chuyên đề: hạn chế các bản án hc, vụ việc kdtm,...

35
VIỆN KIỂM SÁT ND TỐI CAO VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Đồng Nai, ngày 12 tháng 9 năm 2019 CHUYÊN ĐỀ Tổng hợp, đánh giá tình hình án hủy, sửa và một số dạng vi phạm trong quá trình giải quyết các vụ việc kinh doanh thương mại, lao động, phá sản bị Tòa phúc thẩm hủy, sửa nghiêm trọng có trách nhiệm của VKS và biện pháp khắc phục vi phạm Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-VKSNDTC ngày 28/12/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao về công tác của Ngành KSND năm 2019; Kế hoạch công tác của Ngành KS Đồng Nai số 44/KH-VKS ngày 11/01/2019 của Viện trưởng VKSND tỉnh Đồng Nai; Hướng dẫn số 10/HD-VKSTC ngày 17/01/2019 của Vụ 10 - VKSND tối cao về hướng dẫn công tác KS việc giải quyết các vụ án HC, vụ việc KDTM, LĐ và những việc khác theo quy định của PL và Chương trình công tác KS việc giải quyết các VAHC, vụ việc KDTM, LĐ và những việc khác theo quy định của PL của Phòng 10 - VKSND tỉnh Đồng Nai năm 2019. Phòng 10 – VKSND tỉnh Đồng Nai tổng hợp, đánh giá công tác KS giải quyết án HC, các vụ việc KDTM, LĐ qua 09 tháng đầu năm 2019 như sau: I - Mục đích của Chuyên đề: Nhằm đánh giá những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những tồn tại trong công tác thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KS giải quyết án HC, các vụ việc KDTM, LĐ vì đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành KSND nói chung và của VKSND tỉnh Đồng Nai nói riêng. Để cụ thể hóa và thực hiện tốt nhiệm vụ này, bảo đảm giải quyết các vụ án HC, các vụ việc KDTM, LĐ kịp thời, đúng quy định của PL và khắc phục những mặt còn tồn tại, hạn chế nhất là đối với những bản án, quyết định của TA cấp

Upload: others

Post on 20-Jun-2020

6 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

VIỆN KIỂM SÁT ND TỐI CAOVIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

TỈNH ĐỒNG NAI

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập – Tự do – Hạnh phúc

Đồng Nai, ngày 12 tháng 9 năm 2019

CHUYÊN ĐỀ

Tổng hợp, đánh giá tình hình án hủy, sửa và một số dạng vi phạm trong quá trình giải quyết các vụ việc kinh doanh thương mại, lao động,

phá sản bị Tòa phúc thẩm hủy, sửa nghiêm trọng có trách nhiệm của VKS và biện pháp khắc phục vi phạm

Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-VKSNDTC ngày 28/12/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao về công tác của Ngành KSND năm 2019; Kế hoạch công tác của Ngành KS Đồng Nai số 44/KH-VKS ngày 11/01/2019 của Viện trưởng VKSND tỉnh Đồng Nai; Hướng dẫn số 10/HD-VKSTC ngày 17/01/2019 của Vụ 10 - VKSND tối cao về hướng dẫn công tác KS việc giải quyết các vụ án HC, vụ việc KDTM, LĐ và những việc khác theo quy định của PL và Chương trình công tác KS việc giải quyết các VAHC, vụ việc KDTM, LĐ và những việc khác theo quy định của PL của Phòng 10 - VKSND tỉnh Đồng Nai năm 2019. Phòng 10 – VKSND tỉnh Đồng Nai tổng hợp, đánh giá công tác KS giải quyết án HC, các vụ việc KDTM, LĐ qua 09 tháng đầu năm 2019 như sau:

I - Mục đích của Chuyên đề: Nhằm đánh giá những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những tồn tại trong công tác thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KS giải quyết án HC, các vụ việc KDTM, LĐ vì đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành KSND nói chung và của VKSND tỉnh Đồng Nai nói riêng. Để cụ thể hóa và thực hiện tốt nhiệm vụ này, bảo đảm giải quyết các vụ án HC, các vụ việc KDTM, LĐ kịp thời, đúng quy định của PL và khắc phục những mặt còn tồn tại, hạn chế nhất là đối với những bản án, quyết định của TA cấp sơ thẩm bị TA cấp phúc thẩm XX quyết định hủy, sửa nghiêm trọng có trách nhiệm của KSV, qua đó cần có những giải pháp đột phá mạnh mẽ hơn, đổi mới hơn cả về nhận thức và hành động để hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác trong những tháng cuối năm và thời gian tới.

II - Yêu cầu của Chuyên đề: Tổng hợp nội dung kết quả thực hiện công tác KS giải quyết án HC, các vụ việc KDTM, LĐ trong 09 tháng đầu năm 2019, phân tích, đánh giá việc tuân thủ thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của PL trong công tác KS việc tuân theo PL trong TTDS, TTHC; việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của KSV theo quy định của PL, nhất là công tác thực hiện chức năng yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của VKS theo quy định của PL; việc tuân thủ Quy chế công tác KS việc giải quyết án HC, các vụ việc KDTM, LĐ của VKSND tối cao ban hành. Thông qua đó, đề ra những giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết án HC, các vụ việc KDTM, LĐ.

Page 2: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

III- Kết quả thực hiện công tác KS giải quyết án HC, các vụ việc KDTM, LĐ trong 09 tháng đầu năm 2019

ĐVT: vụ, việcÁn sơ thẩm

(hai cấp)trong đó: So với

cùng kỳ năm trước

Tổng số:Án HC Án KDTM Án LĐ

KS thụ lý 906 232 512 162 Giảm 161 (17,7%)

Đã giải quyết 274 53 164 57 Giảm 83 (30,3%)

-Đình chỉ 136 33 68 35-CN sự TT 50 00 45 05-Xét xử 88 20 51 17

Tạm ĐC 150 39 87 24Đang giải quyết 482 140 261 81

Tổng số BA, QĐ được KS ở hai cấp

687 (tỉnh 258; huyện 429)

tăng 260 BA, QĐ so với cùng kỳ năm trước (60,8%)

Số kiến nghị ban hành yêu cầu TA khắc phục vi phạm

06 (tỉnh 02; huyện 04)

trong đó, TA chấp nhận = 100%

Số kháng nghị BA, QĐ sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm

04 (tỉnh: cùng cấp 02, cấp trên 02; huyện: 00)

trong đó, TA chấp nhận = chưa có lịch XX

Án phúc thẩm trong đó: So với cùng kỳ

năm trướcTổng số Án HC Án KDTM Án LĐ

KS thụ lý 119 14 40 65 Tăng 46 (38%)

Đã giải quyết 39 08 18 13 Giảm 22 (56%)

-Sửa án: 09 00 05 0401 phần 06 00 05 03

-Hủy: 11 05 03 03Lỗi VKS 06 03

(BH)02

(TB 1; NT 1)01

(BH)Số vụ kháng nghị PT

Cấp tỉnh = 04 (cùng cấp 02; cấp trên 02)Cấp huyện = 00

trong đó, XX 01 vụ (NTr), kết quả chấp nhận = 01/01 = 100%

Tỉ lệ kháng nghị/số án bị sửa, hủy

04/06 = 66%

Phòng 10 ban hành TB rút kinh nghiệm

03

Qua công tác KS việc thụ lý, giải quyết các VAHC, vụ việc KDTM, LĐ, VKS hai cấp đã phát hiện được một số vụ có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục

Page 3: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

tố tụng, nội dung giải quyết của TA cấp sơ thẩm để ban hành kháng nghị. Trong kỳ, ban hành 04 kháng nghị phúc thẩm (trong đó: VKS cấp huyện báo cáo đề nghị VKS cấp tỉnh kháng nghị 02 vụ), Tòa án xét xử 01 vụ, kết quả kháng nghị được TA chấp nhận 01/01 = 100% (còn 03 vụ chưa có lịch xét xử).

Công tác phối hợp giữa VKS hai cấp trong công tác kháng nghị PT đã có những chuyển biến tích cực, quá trình thực hiện, khi gặp khó khăn, vướng mắc VKS cấp huyện đã kịp thời báo cáo, xin ý kiến, trao đổi nghiệp vụ với VKS tỉnh (như VKS TPBH, VKS VC). Phòng 10 đã kịp thời hướng dẫn VKS cấp huyện về hướng xác định vi phạm để kịp thời ban hành kháng nghị, ban hành báo cáo đề nghị VKS tỉnh kháng nghị hoặc yêu cầu VKS cấp huyện thu thập tài liệu, chứng cứ củng cố các căn cứ để bảo vệ thành công kháng nghị của VKS đã ban hành.

IV- Các dạng vi phạm dẫn đến bản án, quyết định bị Tòa án phúc thẩm xét xử tuyên hủy, sửa nghiêm trọng (có lỗi của VKS) trong 09 tháng đầu năm 2019 và nguyên nhân của vi phạm

Qua thực tiễn công tác kiểm sát việc thụ lý, giải quyết các VAHC, vụ việc KDTM, LĐ, VKSND tỉnh Đồng Nai nhận thấy có một số sai sót thường gặp trong công tác KS việc lập hồ sơ của TA; trong việc báo cáo đề xuất hướng giải quyết VA trước khi tham gia phiên tòa: Các VA bị Tòa cấp phúc thẩm sửa, hủy trong 09 tháng đầu năm 2019 (06 vụ) đều không được VKS phát hiện vi phạm để kháng nghị, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Vụ án “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính và bồi thường thiệt hại ” giữa:

Người khởi kiện: Ông Đoàn Ngọc Hải, sinh năm 1979. Địa chỉ: Số 305/17/1, quốc lộ 1A, ấp Tân Cang, xã Phước Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Người bị kiện: Chủ tịch UBND phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Ngọc Hà – Phó Chủ tịch UBND phường Long Bình Tân. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

A. Tóm tắt nội dung vụ án:Ngày 28/01/2015 và 04/02/2015 Cán bộ nhân viên thuộc UBND phường

Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đến kiểm tra tiệm internet do Ông Đoàn Ngọc Hải làm chủ phát hiện tiệm internet của ông Hải không có giấy phép kinh doanh, hoạt động quá giờ theo quy định nên đoàn kiểm tra thu giữ của ông Hải tổng cộng 05 CPU (máy tính để bàn) theo hai quyết định hành chính số 28/QĐ-TGTVPT ngày 29/01/2015 và Quyết định số 36/QĐ-TCTVPT ngày 05/02/2015.

Nhận thấy việc Chủ tịch UBND phường Long Bình Tân thu giữ tang vật là trái quy định của pháp luật nên Ông Hải có đơn khởi kiện. Khởi kiện yêu cầu hủy 02 quyết định hành chính số 28/QĐ-TGTVPT ngày 29/01/2015 và Quyết định số 36/QĐ-TCTVPT ngày 05/02/2015 của Chủ tịch UBND phường Long Bình Tân về việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành

Page 4: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

nghề theo thủ tục hành chính. Buộc phải trả cho ông 05 CPU đã thu giữ, bồi thường số tiền mất thu nhập của 05 CPU mỗi ngày 100.000 đồng, tính từ thời điểm thu giữ đến khi giải quyết xong vụ án. Buộc bồi thường tổng số tiền là tài sản do cá nhân ông cất giấu để trong 04 thùng CPU bị thu giữ là 695.000.000 đồng; tuyên những hành vi: Tịch thu tang vật không lập biên bản; không phân công người trông coi bảo quản tang vật; không giao cho người trông coi tang vật của chủ tịch UBND phường Long Bình Tân là trái pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án:- Tại bản án sơ thẩm số 01/2018/HC-ST ngày 20/6/2018 của Tòa án nhân

dân thành phố Biên Hòa đã căn cứ Điều 30, Điều 31 và khoản 1 Điều 115, khoản 1 Điều 158; điểm e, khoản 1 điều 143; khoản 1 điều 7 Luật Tố tụng Hành chính 2016; Căn cứ điều 281, điều 604 Bộ luật dân sự 2005. Áp dụng Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

- Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của ông Đoàn Ngọc Hải đề nghị hủy hai quyết định tạm giữ số 28/QĐ-TGTVPT ngày 29/01/2015 và quyết định số 36/QĐ-TGTVTP ngày 05/02/2015 của Chủ tịch UBND phường Long Bình Tân.

- Không chấp nhận yêu cầu bồi thường số tiền 809.500.000đ của ông Đoàn Ngọc Hải.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí theo quy định.Ngày 04/7/2018 ông Đoàn Ngọc Hải có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ

thẩm số 01/2018/HC-ST ngày 20/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.

Bản án phúc thẩm số 01/2019/HC-PT ngày 08/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quyết định hủy toàn bộ bản hành chính sơ thẩm số 01/2018/HC-ST ngày 20/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

B. Vi phạm của cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm1. Về thu thập tài liệu, chứng cứ: Xét thấy, tài liệu, chứng cứ do các đương

sự cung cấp là biên bản kiểm tra ngày 28/01/2015 của UBND phường Long Bình Tân và biên bản kiểm tra hành chính ngày 04/02/2015 của Tổ kiểm tra 814 phường Long Bình Tân là bản photo, vi phạm quy định về xác định chứng cứ theo khoản 1 Điều 82 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định: “Tài liệu đọc được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp ….”.

Đối với yêu cầu bồi thường 05 thùng CPU (mỗi thùng là 22.900.000đ x 05 thùng CPU = 114.500.000đ), theo Điều 91 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2009 thì cấp sơ thẩm phải tiến hành việc định giá, thẩm định giá đối với tài sản tạm giữ để có cơ sở xem xét trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành Thẩm định giá, định giá theo quy định là có thiếu sót.

2. Đưa thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan

Page 5: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

Vào các ngày 28/01/2015 và 04/02/2015 nhân viên, cán bộ thuộc UBND phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đến kiểm tra tiệm Internet do ông Hải làm chủ phát hiện tiệm kinh doanh không có giấy phép kinh doanh và hoạt động ngoài giờ quy định nên đoàn kiểm tra đã thu giữ của ông Hải tổng số 05 CPU (máy tính để bàn) theo 02 Quyết định hành chính số 28/QĐ-TGTVPT ngày 29/01/2015 và quyết định số 36/QĐ-TGTVTP ngày 05/02/2015. Khi kiểm tra và thu giữ đoàn kiểm tra đã lập biên bản kiểm tra nhưng do không có mặt ông Đoàn Ngọc Hải là chủ sở hữu cơ sở kinh doanh trên nên đã đưa ông Trần Hữu Phước với tư cách là nhân viên quản lý đại diện ký biên bản. Khi tiến hành niêm phong các thùng CPU, đoàn kiểm tra cũng giao cho ông Phước là người trực tiếp tháo dỡ và cùng ký tên niêm phong tang vật. Theo khoản 10 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức, cá nhân tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị và được Tòa án nhân dân (sau đây gọi là Tòa án) chấp nhận hoặc được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” . Trong vụ án này, ông Đoàn Ngọc Hải còn có yêu cầu tuyên hành vi không lập biên bản thu giữ tang vật, không phân công người trông coi bảo quản tang vật của Chủ tịch UBND phường Long Bình Tân là trái pháp luật, yêu cầu bồi thường số tiền 695.000.000 đồng ông Hải để trong CPU. Như vậy, trong vụ việc khiếu kiện này, ông Trần Hữu Phước là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Phước vào tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

3. Bỏ sót quan hệ pháp luật: Ông Đoàn Ngọc Hải yêu cầu Tòa án hủy 02 Quyết định hành chính số 28/QĐ-TGTVPT ngày 29/01/2015 và quyết định số 36/QĐ-TGTVTP ngày 05/02/2015 của Chủ tịch UBND phường Long Bình Tân, yêu cầu tuyên hành vi tịch thu tang vật không lập biên bản, không phân công người trông coi, bảo quản tang vật, không giao cho người trông coi tang vật là hành vi trái pháp luật, yêu cầu bồi thường thu nhập bị mất. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét giải quyết toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện nhưng chỉ xác định quan hệ pháp luật là khiếu kiện quyết định hành chính về việc tạm giữ tang vật theo thủ tục hành chính là có thiếu sót.

4. Không giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự: Ông Hải yêu cầu Tòa cấp sơ thẩm tuyên những hành vi tịch thu tang vật không lập biên bản, không giao người trông coi tang vật của Chủ tịch UBND phường Long Bình Tân là trái pháp luật. Tại phần nhận định của bản án sơ thẩm, cấp sơ thẩm có nhận định yêu cầu trên nhưng trong phần quyết định lại không nêu, như vậy là việc giải quyết yêu cầu của người khởi kiện chưa đầy đủ.

5. Về áp dụng pháp luật: Trong phần quyết định bản án sơ thẩm đã áp dụng Luật Tố tụng Hành chính 2016, căn cứ Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 24/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính thì Luật tố tụng hành chính được Quốc hội ký lệnh công bố ngày 25/11/2015 (có

Page 6: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

hiệu lực thi hành ngày 01/7/2016) là Luật tố tụng hành chính năm 2015, Tòa cấp sơ thẩm ghi Luật tố tụng hành chính 2016 là sai.

Vụ thứ hai: Vụ án “Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết định hủy phương án bồi thường, hỗ trợ đất; quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ do thu hồi đất; hành vi hành chính về việc không giải quyết khiếu nại, tố cáo, hành vi không trả tiền hỗ trợ đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại” giữa:

Người khởi kiện: Ông Phạm Văn Ngân, sinh năm: 1963 và Bà Đỗ Thị Phượng, sinh năm: 1967. Cùng địa chỉ: 27A, tổ 1, khu phố 4, P. Quang Vinh, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa; Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Quang Tiến, sinh năm: 1938. Địa chỉ: 315, KP.3, P.Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

A. Tóm tắt nội dung vụ án:Thửa đất số 20, 21 tờ BĐĐC số 2 phường Quang Vinh có nguồn gốc trước

năm 1975 là khu vực đất căn cứ quân sự thuộc Sư đoàn 3 không quân - chế độ cũ. Sau ngày 30/4/1975 nhà nước tiếp quản khu căn cứ quân sự này và sử dụng vào mục đích đất quốc phòng, hiện do Trung đoàn E935 thuộc sư đoàn F370 - Quân chủng Phòng không không quân trực tiếp quản lý tổng diện tích 13.809.000 m2. Tuy nhiên 02 thửa đất này đã được UBND TP Biên Hòa cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Nguyễn Quang Tiến, ông Tiến chuyển nhượng cho ông Phạm Văn Ngân năm 2003. Việc chuyển nhượng được UBND phường Quang Vinh chứng thực.

Năm 2008 nhà nước thu hồi 301,8 m2 để xây tường rào sân bay Biên Hòa. Ngày 14/4/2009, Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa ban hành quyết định số 1466/QĐ-UBND về việc phê chuẩn phương án bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông Ngân với tổng số tiền 258.188.000 đồng.

Sau khi rà soát lại UBND TP Biên Hòa cho rằng đây là đất lấn chiếm quốc phòng, không đủ điều kiện được bồi thường như đã được phê duyệt tại quyết định số 1466/QĐ-UBND ngày 14/7/2009 nên không thực hiện chi trả bồi thường và ngày 18/5/2012 UBND TP Biên Hòa đã ban hành quyết định số 2305/QĐ-UBND về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Quang Tiến, ngày 15/8/2012 ban hành quyết định số 4359/QĐ-UBND về việc hủy phương án bồi thường hỗ trợ đối với hộ ông Phạm Văn Ngân. Đồng thời ban hành quyết định số 4822/QĐ-UBND ngày 31/7/2013 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ dự án xây dựng tường rào bảo vệ sân bay Biên Hòa, theo đó ông Ngân, bà Phượng chỉ được hỗ trợ số tiền 97.360.000 đồng. Ông Ngân, bà Phượng đã nhận được số tiền 97.360.000 đồng. Không đồng ý nên ông Ngân, bà Phượng đã khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định hành chính của UBNDTP. Biên Hòa (Quyết định số 2305/QĐ-UBND ngày 18/5/2012, quyết định số 4359/QĐ-UBND ngày 15/8/2012, quyết định 4822/QĐ-UBND ngày 31/7/2013) và khởi kiện các hành vi hành chính của Chủ tịch UBNDTP.

Page 7: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

Biên Hòa gồm: Hành vi không giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; hành vi không trả tiền hỗ trợ đất còn thiếu là 160.728.000 đồng theo quyết định 1466/QĐ-UBND ngày 14/9/2009 của UBNDTP. Biên Hòa, hành vi không thực hiện đúng quyết định số 07/2007 ngày 10/7/2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; trả tiền trả chậm theo lãi sất Ngân hàng Nhà nước quy định là 72.292.640 đồng, tiền phạt chậm trả tính đến ngày 20/11/2018 là 139.784.000 đồng, tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần là 8.300.000 đồng.

Bản án sơ thẩm số 06/2018/HC-ST ngày 20-11-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tuyên xử:

- Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn Ngân, bà Đỗ Thị Phượng đối với Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa, chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa về hành vi không giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, yêu cầu thanh toán tiền lãi suất Ngân hàng là 72.292.640đ, tiền bồi thường thiệt hại tinh thần là 8.300.000đ và yêu cầu khởi kiện về hành vi không thực hiện đúng quyết định số 07/2007 ngày 10/7/2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và toàn bộ trình tự thu hồi đất không đúng quy định của luật đất đai.

- Bác yêu cầu khởi kiện của của ông Phạm Văn Ngân, bà Đỗ Thị Phượng về việc hủy quyết định số 2305/QĐ-UBND ngày 18/5/2012 của Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa, về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W730609 ngày 02/01/2003 và số W526985 ngày 05/6/2003 do ông Nguyễn Quang Tiến đứng tên, chuyển nhượng cho ông Ngân năm 2003. Hủy quyết định số 4359/QĐ-UBND ngày 15/8/2012, về việc hủy phương án bồi thường, hỗ trợ đất đối với hộ ông Phạm Văn Ngân được ghi trong quyết định 1466/QĐ-UBND ngày 14/9/2009. Hủy quyết định số 4822/QĐ-UBND, ngày 31/7/2013 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ dự án xây dựng tường rào bảo vệ sân bay Biên Hòa. Yêu cầu Ủy ban nhân nhân dân thành phố Biên Hòa thanh toán tiền phạt chậm trả là 139.784.000đ.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo.Ngày 03/12/2018 Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa nhận được đơn

kháng cáo đề ngày 28/11/2018 của ông Ngân, bà Phượng. Nội dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu hủy án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông.

Bản án phúc thẩm số 03/2019/HC-PT ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quyết định hủy toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm số 06/2018/HC-ST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

B. Vi phạm của cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm. 1. Đưa thiếu người tham gia tố tụng: Diện tích đất 1.499,3m2 thuộc thửa 20, tờ bản đồ số 02 và diện tích đất

3.336,4m2 thuộc thửa 21, tờ bản đồ số 02, phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa mà vợ chồng ông Ngân nhận chuyển nhượng nêu trên về mặt pháp lý do

Page 8: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

Quân khu 7 là đơn vị quản lý nhưng đơn vị trực tiếp sử dụng cho đến nay lại là Trung đoàn E935 thuộc Sư đoàn F370 – Quân chủng Phòng không không quân. Thực hiện quyết định số 535/TTg-m ngày 15/7/1997 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Quốc phòng có trách nhiệm chỉ đạo Quân khu 7 và đơn vị đầu mối bàn giao cho các tỉnh, thành phố 328 khu gia đình với diện tích đất 1.036,187ha, trong đó tỉnh Đồng Nai là 31 khu gia đình, diện tích 370,56ha. Do đó, để có cơ sở giải quyết vụ án phải có ý kiến của Quân khu 7 và Trung đoàn E935 thuộc Sư đoàn F370 - Quân chủng Phòng không không quân để xác định diện tích đất trên có thuộc diện Bộ quốc phòng bàn giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai quản lý không hay vẫn nằm trong diện tích đất quốc phòng do quân đội quản lý. Như vậy, trong vụ khiếu kiện này, Quân khu 7 và Trung đoàn E935 thuộc Sư đoàn F370 - Quân chủng Phòng không không quân là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Lẽ ra phải xác minh tư cách pháp nhân của các đơn vị trên để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa các đơn vị quân đội trên vào tham gia tố tụng là bỏ sót tư cách tố tụng của đương sự.

2. Về thu thập tài liệu, chứng cứ: Tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp và Tòa án thu thập là các bản vẽ, tờ bản đồ địa chính với hai diện tích đất 1.499,3m2 thuộc thửa 20, tờ bản đồ số 02, và diện tích đất 3.336,4m2 thuộc thửa 21, tờ bản đồ số 02, phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa đều là bản photo, vi phạm quy định về xác định chứng cứ theo khoản 1 Điều 82 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định: “Tài liệu đọc được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp ….”.

3. Thiếu thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại:

Trong quá trình kiểm tra, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, Tòa án cấp sơ thẩm ban hành thông báo số 05/TB-TA ngày 05/7/2018 để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại vào ngày 30/7/2018, thông báo số 07/TB-TA ngày 16/8/2018 để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại ngày 04/9/2018. Theo quy định Tòa án cấp sơ thẩm phải tống đạt hoặc thông báo hai văn bản tố tụng trên cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện là ông Hồ Bá Minh để ông Minh được biết và tham gia phiên họp theo quy định tại Điều 137 luật Tố tụng hành chính là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Bởi mãi đến ngày 25/10/2018 sau khi nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử thì ông Minh mới có đơn xin vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, đối thoại. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Ngân và bà Phượng là người khởi kiện cũng cho rằng thẩm phán cấp sơ thẩm không tiến hành đối thoại, không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà chỉ gọi điện thoại cho vợ chồng ông bà đến để ký vào các biên bản đã soạn sẵn, vấn đề này cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ.

4. Không giải quyết hết các yêu cầu khởi kiện của đương sự:Ông Ngân, bà Phượng ngoài khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định hành

chính của UBNDTP. Biên Hòa (Quyết định số 2305/QĐ-UBND ngày

Page 9: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

18/5/2012, quyết định số 4359/QĐ-UBND ngày 15/8/2012, quyết định 4822/QĐ-UBND ngày 31/7/2013) còn khởi kiện các hành vi hành chính của Chủ tịch UBNDTP. Biên Hòa gồm: Hành vi không giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; hành vi không trả tiền hỗ trợ đất còn thiếu là 160.728.000 đồng theo quyết định 1466/QĐ-UBND ngày 14/9/2009 của UBNDTP. Biên Hòa, hành vi không thực hiện đúng quyết định số 07/2007 ngày 10/7/2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; trả tiền trả chậm theo lãi sất Ngân hàng Nhà nước quy định là 72.292.640 đồng, tiền phạt chậm trả tính đến ngày 20/11/2018 là 139.784.000 đồng, tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần là 8.300.000 đồng. Sau đó ông, bà rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với hành vi hành chính về yêu cầu tiền trả chậm theo lãi sất Ngân hàng Nhà nước là 72.292.640 đồng; tiền bồi thường thiệt hại tinh thần là 8.300.000 đồng, hành vi không giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo theo Luật khiếu nại tố cáo. Tuy nhiên bản án sơ thẩm không quyết định chấp nhận hay không chấp nhận đối với yêu cầu của người khởi kiện về trả tiền hỗ trợ đất còn thiếu là 160.728.000 đồng là bỏ sót yêu cầu khởi kiện của đương sự.

Vụ thứ ba: Vụ án “Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính” giữa:

Người khởi kiện: ông Nguyễn Viết Trần Quân, sinh năm 1981. Địa chỉ: 09, khu phố 1, phường Tân Phong, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai

Người bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của đương sự: ông Lê Quang Y – Luật sư thuộc đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai.

Người bị kiện: Trưởng Công an thành phố Biên Hòa. Đại diện theo ủy quyền: ông Lại Minh Đức, chức vụ: Điều tra viên. Theo văn bản ủy quyền ngày 04/04/2018

A. Tóm tắt nội dung vụ án:Ngày 14/8/2017 thông qua Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa ông Quân

được biết vào ngày 2/8/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên Hòa ra QĐ khởi tố vụ án hình sự số 129/TB-CSĐT-ĐTTH, Quyết định không khởi tố hình sự số 256 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa ngày 02/8/2017 đối với ông vì đã có hành vi dùng tay đánh ông Zhang Xuan gây thương tích là 09% và Quyết định xử phạt hành chính số 688/QĐXPVPHC của Công an thành phố Biên Hòa ngày 02/8/2017 với lý do: ông đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính như sau: Xâm hại sức khỏe của người khác quy định tại điểm e, khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013, áp dụng hình thức phạt tiền với số tiền phạt là: 2.500.000 đồng.

Ngày 22/8/2017, ông đã nộp đơn khiếu nại Quyết định xử phạt hành chính số 688/QĐXPVPHC ngày 02/8/2017 vì QĐ này không có cơ sở, không đúng quy định pháp luật và không khách quan làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông.

Ngày 07/11/2017, Công an thành phố Biên Hòa gửi cho ông Quyết định số

Page 10: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

167A/QĐ-CATP-ĐTHT ngày 03/10/2017 về việc không chấp nhận yêu cầu khiếu nại của ông, giữ nguyên Quyết định xử phạt hành chính số 688/QĐXPVPHC ngày 02/8/2017 và Quyết định số 13/QĐ-CSĐT-ĐTHT ngày 30/8/2017 không chấp nhận yêu cầu khiếu nại, giữ nguyên quyết định không khởi tố hình sự số 256 ngày 02/8/2017.

Nay ông khởi kiện ra Tòa yêu cầu Hủy Quyết định xử phạt hành chính số 688/QĐXPVPHC ngày 02/8/2017 của Công an thành phố Biên Hòa đối với ông để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông.

Quá trình giải quyết vụ án:Bản án sơ thẩm số 04/2018/HC-ST ngày 14/11/2018 tuyên xử không chấp

nhận yêu cầu khởi kiện của ông Quân.Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.Ngày 19/11/2018 ông Quân kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị cấp

phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu của ông.Bản án phúc thẩm số 05/2019/HC-PT ngày 13/5/2019 của Tòa án nhân dân

tỉnh Đồng Nai đã quyết định hủy toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm số 04/2018/HC-ST ngày 14/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

B. Vi phạm của cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệmÔng Quân yêu cầu hủy Quyết định xử phạt hành chính số

688/QĐXPVPHC ngày 02/8/2017 của Trưởng Công an TP Biên Hòa. Người bị kiện là Trưởng công an thành phố Biên Hòa. Quá trình tham gia tố tụng, Trưởng Công an thành phố Biên Hòa ủy quyền cho Ông Lại Minh Đức - Chức vụ: Điều tra viên Công an thành phố Biên Hòa. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 60 Luật TTHC quy định: “Trường hợp người bị kiện (…) là người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện..”. Như vậy, thủ tục đại diện theo ủy quyền của người bị kiện không đảm bảo quy định luật tố tụng hành chính.

Vụ thứ tư: Vụ án “Tranh chấp hợp đồng xây dựng” giữa: Nguyên đơn: Công ty TNHH Thuận Thiên Thành, địa chỉ: tổ 8, ấp 4, xã

Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng NaiBị đơn: Công ty Cơ khí và Xây dựng POSCO E&C Việt Nam, địa chỉ:

Khu công nghiệp Nhơn Trạch I, xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Quảng Phát, địa chỉ: số 01 Đặng Đức Thuật, phường Tân Phong, Quận 7, TP.HCM; Công ty TNHH Hưng Nghiệp Fosmosa, địa chỉ: Khu công nghiệp, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Công ty TNHH xây dựng và trang trí nội thất Hồng Quân, địa chỉ: A1, số nhà 5, khu phố Tân Hạnh, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu và Công ty TNHH Xây dựng – thương mại Đông Minh, địa chỉ: Số B4, đườngsố 2, P. Trường Thọ, Q. Thủ Đức, TP.HCM

Page 11: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

A. Tóm tắt nội dung vụ ánNgày 21/11/2013 Công ty TNHH Thuận Thiên Thành (gọi tắt là Công ty

Thuận Thiên Thành) và Công ty Cơ khí và Xây dựng POSCO E&C Việt Nam (gọi tắt là Công ty Posco) Posco ký kết hợp đồng thi công số 2013-C-H-0213. Theo đó: Công ty Posco giao cho Công ty Thuận Thiên Thành thi công công trình là Formosa textile Factory (gọi là nhà xưởng se sợi Formosa) theo Bản vẽ do Công ty Posco cung cấp, chi tiết công việc theo bản chiết tính đính kèm cuối cùng trong hợp đồng và các hạng mục phát sinh (nếu có); Đơn giá có trong bản chi tiết là đơn giá cố định, khối lượng thi công, nghiệm thu là khối lượng thi công thực tế tại công trình, các hạng mục, nội dung phát sinh ngoài hợp đồng căn cứ theo quy định pháp luật Việt Nam; tổng giá trị của hợp đồng 110.075.000.000 đồng (chưa bao gồm VAT 10%); thời gian thực hiện hợp đồng từ ngày 21/11/2013 đến 10/9/2014 có điều chỉnh thời gian theo yêu cầu của hai bên và thực tế thi công, thời gian sẽ được hai bên điều chỉnh bằng phục lục hợp đồng hoặc tu chỉnh hợp đồng.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên đã 05 lần tu chỉnh hợp đồng, trong đó lần tu chỉnh thứ hai ký ngày 25/7/2014, điều chỉnh giá trị của Hợp đồng còn 96.592.801.600 đồng (chưa bao gồm VAT 10%). Thực hiện hợp đồng, phía bên Công ty Posco đã thanh toán cho phía bên Công ty Thuận Thiên Thành được tổng số tiền là 67.453.032.668 đồng. Sau khi thi công xây dựng xong, công trình đã đưa vào sử dụng, nhưng Công ty Posco không thanh toán số tiền còn lại của hợp đồng và số tiền phát sinh thêm nên Công ty Thuận Thiên Thành đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch yêu cầu Công ty Posco phải thanh toán số tiền nợ gốc là 68.827.935.733 đồng và tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất quá hạn trung bình của 3 ngân hàng là 1,25%/tháng.

Quá trình giải quyết vụ án:Bản án sơ thẩm số 04/2018/KDTM-ST ngày 21/8/2018 của Tòa án nhân

dân huyện Nhơn Trạch đã căn cứ Điều 30, Điều 35, Điều 39, Điều 220, khoản 1 Điều 227 và Điều 235 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 306 Luật Thương mại; Điều 26 Luật Thi hành dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. Áp dụng các Điều: 123, Điều 124, Điều 125, Điều 137, Điều 138, Điều 139, Điều 140, Điều 141, Điều 143, Điều 144, Điều 147 Luật Xây dựng 2014; Nghị định 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015; Nghị định 46/2015 ngày 12/5/2015 của Chính phủ; Khoản 1 Điều 147 Bộ luât Tố tụng dân sự 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 thánh 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Thuận Thiên Thành. Buộc Công ty Cơ khí và Xây dựng POSCO E&C Việt Nam phải thanh toán cho Công ty Thuận Thiên Thành số tiền 101.081.965.152 đồng, trong đó tiền gốc là 68.827.935.733 đồng và tiền lãi là: 32.254.029.419 đồng.

- Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án và án phí.Không đồng ý với bản án sơ thẩm số 04/2018/KDTM-ST ngày 21/8/2018

của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai nên Công ty Cơ khí và

Page 12: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

Xây dựng POSCO E&C Việt Nam đã làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm theo hướng đề nghị sửa án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngày 21 tháng 02 năm 2019, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã mở phiên tòa xét xử theo thủ tục phúc thẩm, kết quả đã tuyên hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2018/KDTM-ST ngày 21/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch để giải quyết lại theo thủ tục chung.

Bản án phúc thẩm số 01/2019/KDTM-PT ngày 21/02/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quyết định hủy toàn bộ bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2018/KDTM-ST ngày 21/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

B. Vi phạm của cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm1. Về thủ tục tố tụng:- Vào các ngày 14/6/2018 và 28/6/2018, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành

phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Thẩm phán công khai tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhưng không ghi cụ thể công khai những tài liệu, chứng cứ nào. Tại các phiên họp này, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa, Công ty TNHH Xây dựng và Trang trí nội thất Hồng Quân vắng mặt nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không thông báo kết quả phiên họp cho các đương sự là vi phạm khoản 3 Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Ngày 09/8/2018, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Thẩm phán công khai tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhưng không ghi cụ thể công khai những tài liệu, chứng cứ nào. Tại các phiên họp này, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa, Công ty TNHH Xây dựng và Trang trí nội thất Hồng Quân và Công ty TNHH Xây dựng – Thương mại Đông Minh vắng mặt nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không thông báo kết quả phiên họp cho các đương sự là vi phạm khoản 3 Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Tại phiên tòa sơ thẩm, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa và Công ty TNHH Xây dựng – Thương mại Đông Minh vắng mặt nhưng chủ tọa phiên tòa không công bố lời khai của các đương sự này làm cơ sở để các đương sự tham gia phiên tòa tranh luận và đối đáp là vi phạm khoản 3 Điều 260 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Biên bản phiên tòa sơ thẩm lập vào hồi 8 giờ ngày 21 tháng 8 năm 2018 thể hiện có đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch tham gia phiên tòa sơ thẩm, nhưng nội dung biên bản không ghi nhận ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đã vi phạm khoản 1 Điều 236 Bộ luật Tố tụng dân sự.

2. Thu thập chứng cứ không đúng quy định pháp luật:Tài liệu, chứng viết các bên đương sự cung cấp như: Hợp đồng, Bản

quyết toán khối lượng thi công, Hóa đơn giá trị gia tăng… đều là bản photo không có công chứng, chứng thực và cũng khôi đối chiếu bản chính; một số tài

Page 13: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

liệu bằng tiếng nước ngoài không được dịch sang tiếng tiếng Việt và không được công chứng, chứng thực hoặc xác nhận nên không có giá trị pháp lý, vi phạm Điều 95 và Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ này để giải quyết vụ án là không đúng pháp luật.

3. Về việc áp dụng pháp luật: Nguyên đơn và bị đơn tranh chấp hợp đồng thi công số 2013-C-H-0213

ký kết ngày 21/11/2013 và 05 lần tu chỉnh hợp đồng nên phải áp dụng Luật về xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003 (Luật có hiệu lực tại thời điểm ký kết, thực hiện hợp đồng) để giải quyết vụ án nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại áp dụng Luật xây dựng ngày 18/6/2014 (có hiệu lực từ 01/01/2015) và các văn bản hường dẫn thi hành để làm căn cứ giải quyết vụ án là không đúng pháp luật.

Vụ thứ năm: Vụ án “Tranh chấp hợp đồng thuê mặt bằng, yêu cầu bồi thường thiệt hại” giữa:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị Xuân Phượng, sinh năm 1975, địa chỉ: Xóm 4, khu 2, ấp Bàu cá, xã Trung Hòa, H. Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

Người được ủy quyền: Bà Trần Thị Xuân Trang, sinh năm 1984.Bị đơn: Công ty Cổ phần du lịch Giang Điền, địa chỉ: Số 104/4, ấp Hòa

Bình, xã Giang Điền, H. Trảng Bom, Đồng Nai. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Huỳnh - Chức vụ: Tổng giám

đốc.Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Phúc Lưu, sinh năm 1970.A. Tóm tắt nội dung vụ ánNguyên đơn bà Trần Thị Xuân Phượng trình bày: Bà và Công ty CPDL

Giang Điền có ký kết Hợp đồng kinh tế số 01/2017/HĐKT ngày 01/05/2017. Bên A là Công ty CPDL Giang Điền và bên B là bà Trần Thị Xuân Phượng. Nội dung: Bên A đồng ý cho bên B thuê mặt bằng là nhà chờ số 3 nằm trong khuôn viên du lịch thác Giang Điền để kinh doanh ăn uống và bán hàng lưu liệm. Bên A có trách nhiệm cung cấp nguồn điện, nước cho bên B. Bên B có trách nhiệm thanh toán tiền thuê mặt bằng 7.000.000,đ/tháng và tiền điện, nước hàng tháng; bên B được quyền tìm kiếm nguồn hàng để bán nhưng phải bán theo giá dịch vụ của bên A. Thời gian thuê mặt bằng là 01 năm (từ ngày 01/05/2017 đến ngày 30/04/2018). Tuy nhiên đến ngày 03/10/2017, bên A ra thông báo chấm dứt hợp đồng trước thời hạn với bên B và ngày 18/10/2017 bên A ra thư phúc đáp đề nghị bên B giao trả mặt bằng. Không đồng ý với việc đòi lại mặt bằng khi chưa đến thời hạn hết hợp đồng và bên A cũng không thanh toán lại tiền xây dựng thêm của bên B bỏ ra nên bà Phượng đã làm đơn khởi kiện, yêu cầu Công ty CPDL Giang Điền phải thanh toán công trình xây dựng nhà chờ số 3 cho bên B đã đầu tư là 305.970.000,đồng; bồi thường công cụ, dụng cụ đã qua sử dụng tại nhà chờ số 3 là 334.350.000,đồng; bồi thường hàng hóa tồn chưa bán được là 53.333.000,đồng; bồi thường thiệt hại do thu nhập bị mất 06 tháng là 180.000.000,đồng (30.000.000,đồng x 6 tháng). Tổng cộng là 873.653.000,đồng.

Page 14: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

Tại phiên hòa giải và công khai chứng cứ ngày 24/01/2018, bà Phượng rút một phần yêu cầu khởi kiện so với đơn khởi kiện ban đầu. Cụ thể: Bà yêu cầu Công ty CPDL Giang Điền phải thanh toán công trình xây dựng nhà chờ số 3 cho bên B đã đầu tư là 248.352.160,đồng; bồi thường công cụ, dụng cụ đã qua sử dụng tại nhà chờ số 3 là 83.723.000,đồng; bồi thường hàng hóa tồn chưa bán được là 65.362.500,đồng; bồi thường thiệt hại do thu nhập bị mất 06 tháng là 180.000.000,đồng (30.000.000,đồng x 6 tháng). Tổng cộng là 577.660.000,đồng.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty Cổ phần du lịch Giang Điền trình bày: Về hợp đồng thuê mặt bằng đúng như nguyên đơn trình bày. Tuy nhiên bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì Công ty chấm dứt hợp đồng đúng quy định của pháp luật. Công ty đã thông báo việc chấm dứt hợp đồng cho chị Phượng trước 01 tháng và gia hạn thêm 01 tháng, có gửi thông báo 05 lần, chị Phượng nhận thông báo nhưng không hợp tác. Các yêu cầu khác về bồi thường chị Phượng không chứng minh được; những tài sản của chị Phượng được lấy về khi thanh toán đủ tiền điện, nước, thuê mặt bằng tính đến ngày cuối cùng ra thông báo dừng kinh doanh. Do đó Công ty không chấp nhận bồi thường theo yêu cầu. Nếu chị Phượng cung cấp được hóa đơn chứng từ đối với phần xây dựng nhà chờ số 3 thì Công ty xem xét giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án:Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 02/2018/KDTM-ST ngày

15/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom đã áp dụng các Điều 24, 50, 55, 269, 303, 307 Luật Thương mại; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Xuân Phượng đối với bị đơn Công ty Cổ phần Du lịch Điền về việc “Tranh chấp hợp đồng cho thuê mặt bằng và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản”.

- Buộc Công ty Cổ phần Du Lịch Giang Điền phải có nghĩa vụ trả cho bà Trần Thị Xuân Phượng số tiền 487.600.000 đồng (Bốn trăm tám mươi bảy triệu sáu trăm nghìn đồng), trong đó gồm chi phí xây dựng thêm nhà chờ số 3 là 248.532.160 đồng; Trị giá công cụ, dụng cụ đã sử dụng tại nhà chờ là 83.723.000 đồng; trị giá hàng hóa còn tồn chưa qua sử dụng là 65.326.500 đồng; bồi thường thiệt hại do bị mất thu nhập 03 tháng là 90.000.000 đồng.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu Thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành trả số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải trả tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:- Bà Phượng phải nộp án phí là 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn

đồng) tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền

Page 15: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

tạm ứng án phí đã nộp, hoàn trả bà Phượng số tiền tạm ứng án phí là 14.605.000 đồng (Mười bốn triệu sáu trăm lẻ năm nghìn đồng) theo biên lai thu số 005758 ngày 23/10/2017 mà bà P đã nộp tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện Trảng Bom.

- Công ty Cổ phần du lịch Giang Điền phải nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là: 23.504.000 đồng (Hai mươi ba triệu năm trăm lẻ bốn triệu đồng).

Ngoài ra, bản án còn tuyên về nghĩa vụ của đương sự ở giai đoạn thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 27/11/2018, Công ty Cổ phần du lịch Giang Điền có đơn kháng cáo, đề nghị cấp phúc thẩm tuyên sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bản án phúc thẩm số 05/2019/KDTM-PT ngày 18/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quyết định hủy toàn bộ bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 02/2018/KDTM-ST ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

B. Vi phạm của cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm1- Về đường lối giải quyết: Bà Phượng yêu cầu Công ty Cổ phần du lịch

Giang Điền phải trả tổng số tiền là 577.660.000 đồng cụ thể yêu cầu bồi thường thiệt hại gồm công trình xây dựng là nhà chờ số 3 là 248.352.160 đồng; công cụ, dụng cụ đã qua sử dụng tại nhà chờ 83.723.000 đồng; hàng hóa còn tồn chưa qua sử dụng 65.362.500 đồng; bồi thường do thu nhập bị mất 06 tháng là 180.000.000 đồng (30.000.000 đồng/tháng).

Theo thỏa thuận tại Điều 4 của hợp đồng kinh tế số 01/2017/HĐKT ngày 01/5/2017 giữa bà Trần Thị Xuân Phượng và Công ty CPDL Giang Điền thì “Trường hợp bên A muốn chấm dứt hợp đồng với bên B, thì phải thông báo trước 30 ngày, hoặc ngược lại”.

Theo hồ sơ thể hiện ngày 03/10/2017, Công ty Cổ phần du lịch Giang Điền có công văn số: 31/2017/CV-GĐ gửi bà Trần Thị Xuân Phượng, nội dung “...thông báo với bà Trần Thị Xuân Phượng, bên thuê mặt bằng nhà chờ số 3, về việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, trong vòng 30 ngày, bắt đầu từ ngày 05/10/2017 thời hạn kết thúc và thanh lý hợp đồng là ngày 05/11/2017”. Bà Phượng đã nhận được thông báo này, đến ngày kết thúc thời hạn theo thông báo bà Phượng vẫn không dọn dẹp bàn giao lại mặt bằng đã thuê cho Công ty Cổ phần du lịch Giang Điền, sau đó Công ty Cổ phần du lịch Giang Điền có các công văn gia hạn thêm thời gian cho bà Phượng dọn dẹp giao trả mặt bằng nhưng bà Phượng vẫn không thực hiện.

Như vậy, việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn Công ty Cổ phần du lịch Giang Điền đã thực hiện đúng theo điều khoản mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Cấp sơ thẩm xem xét, đánh giá cho rằng Công ty Cổ phần du lịch Giang Điền vi phạm trong việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, từ đó buộc

Page 16: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

Công ty phải bồi thường thiệt hại cho bà Trần Thị Xuân Phượng là không có căn cứ.

2- Về thu thập chứng cứ:Các yêu cầu của bà Trần Thị Xuân Phượng đối với Công ty Cổ phần du

lịch Giang Điền về bồi thường thiệt hại công trình xây dựng là nhà chờ số 3, dụng cụ đã qua sử dụng tại nhà chờ, hàng hóa còn tồn chưa qua sử dụng. Tòa án cấp sơ thẩm chưa đối chất làm rõ về công trình xây dựng tại nhà chờ số 3, chưa xác định rõ dụng cụ đã qua sử dụng tại nhà chờ và hàng hóa còn tồn chưa qua sử dụng ai là người đang trực tiếp giữ, bảo quản. Rồi từ đó căn cứ vào trách nhiệm của các bên trong hợp đồng kinh tế đã giao kết để đưa ra đường lối giải quyết mới có căn cứ theo quy định của pháp luật là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.

Vụ thứ sáu: Vụ án “Tranh chấp về xử lý kỷ luật theo hình thức sa thải”, giữa:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Anh Tuấn - sinh năm 1977, trú tại: 27B, tổ 5, khu phố 1, P. Tân Phong, TP. Biên Hòa, Đồng Nai

Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Map Pacific Việt Nam, địa chỉ: Số 101/6, đường số 3, KCN Long Bình (Amata), phường Long Bình, Tp. Biên Hòa, Đồng Nai

Đại diện theo ủy quyền: bà Nguyễn Thị Kiều Oanh - Sinh năm 1979.Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bảo Hiểm xã hội Đồng Nai A. Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 06/7/2007, giữa ông Nguyễn Anh Tuấn và Công ty Map ký kết hợp

đồng lao động không xác định thời hạn, công việc là kỹ sư thiết kế máy, chức vụ là Trưởng bộ phận bảo trì. Mức lương cơ bản trước khi bị nghỉ việc là 26.506.300 đồng, ngoài ra hàng tháng còn được hưởng phụ cấp độc hại 600.000 đồng. Tổng cộng tiền lương và phụ cấp hàng tháng là 27.106.300 đồng.

Theo nguyên đơn trình bày: Trong quá trình làm việc ông luôn hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, ngày 23/12/2016, công ty tiến hành họp xét kỷ luật ông với nội dung cho rằng có hành vi thiếu trách nhiệm, gây thiệt hại tài sản của Công ty, ông có tham dự cuộc họp nhưng không đồng ý với cáo buộc của Công ty. Đến ngày 30/12/2016, công ty ra Quyết định số 147/16/MAP-HR về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải, quyết định có hiệu lực trừ ngày 03/01/2017.

Ông Nguyễn Anh Tuấn cho rằng, công ty xử lý kỷ luật lao động đối với ông là không đúng quy định của pháp luật nên ông khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết các vấn đề sau:

- Hủy Quyết định số 147/16/MAP-HR ngày 30/12/2016 của Công ty Map.- Buộc Công ty nhận ông trở lại làm việc;- Buộc bồi thường khoản tiền lương tương ứng những ngày không được

làm việc;- Bồi thường 02 tháng lương theo quy định;

Page 17: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

- Đóng tiền BHXH theo quy định.- Đối với yêu cầu phản tố yêu cầu bồi thường thiệt hại của Công ty Map,

ông không đồng ý vì khi làm việc ông chỉ thực hiện lệnh của cấp trên, khi máy móc mua về vận hành trong thời gian nhất định ông mới ký nháy nghiệm thu. Việc quyết định có mua máy móc hay không là thuộc của cấp trên không phải lỗi của ông.

Đại diện bị đơn trình bày: Theo chủ trương của Ban Giám đốc về việc nâng cấp máy Tom, ông Tuấn làm đơn đề nghị mua các máy móc, thiết bị gồm: Bàn xoay nắp chai, máy đóng nắp Ropp tự động có một đầu đóng năm, máy dán nhãn decal; máy in ruy băng của dự án nâng cấp máy đóng chai Tom. Ông Tuấn được ban lãnh đạo Công ty phân công làm việc với nhà cung cấp và các đơn vị, bộ phận liên quan đến máy móc, thiết bị mua về phù hợp, vận hành ổn định, phục vụ hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Nhưng ông Tuấn đã không thực hiện đúng trách nhiệm của mình, đẫn đến việc máy móc thiết bị mua không đảm bảo chất lượng, không tương thích với hệ thống máy Tom nên bị hư hỏng không sử dụng được, trị giá thiệt hại là 760.960.200 đồng. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 24 Nội quy lao động của Công ty và quy định của pháp luật Công ty đã tiến hành xử lý kỷ luật lao động bằng hình thức sa thải.

Trình tự thủ tục xử lý kỷ luật đối với ông Tuấn, công ty đã tuân thủ đúng quy định pháp luật: Đã tổ chức cuộc họp xử lý kỷ luật vào ngày 23/12/2016 có sự tham gia của BCH Công đoàn và ông Tuấn, hành vi và mức độ lỗi của ông Tuấn, công ty đã chứng minh và làm rõ thiệt hại về tài sản do ông Tuấn đã không thực hiện đúng nhiệm vụ được giao là 760.960.200 đồng. Vì vậy, nay ông Tuấn khởi kiện ra Tòa yêu cầu Công ty nhận trở lại làm việc và thanh toán các khoản tiền theo đơn khởi kiện là không có cơ sở nên Công ty không chấp nhận đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của nguyên đơn - ông Nguyễn Anh Tuấn.

Tại Bản án lao động sơ thẩm số 12/2018/LĐST ngày 12/9/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã quyết định: “Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Anh Tuấn đối với bị đơn Công ty TNHH Map Pacific Việt Nam. Tuyên xử:

- Hủy Quyết định số 147/16/MAP-HR ngày 30/12/2016 của Tổng giám đốc Công ty TNHH Map Pacific Việt Nam về việc thi hành kỷ luật lao động đối với ông Nguyễn Anh Tuấn.

- Buộc Công ty TNHH Map Pacific Việt Nam nhận ông Tuấn trở lại làm việc theo hợp đồng đã giao kết ngày 06/7/2007;

- Buộc Công ty TNHH Map Pacific Việt Nam có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Anh Tuấn số tiền 583.012.600

- Buộc Công ty TNHH Map Pacific Việt Nam có trách nhiệm truy đóng bảo hiểm xã hội cho ông Tuấn kể từ tháng 01/2017 cho đến ngày nhận ông Tuấn trở lại làm việc theo Luật Bảo hiểm xã hội.”

Page 18: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, trách nhiệm thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Bản án lao động sơ thẩm số 12/2018/LĐST ngày 12/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã tuyên xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Anh Tuấn như trên là chưa đủ căn cứ và chưa đúng quy định của pháp luật.

Bản án phúc thẩm số 03/2019/LĐ-PT ngày 03/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quyết định hủy toàn bộ bản án lao động sơ thẩm số 12/2018/LĐ-ST ngày 12/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

B. Vi phạm của cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm1. Về thu thập chứng cứ chưa đầy đủ: Theo quy định tại khoản 1 Điều 95

Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:“1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.”; tuy nhiên tài liệu chứng viết bằng tiếng Việt do các đương sự cung cấp ở Tòa án cấp sơ thẩm đều là bản photo không được công chứng, chứng thực hoặc xác nhận nên không có giá trị pháp lý nhưng tòa án đã căn cứ vào các tài liệu chứng cứ này để giải quyết vụ án là vi phạm khoản 1 Điều 95 và khoản 3 Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự.

2. Về thủ tục tố tụng, vi phạm về thủ tục tiếp cận công khai chứng cứ: Vào các ngày 19/01/2018 và 18/5/2018, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán công khai tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nhưng không ghi cụ thể công khai những tài liệu, chứng cứ nào. Tại các phiên họp này, Bảo hiểm xã hội tỉnh Đồng Nai là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không thông báo kết quả phiên họp cho họ là vi phạm khoản 3 Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Bảo hiểm xã hội tỉnh Đồng Nai là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng chủ tọa phiên tòa không công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp là vi phạm khoản 3 Điều 260 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và đại diện ủy quyền cả bị đơn đều xác nhận: nhiều tài liệu chứng cứ do các bên cung cấp cho Tòa án không được biết và Tòa án cũng không thông báo công khai cho đương sự.

3. Về yêu cầu phản tố của bị đơn, không giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự: Ngày 04/8/2017, Công ty Map Pacific có đơn yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án tuyên buộc nguyên đơn phải bồi thường thiệt hại do hành vi thiếu trách nhiệm là 760.960.200 đồng và được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận thụ lý theo Thông báo số 89/TB-TLVA ngày 28/8/2017. Bản án sơ thẩm số 12/2018/LĐST ngày 12/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã nhận định: “Ngày 31/7/2018 Công ty Map Pacific có đơn xin rút một phần yêu

Page 19: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

cầu phản tố vì xét thấy Giám đốc sản xuất căn cứ vào chữ ký nháy của ông Tuấn nên mới ký nghiệm thu nên cũng có một phần trách nhiệm, ông Tuấn là người có trách nhiệm chính nên phải bồi thường 60% mức thiệt hại. Yêu cầu bồi thường thiệt hại của công ty là không đình chỉ phần rút phản tố cũng như tuyên không chấp nhận phần phản tố còn lại là thiếu sót.

V. Đánh giá chung1/ Ưu điểmTất cả 06 vụ án bị hủy nêu trên, đều có trách nhiệm của KSV là không

thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ được giao; nghiên cứu hồ sơ chưa toàn diện và chưa đề cao vai trò, trách nhiệm khi tham gia phiên tòa nên không phát hiện các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của TA, để yêu cầu, kiến nghị khắc phục cũng như không tham mưu lãnh đạo Viện kháng nghị phúc thẩm theo thẩm quyền hoặc báo cáo cấp tỉnh kháng nghị. Thông qua kiểm tra phiếu KS bản án sơ thẩm, Phòng 10 không thể phát hiện được các vi phạm này mà phải đến lúc tiếp cận hồ sơ vụ án để tham gia xét xử phúc thẩm (do có kháng cáo) mới xác định được vi phạm thì thời hạn kháng nghị phúc thẩm đã hết.

Từ số liệu nêu trên, thấy rằng số án bị hủy 09 tháng đầu năm 2019 (06 vụ hủy có lỗi của KSV/11 vụ hủy, đạt 54,5% giảm 6,5%) có chuyển biến tích cực hơn so với số liệu cùng kỳ năm trước (11 vụ hủy có lỗi của KSV/18 vụ hủy) song vẫn còn tồn tại một số dạng vi phạm của bản án, quyết định của TAND cấp huyện đã được thông báo rút kinh nghiệm thì nay không còn xảy ra như: vi phạm về xét xử vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự; xác định sai tư cách người tham gia tố tụng; vi phạm về tính án phí.

2/ Hạn chếMặc dù tỉ lệ án hủy, sửa có giảm so với cùng kỳ năm 2018 nhưng vẫn để

xảy ra vi phạm như: đưa thiếu người tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; bỏ sót quan hệ pháp luật; không giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự.

3/ Về nguyên nhân của hạn chế* Nguyên nhân khách quan- Các vụ án bị hủy, sửa đa số là những vụ án có tính chất phức tạp, được

điều chỉnh bởi nhiều quy phạm pháp luật nội dung rộng và do các cơ quan quản lý NN đã có nhiều sự điều chỉnh trong lĩnh vực đất đai, nhà ở. Một số địa phương thường xuyên có biến động về đất đai, giá trị QSD đất tăng đột biến, công tác quản lý, điều hành NN trong lĩnh vực này chưa đáp ứng yêu cầu đề ra, còn nhiều sai sót trong việc áp dụng pháp luật như cấp GCN QSD đất còn sai sót về điều kiện cấp QSD đất, việc đo đạc, cấp chồng chéo các thửa đất, cấp đất không đúng diện tích thực tế sử dụng, cấp không đúng trình tự, thủ tục ... dẫn đến tranh chấp về QSD đất ngày càng phức tạp nên số lượng án mới thụ lý ngày càng tăng.

- Việc hòa giải ở cơ sở đối với tranh chấp đất đai còn mang tính hình thức, chưa được chú trọng đúng mức. Một số cơ quan quản lý NN về đất đai không hợp tác và không cung cấp chứng cứ cho TA hoặc không trả lời xác minh của

Page 20: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

TA theo quy định của PL trong quá trình giải quyết án có liên quan đến đất đai, dẫn đến việc thu thập, đánh giá chứng cứ ở cấp sơ thẩm gặp nhiều khó khăn.

* Về nguyên nhân chủ quan- Chất lượng công tác lập hồ sơ, KS giải quyết án, KS bản án, quyết định

của TA chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, do đó số vụ kháng nghị phúc thẩm còn thấp so với số lượng bản án, quyết định bị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử hủy, sửa. Công tác ban hành văn bản kiến nghị của VKS nội dung không sâu, chủ yếu là kiến nghị vi phạm về thời hạn, việc chậm gửi các văn bản tố tụng, nên chất lượng và hiệu quả còn có những hạn chế nhất định, nhiều dạng vi phạm về tố tụng, vi phạm về nội dung chưa được phát hiện kịp thời để thực hiện chức năng kiến nghị và yêu cầu khắc phục triệt để.

- Việc rèn luyện, trau dồi nghiệp vụ ở một số cán bộ, KSV chưa có ý thức tự giác cao; về phiên tòa rút kinh nghiệm mặc dù đạt chỉ tiêu số lượng nhưng chất lượng ở một số VKS cấp huyện chưa đạt yêu cầu, chưa thật sự tạo được môi trường tích cực để KSV, KTV, chuyên viên tự học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ; mặt khác trong quá trình giải quyết vụ án, nghiên cứu hồ sơ chưa kỹ, bỏ sót quy trình nghiệp vụ dẫn đến không phát hiện được vi phạm nên không tham mưu thực hiện được quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị phù hợp.

- Một số đơn vị cấp huyện khi KS giải quyết các tranh chấp phức tạp như: TC về khiếu kiện QĐHC, HVHC có liên quan đến quyền sử dụng đất, các chính sách NN về thu hồi, bồi thường về QSD đất, tài sản trên đất; các vụ việc KDTM có liên quan đến QSD đất, quyền SH nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất, TC về hợp đồng thế chấp QSD đất ... còn lúng túng về kỹ năng nghiệp vụ, trình tự thủ tục tố tụng hoặc chưa nắm vững các quy định của pháp luật nội dung, nên không phát hiện hoặc chậm phát hiện vi phạm để kịp thời kiến nghị, kháng nghị.

VI- Giải pháp nâng cao chất lượng công tác giải quyết các VAHC, vụ việc KDTM, LĐ trong những tháng cuối năm 2019 và thời gian tới

Để thực hiện tốt công tác giải quyết các VAHC, vụ việc KDTM, LĐ và khắc phục những mặt còn hạn chế như phân tích nêu trên, cần phải có giải pháp cụ thể như sau:

- Cần nhận thức rằng công tác KS giải quyết VAHC, vụ việc KDTM, LĐ là một bộ phận quan trọng của chức năng KS hoạt động tư pháp và là công việc rất khó khăn, phức tạp. Do đó, cần có sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo VKS các cấp, nhất là các đ/c Lãnh đạo VKS cấp huyện. Đề nghị mỗi đơn vị cần xây dựng kế hoạch riêng, xác định rõ mục đích, yêu cầu, trách nhiệm, phân công nhiệm vụ và đề ra giải pháp cụ thể, đồng thời phải có sự kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện, thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm đối với những vụ án bị hủy, sửa toàn bộ do lỗi của KSV.

- Xây dựng và ký kết Quy chế phối hợp giữa UBND với TAND và VKSND trong công tác giải quyết các VAHC, vụ việc KDTM, LĐ, phá sản để thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của ngành.

- Về quản lý, chỉ đạo điều hành:

Page 21: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

+ VKS cấp tỉnh quan tâm về nhân sự trong việc điều động, bổ nhiệm KSV tương xứng với tính chất, mức độ công việc cụ thể của từng đơn vị; thường xuyên kiểm tra công tác bố trí KSV, cán bộ ở các khâu công tác nghiệp vụ của VKS cấp huyện, để tránh tình trạng phân bổ nhân sự không đồng đều.

+ Thực tế các vụ án HC, vụ việc KDTM, LĐ bị hủy, sửa có liên quan đến trách nhiệm của VKS thường là những vụ án liên quan đến công tác quản lý của NN, đến quyền quản lý, sử dụng của cá nhân, tổ chức về đất đai, nhà ở, quyền sở hữu tài sản. Do đó, để hạn chế mức thấp nhất án bị hủy, sửa có trách nhiệm của VKS và để nâng cao trách nhiệm của tập thể, cá nhân thì đối với những vụ án phức tạp hoặc những vụ án VKS xem xét kháng nghị phúc thẩm, các đơn vị nên thực hiện việc KSV báo cáo xin ý kiến về đường lối giải quyết vụ án với tập thể lãnh đạo VKS nhằm phát huy tối đa trí tuệ của tập thể, bảo đảm giải quyết vụ án đúng pháp luật.

+ Tăng cường công tác trao đổi giữa VKS hai cấp, tham khảo kinh nghiệm với các đơn vị đã làm tốt, có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm hoặc cách làm đạt hiệu quả cao trong công tác KS bản án, quyết định, thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị. Qua đó, học tập, nhân rộng các điển hình làm tốt, hỗ trợ cho nhau để hoàn thành tốt công tác KS tuân theo pháp luật trong TTHC, TTDS.

- VKS cấp tỉnh cần nghiên cứu phương án tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm theo cụm (có thể từ 3 đến 4 đơn vị VKS cấp huyện/01cụm/01 phiên tòa rút kinh nghiệm chung), VKS cấp trên tăng cường việc tham dự và chỉ đạo tại các phiên tòa rút kinh nghiệm của cấp dưới, để kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những mặt còn hạn chế đồng thời nhân rộng những tập thể, cá nhân làm tốt và có khen thưởng kịp thời nhằm tạo động lực thi đua, phấn đấu hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ của ngành.

- VKS cấp tỉnh tiếp tục thực hiện việc thông báo rút kinh nghiệm những vụ án do VKS kháng nghị có chất lượng tốt, được TA xử chấp nhận kháng nghị hủy án, sửa án để các đơn vị cấp dưới cùng nghiên cứu, học tập, rút kinh nghiệm.

- Về công tác nghiệp vụ:+ Thực hiện đúng Hướng dẫn số 28/HD-VKSTC ngày 19/10/2018 về lập

hồ sơ kiểm sát giải quyết các vụ án HC, KDTM, LĐ, phá sản, xem xét quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND.

+ Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án của Tòa án cần chú ý các tài liệu, chứng cứ như: giấy CN QSD đất, bản vẽ hiện trạng thửa đất, bản đồ quy hoạch, giấy CN ĐKKD, Điều lệ của DN … phải thu thập bản chính hoặc bản sao có công chứng chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận theo quy định tại Điều 95 BLTTDS.

+ Lưu ý những tài liệu, chứng cứ bằng tiếng nước ngoài phải được dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp. Việc nghiên cứu hồ sơ phải đánh giá toàn diện, đầy đủ trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đã được Tòa án thu thập, xem xét việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền và nghĩa vị của cá nhân, tổ chức nào để đưa họ vào tham gia tố tụng, tránh bỏ sót tư cách

Page 22: Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC, vụ việc KDTM, …vksdongnai.gov.vn/Dost_AnhSuKien/CHUYEN-DE-PHON… · Web viewTitle Chuyên đề: Hạn chế các bản án HC,

đương sự. Bên cạnh đó, KSV cần xác định cụ thể những yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, người khởi kiện, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đối chiếu với phần quyết định của bản án, quyết định của Tòa án đã giải quyết hết các yêu cầu này chưa, tránh việc Tòa án bỏ sót không giải quyết hết các yêu cầu khởi kiện của đương sự.

Đồng thời, KSV, cán bộ được phân công thụ lý, KS giải quyết vụ án phải nêu được các căn cứ luật để đánh giá từng yêu cầu khởi kiện có được chấp nhận hay không, kiểm sát chặt chẽ việc chấp hành pháp luật về thủ tục tố tụng của Tòa án, đặc biệt thủ tục giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ, bởi vì qua một số vụ án hủy, sửa có lỗi của KSV thấy rằng vi phạm ở thủ tục này chiếm 03 vụ/06 vụ = 50%

+ Quá trình thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án HC, vụ việc KDTM, LĐ, khi tham mưu xử lý các vi phạm của Tòa án, cần nắm vững thẩm quyền của VKS về hoạt động kháng nghị, hiểu rõ tính độc lập về quyền kháng nghị của VKS và quyền kháng cáo của đương sự. Tránh tình trạng khi bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm, làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự nhưng đương sự không kháng cáo thì VKS cũng không đặt vấn đề xem xét việc kháng nghị.

Đồng thời, KS chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án của Tòa án, KSV phải xây dựng hồ sơ KS đúng quy chế và phù hợp với logic của vụ, việc đang giải quyết, các tài liệu, giấy tờ, văn bản của các đương sự cung cấp cần phải được kiểm tra, nghiên cứu kỹ. Các vấn đề đặt ra khi giải quyết vụ án phải được chứng minh đầy đủ bằng các tài liệu, chứng cứ hợp pháp, kiểm tra tính hợp pháp trong việc thụ lý vụ án, thẩm quyền giải quyết của TA, kiểm tra việc tuân thủ trình tự, thủ tục quá trình giải quyết vụ án, thu thập, xác minh chứng cứ của TA.

Phòng 10 - VKSND tỉnh Đồng Nai