiều so với tốc độ nước biển dâng. Do vậy, với mức nước biển dâng được dự báo không phải là mối nguy lớn mà sẽ là yếu tố cần lo ngại khi nước biển dâng kèm theo những hậu quả khác của biến đổi khí hậu như xuất hiện nhiều cơn bão hơn, mưa lớn làm tăng lượng trầm tích và quá trình axit hóa nước đại dương do tăng lượng cácbônát hòa tan trong nước biển.

29

Hộp 2. Biến đổi khí hậu và khủng hoảng nước ở Trung Quốc Trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc nổi lên như một công xưởng của thế giới. Tăng trưởng kinh tế

nhanh song hành với đói nghèo giảm nhạnh làm chỉ số phát triển con người cao hơn. Tuy nhiên, Trung Quốc rất dễ bị tổn thương do biến đối khí hậu.

Vào năm 2020, nhiệt độ trung bình ở Trung Quốc dự báo sẽ cao hơn 1,1-2oC so với mức năm 1961-1990. Ở một đất nước rộng lớn như Trung Quốc, trải rộng trên nhiều đới khí hậu, tác động sẽ rất phức tạp và đa dạng. Giống như các nước khác, biến đổi khí hậu ở Trung Quốc sẽ cộng hưởng với những căng thẳng tiềm ẩn. Những hệ thống sông miền bắc Trung Quốc là minh chứng hùng hồn về áp lực sinh thái do tăng trưởng kinh tế nhanh. Lưu vực các sông Hắc Long Giang, Hoài Hà và Hoàng Hà cung cấp nước cho gần một nửa dân số Trung Quốc. Nhu cầu gia tăng của công nghiệp, đô thị và nông nghiệp khiến nước đang bị khai thác với tốc độ gấp đôi mức bổ sung. Kết quả là sông không còn ra đến biển và mực nước ngầm chìm sâu hơn.

Những gì đang xảy ra với các núi băng ở Trung Quốc tạo nên cuộc khủng hoảng an ninh sinh thái toàn cầu gay gắt nhất. Trước mắt, lưu lượng nước gia tăng do băng tan có thể gây lũ lụt nhiều hơn. Về lâu dài, núi băng co lại sẽ cắt nguồn nước và làm biến đổi nhiều vùng rộng lớn. Lưu lượng các sông Dương Tử, Hoàng Hà và những dòng sông khác bắt nguồn từ Cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng sẽ giảm đi, làm gia tăng căng thẳng đối với các hệ sinh thái dựa vào nước. Thành phố Thượng Hải đặc biệt dễ bị tổn thương do những nguy cơ liên quan đến biến đổi khí hậu. Nằm ở cửa sông Dương Tử, chỉ cao 4m trên mực nước biển, thành phố này đặc biệt dễ bị ngập lụt. Bão, lốc gia tăng và lưu lượng dòng chảy quá cao góp phần làm ngập lụt đến cực độ. Tất cả 18 triệu dân Thượng Hải có nguy cơ ngập lụt. Mực nước biển dâng cao và tần suất bão tăng lên đã đưa thành phố này vào danh sách các thành phố gặp nguy hiểm. Tuy nhiên, tổn thương chủ yếu tập trung vào khoảng 3 triệu người tạm trú vừa từ nông thôn ra, sống tạm bợ tại các công trường hay khu vực dễ bị ngập lụt, quyền lợi hạn chế, số dân này có nguy cơ phải chịu rủi ro.

Nguồn: Báo cáo Phát triển Con người 2007-2008, UNDP.

Page 30: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Ở Trung Quốc, các vùng đồng bằng thấp ven biển có độ cao chưa đầy 5m so với mực nước biển có diện tích khoảng 144x103km2, chủ yếu phân bố trên ba vùng châu thổ rộng lớn của sông Hoàng Hà, Trường Giang và Châu Giang. Nếu mực nước biển dâng cao 30cm, diện tích bị ngập dưới mực nước tối đa ở Thượng Hải và Giang Tô trong điều kiện không có các công trình phòng thủ bờ biển sẽ lớn gấp 6 lần so với điều kiện được bảo vệ hiện nay.

Việc xây các tuyến đê cao dọc bờ biển của các thành phố lớn và các vùng phát triển kinh tế. Thượng Hải là nơi cần có sự bảo vệ đặc biệt bởi thành phố này nằm ở độ cao thấp nhất so với các tỉnh ven biển của Trung Quốc. Thượng Hải sẽ phải đầu tư 1,2 tỷ NDT để củng cố và tăng cường các cơ sở hạ tầng bảo vệ bờ biển, chống lại nước biển dâng cao trong giai đoạn 2000-2050. Chi phí thích ứng với mực nước biển dâng cao chỉ chiếm 0,0005-0,0049% GDP của Thượng Hải, thấp hơn nhiều so với chi phí đề xuất là 1% GDP do IPCC đưa ra, còn tại châu thổ sông Châu Giang, chi phí thích ứng có thể là 0,0003-0,026% GDP của tỉnh Quảng Đông.

Rõ ràng là chi phí thích ứng với nước biển dâng là khá cao so với các vùng đang phát triển. Tỉnh Quảng Tây là một trong 8 tỉnh ven biển Trung Quốc dễ bị tổn thương nhất. Nếu nâng cấp một bức tường chắn biển dài 815 km theo tiêu chuẩn năm 1992 về Bảo vệ bờ biển thì tốn sẽ tốn 1,6 tỷ NDT. Trong khi dự án chuẩn về tường chắn biển được thực hiện trong 10 năm, từ 2000 đến 2010, mức đầu tư trung bình hàng năm là 0,16 tỷ NDT, chiếm 0,078% GDP của Quảng Tây. Tỷ lệ chi phí bảo vệ so với GDP ở Quảng Tây cao gấp nhiều lần Thượng Hải và Quảng Đông mặc dù tiêu chuẩn 1992 của Quảng Đông thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn bảo vệ bờ biển của hai thành phố này. Điều đó cho thấy các vùng đang phát triển chịu nhiều gánh nặng hơn so với vùng phát triển khi nước biển dâng (Bảng 8).

Bảng 8. Ước tính thiệt hại do nước biển dâng tại các vùng châu thổ của Trung Quốc Khu vực Thiệt hại ước

tính năm 2000

Thiệt hại ước tính năm 2030

Thiệt hại ước tính năm

2000

Thiệt hại ước tính năm 2030

(nước biển dâng 30 cm) (nước biển dâng 1m)Châu thổ sông Châu Giang

22,6 tỷ NDT 56 tỷ NDT 104,4 tỷ NDT 262,5 tỷ NDT

Châu thổ sông Trường Giang với bờ biển Giang Tô và phía bắc bờ biển Chiết Giang

3,8 tỷ NDT 9,6 tỷ NDT 655,6 tỷ NDT 1599,5 tỷ NDT

Châu thổ sông Hoàng Hà và bờ biển

109,4 tỷ NDT 274,6 tỷ NDT 118,1 tỷ NDT 296,5 NDT

30

Page 31: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Laizhou và Bột Hải

Nguồn: Maren A. Lau, Adaptation to Sea-level Rise in the People’s Republic of China, 2006.

Các giải pháp thích ứng và đối phó với nước biển dângDo lãnh thổ rộng lớn, trải dài trên nhiều đới khí hậu, nên tác động của biến đổi khí

hậu và mực nước biển dâng đến vùng ven biển Trung Quốc có sự khác biệt. Tuy nhiên, những giải pháp thích ứng của con người sẽ giúp giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi.

Các vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu đã thu hút sự quan tâm đông đảo của các nhà nghiên cứu Trung Quốc kể từ những năm 80, một phần do yêu cầu của IPCC về đo đạc các điều kiện khí hậu và quan trắc những thay đổi trước khi đưa ra dự báo tương lai cho các vùng của Trung Quốc. Sự quan tâm của Chính phủ đối với vấn đề này thể hiện rõ qua việc trong 10 năm gần đây, Chính phủ Trung Quốc đã tham gia vào các cuộc thương lượng quốc tế và nhiều dự án nghiên cứu song phương, hợp tác khu vực, thành lập Mạng thông tin về biến đổi khí hậu Trung Quốc (CCCIN), Viện nghiên cứu khí tượng thuỷ văn và nông nghiệp (AI), thành lập Uỷ ban IPCC của Trung Quốc tại Bắc Kinh. Năm 2007, Trung Quốc đã đưa ra Chiến lược quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu và trở thành một trong số ít nước trên thế giới có các kế hoạch này. Tuy nhiên, cho đến nay, Chính phủ vẫn chưa tuyên bố chiến lược chính thức chỉ riêng về đối phó với nước biển dâng. Chỉ có các cuộc thảo luận ở cấp địa phương về các cách tiếp cận vấn đề này. Một số dự án của Ngân hàng Thế giới nghiên cứu về vấn đề nước biển dâng nhưng lại không đề cập đến các giải pháp thích ứng. Cơ quan Quản lý Đại dương Quốc gia đã cho xuất bản Bản tin về nước biển dâng định kỳ 2 năm/số và nước biển dâng đã trở thành một vấn đề được đề xuất đưa vào Chương trình nghị sự 21 về Đại dương của Trung Quốc. Cho đến nay, Chính phủ chưa thành lập một cơ quan chuyên trách về thích ứng với nước biển dâng. Việc quy hoạch và thực hiện quá trình thích ứng với nước biển dâng không chỉ là thực hiện quản lý vùng ven biển, mà còn phải kết hợp với quản lý thảm họa, quản lý tổng hợp biến đổi khí hậu, kiểm soát ngập lụt và quy hoạch sử dụng đất…Tuy nhiên, do vùng ven biển xét về mặt tự nhiên là vùng chuyển tiếp giữa biển và đất liền nên vẫn có những sự chồng chéo về trách nhiệm quản lý giữa các bộ, ngành như Bộ Tài nguyên nước (MWR), Bộ Tài nguyên và Đất đai (MLR), Bộ Nông nghiệp, Cơ quan quản lý đại dương quốc gia (SOA), Cơ quan Bảo vệ môi trường quốc gia (EPA)…

Chiến lược Quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu của Trung Quốc năm 2007 nêu rõ mục tiêu chiến lược của Trung Quốc về đối phó với biến đổi khí hậu là nhằm đạt được những thành tựu đáng kể trong kiểm soát phát thải khí nhà kính, tăng cường năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu, thúc đẩy khoa học công nghệ và nghiên cứu - phát triển (R&D) liên quan đến biến đổi khí hậu tới một trình độ mới, nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu, tăng cường thể chế và cơ chế về biến đổi khí hậu. Để đạt được các mục tiêu này, Trung Quốc sẽ phải có những nỗ lực lớn cho đến 2010. Về nguy cơ nước biển dâng, Chiến lược quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu của Trung Quốc đã xác định các lĩnh vực chính phải thích ứng với sự biến đổi khí hậu liên quan đến nước biển dâng là nông nghiệp, lâm nghiệp, tài nguyên nước và các vùng ven biển.

31

Page 32: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Chiến lược này đưa ra các nhiều giải pháp thích ứng, trong đó có các giải pháp liên quan đến thích ứng với tình trạng nước biển dâng đối với các lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều gồm nông nghiệp, tài nguyên nước, rừng, các hệ sinh thái và vùng ven biển. * Nông nghiệp :- Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, tiếp tục mở rộng trình diễn các

hệ thống tưới tiêu tiết kiệm nước. Cải thiện các hệ thống tưới tiêu và thoát nước. Kiểm soát và khôi phục các diện tích canh tác có năng suất trung bình-thấp do nhiễm mặn và nhiễm phèn tại các khu vực sản xuất ngũ cốc chủ yếu.

- Thay đổi, điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp và các hệ thống canh tác, chọn lọc, nuôi trồng, nhân giống các loại cây trồng có khả năng chịu hạn, chịu mặn, nhiệt độ cao.

- Thúc đẩy nghiên cứu và triển khai các công nghệ mới, công nghệ sinh học.* Tài nguyên nước- Tăng cường quản lý tài nguyên nước, thích ứng hài hoà giữa thiên nhiên và môi

trường trong quản lý nguồn tài nguyên nước, tăng cường xây dựng đê, kè, thực hiện thống nhất quản lý nguồn tài nguyên nước thông qua lồng ghép quản lý lưu vực vào quá trình quy hoạch, phân bổ và quản lý tài nguyên nước, thay đổi cách thức sử dụng nước truyền thống.

- Tăng cường quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng. Tăng tốc triển khai dự án đưa nước từ Nam lên miền Bắc, dần dần đưa ra mô hình mới về phân bổ tài nguyên nước một cách tối ưu qua ba hệ thống nắn dòng kết nối các sông Dương Tử, Hoàng Hà, Hoài Hà và Hải Hà. Đẩy mạnh việc xây dựng và cải thiện các dự án kiểm soát nguồn nước quan trọng (xây dựng các hồ chứa…) và cơ sở hạ tầng tại các khu vực tưới tiêu, quản lý khôn ngoan các phương thức sử dụng nước trong nông nghiệp. Tiếp tục triển khai các dự án nắn dòng

* Đối với các vùng ven biển: - Xây dựng và sửa đổi các luật và các quy định liên quan, đưa ra các quy định quản

lý cụ thể ở cấp vùng phù hợp với Luật Bảo vệ Môi trường Biển, Luật Quản lý các vùng biển của Trung Quốc và phù hợp với từng địa phương. Triển khai hệ thống quản lý tổng hợp vùng ven biển và xây dựng cơ chế ra quyết định và điều phối hiệu quả. Xử lý kịp thời các vấn đề phát triển và bảo vệ vùng ven biển. Xây dựng các địa điểm trình diễn về quản lý tổng hợp.

- Thúc đẩy triển khai và mở rộng công nghệ. Tăng cường nghiên cứu và triển khai các công nghệ bảo vệ và khôi phục các hệ sinh thái biển, phục hồi các khu rừng ngập mặn ven biển, bảo vệ và khôi phục các rạn san hô và các vùng đất ngập nước ven biển nhằm giảm thiểu tính tổn thương của các hệ sinh thái vùng ven biển. Tăng tốc xây dựng các khu bảo tồn biển đã được chỉ định, như các khu bảo tồn san hô và rừng ngập mặn. Nâng cao năng lực bảo vệ đa dạng sinh học biển.

- Nâng cao năng lực về giám sát/quan trắc môi trường biển và cảnh báo sớm. Xây dựng nhiều địa điểm và mạng lưới giám sát tại các vùng ven biển và trên các đảo. Sử dụng công nghệ cao trong giám sát, nâng cao năng lực về viễn thám và đo đạc từ xa đối với môi trường biển, nhất là khả năng quan trắc mực nước biển thay đổi. Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và hệ thống đối phó với các thảm họa do thuỷ triều ở các vùng ven biển.

32

Page 33: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

- Tăng cường các chiến lược thích ứng nhằm giải quyết vấn đề nước biển dâng. Áp dụng các biện pháp thích ứng bảo vệ bờ biển kết hợp các giải pháp kỹ thuật cùng với các giải pháp sinh học. Nâng cao tiêu chuẩn về chiều cao của đê biển, gia cố các công trình đê biển hiện có nhằm tăng cường khả năng chống chịu với nước biển dâng.

- Ngăn ngừa khai thác quá mức nguồn nước ngầm và sụt lún ở các vùng ven biển bằng việc thực hiện các giải pháp tái nạp nước ngầm nhân tạo tại các khu vực có mực nước ngầm hạ thấp và sụt lún nền đất.

- Áp dụng giải pháp sử dụng nguồn nước ngọt từ các sông và hồ chứa để làm loãng và ngăn nước mặn/nước lợ xâm nhập tại các vùng cửa sông.

- Nâng cao tiêu chuẩn bảo vệ các thành phố ven biển, các dự án lớn và cảng biển.* Rừng và các hệ sinh thái- Xây dựng và thực hiện các luật và quy định liên quan đến thích ứng với biến đổi

khí hậu. Tăng tốc việc sửa đổi các luật Bảo vệ rừng, Luật Bảo vệ đời sống hoang dã, Dự thảo Luật bảo tồn thiên nhiên và các quy định về bảo vệ đất ngập nước. Bổ sung và tăng cường các điều khoản liên quan đến thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm đưa ra một cơ sở pháp lý đảm bảo cho việc cải thiện và phục hồi chức năng của rừng và các hệ sinh thái để thích ứng với biến đổi khí hậu.

- Thúc đẩy nghiên cứu và triển khai các công nghệ bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái biển, trong đó chú trọng đến nuôi trồng, cấy ghép và phục hồi các khu rừng ngập mặn ven biển, bảo vệ và phục hồi các rạn san hô và các vùng đất ngập nước ven biển nhằm giảm sự tổn thương của các hệ sinh thái vùng ven biển. Tăng cường thiết lập các khu bảo tồn biển như các khu bảo tồn san hô, rừng ngập mặn. Nâng cao năng lực về bảo vệ đa dạng sinh học biển.

- Tăng cường khả năng bảo vệ hiệu quả của các nguồn tài nguyên rừng và các hệ sinh thái tự nhiên hiện có. Bảo tồn các vùng đất ngập nước thông qua giảm sự xáo trộn do con người và ngăn chặn xu thế thu hẹp diện tích các vùng đất ngập nước. Mở rộng diện tích và nâng cao chất lượng các khu bảo tồn thiên nhiên, thiết lập các hành lang sinh học xung quanh các khu bảo tồn. Nỗ lực trồng các hàng cây chắn gió và gió ở vùng ven biển, gồm nhiều loại cây, nhiều lớp và nhiều kiểu rừng đa chức năng. Lồng ghép hiệu quả các hệ thống giám sát rừng hiện nay thành một hệ thống giám sát tổng hợp nguồn tài nguyên rừng và các hệ sinh thái khác.

- Tăng cường triển khai và ứng dụng công nghệ bảo vệ và khôi phục đa dạng sinh học, công nghệ giám sát tài nguyên từng và các hệ sinh thái rừng. Nâng cấp mạng lưới giám sát và hệ thống quản lý nhằm tăng cường khả năng dự báo, cảnh báo sớm và khả năng ứng phó trong các trường hợp khẩn cấp.

2.3. VIỆT NAMViệt Nam có 3.260 km bờ biển với 28/64 tỉnh, thành phố có biển. Kinh tế biển đã

trở thành một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong chiến lược kinh tế đất nước. Biến đổi khí hậu sẽ tác động mạnh mẽ đến đời sống con người, song đối với một nước có đường bờ biển dài và hai đồng bằng châu thổ lớn thì mối đe doạ do biến đổi khí hậu

33

Page 34: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

và nước biển dâng cao sẽ thực sự nghiêm trọng. Các vùng ven biển Việt Nam sẽ phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất do biến đổi khí hậu gây ra như bão, lũ lụt, xói lở bờ biển và xâm nhập mặn…Đó cũng là nguyên nhân làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực, tăng tỷ lệ nghèo khổ và làm giảm khả năng ứng phó đối với các thiên tai do biến đổi khí hậu gây ra.

Đối với nước ta, các tác động của biến đổi khí hậu ban đầu có thể nhận thấy được thông qua những thay đổi về khí hậu theo mùa ở các vùng miền khác nhau; lượng mưa và mùa mưa cũng sẽ thay đổi... Tuy nhiên, thách thức lớn nhất lại là khi mực nước biển dâng cao. Dải ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng - Thái Bình, hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, mật độ dân cư cao và tập trung, địa hình bằng phẳng và thấp (80% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long và 30% diện tích Đồng bằng sông Hồng có độ cao dưới 2,5m so với mặt nước biển). Những ảnh hưởng đầu tiên là gia tăng nguy cơ xâm nhập mặn, tình trạng ngập lụt trong mùa mưa bão, xói lở bờ biển, phá vỡ các hệ thống đê biển, hồ chứa nước và nhấn chìm những cánh đồng lúa ở vùng đồng bằng ven biển, gây tổn hại nhiều hơn đối với các khu vực đất ngập nước, rạn san hô, các hệ sinh thái và những ảnh hưởng quan trọng khác đến đời sống của người dân. Năm 2003, trong báo cáo "Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu", Bộ Tài nguyên & Môi trường đã ước tính, mực nước biển ở Việt Nam có thể dâng thêm 33,3 cm vào năm 2050 và dâng 45 cm vào năm 2070 (theo kịch bản cao).

2.3.1. Nguy cơ thiếu nước ngọt và xâm nhập mặnViệt Nam có hai vùng châu thổ rộng lớn là châu thổ lớn là sông Hồng ở phía Bắc -

diện tích 17.000 km2) và châu thổ sông Cửu Long (Mê Kông) - diện tích gần 35.000 km2 ở phía Nam, trong đó vùng châu thổ sông Cửu Long chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ thuỷ triều.

Thủy triều trong sông ở Đồng bằng sông Cửu Long là do từ biển truyền vào. Tính từ biển Đông thủy triều truyền vào hạ lưu châu thổ qua các sông lớn như: sông Tiền, sông Hậu hoặc các sông nhỏ như: Gành Hào, Bồ Đề… Từ vịnh Thái Lan thuỷ triều truyền vào đồng bằng sông Cửu Long qua các sông Cái Lớn, Bảy Háp, Đông Cung, Ông Đốc, Cửa Lớn… Sự xâm nhập mặn do ảnh hưởng triều biển Tây ít hơn so với triều biển Đông. Vùng Đồng Tháp Mười chịu ảnh hưởng chủ yếu là triều biển Đông. Tại khu vực này, do lòng sông hẹp và nông hơn nhiều so với biển, kết hợp với ảnh hưởng của nước thượng nguồn chảy xuôi, cùng với ảnh hưởng khác nên khi truyền triều vào sóng biển bị biến dạng, chính lượng nước thượng nguồn đã làm giảm sự ảnh hưởng của mặn vào sâu đất liền. Do vậy, ảnh hưởng của thuỷ triều đối với đồng bằng sông Cửu Long diễn biến theo mùa rõ rệt – mặn cao nhất đạt ở mùa kiệt. Mùa lũ nước sông từ thượng nguồn đổ về đã đẩy lùi phạm vi hoạt động của các sóng triều ra biển, mùa này sự xâm nhập mặn vào nội đồng là thấp nhất. Ngược lại, trong mùa khô lượng nước thượng nguồn về ít, sóng triều lấn át truyền sâu vào nội đồng. Mặn ảnh hưởng vào nội đồng là lớn nhất.

Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống kênh rạch chằng chịt, ăn thông ra biển với các con sông lớn: sông Tiền, sông Hậu chảy qua đồng bằng đổ ra biển bằng chín cửa có độ rộng từ vài trăm mét đến vài km. Sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây (qua

34

Page 35: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Đồng Tháp Mười) đổ ra biển. Những điều kiện về địa hình, địa lý tự nhiên như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho sự truyền triều –xâm nhập mặn sâu vào nội đồng. Ngoài yếu tố địa hình, địa lý tự nhiên, gió chướng (hoạt động từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, mạnh nhất vào tháng 2 và tháng 3), gió mùa Tây Nam, lượng mưa, lượng nước thượng nguồn từ sông Mê Kông và cả các hoạt động của con người góp phần đến gia tăng sự xâm nhập mặn vào nội đồng.

Những hậu quả của quá trình xâm nhập mặn sâu vào nội đồng:- Gây hạn nói chung với phạm vi ngày càng rộng hơn, trước hết là cho lúa đông

xuân bởi vì không thể lấy nước ở kênh rạch để tưới. - Nước mặn tràn lên đồng ruộng sẽ làm chết hàng loạt trên những cánh đồng ruộng

lớn. Thậm chí ngay cả khi độ mặn còn thấp hơn 1% cũng có thể làm giảm năng suất cây trồng, hoa màu, cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản. Nước mặn tràn vào các ao, đìa nuôi thủy sản nước ngọt, sẽ làm giảm năng suất hoặc thất thu hoàn toàn. Ngay cả đối với ao nuôi tôm nước mặn, nếu độ mặn cao quá cũng làm giảm năng suất tôm.

- Gây khó khăn trong cấp nước sinh hoạt: ở các vùng dân cư, nước ngọt trên các sông rạch là nguồn nước sinh hoạt duy nhất, khi nước mặn xâm nhập sẽ gây ra thiếu nước sạch.

Khô hạn kéo dài, ít mưa cũng góp phần làm xâm nhập mặn sâu hơn. Năm 2005, tình trạng xâm nhập mặn sớm, xâm nhập sâu, độ mặn cao và thời gian duy trì dài xảy ra phổ biến ở làm các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trên sông Tiền, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên mức độ nhập mặn đã tiến sâu vào phạm vi 60–80 km. Còn trên tuyến sông Hậu, nhập mặn cũng vào sâu 60–70 km. Riêng các dòng sông chính như Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông độ mặn đã xâm nhập sâu tới mức kỷ lục 120-140km. Tại Long An, thiệt hại lên tới 16 tỷ đồng, 14.693 ha mía của tỉnh giảm năng suất từ 5–10%; 1.093 hecta lúa ở huyện Đức Hòa đã chết trắng, do bị nhiễm mặn. Tỉnh Sóc Trăng thiệt hại 46 tỷ đồng do 16.500 ha bị hạn, mặn...Hậu Giang có diện tích nhập mặn là 9.000 ha, thiệt hại 11,4 tỷ đồng. Tại các huyện Cần Đước, Cần Giuộc thiếu nước ngọt đang ở mức trầm trọng, hàng nghìn hộ dân thiếu nước sinh hoạt ở các các tỉnh Tiền Giang, Cà Mau.

Năm 2008, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam dự báo, tình trạng hạn - nước mặn xâm nhập sẽ diễn biến gay gắt hơn so với cùng kỳ năm 2007. Thiếu nước sạch cho sinh hoạt, sản xuất nước mặn ngày càng lấn sâu vào đất liền đang có xu thế diễn ra nhiều hơn ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tại Cà Mau, trong tháng 3/2008, nước mặn đã xâm nhập nghiêm trọng vào vùng ngọt của huyện U Minh. Tại một số khu vực này, người dân đã phá các đập để đưa nước mặn vào nuôi tôm làm cho tình hình nhiễm mặn càng trở nên nghiêm trọng. Ngoài Cà Mau, nước mặn đã và đang tiếp tục đe dọa nghiêm trọng đến nhiều vùng khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tại TP. Rạch Giá, nước mặn đã xâm ngập sâu vào đất liền, đẩy nước ngọt trên sông Cái Sắn và kinh Rạch Giá - Hà Tiên ra xa hơn. Các cánh đồng trồng rau màu đứng trước nguy cơ thiếu nước tưới và phải kết thúc sớm mùa vụ. Tại Bến Tre, trên sông Cửa Đại, nước mặn vào đến xã Phú Thuận, huyện Bình Đại cách biển 30km tại xã Tân Lợi Thạnh, huyện Giồng Trôm độ mặn đo được đã trên 4‰. Theo dự báo của ngành khí tượng thủy văn,

35

Page 36: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Đồng bằng sông Cửu Long, trong năm 2008, tình hình xâm nhập mặn sẽ diễn biến phức tạp và nước mặn có khả năng xâm nhập vào đất liền 50- 60 km.

Đối với hạ lưu sông Sài Gòn - Đồng Nai, nguy cơ nhiễm mặn có ý nghĩa quan trọng bởi hệ thống sông này cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất cho một vùng kinh tế năng động và thành phố đông dân nhất Việt Nam. Nước mặn xâm nhập sâu kết hợp suy giảm nguồn nước ở hạ lưu đã gây ảnh hưởng lớn đến cấp nước sinh hoạt và sản xuất ở nhiều vùng thuộc Nam Bộ và miền Trung.

Tại một số khu vực ở ven biển miền Trung, việc sử dụng nước ngầm để điều chỉnh độ mặn trong các vùng nuôi tôm rộng lớn  cũng như sử dụng lãng phí nước trong sinh hoạt đã dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng nguồn nước ngầm. Đối với một số khu vực ở miền Bắc, nguy cơ ngập khi nước biển dâng cao không lớn so với miền Trung và miền Nam, song các tầng nước ngầm cũng có thể bị nhiễm mặn, quá trình này đặc biệt quan trọng với các dạng địa tầng đá vôi bởi sự xâm thực nước mặn sẽ trở nên rộng và sâu hơn.

Đối với khu vực ven biển Đồng bằng sông Hồng, tưới tiêu mang tính chất thuỷ lợi vùng triều. Về mùa mưa, nước ngọt xuống gần cửa sông, khi thuỷ triều lên rất thuận lợi cho việc lấy nước tưới. Mùa khô, lưu lượng và mực nước sông giảm, nước mặn lấn sâu vào nội địa. Sau cơn bão số 7 cách đây 3 năm, Thanh Hoá và Nam Định đang phải đối mặt với tình trạng 7.600 ha đất nhiễm mặn. Dưới đây là số liệu khảo sát của Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam, đỉnh mặn lớn nhất ở các sông 4 sông lớn đại diện cho hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình gồm sông Đáy, sông Ninh Cơ, sông Hồng, sông Trà Lý tháng 12/2007.

Bảng 9. Độ mặn tại một số điểm trên 4 hệ thống sông lớn vùng Đồng bằng sông HồngTên sông

Trạm khảo sát

Khoảng cách đến cửa sông

Ngày có độ mặn lớn nhất

Sđỉnh max (‰)

 Đáy

Đ3 10 25/12 16,45Đ2 22 26/12 0,75Đ1 32 26/12 0,12

 Ninh Cơ

NC3 10 26/12 26,70NC2 22 26/12 3,75NC1 32 25/12 0,48

 Hồng

H3 10 26/12 19,35H2 22 25/12 1,15H1 30 26/12 0,12

 Trà Lý

TL3 10 26/12 21,63TL2 22 26/12 1,61TL1 32 25/12 0,15

Nguồn:Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam, 2007

Một ảnh hưởng lớn khác là triều cường dâng cao tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ngập do triều cường tại Tp.Hồ Chí Minh diễn ra ngày càng trầm trọng do quá trình đô thị hóa phát triển nhanh, cộng với mực nước biển có xu hướng ngày càng

36

Page 37: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

dâng cao. Từ năm 1990 đến nay, chỉ số mực nước triều tại 7 trạm đo ở Tp.Hồ Chí Minh liên tục tăng lên. Trong khi đó, hầu hết các dự án chống ngập mà Tp.Hồ Chí Minh đang thực hiện đều không tính đến việc chống ngập do triều cường. Theo số liệu từ Đài Khí tượng thủy văn Nam Bộ, đợt triều cường cuối tháng 10/2007 trên thực tế cao hơn mức dự báo. Đỉnh triều trong hai ngày 27-28/10/2007 đã lên đến 1,48-1,50m, cao kỷ lục lần đầu tiên trong vòng 48 năm qua. Triều cường làm nhiều tuyến đê bị vỡ, thiệt hại hàng chục ha diện tích mặt nước thả cá, nuôi tôm sú và hàng trăm hécta cây cảnh, cây nông nghiệp, thủy hải sản, nhiều tuyến đường bị ngập sâu.

2.3.2. Bão và nước dâng do do bãoViệt Nam có lịch sử lâu dài đối phó với thiên tai và có nhiều biện pháp ứng phó khi

có thiên tai xảy ra. Tuy nhiên, trong những năm gần đây từ 2001 cho đến nay, do biến đổi khí hậu thời tiết có những diễn biến thất thường, thiên tai xảy ra dồn dập, cường độ ác liệt hơn.

Bão là hiện tượng thời tiết nguy hiểm bậc nhất ở Việt Nam. Hàng năm có gần 10 cơn bão hoạt động trên biển Đông, trong đó có khoảng 3-5 cơn bão ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam gây ra những thiệt hại lớn về người và của. Năm 2006 là năm điển hình về tần suất bão đổ bộ vào Việt Nam. Nhiều cơn bão xuất hiện với cường độ mạnh và có hướng di chuyển tương đối phức tạp. Những vùng chịu ảnh hưởng nhiều nhất của bão là các tỉnh ven biển miền Bắc và miền Trung.

Bão thường kết hợp với hiện tượng nước dâng do bão, tạo thành gió và sóng do gió. Gió bão mạnh sẽ tạo ra sóng lớn và sóng này làm tăng cao mực nước biển nhiều hơn tác dụng của gió tại vùng ven bờ. Trong thời gian 30 năm qua, người ta ghi nhận được có một nửa số trong số các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam đã làm dâng cao mực nước trên 1 mét và có 11% số cơn bão làm dâng cao mực nước biển trên 2 mét. Một số trường hợp rất đặc biệt, bão có thể tạo thành nước dâng cao đến vài mét. Ở một số vùng ven biển, nguồn cung cấp bùn cát thông thường giảm và hệ quả là bão thường tạo nên sóng và làm cho đường bờ biển hạ thấp đi một cách nhanh chóng, làm cho nước dâng do bão gây ra xâm nhập sâu hơn vào đất liền.

Bảng 10. 10 tỉnh bị ngập nước nặng nhất theo kịch bản nước biển dâng 1m

Tỉnh Tổng diện tích (km2)

Diện tích bị ngập (km2)

% bị ngập

Bến Tre 2.257 1.131 50.1Long An 4.389 2.169 49,4Trà Vinh 2.234 1.021 45,7Sóc Trăng 3.259 1.425 43,7TP.Hồ Chí Minh 2.003 862 43,0Vĩnh long 1.508 606 39,7Bạc Liêu 2.475 962 38,9Tiền Giang 2.397 783 32,7Kiên Giang 6.224 1.757 28,2

37

Page 38: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Cần Thơ 3.062 758 24,7Tổng cộng 29.827 11.474 38,6Nguồn: Jeremy Carew-Ried-Giám đốc Trung tâm Quốc tế về quản lý môi trường (ICEM), 2007

Cơn bão số 9 có tên quốc tế là Durian đổ bộ vào đất liền nước ta từ sáng 04/12/2006. Theo thống kê sau hơn một ngày tàn phá tại vùng biển và đất liền Nam Trung bộ Việt Nam, cơn bão đã cướp đi sinh mạng và làm mất tích trên 70 người, hàng nghìn người bị thương cùng hàng trăm tàu thuyền bị nhấn chìm, hàng nghìn công trình dân dụng bị tốc mái, sập đổ, hư hỏng nặng. Nước dâng do bão Durian gây ra lớn, khoảng 0,3-0,7m.

Bão số 6 (Xangsane) đổ bộ vào Đà Nẵng tháng 9/2007 là một trong những cơn bão mạnh nhất trong khoảng 20 năm qua. Bão đã làm mực nước dâng trên diện rộng, dọc khu vực ven biển từ Quảng Bình đến Đà Nẵng, đặc biệt là ở khu vực ven biển Thừa Thiên Huế. Tại Thừa Thiên-Huế (khu vực Vĩnh Tu) mức nước dâng cao tới 2,18m, tại Quảng Bình-Quảng Trị (Lệ Thuỷ-Triệu Phong) là 1,78m.

Nước biển dâng cao ngoài ảnh hưởng của bão còn do nguyên nhân sóng thần. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống quan trắc sóng thần nên chưa ghi nhận được thông tin nào về sóng thần ở vùng biển nước ta. Khu vực biển Đông nằm kế cận với hai đới động đất mạnh trên thế giới là vành đại động đất Thái Bình Dương và Địa Trung Hải xuyên Á. Tuy nhiên, dải ven biển nước ta nằm khác xa với nguồn gây sóng thần. Với khoảng cách 1.200km từ vùng nguồn tới ven biển Nam Trung Bộ và xa hơn nữa đối với các vùng dân cư thuộc đồng bằng sông Hồng và thì thời gian truyền sóng thần đủ để giảm thiểu tốn thất và người và tài sản.

Trong khoảng thời gian từ 1627 đến 1994, tại khu vực Biển Đông và lân cận đã xảy ra 73 trận động đất có kèm theo sóng thần. Theo các kết quả điều tra của các nhà khoa học Việt Nam và dựa vào phân tích chi tiết về các trận động đất xảy ra trên Biển Đông, các cơn bão và điều kiện thời tiết cho thấy rằng trong hầu hết các trường hợp, sóng thần mà người dân ghi nhận trong thời gian vài chục năm gần đây đều bị nhầm lẫn với nước dâng do bão hoặc sóng ngắn. Tuy nhiên, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã tiến hành đánh giá về khả năng và cảnh báo nguy cơ xảy ra sóng thần trên bờ biển Việt Nam và đề ra biện pháp ứng phó nhằm giảm thiệt hại. Gần đây nhất, vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, một trận động đất lớn thứ tư kể từ năm 1900 đã xảy ra ngoài khơi đảo Sumatra, Inđônêxia. Trận động đất được đánh giá là có cường độ hơn 9,0 độ Rích te đã gây ra một dải đứt gẫy dài tới 1.200km và tạo ra sóng thần có độ cao hơn 12m tại nhiều khu vực. Trận sóng thần này không gây hậu quả gì đối với lãnh thổ nước ta nhưng những tài liệu thu thập được đã cho thấy nhiều vùng xuất hiện hiện tượng triều giả (hiện tượng dao động của mặt nước các hồ, sông, cảng biển gần kín khi thì dồn về bên này hoặc bên kia của bờ hồ mỗi khi có động đất lớn kèm theo sóng thần). Mực nước hồ tại khu vực Thác Cạn dâng lên khoảng 30cm, sau đó lại hạ xuống. Ngoài ra, hiện tượng trên còn xảy ra tạo nhiều hồ nước ở bán đảo Cà Mau.

2.3.3. Nguy cơ xói lởHầu hết bờ biển nước ta đang bị xói lở với cường độ từ vài mét tới hàng chục mét

mỗi năm và có xu hướng gia tăng mạnh trong một thập niên gần đây. Xu hướng dâng lên của mực nước biển trong những năm gần đây cũng góp phần gây ra sụt lở mạnh

38

Page 39: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

hơn. Sự tăng dòng chảy sông cũng là một nguyên nhân gây xói lở, nhưng thường chỉ xảy ra vào mùa mưa và chỉ ảnh hưởng ngắn hạn.

Ngoài các nguyên nhân do tự nhiên, tác động của con người trong việc làm tăng thiệt hại do xói lở cũng khá rõ ràng. Bờ biển nước ta dài hơn 3.000 km, song chỉ có 2.800 km đê biển, trong đó có 1.400 km đê trực tiếp với biển và khoảng 1.400 km đê cửa sông. Tuy nhiên, hệ thống đê ở nước ta hầu hết đê được đắp bằng đất (như đê lấn biến, ngăn mặn), do dân tự xây dựng hoặc đê bêtông cốt thép do nhà nước xây dựng. Trong số trên có nhiều đoạn đê đã yếu, hoặc xây dựng bằng các vật liệu có chất lượng kém và sử dụng các biện pháp xây dựng thủ công không phù hợp. Điều này dẫn tới các đoạn đê đó thường bị mối, đe doạ sạt lở và thẩm thấu qua chân công trình. Dọc theo các đồng bằng ven biển miền Trung, hệ thống đê biển được xây dựng để bảo vệ cho người dân địa phương chống lại các hiện tượng bất thường như bão. Những hệ thống này có vai trò thiết yếu đối với nền nông nghiệp. Vì lý do nào đó mà các con đê này không ngăn được nước biển tràn vào hoặc bị vỡ thì ruộng đồng sẽ bị nước biển làm cho nhiễm mặn và không thể gieo trồng được trong nhiều năm. Tại nhiều tuyến đê, rừng ngập mặn còn bị phá huỷ để nuôi tôm, chặt cây lấy gỗ, hoặc tàn phá do chất độc hóa học, người dân lấn chiếm mặt đê để làm vườn, xây nhà. Chính các hoạt động này đã góp phần tạo điều kiện cho các hoạt động xói lở bờ biển diễn ra mạnh mẽ hơn.

Bảng 11. Các kịch bản nước biển dâng cao ở Việt NamKịch bản nước biển dâng cao ở Việt Nam (cm) so với năm 1990

Kịch bản phát thải 2010 2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100

CaoA1F1 Thấp 1,3 2,2 3,2 4,6 6,3 8,5 10,9 13,4 15,9 18,3

TB 3,0 4,8 7,1 10,0 13,7 18,2 23,2 28,6 34,1 39,7Cao 4,9 8,1 12,0 16,8 22,9 30,5 39,1 48,5 58,2 68,0

A2 Thấp 1,3 2,2 3,2 4,2 5,6 7,1 8,7 10,6 12,7 14,9TB 3,1 5,0 7,1 9,6 12,5 15,7 19,4 23,6 28,1 33,1Cao 5,1 8,4 12,0 16,3 21,2 26,8 33,3 40,6 48,6 57,3

Trung bình

A1B Thấp 1,2 2,2 3,2 4,6 6,1 7,6 9,3 10,8 12,2 13,5TB 2,9 4,8 7,1 10,0 13,3 16,8 20,6 24,3 28,0 31,5Cao 4,9 8,1 12,0 16,8 22,4 28,6 33,3 42,1 48,9 55,5

B2 Thấp 1,3 2,3 3,3 4,4 5,6 6,8 8,1 9,4 10,7 12,0TB 3,1 5,1 7,5 10,0 12,8 15,8 18,8 22,0 25,3 28,8Cao 5,1 8,5 12,6 17,1 22,0 27,3 33,0 38,8 48,0 51,3

CaoA1T Thấp 1,2 2,0 3,1 4,4 5,7 7,1 8,4 9,5 10,5 11,5

TB 2,9 4,6 6,9 9,6 12,79 15,9 19,0 22,2 25,1 27,9Cao 4,9 7,8 11,5 16,2 21,5 27,1 33,0 38,8 44,6 50,0

B1 Thấp 1,3 2,3 3,5 4,6 5,9 7,1 8,1 9,4 10,0 10,6TB 3,1 5,2 7,7 10,5 13,4 16,3 19,2 21,9 24,6 26,9Cao 5,1 8,7 13,0 17,8 23,0 8,5 33,7 39,4 44,2 49,1

Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, Hội thảo Biến đổi khí hậu toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam, 2/2008

39

Page 40: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Đối với châu thổ sông Hồng, trước khi đạt đến trạng thái hiện nay, châu thổ này được bồi tụ trong một vịnh khá kín và có thuỷ triều biến độ lớn. Trên bình diện chung, châu thổ sông Hồng do sông thống trị, vai trò của thuỷ triều ở vị trí thứ hai và sông ở vị trí thứ ba. Gần một thế kỷ qua, châu thổ sông Hồng bồi lấn ra biển trung bình 28m/năm, có nơi 100-120m/năm như ở cửa Ba Lạt và cửa Đáy. Tuy nhiên, khoảng một phần năm chiều dài bờ châu thổ sông Hồng đang bị xói lở mạnh, tiêu biểu là đoạn Hải Hậu dài 17 km bị xói lở với tốc độ 10-15m/năm trong nhiều năm qua.Môi trường ven bờ châu thổ sông Cửu Long có triều thống trị, độ lớn triều trung bình 2,5m, cực đại 3m và độ cao sóng trung bình 0,9m. Tốc độ bồi lấn của châu thổ khoảng 45m/năm trước 2500 năm và 20-30m/năm sau 2500 năm. Tại mũi Cà Mau, tốc độ lấn biển tới 150m/năm. Tuy nhiên, trong những năm gần gây, các nhà nghiên cứu môi trường Việt Nam cảnh báo, mũi Cà Mau - nơi vẫn được xem là có tốc độ lấn ra biển nhanh nhất nước ta đã và đang có biểu hiện bị xói lở khá mạnh. Tại khu du lịch Đồi Dương ở TP. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, nhiều năm nay cũng đã xảy ra tình trạng xói lở liên tục với tốc độ khoảng 10m/năm, đoạn Bồ Đề bị xói lở với tốc độ 30-50m/năm trên chiều dài 36km trong nhiều năm.

Hiện tượng ngập úng ở vùng châu thổ mở rộng vào mùa mưa lũ, các dòng sông tăng cường xâm thực ngang, gây sạt lở lớn ở các vùng dân cư tập trung hai bờ trên nhiều khu vực từ Bắc vào Nam. Ở các vùng ven biển đã thấy rõ hiện tượng vùng ngập triều cửa sông mở rộng hình phếu trên diện rộng, nhất là ở hạ du các hệ thống sông nghèo phù sa như các hệ thống sông Thái Bình, Bạch Đằng, ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh và hệ thống sông Đồng Nai ở vùng ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu và Tp.Hồ Chí Minh. Tại trạm Vũng Tàu, các nhà khoa học tính toán rằng, trong khoảng 50 năm qua, mực nước biển đã dâng lên 160 mm. Đây là nguyên nhân quan trọng khiến nhiều nơi tại Tp. Hồ Chí Minh bị ngập nước khi triều cường, vừa làm cho mức độ xói lở bờ biển mạnh hơn. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục với phạm vi rộng hơn trong những năm tới (Hình 7-8).

Theo báo cáo của Viện Khoa học thủy lợi miền Nam trình bày tại Hội nghị đánh giá về thực trạng đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức ngày 24/3/2008: Bờ biển từ tỉnh Quảng Ngãi đến Bình Thuận hiện bị sóng biển xâm thực khá mạnh, nhiều khu vực có tốc độ sạt lở bờ biển từ 15-30m/năm. Dải ven biển Đông từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến mũi Cà Mau cũng có một số đoạn bị sạt lở làm cho thảm rừng ngập mặn nhiều nơi bị thu hẹp dần, thậm chí có đoạn không còn rừng phòng hộ. Trong khi đó, hệ thống đê biển để bảo vệ đất liền lại đang xuống cấp nghiêm trọng. Còn trên các tuyến đê biển của miền bắc từ năm 2005 đến nay, đã có tới 165 vị trí sạt lở có chiều dài 252 km. Tình trạng sạt lở trong thời gian qua đang đe dọa trực tiếp đến an toàn đê điều, các khu vực thành phố, thị xã và các khu tập trung dân cư...

2.3.4. Sản xuất nông nghiệp, thuỷ hải sản và du lịchSản xuất nông nghiệpNước biển dâng cao khiến tình hình nhiễm mặn đã tác động không nhỏ tới sản xuất

nông nghiệp tại các tỉnh ven biển Việt Nam. Nhiễm mặn làm tăng độ dẫn điện tăng. Quá trình nhiễm mặn không chỉ đem lại hậu quả khó khăn cho sản xuất mà còn làm

40

Page 41: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt của bà con nhân dân. Tại các điểm nhiễm mặn hầu như không thể trồng được loại cây màu nào, phần lớn các diện tích nhiễm mặn hiện đang bị bỏ hoang chờ thau chua, rửa mặn mới có thể khôi phục sản xuất trở lại. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, năm 2004, đồng bằng sông Cửu Long có hơn 200.000 ha lúa và hoa màu bị khô hạn và nhiễm mặn. Nước mặn đã làm hàng trăm ha lúa hè thu ở Trà Vinh, Hậu Giang bị mất trắng.

Sự nhiễm mặn đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa như: giảm sức nảy mầm của lúa, giảm chiều cao và khả năng đẻ nhánh, hệ rễ phát triển kém, giảm sự cố định đạm sinh học và quá trình khoáng hoá đạm trong đất. Tính trung bình năng suất lúa có thể giảm tới 20-25%, thậm chí tới 50%. Các vùng ven biển Việt Nam có dân số khoảng 18 triệu người, chiếm gần ¼ dân số cả nước trong đó diện tích đất sử dụng chỉ chiếm 16% tổng diện tích cả nước. 58% dân cư vùng ven biển chủ yếu sống dựa và nông nghiệp và đánh bắt thuỷ sản, khoảng 480.000 người trực tiếp làm nghề đánh bắt hải sản, 10.000 người chế biến hải sản và 2.140.000 người cung cấp các dịch vụ liên quan đến nghề cá.

41

Hộp 3. Biến đổi khí hậu và phát triển con người ở Đồng bằng sông Cửu LongTrong 15 năm qua, Việt Nam đã có tiến bộ vượt bậc về phát triển và con người. Mức đói nghèo đã

giảm và chỉ số xã hội được nâng cao khiến Việt Nam sớm đi trước về hầu hết mọi Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG). Biến đổi khí hậu gây ra mối đe dọa thực sự đối với những thành tựu này và không đâu nghiêm trọng hơn vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Việt Nam có lịch sử lâu đời về đối phó với thời tiết khắc nghiệt, nằm trong vùng bão, với bờ biển dài và châu thổ sông ngòi chằng chịt và gần như đứng đầu trong danh mục các nước bị thiên tai. Trung bình mỗi năm có 6-8 trận bão. Nhiều trận để lại sự tàn phá nặng nề, gây thương vong lớn, phá hoại nhà cửa, thuyền bề và cướp trắng mùa màng. 8000 km đê sông, đê biển của đất nước, trong đó có nhiều đoạn do nhân dân đào đắp bao thể kỷ mới nên, đã minh chứng cho quy mô đầu tư quốc gia vào công tác quản lý rủi ro.

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đặc biệt quan ngại. Là một trong những vùng dân cư đông đúc nhất Việt Nam, đây là nơi cư ngụ của 17,2 triệu người và cũng là vựa lúa của đất nước, đóng vai trò tối quan trọng trong an ninh lương thực quốc gia. Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất một nửa lượng lúa gạo của Việt Nam, đồng thời chiếm phần lớn thuỷ sản và trái cây.

Phát triển nông nghiệp đóng vai trò then chốt trong xóa đói giảm nghèo ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đầu tư vào thuỷ lợi, hỗ trợ tiếp thị và khuyến nông đã giúp nông dân tăng cường sản xuất, cấy trồng 2 thậm chí 3 vụ một năm. Nông dân đã đắp đê xây kè để bảo vệ đồng ruộng khỏi ngập lụt khi bão to mưa lớn.

Biến đổi khí hậu gây đe dọa ở nhiều cấp. Lượng mưa dự kiến sẽ gia tăng và Việt Nam sẽ đối mặt với bão nhiệt đới mạnh hơn. Mực nước biển dự kiến sẽ dâng cao 33 cm vào năm 2050 và 1m vào 2100.

Với Đồng bằng sông Cửu Long thấp trũng, đây là một dự báo rất ảm đạm. Mực nước biển dâng cao như dự báo vào năm 2030 sẽ khiến khoảng 45% đất của đồng bằng này có nguy cơ nhiễm mặn cục độ và thiệt hại mùa màng do lũ lụt. Năng suất lúa dự báo sẽ giảm 9% nếu mực nước biển dâng cao 1m, phần lớn đồng bằng này sẽ hoàn toàn ngập trắng nhiều thời gian dài trong năm.

Những biến đổi này sẽ tác động tới phát triển con người ở Đồng bằng sông Cửu Long. Mặc dù mức đói nghèo đã và đang giảm, bất bình đẳng đang gia tăng, một phần là do nhiều người không có đất. Vẫn còn 4 triệu người đói nghèo ở Đồng bằng này. Nhiều người trong số này thiếu sự chăm sóc y tế cơ bản và tỷ lệ trẻ em bỏ học khá cao. Đối với nhóm này, ngay cả một sụt giảm nhỏ về thu nhập hay mất cơ hội việc làm do lũ lụt sẽ có hậu quả nghiêm trọng đối với dinh dưỡng, sức khoẻ và giáo dục. Người nghèo phải chịu nguy cơ gấp đôi. Khả năng số người này sinh sống ở những vùng dễ ngập lụt là cao hơn-song khả năng sống trong những ngôi nhà kiên cố, vững chắc thì thấp hơn.

Nguồn: Báo cáo Phát triển Con người 2007-2008, UNDP

Page 42: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Đồng bằng Sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam, nhưng các nhà khoa học đang cảnh báo nguy cơ thu hẹp diện tích đất canh tác và những biến đổi bất thường của khí hậu mà khu vực này này có thể phải đối mặt. Theo thống kê, Đồng bằng Sông Cửu Long có tổng diện tích gần 35.000 km2 , trong đó 18.066km2 đất thuộc các huyện ven biển. Trong các thập kỷ gần đây, yếu tố khí tượng thuỷ văn tại Đồng bằng Sông Cửu Long tiếp tục thay đổi theo chiều hướng xấu. Các thiên tai như bão tố, lụt lội, xâm nhập mặn... xảy ra thường xuyên hơn và khó dự đoán.

Hầu hết nông dân Việt Nam có rất ít đất canh tác, đặc biệt là nông dân vùng ven viển. Tại các vùng nông thôn Bắc Bộ và Trung Bộ bình quân đất canh tác trên đầu người chỉ khoảng 1,2-1,3 sào Bắc Bộ (360m2). Các vùng ven biển miền Trung đất đai bị bạc màu và khô cằn, vì sinh kế người dân buộc phải tìm cách khai thác tài nguyên biển và ven bờ, phá huỷ các hệ sinh thái có giá trị cực quỳ quan trọng như rừng ngập mặn, cỏ biển, rạn san hô, bãi triều… Vì vậy, việc mất đi một phần rất lớn quỹ đất trồng do biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, cùng quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa sẽ đặt Việt Nam trước một thách thức rất nghiêm trọng.

Nuôi trồng thuỷ sảnCó thể nói, trong số những lợi ích mà biển mang lại, kinh tế thuỷ sản chiếm vị trí

đặc biệt quan trọng, đan xen giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và cải thiện sinh kế cho các cộng đồng dân cư sống ở các vùng nông thôn ven biển và hải đảo. Năm 2007, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả năm 2007 đạt 3.752 triệu USD, tăng 4% so với kế hoạch, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2006. Cùng với sản lượng khai thác, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, nhìn chung cũng tăng so với cùng kỳ năm ngoái. Hết tháng 1/2008, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt 120 ngàn tấn, tăng 5% so với kế hoạch, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2007.

Biến đổi khí hậu đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế ở các vùng ven biển Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản ở vùng ven biển được coi là ngành có tăng trưởng quan trọng, có giá trị xuất khẩu cao và cũng là ngành chịu nhiều thiệt hại nhất do biến đổi khí hậu.

Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như áp thấp nhiệt đới, bão, lũ lụt ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển của ngành nuôi trồng và chế biến thuỷ sản ở các vùng ven biển Việt Nam. Chỉ tính riêng năm 2006, hai cơn bão Chanchu và cơn bão Xangsane đã ảnh hưởng trực tiếp và gây thiệt hại nặng nề cho ngành chế biến thuỷ sản các tỉnh ven biển miền Trung: 3.974 ha đầm nuôi cá, tôm bị ngập kéo theo 494 tấn cá tôm bị phá huỷ, 951 tầu thuyền đánh cá bị chìm, ước tính thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng. Tháng 11/2007, do ảnh hưởng của bão số 7, áp thấp nhiệt đới trên biển Đông và ảnh hưởng của gió mùa Đông-Bắc hoạt động mạnh đã làm hạn chế các hoạt động khai thác

42

Page 43: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

thuỷ sản. Tại các tỉnh miền Trung như Quảng Bình, Khánh Hoà, Phú Yên, đây là những nơi có sản lượng nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú, cá biển, nhuyễn thể, cua, ghẹ lớn. Do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu thay đổi trong thời gian vừa qua, mưa nhiều khiến cho dịch bệnh phát triển, nguồn nước thay đổi nhanh khiến cho các đối tượng nuôi khác như tôm hùm, rong sụn tại một số địa phương như Khánh Hoà, Phú Yên bị chết, gây thiệt hại nặng nề cho người dân.

Ở Việt Nam có tới 58% dân cư vùng ven biển có sinh kế chủ yếu dựa và nông nghiệp và đánh bắt thuỷ sản, khoảng 480.000 người trực tiếp làm nghề đánh bắt hải sản, 10.000 người chế biến hải sản và 2.140.000 người cung cấp các dịch vụ liên quan đến nghề cá. Một điểm đáng được quan tâm đối với cộng động dân cư ven biển là đa số những người làm nghề đánh bắt thủy sản là những người nghèo trong xã hội. Do sản lượng đánh bắt tự nhiên giảm, nền tảng kinh tế của mọi cộng đồng dân cư ven biển không được ổn định. Từ đó phát sinh những vấn đề xã hội mà chính quyền ở các địa phương giải quyết. Sản xuất nông nghiệp lượng lương thực giảm sẽ đẩy giá bán cao lên, số người nghèo gia tăng, người suy dinh dưỡng ngày càng nhiều... Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội như xóa đói nghèo.

2.3.5. Đa dạng sinh học và hệ sinh tháiĐối với nước ta, mực nước biển dâng sẽ làm mất đi một vùng đất thấp rộng lớn/các

hệ sinh thái đất ngập nước của các đồng bằng lớn nhất cả nước. Đây cũng là nơi sinh sống của các cộng đồng dân cư lâu đời (hiện có tỷ lệ đói nghèo cao), vùng có tiềm năng sản xuất nông nghiệp lớn nhất và các sinh cảnh tự nhiên của nhiều loài bản địa bao gồm cả các khu bảo tồn thiên nhiên, sinh quyển.

Từ lâu ở Đồng bằng sông Cửu Long đã hình thành và phát triển các hệ sinh thái tự nhiên rừng Tràm U Minh, hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển, hệ sinh thái nông nghiệp. Tại đây có nhiều khu bảo tồn thiên nhiên, vườn chim, sân chim... rất hấp dẫn cho du lịch sinh thái. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng ngập mặn ở các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre... Ngoài vai trò sản xuất nông nghiệp và thuỷ sản, các vùng đất ngập nước còn đóng vai trò quan trọng trong thiên nhiên và môi trường như lọc nước thải, điều hoà dòng chảy (giảm lũ lụt và hạn hán), điều hoà khí hậu địa phương, chống xói lở bờ biển (do hệ thống rễ chằng chịt, có tác dụng giảm năng lượng sóng), ổn định mức nước ngầm cho những vùng sản xuất nông nghiệp, tích luỹ nước ngầm, là nơi trú chân của nhiều loài chim di cư quý hiếm, là nơi giải trí, du lịch rất giá trị… Các vùng này đã và đang đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế và xã hội. Kết quả nghiên cứu năm 2007 cho thấy, trong cơn bão lớn năm 2005, một số rừng ngập mặn được trồng có các thành phần khác nhau có tác dụng làm giảm sóng bão kết hợp với triều cường, bảo vệ đê biển và bờ biển rất có hiệu quả. Cơn bão số 2 (31/12/2005) với sức gió cấp 10 (89 - 102 km/h) đã phá vỡ đê bằng bê tông kiên cố Cát Hải (Hải Phòng), nhưng tuyến đê làm bằng đất ở xã Bằng La, huyện Đồ Sơn nhờ có rừng ngập mặn bảo vệ nên vẫn an toàn. Năng lượng sóng khi vượt qua

43

Page 44: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

rừng đã làm giảm 77 - 83% vào các thời điểm khác nhau trong ngày mưa bão. Cũng tại khu vực này, khi cơn bão số 7 (27/9/2005) với sức gió cấp 12 (118 - 133 km/h) năng lượng sóng đã giảm từ 85 - 87% khi xuyên qua rừng. Hệ số suy giảm sóng trong cơn bão số 7 sau khu rừng bần là 77 - 83%.

Biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao đe dọa nhiều nhất đến các hệ sinh thái vùng ven bờ như hệ sinh thái đất ngập nước, rừng ngập mặn, cỏ biển và rạn san hô. Mực nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu chắc chắn sẽ tác động mạnh đến các hệ sinh thái này do làm thay đổi thành phần của trầm tích, độ mặn của nước và mức độ ô nhiễm. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới đối với các sinh cảnh tự nhiên quan trọng ở Việt Nam, dựa trên những kịch bản nước biển dâng trong bản đồ các sinh cảnh tự nhiên chủ chốt, cứ 1m nước biển dâng lên có thể ảnh hưởng tới 78 (27%) sinh cảnh tự nhiên ở những mức độ nhất định, bao gồm 46 (33%) khu bảo tồn, 9 (23%) các vùng có đa dạng sinh học chủ chốt và 23 (21%) khu vực cả bảo tồn và sinh cảnh chủ chốt. Độ lớn của những tác động tiềm tàng này đang tăng lên từ ¼ đến 1/3 tất cả các vùng sinh cảnh tự nhiên then chốt ở Việt Nam có thể bị tác động bởi mực nước biển dâng. Những khu vực này bao gồm phần lớn các khu bảo tồn và đề nghị bảo tồn hiện nay của Việt Nam vì các khu bảo tồn này thương tập trung trên các đảo và khu vực bờ biển. Thậm chí mực nước biển dâng cao 1m cũng sẽ tác động đến hầu hết các sinh cảnh tự nhiên then chốt. Rõ ràng là đa dạng sinh học Việt nam đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng khi nước biển dâng. Không chỉ ở các vùng ven biển, các tác động khi nước biển dâng sẽ kéo dài từ Đồng bằng sông Cửu Long qua Việt Nam sang tới Campuchia và đi sâu 180 km vào đất liền. Ở miền Bắc, lớp địa tầng đá vôi ngâm nước sâu rộng khiến cho nước mặn xâm nhập vào sâu trong đất liền như Khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long ở Ninh Bình và một số nơi khác. Điều đó sẽ ảnh hưởng xấu tới đa dạng sinh học, nhiều loài có ý nghĩa kinh tế và khoa học chết hoặc di cư, mất nguồn cung cấp thực phẩm.

Việt Nam vốn nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, hàng năm phải hứng chịu nhiều cơn bão và triều cường. Trước đây, nhờ có các dải rừng ngập mặn tự nhiên và được trồng ở các vùng cửa sông, ven biển nên đê điều ít khi bị vỡ. Nhưng những năm gần đây, do việc phá rừng ngập mặn để trồng lúa, nuôi tôm, cuộc sống của cộng đồng ven biển ngày càng bị đe dọa. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam, bão và triều cường là hai trong số sáu tác động đến hệ sinh thái rừng ngập mặn gồm nhiệt độ, lượng mưa, gió mùa đông bắc và hoạt động của con người. Nước biển dâng cao nhất trong những ngày có mưa bão kết hợp triều cường, gây ra thiệt hại to lớn về tài sản của cộng đồng ven biển, làm cho bờ biển bị xói lở, kể cả những vùng có các dải rừng ngập mặn phòng hộ. Triều cường còn đưa cát vào bờ, làm cho các loài cây ngập mặn có rễ thở trên mặt đất bị vùi lấp và chết đứng. Nước biển dâng tạo điều kiện cho một số loài cây ngập mặn xâm lấn nội địa, giảm diện tích sản xuất nông nghiệp (như ở Quảng Bình và miền Tây Nam Bộ). Nhiều loài động thực vật nước ngọt biến mất và thay vào đó là các loài nước lợ. Nước biển dâng cũng ngăn cản sự bồi tụ của các bãi triều, ngăn cản sự tái sinh tự nhiên của các loài cây ngập mặn tiên phong như mắm,

44

Page 45: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

bần chua. Tại Tp.Hồ Chí Minh, trong thời gian gần đây triều cường gây ngập nhiều khu dân cư trong đó có nguyên nhân là hầu hết các kênh rạch có những dải dừa nước và nhiều loài cây ngập mặn khác như bần, mắm, su trang ở các quận Nhà Bè, Phú Xuân, Bình Chánh bị chặt phá và lấp đất để xây dựng.

Ngoài những ảnh hưởng đến suy giảm đa sinh học, nguy cơ nhấn chìm và phá huỷ cơ sở hạ tầng và suy giảm tiềm năng du lịch ở các vùng ven biển cũng là một vấn đề quan trọng. Hiện nay, du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn ở nước ta, với hàng triệu người tham gia và kiếm sống nhờ du lịch. Biến đổi khí hậu mà hệ quả là nước biển dâng cao sẽ nhấn chìm và phá huỷ cơ sở hạ tầng du lịch, từ đó làm giảm lượng khách tìm đến và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của hàng triệu người, trong đó đa phần là người nghèo. Theo số liệu của Ủy ban Nhân dân Huyện Giao Thuỷ, Nam Định, kể từ cơn bão số 5 năm 2005 đến năm đầu năm 2008, tại khu vực bờ biển Bạch Long - Giao Thủy và Khu du lịch thị trấn Quất Lâm mực nước biển đã dâng lên 20cm. Trước năm 2005, mực nước biển hầu như không tăng, thế nhưng từ năm 2005, biểu mực nước biển dâng lên rõ rệt.  Đặc biệt, mỗi lần thủy triều lên, mực nước dâng cao tràn qua đường khu du lịch ở thị trấn Quất Lâm, Chính quyền địa phương đã phải tổ chức tôn cao đường trong khu du lịch từ 20 - 50cm và xây bờ chắn sóng. Hậu quả của mực nước dâng cao 20cm đã phá hủy toàn bộ môi trường và cây cối trong khu vực, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế, du lịch và môi trường của huyện.

2.3.6. Giao thông và cơ sở hạ tầngTheo đánh giá của IPCC, do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, có khả năng

mực nước biển sẽ dâng cao 1m vào cuối thế kỷ 21, nếu Việt Nam không nhanh chóng xây dựng và nâng cấp hoàn chỉnh hệ thống đê biển để ứng phó, thì hàng năm có đến 40.000km2 vùng ven biển sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề, trong đó 90% diện tích đồng bằng sông Cửu Long bị ngập hoàn toàn, thiệt hại về tài sản lên tới 17 tỷ USD.

Hệ thống đê biển đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo phát triển bền vững dải đất ven biển, có nhiệm vụ ngặn mặn giữ ngọt, bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân, là tấm lá chắn hữu hiệu nhằm ngăn chặn những tác động bất lợi từ biển. Các nguy cơ mới về biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao sẽ đe doạ đến sự tồn tại các của công trình phòng thủ vô cùng quan trọng này. Đến nay cả nước đã có 2.800km đê biển thuộc 28 tỉnh đã và đang phát huy hiệu quả trong công tác phòng chống thiên tai, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương có biển phát triển kinh tế-xã hội, riêng hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận hầu như chưa có đê biển. Tuy nhiên, hệ thống đê biển của Việt Nam hầu hết đắp bằng đất, nền đất yếu, người dân chủ động xây dựng thiếu sự quy hoạch thống nhất và khoa học và chỉ có khả năng chống đỡ được những cơn bão từ cấp 9 trở xuống. Nhiều tuyến đê biển, sông hiện vẫn chưa đủ khả năng phòng chống thiên tai, khi chịu triều cường và bão thường bị thiệt hại lớn. Các tuyến kè cũng chưa khép kín, nhiều đoạn còn thiếu cầu, cống. Do đó chưa chủ động trong tiêu úng, tiêu phèn, hạn chế hiệu quả ngăn mặn, giữ ngọt cho nuôi trồng thủy sản và kết hợp giao thông biển.

45

Page 46: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Từ sau năm 2005, đê biển đã được tập trung tu bổ khá nhiều. Tuy nhiên do kinh phí còn hạn hẹp nên mới tập trung tu bổ những đoạn đê bị vỡ và những tuyến đê xung yếu. Đến năm 2007, hầu hết các tuyến đê sông ở Bắc và Trung Bộ căn bản đã đủ sức chống được lũ, tuy nhiên, hệ thống đê biển vẫn còn rất nhiều vấn đề bất cập, nhất là trước những cơn bão lớn. Hệ thống đê biển thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ tuy đã được đầu tư nâng cấp thông qua các Dự án PAM 4317, PAM 5325, OXFAM của nước ngoài tài trợ nhưng mới đủ sức chống đỡ với gió bão cấp 9 và khi thủy triều ở mức trung bình. Theo Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, kinh phí chỉ riêng để xây dựng, gia cố 518 km đê biển và 326 kè sông của 13 tỉnh thành từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang đã là 10.000 tỷ đồng. Số tiền này cũng tương đương với tổng thiệt hại bão số 6 năm 2006 tàn phá nặng nề các tỉnh miền Trung.

Với Việt Nam, các hệ thống cảng biển đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia. Hệ thống cảng biển nước sâu hiện nay ở vùng ven biển miền Trung Việt Nam còn là cửa ngõ lớn qua các trục hành lang Đông Tây, nối liền miền Trung Việt Nam với các nước tiểu vùng sông Mêkông, nối Việt Nam với các nước châu Á - Thái Bình Dương và thế giới. Hiện nay, trên 24 tỉnh thành vùng duyên hải Việt Nam có 266 cảng biển lớn nhỏ. Hơn nữa, Việt Nam còn là nước có nhiều tiềm năng về dầu khí trong khu vực. Hiện nay công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam đã được tiến hành cả trên đất liền và vùng thềm lục địa (tập trung tại vùng biển Đông Nam và Tây Nam Việt Nam). Mực nước biển dâng cao sẽ đe dọa đến các cơ sở hạ tầng có ý nghĩa quan trọng này.

Mực nước biển dâng cao kèm theo mưa bão lớn hơn có thể sẽ gây ngập lụt các tuyến đường sắt ở vùng duyên hải, sân bay, phá huỷ cầu cống và hệ thống ống dẫn. Tại nhiều nơi, các công trình cơ sở hạ tầng như giao thông, đê biển, cống ngăn mặn… được xây dựng căn cứ vào các dữ liệu thời tiết lịch sử và không còn phù hợp trong điều kiện khí hậu, vì vậy nguy cơ tổn thất là rất lớn. Điều này đã được chứng minh sau các trận nước biển dâng kèm theo mưa bão trong vài năm trở lại đây ở miền Trung.

2.3.7. Nước sạch và vệ sinh môi trườngBiến đổi khí hậu liên quan đến mực nước biển dâng còn ảnh hưởng trực tiếp đến

sức khoẻ của dân cư sống tại các vùng ven biển Việt Nam. Tăng cường độ thiên tai như bão và lũ lụt, sẽ đe doạ tính mạng người dân và có thể dẫn đến nhiều tử vong hơn, nguy cơ bùng phát dịch bệnh là không thể tránh khỏi, nhất là các sự bùng phát dịch bệnh liên quan đến nước sạch và vệ sinh môi trường như tiêu chảy, sốt xuất huyết, đau mắt…

Năm 2007, ảnh hưởng của tàn dư bão số 6 kết hợp với gió đông hoạt động mạnh đã gây ra mưa lớn nhất là trong mùa lũ. Các trận lũ khủng khiếp tại các tỉnh miền Trung đã gây thiệt hại lớn về kinh tế xã hội và môi trường, làm ảnh hưởng đến hàng nghìn hộ dân địa phương. Do mưa lũ liên tiếp nên hệ thống các đê bao, đê ngăn mặn, đê kè sông, biển và kênh mương bị sạt lở, nhiều tuyến đường giao thông, công trình, di tích lịch sử bị bùn đất vùi lấp. Thêm vào đó, do ngập lụt trong thời gian dài, các loại phân

46

Page 47: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

bón, thuốc trừ sâu, chất thải từ các nhà vệ sinh, chuồng trại chăn nuôi, các chất thải khác… bị rửa trôi, xuống hồ ao, sông suối trôi nổi khắp nơi gây ô nhiễm môi trường. Các công trình cấp nước sạch tập trung bị hư hỏng hoặc do nguồn nước cấp bị ô nhiễm gây khó khăn cho việc xử lý nước, cung cấp nước sạch cho nhân dân.III. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÍCH ỨNG VỚI SỰ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

VÀ MỰC NƯỚC BIỂN DÂNG CAO Ở VIỆT NAMTrong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã chứng kiến và các nhà khoa học trên khắp thế

giới đã liên tục báo động về những biến động bất thường của khí hậu toàn cầu. Thích ứng và giảm nhẹ tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra đã trở thành vấn đề cấp bách, đòi hỏi sự tham gia của tất cả cộng đồng thế giới. Dưới sự hỗ trợ của Hiệp định Khung Quốc tế về Thay đổi Khí hậu (UNFCCC), một số công việc đã được bắt đầu cho Chương trình Hành động Thích ứng Quốc gia. Những hành động này bao gồm cả việc tăng cường xác định các hoạt động ưu tiên, bao gồm cả thích ứng đối với nước biển dâng ở các nước kém phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay chỉ mới có 8 quốc gia đang phát triển đã xây dựng đầy đủ Chương trình Hành động Thích ứng Quốc gia Bănglađét, Bhutan, Comoros, Djibouti, Malawi, Mauritania, Niger và Samoa.

Không chỉ các nước nghèo bị ảnh hưởng bởi nước biển dâng cao, các quốc gia đang phát triển khác cũng bị ảnh hưởng lớn. Nước biển dâng trong khoảng từ 1-3m có thể trở thành hiện thực. Nhưng cho đến nay, rất ít các bằng chứng cho thấy cộng đồng quốc tế quan tâm thích đáng đến việc quy hoạch phân bố dân cư và cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển.

Không phải cho đến bây giờ, Chính phủ Việt Nam mới quan tâm đến vấn đề khí hậu và nước biển dâng cao hiện nay. Có thể kể ra một số sự chuẩn bị cụ thể của Việt Nam trước tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu. Ở cấp quốc tế, Việt Nam đã ký và phê chuẩn Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu và trở thành một bên của Công ước ngày 25/09/2005. Mặc dù Việt Nam không thuộc các nước phải tuân thủ lộ trình cắt giảm phát thải khí nhà kính, song Việt Nam vẫn có thể chủ động xây dựng kế hoạch hành động phù hợp ngay từ bây giờ để tránh những tổn thất trực tiếp cũng như những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế- xã hội và sự phát triển bền vững của quốc gia. Ở cấp quốc gia, Việt Nam đã lồng ghép chống biến đổi khí hậu vào Luật bảo vệ môi trường, các chương trình như Chương trình nghị sự Agenda 21 của Việt Nam, Chiến lược quốc gia về quản lý môi trường biển và ven biển, Kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020…

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã được chỉ định là Cơ quan đầu mối Quốc gia về các hoạt động có liên quan đến việc thực hiện Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto, Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn và Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn; Thành lập cơ quan đầu mối về Cơ chế phát triển sạch là một trong ba cơ chế của Nghị định thư Kyoto phục vụ phát triển bền vững tại Việt Nam thông qua các dự án phát triển sạch .

47

Page 48: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Gần đây nhất, ngày 3/12/2007, Chính phủ đã có Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ ngành liên quan xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, kêu gọi sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cho chương trình này và trình Thủ tướng Chính phủ trong quý II/2008. Mục tiêu chung của Chương trình là chú trọng đến nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu và xây dựng chính sách của Việt Nam trong giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu, lồng ghép vào các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển ngành, địa phương và các cam kết quốc tế. Chương trình Mục tiêu Quốc gia về vấn đề này phải đáp ứng được mục tiêu trước mắt, vừa đáp ứng được mục tiêu lâu dài, mang tính toàn diện, tổng thể.

Trước nguy cơ ảnh hưởng và cảnh báo về biến đổi khí hậu và nước biển dâng, Việt Nam cần làm gì để ứng phó với hiểm họa này. Các hành động trước mắt và lâu dài cần được xem xét và cân nhắc kỹ nhằm thích ứng và giảm nhẹ những tác động bất lợi cho nền kinh tế và đời sống con người. Tại Hội thảo về Biến đổi khí hậu toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam diễn ra tháng 2/2008, các nhà khoa học và các nhà quản lý đã đề xuất 8 giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu của Việt Nam gồm:

1) Chấp nhận tổn thất: Phương pháp thích ứng này là phản ứng cơ bản “không làm gì cả”.

2) Chia sẻ tổn thất: Chia sẻ tổn thất giữa cộng đồng dân cư, bảo hiểm.3) Làm thay đổi nguy cơ: giảm nhẹ biến đổi khí hậu.4) Ngăn ngừa các tác động: Thích ứng từng bước và ngăn chặn các tác động

của biến đổi khí hậu và bất ổn của khí hậu.5) Thay đổi cách sử dụng: biến đổi khí hậu khiến các hoạt động kinh tế không

thể thực hiện thì có thể thay đổi cách sử dụng.6) Thay đổi/chuyển địa điểm: thay đổi/chuyển địa điểm của các hoạt động

kinh tế.7) Nghiên cứu: phát triển công nghệ mới và phương pháp mới về thích ứng.8) Giáo dục, thông tin và khuyến khích thay đổi hành vi: Phổ biến kiến thức

thông qua các chiến dịch thông tin công cộng và giáo dục, dẫn đến việc thay đổi hành vi.

Dựa trên kinh nghiệm của các nước đã triển khai kế hoạch quốc gia và thực tiễn ở Việt Nam, có thể đề xuất một số nhóm giải pháp như sau.

3.1. CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCHVấn đề biến đổi khí hậu vừa có tính trước mắt, vừa có tính lâu dài, phức tạp

và liên quan đến tất cả các ngành, trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Vì thế, để thực hiện được mục tiêu ứng phó và giảm nhẹ tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối với nước ta, việc xây dựng các chương trình quốc gia và công tác chỉ

48

Page 49: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

đạo thực hiện cần được nghiên cứu, trao đổi ở tất cả các cấp, các vùng, các lĩnh vực (tài nguyên nước, đất, môi trường và các hệ sinh thái…) và trong tất cả các ngành, quan trọng, nhất là năng lượng, giao thông, công nghiệp, nông lâm nghiệp, thuỷ sản, du lịch, tài nguyên và môi trường.

49

Hộp 4. Nội dung, nhiệm vụ đề cương Chương trình hành động giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT)Mục tiêu: - Dự báo các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các lĩnh vực của ngành NN&PTNT.- Nâng cao nhận thức của các bên liên quan về biến đổi khí hậu.- Xây dựng chính sách chiến lược và giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, chú trọng các giải pháp công trình công trình và phi công trình, giải pháp sinh học và phi sinh học...nhằm bảo tồn tài nguyên di truyền, phát huy hiệu quả và an toàn hạ tầng cơ sở nông nghiệp và nông thôn, góp phần đảm bảo an ninh luong thực và phát triển bền vững.- Ðẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm nâng cao năng lực điều phối và năng lực khoa học công nghệ góp phần giảm thiểu và thích nghi với biến đổi khí hậu.- Ðề ra những nhiệm vụ cụ thể, xác định trách nhiệm của Bộ, nghành, địa phương và cộng đồng trong việc xây dựng và thực hiện chương trình hành động giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu. Xác định nguồn vốn và cơ chế quản lý vốn.* Nông nghiệp và nông thôn:i) Nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu và biện pháp thích ứng; ii) Quy hoạch các vùng dân cư ven biển; iii) Chuyển đổi cơ cấu sản xuất và phương thức trồng lúa và các loại cây trồng khác, chọn tạo giống chịu hạn, chịu lũ và chịu mặn; iv) Nghiên cứu phương pháp bảo tồn phù hợp thông qua sử dụng; v) Cải tiến phương pháp xử lý chất hữu cơ; vi) Tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng trong chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. * Lâm nghiệp:i) Nghiên cứu cơ sở khoa học đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với vác hệ sinh thái rừng; ii) Nghiên cứu các loại cây trồng phù hợp, các chính sách chi trả cho dịch vụ môi trường; iii) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cảnh báo; iv) Quy hoạch sử dụng đất bền vững, quy hoạch hợp lý 3 loại rừng, quy hoạch các khu bảo tồn; v) Phát triển, quản lý bền vững 16,2 triệu ha rừng, trồng rừng phòng hộ ven biển. * Thuỷ lợi:i) Nâng cấp hệ thống đê và công trình bảo vệ những khu vực quan trọng; Trồng rừng bảo hộ đê biển; ii) Tăng cường năng lực dự báo; iii) Ứng dụng các giải pháp khoa học công nghệ phù hợp trong quy hoạch, vận hành và quản lý công trình; iv) Đề xuất các giải pháp tiết kiệm nước; v) Tăng cường công tác quản lý rủi ro, thiên tai, quản lý ô nhiễm.* Thuỷ sản:i) Xây dựng hệ thống thông tin nghề cá; ii) Xây dựng đê quai mới ở những nơi cần thiết; iii) Xây dựng chính sách hỗ trợ ngư dân, xác định ngư trường mới. Đẩy mạnh thực hiện chính sách tài chính tín dụng cho người nghèo; iv) Tăng tính thích ứng và phục hồi cho người dân địa phương; v) Khai thác và tận dụng kiến thức và kinh nghiệm bản địa; vi) Nâng cao nhận thức cho các cấp, đào tạo nguồn nhân lực; vii) Xây dựng các khu bảo tồn, tạo giống mới, tái tạo nguồn lợi, hệ thống phòng trừ dịch bệnh.

Nguồn: Hội thảo “Hướng tới Chương trình Hành động của Ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu”, Hà Nội, 1/2008

Page 50: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Các ngành và các địa phương liên quan, nhất là các vùng đồng bằng ven biển, cần xem xét và tính đến các thông tin về biến đổi khí hậu và nước biển dâng vào các quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn như lồng ghép các chiến lược quản lý tổng hợp vùng ven biển. Quản lý tổng hợp vùng ven biển là giải pháp được nhiều quốc gia phát triển có biển áp dụng, coi đây là biện pháp tích ứng rất phù hợp để đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao. Việc áp dụng và phát huy những thành quả về quản lý tổng hợp vùng ven biển chắn chắn sẽ có những hiệu quả tích cực đối với Việt Nam-quốc gia đang phát triển có tới hơn 3.000km đường bờ biển.

Các quy hoạch về hoạt động phát triển vùng ven biển phải không được làm tăng tính tổn thương trước mực nước biển dâng. Nhà nước cần xem xét các kế hoạch di dời, tái định cư, xây dựng các biện pháp ứng phó khẩn cấp.trong các điều kiện thiên tai do biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Các chính sách hỗ trợ cho các vùng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là đối với người nghèo. Quy hoạch chiến lược đê biển ứng phó với nước biển dâng. Quy hoạch nuôi trồng thuỷ hải sản. Xây dựng các mô hình thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu tuỳ theo từng khu vực như vùng Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ… dựa trên đặc điểm địa lý, tự nhiên, dân cư, xã hội, tình hình phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong các năm tới của các địa phương, cũng như những giải pháp mà địa phương đã thực hiện để hạn chế hậu quả xấu của biến đổi khí hậu. Quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên nước điều hòa, chia sẻ và cân đối nguồn nước giữa các lưu vực, có kế hoạch phù hợp trong quản lý hoạt động của các hồ chứa nước ở thượng lưu nhằm điều tiết dòng chảy cho vùng hạ lưu, hạn chế xâm nhập mặn.

Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên & Môi trường nên phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện Xây dựng, bổ sung, sửa đổi các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức quản lý, tổ chức thực hiện cho phù hợp Công ước về Biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto và Cơ chế Phát triển sạch (CDM). Trong thời gian tới, biến đổi khí hậu ngày càng lớn dẫn đến thiên tai tăng, cho nên Việt Nam cần phải tăng cường hành động hơn nữa trong lĩnh vực này, các cơ quan chức năng trong nước phải phối hợp chặt chẽ với nhau, với các tổ chức quốc tế để thực hiện tốt những biện pháp lồng ghép ứng phó với diễn biến của khí hậu, đẩy mạnh hơn nữa công tác quản lý Nhà nước liên quan đến biến đối khí hậu, xây dựng, bổ sung, sửa đổi các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức quản lý, tổ chức thực hiện cho phù hợp Công ước về biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto và CDM; hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật hệ thống trạm quan trắc, tăng cường công tác giám sát biến đối khí hậu; tăng cường công tác điều tra cơ bản tình hình biến đổi khí hậu, xây dựng Kịch bản biến đối khí hậu thế kỷ 21 tại Việt Nam với độ tin cậy cao làm cơ sở cho việc đánh giá tác động của biến đối khí hậu và xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đối khí hậu; xây dựng, tổ chức và điều phối các hoạt động thực hiện Công ước Khí hậu, Nghị định thư Kyoto và CDM trong các ngành năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, nông nghiệp, lâm nghiệp, quản lý chất thải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam; củng cố và hoàn thiện cơ quan đầu mối thực hiện Công ước Khí

50

Page 51: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

hậu, Nghị định thư Kyoto, Công ước Viên về việc bảo vệ tầng ôzôn và Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn tại Việt Nam.

3.2. KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆCác kết luận khoa học chính là cơ sở cho việc hoạch định các quy hoạch, chiến lược

và chính sách cho sự phát triển bền vững. Trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên & Môi trường đã thành lập các nhóm chuyên gia bao gồm các cán bộ, chuyên gia, nhà khoa học của các đơn vị có liên quan của Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức, viện nghiên cứu, trường đại học, trung tâm nghiên cứu liên quan trong nước để thực hiện các nghiên cứu, dự án về biến đổi khí hậu; xây dựng các Kịch bản biến đổi khí hậu tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2070; xây dựng và đánh giá các phương án giảm nhẹ khí nhà kính và đề xuất các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, hoàn thành và gửi Thông báo quốc gia lần thứ nhất về biến đổi khí hậu của Việt Nam cho Ban Thư ký Quốc tế UNFCCC; kiểm kê khí nhà kính ở Việt Nam và đang thực hiện Thông báo Quốc gia lần thứ hai. Trong thời gian tới, Nhà nước cần đầu tư thích đáng cho các chương trình nghiên cứu nhằm giảm nhẹ và thích ứng với những tác động của biến đổi khí hậu, các chương trình nghiên cứu và đánh giá tính tổn thương của các hệ sinh thái, các vùng ven biển, xây dựng các kịch bản ngập lụt ở các vùng cửa sông, ven biển thấp, các kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam cho giai đoạn 2010-2100. Các chương trình cần được kết nối với các chương trình quốc tế và khu vực để có thể tiếp nhận thành quả nghiên cứu của các tổ chức nghiên cứu có uy tín trên thế giới và tiếp nhận sự trợ giúp quốc tế. Cần xây dựng các cơ chế hợp tác về chuyển giao công nghệ nhằm thúc đẩy R&D, xóa bỏ những rào cản trong quá trình chuyển giao công nghệ như thủ tục, quyền sở hữu trí tuệ, tài chính…

Tiếp tục nghiên cứu các ảnh hưởng của những biến động thời tiết, gián tiếp tác động đến nước biển dâng, tình trạng xâm nhập mặn, tăng xói lở do ảnh hưởng do nhiệt độ, lượng mưa, bão và lũ. Nghiên cứu về ảnh hưởng của ENSO đến chế độ thời tiết và đặc trưng khí hậu ở nhiều vùng của Việt Nam.

Tiếp tục triển khai nghiên cứu khoa học và hoàn thiện công nghệ theo hướng khai thác và ứng dụng công nghệ mới trong các lĩnh vực dự báo bão, sóng biển, dự tính thuỷ triều, nước dâng do bão. Tăng cường đổi mới và nâng cấp trang thiết bị phục vụ cho các mô hình dự báo để tạo ra các thông tin đủ tin cậy có thể phục vụ cho công tác xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới trong khai thác ảnh vệ tinh, viễn thám trong giám sát và quan trắc môi trường biển. Nâng cấp và mở rộng hệ thống trạm quan trắc, cảng dự tính thuỷ triều, trạm khí tượng hải văn ở vùng ven biển và hải đảo.

Nghiên cứu khoa học công nghệ mới không chỉ giúp giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính (có tác động lâu dài) mà còn giúp kịp thời, chủ động ứng phó với quá trình biến đổi của khí hậu, giảm tác động bất lợi đến đời sống kinh tế - xã hội, đồng

51

Page 52: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

thời tận dụng được những cơ hội thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế mới mà môi trường mang lại.

Để ứng phó với mực nước biển đang dâng cao, bên cạnh việc quy hoạch lại đất đai, tài nguyên nước, xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường và triển khai áp dụng các công nghệ quan trắc, giảm thiểu ô nhiễm, phòng chống và cảnh báo thiên tai phải thực hiện đo đạc độ lún tại các vùng nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng bởi mực nước biển. Kết hợp đo được độ lún và đo mức nước biển dâng để xây dựng một kịch bản chuẩn cho riêng Việt Nam.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, nghiên cứu và tìm ra các giống cây trồng mới chịu mặn và hạn hán, tăng cường quản lý tổng hợp tài nguyên nước, triển khai các hệ thống tưới tiêu tiết kiệm nước và phân bổ lượng nước hợp lý. Thay đổi cơ cấu cây trồng nông nghiệp thích ứng với môi trường.

Nghiên cứu tiêu chuẩn đê biển và giải pháp kỹ thuật đê biển. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ phục vụ củng cố, bảo vệ các tuyến đê, kè biển và cửa sông, xử lý xói lở. Củng cố, nâng cấp các tuyến đê biển, đê sông tạo thành các tuyến đê khép kín, kết hợp với làm đường giao thông vành đai ven biển nhằm bảo vệ dân sinh, cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng. Tăng cao các tiêu chuẩn thiết kế của các hệ thống đê này để có thể chống chịu được với bão lớn (cấp 9-12) kết hợp với triều cường và có tính đến tương lai nước biển dâng. Trồng cây dọc theo các tuyến đê để chắn sóng và gia cố đê.

3.3. TÀI CHÍNHNhiều quốc gia trên thế giới có rất nhiều nguồn quỹ phục vụ cho các cơ chế làm

sạch toàn cầu. Việt Nam chưa dành đủ sự quan tâm cần thiết và chưa có kế hoạch tốt đối phó với vấn đề này. Do đó, chưa tận dụng được nguồn vốn toàn cầu sẵn có. Theo các chuyên gia nước ngoài, hiện nay Việt Nam đang bị tụt lại so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan trong việc tiếp cận các nguồn quỹ dành cho các hoạt động chống lại ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và phát triển sạch. Để tiếp cận những nguồn vốn đó, Việt Nam cần có một kế hoạch tốt và một cam kết mạnh mẽ. Xây dựng danh mục các dự án và hành động ưu tiên để đầu tư.

Trong lĩnh vực môi trường, đã có nhiều hình thức tài chính hỗ trợ cho việc triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường như Chương trình Tín dụng xanh do các ngân hàng tại Việt Nam cung cấp, Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam, Quỹ Tín dụng Xanh do Chính phủ Thuỵ Sĩ tài trợ, Quỹ DANIDA của Chính phủ Đan Mạch, Chính phủ Hà Lan, Quỹ Môi trường toàn cầu, Ngân hàng Thế giới. Ngoài ra còn có rất nhiều chương trình, dự án hợp tác quốc tế khác triển khai các hoạt động nghiên cứu và thích ứng với biến đổi khí hậu huy động từ nhiều nguồn phi chính phủ, tư nhân khác. Cần đa dạng hóa các hình thức cho vay, hỗ trợ vốn, cho vay với lãi suất ưu đãi, tài trợ hoặc cho vay có hoàn trả; thế chấp tài sản để thực hiện các chương trình, đề án, dự án thử nghiệm, nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, xóa đói giảm nghèo...Trong tương lai, Việt Nam có thể thành lập các quỹ thích ứng với biến đổi khí hậu để tài trợ cho các dự án về thích ứng với biến đổi khí hậu.

52

Page 53: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Gần đây, việc nghiên cứu các tác động của biến đổi khí hậu ở các vùng ven biển miền Trung và hai Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long đã được khởi xướng với nhiều dự án nghiên cứu bắt đầu triển khai. Cần tiếp tục triển khai nhiều dự án thích ứng với biến đổi khí hậu ở những nơi phải hứng chịu nhiều thiệt hại và người dân còn nghèo. Các hoạt động của dự án nên tập trung ở cấp địa phương và được gắn kết hoặc lồng ghép với những dự án hỗ trợ đang được triển khai của các nhà tài trợ và các Tổ chức phi chính phủ quốc tế dành cho các các cộng đồng về lĩnh vực sẵn sàng và ứng phó với hạn hán, lũ lụt và bão với mục tiêu là tạo cho người dân nguồn sinh kế bền vững.

Các giải pháp tài chính mới có thể giúp con người đối mặt với các rủi ro do biến đổi khí hậu như bảo hiểm, bảo trợ xã hội, y tế và giáo dục. Mức bảo hiểm xã hội ở các nước giàu thường rất cao, trong khi người nghèo ở các nước đang phát triển đều không có. Bảo hiểm rủi ro do biến đổi khí hậu có thể là một tấm lá chắn giúp những người bị ảnh hưởng có thể đương đầu với rủi ro mà không làm mất đi các cơ hội phát triển.

3.4. NÂNG CAO NĂNG LỰC, GIÁO DỤC VÀ TRUYỀN THÔNGBiện pháp quan trọng khác nữa là cần nâng cao nhận thức của cộng đồng về khí hậu

và biến đổi khí hậu ở Việt Nam để có cách thích ứng với biến đổi khí hậu (sống chung với bão, lũ,...). Với người dân địa phương ở một số nơi dễ tổn thương nhất thì vấn đề biến đổi khí hậu vẫn là một chuyện quá xa vời, vì vậy cần tăng cường tổ chức các buổi nói chuyện, trao đổi cho người dân để họ nhận thức được khí hậu không phải là vấn đề ‘hàn lâm’ mà thực tế nó có tác động rất lớn đến cuộc sống, là mối đe dọa trực tiếp đến sức khỏe và cuộc sống của con người. Qua những hoạt động này, nhận thức và sự hiểu biết của người dân về các vấn đề biến đổi khí hậu chắc chắn sẽ tăng lên và góp phần thay đổi hành vi của họ với môi trường như tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên nước, bảo vệ rừng ngập mặn, trồng và bảo vệ các loại rừng phòng hộ ven biển…Đây có thể coi là những bước ban đầu để chuẩn bị năng lực cho người dân ở những cộng đồng dễ bị tổn thương nhất.

Các hoạt động nhằm đào tạo và nâng cao năng lực cho các nhà ra quản lý, các nhà hoạch định chính sách và ra quyết định ở các cấp địa phương cũng cần được đẩy mạnh. Củng cố năng lực để xây dựng và thực hiện các chiến lược thích ứng cho cộng đồng thông qua phòng chống thiên tai, lồng ghép với phòng và giảm thiểu rủi ro, thiệt hại vào các kế hoạch phát triển ở địa phương.

Nhận thức của công chúng về biến đổi khí hậu được xem như một trong những chiến lược then chốt để dẫn đến chuyển biến của toàn xã hội sẵn sàng cho những hành động ứng phó. Chúng ta có thể trông đợi vào công nghệ, chính sách, nhưng điều quan trọng hơn cả là cần phải có những thay đổi trong lối sống và hành vi. Xây dựng một kênh truyền thông riêng nhằm cung cấp thông tin đầy đủ nhất về các vấn đề biến đổi khí hậu nghiêm trọng là một giải pháp đối với nước ta. Truyền thông báo chí sẽ đóng vai trò quan trọng để nâng cao nhận thức của công chúng cũng như tác động đến các nhà hoạch định chính sách. Báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình cũng cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong công tác tuyên truyền về

53

Page 54: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Các báo nên có chuyên mục về riêng về các vấn đề môi trường liên quan đến biến đổi khí hậu, trong khi truyền hình và phát thanh đã có các chuyên mục này. Các bản tin dự báo cũng cần được đưa đến công chúng một cách nhanh chóng và chính xác hơn. Ngoài ra, cũng cần xem xét việc đưa các vấn đề về biến đổi khí hậu vào các chương trình giảng dạy để học sinh nắm bắt được những kiến thức cơ bản từ đó có thái độ và hành động đúng với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Các trường học cũng có thể tổ chức các hoạt động ngoại khóa tìm hiểu về thiên nhiên như tổ chức các hình thức tham quan, cắm trại tại các khu bảo tồn, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường và đưa ra các sáng kiến về bảo vệ nguồn nước, biển, bảo vệ rừng và các hệ sinh thái ven biển, phát động các chiến dịch trồng cây, trồng rừng phòng hộ...

3.5. HỢP TÁC QUỐC TẾViệt Nam cần yêu cầu các nước phát triển hỗ trợ tài chính và chuyển giao công

nghệ mới, thân thiện với môi trường nhằm phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đồng thời sẵn sàng phối hợp với các nước phát triển trong việc xây dựng và thực hiện các dự án CDM tại Việt Nam phục vụ phát triển bền vững và giảm phát thải khí nhà kính.

Bộ Tài nguyên&Môi trường cần tăng cường hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực biến đổi khí hậu nói chung và cơ chế phát triển sạch để đạt được các thỏa thuận hợp tác. Việt Nam cũng cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác tài chính, công nghệ và xây dựng năng lực trong thời kỳ hậu Kyoto, tích cực tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị và đàm phán quốc tế về các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu.

Xây dựng các danh mục các dự án thuộc lĩnh vực biến đổi khí hậu để kêu gọi tài trợ và tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các nước công nghiệp và các nước phát triển. Hợp tác quốc tế trong đào tạo, nâng cao năng lực thông qua đầu tư trực tiếp, tư vấn và xây dựng các hệ thống cảnh báo sớm.

Ngoài việc chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi, cập nhật và xử lý kịp thời các thông tin về biến đổi khí hậu, nước biển dâng, Bộ Tài nguyên & Môi trường đồng thời cần tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế về biến đổi khí hậu để nghiên cứu xây dựng Chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng của Việt Nam.

54

Page 55: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

KẾT LUẬN

• Các nguyên nhân gây biến đổi khí hậu rất đa dạng và phức tạp, do cả tự nhiên và do con người. Nhưng rõ ràng là con người là tác động đẩy nhanh quá trình này trong vài thập kỷ qua. Theo các kịch bản biến đổi khí hậu trong Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC thông qua tháng 12/2007 tại Bali, Inđônêxia: nhiệt độ trung bình toàn cầu vào cuối thế kỷ này có thể tăng thêm 0,6oC và mực nước biển dâng từ 0,18 đến 0,38m (kịch bản thấp) và tăng thêm 4oC, mực nước biển dâng từ 0,26 đến 0,59m (kịch bản cao). Cho dù mọi nỗ lực cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính sẽ được tiến hành, nhưng việc giảm ngay lượng khí thải như dự đoán cũng chưa thể bù đắp nổi những tác động do sự biến đổi khí hậu cho đến ít nhất là năm 2040. Về lâu dài, biến đổi khí hậu là mối đe doạ hết sức to lớn đối với sự phát triển con người.

• Nhằm hạn chế tốc độ biến đổi khí hậu, cần định hướng phát triển toàn cầu theo lộ trình hướng tới một nền kinh tế xanh-sạch, ít cácbon; cắt giảm khí thải nhà kính gây nóng lên toàn cầu chủ yếu ở các lĩnh vực năng lượng, công nghiệp và giao thông; cắt giảm trợ cấp cho các nguồn năng lượng hóa thạch; tăng cường sử dụng hiệu quả năng lượng, nghiên cứu tìm ra các nguồn năng lượng mới, thân thiện với môi trường.

• Biến đổi khí hậu đã gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản và tài nguyên thiên nhiên và huỷ hoại môi trường. Một trong hệ quả rõ nhất của biến đổi khí hậu là nước biển dâng cao và đây thực sự là mối lo ngại trong tương lai đối với các vùng thấp và nằm dưới mực nước biển, các quốc đảo và quốc gia có biển, đặc biệt là các nước đang phát triển và kém phát triển. Trong thế kỷ này, hàng trăm triệu người có thể phải di dời do mực nước biển dâng cao. Thế giới sẽ phải đối mặt với nguy cơ này trên phạm vi rộng lớn hơn. Nhiều thành phố của các quốc gia ven biển đang đứng trước nguy cơ bị nước biển nhấn chìm - hậu quả trực tiếp của sự tan băng ở Bắc và Nam cực. Nhằm hạn chế những tổn thất, cần phải quy hoạch và đưa ra các giải pháp thích ứng ngay từ bây giờ. Một số nước có thể chỉ bị ảnh hưởng ít, trong khi một số nước khác có thể bị tác động nặng nề, đe doạ đến tính toàn vẹn lãnh thổ. Muốn ngăn chặn những mối đe doạ này, đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế chặt chẽ hơn bao giờ hết.

• Các nước giàu đã nhận thức được việc thích ứng là yêu cầu tất yếu. Nhiều nước đã đầu tư rất lớn vào xây dựng cơ sở hạ tầng và chiến lược đối phó trong tương lai. Các nước đang phát triển đối mặt với thách thức nghiêm trọng hơn do khó khăn về tài chính và thiếu năng lực. Các nước phát triển cần cam kết và tăng cường hỗ trợ tài chính dưới dạng các quỹ giảm nhẹ biến đổi khí hậu và chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển cũng cần nâng cao năng lực và tạo điều kiện cho những đối tượng dễ bị tổn thương thích ứng với biến đổi khí hậu thông qua đầu tư vào bảo hiểm, bảo trợ xã hội, y tế, giáo dục.

• Tác động của biến đổi khí hậu không trừ đất nước nào, dù cho nước đó không góp nhiều vào nguyên nhân gây biến đổi khí hậu. Theo đánh giá, Việt Nam

55

Page 56: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

là nước đang phát triển nằm trong nhóm nước dễ bị tổn thương trước mực nước biển dâng cao. Hậu quả của mực nước biển dâng làm hệ thống đê biển không thể chống chọi được với nước dâng do bão như thiết kế dẫn đến nguy cơ vỡ đê. Mực nước biển dâng cao làm thay đổi chế độ động lực của sóng và dòng chảy ven bờ, làm thay đổi hình thái bờ biển và sông, gây xói lở bờ và hệ thống đê biển. Mực nước biển dâng cao làm cho khả năng tiêu thoát nước ra biển sẽ giảm, kéo theo mực nước các con sông trong nội địa dâng lên, kết hợp với sự gia tăng dòng chảy lũ từ thượng nguồn sẽ đe dọa sự an toàn của hệ thống đê sông, thống đê bao và bờ bao. Tất cả nguy cơ này đe doạ đến sự tồn tại của các cộng đồng ven biển, các hệ sinh thái và các cơ sở hạ tầng có tầm quan trọng quốc gia. Bởi vậy, cần xác định và lựa chọn các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng đủ độ tin cậy và phù hợp với Việt Nam để từ đó có những biện pháp giảm thiểu và thích ứng phù hợp.

• Nhiều hoạt động kinh tế đang được phát triển ở dải ven biển Việt Nam đã mang lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế quốc dân, nhưng đồng thời cũng khiến Việt Nam đang phải đối mặt với một loạt các vấn đề môi trường biển và ven biển, một phần do hậu quả của sức ép dân số và kinh tế, khả năng quản lý và sử dụng kém hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên cộng với những ảnh hưởng do sự biến động khí hậu toàn cầu, tăng các loại thiên tai như bão, lũ, xâm nhập mặn, triều cường…Việt Nam đã sớm có sự chuẩn bị nhằm đối phó với tình hình bằng cả khoa học kỹ thuật và các biện pháp xã hội. Thách thức lớn nhất hiện nay của Việt Nam trong tình hình biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp là Việt Nam cần đưa ra các chiến lược, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với sự tiến triển nhanh chóng của biến đổi khí hậu toàn cầu, xem vấn đề biến đổi khí hậu là một nhân tố quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sớm hoàn thiện và đưa ra Chương trình mục tiêu quốc gia đối phó với biến đổi khí hậu trong năm 2008.

• Để làm giảm ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao, cần xác định rõ hai mục tiêu giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu và chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu với một trong những hậu quả quan trọng nhất đối với Việt Nam là nguy cơ nước biển dâng cao. Các giải pháp thực hiện hai mục tiêu này có thể rất đa dạng, như tăng cường các hoạt động nghiên cứu gồm đo đạc, đánh giá hiện tượng biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao, từ đó đưa ra các chính sách và kế hoạch hành động, tổ chức và thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu sự biến đổi khí hậu và các tác động bất lợi đến con người và môi trường, xác định và tổ chức các hành động thích ứng để đối phó với biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao. Trong các giải pháp chiến lược này, tăng cường khoa học công nghệ và nâng cao nhận thức cho cộng đồng cần được chú trọng.

Nhóm biên soạn: Ths. Nguyễn Thị Ngọc HoànNguyễn Phương DungNguyễn Minh Phượng

56

Page 57: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

Các tài liệu tham khảo chính

1. Alex de Sherbinin, Andrew Schiller, Alex Pulsipher, Climate change and the risks of settlement in the low elevation coastal zone, Magazine of the International Human Dimensions Programme on Global Environmental Change, October 2007, Issue 2.

2. Coleen Vogel, Three Cities and Their Vulnerabilities to Climate Hazards, Magazine of the International Human Dimensions Programme on Global Environmental Change, Issue 2, October 2007 ·

3. Vũ Thanh Ca, Nguyễn Xuân Hiển, Nguyễn Xuân Đạo, Nguyễn Hoàng Anh, Nguyễn Tân Được, Nguyễn Thanh Tâm, Các kết quả đánh giá về khả năng xảy ra sóng thần trên các vùng bờ biển ở Việt Nam, Hội thảo “Xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ sóng thần cho các vùng bờ biển Việt Nam”, Hà Nội, tháng 8/2007

4. Nguyễn Quang Cầu, Sự truyền triều và xâm nhập mặn Đồng bằng sông Cửu Long và xu thế xâm nhập sâu của chúng, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tập san năm 2005, http://www.hcmussh.edu.vn/USSH/Magazine

5. National Climate Change Programme, People’s Republic of China, 2007. http://www.ccchina.gov.cn/WebSite/CCChina/UpFile/File188.pdf.

6. National Adaptation Programme of Action (NAPA), Government of the People’s Republic of Bangladesh, November 2005, http://unfccc.int/resource/docs/napa/ban01.pdf

7. Y. D. Chen, Q. Zhang, T. Yang, C. Xu, X. Chen, and T. Jiang, Behaviors of extreme water level in the Pearl River Delta and possible impacts from human activities , Hydrology and Earth System Sciences Discussions, Shanghai, 5 December 2007.

8. Fan Daidu, Li Congxian, Complexities of China’s Coast in Response to Climate Change, Advances in Climate Change Research, Article ID: 1673-1719 (2006)

9. Md. Golam Mahabub Sarwar, Impacts of Sea Level Rise on the Coastal Zone of Bangladesh, Lund University International Masters, Programme in Environmental Science, Nov. 2005

10. GS.TS Phan Nguyên Hồng, Ảnh hưởng của nước biển dâng đến hệ sinh thái rừng ngập mặn và khả năng ứng phó, Tạp chí Biển, tháng 7+8/2007.

11. PGS.TS Lê Bắc Huỳnh, Cục Quản lý tài nguyên Nước, Thực trạng suy giảm nguồn nước ở hạ lưu các lưu vực sông và những vấn đề đặt ra đối với quản lý, Tạp chí Khí tượng thủy văn, 5/2007

12. IPCC, Climate Change 2007: Synthesis Report, 2007, www.ipcc.ch/pdf/assessment-report/ar4/syr/ar4_syr_spm.pdf

13. Gs.TSKH Nguyễn Đức Ngữ, Quá trình biến đổi khí hậu, Tạp chí Khí tượng thuỷ văn, tháng 11/2007

14. John Pilgrin, Tác động của mực nước biển dâng đến các sinh cảnh quan trọng ở Việt Nam, Báo cáo tham luận Ngày đa dạng sinh học quốc tế tại Việt Nam, Hà Nội, 5/2007

57

Page 58: Chưa bao giờ vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) lại … dong cua BDKH... · Web viewN2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được

15. John Church, Sea-level rise and global climate change, World Climate Research Programm, 02/2008

16. Ths. Nguyễn Thị Phương, Phân viện Khí tượng Thủy văn &Môi trường phía Nam, Một số nét về mặn vùng hạ lưu sông Sài Gòn-Đồng Nai, Tạp chí Khí tượng thuỷ văn, 12/2006

17. Robert J. Nicholls, OECD Workshop on the Benefits of Climate Policy: Improving Information for Policy Makers Case study on sea-level rise impacts, Dec.2003

18. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Đinh Văn Huy, Bùi Văn Vượng, Các thuỷ vực ven bờ biển Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, tháng 7/2007, No.1, trang 64.

19. Shouye Yang, Congxian Li, Daidu Fan, Shuguang Liu, Guozhong, Wang, Dejie Wang, Baohua Li. Impacts of climate changes on Chinese coastal zones and the adaptation strategy. In abstract of “Climate Change: Building the Adaptive Capacity: an international conference on adaptation science, management and policy options”. Yunnan Province, China, May 17-19, 2004. p33

20. Zhu Jianrong, Wu Hui, Shen Huantitng, Impact of the three gorges dam and project pumping water from the changjiang river into north china on the saltwater intrusion in the changjiang estuary, State Key Laboratory of Estuarine and Coastal Research, East China Normal, University, Shanghai 200062

21. Susmita Dasgupta, The Impact of Sea Level Rise on Developing Countries: A Comparative Analysis, World Bank, 2007

22. Wen Ping, Yao Zhangmin, Yang Xiaoling, An Effect Analysic of the Pearl River Emergency Water Transfer Project for Repelling Saltwater Intrusion and Supplementing Freshwater, 2005 www.zwsw.gov.cn/

23. Báo cáo Phát triển Con người 2007-2008: Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu: Đoàn kết nhân loại trong một thế giới phân cách, UNDP 2007

24. Biến đổi khí hậu - những hiểm hoạ đang đe doạ Việt Nam, Lao động 30/12/2007.25. Đê biển xuống cấp nghiêm trọng, Thanhnien online, 25/3/2008.26. Kỷ yếu Hội thảo Hướng tới Chương trình Hành động của Ngành Nông nghiệp và Phát

triển Nông thôn nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, Hà Nội, 1/2008. 27. Nghị định thư Kyoto: Cơ chế phát triển sạch và vận hội mới, Văn phòng dự án Hợp

tác tổ chức và đối thoại quốc gia, Liên minh châu Âu-châu Á về sự tăng cường tham gia của Việt Nam, Lào và Campuchia vào Cơ chế Phát triển sạch, 4/2005.

28. Nỗi lo hạn hán và xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long, Cục Quản lý Tài nguyên nước, 25/3/2008.

29. Tài liệu Hội nghị về Biến đổi khí hậu toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam, 2/2008.

30.Thông tin về thiên tai ở Việt Nam, Cục quản lý đê điều và phòng chống lụt bão trung ương, www.ccfsc.org.vn

58