chùa dâu - văn hóa du lịch

21
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu MỤC LỤC Lời mở đầu................................2 I. Giới thiệu chung về chùa Dâu............3 1. Vị trí địa lý...........................3 Đô thị cổ Luy Lâu:......................4 2. Lịch sử hình thành......................5 3. Kiến trúc của chùa Dâu..................7 II. Giá trị văn hóa du lịch của chùa Dâu. . .10 1. Giá trị lịch sử........................10 2. Giá trị tâm linh.......................10 3. Giá trị lễ hội.........................13 III.................................Kết luận 15 DANH SÁCH NHÓM 7 1. Mai Văn Hoàng 2. Trần Thị Kiều Ny 3. Huỳnh Thị Ngọc Thu 4. Lê Thị Hoàng Mỹ 5. Trần Trung Hiếu 6. Lê Thị Mỹ Linh 7. Đặng Thị Bích Vân 8. Lê Nguyễn Diễm Thư 9. Khamsouk Nouladsavong Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 1

Upload: hoang-mai

Post on 21-Jun-2015

1.036 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

M C L CỤ ỤLời mở đầu....................................................................................2

I. Giới thiệu chung về chùa Dâu...................................................31. Vị trí địa lý...............................................................................3 Đô thị cổ Luy Lâu:..................................................................42. Lịch sử hình thành...................................................................53. Kiến trúc của chùa Dâu...........................................................7

II. Giá trị văn hóa du lịch của chùa Dâu....................................101. Giá trị lịch sử.........................................................................102. Giá trị tâm linh.......................................................................103. Giá trị lễ hội...........................................................................13

III. Kết luận.................................................................................15

DANH SÁCH NHÓM 7

1. Mai Văn Hoàng2. Trần Thị Kiều Ny3. Huỳnh Thị Ngọc Thu 4. Lê Thị Hoàng Mỹ5. Trần Trung Hiếu6. Lê Thị Mỹ Linh7. Đặng Thị Bích Vân8. Lê Nguyễn Diễm Thư9. Khamsouk Nouladsavong

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 1

Page 2: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

L i m đ uờ ở ầNhiều năm qua ở nước ta, có một bài học, một kinh nghiệm hết sức

thuyết phục là văn hóa trong du lịch ở nước ta vừa như mục tiêu mang

tính định hướng, vừa như là một quan điểm khẳng định rằng: văn hóa là

nội dung, là bản chất đích thực của du lịch Việt Nam, tạo nên tính độc

đáo, đặc sắc, hấp dẫn nhất của các sản phẩm du lịch Việt Nam, góp phần

tạo nên hình ảnh quốc gia trong mắt bạn bè quốc tế.

Du lịch là một hoạt động thực tiễn xã hội của con người, nó được hình

thành nhờ sự kết hợp hữu cơ giữa 3 yếu tố người du lịch, tài nguyên du

lịch và môi giới du lịch. Người du lịch là chủ thể du lịch, tài nguyên du

lịch là khách thể, ngành du lịch là môi giới cung cấp sự phục vụ cho

người du lịch. Xét theo phạm trù văn hóa xã hội, du lịch là một hoạt động

cao cấp của con người. Bởi văn hóa là mục đích mà du lịch hướng tới.

Văn hóa du lịch không phải là phép cộng đơn giản giữa văn hóa và du

lịch mà là sự kết hợp giữa du lịch và văn hóa.

Chính vì vậy, để hiểu rõ hơn về mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa và

du lịch, thiết nghĩ Chùa Dâu là một địa điểm lý tưởng để chúng ta tìm

hiểu. Bởi đây là ngôi chùa cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam. Như đã

biết thì tín ngưỡng phật giáo đã du nhập vào nước ta từ rất sớm, theo ghi

chép của sách cổ thì vào khoảng thế kỷ thứ 2, và bằng chứng còn sót lại

theo dòng lịch sử để lại là quần thể di tích chùa Dâu. Sự ra đời của chùa

Dâu gắn liền với sự du nhập tín ngưỡng Phật giáo vào nước ta vì vậy giá

trị văn hóa lịch sử và giá trị tín ngưỡng của chùa Dâu là rất lớn đối với

bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 2

Page 3: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

I. Gi i thi u chung v chùa Dâuớ ệ ề

1. V trí đ a lýị ị

Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng, Pháp Vân, hay Cổ Châu, là một

ngôi chùa nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh,

cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt

Nam, lịch sử hình thành và phát triển của chùa Dâu gắn liền với sự phát triển và

biến động của đô thị cổ Luy Lâu xưa trên vùng Thuận Thành, Bắc Ninh. Đây là

trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam.

Chùa còn được người dân gọi với

những tên gọi khác nhau như chùa

Cả, Cổ Châu tự, Duyên Ứng tự.

Đây là ngôi chùa được coi là có lịch

sử hình thành sớm nhất Việt Nam

mặc dù các dấu tích vật chất không

còn, nó đã được xây dựng lại. Chùa

là một danh lam bậc nhất của xứ

kinh Bắc xưa nay.

Chùa Dâu nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Tại vùng Dâu

có 5 ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân ("mây pháp"), chùa Đậu thờ Pháp

Vũ ("mưa pháp"), chùa Tướng thờ Pháp Lôi ("sấm pháp"), chùa Dàn thờ Pháp

Điện ("chớp pháp") và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa

này ngoài thờ Phật còn thờ các nữ thần. Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy

trong chiến tranh nên pho tượng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu.

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 3

Page 4: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

Đô th c Luy Lâu:ị ổ

Sự thành lập và phát triển của chùa Dâu luôn song hành với sự ra đời và

phát triển của đô thị cổ Luy Lâu. Đô thị Luy Lâu nằm giữa khu vực giao nhau

giữa Sông Dâu và Sông Đuống, giữa trung tâm đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.

Theo các nguồn sử liệu, các nước

phương Tây và phương Nam muốn

buôn bán, giao thiệp với Trung Quốc

đều phải theo con đường Giao Chỉ. Từ

Tr.C.N và nhất là từ thế kỷ II-III S.C.N

trở đi, ngày càng có nhiều thương nhân

nước ngoài đến buôn bán ở Giao Châu

và thuyền buôn của họ thường xuyên

có mặt ở Luy Lâu. Những chứng tích vật chất và các nguồn tài liệu ở Luy Lâu

đã khẳng định Luy Lâu thực sự là trung tâm thương mại lớn - một đô thị cảng

mang tính quốc tế của nước ta thời Bắc thuộc.

Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán Đường đã được truyền bá liên

tục vào nước ta. Đây là nơi đầu tiên Sỹ Nhiếp mở trường lớp dạy chữ và văn

hoá Hán. Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của

người Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm là

chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như tượng pháp , bia ký, bản khắc

Cổ Châu Pháp Vân vật bán hanh và lễ hội chùa Dâu - lễ hội Phật giáo lớn nhất

trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ Pháp, rước nước đã

cho thấy Luy Lâu là trung tâm Phật giáo lớn và sớm nhất Việt Nam. Luy Lâu là

không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh

văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á, văn hoá Nho Lão (Trung

Hoa - Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá dân tộc Việt.

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 4

Page 5: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

Vào đầu công nguyên, các tăng sĩ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu Đà La, đã tới

Dâu – tức Luy Lâu tiến hành truyền bá đạo Phật, lập nên trung tâm Phật giáo

Luy Lâu – trung tâm Phật giáo lớn nhất và cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa

tháp được xây cất nguy nga bên cạnh thành quách, đền đài, cung điện, lầu gác,

phố chợ sầm uất của đô thị Luy Lâu, trong đó chùa Dâu là trung tâm trong hệ

thống các chùa thờ Phật và thờ tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp

Điện), một nét độc đáo trong sự kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng

dân gian của người Việt.

Luy Lâu, một trong những trung tâm lớn nhất của đạo Phật tại phương Đông

đầu Công nguyên cùng với hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành (nay

thuộc Trung Quốc). Như vậy, đạo Phật được truyền trực tiếp vào Việt Nam,

thời đó gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Chăm pa ở phía nam, từ Ấn Độ theo đường

biển chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây.

2. L ch s hình thànhị ử

Chùa được xây dựng vào buổi đầu công nguyên. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên

đã từng đến đây. Cuối thế kỷ 6, nhà sư Ti - ni – đa – lưu – chi từ Trung Quốc

đến chùa này, lập nên 1 phái Thiền ở Việt Nam

Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là ngôi

chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam, được

nhà nước xếp hạng di tích lịch sử ngày 28/04/1962.

Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở làng

Mèn, Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km.

Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ

tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết

lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chin nhịp. Hiện nay, ở

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 5

Page 6: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà

Lê.

Theo ghi chép trong sách sử, bia đá,

là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt

Nam, được xây dựng từ thế kỉ thứ 2

dưới thời Sĩ Nhiếp làm thái thú.

Chùa Dâu còn có tên là chùa Diên

Ứng, thờ nữ thần Pháp Vân nên còn

gọi là chùa Pháp Vân, và nằm trong

vùng đất Cổ Châu nên cũng gọi là

chùa Cổ Châu. Chùa gắn liền với

truyện cổ tích Tứ pháp của người

Việt xưa.

Truyện rằng, thuở xưa nàng Man Nương ở vùng Dâu, vì thiền sư Khâu Đà

La bước qua người mà mang thai, sinh ra đứa con đem trả nhà sư. Thiền sư bỏ

đứa trẻ vào gốc cây dung thụ, lại đưa cho Man Nương cây thiền trượng có thể

làm phép lấy nước cứu dân bị hạn hán. Ngày cây dung thụ bật gốc trôi về sông

Dâu, thái thú Sĩ Nhiếp muốn vớt lên nhưng không sao làm được, chỉ có nàng

Man Nương dùng dải yếm buộc vào nhẹ nhàng đem lên bờ.

Từ thân cây thần kì ấy, người dân tạc bốn pho tượng Nữ thần Pháp Vân, Pháp

Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, tức là bốn chị em thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp của tín

ngưỡng nông nghiệp, và đặt thờ ở bốn ngôi chùa Dâu, Đậu, Tướng, Dàn. Giữa

cây dung thụ còn một khối đá, gọi là Thạch Quang Phật, được thờ chung ở

chùa Dâu. Bà mẹ Man Nương khi mất được thờ trong chùa Tổ cách đó không

xa.

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 6

Page 7: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

Từ câu truyện cổ đó, đã tạo nên một hệ thống chùa Tứ Pháp rất đặc biệt của

riêng người Việt: chùa thờ Nữ thần nông nghiệp, thờ người Mẹ Việt, lấy tượng

Nữ thần làm trung tâm chứ không phải là tượng Phật. Phật và Nữ thần hòa

quyện, bà mẹ của các Nữ thần cũng được tôn là Phật Mẫu Man Nương.

3. Ki n trúc c a chùa Dâuế ủ

Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng

theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao

quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện.

Tiền đường của chùa Dâu đặt

tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương.

Gian thiêu hương đặt tượng Cửu

Long, hai bên có tượng các vị Diêm

Vương, Tam châu Thái tử, Mạc

Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà

Dâu ( Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ)

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 7

Page 8: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

và các hậu cần. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt

ở phần hậu điện phía sau chùa chính.

Một trong những ấn tượng khó có thể

quên được ở nơi đây là những pho tượng

thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu

hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc,

màu đồng hun, cao gần 2m được bày ở

gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt

ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới

những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương

Tây Trúc. Ở 2 bên là tượng Kim Đồng và

Ngọc Nữ. Phía trước là 1 hộp gỗ trong đặt

Thạch Quang Phật là 1 khối đá, tương

truyền là em út của Tứ Pháp.

Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị Pháp phá hủy, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ)

cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt,

đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ 18.

Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng

được đặt trên 1 bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14. Kiến

trúc chùa Dâu còn đến ngày nay được dựng dưới thời Trần năm 1313 và trùng

tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên

Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng,

cầu chín nhịp. Bao quanh tòa điện chính hình chữ công là những dãy nhà

ngang, nhà dọc vây kín theo kiểu nội công ngoại quốc.

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 8

Page 9: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

Giữa sân chùa trải rộng là cây

tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng

lọa gạch cỡ lớn ngày xưa, được

nung thủ công tới độ có màu

sẫm già của vại sành. Thời gian

đã lấy đi 6 tầng trên của tháp,

nay chỉ còn 3 tầng dưới, cao

khoảng 17m nhưng vẫn uy nghi,

vững chải thế đứng ngàn năm.

Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp

vuông, mỗi cạnh gần 7m. Tầng dưới có 4 cửa vòm.

Trong tháp có treo 1 quả chuông đồng đúc năm 1793 và 1 chiếc khánh đúc

năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6m ở 4 góc. Trước tháp, bên phải có

tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng 1 con cừu đá dài 1,33m, cao

0,8m. Điều này làm ngạc nhiên nhiều du khách, bởi xưa kia nước Việt không

có con cừu .Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán

Tượng con cừu đá và chuông khánh trong tháp Hòa Phong

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 9

Page 10: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

II. Giá tr văn hóa du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

1. Giá tr l ch sị ị ử

Với niên đại hình thành và tồn

tại của minh, chùa Dâu được xác

định là ngôi chùa cổ nhất tại Việt

Nam. Những di tích khảo cổ, cổ vật

còn lại của chùa Dâu giúp các nhà

nghiên cứu thấy được phần nào tín

ngưỡng sơ khai bản địa của người

Việt cổ, là bằng chứng khoa học

quan trọng chứng minh sự tồn tại của tín ngưỡng cổ đại trong cộng đồng người

Việt cổ. Chùa Dâu là một nhân chứng lịch sử quan trọng chứng minh sự tồn tại

và phát triển lâu dài của Phật Giáo tại Việt Nam. Có thể nói chùa Dâu là ngôi

chùa thủy tổ, cội nguồn đầu tiên của Phật giáo tại Việt Nam.

2. Giá tr tâm linhị

Chùa Dâu là một trong những nơi

tiếp nhận đầu tiên của Phật giáo, chính

vì vậy đây cũng là nơi đầu tiên diễn

ra sự chuyển biến tín ngưỡng tôn

giáo giữa Phật giáo với các tín

ngưỡng bản địa:

- Đặc điểm thứ nhất, chùa Dâu là thờ các hiện tượng tự nhiên:

Nói đến chùa ai không nghĩ đến  thờ Phật, ở  chùa Dâu người  ta  cũng  thờ

Phật, nhưng Phật ở đây không phải là một Đức Thích ca như thường lệ, ít ai

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 10

Page 11: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

đến chùa Dâu mà có thể bắt gặp được một hình tượng của Phật Thích ca, thậm

chí nếu có thì cũng chỉ được thờ ở ban phụ.

Ở đây người ta đã hình tượng hóa

những hiện tượng của tự nhiên như mây,

mưa, sấm, chớp thành những con người

cụ thể và tạc tượng để thờ. Các hiện

tượng tự nhiên này đã được nhân dân

thần điệu hóa cùng với sự cộng hưởng

của Phật giáo khi được du nhập vào Việt

Nam thì các hiện  tượng  tự nhiên này

bỗng chốc  trở  lên có hình khối, có  tính

cách và được nhân dân tôn thờ như một con người cụ thể.

Có hiện  tượng  thờ các hiện  tượng  tự nhiên như vậy  là do mây, mưa, sấm,

chớp  là những  yếu  tố không  thể  thiếu đối với những người dân nông nghiệp.

Đó  là bốn  yếu  tố quan trọng biểu hiện khi trời có mưa, mà mưa thì có nước

tưới cây trồng.

- Đặc điểm thứ hai là việc thờ tự ở chùa Dâu thiên về nữ tính.

Có lẽ ít có một dân tộc nào có đối tượng  tín ngưỡng là phụ nữ  nhiều như ở

Việt Nam.

Đi suốt  từ Bắc chí Nam, gần như ở địa

phương nào cũng có một đền thờ Bà hoặc

Cô. Đầu tiên phải kể đến hệ thống Tứ

Pháp ở miền Bắc thờ Bà Pháp Vân (bà

Dâu), Pháp Vũ (bà Đậu), Pháp Lôi (bà

Tướng), Pháp Điện (bà Dàn).

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 11

Page 12: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

Sau đó  là Cửu Thiên Huyền Nữ, đến

Bà Chúa Liễu Hạnh, Diêu Trì Thánh Mẫu,

Bà Chúa Ba, Bà Đá, Bà Đanh. Ở Nha

Trang người ta thờ Bà Thiên Yana, ở Sài

Gòn người ta thờ Ngũ hành Nương

Nương, rồi Bà Đen ở Tây Ninh, Bà Chúa

Xứ ở Châu Đốc…

Đâu đâu chúng  ta cũng  thấy các Bà, các Bà ở đây đều  là những biểu tượng

linh thiêng nên không phải là những cô gái trẻ đẹp mà đều là những người lớn

tuổi, quyền uy, có năng  lực  làm cho mùa màng  tươi  tốt, giúp cho các gia

đình con đàn cháu đống,  hay  ban  cho  những  đứa  con  hiếm muộn.

Thật ra, người Việt Nam xem tất cả các thần linh là các bà, khuynh hướng

đề cao nữ tính ấy  hoàn  toàn  phù  hợp  với  nền  văn minh  nông  nghiệp  sau 

khi  đã  kết  hợp  nhuần nhuyễn thuyết âm dương. Các bà đã có một vị trí linh

thiêng trong lòng người dân, tất cả đều xem các bà như mẹ, và nhân dân đã

nâng lên gọi là đạo Mẫu.

Từ nền tảng này, bất kỳ một  tín  ngưỡn ngoại  nhập  nào  vào  đến Việt

Nam  đều  được  bản  địa  hóa  và  thành  tín ngưỡng Việt Nam. Bồ tát Quán

Thế Âm trở thành Phật Bà cũng từ lý do đó. Đó cũng  là  lý do  sự chuyển biển

giữa Phật giáo với  các  tôn giáo bản địa không  chỉ diễn ra ở vùng Dâu (Thuận

Thành, Bắc Ninh ngày nay) mà  còn diễn ra phổ biến khắp toàn cõi Việt Nam.

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 12

Page 13: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

3. Giá tr l h iị ễ ộ

Lễ hội chùa Dâu từ lâu đã đi vào tâm trí của của người dân nơi đây, nó như

một món ăn tinh thần mà hàng năm vào ngày 8-4 mọi người từ khắp mọi nơi

đều tụ họp về đây để trẩy hội chùa.

Dù ai ăn đâu làm đâu

Tháng tư ngày tám hội Dâu thì về

Dù ai xuôi ngược trăm bề

Tháng tư ngày tám nhớ về hội Dâu.

Từ lâu lễ hội chùa Dâu đã nức

tiếng gần xa với lễ rước độc đáo,

hoành tráng thu hút hàng vạn du

khách thập phương đến dự hội. Vào

ngày chính hội (mùng 8 tháng 4 âm

lịch), nhân dân các làng trong vùng

sẽ tổ chức rước tượng Tứ Pháp (Pháp

Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện)

từ chùa làng về tụ hội tại chùa Dâu. Sau khi làm lễ bái ở chùa Tổ thờ Phật Mẫu

Man Nương, đám rước đi “tuần nhiễu” ba vòng khép kín từ Đông sang Tây mô

tả chu kỳ quả đất xoay tròn, tạo ra bốn mùa. Nhiều người gọi nghi lễ này là trò

“Mẹ đuổi con”. Điểm độc đáo nhất của lễ hội chùa Dâu là tục cướp nước. Hai

kiệu Pháp Lôi (bà Sấm) và Pháp Vũ (bà Mưa) sẽ đua nhau chạy ra tam quan.

Kiệu rước nào đến trước thì sẽ lấy được nước. Người dân xem ai về đích trước

để dự báo mùa màng. Nếu bà Mưa thắng thì năm ấy được mùa còn nếu bà Sấm

thắng thì năm ấy ruộng đồng lắm sâu bọ, làm ăn trắc trở. Đây được coi là hoạt

động tín ngưỡng cầu thần Nước đặc trưng của người nông dân vùng đồng bằng

Bắc bộ xưa.

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 13

Page 14: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

Lễ hội Tứ Pháp là sự mô

phỏng lại quá trình sinh ra mưa

của trời đất. Nhưng tại chùa

Dâu, cụ thể là tại thôn Khương

Tự, hội chùa Dâu được giải

thích rõ là: “ngày hội con đưa

mẹ nuôi về thăm mẹ đẻ”.

Hội  chùa Dâu ngoài việc  rước  tượng Tứ Pháp để  cầu mưa giống như một  số

nơi. Ngày hội ở chùa Dâu còn có điểm khác với một số nơi, đó là trở thành

ngày hội kết chạ giữa các làng quê (là việc giao lưu giữa các làng này với làng

khác).

Như vậy, hội chùa Dâu vừa thể hiện yếu tố Phật giáo là hội chùa, nhưng

đồng thời nó cũng chất chứa nhiều yếu  tố văn hoá dân gian như kéo co, hát,

múa…

Hội chùa Dâu còn mang tình chất cộng đồng sâu sắc, mỗi dịp lễ hội là mỗi dịp

mọi người cùng nhau lên chùa, cùng nhau vui chơi. Những bầu không khí đẹp

như vậy càng trở nên cần thiết hơn trong bối cảnh ngày nay khi mà môi trường

công nghiệp đang ngày càng phát triển, mọi người làm việc có tính chất độc lập

hơn so với sản xuất nông nghiệp.

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 14

Page 15: Chùa Dâu - Văn hóa du lịch

Giá tr văn hóa và du l ch c a chùa Dâuị ị ủ

III. K t lu nế ậ

Ngược dòng lịch sử, bóc trần từng lớp bụi thời gian ta mới thấy hết được ý

nghĩa và vẻ đẹp truyền thống của khu di tích văn hóa chùa Dâu. Tin tưởng rằng

cả ngày hôm nay và mai sau viên ngọc quý đó sẽ mãi được trường tồn và bảo

vệ. Để chùa Dâu xứng đáng với tên gọi là một trung tâm phật giáo đầu tiên của

nước ta. Niềm tự hào ấy không chỉ của những người dân Kinh Bắc mà của cả

dân tộc, của cả trang sử vẻ vang trong nét đậm đà bản sắc quê hương.

Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 15