chƯƠng i - tuyên giáo gia laithongtintuyengiaogialai.vn/files/thuctrangvagiaiphap..doc · web...
TRANSCRIPT
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY GIA LAI
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ TUYÊN TRUYỀN TRONG ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH GIA LAI
Pleiku, tháng 7-2010
1
TẬP THỂ TÁC GIẢ
PHAN XUÂN TRƯỜNG - Chủ biên
TỐNG THỚI MỐC - Thư ký
NGUYỄN PHI YẾN
ĐỚI THỊ THANH TRÚC
NGUYỄN VĂN THÀNH
LÊ PHAN LƯƠNG
PHẠM THỊ THU DUNG
VŨ THỊ VIỆT HÀ
NGUYỄN XUÂN QUỲNH
TRẦN ĐÌNH HIỆP
NGUYỄN QUANG CƯỜNG
TRẦN NAM PHÚ
2
LỜI GIỚI THIỆU
Những năm qua, triển khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế-xã
hội của tỉnh Gia Lai có bước phát triển nhanh và ổn định, đời sống của nhân dân
được cải thiện theo hướng tích cực, quốc phòng-an ninh được giữ vững. Đạt được
những thành tựu chung đó có sự đóng góp không nhỏ của các lực lượng làm công
tác tuyên truyền từ tỉnh đến cơ sở. Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền của
Đảng, của các ngành, đoàn thể chính trị-xã hội và cán bộ, đảng viên trong toàn bộ
hệ thống chính trị bằng nhiều phương pháp, hình thức khác nhau đã tuyên truyền
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước; nhiệm vụ chính trị của địa phương đến đông
đảo các tầng lớp nhân dân. Biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, các
lực lượng làm công tác tuyên truyền đã kịp thời phát hiện, cỗ vũ những nhân tố
mới, điển hình tiên tiến; đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu
phản tuyên truyền, các tư tưởng lạc hậu, việc làm sai trái nhằm giữ vững an ninh tư
tưởng trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, hiệu quả tuyên truyền, nhất là
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh còn thấp. Nhiều chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa đến được với dân, do nội
dung, phương pháp, hình thức tuyên truyền chưa phù hợp với đối tượng tuyên
truyền. Quần chúng chưa hiểu hoặc hiểu không đầy đủ, nên việc triển khai thực
hiện còn nhiều khó khăn, hiệu quả thấp. Thậm chí có một bộ phận do thiếu thông
tin, nhận thức còn hạn chế nên bị các thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng, lôi
kéo, kích động tham gia vào các hoạt động gây mất ổn định an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội tại địa phương. Hệ quả này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong
3
đó có nguyên nhân công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở
tỉnh ta còn nhiều hạn chế, bất cập. Lực lượng làm công tác tuyên truyền đông,
nhưng khả năng tuyên truyền còn hạn chế. Công tác phối hợp giữa các lực lượng
làm công tác tuyên truyền chưa chặt chẽ, khoa học nên chưa phát huy được sức
mạnh tổng hợp trong công tác tuyên truyền. Mục đích tuyên truyền khá rõ, nhưng
nội dung, hình thức, phương pháp còn đơn điệu, chưa phù hợp với đối tượng tiếp
nhận thông tin, chưa thật sự hấp dẫn để lôi cuốn nhân dân.
Trước thực trạng trên, được sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và sự
đồng ý của Uỷ ban nhân dân tỉnh, trong hơn hai năm qua, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
đã triển khai thực hiện đề tài khoa học cấp tỉnh “Nghiên cứu xây dựng hệ thống
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số
ở tỉnh Gia Lai”. Đề tài đã được Hội đồng khoa học chuyên ngành cấp tỉnh nghiệm
thu và xếp loại A (xuất sắc). Trong quá trình triển khai thực hiện đề tài, Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy Gia Lai đã nhận được sự cộng tác, giúp đỡ thường xuyên, kịp thời của
Sở Khoa học và Công nghệ; các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh; nhiều
nhà quản lý, nhà khoa học ở Trung ương và địa phương. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
xin chân thành cảm ơn các tổ chức, cá nhân đã đóng góp tích cực trong quá tình
thực hiện đề tài này.
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã biên tạp và xuất
bản cuốn sách “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền trong
đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Gia Lai”. Nội dung của cuốn sách tập trung trình
bày một số vấn đề nguyên lý, lý luận về công tác tuyên truyền. Quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về công tác tuyên truyền. Phân tích thực trạng tâm lý tiếp
nhận thông tin; trình độ, khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin của đồng bào dân
tộc thiểu số (chủ yếu là đồng bào Jrai và Bahnar) ở tỉnh Gia Lai. Đánh giá trình độ
các mặt của đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền; thực trạng công tác tổ chức,
4
phối hợp giữa các lực lượng tuyên truyền; tính phù hợp của nội dung, hình thức,
phương pháp, phương tiện sử dụng tuyên truyền; khảo sát đánh giá thực trạng hiệu
quả công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh thời gian
qua... Từ đó đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số của
tỉnh trong thời gian tới.
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng
(01/8/1930 – 01/8/2010) và chào mừng Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội lần
thứ XIV Đảng bộ tỉnh Gia Lai, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Gia Lai trân trọng giới thiệu cuốn sách “Thực trạng và
giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh
Gia Lai” cùng bạn đọc và mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý độc
giả.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY GIA LAI
5
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
I. NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN.
1. Khái niệm tuyên truyền.
Tuyên truyền theo tiếng La tinh (Prataganda) là truyền bá, truyền đạt một
quan điểm nào đó. Thuật ngữ tuyên truyền được sử dụng để biểu đạt các hoạt động
nhằm tác động đến suy nghĩ, tư tưởng của người khác và định hướng hành động
của họ theo một khuynh hướng nhất định.
Theo Đại từ điển bách khoa toàn thư Liên Xô (cũ), thuật ngữ tuyên truyền có
hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, tuyên truyền là sự truyền bá những quan điểm, tư
tưởng về chính trị, triết học, khoa học, nghệ thuật…nhằm biến những quan điểm, tư
tưởng ấy thành ý thức xã hội, thành hành động cụ thể của quần chúng. Theo nghĩa
hẹp, tuyên truyền là sự truyền bá những quan điểm lý luận nhằm xây dựng cho
quần chúng thế giới quan nhất định phù hợp với lợi ích thế giới quan ấy. Với quan
điểm này, tuyên truyền theo nghĩa hẹp chính là tuyên truyền chính trị, tuyên truyền
tư tưởng mà mục đích của nó là hình thành ở đối tượng tuyên truyền một thế giới
quan nhất định, một kiểu ý thức xã hội nhất định và cổ vũ tính tích cực xã hội của
con người.
Trong tác phẩm “Người tuyên truyền và cách tuyên truyền”, Hồ Chí Minh
cho rằng: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân tin, dân
theo, dân làm”. “Từ điển tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ học, do GS.Hoàng Phê
(chủ biên) chú giải “tuyên truyền là giải thích rộng rãi để thuyết phục mọi người
tán thành, ủng hộ, làm theo”.
Từ những quan điểm trên, vận dụng vào công tác tuyên truyền ở nước ta hiện
nay, có thể xác định: Tuyên truyền là hoạt động có mục đích của chủ thể tuyên
6
truyền, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối của Đảng , chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đối tượng tuyên
truyền, từ đó tạo cho đối tượng tuyên truyền có niềm tin vững chắc vào sự nghiệp
cách mạng và tự giác, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, nhằm góp phần đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Tuyên truyền có quá trình hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử
nhân loại. Xã hội loài người xuất hiện cũng đồng thời xuất hiện hoạt động tuyên
truyền. Tuyên truyền gắn liền với các hình thái kinh tế- xã hội khác nhau. Ngôn
ngữ chính là phương tiện truyền thông sơ khai nhưng quan trọng bậc nhất của con
người. Qua những tín hiệu âm thanh giản đơn con người có sự trao đổi tình cảm,
tạo sự giao tiếp trong sinh hoạt, lao động sản xuất. Hoạt động tuyên truyền chính là
hoạt động của con người tác động đến con người, vì vậy nó là hoạt động xã hội đặc
biệt, bởi chủ thể tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền đều là con người.
Tuyên truyền là hoạt động xã hội, phát triển cùng với sự phát triển của xã
hội, nên có tác dụng qua lại biện chứng với nhau. Tuyên truyền có vai trò tích cực
trong việc truyền bá sâu rộng hệ tư tưởng của giai cấp thống trị đến với quần chúng
trong xã hội, động viên mọi người tích cực tham gia xây dựng và phát triển xã hội.
Ngược lại, khi xã hội phát triển sẽ tạo điều kiện để tuyên truyền ngày càng hoạt
động thuận lợi, đạt hiệu quả hơn.
2. Vai trò, chức năng của công tác tuyên truyền.
Vai trò của tuyên truyền:
Trong mọi hình thái kinh tế- xã hội, tuyên truyền luôn đóng vai trò quan
trọng trong việc truyền bá, chuyển tải hệ tư tưởng, đường lối chiến lược, sách lược
của giai cấp nắm quyền đến với quần chúng nhân dân. Trong xã hội có giai cấp
luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giai cấp, và giai cấp thống trị tìm mọi cách để lôi
kéo quần chúng về phía mình. Nhiệm vụ của tuyên truyền là phải đảm nhiệm vai
7
trò đó. Theo Mác “Vai trò của tuyên truyền chính là làm cho “lý luận thâm nhập
vào quần chúng” để qua đó “trở thành lực lượng vật chất”.1
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác tuyên truyền luôn
giữ vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên
và quần chúng về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Công tác tuyên truyền còn góp phần
xây dựng con người mới, cuộc sống mới, nâng cao hiểu biết về các kiến thức, kỹ
năng cần thiết của cuộc sống, hình thành nếp sống văn hóa mới, đấu tranh xoá bỏ
thói hư, tật xấu, xây dựng, hình thành đạo đức, lối sống mới trong xã hội.
Công tác tuyên truyền không những góp phần nâng cao nhận thức, truyền tải
thông tin, mở rộng dân chủ, giáo dục và cổ vũ quần chúng hành động cách mạng,
mà còn thông qua việc nêu gương, cổ động bằng hình thức trực quan sinh động,
thông qua các phong trào thi đua ...để tập hợp, tổ chức quần chúng hành động cách
mạng. Do đó, công tác tuyên truyền là việc làm thường xuyên, cần thiết cho bất cứ
tổ chức nào, một phong trào nào muốn lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham
gia và đạt được những kết quả thiết thực, hữu ích.
Công tác tuyên truyền còn có khả năng và điều kiện để thông tin hai chiều.
Một mặt, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
đến quần chúng. Mặt khác, lắng nghe, tìm hiểu, nắm bắt những thông tin phản hồi,
tâm trạng, tư tưởng, nguyện vọng, ý kiến của quần chúng trong quá trình thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong cuộc
sống thực tiễn để góp phần bổ sung, hoàn thiện, sửa đổi những chủ trương, chính
sách, pháp luật cho phù hợp với thực tiễn. Do đó, công tác tuyên truyền là sợi dây
bền chặt nối liền Đảng, Nhà nước với quần chúng, nối liền Trung ương với địa
phương và cơ sở, góp phần tăng cường liên minh công-nông và trí thức trong quá
trình đấu tranh cách mạng.
1 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr 580.
8
Công tác tuyên truyền là vũ khí đấu tranh tư tưởng, chính trị của Đảng chống
lại các lực lượng thù địch, các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của kẻ thù
đối với nước ta. Trong bối cảnh chính trị quốc tế phức tạp hiện nay, đất nước ta
đang đứng trước những thời cơ và vận hội mới, song, cũng đang đứng trước những
thách thức mới hết sức gay gắt. Các lực lượng thù địch tăng cường chống phá cách
mạng nước ta, nhất là trên mặt trận chính trị, tư tưởng-văn hoá. Vì vậy, công tác
tuyên truyền đóng vai trò là vũ khí không thể thiếu được để đấu tranh chống lại các
lực lượng thù địch, nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững ổn định chính trị,
tạo điều kiện để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Chức năng cơ bản của công tác tuyên truyền: công tác tuyên truyền có 4
chức năng cơ bản sau:
- Chức năng thông tin: Đây là chức năng cơ bản, đầu tiên của công tác tuyên
truyền, nó đem lại thông tin mới cho đối tượng nhằm thực hiện mục đích là nâng
cao nhận thức cho đối tượng tuyên truyền.
- Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng: Đây là chức năng hết sức quan
trọng của công tác tuyên truyền. Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng của công
tác tuyên truyền thực hiện qua nội dung sau: giáo dục lý luận hình thành tư duy lý
luận và thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin; giáo dục chính trị tư
tưởng, hình thành văn hoá chính trị; giáo dục lao động và hình thành thái độ lao
động mới; giáo dục kinh tế, hình thành văn hoá kinh tế; giáo dục đạo đức và lối
sống mới; giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng và hình thành khả năng “miễn
dịch” của nhân dân đối với ảnh hưởng của hệ tư tưởng thù địch và “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch.
- Chức năng tổ chức, cổ vũ hành động: thể hiện thông qua việc hướng dẫn
tập hợp quần chúng tham gia vào các quá trình tư tưởng, tham gia vào giải quyết
nhiệm vụ chính trị, ủng hộ cái mới, cái tiến bộ, phê phán cái tiêu cực, lạc hậu trong
đời sống xã hội. Cổ vũ khích lệ quần chúng sáng tạo, tích cực, chủ động tham gia
9
các phong trào thi đua, tham gia các cuộc vận động cách mạng rộng lớn hoặc một
hình thức tập hợp nào đó nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính trị đề ra.
- Chức năng phê phán: thực hiện chức năng này, công tác tuyên truyền tập
trung phê phán triệt để, sâu sắc với thái độ khách quan mọi biểu hiện của chủ nghĩa
cơ hội, chủ nghĩa xét lại và mọi trào lưu tư tưởng đối lập với hệ tư tưởng Mác-
Lênin. Đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận chủ nghĩa xã hội hiện thực, phủ nhận sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với xã hội. Phê phán tàn dư, ảnh hưởng của tư
tưởng và hành vi lỗi thời, lạc hậu còn rơi rớt trong xã hội, không còn phù hợp với
thực tiễn hiện nay. Đấu tranh với biểu hiện tiêu cực trong xã hội, những biểu hiện
lệch lạc, xa lạ, trái với quan điểm, đường lối của Đảng. Đấu tranh với mọi thủ đoạn
của âm mưu “diễn biến hoà bình” mà kẻ địch đang sử dụng để ráo riết chống lại
chế độ ta, âm mưu lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây
dựng.
Các chức năng của công tác tuyên truyền đều quan trọng như nhau, mỗi chức
năng giữ một vai trò riêng, không thể thay thế được trong quá trình tuyên truyền.
Do vậy, khi tiến hành tuyên truyền không thể coi nhẹ chức năng nào để tránh phiến
diện làm cho công tác tuyên truyền kém hiệu quả.
3. Các yếu tố cấu thành công tác tuyên truyền
Khi xem xét tuyên truyền như một hoạt động xã hội đặc thù, thì công tác này
cấu thành bởi các yếu tố sau: chủ thể, khách thể, mục đích, nội dung, phương pháp,
phương tiện, hình thức tổ chức và hiệu quả tuyên truyền. Như vậy, hệ thống tuyên
truyền là toàn bộ các yếu tố cấu thành hoạt động tuyên truyền và hiệu quả tuyên
truyền.
10
Sơ đồ công tác tuyên truyền:
Mục đích tuyên truyền Nội dung tuyên truyền Phương pháp tuyên truyền
Chủ thể tuyên truyền Đối tượng tuyên truyền
Tổ chức Hình thức Phương tiện
Công tác tuyên truyền là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị,
nhưng có đội ngũ và lực lượng chuyên trách, chuyên môn ở các cơ quan Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội.
Mục đích của công tác tuyên truyền: là sự phản ánh những kết quả mong
muốn đạt tới trong tương lai của quá trình nhận thức ở đối tượng tuyên truyền, là sự
phản ánh trước sản phẩm dự kiến của hoạt động tuyên truyền. Kết quả đó, sản phẩn
đó là một kiểu thế giới quan, một kiểu ý thức xã hội và ý thức cá nhân, là một loại
hình tính tích cực xã hội của con người.
Mục đích công tác tuyên truyền là yếu tố cơ bản, có tính quyết định trong hệ
thống công tác tuyên truyền. Nó quy định nội dung, phương pháp và tổ chức quá
trình thực hiện công tác tuyên truyền, quy định tiêu chuẩn đánh giá và kiểm tra hiệu
quả công tác tuyên truyền. Mục đích thường được thể hiện thông qua một hệ thống
mục tiêu cụ thể thuộc từng mặt, từng bộ phận và nhiệm vụ của công tác tuyên
truyền trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng.
Đối tượng tuyên truyền: là tất các cá nhân, tập thể, tầng lớp, giai cấp…trong
xã hội. Đối tượng tuyên truyền rất đa dạng, phức tạp. Hiện nay, đối tượng tuyên truyền
của nước ta là toàn thể các tổ chức, cơ quan, đơn vị, là cán bộ, đảng viên , quần chúng
nhân dân …. Và tất cả các quốc gia, các tổ chức và cá nhân trên thế giới.
Nội dung công tác tuyên truyền: là nội dung các hoạt động mà chủ thể tuyên
truyền xác định nhằm thực hiện mục đích đặt ra. Nội dung do mục đích công tác
tuyên truyền và nhiệm vụ cụ thể của mỗi giai đoạn cách mạng quy định.
11
Phương pháp công tác tuyên truyền : là tổng hợp các phương tiện, thao tác,
cách thức, quy trình mà chủ thể sử dụng để cung cấp cho đối tượng những thông tin
nhất định nhằm củng cố, bổ sung hoặc xây dựng ở họ kiểu thế giới quan, nhân sinh
quan mới hay nhận thức về tự nhiên hoặc xã hội, qua đó tác động đến nhận thức,
thái độ và hiệu quả hành động thực tiễn của họ trong đời sống xã hội.
Hình thức tuyên truyền: Hình thức tuyên truyền là biểu hiện bên ngoài, là
cách thức sắp xếp nội dung và hình thức tổ chức các hoạt động giữa chủ thể và đối
tượng tuyên truyền. Hình thức công tác tuyên truyền rất đa dạng và phong phú.
Việc lựa chọn hình thức nào là do đối tượng và nội dung quy định.
Phương tiện tuyên truyền: là những vật dụng truyền tải nội dung và phương
pháp tác động của tuyên truyền, là những phương tiện công tác của chủ thể và
phương tiện tiếp nhận, lĩnh hội của đối tượng.
II. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN.
1. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về công tác tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền theo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin được thể hiện
rất cụ thể. Khi xem xét công tác tư tưởng như một quá trình bao gồm từ việc sáng
tạo ra hệ tư tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để đề ra đường lối chiến lược, sách lược
của một giai cấp, một chính đảng, đến việc truyền bá hệ tư tưởng và đường lối
trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hiện thực hoá đường lối trong thực tiễn,
Lênin đã khẳng định: Công tác tư tưởng có ba hình thái, đó là, công tác lý luận,
công tác tuyên truyền và công tác cổ động. Ba hình thái trên tương ứng với các quá
trình tư tưởng: sản xuất ra hệ tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng và cổ vũ động viên
quần chúng thực hiện.
Như vậy, tuyên truyền là hoạt động nối tiếp của công tác lý luận, tương ứng
với quá trình truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chính trị trong quần chúng, cổ
động quần chúng hành động bằng các con đường và phương thức khác nhau. Qua
công tác tuyên truyền làm cho hệ tư tưởng của giai cấp cầm quyền chiếm địa vị
12
thống trị trong xã hội. Tuyên truyền làm cho lý luận có sức sống mạnh mẽ, trở
thành hiện thực trong hoạt động thực tiễn.
Tuyên truyền luôn đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá, chuyển tải
hệ tư tưởng, đường lối chiến lược, sách lược của giai cấp nắm quyền đến với quần
chúng nhân dân. Theo Mác “Vai trò của tuyên truyền chính là làm cho “lý luận
thâm nhập vào quần chúng” để qua đó “trở thành lực lượng vật chất”.2 Lênin cũng
nêu rõ nhiệm vụ của công tác tuyên truyền và cổ động là: “Làm cho tư tưởng xã hội
chủ nghĩa và ý thức chính trị thấm sâu vào quần chúng vô sản”... “Khi được thuyết
trình công khai, ta nói với quần chúng, tiếp xúc trực tiếp với họ, được nhìn thấy họ,
làm quen với họ và ảnh hưởng tới họ theo “kiểu” của mình”.3
Trong hoạt động tuyên truyền, phải tuân thủ các nguyên tắc. Các nhà kinh
điển Mác-Ăngghen, Lênin xác định các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tuyên
truyền ở chế độ xã hội chủ nghĩa cần phải tuân thủ là: tính Đảng (tính tư tưởng),
tính giai cấp, tính khoa học và thực tiễn, tính chân thật, tính chiến đấu, tính phổ
thông và tính thống nhất lý luận với thực tiễn.
Tính Đảng, tính giai cấp và tính chiến đấu là nguyên tắc cơ bản nhất của
tuyên truyền. Tuyên truyền bao giờ cũng đứng trên quan điểm tư tưởng nhất định,
đó là tư tưởng của giai cấp cầm quyền. Tuyên truyền xã hội chủ nghĩa lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin, đường lối, chính sách của Đảng làm nội dung cốt lõi của tuyên
truyền. Lênin cho rằng: “Việc tuyên truyền và cổ động hàng ngày phải thực sự có
tính chất cộng sản”. Nguyên tắc tính Đảng, phải thể hiện rõ ở việc đấu tranh không
khoan nhượng đối với tất cả các trào lưu tư tưởng đi ngược lại lợi ích của giai cấp,
của Đảng, bảo vệ hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác- Lênin.
Đồng thời xuất phát từ cơ sở bản chất của hệ tư tưởng Mác- Lênin và mục
đích của tuyên truyền, nên nguyên tắc cơ bản của tuyên truyền là thống nhất lý luận
với thực tiễn. Tuyên truyền hướng vào giải quyết những vấn đề cấp bách của thực
2 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr 580.3 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, matxcơva, 1975, tập 6, tr84, 85.
13
tiễn, làm rõ những vấn đề lý luận của thực tiễn, từ đó động viên, cổ vũ quần chúng
tích cực hành động thực hiện mục tiêu của cách mạng. Lênin đã chỉ rõ: “Công tác
tuyên truyền và cổ động không trả lời được những vấn đề căn bản của cuộc sống thì
không tiến lên được”. Lênin luôn đòi hỏi người tuyên truyền phải nghiên cứu đặc
điểm tâm lý của các tầng lớp nhân dân trong quá trình tuyên truyền: “Cần phải
thâm nhập vào quần chúng và học hỏi ở họ một cách kiên trì, bền bỉ thì mới hiểu
được các thuộc tính, đặc trưng tâm lý đa dạng ở mỗi tầng lớp, mỗi nghề của họ”.4
Để tuyên truyền đạt được kết quả, đưa nội dung tuyên truyền đến được
quần chúng nhân dân, được quần chúng tiếp nhận, dễ hiểu, vấn đề hình thức và
phương pháp tuyên truyền là vô cùng quan trọng. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, phương pháp tuyên truyền do mục đích, nội dung của tuyên truyền qui
định. Việc sử dụng hình thức tuyên truyền nào hoặc kết hợp các hình thức nào là
phụ thuộc vào yêu cầu nội dung, đối tượng tuyên truyền, điều kiện tuyên truyền.
Phương pháp và hình thức tuyên truyền phải phù hợp với trình độ, tâm lý của từng
loại đối tượng, có hệ thống, lôgich, mang tính thuyết phục nhằm giúp người nghe
tiếp thu, hiểu rõ vấn đề.
Theo Lênin, nhiệm vụ tuyên truyền là phổ biến lý luận chính trị, tuyên
truyền những nội dung cơ bản của hệ tư tưởng, làm cho hệ tư tưởng vô sản chiếm
địa vị thống trị trong xã hội; đồng thời cần quán triệt sâu đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, nhà nước trong quần chúng nhân dân.
Là một trong những bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng, tuyên
truyền có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân, góp phần
nâng cao nhận thức, hình thành và củng cố niềm tin, giáo dục lý luận chính trị, đạo
đức, lối sống, bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng hành động cho cán bộ, đảng viên
và quần chúng nhân dân. Qua công tác tuyên truyền, góp phần đấu tranh với những
4 Lênin Toàn tập, Nxb Tiến Bộ Matxcơva, tập 41, tr 192
14
quan điểm sai trái, bảo vệ vững chắc học thuyết Mác-Lênin, nền tảng tư tưởng của
Đảng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm lý luận chính trị toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta; kế thừa và phát triển các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm rất rõ ràng về công tác
tuyên truyền. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói
cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục tiêu đó thì
tuyên truyền thất bại”5
Trong công tác tuyên truyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng phải nắm
được phương pháp tuyên truyền mới đạt được kết quả tốt, “Muốn thành công phải
biết cách tuyên truyền”6. Phương pháp tuyên truyền theo Hồ Chí Minh phải mang
tính đại chúng, tính nghệ thuật, diễn đạt ngắn gọn nhưng sâu sắc, giản dị, dễ hiểu,
sử dụng linh hoạt sáng tạo các thành ngữ, dân ca…trong hoạt động thực tiễn.
Tuyên truyền phải đa dạng, phong phú về hình thức như tuyên truyền miệng khi
diễn giảng, lên lớp, hoặc tuyên truyền bằng hình thức viết sách, báo, truyện, ký,
hoặc sử dụng phương pháp trực quan sinh động như khẩu hiệu, truyền đơn, cổ
động…
Trong hoạt động tuyên truyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện phương
châm kết hợp giữa lời nói và hành động, lý luận gắn liền với thực tiễn. Người chủ
trương nói ít, làm nhiều; chỉ nói khi thật cần thiết, nói đúng để làm đúng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thể hiện nhuần nhuyễn sự kết hợp giữa lời nói và hành động, làm
chủ lý luận, thực tiễn hóa lý luận và lý luận hoá thực tiễn. Từ những hành động
tuyên truyền của Người đã tạo sức cuốn hút, cảm hoá mọi người. Theo Hồ Chí
5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, 2002, tr 1626 Sđd
15
Minh: “Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi viết cho ai xem, nói cho ai
nghe. Nếu không vậy, thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không
muốn cho người ta xem.”7. “Người tuyên truyền không điều tra, không phân tách,
không nghiên cứu, không hiểu biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì viết nấy,
nhất định thất bại”. Người còn chỉ ra rằng: “Tuyên truyền không cần phải nói tràng
giang đại hải. Mà nói ngắn gọn, nói những vấn đề thiết thực, chắc chắn làm được,
để cho mọi người hiểu rõ và quyết tâm làm bằng được”8. Theo Hồ Chí Minh, khi
tuyên truyền phải: Nói đơn giản, có đầu, có đuôi, có nội dung…Nói ít nhưng nói
cho chắc chắn thì quần chúng thích hơn. Muốn nói gì thì phải chuẩn bị trước. Và
“bao giờ ta cũng tôn trọng sự thực. Sự chân thực thì việc tuyên truyền của mình
mới có người nghe”9.
Trong tuyên truyền, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc tìm hiểu đặc điểm
người nghe (đối tượng tuyên truyền), Người nói: “Công tác tuyên truyền phải cụ
thể, thiết thực. Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì?
Tuyên truyền cách thế nào? Đó là những vấn đề các chú phải tự hỏi và tự trả lời.
Chứ không phải ngồi chờ trên gửi tài liệu xuống, rồi theo một, hai, ba, bốn mà làm;
“Phải làm sao dễ hiểu, nói sao để người ta hiểu được, hiểu để làm. Vì thế tuyên
truyền phải thiết thực. Không phải tuyên truyền để mà tuyên truyền, huấn luyện để
mà huấn luyện”.10
Nói đến lực lượng làm công tác tuyên truyền, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Tất cả cán bộ, đảng viên, hễ những người tiếp xúc với dân chúng đều là người
tuyên truyền của Đảng. Vì vậy, ai cũng phải học nói, nhất là học nói cho quần
chúng hiểu”11.
Đối với công tác tuyên truyền trên mặt trận báo chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thể hiện rất rõ quan điểm tư tưởng của mình. Đó là cách viết. Vì ai mà viết? Mục 7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, HN 1995, tr 300-301.8 Sđd, tập11, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, tr 137-1389 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4 (1945-1946), Nxb CTQG, 2002, tr 151.10 Hồ Chí Minh Toàn Tập, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, tr 128.11 Sđd, tập 5, tr 300-301.
16
đích viết làm gì? Viết cho ai? Viết cái gì? Cách viết thế nào? Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, “mình viết ra cốt là để giáo dục, cổ động; nếu người xem mà không nhớ
được, không hiểu được, là viết không đúng, nhằm không đúng mục đích. Mà muốn
cho người xem hiểu được, nhớ được, làm được, thì phải viết cho đúng trình độ của
người xem, viết rõ ràng, gọn gàng, chớ dùng nhiều chữ12. Viết phải gọn gàng, vắn
tắt, nhưng phải có đầu có đuôi, viết phải thiết thực, chớ ham dùng chữ. Bác còn căn
dặn “để làm trọn nhiệm vụ tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn, thì các báo chí ta cần
phải gần gũi quần chúng hơn nữa, đi sâu vào công việc thực tế hơn nữa, cách làm
việc của báo chí phải cải thiện hơn nữa”13. Bác xác định rõ mục đích của báo chí.
“Báo chí phải phục vụ ai? Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động,
phục vụ chủ nghĩa xã hội…Báo chí ta không phải để cho một số ít người xem, mà
để phục vụ nhân dân, để tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của Đảng và
Chính phủ, cho nên phải có tính chất quần chúng và tinh thần chiến đấu”. “Về trách
nhiệm báo chí, Lênin có nói: báo chí là người tuyên truyền, người cổ động, người
tổ chức chung, người lãnh đạo chung. Vì vậy nhiệm vụ của người làm báo là quan
trọng và vẻ vang”14.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tuyên truyền lớn của Đảng ta, là tấm gương
mẫu mực về công tác tuyên truyền. Quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng trong tuyên truyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
do vậy, công tác tuyên truyền của Đảng phải mang tính nhân dân, tính phổ thông
đại chúng, phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân, do dân và vì dân. Công tác tuyên
truyền nhằm đưa đường lối chủ trương của Đảng đến với mọi tầng lớp quần chúng
nhân dân, làm cho dân hiểu, dân nhớ, dân tin và làm theo, tất cả đều nhằm để mưu
cầu lợi ích cho nhân dân. Đồng thời phương pháp, hình thức tuyên truyền phải đảm
bảo tính dân tộc, phù hợp với đặc điểm tâm lý, kinh tế- xã hội của mỗi dân tộc.
3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác tuyên truyền.12, Sđd, tập 7, 2000, tr 232, 233.13 Sđd, tập 7, 2000, tr 271.14 Sđd, tập 9, 2000, tr 412.
17
Ngay từ khi mới ra đời (3- 2- 1930) Đảng ta đã rất coi trọng công tác tuyên
truyền. Trong những năm 1930-1945, Đảng ta coi công tác tư tưởng, công tác tuyên
truyền là công tác quan trọng hàng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng. Đảng ra
Chỉ thị: “Luôn tuyên truyền, tuyên truyền nữa, luôn có những cuộc nói chuyện và
những cuộc nói chuyện nữa để cổ vũ, thúc đẩy quần chúng hy sinh cho sự nghiệp
chung”15… “Thuật ngữ tuyên truyền phải được tuyệt đại đa số quần chúng hiểu
biết”, “ các tỉnh và các chi bộ phải lập ra những Uỷ ban cách mạng để nghiên cứu
phương pháp tuyên truyền”16. Ngay sau khi ra đời, Ban cổ động và tuyên truyền- cơ
quan tuyên truyền đầu tiên của Đảng đã được thành lập và ấn hành tài liệu tuyên
truyền sớm nhất phục vụ cho tuyên truyền cổ động ngày Quốc tế đỏ (1-8-1930)
Sau khi giành độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời đã phải
đương đầu những khó khăn, thách thức, thù trong, giặc ngoài , Đảng ta đã lãnh đạo
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia
củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng. Cùng với Ban cổ động và tuyên truyền
được hình thành ngay sau khi thành lập Đảng, các cơ quan tuyên truyền như Bộ
Tuyên truyền, Đài tiếng nói Việt Nam, báo Cờ giải phóng…cũng lần lượt ra đời.
Để phục vụ công tác tuyên truyền, vai trò của lực lượng làm công tác tuyên
truyền là vô cùng quan trọng. Nhận thức đúng đắn vấn đề trên, Đảng ta đã luôn
quan tâm đẩy mạnh củng cố, xây dựng và phát triển đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên, lực lượng nòng cốt trong công tác tuyên truyền; tăng cường các hình
thức, phương tiện phục vụ cho tuyên truyền. Đảng ta đã có nhiều văn bản chỉ đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền như: Chỉ thị 14 CT/TW, ngày
3-8-1977, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IV) về việc tổ chức đội ngũ báo cáo
viên và tuyên truyền viên của Đảng; Thông báo số 71 TB/TW, ngày 7-6-1997, của
Thường vụ Bộ Chính trị về việc tăng cường lãnh đạo và đổi mới công tác tuyên
truyền miệng. Đây là một văn kiện quan trọng của Đảng đối với công tác tuyên
15Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1998, tập 2, tr 55, 69.16 Sđd, tr 64, 68.
18
truyền miệng trong thời kỳ mới. Thông báo số 71 TB/TW khẳng định: “Toàn Đảng,
mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Uỷ viên Trung ương, cấp uỷ viên
các cấp phải căn cứ vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
mà trực tiếp tuyên truyền cho quần chúng”,... “Các cấp uỷ đảng, các ban cán sự
đảng đoàn phải tăng cường lãnh đạo và đổi mới có hiệu quả công tác tuyên truyền
miệng, trong đó hoạt động báo cáo viên là bộ phận rất quan trọng”. Căn cứ vào
Thông báo số 71 của Thường vụ Bộ Chính trị, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
số 105/1998/TT-BTC ngày 23-7-1998 thực hiện chế độ đối với báo cáo viên của
Đảng.
Để ngày càng đáp ứng những đòi hỏi mới của quá trình đẩy mạnh hội nhập
kinh tế quốc tế, thực hiện Nghị quyết Đại hội X và Nghị quyết hội nghị Trung ương
5 (khoá X) “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”, ngày 15-
10-2007 Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 17-CT/TW về “Tiếp tục đổi
mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình
mới”. Chỉ thị tiếp tục quán triệt vai trò, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền
miệng, hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, xác định đây là một
trong những kênh thông tin quan trọng nhất, trực tiếp truyền bá sâu rộng chủ nghĩa
Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến giáo dục, quán triệt các quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, định hướng tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân trước các vấn đề thời sự quan trọng trong và ngoài nước, tạo
sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng và sự đồng thuận trong toàn xã hội. Đồng
thời đây là một trong những vũ khí sắc bén, kịp thời đấu tranh chống âm mưu thủ
đoạn “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Chỉ thị nêu rõ, công tác tuyên
truyền miệng là nhiệm vụ của toàn Đảng, các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ
sở, các đảng viên đều có trách nhiệm làm nhiệm vụ tuyên truyền miệng, trực tiếp
tham gia tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng, nhà nước trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân.
19
Cùng với hoạt động tuyên truyền thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên, Đảng rất chú trọng hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông
tin đại chúng. Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đã nêu rõ vai trò, tầm quan
trọng của lĩnh vực báo chí “Báo chí, xuất bản, phát thanh, thông tin, cổ động, vô
tuyến truyền hình...toàn bộ lĩnh vực thông tin đại chúng là bộ phận quan trọng của
mặt trận tư tưởng văn hóa”. Để tăng cường lãnh đạo và quản lý hoạt động của báo
chí, Bộ Chính trị (khoá IX) có Thông báo số 162- TB/TW ngày 01-12-2004 về một
số biện pháp tăng cường lãnh đạo, quản lý báo chí trong tình hình mới.
Đến Đại hội X của Đảng, Bộ Chính trị ra Thông báo số 41, Thông báo số
68 về lãnh đạo và quản lý báo chí; Ban Bí thư có kế hoạch số 03 về công tác báo
chí, Thông báo số 122 về công tác xuất bản… Thông qua các văn bản trên, đã thể
hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với các
phương tiện truyền thông, công cụ phục vụ cho công tác tuyên truyền của Đảng.
Qua mỗi nhiệm kỳ Đại hội, sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng đối với công tác
tư tưởng, tuyên truyền ngày càng được tăng cường. Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khoá X) đã đề ra Nghị quyết “Về công tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước yêu cầu mới”. Nghị quyết đề ra những yêu cầu mới đối với
công tác tư tưởng, lý luận, báo chí. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện
pháp giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu rộng
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... trong toàn
Đảng, toàn dân. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin, tuyên
truyền, cổ động, báo chí, xuất bản, văn hóa- nghệ thuật. Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng về chính trị tư tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí; khắc phục
những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, xa
rời tôn chỉ, mục đích...nhằm tăng cường công tác tư tưởng lý luận, tuyên truyền của
Đảng trong tình hình mới.
20
Như vậy quan điểm chỉ đạo, xuyên suốt của Đảng ta từ khi thành lập đến
nay đối với công tác tuyên truyền là toàn Đảng làm công tác tuyên truyền, tuyên
truyền miệng, mỗi cán bộ, đảng viên là một báo cáo viên tích cực. Các phương tiện
truyền thông đại chúng, các lĩnh vực báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình,
thông tin, cổ động…là bộ phận quan trọng của mặt trận tư tưởng văn hoá. Quán
triệt và thực hiện tốt quan điểm này của Đảng sẽ góp phần tích cực vào quá trình
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng trên mặt trận tư tưởng- văn hoá.
III. TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ học, do GS. Hoàng Phê (chủ
biên), hiệu quả là “kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại”. Nói đến hiệu quả
của một hoạt động, người ta thường đề cập đến các vấn đề như: so sánh giữa kết
quả trước và sau khi tiến hành một hoạt động; so sánh giữa kết quả đạt được với
mục đích, nhiệm vụ được đặt ra từ trước; so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí
về vật lực, tài lực... để đạt được kết quả đó. Theo PGS.TS. Lương Khắc Hiếu, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền: Hiệu quả công tác tuyên truyền là sự tương quan
giữa kết quả đạt được do tác động tuyên truyền mang lại với mục đích của công tác
tuyên truyền được đặt ra và với chi phí để đạt được kết quả đó trong một điều kiện
xã hội nhất định.
Như vậy, hiệu quả khác với kết quả. Kết quả là cái đạt được do hoạt động
tuyên truyền mang lại, là sự thay đổi trong nhận thức, thái độ, hành vi của đối
tượng sau một chu trình tác động của công tác tuyên truyền nhưng chưa tính đến
chi phí để có kết quả đó. Còn hiệu quả là tương quan, là sự so sánh của kết quả với
mục đích và với chi phí trong công tác tuyên truyền. Nói cách khác, hiệu quả là sự
so sánh giữa cái đạt được (kết quả) với cái đặt ra (mục đích) và cái bỏ ra (chi phí).
Không đồng nhất hiệu quả với kết quả trong công tác tuyên truyền.
Mục đích của công tác tuyên truyền là góp phần hình thành ý thức xã hội và
tính tích cực xã hội. Do vậy, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả công tác tuyên truyền
21
cũng được biểu hiện trên hai khía cạnh là: Tiêu chuẩn tinh thần và Tiêu chuẩn thực
tiễn
- Tiêu chuẩn tinh thần: Về mặt tinh thần, hiệu quả của công tác tuyên truyền
được đánh giá bằng các tiêu chuẩn như tính tích cực nhận thức - tri thức - niềm tin.
+ Ở mức độ thấp nhất, hiệu quả công tác tuyên truyền là việc hình thành sự
hứng thú của đối tượng đối với vấn đề nghiên cứu, là tính tích cực nhận thức gắn
với những vấn đề như: lòng say mê, mong muốn mở rộng tầm hiểu biết của mình,
sự quan tâm của đối tượng tuyên truyền đến việc nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng,chính sách, pháp luật của
nhà nước. Trong phạm vi tiêu chuẩn này thì sự phong phú của nhu cầu nhận thức
và sự hứng thú đối với vấn đề cần nhận biết là những chỉ số rất quan trọng. Nếu
không xuất hiện nhu cầu hiểu biết, sự hứng thú đối với vấn đề nào đó thì không thể
đạt tới kết quả nào cả. Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho người cán bộ tuyên truyền là tạo
ra sự hứng thú với đối tượng tuyên truyền về vấn đề cần truyên đạt để làm tiền đề
cho công tác tuyên truyền đạt kết quả cao.
+ Tiếp thu Tri thức mới là mức độ cao hơn của hiệu quả công tác tuyên
truyền. Quá trình thu nhận tri thức mới được thể hiện trong sự thống nhất của nhận
thức lý luận và kinh nghiệm. Căn cứ vào đó ta có thể phân ra các chỉ số của tiêu
chuẩn tri thức như sau: Thứ nhất là, sự am hiểu về những sự kiện, hiện tượng của
thực tế khách quan. Thứ hai là, trình độ tri thức khoa học, kỹ thuật, văn hóa mới
tiếp thu được. Thứ ba là, nắm vững một số vấn đề của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà
nước thông qua hoạt động tuyên truyền, biết vận nó để phân tích các quá trình và
hiện tượng của đời sống xã hội là tiêu chí cao nhất của tiêu chuẩn tri thức.
+ Trên cơ sở tri thức có căn cứ khoa học và thực tiễn, nhận thức biến thành
niềm tin. Niềm tin là tiêu chuẩn cao nhất của hiệu quả công tác tuyên truyền về mặt
tinh thần. Trên cơ sở niềm tin, đối tượng tuyên truyền có lòng trung thành với chủ
22
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với con đường xã hội chủ nghĩa mà
Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Những tiêu chuẩn biểu hiện niềm tin: Một là, mức độ
tin tưởng vào tính khoa học, tính cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, vào sự đúng đắn của tư tưởng, lý
luận, quan điểm được trang bị. Hai là, khả năng đánh giá đúng và định hướng
đúng, sự kiên định lập trường, quan điểm trước những diễn biến phức tạp của hiện
thực xã hội. Ba là, ý chí vững vàng trong cuộc đấu tranh chống ảnh hưởng của hệ
tư tưởng tư sản và các quan điểm, luận thuyết phi khoa học; tinh thần, ý chí đấu
tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan
điểm của Đảng. Bốn là, sự kết hợp chặt chẽ quan điểm với hành động thực tế, sự
sẵn sàng hành động phù hợp với tri thức được trang bị. Do đó, niềm tin tự nó bao
hàm sự thống nhất lời nói với việc làm.
Hiện nay vấn đề hình thành niềm tin của quần chúng đối với chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đối với Đảng, với chủ nghĩa xã hội là rất quan trọng.
Để hình thành niềm tin cho đối tượng, người cán bộ tuyên truyên trước hết phải có
niềm tin vững chắc vào những vấn đề tuyên truyền, giáo dục.
- Tiêu chuẩn thực tiễn: Hiệu quả của công tác tuyên truyền trong thực tiễn
biểu hiện thông qua tính tích cực xã hội của đối tượng tuyên truyền, bao gồm tính
tích cực lao động và tính tích cực chính trị - xã hội.
+ Tính tích cực lao động - sản xuất biểu hiện trong các tiêu chuẩn sau: Một
là, tận tụy với công việc và mức độ sáng tạo trong công việc được giao. Hai là, sự
tinh thông nghề nghiệp, thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao trình độ nghề
nghiệp, trình độ văn hóa và khoa học - kỹ thuật. Ba là, năng suất lao động cao, chất
lượng sản phẩm tốt, tuân thủ nghiêm túc kỷ luật lao động. Bốn là, tham gia tích
cực, sáng tạo vào các phong trào thi đua lao động sản xuất, đổi mới cơ chế kinh tế.
Năm là, biết làm giàu cho mình và cho đất nước bằng lao động chính đáng, biết lao
động trong điều kiện của nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh. Sáu là, tham gia
23
vào việc đấu tranh chống những hành vi vi phạm lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, đấu
tranh chống tham ô, tham nhũng, làm ăn phi pháp...
+Tính tích cực chính trị - xã hội biểu hiện trong các tiêu chuẩn sau: Một là, ý
thức cao về nghĩa vụ công dân và mức độ thực hiện nghĩa vụ đó. Hai là, tham gia
tích cực, nhiệt tình vào việc tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Ba
là, tham gia tích cực, tự giác vào các lĩnh vực khác nhau của công tác xã hội; vào
việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị đặt ra trước xã hội; vào việc quản lý các công
việc của nhà nước, của tập thể, của các tổ chức chính trị - xã hội. Bốn là, tham gia
tích cực, tự giác vào việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, tham gia bầu cử các cơ quan chính quyền Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội, tham gia xây dựng Đảng...Năm là, tham gia tích cực, tự giác vào
cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống chính trị như: tệ quan
liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, tham nhũng, thói thờ ơ chính trị...
Hiện nay, việc hình thành năng lực tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã
hội trở thành một trong các tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá hiệu quả công tác
tuyên truyền. Do đó hướng tới việc hình thành các năng lực ấy cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân là một trong những mục tiêu chủ yếu của công tác tuyên tuyền.
Từ vấn đề nêu trên về hiệu quả công tác tuyên truyền, có thể rút ra một số
vấn đề phương pháp luận trong việc đánh giá hiệu quả công tác tuyên truyền: Một
là, mỗi tác động do tuyên truyên mang lại không chỉ một, mà thường là một loạt
kết quả. Kết quả này biểu hiện ở cả trong ý thức và hành vi của con người, trong tất
cả các lĩnh vực của hiện thực mà con người với tư cách là đối tượng công tác tuyên
truyền tác động đến. Hai là, hiệu quả tác động của công tác tuyên truyền đến lĩnh
vực tinh thần của con người biểu hiện một cách trực tiếp, còn đối với lĩnh vực kinh
tế hoặc chính trị - xã hội thì biểu hiện một cách gián tiếp thông qua kết quả hoạt
động của con người trong lĩnh vực ấy. Ba là, khác với lĩnh vực sản xuất vật chất,
24
nơi hiệu quả thể hiện một cách lập tức, trong một thời gian ngắn, trong lĩnh vực
tuyên truyền kết quả đạt được chỉ thể hiện dần dần, từ từ, trong một thời gian tương
đối dài. Để đánh giá trình độ ý thức giác ngộ, niềm tin... cần có thời gian. Mặt
khác, có những tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả công tác tuyên truyền chỉ bộc lộ ra
bằng hành động trong những điều kiện nhất định (ví dụ: lòng căm thù giặc như một
biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước chỉ thể hiện bằng hành động trong những điều
kiện nhất định, chẳng hạn trong điều kiện đất nước có nạn ngoại xâm). Bốn là,
trong lĩnh vực tuyên truyền những chỉ số của hiệu quả về số lượng cũng được áp
dụng (ví dụ: số sách đã đọc, số lần đi xem phim, nghe thời sự...). Tuy nhiên, những
chỉ số về số lượng không phải là chủ yếu. Chỉ số chủ yếu của hiệu quả công tác
tuyên truyền là những chỉ số mang tính chất lượng (sự chuyển hóa của tri thức
thành niềm tin, thành động cơ hành động...). Vì vậy, cần xác định phương pháp
đánh giá hiệu quả một cách thích hợp. Năm là, hiệu quả công tác tuyên tuyền được
đánh giá trong sự thay đổi về kiến thức, thái độ và hành vi của đối tượng, do đó nó
được đo lường ở phía đối tượng, ngay trong ý thức và hành vi của đối tượng. Sáu
là, khi nói đến hiệu quả người ta nhớ đến lời phân tích của V.I.Lênin về hiệu quả:
"có khả năng thu được kết quả nhiều nhất, vững chắc nhất, mà lại ít tốn sức nhất".
Kết quả cao chưa nhất thiết đưa lại hiệu quả cao. Hiệu quả cao chỉ khi cùng một kết
quả nhưng chi phí thấp nhất. Cho nên, trong công tác tuyên truyền phấn đấu đạt
hiệu quả cao không phải bằng mọi giá, mà phải bằng cách sử dụng những phương
pháp công tác tốt nhất, có hiệu lực nhất.
Tóm lại, hiệu quả cụ thể của công tác tuyên truyền là một thể thống nhất của
hiệu quả tinh thần và hiệu quả thực tiễn, được thể hiện trên ba mức độ từ thấp đến
cao theo con đường tri thức - niềm tin - hành động thực tiễn. Mức độ hành động
thực tiễn (tính tích cực) là trình độ cao nhất của hiệu quả công tác tuyên truyền. Ở
mức độ này công tác tuyên truyền trở thành một yếu tố của sự phát triển kinh tế,
chính trị, xã hội. Tác động của công tác tuyên truyền đến ý thức và hành vi của con
25
người không kết thúc ở mức độ thứ ba (hành động thực tiễn). Trong quá trình hoạt
động thực tiễn, ở mỗi người lại xuất hiện nhu cầu nắm vững tri thức mới cần thiết
cho hoạt động thực tiễn của mình. Cứ như vậy chu trình tác động của công tác
tuyên truyền hoàn thành và chuyển lên trình độ cao hơn.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
26
TRONG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH GIA LAI
I.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIẾU SỐ CỦA TỈNH.
1. Tổng quan tình hình tỉnh Gia Lai.
Nằm ở cửa ngõ bắc Tây Nguyên, có toạ độ địa lý từ 12o 58/ 40// đến 14o 37/ 00//
vĩ độ bắc, 107o 27/ 30// đến 108o 50/ 40// kinh độ đông, Gia Lai có diện tích tự nhiên
15.495,71 Km2. Hiện nay Gia Lai phía bắc giáp tỉnh Kon Tum; phía đông giáp tỉnh
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên; phía nam giáp tỉnh Đăk Lăk; phía tây giáp với
đông bắc Campuchia, với đường biên giới chung dài 90 km. Gia Lai có 3 đường
quốc lộ đi qua: xuyên theo hướng Bắc - Nam có trục quốc lộ 14 nối cả Tây Nguyên
với vùng động lực kinh tế Miền Trung (Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và
miền Đông Nam bộ (vùng động lực kinh tế phía nam); theo hướng Đông - Tây có
quốc lộ 19 và 25 nối Gia Lai với cảng Qui Nhơn và các tỉnh duyên hải Miền Trung
Với vị trí địa lý như trên đã tạo cho tỉnh Gia Lai những điều kiện thuận lợi để
giao lưu hàng hoá, phát triển, thiết lập mối quan hệ bền chặt cả về kinh tế - xã hội
và an ninh - quốc phòng trong vùng và cả nước. Đồng thời là một tỉnh biên giới,
Gia Lai có điều kiện để hình thành và phát triển các cửa khẩu quốc tế, nhằm mở
rộng giao lưu, phát triển kinh tế văn hoá giữa Việt Nam với Campuchia và các
nước trong khu vực. Nằm trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, Gia Lai được ví như
nóc nhà của ba nước Đông Dương; nơi đây trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, chiến sự diễn ra rất ác liệt. Việc nắm được địa bàn trọng
yếu Gia Lai, có thể kiểm soát và không chế phần lớn Tây Nguyên và một phần
vùng Đông bắc Campuchia. Chính vì vậy trong các giai đoạn lịch sử trước kia,
cũng như thời điểm hiện nay, các thế lực thù địch không từ mọi thủ đoạn để chống
phá sự nghiệp cách mạng ở tỉnh. Nhưng với truyền thống yêu quê hương, yêu hoà
bình, kiên cường, bất khuất, thông minh, sáng tạo đồng bào các dân tộc tỉnh Gia
Lai đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
27
nhất đất nước trước kia, cũng như xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an
ninh - quốc phòng hiện nay.
Gia Lai là vùng đất có đông đồng bào dân tộc sinh sống. Tính đến thời điểm
cuối năm 2008, tỉnh Gia Lai có 34 dân tộc anh em sinh sống, với dân số trung bình
là 1.213.750 người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 44,6%. Riêng
dân tộc Jrai và Bahnar, hai nhóm cư dân bản địa sinh sống lâu đời ở địa phương,
chiếm tỷ lệ trên 42% dân số toàn tỉnh.
Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, tỉnh ta đã chú trọng
đầu tư cơ sở hạ tầng tạo tiền đề tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống của các
tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số. Hệ thống giao thông phát
triển rộng khắp trên địa bàn tỉnh. Giao thông liên huyện, liên xã, giao thông nông
thôn được đầu tư xây mới, gia cố, nâng cấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao
lưu, phát triển kinh tế-xã hội. Hiện nay, 100% số xã trong toàn tỉnh đã có điện, số
hộ dân được sử dụng điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất không ngừng tăng. Hệ
thống bưu chính, viễn thông của tỉnh những năm qua phát triển nhanh cả về mạng
lưới và chất lượng dịch vụ. Đến cuối năm 2008, toàn tỉnh đã có 203/215 xã,
phường, thị trấn có báo đến trong ngày. Tỷ lệ thuê bao điện thoại đạt 49,4 thuê
bao/100 dân; tỷ lệ thuê bao Internet đạt 1,01 thuê bao/100 dân. Hoạt động báo chí,
xuất bản, phát thanh, truyền hình có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ hộ dân được nghe đài trên
địa bàn tỉnh đạt 96,5%, xem truyền hình đạt 91%. Hoạt động đi lại ngày càng thuận
lợi, hệ thống thông tin mở rộng đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao hiệu quả
công tác tuyên truyền.
Các hoạt động văn hóa-xã hội của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, đời
sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào dân tộc
Jrai, Bahnar không ngừng được cải thiện. Năm 2008, GDP bình quân đầu người
toàn tỉnh đạt 10,523 triệu đồng, tương đương 622 USD/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo
toàn tỉnh năm 2008 còn 18,12%. Trình độ dân trí từng bước được nâng lên. Sự
28
nghiệp giáo dục của tỉnh có bước phát triển cả về quy mô và chất lượng. Năm học
2008-2009, toàn tỉnh có 701 trường học (tăng 32 trường so với năm học 2007-
2008) với 333.163 học sinh. Toàn tỉnh có 143/215 xã, phường, thị trấn (tỷ lệ
66,5%) và 3/16 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học
cơ sở. Đời sống vật chất được cải thiện, trình độ dân trí được nâng lên đã tác động
tích cực đến việc tiếp nhận và xử lý thông tin của đồng bào Jrai, Bahnar của tỉnh.
2. Đặc điểm dân cư và tổ chức xã hội của đồng bào Jrai, Bahnar.
* Về dân tộc Jrai:
Dân tộc Jrai thuộc ngữ hệ Mã Lai-Đa Đảo (Malayo-Poliuesien). Theo GS.
Đặng Nghiêm Vạn “Jrai là tên chính thức của dân tộc. Đó là tên tự gọi một tiếng
đồng âm và cũng có thể đồng nghĩa với từ Giơ-rai (thác nước). Người giải thích tộc
danh Jrai theo nghĩa này cho rằng, có lẽ tổ tiên của dân tộc đã từng sinh tự nơi có
nhiều thác ghềnh của một con sông nào đó”17. Dân tộc Jrai cư trú trên một vùng đất
rộng lớn chạy suốt từ Kon Tum, Gia Lai đến phía bắc tỉnh Đăk Lăk, phía Tây tỉnh
Khánh Hòa. Dân tộc Jrai sống tập trung đông nhất ở tỉnh Gia Lai. Ở Gia Lai, khu
vực cư trú chính của đồng bào Jrai là phía tây cao nguyên Pleiku, gồm các huyện
Chư Păh, Ia Grai, Đức Cơ, Chư Prông, Chư Sê, thành phố Pleiku và các huyện ở
phía tây nam của tỉnh như: Phú Thiện, Ia Pa, Krông Pa và thị xã Ayun Pa. Những
địa phương có đồng bào Jrai sinh sống đông là Chư Sê, Ia Grai, Krông Pa, Phú
Thiện, Chư Prông.
Dân tộc Jrai có nhiều nhóm địa phương. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa,
dân tộc học người Jrai có 5 nhóm địa phương chính: Thứ nhất, Jrai Chor (còn gọi là
Cheo Reo hay Phun), cư trú chủ yếu ở thị xã Ayun Pa và hai huyện Phú Thiện, Ia
Pa. Nhiều người cho rằng, đồng bào Jrai ở vùng này còn bảo lưu nhiều đặc điểm
mang tính chất tiêu biểu của tộc người Jrai. Thứ hai, Jrai Hđrung (có hai nhóm nhỏ
là Hơbâu và Chon), địa bàn cư trú chủ yếu ở thành phố Pleiku, huyện Chư Păh, tây
huyện Đăk Đoa, đông huyện Chư Prông. Nét nổi bật của nhóm này là còn bảo lưu 17 Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên): các dân tộc tỉnh Gia Lai-Kon Tum, NXB KHXH Hà Nội, 1981, Tr93.
29
khá đầy đủ kiến trúc nhà đặc trưng theo phương pháp cổ truyền của tộc người Jrai.
Thứ ba, Jrai Aráp địa bàn cư trú ở tây nam tỉnh Kon Tum, huyện Ia Grai và một
phần huyện Chư Păh. Nhóm cư dân này sống gần với đồng bào Bahnar nên mang
nhiều nét đặc trưng văn hóa của tộc người Bahnar. Thứ tư, Jrai Mthur sinh sống ở
địa bàn giáp ranh giữa các vùng cư trú của một số dân tộc có cùng ngữ hệ như Ê
Đê, Chăm. Theo các nhà nghiên cứu dân tộc học, những dân tộc này được hình
thành, phát triển từ một cội nguồn nên rất gần nhau về văn hóa, nhất là phong tục
tập quán và sinh hoạt văn hóa. Ở tỉnh Gia Lai, nhóm cư dân địa phương này sống
tập trung chủ yếu ở huyện Krông Pa. Thứ năm, Jrai Tbuăn (Puôn) cư trú ở vùng
biên giới Việt Nam-Campuchia. Ở Gia Lai, những địa phương có đồng bào Jrai
Tbuăn sinh sống là các huyện Chư Prông, Đức Cơ. Nhóm này sống gần với địa bàn
cư trú của người Khme nên trong ngôn ngữ có sự pha trộn về mặt từ và ngữ âm
giữa tiếng Jrai và Khme.
Phương thức sản xuất cổ truyền của người Jrai còn khá sơ khai, công cụ sản
xuất thô sơ, kỹ thuật canh tác quảng canh. Họ sống chủ yếu dựa vào rừng. Rừng
nuôi họ, rừng là nguồn cung cấp chủ yếu từ đất đai canh tác đến các nhu yếu phẩm
cần thiết phục vụ đời sống hàng ngày. Hiện nay, phương thức sản xuất của đồng
bào Jrai có sự thay đổi theo hướng hiện đại. Kinh tế của đồng bào ít phụ thuộc hơn
vào rừng, sản xuất hàng hóa trong vùng đồng bào dân tộc Jrai bắt đầu phát triển.
Nhờ vậy, mức sống của người dân được cải thiện đáng kể.
Đồng bào Jrai có tập quán sống thành từng làng. Làng theo ngôn ngữ của
đồng bào là Plơi hay Bon. Trong làng, buôn các gia đình có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Ở các làng đã hình thành tự nhiên một tổ chức hội đồng già làng. Hội đồng
có trách nhiệm cử ra một người đứng đầu. Người đứng đầu hội đồng già làng là
những người có uy tín hoặc giàu có. Người đứng đầu hội đồng có trách nhiệm đứng
ra lãnh đạo công việc chung như dời làng, đặt tên làng, tổ chức các lễ hội truyền
thống, dựng nhà cho từng gia đình, tổ chức cứu trợ, giúp đỡ những gia đình neo
30
đơn, nghèo khổ…Tổ chức hội đồng già làng có trách nhiệm điều hòa, tập hợp các
gia đình thành một khối cộng cư thống nhất. Đến trước thời kỳ thực dân Pháp xâm
chiếm Tây Nguyên, ở vùng đồng bào Jrai đã hình thành những liên minh làng gọi
là tring. Trong làng đồng bào Jrai hình thành những luật tục, quy định những điều
mà tất cả thành viên trong làng phải tuân theo. Luật tục thường không thành văn
được truyền miệng bằng văn vần. Luật tục của đồng bào Jrai có tính dân chủ cao.
Những người vi phạm luật tục như trộm cắp, cướp của, giết người, loạn luân, hiếp
dâm, chửa hoang …được xử tội theo luật tục. Việc xử tội do già làng đứng ra chủ
trì, được tuân thủ theo các quy định có tính chất “công bằng tự nhiên” như: hai bên
thi nhau lặn nước, đun chì chảy đổ vào lòng bàn tay có lót lá, chặt đầu gà vứt xuống
nước… Tóm lại, làng là đơn vị cư trú lâu đời của người Jrai, những thành viên
sống trong làng phải tuân thủ các quy định chung của làng. Điều này đã ăn sâu vào
tiềm thức của mỗi người. Tính cộng đồng trong đồng bào dân tộc Jrai rất lớn, điều
này chi phối trực tiếp đến hiệu quả hoạt động tuyên truyền trong vùng đồng bào
dân tộc Jrai.
Tế bào nhỏ của làng là các gia đình. Người Jrai theo chế độ mẫu hệ và ngoại
hôn. Sau khi cưới nhau, người con trai phải sống bên nhà vợ. Việc hôn nhân với
người cùng họ hoàn toàn bị luật tục nghiêm cấm. Con gái lớn lên cưới chồng phải
tách ra ở riêng. Mỗi nhà sàn của người Jrai là một gia đình nhỏ thường chỉ có hai
vợ chồng và con cái. Người con trai đi lấy vợ không được chia của, con gái lấy
chồng được chia một phần tài sản của gia đình. Người đàn ông có vợ hầu như phụ
thuộc hoàn toàn vào gia đình vợ. Địa vị của người đàn ông trong gia đình Jrai thấp
hơn phụ nữ. Người vợ theo luật tục là chủ gia đình. Trong những việc có liên quan
đến cộng đồng, người đàn ông đóng vai trò quyết định. Người Jrai trong quá trình
giao lưu văn hóa đã có một số biến đổi, nhưng những nét đặc thù truyền thống vẫn
được bảo tồn, lưu giữ nhất là những địa phương vùng sâu, vùng xa.
*Về dân tộc Bahnar.
31
Dân tộc Bahnar thuộc ngữ hệ Môn-Khme. Họ là một trong những dân tộc
sinh sống lâu đời nhất ở Tây Nguyên. Địa bàn cư trú của dân tộc Bahnar hẹp hơn
dân tộc Jrai. Đồng bào Bahnar sống chủ yếu ở nam tỉnh Kon Tum, các huyện phía
tây tỉnh Bình Định, Phú Yên và đông nhất là ở đông, bắc tỉnh Gia Lai. Người
Bahnar có nhiều nhóm địa phương như: Kren ở phía tây tỉnh Bình Định, nhóm Kon
Tum, Rơngao, Jơlơng (Ylơng) cư trú chủ yếu ở tỉnh Kon Tum. Ở tỉnh Gia Lai,
người Bahnar có 4 nhóm địa phương chính. Thứ nhất Bahnar Gơlar, địa bàn sinh
sống chủ yếu ở các huyện Mang Yang, Đăk Đoa. Đây là nhóm Bahnar có số lượng
cư dân đông của tộc người Bahnar. Thứ hai, Bahnar Bơnâm sống ở vùng rừng già,
canh tác chủ yếu bằng đốt nương làm rẫy. Địa bàn cư trú của nhóm Bahnar địa
phương này tập trung chủ yếu ở một số xã phía bắc huyện Kbang như Krong, Lơ
Ku…Do sống trong vùng rừng núi tương đối hiểm trở, ít giao lưu với bên ngoài,
nên đến giữa thế kỷ XX, nhóm cư dân này vẫn còn lưu giữ khá đậm nét các yếu tố
văn hóa cổ xưa; những dấu vết của hình thái kinh tế săn bắn còn khá đậm nét. Thứ
ba, Bahnar Tơlô sống ven sông Ba trên các các vùng đất tương đối rộng và bằng.
Địa bàn cư trú chủ yếu của nhóm địa phương này ở huyện Kông Chro. Nhóm này
có số lượng dân cư tương đối đông, có sự tiếp xúc văn hóa rộng rãi hơn các nhóm
Bahnar địa phương khác. Thứ tư, Bahnar Kon Kơđéh được coi là nhóm địa phương
trung gian giữa hai nhóm Bahnar Bơnâm và Bahnar Tơlô. Phương pháp canh tác
vừa làm nương theo cách hỏa canh, vừa bắt đầu làm ruộng nước theo cách sơ khai.
Địa bàn cư trú chủ yếu của nhóm Bahnar Kon Kơđéh là ở huyện Đăk Pơ và một số
xá phía nam của huyện Kbang.
Về phương thức sản xuất, cũng giống như đồng bào Jrai, đến giữa thế kỷ
XX, nền sản xuất của đồng bào Bahnar với một hệ thống canh tác sơ khai, công cụ
sản xuất thô sơ, kỹ thuật canh tác quảng canh. Đồng bào Bahnar cũng sống dựa vào
rừng, nền kinh tế còn nhiều tàn tích của kinh tế chiếm đoạt như hái lượm, săn bắn.
Trong sản xuất cổ truyền của đồng bào Bahnar, chăn nuôi chưa tách khỏi trồng trọt,
32
việc chăn thả gia súc còn khá phổ biến. Sản xuất của đồng bào còn dựa khá nhiều
vào tự nhiên, tự túc, tự cấp. Việc phân công lao động theo giới được tuân thủ khá
chặt chẽ. Đồng bào Bahnar lao động có tính tự giác cao nhưng trình độ lao động
tương đối thấp, lao động thiếu một nhịp độ cao, cường độ lao động thấp. Hiện nay,
dưới tác động của khoa học-kỹ thuật và phương thức sản xuất mới, trình độ sản
xuất của đồng bào Bahnar được nâng lên đáng kể. Việc sản xuất chuyên canh, thâm
canh, sản xuất hàng hóa bước đầu phát triển. Tuy nhiên, những đặc điểm của
phương thức sản xuất dựa vào tự nhiên vẫn còn tồn tại trong nền kinh tế của đồng
bào Bahnar. Có một đặc điểm văn hóa đặc trưng của đồng bào Bahnar là họ rất
thuần phác, thật thà, không chấp nhận kiểu làm dối, làm ẩu, chạy theo số lượng. Họ
ưa sự hoàn chỉnh, bền chắc, sản phẩm làm ra đảm bảo thẩm mỹ theo khuôn mẫu đã
định. Đồng bào Bahnar ghét sự giả dối. Sự dối trá trong bất kỳ trường hợp nào đều
coi là tội lỗi. Đối với họ, danh dự của bản thân và cộng đồng được đặt lên trên hết.
Phương thức sản xuất và một số đặc điểm văn hóa trên có tác động nhất định đến
hiệu quả công tác tuyên truyền.
Giống như nhiều dân tộc thiểu số bản địa khác ở Tây Nguyên, làng là đơn vị
xã hội rất quan trọng của đồng bào Bahnar. Khác với đồng bào Jrai, ngoài đơn vị
làng, đã bước đầu hình thành cộng đồng lớn hơn bằng hình thức liên minh giữa các
làng gọi là tơring, với xã hội cổ truyền của đồng bào Bahnar, làng là đơn vị xã hội
duy nhất. Theo ngôn ngữ Bahnar, làng được gọi là plei hay pơlei. GS Đặng Nghiêm
Vạn cho rằng “làng người Bahnar không phải là cộng đồng những người cùng
chung một huyết thống. Đó là những công xã láng giềng, tụ tập những gia đình tự
nguyện cùng chung sống với nhau. Người nào muốn nhập cư phải được sự đồng ý
của chủ làng, cũng phải dựng nhà ở rìa làng một vài năm và chỉ được dọn vào
trong hàng rào, nếu qua thời gian đó dân làng không bị một tai họa nào. Thành viên
trong làng là một khối thống nhất. Chưa thấy trong làng truyền thông sự tách biệt
giữa cá nhân và tập thể”18.18 Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên): Các dân tộc tỉnh Gia Lai-Kon Tum, NXB KHXH Hà Nội, 1981, Tr76
33
Làng của đồng bào Bahnar xưa kia được bố phòng khá cẩn mật bằng hàng
rào vây quanh làng. Các nhà trong làng bao quanh nhà rông. Nhà rông là nơi tụ họp
các già làng, trai tráng trong làng đến vui chơi, tham dự các buổi họp làng, nơi
khách lạ đến làng tạm trú, các trai tráng làng bên đến vui chơi và tìm hiểu gái
làng…Điều khiển các công việc chung của làng là hội đồng già làng, đứng đầu là
chủ làng. Người đứng đầu hội đồng già làng là người được tín nhiệm và am hiểu
các phong tục tập quán, thường được cha truyền con nối, một số ít do dân bầu lên.
Việc điều khiển các hoạt động trong làng của hội đồng già làng trên cơ sở sự bàn
bạc nhất trí của toàn thể dân làng. Khi việc đã được quyết định, dưới sự điều khiển
của các già làng, từng thành viên trong làng tự giác hoàn thành. Có điểm rất thú vị
các chức dịch trong làng, kể cả chủ làng cũng không có đặc quyền gì. Quan hệ giữa
các thành viên trong làng là quan hệ bình đẳng. Từ khi Pháp xâm chiếm Tây
Nguyên đến nay, dưới sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau đã làm phá vỡ dần tổ
chức và các quan hệ xã hội truyền thống của đồng bào Bahnar. Tuy nhiên, những
giá trị truyền thống sản sinh từ quan hệ xã hội cổ truyền như: tính đoàn kết thống
nhất giữa các thành viên của làng, quan hệ xã hội bình đẳng, công bằng giữa các
thành viên, tính tổ chức và tính tự giác…vẫn được lưu giữ. Những vấn đề đó có tác
động lớn đến việc tổ chức và hiệu quả các hoạt động tuyên truyền hiện nay.
Gia đình đồng bào Bahnar có những đặc điểm khác biệt với gia đình của
đồng bào Jrai, biểu hiện cụ thể nhất là ở thể chế hôn nhân và vị thế của người vợ,
người chồng trong gia đình. Nhiều nhà nghiên cứu nhận định, thể chế hôn nhân của
đồng bào Bahnar chưa thể xác định rõ là phụ hệ hay mẫu hệ. Theo GS Đặng
Nghiêm Vạn và nhóm đồng sự “gia đình Bahnar nghiêng về dòng họ cha, nhưng
không hiếm trường hợp rể có thể trở về làng bên vợ. Điều này là tùy theo ý nguyện
của hai bên gia đình, nhất là gia đình bên vợ. Trong xã hội Bahnar, địa vị xã hội
của người đàn ông khá rõ. Họ là người đại diện cho gia đình giao tiếp với làng
xóm, với khách buôn bán, điều khiển việc sản xuất, nhưng họ không tự quyền và
34
thường bàn bạc với toàn thể gia đình, kể cả thành viên trai và gái. Ý kiến bà vợ chủ
nhà được coi trọng, thậm chí có khi là quyết định và người chồng chỉ là người thi
hành”19. Trong gia đình người Bahnar, mọi người thường lao động chung và tài sản
làm ra là của chung. Các thành viên trong gia đình cũng có tài sản riêng do lao
động mang lại, nhưng tài sản riêng, trừ những thứ quý, còn lại thường được sử
dụng chung. Với đồng bào Bahnar, quyền lợi chung của gia đình được đặt lên trên
hết, tuy nhiên các thành viên trong gia đình vẫn tôn trọng và không lạm dụng sử
dụng tài sản riêng của từng người. Trong gia đình người Bahnar, người già được
coi trọng, tiếng nói của người già thường được xem là đúng đắn và được làm theo.
Người Bahnar ưa nhiều con, đồng bào có tục nhận con nuôi để gia đình thêm đông.
Trẻ em trong gia đình được thương yêu, chiều chuộng, ít khi bị đánh mắng. Gia
đình Bahnar không có sự phân biệt vợ cả, vợ lẽ, con đẻ, con nuôi, người lớn tuổi
hơn làm anh, người nhỏ tuổi hơn làm em. Gia đình người Bahnar được tổ chức chặt
chẽ và cá thành viên trong gia đình sống hài hòa, bình đẳng.
Trình bày khái lược một số vấn đề về dân cư và tổ chức xã hội của đồng bào
Bahnar, Jrai vì đây là những yếu tố nền tảng chi phối rất lớn đến đời sống vật chất,
tinh thần, nếp nghĩ, tư duy của đồng bào. Điều này tác động trực tiếp đến việc tiếp
nhận và xử lý thông tin của đồng bào với tư cách là đối tượng của công tác tuyên
truyền.
3. Những nhân tố tác động và thực trạng trình độ tiếp nhận và xử lý
thông tin của đồng bào Jrai, Bahnar.
* Tác động của giá trị văn hóa truyền thống.
Dân tộc Jrai và Bahnar là hai cư dân bản địa có nền văn hóa lâu đời và đặc
sắc ở Tây Nguyên. Các cộng đồng xã hội làng, buôn được liên kết bởi hai yếu tố
đặc trưng: huyết thống và sự bình đẳng sơ khai. Buôn, làng là tổ chức hành chính
duy nhất khép kín. Các thành viên trong cộng đồng làng, buôn chỉ tiếp xúc với bên
ngoài khi có quan hệ hôn nhân, lưu thông và trao đổi về công cụ sản xuất, nhu yếu 19 Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên): Các dân tộc tỉnh Gia Lai-Kon Tum, NXB KHXH Hà Nội, 1981, Tr 142
35
phẩm sinh hoạt và một phần là giao lưu văn hóa. Dưới làng đậm nét nhất vẫn là
dòng họ rồi đến gia đình và những thành viên. Già làng hoặc hội đồng già làng giữ
vai trò rất quan trọng trong đời sống cộng đồng. Đời sống cộng đồng khép kín
trong các buôn, làng và sự gắn bó với núi rừng hoang sơ đã tạo nên các đặc tính
thuần phác, giao hòa giữa người với người và giữa con người với thiên nhiên, đất
trời. Ngày nay, tuy tổ chức xã hội cổ truyền đã có sự thay đổi lớn, quan hệ xã hội
giữa các thành viên trong cộng đồng làng, buôn được mở rộng, nhưng những nét
tính cách thuần phác, tư duy, quan niệm về ứng xử giữa người với người và giữa
người với tự nhiên thuần hậu vẫn còn được duy trì trong cộng đồng dân tộc Jrai,
Bahnar. Điều này ảnh hưởng trực và định hình trình tiếp nhận và xử lý thông tin
của đồng bào hiện nay.
Một trong những nét đặc trưng truyền thống còn được lưu giữ trong đời của
đồng bào JRai, Bahnar là tất cả mọi người trong cộng đồng đều được bình đẳng,
các thành viên trong cộng đồng nương tựa vào gia đình, buôn, làng để tồn tại. Họ
chia xẻ trước những niềm vui của người trong gia tộc, làng, buôn và cùng xót đau
trước những khó khăn, thất bại, mất mát của những người trong gia đình, buôn,
làng. Những quan hệ ấy được hình thành , hun đúc và thử thách qua nhiều thế hệ,
dần dần định hình thành những phong tục tập quán khá bền chặt. Sống trong môi
trường xã hội đó con người thường thiên về tình cảm, sống chất phát, thật thà, thuỷ
chung, trọng tín nghĩa. Những nét tính cách tốt đẹp này chi phối rất lớn đến tâm lý
tiếp nhận thông tin của đồng bào.
Bên cạnh những nét tính cách, tâm lý tích cực đã nêu trên, yếu tố cố kết cộng
đồng trong một không gian nhỏ bé, tương đối biệt lập giữa các làng sẽ khiến cho
con người dễ có tâm lý bằng lòng với cuộc sống thực tại nghèo nàn, thấp kém, ít có
tâm lý tiếp thu cái mới để vươn lên. Hơn nữa, quan niệm giản đơn về tính bình
đẳng kiểu nguyên sơ, sẽ kéo theo mặt trái là thói dựa dẫm, ỷ lại, tư tưởng cầu an, cả
36
nể và cào bằng. Đây là một trong những rào cản lớn đối với việc tiếp thu các tri
thức mới thông qua hoạt động tuyên truyền.
Được cố kết với dòng họ, bởi tình làng nghĩa xóm qua nhiều thế hệ trên địa
bàn tương đối ổn định. Sản phẩm của tính cộng đồng đó là một tập thể buôn làng
mang tính tự trị. Tính tự trị thường chú trọng nhấn mạnh sự khác biệt giữa các dân
tộc. Tính tự trị cũng nêu cao tinh thần tự lập, tự lo liệu lấy mọi công việc. Nhờ vậy
con người thường chịu thương, chịu khó. Nhưng mặt khác, do tính tự trị mà con
người dễ có thói ích kỉ, đố kị và cục bộ….Điều này tác động trực tiếp đến tâm lý và
khả năng tiếp nhận, xử lý thông tin của đồng bào thông qua các hoạt động tuyên
truyền. Đây cũng là vấn đề rất đáng lưu ý trong công tác tư tưởng, công tác tuyên
truyền, nhất là khi các thế lực thù địch lợi dụng để kích động, chia rẽ khối đoàn kết
giữa các dân tộc.
Nhận thức về vũ trụ theo tín ngưỡng dân gian, người Jrai, Bahnar tin rằng
trong thế giới tự nhiên muôn hình muôn vẻ, có một lực lượng vô hình tác động đến
mọi mặt đời sống con người. Lực lượng vô hình ấy được gọi chung là Yang (thần
linh). Theo quan niệm của ngươi Jrai có rất nhiều Yang. Trong các Yang đó, đồng
bào Jrai xem trọng hơn cả là Yang Sang (thần nhà), Yang Bôn (thần làng), Yang
Pin Ia (thần bến nước), Yang Bhertơngia (thần bản mệnh trẻ em) và Yang Pơtao
(thần gọi mưa). Trong cuộc sống trước đây của người Jrai, những Yang này luôn
được nhắc đến trong các lễ cúng. Đối với người Bahnar thì Bok Keidei (thần nam)
và Yă Kungkek (thần nữ) là hai vị thần tối cao, tạo ra vũ trụ và muôn loài, được
người Bahnar rất kính trọng. Bok Glăile (thần sấm sét) là vị thần mà người Bahnar
kinh sợ. Ngoài những thần cao siêu, đồng bào Jrai và Bahnar còn quan niệm có
những thần là động vật, cây cối, đồ dùng…mà con người kết thân được. Trên nền
tảng tín ngưỡng mang màu sắc dân gian đậm nét, người Bahnar và Jrai có những ý
tưởng rất phong phú và độc đáo khi ứng xử với người chết, với linh hồn, với vạn
vật hữu linh…nhưng lại có quan niệm đơn giản về vũ trụ quan và nhân sinh quan
37
bằng kiểu tư duy trực quan cụ thể điển hình. Kiểu tư duy này phản ánh trình độ
nhận thức của đồng bào.
Thói quen tư duy phản ánh rõ nét thực trạng trình độ tiếp nhận và xử lý
thông tin của đối tượng tuyên truyền. Đối với đồng bào Jrai, Bahnar của tỉnh Gia
Lai sống gắn bó với môi trường tự nhiên, hoang sơ hàng ngàn năm. Bắt đầu từ cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đồng bào mới bước đầu mở rộng giao lưu kinh tế-văn
hóa trên diện rộng. Đặc biệt sau hơn 30 năm giải phóng, với sự đầu tư lớn của nhà
nước về cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội và tập trung đẩy mạnh phát triển giáo dục
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nên đã tác động rất lớn đối với nhận thức của
đồng bào. Tuy nhiên, hiện nay sức ỳ truyền thống vẫn còn tồn tại khá rõ nét trong
một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số của địa phương. Với môi trường
sống gần gũi với tự nhiên và tương đối cách biệt trong thời gian dài đã hình thành
nên nếp tư duy trực quan cụ thể điển hình ở đồng bào. Đặc trưng của lối tư duy này
là dựa vào những cảm nhận bằng tai, bằng mắt, mộc mạc, giản đơn. Chính kiểu tư
duy trực quan cụ thể đã tạo cho đồng bào có nếp nghĩ đơn sơ, trung thực, thẳng
thắn, thấy sao nói vậy, ít suy tư những điều rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi tầm khái
quát cao. Điều này chi phối rất lớn đối với quá trình tiếp nhận thông tin của đồng
bào dân tộc thiểu số địa phương. Từ thực tế này đòi hỏi công tác tuyên truyền trong
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh phải hết sức cụ thể, rõ ràng và ngắn gọn, có
chứng minh, liên hệ với thực tiễn, với đời sống của đồng bào để họ dễ nắm bắt và
tiếp thu các nội dung tuyên truyền.
Tư duy trực quan cụ thể khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng và thế giới xung
quanh phản ánh trình độ nhận thức của đồng bào. Nhận diện rõ điều này có ý nghĩa
rất quan trọng đối với công tác tư tưởng nói chung và hoạt động tuyên truyền nói
riêng trong đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay. Vì quá trình tiếp nhận, xử lý thông
tin, dần đi đến thay đổi nhận thức và hành động của đối tượng tuyên truyền dựa
38
trên nền tảng trình độ tư duy. Điều này quyết định đến hiệu quả của công tác tuyên
truyền.
* Tác động của truyền thống yêu nước, một lòng theo Đảng, cách mạng.
Mặc dầu có một số yếu tố khác nhau về ngôn ngữ, văn hoá, phong tục, tập
quán nhưng đồng bào Jrai, Bahnar có chung một đặc điểm là tinh thần yêu quê
hương, đất nước, ý thức cộng đồng, ý thức tự tôn dân tộc rất mạnh mẽ. Trong đó,
tinh thần yêu quê hương, đất nước trở thành giá trị văn hoá đặc sắc, xuyên suốt qua
mọi thời kỳ lịch sử trong đời sống tinh thần của đồng bào.
Vào cuối thế kỉ XIX khi Pháp xâm chiếm Tây Nguyên, trong đó có Gia Lai,
đồng bào Jrai và Bahnar với tinh thần bất khuất, bất hợp tác với Pháp, đã tổ chức
nhiều trận đánh du kích, gây khó khăn và làm chậm lại mưu đồ thôn tính Tây
Nguyên của thực dân Pháp. Khi Pháp đã xâm chiếm Gia Lai, đồng bào bền bỉ chiến
đấu, phong trào trước thất bại, phong trào sau nối tiếp dấy lên. Vùng này bị đàn áp
tan rã phong trào đấu tranh, vùng khác lại tiếp tục đứng lên, lúc ngấm ngầm, lúc
rầm rộ bộc phát gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất.
Sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và nhất là sau Cách mạng tháng
Tám thành công, đồng bào Jrai, Bahnar sớm đón nhận sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó
đồng bào một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ. Trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng bào Jrai và Bahnar
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không tiếc của cải, máu xương đóng góp lớn cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đã sản
sinh ra nhiều anh hùng là dân tộc Jrai và Bahnar như : anh hùng Núp, liệt sỹ Wừu,
Y Đôn, … dân tộc Bahnar ; KPuiThu, Kpa Klơng, Rơ Chăm Ớt, Kpa Ó, A Sanh…
dân tộc JRai.
Có thể nói tinh thần yêu quê hương, đất nước, trung thành với sự nghiệp
cách mạng của Đảng, một lòng theo Bác Hồ là những giá trị truyền thống đặc sắc,
đồng thời cũng là điểm nổi bật trong tư tưởng của đồng bào Jrai và Bahnar ở tỉnh
39
Gia Lai. Đây là tiền đề rất thuận lợi đối với công tác tuyên truyền trong đồng bào
dân tộc Jrai và Bahnar ở địa phương. Các cấp, các ngành, đoàn thể và lực lượng
tuyên truyền nếu biết phát huy đặc điểm mang tính truyền thống này sẽ thu được
thành công lớn trong công tác tư tưởng.
* Tác động của cơ chế kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước được xác lập
ở nước ta tác động mạnh mẽ vào đời sống vật chất và tinh thần, tạo biến đổi sâu sắc
trong nhận thức của người dân, trong đó đồng bào dân tộc Jrai, Bahnar. Một bộ
phận đồng bào dân tộc địa phương tiếp cận và thích ứng được với cơ chế mới đã
đổi mới phương thức làm ăn và giàu lên nhanh chóng, có xu hướng ủng hộ cái mới.
Tuy nhiên, một bộ phận khá lớn đồng bào do sống ở vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, do điều kiện kinh tế khó khăn, chậm phát triển, trình độ dân trí thấp, thông
tin bị hạn chế, lại chậm được tuyên truyền, giải thích một cách thấu đáo nên nhìn
nhận nền kinh tế thị trường còn phiến diện. Nhiều người chỉ nhìn thấy mặt trái của
cơ chế thị trường như: phân hóa giàu nghèo, di cư tự do, tham nhũng, tệ nạn xã hội
và nhiều tiêu cực xã hội khác, nên có xu hướng phản ứng lại với các mới và có lúc
nghi ngờ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước.
Không ít đồng bào có tư tưởng cực đoan cho rằng, kinh tế thị trường, chủ trương,
chính sách của Đảng, nhà nước chỉ tạo điều kiện cho người giàu, nơi có điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế, còn đối với vùng sâu, vùng xa, với những người
nghèo, người thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm làm ăn như đồng bào thì cơ chế kinh tế
mới trở thành thách thức đối với họ. Qua phân tích có thể thấy vấn đề phân hóa
giàu nghèo, chênh lệch mức sống giữa các vùng, các dân tộc đã tác động rất lớn
đến tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội của các đối tượng. Điều này chi phối trực
tiếp đến hiệu quả công tác tuyên truyền trong các đối tượng khác nhau. Hoạt động
tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số Jrai, Bahnar ở địa phương không thể
bỏ qua các luồng tư tưởng này.
40
Cùng với tác động của cơ chế thị trường, hiện nay tỉnh ta đã và đang triển
khai thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, điều này đã, đang và sẽ tác động
sâu sắc đến mọi mặt đời sống người dân, trong đó có đồng bào Jrai, Bahnar. Nhiều
vấn đề về tư tưởng bức thiết đang đặt ra ở cơ sở. Khi tiến hành sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ có những biến đổi trong cơ cấu sản xuất, trong phân
công lao động xã hội ở nông thôn, đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao, ý
thức kỹ luật nghiêm, phải có sự thay đổi về phong tục, tập quán, sinh hoạt, lối sống
của từng người, từng gia đình và của cả cộng đồng. Luật tục, lệ làng và biết bao
thiết chế cổ truyền không còn thích hợp sẽ bị phá vỡ. Pháp luật được đề cao, quyền
công dân được đảm bảo và tôn trọng… Vòng xoáy của cơ chế mới, điều kiện sống
mới sẽ làm xuất hiện những quan niệm, các chuẩn mực đạo đức mới, nhưng cũng
dễ cuốn trôi những giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào được lưu truyền qua bao
thế hệ. Rõ ràng bản thân công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở
tỉnh đã đặt ra hàng loạt vấn đề đối với công tác tư tưởng và hoạt động tuyên truyền
ở địa phương. Công tác tuyên truyền của tỉnh hiện nay không chỉ thụ động phản
ánh hiện thực xã hội đang diễn ra, mà còn chủ động tham gia vào việc bảo vệ các
giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng bào trước nguy cơ có thể bị đánh mất,
đồng thời xây dựng và hình thành các quan niệm mới, chuẩn mực đạo đức mới, nền
văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
* Tác động tiêu cực từ chiến lược diễn biến hòa bình của các thế lực thù
địch.
Đời sống của đồng bào Jrai, Bahnar ở tỉnh thời gian qua đã được cải thiện
đáng kể, song nhìn chung vẫn còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo còn cao,
việc xóa đói, giảm nghèo chưa thực sự bền vững. Quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số diễn ra còn chậm, nhiều hủ tục lạc hậu
chưa được xóa bỏ; tư tưởng trông chờ, ỷ lại còn khá phổ biến trong một bộ phận
41
đồng bào. Một bộ phận đồng bào có tư tưởng ly khai, do đời sống khó khăn tiếp tục
bị lôi kéo tham gia các tổ chức phản động. Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo kích động quần chúng gây rôi làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Những tác động ngược chiều này ảnh hưởng lớn đến công tác tư tưởng ở cơ sở.
Thông qua các hoạt động tuyên truyền và thực tiễn diễn ra tại địa phương,
đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh ta đã có nhận thức rõ hơn bản chất và âm mưu của
tổ chứ phản động “nhà nước Đê ga”, nhưng do tác động của bên ngoài và bọn xấu
ở bên trong làm cho một bộ phận đồng bào dân tộc nhận thức chưa đúng đắn về
chủ trương, chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, nhà
nước ta. Thậm chí một bộ phận động bào dân tộc thiểu số có lúc, có nơi nghi ngờ
chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước.
Phục vụ mục tiêu phát triển của Tây Nguyên nói chung và Gia Lai nói riêng,
nhà nước ta có chủ trương đưa đồng bào Kinh lên định cư sống tại Gia Lai. Bên
cạnh số dân di cư theo kế hoạch, dân di cự tự do đến tỉnh với số lượng lớn. Đại bộ
phận dân kinh tế mới đến tỉnh chăm chỉ lao động sản xuất, tích lũy vốn để mở rộng
sản xuất nên đời sống ngày càng khấm khá. Trong một thời gian dài đoàn kết gắn
bó trong lao động sản xuất, sinh hoạt, giao lưu kinh tế, văn hóa giữa đồng bào Kinh
và đồng bào dân tộc tại chỗ gắn bó chặt chẽ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
đặc biệt là từ năm 2001 đến nay, với âm mưu, thủ đoạn thâm độc, các thế lực thù
địch đã tăng cường tuyên truyền kích động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc giữa
người Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số địa phương, làm cho tư tưởng trong dân,
kể cả đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào Kinh có những diễn biến phức tạp.
Những dấu hiệu mâu thuẫn giữa người Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số địa
phương, có lúc, có nơi diễn ra bột phát hoặc âm ỷ, nhưng sẽ ảnh hưởng lớn đến quá
trình phát triển của tỉnh nói chung và hoạt động tuyên truyền trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số nói riêng.
42
Thanh thiếu niên là con em đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc
Jrai, Bahnar nói riêng được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm chăm sóc, giáo
dục. Đại bộ phận có tư tưởng tiến bộ, lành mạnh, nỗ lực học tập, vươn lên trong
cuộc sống. Tuy nhiên, trước âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để thực hiện
chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, một bộ phận không nhỏ
thanh thiếu niên dân tộc thiểu số của tỉnh, tin theo những luận điệu phản tuyên
truyền của các thế lực thù địch, có nhận thức, tư tưởng lệch lạc, sống thiếu trách
nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng, thâm chí một số còn bị lôi kéo vào
những hoạt động chống đối lại chính quyền. Thanh, thiếu niên là tầng lớp có tư
tưởng diễn biến nhanh chóng, nhạy bén với cái mới và những tác động của yếu tố
chính trị - xã hội. Hoạt động tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần
chú ý đúng mức đến vấn đề này.
Những năm qua, đạo Tin lành phát triển và hoạt động mạnh trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số của tỉnh. Bên cạnh một số mặt tác động tích cực đến nếp sống,
sinh hoạt của đồng bào, đạo tin lành và nhất là các hoạt động lợi dụng đạo tin lành
đã trực tiếp tác động làm nảy sinh những quan hệ không bình thường, gây mâu
thuẫn, chia rẽ giữa người theo đạo với người không theo đạo, thậm chí trong cùng
họ, cùng làng, cùng gia đình, tạo mâu thuẫn trong quần chúng, làm phương hại đến
khối đại đoàn kết dân tộc. Một số phần tử phản động đội lốt tôn giáo, truyền đạo
trái phép, dùng nhiều biện pháp lôi kéo, ép buộc, đe dọa đồng bào dân tộc thiểu số
để lại hậu quả không tốt cho cộng đồng. Với quan niệm mọi việc do Chúa định đoạt
chứ không phải do nhà nước, nên một số nơi, người theo đạo tin lành bị tuyên
truyền cấm tham gia hoạt động chính quyền, không đóng thuế cho nhà nước, không
đi bộ đội, không thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình… Đây thật sự
là một lực cản lớn đối với hoạt động tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số.
*Tác động của yếu tố trình độ dân trí.
43
Trình độ học vấn là một trong những yếu tố cơ bản tác động trực tiếp đến
khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin của đối tượng tuyên truyền. Để nâng cao
trình độ dân trí của người dân trên địa bàn tỉnh, những năm qua các cấp ủy đảng,
chính quyền từ tỉnh đến cơ sở luôn quan tâm chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục,
trong đó đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Tỉnh đã triển khai thực hiện có hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách và các
chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển giáo dục miền núi, vùng dân tộc như:
Xây dựng cơ sở hạ tầng trường, lớp học, đầu tư trang thiết bị phục vụ dạy và học;
chính sách thu hút giáo viên đến công tác tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số; hỗ trợ cấp học bổng, vở viết, sách giáo khoa cho học sinh dân tộc thiểu
số; phát triển sâu rộng hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú và các lớp bán
trú dân nuôi…Nhờ vậy, số lượng học sinh dân tộc thiểu số được huy động đến lớp
tăng khá. Năm học 2008-2009, bậc học phỏ thông. So với 5 năm trước, số lượng
học sinh dân tộc thiểu số ở bậc học phổ thông tăng 4,7% và tăng 11% so với 10
năm trước. Tuy nhiên, có một điều rất đáng quan tâm là tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu
số trên tổng số học sinh toàn tỉnh học lên bậc học cao giảm mạnh. Theo số liệu
thống kê năm học 2008-2009, tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số chiếm 40,55% tổng số
học sinh toàn tỉnh. Ở bậc tiểu học, học sinh dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 51,43%,
cao hơn tỷ lệ dân số dân tộc thiểu số trên tổng dân số toàn tỉnh. Ở bậc trung học cơ
sở, tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số của tỉnh trên tổng số học sinh toàn cấp giảm
xuống còn 33,77%; đến bậc trung học phổ thông, tỷ lệ này giảm xuống còn
15,28%. Điều này tồn tại khá nhiều năm, nhưng chưa được khắc phục đã ảnh
hưởng lớn đến việc nâng cao mặt bằng dân trí chung của cộng đồng đồng bào dân
tộc thiểu số.
Do tác động tổng hòa của nhiều yếu tố khác nhau nên nhìn chung trình độ
mặt bằng học vấn đồng bào dân tộc thiểu số thấp hơn mặt bằng học vấn chung toàn
tỉnh. Theo số liệu điều tra của đề tài với đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số của
44
tỉnh, có 6,4% số người được hỏi thuộc diện mù chữ; 42,7% chỉ có trình độ tiểu học;
36,3% có trình độ trung học cơ sở; 10,1% có trình độ học vấn trung học phổ thông;
chỉ có 4,5% số người được hỏi xin ý kiến được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ,
trong đó chỉ có 0,6% đồng bào dân tộc thiểu số được hỏi có trình độ cao đẳng trở
lên. Phân theo dân tộc, mặt bằng học vấn chung của đồng bào dân tộc Bahnar là
thấp nhất. Tỷ lệ người mù chữ của đồng bào Bahnar là 10,2%, cao hơn đồng bào
Jrai (tỷ lệ 5,1%), các dân tộc thiểu số khác hầu như không có người mù chữ. Số
người được xin ý kiến có trình độ tiểu học ở đồng bào Bahnar chiếm đến 56,3%,
cao hơn rất nhiều so với đồng bào Jrai (tỷ lệ 37,9%) và các dân tộc thiểu số khác
(tỷ lệ 21,1%). Ngược lại, số người có trình độ trung học phổ thông trở lên ở đồng
bào Bahnar chỉ chiếm 7%, thấp hơn nhiều so với đồng bào Jrai (tỷ lệ 15%) và các
dân tộc thiểu số khác 22,1%. Do hạn chế về trình độ học vấn nên việc tiếp nhận các
nội dung tuyên truyền của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh còn gặp
nhiều khó khăn
Nhờ tác động của các yếu tố như: quá trình giao lưu phát triẻn kinh-tế xã hội,
giao lưu văn hóa ngày càng mở rộng, sự nghiệp giáo dục dân tộc được đầu tư sâu
rộng, trình độ dân trí trong các dân tộc thiểu số được nâng lên, đời sống mọi mặt
của đồng bào được cải thiện đáng kể theo hướng tích cực; một bộ phận khá lớn
đồng bào đầu tư mua sắm các trang thiết bị nghe, nhìn hiện đại, phục vụ hoạt động
hàng ngày…nên trình độ tiếp nhận và xử lý thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số
của tỉnh được nâng lên đáng kể. Một bộ phận đồng bào đã tiếp thu khá tốt các nội
dung tuyên truyền của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, từ nội bộ nhân dân
trong cộng đồng, từ các loại hình truyền thông đại chúng và đã áp dụng hiệu quả
vào sản xuất, đời sống. Tuy nhiên, trình độ tiếp nhận và xử lý thông tin từ các hoạt
động tuyên truyền của đồng bào dân tộc thiểu số thấp hơn mặt bằng chung của tỉnh.
Một bộ phận khá lớn đồng bào khi được tuyên truyền không hiểu hoặc hiểu chưa
đầy đủ các nội dung đã nghe, xem nên chưa hoặc không áp dụng được nhiều kiến
45
thức từ các hoạt động tuyên truyền vào thực tiễn cuộc sống. Đặc trưng tư duy của
đồng bào Jrai, Bahnar là kiểu tư duy trực quan cụ thể, thấy sao nói vậy, trung thực,
thẳng thắn, nhưng ít suy tư những điều rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi tầm khái quát
cao. Từ thực trạng trình độ tiếp nhận và xử lý thông tin của đồng bào, đòi hỏi công
tác tuyên truyền của tỉnh phải nghiên cứu sâu đối tượng tuyên truyền, tâm lý tiếp
nhận thông tin của đồng bào để đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên
truyền phù hợp với đối tượng cần tuyên truyền. Qua đó nâng cao hiệu quả hoạt
động tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh.
4. Một số vấn đề về tưởng của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh nổi lên
cần quan tâm.
Xác định rõ vị trí, tầm quan trọng của vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới, trong
những năm qua, Đảng ta đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành tăng
cường phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm
nghèo, nâng cao trình độ dân trí; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói,
chữ viết và truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc thiểu số, xây dựng thế
trận an ninh nhân dân và quốc phòng toàn dân... Hiện nay, tư tưởng chủ đạo trong
đồng bào dân tộc thiểu số vẫn là một lòng một dạ đi theo Đảng, tin tưởng vào
đường lối lãnh đạo của Đảng; mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc tiếp
tục được củng cố.
Tuy nhiên, tình hình tư tưởng của đồng bào dân tộc thiểu số, chủ yếu là đồng
bào Jrai, Bahnar ở tỉnh vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc nổi lên cần quan tâm:
- Đời sống của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn; dân trí thấp
so với mặt bằng chung; cộng với tình trạng thiếu đất sản xuất, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật
khá phổ biến là những yếu tố làm hạn chế khả năng phát triển kinh tế xã hội. Phần lớn
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu vùng xa, có điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ
thuật thấp kém, nhiều hộ không tự mình phấn đấu vươn lên, có tâm lý tự ti, tư tưởng ỷ lại
46
vào chính sách ưu tiên và hỗ trợ của nhà nước. Do trình độ dân trí chênh lệch, trình độ
canh tác của đồng bào lạc hậu so với người Kinh nên sự phân hoá giàu nghèo diễn ra giữa
đồng bào Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng lớn, cùng với tâm lý mặc cảm nên
đồng bào dễ tin theo lời lừa bịp, dụ dỗ, lôi kéo, kích động của bọn phản động, ảo tưởng về
một cuộc sống giàu sang do Mỹ bảo trợ.
- Một trong những nhân tố tác động sâu sắc đến tâm lý, tư tưởng, tình cảm của
đồng bào dân tộc thiểu số là môi trường sống thay đổi một cách nhanh chóng: Rừng
ngày càng bị thu hẹp, tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt, đất sản xuất không đủ canh tác
do nhiều nguyên nhân, các nông-lâm trường-xí nghiệp chưa thực hiện đúng cam kết với
dân, chưa phát huy được vai trò bà đỡ đối với đồng bào dân tộc thiểu số, các mối quan hệ
kinh tế-xã hội, những giá trị văn hoá truyền thống... ngày càng thay đổi, biến dạng đã làm
cho người dân cảm thấy mất tự do, mất đất, một bộ phận không nhỏ đồng bào bị hụt hẫng
vì họ chưa được chuẩn bị về điều kiện kinh tế, tâm lý để tiếp nhận những thay đổi đó.
Hậu quả là một số có tâm lý hướng về quá khứ, nhớ tiếc rừng, nhớ tiếc những điều kiện
sống truyền thống, không bắt nhịp kịp với những thay đổi về kinh tế-xã hội ở địa phương;
một số, nhất là thanh thiếu niên đã có sự ngộ nhận, tiếp thu một cách thiếu chọn lọc lối
sống, lối suy nghĩ và hành xử không phù hợp với điều kiện cụ thể về kinh tế-xã hội của
bản thân và cộng đồng; một số khác rơi vào khoảng trống về văn hoá và tư tưởng... đây
chính là cơ sở để kẻ địch lợi dụng tuyên truyền lừa mị, lôi kéo đồng bào theo tổ chức
phản động Fulro núp dưới danh nghĩa đạo “Tin lành Đêga”.
- Việc thực hiện các chính sách về phát triển kinh tế-xã hội trong vùng đồng bào
dân tộc trong những năm qua được chú trọng, nhưng khâu chỉ đạo tổ chức thực hiện còn
nhiều bất cập, còn nhiều điểm chưa phù hợp nên nhìn chung sự chuyển biến còn chậm,
kinh tế và đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn, tỷ lệ nghèo còn cao. Mặt khác, một
thời gian dài ta chỉ tập trung phát triển kinh tế, chưa chú ý giải quyết thấu đáo các vấn đề
xã hội như: giải quyết đất còn chậm, lúng túng; một số mâu thuẫn, bức xúc nảy sinh trong
nhân dân chậm được tháo gỡ giải quyết... vì vậy khi địch lợi dụng xuyên tạc, kích động
47
đã trở nên nghiêm trọng hơn và chuyển hoá thành vấn đề chính trị. Công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng lực lượng an ninh, quốc phòng, đặc biệt là ở
cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế. Tệ quan liêu, xa dân ở một bộ phận cán bộ ngày càng gia
tăng và sự thoái hoá, biến chất, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên... đang dần dần
làm xói mòn lòng tin của đồng bào...
- Trong khi đó, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách thâm nhập, chống
phá quyết liệt. Trong đó chúng đặc biệt đẩy mạnh việc triển khai thực hiện chiến
lược “diễn biễn hoà bình”, bạo loạn lật đổ, nhất là tập trung lợi dụng các vấn đề
dân tộc, tôn giáo, nhân quyền và khai thác những sơ hở của ta, những sự kiện ngẫu
nhiên xảy ra trong đời sống xã hội để xuyên tạc, quy kết, vu khống, tạo dựng tình
huống, tìm cách can thiệp, chống phá, gây chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân, giữa đồng bào Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân ... Từ năm 2001 đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 2 vụ bạo loạn chính
trị, để lại nhiều hậu quả xấu ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình phát triển kinh
tế-xã hội, xây dựng an ninh-quốc phòng của tỉnh. Đáng chú ý là một bộ phận đồng
bào dân tộc trong tỉnh, nhất là ở các “điểm nóng” vẫn còn nhận thức mơ hồ về
thành tựu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, các chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước, nhất là chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo; về âm mưu, thủ đoạn lợi
dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá Đảng bộ và nhân
dân các dân tộc trong tỉnh; về các luận điệu lừa bịp, kích động của các phần tử
phản động Fulro; về bản chất phản động của tổ chức Đêga... Có nơi, có lúc đồng
bào nghi ngờ, không tin các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, ngại
tiếp xúc với cán bộ; tư tưởng hẹp hòi dân tộc, bài Kinh; tư tưởng ly khai, chống
đối, vượt biên trái phép sang Campuchia để được đi Mỹ hưởng cuộc sống giàu
sang, sung sướng... vẫn còn tồn tại trong một bộ phận đồng bào dân tộc.
Trong bối cảnh đó, việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho đồng bào các
dân tộc thiểu số về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
48
Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
trong vùng đồng bào dân tộc; từ đó vạch trần các âm mưu, thủ đoạn chống phá
thâm độc của các tổ chức phản động... là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa quyết định
trong việc phát triển kinh tế-xã hội, ổn định tình hình an ninh-chính trị trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
II. LÃNH ĐẠO, PHỐI HỢP TRIỂN KHAI CÁC HOẠT ĐỘNG TUYÊN
TRUYỀN.
1. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền.
Xác định công tác tư tưởng, tuyên truyền là nhiệm vụ thường xuyên, quan
trọng, Đảng bộ tỉnh qua các tời kỳ luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên
truyền, giáo dục chính trị, phổ biến quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân. Quan điểm chỉ đạo của cấp ủy được thể hiện khá rõ nét trong các Văn kiện Đại
hội, các Chỉ thị, Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy,
cụ thể: thực hiện Chỉ thị 14-CT/TW, ngày 3-8-1977 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (khoá IV), ngày 22-8-1977, Tỉnh uỷ đã ban hành Chỉ thị “Về việc tổ chức đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng”; triển khai thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI (8-1989) về “Một số
vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện
nay”, Tỉnh uỷ đã ban hành Nghị quyết số 124-NQ/TU, ngày 10-2-1990 “về nhiệm
vụ cấp bách của công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay”; ngày 10-6-1985 Ban
Thường vụ Tỉnh ủy (khoá IX) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TU “Về việc nâng
cao chất lượng công tác báo chí của tỉnh”; để quản lý hoạt động báo chí, ngày 5-10-
2000 Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 454-CT/TU “Về việc quản lý hoạt động thông tin
báo chí của các cơ quan nước ngoài trên địa bàn tỉnh”; để tăng cường hiệu quả của
việc tuyên truyền qua báo chí, ngày 22-10-2008, Tỉnh uỷ đã xây dựng Chương
trình số 15- CT/TU thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về công tác báo
49
chí trong tình hình mới; thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng, Ban thường vụ Tỉnh ủy ra Thông tri số 13-TT/TU, ngày 03-3-2008 “Về tiếp
tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong
tình hình mới”….
Với phương châm “toàn Đảng làm công tác tư tưởng”, “lấy quần chúng
giáo dục quần chúng”, Đảng bộ thường xuyên chỉ đạo đổi mới nội dung, phương
pháp tuyên truyền đối với các cấp uỷ đảng, các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội
trên địa bàn; phát huy sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục thiết thực,
sinh động, sát với đối tượng cần tuyên truyền…Chú trọng đổi mới, nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị theo hướng gắn
với thực tiễn, giải đáp được những vấn đề đặt ra trong thực tiễn; nội dung tuyên
truyền thiết thực, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng. Tăng cường mở rộng hình
thức đối thoại trao đổi trong hoạt động tuyên truyền giáo dục, chú trọng tuyên
truyền gương điển hình, người tốt, việc tốt. Thông qua công tác tuyên truyền tư
tưởng nhằm tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng bộ, sự đồng thuận trong nhân
dân.
Thực hiện nhiệm vụ thường xuyên, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp
ủy Đảng về công tác tuyên truyền nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên
truyền nói riêng, đã có những chuyển biến quan trọng. Nhận thức của các cấp uỷ
Đảng, của cả hệ thống chính trị về công tác tuyên truyền được nâng lên rõ rệt, có
sự quan tâm cụ thể đối với đội ngũ làm công tác tuyên truyền như tạo điều kiện
thuận lợi về thời gian, cơ sở vật chất, diễn đàn; xây dựng quy chế hoạt động, tổ
chức chỉ đạo, quản lý, theo dõi và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cung cấp
thông tin cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Sau các kỳ Đại hội Đảng
các cấp, Tỉnh uỷ và các Huyện, Thị, Thành uỷ, Đảng uỷ trực thuộc đều ra quyết
định thành lập đội ngũ báo cáo viên của cấp uỷ cấp mình, giao cho Ban Tuyên giáo
các cấp theo dõi, quản lý, tổ chức bồi dưỡng, cung cấp thông tin, phân công cho
50
báo cáo viên hoạt động; tập trung củng cố kiện toàn đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên đảm bảo về số lượng và chất lượng. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện
nay toàn tỉnh có trên 1.000 báo cáo viên các cấp và gần 5000 tuyên truyền viên của
các ngành, đoàn thể trong hệ thống chính trị.
Trong bối cảnh tình hình từ năm 2001 đến nay, Đảng bộ tỉnh chủ trương đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, đặc biệt là công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số theo phương châm: “Bám làng, bám dân, bám đối tượng”, “ cùng
ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc” và “đi tận ngõ, gõ tận nhà, rà từng
đối tượng”... Tỉnh uỷ đề ra chủ trương “tỉnh nắm xã, huyện nắm thôn làng, xã nắm
từng hộ dân”; phân công các sở, ban, ngành tỉnh phụ trách các xã trọng điểm, các
doanh nghiệp giúp đỡ những xã khó khăn; chỉ đạo các huyện, thị, thành uỷ phân
công các phòng, ban phụ trách làng trọng điểm, giúp củng cố thực lực chính trị,
đảm bảo quốc phòng - an ninh, nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý xã hội ở cơ
sở...
Cùng với việc tăng cường hàng ngàn cán bộ, đảng viên về cơ sở, các cấp
ủy đảng đã quan tâm lựa chọn xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên
trực tiếp làm công tác tuyên truyền ở các thôn, làng đồng bào dân tộc thiểu số.
Theo thống kê của Ban Tuyên giáo các huyện, thị ủy, thành ủy thì toàn tỉnh có trên
2.000 báo cáo viên, tuyên truyền viên trực tiếp làm công tác tuyên truyền trong
vùng đồng bào dân tộc. Hiện nay, bên cạnh hoạt động của đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên là chủ yếu; hoạt động của cán bộ, đảng viên trong các tổ chức
đảng, chính quyền, đoàn thể trên địa bàn; hoạt động của các tổ, đội công tác tăng
cường của các sở, ban, ngành, địa phương, đơn vị; hoạt động của các Đội thông tin
lưu động, thanh niên xung kích, thanh niên tình nguyện, Thông tin an ninh...đã góp
phần làm cho lực lượng làm công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số ngày càng phát triển đa dạng và phong phú...
51
Bên cạnh việc lãnh đạo xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên,
Đảng bộ thường xuyên chỉ đạo xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng của hoạt
động các cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình, văn hóa thông tin... Xác định
đúng đắn vai trò của công tác báo chí là công cụ tuyên truyền của Đảng, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh (khóa VIII) nêu lên quan điểm: Mở rộng mạng lưới
thông tin văn hóa và truyền thanh cơ sở, đẩy mạnh công tác thông tin lưu động,
phát thanh- truyền thanh, báo chí, nhằm tuyên truyền giáo dục, động viên mọi tầng
lớp nhân dân nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đoàn kết, hăng hái
thi đua thực hiện tốt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các chủ trương của địa
phương...
Quan điểm của tỉnh về phát huy vai trò của các binh chủng tuyên truyền
ngày càng được khẳng định, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX nhấn
mạnh: “Phối hợp chặt chẽ các binh chủng tuyên truyền, sử dụng tốt các lực lượng
thông tin đại chúng: Báo chí, đài phát thanh, truyền thanh, thông tin cổ động, văn
hóa nghệ thuật, đội ngũ báo cáo viên để tuyên truyền, giáo dục kịp thời những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của địa phương; kịp thời uốn nắn những
tư tưởng nhận thức lệch lạc, đập tan những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của
địch...phát huy truyền thống của Đảng, các dân tộc, nhằm tạo khí thế cách mạng sôi
nổi, thi đua, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị do Đại hội Đảng bộ đề ra”20. Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, tiếp tục nêu rõ quan điểm chỉ đạo đối với công tác
báo chí, văn hóa văn nghệ, phát thanh truyền hình: “Chỉ đạo quản lý tốt hoạt động
của các cơ quan thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng các loại sản phẩm báo
chí, đảm bảo phục vụ tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước...không ngừng nâng cao chất lượng phát thanh truyền hình...Hoạt
động văn hóa thông tin phải hướng vào mục đích bồi dưỡng, phát hiện nhân tố con
20 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai-Kon Tum: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX, 10-1086, tr 57.
52
người, góp phần tích cực để xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc...”21
Xuất phát từ tình hình thực tiễn hoạt động công tác tuyên truyền của tỉnh
trong những năm qua, Thông tri số 13-TT/TU, ngày 03-3-2008,của Ban thường vụ
Tỉnh ủy “Về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên
truyền miệng trong tình hình mới”, đã đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong thời gian tới:
- Các cấp uỷ Đảng, các đảng viên đều phải có trách nhiệm làm nhiệm vụ
tuyên truyền. Các cấp uỷ địa phương, đơn vị phải nhận thức đầy đủ về vai trò, vị
trí, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, tuyên truyền miệng; có trách nhiệm
lãnh đạo xây dựng, quản lý và chỉ đạo hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên, phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong công tác tuyên truyền
miệng trên mặt trận tư tưởng-văn hoá. Quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất,
phương tiện phục vụ công tác tuyên truyền cho: đài phát thanh, truyền thanh, phòng
văn hoá thông tin, đội thông tin lưu động…
- Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị tư tưởng, chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên để hoạt động đạt chất
lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tuyên truyền trong tình hình hiện nay. Đổi mới
phương thức hoạt động tuyên truyền miệng, hoạt động của đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên theo hướng đáp ứng kịp thời, nhanh nhạy nhu cầu và phù hợp với
trình độ của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nâng cao tính định hướng trong công
tác tuyên truyền miệng.
- Đẩy mạnh xây dựng mạng lưới tuyên truyền viên ở cơ sở, lực lượng tiếp
cận trực tiếp và thường xuyên với quần chúng nhân dân. Phát huy vai trò, thế mạnh
của đội ngũ giáo viên, cán bộ y tế, lực lượng vũ trang, cán bộ hưu, nhất là Hội cựu
chiến binh là lực lượng tuyên truyền viên trong công tác tuyên truyền, vận động
21 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai: Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần thư XII, 12-2000, tr 57
53
quần chúng. Phân công báo cáo viên, tuyên truyền viên theo thế mạnh của từng
người để đi vào từng loại đối tượng để đạt hiệu quả cao.
- Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công tác tuyên truyền, vận
động quần chúng. Hình thức tuyên truyền đa dạng, nội dung ngắn gọn, dễ hiểu, phù
hợp với từng đối tượng, trình độ, văn hoá, phong tục tập quán của vùng dân cư và
từng thời điểm, giai đoạn thích hợp, tăng cường các hình thức tuyên truyền bằng
hình thức trực quan sinh động. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên phải hướng
mạnh về cơ sở, thực hiện phương châm 3 bám: “Bám làng, bám dân, bám đối
tượng”, 4 cùng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc” để kịp thời
nắm bắt tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, tình hình an ninh chính trị
trên địa bàn, từ đó có các giải pháp tuyên truyền có hiệu quả.
- Tăng cường tuyên truyền quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước; thành tựu của cả nước, của tỉnh và các địa
phương trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, văn hoá, quốc
phòng- an ninh. Đổi mới phương thức quán triệt, phổ biến nghị quyết xuống quần
chúng nhân dân.
Đánh giá về sự quan tâm của cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể
các cấp đối với công tác tuyên truyền, theo kết quả điều tra của đề tài: có 50,3%
cán bộ tuyên truyền trả lời cấp tỉnh rất quan tâm đến công tác tuyên truyền; 35,1%
trả lời quan tâm, 13,6% trả lời có quan tâm nhưng không đầy đủ; 1% trả lời chưa
qua tâm. Đối với cấp huyện có 50,7% cán bộ tuyên truyền các cấp trả lời rất quan
tâm đến công tác tuyên truyền; 34,8% trả lời quan tâm; 14,6% trả lời quan tâm
nhưng chưa đầy đủ. Đối với cấp xã, có 39,4% cán bộ tuyên truyền trả lời rất quan
tâm; 26,2% trả lời quan tâm; 30,5% trả lời quan tâm nhưng chưa đầy đủ; 4% trả lời
chưa quan tâm.
Bảng 1: Đánh giá mức độ quan tâm của các cấp đối với công tác tuyên truyền
Mức độ quan tâm Cấp tỉnh
Cấp huyện Cấp xã
54
Rất quan tâm Cán bộ quản lý 47.0% 44.4% 42.4%
Cán bộ tuyên truyền 50.3% 50.7% 39.4%
Quan tâm Cán bộ quản lý 35.4% 32.3% 21.2%
Cán bộ tuyên truyền 35.1% 34.8% 26.2%
Quan tâm nhưng không đầy đủ
Cán bộ quản lý 15.7% 22.7% 28.3%
Cán bộ tuyên truyền 13.6% 14.6% 30.5%
Không quan tâm Cán bộ quản lý 2.0% 0.5% 8.1%
Cán bộ tuyên truyền 1.0% 0.0% 4.0%
Đánh giá chung về về mức độ quan tâm của các cấp đối với công tác tuyên
truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số, dưới góc nhìn của cán bộ trực tiếp làm công
tác tuyên truyền, cấp tỉnh và cấp huyện đã quan tâm đúng mức đến công tác tuyên
truyền. Có trên 85% cán bộ tuyên truyền các cấp trả lời cấp tỉnh và huyện quan tâm
hoặc rất quan tâm đến công tác tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số. Riêng
đối với cấp xã, chỉ có 65,5% cán bộ tuyên truyền được xin ý kiến trả lời quan tâm
hoặc rất quan tâm đến công tác tuyên truyền. Có đến 34,5% cán bộ tuyên truyền
được hỏi trả lời cấp xã chưa quan tâm hoặc quan tâm chưa đầy đủ đối với công tác
tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số. Đánh giá của cán bộ lãnh đạo, quản
lý đối với sự quan tâm đến công tác tuyên truyền của 3 cấp có nhiều điểm tương
đồng với cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền. Ở đây có một điểm khác biệt
tương đối lớn là tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý trả lời các cấp chưa quan tâm hoặc
quan tâm nhưng không đầy đủ cao hơn so với cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên
truyền. Có 17,7% cán bộ lãnh đạo, quản lý cho rằng cấp tỉnh chưa quan tâm hoặc
quan tâm nhưng không đầy đủ đối với công tác tuyên truyền trong đồng bào dân
tộc thiểu số. Tỷ lệ đánh giá này đối với cấp huyện là 23,2% và cấp xã là 36,4%.
Bên cạnh những kết quả đạt được đã phân tích trên, công tác lãnh đạo, chỉ
đạo các hoạt động tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn một số hạn
chế cần khắc phục, đó là: Một số cấp ủy đảng còn buông lỏng công tác chỉ đạo,
khoán trắng nhiệm vụ công tác tuyên truyền cho Ban Tuyên giáo và các lực lượng
chuyên trách làm công tác tuyên truyền, còn không ít cán bộ, đảng viên, trong đó
55
có cả cán bộ chủ chốt chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình, còn ngại làm
công tác tuyên truyền, ngại đối thoại trực tiếp với công chúng. Tình trạng quan liêu
hóa, nặng về hành chính, mệnh lệnh thay cho tuyên truyền, vận động, thuyết phục
còn phổ biến. Còn một số cán bộ, đảng viên có tư tưởng thụ động, thấy đúng không
bảo vệ, thấy sai không đấu tranh...Qua khảo sát của đề tài đối với đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý và cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền cho thấy, có đến
81,8% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh và 50% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
huyện có nhận định cấp xã chưa quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đối với
công tác tuyên truyền. Đồng ý với nhận định này ở các cán bộ tuyên truyền cấp tỉnh
là 69,3% và cán bộ tuyên truyền cấp huyện là 49,3%. Có 9,1% cán bộ lãnh đạo,
quản lý, 2,6% cán bộ tuyên truyền cấp tỉnh 23,2% cán bộ lãnh đạo quản lý, 17,1%
cán bộ tuyên truyền cấp huyện 15,6 % cán bộ lãnh đạo, quản lý, 6,5% cán bộ tuyên
truyền xã chưa hài lòng với sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và
các đoàn thể của cấp mình đối với công tác tuyên truyền trong đồng bào dân tộc
thiểu số... Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm hạn chế chất lượng
và hiệu quả công tác tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền, theo kết quả khảo sát của đề tài:
Bảng 2: Đánh giá mức độ quan tâm đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ và chính trị cho cán bộ tuyên truyền.
Mức độ quan tâm Cấp tỉnh
Cấp huyện Cấp xã
Rất quan tâm Cán bộ quản lý 32.3% 35.4% 29.3%
Cán bộ tuyên truyền 31.1% 33.4% 25.8%
Quan tâm Cán bộ quản lý 43.9% 37.9% 28.8%
Cán bộ tuyên truyền 50.0% 40.1% 21.5%
Quan tâm nhưng không đầy đủ
Cán bộ quản lý 20.2% 25.3% 26.8%
Cán bộ tuyên truyền 16.9% 26.2% 40.4%
Chưa quan tâm Cán bộ quản lý 3.5% 1.5% 15.2%
56
Cán bộ tuyên truyền 2.0% 0.3% 12.3%
Có 23,2% cán bộ lãnh đạo, quản lý, 12,9% cán bộ tuyên truyền cấp tỉnh;
25% cán bộ lãnh đạo, quản lý, 29,3% cán bộ tuyên truyền cấp huyện; 23,9% cán bộ
quản lý, 23,4% cán bộ tuyên truyền cấp xã cho rằng cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt
trận và các đoàn thể của cấp mình chưa quan tâm hoặc quan tâm chưa đầy đủ đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận, chính trị và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ
làm công tác tuyên truyền.
2. Phối hợp phát huy sức mạnh tổng hợp trong tuyên truyền.
Cùng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền,
việc phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng làm công tác tuyên truyền, là tiền đề
quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền. Những năm qua, các
ngành, các cấp, các lực lượng tuyên truyền đã bám sát tình hình thực tiễn và chức
năng, nhiệm vụ của mình bước đầu phối hợp triển khai công tác tuyên truyền với
nhiều hình thức, phương pháp phong phú, đa dạng như ký kết liên tịch, hợp đồng
trách nhiệm giữa các ban ngành, đoàn thể, các địa phương; xây dựng chuyên trang,
chuyên mục trên các phương tiện thông tin đại chúng; đưa nội dung tuyên truyền
vào các tờ tin, bản tin, thông báo nội bộ, tờ rơi; biên soạn tài liệu tuyên truyền, phát
động quần chúng; xây dựng phim tài liệu; tập huấn nghiệp vụ; tổ chức nói chuyện
thời sự, thông tin chuyên đề; tổ chức các chiến dịch truyền thông vận động; mở các
lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, lý luận chính trị; tổ chức phát động
quần chúng; thực hiện phương châm hướng về cơ sở; triển khai các đề tài, đề án
khoa học, các dự án phát triển nông thôn miền núi; các chương trình phát triển kinh
tế-xã hội trên địa bàn tỉnh,…Những hoạt động này đã góp phần đáng kể vào việc
nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Các lực lượng tuyên truyền đã phối hợp để tuyên truyền các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đến đồng bào. Phối hợp tổ chức các hoạt động
nhân các ngày lễ, kỷ niệm, tăng cường các đội công tác về cơ sở, nhất là những
57
điểm nóng để nắm bắt tình hình, thực hiện công tác tư tưởng, vận động quần chúng,
hướng dẫn đồng bào khác phục khó khăn phát triển sản xuất; qua đó, tuyên truyền
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, làm cho đồng bào hiểu rõ
âm mưu, thủ đọan và luận điệu lừa bịp của bọn phản động.
Thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, quân đội - công an
làm tham mưu, Mặt trận và các đoàn thể tham gia phối hợp”, Mặt trận và các đoàn
thể đã tích cực phối hợp trong tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc thiểu số
tích cực tham gia đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch. Tổ chức cho quần chúng nhân dân học tập quán triệt đường lối chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, tỉnh, tăng
cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thường xuyên giáo
dục về truyền thống yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc, về các thành tựu kinh tế -
xã hội, an ninh quốc phòng và nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; đẩy mạnh
tuyên truyền làm cho nhân dân hiểu rõ những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch, từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Phối hợp tổ chức phát động
quần chúng, tấn công chính trị, gắn công tác vận động quần chúng với truy quét,
trấn áp các đối tượng phản động cầm đầu fulro và “Tin lành Đê ga”. Kết hợp vận
động quần chúng với củng cố thực hiện chính trị cơ sở, phát triển hội viên đoàn
viên; xây dựng lực lượng nòng cốt trong mặt trận và các đoàn thể. Tuyên truyền,
vận động đồng bào giải quyết các điểm nóng về xã hội như vấn đề trộm cắp mủ cao
su, tình hình tranh chấp, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân về đất đai,… Vận động
đồng bào tham gia giữ gìn trật tự an toàn xã hội
Các Ban Đảng của tỉnh đã phối hợp với các ngành liên quan biên soạn hàng
chục tài liệu vạch rõ bản chất chính trị phản động của tổ chức phản động Đê ga,
“Tin lành Đê ga”; tài liệu chống âm mưu và hoạt động của tổ chức phản động “Nhà
nước Đê ga độc lập” (dịch ra 3 thứ tiếng: Kinh, Jrai, Bahnar); tài liệu “3 biết”(biết
về Đảng, biết truyền thống cách mạng, truyền thống đoàn kết, biết đoàn kết trong
58
gia đình, trong thôn làng, đoàn kết trong cộng đồng); tài liệu “3 không” (không
theo phản động đi biểu tình, không theo “Tin lành Đê ga”, không vượt biên trái
phép đi Campuchia) để phục vụ phát động quần chúng, nâng cao nhận thức chính
trị cho các cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Hướng dẫn các cấp, các
ngành, đoàn thể xây dựng nội dung, kế hoạch tổ chức vận động quần chúng, tấn
công chính trị tại các địa bàn trọng điểm.
Để nâng cao khả năng nghiệp vụ vận động quần chúng, Ban Tuyên giáo
Tỉnh uỷ đã phối hợp với Trường Chính trị tỉnh mở các lớp tập huấn cho cán bộ của
tỉnh và của huyện tăng cường cho cơ sở. Đồng thời phối hợp với các Huyện, Thị,
Thành uỷ mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tư tưởng cho đội ngũ báo cáo
viên cấp huyện, thành phố và cơ sở. Ban cũng đã chỉ đạo Ban tuyên giáo, Trung
tâm chính trị các huyện, thành phố mở các lớp bồi dưỡng về chính sách dân tộc, tôn
giáo cho cán bộ, đảng viên ở các cơ sở, làm nòng cốt đấu tranh với tổ chức chính trị
phản động “Nhà nước Đê ga độc lập”, “Tin lành Đê ga”. Vận động các mục sư tiến
bộ lên án “Tin lành Đê ga” và không thừa nhận tổ chức này trong hệ phái đạo Tin
lành như thông báo của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam).
Ban Tuyên giáo các cấp định kỳ tổ chức giao ban tháng với các “binh chủng
tuyên truyền”, các ngành liên quan nhằm định hướng cho các cơ quan thông tin đại
chúng, các ngành đơn vị, nhiệm vụ, nội dung tuyên truyền cho tháng, quý sau. Định
kỳ tổ chức “Hội nghị báo cáo viên” nhằm thông tin cho các đồng chí báo cáo viên
cấp tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành và Trưởng Ban Tuyên giáo các Huyện, Thị,
Thành ủy tình hình thời sự quốc tế, trong nước và những diễn biến tình hình cụ thể
ở địa phương. Thông qua đội ngũ chủ lực này, tích cực đưa thông tin về cơ sở,
nhằm chủ động đấu tranh với các luận điệu phản tuyên truyền của các thế lực thù
địch.
Báo Gia Lai ra báo ảnh bằng hai thứ tiếng dân tộc (Jrai và Bahnar) nhằm
tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và những thông tin cần
59
thiết khác đến đồng bào các dân tộc. Đài phát thanh - truyền hình tỉnh cũng xây
dựng và tiến hành phát chương trình tiếng dân tộc Jrai, Bahnar (trên cả phát thanh
và sóng truyền hình hàng ngày), kịp thời thông tin nhanh nhạy, chính xác tình hình
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng trên địa bàn tỉnh đến đồng
bào. Đồng thời có nhiều tin, bài lên án, vạch trần mưu đồ đen tối lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá sự nghiệp
cách mạng ở địa phương của các thế lực thù địch. Hệ thống làm công tác tư tưởng
từ tỉnh đến cơ sở tập trung theo dõi nắm dư luận xã hội trong nhân dân, đi sâu tìm
hiểu tâm trạng đồng bào dân tộc, đồng bào theo các tôn giáo để tham mưu với các
cấp uỷ Đảng, chính quyền có quyết sách đúng, trúng, phù hợp với lòng dân, thực
hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử
các cá nhân và tổ chức phản động ở Tây Nguyên, qua đó vạch trần bộ mặt thật: lợi
dụng vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo nhằm gây rối và thực hiện âm mưu diễn
“Diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã phối hợp Đài phát thanh-truyền hình tỉnh và
Công an tỉnh xây dựng một số phim phóng sự tài liệu phục vụ kịp thời, hiệu quả
công tác tuyên truyền, vận động quần chúng chống lại âm mưu, thủ đoạn của các
thế lực thù địch như “Bình yên cao nguyên”, “Chung tay cho Gia Lai tươi sáng”,
“Thiêng liêng hai tiếng đạo đời”. Những bộ phim này có tác dụng tuyên truyền tích
cực, sâu rộng trong đồng bào dân tộc thiểu số và đem lại hiệu quả cao.
Các đoàn thể chính trị, hội quần chúng đã tổ chức, phát động nhiều phong
trào, cuộc vận động có tính chất thiết thực như cuộc vận động toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; cuộc vận động ủng hộ quỹ vì người
nghèo, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, phong trào thanh niên tình nguyện; gặp
mặt điển hình sản xuất giỏi - công tác xã hội tốt trong đồng bào có đạo; phong trào
nông dân sản xuất giỏi - phụ nữ hai giỏi… đã tập hợp được quần chúng nhân dân
trong tỉnh tham gia.
60
Hội Cựu chiến binh tỉnh coi trọng việc phát huy vai trò nòng cốt của hội viên
trong việc giữ gìn an ninh chính trị, chăm lo giáo dục thế hệ trẻ, chăm lo đời sống
hội viên, tham gia giải quyết các vấn đề mới nảy sinh tại các địa bàn có tình hình
phức tạp.
Ngành văn hóa - thông tin phối hợp với các ngành chức năng và các địa
phương, cơ sở đẩy mạnh công tác tuyên truyền cổ động, tăng cường đưa các đội
văn hóa thông tin lưu động, điện ảnh xung kích đến các làng vùng sâu vùng xa, đưa
đường lối, chính sách, pháp luật của đảng và nhà nước đến với đồng bào dân tộc
thiểu số: tổ chức biểu diễn văn nghệ, chiếu phim phục vụ đồng bào; tổ chức các
ngày hội văn hóa và các hoạt động, sưu tầm bào tồn các giá trị văn hóa.
Sở Tư pháp thường xuyên phối hợp với các địa phương mở các lớp tập huấn
nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ cấp xã, biên soạn các tài liệu
chuyên đề về công tác xây dựng cơ sở, tổ chức các loại hình tư vấn pháp luật cho
cơ sở để đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, nâng cao năng lực để
hoàn thành nhiệm vụ.
Hội phụ nữ các cấp đã phối hợp tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền
thống yêu nước, đại đoàn kết dân tộc, nâng cao ý thức, tinh thần tự chủ, tự lực, tự
cường cho giới nữ nói chung và phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng. Tuyên truyền,
vận động chị em tích cực học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn; trang bị
cho bản thân kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc sống gia đình … Các cấp hội đã phối
hợp các ngành chuyên môn như khuyến nông, khuyến công, khoa học-công nghệ…
mở các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng
vật nuôi có năng suất cao, mang giá trị hàng hóa; các lớp dạy nghề truyển thống,
thủ công, mỹ nghệ và tạo việc làm cho phụ nữ, trong đó tập trung là phụ nữ dân tộc
thiểu số.
61
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã tăng cường phối hợp làm tốt công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, pháp luật, đạo đức, lối sống cho thanh thiếu niên
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt những kết quả khích lệ, góp phần ổn định
tình hình ở cơ sở, ổn định tư tưởng và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đoàn thanh
niên. Đã phối hợp tổ chức, tuyên truyền cho đoàn viên, thanh thiếu niên học tập,
quán triệt các nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Các cấp bộ
đoàn đã phối hợp Mặt trận tổ quốc và hội, đoàn thể, tổ chức hàng trăm buổi nói
chuyện, tuyên truyền cho đoàn viên thanh niên về âm mưu “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, ngăn chặn vượt
biên trái phép sang Campuchia. Tổ chức cho đoàn viên thanh niên học tập, nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh lồng ghép với các buổi tập huấn, sinh hoạt, thi tìm hiểu,
thi các đội thanh niên xung kích. Tỉnh đoàn đã phối hợp Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
biên soạn tài liệu tuyên truyền Hỏi - Đáp dịch ra hai thứ tiếng Jrai, Bahnar đưa về
cơ sở; phối hợp đội ngũ giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ xã để tuyên truyền; nâng cao
chất lựơng tờ tin Tuổi trẻ Gia Lai, chuyên mục phát thanh - truyền hình thanh niên
và trang thanh niên trên báo Gia Lai. Tổ chức sinh hoạt chính trị với chủ đề “Tuổi
trẻ tiến bước dưới cờ Đảng”; diễn đàn “Thanh niên với Đảng, Đảng với thanh
niên”.
Các cơ sở Đoàn, Hội thông qua các chương trình công tác xã hội, hoạt động
tình nguyện, văn hóa, văn nghệ và nhiều loại hình tập hợp đã tạo điều kiện thuận
lợi cho thanh niên giao tiếp, trao đổi, lồng ghép với những nội dung tuyên truyền
về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Đoàn thanh niên đã phối
hợp Trung tâm tư vấn dạy nghề, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh tổ chức
đào tạo nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số các kỹ năng, kỹ thuật trồng, chăm sóc,
cạo mủ cao su, sửa chữa máy nông nghiệp, điện nông thôn, chăn nuôi, sản xuất rau
an toàn, bảo vệ thực vật,… cho hàng trăm ngàn lượt thanh niên. Đồng thời giải
62
quyết việc làm cho thanh niên thông qua các chương trình, dự án nông nghiệp,
nông thôn…
Các lực lượng quân đội, công an, biên phòng đã tăng cường các biện pháp
quản lý địa bàn, đấu tranh vạch trần âm mưu thủ đoạn lừa gạt của các thế lực thù
địch, góp phần ổn định tình hình trên địa bàn tỉnh. Các đơn vị lực lượng vũ trang đã
tổ chức nhiều buổi giao lưu văn hóa-văn nghệ, thể dục thể thao, giúp dân chữa
bệnh, tu sửa nhà cửa, đường liên thôn, liên xã, cứu đói các gia đình đồng bào dân
tộc... đã góp phần đáng kể vào việc thắt chặt tình đoàn kết quân dân.
Các đội công tác của bộ đội biên phòng liên tục bám làng, tích cực tham mưu
cho chính quyền địa phương trong giữ gìn an ninh trật tự, tham gia phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, phổ cập giáo dục tiểu học-xóa mù chữ, thực hiện chương trình
quân dân y kết hợp. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan tổ chức
tuyên truyền cho quần chúng nhân dân trong khu vực biên giới về các hiệp định,
qui chế biên giới, đường lối chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước, hướng dẫn nhân dân bỏ các hủ tục lạc hậu, thực hiện nếp sống văn minh, xây
dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa.
Ban Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh thường xuyên bố trí các tổ đội, đơn vị
tăng cường cho các địa bàn trọng điểm, xuống trực tiếp, cùng ăn, cùng ở, cùng làm
với nhân dân: hướng dẫn nhân dân trồng lúa nước, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi; giúp nhân dân hàng trăm ngàn ngày công; hướng dẫn, tổ chức cho nhân dân
biết cách tận dụng thế mạnh của từng địa phương, từng gia đình để tổ chức sản xuất
với mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
Để làm chuyển biến nhận thức, thay đổi tập quán phong tục của đồng bào
dân tộc thiểu số không phải là việc làm “một sớm một chiều” (nhất là phong tục,
tập quán mang tính truyền thống) mà phải có thời gian, gần gũi đồng bào với
phường châm mưa dầm thấm lâu, thông qua hoạt động “4 cùng”, với những việc
làm cụ thể, bộ đội biên phòng đã tuyên truyền, vận động từng bước làm cho đồng
63
bào nhận thức và bỏ dần các phong tục tập quán lạc hậu như chôn chung, ốm đau
cúng Yàng, nhốt gia súc chung với nơi ở của người. Hầu hết đồng bào dân tộc vùng
biên giới khi đau ốm đã biết đền với trạm xá, uống thuốc trị bệnh; tin tưởng vào
quân y bộ đội biên phòng, ốm đau không còn cúng Yàng; đồng bào đã cho con em
đi học. Bộ đội biên phòng đã phối hợp, làm tốt vai trò “người thầy giáo mang quân
hàm xanh” góp phần thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục tiểu học-xóa mù chữ
vùng biên giới của tỉnh.
Bộ đội biên phòng đã phối hợp với các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận,
đoàn thể ở các xã biên giới tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân xây dựng
thế trận biên phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ việc xây dựng cơ sở chính trị vững
mạnh. Phong trào quần chúng tham gia bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới đã có
bước phát triển mới. Nhân dân đã có ý thức hơn trong việc phát hiện, tố giác, cô lập
kẻ xấu, cảm hóa những đối tượng lầm lối trở lại sống lương thiện.
Qua những hoạt động cụ thể trên các lực lượng vũ trang đã tuyên truyền cho
nhân dân thấy được chính sách đúng đắn, vì lợi ích toàn dân của Đảng, Nhà nước
ta. Tuyên truyền, khơi dậy truyền thống đoàn kết, anh dũng bất khuất của đồng bào
các dân tộc trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, xây dựng lòng tự hào, niềm tin đối
với Đảng và Bác Hồ. Hướng dẫn quần chúng đấu tranh với âm mưu và hoạt động
lừa mị, kích động của các thế lực thù địch.
Đánh giá công tác phối hợp trong hoạt động tuyên truyền, theo kết quả điều
tra của đề tài, có 17,2% cán bộ lãnh đạo, quản lý được xin ý kiến đánh giá công tác
phối hợp giữa các lực lượng làm công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số ở địa phương trong thời gian qua rất tốt, có 19,7% trả lời tốt, 43,3% trả
lời khá tốt, 15,2% trả lời bình thường, 9,1% đanh giá công tác phối hợp chưa tốt,
4,5% trả lời khó đánh giá. Đối với cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền có
13,6% trả lời công tác phối hợp giữa các lực lượng làm công tác tuyên truyền rất
64
tốt, 23,2% cho rằng phối hợp tốt, 28,5% trả lời khá tốt, 24,5% đánh giá bình
thường, 8,6% cho rằng công tác phối hợp chưa tốt.
Bảng 3: Đánh giá công tác phối hợp giữa các lực lượng làm công tác
tuyên truyền
Mức độ đánh giá Cấp công tácTỉnh Huyện Xã
Rất tốtCán bộ quản lý 3.0% 17.9% 21.1%
Cán bộ tuyên truyền 0.0% 3.6% 29.3%
TốtCán bộ quản lý 0.0% 21.4% 24.8%
Cán bộ tuyên truyền 12.8% 18.6% 31.7%
Khá tốtCán bộ quản lý 39.4% 30.4% 34.9%
Cán bộ tuyên truyền 43.6% 32.9% 18.7%
Bình thườngCán bộ quản lý 30.3% 16.1% 10.1%
Cán bộ tuyên truyền 38.5% 30.0% 13.8%
Chưa tốtCán bộ quản lý 18.2% 12.5% 4.6%
Cán bộ tuyên truyền 5.1% 12.9% 4.9%
Khó đánh giáCán bộ quản lý 9.1% 1.8% 4.6%
Cán bộ tuyên truyền 0.0% 2.1% 1.6%
Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ tuyên truyền cấp tỉnh đánh giá
công tác phối hợp giữa các lực lượng làm công tác tuyên truyền trong đồng bào dân
tộc thiểu số ở tỉnh thời gian qua ở mức độ tốt và rất tốt là rất thấp. Có 3% cán bộ
lãnh đạo quản lý và không có cán bộ tuyên truyền cấp tỉnh đánh giá công tác phối
hợp rất tốt, không phần trăm cán bộ lãnh đạo và quản lý và 12,8% cán bộ tuyên
truyền đánh giá công tác phối hợp tốt. Những chỉ số này cho thấy cần phải có các
giải pháp cụ thể để triển khai thực hiện phối hợp tốt hơn giữa các lực lượng làm
công tác tuyên truyền nhằm đưa chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước đến với đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh.
Tóm lại, sự phối hợp của lực lượng tuyên truyền trong tỉnh đã góp phần làm
cho công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền của tỉnh những năm gần đây có nhiều
chuyển biến tích cực, kịp thời cung cấp thông tin trên các lĩnh vực, đưa chủ trương,
đường lối, chính sách , pháp luật của Đảng và Nhà nước đến nhân dân, nhất là đồng
65
bào dân tộc thiểu số. Từng bước củng cố niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà
nước, nâng cao cảnh giác cách mạng cho các tầng lớp nhân dân; củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc, động viên đồng bào thực hiện tốt các chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, tham gia đấu tranh làm thất bại
âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng nước ta,
ngăn chặn âm mưu kích động biểu tình, bạo loạn chính trị, vượt biên trái phép.
III. TÌNH HÌNH CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ CUNG CẤP THÔNG TIN PHỤC
VỤ TUYÊN TRUYỀN.
1. Tình hình cơ sở vật chất-kỹ thuật phục vụ tuyên truyền.
Theo quan niệm phổ biến hiện nay, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công
tác tuyên truyền, là toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và các
phương tiện khác phục vụ trực tiếp cho quá trình tuyên truyền tiến hành được thuận
lợi và đạt hiệu quả cao. Đối với tỉnh ta, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công tác
tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số bao gồm: phương tiện kỹ thuật của hệ
thống Đài phát thanh - truyền hình tỉnh, các đài truyền thanh - truyền hình huyện,
thị xã, thành phố, các trạm phát lại truyền hình; Báo Gia Lai; các đơn vị trực tiếp
tham gia làm nhiệm vụ tuyên truyền thuộc ngành Văn hóa- Thể thao và Du lịch,
ngành Thông tin và Truyền thông; các cơ sở in ấn, xuất bản và hệ thống các thiết
chế văn hóa cơ sở, như trụ sở làm việc, nhà sinh hoạt cộng đồng, hệ thống phát
thanh, truyền thanh, truyền hình, thư viện, phòng đọc sách, nhà truyền thống, sân
vận động, công viên văn hóa, các cụm pa nô, tượng đài, bảng tin, đội văn nghệ
không chuyên, đội thông tin cổ động …
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của các cấp, các ngành ở
Trung ương và địa phương, các cơ quan truyên truyền của tỉnh và các đơn vị từng
bước đầu tư xây dựng các hạng mục thuộc hệ thống cơ sở vật chất, trang bị, mua
sắm mới một số phương tiện kỹ thuật thiết yếu phục vụ cho công tác tuyên truyền
nói chung, tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.
66
Hệ thống phát thanh - truyền thanh- truyền hình được đầu tư cơ sở vật chất
kỹ thuật để đáp ứng tốt hơn yêu cầu tuyên truyền trong tình hình mới. Đài Phát
thanh - Truyền hình tỉnh hiện có một trạm phát sóng phát thanh-truyền hình tại núi
Hàm Rồng. Hệ thống máy phát thanh của Đài tỉnh hiện có 02 kênh FM, gồm 02
máy phát công suất 5 kw, diện phủ sóng đạt trên 95%. Thời lượng phát sóng 19
giờ/ngày, gồm các chương trình của Đài tỉnh và chương trình VOV1, VOV3 của
Đài Tiếng nói Việt Nam. Máy phát sóng trung AM, công suất 10 KW do Đài Tiếng
nói Việt Nam lắp đặt, phát sóng mỗi ngày 06 giờ chương trình thời sự VOV1. Tỷ lệ
phủ sóng phát thanh trên địa bàn tỉnh đạt 95% diện tích.
Về truyền hình, hiện nay hệ thống máy phát sóng truyền hình của Đài tỉnh có
03 kênh. Kênh 11, máy phát có công suất 10 KW phát sóng chương trình GTV của
Đài tỉnh và chương trình VTV2 của Đài truyền hình Việt Nam, diện phủ sóng được
trên 75% địa bàn tỉnh. Kênh 9, máy phát có công suất 5KW, do Đài truyền hình
Việt nam đầu tư phát sóng chương trình VTV1, diện phủ sóng đạt 60 - 70%. Kênh
7, máy phát có công suất 10KW, phát sóng chương trình VTV3 của Đài truyền
hình Việt Nam. Hiện nay tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 85% diện tích toàn tỉnh.
Cơ sở vật chất phục vụ xây dựng chương trình phát thanh và truyền hình
được đầu tư. Hiện Đài Phát thanh- truyền hình tỉnh có 0l phòng thu phát thanh (bá
âm), 02 bộ vi tính để thu và dựng chương trình, 0l bàn trộn âm chuyên dụng, 0l bộ
vi tính máy chủ, 02 bộ vi tính phát sóng. Truyền hình hiện có 02 phòng thu (Studio)
gồm 11 bộ dựng hình trong đó có 07 bộ dụng phi tuyến, 0l bộ dựng phi tuyến lưu
động, 03 bộ dựng tuyến tính. Có 12 bộ vi tính phục vụ cho việc sản xuất chương
trình truyền hình. Ngoài 2 phòng thu, đài tỉnh còn có l xe truyền hình chuyên dụng
để sản xuất chương trình truyền hình lưu động và trực tiếp; 0l phòng khai thác các
chương trình của VTV, HTV, VTC và các chương trình nước ngoài qua vệ tinh.
Tất cả các thiết bị có chất lượng và đang hoạt động tốt
67
Thiết bị phục vụ cho phóng viên tác nghiệp phát thanh và truyền hình: 30
máy ghi âm cá nhân, 15 camera, 0l bộ nhắc chữ để phát thanh viên đọc hiện hình,
có 25 bộ vi tính dùng cho phóng viên tác nghiệp hàng ngày. Hệ thống thu vệ tinh
có 08 bộ. Hệ thống thiết bị phục vụ cho phát sóng: Có 0l bộ vi tính với phần mềm
WESTKEY để cấy lo go; 0l bàn trộn hình, tiếng chuyển mạch; 03 đầu video chạy
băng và hệ thống 06 MONITOR kiểm tra. Hệ thống truyền dẫn tin hiệu từ trung
tâm sản xuất chương trình đến trung tâm phát sóng là 0l bộ vi ba. Hệ thống truyền
dẫn tín hiệu từ tâm sản xuất chương trình lưu động đến trung tâm phát sóng là 0l
máy phát sóng100 W. Hệ thống truyền dẫn từ Đài tỉnh xuống các Đài cấp huyện
bằng cách trực tiếp thu phát lại; đối với các huyện không thu trực tiếp được thì các
chương trình phát thanh của Đài tỉnh được truyền qua hệ thống Intemet. Các Đài
cấp huyện chuyển tải chương trình, tin, bài về Đài tỉnh qua hệ thống Intemet đạt
hiệu quả tốt.
Những năm qua, được sự quan tâm của Trung ương và các cấp chính quyền
địa phương, việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành phát thanh, truyền hình
được chú trọng. Các dự án hàng tỷ đồng được đầu tư thành các gói hàng tương đối
đồng bộ. So với những năm trước việc đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục
vụ công tác phát thanh, truyền hình có sự tiến bộ đáng kể. Năm 2008, UBND tỉnh
đã đầu tư một xe truyền hình lưu động cho Đài phát thanh - truyền hình tỉnh, phục
vụ tốt hơn yêu cầu tuyên truyền các sự kiện chính trị lớn ở địa phương.
Đối với tuyến huyện, thị xã, thành phố, hiện nay toàn tỉnh có 15 Đài truyền
thanh - truyền hình (huyện Phú Thiện mới thành lập, chưa xây dựng). Nhiệm vụ
chính của Đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện là thực hiện công tác tuyên
truyền nhiệm vụ chính trị của địa phương; phản ánh các hoạt động diễn ra trên địa
bàn trên sóng phát thanh FM, tiếp phát sóng phát thanh - truyền hình của Trung
ương, Đài tỉnh và sản xuất chương trình truyền hình phát trên sóng trên Đài tỉnh.
Sự tồn tại các Đài truyền thanh - truyền hình huyện, thị xã, thành phố xuất phát là
68
yếu tố khách quan, phục vụ nhiệm vụ chính trị, gắn với đó là một tổ chức bộ máy,
cơ sở vật chất và các thiết bị kỹ thuật để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Hầu hết cơ sở vất chất, trang thiết bị kỹ thuật của hệ thống phát thanh và
truyền hình lạc hậu, xuống cấp, hư hỏng. Hệ thống máy phát thanh của các Đài
truyền thanh - truyền hình huyện, thị xã, thành phố hiện nay có 24 máy phát FM
(mỗi Đài huyện trung bình có từ 1-2 máy FM), công suất từ 150w đến 300 w.
Ngoài 10 máy phát thanh FM được đầu tư năm 2005, còn lại hầu hết thiết bị đều
được đầu tư từ những năm 1993 - 1996, nên hầu hết phương tiện xuống cấp, công
suất giảm, diện phủ sóng hẹp. Số lượng, chất lượng các phương tiện phục vụ tác
nghiệp của phóng viên truyền thanh, truyền hình cấp huyện như máy camera, ghi
âm ... còn thiếu thốn nhiều, chất lượng hạn chế.
Hiện toàn tỉnh có 14 trạm phát lại truyền hình, do Đài truyền thanh - truyền
hình các huyện quản lý, đặt tại những vùng lõm, ở các xã chưa được phủ sóng
truyền hình của Đài tỉnh và Đài huyện. Mỗi trạm phát lại truyền hình được bố trí 01
máy tiếp sóng để phát lại các chương trình truyền hình, với công suất từ 100 đến
150 W. Chất lượng truyền hình đạt thấp. Tỷ lệ phủ sóng đạt từ 70 - 100 % diện tích
các xã vùng lõm.
Về hệ thống truyền thanh cấp xã, hiện tại toàn tỉnh chỉ có 23 trạm truyền
thanh FM và 13 trạm truyền thanh hữu tuyến, do ủy ban nhân dân cấp xã trực tiếp
quản lý. Chất lượng đã xuống cấp, hiện chỉ có 21 trạm truyền thanh FM và 10 trạm
truyền thanh hữu tuyến còn hoạt động. Tất cả các máy phát trên không có trụ sở
riêng và đang đặt tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Bên cạnh đó, từ năm 1999 đến nay
tỉnh đã đầu tư 1.146 cụm loa truyền thanh ở 215 xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên,
hiện nay, chỉ còn 556 cụm hoạt động bình thường. Tất cả các cụm truyền thanh trên
đều do Ủy ban nhân dân các xã quản lý, đang gặp phải một số khó khăn như: thiếu
thống nhất về chi phí bảo dưỡng, sủa chữa; các thiết bị kỹ thuật khi hư hỏng nhẹ đa
phần đều do cán bộ kỹ thuật của đài huyện sửa, hư hỏng nặng thì thuê sửa ngoài,
69
nhưng do một số chính quyền cấp cơ sở chưa thật sự quan tâm đến vấn đề bảo trì,
bảo dưỡng, sửa chữa các trạm phát, cụm loa nên nhiều nơi đã hư hỏng, không còn
hoạt động. Nhiều cụm loa thiếu thống nhất về cách chi trả tiền điện cho các hộ gia
đình có gắn cụm loa truyền thanh hoặc xã không trả trực tiếp cho ngành điện nên bị
cắt và không còn hoạt động.
Cùng với việc đầu tư cơ sở vật chất phát triển hệ thống phát thanh-truyền
hình, những năm qua tỉnh cũng đã quan tâm trang bị, nâng cấp cơ sở vật chất-kỹ
thuật của Báo Gia Lai. Hiện Báo Gia Lai đang quản lý, sử dụng 02 nhà làm việc,
với tổng diện tích là 808 m2, 32 phòng làm việc và phòng họp cơ quan. Với cơ sở
hạ tầng như trên, trước mắt đã đáp ứng nơi làm việc cho trên 60 cán bộ, phóng viên
của Báo Gia Lai và cán bộ thường trực Hội Nhà báo tỉnh.
Thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, hiện nay Báo Gia Lai đang phát
hành các ấn phẩm: Báo Ngày phát hành từ thứ 2 đến thứ 5 hàng tuần, báo Cuối
Tuần phát hành vào thứ 6 hàng tuần, Báo Nguyệt san phát hành vào ngày 20 hàng
tháng, với số lượng phát hành bình quân 7.000 tờ/kỳ/ấn phẩm. Báo ảnh (3 ngôn
ngữ: Jrai, Bahnar, Kinh) phát hành 4 kỳ/tháng. Dịch, in, phát hành Bản tin Dân tộc
miền núi cho Thông tấn xã Việt Nam (2 ngôn ngữ Jrai, Bahnar), số lượng phát
hành bình quân trên 3.000 tờ/ấn phẩm/kỳ. Báo Gia Lai điện tử cập nhật thông tin
hàng ngày.
Vào thời điểm cuối năm 2008, Báo Gia Lai có 36 máy vi tính, bình quân
trung bình đạt 2 người/máy; 16 máy in, 2 máy quét ảnh, 3 máy ảnh kỹ thuật số, 2
máy ghi âm. Tất cả số máy móc trên chủ yếu phục vụ các khâu xuất bản báo như:
chế bản, Báo điện tử, biên tập, nhập dữ liệu của phóng viên …Ngoài ra, Báo Gia
Lai đã lắp đặt mạng nội bộ, đường truyền Intemet, thiết lập đường truyền với công
ty In và Dịch vụ Văn hóa Gia Lai …để kịp thời phục vụ cho công tác xuất bản báo.
So với thời điểm trước năm 2005, Báo Gia Lai đã từng bước đầu tư về cơ sở
vật chất, phương tiện kỹ thuật với số lượng lớn, chất lượng tốt, đảm bảo cho việc
70
tác nghiệp của cán bộ, phóng viên trong cơ quan. Từ năm 2005 đến nay, Báo Gia
Lai bằng nguồn kinh phí tự chủ đã mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc
gần 1,5 tỷ đồng. Tuy được đầu tư trang bị về phương tiện làm việc, nhưng so với
yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
nâng cao chất lượng các ấn phẩm báo chí. Đặc biệt, phương tiện kỹ thuật phục vụ
cho việc chế bản, in ấn các ấn phẩm báo, trong đó có tờ Báo ảnh phục vụ đồng bào
dân tộc thiểu số.
Ngoài các ấn phẩm của Báo Gia Lai, trên địa bàn tỉnh hiện có các tạp chí, tờ
tin của các cơ quan đơn vị như Sở Khoa học – Công nghệ, Hội Văn học nghệ thuật,
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Y tế, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu
chiến binh…đã góp phần tích cực trong công tác tuyên truyền, đưa thông tin về cơ
sở, góp phần cải thiện đời sống văn hóa của nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Tuy
nhiên, điều kiện cơ sở vật chất-kỹ thuật chỉ đáp ứng yêu cầu thiết yếu nhất cho việc
ra đời các ấn phẩm này.
Về cơ sở in các ấn phẩm văn hóa, trên địa bàn tỉnh hiện có 3 cơ sở in, gồm
Công ty cổ phần in và Dịch vụ Văn hóa Gia Lai, Công ty Cổ phần Trường Xuân và
Xưởng in Quân đoàn 3. Các cơ sở in, xưởng in trên đại bàn tỉnh thực hiện nhiệm vụ
chính là sản xuất, kinh doanh, nên rất chú trọng đầu tư, trang bị các phương tiện,
thiết bị, máy móc hiện đại để không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng
năng suất, đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong và ngoài tỉnh.
Về hạ tầng bưu chính, viễn thông: tính đến cuối năm 2008, trên địa bàn toàn
tỉnh tỷ lệ thuê bao Internet đạt 1,01 thuê bao/100 dân. Tỷ lệ dân số sử dụng Internet
đạt 7,33%. Tổng số đại lý internet trên địa bàn toàn tỉnh có 334 địa lý, trong đó có
183 đại lý ở các phường thuộc thành phố Pleiku, thị xã An Khê và Ayunpa, 89 đại
lý ở các thị trấn và 62 đại lý ở các xã. Việc khai thác thông tin từ mạng Internet chỉ
phổ biến đối với cán bộ quản lý và cán bộ tuyên truyền cấp tỉnh. Đối với cán bộ cấp
huyện và nhất là cấp xã, việc tiếp nhận thông tin từ mạng Internet phục vụ công tác
71
và tuyên truyền còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do mạng internet chưa phát
triển sâu rộng đến các xã, thôn làng.
Hiện toàn tỉnh có 06 doanh nghiệp viễn thông đang hoạt động bao gồm: Viễn
thông Gia Lai, Công ty viễn thông Quân đội (Viettell), Công ty viễn thông Điện
lực, Vinaphone, Mobiphone và S-Phone. 715 trạm thu phát sóng thông tin di động
(BTS), 7 trạm BSC. Hệ thống cáp quang đã kéo đến được 16 huyện, thị xã, thành
phố. Hầu hết các xã trên địa bàn đã có sóng di động. Hệ thống mạng bưu chính
toàn tỉnh hiện có 352 điểm phục vụ. Trong đó có 38 bưu cục các cấp, 162 điểm bưu
điện văn hóa xã, 85 điểm địa lý bưu điện đa dịch vụ, 1 chi nhánh, 4 trạm chuyển
phát, 62 thùng thư công cộng độc lập. Bán kính phục vụ bình quân hiện nay là 3,7
km/điểm. Mật độ phục vụ bình quân là 3.550 người/điểm, có 206/215 xã, phường,
thị trấn có báo đến trong ngày.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của các thiết chế văn hóa cấp cơ sở như nhà văn
hóa, thư viện, phòng đọc sách, nhà truyền thống, sân vận động, công viên văn hóa,
bể bơi, các cụm pa nô, tượng đài, bảng tin, đội văn nghệ không chuyên, đội thông
tin cổ động…được tỉnh và các địa phương quan tâm đầu tư, nâng cấp nhằm phục
vụ tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh hiện có 6 loại hình hệ thống
thiết chế văn hóa cơ sở chủ yếu, đang tham gia tích cực làm nhiệm vụ tuyên truyền
các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà Nước, đó là: Hệ thống nhà
văn hóa (nhà rông, nhà rông văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng …), phòng đọc sách,
sân vận động; hệ thống trạm phát thanh, trạm phát lại truyền hình và mạng lưới loa
truyền thanh, phát thanh công cộng; hệ thống thư viện cộng đồng, bưu điện văn hóa
xã và tủ sách pháp luật; hệ thống cụm panô, áp phích tuyên truyền cổ động chính trị
và các bảng tin; các đội văn nghệ quần chúng, thông tin lưu động, đội chiếu bóng
lưu động …
72
Việc xây dựng các thiết chế văn hóa ở các địa phương đã góp phần không
nhỏ vào mục đích phục vụ đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số. Toàn
tỉnh hiện có 01 trung tâm VHTT tỉnh, 10 nhà văn hóa huyện, thị xã, thành phố; 4
nhà văn hóa và trung tâm sinh hoạt thanh niên của ngành, đoàn thể; 01 thư viện
tổng hợp tỉnh, 11 thư viện cấp huyện, 12 phòng đọc sách tại các điểm bưu điện văn
hóa xã; 01 bảo tàng tổng hợp tỉnh và 01 bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh Gia Lai -
Kon Tum; 17 đội thông tin lưu động (01 tỉnh, 16 huyện thị, thành phố); 672 nhà
rông, trong đó có 206 nhà rông văn hóa và 1142 nhà sinh hoạt cộng đồng đang duy
trì hoạt động có hiệu quả, đúng mục đích. Từ nguồn kinh phí chương trình mục tiêu
Quốc gia, trong 3 năm gần đây, tỉnh Gia Lai được Trung ương đầu tư nhiều hạng
mục thuộc hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở. Nhờ vậy, hoạt động đưa văn hóa về cơ
sở đã có những tiến bộ đáng kể.
Toàn tỉnh hiện có 3 đội chiếu bóng lưu động trực thuộc Trung tâm văn hóa
thông tin tỉnh, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và đội ngũ cán bộ hiện có đủ
sức phục vụ ở cơ sở bình quân mỗi năm 750 buổi. Ngoài ra, các đội thông tin lưu
động của cấp huyện cũng tổ chức nhiều hoạt động thông tin tuyên truyền, bình
quân mỗi năm thực hiện được 80 đến 120 buổi tuyên truyền ở cơ sở. Đoàn Nghệ
thuật Đam San biểu diễn phục vụ 150 buổi/năm, trong đó phục vụ ở cơ sở, chủ yếu
là vùng đồng bào dân tộc thiểu số 120 buổi. Góp sức cùng với tỉnh, cơ quan Quân
sự, Biên phòng, Công an tỉnh, mỗi đơn vị cũng đã thành lập được 01 đội tuyên
truyền, được bố trí nhân lực và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật thiết yếu phục vụ
công tác tuyên truyền.
Nhìn chung, những năm qua hệ thông các thiết chế văn hóa cơ sở phục vụ
công tác tuyên truyền của tỉnh như: đài truyền thanh, hệ thống loa truyền thanh, nhà
văn hóa, thư viện, phòng đọc sách, nhà truyền thống, sân vận động, công viên văn
hóa, bể bơi, các cụm pa nô, tượng đài, bảng tin, đội văn nghệ không chuyên, đội
73
thông tin cổ động… đã được quan tâm đầu tư nâng cấp trang thiết bị kỹ thuật nên
từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu thưởng thức và giải trí của nhân dân.
Trong 10 năm trở lại đây, cùng với các dự án, chương trình mục tiêu quốc
gia, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chi trung bình đạt khoảng 2% tổng chi ngân sách của
tỉnh cho lĩnh vực văn hóa, thông tin, trong đó, chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, mua sắm trang bị phương tiện kỹ thuật cho các cơ quan, đơn vị trực tiếp làm
nhiệm vụ tuyên truyền, như đầu tư xây dựng hệ thống các trạm phát thanh FM
không dây, các trạm phát lại truyền hình tại một số xã vùng sâu, vùng xa; xây dựng
mới trụ sở làm việc cho một số cơ quan tuyên truyền; đầu tư trang bị mới xe truyền
hình lưu động cho Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh; bổ sung kinh phí cùng với
các chương trình mục tiêu quốc gia trang bị nhiều xe và phương tiện thông tin lưu
động cho các đội tuyên truyền lưu động của các huyện, thị thành phố; xây dựng
mới các trung tâm văn hóa, nhà văn hóa cấp huyện; hàng trăm nhà rông văn hóa
cho cho các thôn, làng vùng sâu, vùng xa; mua sắm nhiều trang thiết bị âm thanh,
loa đài, máy móc cho các đội chiếu phim lưu động, tuyên truyền lưu động của tỉnh,
huyện…để phục vụ nhiệm vụ tuyên truyền các chủ trương, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào, đạt được một số kết quả tích
cực, từng bước góp phần đưa Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên, với yêu cầu nhiệm vụ tuyên truyền hiện nay, cơ sở vật chất phục
vụ công tác tuyên truyền của tỉnh nói chung, trong vùng đồng bào dân tộc thiếu số
nói riêng còn nhiều khó khăn, hạn chế. Hệ thống Đài truyền thanh - truyền hình
huyện, thị xã hiện chỉ có 01 kênh truyền hình địa phương, trong khi đó tâm lý
người dân thích xem nhiều kênh nên dẫn đến việc mua chảo DTH, mắc cáp truyền
hình để tiếp sóng và xem được nhiều kênh truyền hình. Dẫn đến, người dân ít biết
được tình hình thông tin thời sự của địa phương.
Hệ thống số cụm loa truyền thanh không dây được Nhà nước đầu tư xây
dựng từ năm 1999 đến nay, đã hư hỏng nhiều, hiện chỉ còn 556/1146 cụm ở các xã
74
đang còn hoạt động cầm chừng, hiệu quả thấp. Nguyên nhân do cán bộ xã ít hiểu
biết về cách thức sử dụng, kinh phí chi trả cho cán bộ quản lý sử dụng thấp, kinh
phí bảo dưỡng, duy tu, sửa chữa chưa được qui định trách nhiệm cụ thể.
Các trang thiết bị phục vụ công tác tuyên truyền ở tuyến xã còn nhiều khó
khăn, thiếu thốn. Nhiều xã không có cụm panô, áp phích tuyên truyền. Nguyên
nhân do vai trò tham mưu của cán bộ văn hóa thông tin cơ sở yếu; lãnh đạo cấp ủy,
chính quyền cơ sở thiếu quan tâm.
Công tác xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở còn nhiều bất cập. Số xã,
phường, thị trấn có nhà văn hóa còn ít, nhiều nơi phải mượn tạm nhà dân, hoặc các
phòng học làm nơi sinh hoạt cộng đồng và họp dân. Số xã, phường có thiết chế văn
hóa đạt chuẩn còn ít. Nhiều nhà văn hóa xây dựng ở những địa điểm không thuận
lợi về giao thông, kinh phí đầu tư xây dựng thấp, thiếu đầu tư mua sắm trang thiết
bị, vật dụng bên trong nên hoạt động không hiệu quả.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của các thiết chế văn hóa cơ sở đang xuống cấp
nghiêm trọng, phần lớn các cơ sở vui chơi, giải trí, sinh hoạt, hội họp, các cơ sở lưu
trữ, bảo tồn các giá trị văn hóa đang cần được nâng cấp và đầu tư cơ sở vật chất -
kỹ thuật. Việc đầu tư xây dựng các nhà rông văn hóa còn thiếu nghiên cứu, điều tra
nhu cầu, thiết kế kiến trúc, văn hóa tâm linh, tâm lý sinh hoạt… của đồng bào, chủ
quan trong thiết kế xây dựng nên đồng bào ít tham gia sịnh hoạt tại các công trình
thiết chế văn hóa cơ sở này. Mặt khác, cơ chế, hệ thống văn bản chế tài qui định
quyền lợi, trách nhiệm của các tập thể, cá nhân đối với việc quản lý các nhà rông,
phòng họp tổ dân phố, nhà sinh hoạt công đồng… nên nhiều công trình vừa được
đầu tư xây dựng đã xuống cấp, hư hỏng …
Nhiều địa phương chưa thật sự quan tâm đúng mức trong việc quản lý một
cách có hiệu quả các thiết chế văn hóa được Nhà nước đầu tư xây dựng, nên hiệu
quả sử dụng thấp. Nhiều thiết bị mới được đầu tư, thời gian sử dụng ngắn đã bị hư
hỏng, thất thoát, gây lãng phí tiền của Nhà nước và nhân dân, nhất là đối với hệ
75
thống các trạm phát thanh FM, cụm loa truyền thanh không dây, các phương tiện
kỹ thuật được trang bị trong các nhà rông văn hóa… Nhiều trang thiết bị đã cũ,
xuống cấp, hư hỏng, chưa được sửa chữa, bảo dưỡng, bảo trì kịp thời.
Công tác quản lý, sử dụng phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ công tác
tuyên truyền ở địa phương thời gian qua còn nhiều hạn chế. Nhiều cán bộ trực tiếp
làm công tác tuyên truyền chưa được trang bị các phương tiện phù hợp để tác
nghiệp. Theo kết quả khảo sát của đề tài, số cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên
truyền được trang bị các phương tiện hiện đại để tác nghiệp còn ít. Chất lượng các
phương tiện kỹ thuật lạc hậu, xuống cấp, hư hỏng chưa được đầu tư trang bị bổ
sung.
2. Vấn đề cung cấp thông tin và thiết bị kỹ thuật phục vụ tuyên truyền.
Việc cung cấp thông tin cho cán bộ tuyên truyền thời gian qua trên địa bàn
tỉnh được các cấp, các ngành thường xuyên quan tâm. Hiện nay cán bộ tuyên
truyền của tỉnh tiếp nhận thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước, tin tức, thời sự quốc tế, trong nước, trong tỉnh và địa
phương để phục vụ cho công tác tuyên truyền chủ yếu từ hệ thống truyền hình, báo
viết, tạp chí; qua các lớp học tập, quán triệt nghị quyết; các buổi họp, hội nghị, hội
thảo, tập huấn; tự nghiên cứu các văn bản, tài liệu… Trong đó các kênh truyền
hình, báo viết, tạp chí, các lớp học tập, quán triệt Nghị quyết, các tài liệu là những
kênh thông tin chủ lực. Việc khai thác thông tin từ mạng Internet chỉ phổ biến đối
với cán bộ quản lý và cán bộ tuyên truyền cấp tỉnh. Đối với cán bộ cấp huyện và
nhất là cấp xã, việc tiếp nhận thông tin từ mạng Internet phục vụ công tác và tuyên
truyền còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do mạng Internet chưa phát triển sâu
rộng tại tỉnh, nhất là trong vùng đồng bào dân tộc. Hệ thống phát thanh, truyền
thanh cung cấp thông tin cho cán bộ phục vụ hoạt động tuyên truyền chưa thật sự
chiếm ưu thế lớn so với các kênh thông tin khác.
Bảng 4: Những kênh tiếp nhận thông tin chủ yếu của cán bộ các cấp.
76
Các kênh thông tin Tỉnh Huyện Xã Tổng cộng
Báo viết, tạp chí Cán bộ quản lý 100.0% 91.1% 77.1% 84.8%
Cán bộ tuyên truyền 84.6% 87.9% 74.0% 81.8%
Truyền hình Cán bộ quản lý 90.9% 94.6% 88.1% 90.4%
Cán bộ tuyên truyền 76.9% 87.9% 89.4% 87.1%
Phát thanh, truyền thanh
Cán bộ quản lý 66.7% 64.3% 53.2% 58.6%
Cán bộ tuyên truyền 59.0% 60.7% 55.3% 58.3%
Các lớp học tập, quán triệt
Cán bộ quản lý 93.9% 80.4% 83.5% 84.3%
Cán bộ tuyên truyền 79.5% 86.4% 82.9% 84.1%
Qua hội họp, hội thảo, tập huấn
Cán bộ quản lý 66.7% 69.6% 80.7% 75.3%
Cán bộ tuyên truyền 74.4% 66.4% 75.6% 71.2%
Tự nghiên cứu văn bản, tài liệu
Cán bộ quản lý 75.8% 58.9% 62.4% 63.6%
Cán bộ tuyên truyền 79.5% 71.4% 58.5% 67.2%
Qua Internet Cán bộ quản lý 63.6% 35.7% 10.1% 26.3%
Cán bộ tuyên truyền 56.4% 47.1% 8.1% 32.5%
Đọc sách Cán bộ quản lý 51.5% 46.4% 45.9% 47.0%
Cán bộ tuyên truyền 59.0% 53.6% 45.5% 51.0%
Nghe qua bạn bè, dư luận xã hội
Cán bộ quản lý 45.5% 35.7% 32.1% 35.4%
Cán bộ tuyên truyền 38.5% 41.4% 39.8% 40.4%
Khác Cán bộ quản lý 0.0% 1.8% 0.0% 0.5%
Cán bộ tuyên truyền 2.6% 0.0% 0.0% 0.3%
Với việc cung cấp thông tin hiện nay, đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán
bộ tuyên truyền các cấp đều cho rằng chỉ đáp ứng được cơ bản nhu cầu (tỷ lệ này
đối với cán bộ quản lý là 44,4% và cán bộ tuyên truyền là 42,1%) hoặc đáp ứng
được một phần nhu cầu (cán bộ quản lý 29,3% và cán bộ tuyên truyền 35,4%)
thông tin cần có của cá nhân để phục vụ công tác tuyên truyền. Tỷ lệ người được
hỏi trả lời đã cung cấp đủ thông tin, tài liệu để phục vụ công tác tuyên truyền tương
đối thấp. Đối với cán bộ quản lý là 19,2% (phân theo từng cấp: tỉnh 9,1%, huyện
21,4%, xã 21,1%). Chỉ số này ở cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền còn thấp
hơn. Có 11,9% cán bộ tuyên truyền các cấp trả lời được cung cấp đủ tài liệu, thông
tin phục vụ công tác tuyên truyền (cấp tỉnh 5,1%, cấp huyện 12,9% và cấp xã
13%). Tỷ lệ người được hỏi trả lời thiếu thông tin, tài liệu phục vụ công tác tuyên
77
truyền ở cán bộ lãnh đạo, quản lý là 7,1% (cấp tỉnh 9,1%, cấp huyện 1,8%, cấp xã
9,2%); ở cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền là 10,6% (cấp tỉnh 10,3%,
huyện 12,1% và cấp xã 8,9%).
Việc cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cán bộ làm công tác tuyên truyền ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh đã đáp ứng cơ bản các nhu cầu thiết yếu.
Đa số cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền cho rằng được cung cấp sách, tài
liệu (90,7%) và báo, tạp chí (71,2%) thường xuyên để phục vụ công tác tuyên
truyền. Đây là những công cụ truyền thống để cung cấp thông tin cho cán bộ tuyên
truyền ở tỉnh ta nói riêng và cả nước nói chung.
Về trang thiết bị phục vụ tuyên truyền, cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên
truyền được cung cấp các phương tiện hiện đại để tác nghiệp còn ít. Kết quả điều
tra của đề tài cho thấy, cán bộ tuyên truyền được trang bị tivi, đầu chiếu, máy vi
tính để phục vụ tuyêm truyền chỉ chiếm 29,8% (cấp tỉnh 41%, huyện 33,6%, cấp xã
22%); cán bộ tuyên truyền được trang bị máy tính nối mạng Internet chiếm 23,5%
(cấp tỉnh 41%, huyện 36,4%, xã 3,3%); tỷ lệ được trang bị băng đĩa tuyên truyền
31,1% (cấp tỉnh 28,2%, huyện 28,6%, xã 35%); số người được trang bị cattsete,
radio, loa tay phục vụ tuyên truyền chiếm 17,2% (cấp tỉnh 10,3%, huyện 14,3%, xã
22,8%).
Bảng 5: Trang thiết bị phục vụ cho cán bộ tuyên truyền
Tỉnh Huyện Xã Tổng cộngSách, tài liệu tuyên truyền 92.3% 90.0% 91.1% 90.7%
Tivi, đầu chiếu, máy vi tính 41.0% 33.6% 22.0% 29.8%
Máy vi tính nối mạng internet 41.0% 36.4% 3.3% 23.5%
Báo, tạp chí 82.1% 71.4% 67.5% 71.2%
Băng đĩa tuyển truyền 28.2% 28.6% 35.0% 31.1%
Cattsete,radio,loa tay 10.3% 14.3% 22.8% 17.2%
Khác 2.6% 2.1% 0.8% 1.7%
Trả lời câu hỏi “với việc trang bị các phương tiện cơ sở vật chất, kỹ thuật
phục vụ tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay, đã đáp ứng
78
được yêu cầu nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền chưa?”, đa số cán bộ trực
tiếp làm công tác tuyên truyền trả lời chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu cần thiết,
tỷ lệ 56% (cấp tỉnh 61,5%, huyện 53,6%, cấp xã 56,9%). Số cán bộ tuyên truyền trả
lời đáp ứng được cơ bản yêu cầu cần thiết chiếm 15,6% (cấp tỉnh 12,8%, huyện
11,4%, xã 21,1%). Tỷ lệ cán bộ tuyên truyền được hỏi ý kiến trả lời chưa đáp ứng
được yêu cầu còn khá cao, chiếm 28,5% (cấp tỉnh 25,6%, huyện 35% và xã 22%).
Về quản lý, sử dụng phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ công tác tuyên
truyền ở địa phương thời gian qua, đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ trực
tiếp làm công tác tuyên truyền đều cho rằng chưa tốt. Tỷ lệ này ở cán bộ lãnh đạo,
quản lý là 50,5% (cấp tỉnh 45,5%, huyện 62,5% và xã 45,9%); ở cán bộ tuyên
truyền là 43,7% (trong đó cấp tỉnh 48,7%, huyện 48,6% và xã 36,6%). Số người
được hỏi trả lời khó đánh giá ở cán bộ quản lý là 23,2% (tỉnh 45,5%, huyện 17,9%,
xã 19,3%); ở cán bộ tuyên truyền là 37,1% (tỉnh 38,5%, huyện 40,7%, xã 32,5%).
Nhìn tổng thể, việc trang bị các phương tiện phục vụ công tác tuyên truyền,
nhất là trang thiết bị phổ thông hiện đại ở tỉnh ta còn khá hạn chế, chỉ đáp ứng được
một phần cơ bản nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Có một nghịch lý là việc trang bị các phương tiện phục
vụ tuyên truyền còn hạn chế nhưng việc quản lý, sử dụng chưa tốt đã ảnh hưởng
đến việc nâng cao hiệu quả tuyên truyền. Vì vậy, trong thời gian tới muốn nâng cao
hiệu quả công tác tuyên truyền cần phải tăng cường đầu tư các phương tiện cơ sở
vật chất, đi đôi với việc quản lý và sử dụng có hiệu quả hơn các phương tiện hiện
có và các phương tiện được đầu tư mới.
IV. TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TUYÊN TRUYỀN.
Cán bộ tuyên truyền là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà
nước ta, là người hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa. Xét theo lĩnh vực và
hoạt động nghề nghiệp thì cán bộ tuyên truyền của Đảng và Nhà nước ta bao gồm:
cán bộ nghiên cứu và giảng dạy lý luận, cán bộ tuyên giáo, cán bộ báo chí, xuất
79
bản, cán bộ văn hóa-thông tin, cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa - nghệ
thuật, cán bộ chính trị ở các ngành, đoàn thể và trong lực lượng vũ trang…
Là một tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nên vấn đề tuyên
truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh. Vì vậy việc xây dựng đội ngũ cán bộ
làm công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc luôn được Đảng bộ tỉnh
quan tâm qua các thời kỳ.
1. Lực lượng cán bộ tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
của tỉnh hiện nay:
Về đại thể có thể phân lực lượng làm công tác tuyên truyền trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số thành các bộ phận chủ yếu sau:
Tổ chức Đảng và cấp ủy Đảng trong vùng đồng bào dân tộc là lực lượng lãnh
đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, đồng thời là người trực tiếp tuyên truyền, vận
động đảng viên, cán bộ và quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tổ chức Đảng thực hiện chức năng
lãnh đạo đối với công tác tuyên truyền thông qua việc đề ra chủ trương, nhiệm vụ,
biện pháp công tác tuyên truyền; tổ chức kiểm tra quá trình thực hiện; chỉ đạo, phối
hợp các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể quần chúng thực thi nhiệm vụ. Bí
thư cấp ủy là người có vai trò rất quan trọng, là “tư lệnh” của mặt trận tư tưởng -
văn hóa, còn thủ trưởng các cơ quan, các tổ chức chính trị - xã hội là người chỉ đạo
công tác này trong phạm vi cơ quan, tổ chức mình.
Ban Tuyên giáo trực thuộc cấp ủy là lực lượng tham mưu của cấp ủy, thay
mặt cấp ủy chỉ đạo, kiểm tra công tác tuyên truyền trong phạm vi được phân công.
Lực lượng này cùng với các bộ phận có chức năng tuyên truyền, giáo dục trong các
đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị - xã hội, đội ngũ làm công tác văn hóa -
thông tin và báo cáo viên, tuyên truyền viên là lực lượng tác chiến quan trọng nhất
của công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc.
80
Các bộ phận trên hợp thành lực lượng chủ lực, chủ đạo, lực lượng nòng cốt
của công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng lực lượng
chủ lực này vững mạnh sẽ có tác dụng và ảnh hưởng to lớn đến việc xây dựng một
lực lượng khác - lực lượng không chuyên nghiệp nhưng rất đông đảo là lực lượng
tuyên truyền - cổ động trong nhân dân.
Trong những năm qua, đảng bộ các cấp đã chú trọng xây dựng các lực lượng
nòng cốt ở cơ sở như: củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp uỷ cơ
sở; xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Tuyên giáo cấp
xã; nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hộị;
đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ báo cáo viên và tuyên truyền viên của toàn
Đảng bộ, coi đây là lực lượng nòng cốt trong công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng.
Tính đến thời điểm cuối năm 2008, toàn tỉnh có 215 xã, phường, thị trấn, với
2.082 thôn, làng, tổ dân phố (trong đó có 335 tổ dân phố, 1747 thôn làng với hơn
1.000 làng đồng bào dân tộc thiểu số). Tổng số cán bộ hoạt động trong hệ thống
chính trị cấp xã trong định biên có 6.963 người, trong đó đảng viên 3.992 đồng chí,
chiếm 57,33%. Có 2.262 (32,49%) cán bộ đang đảm nhiệm các chức danh chủ chốt
và chuyên trách, 1.415 (20,32 %) công chức đảm nhiệm các chức danh chuyên
môn, 3.286 (47,19 %) cán bộ không chuyên trách. Cán bộ không chuyên trách ở xã,
phường, thị trấn và ở thôn, làng, tổ dân phố do tỉnh bố trí thêm ngoài quy định của
Nghị định số 121/2003/NĐ-CP của Chính phủ hiện nay là 10.056 người, trong đó ở
cấp xã 219 người, ở cấp thôn 9.589 người.
Về đội ngũ cán bộ tuyên giáo ở cơ sở, toàn tỉnh có hơn 630 người. Trong đó,
số cán bộ chuyên trách công tác tuyên giáo cơ sở là 55 người; cán bộ được phân
công phụ trách công tác tuyên giáo cơ sở bằng hình thức kiêm nhiệm là 115 người;
còn lại hơn 460 người đang công tác tại các ban, ngành, mặt trận, các đoàn thể, cán
bộ biên phòng và cán bộ quản lý giáo dục ở cơ sở là thành viên Ban Tuyên giáo xã,
81
phường, thị trấn theo hình thức kiêm nhiệm. Tính trung bình, trên địa bàn toàn tỉnh,
Ban Tuyên giáo cơ sở có 3,7 cán bộ chuyên trách và kiêm nhiệm. Cán bộ tuyên
giáo cơ sở được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: cán bộ lãnh đạo cấp ủy,
chính quyền, mặt trận và các đoàn thể cơ sở, cán bộ y tế, quản lý giáo dục tại địa
phương, cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, bộ đội biên phòng... Đội ngũ cán bộ làm
công tác tuyên giáo cơ sở ở tỉnh hiện nay, nhìn chung được các cấp ủy lựa chọn khá
kỹ và thận trọng. Đa số cán bộ có khả năng nói và viết, có kinh nghiệm trong công
tác Đảng, công tác vận động quần chúng, có lối sống lành mạnh, phẩm chất đạo
đức tốt. Nhưng do thiếu quy hoạch tổng thể, đồng bộ nên xu hướng hình thành
thường là “tự nhiên, tự phát”, theo yêu cầu cần bố trí cán bộ và thực hiện nhiệm vụ
trước mắt, ít chú ý đến việc tạo nguồn để đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lâu dài.
Điều này ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của công tác tuyên giáo cơ sở.
Hiện nay, 100% đơn vị cấp xã đã có tổ chức Mặt trận và các tổ chức đoàn
thể nhân dân bao gồm: Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội
Liên hiệp phụ nữ, Công đoàn và các tổ chức xã hội gồm: Hội người cao tuổi, Hội
chữ thập đỏ, Hội Khuyến học... Tổng số cán bộ khối Mặt trận đoàn thể cấp xã có
2.226 người, trong đó đảng viên 1428 (chiếm 64%), nữ 557 (chiếm 25%), dân tộc
thiểu số 1008 (chiếm 45,3%).
Về đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, theo thống kê chưa đầy đủ,
hiện nay toàn tỉnh có gần 1.000 báo cáo viên các cấp và gần 5000 tuyên truyền
viên của các tổ chức trong hệ thống chính trị, trong đó có hơn 2000 báo cáo viên,
tuyên truyền viên các cấp trực tiếp làm công tác tuyên truyền miệng trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Ngoài ra, Đoàn Nghệ thuật Đam San; các đội văn nghệ
quần chúng; 13 đội thông tin lưu động; 03 đội chiếu phim lưu động; 53 đội tuyên
truyền xung kích thanh niên; 31 đội vận động quần chúng (đội 123 và Đội Tuyên
truyền văn hoá cơ sở) của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh; các đội tăng cường cơ sở và
Đội Thông tin an ninh của Công an tỉnh; hàng trăm câu lạc bộ như: câu lạc bộ
82
khuyến nông, câu lạc bộ không sinh con thứ 3, câu lạc bộ tìm hiểu pháp luật, câu
lạc bộ gia đình trẻ… đã trực tiếp tham gia có hiệu quả vào công tác tuyên truyền
vận động quần chúng ở vùng đồng bào dân tộc.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, phóng viên các cơ quan báo chí của địa phương
và Trung ương; các tạp chí, bản tin của các ngành, đoàn thể của tỉnh cũng đã góp
phần tích cực trong công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện
nay, Chương trình phát thanh - truyền hình tiếng địa phương của Đài Phát thanh-
Truyền hình tỉnh, hoạt động của các Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện, Báo
ảnh Gia Lai, các đặc san, bản tin của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Tư pháp, Hội
Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên…đã phát huy tác dụng tốt trong công tác tuyên
truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Có thể nói, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số tỉnh ta rất đa dạng và phong phú, được hình thành trong hệ thống
chính trị từ tỉnh đến cơ sở, trong đó đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp, hệ
thống các cơ quan làm công tác tư tưởng-văn hóa là lực lượng nòng cốt và chủ yếu.
Qua khảo sát đội ngũ cán bộ tuyên truyền tại 12 huyện, thị, thành phố cho thấy đại
bộ phận cán bộ tuyên truyền là người Kinh, chiếm tỷ lệ 78,5%; dân tộc Jrai và
Bahnar chiếm 20,9%
Bảng 6: Cơ cấu cán bộ tuyên truyền của tỉnh phân theo dân tộc.
Cán bộ tuyên truyền
Cấp công tácTỉnh Huyện Xã Tổng cộngTỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ
Dân tộc
Kinh 89.7% 85.0% 67.5% 78.5%
Jrai 7.7% 10.0% 20.3% 13.9%
Bahnar 2.6% 4.3% 11.4% 7.0%
Khác 0.0% 0.7% 0.8% 0.7%
Tổng cộng
100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
83
Bảng 7: Cơ cấu cán bộ tuyên truyền của tỉnh phân theo giới.
Cán bộ tuyên truyền
Cấp công tácTỉnh Huyện Xã Tổng cộngTỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ
Giới Nam 76.9% 75.0% 78.9% 76.8%
Nữ 23.1% 25.0% 21.1% 23.2%
Tổng cộng
100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 8: Lực lượng cán bộ tuyên truyền phân theo khối công tác.
Cấp công tác
Tỉnh Huyện Xã Tổng cộng
Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ
Khối cơ quan
công tác
Khối Đảng 17.9% 39.3% 15.4% 26.8%
Khối chính quyền 33.3% 30.0% 22.0% 27,2%
Khối đoàn thể 35.9% 27.9% 62.6% 43.0%
Khác 12.8% 2.9% 0.0% 3.0%
Lực lượng cán bộ làm công tác tuyên truyền trực tiếp trong vùng đồng bào
dân tộc chủ yếu nằm trong khối đoàn thể, chiếm tới 43% (khối Đảng là 26,8%; khối
chính quyền 27,2%...)
Nhìn chung, lực lượng làm công tác tuyên truyền trực tiếp hiện nay trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số so với yêu cầu của tình hình mới thì còn rất thiếu.
Qua khảo sát đánh giá về số lượng cán bộ làm công tác tuyên truyền trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh hiện nay có đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ hay
không, kết quả điều tra cho thấy có đến 66,7% cán bộ quản lý, 60,3% cán bộ tuyên
truyền các cấp trả lời chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu. Tỷ lệ cho rằng đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ là rất thấp. Tỷ lệ chung đồng ý với phương án này của cán
bộ lãnh đạo quản lý là 17,2% (cán bộ cấp tỉnh tán đồng phương án này là 3%, cấp
huyện 16,1%, cấp xã 22%); đối với cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền đồng
ý với phương án này có tỷ lệ thấp hơn cán bộ lãnh đạo, quản lý, tỷ lệ chung chỉ
84
chiếm 11,9% (trong đó cấp tỉnh 0%, cấp huyện 4,3% và cấp xã 24,4%). Cán bộ trực
tiếp làm công tác tuyên truyền cho rằng số lượng cán bộ tuyên truyền trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu chiếm khá
cao, tỷ lệ lên đến 26,2% (tỷ lệ này của cán bộ lãnh đạo, quản lý là 14,6%). Phân
theo cấp quản lý, có đến 41% cán bộ tuyên truyền cấp tỉnh, 30% cán bộ tuyên
truyền cấp huyện và 17,1% cán bộ tuyên truyền cấp xã cho rằng số lượng cán bộ
tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh hiện nay chưa đáp ứng
được yêu cầu (chỉ số này ở cán bộ quản lý cấp tỉnh là 21,2%, cấp huyện 24,4%, cấp
xã 9,2%). Điều này cho thấy lực lượng cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn ít và chưa phát huy hết hiệu quả.
2. Trình độ và năng lực cán bộ tuyên truyền trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số.
Đa số cán bộ tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số có bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng, trung thành với Tổ
quốc, với nhân dân; có đạo đức, lối sống trong sáng, cần cù, chịu khó, có tinh thần
trách nhiệm với công việc, có ý thức tổ chức kỷ luật, nhất là kỷ luật phát ngôn,
được các cấp ủy đảng và chính quyền tin tưởng, được đảng viên và quần chúng quý
mến. Nhiều đồng chí nhạy bén về chính trị, có năng lực nhất định về nắm bắt tình
hình tư tưởng và dư luận xã hội; có khả năng tập hợp quần chúng và đấu tranh với
các luận điệu phản tuyên truyền; có phương pháp triển khai các nội dung của hoạt
động tuyên truyền ở cơ sở.
Phần đông cán bộ tuyên truyền đã trải nghiệm qua thực tiễn công tác. Khảo
sát cuả đề tài cho thấy có trên 88% cán bộ tuyên truyền nằm trong độ tuổi từ 30 đến
60 tuổi, có 66,6% cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền có thời gian công tác
trên 5 năm. Trong đó, số cán bộ tuyên truyền có thâm niên công tác trên 10 năm
chiếm 39,1%.
Bảng 9: Độ tuổi cán bộ làm công tác tuyên truyền.
85
TuổiCấp công tác
Tỉnh Huyện Xã Tổng cộngTỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ
Dưới 30 tuổi 5.1% 10.0% 14.6% 11.3%
Từ 30-40 tuổi 23.1% 26.4% 32.5% 28.5%
Từ 41 đến 60 tuổi 69.2% 63.6% 52.0% 59.6%
Trên 60 tuổi 2.6% 0.0% 0.8% 0.7%
Tổng cộng 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Phân theo cấp công tác, số cán bộ cấp tỉnh có thời gian làm công tác tuyên
truyền trên 5 năm chiếm 76,9%, tỷ lệ cao hơn so với cán bộ tuyên truyền cấp huyện
69,3% và cấp xã 60,2%. Riêng đội ngũ báo cáo viên các cấp có kinh nghiệm hoạt
động từ 5 năm trở lên chiếm 43,3%; số tuyên truyền viên chiếm 34,7%. Đây là
những thuận lợi rất cơ bản đối với công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số.
Bảng 10: Thời gian làm công tác tuyên truyền
Cấp công tác
Tỉnh Huyện Xã Tổng cộngTừ 1-5 năm 23.1% 30,7% 39.8% 33.4%
Từ 6-10 năm 20.5% 18.6% 39.8% 27.5%
Từ 11-20 năm 33.3% 32.9% 14.6% 25.5%
Trên 20 năm 23.1% 17.9% 5.7% 13.6%
Về trình độ, năng lực của cán bộ tuyên truyền: những năm qua, các cấp ủy
đảng từ tỉnh đến cơ sở đã có nhiều chương trình, kế hoạch, đề án xây dựng, củng cố
hệ thống chính trị, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ở
cơ sở. Trong đó, chú trọng đặc biệt đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cơ sở và xem đây là nguồn lực quan trọng, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển, giữ vững an ninh quốc phòng và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
86
Theo đó, các cấp ủy, chính quyền chỉ đạo triển khai khảo sát, đánh giá thực trạng
đội ngũ cán bộ hiện có trong hệ thống chính trị ở cơ sở; kiểm tra, giám sát, nắm bắt
và tháo gỡ kịp thời những vướng mắc nảy sinh. Đặc biệt, các cấp ủy và chính
quyền thực hiện tốt việc quy hoạch với đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, giữa sắp
xếp, bố trí với luân chuyển cán bộ từ tỉnh, huyện xuống xã và ngược lại. Từng bước
nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cả về văn hóa, chuyên môn,
nghiệp vụ, lý luận chính trị và quản lý nhà nước... Tỉnh và các địa phương thường
xuyên quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị nói chung và
cán bộ tuyên truyền nói riêng. Từ năm 2005 đến cuối năm 2008, toàn tỉnh đã đào
tạo, bồi dưỡng 13.858 lượt cán bộ trong đó: 11.260 lượt đào tạo bồi dưỡng trung
cấp, sơ cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng cấp ủy viên, công tác mặt trận, đoàn thể,
nghiệp vụ xã đội, công an, tư pháp, văn phòng, nghiệp vụ trưởng thôn..., cử 1.326
cán bộ, công chức đi học đại học, trung cấp chuyên môn, 362 cán bộ đi học cao
cấp, trung cấp chính trị, tiền công vụ...; luân chuyển 191 cán bộ, trong đó: tỉnh về
xã 33 cán bộ, huyện về xã 130 cán bộ, xã về huyện 41 cán bộ và nhiều cán bộ
chuyển từ xã này sang xã khác; củng cố, kiện toàn được 362 chức danh từ trưởng,
phó đầu ngành trở lên. Ngoài ra, tỉnh còn dùng ngân sách địa phương chi lương cho
10.056 cán bộ không chuyên trách (ngoài Nghị định 121) trong đó cấp xã là 215
cán bộ, các thôn, làng là 9.589 cán bộ; bố trí thêm một phó bí thư phụ trách cơ sở
cho 57 xã; phụ cấp 1 triệu đồng/tháng cho cán bộ luân chuyển từ tỉnh, huyện xuống
xã và 500 ngàn đồng/tháng cho cán bộ từ xã này luân chuyển sang xã khác.
Với những nỗ lực trên, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở của Gia
Lai ngày càng được nâng cao. Trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị của
đội ngũ cán bộ công chức cấp xã được nâng lên so với những nhiệm kỳ trước. Số
cán bộ có trình độ học vấn trung học phổ thông chiếm 43%; về chuyên môn nghiệp
vụ: trung cấp chiếm 24,75%, đại học và cao đẳng chiếm 4,84%; về lý luận chính
trị: sơ cấp chiếm 27,69%, trung cấp 16,3%, cao cấp 1,51%. Phần lớn cán bộ, công
87
chức cấp xã có lập trường chính trị vững vàng, chín chắn trong công việc, gương
mẫu trong việc chấp hành các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nắm
được quy chế hoạt động và các quy định của chính quyền các cấp, sẵn sàng nhận
nhiệm vụ khi được phân công. Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, có nhiều
tiến bộ trong công tác lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, có ý thức
tự lực khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ, khắc phục
phần nào tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào cấp trên. Năng lực chuyên môn của đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã từng bước được nâng lên so với yêu cầu nhiệm vụ. Đa số
cán bộ, công chức cơ sở thực hiện tốt nhiệm vụ theo chức trách được giao, tích cực
bám địa bàn, bám dân và am hiểu tình hình, phong tục, tập quán của nhân dân địa
phương, tập hợp, vận động nhân dân thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người
công dân trên địa bàn, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển, giữ
vững an ninh, chính trị, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân...Do đó, công tác
tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số bước đầu đã có những khởi sắc.
Qua khảo sát của đề tài đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên
truyền trong năm 2008 cho thấy trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận
chính trị của đội ngũ này của tỉnh tương đối khá, cụ thể: Về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, số cán bộ có trình độ từ trung cấp trở lên chiếm tới 57,3%, trong đó đại
học trở lên chiếm 32,8%.
Bảng 11: Trình độ học vấn, chuyên môn của cán bộ tuyên truyền
Trình độCấp công tác
Tỉnh Huyện Xã Tổng cộngTiểu học 0.0% 0.0% 4.1% 1.7%
THCS 0.0% 7.9% 37.4% 18.9%
THPT 10.3% 16.4% 32.5% 22.2%
Trung cấp 7.7% 25.7% 24.4% 22.8%
Cao đẳng 5.1% 2.1% 0.0% 1.7%
Đại học 71.8% 47.9% 1.6% 32.1%
Trên đại học 5.1% 0.0% 0.0% 0.7%
88
Về trình độ lý luận chính trị, số có trình độ từ trung cấp trở lên chiếm 65,9%
(trong đó trung cấp chiếm 39,1%; cao cấp, cử nhân 26,8%).
Bảng 12: Trình độ lý luận chính trị của cán bộ tuyên truyền.
Trình độ Cấp công tácTỉnh Huyện Xã Tổng cộng
Cao cấp, cử nhân 48.7% 42.1% 2.4% 26.8%
Trung cấp 41.0% 42.1% 35.0% 39.1%
Sơ cấp 5.1% 14.3% 51.2% 28.1%
Chưa được đào tạo 5.1% 1.4% 11.4% 6.0%
Đánh giá chung về trình độ, năng lực của cán bộ tuyên truyền ở cả trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị và năng lực thực
tiễn, đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền
đều cho rằng ở mức trung bình. Tỷ lệ người được hỏi trả lời trình độ, năng lực của
cán bộ tuyên truyền tốt chiếm tỷ lệ thấp. Tỷ lệ cán bộ được xin ý kiến cho rằng
trình độ, năng lực cán bộ tuyên truyền còn thấp, yếu cao hơn tỷ lệ người trả lời cán
bộ tuyên truyền có trình độ cao.
Bảng 13: Đánh giá chung về trình độ, năng lực công tác của cán bộ tuyên
truyền.
Trình độ, năng lực Cao, tốt
Khá Trung bình
Thấp, yếu
Khó trả lời
Trình độ học vấn
Cán bộ quản lý 6.6% 23.2% 36.4% 15.7% 18.2%
Cán bộ tuyên truyền
8.9% 47.4% 33.4% 5.3% 5.0%
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
Cán bộ quản lý 9.1% 27.3% 45.5% 11.6% 6.6%
Cán bộ tuyên truyền
4.6% 37.7% 40.4% 10.3% 7.0%
Trình độ lý luận chính trị
Cán bộ quản lý 12.1% 32.3% 39.9% 11.1% 4.5%
Cán bộ tuyên truyền
8.9% 34.1% 37.7% 11.9% 7.3%
Năng lực thực tiễn
Cán bộ quản lý 19.2% 24.7% 43.4% 10.6% 2.0%
Cán bộ tuyên truyền
9.9% 28.1% 41.4% 12.9% 7.6%
89
Một điều đáng quan tâm là tỷ lệ cán bộ sử dụng thành thạo được tiếng dân
tộc Jrai hoặc Bahnar trong hoạt động tuyên truyền, theo kết quả điều tra là rất thấp.
Bảng 14: Mức độ sử dụng tiếng Jrai hoặc Bahnar của cán bộ trong tuyên truyền
Mức độ sử dụng Tỉnh Huyện Xã Tổng cộng
Sử dụng thành thạo
Cán bộ quản lý 6.1% 25.0% 34.9% 27.3%
Cán bộ tuyên truyền 10.3% 12.9% 28.5% 18.9%
Sử dung chưa thành thạo
Cán bộ quản lý 15.2% 23.2% 18.3% 19.2%
Cán bộ tuyên truyền 20.5% 22.9% 18.7% 20.9%
Biết một ít Cán bộ quản lý 45.5% 46.4% 38.5% 41.9%
Cán bộ tuyên truyền 56.4% 52.9% 39.8% 48.0%
Chưa biết Cán bộ quản lý 33.3% 5.4% 8.3% 11.6%
Cán bộ tuyên truyền 12.8% 11.4% 13.0% 12.3%
Theo đánh giá của cán bộ quản lý thì đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên
truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng thành thạo tiếng Jrai hoặc
Bahnar chỉ có 27,3%; còn theo đánh giá của cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên
truyền thì chỉ số này là 18,9%.
Cán bộ người Kinh làm công tác tuyên truyền sử dụng ngôn ngữ của đồng
bào địa phương thành thạo trong quá trình tác nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ 4,6% (chỉ số
này của cán bộ lãnh đạo, quản lý là 8,6%). Có 22,4% cán bộ tuyên truyền người
Kinh có sử dụng ngôn ngữ của đồng bào địa phương để tuyên truyền nhưng chưa
thành thạo (đối với cán bộ quản lý, chỉ số này là 21,4%). Có đến trên 70% cán bộ
tuyên truyền và cán bộ lãnh đạo quản lý người Kinh các cấp từ tỉnh đến cơ sở chưa
sử dụng được tiếng đồng bào trong hoạt động tuyên truyền. Cũng qua kết quả điều
tra cho thấy chỉ có 76,2% cán bộ tuyên truyền, 75,8% cán bộ quản lý người dân
tộc Jrai sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong công tác tuyên truyền và giao tiếp
hàng ngày (Chỉ số này đối với cán bộ tuyên truyền là người Bahnar 66,7%; cán bộ
lãnh đạo, quản lý là 72,7%). Bất đồng ngôn ngữ giữa cán bộ tuyên truyền và đối
90
tượng tuyên truyền đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động tuyên truyền
thời gian qua trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên truyền.
Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ các cấp, trong đó có
đội ngũ cán bộ tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được nhiều
cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể các cấp quan tâm. Do đó, tỷ lệ cán bộ, đảng
viên tham gia học tập lý luận chính trị ngày càng nhiều, chất lượng học tập được
nâng lên. Qua 10 năm thực hiện Quy định 54 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về “chế
độ học tập lý luận chính trị trong Đảng”, toàn tỉnh đã mở được: 1.620 lớp đào tạo,
bồi dưỡng lý luận chính trị, với 118.450 lượt cán bộ, đảng viên tham dự. Trong đó,
bồi dưỡng đảng viên mới 320 lớp với 20.563 đảng viên tham dự; bồi dưỡng nghiệp
vụ công tác đảng cho bí thư, phó bí thư chi bộ và cấp ủy viên cơ sở 81 lớp, 5.185
đảng viên; bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng, đoàn thể: 720 lớp, cho 55.190 lượt
cán bộ, đảng viên; Chương trình sơ cấp lý luận chính trị: 84 lớp, 4.845 học viên;
chương trình trung cấp lý luận chính trị: 42 lớp, 3.240 học viên; chương trình cao
cấp lý luận chính trị do Học viện Chính trị hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh mở
tại tỉnh: 14 lớp, 1.569 học viên.
Từ năm 2005 - 2008, Trường Chính trị tỉnh và các Trung tâm bồi dưỡng
chính trị cấp huyện đã mở được 212 lớp đào tạo, bồi dưỡng với 11.260 lượt cán bộ
cơ sở (cấp xã và thôn, làng). Trong đó: Về chuyên môn, đã có 1.236 cán bộ, công
chức cấp xã được cử đi học các chương trình đào tạo đại học, trung cấp, sơ cấp và
các lớp nghiệp vụ văn phòng, địa chính, văn hóa, công an xã; 362 cán bộ, công
chức cấp xã được cử đi học các chương trình đào tạo cao cấp và trung cấp lý luận
chính trị, tiền công vụ và sơ cấp. Ngoài ra, các xã, phường, thị trấn còn cử cán bộ đi
học các lớp ngoại ngữ, tin học, tiếng dân tộc; duy trì thường xuyên chế độ tập huấn,
bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức trách cho cán bộ cơ sở.
91
Thông qua học tập, bồi dưỡng các chuyên đề về giáo dục lý luận chính trị,
như bồi dưỡng đảng viên mới, bồi dưỡng công tác đảng cho bí thư chi bộ và cấp ủy
viên cơ sở, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, đoàn thể, chương trình sơ cấp,
trung cấp, cao cấp lý luận chính trị … đã giúp cho cán bộ, đảng viên hiểu nâng cao
nhận thức chính trị, vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn công tác ở địa
phương, đơn vị ngày càng tốt hơn, đặc biệt là phục vụ ngày càng có hiệu quả hơn
cho công tác tuyên truyền.
Từ đầu năm 2005 đến thời điểm tháng 10/2008, theo kết quả điều tra cho
thấy số lượng cán bộ tuyên truyền được bồi dưỡng văn hóa chiếm 24,7%; được bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chiếm 65,7% và bồi dưỡng chính trị chiếm 61,7%,
trong đó tỷ lệ cán bộ cấp xã được bồi dưỡng nhiều nhất.
Bảng 15: Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ tuyên truyền.
Nội dung bồi dưỡngCấp công tác
Tỉnh Huyện Xã Tổng cộng
Bồi dưỡng văn hóaCó 15.4% 15.7% 38.0% 24.7%
Không 84.6% 84.3% 62.0% 75.3%
Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
Có 61.5% 59.3% 74.4% 65.7%
Không 38.5% 40.7% 25.6% 34.3%
Bồi dưỡng chính trịCó 64.1% 57.9% 65.3% 61.7%
Không 35.9% 42.1% 34.7% 38.3%
Phần lớn báo cáo viên, tuyên truyền viên của các huyện, thị, thành uỷ và đảng
uỷ trực thuộc tỉnh đã được tập huấn nghiệp vụ công tác tuyên truyền do Ban Tuyên
giáo các huyện, thị, thành uỷ, các Trung tâm bồi dưỡng chính trị tổ chức. Do đó, kỹ
năng công tác tuyên truyền của từng báo cáo viên, tuyên truyền viên bước đầu đã
được nâng lên. Nhiều huyện đã tổ chức các hội thi như báo cáo viên giỏi, tuyên
92
truyền viên giỏi, bí thư chi bộ giỏi, chính trị viên giỏi... tạo ra diễn đàn thuận lợi
cho các báo cáo viên, tuyên truyền viên gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm và nâng cao
nghiệp vụ chuyên môn. Các ngành đoàn thể như Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, Tư
pháp, Đoàn thanh niên bên cạnh việc bồi dưỡng theo chuyên đề cho số báo cáo
viên, tuyên truyền viên của ngành mình cũng đã tổ chức khá tốt các cuộc thi tuyên
truyền viên giỏi, hoà giải viên giỏi... tạo ra môi trường thuận lợi để nâng cao hiệu
quả công tác tuyên truyền.
Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là ở cơ
sở vẫn còn nhiều bất cập. Nhiều cán bộ được cử tham gia đào tạo nhưng do đầu vào
không bảo đảm nên chất lượng sau đào tạo, bồi dưỡng không cao, hiệu quả thấp.
Bên cạnh đó, việc đào tạo còn nặng về lý luận, chưa chú trọng đến kỹ năng xử lý
tình huống thực tế, nội dung, chương trình và phương thức đào tạo chậm đổi mới;
các lớp bồi dưỡng chủ yếu là ngắn hạn nên hiệu quả không cao. Ở một số địa
phương, gắn đào tạo với sử dụng cán bộ chưa thật hợp lí, triệt để, chưa bảo đảm
cân đối giữa các ngành nghề đào tạo, chưa gắn với nhu cầu công tác thực tế ở địa
phương…nên dẫn đến khó sử dụng, bố trí đúng vị trí, nhất là ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Hiện nay toàn tỉnh còn 12.411/19.908 cán bộ xã, thôn (chiếm 62,66%)
chưa được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ (Trong đó: Cán bộ chuyên trách có
1.397 người, công chức có 173 người, cán bộ không chuyên trách (ở thôn, làng) có
10.841 người); 12.743 cán bộ, công chức chưa được đào tạo về lý luận chính trị.
Qua khảo sát đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số cho thấy, có đến 34,3% chưa được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ (trong đó, cấp tỉnh chiếm 38,5%, cấp huyện 40,7% và cấp xã 25,6%); 38,3%
cán bộ tuyên truyền chưa được đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị (tỷ lệ này ở cấp
tỉnh là 35,9%, cấp huyện 42,1% và cấp xã là 34,7%). Riêng đội ngũ cán bộ tuyên
giáo cơ sở, toàn tỉnh có 8,39% đạt trình độ học vấn cấp I; 57,42% có trình độ học
vấn cấp II và 34,19% có trình độ học vấn cấp III. Về trình độ chuyên môn, có 6,9%
93
đạt trình độ đại học, cao đẳng; 25,1% có trình độ trung cấp; còn lại 68% có trình độ
sơ cấp hoặc chưa qua đào tạo. Về trình độ lý luận chính trị, có 4,06% cán bộ tuyên
giáo cơ sở đạt trình độ cao cấp hoặc cử nhân chính trị; 28,12% có trình độ trung
cấp chính trị; 26,95% có trình độ sơ cấp chính trị hoặc học xong chương trình lý
luận phổ thông; có 40,87% chưa được đào tạo lý luận chính trị. Thực trạng trên cho
thấy trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, chính trị của cán bộ tuyên giáo cơ sở
của tỉnh còn rất thấp. Có trên 65% cán bộ tuyên giáo cơ sở trình độ học vấn từ cấp
II trở xuống. Một điều rất đáng lo ngại hiện nay là có đến 40,87% cán bộ làm công
tác tuyên giáo cơ sở, những người làm cầu nối chuyển tải chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước đến
quảng đại quần chúng nhân dân, trực tiếp tuyên truyền vận động, đấu tranh về mặt
chính trị tư tưởng diễn ra sôi động hàng ngày ở cơ sở nhưng lại chưa được đào tạo
về mặt lý luận chính trị. Đây là vấn đề rất bất cập, cần được khắc phục kịp thời.
Một hạn chế nữa cần khắc phục là vẫn còn nhiều cấp ủy đảng, chính quyền,
đoàn thể chưa thật sự quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng chính trị, chuyên
môn nghiệp vụ cho cán bộ tuyên truyền. Có 23,7% cán bộ quản lý, 18,9% cán bộ
tuyên truyền các cấp cho rằng cấp tỉnh chưa quan tâm hoặc quan tâm chưa đầy đủ
đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên truyền. Chỉ số đánh giá chưa hài lòng
về sự quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên truyền đối với cấp huyện ở cán bộ
lãnh đạo quản lý là 26,8% và cán bộ tuyên truyền là 26,5%. Có 42% cán bộ lãnh
đạo quản lý và 52,7% cán bộ tuyên truyền cho rằng cấp xã chưa quan tâm hoặc
quan tâm chưa đầy đủ đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên truyền.
Bảng 16: Đánh giá mức độ quan tâm đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ và chính trị cho cán bộ tuyên truyền
Mức độ quan tâm Cấp tỉnh
Cấp huyện Cấp xã
Rất quan tâm Cán bộ quản lý 32.3% 35.4% 29.3%
Cán bộ tuyên truyền 31.1% 33.4% 25.8%
Quan tâm Cán bộ quản lý 43.9% 37.9% 28.8%
94
Cán bộ tuyên truyền 50.0% 40.1% 21.5%
Quan tâm nhưng không đầy đủ
Cán bộ quản lý 20.2% 25.3% 26.8%
Cán bộ tuyên truyền 16.9% 26.2% 40.4%
Chưa quan tâm Cán bộ quản lý 3.5% 1.5% 15.2%
Cán bộ tuyên truyền 2.0% 0.3% 12.3%
Có 23,2% cán bộ lãnh đạo, quản lý, 12,9% cán bộ tuyên truyền cấp tỉnh;
25% cán bộ lãnh đạo, quản lý, 29,3% cán bộ tuyên truyền cấp huyện; 23,9% cán bộ
quản lý, 23,4% cán bộ tuyên truyền cấp xã cho rằng cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt
trận và các đoàn thể của cấp mình chưa quan tâm hoặc quan tâm chưa đầy đủ đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận, chính trị và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ
làm công tác tuyên truyền.
V. CÁC NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN ĐÃ TRIỂN KHAI.
Nội dung của công tác tuyên truyền do nhiệm vụ chính trị của cách mạng ở
từng thời kỳ và mục đích tuyên truyền quy định. Trong thời gian qua các lực lượng
làm công tác tuyên truyền của tỉnh với phương chăm hướng về cơ sở, đã tích cực
triển khai các nội dung tuyên truyền trong đồng bào dân tôc thiểu hết sức phong
phú như: Truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
những tinh hoa văn hóa tư tưởng của dân tộc và nhân loại nhằm nâng cao nhận thức
và góp phần hình thành nhân sinh quan, thế giới quan Mác-Lênin trong toàn xã hội.
Giải thích quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, giáo dục đồng bào hiểu rõ
nhiệm vụ chính trị của đất nước, của địa phương và quyết tâm thực hiện tốt các
nhiệm vụ ấy. Giáo dục truyền thống, phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống mới,
xây dựng đời sống văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Tuyên
truyền và góp phần vào nâng cao kiến thức về khoa học, công nghệ mới, tri thức
của thời đại để đồng bào tham gia tốt vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
địa phương. Hướng dẫn, cổ vũ đồng bào tích cực thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Phát hiện, cổ vũ những điển hình tiên tiến và
đồng thời cảnh báo trước dư luận trước xã hội những hiện tượng, khuynh hướng
xấu, lạc hậu từ khi chúng còn phôi thai. Đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái
95
với hệ tư tưởng Mác-Lênin, đường lối, chính sách của Đảng ta; chống âm mưu
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, nhất là trong việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo.
Trong lĩnh vực kinh tế, các lực lượng làm công tác tuyên truyền triển khai
các nội dung chủ yếu như: tuyên truyền đường lối, chính sách kinh tế của Đảng,
các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, các chương trình, kế hoạch kinh tế 5 năm,
hàng năm của Trung ương, của tỉnh và các địa phương. Tuyên truyền pháp luật
kinh tế, các giải pháp của Nhà nước nhằm thể chế hóa và cụ thể hóa đường lối kinh
tế của Đảng, hướng dẫn hành động trong thực tiễn và xã hội. Phổ biến các kiến
thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất, kinh doanh; những kinh nghiệm
trong sản xuất kinh doanh, những điển hình tiên tiến, những phong trào thi đua và
sáng kiến cải tiến kỹ thuật, những gương làm ăn giỏi trong đồng bào các dân tộc
của tỉnh. Đánh giá nội dung tuyên truyền về phát triển kinh tế ở tỉnh trong thời gian
qua, kết quả điều tra của đề tài cho thấy, có 50,9% đồng bào được hỏi ý kiến cho
rằng nội dung tuyên truyền tốt, 37,6% trả lời bình thường, có 6,2% cho rằng chưa
tốt và 5,4% không có ý kiến cụ thể. Với cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ trực
tiếp làm công tác tuyên truyền: có 24,7% cán bộ quản lý cho rằng nội dung tuyên
truyền kinh tế triển khai trong vùng đồng bào dân tộc của tỉnh trong thời gian qua
là tốt, có 59,1% đánh giá đạt yêu cầu, 14,1% có ý kiến chưa tốt. Các chỉ số này ở
cán bộ tuyên truyền là: tốt 20,2%, đạt yêu cầu 55%, chưa tốt 21,2%.
Tuyên truyền để đồng bào nhận thức rõ vai trò của khoa học - công nghệ
trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn tỉnh nhà,
phát huy tính năng động, sáng tạo của đồng bào trong việc chuyển giao, tiếp thu,
ứng dụng và làm chủ công nghệ. Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào, các cuộc vận
động khuyến khích đồng bào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật.
Lực lượng cán bộ làm công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,
tăng cường các hoạt động phổ biến kiến thức, chuyển giao tiến bộ khoa học-công
96
nghệ trong nghề nông, ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ chế biến, tiêu thụ
sản phẩm; tuyên truyền khôi phục làng nghề truyền thống; phát triển nghề mới, giải
quyết nhiều việc làm tại chỗ... góp phần vận động đồng bào chuyển đổi cơ cấu vật
nuôi, cây trồng, đạt năng suất, chất lượng cao, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, phát
triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Trong điều kiện mặt bằng dân trí của đồng bào nhìn chung là còn thấp, khó
khăn trong việc tiếp thu cũng như áp dụng tiến bộ khoa học-công nghệ vào trong
sản xuất và đời sống, các cán bộ chuyên môn, trong quá trình thực hiện tập huấn
chuyển giao tiến bộ khoa học-công nghệ cho đồng bào đã căn cứ vào trình độ nhân
dân từng vùng, có nội dung và hình thức chuyển giao cho phù hợp, tài liệu hướng
dẫn hết sức cụ thể, nội dung truyền đạt dễ hiểu, hướng dẫn trực tiếp, đi sâu vào xây
dựng các mô hình mẫu ở từng địa bàn, nhờ vậy, việc ứng dụng tiến bộ khoa học-
công nghệ vào sản xuất và đời sống của đồng bào thời gian qua có nhiều tiến bộ.
Đánh giá nội dung phổ biến tiến bộ khoa học - kỹ thuật thông qua hoạt động tuyên
truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số thời gian qua, kết quả điều tra của đề tài
cho thấy có 37,7% đồng bào được hỏi ý kiến trả lời tốt, 42,2% có ý kiến bình
thường, 8,4% cho rằng chưa tốt. Dưới góc nhìn của cán bộ lãnh đạo, quản lý, có
10,6% cho rằng việc phổ biến kiến thức khoa học - kỹ thuật trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số thời gian qua là tốt, 46,5% có ý kiến đạt yêu cầu và 36,4% có ý
kiến chưa tốt.
Tuyên truyền kinh tế trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh có
nội dung hết sức phong phú, liên quan trực tiếp đến nhiều đối tượng có trình độ
khác nhau. Ngoài những quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế, tri thức kinh tế
chung, sự quan tâm của đồng bào về các vấn đề kinh tế cụ thể có khác nhau. Vì
vậy, thời gian qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên từ tỉnh đến cơ sở, các
cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến công, phổ biến pháp luật, các cán bộ
công đoàn, đoàn thanh niên, hội nông dân, phụ nữ, cựu chiến binh…gắn với các
97
phong trào thi đua phát triển kinh tế của mình đã tập trung tuyên truyền về những
giải pháp chủ yếu trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội của địa phương,
cơ sở; tuyên truyền những tiềm năng, thế mạnh của tỉnh và địa phương trong việc
phát triển kinh; tuyên truyền về các chương trình kinh tế-xã hội lớn của đất nước,
địa phương, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế; tuyên truyền phổ biến những
thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thông tin về thị trường phục vụ phát triển
kinh tế…
Các phương tiện thông tin đại chúng đã tập trung tuyên truyền về những tri
thức kinh tế, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế,
tình hình kinh tế-xã hội của đất nước, địa phương, các kiến thức về khoa học, kỹ
thuật, kinh nghiệm làm ăn giỏi, các điển hình tiên tiến, các thông tin về thị
trường… Tuyên truyền qua hệ thống thông tin đại chúng được thực hiện thường
xuyên, liên tục, được lặp lại hợp lý, kết hợp với các hình thức khác để nâng cao
thêm hiệu quả. Các loại hình thông tin đại chúng như báo in, phát thanh, truyền
hình, sách, tờ rơi, tờ gấp…cũng đã đưa nhiều thông tin tuyên truyền kinh tế bổ ích
đối với đồng bào.
Trong lĩnh vực chính trị, nội dung các lưc lượng làm công tác tuyên truyền
triển khai trong đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh là: Tuyên truyền về chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng, của cách mạng
Việt nam. Tuyên truyền về đường lối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc để thực hiện sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Tuyên truyền về đường lối
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước về phát huy tối đa nội lực, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực… Tuyên truyền về đường lối của Đảng trong các
lĩnh vực khoa học, giáo dục, văn hóa, quốc phòng-an ninh, đối ngoại, xây dựng
chính quyền nhà nước, xây dựng Đảng. Tuyên truyền về những phong trào cách
mạng của quần chúng, những điển hình tiên tiến tích cực, tự giác thực hiện các
98
nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra. Tuyên truyền về các sự kiện chính trị, các quá
trình chính trị diễn ra trong tỉnh, trong nước và thế giới. Đấu tranh kiên quyết,
không khoan nhượng với các quan điểm, tư tưởng chính trị thù địch, sai trái; khắc
phục tình trạng bàng quang chính trị; mơ hồ, mất cảnh giác. Kết quả điều tra của đề
tài với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh cho thấy, đa số đồng bào
(74,4%) cho rằng nội dung tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng được
các lực lượng tuyên truyền triển khai trong thời gian qua là tốt, có 22,2% ý kiến
cho là bình thường, chỉ có 3,5% những người được xin ý kiến cho rằng chưa tốt
hoặc không có chính kiến cụ thể. Như vậy, bước đầu có thể nhận định, việc tuyên
truyền các chủ trương, đường lối của Đảng trong đối tượng đồng bào dân tộc của
tỉnh thời gian qua được các lực lượng làm công tác tuyên truyền khiển khai khá tốt.
Công tác giáo dục truyền thống được quan tâm đẩy mạnh, nhất là vào dịp các
ngày lễ lớn, các ngày kỷ niệm, hàng năm tổ chức nhiều đợt tuyên truyền, giáo dục
về truyền thống dân tộc và cách mạng. Các phong trào hành động mang ý nghĩa
giáo dục sâu sắc được triển khai ở cơ sở như: chăm sóc phụng dưỡng các bà mẹ
Việt Nam Anh hùng, các gia đình và người có công với nước, tu sửa nghĩa trang
liệt sĩ, dựng tượng đài, bia tưởng niệm... Qua đó khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự
hào về truyền thống của nhân dân từng bước hình thành bản lĩnh chính trị vững
vàng.
Các lực lượng làm công tác tuyên truyền thường xuyên giáo dục nâng cao
kiến thức pháp luật cho đồng bào, làm cho đồng bào hiểu biết đầy đủ về hệ thống
pháp luật của nước ta hiện hành. Đồng bào hiể biết pháp luật là cơ sở để đảm bảo
thực hiện tốt pháp luật. Đánh giá nội dung tuyên truyền về pháp luật được các lực
lượng tuyên truyền triển khai, theo kết quả điều tra của đề tài, có 69% đồng bào
được xin trả lời tốt, 25,9% cho là bình thường, 1,9% đánh giá chưa tốt và 3,3%
không có chính kiến cụ thể. Dưới góc nhìn của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
việc tuyên truyền các chính sách, pháp luật của nhà nước trong đối tượng đồng bào
99
dân tộc thiểu số của tỉnh thời gian qua có 32,8% nhận định tốt, 50,5% cho rằng đạt
yêu cầu, chỉ có 14,6% đánh giá chưa tốt. Các chỉ số này cũng khá tương đồng với
nhận định của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền.
Các nội dung tuyên tuyền pháp luật được triển khai trên địa bàn tỉnh thời
gian qua là Hiến pháp và hệ thống pháp luật thuộc các lĩnh vực: luật hành chính,
luật kinh tế, luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự, luật tố tụng hình sự, luật đất đai,
luật hình sự,…Công tác tuyên truyền pháp luật đã giải thích rõ nội dung của các
luật, làm rõ điều gì được làm, điều gì cấm làm để đồng bào thực hiện. Tuyên truyền
hệ thống văn bản dưới luật: đó là các nghị định, nghị quyết, chỉ thị, của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và của các văn bản qui phạm pháp luật
của chính quyền địa phương. Tuyên truyền thực trạng tình hình pháp luật, nhất là
thực trạng tình hình thực thi pháp luật để nâng cao nhận thức và tình cảm pháp luật
của đồng bào.
Đã làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức,
hiểu biết về pháp luật và trách nhiệm thực hiện pháp luật trong đồng bào. Ở những
địa bàn trọng điểm về an ninh nông thôn, đã đẩy mạnh tuyên truyền vận động quần
chúng làm cho đồng bào nhận thức được trách nhiệm bảo vệ tài sản Nhà nước, tài
sản của công dân; không để bị bọn xấu lợi dụng, kích động, chia rẽ gây mất đoàn
kết trên địa bàn, thực hiện tốt các quy định của chính quyền. Tuyên tuyền nhằm
từng bước hình thành trong đồng bào ý thức tôn trọng pháp luật "sống làm việc
theo hiến pháp và pháp luật"; định hướng đồng bào có ý thức trong việc xây dựng
nếp sống văn hóa nơi công cộng, trong gia đình, phòng chống các tệ nạn xã hội,
xây dựng gia đình văn hóa và thôn, làng văn hóa; xây dựng các quy ước, hương
ước.
Công tác tuyên truyền pháp luật thời gian qua đã phát huy tính sáng tạo,
tinh thần làm chủ của quần chúng nhân dân trong việc xây dựng pháp luật, thông
qua việc lấy ý kiến đông đảo của các cơ quan, các tổ chức, các đoàn thể trước khi
100
Quốc hội thông qua. Hướng dẫn quần chúng tham gia ý kiến xây dựng về những
vấn đề thực hiện chưa phù hợp với thực tế ở địa phương.
Trong lĩnh vực văn hóa-xã hội các lực lượng làm công tác tuyên truyền của
tỉnh đã đẩy mạnh tuyên truyền chuẩn mực đạo đức và thang bậc giá trị mới trong
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh như: tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn
đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có
lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng
kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng
tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Các lực lượng tuyên truyền của tỉnh đã đẩy mạnh tuyên truyền điển hình tiên
tiến trong đạo đức, lối sống, góp phần thúc đẩy sự phát triển, nêu gương và lôi
cuốn, cổ vũ xã hội noi theo. Đó là những điển hình trong từng lĩnh vực như trong
văn hóa, chính trị, kinh tế, giao tiếp ứng xử. Đó là các đơn vị văn hóa, là những tấm
gương để moị người học tập và noi theo. Tuyên truyền về đạo đức, lối sống của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nội dung của tuyên truyền đạo đức, lối
sống văn hóa hiện nay. Đánh giá nội dung tuyên truyền về gương người tốt, việc
tốt, kết quả điều tra của đề tài cho thấy, có 38,6% đồng bào được hỏi ý kiến cho là
tốt, 41,7% đánh giá bình thường, chỉ có 7,8% cho chưa tốt. Nội dung này dưới góc
nhìn của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, có 21,7% nhận định tốt, 41,1% có nhận
định đạt yêu cầu và 31,3% đánh giá chưa tốt, 49,3% đạt yêu cầu, và 25,8% cho
chưa tốt. Có sự thống nhất giữa cán bộ quản lý và cán bộ tuyên truyền là tỷ lệ
người được xin ý kiến có nhận định nội dung tuyên truyền gương người tốt, việc tốt
trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số thời gian qua chưa tốt đều cao hơn so với
tỷ lệ người nhận định tốt. Do vậy, trong thời gian đến các lực lượng tuyên truyền
101
cần triển khai đậm nét và có hiệu quả hơn việc tuyên truyền gương người tốt, việc
tốt ở địa phương.
Tuyên truyền đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư” do Mặt trận Tổ quốc Việt nam phát động, đưa các cuộc
vận động này vào nội dung hoạt động của mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực, trở
thành bộ phận cấu thành của các chương trình, kế hoạch hàng năm, hàng quý, hàng
thánh của các cơ qua, đơn vị. Đặc biệt đã quan tâm tuyên truyền giáo dục đạo đức,
lối sống văn hóa trong thế hệ trẻ, trọng tâm là giáo dục lý tưởng, giúp thế hệ trẻ
hình thành lối sống văn hóa.
Các lực lượng tuyên truyền triển khai tốt các hoạt động giáo dục nâng cao
nhận thức, phát huy lối sống cần kiệm, nhân nghĩa, tình làng nghĩa xóm; bảo vệ
phát huy những giá trị đạo đức trong sáng, lành mạnh, thủy chung. Nêu cao tinh
thần nhiệt tình hăng say lao động sản xuất, xóa đói giảm nghèo, khắc phục tư tưởng
trông chờ ỷ lại Nhà nước, xây dựng ý thức tự lực, tự cường không cam chịu đói
nghèo, quyết tâm vươn lên làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội đối với đồng
bào.
Thường xuyên chú trọng tuyên truyền nâng cao nhận thức về đường lối của
Đảng trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Làm cho đồng
bào ý thức rõ vai trò kế thừa, tái tạo, phát huy truyền thống văn hóa các dân tộc Tây
nguyên như: văn hóa cồng chiêng, văn hóa nhà rông , các vũ điệu dân gian, các sắc
phục dân tộc, các nhạc cụ dân tộc, các lễ hội truyền thống..., biết giữ gìn và phát
huy các thuần phong mỹ tục, những mối quan hệ cao quý giữa con người với con
người và giữa con người với tự nhiên, xã hội. Đánh giá về nội dung tuyên truyền
này thời gian qua có khá đông cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ tuyên truyền
nhận định chưa tốt. Theo kết quả điều tra của đề tài chỉ có 23,7% cán bộ lãnh đạo,
quản lý có ý kiến nội dung tuyên truyền bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống thời gian qua tốt, trong khi đó có đến 26,8% đánh giá nội dung tuyên truyền
102
chưa tốt. Đối với cán bộ tuyên truyền, các chỉ số tương tự là 19,2% nhận định tốt
và 25,2% cho chưa tốt.
Đẩy mạnh tuyên tuyền phong trào xây dựng các mô hình, điển hình “gia
đình hiếu học”. Tuyên truyền vận động thực hiện chương trình phổ cập trung học
cơ sở, thực hiện công tác xoá mù chữ, chống tái mù trong nhân dân nhất là đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Vận động trẻ em trong độ tuổi đến lớp, đến
trường. Vận động xây dựng các loại quỹ hổ trợ học tập, các hoạt động khuyến học,
khuyến tài… Tổ chức tuyên truyền, vận động trong đồng bào về phòng, chống dịch
bệnh, tổ chức các hoạt động giữ gìn vệ sinh môi trường như tổ chức vệ sinh đường
làng, nơi công cộng định kỳ, vận động đòng bào ăn sạch, uống sạch, ở sạch, bảo vệ
nguồn nước sạch. Vận động đồng bào đi khám bệnh, sử dụng thuốc khi đau ốm,
chống mê tín dị đoan trong chữa bệnh.
Các lực lượng làm công tác tuyên truyền từ tỉnh đến cơ sở đã đẩy mạnh
tuyên truyền, giáo dục vận động làm cho đồng bào thấy rõ âm mưu của kẻ thù,
nâng cao cảnh giác từ đó không nghe, không theo và không để bọn xấu lợi dụng,
kích động, lôi kéo chống lại chính quyền; thấy rõ các chính sách của Đảng và Nhà
nước chăm lo cho đồng bào các dân tộc và tôn giáo, tích cực tham gia phong trào
quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc...
Tuyên truyền vạch trần và góp phần đấu tranh xoá bỏ tổ chức phản động
Fulrô và “Tin lành Đê ga”. Phối hợp với các lực lượng tăng cường và lực lượng tại
chỗ sử dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn có hiệu quả tình trạng vượt biên trái
phép hoặc bỏ trốn ngoài rừng; tập trung triệt phá ngay từ thôn, làng các tổ chức,
các đường dây móc nối, kích động đồng bào vượt biên trái phép, không để xảy ra
điểm nóng, nếu có phải giải quyết ngay trên từng địa bàn cơ sở không để lây lan,
kéo dài. Đẩy mạnh tuyên truyền đấu tranh phòng chống các loại tội phạm và tệ nạn
xã hội, làm trong sạch địa bàn và làm lành mạnh đời sống xã hội. Thường xuyên
vận động những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, các chức sắc tôn
103
giáo để nắm quần chúng tín đồ, nhằm đấu tranh có hiệu quả với bọn phản động lợi
dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo.
Đã làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục giúp đồng bào nhận thức sâu sắc
và đề cao cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của các thế lực thù
địch và bọn phản động Fulrô, kiên quyết phản bác luận điệu kích động đòi ly khai,
tự trị; kích động chia rẽ dân tộc; không để địch lôi kéo tham gia biểu tình, bạo loạn
và vượt biên trái phép; không để đoàn viên, hội viên theo "Tin lành Đêga"; làm thất
bại âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Nhận định chung về nội
dung tuyên truyền phản bác các luận điệu sai trái, phản động của bọn fulro được
các lực lượng tuyên truyền triển khai trong thời gian qua ở các đối tượng được xin
ý kiến đều đánh giá khá tốt. Có đến 80,8% đồng bào dân tộc thiểu số, 81,1% cán bộ
trực tiếp làm công tác tuyên truyền và 83,3% cán bộ lãnh đạo, quản lý khi được hỏi
ý kiến cho rằng nội dung đấu tranh phản tuyên truyền được triển khai trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh thời gian qua là tốt và đạt yêu cầu.
Quán triệt sâu sắc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, về liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, nền tảng khối đại đòan kết tòan dân. Xây
dựng tinh thần đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển. Làm
cho đồng bào hiểu rõ chính sách của Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân.
Bên cạnh những mặt đã đạt được việc triển các nội dung tuyên truyền trong
đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh vẫn còn một số bất cập:
Công tác tuyền truyền, giáo dục chính trị tư tưởng để nâng cao sự nhất trí,
tạo sự đồng thuận trong đồng bào chưa cao. Nhiều chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước chưa đến được với dân nhất là đồng bào các dân tộc vùng sâu
vùng xa…Nhân dân còn băn khoăn, lo lắng trước những diễn biến phức tạp của
tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tình trạng phân hoá giàu nghèo,
104
chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bào Kinh và đồng bào
dân tộc thiểu số ngày càng gia tăng. Một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số bị bọn
phản động lôi kéo kích động; lòng tin vào Đảng, Nhà nước trong một bộ phận nhân
dân chưa vững chắc.
Tài liệu tuyên truyền chưa đầy đủ, đôi lúc thiếu kịp thời. Cơ sở vật
chất phục vụ cho công tác tuyên truyền còn nhiều thiếu thốn. Một bộ phận khá lớn
đồng bào chưa tiếp thu được các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
nhà nước. Một số nội dung tuyên truyền chưa phù hợp với đối tượng đồng bào.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa thường xuyên.
Công tác tuyên truyền giáo dục giúp cho nhân dân nhận thức về âm mưu,
thủ đoạn của kẻ thù vẫn chưa kịp thời; nội dung giáo dục, nâng cao nhận thức và
đấu tranh chống lại các luận điệu tuyên truyền kích động của địch chưa sâu sắc,
hiệu quả chưa cao.
Chưa nắm bắt nhanh chóng và xử lý kịp thời những diễn biến về tư tưởng,
tâm trạng cuộc sống trong nhân dân, nhất là những khó khăn trong học tập, mưu
sinh, lập nghiệp... Thường chú trọng nhiều đến loại hình giáo dục tập trung, huy
động nhiều lực lượng thể hiện trên quy mô lớn có tính chất bề nổi vào dịp những
ngày lễ trọng đại, những dịp tổ chức kỷ niệm mà thiếu quan tâm chỉ đạo giáo dục
thường xuyên, giáo dục ở thôn, làng, đặc biệt là qua sinh hoạt Mặt trận, đoàn thể ở
cơ sở.
Nội dung tuyên truyền còn dàn trải, cứng nhắc, mang tính áp đặt một chiều
từ trên xuống, chưa phù hợp với trình độ và tâm lý của đồng bào, chưa sát với từng
đối tượng; nặng về biểu dương thành tích; chưa đi sâu phân tích cho quần chúng
hiểu rõ những nguyên nhân của tình hình, sự kiện mới phát sinh; chưa mạnh dạn
phê phán những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, những việc làm sai trái của cán
bộ, đảng viên; chưa nhạy bén trong việc giải đáp những thắc mắc của quần chúng.
Chưa thực hiện tốt thông tin hai chiều nên đã không sát dân, không nắm chắc, nắm
105
kịp thời tâm tư, nguyện vọng của dân để chủ động giải quyết hoặc phản ánh, tham
mưu cho cấp uỷ xử lý
VI. CÁC PHƯƠNG PHÁP, HÌNH THỨC TUYÊN TRUYỀN.
Trong hoạt động tuyên truyền bên cạnh các yếu tố chủ thể, khách thể, mục
đích, nội dung, hình thức, phương tiện tuyên truyền thì phương pháp tuyên truyền
không thể thiếu được trong hệ thống công tác tuyên truyền. Cùng với nội dung
tuyên truyền, phương pháp tuyên truyền chính là biện pháp được dùng để thực hiện
các mục tiêu, nhiệm vụ của công tác tuyên truyền.
Những năm qua cùng với quá trình mở rộng thông tin, nâng cao chất lượng
nội dung tuyên truyền, các hình thức và phương pháp tuyên truyền với đối tượng
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh không ngừng được đổi mới theo hướng gần gũi
và phù hợp hơn với trình độ, tâm lý tiếp nhận thông tin của đồng bào, qua đó góp
phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền. Hình thức,
phương pháp tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai khá
phong phú, đa dạng; nhưng chung quy có thể khái quát thành ba nhóm chính: Thứ
nhất, nhóm phương pháp tuyên truyền bằng lời nói trực tiếp hay còn gọi là tuyên
truyền miệng; Thứ hai, nhóm phương pháp tuyên truyền trực quan, bao gồm việc
sử dụng các phương tiện tượng trưng như: sơ đồ, biểu bảng, bản đồ… và các
phương tiện tạo hình như: tranh cổ động, tranh biếm họa, ảnh thời sự, khẩu hiệu,
biểu ngữ, tờ rơi, triển lãm, mô hình, các nhóm tượng đài, hội thi, hội chợ, tham
quan điển hình tiên tiến…, nhóm phương pháp này thiên về công tác cổ động,
nhằm tác động trực tiếp vào đối tượng tuyên truyền để họ hành động theo mục đích
của người đi tuyên truyền; Thứ ba, nhóm phương pháp sử dụng các phương tiện kỹ
thuật làm khâu trung gian, bao gồm: sách, báo in, đài phát thanh, truyền thanh,
truyền hình, Internet, phim, băng, đĩa hình, video, cassette…
1. Phương pháp tuyên truyền miệng.
106
Theo các nhà nghiên cứu: Tuyên truyền miệng là một phương thức tuyên
truyền được tiến hành bằng lời nói trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức,
củng cố niềm tin và cổ vũ tích cực hành động của người nghe.
So với các hình thức tuyên truyền khác, tuyên truyền miệng có những ưu thế
nổi bật đó là: bằng công cụ lời nói, tuyên truyền miệng có thể truyền đạt thông tin
đến mọi đối tượng, kể cả đối tượng không biết chữ, nhất là đối tượng ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuyên truyền miệng có thể được sử dụng
trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện như: ở nhà, nơi làm việc, trên lớp, sinh hoạt
câu lạc bộ, trong giờ giải lao hay trong cuộc họp, lúc trao đổi tọa đàm, với mọi
người hoặc nhiều người. Trong tuyên truyền bằng lời nói trực tiếp, cán bộ tuyên
truyền có thể sử dụng ngôn ngữ phù hợp, quen thuộc theo lời ăn tiếng nói của đối
tượng, nên có sức truyền cảm và tác động mạnh mẽ vào tình cảm của đối tượng,
qua đó khơi dậy tính tích cực về nhận thức, thúc đẩy quá trình hình thành niềm tin
và cổ vũ hành động tự giác của công chúng. Đây là một ưu thế riêng mà không một
hình thức tuyên truyền nào khác có được. Một ưu thế khác của tuyên truyền bằng
lời nói trực tiếp là người tuyên truyền có thể sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ như tư
thế, cử chỉ, điệu bộ, diện mạo, thái độ xúc cảm của nét mặt…làm phương tiện biểu
đạt thông tin và sắc thái tình cảm. Những yếu tố phi ngôn ngữ này tác động vào thị
giác của người nghe, tăng cường sự chú ý của họ. Cùng với lời nói, kết hợp với lời
nói chúng có tác dụng nâng cao ý nghĩa cảm xúc của lượng thông tin, do đó có tác
động tích cực thúc đẩy việc tiếp thu thông tin một cách tốt nhất ở đối tượng, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền. Một ưu thế nổi bật khác của hoạt
động tuyên truyền miệng là chủ thể và đối tượng được giao tiếp trực tiếp với nhau,
qua đó đối tượng sẽ có cảm giác vấn đề được đặt ra thật hơn, hay hơn, chính xác
hơn. Nhờ nghiên cứu trước đối tượng và nắm bắt thêm đặc điểm đối tượng qua giao
tiếp trực tiếp, người tuyên truyền sẽ hiểu rõ hơn nhu cầu tiếp nhận thông tin, tâm
trạng của người nghe để điều chỉnh nội dung thông tin một cách phù hợp. Bên cạnh
107
đó, giao tiếp trực tiếp còn cho phép chuyển từ độc thoại sang đối thoại. Đối tượng
tuyên truyền có thể bày tỏ được tâm tư, nguyện vọng của mình; được hỏi và được
trả lời những vấn đề mình quan tâm nhưng chưa được giải thích hoặc giải thích
chưa thấu đáo; được trao đổi tranh luận với nhau và với cán bộ tuyên truyền về
những vấn đề còn chưa thống nhất…
Những năm qua, phương pháp tuyên truyền miệng được các cấp các ngành
từ tỉnh đến cơ sở, thông qua nhiều hình thức khác nhau đã truyền tải một phần lớn
các nội dung về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đến các tầng lớp nhân dân.Thông qua đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị
nói chung và đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp nói riêng đã triển khai
nhiều hình thức tuyên truyền miệng phong phú đến đối tượng đồng bào dân tộc
thiểu của tỉnh như: tập trung dân mở các lớp quán triệt, tuyên truyền các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và của các cấp ủy địa phương; phổ biến
chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông báo tình hình thời sự, chính sách của địa
phương, trong nước, quốc tế; phát động quần chúng đấu tranh chống phản tuyên
truyền; tọa đàm, trao đổi, hỏi-đáp để giải quyết các khúc mắc của dân; gặp gỡ
nhóm, từng đối tượng, gia đình cụ thể để tuyên truyền sâu một số vấn đề cụ thể; tổ
chức bồi dưỡng, huấn luyện các đối tượng cán bộ cơ sở, cán bộ thôn, làng, đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên, người có uy tín trong cộng đồng…để qua các đối
tượng này làm cầu nối đưa chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước đến với các đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh.
Trong các kênh tiếp nhận thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước ở đối tượng đồng bào dân tộc thiếu số tỉnh Gia Lai,
kênh thông tin bằng lời nói trực tiếp chiếm ưu thế nổi trội. Kết quả điều tra của đề
tài với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số cho thấy có 68,1% đồng bào đồng bào
được hỏi ý kiến thường xuyên tiếp nhận thông tin tuyên truyền qua các buổi sinh
hoạt thôn, làng, tổ dân phố. Có 66,6% đồng bào tiếp nhận thông tin qua đội ngũ cán
108
bộ trong hệ thống chính trị và 60% số người được hỏi cho rằng đã tiếp nhận chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước qua các buổi hội
họp, phát động quần chúng.
Qua 15 kênh tiếp nhận thông tin về tuyên truyền ở đồng bào dân tộc thiểu số
do đề tài đưa ra, thì 3 kênh thông tin bằng lời nói trực tiếp nêu trên theo đồng bào là
những kênh thông tin tiếp nhận chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước chủ yếu của đồng bào, chỉ đứng sau kênh tuyên truyền thông qua hệ thống
truyền hình (78,4%). Quá trình tiếp nhận thông tin tuyên truyền của đồng bào qua
ba kênh trên nhiều hơn cả hệ thống phát thanh, truyền thanh, báo viết, báo ảnh, tài
liệu tuyên truyền…Điều này khẳng định ưu thế lớn của hoạt động tuyên truyền
miệng trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh.
Bảng 17: Các kênh tiếp nhận thông tin chủ yếu
Dân tộc
Jrai Bahnar Khác Tổng cộng
Qua báo viết, báo ảnh 38.7% 37.0% 62.1% 39.7%
Qua đài truyền hình 77.3% 78.5% 89.5% 78.4%
Qua đài phát thanh 42.4% 45.0% 64.2% 44.6%
Qua hệ thống phát thanh 30.1% 27.8% 34.7% 29.7%
Qua sách 21.4% 11.5% 45.3% 19.8%
Qua tài liệu tuyên truyền 35.5% 27.8% 57.9% 34.5%
Qua chương trình phát thanh tiếng Jrai, Bahnar
47.0% 50.8% 12.6% 46.0%
Qua chương trình truyền hình tiếng Jrai, Bahnar
46.5% 56.9% 14.7% 47.8%
Qua cán bộ tuyên truyền 66.7% 65.3% 71.6% 66.6%
Qua hội họp, phát động quần chúng 60.0% 56.7% 76.8% 60.0%
Qua tranh ảnh, khẩu hiệu, triển lãm 13.8% 12.3% 36.8% 14.8%
Qua sinh hoạt lễ hội, TDTT 33.6% 39.3% 36.8% 35.7%
Qua dư luận xã hội 19.7% 13.2% 22.1% 17.8%
Qua Internet 2.6% 0.8% 4.2% 2.1%
Qua sinh hoạt thôn, làng, tổ dân phố 71.1% 64.4% 57.9% 68.1%
109
Kênh khác 0.3% 0.2% 1.1% 0.3%
Phát huy ưu thế của hình thức tuyên truyền bằng lời nói trực tiếp, đội ngũ
cán bộ các cấp, trong đó có đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên đã thực hiện có
hiệu quả phương châm hướng về cơ sở để truyền đạt các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước đến các tầng lớp nhân dân. Đồng thời tích cực chủ động nắm
bắt diễn biến tâm trạng, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để có giải pháp
tuyên truyền và định hướng dư luận xã hội kịp thời. Tại nhiều địa phương trong
tỉnh, đội ngũ cán bộ các cấp đã thực hiện tốt nội dung bốn cùng “cùng ăn, cùng ở,
cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc và tiếng phổ thông”, nên đã nắm bắt được diễn
biến tâm trạng, tư tưởng của nhân dân để kịp thời triển khai các hoạt động tuyên
truyền nhằm giải quyết, tháo gỡ những vướng mắc về tư tưởng của dân hoặc tham
mưu cho cấp ủy, chính quyền và các ngành chức năng các cấp xử lý những vấn đề
tư tưởng nảy sinh, không để kẻ địch lợi dụng. Hoạt động tuyên truyền miệng cũng
đã tích cực tham gia vận động quần chúng, tuyên truyền giải thích cho đồng bào
hiểu rõ các âm mưu, thủ đoạn và luận điệu lừa bịp của bọn phản động; cảm hóa,
giáo dục, tháo gỡ những băn khoăn, khúc mắc về tư tưởng ở những người do nhận
thức hạn chế nghe và làm theo các luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch
để họ yên tâm làm ăn và hòa nhập với cộng đồng.
Trong các phương pháp tuyên truyền nói chung, đội ngũ cán bộ làm công tác
tuyên truyền trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh chủ yếu sử dụng
biện pháp họp dân để phổ biến, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và các chính sách cụ thể của địa phương. Có 77,8%
cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền trong đối tượng đồng bào dân tộc của
tỉnh được xin ý kiến cho rằng đây là phương pháp họ thường xuyên sử dụng nhất.
Phương pháp họp dân để tuyên truyền giáo dục được cán bộ tuyên truyền sử dụng
phổ biến hơn rất nhiều phương pháp khác trong hoạt động tuyên truyền miệng như
tuyên truyền cho từng cá nhân, hộ gia đình số cán bộ sử dụng thường xuyên là
110
39,1%; tuyên truyền thông qua người có uy tín trong cộng đồng có 64,2% cán bộ
tuyên truyền sử dụng phương pháp này…Đối với cán bộ tuyên truyền cấp xã, thôn,
làng việc sử dụng hình thức họp dân để triển khai các hoạt động tuyên truyền chiếm
ưu thế tuyệt đối so với việc sử dụng các phương pháp tuyên truyền khác. Có đến
94,3% đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cấp cơ sở sử dụng hình thức này
trong hoạt động tuyên truyền miệng tại địa phương.
Cái được lớn nhất của hình thức họp dân để tuyên truyền thời gian qua ở địa
phương trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số là đồng thời một lúc có thể cung
cấp thông tin đến nhiều đối tượng một cách có hệ thống và chính thống. Đội ngũ
cán bộ các cấp thông qua các buổi họp dân đã cung cấp tri thức, giáo dục, phổ biến,
quán triệt các chủ trương, đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước
đến đồng bào; thông báo kịp thời có định hướng các vấn đề thời sự quan trọng
trong nước, quốc tế và các vấn đề nóng bỏng đang diễn ra trong cuộc sống hàng
ngày mà dư luận quan tâm. Từ đó góp phần tạo nên sự thống nhất về nhận thức, tư
tưởng trong đồng bào, cổ vũ các phong trào hành động của đồng bào các dân tộc
địa phương nhằm thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Thông qua hình thức họp dân để tuyên truyền, đội ngũ cán bộ các cấp một
mặt thông tin những vấn đề cơ bản, thiết thực nhất cần phải tuyên truyền đến đồng
bào; mặt khác nhờ các thông tin phản hồi có thể nắm bắt được nhận thức và thái độ
của đồng bào đối với chủ trương, đường lối, chính sách đã ban hành; nắm được tâm
tư, nguyện vọng, nhu cầu lợi ích của đồng bào. Trên cơ sở những thông tin phản
hồi này, kịp thời đề xuất với Đảng, Nhà nước, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn
thể các cấp kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, chính sách và
biện pháp triển khai cụ thể phù hợp hơn với nhu cầu khách quan và thực tiễn tại cơ
sở, vừa hợp với lòng dân.
111
Bằng hình thức họp dân để phát động quần chúng, các lực lượng tuyên
truyền và các ngành chức năng đã thực hiện tốt công tác đấu tranh chống âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, vạch trần những thủ đoạn,
sai trái của một số phần tử phản động vi phạm pháp luật, chống phá chủ trương,
đường lối của Đảng, gây mất ổn định chính trị ở cơ sở; kiên quyết chống phao tin
đồn nhảm, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; đấu tranh phê phán những
quan điểm sai trái, lệch lạc, lạc hậu nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ Đảng,
chính quyền, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết
giữa đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh, tạo tiền đề và điều kiện thuận lợi để
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống về vật chất và
tinh thần của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh.
Cùng với hình thức họp dân để tuyên truyền, những năm qua hoạt động
tuyên truyền miệng với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh, phương pháp
tuyên truyền cá nhân (hay còn gọi là tuyên truyền cá biệt) cũng được cán bộ lãnh
đạo quản lý, cán bộ chuyên môn, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp
sử dụng khá phổ biến. Kết quả khảo sát của đề tài với đối tượng cán bộ trực tiếp
làm công tác tuyên truyền cho thấy có 39,1% (cấp tỉnh 33,3%, cấp huyện 29,3%,
cấp xã 52%) cán bộ tuyên truyền thường xuyên đến các hộ gia đình, gặp gỡ cá nhân
từng người để tuyên truyền; có 64,2% (cấp tỉnh 53,8%, cấp huyện 64,3%, cấp xã
67,5%) cán bộ tuyên truyền sử dụng biện pháp gặp gỡ các cá nhân có uy tín trong
cộng đồng như già làng, cán bộ thôn, làng, người dân có tiếng nói trọng lượng
trong cộng đồng…để tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, động viên, khuyến khích họ tích cực tuyên truyền thực
hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Hình thức tuyên truyền cá biệt cũng
được nhiều cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, cán bộ công an, quân đội, cán bộ tăng
cường cơ sở… sử dụng có hiệu quả với các đối tượng có đặc điểm cá biệt như có tư
tưởng, hành động sai trái, chống đối. Bằng hình thức mưa dầm thấm lâu, hoạt động
112
tuyên truyền cá biệt đã tác động đến một số đối tượng làm cho họ từ bỏ quan điểm
chống đối, tư tưởng dân tộc hẹp hòi để hòa nhập với cộng đồng, cùng xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Từ thực tế hoạt động tuyên truyền với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số
của tỉnh, phương pháp tuyên truyền cá nhân có một số ưu điểm nổi bật là có thể
trình bày sâu một vấn đề cụ thể sát với vấn đề mà các đối tượng quan tâm, hứng thú
hoặc những vấn đề đối tượng còn băn khoăn, khúc mắc; phương thức tuyên truyền
này có thể truyền tải những thông tin ở dạng phổ biến hẹp đến đối tượng và trong
quá trình tuyên truyền có thể phát huy tối đa các hình thức đối thoại, trao đổi, tranh
luận sâu về một hoặc một số vấn đề cụ thể. Phương pháp tuyên truyền cá nhân đối
với những người có uy tín trong cộng đồng, khi tác động đến một đối tượng có thể
tạo ảnh hưởng, thu được kết quả ở nhiều đối tượng khác. Khi chủ thể tuyên truyền
tác động làm thay đổi nhận thức, hành vi của những người có uy tín trong cộng
đồng theo mục đích tuyên truyền, sẽ có tác động lan tỏa, làm thay đổi quan điểm,
nhận thức và hành động của nhiều cá nhân khác trong cộng đồng. Điều này đã được
chứng minh khá rõ trong hoạt động tuyên truyền miệng ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số của tỉnh.
Để hoạt động tuyên truyền cá nhân có hiệu quả, chủ thể tuyên truyền cần
phải nắm vững đặc điểm riêng của đối tượng, để có các biện pháp tác động kịp
thời, thiết thực, hiệu quả; phải lựa chọn địa điểm và thời gian tác động phù hợp.
Chủ thể tuyên truyền phải khéo léo, tế nhị, kiên trì mới thuyết phục được đối tượng.
Đồng thời để nâng cao hiệu quả, hoạt động tuyên truyền cá nhân cần kết hợp chặt
chẽ với các phương pháp và lực lượng tuyên truyền khác nhau để cùng tác động
làm thay đổi nhận thức và hành vi của đối tượng.
Một hình thức tuyên truyền miệng khác cũng khá phổ biến trong đối tượng
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh thời gian qua là tổ chức tập huấn chuyên đề, mở
các lớp học tập, quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
113
luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn, thôn, làng, tổ dân
phố để họ nắm vững các nội dung cần tuyên truyền một cách có hệ thống, để qua
đó bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau triển khai các nội dung cần tuyên
truyền đến các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, đây chỉ là hình thức trung gian, hình
thức tuyên truyền miệng chủ yếu được triển khai trong đối tượng đồng bào dân tộc
thiểu số ở tỉnh thời gian qua là họp dân để tuyên truyền và triển khai các hoạt động
tuyên truyền theo nhóm, từng gia đình, từng người.
Triển khai các hình thức tuyên truyền miệng trên trong đối tượng đồng bào
dân tộc thiểu số của tỉnh, chủ thể tuyên truyền là cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ
chuyên môn, lực lượng báo cáo viên các cấp và tuyên truyền viên ở cơ sở chủ yếu
sử dụng các phương pháp tuyên truyền như thuyết trình, đối thoại, thảo luận nhóm,
nêu vấn đề, nêu gương, tuyên truyền cá nhân, thông qua người có uy tín trong cộng
đồng để tuyên truyền.
Mỗi phương pháp tuyên truyền miệng trên triển khai với đối tượng đồng bào
dân tộc thiểu số của tỉnh có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Với phương pháp
thuyết trình, chủ thể tuyên truyền trình bày được một cách có hệ thống, logic các
quan điểm, nội dung tuyên truyền, nhằm cung cấp các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước sâu và có hệ thống cho đồng bào. Tuy
nhiên, do nhận thức của một bộ phận đồng bào còn hạn chế, nội dung, phương pháp
thuyết trình của cán bộ tuyên truyền chưa phù hợp với trình độ nhận thức, tâm lý
tiếp nhận thông tin của đối tượng tuyên truyền, nên khoảng cách về quan điểm giũa
chủ thể và đối tượng tuyên truyền còn xa, làm cho hiệu quả tuyên truyền đôi lúc
còn thấp. Với phương pháp tuyên truyền đối thoại, đàm thoại, nêu vấn đề, thảo luận
nhóm, hỏi - đáp… phát huy có hiệu quả trong việc trao đổi thông tin hai chiều giữa
đồng bào và cán bộ tuyên truyền. Cùng với việc cung cấp thông tin, chủ thể tuyên
truyền giải đáp kịp thời những vấn đề mà đa số đồng bào quan tâm, đôi lúc đặt ra
các tình huống “có vấn đề” để lôi cuốn đồng bào cùng tham gia giải quyết trong
114
quá trình thống nhất nhận thức. Thông qua đối thoại, đàm thoại, vấn đáp đồng bào
được trình bày ý kiến, chính kiến của mình và cộng đồng, qua đó giải tỏa được tâm
lý, gây được hứng thú trong việc chủ động tìm hiểu nội dung tuyên truyền góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền. Tuy nhiên, nhóm phương pháp này
muốn triển khai có hiệu quả đòi hỏi chủ thể tuyên truyền phải có trình độ tri thức
khá, có quan điểm lập trường vững vàng, đủ khả năng hướng tới đối tượng tuyên
truyền đi đến mục đích tuyên truyền đã xác định. Nhưng hiện nay, do trình độ và
kinh nghiệm tuyên truyền của một bộ phận khá lớn cán bộ còn hạn chế nên nhóm
phương pháp tuyên truyền này ít được sử dụng trong hoạt động tuyên truyền ở địa
phương.
Đánh giá hiệu quả các phương pháp tuyên truyền miệng được điều tra của đề
tài với cán bộ lãnh đạo quản lý và cán bộ tuyên truyền các cấp, phương pháp tuyên
truyền miệng được cho là phát huy hiệu quả tốt nhất là thông qua người có uy tín
trong cộng đồng để tuyên truyền. Có 75% cán bộ quản lý các cấp (trong đó cấp tỉnh
75,8%, cấp huyện 69,6%, cấp xã 78%) và 79,8% cán bộ tuyên truyền (trong đó cấp
tỉnh 79,5%, cấp huyện 78,6% và cấp xã 81,3%), được hỏi thống nhất trả lời phương
pháp tuyên truyền thông qua người có uy tín trong cộng đồng phát huy hiệu quả tốt
đối với đồng bào dân tộc địa phương. Khi điều tra trực tiếp đối với đồng bào thì
phương pháp này cũng được đánh giá phát huy hiệu quả tốt. Lý giải thực tế này,
dưới góc nhìn khoa học và thực tiễn không khó để lý giải. Thứ nhất, phương pháp
này đã phát huy triệt để lợi thế người cùng nhóm. Khi nghe người có uy tín trong
cộng đồng tuyên truyền, các đối tượng thường có tâm thế sẵn sàng tiếp nhận các
nội dung tuyên truyền một cách không có điều kiện. Thứ hai, do hiểu rõ đối tượng
và sử dụng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ để tuyên truyền nên các nội dung được truyền đạt
dễ hiểu đối với đồng bào. Thứ ba, phương pháp tuyên truyền của những người uy
tín trong cộng đồng phù hợp với tâm lý tiếp nhận thông tin của đồng bào.
115
Cùng với phương pháp sử dụng người có uy tín trong cộng đồng để tuyên
truyền, các phương pháp đối thoại, phương pháp nêu gương cũng phát huy hiệu qủa
tốt với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh. Có 59,1% cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp và 70,9% cán bộ tuyên truyền xác định phương pháp đối thoại phát
huy hiệu quả tốt với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh. Với phương
pháp này, những vấn đề cán bộ tuyên truyền truyền đạt đồng bào chưa hiểu, hiểu
chưa đầy đủ hoặc chưa đồng tình với quan điểm tuyên truyền có thể được trao đổi,
hỏi và tranh luận đối với cán bộ tuyên truyền, qua đó đồng bào có thể hiểu vấn đề
tuyên truyền đầy đủ và chuẩn xác hơn. Đồng thời, phương pháp tuyên truyền này
đã phát huy được tính dân chủ trong hoạt động tuyên truyền. Khi trình độ dân trí
được nâng cao, thông tin được mở rộng thì phương pháp đối thoại sẽ chiếm ưu thế
rõ nét trong các hoạt động tuyên truyền. Đối với phương pháp tuyên truyền nêu
gương, có 49% cán bộ lãnh đạo quản lý và 60,6% cán bộ tuyên truyền các cấp được
xin ý kiến trả lời phát huy hiệu quả tốt đối với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số
của tỉnh. Có 53,4% đồng bào được xin ý kiến xác định phương pháp tuyên truyền
nêu gương có tác động tốt với mình. Với trình độ nhận thức và khả năng, tâm lý
tiếp nhận thông tin của đồng bào, phương pháp tuyên truyền này phát huy với đồng
bào xuất phát từ các yếu tố cụ thể: phương pháp này tác động trực tiếp đến tâm lý,
tình cảm của đồng bào, qua đó đồng bào có điều kiện học tập, làm theo tấm gương
tốt, việc tốt; hơn nữa nếp nghĩ, lối tư duy của đồng bào rất thuần phát, hướng thiện,
muốn làm việc thiện, tránh xa cái ác, cái xấu nên phương pháp nêu gương có tác
động tốt với đồng bào.
Bảng 18: Đánh giá hiệu quả các phương pháp tuyên truyền miệng.
Mức độ tiếp nhận Cấp công tác Tổng cộngTỉnh Huyện Xã
Phương pháp thuyết trình
Cán bộ quản lý 15.2% 16.1% 43.1% 30.8%
Cán bộ tuyên truyền 17.9% 31.4% 49.6% 37.1%
Phương pháp đối thoại
Cán bộ quản lý 54.5% 55.4% 62.4% 59.1%
Cán bộ tuyên truyền 66.7% 75.7% 66.7% 70.9%
116
Phương pháp thảo luận nhóm
Cán bộ quản lý 12.1% 10.7% 22.0% 17.2%
Cán bộ tuyên truyền 23.1% 12.1% 23.6% 18.2%
Phương pháp nêu vấn đề
Cán bộ quản lý 33.3% 21.4% 41.3% 34.3%
Cán bộ tuyên truyền 28.2% 40.7% 38.2% 38.1%
Phương pháp nêu gương
Cán bộ quản lý 57.6% 44.6% 48.6% 49.0%
Cán bộ tuyên truyền 51.3% 65.7% 57.7% 60.6%Phương pháp tuyên truyền cá nhân
Cán bộ quản lý 57.6% 26.8% 38.5% 38.4%
Cán bộ tuyên truyền 51.3% 37.1% 52.8% 45.4%
Thông qua người có uy tín trong cộng đồng
Cán bộ quản lý 75.8% 69.6% 78.0% 75.3%
Cán bộ tuyên truyền 79.5% 78.6% 81.3% 79.8%
Phương pháp khác
Cán bộ quản lý 3.0% 1.8% 0.0% 1.0%
Cán bộ tuyên truyền 7.7% 2.1% 0.0% 2.0%
Phương pháp thuyết trình là một phương pháp tuyên truyền miệng được sử
dụng phổ biến nhất lâu nay, nhưng theo nhận xét của cán bộ lãnh đạo quản lý và
cán bộ tuyên truyền, phương pháp này chưa thật sự phát huy được hiệu quả cao
trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh. Chỉ có 30,8% cán bộ lãnh đạo
quản lý và 37,1% cán bộ tuyên tuyền được xin ý kiến cho rằng phương pháp thuyết
trình phát huy quả tốt với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh, phương
pháp thuyết trình chưa thật sự phát huy hiệu quả với đồng bào một phần xuất phát
từ nguyên nhân trình độ và khả năng tiếp nhận thông tin của một bộ phân khá lớn
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh còn hạn chế. Nhưng nguyên nhân cơ bản nhất là
do chủ thể tuyên truyền chưa nghiên cứu kỹ đối tượng tuyên truyên, nên việc triển
khai các nội dung và phương pháp tuyên truyền chưa phù hợp với đối tượng tiếp
nhận thông tin. Nhiều cán bộ tuyên truyền khi truyền đạt, quán triệt chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn mang nặng tính lý
chí, lý thuyết kho cứng, dông dài, chưa gắn với thực tiễn cuộc sống, nhu cầu thông
tin và tâm lý tiếp nhận thông tin của đồng bào là ngắn gọn, thiết thực, dễ hiểu, thiên
về tình cảm, cảm xúc, dễ làm theo… nên chưa thực sự phát huy hiệu quả tốt với
đồng đào. Với các phương pháp tuyên truyền khác như thảo luận nhóm, nêu vấn đề
theo đánh giá của nhiều cán bộ tuyên truyền và cán bộ lãnh đạo quản lý là chưa phù
hợp với trình độ và khả năng tiếp nhận thông tin của đồng bào. 117
Bên cạnh những ưu điểm, những mặt làm được đã phân tích trên việc sử
dụng các hình thức, phương pháp tuyên truyền miệng trong đối tượng đồng bào dân
tộc thiểu số ở tỉnh thời gian qua còn biểu hiện những hạn chế cơ bản, cụ thể: Thứ
nhất, cán bộ tuyên truyền trước khi triển khai các hoạt động tuyên truyền chưa
nghiên cứu đầy đủ về đối tượng nên việc sử dụng phương pháp và nội dung tuyên
truyền chưa phù hợp với trình độ và tâm lý tiếp nhận thông tin của đối tượng. Thứ
hai, tính khoa học và tính nghệ thuật trong sử dụng các phương pháp tuyên truyền
miệng chưa cao, nên hiệu quả thấp. Thứ ba, tính chiến đầu của phương pháp tuyên
truyền thiếu sắc bén, chưa kịp thời phản bác các luận điệu phản tuyên truyền, các
quan điểm và việc làm sai trái của các phần tử phản động. Thứ tư, phương pháp
tuyên truyền thiếu sáng tạo, đơn điệu, một chiều, chưa phối hợp chặt chẽ giữa các
phương pháp với nhau, nên thường khô khan nhàm chán. Thứ năm, sự thống nhất
giũa lời nói và việc làm của người đi tuyên truyền còn nhiều bất cập. Những yếu
kém này, đặc biệt thể hiện rõ nhất trong hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng,
trong hoạt động tuyên truyền chỉ thị, nghị quyết, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước. Đó là những hoạt động diễn ra mang nặng tính hình thức,
tốn kém nhưng hiệu quả chưa cao. Việc đánh giá hiệu quả các đợt tuyên truyền chủ
yếu căn cứ vào số lớp đã mở, thời gian học tập, số người tham dự, chứ chưa được
đánh giá dựa trên cơ sở tác động của tuyên truyền thay đổi nhận thức và hành vi
của đối tượng. Trong quá trình hoạt động tuyên truyền, đa số cán bộ tuyền truyền
chưa chuyển được phương pháp độc thoại sang phương pháp đối thoại, nên không
kích thích được tư duy, không khêu gợi được sự hứng thú của đồng bào, vì thế trở
nên nhàm chán, dẫn đến hiệu quả tuyên truyền không cao.
2. Nhóm phương pháp tuyên truyền trực quan.
Cùng với phương pháp tuyên truyền miệng và tuyên truyền thông qua các
phương tiện truyền thông đại chúng, nhóm các phương pháp tuyên truyền trực quan
có vai trò rất lớn và chiếm ưu thế riêng trong hoạt động tuyên truyền. Khác với
118
phương pháp tuyên truyền miệng, phương pháp tuyên truyền trực quan chủ yếu đi
sâu vào vấn đề cung cấp thông tin, củng cố tri thức, hình thành niềm tin, phục vụ
nhu cầu nâng cao đời sống tinh thần của xã hội. Phương pháp tuyên truyền trực
quan chủ yếu đề cập đến những vấn đề cụ thể, trực tiếp, đang diễn ra. Do vậy,
tuyên truyền trực quan gắn chặt với quá trình triển khai thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở từng thời điểm cụ thể.
Nói đến tuyên truyền trực quan là nói đến việc cổ vũ nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đây vừa là đặc điểm, vừa nói lên vai
trò không thể thay thế được của phương pháp tuyên truyền trực quan trong tổng thể
các phương pháp được sử dụng trong hoạt động tuyên truyền.
Ưu thế nổi bật của phương pháp tuyên truyền trực quan là dễ gây ấn tượng
mạnh cho đối tượng, vì hình ảnh trực quan tác động trực tiếp vào các giác quan như
mắt thấy, tai nghe…nên để tạo cảm xúc và khắc sâu vào trí nhớ của đối tượng
tuyên truyền. Phương pháp tuyên truyền trực quan nếu được hỗ trợ hợp lý của các
phương tiện hiện đại như màu sắc, âm thanh hài hòa, hợp lý sẽ gây ấn tượng mạnh
đối với người nghe, xem. Mặt khác, phương pháp tuyên truyền trực quan tác động
trực tiếp vào tâm lý, tình cảm của đối tượng nên dễ hình thành ở khái niệm cụ thể
về đúng-sai, qua đó góp phần hình hình thành những hành động noi gương, bắt
trước với những gương người tốt, việc tốt mang tính điển hình.
Trong quá trình triển khai các nhiệm vụ công tác tư tưởng ở địa phương,
nhóm các phương pháp tuyên truyền trực quan đã được sử dụng khá phổ biến trong
đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh. Những năm qua, các cấp, các ngành,
các cơ quan chức năng đã triển khai nhiều hình thức tuyên truyền trực quan để
chuyển tải chủ trương, đường lối của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến
với đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương, qua đó cũng cố niềm tin và cổ vũ đồng
bào hành động thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị tại cơ sở. Tuyên
truyền trực quan trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh thời gian qua
119
chủ yếu tập trung vào các hình thức sau: dùng xe loa để tuyên truyền, cổ động;
thông qua các hoạt động chiếu phim, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao kết hợp
tuyên truyền; tổ chức các buổi mít tinh, diễu hành để cổ vũ hành động của quần
chúng; tổ chức triển lãm tranh ảnh, hiện vật để tuyên truyền; ấn hình các tờ rơi, tờ
bướm để phổ biến kiến thức và tuyên truyền; tổ chức các hội thi, hội diễn ở từng
lĩnh vực để khuyến khích, cổ vũ phong trào hành động của quần chúng; tổ chức
tham quan danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa, điển hình tiên tiến để
tuyên truyền và nhân rộng mô hình…Các hình thức hoạt động này, bên cạnh việc
cung cấp tri thức, cũng cố niềm tin, mục đích chủ yếu là kích thích, cổ vũ đồng bào
hăng hái, tích cực tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở
ở từng thời điểm cụ thể.
Tuyên truyền trực quan trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh
thời gian qua có nhiều lực lượng tham gia với hình thức triển khai phong phú, đa
dạng phù hợp với từng đối tượng cụ thể, nhưng tham gia thực hiện thường xuyên
và có tính chuyên nghiệp trong các hoạt động này là các đội thông tin lưu động ở
các địa phương và các đội văn nghệ xung kích của các ngành, đơn vị, các đội văn
nghệ quần chúng ở cơ sở. Hoạt động triển khai chủ yếu của các đơn vị này là: dùng
xe loa để tuyên truyền, cổ động; tổ chức các buổi chiếu phim, văn nghệ kết hợp với
các hoạt động tuyên truyền các chủ trương, đường lối của đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước; triển khai các hoạt động tuyên truyền miệng nhằm động viên
nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương và đấu tranh chống các
luận điệu phản tuyên truyền; tổ chức kẻ, vẽ pano, áp phích, tranh cổ động để tuyên
tuyền.
Các hình thức triển khai hoạt động tuyên truyền trực quan trong đối tượng
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh rất phong phú, nhưng có ba hình thức được cán
bộ tuyên truyền của tỉnh và các địa phương, cơ sở sử dụng thường xuyên là: làm
pano, áp phích, tranh ảnh, khẩu hiệu để tuyên truyền; sử dụng xe hoa, đoàn diễu
120
hành để tuyên truyền; tổ chức các hội thi, hội diễn, các hoạt động văn hóa - văn
nghệ kết hợp tuyên truyền. Trong ba hình thức tuyên truyền trực quan trên, hình
thức được cán bộ tuyên truyền sử dụng thường xuyên nhất là tổ chức các hội thi,
hội diễn văn hóa - văn nghệ kết hợp tuyên truyền. Kết quả điều tra của đề tài cho
thấy có 58,6% các bộ tuyên truyền thường xuyên sử dụng hình thức này, cao hơn
hình thức dùng pano, áp phích, tranh ảnh, khẩu hiệu(29,8%) và dùng xe hoa, đoàn
diễu hành tuyên truyền cổ động (23,5%).
Với nếp tư duy thiên về trực quan cụ thể và tâm lý, trình độ tiếp nhận thông
tin của đồng bào, theo đánh giá của nhiều cán bộ có thâm niên hoạt động tuyên
truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh, việc tuyên truyền chủ trương,
đường lối của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa
phương, cơ sở thông qua các hoạt động chiếu phim, văn hóa văn nghệ thường phát
huy hiệu quả tốt. Thực tế việc kết hợp giữa văn nghệ và tuyên truyền, tổ chức các
“sân chơi” cho từng đối tượng đồng bào ở cơ sở, tổ chức các lễ hội truyền thống ở
các làng, các hội thi biểu diễn cồng chiêng, các môn thi đấu thể thao truyền thống
tại địa phương…đã thu hút đông đảo đồng bào tham gia. Các hoạt động này phù
hợp với sở thích, tâm lý của đồng bào, đã đưa họ từ khách thể tuyên truyền thành
người trong cuộc, trực tiếp tham gia các hoạt động, không còn là người tiếp thu thụ
động, ngoài cuộc, qua đó các nội dung tuyên truyền được đồng bào tiếp nhận một
cách tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả. Các hoạt động đã đáp ứng được hai đòi hỏi
lớn, một mặt, thỏa mãn và nâng cao đời sống văn hóa tình thần của đồng bào, mặt
khác, thông qua các hoạt động này từng bước xây dựng nền tảng tư tưởng, xây đắp
trí tuệ, tình cảm của đồng bào theo mục đích của nội dung tuyên truyền.
Bên cạnh việc tuyên truyền trực quan thông qua các hoạt động chiếu phim,
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, công tác tuyên truyền thông qua các điển hình
tiên tiến với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh thời gian qua cũng được
triển khai có hiệu quả. Bằng các hình thức như tổ chức sơ, tổng kết rút kinh
121
nghiệm, tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo đầu bờ, tham quan thực tế, triễn lãm,
phát hành tờ rơi, tờ bướm phổ biến, chuyển giao kỹ thuật…đã phát huy tốt trong
việc đưa chủ trương, đường lối, chính sách của đảng và nhà nước, phổ biến các
kinh nghiệm hay, việc làm tốt, các tiến bộ kỹ thuật đến với đồng bào. Với trình độ
của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh hiện nay, theo đánh giá của một
số cán bộ cơ sơ, hoạt động tuyên truyền thông qua hình thức “cầm tay chỉ việc”,
lấy thực tế của những điển hình người thật, việc thật để chỉ cho họ cách nghĩ, cách
làm phù hợp, cụ thể, thiết thực là hình thức tuyên truyền trực quan phát huy hiệu
quả tốt. Một số địa phương, cơ sở thông quan việc sử dụng các phương tiện hiện
đại như ghi hình, ghi âm, các điển hình tiên tiến, sau đó phát lại cho đồng bào nghe,
xem cũng phát huy hiệu quả thiết thực. Một số đơn vị, cơ sở tổ chức buổi nói
chuyện, báo cáo kinh nghiệm do chính các nhân chứng, đại diện của điển hình thực
hiện, cũng phát huy hiệu quả tốt. Bằng người thực, việc thực hình thức này vừa hấp
dẫn người nghe, vừa có tác dụng nêu gương tích cực.
Bảng 19: Đánh giá hiệu quả của các hình thức tuyên truyền trực quan.
Các hình thức tuyên truyền Cấp công tác Tổng cộngTỉnh Huyện Xã
Khẩu hiệu, biểu ngữ, bản tin
Cán bộ quản lý 21.2% 21.4% 25.7% 23.7%
Cán bộ tuyên truyền 30.8% 30.0% 39.8% 34.1%Tranh cổ động, ảnh thời sự, ảnh tư liệu
Cán bộ quản lý 57.6% 37.5% 41.3% 42.9%
Cán bộ tuyên truyền 56.4% 47.9% 49.6% 49.7%
Tờ rơi, tờ gấp Cán bộ quản lý 24.2% 8.9% 13.8% 14.1%
Cán bộ tuyên truyền 33.3% 21.4% 25.2% 24.5%
Đoàn xe, người cổ động
Cán bộ quản lý 27.3% 7.1% 22.9% 19.2%
Cán bộ tuyên truyền 17.9% 27.1% 26.8% 25.8%
Hội thi, triển lãm, hội chợ
Cán bộ quản lý 18.2% 17.9% 21.1% 19.7%
Cán bộ tuyên truyền 15.4% 17.1% 24.4% 19.9%
Chiếu phim, văn nghệ tập trung
Cán bộ quản lý 78.8% 58.9% 57.8% 61.6%
Cán bộ tuyên truyền 87.2% 77.9% 67.5% 74.8%
Tham quan điển hình tiên tiến
Cán bộ quản lý 60.6% 66.1% 50.5% 56.6%
Cán bộ tuyên truyền 66.7% 66.4% 53.7% 61.3%
122
Trong các hình thức tuyên truyền trực quan được triển khai trên địa bàn tỉnh
thời gian qua, theo cán bộ lãnh đạo quản lý và cán bộ tuyên truyền, hình thức chiếu
phim, văn nghệ tập trung kết hợp tuyên truyền là có hiệu quả nhất. Có 61,6% cán
bộ lãnh đạo quản lý và 74,8% cán bộ tuyên truyền được xin ý kiến cho rằng hình
thức trên phát huy hiệu quả tốt với đồng bào dân tộc thiểu số. Tiếp đến là hình thức
tham quan điển hình tiên tiến, có 61,3% cán bộ tuyên truyền và 56,6% cán bộ lãnh
đạo quản lý cho rằng đây là phương pháp tuyên truyền có hiệu quả tốt. Hình thức
tuyên truyền trực quan thông qua tranh cổ động, ảnh thời sự, ảnh tư liệu, tranh cổ
động cũng được đánh giá có hiệu quả khá. Các hình thức tuyên truyền trực quan
được sử dụng khá thường xuyên và phổ biến lâu nay như: tuyên truyền thông qua
khẩu hiệu, biểu ngữ, bản tin; qua đoàn xe, người cổ động không được cán bộ tuyên
truyền và cán bộ lãnh đạo các cấp đánh giá phát huy hiệu quả tốt trong đồng bào
dân tộc thiểu số. Biểu hiện qua tỷ lệ người được xin ý kiến trả lời đã phát huy hiệu
quả tốt tương đối thấp. Các đánh giá trên khá tương đồng với nhận xét trực tiếp của
đồng bào dân tộc thiểu số khi được xin ý kiến về các hình thức tuyên truyền.
Bên cạnh một số kết quả đạt được đã phân tích trên, việc sử dụng phương
pháp, hình thức tuyên truyền trực quan trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của
tỉnh vẫn còn những hạn chế yếu kém:
Một số cấp ủy, chính quyền địa phương cơ sở chưa nhận thức đầy đủ về vị
trí, vai trò và tác dụng to lớn của các hoạt động cổ động, truyên truyền trực quan
trong việc đưa chủ trương đường lối, chích sách của đảng và nhà nước đến với
đồng bào và động viên đồng bào triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa
phương, nên chưa quan tâm đúng mức đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động
này tại địa phương. Việc bố trí người, kinh phí và đầu tư các trang thiết bị phục vụ
công tác tuyên truyền trực quan còn nhiều bất cập đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả
tuyên truyền tại cơ sở.
123
Việc triển khai các hoạt động tuyên truyền trực quan trên địa bàn tỉnh chưa
thường xuyên, còn mang nặng tính thời vụ, chỉ tập trung vào các dịp lễ kỷ niệm,
các thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng của địa phương nên tác dụng
của các hoạt động này tới nhân dân chưa thật sự lớn.
Phương pháp, tính nghệ thuật trong quá trình triển khai các hoạt động cổ
động, truyên truyền trực quan trong đối tượng đồng bào dân tộc của tỉnh còn khá
nghèo nàn, đơn điệu, thiếu tính sáng tạo và thường xuyên lặp lại về mặt hình thức,
do đó, dễ gây nên nhàm chán, dẫn đến hiệu quả tuyên truyền thấp.
Hình thức các khẩu hiệu, biểu ngữ, tranh cổ động, các cụm pano, áp phích…
được triển khai ở tỉnh còn đơn điệu, thiếu hấp dẫn, ít lôi cuốn người xem. Các khẩu
hiệu, biểu ngữ, cụm pano đặt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu sử dụng
tiếng phổ thông, chưa chú ý dịch ra ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số địa
phương, trong khi đó có một bộ phận khá lớn đồng bào chưa đọc được tiếng phổ
thông, điều này ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tuyên truyền.
Các hình thức tuyên truyền trực quan thông qua hoạt động văn hóa - văn
nghệ được đánh giá phát huy hiệu quả tốt với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số
của tỉnh, nhưng chưa được chú trọng tổ chức thường xuyên. Nhìn chung việc
hưởng thụ các sản phẩm văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp.
Các biện pháp tuyên truyền trực quan như tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị
đầu bờ, chuyển giao kỹ thuật, tham quan thực tiễn các điển hình tiên tiến, rất phù
hợp với tâm lý và khả năng tiếp nhận thông tin của đồng bào, nhưng ít được quan
tâm tổ chức thường xuyên.
3. Tuyên truyền thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.
Trong thời đại khoa học- công nghệ phát triển như hiện nay, các phương tiện
truyền thông đại chúng ngày càng chiếm ưu thế rõ nét trong hoạt động tuyên
truyền. Hiệu quả tuyên truyền cao hay thấp, phạm vi tác động rộng hay hẹp, phụ
thuộc rất lớn vào hiệu quả sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng. Với
124
đặc thù riêng của mình, các phương tiện truyền thông đại chúng có ưu thế nổi bật
trong hoạt động tuyên truyền. Qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt
là sách, đối tượng tuyên truyền có thể khắc sâu những thông tin về các sự kiện, hiện
tượng trong nước và quốc tế, trong quá khứ cũng như hiện tai, qua đó hình thành
những quan niệm, quan điểm, tình cảm, thái độ của bản bản thân về các sự kiện,
hiện tượng đó; đồng thời, từ đó thay đổi nhận thức và hành vi của đối tượng tuyên
truyền theo mục đích của chủ thể tuyên truyền.
Với các loại hình báo chí như: báo viết, báo ảnh, phát thanh truyền hình…có
ưu thế nổi bật là thông tin nhanh nhạy, kịp thời, chính xác các sự kiện, hiện tượng
mang tính thời sự trong nước và quốc tế. Đối tượng tiếp nhận thông tin tuyên
truyền qua báo chí mang tính phổ biến trong xã hội, không phân biệt trình độ, điều
kiện địa lý, không gian, thời gian…Với những ưu thế trên, chủ thể tuyên truyền có
thể chủ động giáo dục, tạo lập và định hướng dư luận xã hội theo hướng tích cực.
Chủ động đề phòng đấu tranh với các luận điệu phản tuyên truyền.
Với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh, các phương tiện truyền
thông đại chúng, đặc biệt là hệ thống phát thanh và truyền hình đã phát huy hiệu
quả cao trong việc đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đến đồng bào. Kết quả điều tra của đề tài cho thấy, trong các loại hình
truyền thông đại chúng, truyền hình là kênh chủ yếu, chiếm ưu thế tuyệt đối mà
đồng bào dân tộc thiểu số tiếp nhận thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước, tỷ lệ đạt 77,3% và 78,5% đối với dân tộc Jrai, Bahnar; nhóm dân tộc
khác cũng chiếm tới 89,5%. Trong đó loại hình phát thanh tiếng Jrai, Bahnar chiếm
47% và 50,8%. Chương trình truyền hình tiếng Jrai và Bahnar chiếm 46,5% và
56,9%. Qua báo viết, báo ảnh thấp hơn, chiếm 38,7% và 37% đối với dân tộc Jrai,
Bahnar. Qua Internet chiếm tỷ lệ rất thấp: 2,6% (Jrai) và 0,8% (Bahnar). Cùng với
tiếp nhận thông tin chủ yếu qua kênh truyền hình là 83,9% đồng bào dân tộc thiểu
số thường xuyên xem ti vi và 63,8% đôi khi nghe đài; 56,9% đôi khi đọc sách, báo;
125
40,7% đôi khi đọc các loại tài liệu tuyên truyền. Đối với truyền hình 80% đối tượng
được hỏi trả lời thường xuyên xem Đài truyền hình Việt Nam, 60,8% xem Đài
truyền hình Gia Lai, 61% đôi khi xem Đài truyền hình huyện, thị xã, thành phố.
Hơn 50% đồng bào dân tộc thiểu số ở cơ sở được hỏi trả lời đôi khi mới nghe
chương trình Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Gia Lai và Đài truyền thanh -
truyền hình huyện, thị xã, thành phố, xã; 90% chưa khi nào nghe chương trình phát
thanh nước ngoài. Hai kênh truyền hình Trung ương được xem nhiều nhất là
VTV3: 86,6%; VTV1: 85,9%. Truyền hình Gia Lai: 31,7%; truyền hình tiếng Jrai,
Bahnar: 27,9% đồng bào được hỏi ý kiến thường xuyên xem. Chương trình đài phát
thanh được đồng bào dân tộc thiểu số xem nhiều nhất là Đài tiếng nói Việt Nam:
92%; Đài phát thanh tỉnh: 81,1%, trong đó 63% thích nghe chương trình phát thanh
tiếng Jrai, Bahnar.
Kết quả khảo sát trên cho thấy sức mạnh của loại hình truyền thông truyền
hình và phát thanh với ưu thế lượng thông tin lớn, tốc độ nhanh, âm thanh, hình ảnh
sống động, thu hút được lượng khán thính giả ở mọi lứa tuổi, có xu hướng tâm lý,
tình cảm, tôn giáo khác nhau. Đặc biệt chương trình phát thanh tiếng Jrai, Bahnar
thu hút hơn 60% đồng bào dân tộc thiểu số đón nghe và có 27% đón xem chương
trình truyền hình tiếng Jrai, Bahnar. Xu hướng trên phù hợp với tâm lý, tình cảm
chung của khán thính giả ở các khu vực thành phố, thị xã, ở trong và ngoài nước,
đó cũng là xu hướng của nhịp sống hiện đại.
Nguyên nhân chủ yếu truyền hình và phát thanh chiếm ưu thế trong lĩnh vực
thông tin truyền thông do chất lượng chương trình, cập nhật thông tin nhanh, đa số
quần chúng hiểu được. Quan trọng hơn nội dung thông tin của truyền thông loại
hình phát thanh, truyền hình có tác dụng thiết thực trong sản xuất và đời sống, góp
phần thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội.
Việc đọc sách báo của cán bộ, nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số
những năm gần đây được mở rộng hơn cho các đối tượng và tăng số đầu sách, bản
126
báo, tạp chí. Tuy nhiên chỉ có 18% đồng bào dân tộc thiểu số thường xuyên đọc
báo, 61,4% đôi khi đọc và 20,4% chưa bao giờ đọc. Tỷ lệ người không đọc báo
tương đương với thường xuyên đọc. Nguyên nhân chủ yếu do không có thời gian
đọc 41,6%, không có báo, tạp chí để đọc 37,4% và không có tiền mua báo 36,3%.
Ngoài ra còn có nguyên nhân khác do thiếu các điểm bán sách, báo ở cơ sở, điểm
bưu điện văn hóa xã ở trung tâm xã, người dân chưa có thói quen đến đọc sách,
báo; số đầu sách, báo, tạp chí ít. Có 92,1% người dân tộc thiểu số không thường
xuyên hoặc chưa bao giờ đến điểm bưu điện văn hóa xã để đọc sách, báo, tạp chí
nhằm mục đích nâng cao hiểu biết, vận dụng kiến thức vào sản xuất đời sống.
Từ góc độ những người quản lý, hơn 88% cán bộ được hỏi trả lời hệ thống
truyền hình có nội dung chương trình phong phú, hấp dẫn và tương đối hấp dẫn khi
tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời hơn 90% cho rằng
nội dung tuyên truyền, trên các phương tiện truyền thông đại chúng đáp ứng và đáp
ứng một phần nhu cầu cần thiết của đồng bào dân tộc hiểu số. Đối với các ấn phẩm
báo chí, tài liệu tuyên truyền, hơn 95% cho rằng đã tới được đồng bào dân tộc thiểu
số, 40,9% đến được và 54,5% đến được ít. Như vậy, có sự đánh giá rõ về vai trò
của truyền thông truyền hình, phát thanh trong việc đưa thông tin tuyên truyền đến
đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số, thu hút số đông khán thính giả theo dõi, là một
nhu cầu hưởng thụ, giáo dục không thể thiếu của đồng bào dân tộc thiểu số, tuy
nhiên chưa đáp ứng được những nhu cầu thông tin của nhân dân, cần có sự đổi mới
trong xây dựng chương trình, cung cấp thông tin cần thiết và bổ ích hơn. Đối với
cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền, việc đánh giá vai trò, chức năng của các
kênh truyền thông chủ yếu đưa thông tin đến đồng bào dân tộc thiểu số khá thống
nhất với cán bộ lãnh đạo quản lý. Cụ thể là 80% cho rằng truyền hình là kênh thông
tin truyền thông chủ yếu giúp đồng bào dân tộc thiểu số tiếp nhận chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, tiếp đó là phát thanh, truyền
127
thanh được 54,6% cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền đánh giá là kênh chủ
yếu đưa thông tin chính thống đến đồng bào dân tộc thiểu số.
Đối với loại hình sách, báo, tranh, ảnh, trong những năm vừa qua được
Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư nâng cao chất lượng, mở rộng qui mô phát hành
đến đồng bào vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, do đặc điểm đời sống của
đồng bào dân tộc thiểu số Gia Lai còn nhiều khó khăn, tâm lý và trình độ nhận thức
trực quan nên loại hình sách, báo viết, báo ảnh...không phải là những kênh thông
tin chủ yếu tiếp nhận chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước. Tỷ lệ so sánh rất chênh lệch so với loại hình truyền thông truyền hình, phát
thanh. Cụ thể là chỉ có 2,6% cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền cho rằng
sách là kênh thông tin chủ yếu giúp đồng bào dân tộc thiểu số tiếp nhận chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; 25,8% là báo viết, báo ảnh; 1,3% cho
là Internet. Một nguyên nhân khách quan làm cho sách, báo viết, báo ảnh...chưa
được đánh giá thuộc nhóm loại hình truyền thông chủ yếu đáp ứng nhu cầu thông
tin của đồng bào dân tộc thiểu số là các ấn phẩm “đến được ít” với đồng bào-
64,6%, số cán bộ trực tiếp tuyên truyền trả lời đến được với đồng bào cũng chỉ
chiếm 33,4%. Phương pháp truyền thống của lực lượng tuyên truyền miệng vẫn là
trực tiếp trao đổi, thông tin tuyên truyền cho người nghe là đồng bào dân tộc thiểu
số, do đó chưa tác động kịp thời và mạnh mẽ bằng các phương tiện truyền thông
đại chúng như truyền hình, phát thanh, phim, ảnh, sách, báo (ảnh). Từ thực tế trên
tiếp tục khẳng định ưu thế của truyền thông đại chúng (truyền hình, phát thanh...)
trong công tác tuyên truyền nói chung và tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số nói riêng.
Tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng đến các nhóm dân tộc,
theo kết quả điều tra, đối với báo viết, tỷ lệ đồng bào Jrai được hỏi ý kiến trả lời có
hiệu quả tốt cao hơn nhiều so với đồng bào Bahnar, chỉ số này ở các dân tộc khác là
cao nhất; đối với báo ảnh, chỉ số đánh giá hiệu quả tốt giữa ba nhóm dân tộc ngược
128
lại. Đối với các kênh phát thanh và truyền hình, tỷ lệ người trả lời có tác động tốt ở
nhóm các dân tộc khác cao hơn nhiều so với đồng bào Jrai, Bahnar; chỉ số đánh giá
hiệu quả hai kênh truyền thông này không có sự khác biệt đáng kể giữa đồng bào
Jrai và Bahnar. Phân tích các nhóm đối tượng từ trình độ học vấn, hiệu quả tác
động của các kênh truyền thông đại chúng tỷ lệ thuận với trình độ học vấn từ thấp
đến cao. Cụ thể: đối với báo viết, nhóm người mù chữ trả lời có tác động tốt đến cá
nhân và cộng đồng chiếm 18,1%; tiểu học 23,9%; trung học cơ sở 31,5%, trung học
phổ thông 35,1%. Đối với kênh phát thanh, tỷ lệ người được hỏi có tác động tốt ở
các nhóm là: mù chữ 31,9%; tiểu học 44,3%, trung học cơ sở 48,6%; trung học phổ
thông 51,7%. Tỷ lệ đánh giá tác động tốt của các kênh truyền hình ở các nhóm là:
mù chữ 56,4%; tiểu học 68,8%; trung học cơ sở 69,8%, trung học phổ thông
70,2%. Phân tích ở góc độ giới, tỷ lệ nam giới trả lời các phương tiện truyền thông
tác động tốt đến cá nhân và cộng đồng cao hơn nữ giới.
VII. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN.
1. Sự quan tâm tiếp nhận thông tin và vấn đề đáp ứng nhu cầu thông tin
của đồng bào thông qua hoạt động tuyên truyền.
Hiệu quả công tác tuyên truyền được biểu hiện trên hai khía cạnh là: tiêu
chuẩn tinh thần và tiêu chuẩn thực tiễn. Về tiêu chuẩn tinh thần, ở mức độ thấp
nhất, hiệu quả công tác tuyên truyền được xác định bởi sự hứng thú của đối tượng
với vấn đề cần tuyên truyền. Theo kết quả điều tra của đề tài, với câu hỏi “Ông (bà)
thích tham gia hoạt động nào?”, kết quả cho thấy “họp buôn, làng, tổ dân phố” là
hoạt động đồng bào thích tham gia nhất, chiếm tỷ lệ 68,8%. Tiếp đến là tập trung
học tập các Chỉ thị, Nghị quyết, có 59,5% số người được hỏi thích tham gia. Các
thứ tự tiếp theo lần lượt là: sinh hoạt lễ hội truyền thống, tỷ lệ 57,7%; xem phim,
văn nghệ tập trung, tỷ lệ 52,2%; các buổi phát động quần chúng, tỷ lệ 50,4%; hoạt
động thể dục thể thao, tỷ lệ 48,6%; sinh hoạt dòng họ, tỷ lệ 33,8%; cuối cùng là tập
hợp đọc kinh, sinh hoạt tôn giáo có 15,9% người được hỏi thích tham gia. Phân
129
theo dân tộc: hoạt động tập trung học tập các Chỉ thị, Nghị quyết tỷ lệ thích thú
tham gia hoạt động này ở đồng bào Jrai là thấp nhất, tỷ lệ 54,8%, chỉ số này ở đồng
bào Bahnar là 64,9%, dân tộc khác là 78,9%. Ngược lại, trong hoạt động đọc kinh,
sinh hoạt tôn giáo, tỷ lệ thích tham gia của đồng bào Jrai là cao nhất, chiếm 19,1%,
tiếp đến là đồng bào Bahnar, tỷ lệ 11,3%, dân tộc khác là 7,4%. Trong sinh hoạt lễ
hội truyền thống, tỷ lệ người thích tham gia ở đồng bào Bahnar là cao nhất, tỷ lệ
67,6%; chỉ số này ở đồng bào Jrai là 53,7%; dân tộc khác là 46,3%. Các hoạt động
khác, tỷ lệ thích tham gia không có sự khác biệt lớn giữa các dân tộc.
Bảng 20: Các hoạt động đồng bào thích tham gia
Dân tộc
Jrai Bahnar Khác Tổng cộng
Hội họp, học tập Chỉ thị, Nghị quyết 54.8% 64.9% 78.9% 59.5%
Các buổi lễ phát động 48.6% 51.0% 65.3% 50.4%
Tập hợp đọc kinh, sinh hoạt tôn giáo 19.1% 11.3% 7.4% 15.9%
Sinh hoạt lễ hội truyền thống 53.7% 67.6% 46.3% 57.7%
Xem phim, văn nghệ tập trung 53.6% 50.2% 48.4% 52.2%
Các hoạt động TDTT 49.0% 47.1% 51.6% 48.6%
Sinh hoạt dòng họ 39.9% 23.8% 24.2% 33.8%
Họp buôn, làng, tổ dân phố 70.2% 67.2% 63.2% 68.8%
Từ các chỉ số trên có thể thấy, các hoạt động chính thức do hệ thống chính trị
tổ chức như: họp buôn, làng, tổ dân phố; tập trung học tập Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng, pháp luật của nhà nước, tổ chức các buổi lễ phát động quần chúng đa số
đồng bào thích thú tham gia. Vấn đề ở đây cần phải nâng cao hơn chất lượng cả về
nội dung và hình thức các hoạt động trên nhằm thu hút đông đảo đồng bào tham gia
130
hơn nữa. Một số hoạt động như sinh hoạt lễ hội truyền thống; tập trung xem phim,
văn nghệ cũng được đa số đồng bào thích thú tham gia. Vì vậy, cần tăng cường
lồng ghép các nội dung tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước vào các hoạt động trên.
Đối với kênh phát thanh và truyền hình, đồng bào quan tâm theo dõi thường
xuyên hơn đối với chương trình truyền hình. Các kênh thông tin cấp trung ương, có
đến 80% đồng bào được hỏi xác nhận thường xuyên xem các chương trình của Đài
truyền hình Việt Nam, không có người nào được hỏi trả lời chưa bao giờ xem
chương trình của Đài truyền hình Việt Nam. Trong khi đó, chỉ có 35,2% trả lời
nghe Đài tiếng nói Việt Nam thường xuyên, 63% trả lời đôi khi nghe và 5% trả lời
chưa nghe khi nào. Kênh thông tin từ Đài phát thanh-truyền hình tỉnh, có đến
60,8% số người được hỏi thường xuyên xem các chương trình truyền hình, có 2%
chưa bao giờ xem; đối với chương trình phát thanh, chỉ có 30,5% trả lời thường
xuyên nghe, 6,5% trả lời chưa khi nào nghe. Tỷ lệ người được hỏi thường xuyên
xem đài truyền hình Việt Nam cao hơn rất nhiều so với đài truyền hình tỉnh. Tương
tự, tỷ lệ người nghe đài tiếng nói Việt Nam thường xuyên cao hơn chương trình
phát thanh của đài tỉnh và chương trình phát thanh của đài tỉnh nhận được sự quan
tâm của người dân nhiều hơn đối với chương trình phát thanh của các huyện, thị xã,
thành phố. Có một vấn đề rất đáng quan tâm là có 10% số người được hỏi trả lời
thường xuyên hoặc đôi khi nghe các chương trình phát thanh của các đài nước
ngoài.
Bảng 21: Mức độ quan tâm khi nghe, xem các chương trình phát thanh, truyền hình
Các kênh thông tin Thường xuyên
Đôi khi
Chưa khi nào
Đài truyền hình Việt Nam 80.0% 20.0% 0.0%Đài truyền hình Gia Lai 60.8% 37.2% 2.0%Đài truyền hình huyện (TX, TP) 30.1% 61.8% 8.0%Đài tiếng nói Việt Nam 35.2% 59.7% 5.0%
131
Chương trình phát thanh của đài PT-TH tỉnh 30.5% 63.0% 6.5%Chương trình phát thanh tiếng Jrai, Bahnar của đài PT-TH tỉnh 39.2% 53.9% 6.9%Chương trình phát thanh của đài truyền thanh huyện (TX,TP) 22.5% 64.8% 12.7%Hệ thống phát thanh xã 20.4% 55.3% 24.3%Chương trình phát thanh các đài nước ngoài 2.1% 7.9% 90.0%
Khi được hỏi, các kênh truyền hình VTV1, VTV2, VTV3, VTV5, truyền
hình Gia Lai (tiếng Kinh), truyền hình các huyện (thị xã, thành phố), chương trình
truyền hình tiếng Jrai, Bahnar của đài tỉnh, ông (bà) thích xem kênh nào, hãy chọn
3 kênh. Kết quả điều tra, kênh VTV3 được nhiều người thích xem nhất, chiếm tỷ lệ
86,6%. Tiếp đến là kênh VTV1, tỷ lệ người thích xem là 85,9%. Kênh VTV2 cũng
có đến 54,3% số người được hỏi thích xem. Như vậy các kênh của Đài truyền hình
Việt Nam được đa số đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh yêu thích. Kênh truyền hình
Gia Lai (tiếng Kinh) có tỷ lệ người thích xem khá thấp, chỉ chiếm 31,7%. Đồng bào
dân tộc thiểu số của tỉnh đa số vẫn chưa thực sự yêu thích chương trình truyền hình
tiếng Jrai, Bahnar của địa phương, tỷ lệ thích xem chỉ chiếm 27,6%. Tỷ lệ người
thích xem chương trình truyền hình các huyện (TX,TP) là rất thấp, chỉ chiếm 7,6%.
Mức độ thích xem các kênh truyền hình nếu phân theo dân tộc, phân theo giới và
phân theo trình độ học vấn cũng không có sự khác biệt lớn giữa các nhóm đối
tượng. Từ kết quả điều tra cho thấy, vấn đề đổi mới nội dung, hình thức để nâng
cao chất lượng các chương trình truyền hình của tỉnh và huyện ở tỉnh ta đang đặt ra
hết sức cấp thiết. Vì đây là một trong những kênh tiếp nhận chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và các chính sách của địa phưong chủ
yếu của đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh.
Đối với các chương trình phát thanh, điều tra của đề tài cho kết quả: có 92%
trả lời thích nghe chương trình của Đài tiếng nói Việt Nam, có 81,1% trả lời thích
nghe chương trình phát thanh của đài PT-TH tỉnh, 63,2% thích nghe chương trình
phát thanh tiếng Jrai, Bahnar. Các chương trình của đài truyền thanh huyện, đài
truyền thanh xã có tỷ lệ người nghe dưới 50%. Có 1,8% số người được hỏi thích
nghe chương trình các đài phát thanh nước ngoài, trong đó tỷ lệ đồng bào dân tộc
132
Jrai thích nghe chiếm 2,5%, đồng bào Bahnar là 0,6%, dân tộc khác 1,1%. Nếu
phân theo trình độ thì số người có trình độ học vấn cao thích nghe chương trình
phát thanh của đài nước ngoài chiếm tỷ lệ cao hơn so với người có trình độ học vấn
thấp. Tỷ lệ cụ thể, người có trình độ đại học có 20% thích nghe đài phát thanh nước
ngoài, có trình độ trung học chỉ số này là 5,3%, trình độ tiểu học, chỉ số này là
1,3%.
Đối với báo viết, báo ảnh đồng bào được hỏi tiếp nhận chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước qua kênh thông tin này khá thấp. Đối
với báo viết, báo ảnh, tỷ lệ đạt 39,7%. Khi trả lời câu hỏi “ông (bà) có thường
xuyên đọc báo không”, chỉ có 18,2% trả lời thường xuyên, 61,4% trả lời đôi khi
xem và 20,4% trả lời chưa xem khi nào. Về nguyên nhân không đọc báo có 41%
cho rằng không có thời gian, 37,4% nêu nguyên nhân không có báo để đọc, 36,3%
trả lời không có tiền mua báo, 32,2% khẳng định không có thói quen đọc báo, có
3,6% cho rằng thấy không thiết thực nên không đọc báo, nguyên nhân khác chiếm
tỷ lệ 22,1%.
Về mức độ quan tâm tiếp nhận thông tin tuyên truyền chủ trương, đường lối,
chính sách của đảng và nhà nước ở các nhóm đối tượng tuyên truyền, dưới góc
nhìn của cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền, các đối tượng thường xuyên
quan tâm nắm bắt chủ trương, đường lối của đảng,chính sách pháp luật của nhà
nước cao là công chức viên chức nhà nước, cán bộ hưu trí, các cựu chiến binh và
đội ngũ các già làng, trưởng thôn. Đối tượng ít quan tâm nắm bắt chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước nhất theo cán bộ tuyên truyền là đồng
bào có đạo.
Bảng 22: Quan tâm tiếp nhận chủ trương, chính sách của Đảng và nhà
nước ở các nhóm đối tượng theo nhận định của cán bộ tuyên truyền.
Nhóm đối tượng Quan tâm
Bình thường
Không quan tâm
Khó trả lời
Cán bộ hưu trí 76.8% 17.9% 0.3% 5.0%Công chức, viên chức nhà nước 80.8% 15.9% 0.0% 3.3%
133
Đoàn viên, thanh niên 44.0% 47.7% 6.0% 2.3%Hội viên Hội phụ nữ 45.7% 48.0% 3.0% 3.3%Hội viên Hội Nông dân 45.4% 46.0% 4.6% 4.0%Cựu chiến binh 70.9% 24.5% 1.3% 3.3%Những người có cuộc sống kinh tế khá giả 28.5% 50.3% 9.3% 11.9%Những người có cuộc sống kinh tế khó khăn 24.5% 38.1% 23.5% 13.9%
Đồng bào có đạo 23.2% 46.4% 10.3% 20.2%Các già làng, trưởng thôn 60.6% 34.4% 0.7% 4.3%
Tỷ lệ chung quan tâm tiếp nhận chủ trương đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước ở các đối tượng đoàn viên, thanh niên, hội viên Hội phụ nữ,
hội viên Hội nông dân, theo cán bộ tuyên truyền không cao, chỉ khoảng 45%. Đánh
giá về sự quan tâm tiếp nhận thông tin về chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, nhà nước ở ba đối tượng này và đối tượng các già làng, trưởng thôn có sự
khác biệt tương đối lớn giữa cán bộ tuyên truyền cấp xã với cán bộ tuyên truyền
cấp huyện và tỉnh. Tỷ lệ cán bộ tuyên truyền cấp xã đánh giá các đối tượng đoàn
viên, thanh niên, hội viên phụ nữ, nông dân và đội ngũ già làng, trưởng thôn quan
tâm tiếp nhận chủ trương đường lối, chính sách, pháp luật của nhà nước cao hơn
cán bộ tuyên truyền cấp tỉnh và huyện từ 20 đến 25%. Đánh giá về sự quan tâm tiếp
nhận chủ trương, đường lối chính sách của đảng và nhà nước ở các nhóm đối tượng
khác không có sự khác biệt lớn giữa cán bộ tuyên truyền ở ba cấp.
Về vấn đề đáp ứng nhu cầu thông tin: bất cứ cá nhân, nhóm người hay cộng
đồng nào cũng đều có nhu cầu thông tin nhất định. Vấn đề nhu cầu thông tin là đòi
hỏi khách quan của đối tượng cần được thỏa mãn sự hiểu biết về một lĩnh vực nào
đó. Nếu một người hay nhóm người nào đó có nhu cầu thông tin về một vấn đề,
lĩnh vực cụ thể, thì ở họ xuất hiện các hướng tìm kiếm để thỏa mãn nhu cầu, các
hành động tương ứng sẽ xuất hiện như tìm sách, báo, tài liệu để đọc, nghe ngóng,
hỏi han hoặc ít nhất cũng dành sự lưu ý nhất định để tìm hiểu vấn đề đó. Tất cả
những hành động thỏa mãn nhu cầu thông tin, thái độ sẵn sàng tiếp nhận của đối
tượng là điều kiện thuận lợi để công tác tuyên truyền dễ dàng hình thành ở người
nghe những quan điểm, tâm thế về một vấn đề nhất định. Vấn đề đặt ra ở đây là chủ
134
thể tuyên truyền cần phải chú ý tìm ra và xác định chính xác nhu cầu thông tin của
đối tượng tuyên truyền, để xây dựng nội dung tuyên truyền đúng và trúng. Đây là
điều kiện rất quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền. Tuy nhiên,
vấn đề tuyên truyền, nội dung cần tuyên truyền hiện nay là rất rộng, không phải nội
dung cần tuyên truyền nào cũng phù hợp với nhu cầu thông tin của đối tượng tuyên
truyền. Vấn đề đặt ra là nếu đối tượng tuyên truyền không có hoặc chưa có nhu cầu
thông tin về các vấn đề, nội dung cần tuyên truyền thì giải quyết thế nào? Để giải
quyết vấn đề này, chủ thể tuyên truyền phải sâu sát đối tượng tuyên truyền để đặt
vấn đề, giải thích, chứng minh cụ thể nội dung cần tuyên truyền gắn với thực tiễn
cuộc sống của đối tượng, để qua đó làm xuất hiện ở đối tượng tuyên truyền nhu cầu
thông tin về vấn đề, nội dung cần tuyên truyền.
Trong thời đại thông tin và quá trình giao lưu phát triển kinh tế-xã hội, giao
lưu văn hóa không ngừng mở rộng như hiện nay, nhu cầu tiếp nhận thông tin của
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh tăng lên và ngày càng phong phú hơn. Thông
qua nhiều kênh tuyên truyền khác nhau, các lực lượng làm công tác tuyên truyền đã
có nhiều cố gắng để từng bước đáp ứng nhu cầu thông tin của đồng bào. Tuy nhiên,
hoạt động tuyên truyền trên địa bàn tỉnh thời gian qua chỉ đáp ứng được một phần
tương đối nhu cầu thông tin của đồng bào. Theo kết quả điều tra của đề tài với đối
tượng là đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh, chỉ có 42,4% số người được xin ý kiến
trả lời nội dung tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước của các lực lượng tuyên truyền trong thời gian qua đáp ứng được
cơ bản nhu cầu thông tin của đồng bào. Có đến 44,9% số người được hỏi cho rằng
nội dung tuyên truyền thời gian qua chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu thông
tin của họ. Có 6,2% số người được điều tra có ý kiến với cách thông tin, tuyên
truyền như hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu tiếp nhận thông tin của cá nhân.
Còn 6,4% số người được hỏi có ý kiến khó trả lời. Đây thực chất là bộ phận chưa
xác định rõ nhu cầu tiếp nhận thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính
135
sách, pháp luật của Nhà nước đối với bản thân mình là gì. Các chỉ số trên phản ánh
một thực tế, vấn đề thỏa mãn nhu cầu thông tin của đối tượng đồng bào dân tộc
thiểu số ở tỉnh thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, qua công tác
tuyên truyền miệng, tuyên truyền trực quan…thời gian qua còn nhiều bất cập.
Nhìn từ góc độ đối tượng tuyên truyền, vấn đề nhu cầu tiếp nhận các thông
tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở một
bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh chưa được định hình một cách rõ nét.
Do tác động của nhiều yếu tố khác nhau như: đời sống còn gặp nhiều khó khăn, quá
trình tiếp nhận thông tin còn hạn chế, chưa nhận thức rõ tác động to lớn của chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đời sống hàng
ngày của cá nhân gia đình…nên họ chưa có ý thức và nhu cầu theo dõi tiếp nhận
thông tin tuyên truyền một cách thường xuyên. Kết quả điều tra của đề tài cho thấy,
khi tiếp cận các thông tin tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông đại chúng,
một bộ phận đồng bào không hiểu các nội dung đã phát, ngoài một số nguyên nhân
như không thạo tiếng phổ thông, nội dung khó hiểu…còn một số nguyên nhân khá
quan trọng là động bào không quan tâm đến nội dung các chương trình đã phát. Có
đến 23,5% số người được hỏi xin ý kiến, phân theo dân tộc: đồng bào Jrai là
24,1%, Bahnar là 21,2%, các dân tộc thiểu số khác là 27% thuộc diện này.
Đối với công tác tuyên truyền miệng, thực trạng còn đáng lo ngại hơn. Khi
được hỏi sau các buổi họp nghe phổ biến đường lối, chính sách, phát động quần
chúng do địa phương tổ chức mà ông (bà) tham dự, nguyên nhân nào làm cho ông
(bà) thấy nội dung tuyên truyền không có tác động nhiều hoặc không có tác động gì
đến nhận thức của cá nhân, có đến 48,5% số người được xin ý kiến (trong đó đồng
bào Jrai là 50%, Bahnar 46,7%, các dân tộc thiểu số khác là 36,8%) trả lời bản thân
không quan tâm đến nội dung tuyên truyền; có 54,1% số người được hỏi (đồng bào
Jrai 53,7%, Bahnar 53,3%, các dân tộc thiểu số khác 68,4%) có ý kiến nội dung
136
tuyên truyền trong các buổi họp dân, các buổi phát động quần chúng không trúng
với nhu cầu tiếp nhận thông tin của đồng bào.
Từ các chỉ số phân tích trên phần nào lý giải được nguyên nhân dẫn đến hiệu
quả tuyên truyền trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh thời gian qua
chưa cao. Vấn đề ở đây có nguyên nhân từ hai phía. Về phía đối tượng tuyên
truyền, do nhận thức và ý thức chính trị của một bộ phận đồng bào còn hạn chế nên
chưa thật sự quan tâm đúng mức đến việc tiếp thu các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, về phía chủ thể tuyên truyền
do chưa hiểu rõ và chưa có giải pháp cụ thể tác động làm xuất hiện nhu cầu tiếp
nhận thông tin về vấn đề cần tuyên truyền trong đồng bào, nên hiệu quả tuyên
truyền chưa cao. Để khắc phục thực trạng này cần có hệ thống các giải pháp đồng
bộ từ cả hai phía. Với đối tượng tuyên truyền, cần thiết phải mở rộng giao lưu văn
hóa, phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao trình độ dân trí, để qua đó nâng cao trình độ
nhận thức về chính trị của đồng bào. Về phía chủ thể tuyên truyền, cần nghiên cứu
kỹ nhu cầu tiếp nhận thông tin của đồng bào để đổi mới nội dung và phương pháp
tuyên truyền phù hợp với đối tượng tuyên truyền và có các biện pháp cụ thể để từng
bước hình thành và mở rộng nhu cầu thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của
tỉnh.
2. Hiệu quả tiếp nhận thông tin tuyên truyền của đồng dân tộc thiểu ở tỉnh.
Quá trình tiếp nhận thông tin của đối tượng tuyên truyền nói chung và đồng
bào dân tộc thiểu số Jrai, Bahnar ở tỉnh ta nói riêng chịu sự chi phối bởi nhiều yếu
tố như: đặc điểm dân cư, tổ chức xã hội; văn hóa truyền thống, văn hóa lối sống;
trình độ nhận thức, khả năng tư duy; truyền thống cách mạng của đối tượng tuyên
truyền; trình độ năng lực, uy tín và khả năng tác nghiệp của cán bộ tuyên truyền;
bối cảnh triển khai các hoạt động tuyên truyền; nội dung, hình thức, phương pháp
137
tuyên truyền… Trong đó, trình độ nhận thức và tư duy của đối tượng tuyên truyền
đóng vai trò quyết định.
Về thực trạng tiếp nhận thông tin tuyên truyền của đồng dân tộc thiểu ở tỉnh,
kết quả khảo sát của đề tài cho thấy: khi xem các chương trình truyền hình của đài
truyền hình Việt Nam chỉ có 60,1% (đồng bào Jrai là 59,7%, đồng bào Bahnar là
56,3%, các dân tộc thiểu số khác 83,2%) hiểu được nội dung các chương trình đã
phát; có 37,3% (đồng bào Jrai 36,8%, Bahnar 42,5%, các dân tộc thiểu số khác
15,8%) số người được xin ý kiến trả lời chỉ hiểu được một phần nội dung các
chương trình đã xem. Có 2,6% số người được hỏi có ý kiến khi xem các chương
trình truyền hình Việt Nam họ nhận thấy khó hiểu hoặc không hiểu các nội dung đã
phát. Như vậy, đối tượng tiếp nhận thông tin là đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh
không hiểu hoặc hiểu chưa đầy đủ nội dung các chương trình của đài truyền hình
Việt Nam là tương đối lớn, chiếm tới gần 40%. Đây là kênh truyền hình phổ thông
và có tính phổ cập cao, nội dung được truyền tải bằng hình ảnh và âm thanh, nhưng
tỷ lệ người xem hiểu chưa đầy đủ hoặc không hiểu chiếm tỷ lệ khá cao, điều này
phản ánh thực tế một bộ phận khá lớn đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh có trình
độ tiếp nhận thông tin còn hạn chế.
Bảng 23: Khả năng tiếp nhận thông tin khi xem tivi, nghe đài
Kênh thông tin Hiểu được
Hiểu một phần
Khó hiểu
Không hiểu
Chương trình đài truyền hình Việt Nam 60.1% 37.3% 2.1% 0.5%Chương trình đài tiếng nói Việt Nam 45.3% 49.3% 4.0% 1.3%Chương trình đài PT-TH Gia Lai 54.7% 42.5% 2.3% 0.6%Chương trình đài TT-TH huyện 41.1% 53.2% 3.8% 1.9%Chương trình tiếng Jrai, Bahnar 54.0% 36.7% 5.8% 3.5%
Đối với các chương trình phát thanh của đài tiếng nói Việt Nam, tỷ lệ đồng
bào dân tộc thiểu số của tỉnh hiểu được các chương trình đã phát chỉ chiếm 45,3%
(tỷ lệ phân theo dân tộc, đồng bào Jrai là 46%, đồng bào Bahnar là 37,7%, đồng
bào các dân tộc thiểu số khác là 77,9%), tỷ lệ thấp hơn khi xem các chương trình
138
truyền hình của đài truyền hình Việt Nam. Tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh
chỉ hiểu được một phần các nội dung chương trình của đài tiếng nói Việt Nam là
khá lớn, chiếm đến 49,3%. Chỉ số này ở từng dân tộc cụ thể là Jrai 48,8%, Bahnar
55,9%, các dân tộc thiểu số khác 21,1%. Có 5,3% đồng bào được xin ý kiến cho
rằng khi nghe các chương trình của đài tiếng nói Việt Nam nội dung khó hiểu hoặc
không hiểu được.
Với các chương trình phát thanh và truyền hình của đài phát thanh-truyền
hình tỉnh, đài truyền thanh-truyền hình các huyện, thị xã, thành phố tỷ lệ đồng bào
hiểu được cơ bản các nội dung đã phát cũng không cao. Đối với các chương trình
của đài phát thanh-truyền hình tỉnh, tỷ lệ này là 54,7% và chương trình truyền
thanh-truyền hình các huyện, thị xã, thành phố tỷ lệ hiểu được thấp hơn, chỉ chiếm
41,1%. Có 2,8% khi xem các chương trình phát thanh và truyền hình của đài tỉnh
thấy khó hiểu hoặc không hiểu được các nội dung đã phát. Chỉ số này đối với đài
truyền thanh-truyền hình các huyện, thị xã, thành phố là 5,7%. Các chương trình
phát thanh, truyền hình, truyền thanh của đài tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố là
một trong những kênh thông tin, tuyên truyền chủ lực của địa phương nhằm thông
tin tình hình thời sự, chính trị, kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng của tỉnh và các
địa phương đến đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhưng tỷ lệ đồng bào khi xem,
nghe các chương trình này không hiểu hoặc hiểu chưa đầy đủ khá cao. Đối với
chương trình của đài phát thanh-truyền hình tỉnh là 45,3%, đài truyền thanh-truyền
hình các huyện là 58,9%. Điều này được đặt ra hai vấn đề lớn cần quan tâm. Thứ
nhất, nhìn từ góc độ của đối tượng tuyên truyền các chỉ số trên phản ánh khá rõ nét
trình độ tiếp nhận thông tin của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh còn
thấp. Vấn đề nâng cao trình độ dân trí, mở rộng giao lưu, trao đổi kinh tế, văn hóa
để nâng cao trình độ tiếp nhận thông tin của đồng bào, qua đó nâng cao hiệu quả
tuyên truyền đang đặt ra hết sức cấp thiết. Thứ hai, nhìn từ góc độ chủ thể tuyên
truyền, cần nghiên cứu, khảo sát cụ thể đổi mới nội dung, phương pháp truyền tải
139
thông tin nhằm tốt hơn nhu cầu tiếp nhận thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số
của tỉnh.
Với các chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng Jrai, Bahnar, tỷ lệ
đồng bào hiểu được cơ bản các nội dung đã phát cũng không cao. Kết quả điều tra
của đề tài cho thấy chỉ có 51,7% đồng bào Jrai và 66,7% đồng bào Bahnar được xin
ý kiến trả lời hiểu được các nội dung chương trình phát thanh, truyền hình phát
bằng tiếng của dân tộc mình. Có 39,6% đồng bào Jrai và 31,2% đồng bào Bahnar
trả lời hiểu được một phần các nội dung phát thanh và truyền hình phát bằng tiếng
mẹ đẻ. Có đến 8,7% đồng bào Jrai và 2,1% đồng bào Bahnar trả lời không hiểu
hoặc khó hiểu khi xem, nghe các chương trình truyền hình, phát thanh phát bằng
tiếng dân tộc mình. Tỷ lệ đồng bào Jrai trả lời hiểu được các chương trình phát
thanh phát bằng tiếng mẹ đẻ thấp hơn đồng bào Bahnar và tỷ lệ trả lời không hiểu
hoặc khó hiểu ở đồng bào Jrai cao hơn đồng bào Bahnar. Ở đây không không kể
yếu tố về mặt trình độ tiếp nhận và xử lý thông tin, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
thực trạng trên là do tác động của yếu tố phương ngữ còn tồn tại khá phổ biến trong
tiếng Jrai. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà dân tộc học, dân tộc Jrai có 5 nhóm
địa phương chính là Jrai Chor, Jrai Hdrung, Jrai Arap, Jrai Mthur và Jrai Tbuăn.
Ngoài vốn ngôn ngữ chung thống nhất của dân tộc, mỗi nhóm địa phương sử dụng
riêng một số phương ngữ. Trong khi đó, các kênh truyền thông đại chúng của tỉnh
và trung ương khi truyền tải thông tin bằng tiếng Jrai chủ yếu sử dụng phương ngữ
của nhóm Jrai Chor cư trú ở thị xã Ayun Pa và hai huyện Phú Thiện và Ia Pa, nên
các nhóm Jrai khác khi tiếp nhận thông tin có một số từ không hiểu hoặc khó hiểu,
dẫn đến việc tiếp nhận thông tin gặp khó khăn.
Dưới góc nhìn của cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp và cán bộ trực tiếp làm
công tác tuyên truyền, khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin tuyên truyền của một
bộ phận khá lớn đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh vẫn còn hạn chế.
140
Bảng 24: Đánh giá khả năng tiếp nhận thông tin của đồng bào khi nghe đài,
xem tivi.
Mức độ tiếp nhận Cấp công tác Tổng cộngTỉnh Huyện Xã
Dễ hiểu, tiếp nhận tốt
Cán bộ quản lý 3.0% 16.1% 28.4% 20.7%
Cán bộ tuyên truyền 2.6% 12.9% 32.5% 19.5%
Hiểu, tiếp nhận được một phần
Cán bộ quản lý 81.8% 67.9% 65.1% 68.7%
Cán bộ tuyên truyền 79.5% 79.3% 60.2% 71.5%
Khó hiểu, tiếp nhận được ít
Cán bộ quản lý 15.2% 16.1% 4.6% 9.6%
Cán bộ tuyên truyền 17.9% 7.9% 7.3% 8.9%
Không hiểu được
Cán bộ quản lý 0.0% 0.0% 1.8% 1.0%
Cán bộ tuyên truyền 0.0% 0.0% 0.0% 0.0%
Theo kết quả điều tra của đề tài, chỉ có 20,7% cán bộ lãnh đạo quản lý và
19,5% cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền được xin ý kiến cho rằng khi
nghe, xem các thông tin được truyền tải qua các phương tiện truyền thông đại
chúng, đồng bào tiếp nhận và hiểu cơ bản các nội dung tuyên truyền. Có đến 68,7%
cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp và 71,5% cán bộ tuyên truyền có ý kiến đồng bào
chỉ hiểu được một phần các nội dung được truyền tải qua các phương tiện truyền
thông đại chúng. Có 10,6% cán bộ quản lý và 8,9% cán bộ tuyên truyền nhận định
nội dung tuyên truyền thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đồng bào
không hiểu được hoặc hiểu được rất ít nội dung đã được nghe, xem.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng việc tiếp nhận và xử lý thông tin
tuyên truyền của một bộ phận đồng bào dân tộc còn hạn chế khi tiếp cận với các
thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng là do bất đồng ngôn ngữ. Trình
độ, vốn tiếng phổ thông của một bộ phận khá lớn đồng bào dân tộc thiểu số của
tỉnh còn hạn chế, thật sự là một rào cản lớn đối với công tác tuyên truyền. Kết quả
khảo sát của đề tài cho thấy, có đến 55,8% (phân theo dân tộc, đồng bào Jrai là
58,7%, Bahnar 61%, các dân tộc thiểu số khác 12,4%) được xin ý kiến cho rằng họ
không hiểu hoặc hiểu rất ít các nội dung tuyên truyền thông qua các phương tiện
141
truyền hình đại chúng là do không biết hoặc sử dụng chưa thành thạo tiếng phổ
thông.
Bên cạnh yếu tố rào cản ngôn ngữ, vấn đề nội dung và phương pháp truyền
tải thông tin chưa phù hợp với trình độ nhận thức tiếp nhận thông tin của đối tượng
tuyên truyền cũng đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tuyên truyền trong vùng đồng
bào dân tộc của tỉnh. Có 25,2% số người được xin ý kiến trả lời họ không hiểu một
số chương trình phát thanh và truyền hình khi được nghe và xem là do các nội dung
đã phát vượt ngoài tầm hiểu biết, nhận thức của cá nhân. Có 35,2% (phân theo dân
tộc, đồng bào Jrai là 33,6%, Bahnar 41,9%, các dân tộc thiểu số khác 22,5%) cho
rằng khi nghe, xem các chương trình phát thanh, truyền hình họ không hiểu hoặc
hiểu rất ít do là việc truyền tải các thông tin quá nhanh, đồng bào không tiếp thu
kịp.
Từ thực tế phân tích trên, bước đầu có thể nhận định hiệu quả tiếp nhận và
xử lý thông tin tuyên truyền thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng của
một bộ phận khá lớn đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh (khoảng gần 50%) gặp
nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ học vấn còn thấp, dẫn đến hạn
chế trong việc nhận thức. Việc chưa thông thạo tiếng phổ thông cũng là một rào
cản rất lớn đối với quá trình tiếp nhận thông tin của đồng bào. Về phía chủ thể
tuyên truyền do chưa nghiên cứu sâu về thực trạng trình độ, tâm lý tiếp nhận thông
tin của đối tượng tuyên truyền, nên nội dung và phương pháp tuyên truyền chưa
phù hợp đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tuyên truyền. Vì vậy, muốn nâng cao hiệu
quả tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh phải có hệ thống
các giải pháp đồng bộ từ cả hai phía là chủ thể tuyên truyền và đối tượng tuyên
truyền. Riêng ở đối tượng tuyên truyền, cần thiết phải mở rộng giao lưu phát triển
kinh tế-xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao trình độ dân trí và
vốn tiếng phổ thông của đồng bào để việc tiếp nhận và xử lý thông tin tốt hơn. Đây
142
là tiền đề quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số của tỉnh.
Về tiếp nhận thông tin của đồng bào thông qua cán bộ tuyên truyền, khi được
hỏi: “Sau các buổi họp nghe phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và
các buổi lễ phát động quần chúng do địa phương tổ chức mà ông (bà) tham dự, ông
(bà) thấy tác động như thế nào đến nhận thức và hành động của mình?”, kết quả có
57,8% trả lời có tác động tốt; 33,3% trả lời có tác động nhưng không nhiều; 3,1%
trả lời không có tác động gì; 5,8% xác định khó trả lời. Như vậy, đa số những
người được hỏi trả lời những buổi họp dân để tuyên truyền, phát động quần chúng
có tác động tốt đến nhận thức của họ. Tuy nhiên, vẫn còn một tỷ lệ khá cao, chiếm
36,4% trả lời có tác động nhưng không nhiều hoặc không có tác động gì. Phân theo
dân tộc, tỷ lệ trả lời có tác động tốt từ các buổi họp, phát động quần chúng không
có sự khác biệt lớn giữa hai nhóm đồng bào dân tộc thiểu số chiếm đa số của tỉnh,
đối với đồng bào Jrai là 56,8%, đồng bào Bahnar là 55,4%. Riêng đối với các dân
tộc thiểu số khác tỷ lệ người trả lời có tác động tốt chiếm khá cao, đến 78,9%. Tỷ lệ
trả lời không có tác động gì ở đồng bào Jrai (3,5%) cao hơn đồng bào Bahnar
(2,7%) và các dân tộc thiểu số khác (1,1%). Phân tích theo nhóm trình độ học vấn,
tỷ lệ người được hỏi trả lời có tác động tốt tỷ lệ thuận với với trình độ từ thấp đến
cao. Cụ thể: trả lời có tác động tốt ở nhóm người mù chữ chiếm 44,7%; tiểu học
54,9%; trung học cơ sở 61,7% và trung cấp chuyên nghiệp 64,4%.
Bảng 25: Đánh giá tác động sau khi được tuyên truyền.
Dân tộcJrai Bahnar Khác Tổng cộng
Có tác động tốt 56.8% 55.4% 78.9% 57.8%
Tác động không nhiều 33.7% 35.4% 18.9% 33.3%
Không tác động 3.5% 2.7% 1.1% 3.1%
Khó trả lời 6.0% 6.5% 1.1% 5.8%
143
Nguyên nhân dẫn đến các buổi họp dân để tuyên truyền, phát động quần
chúng có “tác động không nhiều” hoặc “không có tác động gì”, theo kết quả điều
tra là do nội dung không phù hợp với nhận thức của đồng bào chiếm 54,1%; cá
nhân không quan tâm đến vấn đề được trình bày chiếm 48,5%; cán bộ trình bày
khó hiểu chiếm 31,9%. Kết quả điều tra cho thấy, vấn đề điều chỉnh nội dung trong
các buổi họp dân để tuyên truyền, phát động quần chúng đang được đặt ra hết sức
cấp thiết. Các phương án trả lời nguyên nhân dẫn đến các buổi họp có “tác động
không nhiều” hoặc “không có tác động gì” đối với đồng bào, không có sự khác biệt
lớn giữa các dân tộc và giữa hai giới.
3. Đánh giá hiệu quả tuyên truyền trong đối tượng đồng bào dân tộc
thiểu số thời gian qua.
Theo kết quả điều tra của đề tài đối với đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh:
nội dung tuyên truyền trên từng lĩnh vực cụ thể, có 6 lĩnh vực được đồng bào đánh
giá có nội dung tuyên truyền tốt là: tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng
(tỷ lệ người trả lời nội dung tuyên truyền tốt chiếm tỷ lệ 74,4%); tuyên truyền chính
sách pháp luật của nhà nước (tỷ lệ 69%); tuyên truyền giữ vững quốc phòng-an
ninh (tỷ lệ 62,2%); tuyên truyền chống hành vi gây rối, mất an ninh, trật tự xã hội
(tỷ lệ 57,2%); tuyên truyền phản bác những luận điệu sai trái của bon FULRO (tỷ lệ
56,7%); tuyên truyền các hoạt động lao động sản xuất (tỷ lệ 51,5%); tuyên truyền
phát triển kinh tế-xã hội của địa phương (tỷ lệ 50,9%). Một số nội dung tuyên
truyền như phổ biến tiến bộ khoa học-kỹ thuật; tuyên truyền gương người tốt, việc
tốt của các cá nhân, tổ chức; tuyên truyền chống tiêu cực, tham ô, lãng phí… tỷ lệ
người được hỏi trả lời tốt còn thấp. Những nội dung này cần được tăng cường hơn
trong hoạt động tuyên truyền thời gian tới.
Mức độ hài lòng đối với nội dung tuyên truyền ở đa số lĩnh vực (trả lời nội
dung tuyên truyền tốt) của đồng bào Jrai đều cao hơn đồng bào Bahnar. Riêng nội
dung tuyên truyền về gương người tốt, việc tốt và xóa bỏ hủ tục lạc hậu, tỷ lệ hài
144
lòng của đồng bào Bahnar cao hơn đồng bào Jrai. Theo giới tính, chỉ số hài lòng
của nam giới đối với các nội dung tuyên truyền đều cao hơn nữ giới.
Bảng 26: Đánh giá nội dung tuyên truyền trong các lĩnh vực
Nội dung tuyên truyền Tốt Bình thường
Chưa tốt
Không rõ
Chủ trương, đường lối của Đảng 74.4% 22.2% 1.3% 2.2%Chính sách, pháp luật của Nhà nước 69.0% 25.9% 1.9% 3.3%Các hoạt động lao động sản xuất 51.5% 37.9% 4.8% 5.8%Phát triển kinh tế-xã hội của địa phương 50.9% 37.6% 6.2% 5.4%Phổ biến tiến bộ khoa học-kỹ thuật 37.7% 42.2% 8.4% 11.7%Giữ vững quốc phòng-an ninh 62.2% 28.6% 3.7% 5.5%Các việc làm tốt của các đơn vị, tổ chức, cá nhân 38.6% 41.7% 7.8% 11.9%Chống tiêu cực, tham ô, lãng phí 43.6% 33.7% 9.3% 13.5%Xóa bỏ hủ tục lạc hậu 47.7% 33.5% 7.8% 11.0%Phản bác các luận điệu sai trái của bon FULRO 56.7% 24.1% 5.2% 14.0%Chống hành vi gây rối, mất an ninh, trật tự xã hội 57.2% 26.0% 6.6% 10.3%
Dưới góc nhìn của cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ tuyên truyền, theo kết
quả điều tra của đề tài, nội dung tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước của các phương tiện truyền thông đại chúng và
cán bộ trong hệ thống hệ thống chính trị triển khai trong thời gian qua chỉ đáp ứng
được một phần nhu cầu tiếp nhận thông tin của đồng bào. Tỷ lệ chung có 62,1%
(cấp tỉnh 78,8%, cấp huyện 67,9%, cấp xã 54,1%) cán bộ lãnh đạo, quản lý và
66,6% (cấp tỉnh 82,1%, cấp huyện 67,9%, cấp xã 60,2%) cán bộ tuyên truyền được
xin ý kiến có nhận định trên. Cán bộ trả lời nội dung tuyên truyền đã đáp ứng được
nhu cầu tiếp nhận thông tin cần thiết của đồng bào chiếm tỷ lệ khá thấp, ở cán bộ
lãnh đạo, quản lý là 28,3% (cấp tỉnh 6,1%, cấp huyện 21,4% và xã 38,5%) và cán
bộ tuyên truyền là 29,5% (cấp tỉnh 7,7%, huyện 27,1% và xã 39%). Có 4,5% cán
bộ lãnh đạo, quản lý và 4% cán bộ tuyên truyền trả lời nội dung tuyên truyền triển
khai trong đồng bào dân tộc thiểu số thời gian qua chưa đáp ứng được nhu cầu nắm
bắt thông tin của đồng bào. Kết quả điều tra này có sự khác biệt tương đối so với
kết quả điều tra trực tiếp đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số ở cùng nội dung trên.
Có 42,4% đồng bào dân tộc được xin ý kiến trả lời nội dung tuyên truyền triển khai
145
trong thời gian qua đáp ứng được nhu cầu tiếp nhận thông tin của đồng bào. Tỷ lệ
người trả lời đáp ứng được một phần nhu cầu tiếp nhận thông tin chiếm 44,9%.
Nội dung tuyên truyền ở từng lĩnh vực cụ thể, theo kết quả điều tra, đa số cán
bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ tuyên truyền đều nhận định đạt yêu cầu đề ra. Đối
với nội dung tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng có 37,7% (cấp 17,9%,
huyện 22,9%, xã 61%) cán bộ tuyên truyền và 36,4% (cấp tỉnh 9,1%, huyện 28,6%,
xã 48,6%) cán bộ quản lý trả lời được triển khai tốt. Tỷ lệ trả lời đạt yêu cầu ở cán
bộ tuyên truyền là 47,7% (cấp tỉnh 48,7%, cấp huyện 58,6% và xã 35%); ở cán bộ
lãnh đạo, quản lý là 49% (cấp tỉnh 60,6%, huyện 50% và xã 45%). Có 11,6% (tỉnh
25,6%, huyện 14,3%, xã 4,1%) cán bộ tuyên truyền và 13,6% (tỉnh 27,3%, huyện
21,4%, xã 5,5%) cán bộ quản lý được xin ý kiến đánh giá hiệu quả tuyên truyền các
Chỉ thị, Nghị quyết chưa tốt. Đối với nội dung tuyên truyền các chính sách, pháp
luật nhà nước, có 32,8% (tỉnh 9,1%, huyện 26,8%, xã 43,1%) cán bộ lãnh đạo,
quản lý được xin ý kiến trả lời triển khai có hiệu quả tốt, có 49% (tỉnh 57,6%,
huyện 50%, xã 48,6%) trả lời đạt yêu cầu; có 14,6% (tỉnh 30,3%, huyện 19,6%, xã
7,3%) trả lời hiệu quả chưa tốt. Tỷ lệ này ở cán bộ tuyên truyền trả lời hiệu quả tốt
29,8% (tỉnh 10,3%, huyện 13,6%, xã 54,5%); đạt yêu cầu 54,6% (tỉnh 46,2%,
huyện 67,9%, xã 42,3%); chưa tốt 12,6% (tỉnh 35,9%, huyện 14,3%, xã 3,3%).
Bảng 27: Đánh giá của cán bộ về hiệu quả tuyên truyền trên một số lĩnh
vực
Các lĩnh vực Tốt Đạt yêu cầu
Chưa tốt
Khó đánh giá
Các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
Cán bộ quản lý 36.4% 49.0% 13.6% 1.0%
Cán bộ tuyên truyền 37.7% 47.7% 11.6% 3.0%
Chính sách, pháp luật của nhà nước
Cán bộ quản lý 32.8% 50.5% 14.6% 2.0%
Cán bộ tuyên truyền 29.8% 54.6% 12.6% 3.0%
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh
Cán bộ quản lý 9.1% 49.5% 31.8% 9.6%
Cán bộ tuyên truyền 8.6% 43.7% 34.1% 13.6%Các cuộc vận động, sinh hoạt chính trị lớn
Cán bộ quản lý 32.3% 46.5% 15.7% 5.6%
Cán bộ tuyên truyền 25.8% 49.7% 18.5% 6.0%
146
Các ngày lễ, kỷ niệm
Cán bộ quản lý 36.4% 49.0% 12.1% 2.5%
Cán bộ tuyên truyền 35.4% 50.0% 10.9% 3.6%Nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương
Cán bộ quản lý 24.7% 59.1% 14.1% 2.0%
Cán bộ tuyên truyền 20.2% 55.0% 21.2% 3.6%
Phổ biến tiến bộ khoa học- kỹ thuật
Cán bộ quản lý 10.6% 46.5% 36.4% 6.6%
Cán bộ tuyên truyền 8.9% 41.7% 44.7% 4.6%
Gương người tốt, việc tốt
Cán bộ quản lý 21.7% 41.4% 31.3% 5.6%
Cán bộ tuyên truyền 16.9% 49.3% 25.8% 7.9%
Chính sách đại đoàn kết dân tộc
Cán bộ quản lý 42.9% 48.5% 6.6% 2.0%
Cán bộ tuyên truyền 39.7% 48.0% 9.9% 2.3%Bảo tồn, phát huy vốn văn hóa truyền thống
Cán bộ quản lý 23.7% 44.4% 26.8% 5.1%
Cán bộ tuyên truyền 19.2% 49.7% 25.2% 6.0%Xây dựng chuẩn mực đạo đức, lối sống mới
Cán bộ quản lý 18.2% 47.5% 28.8% 5.6%
Cán bộ tuyên truyền 15.6% 50.7% 26.8% 7.0%
Chống tiêu cực, tham nhũng
Cán bộ quản lý 22.2% 37.4% 33.3% 7.1%
Cán bộ tuyên truyền 14.2% 36.1% 39.1% 10.6%
Xóa bỏ hủ tục lạc hậu
Cán bộ quản lý 21.2% 42.4% 31.8% 4.5%
Cán bộ tuyên truyền 17.9% 49.3% 28.1% 4.6%
Phản bác luận điệu của bọn phản động
Cán bộ quản lý 44.9% 38.4% 14.1% 2.5%
Cán bộ tuyên truyền 38.7% 42.4% 14.6% 4.3%
Hiệu quả tuyên truyền các lĩnh vực sau: các hoạt động sản xuất, kinh doanh;
phổ biến tiến bộ khoa học-kỹ thuật; gương người tốt, viêc tốt; bảo tồn, phát huy
vốn văn hóa truyền thống; xây dựng chuẩn mực đạo đức, lối sống mới; chống tiêu
cực, tham nhũng; xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, theo đánh giá của cán bộ lãnh đạo,
quản lý và cán bộ tuyên truyền chưa tốt, thể hiện qua tỷ lệ trả lời đồng ý với
phương án này khá cao.
Bảng 28: Đánh giá của cán bộ về mức độ hấp dẫn của các nội dung tuyên
truyền ở các kênh truyền thông đại chúng.
Các kênh truyền thôngPhong
phú, hấp dẫn
Tương đối hấp
dẫnĐơn điệu, nghèo nàn
Khó đánh giá
Báo viết, báo ảnh Cán bộ quản lý 19.2% 52.0% 13.6% 15.2%
Cán bộ tuyên truyền 20.9% 53.0% 12.9% 13.2%
Hệ thống truyền hình
Cán bộ quản lý 36.4% 42.9% 15.2% 5.6%
Cán bộ tuyên truyền 26.5% 56.0% 13.2% 4.3%
147
Hệ thống phát thanh, truyền thanh
Cán bộ quản lý 15.2% 39.4% 26.8% 18.7%
Cán bộ tuyên truyền 13.6% 42.1% 27.8% 16.6%
Đánh giá nội dung tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số của các
kênh truyền thông đại chúng ở tỉnh, theo kết quả điều tra của đề tài, trong các kênh
truyền thông của tỉnh như báo viết, báo ảnh,các kênh truyền hình, các kênh phát
thanh, truyền thanh , đa số cán bộ lãnh đạo quản lý và cán bộ trực tiếp làm công tác
tuyên truyền đều đánh giá cao nội dung của các chương trình truyền hình. Tiếp đến
là nội dung báo viết, báo ảnh, nội dung tuyên truyền của chương trình phát thanh
truyền thanh bị đánh giá thấp nhất. Có 82,5% cán bộ tuyên truyền và 79.3% cán bộ
lãnh bộ quản lý được xin ý kiến trả lời nội dung tuyên truyền trong đồng bao dân
tộc thiểu số của các chương trình truyền hình tỉnh, huyện, có nội dung phong phú
hấp dẫn và tương đối hấp dẫn. Chỉ có 15,2% cán bộ quản lý và 13,2% cán bộ tuyên
truyền trả lời nội dung nghèo nàn. Tỷ lệ người được xin ý kiến trả lời nội dung báo
viết, báo hình hấp dẫn hoặc tương đối hấp dẫn ở cán bộ lãnh đạo, quản lý là 71,1%,
ở cán bộ tuyên truyền là 73,9%. Đối với các kênh truyền thanh, phát thanh, tỷ lệ
này ở cán bộ quản lý là 54,6% và cán bộ tuyên truyền là 55,7%. Số người được hỏi
ý kiến trả lời nội dung tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số của các chương
trình phát thanh, truyền thanh nghèo nàn ở đối tượng cán bộ quản lý là 26,8% và
cán bộ tuyên truyền là 27,8%.
Nội dung tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số của kênh truyền
thông báo viết, báo ảnh được đánh giá khá cao. Tuy nhiên, hiệu quả tuyên truyền
của kênh này còn thấp, xuất phát từ nguyên nhân diện phát hành chưa sâu rộng và
việc tiếp cận kênh thông tin này của đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó
khăn.
Đánh giá nội dung tuyên truyền miệng của cán bộ trong đồng bào dân tộc
thiểu số, kết quả điều tra của đề tài cho thấy:
148
Bảng 29: Đánh giá nội dung tuyên truyền miệng của cán bộ trong đồng bào
dân tộc thiểu số
Mức độ tiếp nhận Cấp công tác Tổng cộngTỉnh Huyện Xã
Phong phú, hấp dẫn Cán bộ quản lý 3.0% 7.1% 17.4% 12.1%
Cán bộ tuyên truyền 0.0% 5.7% 17.1% 9.6%
Chỉ cung cấp được thông tin cơ bản
Cán bộ quản lý 69.7% 78.6% 76.1% 75.8%
Cán bộ tuyên truyền 71.8% 78.6% 78.0% 77.5%
Nghèo nàn, tính khoa học thấp
Cán bộ quản lý 24.2% 14.3% 0.9% 8.6%
Cán bộ tuyên truyền 20.5% 10.7% 3.3% 8.9%
Khó trả lời Cán bộ quản lý 3.0% 0.0% 5.5% 3.5%
Cán bộ tuyên truyền 7.7% 5.0% 1.6% 4.0%
Khi được hỏi “Nội dung tuyên truyền của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên, cán bộ các cấp triển khai trong đồng bào dân tộc thiểu số thời gian qua như
thế nào?”, có 75,8% cán bộ lãnh đạo quản lý và 77,5% cán bộ tuyên truyền các cấp
trả lời nội dung tuyên truyền chỉ cung cấp được những thông tin cơ bản cho đồng
bào. Tỷ lệ trả lời nội dung tuyên truyền miệng của cán bộ các cấp trong đồng bào
dân tộc thiểu số là phong phú hấp dẫn chiếm rất thấp. Tỷ lệ này ở cán bộ tuyên
truyền là 9,6% và cán bộ lãnh đạo quản lý là 12,1%. Tỷ lệ cán bộ được xin ý kiến
cho rằng nội dung tuyên truyền nghèo nàn, tính khoa học thấp ở cán bộ quản lý là
8,6%, cán bộ tuyên truyền là 8,9% gần bằng với tỷ lệ người trả lời có nội dung
phong phú hấp dẫn. Đánh giá về nội dung tuyên truyền của cán bộ triển khai trong
đồng bào dân tộc thiểu số có sự khác biệt khá rõ giữa cán bộ các cấp. Ý kiến đánh
giá nội dung tuyên truyền triển khai trong thời gian qua phong phú hấp dẫn ở cán
bộ cấp xã cao hơn rất nhiều cấp huyện và cấp huyện cao hơn cấp tỉnh. Ngược lại tỷ
lệ người trả lời nội dung nghèo nàn, thiếu tính khoa học ở cán bộ cấp tỉnh cao hơn
cấp huyện và cấp huyện cao hơn cấp xã.
Trong đánh giá hiệu quả công tác tuyên truyền, tiêu chuẩn hành động thực
tiễn biểu hiện qua tính tích cực lao động, tính tích cực chính trị-xã hội là một bước
149
phát triển và cụ thể hóa trí thức, niềm tin được hình thành và củng cố thông qua các
hoạt động tuyên truyền. Nói cách khác, trong ba mức độ từ thấp đến cao được hình
thành qua hoạt động tuyên truyền là nâng cao trình độ nhận thức-hình thành niềm
tin-tiến tới hành động thực tiễn, thì mức độ hành động thực tiễn là biêu hiện cao
nhất của hiệu quả công tác tuyên truyền. Ở mức độ này, công tác tuyên truyền trở
thành một yếu tố của sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội.
Đối với địa bàn tỉnh Gia Lai, những năm qua công tác tuyên truyền được
triển khai sâu rộng trên địa bàn tỉnh, trong đó có đối tượng đồng bào dân tộc thiểu
số. Nhờ tác động tích cực của hoạt động tuyên truyền, nhận thức của đồng bào về
chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước được nâng lên;
niềm tin vào đảng, chính quyền ở đồng bào được củng cố. Đồng bào đã tích cực
sáng tạo, thi đua lao động sản xuất; một bộ phận khá lớn đồng bào biết làm giàu
bằng sức lao động chính đáng của mình trên mảnh đất quê hương; một số đồng bào
đã tích cực đấu tranh tố giác các loại tội phạm, đấu tranh với các luận điệu phản
tuyên truyền của các thế lực thù địch…Trong lao động sản xuất và thực tiễn cuộc
sống hàng ngày, đồng bào đã áp dụng được những kiến thức tiếp thu được từ hoạt
động tuyên truyền vào thực tế cuộc sống. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, có
51,8% (phân theo dân tộc: đồng bào Jrai 49,9%, Bahnar 51,5%, các dân tộc thiểu
số khác 71,6%) đồng bào được hỏi ý kiến trả lời có áp dụng được những kiến thức,
hiểu biết tiếp thu được từ việc xem các chương trình truyền hình đã phát vào thực
tiễn cuộc sống, công tác, sản xuất của cá nhân và gia đình. Chỉ số này khi nghe các
chương trình phát thanh là 28,9% (phân theo dân tộc: Jrai 26,3%, Bahnar 31,8%,
các dân tộc thiểu số khác 40%); đọc các ấn phẩm báo chí, tạp chí là 24,4% (phân
theo dân tộc: Jrai 22,7%, Bahnar 22,6%, các dân tộc thiểu số khác 50,5%); đọc
sách là 19,5% (dân tộc: Jrai 18,1%, Bahnar 18,6%, các dân tộc thiểu số khác
36,8%); xem các tờ rơi phổ biến kiến thức khoa học - kỹ thuật là 20,6% (phân theo
dân tộc: Jrai 17,7%, Bahnar 23,6%, các dân tộc thiểu số khác 33,7%). Kết quả khảo
150
sát được phân tích trên cho thấy, khả năng áp dụng các kiến thức tiếp thu được từ
việc xem ti vi, nghe đài, đọc các ấn phẩm báo, tạp chí, sách, tờ rơi ở các dân tộc
thiểu số khác tốt hơn đồng bào Jrai và Bahnar. Trong hai dân tộc thiểu số có số
lượng đông nhất của tỉnh, đồng bào Bahnar áp dụng các kiến thức tiếp thu được từ
hoạt động tuyên truyền thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng vào thực
tiễn cuộc sống, công tác, sản xuất tốt hơn đồng bào Jrai, nhưng mức độ chênh lệch
giữa hai dân tộc là không lớn.
Tuy nhiên, do trình độ và khả năng tiếp nhận thông tin của một bộ phận đồng
bào còn hạn chế, nên việc áp dụng các thông tin, kiến thức được nghe, xem được từ
các phương tiện truyền thông đại chúng vào thực tiễn cuộc sống, lao động, sản xuất
còn gặp nhiều khó khăn, thậm chí có một bộ phận không áp dụng được các kiến
thức nghe, xem được vào cuộc sống hàng ngày. Theo kết quả điều tra của đề tài, có
40% đồng bào dân tộc thểu số của tỉnh xem ti vi, 46,1% nghe đài, 44,2% đọc báo,
tạp chí, 40,7% xem sách, 41,8% đọc các tờ rơi phổ biến kiến thức khoa học-kỹ
thuật có áp dụng kiến thức tiếp thu được vào thực tiễn cuộc sống, lao động sản
xuất, nhưng rất ít; có 5,3% đồng bào xem ti vi, 12,5% nghe đài, 15,9% đọc các ấn
phẩm báo, tạp chí, 19% xem sách, 15,7% đọc các tờ rơi phổ biến kiến thức khoa
học-kỹ thuật không áp dụng được các kiến thức đã nghe, xem vào thực tiễn cuộc
sống, lao động sản xuất.
Về nguyên nhân làm cho hiệu quả tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu
số của tỉnh thời gian qua chưa tốt, theo đánh giá của cán bộ quản lý và cán bộ trực
tiếp làm công tác tuyên truyền là:
Bảng 30: Nguyên nhân dẫn đến hiệu quả tuyên truyền trong đồng bào dân tộc chưa tốt
Các nguyên nhân Cấp công tác Tổng cộngTỉnh Huyện Xã
Nội dung tuyên truyền nghèo nàn
Cán bộ quản lý 9.1% 32.1% 20.2% 21.7%
Cán bộ tuyên truyền 59.0% 35.0% 36.6% 38.7%Nội dung không phù hợp với trình độ tiếp nhận và xử lý thông
Cán bộ quản lý 81.8% 85.7% 73.4% 78.3%
Cán bộ tuyên truyền 92.3% 76.4% 67.5% 74.8%
151
tin của đồng bàoPhương pháp tuyên truyền chưa phù hợp
Cán bộ quản lý 63.6% 42.9% 30.3% 39.4%
Cán bộ tuyên truyền 69.2% 54.3% 34.1% 48.0%
Hình thức tuyên truyền đơn điệu
Cán bộ quản lý 51.5% 33.9% 37.6% 38.9%
Cán bộ tuyên truyền 71.8% 58.6% 38.2% 52.0%
Bất đồng trong ngôn ngữ tuyên truyền
Cán bộ quản lý 69.7% 75.0% 59.6% 65.7%
Cán bộ tuyên truyền 82.1% 83.6% 76.4% 80.5%
Năng lực cán bộ tuyên truyền hạn chế
Cán bộ quản lý 60.6% 50.0% 49.5% 51.5%
Cán bộ tuyên truyền 69.2% 66.4% 65.9% 66.6%
Cán bộ thiếu nhiệt tình, tâm huyết
Cán bộ quản lý 36.4% 32.1% 27.5% 30.3%
Cán bộ tuyên truyền 46.2% 45.0% 30.9% 39.4%Công tác phối hợp các lực lượng tuyên truyền chưa tốt
Cán bộ quản lý 48.5% 46.4% 36.7% 41.4%
Cán bộ tuyên truyền 53.8% 56.4% 44.7% 51.3%Thiếu chủ động, tích cực và thường xuyên trong tuyên truyền
Cán bộ quản lý 39.4% 32.1% 37.6% 36.4%
Cán bộ tuyên truyền 46.2% 47.1% 31.7% 40.7%Cơ sở vật chất phục vụ tuyên truyền chưa đáp ứng nhu cầu
Cán bộ quản lý 57.6% 53.6% 65.1% 60.6%
Cán bộ tuyên truyền 64.1% 72.1% 66.7% 68.9%Đồng bào ít quan tâm đến nội dung tuyên truyền
Cán bộ quản lý 33.3% 25.0% 26.6% 27.3%
Cán bộ tuyên truyền 38.5% 39.3% 39.0% 39.1%
Nguyên nhân khácCán bộ quản lý 6.1% 1.8% 0.0% 1.5%
Cán bộ tuyên truyền 2.6% 1.4% 0.0% 1.0%
Trong 12 nguyên nhân đưa ra thì có 4 nguyên nhân cơ bản là: Nội dung
tuyên truyền không phù hợp với trình độ tiếp nhận và xử lý thông tin của đồng bào
(có 78,3% cán bộ lãnh đạo quản lý và 74,8% cán bộ tuyên truyền đồng ý với
phương án này); bất đồng ngôn ngữ trong tuyên truyền (có 65,7% cán bộ quản lý
và 80,5% cán bộ tuyên truyền thống nhất với phương án này); cơ sở vật chất phục
vụ công tác tuyên truyền chưa đáp ứng được yêu cầu (đồng ý phương án này ở cán
bộ quản lý là 60,6% và cán bộ tuyên truyền là 68,9%); năng lực cán bộ tuyên
truyền còn hạn chế (có 51,5% cán bộ quản lý và 66,6% cán bộ trực tiếp làm công
tác tuyên truyền đồng ý phương án này). Ngoài ra, một số nguyên nhân khác như:
công tác phối hợp giữa các lực lượng tuyên truyền chưa tốt; hình thức tuyên truyền
còn đơn điệu; phương pháp tuyên truyền còn chưa phù hợp cũng chiếm tỷ lệ khá
cao.
152
Những hạn chế, yếu kém nêu trên đã và đang làm giảm chất lượng và hiệu
quả tuyên truyền, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu bức xúc phải tăng cường lãnh đạo
và đổi mới công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
CHƯƠNG IIIGIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
TRONG ĐỐI TƯỢNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH GIA LAI
I. ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NÂNG CAO ĐỜI SỐNG
VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN CỦA ĐỒNG BÀO.
Do Gia Lai có điều kiện điểm xuất phát thấp hơn mặc bằng chung của cả
nước, nên vấn đề đặt ra đối với tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian
tới là phải xác định rõ mục tiêu ưu tiên, lộ trình, bước đi phù hợp để duy trì tốt độ
phát triển nhanh, hiệu quả, vượt qua nguy cơ tụt hậu. Việc xác định mục tiêu ưu
153
tiên về phát triển của tỉnh trong những năm đến phải dựa trên những đặc điểm chủ
yếu của địa phương. Đó là Gia Lai là một tỉnh nghèo, trình độ dân trí và trình độ
lao động còn thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế; tỉnh đang thực hiện
đổi mới cơ chế chính sách để từng bước đáp ứng có hiệu quả với quá trình hội nhập
toàn diện và đang xây dựng các giải pháp cụ thể để khai thác tiềm năng thế mạnh
của địa phương. Từ thực tế tình hình trên, xuất phát từ quan điểm về phát triển toàn
diện kinh tế-xã hội của tỉnh trong thời gian đến, đề tài đề xuất một số giải pháp cụ
thể như sau:
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu xoá đói
giảm nghèo, làm cho tất cả các bộ phận dân cư ở tỉnh, nhất là các cộng đồng có
điều kiện xuất phát thấp như đồng bào dân tộc thiểu số, cư dân sống ở vùng sâu,
vùng xa thoát khoải đói nghèo. Đây là điều kiện nền tảng để đạt được tăng trưởng
nhanh và bền vững cũng là yếu tố quan trọng nhất để mang lại cho đông đảo nhân
dân, nhất là nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số có cơ hội cải thiện đời sống và
phát triển.
Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, tạo việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động. Tính ưu tiên của mục tiêu này bắt nguồn từu mối quan hệ:
Chúng ta có tiềm năng rất lớn về đất đai, vị trí địa lý, nguồn tài nguyên thiên
nhiên… nhưng chưa được khai thác một cách hiệu quả, nên mức sống của nhân dân
vẫn còn thấp; tỉnh ta có nguồn nhân lực trẻ và khá dồi dào đây là lợi thế quan trọng
của địa phương, nhưng trình độ lao động còn thấp, kỹ năng, kỷ luật lao động chưa
cao, lao động nông nhàn trong năm còn lớn, tỷ lệ lao động thất nghiệp và thiếu việc
làm cao đang là áp lực rất lớn đối với tiến trình phát triển cả trong nền kinh tế lẫn
xã hội. Vì vây, mở rộng phát triển các thành phần kinh tế, tạo việc làm, tăng thu
nhập là mục tiêu cần quân tâm đúng mức để đảm bảo phát triển ổn định, bền vững.
Muốn làm được điều này nhất thiết tỉnh phải có các chính sách đủ độ “thông
154
thoáng” để thu hút nguồn lực đầu tư trong dân, nguồn vốn đầu tư ngoài tỉnh và đầu
tư nước ngoài.
Tập trung có trọng điểm trong xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số: hiện nay cơ sở hạ tầng yếu kém là một trong những rào cản
chính đối với việc tạo cơ hội phát triển ở vùng sâu, vùng xa của tỉnh. Vì vậy, muốn
xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội ở các vùng này phải xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế-kỹ thuật. Một mặt bảo vệ và khai thác cơ sở hạ tầng hiện có, mặt khác tiếp
tục xây dựng có trọng điểm những cơ sở hạ tầng mới trong sự kết hợp hài hòa hơn
nữa với việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu trước mắt về xóa đói giảm nghèo của các
dân tộc. Cần đầu tư xây dựng “cơ sở hạ tầng thiết yếu”, theo các hạng mục được
đặt ra trong chương trình 135: Xây dựng hệ thống trục đường chính, trường học,
trung tâm y tế, hệ thống cung cấp nước sạch, xây dựng trạm điện, chợ, bưu điện và
hệ thống thủy lợi.
Ưu tiên thỏa đáng cho củng cố và phát triển hệ thống đường giao thông. Vì
giao thông có vai trò đặc biệt quan trọng phục vụ cho việc đi lại, giao lưu kinh tế,
văn hóa giữa các vùng, các dân tộc, góp phần quyết định đến sự nghiệp phát triển
kinh tế-xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Một mặt, nhà nước cần ưu tiên vốn đầu tư cho vùng dân tộc từ ngân sách
Trung ương và địa phương. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi đầu tư, khuyến khích
các doanh nghiệp đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc. Đa dạng hóa các
loại hình tín dụng, tăng dần vốn vay dài hạn và trung hạn, lập các chi nhánh đại
diện ngân hàng chính sách, các quỹ hỗ trợ phát triển ở các vùng dân tộc, tạo cơ chế
thuận lợi để đồng bào dân tộc tiếp cận được vốn vay của hệ thống ngân hàng, các
quỹ phát triển.
Mặt khác, cần có các biện pháp nhằm phát huy nội lực tích lũy trong đồng
bào các dân tộc. Đó là coi trọng vốn tại chỗ, từ người khá, người giàu, các doanh
nghiệp, các đơn vị kinh tế…tại địa phương với các hình thức cho mượn hoặc vay
155
với lãi suất phù hợp. Đó còn là tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc thiểu
số xây dựng phong trào tiết kiệm trong tiêu dùng, cưới xin, ma chay, lễ tết để tích
lũy dành vốn đầu tư cho sản xuất…
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, phục vụ sản xuất: thực tế cho thấy
một trong những yếu tố quyết định đảm bảo sự thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng dân tộc là quá trình áp dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ. Việc chuyển từ một nền nông nghiệp độc canh, tự
cung, tự cấp thành một nền nông nghiệp đa dạng, phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa có một đóng góp rất quan trọng của khoa học và công nghệ. Vì vậy trong
những năm tới, cần tiếp tục có những chính sách phát triển và ứng dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhà nước cần đầu tư mạnh hơn cho các công trình nghiên cứu, ứng dụng tiến
bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn vùng
dân tộc, nhất là về giống cây, giống con. Nhằm cung cấp những loại giống tốt, có
năng suất và chất lượng cao cho nông dân, tạo điều kiện cho việc đảm bảo an toàn
lương thực và thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, phát huy thế mạnh của từng
vùng, chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa đối với nông dân nói chung và đồng
bào dân tộc thiểu số của tỉnh nói riêng.
Bên cạnh vấn đề giống, cũng cần đầu tư thích đáng cho công nghệ chế biến
và bảo quản nông sản phù hợp với đặc điểm sinh thái và trình độ sử dụng của các
hộ nông dân. Làm sao để khoa học và công nghệ thực sự gắn với quy hoạch sản
xuất, nhu cầu của thị trường để từ đó xác định hiệu quả của sản xuất.
Để có thể ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất hàng hóa nông sản
vùng dân tộc một cách có hiệu quả, cần chú ý một số vấn đề sau:
Sử dụng rộng rãi và thường xuyên các phương tiện thông tin đại chúng để
phổ biến các công nghệ mới, giống mới, kinh nghiệm sản xuất giỏi cho đồng bào.
156
Xây dựng các mô hình trình diễn tại các thôn làng để đồng bào tập, nhằm áp
dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
Tăng cường đầu tư cho hoạt động khuyến nông, khuyến lâm (cả về cơ sở vật
chất và nâng cao năng lực cán bộ) để giúp nông dân tìm hiểu về công nghệ, kỹ
thuật sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm, áp dụng giống mới, nắm được thông
tin thị trường, tiêu thụ sản phẩm…
Có chính sách ưu đãi đối với cán bộ khoa học - công nghệ sống và làm việc
ở vùng sâu, vùng xa bằng chế độ đài ngộ vật chất thỏa đáng, để học thực sự yên
tâm với công tác nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
để đồng bào sản xuất hàng hóa có hiệu quả.
Ngoài ra cần nâng cao trình độ dân trí bằng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng
thích hợp, để đồng bào có khả năng tiếp thu các thành tựu khoa học-công nghệ
được ứng dụng vào nông nghiệp, nông thôn.
Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới công tác giáo dục, nâng cao dân trí cho đồng
bào các dân tộc thiểu số.
Thực tế qua khảo sát, điều tra cho thấy đồng bào các dân tộc thiểu số của
tỉnh còn rất hạn chế trong việc tiếp thu đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước, từ đó dẫn đến việc triển khai thực hiện gặp nhiều khó khăn
và kém hiệu quả. Thực trạng này có một nguyên nhân là trình độ dân trí của đồng
bào dân tộc thiểu số còn thấp. Vì vậy, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí là một
trong những giải pháp trọng yếu để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh. Muốn vậy cần quan tâm đến những vấn đề sau:
Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương, của cán bộ,
giáo viên, của đồng bào dân tộc thiểu số về vị trí, vai trò của giáo dục-đào tạo. Huy
động mọi tiềm năng, phương tiện, phương pháp để làm tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về giáo dục-đào
tạo cho cán bộ và nhân dân các dân tộc thiểu số. Xây dựng các chương trình tuyên
157
truyền đổi mới giáo dục, tạo mọi điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia vào
quá trình đổi mới giáo dục ở các cấp học, bậc học, xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị
nhà trường.
Tiếp tục phát triển quy mô, xây dựng mạng lưới trường, lớp thích hợp. Trên
cơ sở đó triệt để thanh toán nạn mù chữ, thực hiện phổ cấp giáo dục tiểu học đúng
độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Để đảm bảo nâng cao dân trí, ngoài
công tác phổ cập giáo dục, cần chú trọng xây dựng hệ thống trường lớp, đầu tư xây
dựng các cơ sở giáo dục mầm non, nhất là ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Thực hiện phổ cập giáo dục một năm cho trẻ 5 tuổi để chuẩn bị tốt cho
trẻ vào lớp 1. Triển khai có hiệu quả chương trình chuẩn bị tiếng Việt cho lớp mẫu
giáo 5 tuổi trong đối tượng học sinh dân tộc thiểu số. Phát triển mạng lưới các
trường phổ thông hợp lý, đảm bảo không còn tình trạng học sinh tiểu học, trung
học cơ sở bỏ học vì trường quá xa nhà. Củng cố, mở rộng hệ thống Trường phổ
thông dân tộc nội trú cấp tỉnh, cấp huyện và trường, lớp bán trú dân nuôi.
Số học sinh dân tộc thiểu số của tỉnh sau khi học hết phổ thông trung học thi
đỗ vào đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp là rất ít, hầu hết sau khi học
xong đều trở về địa phương. Vì vậy cần chú trọng công tác dạy nghề cho học sinh.
Tỉnh cần quan tâm hơn nữa trong việc mở rộng và phát triển các cơ sở giáo dục
nghề, giáo dục thường xuyên. Đảm bảo 100% huyện, thị xã, thành phố có cơ sở
giáo dục nghề và Trung tâm giáo dục thường xuyên để tiếp nhận học sinh tốt
nghiệp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông vào học một số nghề và có thể tiếp
tục học lên trình độ cao hơn khi có điều kiện
Trên cơ sở nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc, tiến hành công tác giáo
dục, tuyên truyền nhằm bồi dưỡng, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý
thức vươn lên chống nghèo đói, xây dựng tư tưởng làm giàu chính đáng, khắc phục
tâm lý tự ti, thụ động, ỷ lại trong đồng bào các dân tộc. Lòng tự hào, tự tôn dân tộc
chính là ngọn nguồn sức mạnh nội sinh của mọi dân tộc. Nếu được khơi dậy thì đây
158
là động lực mạnh mẽ và trực tiếp nhất để đồng bào dân tộc tích cực, tự giác, sáng
tạo trong vai trò chủ thể của quá trình thực hiện chính sách dân tộc.
Giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống của các dân tộc: mỗi dân tộc luôn
gắn liền với truyền thống văn hóa của dân tộc mình. Văn hóa còn thì dân tộc còn,
văn hóa càng phong phú, càng đẹp thì dân tộc càng phát triển, càng trường tồn
mạnh mẽ. Đồng bào các dân tộc thiểu số của tỉnh, tiêu biểu là đồng bào Jrai,
Bahnar có vốn văn hóa truyền thống hết sức phong phú và đặc sắc. Vì vậy giữ gìn
và phát huy văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số của tỉnh là một nội dung
quan trọng của việc thực hiện chính sách dân tộc.
Văn hóa truyền thông của mỗi dân tộc, ngoài tiếng nói, chữ viết, còn thể hiện
ở văn hóa dân gian, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội…Hiện nay vấn
đề bảo tồn các giá trị truyền thống ấy đang gặp nhiều khó khăn do kinh tế-văn hóa-
xã hội ở vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa vẫn kém phát triển và có
khoảng cách khá xa so với các vùng khác trong tỉnh. Đặc biệt có một bộ phận dân
tộc thiểu số bị đồng hóa tự nhiên, do đó đánh mất bản sắc văn hóa của mình. Ngoài
ra, do quá trình cư trú xen kẽ trên cùng một địa bàn, có một bộ phận đồng bào dân
tộc thiểu số chưa đủ bản lĩnh để lựa chọn, tiếp thu trước sự tác động của nhiều
luồng văn hóa từ bên ngoài, hoặc do tác động của các thế lực thù địch, tìm mọi
cách làm biến chất văn hóa của các dân tộc thiểu số, thay vào đó là văn hóa xa lạ.
Sự phát triển của giao lưu văn hóa trong cơ chế thị trường cũng tác động đến văn
hóa của các dân tộc theo hai hướng: giữ gìn và phát huy bản sắc, hoặc xa rời nguồn
cội.
Vì vậy, trong quá trình giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa, trước hết
cần khắc phục cách nhìn nhận, đánh giá các giá trị văn hóa cổ truyền của các dân
tộc có khuynh hướng lệch lạc như:
Chỉ nhấn mạnh tính thống nhất của văn hóa các dân tộc, thấy cái toàn thể, cái
chung của cả nước, mà không thấy được cái đa dạng, cái riêng, đặc thù của từng địa
159
phương, từng dân tộc. Hoặc ngược lại, quá nhấn mạnh sự đa dạng, coi trọng quá
mức cái riêng, cái đặc thù của từng dân tộc, mà coi nhẹ cái chung, cái thống nhất
của cả cộng đồng.
Hoặc phủ nhận thiếu chọn lọc các giá trị văn hóa cổ truyền, thành kiến nhận
định là lạc hậu, lỗi thời, muốn có ngay một cái mới hoàn toàn. Hoặc lại cố níu giữ,
kể cả những cái lạc hậu, lỗi thời, nghi ngại trước cái mới.
Hoặc mặc cảm, tự ti với vốn văn hóa, trình độ xã hội của dân tộc mình, địa
phương mình, dẫn đến tâm lý hướng ngoại. Đối với một số người chỉ những giá trị
văn hóa, nếp sống và tổ chức xã hội của người Kinh, hoặc phương Tây mới được
coi là hiện đại, tiên tiến.
Đẩy mạnh việc nghiên cứu, kiểm kê, đánh giá các giá trị văn hóa dân tộc.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về giá trị văn hóa truyền thống mà khẳng định
những giá trị cần giữ gìn, phát huy, các yếu tố lạc hậu cần loại bỏ. Để làm được
điều này đòi hỏi phải có sự đầu tư thỏa đáng về ngân sách, về nhân lực. Phải có chế
độ, chính sách phù hợp và sự chỉ đạo của các cấp, các ngành, các địa phương
thường xuyên, với một kế hoạch đồng bộ.
Trong quá trình tổ chức điều tra, nghiên cứu khảo sát, đồng thời tiến hành
đánh giá, phân loại, xếp hạng các di tích lịch sử - văn hóa, những giá trị văn hóa vật
chất và tinh thần. Từ đó có kế hoạch bảo vệ, bảo tồn và phát huy. Việc bảo tồn
“tĩnh” trong sách báo, phim ảnh, bảo tàng là cần thiết. Tuy nhiên, cách bảo tồn có
hiệu quả nhất là nuôi dưỡng nó trong đời sống cộng đồng của từng dân tộc, để nó
tiếp tục nảy sinh, biến đổi, phát triển như nó vốn có trong lòng mỗi dân tộc.
Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa mới ở cơ sở trong
vùng dân tộc thiểu số của tỉnh. Cần cụ thể hóa các nội dung về xây dựng làng văn
hóa, gia đình văn hóa một cách thiết thực, có khả thi đối với các dân tộc thiểu số,
phù hợp trình độ kinh tế - xã hội, phong tục tập quán, trình độ nhận thức chung của
160
đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương, cơ sở. Đặc biệt thể hiện trong quy ước,
hương ước, luật tục trên tinh thần đổi mới.
Phục hồi và tổ chức tốt các lễ hội truyền thống tốt đẹp của đồng bào dân tộc
Jrai, Bahnar, nhằm làm phong phú đời sống tinh thần cho nhân dân. Xây dựng các
quy chế, thiết chế về lễ hội nhằm hạn chế, ngăn ngừa và loại bỏ những yếu tố pha
tạp, hủ tục, mê tín dị đoan trong các lễ hội.
Tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để giữ gìn phát triển vốn ngôn ngữ của
đồng bào Jrai, Bahnar và một số cộng đồng dân tộc thiểu số khác ở địa phương phù
hợp với truyền thống dân tộc và yêu cầu của sự nghiệp phát triển. Đẩy mạnh việc
dạy và học song ngữ, nhưng phải có kế hoạch cụ thể và lâu dài. Viêc dạy ngôn ngữ
dân tộc phải vừa thể hiện được đặc trưng dân tộc, vừa phải mang tính địa phương.
Đây là công việc lâu dài và cần phải có sự đầu tư rất lớn. Việc dạy và học song ngữ
cần được tiến hành có hệ thống từ bậc học thấp lên bậc học cao. Đặc biệt cần thiết
cho học sinh dân tộc thiểu số trong các trường phổ thông dân tộc nội trú học tiếng
của dân tộc mình. Cần tổ chức đào tạo đội ngũ giáo viên dạy song ngữ ở các trường
Cao đẳng sư phạm tỉnh.
II. CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: “Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Như
vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh thì hiệu quả công tác tuyên truyền phụ thuộc
vào chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác này. Cán bộ tuyên truyền là chủ
thể của mọi hoạt động tuyên truyền. Nếu không xây dựng được một đội ngũ cán bộ
am hiểu sâu sắc về chuyên môn, tinh thông về nghiệp vụ, vững vàng về bản lĩnh
chính trị, giàu nhiệt tình cách mạng thì khó mang lại hiệu quả mong muốn cho công
tác này trong điều kiện mới. Đặc biệt, đối với công tác tuyên truyền trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh ta hiện nay, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ làm
161
công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đủ về số lượng, đảm
bảo về chất lượng là yêu cầu cấp thiết để giữ vững trận địa công tác tư tưởng của
Đảng ở cơ sở, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, an ninh - quốc phòng ở
từng thôn, làng vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ tuyên truyền đáp ứng được những yêu cầu
đang đặt ra trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh ta hiện nay, trước mắt cần tập
trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.
- Trước hết, như đã đề cập ở phần thực trạng, tổ chức Đảng và cấp ủy Đảng
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số là lực lượng lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên
truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời là lực lượng trực tiếp tuyên
truyền, vận động đảng viên, cán bộ và quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước… Do đó vấn đề cốt lõi là
phải tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Các
cấp ủy phải thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo
đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, thực sự tiền phong gương mẫu, đủ năng
lực hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng ngày,
hàng giờ trực tiếp đối mặt với những khó khăn, phức tạp của cuộc sống đặt ra, với
tư cách người lãnh đạo, đòi hỏi họ phải có đủ năng lực, phẩm chất để giải quyết,
thực hành trước làm gương, thể hiện đạo đức sống mẫu mực để nhân dân học tập…
nhất là ở những thời điển có tính bước ngoặt. Đó chính là sức hấp dẫn đầu tiên để
quần chúng nhân dân tin theo Đảng. “Một tấm gương sống” và “đảng viên đi
trước” đang là đòi hỏi và cũng là thử thách đối với Đảng ta hơn lúc nào hết.
Chi bộ, đảng bộ vững mạnh là bắt nguồn từ chất lượng đội ngũ đảng viên.
Vì vậy các cấp ủy phải coi trọng công tác nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
162
Trước hết yêu cầu mỗi đảng viên phải quán triệt và thực hiện tốt các nhiệm vụ đã
được quy định trong Điều lệ Đảng; sớm phấn đấu thực hiện tốt các tiêu chí sau:
Sớm khắc phục tư tưởng tự ti, ỷ lại cũng như tính tự do trong công tác và
sinh hoạt.
Chịu khó nghiên cứu, học tập và làm việc với tinh thần, trách nhiệm của
người đảng viên.
Phải gương mẫu trong cuộc sống, sống có văn hóa, đạo đức, làm việc theo
pháp luật. Phải gần gũi, gắn bó với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân ở nơi
mình cư trú, cùng dân bàn bạc, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và lợi ích chính
đáng của dân. Thực hiện tốt “bốn cùng” và “ba trực tiếp” với dân, đó là: “cùng ăn,
cùng ở, cùng làm, cùng nói chuyện với nhân dân” và “trực tiếp đến nhà dân; trực
tiếp nghe dân nói và nói cho dân nghe; trực tiếp làm cho dân tin và hướng dẩn dân
cùng làm”.
Các cấp ủy phải tăng cường công tác quản lý đảng viên và phân công
nhiệm vụ cho đảng viên; thường xuyên kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ
được giao. Phân công cấp ủy, đảng viên có năng lực xuống giúp đỡ các thôn, làng
đang gặp khó khăn, những nơi chưa có đảng viên và trực tiếp tuyên truyền phát
triển đảng viên mới. Cấp ủy cấp trên và các đảng ủy, chi ủy phải có trách nhiệm và
thường xuyên tổ chức cho đảng viên trong đảng bộ, chi bộ học tập đầy đủ các nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nắm bắt được tình hình thời
sự trong tỉnh, trong nước và quốc tế. Thay phiên cử đảng viên học tập bổ túc văn
hóa, lý luận chính trị, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nhằm tạo điều kiện cho
đảng viên cập nhật được kiến thức, phục vụ tốt nhiệm vụ của chi bộ, đảng bộ phân
công. Các đảng bộ, chi bộ phải coi trọng công tác phát triển đảng viên ở địa bàn
dân cư, chú ý những người ưu tú là phụ nữ, là dân tộc thiểu số...
163
Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trước mắt cần triển khai
làm tốt các vấn đề sau:
Tiến hành khảo sát, rà soát, đánh giá lại thực trạng đội ngũ cán bộ cơ sở
trên địa bàn, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, trưởng các đầu ngành, trên cơ sở đó
vừa có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao năng lực công tác cho số còn yếu; vừa bổ
sung kịp thời cho những nơi còn thiếu. Đồng thời kiên quyết xử lý những cán bộ vi
phạm chính sách, pháp luật, thoái hóa biến chất, nhất là cán bộ cốt cán để giữ lòng
tin của nhân dân. Đối với những địa bàn mà hệ thống chính trị cơ sở yếu kém thì có
sự điều chuyển, tăng cường cán bộ từ nơi khác đến, hay từ tỉnh, huyện bổ sung về.
Xây dựng chiến lược đào tạo cán bộ cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
trong đó đặc biệt chú ý cán bộ người dân tộc thiểu số và cán bộ làm công tác tuyên
truyền. Để kịp thời bổ sung đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, cần mạnh dạn lựa chọn những cán bộ trẻ, có nhiệt tình
gửi đi đào tạo về kiến thức tuyên truyền. Có chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút
những sinh viên đã tốt nghiệp đại học về công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, sau đó vừa bồi dưỡng thực tiễn, vừa đào tạo, bồi dưỡng về công tác tuyên
truyền. Cần thiết phải tạo nguồn cán bộ cho lĩnh vực này thông qua việc lựa chọn
sinh viên, học sinh ở các trường phổ thông dân tộc nội trú, hay tuyển chọn cán bộ ở
các ngành, các đoàn thể có kiến thức, nhiệt tình với công tác này.
Cùng với việc tìm nguồn là việc tính toán cách thức đào tạo, bồi dưỡng,
bước đi, loại hình cho phù hợp với đặc thù của vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Một
mặt mạnh dạn cử cán bộ, ưu tiên người dân tộc thiểu số, đi học tập trung ở các
trường chuyên nghiệp trung ương, khu vực, tỉnh; mặt khác có thể tổ chức vừa học
vừa làm, yếu mặt nào bổ sung mặt đó, để không gây tình trạng thiếu hụt cán bộ.
Qua phong trào cách mạng của quần chúng, phát hiện cốt cán, lựa chọn những
164
người thật sự có khả năng hoạt động ở cơ sở, cử cán bộ có kinh nghiệm kèm cặp,
bồi dưỡng, thử việc rồi đưa vào nguồn kế cận.
Ở những địa bàn trọng điểm, phức tạp hay chính quyền cơ sở quá yếu, cần
phải duy trì các tổ, đội công tác của tỉnh, huyện. Thông qua hoạt động của các tổ,
đội công tác này vừa giúp cấp tỉnh, huyện nắm tình hình một cách nhanh chóng,
chính xác, cụ thể để có sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời; vừa giúp đỡ, hướng dẫn cán
bộ cơ sở trong công tác vận động, tổ chức quần chúng giải quyết các vụ việc cụ
thể...
Cần thực hiện chính sách một cách đầy đủ, linh hoạt đối với cán bộ làm
công tác trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ngoài các chính sách chung về tiền
lương, trợ cấp như ở các địa bàn khác, cần quan tâm tạo điều kiện cho họ được vay
vốn sản xuất theo chế độ ưu đãi, hướng dẫn, giúp đỡ họ cách thức làm ăn kinh
tế...để họ vươn lên làm gương cho quần chúng, có như thế quần chúng mới có thể
nghe và tin theo họ...
Củng cố và xây dựng lực lượng chuyên trách làm công tác tuyên truyền
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Củng cố tổ chức tốt bộ máy tuyên giáo cơ sở:
Hiện nay vẫn còn nhiều xã, phường, thị trấn ở tỉnh ta chưa hình thành được
bộ máy tuyên giáo. Nhiều xã, phường chỉ có Trưởng ban do Bí thư hoặc Phó Bí
thư cấp ủy phụ trách. Những cơ sở đã tổ chức bộ máy tuyên giáo cũng theo nhiều
mô hình khác nhau, nhưng có thể khái quát thành hai mô hình: mô hình Trưởng ban
kiêm nhiệm và mô hình Trưởng ban chuyên trách. Mỗi mô hình đều có ưu điểm,
nhược điểm riêng, nhưng mô hình đang được cơ sở thừa nhận tính chất hợp lý của
nó là mô hình Trưởng ban chuyên trách. Với mô hình này, Trưởng ban thường là
đồng chí ủy viên thường vụ phụ trách tư tưởng khối Đảng và đoàn thể; Phó trưởng
ban là đồng chí ủy viên văn xã phụ trách tư tưởng khối chính quyền và 1 đến 3 ủy
viên là đại diện trong số các tổ chức như: đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông
165
dân, hội cựu chiến binh, bí thư chi bộ trực thuộc... Mỗi ủy viên phụ trách một mặt
công tác tư tưởng hoặc một cụm dân cư, một nhóm đối tượng nhất định. Để mô
hình chuyên trách sớm trở thành phổ biến và phát huy tác dụng cần kịp thời có định
biên cho công tác tư tưởng cấp cơ sở.
Đồng thời với việc xây dựng, kiện toàn Ban Tuyên giáo đảng ủy cơ sở, cần
củng cố, tăng cường các bộ phận có chức năng tham mưu, chỉ đạo, kiểm tra và trực
tiếp tiến hành công tác tư tưởng ở cơ sở như Ban văn hóa - thông tin xã, phường,
thị trấn, các nhóm thông tin lưu động, các đội văn nghệ quần chúng...
Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo cơ sở ở tỉnh hiện nay, nhìn chung
được các cấp ủy lựa chọn khá kỹ và thận trọng. Đa số cán bộ có khả năng nói và
viết, có kinh nghiệm trong công tác Đảng, công tác vận động quần chúng, có lối
sống lành mạnh, phẩm chất đạo đức tốt. Nhưng do thiếu quy hoạch tổng thể, đồng
bộ nên xu hướng hình thành thường là “tự nhiên, tự phát”, theo yêu cầu cần bố trí
cán bộ và thực hiện nhiệm vụ trước mắt, ít chú ý đến việc tạo nguồn để đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng lâu dài. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của công
tác tuyên giáo cơ sở. Vì vậy, trong thời gian tới, viêc xây dựng đội ngũ cán bộ
tuyên giáo từ khâu lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí, sử dụng phù hợp trong
quy hoạch tổng thể cán bộ thuộc hệ thống chính trị cơ sở, cần được xác định là một
trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo ở tỉnh ta hầu hết chưa được đào tạo
có hệ thống về công tác tuyên giáo. Vì vậy, cần tăng cường mở các lớp đào tạo, bồi
dưỡng chuyên ngành. Trong thời gian tới, tỉnh ta nên phối hợp với Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, liên kết mở lớp cử nhân chính trị học, chuyên ngành công tác
tư tưởng - văn hóa để đào tạo có hệ thống đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo
các cấp ở địa phương.
166
Qua khảo sát đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số cho thấy, còn một tỷ lệ khá lớn cán bộ tuyên truyền các cấp chưa
được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị. Vì vậy,
trong thời gian tới, cần phân cấp cụ thể để định kỳ hàng năm tỉnh và các địa
phương nên mở các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị đối với
đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền các cấp. Đây là tiền đề quan trọng để
nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động tuyên truyền.
Hiện nay trình độ lý luận chính trị của một bộ phận lớn cán bộ tuyên giáo ở
cấp huyện và cơ sở còn rất hạn chế. Kết quả điều tra của đè tài cho thấy, có đến
40,87% cán bộ làm công tác tuyên giáo cơ sở, những người làm cầu nối chuyển tải
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, nhà nước đến quảng đại quần chúng nhân dân, trực tiếp tuyên truyền vận
động, đấu tranh về mặt chính trị tư tưởng diễn ra sôi động hàng ngày ở cơ sở nhưng
lại chưa được đào tạo về mặt lý luận chính trị. Đây là vấn đề rất bất cập, cần được
khắc phục kịp thời.
Đề nghị các huyện, thị xã, thành phố cần quan tâm đúng mức đến việc đào
tạo lý luận chính trị cho cán bộ tuyên giáo ở các địa phương. Trước mắt, Ban
Thường vụ các Huyện, Thị xã, Thành ủy chỉ đạo Ban Tuyên giáo Huyện, Thị,
Thành ủy phối hợp với Trung tâm bồi dưỡng chính trị xây dựng kế hoạch mở các
lớp bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ công tác Tuyên giáo cho đội ngũ cán bộ tuyên
giáo xã theo Hướng dẫn thực hiện Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ Tuyên giáo
cơ sở số 82-HD/TG, ngày 22/8/2005 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.
Để có đội ngũ cán bộ tuyên giao tinh gọn thì phương hướng bổ sung cán bộ
hiện nay phải là sự kết hợp biện chứng giữa hai yếu tố số lượng và chất lượng. Đủ
về số lượng, nhưng cao về chất lượng. Chừng nào yếu tố chất lượng được coi trọng
thì chừng đó mới có thể nói đến một đội ngũ tinh gọn được. Vì vậy, cần có chế độ
tuyển chọn ưu đãi để các Ban Tuyên giáo có thể tuyển dụng được những cán bộ có
167
chất lượng cao. Tránh tình trạng chạy theo số lượng đơn thuần, hạ thấp tiêu chuẩn
tuyển chọn do nguồn bổ sung khó khăn. Phải kết hợp tốt hai yếu tố số lượng và
chất lượng để bổ sung cho đội ngũ số lượng cần thiết những cán bộ có chất lượng
cao. Chất lượng đội ngũ bao gồm chất lượng từng cán bộ và chất lượng chung.
Chất lượng từng cán bộ cao và có cơ cấu hợp lý sẽ tạo ra chất lượng cao cho toàn
đội ngũ. Trong số các yếu tố chất lượng cần phải kể đến chất lượng chính trị và
chất lượng nghề nghiệp chuyên môn. Về chất lượng chuyên môn, cần đào tạo, bồi
dưỡng theo hướng chuyên sâu, nhưng chuyên sâu phải trên cơ sở những hiểu biết
rộng. Nói đến chất lượng đội ngũ không thể không nói đến việc đào thải khỏi đội
ngũ những cán bộ sa sút về phẩm chất, yếu kém về năng lực, thiếu khả năng phát
triển về nghề nghiệp.
Quan tâm xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và cộng tác viên
dư luận xã hội:
Nhiều công trình nghiên cứu về tâm lý học tuyên truyền đã khẳng định sự
giống nhau giữa người nghe và người tuyên truyền về văn hóa, môi trường sống, về
dân tộc sẽ tạo ra mối thiện cảm ban đầu, tác động tích cực đến quá trình tiếp nhận
thông tin của đối tượng tuyên truyền và đây là tiền đề quan trọng để nâng cao hiệu
quả hoạt động tuyên truyền. Tuy nhiên, ở tỉnh ta hiện nay, đồng bào dân tộc thiểu
số Jrai, Bahnar chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng dân số toàn tỉnh, nhưng tỷ lệ cán bộ
tuyên truyền là người Jrai, Bahnar trên tổng số cán bộ tuyên truyền còn khá thấp.
Vì vậy, việc tạo nguồn xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên truyền là người đồng bào
dân tộc thiểu số tại chỗ cần được tính đến như một giải pháp quan trọng nâng cao
hiệu quả hoạt động tuyên truyền tại địa phương.
Báo cáo viên, tuyên truyền viên là những người trực tiếp cung cấp thông tin
đến cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở. Xây dựng đội ngũ báo cáo
viên, tuyên truyền viên vững mạnh, tổ chức chặt chẽ hoạt động của họ sẽ tạo điều
kiện tốt để thực hiện thông tin hai chiều tại cơ sở. Bằng các hoạt động phong phú,
168
đa dạng của mình, báo cáo viên, tuyên truyền viên không chỉ đưa chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật, thông tin về tình hình trong nước và quốc tế đến
cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, mà còn nắm bắt được nhu cầu, lợi ích,
tâm tư, nguyện vọng, tình hình tư tưởng của quần chúng và phản ánh, chuyển tải
chúng đến các cơ quan có trách nhiệm giải quyết. Đây cũng chính là lực lượng
quan trọng tạo ra mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, tạo ra sự đồng
thuận xã hội, sự thống nhất về ý chí và hành động trong mọi tầng lớp nhân dân
ngay trên địa bàn cơ sở.
Báo cáo viên của cấp ủy Đảng cơ sở cần được bố trí từ 2 - 5 người tùy theo
đặc điểm địa bàn dân cư. Đồng thời cần đào tạo, bồi dưỡng họ thành các báo cáo
viên chuyên sâu: báo cáo viên chuyên về giới thiệu nghị quyết, báo cáo viên
chuyên về nói chuyện thời sự, báo cáo viên chuyên nói chuyện về điển hình tiên
tiến, về gương người tốt việc tốt…
Ngoài các báo cáo viên của cấp ủy, ở cơ sở cần xây dựng lực lượng báo cáo
viên của các đoàn thể quần chúng, phấn đấu để mỗi tổ chức quần chúng (thanh
niên, phụ nữ, cựu chiến binh, nông dân...) đều có một báo cáo viên. Đồng thời thực
hiện tốt việc phối hợp hoạt động báo cáo viên của cấp ủy với báo cáo viên của các
đoàn thể quần chúng, phối hợp hoạt động báo cáo viên của cấp cơ sở với báo cáo
viên của cấp trên cơ sở, đảm bảo cho công tác tuyên truyền miệng ở cơ sở đạt hiệu
quả cao.
Tuyên truyền viên là những người làm công tác tuyên truyền - cổ động ở cấp
cơ sở và chỉ được tổ chức ở cấp này. Vì vậy, mọi cán bộ, đảng viên đều có nhiệm
vụ tuyên truyền, vận động, thuyết phục quần chúng thực hiện chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật, đều là một tuyên truyền viên tích cực tại cơ sở; thực hiện
phương châm toàn đảng làm công tác tư tưởng. Tuy nhiên, các tổ chức cơ sở Đảng
cần lựa chọn những đảng viên có phẩm chất và năng lực tuyên truyền cử làm tuyên
truyền viên và trực tiếp quản lý, lãnh đạo hoạt động của họ.
169
Cộng tác viên dư luận xã hội là những người có chức năng nắm bắt tình hình
tư tưởng và định hướng dư luận xã hội tại cơ sở. Họ cần được tổ chức theo nguyên
tắc đại diện: đại diện cho các địa bàn, các tầng lớp dân cư, các tổ chức khác nhau.
Đảm bảo nguyên tắc này, các thông tin dư luận xã hội mà họ phản ánh sẽ đa dạng
và mang tính đại diện cho các tầng lớp xã hội khác nhau tại cơ sở. Số lượng cộng
tác viên dư luận xã hội cho mỗi cơ sở cần từ 5 đến 7 người, trong đó có một số
người là báo cáo viên kiêm cộng tác viên dư luận xã hội.
Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên phải là những người có phẩm chất
chính trị, đạo đức lối sống trong sạch, có uy tín trong Đảng bộ và nhân dân; có
trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn; có khả năng nghiệp vụ phân tích,
tổng hợp và kiến thức sư phạm cần thiết để làm công tác tuyên truyền miệng; am
hiểu ngôn ngữ, phong tục tập quán của đối tượng tuyên truyền; nhiệt tình và có
trách nhiệm với công việc. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên phải hướng về
cơ sở, thực hiện tốt chủ trương 3 bám: “Bám làng, bám dân, bám đối tượng”; 4
cùng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc” và phương châm “Đi
tận ngõ, gõ tận nhà, rà từng đối tượng”...; kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng
của các tầng lớp nhân dân; các luận điệu tuyên truyền, lừa mị của bọn phản động để
có các giải pháp kịp thời, chính xác. Phải thực sự gương mẫu, nói đi đôi với làm,
nói ít, làm nhiều thì dân mới tin, có như vậy công tác tuyên truyền, giáo dục mới có
hiệu quả.
Chú trọng tập hợp, lôi cuốn đông đảo những người có năng khiếu, năng lực,
nhiệt tình trong nhân dân như: cán bộ hưu trí, giáo viên, sĩ quan và chiến sĩ lực
lượng vũ trang đóng trên địa bàn, thủ lĩnh các nhóm xã hội như già làng, trưởng
thôn, chức sắc tôn giáo và những quần chúng tiên tiến đã được giáo dục, giác ngộ
tham gia công tác tuyên truyền vận động quần chúng dưới sự tổ chức, hướng dẫn
của Đảng. Lực lượng này càng tham gia đông đảo, rộng khắp thì trận địa tư tưởng ở
cơ sở càng vững chắc.
170
Để xây dựng, phát triển lực lượng công tác tuyên truyền ở cơ sở trên qui mô
rộng lớn, có chất lượng cao, vừa phải chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt vững
mạnh, vừa phải chú trọng xây dựng lực lượng tuyên truyền toàn dân rộng rãi; kết
hợp tuyển chọn với bồi dưỡng thường xuyên về lý luận, đường lối, quan điểm và
nghiệp vụ công tác; kết hợp xây dựng lực lượng công tác tuyên truyền với xây
dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Lực lượng tuyên truyền
càng sâu rộng, được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ, được thường xuyên bồi dưỡng
nâng cao trình độ về mọi mặt thì càng có điều kiện để tuyển chọn, xây dựng lực
lượng có trình độ cao hơn. Lực lượng đó sẽ tác động mạnh mẽ và tạo ra khả năng
mở rộng đội ngũ tuyên truyền không chuyên đến mọi tầng lớp nhân dân. Trên thực
tế, sức mạnh và hiệu quả công tác tuyên truyền sẽ càng lớn khi thực hiện tốt việc xã
hội hóa các lực lượng làm công tác tuyên truyền dưới sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng. Trong xây dựng lực lượng làm công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số đặc biệt quan tâm phát triển cán bộ tuyên truyền là người đồng bào dân
tộc thiểu số tại chỗ. Bởi lẽ, Tuy mọi cán bộ sinh ra và lớn lên từ trong lòng dân tộc
đều có thể hiểu được chính đồng bào mình, nhưng cũng không thể không thấy rằng
ít ai nắm được tâm tư tình cảm, nguyện vọng và các nhu cầu đa dạng mang tính
thường nhật của đồng bào bằng chính cán bộ đã sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ
trong lòng dân tộc, từ phong trào thực tiễn của đồng bào dân tộc. Trưởng thành từ
thực tiễn, trình độ năng lực lại được nâng lên nhờ trải qua quá trình đào tạo ở
trường, lớp và mang trong mình dòng máu dân tộc, khiến cán bộ vui cái vui của
đồng bào, chia sẻ kịp thời và tìm được biện pháp kịp thời để giải quyết khó khăn,
vướng mắc. Cùng chung một tiếng nói, uống chung một ché rượu cần, hát chung
một bài dân ca sẽ tạo ra những thuận lợi ban đầu rất quan trọng để có được sự tin
cậy, cởi mở của đồng bào, nhờ vậy cán bộ dân tộc dễ có được sự chia sẻ, ủng hộ
của đồng bào. Nói tóm lại cán bộ người dân tộc thiểu số là những người có khả
năng và lợi thế về tập hợp, vận động đồng bào các dân tộc thiểu số thực hiện đường
171
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó phải tích cực phát hiện, tuyển chọn
con em người dân tộc tại chỗ đưa đi đào tạo ở các trường phổ thông, trường dân tộc
nội trú, trường thiếu sinh quân, trường vừa học vừa làm, các trường Đảng, trường
hành chính, các trường của các đoàn thể quần chúng ở trung ương cũng như địa
phương. Mở rộng chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ dân tộc
thiểu số. Xây dựng chế độ ưu tiên về tuyển dụng như xét tuyển công chức, ưu tiên
tuyển dụng học sinh khá giỏi ngay sau khi tốt nghiệp, tiếp tục thực hiện Chỉ thị số
47-CT/TU ngày 04/6/1998 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về việc "cơ cấu cán bộ,
công chức người dân tộc Bahnar, Jrai trong các cơ quan đơn vị thuộc tỉnh" (đảm
bảo tỷ lệ 10 % trong tổng biên chế). Trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ và kết quả quy
hoạch để tổ chức đào tạo theo địa chỉ, vừa tập trung vừa tại chức, vừa động viên
tinh thần, vừa khuyến khích vật chất, vừa đảm bảo bố trí, sử dụng sau đào tạo. Đặc
biệt phải ưu tiên đào tạo cán bộ nữ là người dân tộc thiểu số.
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ đối với cán bộ làm công
tác tuyên truyền, trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện nay, yêu cầu nhiệm vụ
công tác tuyên truyền ngày càng cao, trách nhiệm ngày càng nặng nề nhưng điều
kiện làm việc, điều kiện sống và lợi ích vật chất, tinh thần được đãi ngộ chưa thỏa
đáng. Trong đội ngũ cán bộ Đảng, cán bộ của Nhà nước, cán bộ kinh tế, cán bộ
tuyên truyền có năng lực, trình độ không thua kém, hoạt động thực tiễn nhiều
nhưng vị thế nghề nghiệp, vị thế xã hội lại thua kém các bộ phận cán bộ khác.
Nhiều cán bộ có năng lực tìm cách chuyển sang nghề khác, một số khác có biểu
hiện thiếu yên tâm. Cơ quan tuyên giáo các cấp không tuyển được người theo yêu
cầu công tác. Tình hình đó đòi hỏi phải xây dựng hệ thống chế độ, chính sách phản
ánh đúng vai trò, trách nhiệm xã hội phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và trình độ
nghề nghiệp của cán bộ tuyên truyền. Hệ thống chế độ, chính sách một mặt, phải
thể hiện được ích lợi vật chất và tinh thần cuộc sống với cống hiến cho xã hội, mặt
khác phải là cơ sở để đánh giá đúng cán bộ, tạo điều kiện để cán bộ phát triển tài
172
năng, cống hiến ngày càng nhiều cho đất nước. Chỉ có như vậy mới động viên, tạo
điều kiện cho cán bộ tuyên truyền yên tâm công tác, phát huy năng lực, sở trường,
củng cố tình cảm nghề nghiệp và khuyến khích nhân tài chuyển sang công tác lâu
dài trong lĩnh vực tuyên truyền…
Một điều đáng quan tâm là tỷ lệ cán bộ sử dụng thành thạo được tiếng dân
tộc Jrai hoặc Bahnar trong hoạt động tuyên truyền, theo kết quả điều tra là rất thấp.
Cán bộ người Kinh làm công tác tuyên truyền sử dụng ngôn ngữ của đồng bào địa
phương thành thạo trong quá trình tác nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ 4,6%. Có đến trên
70% cán bộ tuyên truyền và cán bộ lãnh đạo quản lý người Kinh các cấp từ tỉnh
đến cơ sở chưa sử dụng được tiếng đồng bào trong hoạt động tuyên truyền. Cũng
qua kết quả điều tra cho thấy chỉ có 76,2% cán bộ tuyên truyền, 75,8% cán bộ quản
lý người dân tộc Jrai sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong công tác tuyên truyền và
giao tiếp hàng ngày (Chỉ số này đối với cán bộ tuyên truyền là người Bahnar
66,7%; cán bộ lãnh đạo, quản lý là 72,7%). Bất đồng ngôn ngữ giữa cán bộ tuyên
truyền và đối tượng tuyên truyền đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động
tuyên truyền thời gian qua trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy, trên bình
diện chung toàn tỉnh, cũng như các địa phương cần rà soát đánh giá khả năng sử
dụng tiếng dân tộc địa phương của đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở
thường xuyên tiếp xúc với dân ở các xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống, để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo lộ trình cụ thể.
Với việc cung cấp thông tin hiện nay, đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán
bộ tuyên truyền các cấp đều cho rằng chỉ đáp ứng được cơ bản nhu cầu, hoặc đáp
ứng được một phần nhu cầu thông tin cần có của cá nhân để phục vụ công tác tuyên
truyền trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ người được hỏi trả lời đã
cung cấp đủ thông tin, tài liệu để phục vụ công tác tuyên truyền tương đối thấp. Tỷ
lệ người được hỏi trả lời thiếu thông tin, tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền còn
173
khá lớn. Vì vậy, cần đa dạng hóa hơn nữa việc cung cấp thông tin cho cán bộ tuyên
truyền các cấp, nhất là ở cơ sở theo hướng nhanh nhạy, kịp thời và có chiều sâu.
III. TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ CƠ SỞ VẬT CHẤT, TRANG THIÊT BỊ,
KINH PHÍ PHỤC VỤ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật công tác tuyên truyền có vai trò và ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với công tác tuyên truyền hiện nay. Do vậy, mỗi địa phương, cơ
quan, đơn vị liên quan trực tiếp đến công tác tuyên truyền cần phải được trang bị hệ
thống cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Hơn nữa, do yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng trong thời kỳ mới và nhu cầu thông tin ngày càng phát triển nhanh như vũ
bão hiện nay, đòi hỏi cơ sở vật chất - kỹ thuật phải không ngừng được đổi mới và
hoàn thiện để đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ công tác tuyên truyền. Để đảm
bảo cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số của tỉnh trong thời gian đến cần chú trọng một số nội dung sau:
Tiếp tục nâng cao nhận thức và quán triệt sâu sắc tầm quan trọng, hiệu quả
to lớn trước mắt và lâu dài của cơ sở vật chất - kỹ thuật công tác tuyên truyền,
trước hết trong các cấp ủy, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, trong cán bộ lãnh
đạo các cấp, các ngành, các cơ quan chuyên trách làm công tuyên truyền.
Xây dựng cơ chế phối hợp các khâu chỉ đạo, tổ chức và quản lý hệ thống cơ
sở vật chất - kỹ thuật để phục vụ tốt hơn cho công tác tuyên truyền. Xây dựng tiêu
chuẩn thống nhất đối với việc trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho từng hoạt động
tuyên truyền để các cấp các ngành có căn cứ xây dựng công sở và mua sắm trang
thiết bị thích hợp.
Tăng cường đầu tư ngân sách trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật công tác
tuyên truyền theo hướng phát triển đồng bộ và hiện đại hóa, có chọn lọc, có trọng
tâm, trọng điểm cho từng lĩnh vực công tác tuyên truyền nhằm xây dựng lực lượng
đủ mạnh, đủ sức đưa các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước đến với đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh. Trước hết cần quan tâm
174
trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại cho hệ thống phát thanh - truyền hình,
nhất là các đài truyền thanh - truyền hình các huyện, các trạm phát lại truyền hình
và các trạm tuyền thanh cho các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh; ưu tiên
xây dựng các nhà văn hóa sinh hoạt cộng đồng, qui hoạch khu sinh hoạt thể dục thể
thao ở từng thôn, làng, xã, phường, thị trấn.
Tăng cường công tác nghiên cứu, triển khai các phương án nâng cao chất
lượng và hiệu quả mua sắm, sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật công tác tuyên
truyền. Tranh thủ các dự án, lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia để đầu
tư xây dựng, mua sắm trang bị các phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác tuyên
truyền cho các địa phương, cơ quan, đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ tuyên truyền.
Tranh thủ sự giúp đỡ của trung ương trong việc thiết kế, lắp đặt, sử dụng các trang
thiết bị phát thanh - truyền hình hiện đại mà đội ngũ cán bộ chuyên môn trong tỉnh
chưa kịp đào tạo ở một số công đoạn và lĩnh vực cần thiết.
Tiến hành điều tra, khảo sát, rà soát, qui hoạch xây dựng hệ thống cơ sở vật
chất - kỹ thuật phục vụ công tác tuyên truyền, nhất là hệ thống các thiết chế văn
hóa cơ sở đối với cấp xã và thôn, làng để có cơ sở đầu tư xây dựng đồng bộ, hợp lý,
hiệu quả. Trong đó chú trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa
cơ sở, các nhà rông văn hóa, trạm phát thanh FM, cụm loa truyền thanh không dây,
có dây…Nên quan tâm đầu tư xây dựng cho mỗi xã 01 trạm thu phát sóng truyền
thanh, vừa có chức năng thu, phát sóng truyền thanh FM, vừa có chức năng phát
thanh thông báo các chủ trương của xã, của địa phương đến các hộ dân trực tiếp
thông qua hệ thống này.
Chú trọng công tác qui hoạch diện tích đất xây dựng các thiết chế văn hóa
cơ sở trong tổng quan qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng kết cấu hạ
tầng của từng địa phương, từ tỉnh đến cấp huyện, xã và thôn, làng, khu phố thống
nhất theo qui định của Trung ương. Cụ thể, đối với thiết chế văn hóa thông tin cấp
175
tỉnh 10.000 m2 trở lên; cấp huyện: 5000 m2 trở lên; cấp xã, phường, thị trấn: 2.000
m2 trở lên và cấp làng, thôn, ấp, bản: 1.000 m2 trở lên;
Ban hành tiêu chuẩn thống nhất về cơ sở vật chất - kỹ thuật cho từng hoạt
động của công tác tuyên truyền. Xây dựng quy chế quản lý, sử dụng, bảo quản cơ
sở vật chất - kỹ thuật trong từng cơ quan, đơn vị công tác tuyên truyền.
Tăng cường đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang bị
phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác tuyên truyền:
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong huy động nguồn lực để xây dựng thiết
chế văn hóa thông tin cơ sở, theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Các địa phương tích cực huy động các nguồn ngoài ngân sách nhà nước cho việc
đầu tư trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật công tác tuyên truyền.
Các cấp chính quyền nghiên cứu nâng mức đầu tư ngân sách cho việc trang
bị cơ sở vật chất - kỹ thuật công tác tuyên truyền từ nguồn chi thường xuyên và
nguồn chi phát triển trong ngân sách nhà nước. Tỷ trọng chi ngân sách cho lĩnh vực
này phải tương ứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Khuyến khích các
ngành, các địa phương tăng thêm nguồn đầu tư trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện đại cho công tác tuyên truyền.
Các cơ quan tuyên truyền, khi xây dựng kế hoạch đầu tư mua sắm, thủ
trưởng các cơ quan đơn vị cần chú ý đến tính hiện thực của nó. Muốn kế hoạch này
có tính hiện thực thì cần phải xuất phát từ cơ sở thực tiễn, nhu cầu sử dụng, điều
kiện kinh tế của địa phương. Phải xây dựng cả kế hoạch lâu dài và kế hoạch trước
mắt. Kế hoạch lâu dài phải dựa trên chiến lược tổng thể về quy mô phát triển của
hoạt động này. Kế hoạch trước mắt nhằm giải quyết từng phần và yêu cầu tối thiểu
về cơ sở vật chất - kỹ thuật do nhiệm vụ đặt ra.
Có kế hoạch đầu tư ngân sách tuyên truyền tổng thể cho các lĩnh vực, địa
phương, cơ quan, đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ công tác tuyên truyền trong đồng
báo dân tộc thiểu số, cụ thể:
176
Đối với lĩnh vực phát thanh - truyền hình:
Tiếp tục đầu tư các phương tiện kỹ thuật số cho Đài Phát thanh - Truyền
hình tỉnh để sản xuất các chương trình thời sự, chuyên mục, chuyên đề, giải trí cả ở
sóng phát thanh và truyền hình, nhằm không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng
nội dung chương trình, phấn đấu tăng dần thời lượng phát sóng.
Đầu tư trang thiết bị và công nghệ sản xuất chương trình phát thanh của Đài
tỉnh. Tăng tỷ lệ áp dụng công nghệ số và công nghệ tin học vào sản xuất các
chương trình phát thanh. Từng bước chuyển sang công nghệ kỹ thuật số đối với các
thiết bị sản xuất chương trình như bàn trộn, máy ghi âm, thiết bị xử lý tín hiệu …
Có hệ thống Studio hoàn chỉnh, bao gồm các Studio sản xuất chương trình, Studio
truyền âm, phòng tổng khống chế hoặc ít nhất phải có 01 Studio kết hợp chức năng
sản xuất chương trình, truyền âm và tổng khống chế. Từng bước trang bị máy thu
thanh lưu động kỹ thuật số cho phóng viên để tác nghiệp.
Đầu tư thiết bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất chương trình truyền hình của
Đài tỉnh. Áp dụng công nghệ số và công nghệ tin học vào sản xuất các chương trình
truyền hình, tăng dần tỷ trọng số hoá trong từng công đoạn sản xuất chương trình.
Tiếp tục đầu tư các thiết bị sản xuất chương trình truyền hình theo hướng chuyển
dần sang công nghệ kỹ thuật số.
Sự tồn tại các Đài truyền thanh - truyền hình huyện, thị xã, thành phố xuất
phát là yếu tố khách quan, phục vụ nhiệm vụ chính trị, gắn với đó là một tổ chức bộ
máy, cơ sở vật chất và các thiết bị kỹ thuật để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình. Song với nguồn nhân lực (mỗi đơn vị 6 - 9 biên chế) và điều kiện cơ sở vật
chất, trang thiết bị, phương tiện như hiện nay thì các đài truyền thanh - truyền hình
cấp huyện khó đáp ứng tốt được nhiệm vụ mà thực tiễn đặt ra. Vì vậy, trong thời
gian đến Sở Thông tin - Truyền thông, Đài phát thanh - truyền hình tỉnh cần phối
hợp chặt chẽ với Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban nhân dân các
huyện, thị xã, thành phố và các ngành có liên quan tham mưu cho Ủy ban nhân dân
177
tỉnh có kế hoạch tổng thể phát triển hệ thống phát thanh - truyền hình trên địa bàn
tỉnh, bố trí hợp lý nguồn nhân lực, có lộ trình đầu tư phương tiện kỹ thuật cho Đài
truyền thanh - truyền hình các huyện, thị xã, thành phố theo hướng hiện đại và
đồng bộ, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác tuyên truyền trong tình hình mới.
Triển khai kế hoạch điều chuyển, rút một số máy phát hình tại một số huyện
lân cận thành phố Pleiku, có tần số phát sóng gần trùng với đài tỉnh, chuyển sang
lắp đặt thêm cho các huyện, trạm phát lại truyền hình các huyện, các xã vùng sâu,
vùng xa trong tỉnh, góp phần khắc phục tình trạng nhiễu sóng. Đối với các vùng
không thu được tín hiệu truyền hình tình thì xây dựng các trạm phát lại truyền hình
phủ sóng vùng lõm, vùng sâu, vùng xa.
Hệ thống cụm loa truyền thanh không dây được đầu tư xây dựng trên địa bàn
tỉnh từ năm 1999 đến nay, đã hư hỏng nhiều, hiện chỉ còn 556/1146 cụm ở các xã
đang còn hoạt động cầm chừng, hiệu quả thấp. Nguyên nhân do chưa có quy định
thống nhất về chi phí bảo dưỡng, sửa chữa, các thiết bị kỹ thuật. Khi hư hỏng nhẹ
đa phần đều do cán bộ kỹ thuật của đài huyện sửa, hư hỏng nặng thì thuê sửa ngoài,
nhưng do một số chính quyền cấp cơ sở chưa thật sự quan tâm hoặc thiếu kinh phí
đề bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa các trạm phát, cụm loa nên nhiều nơi đã hư hỏng,
không còn hoạt động. Kinh phí chi trả cho cán bộ quản lý, vận hành các trạm
truyền thanh ở các xã thấp, kinh phí bảo dưỡng, duy tu, sửa chữa chưa được qui
định cụ thể. Nhiều cụm loa chưa thống nhất về cách chi trả tiền điện cho các hộ gia
đình có gắn cụm loa truyền thanh hoặc xã không trả trực tiếp cho ngành điện nên bị
cắt và không còn hoạt động. Vì vậy, các ngành chức năng và các địa phương cần
tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng, hoạt động của hệ thống cụm loa
truyền thanh không dây trên địa bàn toàn tỉnh để có kế hoạch sửa chữa và tiếp tục
đầu tư hệ thống truyền thanh cơ sở có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, phù
hợp với đặc điểm thực tế cơ sở từng vùng, từng thôn, làng nhằm tránh lãng phí cơ
178
sở vật chất đầu tư của nhà nước. Có văn bản qui định cụ thể về việc trích kinh phí
từ nguồn ngân sách chi cho hoạt động văn hóa xã hội của cấp xã để chi trả tiền điện
cho các trạm truyền thanh, phát thanh, cụm loa FM không dây đặt tại các thôn,
làng. Qui định cụ thể kinh phí bảo trì, sửa chữa các thiết bị truyền thanh đối với các
xã được Nhà nước đầu tư trang bị hệ thống truyền thanh. Có văn bản qui định tất cả
các xã đều phải dành 01 phòng để đặt trạm thu phát sóng truyền thanh, bảo quản cơ
sở vật chất cho công tác tuyên truyền.
Đối với lĩnh vực văn hóa - thông tin:
Cần tiếp tục xây dựng các kế hoạch bảo tồn, tu bổ, tôn tạo các khu căn cứ
cách mạng, di tích các làng kháng chiến trước đây.
Tiếp tục trang bị cho mỗi đội tuyên truyền thông tin lưu động của các huyện
và 3 ngành Công an, Quân sự, Biên phòng, mỗi đội 01 xe thông tin lưu động tổng
hợp để vận chuyển các trang thiếp bị, hệ thống âm thanh, loa đài, nhạc cụ … đồng
thời trực tiếp làm sân khấu để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, tổ chức các chương
trình chiếu phim, văn hóa văn nghệ phục vụ đời sống văn hóa tinh thần cho đồng
bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
Khảo sát, lập đề án xin chủ trương, huy động ngân sách xây dựng các nhà
sinh hoạt cộng đồng, theo hướng xã hội hóa với phương châm Nhà nước - nhân dân
cùng làm, để làm nơi tập hợp bà con dân tộc thiểu số đến sinh hoạt cộng đồng, hội
họp, tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Có chủ trương nối mạng internet cho các điểm bưu điện văn hóa xã, phục vụ
nhu cầu truy cập, khai thác thông tin của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số.
Đối với Báo Gia Lai: Tỉnh cần quan tâm bổ sung thêm biên chế, và cấp
thêm kinh phí để mua sắm trang thiết bị, máy móc phục vụ cho Trang báo điện tử,
phục vụ công tác chế bản, đưa các ấn phẩm còn lại từ Công ty in và dịch vụ văn
hóa Gia Lai về chế bản tại tòa soạn báo.
Đối với các Ban Tuyên giáo huyện và cơ sở:
179
Tiếp tục bổ sung ngân sách, đầu tư, mua sắm thêm các trang thiết bị kỹ thuật
thiết yếu để cho cán bộ, chuyên viên tác nghiệp. Bổ sung, kiện toàn công tác tổ
chức cán bộ, trong đó nên cân nhắc ưu tiên lựa chọn một cán bộ biết thông thạo
tiếng phổ thông và tiếng địa phương tại chỗ, biết sử dụng tương các phương tiện kỹ
thuật máy móc để làm nhiệm vụ biên sọan, biên dịch các tài liệu học tập các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng từ tiếng phổ thông sang tiếng Jrai, Bahnar, nhất là đối với các
loại tài liệu tuyên truyền nóng, tuyên truyền theo chuyên đề ...
Để nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật công tác tuyên
truyền, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ tuyên truyền cần
thực hiện tốt một số biện pháp sau đây:
Yêu cầu cán bộ thuộc đơn vị quản lý xây dựng chương trình, kế hoạch cụ
thể trước khi sử dụng các phương tiện kỹ thuật vào các hoạt động của công tác
tuyên truyền như quay phim, làm phóng sự, sản xuất chương trình …
Thường xuyên phát động các phong trào thi đua sử dụng, bảo quản tốt cơ sở
vật chất - kỹ thuật trong cơ quan đơn vị và coi đây là một tiêu chuẩn để bình xét,
đánh giá, xếp loại thi đua, khen thưởng đột xuất, theo đợt, cuối năm.
Phối hợp với các cơ quan làm nhiệm vụ công tác tuyên truyền để sử dụng
hết công suất của cơ sở vật chất - kỹ thuật, tạo nên sức mạnh tổng hợp của các binh
chủng làm công tác tuyên truyền.
Tổ chức bảo quản tốt hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật công tác tuyên
truyền: Cơ sở vật chất - kỹ thuật công tác tuyên truyền có vị trí, vai trò hết sức quan
trọng đối với hoạt động công tác tuyên truyền. Vì vậy, lãnh đạo các địa phương, thủ
trưởng các cơ quan, đơn vị, cán bộ có chức năng trực tiếp làm nhiệm vụ tuyên
truyền phải có sự phối kết hợp thật tốt giữa việc quản lý, bảo vệ trong nội bộ với
các lực lượng trong khối nội chính để vừa đảm bảo tốt an ninh tư tưởng, vừa đảm
bảo an toàn một cách tốt nhất cơ sở vật chất - kỹ thuật công tác tuyên truyền. Phải
180
coi đây là những công trình trọng điểm có liên quan đến an ninh chính trị để có kế
hoạch bảo vệ tuyệt đối an toàn.
Phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng cán bộ có trách nhiệm sử dụng, bảo
quản trang thiết bị kỹ thuật, bảo đảm phát huy hết công suất của trang thiết bị.
Đồng thời dễ quy trách nhiệm khi để xảy ra mất mát hoặc hư hỏng.
Chính quyền các cấp, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm chính
trong việc theo dõi chặt chẽ việc bảo quản cơ sở vật chất - kỹ thuật cơ quan, đơn vị
mình phụ trách. Do đó, nên dành thời gian hợp lý để tiếp cận các báo cáo định kỳ,
đột xuất về tình hình cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công tác tuyên truyền từ các
cán bộ được phân công quản lý và sử dụng. Có kế hoạch định kỳ tiến hành kiểm
tra sổ sách kết hợp với kiểm tra thực tế việc sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật công
tác tuyên truyền của đơn vị mình.
IV. ĐỔI MỚI NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN.
Hiệu quả tuyên truyền phụ thuộc rất lớn vào nội dung tuyên truyền. Vì vậy,
đổi mới nội dung tuyên truyền được xác định là khâu đột phá trong việc nâng cao
hiệu quả hoạt động của công tác tuyên truyền.
Nội dung tuyên truyền phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản sau:
Tính Đảng: Đây là nguyên tắc cơ bản hàng đầu của công tác tuyên truyền.
Khi tuyên truyền phải đúng với định hướng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Tính chiến đấu: Tuyên truyền phải khẳng định và bảo vệ cái đúng, xây dựng
những tư tưởng tình cảm lành mạnh, uốn nắn những quan điểm tư tưởng lệch lạc,
đấu tranh chống các luận điểm phản tuyên truyền, các biểu hiện tiêu cực.
Tính quần chúng: nội dung tuyên truyền phải được xác lập sát với tình hình
nhiệm vụ đặt ra, sát với yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích của quần chúng. Bác Hồ đã
dạy "Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi viết cho ai xem, nói cho ai
nghe".
181
Tính khoa học, chân thực, khách quan: đòi hỏi tuyên truyền phải nói đúng
sự thật, không tránh né, không cực đoan, một chiều, làm cho mọi người hiểu rõ cơ
sở khách quan, khoa học, có đủ căn cứ lý luận và thực tiễn để nâng cao sức thuyết
phục, làm cho người nghe tin tưởng vào sự đúng đắn của vấn đề tuyên truyền đặt
ra.
Trong tuyên truyền, nội dung có mục đích tư tưởng rất rõ rệt. Bằng nghệ
thuật sử dụng ngôn từ và hình ảnh, âm thanh, nội dung tuyên truyền dù theo chủ đề
nào, cũng đặt ra không chỉ nhằm mục đích thông tin mà quan trọng hơn là mục đích
tác động về mặt tư tưởng (hình thành niềm tin, cổ vũ con người). Cho nên, nội
dung tuyên truyền phải đạt tới yêu cầu định hướng thông tin, định hướng tư tưởng
về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về các
sự kiện chính trị trọng đại trong nước và trên thế giới. Từ đó chủ động giải thích
cho người nghe nhận thức đúng hơn, sâu hơn, tạo dựng được niềm tin và hành động
tích cực đối với người nghe. Tính tư tưởng, tính chiến đấu đòi hỏi chủ thể tuyên
truyền, khi thông tin về những quan điểm khác nhau phải có định hướng, phân tích
theo lập trường, quan điểm của Đảng; lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng
sát thực, sinh động có tính thuyết phục cao, để khẳng định và bảo vệ quan điểm,
chủ trương và đường lối đúng đắn của Đảng.
Nội dung tuyên truyền phải toàn diện, đa dạng, phong phú:
Tính tổng hợp, sự phong phú, đa dạng của nội dung tuyên truyền xuất phát từ
yêu cầu giáo dục tư tưởng toàn diện (bao gồm giáo dục thế giới quan, giáo dục
chính trị-tư tưởng, giáo dục lao động và kinh tế, giáo dục đạo đức và lối sống…)
cho cán bộ, đảng viên và đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó, nội dung tuyên truyền
cần bao hàm một cơ cấu thông tin hợp lý, thể hiện qua sự cân đối, phù hợp giữa
thông tin chính trị, thông tin kinh tế, thông tin an ninh-quốc phòng với thông tin
văn hóa, khoa học-kỹ thuật; giữa thông tin về thế giới quan của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với những vấn đề thời sự, chính sách; giữa các thông
182
tin về các vấn đề trong nước với các vấn đề quốc tế, giữa các vấn đề của toàn quốc
với các vấn đề của tỉnh và từng địa phương, cơ sở…
Trước mắt, nội dung tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
tỉnh ta cần ưu tiên một số vấn đề sau:
Tuyên truyền các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số; những thành tựu đạt được trong những
năm qua của cả nước, của tỉnh, của các địa phương trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa-xã hội, an ninh-quốc phòng... Tuyên truyền về truyền thống đoàn kết, gắn bó
của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong lịch sử và trong hiện tại. Trong tuyên truyền
cần khẳng định và làm rõ vùng đất Tây Nguyên là nơi sinh sống của nhiều dân tộc
anh em, các tộc người sinh sống xen kẽ, hoà đồng; các dân tộc luôn kề vai sát cánh
cùng nhau đánh giặc, làm ruộng, làm nương rẫy, đoàn kết, gắn bó, sống chết có
nhau. Củng cố và tăng cường sự đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân
tộc anh em để cùng nhau giữ vững nền độc lập thống nhất của Tổ quốc, tăng thêm
sức mạnh, đẩy mạnh sản xuất, làm cho Tây Nguyên phát triển cùng cả nước.
Tuyên truyền chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Về chính sách dân tộc, công tác tuyên truyền phải làm rõ các nội dung cơ
bản: Phát triển kinh tế ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận
hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân; sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, phát triển kinh tế văn hóa miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là sự
nghiệp chung của nhân dân cả nước, của nhân dân các dân tộc, cả đa số và thiểu số
trong vùng, vì lợi ích trực tiếp của nhân dân các dân tộc thiểu số, đồng thời vì lợi
ích chung của cả nước... Phát triển miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số toàn
diện, cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, trong đó phát
triển kinh tế - xã hội gắn với thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, quan tâm
đúng mức đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống vật chất và văn
hoá của nhân dân được coi là nhiệm vụ trọng tâm.
183
Về vấn đề tôn giáo, công tác tuyên truyền cần làm rõ bản chất, điều kiện tồn
tại và đặc điểm của tôn giáo ở nước ta. Tuyên truyền, phổ biến các quy định hoạt
động tôn giáo theo pháp luật. Phân biệt rõ giữa mặt tư tưởng và mặt chính trị của
tín ngưỡng, tôn giáo. Bản thân tôn giáo, tín ngưỡng ngay từ khi mới ra đời không
gắn với chính trị. Nhưng trong quá trình tồn tại và phát triển lâu dài trong lịch sử,
tôn giáo bị các lực lượng chính trị lợi dụng để phục vụ cho lợi ích của họ. Khẳng
định "Tin lành Đê ga" là một tổ chức chính trị phản động đội lốt tôn giáo, hoạt
động của "Tin lành Đê ga" không vì mục đích tôn giáo mà chủ yếu nhằm chống
phá Đảng và Nhà nước ta.
Vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch tác động vào quan hệ
dân tộc, tôn giáo, chia rẽ cộng đồng dân tộc Việt Nam, phá hoại chính sách đại
đoàn kết, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Nâng cao tinh thần cảnh
giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình”,
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch…
Tăng cường chất lượng thông tin theo hướng nâng cao tính thời sự, nhạy
bén, kịp thời. Bám sát tình hình thực tiễn, những vấn đề mới nảy sinh để kịp thời
tuyên truyền giải thích. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, sát với đời
sống người dân; vấn đề tuyên truyền cần rõ ràng, cụ thể không nói nhiều lý luận
cao xa; nội dung tuyên truyền được chuyển tải bằng ngôn ngữ của đồng bào; gắn
nội dung tuyên truyền với tình hình và nhiệm vụ chính trị của địa phương; nội dung
phải cụ thể, thiết thực, có số liệu, tư liệu, sự kiện, căn cứ, lập luận rõ ràng, phù hợp
với nhận thức của đồng bào, phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
Nội dung tuyên truyền phải kết hợp hài hòa giữa xây và chống, giữa biểu
dương cái tốt, cái mới, phê phán cái sai, cái lạc hậu, khắc phục tính chất cực đoan
một chiều, dẫn tới những hậu quả xấu của kết quả tuyên truyền. Xây dựng các điển
hình và tuyên truyền điển hình thật tích cực, mạnh mẽ. Làm cho cái tích cực, tiến
bộ được nhân rộng, trở thành phổ biến, “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu; lấy tích cực đẩy
184
lùi tiêu cực”...
Nội dung tuyên truyền phải xuất phát từ thực tiễn phong trào cách mạng
của quần chúng; lấy lợi ích của dân tộc, đất nước và nhân dân làm mục đích hoạt
động; phải hòa mình vào cuộc sống nhân dân, qua đó kịp thời nắm bắt diễn biến tư
tưởng, tâm lý, tình cảm của quần chúng nhân dân. Gắn tuyên truyền, cổ động với
hành động cách mạng, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn.
Nội dung tuyên truyền phải bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ
sở, nhất là tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, phải bám sát thực tiễn, nắm bắt diễn biến tư tưởng, dự báo đúng chiều
hướng phát triển để kịp thời định hướng đúng; mặt khác, coi trọng, nâng cao chất
lượng và hiệu quả thông tin, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Đổi mới nội dung tuyên truyền trước hết phải nhạy bén trên lĩnh vực thông
tin, phải đưa thông tin chính thống đến được mọi tầng lớp dân cư, nhất là đối với
đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Ngoài thông tin chính thống, phải làm chủ
các nguồn thông tin khác; không được để khoảng trống thông tin trong đồng bào.
Vấn đề quan trọng là định hướng thông tin và nhạy bén trên lĩnh vực thông tin, mà
thực chất là làm cho đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước sát hợp và đi vào
đời sống ở cơ sở; thống nhất nói đi đôi với làm, quyết định đi liền với thực thi. Khi
tuyên truyền nội dung phải phù hợp và thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời
nói và việc làm. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời nói và việc làm vừa
là tư cách, phẩm chất, đạo đức của người cách mạng, vừa là phương pháp tốt nhất
để cảm hóa, thuyết phục, thu phục con tim, khối óc của đối tượng ở mọi tầng lớp,
mọi lứa tuổi. Không thể để tồn tại tình trạng cán bộ khi đi tuyên truyền về chủ
nghĩa xã hội mà mình lại là người hoài nghi, giao động và giảm sút niềm tin vào
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Không thể có
cán bộ khi tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng trong khi chính mình lại là người hoang mang, thiếu tin tưởng vào sự lãnh
185
đạo của Đảng. Không thể có cán bộ khi tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống
mà chính mình lại đang thoái hóa, biến chất và sa sút về phẩm chất, đạo đức và lối
sống. Thiếu niềm tin, họ dễ bị dao động trước những biến đổi lớn của hiện thực xã
hội, mất phương hướng khi xuất hiện những tình huống chính trị phức tạp, mất
động lực khi giải quyết những vấn đề bức xúc và trở thành những người nói nhiều
mà làm ít, nói một đường làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm.
Nội dung tuyên truyền trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số thời gian
qua nhìn chung còn dàn trải, cứng nhắc, mang tính áp đặt một chiều từ trên xuống,
chưa phù hợp với trình độ và tâm lý tiếp nhận thông tin của đồng bào, chưa sát với
từng đối tượng, nên khoảng cách về quan điểm giữa chủ thể và đối tượng tuyên
truyền còn xa, làm cho hiệu quả tuyên truyền đôi lúc còn thấp. Nguyên nhân chủ
yếu là do chủ thể tuyên truyền chưa nghiên cứu kỹ đối tượng tuyên truyên, nên việc
triển khai các nội dung tuyên truyền chưa phù hợp với đối tượng tiếp nhận thông
tin. Nhiều cán bộ tuyên truyền khi truyền đạt, quán triệt chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn mang nặng tính lý trí, lý thuyết kho
cứng, dông dài, chưa gắn với thực tiễn cuộc sống, nhu cầu thông tin và tâm lý tiếp
nhận thông tin của đồng bào là ngắn gọn, thiết thực, dễ hiểu, thiên về tình cảm, cảm
xúc, dễ làm theo… nên chưa thực sự phát huy hiệu quả tốt với đồng đào. Vì vậy,
muốn nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, một trong những yêu cầu bắt buộc đối với cán bộ tuyên truyền là phải nghiên
cứu kỹ đối tượng, để triển khai các nội dung phù hợp với trình độ tiếp nhận thông
tin của đồng bào.
Với môi trường sống gần gũi với tự nhiên và tương đối cách biệt trong thời
gian dài đã hình thành nên nếp tư duy trực quan cụ thể điển hình ở đồng bào dân
tộc thiểu Jrai, Bahnar. Đặc trưng của lối tư duy này là dựa vào những cảm nhận
bằng tai, bằng mắt, mộc mạc, giản đơn. Chính kiểu tư duy trực quan cụ thể đã tạo
cho đồng bào có nếp sống, nếp nghĩ đạm bạc, đơn sơ, trung thực, thẳng thắn, thấy
186
sao nói vậy, ít suy tư những điều rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi tầm khái quát cao.
Điều này chi phối rất lớn đối với quá trình tiếp nhận thông tin của đồng bào dân tộc
thiểu số địa phương. Từ thực tế này đòi hỏi nội dung tuyên truyền trong đồng bào
dân tộc thiểu số của tỉnh phải hết sức cụ thể, rõ ràng và ngắn gọn, có chứng minh,
liên hệ với thực tiễn, với đời sống của đồng bào để họ dễ nắm bắt và tiếp thu các
nội dung tuyên truyền.
Tóm lại, nâng cao chất lượng hiệu quả nội dung công tác tuyên truyền trong
đồng bào dân tộc thiểu số, cần phải tuân thủ các yêu cầu sau: nội dung tuyên truyền
cần ngắn gọn, dễ hiểu, sát với đời sống người dân; vấn đề tuyên truyền cần rõ ràng,
cụ thể không nói nhiều lý luận cao xa; nội dung tuyên truyền được chuyển tải bằng
ngôn ngữ của đồng bào; gắn nội dung tuyên truyền với tình hình và nhiệm vụ chính
trị của địa phương; gắn nội dung tuyên truyền với nêu gương tốt người tốt, việc tốt
tại cơ sở để đồng bào làm theo, người đi tuyên truyền có uy tín, phẩm chất tốt, nói
đi đôi với làm; người tuyên truyền cần hiểu rõ phong tục tập quán, nội dung tuyên
truyền phù hợp với nhận thức của đồng bào, phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
V. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP TUYÊN TRUYỀN.
Đổi mới phương pháp tuyên truyền là một trong những điều kiện đảm bảo
cho các yêu cầu đổi mới nội dung được hiện thực hóa. Việc đổi mới phương pháp
tuyên truyền cần tuân thủ một số yêu cầu sau:
Trong quá trình tuyên truyền chủ thể phải căn cứ vào đặc điểm đối tượng
như: độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, đặc điểm dân tộc, niềm tin tín ngưỡng, đặc
thù lao động, hoạt động nghề nghiệp…để tìm ra phương pháp tác động tối ưu. Mỗi
loại đối tượng cụ thể trong cái chung bao giờ cũng có tính đặc thù riêng biệt, do đó
chủ thể ngoài việc sử dụng những phương pháp chung cần phải hết sức chú trọng
sử dụng những phương pháp mang tính đặc thù để nâng cao hiệu quả tuyên truyền.
Chẳng hạn, trình độ học vấn của đối tượng càng cao bao nhiêu thì đòi hỏi tính hợp
lý của phương pháp tuyên truyền càng phải tăng lên bấy nhiêu. Đối với đối tượng
187
lao động phổ thông, trình độ học vấn thấp đòi hỏi tính xúc cảm trong hoạt động
tuyên truyền phải cao hơn, phải nhiều hơn mặt lý trí. Còn với đối tượng có trình độ
học vấn khá thì yêu cầu về tính xúc cảm lại giảm xuống, còn mặt lý trí đòi hỏi phải
tăng lên. Hay như, phương pháp tuyên truyền đối với thanh niên phải khác phương
pháp tuyên truyền đối với người cao tuổi; phương pháp tuyên truyền cho đội ngũ trí
thức phải khác phương pháp tuyên truyền cho nông dân. Ngay cả trong cùng một
đối tượng như thanh niên, thì phương pháp tuyên truyền cho thanh niên ở các đô thị
cũng có những đặc điểm riêng biệt so với thanh niên nông thôn. Điều đó khẳng
định rằng, đối tượng là yếu tố cơ bản trước nhất quy định việc lựa chọn và sử dụng
phương pháp tuyên truyền. Phương pháp tuyên truyền chỉ được chủ thể lựa chọn và
sử dụng khi đã có những nhận thức đúng đắn về đối tượng. Phương pháp tuyên
truyền sẽ là sai lầm nếu nó chỉ là kết quả của sự tìm kiếm chủ quan, sự lựa chọn
một cách duy ý chí và sử dụng một cách tùy tiện.
Trong công tác tuyên truyền, nội dung tuyên truyền là toàn bộ khối lượng tri
thức mà chủ thể cần chuyển tải đến đối tượng, nhằm thực hiện mục đích đã đặt ra.
Nội dung tuyên truyền rất rộng, nó bao gồm tất cả những tri thức khác nhau của đời
sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh…Hầu hết
các nhà nghiên cứu về công tác tư tưởng và tuyên truyền nói riêng đều khẳng định
nội dung tuyên truyền là yếu tố quan trọng trực tiếp quy định quy định việc lựa
chọn phương pháp. Giữa nội dung và phương pháp có mối quan hệ biện chứng chặt
chẽ. Nội dung quy định phương pháp, vì nội dung là cơ sở, là tiền đề để lựa chọn
phương pháp tuyên truyền, song phương pháp phù hợp sẽ chuyển tải nội dung trọn
vẹn, thậm chí góp phần làm phong phú, sâu sắc hơn nội dung. Trong hoạt động
tuyên truyền, mỗi nội dung cụ thể, yêu cầu có những phương pháp cụ thể, phù hợp
để chuyển tải. Chẳng hạn, với những nội dung rộng lớn và cần trang bị tri thức một
cách có hệ thống, thì thông thường sử dụng nhóm phương pháp dùng lời nói trực
tiếp mới có thể lý giải cặn kẽ vấn đề; với nội dung tuyên truyền giáo dục mang tính
188
thời điểm, nên sử dụng nhiều nhóm phương pháp trực quan để nhanh chóng tác
động đến ý thức và tính tích cực hành động của đối tượng tuyên truyền…Việc lựa
chọn và sử dụng phương pháp tuyên tuyên truyền còn phụ thuộc từng nhiệm vụ cụ
thể của công tác tuyên truyền trong từng thời điểm, từng địa phương, cơ sở nhất
định.
Tùy theo mục đích tuyên truyền cần đạt tới mà chủ thể sử dụng các phương
pháp khác nhau. Chẳng hạn, với mục đích cung cấp tri thức thì có thể dùng hình
thức thuyết trình là chủ yếu; với mục đích hình thành và củng cố niềm tin, thì thông
thường chủ thể tuyên truyền sử dụng chủ yếu hình thức đối thoại; với mục đích cổ
vũ hành động thì thường dùng phương pháp trực quan, nêu gương…
Với trình độ của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh hiện nay,
theo đánh giá của một số cán bộ cơ sơ, hoạt động tuyên truyền thông qua hình thức
“cầm tay chỉ việc”, lấy thực tế của những điển hình người thật, việc thật để chỉ cho
họ cách nghĩ, cách làm phù hợp, cụ thể, thiết thực là hình thức tuyên truyền trực
quan phát huy hiệu quả tốt. Một số địa phương, cơ sở thông quan việc sử dụng các
phương tiện hiện đại như ghi hình, ghi âm, các điển hình tiên tiến, sau đó phát lại
cho đồng bào nghe, xem cũng phát huy hiệu quả thiết thực. Một số đơn vị, cơ sở tổ
chức buổi nói chuyện, báo cáo kinh nghiệm do chính các nhân chứng, đại diện của
điển hình thực hiện, cũng phát huy hiệu quả tốt. Bằng người thực, việc thực hình
thức này vừa hấp dẫn người nghe, vừa có tác dụng nêu gương tích cực.
Đổi mới phương pháp tuyên truyền, vận động đồng bào bằng những việc
làm cụ thể, thiết thực như “cầm tay chỉ việc”, hướng dẫn cách trồng cây, cách chăn
nuôi để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Phải làm để cho đồng bào thấy và cùng làm
với đồng bào. Tuyên truyền phải đi đôi với các việc làm cụ thể. Nếu nói mà không
làm thì như đồng bào dân tộc nói: “có sấm mà không có mưa”, “cái tai no mà cái
bụng đói”. Công tác tuyên truyền phải làm sao cho quần chúng thấy rõ lợi ích của
bản thân, gia đình mình, địa phương mình trong phát triển kinh tế-xã hội và trong
189
phong trào xây dựng đời sống mới.
Về phương pháp và phương thức tiến hành công tác tuyên truyền trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, cần phải coi trọng công tác giáo dục, thuyết phục là
chính và được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như thông qua các cấp ủy
đảng, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội, đặc biệt là những người
có uy tín như già làng, trưởng thôn, am hiểu đồng bào địa phương.
Từ thực tế hoạt động tuyên truyền với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số
của tỉnh, phương pháp tuyên truyền cá nhân đã phát huy hiệu quả rất tốt. Để hoạt
động tuyên truyền cá nhân có hiệu quả hơn trong thời gian đên, cán bộ tuyên truyền
cần phải nắm vững đặc điểm riêng của đối tượng, để có các biện pháp tác động kịp
thời, thiết thực, hiệu quả; phải lựa chọn địa điểm và thời gian tác động phù hợp.
Cán bộ tuyên truyền phải khéo léo, tế nhị, kiên trì mới thuyết phục được đối tượng.
Đồng thời để nâng cao hiệu quả, hoạt động tuyên truyền cá nhân cần kết hợp chặt
chẽ với các phương pháp và lực lượng tuyên truyền khác nhau để cùng tác động
làm thay đổi nhận thức và hành vi của đối tượng.
Kết quả điều tra của đề tài với cán bộ lãnh đạo quản lý và cán bộ tuyên
truyền các cấp cho thấy, phương pháp tuyên truyền miệng phát huy hiệu quả tốt
nhất với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh là thông qua người có uy tín
trong cộng đồng để tuyên truyền. Khi điều tra trực tiếp đối với đồng bào thì phương
pháp này cũng được đánh giá phát huy hiệu quả tốt. Lý giải thực tế này, dưới góc
nhìn khoa học và thực tiễn có thể nhận diện: thứ nhất, phương pháp này đã phát
huy triệt để lợi thế người cùng nhóm. Khi nghe người có uy tín trong cộng đồng
tuyên truyền, các đối tượng thường có tâm thế sẵn sàng tiếp nhận các nội dung
tuyên truyền một cách không có điều kiện. Thứ hai, do hiểu rõ đối tượng và sử
dụng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ để tuyên truyền nên các nội dung được truyền đạt dễ
hiểu đối với đồng bào. Thứ ba, phương pháp tuyên truyền của những người uy tín
trong cộng đồng phù hợp với tâm lý tiếp nhận thông tin của đồng bào. Khi cán bộ
190
tuyên truyền tác động làm thay đổi nhận thức, hành vi của những người có uy tín
trong cộng đồng theo mục đích tuyên truyền, sẽ có tác động lan tỏa, làm thay đổi
quan điểm, nhận thức và hành động của nhiều cá nhân khác trong cộng đồng.Vì
vậy, cần sử dụng thường xuyên, triệt để và hiệu quả hơn phương pháp tuyên truyền
thông qua người có uy tín trong cộng đồng đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở địa
phương trong thời gian đến.
Chủ trương của Đảng bộ tỉnh triển khai phương thức tuyên truyền trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số theo phương châm: “Bám làng, bám dân, bám đối
tượng”, “ cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc” và “đi tận ngõ, gõ
tận nhà, rà từng đối tượng”... và chủ trương “tỉnh nắm xã, huyện nắm thôn làng,
xã nắm từng hộ dân” đẻ làm tốt công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc
thiểu số thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương...đã thật sự phát huy có
hiệu quả trong thực tiễn. Vì vậy, hoạt động tuyên truyền trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số của tỉnh trong thời gian tới cần quán triệt và triển khai thực hiện có
hiệu quả phương châm này.
Đối với công tác tuyên truyền miệng: hoạt động tuyên truyền trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, có nhiều phương pháp để chuyển tải thông tin đến đồng
bào. Mỗi phương pháp đều có những ưu thế và hạn chế nhất định. Tùy theo tình
hình, đặc điểm đối tượng mà có những phương pháp tuyên truyền phù hợp. Qua
đánh giá của đồng bào về những phương pháp tuyên truyền miệng có hiệu quả
trong vùng đồng bào dân tộc, cho thấy: các phương pháp thuyết trình, phương pháp
đối thoại, phương pháp thông qua người có uy tín có hiệu quả rất cao.Do đó cần
tăng cường thực hiện các phương pháp này một cách hợp lý với chủ đề nội dung và
đối tượng.
Trong điều kiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay và
trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và đồng bào ngày càng được nâng lên, cần
tăng cường các phương pháp đối thoại và kết hợp hài hòa đối thoại với độc thoại.
191
Những phương pháp đối thoại như tọa đàm, trao đổi, thảo luận, tranh luận, hỏi-
đáp...là những phương pháp rất phù hợp trong tình hình hiện nay. Đối thoại là hình
thức và giải pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục trực tiếp, bình đẳng, dân chủ;
là sự giao tiếp sinh động giữa người nói và người nghe, giữa chủ thể và đối tượng,
thực hiện thông tin hai chiều trong quá trình dân chủ hóa thông tin. Nó có lợi thế là
tuyên truyền trực tiếp, có hệ thống sâu và kỹ đưa quan điểm, ý kiến của Đảng đến
với mọi đối tượng mà không có sự ngăn cách nào. Đối thoại một mặt thực hiện
tuyên truyền có hiệu quả các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống; mặt khác, qua đối
thoại, chủ động nắm bắt yêu cầu mới, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân
dân để phản ánh với Đảng và Nhà nước; khắc phục tình trạng áp đặt một chiều. Đối
thoại là thực hiện dân chủ trong thông tin. Đối thoại cũng là phương pháp rèn luyện
bản lĩnh, phong cách và trình độ cán bộ, đặc biệt rèn luyện phong cách gắn bó với
quần chúng, sâu sát gần gũi nhân dân, do dân, vì dân, thực hiện và phát huy dân
chủ từ cơ sở. Tuy nhiên, để làm tốt giải pháp đối thoại, đòi hỏi cán bộ tuyên truyền
phải có năng lực và uy tín; phải chuẩn bị kỹ nội dung trước khi đối thoại; nắm vững
kỹ năng, nghệ thuật đối thoại; nắm và hiểu rõ đối tượng.
Với đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán và trình độ tiếp nhận thông tin của
đồng bào hiện nay, cần kết hợp chặt chẽ hoạt động tuyên truyền miệng với hoạt
động của các phương tiện công tác tuyên truyền khác, lấy tuyên truyền miệng làm
phương thức hoạt động chủ yếu. Khi tiến hành tuyên truyền miệng như là phương
thức hoạt động chủ yếu của mình, báo cáo viên, tuyên truyền viên cần sử dụng và
kết hợp rộng rãi các thể loại thông báo nhanh, báo cáo chuyên đề, giới thiệu nghị
quyết, nói chuyện thời sự, chính sách, tổng thuật các sự kiện, báo cáo điển hình, kể
chuyện gương người tốt việc tốt...với các thể loại của đối thoại và lồng ghép các thể
loại này với các hình thức văn hóa-văn nghệ, với hoạt động của các đội xung kích
điện ảnh, thông tin lưu động, của các phương tiện thông tin đại chúng...
192
Đối với hình thức tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông đại chúng:
cơ chế tác động của truyền thông đại chúng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở
Gia Lai, đảm bảo thường xuyên, mạnh mẽ bằng lượng thông tin lớn, dưới nhiều
hình thức theo tiếng địa phương, kết hợp truyền thông của Trung ương, tỉnh, huyện,
xã nhằm tác động kịp thời, nhiều chiều đến nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu
số. Đổi mới nội dung cơ chế tác động truyên truyền của truyền thông đại chúng
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số bằng nhiều hình thức cụ thể các chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, cách thức vận dụng, tổ chức thực hiện và các
phong trào lao động sản xuất, học tập giữ gìn an ninh trật tự, đấu tranh chống các tư
tưởng lệch lạc, phản động trong đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời nhân rộng các
điển hình tiên tiến.
Đổi mới hình thức cơ chế tác động, đa dạng, hấp dẫn và dễ tiếp nhận thông
tin truyền thông phù hợp với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số theo lứa tuổi, giới
tính, tôn giáo. Trước tiên, đổi mới hình thức cơ chế tác động trong tuyên truyền của
truyền thông đại chúng trong các chương trình tiếng dân tộc thiểu số của phát thanh
- truyền hình, báo ảnh, báo viết, đảm bảo sống động, gần gũi, lôi cuốn đồng bào
dân tộc thiểu số, từ đó nâng cao hiệu quả của các phương tiện thực hiện chức năng,
nhiệm vụ truyền thông đại chúng, đáp ứng yêu cầu tuyên truyền.
Mô hình truyền thông đại chúng nói chung đó là sự hình thành và hoạt động
của các yếu tố thành phần của thông tin và các mối quan hệ tác động trực tiếp.
Trong quá trình phát triển của truyền thông đại chúng, xuất hiện 2 loại mô hình
truyền thông đại chúng. Đó là mô hình truyền thông đại chúng một chiều áp đặt và
mô hình truyền thông đại chúng hai chiều mềm dẻo. Mô hình truyền thông đại
chúng một chiều áp đặt: là mô hình trong đó thông tin được truyền đi theo một
tuyến từ nguồn phát đến người nhận. Trong mô hình này nguồn phát giữ vai trò
quyết định, áp đặt ý chí của mình đối với công chúng (người tiếp nhận). Người nắm
phương tiện truyền thông đại chúng chỉ quan tâm chủ yếu đến mục đích của mình
193
và muốn đưa ra thông điệp (thông tin) nhằm áp đặt, phục vụ lợi ích của mình (hoặc
tổ chức) cho công chúng. Người nhận thông tin chỉ giữ vai trò thụ động, không có
hoặc có rất ít sự đóng góp tích cực hay sự lựa chọn các thông tin mình muốn. Mô
hình truyền thông đại chúng hai chiều mềm dẻo là mô hình trong đó quá trình
truyền thông được thực hiện theo 2 chiều liên tục, trực tiếp cả người phát cũng như
người trực tiếp nhận thông tin đều có khả năng lựa chọn thông điệp.
Mô hình tuyên truyền qua truyền thông đại chúng vùng dân tộc thiểu số ở
Gia Lai phải là mô hình truyền thông mềm dẻo, hai chiều, vừa là các kênh thông tin
chính thống, vừa là nơi tiếp nhận phản hồi tư tưởng, tình cảm, tâm trạng của đại bộ
phận công chúng địa phương đến chủ thể thông tin. Mô hình mềm dẻo hai chiều là
mô hình tối ưu về tuyên truyền của truyền thông đại chúng hiện đại và truyền thông
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Mô hình đó đảm bảo sự thống
nhất, kịp thời, qui mô, chất lượng và tính phù hợp của thông tin tuyên truyền trên
các phương tiện truyền thông đại chúng, đồng thời phản hồi tư tưởng, tình cảm của
cán bộ, nhân dân đến các cơ quan truyền thông và tiếp nữa là đến các cơ quan lãnh
đạo của Đảng, nhà nước ở các cấp.
Cơ chế vận hành của mô hình truyền thông hai chiều trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số Gia Lai đặt ra yêu cầu giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tuyên
truyền, cụ thể là:
Thống nhất định hướng, mục đích, qui mô, chất lượng thông tin của các chủ
thể truyền thông từ Trung ương đến cơ sở. Mở rộng dân chủ trong thông tin, đồng
thời có định hướng chính trị - xã hội đối với những vấn đề thời sự quốc tế, trong
nước, đấu tranh chống những tư tưởng sai trái, phản động chống lại Đảng, Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Lãnh đạo, hướng dẫn các phương tiện truyền thông đại chúng chủ động tích
cực tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các
thông tin khác về kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ, văn hóa giải trí... Đảm bảo
194
sự lãnh đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền các cấp, phục vụ lợi ích chung của xã
hội và công chúng đồng bào dân tộc thiểu số cơ sở. Truyền thông đại chúng phải
đóng góp tích cực phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh
quốc phòng, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, phát huy dân chủ cơ sở,
hình thành nếp sống mới, văn minh tiến bộ trong công chúng các dân tộc thiểu số
địa phương.
Đối với các hình thức trực quan phải đa dạng, phong phú, thích hợp từng đối
tượng, phong tục và tập quán của đồng bào và thích hợp từng thời điểm cụ thể. Cần
tăng cường huy động lực lượng văn nghệ sỹ sáng tác những tác phẩm văn học,
nghệ thuật phục vụ tuyên truyền trực quan. Nội dung các tác phảm đảm bảo vừa
chuyển tải được những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước, đồng thời sát với cuộc sống thường ngày của đồng bào và có tính nghệ
thuật cao. Hình thức tuyên truyền phải phong phú, đa dạng và thích hợp với từng
đối tượng và phong tục, tập quán sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số.
Hình thức các khẩu hiệu, biểu ngữ, tranh cổ động, các cụm pano, áp phích…
được triển khai ở tỉnh còn đơn điệu, thiếu hấp dẫn, ít lôi cuốn người xem. Các khẩu
hiệu, biểu ngữ, cụm pano đặt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu sử dụng
tiếng phổ thông, chưa chú ý dịch ra ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số địa
phương, trong khi đó có một bộ phận khá lớn đồng bào chưa đọc được tiếng phổ
thông, điều này ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tuyên truyền. Vì vậy, tuyên truyền
bằng hình ảnh, bằng biểu ngữ, áp phích trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của
tỉnh thời gian tới cần được cải tiến về hình thức để tạo ấn tượng dễ nhớ, dễ hiểu đối
với đồng bào. Để chuyển tải nhanh, chính xác nội dung thông tin, tuyên truyền đến
đồng bào dân tộc thiểu số các biểu ngữ, áp phích, tranh ảnh cần được chú thích
bằng tiếng phổ thông kết hợp với cả tiếng các dân tộc như Jrai, Bahnar…
Sử dụng thường xuyên và hiệu quả hơn hình thức tuyên truyền trực quan
thông qua các hoạt động chiếu phim, văn hóa văn nghệ. Vì với nếp tư duy thiên về
195
trực quan cụ thể và tâm lý, trình độ tiếp nhận thông tin của đồng bào, theo đánh giá
của nhiều cán bộ có thâm niên hoạt động tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số của tỉnh, việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của đảng, chích sách
pháp luật của nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở thông qua các
hoạt động chiếu phim, văn hóa văn nghệ thường phát huy hiệu quả tốt. Thực tế việc
kết hợp giữa văn nghệ và tuyên truyền, tổ chức các “sân chơi” cho từng đối tượng
đồng bào ở cơ sở, tổ chức các lễ hội truyền thống ở các làng, các hội thi biểu diễn
cồng chiêng, các môn thi đấu thể thao truyền thống tại địa phương…đã thu hút
đông đảo đồng bào tham gia. Các hoạt động này phù hợp với sở thích, tâm lý của
đồng bào, đã đưa họ từ khách thể tuyên truyền thành người trong cuộc, trực tiếp
tham gia các hoạt động, không còn là người tiếp thu thụ động, ngoài cuộc, qua đó
các nội dung tuyên truyền được đồng bào tiếp nhận một cách tự nhiên, nhẹ nhàng
và hiệu quả.
Duy trì, phát huy và khôi phục những giá trị văn hóa truyền thống như các lễ
hội, phong tục tập quán tốt đẹp mang giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể và gắn với
cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Tăng
cường và thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt văn hóa, văn nghệ thể thao
quần chúng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số thông qua đó đưa nội dung cân
tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước đến người dân.
Tăng cường triển khai các dự án phát triển nông thôn miền núi, các đề tài dự
án ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thông qua các đề tài, dự án
tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học đến với đồng bào. Đồng thời trong quá
trình triển khai cần xây dựng và tổ chức sơ kết đánh giá các mô hình hay và điều
quan trọng là phải tổ chức học tập và nhân rộng mô hình hay, hiệu quả phổ biến
đến đồng bào. Có kế hoạch “nuôi dưỡng” để các mô hình không những tiếp tục
196
phát triển mà còn phải được nhân rộng và phát triển theo hướng đa dạng, phong
phú.
VI. TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO, HƯỚNG DẪN, KIỂM TRA HOẠT
ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN.
Các cấp ủy, chính quyền cần thực sự quan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
sâu sát công tác tư tưởng nói chung và công tác tuyên truyền nói riêng; có sự phối
hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan, ban, ngành, mặt trận, đoàn thể trong việc
tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Phát huy sức
mạnh của hệ thống chính trị, các “binh chủng” tham gia công tác tư tưởng, văn hóa;
khắc phục tình trạng khoán trắng cho bộ phận làm công tác tư tưởng.
Qua khảo sát của đề tài đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ
trực tiếp làm công tác tuyên truyền cho thấy, cấp tỉnh và cấp huyện đã quan tâm
đúng mức đến công tác tuyên truyền. Riêng đối với cấp xã, đa số những người
được xin ý kiến cho rằng cấp xã chưa quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đối
với công tác tuyên truyền. Còn khá đông cán bộ tuyên truyền cấp xã chưa hài lòng
với sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể của cấp
mình đối với công tác tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số... Đây là một
trong những nguyên nhân quan trọng làm hạn chế chất lượng và hiệu quả công tác
tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy, tăng cường trách nhiệm của
các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể các cấp, nhất là ở cấp cơ sở trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai, thực hiện các hoạt động tuyên truyền trong
đồng bào dân tộc thiểu cần được xác định là một giải pháp quan trọng nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền.
Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền, theo kết quả khảo sát của đề tài: có
đến 23,2% cán bộ lãnh đạo, quản lý, 12,9% cán bộ tuyên truyền cấp tỉnh; 25% cán
197
bộ lãnh đạo, quản lý, 29,3% cán bộ tuyên truyền cấp huyện; 23,9% cán bộ quản lý,
23,4% cán bộ tuyên truyền cấp xã cho rằng cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận và
các đoàn thể của cấp mình chưa quan tâm hoặc quan tâm chưa đầy đủ đến công tác
đào tạo, bồi dưỡng lý luận, chính trị và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công
tác tuyên truyền. Trong thời gian đến, công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác tuyên truyền cần được chú trọng
đúng mức hơn.
Cấp ủy và Ban Tuyên giáo các cấp phải thường xuyên chăm lo xây dựng và
bồi dưỡng đội ngũ làm công tác tuyên truyền, đặc biệt là đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên và cán bộ làm công tác tuyên giáo trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Trước những vấn đề tư tưởng mới nảy sinh, cần tập trung chỉ đạo thống
nhất, thông suốt và giải quyết kịp thời. Cấp ủy và Ban Tuyên giáo phải thường
xuyên gặp gỡ cán bộ, đảng viên và lực lượng nòng cốt trong các đoàn thể nhân dân
để nắm chắc tình hình tư tưởng của đồng bào, nhất là trước những biến động phức
tạp của tình hình trong những thời điểm nhạy cảm nhằm góp phần ổn định tình hình
chính trị - xã hội trên địa bàn…Định kỳ tổ chức khảo sát, điều tra, đánh giá kết quả
và tổ chức rút kinh nghiệm về công tác tuyên truyền. Trong nhiệm kỳ của cấp uỷ,
nên có các nghị quyết chuyên đề về lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền miệng
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Sử dụng tốt, phát huy đúng chức năng của hệ thống tuyên giáo và trương
chính trị tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thị xã, thành phố trong lãnh
đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền của Đảng. Muốn làm tốt điều này, địa phương
phải xây dựng được chiến lược công tác tư tưởng. Hệ thống Ban Tuyên giáo từ tỉnh
đến cơ sở phải xây dựng được chiến lược công tác tư tưởng và kế hoạch công tác
tuyên truyền hàng năm để trình các cấp phê duyệt. Ban Tuyên giáo các cấp phải
làm đầu mối cho sự phối hợp các lực lượng tuyên truyền, thường xuyên kiểm tra,
đôn đốc để các cơ quan có chức năng làm công tác tuyên truyền hoàn thành có hiệu
198
quả công việc của mình. Hàng năm phải xây dựng được kế hoạch công tác tuyên
truyền chi tiết, trong đó có sự phân công rõ ràng, có cơ chế chỉ đạo, phối hợp giữa
các ngành trong binh chủng tuyên truyền. Có kế hoạch sử dụng tối đa phương tiện
thông tin đại chúng, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội, các hoạt động của ngành
văn hóa thông tin... trong việc đưa thông tin về cơ sở. Hệ thống Trường chính trị
tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện giúp cấp ủy triển khai kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị, trang bị kiến thức và nghiệp vụ công tác
Đảng, chính quyền và đoàn thể một cách cơ bản, hệ thống cho cán bộ, đảng viên,
đặc biệt là đội ngũ giảng viên lý luận, cán bộ nguồn, cán bộ chủ chốt, cán bộ tuyên
truyền cho địa phương
Tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa thông tin và đề cao trách nhiệm
các ngành, các cấp chính quyền, đoàn thể và toàn xã hội đối với việc xây dựng và
phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan
chuyên môn cần xác định đúng đắn vấn đề xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở
một cách đồng bộ, hoạt động hiệu quả, cho cả 3 bộ phận: cơ sở vật chất - kỹ thuật
phục vụ hoạt động tuyên truyền, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền và các
cơ chế, chính sách thực hiện xây dựng phong trào văn hóa cơ sở. Xây dựng cơ sở
vật chất phục vụ công tác tuyên truyền theo phương châm Nhà nước và nhân dân
cùng làm.
Tăng cường sự chỉ đạo, quản lý của các cấp chính quyền và ngành chủ
quản. Thống nhất quản lý nhà nước các phương tiện truyền thông đại chúng trên cơ
sở mở rộng chức năng, nhiệm vụ Sở Thông tin - Truyền thông, định hướng nội
dung tuyên truyền của các cấp ủy, chính quyền cùng cấp. Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với truyền thông đại chúng trên địa bàn đảm
bảo cho các phương tiện truyền thông phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng vốn
được coi là một trong những nguồn sức mạnh thúc đẩy sự phát triển xã hội, đồng
199
thời tạo điều kiện cho truyền thông được đầu tư cả về nhân lực, công nghệ và
hướng vào mục tiêu phục vụ đắc lực lợi ích công chúng.
Các cơ quan quản lý Nhà nước về truyền thông, các đơn vị chuyên môn như
Báo Gia Lai, Đài phát thanh - truyền hình, Bưu điện tỉnh cần thường xuyên phối
hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và các ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội
thường xuyên điều tra xã hội học về tuyên truyền của truyền thông đại chúng đối
với cán bộ, đồng bào các dân tộc thiểu số ở cơ sở. Kết quả điều tra sẽ cung cấp
thông tin thực trạng hoạt động của truyền thông và đặt ra những giải pháp phát huy
thế mạnh, khắc phục hạn chế, bất cập về nội dung, hình thức thể hiện...trong quá
trình tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh
Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng trong việc thực hiện
chức năng kiểm tra công tác tuyên truyền. Công tác tuyên truyền là nhiệm vụ của
toàn đảng, trong đó cấp uỷ và đồng chí Bí thư trực tiếp lãnh đạo và kiểm tra công
tác tuyên truyền, theo phương châm "có lãnh đạo, có kiểm tra"; tăng cường và nâng
cao chất lượng kiểm tra công tác tuyên truyền cũng là nâng cao chất lượng lãnh đạo
của cấp ủy; kiểm tra công tác tuyên truyền cần phải trở thành nhiệm vụ thường
xuyên và là trách nhiệm của cấp ủy. Cấp ủy cần phải nâng cao tính chủ động trong
công tác kiểm tra, thể hiện ở chỗ: khi ban hành Nghị quyết, chỉ thị, chương trình
hành động và hướng dẫn thực hiện, phải cụ thể hoá công việc kiểm tra thực hiện
chỉ thị, nghị quyết. . . ; tránh tư tưởng khoán trắng công tác kiểm tra cho tuyên giáo.
Tăng cường thực hiện chức năng kiểm tra của Ban Tuyên giáo các cấp: để
thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra công tác tư tưởng nói chung và hoạt động
tuyên truyền nói riêng, Ban Tuyên giáo Trung ương cần có văn bản thống nhất
chung trong toàn ngành về hoạt động, phương thức kiểm tra công tác tư tưởng; có
văn bản chỉ đạo Ban Tuyên giáo các cấp thực hiện chức năng tham mưu, giúp cấp
uỷ triển khai công tác kiểm tra, cả về nội dung, kế hoạch và phương pháp kiểm tra;
tổ chức tập huấn nghiệp vụ kiểm tra cho Ban Tuyên giáo các cấp.
200
Tóm lại, để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong đồng bào dân tộc
thiểu số, theo ý kiến cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ tuyên truyền cần thực hiện
đồng bộ các giải pháp sau: tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiêp vụ cho đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên ở cơ sở; cán bộ phải sâu sát cơ sở, gần gũi
đồng bào, am hiểu phong tục tập quán của đồng bào, sử dụng tiếng dân tộc trong
hoạt động tuyên truyền, xây dựng đội ngũ tuyên truyền là người dân tộc địa
phương; có chế độ chính sách phù hợp cho cán bộ tuyên truyền ở cơ sở và cán bộ
phải nhiệt tình, tâm huyết; cung cấp đủ tài liệu cho người đi tuyên truyền; nội dung
tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, đi vào những vấn đề cụ thể, thiết thực; tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí phục vụ tuyên truyền; phối hợp
chặt chẽ giữa các lực lượng làm công tác tuyên truyền; sử dụng có hiệu quả những
người có uy tín trong cộng đồng vào hoạt động tuyên truyền; lồng ghép có hiệu quả
các nội dung tuyên truyền vào các hoạt động sinh hoạt lễ hội, chiếu phim, văn nghệ
tập trung, các hoạt động thể dục thể thao; tăng cường công tác tuyên truyền cá biệt;
nâng cao đời sống và trình độ dân trí của đồng bào.
KẾT LUẬN
Trong bất kỳ xã hội có giai cấp nào, công tác tuyên truyền luôn có vai trò quan
trọng trong việc truyền bá, chuyển tải hệ tư tưởng, đường lối chiến lược, sách lược
của giai cấp cầm quyền đến với quần chúng nhân dân, để qua đó làm thay đổi nhận
thức và hành động của họ theo lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng. Đối với nước ta hiện
nay, mục đích của hoạt động tuyên truyền là truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
201
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đến với đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, từ đó tạo
cho mọi đối tượng được tuyên truyền có hiểu biết đầy đủ, niềm tin vững chắc vào
sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tự giác, sáng tạo, tích cực
tham gia vào các hoạt động thực tiễn, nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương, cơ
sở, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc
phòng - an ninh, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Gia Lai là vùng đất có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Xuất phát từ
đặc điểm tình hình cụ thể của địa phương, những năm qua, các cấp ủy đảng, chính
quyền, các ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo và triển khai phối hợp, thực hiện có hiệu quả các hoạt động tuyên truyền
trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bằng nhiều nguồn kinh phí khác nhau, những năm qua tỉnh và các địa phương
đã bước đầu quan tâm đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công tác tuyên truyền. Biểu
hiện cụ thể là hệ thống phát thanh- truyền hình, bưu chính viễn thông, các cơ quan
chuyên môn làm công tác tuyên truyền, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở như: nhà
sinh hoạt cộng đồng, thư viện, nhà truyền thống, sân vận động, công viên văn hóa,
cụm panô, tượng đài...được đầu tư nâng cấp, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền trong tình hình mới.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền ở các cấp, các ngành, đoàn thể được
củng cố. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn
nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên truyền được chú
trọng. Việc cung cấp thông tin, đầu tư thiết bị kỹ thuật phục vụ tuyên truyền đáp
ứng ngày càng tốt hơn. Nhờ vậy, trình độ và khả năng tác nghiệp của cán bộ tuyên
truyền đã đáp ứng tốt hơn trong tình hình mới.
Với phương châm “hướng về cơ sở”, “toàn Đảng làm công tác tư tưởng”, “lấy
quần chúng giáo dục quần chúng”, các cấp ủy đảng, chính quyền của tỉnh đã quan
202
tâm lãnh đạo, chỉ đạo, các lực lượng làm công tác tuyên truyền đã chủ động, sáng
tạo đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền theo hướng đa dạng,
sinh động, hấp dẫn, thiết thực, phù hợp với tâm lý và trình độ tiếp nhận thông tin
của từng đối tượng tuyên truyền. Nhờ vậy, hiệu quả tuyên truyền trong đối tượng
đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh đã có chuyển biến tích cực.. Thông qua quá trình
tác động thường xuyên của hoạt động tuyên truyền, nhận thức của đồng bào về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được nâng lên;
niềm tin vào đảng, chính quyền ở đồng bào được củng cố. Đồng bào đã tích cực
sáng tạo, thi đua lao động sản xuất, một bộ phận khá lớn đồng bào biết làm giàu
bằng sức lao động chính đáng của mình trên mảnh đất quê hương; một số đồng bào
đã tích cực đấu tranh tố giác các loại tội phạm, đấu tranh với các luận điệu phản
tuyên truyền của các thế lực thù địch.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tuyên truyền trong đối tượng đồng
bào dân tộc thiểu số của tỉnh thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số
cấp ủy đảng, chính quyền còn buông lỏng công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên
truyền, một số nơi còn có biểu hiện khoán trắng nhiệm vụ quan trọng này cho các
cơ quan và lực lượng cán bộ chuyên trách làm công tác tuyên truyền. Công tác phối
hợp giữa các lực lượng làm công tác tuyên truyền chưa thường xuyên, còn mang
nặng tính thời vụ. Việc trang bị các phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác tuyên
truyền, nhất là các thiết bị phổ thông hiện đại ở tỉnh còn khá hạn chế. Lực lượng
cán bộ làm công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc tuy đông nhưng chất
lượng hoạt động, trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. Nội dung
tuyên truyền còn dàn trải, đôi lúc còn cứng nhắc, mang tính áp đặt một chiều từ
trên xuống, chưa phù hợp với tâm lý và trình độ tiếp nhận thông tin của đồng bào,
chưa sát với từng đối tượng. Việc nắm bắt diễn biến tình hình tư tưởng của đồng
bào còn chậm, đôi lúc thiếu chính xác. Công tác đấu tranh chống các luận điệu
phản tuyên truyền chưa kịp thời, sâu sắc, hiệu quả thấp. Phương pháp tuyên truyền
203
còn thiếu sáng tạo, đơn điệu, một chiều, thường xuyên lặp lại về hình thức, chưa
phối hợp chặt chẽ giữa các phương pháp, nên ảnh hưởng đến hiệu quả tuyên truyền.
Do trình độ và khả năng tiếp nhận thông tin của một bộ phận đồng bào còn hạn chế,
nội dung, phương pháp tuyên truyền còn chưa phù hợp với đối tượng, nên hiệu quả
tuyên truyền trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh thời gian qua nhìn
chung còn thấp. Một bộ phận khá lớn đồng bào không hiểu hoặc hiểu không đầy đủ
các nội dung tuyên truyền, nên việc áp dụng các thông tin, kiến thức tiếp thu được
thông qua hoạt động tuyên truyền vào thực tiễn đời sống, lao động, sản xuất còn
gặp nhiều khó khăn.
Việc đổi mới công tác tuyên truyền, nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả tuyên
truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số có ý nghĩa thực tiễn rất lớn hiện nay.
Khi đồng bào tiếp nhận chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước đầy đủ và có hệ thống, niềm tin vào Đảng, chính quyền được củng cố, ý
thức công dân được nâng lên, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của gia đình, tham gia có hiệu quả vào các hoạt động
chung của địa phương, đây là những tiền đề thiết yếu để phát triển kinh tế - xã hội,
giữ vững an ninh chính trị trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh.
Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động tuyên truyền
trong đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số thời gian qua, đề tài đã đề xuất sáu nhóm
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số
của tỉnh trong thời gian đến, cụ thể:
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của đồng bào, tập trung vào các vấn đề: thực hiện có hiệu quả các mục tiêu xóa đói
giảm nghèo, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, tạo việc làm, tăng thu
nhập cho đồng bào. Đầu tư có trọng điểm trong xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học -
kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bào dân tộc nhất là về
204
giống cây trồng, vật nuôi. Phát triển hệ thống giáo dục, nâng cao trình độ dân trí
cho đồng bào. Giữ gìn và phát huy vốn văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc
thiểu số địa phương.
- Chú trọng xây dựng đội ngũ làm công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng. Tiếp tục củng cố và nâng cao
chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Quan tâm xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên các cấp. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ đối với đội ngũ
cán bộ làm công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Củng cố tổ
chức bộ máy làm công tác tuyên giáo và các cơ quan truyền thông đại chúng các
cấp.
- Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác tuyên truyền
theo hướng đồng bộ, hiện đại hóa, có trọng tâm, trọng điểm nhằm đáp ứng tốt hơn
nhiệm vụ công tác tuyên truyền trong tình hình mới.
- Đổi mới nội dung tuyên truyền theo hướng đảm bảo tính Đảng, tính chiến
đấu, tính đại chúng, tính khoa học, chân thực, khách quan và sát với tình hình thực
tiễn ở cơ sở. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, đi vào những vấn đề
thiết thực, phù hợp với trình độ và tâm lý tiếp nhận thông tin của đồng bào.
- Đổi mới hình thức, phương pháp tuyên truyền theo hướng đa dạng phong
phú, phù hợp với từng đối tượng, phong tục và tập quán của đồng bào. Chú trọng
nâng cao chất lượng hoạt động tuyên truyền miệng, tuyên truyền trực quan và tuyên
truyền thông qua hệ thống truyền thông đại chúng. Sử dụng có hiệu quả các
phương pháp tuyên truyền đã phát huy tốt trong thực tiễn như tuyên truyền cá biệt,
tuyên truyền thông qua người có uy tín trong cộng đồng, lồng ghép các nội dung
tuyên truyền vào các hoạt động lễ hội, chiếu phim, văn hóa văn nghệ...
- Các cấp ủy đảng cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp, triển khai thực
hiện các hoạt động tuyên truyền. Tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa thông
205
tin và đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp chính quyền, đoàn thể và toàn xã
hội đối với việc xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở. Làm tốt
công tác kiểm tra các hoạt động tuyên truyền.
Đánh giá một cách tổng quan, tuy còn một số yếu kém, khuyết điểm xuất phát
từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng trong những năm qua các lực
lượng làm công tác tuyên truyền của tỉnh đã tích cực, sáng tạo triển khai đưa chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào
dân tộc thiểu số, cổ vũ đồng bào thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa
phương. Với những thành tựu đã đạt được và kinh nghiệm thực tiễn hoạt động
tuyên truyền trong thời gian qua, có thể khẳng định, nếu triển khai đồng bộ các
nhóm giải pháp đề tài đã đề xuất và sự cố gắng chung của các cấp, các ngành, sự
đồng lòng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, thì hiệu quả
truyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh sẽ có nhiều chuyển
biến theo hướng tích cực.
206