chiếc tủ lưu trữ vật liệu nguy hiểm chống chịu lửa đến 90 ... · chỉ có...

32
Hướng dẫn thực hành phòng thử nghiệm bền vững cho nhà quản lý Độ dài của telomere tiên đoán nguy cơ ung thư Chiếc tủ lưu trữ vật liệu nguy hiểm chống chịu lửa đến 90 phút SỐ 27 - THÁNG 05/2017

Upload: phungtu

Post on 26-Feb-2019

216 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

SỐ 14 - THÁNG 03/2016

Maket mới

Hướng dẫn thực hành phòng thử nghiệm bền vững cho nhà quản lý

Độ dài của telomere tiên đoán nguy cơ ung thư

Chiếc tủ lưu trữ vật liệu nguy hiểm chống chịu lửa đến 90 phút

SỐ 27 - THÁNG 05/2017

Trong tay Bạn là Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 27. Để phục vụ Hội viên và Bạn đọc được tốt hơn, Bản tin rất mong muốn Hội viên và Bạn đọc cho ý kiến và gửi tin, bài về hoạt động thử nghiệm.Mọi ý tưởng, ý kiến đóng góp và sự hỗ trợ của Tổ chức, Doanh nghiệp và Cá nhân đều được trân trọng ghi nhận và nghiên cứu áp dụng để nội dung, hình thức của Bản tin được liên tục cải tiến.Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự quan tâm, tin tưởng của quý vị. Rất mong Bản tin này sẽ trở thành người bạn thân thiết, có ý nghĩa đối với Hội viên và Bạn đọc.

Bản tin Thử nghiệm ngày nay

3(3) Thư mời tham dự Triển lãm ProPak Asia 2017(4) Chiếc tủ lưu trữ vật liệu nguy hiểm chống chịu lửa đến 90 phút(7) Trung Quốc xây phòng thí nghiệm an toàn sinh học cấp độ 4 đầu tiên ở lục địa

10(10) Kính áp tròng cảm ứng sinh học có thể đo lượng đường trong máu và các chỉ số khác trong tương lai (12) Một tương lai không dụng cụ?(16) Độ dài của telomere tiên đoán nguy cơ ung thư(18) Nhựa tương hợp sinh học giảm rủi ro trong thiết bị phòng thử nghiệm và ứng dụng y tế

21(21) PHR: Chất lượng sản phẩm tạo nên giá trị thương hiệu

23(23) Hướng dẫn thực hành phòng thử nghiệm bền vững cho nhà quản lý(27) Bà Patricia Granados nói về khắc phục sự cố sắc ký khí

(Trang 31+32): Chương trình Thử nghiệm thành thạo - VinaLAB PT - Tổng hợp (Tháng 5)

3

Thư mời tham dự Triển lãm

ProPak Asia 2017

4

Chiếc tủ lưu trữ vật liệu nguy hiểm chống chịu lửa đến 90 phút

Chiếc tủ an toàn được Công ty Asecos của Đức giới thiệu tại Triển lãm Analytica Vietnam 2017 - Ảnh: Thu Anh

Chiếc tủ có kết cấu giống như một chiếc bánh kẹp, bên ngoài được làm bằng kim loại nhưng ở giữa có một lớp canxi sunfat và bên trong được làm từ gỗ giúp thuận lợi lắp đặt được những chiếc giá đựng di động. Đặc biệt, chiếc tủ này có thời gian chống chịu lửa lên tới 90 phút.

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY5

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Trong khuôn khổ triển lãm Analytica Vietnam 2017 diễn ra từ ngày 29 – 31/03

tại Hà Nội, Công ty Asecos của Đức mang tới thị trường Việt Nam chiếc tủ lưu trữ các vật liệu nguy hiểm chống chịu lửa với mong muốn kêu gọi và tìm được những công ty có thể phân phối và đại lý chính thức tại Việt Nam.

Ông Sascha Kunkel - Phó Trưởng phòng Phát triển Kinh doanh Quốc tế toàn cầu của Công ty Asecos cho biết: “Trước khi chiếc tủ an toàn này ra đời (năm 1994), ở Đức chỉ có những tủ có thời gian chống chịu lửa tầm 20 phút. Sau một thời gian nghiên cứu, Công ty Asecos đã phát minh, phát triển ra chiếc tủ an toàn được sử dụng trong việc lưu trữ các vật liệu, hóa chất nguy hiểm có thời gian chống chịu lửa lên tới 90 phút”.

Theo ông Sascha Kunkel phân tích, chiếc tủ có kết cấu giống như một chiếc bánh kẹp, bên ngoài được làm bằng kim loại có khả năng chống chịu lửa cao nhưng ở giữa lại có một

lớp canxi sunfat và bên trong được làm từ gỗ giúp có thể lắp đặt được những chiếc giá đựng di động.

Đại diện của Công ty Asecos cũng cho biết những giá đựng bên trong tủ có thể được thiết kế theo ý muốn người dùng. Những ngăn kéo đựng vật dụng, hóa chất hoàn toàn có thể được kéo ra, đẩy vào, thuận lợi cho nhu cầu sử dụng của từng đối tượng khách hàng. Tuy nhiên, có những chiếc tủ mà hệ thống ngăn kéo cần được thiết kế cố định, hay khách hàng có yêu cầu đựng những chiếc lọ to hơn thì công ty hoàn toàn có thể nâng chiều cao, giảm số lượng giá đựng của hệ thống kệ bên trong tủ.

Ông Sascha Kunkel chia sẻ: “Hiện nay, đa phần Việt Nam vẫn đang sử dụng chiếc tủ chưa có khả năng chống cháy. Tuy nhiên, với trình độ dân trí của người dân ngày một nâng cao thì cũng có những đối tượng khách hàng muốn sử dụng loại tủ lưu trữ hóa chất an toàn hơn, có khả năng chống cháy cao và giảm

Ông Sascha Kunkel - Đại diện của Công ty Asecos có mặt tại triển lãm để giới thiệu sản phẩm tới khách tham quan

6

được những rủi ro không đáng có trong phòng thí nghiệm. Vì vậy, công ty muốn phát triển thị trường ở Việt Nam và hiện nay đang là thời điểm thích hợp để chiếc tủ này của Đức thâm nhập vào Việt Nam”.

Được biết, Công ty Asecos đã sản xuất được hơn 250.000 chiếc tủ và theo ông Sascha Kunkel, bất cứ nơi đâu có nhu cầu cần bảo quản chất dễ gây cháy thì đều có mong muốn bảo quản các chất đó một cách

an toàn. Các trung tâm, các viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm trong hệ thống trường học, nhà máy, xí nghiệp… là nơi có nhu cầu bảo quản chất dễ gây chất nhất, thì đó là nơi chiếc tủ này phát huy tác dụng rõ nhất.

Giá bán của chiếc tủ này hoàn toàn phụ thuộc vào các mẫu, cách bố trí kệ đựng bên trong hoặc mức độ chống cháy… Tuy nhiên, mỗi chiếc tủ sẽ có giá giao động từ 1.000 – 4.000 USD.

Theo www.motthegioi.vn

Analytica Vietnam là triển lãm duy nhất tại Việt Nam bao gồm tất cả các phân khúc của ngành phân tích, công nghệ sinh học và công nghệ thí nghiệm, thu hút hơn 120 đơn vị trưng bày đến từ 17 quốc gia và vùng lãnh thổ như Đức, Pháp, Anh, Mỹ, Nga…

Tại đây, các đơn vị đã trưng bày, giới thiệu các công nghệ, thiết bị và giải pháp mới nhất trong các lĩnh vực công nghệ phân tích (thiết bị phân tích công cụ, xử lý hình ảnh quang học, kính hiển vi…), đo lường và kiểm tra, quản lý chất lượng, công nghệ phòng thí nghiệm (máy móc trong phòng thí nghiệm, hóa chất…), khoa học sự sống và công nghệ sinh học.

Analytica Vietnam 2017 do Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia phối hợp với IMAG (Cộng hòa Liên bang Đức) và Hội VinaLAB tổ chức ở Trung tâm Triển lãm quốc tế Hà Nội (ICE) từ ngày 29 – 31.3.2017.

7

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Trung Quốc xây phòng thí nghiệm

an toàn sinh học cấp độ 4 đầu tiên ở lục địa

Một phòng thí

nghiệm tại Vũ Hán sắp được cấp phép hoạt động

trong lĩnh vực nghiên cứu các mầm bệnh nguy hiểm nhất trên thế giới. Đây là một phần của kế

hoạch xây từ năm đến bảy phòng thí nghiệm an toàn sinh học cấp độ 4 (BSL-4) ở Trung

Quốc lục địa đến năm 2025.

8

Những bộ quần áo phòng độc ở Phòng thí nghiệm An toàn sinh học Quốc gia

ở Vũ Hán, phòng thí nghiệm BSL-4 đầu tiên ở Trung Quốc lục địa

9

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Phòng thí nghiệm này được Tổ chức Công nhận Quốc gia Trung Quốc (CNAS) chứng

nhận đáp ứng các tiêu chuẩn và tiêu chí của BSL-4 cách đây hơn một tháng. Đại diện của CNAS cho biết, tổ chức này đã kiểm tra cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và quy trình quản lý của phòng thí nghiệm, chuẩn bị cho việc cấp phép hoạt động của Bộ Y tế. Còn theo đại diện của Bộ Y tế, nếu việc đánh giá diễn ra thuận lợi thì phòng thí nghiệm sẽ được cấp phép vào cuối tháng sáu.

Các cấp độ an toàn sinh học được xếp loại từ 1 đến 4, trong đó BSL-4 là cấp độ cao nhất. Tiêu chí của nó bao gồm lọc không khí, xử lí nước và rác trước khi thải ra khỏi phòng thí nghiệm, và quy định các nhà nghiên cứu phải thay quần áo và tắm trước và sau khi sử dụng các thiết bị của phòng thí nghiệm. Những phòng thí nghiệm như vậy thường gây tranh cãi. Phòng thí nghiệm BSL-4 đầu tiên ở Nhật Bản được xây vào năm 1981, nhưng chỉ nghiên cứu các mầm bệnh có nguy cơ thấp hơn (khả năng nghiên cứu cho phép) cho mãi đến năm 2015, khi những lo ngại về an toàn cuối cùng đã được giải tỏa.

Việc mở rộng mạng lưới phòng thí nghiệm BSL-4 ở Mỹ và châu Âu suốt 15 năm qua – mỗi khu vực hiện có hơn 10 phòng thí nghiệm đang hoạt động hoặc được xây dựng– cũng vấp phải sự phản đối, trong đó có mối nghi ngờ liệu có cần phải xây nhiều phòng thí nghiệm cấp độ an toàn sinh học cao như vậy không.“Virus không biết đến biên giới”

Phòng thí nghiệm Vũ Hán trị giá 300 triệu nhân dân tệ (44 triệu USD), và để làm dịu đi những lo ngại về vấn đề an toàn, nó được xây cách xa vùng đồng bằng ngập lũ và có khả năng chống chịu những trận động đất 7 độ richter, mặc dù trong quá khứ, vùng này chưa từng xảy ra động đất mạnh. Nó sẽ tập trung vào kiểm soát các bệnh mới xuất hiện, lưu trữ virus tinh chế và hoạt động trong mạng lưới phòng thí nghiệm tham chiếu của WHO.

Dự án đầu tiên của phòng thí nghiệm Vũ Hán là nghiên cứu các mầm bệnh an toàn sinh học cấp độ 3 gây ra bệnh sốt xuất huyết Crimean-Congo, ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi trên toàn thế giới và có thể truyền sang người.

Trong tương lai, phòng thí nghiệm sẽ nghiên cứu mầm bệnh gây ra dịch SARS - loại mầm bệnh không cần đến phòng thí BSL- 4, trước khi chuyển sang nghiên cứu virus Ebola và virus Lassa Tây Phi, là những loại mầm bệnh cần đến phòng thí nghiệm BSL-4. Khoảng một triệu người Trung Quốc đang làm việc ở châu Phi nên nước này cần phải sẵn sàng cho bất kỳ tình huống nào, Giám đốc Phòng thí nghiệm Vũ Hán Yuan Zhiming nói. “Virus không biết đến biên giới”.

“Xung quanh phòng thí nghiệm ở Vũ Hán đã xuất hiện những lo lắng. Virus SARS đã nhiều lần thoát ra khỏi những cơ sở nghiên cứu nghiêm ngặt ở Bắc Kinh”, Richard Ebright, Nhà Sinh học Phân tử tại Đại học Rutgers, Piscataway, New Jersey, Mỹ, nói.

Trung Quốc đã có hai phòng thí nghiệm BSL-4, nhưng đều ở Đài Loan. Còn ở lục địa, sau phòng thí nghiệm ở Vũ Hán, phòng thí nghiệm BSL-4 ở Cáp Nhĩ Tân cũng đang chờ được cấp phép, trong khi hai phòng thí nghiệm khác ở Bắc Kinh và Côn Minh đã được lên kế hoạch.

Theo Nature

10

Các cảm biến sinh học trong suốt gắn vào kính áp tròng trong tương lai có thể cho phép các bác sĩ và bệnh nhân theo dõi mức đường huyết và một số dấu hiệu khác của bệnh mà không cần xét nghiệm xâm lấn. Các nhà khoa học cho biết, thấu kính cảm ứng sinh học, dựa trên công nghệ giúp điện thoại thông minh phát triển với màn hình sinh động hơn, cũng có thể được sử dụng để theo dõi việc sử dụng ma túy hoặc phục vụ như một hệ thống phát hiện sớm bệnh ung thư và các vấn đề y tế nghiêm trọng khác.

Các cảm biến sinh học trong suốt trong kính áp tròng – được thể hiện trong minh họa này - có thể giúp theo dõi sức khoẻ của chúng ta trong tương lai. (Nguồn: Jack Forkey/Đại học bang Oregon)

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY11

Các nhà nghiên cứu sẽ trình bày công trình của họ tại Hội nghị và Triển lãm Quốc gia lần

thứ 253 của Hiệp hội Hoá học Hoa Kỳ (ACS), hiệp hội khoa học lớn nhất thế giới, có hơn 14.000 bài thuyết trình về nhiều chủ đề khoa học.

Tiến sĩ Gregory S. Herman nói: "Những thiết bị cảm biến sinh học này có lẽ sẽ không khiến các phòng thử nghiệm máu thất nghiệp". Nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể thực hiện nhiều chẩn đoán bằng cách sử dụng thông số dữ liệu chiết xuất từ nước mắt".

Herman lần đầu tiên xây dựng cách sử dụng cảm biến sinh học trong khi làm việc trong ngành. Ở đó, ông và 02 đồng nghiệp đã phát minh ra một hợp chất có chứa indium glallium kẽm oxit (IGZO). Thiết bị điện tử bán dẫn này cung cấp cho người tiêu dùng độ phân giải cao hơn trên ti vi, điện thoại thông minh và máy tính bảng trong khi rất tiết kiệm điện năng và cải thiện độ nhạy của màn hình cảm ứng.

Sau khi chuyển đến Đại Học bang Oregon năm 2009, Herman bắt đầu nghiên cứu các ứng dụng y sinh học của công nghệ này. Cụ thể, ông muốn tìm cách để giúp những người mắc bệnh tiểu đường theo dõi liên tục mức đường huyết của họ hiệu quả hơn bằng cách sử dụng kính áp tròng cảm ứng sinh học.

Việc liên tục theo dõi đường huyết - thay vì phương pháp lấy máu đầu ngón tay - giúp làm giảm nguy cơ mắc các vấn đề về sức khoẻ liên quan đến bệnh tiểu đường, Herman nói. Nhưng hầu hết các hệ thống theo dõi đường huyết liên tục đòi hỏi phải chèn điện cực vào các vị trí dưới da. Việc này có thể gây đau, và các điện cực có thể gây kích ứng da hoặc nhiễm trùng.

Herman nói rằng kính áp tròng cảm ứng sinh học có thể loại bỏ các vấn đề này và cải thiện sự tuân thủ do người sử dụng có thể dễ dàng thay đổi chúng hàng ngày. Và không giống như điện cực dưới da, kính áp tròng vô hình nên có thể giúp người sử dụng cảm thấy ít vướng bận hơn khi dùng chúng.

Để kiểm tra ý tưởng này, Herman và các cộng sự đầu tiên đã phát triển một phương

pháp không tốn kém để tạo ra thiết bị điện tử IGZO. Sau đó, họ sử dụng cách tiếp cận để chế tạo một bộ cảm biến sinh học chứa một tấm trong suốt có các bóng bán dẫn hiệu ứng trường IGZO và glucose oxidase, một enzyme phá vỡ đường glucose. Khi cho thêm glucose vào hỗn hợp, enzyme sẽ oxy hóa đường trong máu. Kết quả là độ pH trong hỗn hợp thay đổi, từ đó kích hoạt thay đổi trong dòng điện chảy qua bóng bán dẫn IGZO.

Trong các cảm biến sinh học thông thường, những thay đổi điện từ này sẽ được sử dụng để đo nồng độ glucose trong dịch dưới da của bệnh nhân. Nhưng nồng độ glucose trong mắt thấp hơn nhiều. Vì vậy, bất kỳ bộ cảm biến sinh học nào nhúng vào kính áp tròng sẽ cần nhạy hơn nhiều. Để giải quyết vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã tạo ra cấu trúc nano trong bộ cảm biến sinh học IGZO, chúng có khả năng phát hiện nồng độ glucose thấp hơn nhiều so với nồng độ trong nước mắt.

Theo lý thuyết, Herman cho biết có hơn 2.500 bộ cảm biến sinh học – mỗi bộ đo một chỉ số chức năng cơ thể khác - có thể được nhúng vào một mảnh vá hình vuông 1mm của kính áp tròng IGZO. Khi chúng được hoàn thiện, Herman cho biết, bộ cảm biến sinh học có thể truyền tải thông tin sức khoẻ quan trọng tới điện thoại thông minh và các thiết bị kết nối Wi-Fi hoặc Bluetooth khác.

Nhóm nghiên cứu của Herman đã sử dụng hệ thống IGZO trong ống thông để đo nồng độ acid uric, một chỉ số chính cho chức năng thận, và đang khám phá khả năng sử dụng nó để phát hiện sớm bệnh ung thư và các tình trạng sức khỏe nghiêm trọng khác. Tuy nhiên, Herman nói rằng có thể mất một năm hoặc hơn thế, trước khi một mẫu kính áp tròng cảm biến sinh học sẵn sàng để thử nghiệm trên động vật.

Theo www.laboratoryequipment.com

12

Một tương lai không dụng cụ?

Sự dễ dàng khám phá, và số lượng tuyệt đối của

kiến thức về trình tự DNA hiện có đang đem lại lợi ích cho khoa học đời sống hiện đại bằng cách cung cấp thông tin mới về tính chất di truyền. Khi chúng ta khám phá những khía cạnh di truyền mới về sức

khoẻ con người và những mối đe doạ của nó, chính thuyết trung tâm của sinh học phân tử vẫn còn tồn tại: tất cả các sinh vật và virut là kết quả của mã di truyền của chúng. Và may mắn thay cho nhân loại, khoa học đã có thể đọc và sử dụng mã di truyền này khá tốt.

Các axit nucleic, cả DNA và RNA, thường được phân tích, sắp xếp và vận dụng, và với khả năng biết được sự sắp xếp chính xác của các hạt nhân của chúng, bất cứ mẫu vật nào đều mang một định danh di truyền duy nhất. Các công cụ sinh học phân

Nathan Tanner

Chẩn đoán phân tử đòi hỏi phải có thiết bị và nguồn điện chuyên dụng - đây có thể là một rào cản tiếp

cận đối với những tổ chức không có đủ nguồn lực. Nhưng liệu chúng ta có thể phân tích trực quan các xét nghiệm chẩn đoán nếu không có thiết bị đo hay không?

Chỉ với một nguồn nhiệt chi phí thấp và mắt thường, phương pháp đo màu LAMP có nhiều ứng dụng tiềm năng lớn, bao gồm việc phát hiện dễ dàng và nhanh chóng các bệnh truyền nhiễm như bệnh mù lòa đường sông

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY13

tử hiện đại, cụ thể là kỹ thuật chiết xuất và khuếch đại axit nucleic, cho phép các nhà khoa học phân tích một mẫu để tìm kiếm sự có mặt hoặc vắng mặt của bất kỳ trình tự di truyền nào. Các phương pháp tìm kiếm một trình tự cụ thể cho mục đích khám sức khoẻ hoặc phát hiện bệnh sẽ thuộc danh mục "chẩn đoán phân tử". Ứng dụng của những phương pháp này rất rộng, từ một nhà khoa học trong phòng thí nghiệm phân tích mức biểu hiện của gene, cho đến một cơ sở xét nghiệm máu theo dõi sự an toàn của việc cung cấp máu. Những phát triển gần đây đang giảm đi các rào cản đối với xét nghiệm axit nucleic, tăng tính đơn giản của các xét nghiệm phù hợp với khả năng tiếp cận thông tin trình tự.

Xu hướng này bắt đầu vào những năm 1980, khi phản ứng chuỗi polymerase (PCR) kết hợp hai sự phát triển chính: khả năng tạo ra các đoạn DNA ngắn, cụ thể (oligonucleotides) và sử dụng các đoạn này làm "mồi" để định hướng hoạt động của DNA polymerase có thể tồn tại ở nhiệt độ cao được sử dụng để làm tan DNA kép. Việc làm tan chảy, mồi và mở rộng dẫn đến sự tăng lên theo cấp số nhân của số lượng các đoạn DNA cụ thể trong một phản ứng, và sản phẩm đó có thể được sử dụng để nhân bản phân tử hoặc được phân tích theo vô số cách khi có quy

mô đầy đủ. PCR đã phát triển mạnh kể từ khi được giới thiệu, và nó vẫn là phương pháp chẩn đoán chính cho các thử nghiệm khuếch đại axit nucleic (NAAT). PCR được sử dụng cho lắp ráp gene, định lượng với dấu hiệu thời gian thực (qPCR), và quay vòng nhanh để xét nghiệm chẩn đoán. Tuy nhiên, tất cả các phương pháp PCR vẫn cần một dụng cụ có khả năng làm nóng và làm lạnh nhanh chóng từ 95°C đến khoảng 60°C, cùng với một số phương pháp để phân tích sản phẩm: hoặc là phát hiện trong quá trình khuếch đại bằng định lượng huỳnh quang thời gian thực, hoặc phân tích sau phản ứng sử dụng thao tác như điện di gel.

Sự tập trung quan trọng của phát triển chẩn đoán đã củng cố việc sử dụng thử nghiệm "điểm chăm sóc" hoặc "điểm cần thiết", để có xét nghiệm chẩn đoán thực tế tại địa điểm lấy mẫu hoặc nơi bệnh nhân được điều trị. Loại thử nghiệm theo yêu cầu này sẽ giải quyết một số rào cản lớn nhất đối với việc sử dụng rộng rãi các xét nghiệm chẩn đoán và các phương pháp điều trị tiếp theo. Nói cách khác, có thể rất khó để đảm bảo lưu lượng thông tin theo hai hướng đi kèm với thí nghiệm. Ví dụ: hãy tưởng tượng rằng một bệnh nhân ở Ghana được xét nghiệm onchocerciasis (bệnh mù lòa đường sông). Có thể lấy mẫu

bệnh phẩm lấy từ bệnh nhân nhưng phải vận chuyển nó quay về phòng thí nghiệm, xét nghiệm ký sinh trùng và quan trọng là kết quả phải được thông báo lại cho bệnh nhân và xác định phương pháp điều trị, trong trường hợp này là dùng ivermectin. Xét nghiệm bổ sung đối với sự hiện diện của ký sinh trùng thứ hai – “Loa loa” có thể được yêu cầu. Điều này đòi hỏi làm rõ và duy trì thông tin về mẫu, vận chuyển và xử lý mẫu thực tế, và khả năng xác định vị trí bệnh nhân khi có kết quả. Tất cả những vấn đề tiềm ẩn này có thể được loại bỏ nếu xét nghiệm được thực hiện tại chỗ và việc điều trị và theo dõi được xác định ngay lập tức.

Các bác sĩ, nông dân và các nhà sản xuất thực phẩm đều được hưởng lợi từ khả năng thực hiện các xét nghiệm nhanh chóng, đơn giản tại địa điểm lấy mẫu. Tuy nhiên, các yêu cầu điển hình của một khảo nghiệm PCR đòi hỏi thiết bị và cơ sở hạ tầng rất khó để người sử dụng mang theo. Việc sử dụng các kỹ thuật khuếch đại đẳng nhiệt hoặc nhiệt độ đơn có thể giúp vượt qua những yêu cầu này. Tính năng chủ chốt của tất cả các phương pháp đẳng nhiệt là sự dịch chuyển theo dải, hoặc khả năng của một số polymerase DNA để tổng hợp DNA mà không có bước biến tính. Điều này cho phép phản ứng đẳng nhiệt

14

được thực hiện ở một nhiệt độ và tỷ lệ phản ứng chỉ được giới hạn bởi enzyme và số lượng bản sao của mục tiêu chứ không phải là bằng đúng nhiệt độ quay vòng, cho phép phản ứng xảy ra rất nhanh.

Một kỹ thuật đẳng nhiệt phổ biến, Loop Mediated Isothermal Amplification (LAMP), đã được phát triển bằng cách sử dụng một trong những polymerase chuyển vị đầu tiên, một đoạn lớn DNA Polymerase I của Bacillus stearothermophilus và chất mồi đặc biệt tạo thành các cấu trúc "vòng lặp" tạo điều kiện tổng hợp nhanh và

rộng. Số lượng lớn DNA được tạo ra trong phản ứng LAMP dẫn tới sự phát hiện nhanh chóng của sản phẩm khi kết hợp với các chỉ thị huỳnh quang, và các báo cáo sớm thậm chí đã xác nhận dấu hiệu trực quan của sự khuếch đại bằng cách sử dụng các chỉ số gắn kết kim loại như calcein và hydroxynaphthol xanh. LAMP đã trở thành một phương pháp chẩn đoán phân tử được sử dụng rộng rãi, với các xét nghiệm đã được

FDA thông qua trên nền tảng illumigene của Meridian (cùng với xét nghiệm phản ứng khuếch đại cắt enzyme từ Alere, xét nghiệm khuếch đại phụ thuộc enzyme helicase từ Quidel và xét nghiệm khuếch đại phiên mã của Hologic như chẩn đoán đẳng nhiệt). Độ rộng của xét nghiệm LAMP rất đáng kinh ngạc, với 2000 nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau, từ bệnh truyền nhiễm, an toàn thực phẩm, và chẩn đoán lâm sàng, đến thử nghiệm nông nghiệp và nhân giống vật nuôi. Nhiều báo cáo trong số đó sẽ sử

dụng hoặc chỉ ra một dấu hiệu trực quan của sự khuếch đại: độ đục do lượng magie pyrophosphate, hoặc chỉ thị kim loại.

Là nhà cung cấp thuốc thử, New England Biolabs (NEB) đã phát triển và nghiên cứu các enzyme cho các ứng dụng sinh học phân tử và rất quan tâm đến polymerase cho khuếch đại đẳng nhiệt và cung cấp thuốc thử cho nhiều nhà nghiên cứu phát triển các xét nghiệm này. Phản hồi từ khách

hàng chỉ ra rằng các thông số đo như độ đục/kết tủa trực quan hoặc thuốc nhuộm liên kết kim loại trên thực tế hoạt động không đủ tốt. NEB đã có những nỗ lực nghiên cứu đáng kể dành cho LAMP và sự phát triển polymerase đẳng nhiệt. Dữ liệu thu được là một phần của những nỗ lực này đã chỉ ra rằng: trong khi độ đục thời gian thực hoặc chiếu tia UV của calcein hoạt động tốt, sử dụng chúng làm chỉ thị trực quan không đủ rõ ràng hoặc dễ sử dụng đối với ứng dụng điểm chăm sóc sức khỏe và thử nghiệm tại hiện

trường. Một điều kiện thực nghiệm khiến NEB tò mò, đó là polymerase và phản ứng của nó sẽ hoạt động như thế nào khi được thử nghiệm trong môi trường đệm rất thấp. Chất đệm (ví dụ như Tris, Phosphate, HEPES, v.v) được sử dụng hiệu quả trong mọi phản ứng sinh học phân tử. Tuy nhiên, một khía cạnh đặc thù của hoạt động DNA polymerase khiến cho thí nghiệm này đặc biệt thú vị: với sự kết hợp của

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY15

deoxynucleoside triphosphate vào dòng DNA mới đang phát triển, polymerase cũng tạo ra một nhóm pyrophosphate và một proton. Pyrophosphate có thể được kết hợp với cơ chế phát hiện, nhưng proton thường bị bỏ qua do phản ứng được đệm đầy đủ bởi dung dịch phản ứng. Điều gì sẽ xảy ra trong một phản ứng LAMP nếu không có bất kỳ chất đệm nào?

LAMP có thể tạo ra một lượng DNA khổng lồ (lên đến 50 lần so với phản ứng PCR), vì vậy, rất nhiều dNTP được tiêu thụ và theo đó, một số lượng lớn các proton được giải phóng trong quá trình phản ứng LAMP. Vì vậy, chúng tôi chuẩn bị phản ứng LAMP với tất cả thành phần trong một xét nghiệm tiêu chuẩn, nhưng không có chất đệm Tris, điều chỉnh độ pH đến khoảng 8.8 và ủ trong một giờ. Sau phản ứng, độ pH được đo lại, và nó đã giảm mạnh bớt 2.5 đơn vị. Sự thay đổi độ pH này dễ dàng đo được bằng giấy quỳ hoặc các chỉ thị khác, và chỉ đơn giản bằng cách cho thuốc nhuộm có độ nhạy pH có thể nhìn thấy được vào hỗn hợp, chúng ta có thể tạo ra dấu hiệu trực quan rõ ràng của sự khuếch đại trong vòng 30 phút hoặc ít hơn. Nguyên lý này đã được phát triển thành một công thức ổn định sử dụng chất chuyển tiếp từ màu hồng sang màu vàng (WarmStart Colorimetric LAMP 2X Master

Mix (DNA & RNA) của NEB, NEB # M1800), được thương mại hóa và cung cấp cho một loạt các nhà phát triển xét nghiệm chẩn đoán để cho phép thực hiện các xét nghiệm thân thiện hơn với hiện trường, điểm chăm sóc sức khỏe.

Quay trở lại ví dụ về bệnh mù lòa đường sông, một nhóm nghiên cứu ký sinh trùng NEB đã chứng minh việc sử dụng phương pháp đo màu LAMP trực tiếp với xét nghiệm da để phát hiện onchocerciasis một cách dễ dàng và nhanh chóng. Các xét nghiệm như thế này mở rộng phạm vi của phòng thí nghiệm chẩn đoán đến thực địa, với xét nghiệm đơn giản và nhanh hơn, cho phép kiểm tra và điều trị tại chỗ tốt hơn.

Hệ thống đo màu LAMP cung cấp dấu hiệu một cách nhanh chóng, rõ ràng về sự khuếch đại axit nucleic từ nhiều mẫu sinh học, với sự khuếch đại dương tính có thể nhận ra bằng mắt thường trong 30 phút hoặc ít hơn (phản ứng âm tính được chỉ thị bởi màu hồng, và phản ứng dương tính được chỉ thị bởi sự thay đổi sang màu vàng).

Nhiều phương pháp khác cũng đang mở rộng đến hiện trường, với các dụng cụ cầm tay và/hoặc chạy bằng pin, dùng cho khuếch đại đẳng nhiệt của Qiagen, Douglas Scientific, và Optigene; Giải pháp không dùng điện năng như lò nhiệt NINA của PATH; và các dụng cụ PCR đơn

giản của Amplyus (miniPCR), Tetracore, Ubiquitome và các dụng cụ khác. Những dụng cụ này mang lại một bước tiến lớn hướng tới việc dân chủ hoá các chẩn đoán và giúp tiếp cận các công cụ sinh học phân tử tốn kém và chuyên môn cao.

Sự sẵn có của thông tin về trình tự và thuốc thử, kết hợp với chi phí phải chăng của tổng hợp oligonucleotide, đang tiếp sức mạnh cho nghiên cứu và thử nghiệm khoa học đời sống trên toàn thế giới. Những nỗ lực như hướng tiếp cận đo màu sắc của NEB với phương pháp LAMP và những hướng khác có thể thậm chí loại bỏ nhu cầu về dụng cụ, chỉ cần nước ấm và mắt thường là có được một xét nghiệm chẩn đoán mạnh. Các phương pháp chiết xuất DNA và RNA tiếp tục cải thiện tính hiệu quả và đơn giản để cho phép dễ dàng sử dụng máu hoặc các mẫu sinh học khác. Do độ chống chịu và hiệu suất của các xét nghiệm như đo màu sắc LAMP tăng lên, người sử dụng sẽ có thể trực tiếp thử nghiệm một mẫu bệnh phẩm, thực vật hoặc động vật, hoặc côn trùng trong phản ứng. Cách tiếp cận theo hướng thực sự không cần dụng cụ sẽ có tác động sâu rộng đến những gì mà khoa học có thể thực hiện, mở rộng tầm nhìn và sức mạnh của thời đại gene để phục vụ cho sức khoẻ con người trên toàn thế giới.

Theo www.labnews.co.uk

16

Độ dài của telomere

tiên đoán nguy cơ ung thư

Các nhà khoa học thuộc Viện Ung thư, Đại học Pittsburgh (UPCI) trong hội nghị thường niên AACR ở Washington, D.C đã báo cáo rằng độ dài các "đầu mút" telomere của DNA bảo vệ các mấu nhiễm sắc thể có thể dự đoán nguy cơ ung thư và là một mục tiêu tiềm năng cho các biện pháp trị liệu trong tương lai.

Theo các nhà khoa học từ Pitt và Singapore, các telomeres dài hơn mong đợi – cấu tạo

gồm các chuỗi DNA lặp đi lặp lại và được rút gọn mỗi khi tế bào phân chia - có liên quan đến nguy cơ ung thư gia tăng.

Tiến sĩ Y khoa Jian-Min Yuan, Chủ tịch danh dự Arnold Palmer, Viện Phòng ngừa ung thư tại UPCI, và là nhà nghiên cứu chính của hai nghiên cứu được trình bày tại AACR, cho biết: "Telomeres và ung thư rõ ràng có một mối quan hệ phức tạp. Hy vọng của chúng tôi là thông qua việc hiểu rõ mối quan hệ này, chúng ta có thể dự đoán được người nào có nguy cơ phát triển loại ung thư nhất định để họ có thể thực hiện các biện pháp phòng ngừa và có thể kiểm tra thường xuyên hơn, cũng như phát triển các liệu pháp để giúp DNA giữ Telomeres của nó với một chiều dài khỏe mạnh".

Yuan và các cộng sự của ông đã phân tích các mẫu máu và dữ liệu về sức khoẻ của hơn 28.000 người Trung Quốc tham gia Nghiên cứu Sức khoẻ Trung Quốc của Singapore, tiếp nối

các kết quả sức khoẻ của những người tham gia từ năm 1993. Tính đến cuối năm 2015, 4.060 người tham gia đã mắc bệnh ung thư.

Những người tham gia được chia thành 5 nhóm, dựa trên mức độ telomere dài hơn so với dự kiến. Nhóm có telomeres dài nhất có nguy cơ mắc ung thư cao hơn 33% so với nhóm có telomeres ngắn nhất, sau khi tính đến tác động của tuổi tác, giới tính, giáo dục và thói quen hút thuốc. Nhóm này cũng có nguy cơ mắc ung thư phổi cao hơn 66%, nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn 39%, nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt cao hơn 55% và nguy cơ ung thư đại trực tràng cao hơn 37%. Trong số tất cả các bệnh ung thư, tuyến tụy có sự gia tăng lớn nhất về tần số liên quan đến telomeres dài hơn, với những người tham gia thuộc nhóm có telomere dài nhất có nguy cơ mắc ung thư tuyến tụy cao gấp 2,6 lần so với những người thuộc nhóm có telomere ngắn nhất. Chỉ có nguy cơ ung thư gan giảm xuống đối với trường hợp telomeres dài hơn.

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY17

Đối với ba loại ung thư, rủi ro với cả hai nhóm telomeres cực ngắn và cực dài đều là lớn nhất. Điều này tạo ra đường cong rủi ro hình chữ U. Những người tham gia thuộc nhóm có telomere ngắn nhất có nguy cơ ung thư dạ dày cao hơn 63%, nguy cơ mắc ung thư bàng quang cao hơn 72% và nguy cơ mắc bệnh bạch cầu cao hơn 115% so với nhóm ở giữa đường cong. Nhóm có telomeres dài nhất có nguy cơ ung thư dạ dày cao hơn 55%, nguy cơ ung thư bàng quang cao hơn 117% và nguy cơ mắc ung thư máu cao hơn 68%.

Yuan cũng là giáo sư về dịch tễ học tại Trường Y tế Công cộng Pitt cho biết: "Chúng tôi đã có ý tưởng cho nghiên cứu này cách đây

hơn bảy năm, nhưng phải mất ba tháng để hoàn thành việc định lượng chiều dài telomere cho 100 mẫu, không đủ để đưa ra kết luận có ý nghĩa. Chỉ chưa đầy một thập kỷ sau, chúng tôi đã có thể chạy được gần 30.000 mẫu trong một năm và rút ra những hiểu biết sâu sắc thực sự như thế này, cho thấy công nghệ đã phát triển đến mức nào. Thậm chí công nghệ còn phức tạp hơn sẽ liên kết chiều dài telomere với phân tích gene toàn bộ. Chúng ta đang ở trên đỉnh của sự hiểu biết thực sự vượt trội về những hiện tượng sinh học phức tạp dẫn tới ung thư ".

Theo www.biosciencetechnology.com

18

Nhựa tương thích sinh học giảm rủi ro trong

thiết bị phòng thử nghiệm và ứng dụng y tế

Nhựa tương thích sinh học là một loại vật liệu phù hợp và đáng tin cậy hơn cho bao bì y tế và thiết bị phòng thử nghiệm. Ảnh: TRINSEO

19BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY

Từ bao bì y tế bằng nhựa nhiệt dẻo cho đến ống nghiệm PTN thuận tiện và dùng một

lần, những đổi mới trong kỹ thuật vật liệu đã cho phép các chuyên gia y tế và phòng thử nghiệm cung cấp sự chăm sóc hàng đầu cho những người có nhu cầu. Tuy nhiên, trong các môi trường liên quan đến chăm sóc sức khoẻ tập trung chủ yếu vào sự an toàn và đảm bảo của các ứng dụng y tế, vẫn còn những câu hỏi về chất liệu nào có thể đảm bảo tốt nhất hoạt động của các sản phẩm dùng cho y tế và PTN.

Do trọng lượng nhẹ, trong suốt và chi phí hợp lý, nhựa từ lâu đã là sự lựa chọn hàng đầu cho bao bì y tế và thiết bị PTN.

Chúng là giải pháp đảm bảo bền và vô trùng để bảo vệ thuốc, mẫu PTN và các chất khác, trong khi cung cấp một lựa chọn thay thế an toàn hơn so với thủy tinh. Polystyrene (PS) nổi lên là một lựa chọn ưa thích cho các ứng dụng đơn lẻ, đòi hỏi phải có cách tiếp cận kinh tế, nơi không có tác động lớn, ví dụ thiết bị lưu trữ mẫu như đĩa petri và ống nghiệm, cũng như bọc bảo vệ hoặc bao gói cho thuốc. Độ trong và độ cứng tuyệt vời của PS có thể giữ cấu trúc cần thiết trong khi vẫn cho phép người xử lý theo dõi và đánh giá tình trạng của thứ chứa bên trong bao bì hoặc dụng cụ và bảo vệ nó khỏi sự ô nhiễm tiềm ẩn.

Cho đến gần đây, với sự lựa chọn giới hạn về vật liệu cho các ứng dụng y tế, các nhà sản xuất và các nhà chế tạo đã lựa chọn PS cấp độ thực phẩm cho bao bì y tế và các ứng dụng thiết bị phòng thí nghiệm của họ, tin rằng việc tuân thủ an toàn thực phẩm sẽ mang lại

mức an toàn và đảm bảo cần thiết cho các vật liệu y tế. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều nhà sản xuất khám phá ra nhu cầu về một loại vật liệu không chỉ được kiểm tra theo tiêu chuẩn sinh học tương thích ISO 10993, mà còn cung cấp một mức độ kiểm soát cao đối với nguyên liệu, cũng như thông báo sự thay đổi, đảm bảo tốt hơn tính toàn vẹn của ứng dụng.Cấp độ thực phẩm so với cấp độ y tế

Người chuyển đổi thường đánh giá mức độ rủi ro của sản phẩm và quyết định sử dụng cấp độ thực phẩm hay y tế trong các quy trình sản xuất của họ. Mặc dù các vật liệu có chung một số phương pháp sản xuất giống nhau, nhưng chúng khác nhau về các quy trình kiểm tra và các tiêu chuẩn tuân thủ, cũng như trong các gói dịch vụ.

Việc sàng lọc nguyên liệu nhựa ban đầu để tuân thủ các quy định về thực phẩm có thể được thực hiện bằng cách kiểm tra theo danh sách của EU 10/2011 (và các bản FDA CFR tương tự). Đối với các lần ra mắt sản phẩm nhắm tới thị trường y tế, các PTN bên ngoài được tiếp cận để tiến hành thử nghiệm tính tương thích sinh học theo tiêu chuẩn ISO 10993. Chứng nhận cấp độ thực phẩm cho khoản mục cuối cùng đòi hỏi phải kiểm tra và đánh giá sự di chuyển các thành phần nhựa vào thực phẩm được đóng gói bằng cách sử dụng các chất mô phỏng thức ăn như ethanol pha loãng, dầu thực vật và nước có tính axit. Quy định xác định mức độ di chuyển có thể chấp nhận được và nếu vượt qua khoản mục cuối cùng, nó có thể được tuyên bố là tuân thủ tiếp xúc thực phẩm.

Bao bì y tế và thiết bị phòng thí nghiệm (PTN) đóng một vai trò quan trọng trong sức khỏe của bệnh nhân. Khi việc nghiên cứu và điều trị bệnh tiến bộ, các phương pháp cũng phải được sử dụng để quản lý các giao thức khác nhau và các thiết bị hỗ trợ.

20

Mặt khác, khi kiểm tra tính tương thích sinh học, các loại nhựa cấp độ y tế phải chịu một chế độ thử nghiệm khác dựa trên bản chất sự tiếp xúc của con người. Một số xét nghiệm được thực hiện từ tiếp xúc với da cho đến tiếp xúc với chất lỏng - từ máu cho đến nuôi cấy tế bào mô và thậm chí cả việc cấy vĩnh viễn. Mục đích là để xác định xem vật liệu có thể chống chịu được các kịch bản phơi nhiễm cụ thể thành công hay không, có tính đến thời gian tiếp xúc của thiết bị với cơ thể người.

Các thử nghiệm về tính tuân thủ, cho dù là thực phẩm hay y tế, được thực hiện với các tình huống áp dụng cụ thể: Luật về bao bì thực phẩm tập trung xoay quanh thực phẩm đóng gói (tiếp xúc với bao bì vào trong cơ thể chỉ qua đường miệng) trong khi các tiếp xúc y tế đa dạng từ tiếp xúc với da, qua lưu thông máu đến cấy vĩnh viễn.Thông báo thay đổi

Mọi thay đổi đối với thành phần của vật liệu có thể làm mất hiệu lực các kết quả kiểm tra hiện có. Do đó, các nhà sản xuất thiết bị gốc (OEMs) phải sử dụng đúng loại nhựa mà được coi là tương thích sinh học trong một ứng dụng được kiểm tra và chứng nhận. Thay đổi vật liệu tương thích sinh học đã được chấp thuận với loại không gây nguy hiểm cho tính toàn vẹn, chức năng và tính an toàn của ứng dụng cuối cùng.

Để cung cấp một sản phẩm nhất quán, các nhà cung cấp đưa ra công thức khóa, trong đó các thành phần của vật liệu nhựa được đảm bảo là không thay đổi. Tuy nhiên, đôi khi có những trường hợp không lường trước được đòi hỏi sự thay đổi trong việc tạo nên những chất dẻo này.

Trong những trường hợp này, nhà cung cấp phải thông báo trước cho nhà sản xuất (Thông báo thay đổi - NOC), rằng thành phần của chất dẻo sẽ chỉ được thay đổi sau giai đoạn chuyển tiếp được xác định trước đó để các nhà sản xuất thiết bị gốc có thể tiến hành các kiểm tra và tài liệu cần thiết và điều chỉnh sản phẩm của họ theo đó.

Đối với chất dẻo tiếp xúc với thực phẩm,

NOC tiêu chuẩn là 3 - 6 tháng, trong khi các tiêu chuẩn vật liệu tương thích sinh học dao động từ 1 - 3 năm. Bởi vì để cập nhật tài liệu cho một sản phẩm được chứng nhận y khoa thường mất vài năm, so với tài liệu sản phẩm tiếp xúc thực phẩm chỉ mất vài tuần, sự khác biệt về thời gian thông báo này có thể tạo ra sự khác biệt rất quan trọng đối với các nhà sản xuất và người chế tạo cần sự chuyển đổi liền mạch khi sử dụng vật liệu mới trong sản xuất.Sự tuân thủ và độ an toàn

Sản xuất với nhựa sinh học tương thích cấp độ y tế cải thiện khả năng rằng ứng dụng cuối cùng sẽ thực sự tương thích sinh học. Do nguyên liệu dùng để tạo ra bao bì y tế và thiết bị kiểm tra tạo nền tảng cho kết quả hoạt động của ứng dụng cuối cùng, bắt đầu với một vật liệu tương thích sinh học có thể cải thiện cơ hội sản xuất thiết bị y tế hoặc vật phẩm được coi là tuân thủ.

Nhờ có nhiều kiểm tra liên quan và kéo dài thời gian thông báo thay đổi, nhựa tương thích sinh học cung cấp loại vật liệu phù hợp và đáng tin cậy cho bao bì y tế và thiết bị phòng thí nghiệm hơn các loại nhựa cấp độ tiếp xúc thực phẩm. Khi sử dụng vật liệu được chứng nhận y khoa này, các nhà sản xuất có thể tự tin hơn về công năng của các vật liệu của họ, và sau đó là ứng dụng của chúng, cung cấp giải pháp rủi ro thấp phù hợp hơn với nhu cầu an toàn của ngành.

Theo www.laboratoryequipment.com

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY21

PHR: Chất lượng sản phẩmtạo nên giá trị thương hiệu

Công ty Cổ phần Cao su Phước Hòa (PHR) tiền thân là đồn điền cao su Phước Hòa được thành lập sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Năm 2008, công ty thực hiện cổ phần hóa, hoạt động trong lĩnh vực trồng, khai thác, chế biến mủ cao su và chế biến gỗ cao su. Bằng việc không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, sau 42 năm xây dựng và phát triển, thương hiệu cao su PHR đã được khẳng định trên thị trường trong nước và quốc tế.

Sau giải phóng miền Nam năm 1975, với việc tiếp quản gần 700ha vườn cây cao

su đã khai thác còn lại của Đồn điền cao su Phước Hòa (Plantation de Phước Hòa) đang trong tình trạng bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cây cao su già cỗi, năng suất thấp, cơ sở vật chất máy móc trang thiết bị lạc hậu,... Khó khăn chồng chất khó khăn, nhưng sau chặng đường 42 năm xây dựng và phát triển, PHR đã bứt phá vươn lên trở thành 1 trong 5 đơn vị quản lý diện tích và sản lượng cao su lớn nhất ngành.

Vị thế và uy tín của Công ty ngày càng được khẳng định nhờ sự quan tâm chỉ đạo, định hướng đúng đắn trong việc chủ động chuyển đổi cơ cấu phát triển, đẩy mạnh đầu tư đa dạng hóa ngành nghề, đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa sở hữu của Ban lãnh đạo công ty. Qua đó, thị phần và tốc độ tăng trưởng của công ty đã được duy trì và không ngừng tăng trưởng.

Từ 700 ha vườn cao su, đến nay, PHR đã quản lý gần 16.000 ha cao su tại 6 nông trường thuộc 16 xã của các huyện Phú Giáo, Bàu Bàng, Bắc Tân Uyên và 2 thị xã Tân Uyên, Bến Cát, tỉnh Bình Dương.Không ngừng mở rộng diện tích trồng cao su, công ty đã đầu tư phát triển các dự án: CTCS Phước Hòa – Kampong Thom để trồng hơn 8.600 ha cây cao su tại Campuchia (đến

nay đã có gần 1.000 ha được đưa vào khai thác); Dự án CTCS Phước Hòa – DakLak (tỉnh Đắk Lắk) với qui mô 7.000 ha cây cao su…

Cùng với đầu tư mở rộng diện tích cây cao su, PHR còn chú trọng phát triển những ngành nghề mà công ty có thế mạnh: Thành lập Công ty chế biến gỗ Trường Phát; thành lập Khu công nghiệp Tân Bình; xây dựng 3 nhà máy chế biến mủ cao su, công suất 30.000 tấn năm…

Quy mô sản xuất của PHR ngày càng mở rộng đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hơn 4 nghìn lao động tại các địa phương, với thu nhập bình quân đạt 6,392 triệu đồng/lao động/tháng.

PHR xác định việc tuân thủ chặt các quy trình sản xuất sẽ mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Chính vì thế, hàng năm tại PHR có hàng trăm ha cao su được đưa vào diện buộc phải thanh lý để tái canh nhằm thay đổi giống, bảo đảm mật độ và ổn định năng suất cho vườn cây mới. Đồng thời, định kỳ hàng năm thực hiện kiểm tra kỹ thuật khai thác cũng như quy trình làm việc của công nhân các nông trường.

Đi đôi với việc ứng dụng tốt các kỹ thuật nông nghiệp, PHR còn mạnh dạn đầu tư công nghệ, xây dựng hệ thống nhà máy chế biến mủ tại chỗ để nâng cao chất lượng sản phẩm.

22

Công ty đã xây dựng được một Phòng Quản lý chất lượng phù hợp theo TCVN ISO/IEC 17025:2005, được Văn phòng Công nhận Chất lượng (BoA) đánh giá và cấp chứng chỉ công nhận mã số: VILAS 062 với danh mục 16 phép thử theo các TCVN tương ứng.

Nhờ áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 tại tất cả các khâu sản xuất, nhiều năm qua, các sản phẩm của PHR như: mủ SVRCV 50, SVRCV 60, SVR L, SVR 3L… luôn được khách hàng trong và ngoài nước tín nhiệm, đặc biệt là khách hàng thuộc thị trường các nước châu Âu và Nhật Bản.

PHR còn là đơn vị đầu tiên thuộc Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam đạt chứng nhận ISO 50001 Hệ thống quản lý năng lượng. Điều này không chỉ giúp công ty chủ động trong việc tiết giảm chi phí năng lượng, giảm phát thải ô nhiễm, bảo vệ môi trường mà còn cải tiến hiệu suất năng lượng, góp phần tăng cường hiệu quả năng lượng, đồng thời giúp sử dụng năng lượng một cách hiệu quả.

Để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo việc tuân thủ nghiêm các yêu cầu theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương ứng của Việt Nam và quốc tế, PHR còn tích cực tham gia các chương trình thử nghiệm thành thạo do VinaLAB tổ chức, phối hợp tổ chức. Đồng thời, khuyến khích nhân viên tham gia các hội thi sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ kiến thức và áp dụng khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất do Công ty, Tập đoàn Cao su Việt Nam, tỉnh Bình Dương phát động.

Qua các cuộc phát động, đã có nhiều đề tài được áp dụng vào thực tiễn sản xuất của PHR, gần đây nhất là các đề tài: “Xây dựng quy trình ủ bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải thành phân bón hữu cơ vi sinh nhằm giảm chi phí xử lý chất thải, giảm thiểu các tác động đến môi trường và tạo nguồn phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp”; “Nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất SVR CV, tiết kiệm chi phí sản xuất thông qua nghiên cứu rút ngắn thời gian test nhanh độ nhớt mooney nguyên

liệu mủ nước”; “Lắp đặt pin năng lượng mặt trời để cung cấp điện cho các đội sản xuất phục vụ sản xuất sạch hơn” của các nhân viên Phòng Quản lý chất lượng, Phòng Kỹ thuật… Đây là các đề tài đạt giải tại Hội thi sáng tạo kỹ thuật tỉnh Bình Dương lần VI năm 2015.

Thực hiện kế hoạch đảm bảo nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất, Công ty cũng thường xuyên kiểm tra kỹ thuật cao, theo dõi chỉ đạo tận thu sản lượng mủ từng vườn cây; kiểm tra công tác bảo vệ thực vật và phòng trị bệnh trên vườn cây; tổ chức tốt việc sử dụng thuốc kích thích cho các vườn cây phù hợp.

Ghi nhận sự cố gắng không ngừng nghỉ của tập thể lãnh đạo, công nhân viên, PHR đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương Lao động hạng I,II,III (Năm 1998, 1994, 1986); Huân chương Độc lập hạng II (năm 2005); Danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới (năm 2006); 8 lần nhận Cờ thi đua của Chính phủ; Giải vàng và giải bạc Chất lượng quốc gia; được Bộ Công Thương Việt Nam bình chọn "Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín" liên tiếp qua các năm; Cúp vàng ISO – Chìa khóa hội nhập, do Bộ Khoa học Công nghệ trao tặng… cùng nhiều danh hiệu cao quý của các Bộ, ngành và tỉnh Bình Dương.

VinaLAB

Năm 2016, diện tích vườn cây khai thác của PHR đạt 60,3% vườn cây nhóm III và khai thác tận thu trên 20 năm với năng suất bình quân đạt trên 2 tấn/ha, đạt 16.407 tấn mủ qui khô và vượt 0,65% kế hoạch; với giá bán bình quân 30,84 triệu đồng/tấn PHR đã tiêu thụ được 30.874 tấn thành phẩm các loại.

Từ kết quả sản xuất kinh doanh đó, năm 2017 PHR phấn đấu đạt sản lượng cao su sản xuất 14.000 tấn; thu mua 12.000 tấn và tiêu thụ 29.500 tấn; giá bán bình quân 35,69 triệu đồng/tấn.

23

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

Hướng dẫn thực hành phòng thử nghiệm bền vững cho nhà quản lý

Có nhiều cơ hội khác nhau và phong phú để bảo vệ môi trường trong phòng thử

nghiệm (PTN) khoa học, nhưng các nhà khoa học thường tập trung vào những dạng chất thải PTN dễ thấy nhất như nhựa, và bỏ qua nhân tố lớn nhất góp phần vào phát thải khí nhà kính: điện. PTN tiêu thụ năng lượng nhiều gấp 3-5 lần trên một feet vuông so với văn phòng thông thường do hoạt động suốt ngày đêm của các thiết bị sử dụng nhiều năng lượng, 100% yêu cầu về không khí bên ngoài, và tỷ lệ lưu lượng không khí cao.

Một báo cáo năm 2015 của My Green Lab và Trung tâm PTN Năng lượng Hiệu quả (CEEL) cho thấy rằng rất nhiều trong số các loại thiết bị PTN được sử dụng phổ biến đã tiêu thụ 8-32

TWh hàng năm ở Hoa Kỳ. Con số này tương đương với mức tiêu thụ năng lượng của hơn bốn triệu ngôi nhà. Bài viết này sẽ khám phá một số cách trực quan, cũng như một số cách ít rõ ràng hơn, để giảm sử dụng năng lượng trong PTN.Thách thức tủ đông

Một tủ cấp đông ở nhiệt độ cực thấp (ULT, -80°C) tiêu tốn nhiều năng lượng tương đương một hộ gia đình trung bình. Báo cáo CEEL 2015 ước tính Hoa Kỳ có ít nhất 580.000 tủ đông ULT, tiêu thụ 4 tỷ kWh/năm. Ước tính còn có khoảng 750.000 tủ đông - 20°C và 960.000 tủ lạnh PTN ở Hoa Kỳ, tiêu thụ gần như cùng một lượng năng lượng. May mắn thay, để giảm đáng kể mức tiêu thụ điện năng của các đơn vị này thì rất dễ dàng.

Các nhà khoa học thường bỏ qua một vài cách trực quan nhưng ít hiển nhiên hơn để giảm năng lượng sử dụng trong phòng thử nghiệm.

24

Làm tan đá tủ đông không chỉ tối ưu hóa hiệu năng, mà trong nhiều trường hợp còn làm giảm ít nhất 10% tiêu thụ năng lượng. Dành thời gian để kiểm kê các mẫu có thể giảm số lượng mẫu lưu trữ lâu dài, do đó giảm yêu cầu làm lạnh tổng thể. Một ưu điểm dễ dàng khác là tăng điểm đặt nhiệt độ tủ đông ULT lên - 70°C từ -80°C. Sự thay đổi nhỏ này đã làm giảm mức tiêu thụ năng lượng của tủ đông ULT trung bình 37%, trong khi đồng thời kéo dài tuổi thọ của tủ bằng cách giảm sự quá tải của bộ nén.

Những phương pháp này và các thực hành hay nhất để quản lý kho lạnh được tóm tắt trong cuộc thi “Thử thách Tủ đông Phòng thử nghiệm Bắc Mỹ” được mở vào mùa thu năm 2016 bởi My Green Lab và Học viện Quốc tế về Phòng thử nghiệm Bền vững. Các PTN tham gia vào thử thách trước đó đã không chỉ ghi nhận mức tiết kiệm năng lượng tăng lên 3.600 kWh/năm, mà còn thấy rằng những thực hành tốt nhất này dẫn đến cách quản lý mẫu an toàn hơn và hiệu quả hơn.ENERGY STAR®

Gần 10 năm trước, nhận thấy việc các thiết bị tiêu tốn điện năng được sử dụng rộng rãi trong PTN, đặc biệt là một lượng lớn các đơn vị kho lạnh tiêu thụ 10–30 kWh/ngày, một nhóm tiên phong đã phối hợp với Cơ quan Bảo vệ Môi trường và ENERGY STAR để thiết lập tiêu chuẩn cho kho lạnh PTN. Quá trình này gắn với nhiều bên liên quan, gồm các nhà sản xuất, chủ tòa nhà và quản lý tòa nhà, các nhà khoa học và những tổ chức phi lợi nhuận ủng hộ tiết kiệm năng lượng. Họ đã cùng nhau làm việc trong 1 thập kỉ để xây dựng các thông số kĩ thuật cho thiêt bị làm lạnh trong PTN, bao gồm tủ đông ULT, tủ đông -20°C, và tủ lạnh.

Mặc dù nhãn ENERGY STAR có thể không được sử dụng rộng rãi như tạp chí khoa học, các nhà khoa học nên sử dụng các thông số kĩ thuật liên quan để hỗ trợ trong quá trình mua thiết bị cho kho lạnh tiết kiệm điện năng. Trong một số trường hợp, những sản phẩm này còn có thể được giảm giá.

Bộ hẹn giờMặc dù các thiết bị làm lạnh tiêu thụ một

lượng điện năng cao áp đảo trong PTN, các nhóm thiết bị khác như bể điều nhiệt, bể ủ nhiệt, máy ly tâm có kiểm soát nhiệt độ, máy laser, lò nướng, và thậm chí máy tính, tiêu thụ nhiều điện năng hơn nhiều so với những gì các nhà khoa học nhận ra. Do mỗi nhóm có các sản phẩm đa dạng và lĩnh vực còn mới, việc thu thập dữ liệu tiêu thụ cuối cùng rất khó khăn.

Cách đơn giản nhất để vận hành thiết bị có yếu tố làm nóng hoặc làm lạnh một cách bền vững là tắt nó đi khi không sử dụng. Tuy nhiên, sự gấp rút của các thí nghiệm khiến việc này trở nên khó khăn, do thiết bị cần một khoảng thời gian chuẩn bị báo trước để sử dụng. Hãy dùng bộ hẹn giờ. Bộ hẹn giờ đã được sử dụng trong PTN trên khắp nước Mỹ để tắt các thiết bị, thường là vào buổi tối, và có lẽ quan trọng hơn là để bật chúng vào buổi sáng. Với một bộ hẹn giờ được thiết lập đúng, bể điều nhiệt và bể ủ nhiệt sẽ luôn ở nhiệt độ chính xác khi nhân viên đầu tiên bước vào PTN. Do thiết bị không chạy suốt đêm, PTN sẽ giảm lượng điện năng sử dụng và giảm nguy cơ cháy nổ. Một khoản đầu tư 10 USD vào bộ hẹn giờ có thể tiết kiệm cho một PTN hơn 100 USD 1 năm về chi phí điện, và giảm lượng phát thải các-bon hơn 2.5 tấn trên vòng đời của hầu hết thiết bị.Cửa tủ hút khí khép kínTrong các PTN hóa học và sinh học có tủ hút khí độc hóa học. Một tủ hút khí hóa học mỗi ngày có thể tiêu thụ năng lượng nhiều bằng 3.5 hộ gia đình do lượng không khí lớn cần di chuyển qua tủ hút để tới hệ thống thông khí. Các hệ thống thông khí và hút khí có thể được chia thành hai loại: Lượng khí liên tục (CAV) và Lượng khí biến thiên (VAV). Như tên gọi, trong một tủ hút CAV, lượng không khí chảy qua buồng hút là không đổi, trong khi đó tủ hút VAV có thể điều chỉnh lượng không khí chảy qua. Vì mức tiêu thụ năng lượng của tủ hút tương xứng với lượng không khí chảy qua chúng, giảm thể tích luồng không khí trong tủ

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY25

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

hút VAV sẽ giúp tiết kiệm điện năng.Lượng luồng không khí trong tủ hút khí

được điều chỉnh bằng cách điều chỉnh chiều cao của cánh cửa di động, hoạt động như rào chắn giữa bên trong tủ hút và phần còn lại của phòng thí nghiệm. Cửa phải được nâng lên khi đang làm việc trong khoang và trong hầu hết các trường hợp, cửa phải được hạ xuống khi hoàn tất công việc để đảm bảo sự an toàn cho nhân viên PTN. Trong tủ hút VAV, hạ thấp cánh cửa cũng làm giảm tốc độ quạt xả và lượng không khí được xả bởi hệ thống thông gió VAV, giảm cường độ năng lượng lên đến hơn 40%.Hóa học xanh

Ở bề nổi, thực hành hóa học xanh – thiết kế các quy trình hoá học và sản phẩm làm giảm việc tạo ra chất thải nguy hại – dường như không liên quan gì đến tiêu thụ năng lượng. Tuy nhiên, cả hai lĩnh vực đều thực sự có gắn kết với nhau.

12 Nguyên tắc của Hóa học Xanh bao gồm các hướng dẫn cụ thể để tuân thủ khi chọn hóa chất. Những nguyên tắc này được áp dụng trên các lĩnh vực, liên quan đến các nhà sinh vật học, các nhà vật lý thực nghiệm và các nhà hóa học. Ví dụ, các nguyên tắc khuyên sử dụng vi hóa học, và lựa chọn các chất thay thế lành tính bất cứ khi nào có thể. Những phương pháp tiếp cận hợp lý để giảm thiểu chất thải nguy hại này cũng làm giảm sự phơi nhiễm không cần thiết của nhân viên đối với các vật liệu nguy hiểm. Đại học MIT đã tạo lập Hướng dẫn mua hóa chất xanh thay thế, có thể được sử dụng để lựa chọn các chất thay thế lành tính, và trang web của MilliporeSigma (trước đây là EMD Millipore và Sigma-Aldrich) liệt kê trên 700 loại chất xanh thay thế cho các hóa chất và thuốc thử thông thường.

Như đã đề cập ở trên, các PTN có yêu cầu rất khắt khe về thông gió. Một trong những lý do chính mà các PTN tiêu tốn nhiều năng lượng hơn các không gian văn phòng đó là chúng được thông gió thường xuyên hơn bằng cách sử dụng 100% không khí bên ngoài. Các yêu cầu về thông gió này thường được gọi là "tỷ lệ

trao đổi không khí" hoặc "tỉ lệ không khí thay đổi trên giờ". Các không gian PTN tiêu chuẩn với tỷ lệ trao đổi không khí là 10-12 trên giờ là rất bình thường để giảm nguy cơ nhân viên bị phơi nhiễm với các hóa chất độc hại. Một phong trào gần đây, được tiên phong bởi Đại học California, Chương trình Smart Labs của Irvine (UCI), đã kêu gọi các cơ sở xem xét lại tỷ lệ trao đổi không khí trong các PTN của họ. Bằng cách tích cực lấy mẫu không khí trong PTN của mình, UCI có thể sắp xếp số lần không khí trao đổi với nguy cơ tiếp xúc phơi nhiễm với hóa chất. Điều này đã làm giảm mức tiêu thụ năng lượng tới 50% trong một số trường hợp, dẫn đến hàng triệu đô la được tiết kiệm hàng năm. Điều này có liên hệ gì với hóa học xanh? Các PTN thực hành Nguyên tắc Hóa học Xanh ít tiếp xúc với các vật liệu nguy hại hơn, và do đó, cần ít sự trao đổi không khí mỗi giờ hơn.

Công trình được thực hiện tại UCI đã tạo cảm hứng cho Bộ Năng lượng để khởi động Chương trình Tăng tốc cho Phòng thí nghiệm Thông minh vào năm 2017. Chương trình này thách thức các tổ chức giảm mức tiêu thụ năng lượng trong PTN xuống 20% trong 10 năm tới. Bằng cách thực hiện những bước đơn giản nêu trên, các nhà khoa học có thể giúp tổ chức của họ đạt được mục tiêu này.Kết luận

Các PTN là đối tượng tiêu thụ năng lượng lớn nhất và chuyên sâu nhất trong các trường đại học, chiếm tới 60% tổng lượng sử dụng năng lượng, mặc dù chiếm ít hơn 30% tổng không gian. Các tổ chức phi học thuật cũng nhận thấy rằng các PTN tiêu thụ một lượng năng lượng không cân xứng tương tự. May mắn thay, các nhà khoa học có thể kiểm soát khá nhiều lượng năng lượng họ sử dụng. Bằng cách áp dụng các thực hành hay nhất để quản lý kho lạnh, mua các thiết bị đạt tiêu chuẩn ENERGY STAR bất cứ khi nào có thể, tắt thiết bị vào ban đêm, và đóng cửa tủ hút khói, các nhà khoa học có thể giảm mức tiêu thụ năng lượng trong PTN lên tới trên 10 TWh/năm trên toàn nước Mỹ.

26

Năng lượng Tiêu thụ Ước tính hàng năm trên toàn nước Mỹ(Báo cáo CEEL 2015)

Thiết bị Năng lượng Tiêu thụ Ước tính hàng năm trên toàn nước Mỹ (GWh)

Tủ đông -20°C 2,045

Tủ đông -80°C 3,315

Nồi hấp 2,785

Máy ly tâm 1,163

Kính hiển vi huỳnh quang 55

Tủ hút khí độc 8,250

Bể ủ nhiệt 120

Lồng ấp 2,645

Máy PCR 320

Tủ lạnh 1,160

Máy rung 480

Khoang nuôi cấy mô 1,390

Bơm chân không 471

Bể điều nhiệt 1,350

Hơn nữa, bằng cách làm việc với quản lý cơ sở và lựa chọn các chất thay thế lành tính hơn các chất độc hại đã biết, các nhà khoa học có thể tác động đến sự thay đổi đáng kể về tiêu thụ năng lượng tổng thể trong các tòa nhà của họ.

Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên thông qua giảm năng lượng tiêu thụ không chỉ có lợi cho môi trường, mà trong một số chương trình thí

điểm còn có lợi cho các nhà khoa học. Hai trường đại học nổi tiếng ở Mỹ đã bắt đầu các chương trình thí điểm, trong đó giảm chi phí cho các PTN nếu họ giảm năng lượng tiêu thụ. Thật là một cách tuyệt vời để các nhà khoa học hướng tới giảm thiểu thay đổi khí hậu, đồng thời tăng nguồn tài chính cho việc nghiên cứu của họ.

Theo www.labmanager.com

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY27

Bà Patricia Granados nói về khắc phục sự cố sắc ký khí

Bà Patricia Granados là kỹ thuật viên thiết bị nghiên cứu tại Trung tâm Phân tích và Xử lý Môi trường (CEAR) tại Đại học Saint Mary ở Halifax, Nova Scotia, Canada, nơi bà nhận bằng Thạc sỹ Khoa học Ứng dụng trong Hóa học Phân tích. Bà Granados nhận bằng xuất sắc Cử nhân Khoa học về Hóa học của Đại học Nacional de Colombia và Chứng chỉ Tiếp thị từ Đại học Los Andes ở Bogotá.

28

Tại CEAR, bà cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho sinh viên và giảng viên trong các lĩnh vực sắc ký và quang phổ, tiến hành phân tích mẫu, phát triển phương pháp phân tích, và đào tạo sinh viên sử dụng các kỹ thuật sử dụng thiết bị.Câu hỏi: Phòng thí nghiệm của bà thực hiện chức năng gì?Đáp: Trung tâm Phân tích và Xử lý Môi trường (CEAR) là một phòng thí nghiệm thiết bị, là một cơ sở tập trung được sử dụng cho giảng dạy và nghiên cứu. Chúng tôi cung cấp dịch vụ cho Khoa Khoa học tại Saint Mary, mặc dù người sử dụng chính tại phòng thử nghiệm (PTN) của chúng tôi là những người trong ngành hóa học và khoa học môi trường. Cơ sở cung cấp nguồn lực để thực hiện giảng dạy hoặc bất kỳ nghiên cứu nào đòi hỏi thiết bị mà chúng tôi có. Ngoài ra, chúng tôi cung cấp dịch vụ phân tích mẫu cho các khách hàng nội bộ và bên ngoài - trọng tâm chính là các trường đại học.Câu hỏi: Trung tâm của bà có bao nhiêu nhân viên?Đáp: Tôi là nhân viên chuyên trách duy nhất của cơ sở, nhưng tùy thuộc vào loại dự án mà chúng tôi nhận được, thường là điều tra viên chính sẽ có một sinh viên chuyên trách cho dự án. Tôi sẽ làm việc với sinh viên đó trong việc đào tạo, thiết lập các điều kiện ban đầu của hoạt động, và giúp đỡ khởi động dự án, sau đó cung cấp hỗ trợ kỹ thuật. Nói chung, đối với cơ sở, có những thời điểm trong năm có mức sử dụng lao động thấp và có thời điểm có nhu cầu cao. Nếu dự đoán được rằng sẽ có nhiều nhu cầu, thì tôi có thể lựa chọn thuê sinh viên hợp tác, và những người đó được đào tạo và chuẩn bị để làm việc trong thời gian mà chúng tôi có khối lượng công việc lớn. Vì đây là một trường đại học nhỏ, sinh viên có cơ hội để có được kinh nghiệm thực hành. Sinh viên tôi thường thuê có kiến thức cơ bản về hóa học phân tích, nên họ có thể thực hành những gì đã học được trên lớp.Câu hỏi: Ngoài sắc ký khí (GC) ra, bà sử dụng những công nghệ chính nào?Đáp: Chúng tôi có sắc ký lỏng kết hợp với quang phổ khối (MS) và điện di mao mạch, cũng có thể kết hợp với quang phổ khối. Chúng tôi có phân tích nguyên tố - phân tích carbon, hydro và nitơ.Câu hỏi: Bà sử dụng GC cho công việc nào?Đáp: Có những phân tích định kỳ được thiết lập để sinh viên tìm hiểu kiến thức căn bản về tách và định lượng các hợp chất. Ví dụ, phân tích hydrocarbon đa hình được tìm thấy trong xăng. Chúng tôi quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng các kỹ thuật khác nhau cho GC-FID và GC-MS, nhưng về mặt nghiên cứu, bởi vì đây không phải là phân tích định kỳ, nó phụ thuộc vào những gì các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong những năm qua, chúng tôi đã có một loạt các dự án chủ yếu phân tích các hợp chất bay hơi và bán kết. Ví dụ, chúng tôi đã phân tích axit béo trích xuất từ các ma trận thực phẩm và các dự án liên quan đến việc xác định các hydrocarbon đa mạch trong các mẫu nước - nước thải hoặc nước uống - cũng như các dung môi hữu cơ hoặc chất dễ bay hơi trong nước. Theo dõi động học sau phản ứng và xác định tính chất của các chất chưa biết là một trọng tâm khác. Vì đây là cơ sở nghiên cứu nên không có loại phân tích cụ thể mà chúng tôi thường thực hiện.Câu hỏi: Những thách thức chính về GC mà bà gặp phải là gì?Đáp: Nhiệm vụ chính là giữ thiết bị chạy tốt. Thiết bị mà chúng tôi có là những máy móc không thay đổi hàng năm, vì vậy thách thức là giữ chúng đạt tiêu chuẩn đủ cao để thực hiện bất kỳ nghiên cứu nào. Vì chúng tôi không có phân tích định kỳ cho mỗi lần, thách thức là thu thập các thông tin cần thiết cho bất kỳ dự án mới nào - tìm ra các chi tiết cụ thể của dự án, yêu cầu là gì, và nó phù hợp đến đâu với công nghệ chúng tôi đang có. Một trong những thách thức lớn khác

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY29

là cố gắng không để thiết bị có thời gian chết, và nếu có thì phải giảm thiểu khoảng thời gian đó.Câu hỏi: Khi gặp vấn đề với hệ thống GC thì quy trình khắc phục sự cố như thế nào?Đáp: Quy trình của tôi luôn luôn là áp dụng cách tiếp cận logic đối với vấn đề. Trước tiên, tôi cố gắng tổ chức thông tin có được từ khi thiết bị làm việc cho đến thời điểm có trục trặc. Sau đó, tôi cố gắng trả lời các câu hỏi như: Vấn đề cụ thể là gì? Khi nào nó bắt đầu? Nó đã bắt đầu như thế nào? Về cơ bản, tôi tập trung vào việc cô lập vấn đề. Sự cố xảy ra ở phần nào của thiết bị? Ở trong buồng tiêm, trong cột, hay trong bộ dò? Một điều dễ dàng thực hiện đó là tìm hiểu xem liệu những loại sự cố này đã xảy ra trước đây chưa, vì vậy tôi kiểm tra ghi chép lịch sử của thiết bị, và nếu trước đây đã từng xảy ra sự cố đó, tôi xem xét những gì đã được thực hiện để giải quyết vấn đề. Bởi vì có nhiều dự án khác nhau, chúng tôi có thể đã thay đổi một số điều kiện cụ thể hoặc các bộ phận thiết bị, vì vậy tôi kiểm tra xem có bất cứ điều gì đã thay đổi kể từ lần cuối cùng thiết bị đó được sử dụng và hoạt động tốt. Nếu vấn đề gặp phải là sự cố mới, quy trình khắc phục sẽ cố gắng loại trừ các tham số có thể gây ra vấn đề, ví dụ như kiểu lót hoặc cài đặt buồng tiêm, hoặc loại cột được cài đặt. Một bước khác là sử dụng tiêu chuẩn tham chiếu, một tiêu chuẩn mà tôi biết và quen thuộc, và tôi biết thiết bị sẽ hoạt động như thế nào với loại phân tích đó. Tôi sẽ lật lại vấn đề và kiểm tra thiết bị, và nếu bộ phận đó đang hoạt động thì đó là một cách khác để phân tích vị trí có thể xảy ra vấn đề.Có một số bộ phận trong thiết bị; phương pháp là không thay đổi quá nhiều thứ cùng một lúc, bởi vì như vậy bạn sẽ không biết mình đã làm gì để giải quyết vấn đề hoặc khiến nó tồi tệ hơn. Tốt hơn là nên có hệ thống và xem xét phần rõ ràng, sau đó bắt đầu phức tạp hơn. Đôi khi vấn đề có thể được giải quyết rất dễ dàng chỉ bằng cách nhìn nhận toàn diện tất cả các bộ phận của thiết bị.Câu hỏi: Điều quan trọng nhất để giữ một hệ thống GC đứng đầu trong trật tự công việc là gì?Đáp: Có thể nói rằng việc đó tuân theo lịch trình bảo trì phòng ngừa. Thay đổi đồ dùng một lần trên thiết bị thật thường xuyên khi cần thiết, hoặc đôi khi, thường xuyên như yêu cầu là rất quan trọng. Đối với hoạt động bình thường, thường xuyên của thiết bị, việc thay đổi thường xuyên các đồ dùng một lần cơ bản, chẳng hạn như vách ngăn hay tấm chèn thủy tinh, và làm sạch máy dò là rất quan trọng. Chất lượng nguồn cung cấp khí cũng rất quan trọng. Bạn có thể tìm thấy các nhà cung cấp khác nhau và các loại hình cung cấp khác nhau mà không nhất thiết phải phù hợp với thiết bị của bạn, vì vậy điều quan trọng là giữ cho thiết bị hoạt động - đảm bảo chất lượng cao của nguồn cung cấp.Một trong những điều quan trọng nhất đối với tôi là giữ một phương pháp thử nghiệm được chạy trước khi thay đổi các điều kiện trên thiết bị để đảm bảo rằng nó hoạt động tốt. Đó là cách tôi sử dụng như một điểm khởi đầu trong xử lý sự cố, cũng như giữ các ghi chép lịch sử về bảo trì phòng ngừa.Câu hỏi: Nguồn lực nào hữu ích nhất trong việc phát hiện sự cố với hệ thống GC?Đáp: Tôi lật lại những gì mình biết về thiết bị như: Đường cơ sở là gì? Thiết bị hoạt động như thế nào khi thí nghiệm bắt đầu và sau đó đánh giá phản ứng của thiết bị với các điều kiện mới. Như đã đề cập ở trên, việc kiểm tra phản ứng của thiết bị bằng cách sử dụng một phương pháp cụ thể mà tôi biết kết quả cần mong đợi và luôn xem xét lịch sử của thiết bị là rất hữu ích. Tôi cũng sử dụng nhiều hỗ trợ kỹ thuật từ các nhà cung cấp khi gặp rắc rối. Đó là một nguồn kiến thức thực sự tốt. Ngoài ra, có rất nhiều tài nguyên trên internet, bạn chỉ nhập loại vấn đề bạn gặp phải và ai đó

30

đã trải qua sự cố ấy có thể giúp bạn và làm sáng tỏ vấn đề. Tôi biết có những phòng chat cũng như nơi bạn có thể nhận được một số thông tin, nhưng tôi chưa thực sự làm việc với họ nhiều. Tôi chủ yếu sử dụng hỗ trợ kỹ thuật từ các nhà cung cấp. Và hướng dẫn sử dụng chắc chắn là một nguồn lực tốt, nhưng đôi khi vấn đề với chúng đó là nguồn thông tin có hạn. Thông thường, bạn nhận được thông tin về cách sử dụng thiết bị, nhưng không có nhiều thông tin về cách khắc phục sự cố bạn có thể gặp phải.Câu hỏi: Điều gì làm bạn hứng thú nhất khi làm việc với GC?Đáp: Nó là một kỹ thuật tương đối đơn giản, nhưng đòi hỏi kiến thức để xác định các điều kiện thích hợp cho phân tích. Do bản chất của công việc tôi làm ở đây nên nó liên quan đến việc giải quyết các vấn đề khác nhau, với mỗi dự án. Vì vậy, bạn liên tục học được những gì mình có thể làm. Có nhiều người sử dụng khác nhau cho một thiết bị với thiết lập khác nhau mang lại nhiều thách thức, nhưng đồng thời, đó là một kinh nghiệm quý báu khi bạn bắt tay vào một dự án và nhận được kết quả, bạn sẽ học hỏi được rất nhiều trong quá trình thực hiện.Câu hỏi: Bà có lời khuyên gì về việc khắc phục sự cố hệ thống GC cho những người mới tiếp xúc với GC hoặc bắt đầu sử dụng nó tại PTN?Đáp: Lưu trữ ghi chép lịch sử. Chọn một mẫu và một thí nghiệm phản ánh tốt nhất loại hình công việc của bạn, một thí nghiệm cực kỳ đơn giản cho phép bạn hiểu rõ thiết bị của mình, và gắn bó với nó. Nhờ đó, mỗi khi gặp sự cố, bạn có thể xem xét lại thí nghiệm ấy, và tìm hiểu xem vấn đề là gì hoặc vấn đề nằm ở chỗ nào. Lịch sử sử dụng của thiết bị cũng rất quan trọng.

Theo www.labmanager.com

CHƯƠNG TRÌNH THỬ NGHIỆM THÀNH THẠO - VinaLAB PT 2017 - Tổng hợp

STT Mã PT Tên chương trình Chỉ tiêuPhí tham dự

(VND)

EDC - HCM

01 VPT.1.5.17.42 Phân tích các anion trong mẫu nước N_NO3-, N_NO2

-, Cl-, SO42-, F-, P_PO4

3- 2.500.000

02 VPT.1.5.17.43Phân tích ô nhiễm thuốc BVTV trong nước

Thuốc BVTV gốc Clo, Thuốc BVTV gốc Photpho

2.500.000

03 VPT.1.5.17.44Phân tích các chỉ tiêu đánh giá độ ô nhiễm nước thải

COD, BOD5, N_NH4+

, tổng N, Tổng P, TSS

2.500.000

04 VPT.1.5.17.45Phân tích Tetracyline và Oxy tetracyline trong thức ăn chăn nuôi và thức ăn thủy sản

Tetracyline , Oxy tetracyline 2.500.000

05 VPT.1.5.17.46Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng phân hữu cơ

N tổng, P hữu hiệu, Acid Humic, Acid Fulvic, T.OC, Ẩm.

2.500.000

06 VPT.1.5.17.47Phân tích kim loại nặng trong phân bón

Cu, Fe, Zn, Cd, Pb, Hg, As, Ca, Mg 2.500.000

07 VPT.1.5.17.48Phân tích dư lượng độc chất trong rau quả

NO3-, As, Cd, Pb, Hg 2.500.000

08 VPT.1.5.17.49Phân tích chất tăng trọng Clenbuterol, Salbutamol trong thịt

Clenbuterol, Salbutamol 2.500.000

09 VPT.1.5.17.50Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước chấm

N tổng, N_NH4+, N_axit amin, NaCl 2.500.000

10 VPT.1.5.17.51 Phân tích KL trong nước mắm Cd, Pb, As, Hg 2.500.000

11 VPT.1.5.17.52Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cà phê rang

Độ ẩm, tro tổng số, tro không tan trong HCl, cafein, tỉ lệ chất tan trong nước

2.500.000

12 VPT.1.5.17.53Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng mì ăn liền

Protein thô, béo, xơ, muối, carbohydrate, tro tổng số, tro không tan, chỉ số peroxit

2.500.000

13 VPT.1.5.17.54 Phân tích KL trong bùn thải Cd, Pb, As, Hg, Cu, Fe, Cr, Ni, Zn 2.500.000

14 VPT.1.5.17.56Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng dầu ăn

Hàm lượng nước và chất bay hơi, chỉ số peroxit, chỉ số iot, chỉ số acid và độ acid, chỉ số xà phòng, tro tổng số

2.500.000

15 VPT.1.6.17.59 Phân tích nấm mốc trong bia Nấm mốc 3.000.000

16 VPT.1.6.17.60 Phân tích Vi sinh trong nước giải khátColiforms tổng số, E.coli tổng số, Pseudomonas aeruginosa, Sulfite reducing clostridia, Fecal streptococci

3.000.000

SỐ 14 - THÁNG 03/2016

Maket mới

SỐ 27 - THÁNG 05/2017

AoV - PT

Lĩnh vực Hóa học

17 VPT.2.5.16.01 Chỉ tiêu chất lượng phân bón

Độ ẩm, Hàm lượng Nitơ tổng số, Hàm lượng P2O5, Hàm lượng K2O, Hàm lượng S, Hàm lượng Silic, Hàm lượng Cacbon Hữu cơ tổng số, Hàm lượng Axit Humic, Hàm lượng Axit Fulvic, Hàm lượng Axit tự do

3.500.000

18 VPT.2.5.16.51* Hóa chất, kháng sinh trong thủy sản

Malachite green tổng, Leucomalachite green

5.000.000

19 VPT.2.5.16.52* Kháng sinh trong thủy sản Tổng Fluoroquinolone (Ciprofloxacin và Enrofloxacin), Ciprofloxacin, Enrofloxacin

5.000.000

20 VPT.2.5.16.53* Kháng sinh trong thủy sản Nitrofurans (AOZ), Nitrofurans (AMOZ) 5.000.000

21 VPT.2.5.16.55 Kháng sinh trong thủy sản Tetracycline, Chlortetracycline, Oxytetracycline

5.000.000

22 VPT.2.5.16.68 hân tích hàm lượng melamine trong sữa

Melamine 4.000.000

Lĩnh vực Sinh học

23 VPT.2.6.16.27 Vi sinh vật trong thức ăn chăn nuôi Salmonella 3.000.000