cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

44
Mục Lục CCCC LỜI NÓI ĐẦU Qúa trình hình thành và phát triển của ngành thương mại Việt Nam gắn liền với những biến đổi to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước . Trong xu thế hội nhập toàn cầu chúng ta đang gồng mình vươn lên để bắt kịp với sự phát triển nói chung của thế giới ,đưa đất nước ngày càng phát triển về kinh tế, ổn định về chính trị .Một trong những dấu mốc quan trọng trong công cuộc thay đổi, phát triển của đất nước đó là ngày 7/11/2006 Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới –WTO .Là thành viên chính thức của WTO đồng nghĩa với việc chúng ta có rất nhiều cơ hội để phát triển kinh tế, có được tiếng nói bình đẳng hơn trong kinh doanh buôn bán …mặt khác cũng có rất nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp, ngành hàng, lĩnh vực…đòi hỏi chúng ta phải thay đổi, phải học hỏi và tìm ra cho mình những hướng đi đúng đắn và phù hợp nhất đặc biệt là đối với thương mại hàng hóa nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng. Em xin chọn đề tài: “ Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập WTO ” 1

Upload: trang-dai-phan-thi

Post on 19-Jul-2015

381 views

Category:

Business


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Mục Lục

CCCC

LỜI NÓI ĐẦU

Qúa trình hình thành và phát triển của ngành thương mại Việt Nam

gắn liền với những biến đổi to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển

đất nước . Trong xu thế hội nhập toàn cầu chúng ta đang gồng mình vươn

lên để bắt kịp với sự phát triển nói chung của thế giới ,đưa đất nước ngày

càng phát triển về kinh tế, ổn định về chính trị .Một trong những dấu mốc

quan trọng trong công cuộc thay đổi, phát triển của đất nước đó là ngày

7/11/2006 Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế

giới –WTO .Là thành viên chính thức của WTO đồng nghĩa với việc chúng

ta có rất nhiều cơ hội để phát triển kinh tế, có được tiếng nói bình đẳng

hơn trong kinh doanh buôn bán …mặt khác cũng có rất nhiều thách thức

đối với các doanh nghiệp, ngành hàng, lĩnh vực…đòi hỏi chúng ta phải

thay đổi, phải học hỏi và tìm ra cho mình những hướng đi đúng đắn và phù

hợp nhất đặc biệt là đối với thương mại hàng hóa nói chung và thương mại

hàng dệt may nói riêng. Em xin chọn đề tài: “Cơ hội và thách thức đối

với thương mại hàng dệt may trong hội nhập WTO ”

1

Page 2: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

CHƯƠNG I

THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN

ĐÂY

I. Thương mại hàng hóa VIỆT NAM những năm đổi mới

Trong quá trình đổi mới Việt Nam vẫn giữ vững được thể chế chính

trị. Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế -xã hội nước ta mở đầu từ đại

hội VI đến nay đã trải qua hơn 20 năm . Từ đó đến nay ,nước ta đã có

những đổi thay to lớn và sâu sắc . Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần

vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã hình thành

và ngày càng phát triển . Nhà nước đã ban hành nhiều quyết định quan

trọng theo hướng khuyến khích mở rông lưu thông hàng hóa ,mở rộng

quyền của mọi tổ chức và công dân Việt Nam được đăng kí kinh doanh

thương mại , dịch vụ . Công cuộc đổi mới đã đưa nền kinh tế hoàn toàn

thoát khỏi khủng hoảng .Tổng mức lưu chuyển hàng hóa hàng hóa bán lẻ

tăng với tốc độ cao. Khối lượng và danh mục hàng hóa đa dạng ,phong

phú, chất lượng hàng hóa được nâng cao. Chuyển từ nền kinh tế hiện vật

sang nền kinh tế hàng hóa , chúng ta chuyển từ nền kinh tế ưu tiên phát

2

Page 3: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

triển tư liệu sản xuất sang phát triển đồng thời ba chương trình kinh tế :

lương thực , xuất khẩu , hàng tiêu dùng , dần dần bước sang công nghiệp

hóa hiện đại hóa nền kinh tế .Từ nền kinh tế có hai hình thức sở hữu quốc

doanh và tập thể sang nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu ,xu

hướng khu vực ngoài dân doanh chiếm tỷ trọng chủ yếu .Chuyển từ cơ

chế quản lý tập trung sang cơ chế thị trường , các vấn đề kinh doanh hoàn

toàn được giải quyết thông qua mối quan hệ qua lại giữa nhà sản xuất và

người tiêu thụ sản phẩm trên thị trường .Để khuyến khích mạnh mẽ xuất

khẩu , Nghị định 57/CP ngày 31/7/1998 , đã mở rộng quyền kinh doanh

xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành

lập theo đúng các quy định của pháp luật được xuất, nhập khẩu hành hóa

theo ngành nghề đã ghi trong giấy đăng kí kinh doanh . Năm 1931 đến

1981 nước chúng ta phải nhập khẩu gạo nhưng đến năm 2006 chúng ta

đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo( trên 5 triêu tấn). Năm 2006 có

tới 8 mặt hàng xuuất khẩu trên 1 tỷ USD ( thủy sản >2,2 tỷ USD, dày >2

tỷ USD…). Năm 1986 tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ là 789 triệu USD

nhưng đến năm 2005 là 32,4 tỷ USD và năm 2006 con số đó là 39,4 tỷ

USD, tăng 22,1% so với năm 2005 ( trong đó kim ngạch xuất khẩu vào

MỸ đạt 9 tỷ USD). Dự kiến năm 2007 xuất khẩu sẽ đạt 47,54 tỷ USD.

Ngày 17/7/1995 nước ta và Liên minh châu Âu đã kí hiệp định chung về

hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật, ngày 28/7/1995 nước ta

là thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN).

Năm 1998 nước ta đã tham gia diễn đàn kinh tế các nước châu Á –Thái

Bình Dương (APEC). Tháng 7/2001 . nước ta đã kí hiệp định thương mại

với 61 nước trong đó có MỸ, góp phần đưa tổng số nước quan hệ ngoại

thương với Việt Nam, từ 50 nứớc năm 1990 lên trên 170 nứớc và vùng

lãnh thổ vào năm 2000. Nhờ có mở rộng quan hệ thương mại với các nước

nền kinh tế Việt Nam được thúc đẩy tăng trương nhanh chóng. Hàng hóa

3

Page 4: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Việt Nam có mặt ở 220 nước trên tổng số 250 nước trên thế giới và nhập

khẩu từ 130 nước. Đặc biệt trong năm 2006 đánh dấu là một năm mà Việt

Nam trở thành tâm điểm của sự chú ý đối với thế giới. Chúng ta đã tổ chức

thành công hội nghi cấp cao APEC tại HÀ NỘI –một cơ hội lớn để thu hút

sự quan tâm của các đối tác, các nguồn đầu tư nước ngoài. Ngày 7/11/2006

Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới

(WTO). Đây là một cơ hội to lớn và cũng đầy thách thức đối với nền kinh

tế VIỆT NAM và ngành thương mại nói riêng.

Năm 2006 được đánh giá là năm thành công của ngành thương

mại .Ngành thương mại có sự tăng trưởng cả trên 2 lĩng vực XNK và

thương mạ nội địa . Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng trưởn mạnh ,góp

phàn vào tăng trưởng kinh tế và giảm thâm hụt cán cân thương mại của cả

nước . Hầu hết các nhóm hàng chủ lực đều có sự tăng trưởng mạnh , vượt

mục tiêu đề ra . Cùng với sự thành công trong XNK , hoạt động thương

mại nội địa đã đóng góp một hàn quan trọng vào tăng trưởng kinh tế xã hội

.Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội năm 2006 ước đạt

580,7 ngàn tỷ đồng , tăng 13 % so với năm 2005( loại trừ yếu tố giá ) đây

là mức tăng trưởng tuơng đối cao, là nhân tố góp phần quan trọng vào tăng

trưởng GDP 8,17 % năm 2006, mặc dù giá cả trên thế giới tăng mạnh

nhưng các mặt hàng quan trọng thiết yếu được đảm bảo nguồn cung cấp,

giá cả trong tầm kiểm soát. Thương mại trong địa bàn miền núi , vùng sâu,

vùng sa, hải đảo, tăng trưởng khá nhanh , khoảng cách giữa các vùng khó

khăn, vùng núi với đô thị trung tâm vế tốc độ tăng trưởng mức lưưu

chuyển hàng hóa ngày càng được thu hẹp. Kết cấu hạ tầng thương mại trên

các địa bàn phát triển nhanh. Chuỗi các cửa hàng tiện ích phát triển mạnh

không chỉ ở các thành phố lớn như thành phố HCM,Hà Nội, Hải Phòng

mà đã lan ra các thành phố khác trong cả nước .Số lượn siêu thị trên toàn

quốc tăng 25%, trung tâm thương mại tăng trên 60% so với năm 2005.

4

Page 5: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Chỉ số hàng tiêu dùng (CPI ) năm 2006 tăng 6,6% ( thấp hơn tốc độ

tăn trưởng ) mức tăng CPI thấp nhất trong 3 năm qua (năm 2005 là 8,4%,

năm 2004 là 9,5%). Đây là kết quả, nổ lực của ngành thương mại trong

việc kiểm soát và kiềm chế giá cả .

Trong tháng 1/2007, xuất khẩu của cả nước đạt 3.3 tỷ USD, tăng

khoảng 7.7 % so với cùng kỳ năm 2006. Trong đó các doanh nghiệp trong

nước xuất khẩu đạt tăng trưởng khá, tăng 23% so với cùng kỳ .XK của khu

vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) dật trên 1,8 tỷ USD ,giảm

3,1% do giá dầu thô giảm (nếu không tính dầu thô thì XK ku vực này đạt

1,057 tỷ USD tăng 8,8 % ). Đáng chú ý trong tháng 1, nhiều mặt hàng xuất

khẩu tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước như cà phê tăng tới 136%,

chè các loại tăng 69,8%, hạt tiêu tăng 22,2%. Hai mặt hàng chiếm tỷ trọng

lớn trong XK là mặt hàng dệt may và giày dép cũng tăng khá, tuy mức

tăng trưởng chưa cao. Tuy nhiên trong tháng 1 này, 3 mặt hàng là dầu thô

và than đá, gạo đều gia tăng số lượng đáng kể về khối lượng so với cùng

kỳ năm trước.

Kim ngạch nhập khẩu cũng tăng mạnh do nhu cầu về nguyên liệu và

nhiên liệu đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân trong dịp đầu

năm khá cao.Tháng 1 cả nước nhập khẩu 3,4 tỷ USD, tăng 30,8% so với

cùng kỳ. Đáng chú ý nhập khẩu máy móc thiết bị lên tới 550 triệu USD,

lớn thứ hai sau xăng dầu tăng 47.5% so với cùng kỳ, điều này chứng tỏ

triển vọng triển khai các dự án đầu tư và đổi mới công nghệ của nền kinh

tế cả nước.

Bên cạnh những thành tựu vẫn còn tồn tại những thiếu sót , khuyết

điểm. Những tồn tại đó là : nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương

mại và tệ tham nhũng không giảm, tác đông xấu đến tình hình kinh tế xã

hội; lĩnh vực xuất khẩu có những hạn chế về tạo nguồn, chất lượng và sức

cạnh tranh; xuất khẩu hàng nông sản thô, nguyên liệu thô còn chiếm tỷ

5

Page 6: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

trọng lớn; nhiều mặt hàng còn phải xuất khẩu qua trung gian, chưa hiểu hết

luật quốc tế vì vậy còn dẫn đến tình trạng bán phá giá, vi phạm bản quyền

…Mức tăng trưởng các ngành dịch vụ chỉ đạt trên 50% kế hoạch, trong

khi lĩnh vực này chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, nên hạn chế mức tăng

trưởng chung của nền kinh tế .

Quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam chính là quá trình chuyển

sang nền kinh tế thị trường. Quá trình thương mại hóa nền kinh tế,

thương mại hóa các doanh nghiệp ( thương mại theo nghĩa rộng là kinh

doanh có hiệu quả, có lợi nhuận ).

II. Thương mại dệt may trên địa thị trường thế giới

Theo thống kê của Tổ chức WTO, kim ngạch hàng dệt trao đổi trên

thế giới trong năm 2002 là 152 tỷ đô la Mỹ, tức 2,4 % mậu dịch hàng hoá

và 3,2 % mậu dịch hàng công nghiệp. Cho hàng may mặc, các con số

tương đương là 201 tỷ đô-la, 3,2 % mậu dịch hàng hoá và 4,3 % mậu dịch

hàng công nghiệp. Những tỷ số này khiêm tốn vì hàng dệt may, tuy cơ bản

và cần thiết cho mọi mặt của đời sống như đã nói ở trên, nhưng vì đã trở

thành phổ biến, thậm chí tầm thường, do đó ít giá trị, trừ một số sản phẩm

cao cấp dành cho các ứng dụng chuyên môn. Một lý do khác cũng rất quan

trọng là sự cạnh tranh từ các nước nghèo, các nước đang phát triển , có

nhân công rẻ đã kéo giá thành xuống, làm mức tăng trưởng đo bằng trị giá

của thương mại dệt may thấp hơn mức tăng trưởng về lượng.

Hàng dệt may là bộ phận cấu thành quan trọng của thương mại thế

giới, cũng là sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của các nước đang phát triển .các

nước phát triển từ lợi ích bản than đã sử dụng biện pháp hạn chế về số

lượng nhập khẩu hang dệt và may đến các nước đang phát triển. ”hiệp định

nhiều sợi (MFA)”có hiệu lực từ năm 1974 mở rộng hơn phạm vi hạn chế

đối với hang dệt, gồm bônglông cừu nhân tạo và chế phẩm của nó .

6

Page 7: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Trong năm 2002, các trao đổi vải sợi giữa các nước châu Á đạt 38

tỷ đô-la, và giữa nội bộ các nước Tây Âu là 36,4 tỷ đô-la, hai con số cao

hơn gấp bội các trao đổi liên vùng như xuất khẩu của Tây Âu về khối

Đông Âu-Liên Xô cũ (8,9 tỷ), Á Châu về Tây Âu (7,9 tỷ), Á Châu về Bắc

Mỹ (8,3 tỷ) và Bắc Mỹ về châu Mỹ la tinh (5,7 tỷ). Về phía hàng may mặc

cũng tương tự: nội bộ Tây Âu (45,6 tỷ đô-la), nội bộ Á Châu (22,8 tỷ), Á

Châu về Bắc Mỹ (34,5 tỷ), Á Châu về Tây Âu (20,9 tỷ), châu Mỹ la tinh

về Bắc Mỹ (19,7 tỷ), và khối Đông Âu-Liên Xô cũ về Tây Âu (9,6 tỷ).

May mặc, ở Tây Âu và Á Châu cũng thống trị thị trường như thế.

Tây Âu chiếm 30 % xuất khẩu và 41% nhập khẩu, Á Châu 45% xuất khẩu

nhưng chỉ 13% nhập khẩu, và Bắc Mỹ ngược lại, nhập (31%) gấp 6 lần

xuất (5%). Thị phần của các vùng kia lại càng ít ỏi hơn, châu Mỹ La tinh

khá nhất cũng chỉ chiếm 10% xuất và 4% nhập. Ngành hàng dệt, trong

năm 2002, Tây Âu chiếm 38% kim ngạch xuất khẩu thế giới và 35% nhập

khẩu, Á Châu chiếm 44% xuất khẩu và 29% nhập khẩu, trước xa Bắc Mỹ

(9% xuất khẩu và 12% nhập khẩu). Các vùng khác như khối Đông Âu

-Liên Xô cũ, châu Mỹ la tinh, châu Phi và Trung Đông đều có những tỷ số

chỉ một vài phần trăm cho cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu.

Qua các con số này, có thể nói trong mậu dịch quốc tế về hàng dệt

may, Tây Âu, Á Châu và Bắc Mỹ đóng vai trò chính. Tuy thế, đề tài này là

quan tâm chung của tất cả các nước trong các cuộc thương thuyết của hệ

thống thương mại đa phương, cụ thể là trong khuôn khổ của tổ chức GATT

và sau này WTO.

Riêng đối với ngành dệt may thì mối quan tâm lớn nhất hiện nay của

nhiều nước chắc chắn là Trung Quốc .Từ năm 2002, sau khi Trung Quốc

gia nhập WTO và được thoát khỏi một số hạn ngạch, sự phát triển của xuất

khẩu dệt may Trung Quốc dường như không có gì cản nổi. Tại Nhật, một

nước phi hạn ngạch, Trung Quốc chiếm 78,1% thị trường quần áo và

7

Page 8: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

47,5% thị trường vải sợi năm 2002, với mức tăng trưởng là 66% trong 10

năm, cho thấy khả năng chiếm lĩnh thị trường của Trung Quốc khi không

có hạn ngạch. Tại Mỹ và trong Liên hiệp châu Âu, năm 2002, tức là ngay

sau khi một số hạn ngạch được bãi bỏ, nhập khẩu các mặt hàng này từ

Trung Quốc vào Mỹ tăng bình quân 125%, nhập khẩu vào Liên hiệp châu

Âu tăng 53% về trị giá và 164% về số lượng, và giá đơn vị trung bình thì

giảm 42%. Có thể nêu lên vài con số khá kinh khủng: chỉ trong một năm,

nhập khẩu vào Mỹ từ Trung Quốc tăng 242% cho găng tay, 306% cho

quần áo trẻ em, 250% cho nịt ngực và 557 % cho áo choàng, áo ngủ.

Trung Quốc là nước duy nhất đã gia tăng xuất khẩu trong tất cả các loại

hàng. Hàng dệt may Trung Quốc đang ngày càng chiến lĩnh thị trường thế

giới không ngừng, không chỉ đa dạng về chủng loại và mẫu mã cũng vô

cùng phong phú .

Qua các cuộc hội thảo chuyên đề các chuyên gia đàu ngành của thế

giới đã thống nhất ý kiến trên một số vấn đề cơ bản, đó là:

- Hàng may mặc theo phong cách phương Tây sẽ tăng lên

- Kiểu trang phục công sở sẽ được phổ biến

- Thẩm mỹ ở lứa tuổi trung niên và cao niên sẽ được cải thiện .

- Hàng may mặc trẻ em làm thay đổi khái niệm về tiêu dùng và thiết

kế

- Vải, sợi, phụ liệu, thiết kế, kiểu dáng và kỹ thuật sẽ có bước đột

phá

- Đồ thể thao vẫn được ưa chuộng .

III. Thương mại dệt may VIỆT NAM

1. Một vài đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam.

8

Page 9: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Ngành dệt may Việt Nam dã có lịch sử phát triển rất lâu đời .Từ hàng

nghìn năm nay, người Việt đã biết trồng dâu nuôi tằm, trồng bông, lanh,

gai, đay và các cây có sơ để kéo sợi, dệt vải cho ngành may mặc phục vụ

cho đời sống hàng ngày và trong tang lễ, hội hè, đình đám. Bằng chứng

cho sự phát triển này là đến nay vẫn còn tồn tại nhiều làng nghề truyền

thống trên nhiều vùng đất nước như : Lụa Vạn Phúc, Khăn Phùng Xá , (Hà

Tây) :dệt làng Mẹo (Thái Bình )…Tuy vậy, phải đến cuối thế kỉ XIX,

ngành dệt may mới manh nha hình thành và phát triển trong hình hài của

một ngành công nghiệp

Hàng dệt may là lĩnh vực các nước đang phát triển có lợi thế và là

tiềm năng phát triển cao. Tuy nhiên, do đặc thù của ngành là sử dụng nhiều

lao động, công nghệ tương đối dễ tiếp cận, quy mô thị trường lớn nên là

đối tượng bảo hộ cao trong chính sách của các nước phát triển và các nước

đang phát triển. Do vậy luôn có sự cạnh tranh giữa các nước phát triển và

các nước đang phát triển.

Với chủ trương đưa ngành dệt may trở thành ngành kinh tế mủi

nhọn hướng ra xuất khẩu và phục vụ tiêu dùng thiết yếu của nhân dân ,vì

thế Nhà nước vừa khai thác, phát huy tiềm lực có sẵn, vừa khônh ngừng

mở rộng phát triển cả chiều rộng lẫn bề sâu. Đặc biệt với ngành may vừa

mở rộng, vừa đầu tư chiều sâu với trang thiết bị hiện đại để bắt kịp với

trang thiết bị hiện đại của thế giới nhằm phát huy thế mạnh của ngành May

Việt Nam với nguồn lao động dồi dào, giá công lao động chưa cao và

không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư cho một công trình may, phù hợp với một

đất nước nghèo vừa đi lên từ chiến tranh .

Trong những năm 1990, hàng dệt may chiếm khoảng một nửa xuất

khẩu hàng hoá của Việt Nam, nhưng chỉ khoảng 15% tổng kim ngạch xuất

khẩu năm 1999. Tuy thế, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu dệt may cao hơn tỷ lệ

của tổng xuất khẩu cả nước, với con số trung bình hàng năm là 38% từ

9

Page 10: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

1990 đến 2000. So với hàng dệt, hàng may mặc tăng nhanh hơn và chiếm

đa số xuất khẩu của toàn ngành. Phần của hàng dệt trong tổng số xuất khẩu

dệt may của Việt Nam là 12%, rất thấp so với tỷ lệ tương đương của xuất

khẩu thế giới (44%). Một lý do là đa số hàng dệt được tiêu thụ trong nước,

hoặc là để sản xuất hàng may mặc xuất khẩu, hoặc để đáp ứng nhu cầu

may mặc nội địa. Năm 1996, tỷ lệ xuất khẩu trên sản xuất chỉ là 11,3% cho

hàng dệt , nhưng lên đến 84% cho hàng may mặc.

Một điểm đáng để ý là các công ty dệt quốc doanh cũng tham gia

tích cực xuất khẩu hàng may mặc: họ dệt vải, xuất khẩu một ít, còn lại bao

nhiêu dùng để sản xuất quần áo rồi xuất khẩu. Ngược lại, đa số các công ty

may mặc nước ngoài không dùng vải nội địa mà nhập thẳng nguyên liệu từ

Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan. Hiện nay, 70% sản phẩm xuất khẩu từ

Việt Nam thực hiện theo phương thức gia công, 30% còn lại là bán gia

công. Vì phụ thuộc tới 80% vào nguyên, phụ liệu nước ngoài, hàng dệt

may Việt Nam bị đội giá tới 20-30%. Trong xu hướng giảm giá của dệt

may thế giới, thế cạnh tranh của Việt Nam sẽ càng yếu thêm vì vẫn tiếp tục

bị áp đặt hạn ngạch và phải cộng chi phí này vào giá thành sản phẩm. Mặt

khác, lương nhân công của Việt Nam, ít ra là trong các xí nghiệp quốc

doanh, không thấp hơn lương nhân công ở Trung Quốc bao nhiêu: lương

trung bình của 5 xí nghiệp quốc doanh lớn tại thành phố Hồ Chí Minh năm

2000 là 98,8 đô-la một tháng, so với 105 đô-la vào tháng 6/ 2002 trong 3

công ty Hồng Kông tại Thượng Hải. Ngoài ra các chi phí giao dịch

(transaction costs) ở Việt Nam cũng rất cao.

Mặc dù còn tồn tại nhiều khó khăn nhưng ngành dệt may Việt Nam

đã tạo cho mình những tiền đề cơ bản, chuẩn bị tốt các điều kiện đón

những cơ hội thuận lợi trong giai đoạn tiếp theo, mở ra một trang mới

trong lịch sử phát triển của mình, tiếp tục khẳng định là ngành kinh tế mủi

10

Page 11: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

nhọn và có những đóng góp to lớn vào tiến trình phát triển kinh tế đất nước

.

2. Thương mại hàng dệt may ở Việt Nam những năm gần đây.

Hơn mười năm qua, xuất khẩu hàng dệt - may Việt Nam luôn đứng

vị trí cao trong các ngành xuất khẩu ( luôn đứng ở vị trí thứ hai trong các

mặt hàng xuất khẩu sau dầu khí ). Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,6

tỷ USD, tăng 30% so với năm 2002.Tính đến năm 2003, năng lực sản xuất

ngành dệt - may phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Số lượng doanh

nghiệp (DN) tăng gấp năm, sáu lần so với mười năm trước. Cả nước hiện

có khoảng 1.050 DN, trong đó 231 DN nhà nước chiếm 28%, 449 DN

ngoài quốc doanh, chiếm 32%, 354 DN có vốn đầu tư nước ngoài chiếm

30%... với tổng số lao động hơn hai triệu người, đồng thời tạo việc làm cho

hàng trăm nghìn lao động sản xuất các ngành phụ trợ như trồng bông,

trồng dâu nuôi tằm, thêu đan, sản xuất bao bì, phụ liệu... và hàng chục

nghìn lao động dịch vụ khác.

Trình độ công nghệ được cải thiện đáng kể, nhiều công đoạn sản

xuất đạt trình độ công nghệ tiên tiến trên thế giới. Thị trường xuất khẩu

hàng dệt - may Việt Nam luôn được mở rộng, góp phần đẩy nhanh tăng

trưởng kim ngạch xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành

trong mười năm (1990 - 2000) là 23,8%. Hàng dệt - may Việt Nam hiện có

mặt tại hơn 100 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có các thị trường lớn "khó

tính" như Mỹ, EU, Nhật Bản...Những kết quả đạt được này là do sự hổ trợ

của nhà nước trong viêc xúc tiến thương mại. Đồng thời chúng ta đã tham

gia vào tổ chức dệt may thế giới, Hiệp hội dệt may ASEAN, ASIA , tham

gia vào các chương trình của hiệp hội bông thế giới tổ chức tai Anh và Mỹ

đã gây tiếng vang cho ngành Dệt May Việt Nam trong quảng bá sản phẩm,

cũng như năng lực sản xuất kinh doanh của ngành .Đây coi như là thành

11

Page 12: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

quả bước đầu của ngành dệt may Việt Nam, thể hiện sự cố gắng của toàn

ngành trong thời gian qua.

Với chiến lược đầu tư đúng hướng , chất lượng sản phẩm hàng Dệt

May Việt Nam không ngừng được nâng cao. Thêm nữa, việc áp dụng hệ

thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000 (môi trường ), SA

8000 (về lao động ) …đã góp phần quảng bá thương hiệu và nâng cao khả

năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhiều thương hiệu nổi tiếng trong

nước như Việt Tiến, Nhà Bè, May 10 …được người tiêu dùng bình chọn là

hàng Việt Nam chất lượng cao. Tỷ lệ giá trị nội địa hóa trong hàng dệt -

may xuất khẩu ngày càng tăng. Xuất khẩu sản phẩm làm bằng vải, phụ liệu

sản xuất trong nước chiếm khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu, trong khi

con số này chỉ khoảng 2 - 3% trong giai đoạn đầu những năm 90 của thế

kỷ trước. Ngành dệt - may đã thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước về

sản xuất hàng trong nước thay thế hàng nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu ngày

càng cao của các tầng lớp trong xã hội, góp phần hạn chế hàng nhập khẩu.

Năm 2006 ngành dệt may phải đối mặt với nhiều khó khăn, chi phí đầu

vào tăng chóng mặt, giá đầu ra xuất khẩu giảm do cạnh tranh toàn cầu,

trong khi đó hàng nhập lậu từ Trung Quốc về tràn ngập và chi phối thị

trường nội địa. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may vẫn đạt

khoảng 5,8 tỷ USD (tăng trên 20%) so với năm trước, trong đó xuất khẩu

vào Hoa Kỳ đạt 3,1 tỷ (tăng 21%); châu Âu đạt xấp xỉ 1,2 tỷ USD (tăng

36%); Nhật Bản gần 640 triệu USD, tăng 5,3%. Và theo như ông Lê Quốc

Ân chủ tịch hiệp hội dệt may Việt Nam (vitas) kiêm chủ tịch HDQT tập

đoàn dệt may Việt Nam (vinatex) đó là một điểm son năm 2006.

Cũng trong năm 2006 , đã đánh dấu một bước phát triển với ngành

dệt may với những dự án đầu tư lớn của các nhà đầu tư nước ngoài . Đó laf

dự án dệt kim của công ty Global Dyeing (Hàn Quốc) hoạt động với công

suất 18.000 tấn /năm. Dự án formosa (Đài Bắc ) sản xuất sợi tổng hợp …

12

Page 13: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Những dự án này góp phần tạo tiền đề cho dệt may trong thời gian tới.

Quyết định 55 của Chính phủ trong đó có đề ra một số cơ chế chính sách

để tăng tốc ngành dệt may. Trong năm năm, từ 2001-2005, Quĩ hỗ trợ phát

triển đã cho ngành dệt vay khoảng 1.950 tỉ đồng, tương đương 118 triệu

USD, chiếm khoảng 10% số vốn mà các DN đã đầu tư và chiếm khoảng

5% trên tổng vốn đầu tư theo kế hoạch cần phải huy động của ngành.

Thực tế những biến động về tình hình xuất khẩu hàng dệt may của

Việt Nam vài năm gần đây cho thấy, khi hàng dệt may Trung Quốc tăng

trưởng mạnh mẽ, lấn chiếm thị trường lớn, thì dệt may Việt Nam sẽ gặp

rất nhiều khó khăn . Điển hình như những tháng đầu năm 2005, khi Trung

Quốc đang trong thời kỳ vừa được xoá bỏ hạn ngạch, tăng trưởng cao đã

đẩy các DN Việt Nam đến bờ vực tăng trưởng âm. Chỉ sau khi hàng dệt

may Trung Quốc bị áp hạn ngạch trở lại đối với một số mặt hàng tăng

trưởng quá nóng, hàng dệt may cùng loại của Việt Nam mới có cơ hội

phục hồi. Còn nếu cạnh tranh trực diện với hàng Trung Quốc trong những

mặt hàng thông thường và giá bán rẻ thì chắc chắn các DN Việt Nam sẽ

không tránh khỏi thất bại.

3. Tác động của việc bãi bỏ chế độ hạn ngạch đến ngành dệt may.

Sự kiện bãi bỏ hạn ngạch ngày 1/1/2005 đánh dấu một bước tiến

quan trọng của xu thế tự do hoá thương mại quốc tế. Sự kiện này có tác

động khác nhau đối với các quốc gia. Nó sẽ mở rộng giao dịch về hàng dệt

may giữa các nước là thành viên WTO . Do Việt Nam đã dược

EU,Canada dỡ bỏ việc áp dụng hạn ngạch hàng dệt may nên chỉ còn Hoa

Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ còn áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam

vào các nước đó. Điền này đã ảnh hưởng tới ngành dệt may Việt Nam:

- Thứ nhất, khi bãi bỏ hạn ngạch, các nhà sản xuất Việt nam sẽ phải

cạnh tranh gay gắt hơn với những nước thành viên khổng lồ của WTO mà

13

Page 14: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

tiêu biểu là Trung Quốc. Khi đó giá các sản phẩm của Trung quốc sẽ giảm

mạnh và yếu tố thời trang sẽ được khách hàng quan tâm nhiều hơn. Vì vậy

nhà sản xuất nào kết hợp được hai yếu tố: Giao hàng nhanh với chi phí

thấp sẽ có lợi thế. Các nhà nhập khẩu sẽ chọn nơi sản xuất nào họ có thể

đặt hàng trọn gói, từ vải, thiết kế mẫu, dây kéo đến nhãn mác... Do đó

nước nào phát triển được ngành công nghiệp dệt may với cơ cấu cân đối cả

Dệt - May - Các ngành phụ trợ thì sẽ có nhiều lợi thế vì có thể đáp ứng các

đơn hàng chủ động hơn, nhanh hơn.

- Thứ hai, cùng với xu thế tự do hoá thương mại, sản xuất không còn

bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, địa phương nữa, việc lựa chọn địa

điểm sản xuất ở đâu cần phải được xem xét cẩn thận hơn rất nhiều. Các

nhà sản xuất sẽ phải đối mặt với các quyết định về nguồn cung ứng đó là

nên tự sản xuất hay mua ngoài nguyên liệu, phụ liệu cho sản xuất. Xu

hướng chung của các quốc gia là sẽ sản xuất những mặt hàng nào có hiệu

quả (lợi thế) hơn và nhập khẩu những mặt hàng nào mà việc sản xuất ở

trong nước kém hiệu quả. Từ đó đặt ra vấn đề trong công tác tổ chức sản

xuất là các doanh nghiệp nên hợp nhất theo chiều dọc việc sản xuất nguyên

phụ liệu hay nên mua chúng từ những nhà cung ứng độc lập và cơ cấu sản

xuất của ngành sẽ cần phải hoàn thiện theo chiến lược sản xuất ấy.

- Thứ ba, khi chế độ hạn ngạch bị bãi bỏ, các khách hàng sẽ không

chia lẻ đơn hàng cho các nhà sản xuất nhỏ như trước nữa mà tìm đến với

những doanh nghiệp lớn có qui mô từ 1000 lao động trở lên và có uy tín để

đặt những đơn hàng lớn. Trong xu thế ấy, chỉ những doanh nghiệp nào có

quan hệ bạn hàng tốt, hệ thống phân phối tốt, biết liên kết để nâng cao sức

cạnh tranh và uy tín trong quan hệ bạn hàng thì sẽ thắng còn những doanh

nghiệp nhỏ lẻ, đơn độc sẽ khó tồn tại được.

14

Page 15: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

- Thứ tư, khi xoá bỏ hạn ngạch, sức ép về cạnh tranh sẽ ngày càng

gia tăng, yêu cầu của khách hàng cũng khắt khe hơn. Do đó muốn đứng

vững trong cạnh tranh thì tổ chức sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng yêu cầu

của các tiêu chuẩn quốc tế, phải hoà nhập vào hệ thống quản lý chất lượng

ISO 9000, quản lý môi trường ISO 14000 và hệ thống trách nhiệm xã hội

SA 8000.

CHƯƠNG II

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT

MAY NƯỚC TA TRONG HỘI NHẬP WTO.

I. Những nét cơ bản về tổ chức thương mại thế giới WTO.

Lúc 17 giờ ngày 7.11.2006, tại Geneva Thụy Sĩ, chủ tịch đại hội đồng

thế giới (WTO) Erik Glenne đã gõ búa chíng thức thông qua bộ hố sơ gia

nhập WTO của Việt Nam. Hai tiếng đồng hồ sau đó, Bộ trưởng thương

mại Trương Đình Tuyển và tổng giám đốc WTO Pascal Lamy đã ký vào

Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam .

Chiều ngày 8/11/2006 với 444 phiếu tán thành, đạt tỷ lệ 90,24% tổng

số đại biểu, Quốc Hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn Nghị

định thư gia nhập Hiệp Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).Việt Nam

được kết nạp trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới

sau 11 năm đàm phán gian khổ và nhiều cam go, Việt Nam tiếp tục tiến

bước trên con đường hội nhập và phát triển .

Tổ chức Thương mại thế giới có trụ sở chính tại Giơnevơ Thụy Sĩ.

Ngân sách của tổ chức là 169 triệu frans thụy Sĩ và có 600 nhân viên.

Giám đốc là ông Pascal Lamy. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO )

15

Page 16: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

được thành lập sau vòng Đàm phán Uruguay (1986-1994), và tất cả những

gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán .

Nói một cách đơn giản, WTO là nơi đề ra những quy tắc thương mại

giữa các quốc gia trên quy mô thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Có

nhiều cách nhìn nhận về tổ chức thương mại thế giới. Nó là tổ chức để tự

do hóa thương mại , là diễn đàn để các chính phủ đàm phán các hiệp định

thương mại , là nơi để họ giải quyết các tranh chấp thương mại. Nó điều

hành hệ thống các quy tắc thương mại .

Trước tiên, WTO là một khuôn khổ để đàm phán …WTO là diễn đàn,

nơi các quốc gia thành viên thương lượng giải quyết những tranh chấp phát

sinh trong quan hệ thương mại giữa họ. Các hoạt động mà WTO đang xúc

tiến hiện nay chủ yếu xuất phát từ những cuộc đàm phán diễn ra từ năm

1986 đến 1994, mang tên vòng đàm phán Uruguay, và từ những cuộc đàm

phán trước đó trong khuôn khổ Hiệp định chung về thuế quan và Thương

Mại (GATT) .

Đối với những nước mà phải đối mặt với những rào cản trong thương

mại và muốn hạ thấp những rào cản này, thì đàm phán giúp thúc đẩy tự do

hóa thương mại. WTO không chỉ tập trung vào mục tiêu tự do hóa thương

mại, trong một số trường hợp, WTO còn đề ra những quy định ủng hộ duy

trì rào cản thương mại, ví dụ như trong trường hợp chống sự lây lan của

dịch bệnh hay bảo vệ người tiêu dùng.

Nòng cốt của tổ chức là các hiệp định WTO được phần lớn các quốc gia

thương mại tham gia đàm phán và kí kết. Những văn bản này trở thành quy

tắc quy tắc pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế và các quy tắc này,

quy định này phải “minh bạch ” .

Những quy tắc của hệ thông thương mại phải đảm bảo :

- Không phân biệt đối xử : không một nước nào được phân biệt đối

xử giữa các đối tác thương mại của mình ( nghĩa là phải dành cho

16

Page 17: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

họ một cách công bằng quy chế “ đối xử tối huệ quốc ” hay còn

gọi là quy chế MFN ), cũng như không được phân biệt đối xử

giữa hàng hóa và dịch vụ ngoài nước ngoài.

- Dành ưu đãi cho các nước kém phát triển. Cho họ một thời gian

dài và linh động hơn , cùng một số đặc quyền thương mại .

- Tự do hóa hơn trong thương mại, xóa bỏ rào cản thông qua con

đường đàm phán .

- Cạnh tranh hơn : hạn chế những biện pháp thương mại không

lành mạnh như trợ cấp xuất khẩu , bán phá giá .

- Dự đoán trứơc được phải đảm bảo cho các công ty, các nhà đầu

tư và chính phủ nước ngoài rằng sẽ không áp dụng một cách tùy

tiện các rào cản thương mại , mức thuế quan và các cam kết mở

cửa thị trường được “ràng buộc” tại WTO.

II. Cam kết về hàng dệt may của VIỆT NAM với WTO.

Xét về chính sách kinh tế vĩ mô, theo Bộ trưởng Trương Đình

Tuyển: đa số các cam kết đa phương trong đàm phán gia nhập Tổ chức

Thương mại Thế giới (WTO) là phù hợp với luật pháp và đường lối đổi

mới của Việt Nam nên sẽ không gây ra biến động lớn. Bộ văn kiện gia

nhập WTO của Việt Nam, được Ban công tác phê chuẩn vào ngày

26/10/2006 (trước khi Đại hội đồng chính thức bỏ phiếu thông qua việc kết

nạp chính thức Việt Nam vào 7/11). Theo bô trưởng Trương Đình Tuyển :

“Gia nhập WTO là gửi ra bên ngoài một tín hiệu mạnh về quyết tâm đổi

mới của ta. Đầu tư trong nước và nước ngoài nhiều khả năng sẽ tăng lên và

tăng nhanh, qua đó tạo ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới.

Đây là cơ hội rõ nhất mà việc gia nhập WTO tạo ra và được nhiều tổ chức

quốc tế cũng như giới doanh nghiệp thừa nhận ”. Việt Nam đồng ý tuân

17

Page 18: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

thủ toàn bộ các hiệp định và các quy định mang tính ràng buộc của WTO

từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do là nước đang phát triển ở trình độ

thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi nên Việt Nam đã yêu cầu và

WTO đã chấp nhận hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số

cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), trợ cấp cho phi

nông nghiệp, quyền kinh doanh, v.v.

Cam kết của VIỆT NAM với WTO đối với Dệt may: các thành

viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam

khi vào WTO. Riêng trường hợp vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm

đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trả đũa nhất

định. Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt

đối với hàng dệt may của Việt Nam.Cam kết cắt giảm thúê nhập khẩu

trong đàm phán WTO cúa hàng dệt may: thuế suất MFN là 37,3% ; thuế

xuất khi gia nhập 13,7%; thuế suất cuối cùng 13,7%; thời gian thực hiện là

ngay sau khi gia nhập (thực tế đã thực hiện theo hiệp định dệt may với Mỹ

và EU) .

Trong quá khứ, các nước tiến hành các biện pháp nhập khẩu tràn

lan. Từ năm 1974 cho đến trước vòng Uruguay, thương mại hàng dệt may

được điều chỉnh bởi hiệp định Đa sợi (MFA). Theo hiệp định này, các

nước (chủ yếu là các nước phát triển) có quyền thiết lập hạn ngạch hạn chế

số lượng hàng nhập khẩu.

Việc áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may là trái với các nguyên

tắc cơ bản của WTO. Chính vì vậy, tại vòng đàm phán Uruguay, các nước

đang phát triển đã đấu tranh giành thắng lợi trong việc thiết lập Hiệp định

Dệt may(ATC) dẫn tới loại bỏ hạn ngạch cũng như tất cả các biện pháp

hạn chế nhập khẩu đối với hàng dệt may. Hiệp định ATC quy định rõ lịch

18

Page 19: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

trình loại bỏ hạn ngạch và hạn chế số lượng theo 4 giai đoạn cụ thể, bắt

đầu vào năm 1995 và hoàn thành vào 31/12/2004.

Để đảm bảo ATC được các nước thực hiện một cách nghiêm túc,

WTO thiết lập hẳn một cơ quan giám sát hàng dệt.

III . Cơ hội đối với thương mại hàng dệt may nước ta trong hội nhập

WTO.

Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Dệt may Việt Nam, ông Lê Quốc Ân,

khẳng định sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới,

ngành dệt may sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Cái

được đầu tiên khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO là

ngành dệt may sẽ không bị áp dụng chế độ hạn ngạch đối với thị trường

Mỹ. Ngành cũng sẽ được đối xử bình đẳng ở nhiều thị trường. Hạ tầng cơ

sở và cả nguồn nhân lực cũng sẽ được cải thiện bởi dòng đầu tư sẽ đổ vào

Việt Nam mạnh hơn, trong đó có dệt may.

Ngay năm 2007, khi đã là thành viên của WTO ngành dệt may có cơ

hội tiếp cận một cách bình đẳng tại các thị trường thế giới. Hơn nữa xu

hướng đầu tư chuyển dịch từ các nước công nghiệp mới như Nhật Bản ,

Hàn Quốc …sang những quốc gia phát triển, như Việt Nam sẽ mạnh mẽ

lên khi Việt Nam là thành viên của WTO, khiến ngành dệt may có điều

kiện phát triển hơn. Đầu tư nước ngoài vào dệt may tăng lên đáng kể, đặc

biệt là đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng của ngành .

Gia nhập WTO sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may xuất

khẩu khi không bị áp hạn ngạch. Giá cả, chất lượng sản phẩm và thời gian

giao hàng của các doanh nghiệp sẽ được bình đẳng với các nước và ngành

19

Page 20: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Dệt may Việt Nam có điều kiện huy động tối đa năng lực thiết bị và tay

nghề hiện có.

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã có uy tín trên thị trường quốc tế,

được khách hàng trong và ngoài nước biết đến như Việt Tiến, Nhà Bè,

Phương Đông, May Sài Gòn 3, May Sài Gòn 2, Dệt Phong Phú, Dệt Thành

Công, Dệt may Hà Nội, May Scavi, May An Phước, May 10, May 28… sẽ

có cơ hội tiếp nhận các đơn hàng lớn. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài vào Việt Nam làm ăn, góp phần tạo nên sự tăng trưởng mạnh

về kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may.

Ngành Dệt May có đủ sức cạnh tranh và phát triển nếu trong môi

trường cạnh tranh lành mạnh, không cần ưu đãi. Với những điều kiện đó

thì chắc chắn ngành Dệt May sẽ có 3 cái lợi là xuất khẩu không bị khống

chế quota; một số thị trường đang đối xử phân biệt về thuế, sẽ đưa thuế

nhập khẩu xuống bình thường; được hưởng những lợi ích từ môi trường

đầu tư. Nhưng xét cho cùng thì nguy cơ cạnh tranh trong một sân chơi

không bình đẳng của doanh nghiệp dệt may thời hội nhập là có thật. Bởi

hàng rào bảo vệ thị trường nội địa bằng thuế thu nhập sẽ giảm xuống tới

mức tối đa (thuế nhập khẩu hiện hành 40% với vải và 50% với hàng may

mặc, hàng rào này sẽ được giảm còn bình quân khoảng 15%). Bên cạnh

đó, các rào cản của nước ngoài sẽ được dựng lên, như các vấn đề về môi

trường, chống bán phá giá…

Ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Thêu-Đan

TP.HCM cũng nhận định: “Những doanh nghiệp xuất khẩu sẽ có những cơ

hội rất lớn. Tức là họ có thể xuất hàng ra tất cả các thị trường trên thế giới.

Ngược lại, tiến đến thương mại tự do theo đúng nghĩa, thì rõ ràng bây giờ

họ cũng có những thách thức. Các nước nhập khẩu chỉ chấp nhận những

20

Page 21: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

doanh nghiệp nào, quốc gia nào xuất hàng sang họ với một giá bán hợp lý,

kiểu dáng, mẫu mã phong phú. Đó là thách thức lớn nhất đối với chúng

ta”.

Kết thúc tháng 4/2007, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 600 triệu

USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sau bốn tháng đầu

năm đầu tiên khi chúng ta gia nhập WTO lên 2,19 tỷ USD. Như vậy, dệt

may vẫn là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao và ổn định nhất từ đầu

năm đến nay, trung bình đạt trên 550 triệu USD/ tháng.

IV. Thách thức đối vơi thương mại hàng dệt may nước ta trong hội nhập WTO.

Thứ nhất, khó khăn đối với ngành dệt may Việt Nam đang phải gặp

phải đó chính là sự thiếu năng động và xông xáo trong việc tìm kiếm khách

hàng và thị trường. Theo các chuyên gia CBI (tổ chức xúc tiến nhập khẩu

từ các nước đang phát triển của chính phủ Hà Lan ), hạn chế lớn nhất của

các doanh nghiệp Việt Nam là chưa tiếp xúc trực tiếp với với khách hàng

mà phải qua trung gian.Điều này là do đa số doanh nghiệp Việt Nam vẫn

giữ kiểu làm ăn “truyền thống ”, tức chỉ làm gia công hteo đơn đặt hàng từ

nước thứ 3, chứ không tự mình tìm tới khách hàng để giành đơn hàng

.Điều này sẽ gây bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam vì sẽ bị thua cuộc

trước những đối thủ cạnh tranh đầy năng động và xông xáo .Vì khi gia

nhập WTO chúng ta buộc phải cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp

nước ngoài .

Thứ hai, thách thức tiếp theo với các doanh nghiệp Việt Nam là

yếu kém trong việc xây dựng thương hiệu, quảng bá thương hiệu, thậm chí

các doanh nghiệp không cần cả thương hiệu, chỉ cốt bán được hàng .Hậu

quả là tuy chung ta xuất khẩu đạt kim ngạch cao nhưng có ít người biết đến

thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam.

21

Page 22: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Thứ ba, hàng rào bảo hộ tại thị trường nội địa sẽ không còn. Toàn

bộ thuế nhập khẩu hiện nay (đối với sản phẩm may mặc là 50%, sản phẩm

sợi là 20% và sản phẩm vải là 40%) sẽ phải giảm xuống mức thấp, khoảng

từ 10-15%, là mức chung của các thành viên WTO. Như vậy, sản phẩm dệt

may Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hàng dệt may nhập khẩu ngay tại thị

trường nội địa

Thứ tư, khó khăn lớn đối với ngành dệt may hiện nay là để mất thị

trường Mỹ. Để Quốc hội Mỹ chấp thuận thông qua việc áp dụng Quy chế

thương mại bình thường vĩnh viễn đối với Việt Nam (PNTR), Chính phủ

Mỹ đã cam kết sẽ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may

Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Có năm mặt hàng là

“sơ mi, quần dài, đồ bơi, đồ ngủ, áo len ” đã năm trong “tầm ngắm ”. Phía

Hoa Kỳ sẽ định kỳ thống kê 6 tháng một lần để làm cơ sổ điều tra, đó là

một thực tế khó khăn cho ngành dệt may Việt Nam.Nếu có những tình

huống khẩn cấp xảy ra thì có thể cho phép áp dụng mức thuế sơ bộ có tính

hồi tố và một khi việc bán phá giá xảy ra thì Bộ thương mại Mỹ sẽ tự tiến

hành điều tra chống bán phá giá đối với các sản phẩm liên quan . Mặc dù

chúng ta cho rằng, đây là việc làm không phù hợp với quy định của WTO

song đó là thực tế mà chúng ta khó tránh khỏi.

- Có thể liệt kê ra rất nhiều công ty đang sản xuất hàng may mặc tại

Việt Nam (trong đó có cả các công ty trong nước và đầu tư nước ngoài) bị

đóng cửa hoặc sản xuất cầm chừng vì các nhà nhập khẩu lo ngại cơ chế

chống bán phá giá sẽ gây rủi ro cho việc kinh doanh của họ.

Cụ thể hiện nay, Công ty Việt - Mỹ và Công ty Đại Hoàng Gia tại các khu

công nghiệp thuộc tỉnh Quảng Ngãi, một tỉnh nghèo tại miền trung Việt

Nam - đang phải đóng cửa vì không còn đơn hàng.

Điều đáng lo ngại là vì cơ chế này nên hiện nay các đơn hàng cho quý III

và quý IV phía Mỹ đang rất dè dặt và chưa đặt hàng. Bên cạnh đó các nhà

22

Page 23: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

nhập khẩu như Nike, Adidas.. còn giảm các đơn hàng đã có kế hoạch đặt

trước.

- Việc giám sát này đang gây nên những thiệt hại to lớn chẳng những

cho các nhà sản xuất Việt Nam, hàng triệu lao động Việt Nam mà còn gây

thiệt thòi cho các nhà nhập khẩu và ngành công nghiệp bán lẻ của Mỹ với

trên 15 triệu lao động. Hầu hết các nhà nhập khẩu Mỹ đã ngừng hoặc giảm

đáng kể đơn đặt hàng cho 6 tháng cuối năm vì e ngại tính rủi ro của cơ chế

giám sát.

- Trước thực trạng trên, theo giới chuyên gia kinh tế cho rằng , nếu

Mỹ áp dụng biện pháp chống bán phá giá với hàng dệt may Việt Nam thì

tình hình còn tồi tệ hơn chính sách hạn ngạch . Bởi trước khi áp dụng

chính sách hạn ngạch , bên cạnh mặt tiêu cực làm hạn chế xuất khẩu đối

với hàng dệt may Việt Nam còn có mặt tích cực là làm giảm thiểu tối đa

khả năng bị áp dụng các rào cản thương mại – trong đó có chống bán phá

giá vì sản xuất nội địa của nước nhập khẩu bị giới hạn bởi một lượng quota

nhất định. Nay khi cơ chế này mất đi, sẽ có ảnh hưởng tất yếu theo chiều

hướng ngược lại .Cứ theo quy chế này thì bất cứ lúc nào phía Mỹ cũng có

thể áp mức thuế cao để ngăn chặn hàng dệt may Việt Nam .Như vậy các

doanh nghiệp luôn ở trạng thái bất an.Thực tế một số nhà nhập khẩu Mỹ

đang muốn chuyển đơn hàng sang nước khác. Điều này là đáng lo ngại do

70% hàng dệt may VN là xuất khẩu sang Mỹ .

- Tất cả các nhà nhập khẩu Mỹ cho rằng việc áp dụng biện pháp này

sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của họ, bởi họ không thể lường

trước được khi nào sẽ bị tăng thuế. Điều này đồng nghĩa với việc nhiều nhà

nhập khẩu Mỹ sẽ quay lưng lại với hàng dệt may Việt Nam và Theo ông

Ân, nhiều nhà nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam ở Mỹ đang chuyển

hướng đầu tư và đơn hàng sang các nước khác. "Theo dự báo trước đây,

23

Page 24: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may sẽ tăng 15-20%/năm, nhưng nếu Mỹ

áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam và áp

dụng biện pháp chống bán phá giá, thì mức tăng chỉ còn khoảng 5-

7%/năm"

- Hiện ngành dệt may có khoảng 2 triệu lao động đang làm việc và

việc Mỹ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may sẽ gây

khó khăn cho người lao động. Theo ông Lê Quốc Ân, có thể số lao động

ngành dệt may chưa bị giảm đi trong năm 2007 vì Mỹ mới bắt đầu áp dụng

chế độ theo dõi này, nhưng từ năm 2008 trở đi, mức độ ảnh hưởng sẽ tăng

cao.

Thứ năm, thuế nhập khẩu hàng dệt may đã cắt giảm ngay ở mức

tương đối lớn, điều này sẽ dẫn tới một số thay đổi trong thị trường nội địa.

Các DN nhỏ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Nhưng trong thời gian tới, nếu

ngành dệt may VN không tích cực đầu tư làm chủ khâu nguyên liệu và

thiết kế mẫu mã thì lợi thế cạnh tranh sẽ kém dần đi. Tháng 1-2007, thuế

nhập khẩu hàng dệt may đã cắt giảm ở mức tương đối lớn. Cụ thể, thuế

suất thuế nhập khẩu nhóm hàng xơ, sợi giảm từ 20% xuống còn 5%; nhóm

hàng vải giảm từ 40% xuống còn 12% và đặc biệt, nhóm hàng may sẵn

giảm từ 50% xuống còn 20%.

Điều này sẽ tạo ra những thay đổi lớn ở thị trường nội địa. Đó là

những tổ hợp các công ty nhỏ trong lĩnh vực dệt sẽ rất khó khăn và việc

đóng cửa hàng loạt doanh nghiệp trong ngành là hoàn toàn có thể.

Đặc biệt, với nhóm quần áo và đồ may sẵn, việc cắt giảm thuế suất thuế

nhập khẩu là cơ hội để các thương hiệu quần áo may sẵn đẩy mạnh hoạt

động tại thị trường Việt Nam. Theo phân tích từ Trung tâm Xúc tiến

thương mại Việt Nam và Đầu tư TP Hồ Chí Minh cho thấy, vấn đề mấu

24

Page 25: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

chốt trong cuộc cạnh tranh này là kênh phân phối và thương hiệu, vốn là

những lĩnh vực yếu của doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả cuộc cạnh tranh

là gì? Là các thương hiệu may sẵn của Việt Nam sẽ nhường chỗ cho các

thương hiệu nước ngoài và sự sụt giảm lượng khách đáng kể tại các nhà

may do nhu cầu sử dụng hàng hiệu giá rẻ tăng cao.

Thứ sáu, hàng dệt may VN sẽ bị cạnh tranh ngay tại thị trường nội

địa bởi hàng Trung Quốc (TQ), Ấn Độ và Pakistan sau khi thuế nhập khẩu

50% đối với hàng may mặc và 40% đối với vải được giảm xuống 10-15%

đẩy các doanh nghiệp Việt Nam vào thế bất lợi ngay trên sân nhà .

Hệ thống các công ty bán lẻ của nước ngoài với tiềm lực lớn về vốn

và kinh nghiệm sẽ cạnh tranh mạnh mẽ với các công ty bán lẻ của VN, ảnh

hưởng cả đến hệ thống các cửa hàng bán lẻ truyền thống của doanh nghiệp

(DN).

Thứ bảy, Việc bỏ quota vào thị trường Mỹ là một thuận lợi nhưng

thị trường Mỹ từ lâu đã được chia phần. Nếu tính theo sản lượng xuất khẩu

vào thị trường Mỹ năm 2005 thì Trung Quốc chiếm 26% thị phần, Ấn Độ

5%, Pakistan 4,5%, Việt Nam chỉ chiếm 1,7% thị phần. Khả năng mở rộng

thị phần sẽ gặp nhiều khó khăn vì ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là làm

gia công, trong khi khách hàng Mỹ chỉ muốn doanh nghiệp xuất theo giá

FOB. Như vậy, trước mắt sẽ có nhiều khó khăn.

Việt Nam chỉ có khả năng xuất khẩu hàng may mặc vào Mỹ, nhưng

các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu chỉ làm gia công. Công nghiệp phụ

trợ của ngành dệt may Việt Nam hiện quá yếu. Ngành dệt may hiện phải

nhập khẩu hầu hết nguyên phụ liệu cho sản xuất: bông là 90%, xơ sợi tổng

25

Page 26: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

hợp nhập gần 100%, hóa chất thuốc nhuộm và máy móc thiết bị nhập gần

100%, vải 70%, sợi trên 50%, phụ liệu may khoảng 50%.

Do vậy, kim ngạch xuất khẩu của ngành sang Mỹ - cho dù có bỏ

quota - ước cũng chỉ tăng tối đa khoảng 8-10% mỗi năm. Sau năm 2008,

khi TQ không còn bị khống chế bằng biện pháp tự vệ đặc biệt của Mỹ và

châu Âu như hiện tại, có khả năng xuất khẩu hàng dệt may VN sẽ bị giảm

do cạnh tranh bởi hàng TQ.

Khi bỏ quota thì có thể nói sẽ diễn ra mấy khuynh hướng sau:

Thứ nhất, tăng trưởng quá mức, tăng trưởng quá mức như vậy có khi

phải giảm giá, nếu giá giảm làm cho nhà sản xuất dệt may Hoa Kỳ có ý

kiến, khi có ý kiến thì dễ dàng bị điều tra chống bán phá giá, và điều tất

yếu xảy ra là mặc dù họ chưa đưa ra kết luận nhưng mà chỉ công bố điều

tra thì nhà nhập khẩu sẽ sợ và dẫn đến bỏ nhập khẩu của Việt Nam. Do đó,

chúng ta phải làm thế nào để vẫn thúc đẩy sự tăng trưởng vì đó là nhiệm

vụ của chúng ta.

Thứ hai, đó là doanh nghiệp để bán được nhiều sản phẩm có khi hạ

giá xuống, lúc đó sẽ dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp và giảm lương

người lao động nhưng khi hạ giá lại cạnh tranh với hàng của Hoa Kỳ sản

xuất trong nước. Như vậy, có nguy cơ người ta điều tra về bán phá giá có

khi chúng ta không bán phá giá nhưng cũng có tiếng xấu.

Một mặt khác mẫu mã của hàng dệt may Việt Nam không đa dạng ,

nghèo nàn , chưa có sự thay đổi kịp thời để nhanh chóng nắm bắt thị hiếu

người tiêu dùng là điểm yếu khá lớn của các doanh nghiệp Dệt May Việt

Nam.Vấn đè nay đang được xem là khó khăn rất lớn của các sản phẩm

may mặc Việt Nam. Khi gia nhập WTO hàng hóa may mặc của các nước

26

Page 27: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

với mẫu mã đa dạng phong phú , sẽ tràn vào Việt Nam, đây là một thách

thức lớn với các doanh nghiệp của chúng ta.

Trong những tháng đầu năm khi chúng ta gia nhập WTO tính đến

tháng 4 năm 2007 mức độ sụt giảm kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của

Việt Nam sang thị trường EU, thậm chí tới mức báo động ở một số thị

trường lớn như Anh, Đức, Pháp, đã làm cho giới chuyên môn lo ngại mục

tiêu xuất khẩu của ngành dệt may trong năm 2007 sẽ khó khăn để đạt

được.

Một số chủng loại hàng dệt may trước đây vốn là thế mạnh chủ lực

của Việt Nam sang thị trường Mỹ nhưng nay cũng giảm tới 30-40%. Thực

trạng này đã làm cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn đầu tư nước

ngoài đứng trước nguy cơ thiếu đơn hàng khó vượt qua nếu không có

những giải pháp quyết liệt ngay từ bây giờ. Theo Hiệp hội Dệt may Việt

Nam, trong quý 1, năm 2007 này xuất khẩu hàng dệt may sang EU đã giảm

8% so với cùng kỳ năm ngoái, riêng thị trường Đức đã giảm tới 27,3%,

Anh giảm 26% và Pháp giảm 20%.

Theo các chuyên gia, nguyên nhân chính của tình trạng này là do các

doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt của

hàng dệt may Trung Quốc có giá rẻ và mẫu mã phong phú hơn. Bên cạnh

đó việc Trung Quốc đã được dỡ bỏ hạn ngạch vào các thị trường trong khi

Việt Nam vẫn phải chịu hạn ngạch cũng là rào cản lớn cho các doanh

nghiệp Việt Nam.

Tại thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam đã được bãi bỏ hạn

ngạch, nhưng kim ngạch xuất khẩu cũng không tăng như dự báo ban đầu

bởi Việt Nam vẫn bị áp đặt thuế nhập khẩu lên tới 12%.

27

Page 28: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Xét về yếu tố chủ quan, với những điểm yếu cố hữu như sức cạnh

tranh yếu, khả năng đáp ứng đơn hàng chậm, mẫu mã đơn giản, nguyên

phụ liệu phải nhập khẩu nhiều, các doanh nghiệp Việt Nam khó lòng có

thể cạnh tranh được với ngay cả hàng dệt may của một số nước trong khu

vực như Inđônêxia, Lào, Campuchia - những nước được Mỹ, Eu xem xét

bãi bỏ thuế nhập khẩu.

Một nguyên nhân nữa làm kim ngạch xuất khẩu của ngành giảm sút

là cung cách điều hành hạn ngạch của các cơ quan quản lý còn khá chậm

chạp, thiếu linh hoạt. Điển hình là quy chế chuyển nhượng hạn ngạch vào

Mỹ đã được Thủ tướng thông qua từ tháng 2 nhưng tới đầu tháng 4 mới

được liên Bộ Thương mại, Công nghiệp ban hành, làm nhiều doanh nghiệp

bị lỡ cơ hội giành được đơn hàng.

28

Page 29: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

CHƯƠNG III

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ TẬN DỤNG CÁC CƠ HỘI

VÀ KHẮC PHỤC NHỮNG THÁCH THỨC.

I. Mục tiêu , phương hướng phát triển của thương mại hàng

dệt may Việt Nam.

1. Mục tiêu.

Nói chung, dệt may là ngành đã đạt được hại mục tiêu quan trọng

mà Đảng và nhà nước hết sức quan tâm, tăng cường xuất khẩu và thu hút

ngoại tệ mạnh và hiện đang là một trong hai ngành đạt được kim ngạch

xuất khẩu lớn trong vòng nhiều năm (chỉ sau ngành dầu khí ), hai là taqọ

công ăn việc là cho hàng triệu lao động ,thu hút thêm hàng vạn lao động

mỗi năm. Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công

nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thoả mãn ngày càng cao nhu

cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả

năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Kim

ngạch xuất khẩu đến năm 2010: 8.000 đến 9.000 triệu đô la Mỹ.

Dệt may Việt Nam phấn đấu đến năm 2010 trở thành tập đoàn đa sở

hữu hàng đầu về quy mô SX-KD lẫn năng lực cạnh tranh sản phẩm trong

khu vực Đông Nam Á: Xây dựng được một số thương hiệu sản phẩm hàng

đầu trong khu vực; phát triển hệ thống bán lẻ phủ kín cả nước; XK đạt 2,5

tỉ USD, thu hút khoảng 150.000 lao động.

“Top 10 ” trong số các nước xuất khẩu dệt may trên thế giớ đang là

mục tiêu hướng tới của ngành dệt may Việt Nam.Với kinm ngạch XK năm

2006 đạt 5,8 tỷ USD, tăng trên 20% so với năm trước Việt Nam được xếp

29

Page 30: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

hạng 16/153 nước xuất khẩu dệt may trên thế giới. Đây là nền tảng để

ngành dệt may Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu trong năm 2007 và

những năm tiếp theo. Đầu tàu để đưa Việt Nam lên hạng, thay đổi bản đồ

xuất khẩu trong bối cảnh cạnh tranh là Vinatex . Đó là chỉ đạo của thứ

trưởng thường trực bộ công nghiệp Bùi Xuân Khu trong hội nghị tổng kết

của ngành vừa qua. Dệt may sẽ trở thành một tập đoàn mạnh mang thương

hiệu quốc gia mà nhà nước không cần nắm giữ cổ phần . Chiến lược tăng

tốc dệt may chắc chắn sẽ bị chậm lại một khi nguồn vốn ưu đãi và chính

sách hỗ trợ của Nhà nước không còn. Nhưng không còn cách nào khác,

DN dệt may phải tự mình cố gắng vươn lên để tồn tại.

Năm 2007 , năm đầu tiên gia nhập WTO , ngành dệt may đã đặt mục

tiêu xuất khẩu đạt kim ngạch 7,374 tỷ USD tăng khoảng 27% so với năm

2006 . Đó là một mục tiêu không quá cao so với những gì mà ngành dệt

may đã đạt được năm 2006, tuy nhiên nếu nhìn vào những thách thức thì

đó là mục tiêu không dễ dàng đạt được. Kế hoạch năm 2007 tập đoàn dệt

may Việt Nam sẽ cổ phần hóa xong các đơn vị thành viên và năm 2008

tiến hành kế hoạch hóa tập đoàn. Tập đoàn cũng kiến nghị Bộ CN cho

phếp được đảy mạnh cổ phần hóa tổng công ty từ 2007 để chống lại nguy

cơ bị kỳ thị bởi đối tác nưứoc ngoài. Hiện Việt Nam được xếp hạng 16/153

nước xuất khẩu dệt may .

2. Phương hướng .

-Về cơ cấu ngành: Những năm qua ngành dệt may chỉ phát triển

mạnh về lĩnh vực may mặc do lĩnh vực này cần ít vốn, thời gian thu hồi

vốn nhanh; còn lĩnh vực dệt phát triển chưa tương xứng cả về qui mô, trình

độ, năng lực cạnh tranh rất thấp không đáp ứng được nhu cầu của ngành

may; đặc biệt là công nghiệp phụ trợ còn rất nhỏ bé có thể nói là rất yếu

không đáp ứng được nhu cầu phát triển ngành: nguyên phụ liệu phải nhập

30

Page 31: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

khẩu từ 70- 80%. Vì vậy ngành Dệt - May chỉ thiên về làm gia công giá trị

gia tăng và hiệu quả kinh tế thấp. Xu thế phân tích đã chỉ rõ cần đẩy mạnh

phát triển công nghiệp dệt và công nghiệp phụ trợ để tạo ra ngành có cơ

cấu Dệt - May - công nghiệp phụ trợ cân đối và tăng tính chủ động cũng

như hiệu quả trong phát triển ngành.

Thực tế những năm qua đã cho thấy việc mua ngoài nguyên phụ liệu

có ưu điểm là tạo được sự linh hoạt nhờ có thể chuyển đổi các nhà cung

ứng để chọn nguồn nguyên liệu giá rẻ và giảm được những rủi ro khi quá

trình kinh doanh không thuận lợi. Nhưng mặt hạn chế lớn đó là làm tăng

tính phụ thuộc vào các nhà cung cấp, nên rất dễ bị ép giá và hạn chế sự chủ

động trong sản xuất, đáp ứng đơn hàng. Vì vậy nếu có khả năng thì cần

chuyên nghiệp hoá các hoạt động sản xuất, kinh doanh, phụ trợ và phát

triển quan hệ trao đổi mua bán nguyên liệu giữa các doanh nghiệp dệt và

may trong vùng, trong nước, trong khu vực để giảm áp lực cạnh tranh từ

bên ngoài, đồng thời tăng tính chủ động và tạo động lực để phát triển cả

hai ngành dệt và may.

- Về qui mô : Trong tương lai khách hàng có xu hướng tìm đến

những nhà sản xuất lớn có nguồn cung ổn định, thời hạn giao hàng nhanh

thì rõ ràng các doanh nghiệp lớn sẽ tiếp cận các khách hàng lớn dễ hơn,

còn những doanh nghiệp có qui mô sản xuất nhỏ, sức cạnh tranh thấp sẽ vô

cùng bất lợi. Điều này sẽ đặt ra yêu cầu thúc đẩy các nhà sản xuất trong

nước phải đi theo xu thế hợp tác, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ để hình

thành những tập đoàn sản xuất lớn có sức mạnh cạnh tranh cao. Các doanh

nghiệp đầu đàn sẽ trở thành những đầu mối, hỗ trợ cho các doanh nghiệp

nhỏ bằng cách thu hút các doanh nghiệp nhỏ làm vệ tinh hoặc nhận sát

nhập các doanh nghiệp nhỏ để củng cố, hay thành lập các công ty cổ

phần...

31

Page 32: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

- Vấn đề chuyên môn hoá sản xuất: Để mở rộng khả năng hợp tác

giữa các nhà sản xuất cũng như khả năng hoàn thiện sản phẩm đòi hỏi các

nhà sản xuất phải đẩy mạnh sản xuất theo hướng chuyên môn hoá. Mỗi

doanh nghiệp cần đi sâu làm chủ một vài công nghệ, từ đó định hướng đầu

tư những máy móc chuyên dùng để tập trung sản xuất chuyên sâu theo

từng nhóm sản phẩm: sợi, dệt, riêng khâu may mặc nên chuyên môn hoá

hẹp hơn theo các sản phẩm như: sản phẩm quần âu, áo sơ mi, quần áo trẻ

em, quần áo thể thao...

- Để giữ vững thị trường truyền thống và tìm kiếm thị trường mới

nhằm tăng cao hơn nữa kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chúng ta cần

tập trung giải quyết vấn đề: Trong khâu tạo mẫu mốt ,nhãn hiệu hàng hóa

cần phải được cải thiện nhằm khắc phục tình trạng các mốt ,nhãn mác sản

phẩm hiện nay đều do các đối tác nước ngoài cung cấp. Hơn nữa ngyên

phụ liệu cung cấp cho ngành dệt may chủ yếu phải nhập từ nước ngoài, vì

vậy tính thời trang, tính nhanh nhậy và khả năng tiếp cận thị trường nắm

bắt thị hiếu người tiêu dùng của các doanh nghiệp dệt may vẫn còn yếu

.Các doanh nghiệp cần giải quyết được khâu này thì việc giữ vững thị

trường truyền thống và tìm kiếm mở rộng thị trường mới không phải là

quá khó đối với doanh nghiệp Việt Nam .

Tình hình rất khó khăn đối với các doanh nghiệp VN, doanh nghiệp

muốn giá cao nhưng thực tiễn VN luôn lép về giá cả. Cần quản lý giá,

song phải quản lý như thế nào, dựa vào đâu để xác định gía bình quân. Bên

cạnh đó phải áp dụng phương pháp quản lý nhanh: tham lhảo nhanh thông

tin, thông báo, cảnh báo, giản tiện các thủ tục hành chính .Các ý kiến của

hầu hết các doanh nghiệp đều tán thành việc tiếp tục các biện pháp quản lý

như áp dụng giấy chứng nhận xuất khẩu E/C thay cho visa, cấp giấy C/O

from B, đồng ý biện pháp quản lý giá bình quân tối thiểu .

32

Page 33: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Theo quan điểm của bộ, của ban dệt may là không làm thay doanh

nghiệp, doanh nghiệp cần phải biết chuyển mục đích của mình thành ý chí

DN . Bộ không đưa giá tối thiểu mà cung cấp thông tin về giá , đưa ra

khuyến cáo không nên bán thấp hơn để các DN định hướng đưa ra chào

giá, đồng thời cảnh báo các DN bán giá mức thấp hơn mức an toàn . Bộ

trưởng Trương Đình Tuyển cũng không quên cảnh báo các doanh nghiệp

nhất là các doanh nghiệp đang hưởng các chính sách ưu đãi khi xây dựng

giá thành đừng bỏ ngoài những chi phí mà trước giờ đang được ưu đãi như

thuế thu nhập, thuế đất …

II. Giải pháp cho thương mại hàng dệt may Việt Nam.

“Bắt mạch” được những khó khăn của ngành dệt may phái đối mặt thì

bước tiếp theo chính là việc đưa ra các giải pháp thực hiện, cụ thể như sau:

1. Theo các nhà hoạch định chiến lược điều quan trọng nhất đôí

với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là phải thay đổi nhận thức.Các

doanh nghiệp cần biết rằng , trong cơ chế thị trường và xu hướng toàn cầu

hóa, thị trường phải là nơi xuất phát của quá trình sản xuất kinh doanh, lây

nhu cầu đòi hỏi của thị trường để định hướng hoạt động và thường xuyên

bám sát nhu cầu của thị trường để điều chỉnh sản xuất, cả về số lượng và

chất lượng. Muốn đạt được điều này, bên cạnh việc làm hàng gia công xuất

khẩu qua trung gian các doanh nghiệp trong ngành cần tích cực đầu tư mở

rộng thị trường xuất khẩu trực tiếp (FBO) và hướng vào thị trường nội địa.

Đồng thời các doanh nghiệp cần mạnh dạn coi thị trường như là một phần

tài sản cố định, thường xuyên được đầu tư chuyên sâu, đổi mới .

2. Để chủ động hội nhập thành công ,các doanh nghiệp cần chú

trọng đến chiến lược xây dựng uy tín thương hiệu .Trong đó muốn tạo

dựng uy tín với khách hàng thì sản phẩm đưa ra thị trường phải đạt chất

lượng cao, chủng loại phong phú, mẫu mã đẹp. Các doanh nghiệp cần xem

33

Page 34: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

thương hiệu như tài sản, tiền bạc quyết định đến sự thành công của doanh

nghiệp, từ đó đưa ra những sách lược hợp lý nhằm đảm bảo cho thương

hiệu tính pháp lý trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Thực tế cho thấy

để xây dựng một thương hiệu, các doanh nghiệp phải chi phí hàng trăm

nghìn, thậm chí cả triệu USD mỗi năm để quảng bá thương hiệu. Nhưng do

chểnh mảng , doanh nghiệp có thể bị lấy mất thương hiệu mà muốn lấy lại

thương hiệu phải tốn không ít tiền bạc cho những tranh chấp pháp lý .

Hiện một số thương hiệu dệt may Việt Nam đã đăng ký và tạo ấn

tượng trên thị trường XK và tiêu dùng nội địa như Vee Sendy (Việt

Tiến ) ,Novelty( Nhà Bè), Pharaon(May 10)…. Thị trường XK dệt may

cũng được điều chỉnh giảm bớt những biến động từ những rào cản .Thông

qua các hoạt động xúc tiến thương mại sang các thị trường truyền thống và

thị trường mới để giảm phụ thuộc vào thị trường Mỹ (chiếm dưới 50% ),

tăng thị trường EU, Nhật lên 40% .

3. Theo thứ trưởng Bộ Công Nghiệp ông Bùi Xuân Khu cho rằng

năm 2007 ngành dệt may phải đẩy mạnh công tác đầu tư , “Nguồn vốn

đầu tư phải đa dạng và đa sở hữu., tăng tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng

trong sản phẩm XK bằng các giải pháp liên doanh, liên kết với các nhà đầu

tư chiến lược quốc tế trong lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu ,tập trung

vào thiết kế mẫu mã, xây dựng thương hiệu cho từng doanh nghiệp và cho

cả quốc gia .

4. Vấn đề phòng ngự từ xa để đối phó với các rào cản thương mại

phải được chú ý đặc biệt. Đồng thời phải nghiên cứu, năm vững và vận

dụng tốt luật lệ, tập quán buôn bán quốc tế. Hạn chế tới mức thấp nhất

việc vi phạm, như bán phá giá, các quy định về nhãn mác, xuất xứ…

Theo ông Lê quốc Ân ( Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Dệt may

Việt Nam), có thể hạn chế tình huống xấu xảy ra nếu có sự hợp tác chặt

34

Page 35: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

chẽ giữa các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước trong việc

kiêm soát chống chuyển tải hàng dệt may bất hợp pháp sang Hoa Kỳ,

giám sát và quản lý giá bình quân, không để giá bị giảm đột ngột. Hạn chế

xuất khẩu các lô hàng đơn giản, đẳng cấp thấp và giá quá thấp. Các doanh

nghiệp phải nói “không ” với việc chuyển tải bất hợp pháp , gia công tái

xuất các lô hàng không đúng theo quy chế C/O (giấy chứng nhận xuất xứ )

của Hoa Kỳ. Kiện toàn lại hệ thống sổ sách liên quan đến lý lịch và chi

phí đầu vào của lô hàng xuất khẩu. Riêng hiệp hội và các bộ ngành liên

quan cần có biện pháp giám sát, tổng hợp số liệu kịp thời của nhốm hàng

nhạy cảm mà Hoa Kỳ đặt trong cơ chế giám sát.Việc Hoa Kỳ đang xây

dựng cơ chế giám sát đối với hàng dệt may Việt Nam, để hạn chế những

tình huống xấu có thể xảy ra các doanh nghiệp dệt may cần có sự hợp tác

chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm soát chông chuyển

tải những hàng dệt may bất hợp pháp vào Hoa Kỳ, giám sát và quản lý giá

bình quân, tổng hợp kịp thời số liệu 5 nhóm mặt hàng nhảy cảm đặt trong

cơ chế giám sát của Hoa Kỳ.Mặt khác các doanh nghiệp không nên quá tập

trung vào thị trường Mỹ mà phải tích cực khai thác thêm nhiều thị trường

mới .

5. Tiếp nữa để không bị lấn ép trên “sân nhà” ngành dệt may cũng

nên xác định thị trường nội địa đang chiếm tới 60% doanh số của ngành

dệt và khoảng 30% doanh số ngành may. Các doanh nghiệp nếu tận dụng

được lợi thế sân nhà, nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng trong nước và xây

dựng những tập đoàn dệt may lớn, phân chia đầu tư thích đáng vào từng

lĩnh vực như: thiết kế sản phẩm. Có mạng lưới phân phối trong nước và

xuyên quốc gia tốt .. chắc chắn thị trường trong nước không bị thu hẹp thị

phần mà thương hiệu sản phẩm dệt may Việt Nam còn được quảng bá rộng

rải trên thế giới .

35

Page 36: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

6. Ngành dệt may cần tăng cường sức cạnh tranh, tập trung vào

sản phẩm có giá trị , hàm lượng công nghệ cao để tránh nguy cơ chống

bán phá giá của Hoa Kỳ. Ngành dệt may cũng phải đầu tư đẻ chiếm lĩnh thị

trường nội địa trước khi hệ thống bán lẻ nước ngoài xâm nhập. Tuy vậy

cần có những cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa tập đoàn dệt may và các tỉnh

thành. Xây dựng ở miền Trung thành trung tâm dệt may của cả nước. Thiết

lập trung tâm nguyên phụ liệu chủ động nguồn nguyên liệu .

Trước thực tế đó, Hiệp hội dệt may đã định hướng các DN phải sản

xuất những sản phẩm chất lượng và giá trị gia tăng cao, để tránh cạnh tranh

trực diện với ngành dệt may khổng lồ của Trung Quốc, đây là giải pháp

chủ lực để các DN tìm ra lối đi riêng an toàn hơn. Song như thừa nhận của

ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội thì trên thực tế việc thực hiện còn rất

chậm chạp.

Một ví dụ để DN Việt Nam có thể tham khảo, đó là Đài Loan, khi

các DN của Đài Loan khó có thể đương đầu được với các DN ngành dệt

khổng lồ của Trung Quốc, họ đã tìm ra những mặt hàng độc đáo để đầu tư

cho sản xuất và tìm thị trường, đó là những sản phẩm có tính năng khác

biệt cao, sản lượng thấp những giá bán cao hơn hẳn các mặt hàng phổ biến.

Việt Nam phải chọn đi theo hướng đó, sản xuất các mặt hàng riêng biệt,

độc đáo để chiếm một thị phần ổn định và có khách hàng riêng

7. Để tồn tại, DN tùy theo thế mạnh phải xây dựng cho mình chiến

lược cạnh tranh đúng đắn. Chiến lược đó phải bao gồm: sản phẩm chủ

lực, thị phần chủ lực và các giải pháp quản lý nguồn lực hợp lý để thực

hiện cho được chiến lược đó. DN cũng phải tăng năng suất lao động và

nghiên cứu các sản phẩm có tính khác biệt cao để tăng khả năng cạnh

tranh.. Tiến sĩ David Luff, luật gia quốc tế khẳng định, khi tổ chức chiến

36

Page 37: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

lược tiếp thị, các nhà sản xuất hàng dệt may Việt Nam nên xem xét các vấn

đề, như kiểm tra các tiêu chuẩn để được công nhận và hưởng đối xử theo

tư cách nền kinh tế thị trường và chuẩn bị trước hồ sơ theo hướng này.

“Cũng cần phải tiến hành đối thoại công, tư trong trường hợp ràng buộc,

bởi những biện pháp nhất định của Chính phủ, khiến họ không đủ điều

kiện được hưởng đối xử theo tư cách nền kinh tế thị trường”

8. . Trước sức ép cạnh tranh, ngành Dệt đã tính đến việc đa dạng

hoá thị trường theo hướng ‘’năng nhặt chặt bị’’, không tập trung quá

nhiều vào một thị trường. Chú trọng nâng cao sức cạnh tranh của các sản

phẩm, tăng cường đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu ngay tại thị trường nội

địa. Và tiếp tục vận động chính quyền Mỹ sớm chấm dứt chế độ theo dõi

đặc biệt đối với ngành Dệt May Việt Nam, cũng như áp dụng biện pháp

chống bán phá giá...

9. Đồng thời, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cũng đã bàn thảo một số

kế hoạch để bảo vệ quyền lợi và hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng cơ hội để

thành công như: Tiến hành quảng bá thương hiệu, xúc tiến mở rộng thị

trường, hỗ trợ cập nhật thông tin thị trường và công nghệ, phát triển nguồn

nhân lực; làm cầu nối giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước, giữa các

đơn vị, tổ chức; bảo vệ quyền lợi hội viên, đặc biệt là trong điều kiện các

nước nhập khẩu đưa ra các hàng rào bảo hộ. Nhưng nhiệm vụ trước mắt là

cần nhanh chóng hình thành và đưa vào hoạt động trung tâm nguyên phụ

liệu để cung ứng nguyên phụ liệu và thiết kế mẫu mốt cho khách hàng.

Nhằm thúc đẩy trung tâm nguyên phụ liệu nhanh chóng hoạt động ổn định,

trong tháng 4/2007, Hiệp hội sẽ tổ chức Hội chợ triển lãm nguyên phụ liệu

dệt may quốc tế tại TP.HCM.

Song song đó, để tránh bị tồn đọng quota trong 2 tháng cuối năm,

Ban điều hành dệt may và Hiệp hội Dệt May Việt Nam đề nghị các doanh

37

Page 38: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

nghiệp đang có hạn ngạch ký quỹ phải đăng ký số lượng hàng xuất khẩu,

tên khách hàng, tên hợp đồng, ngày giao hàng… với Ban điều hành trong

những ngày đầu tiên của tháng 11/2006. Các doanh nghiệp phải đảm bảo

sử dụng trên 90% số lượng đăng ký lại, nếu không sẽ phải chấp nhận hình

thức chế tài nặng hơn từ cơ quan quản lý (có thể không được xuất khẩu

sang Mỹ trong quý 1/2007). Sau đó, Ban điều hành dệt may sẽ thông báo

công khai lượng hạn ngạch còn lại và cấp visa tự động cho tất cả doanh

nghiệp

10. Quy mô sản xuất lớn, thiết bị hiện đại, đủ khả năng đảm

đương các đơn hàng lớn có giá trị cao. Mặt khác, tích cực trong việc xây

dựng hình ảnh dệt may VN hướng về thời trang, như là giải pháp chính để

tăng sức cạnh tranh của toàn ngành so với các nước cạnh tranh khổng lồ

khác như Trung Quốc, Ấn Độ. Tập trung ưu tiên phát triển sản xuất một

số mặt hàng chủ lực, thông dụng, có yêu cầu số lượng cao ở các doanh

nghiệp may xuất khẩu như vải bông, bông pha để may áo, may quần, vải

dùng trong gia đình; Chọn khâu nhuộm, hoàn tất là khâu then chốt để thực

hiện chuyên môn hóa sản xuất và kinh doanh, nhằm nâng cao chất lượng,

đẳng cấp mặt hàng

III. Tạo lập điều kiện cần thiết để thực hiện những giải pháp.

1. Điều kiện vĩ mô.

a. Chính phủ.

Khai thác triệt để những lợi thế và chủ động vượt qua những thách

thức khi gia nhập WTO là tiền đề quan trọng trong việc hội nhập thị

trường toàn cầu, dần thích nghi và bắt kịp tồ độ phát triển của các nước

tiên tiến trên thế giới. Trước hết nhà nước cần hoàn thiện hệ thống chính

sách, văn bản pháp luật và hướng dẫn thi hành những cam kết và thõa

thuận theo hiệp định thưưong mại song phương, đa phương và theo quy

38

Page 39: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

chế WTO đề ra. Bên cạnh đó cũng cần đẩy nhanh quá trình tổ chức, sắp

xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa DNNN,

chuẩn bị đầy đủ tiềm lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu. Đồng thời nhà

nước còn cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, chuẩn bị cho quá trình

tiếp thu những tiến bộ khoa học công nghệ -kỹ thuật, những công nghệ tiên

tiến, những kinh nghiệm quản lý để đáp ứng yêu cầu của bộ máy quản lý

đa năng và chuyên nghiệp hóa sau này .

Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành đàm phán mạnh mẽ với Mỹ để nới

rộng hạn ngạch, giảm hoặc bỏ thuế nhập khẩu cho hàng dệt may Việt Nam,

để doanh nghiệp có thể cạnh tranh bình đẳng với các nước khác.

Chúng ta khẳng định rằng Việt Nam nghiêm chỉnh thực hiện các

cam kết quốc tế và trên thực tế Việt Nam không có khả năng bán phá giá

hàng dệt may nói riêng và các mặt hàng khác nói chung sang thị trường

các nước. Thủ tướng chính phủ đã hủy Quyết định số 55 –TTg về phát

triển ngành dệt may đến năm 2010 (trong đó có một số biện pháp hỗ trợ

cho ngành dệt may ).

Theo các doanh nghiệp trong ngành dệt may, không thể hiện bằng

tiền, nhưng đẩy mạnh hỗ trợ thông qua thông tin thị trường, tư vấn, huấn

luyện và tạo môi trường kinh doanh tốt cũng là một trong những biện pháp

hỗ trợ của Chính phủ hoàn toàn không vi phạm các cam kết WTO, đồng

thời lại rất hữu hiệu cho doanh nghiệp

b.Bộ thương mại và các bộ có liên quan :

Theo TTXVN, các nhà quản lý, các chuyên gia kinh tế và nhiều

doanh nghiệp nhận định: việc Bộ Thương mại cấp giấy phép xuất khẩu cho

hàng dệt may xuất sang Hoa Kỳ, được áp dụng từ 15/3/2007 không gây bất

kỳ phiền hà nào và không hạn chế số lượng xuất khẩu của doanh nghiệp.

39

Page 40: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Bộ thương mại ,Bộ Công nghiệp sau khi ý kiến chỉ đạo của thủ

tướng Chính phủ đã quyết định áp dụng cơ chế điều hành xuất khẩu hàng

dệt may sang Hoa Kỳ theo hướng giám sát mà phía Hoa Kỳ dự kiến giám

sát. Để giảm các lô hàng giản đơn có giá thấp, quản lý tốt quá trình tăng

trưởng xuất khẩu. Liên Bộ sẽ tổng hợp và hiệp thương hướng dẫn các

doanh nghiệp và hiệp hội dệt may Việt Nam để xử lý các trường hợp cụ

thể .

Trong nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, ông Nguyễn Đức

Thanh, Trưởng Ban Dệt May của Bộ Thương mại cho biết trong tháng 5

năm 2007 Bộ sẽ phân hạn ngạch theo liên kết chuỗi, sớm 2 tháng so với

quy định, đồng thời đẩy nhanh những thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền

của Ban, đưa địa chỉ e-mail của các thành viên trong Ban lên mạng để các

doanh nghiệp thuận tiện trao đổi thông tin, cũng như giải đáp kịp thời

những thắc mắc của doanh nghiệp

2. Điều kiện vi mô.

Về phía các doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng tiếp cận thị trường

toàn cầu, trong đó hiểu sâu sắc và nghiêm túc thực hiện những quy chế

trong kinh doanh thương mại quốc tế, những vấn đề bản quyền, tiêu chuẩn,

chất lượng, quy địnhchống bán phá giá … Cũng cần chuẩn bị tốt nguồn lực

với trình độ cao, nhằm tiếp thu những công nghệ mới, nâng cao chất lượng

sản phẩm, giảm giá thành, tăng dịch vụ sau bán .

Đặc biệt các doanh nghiệp cần phải xây dựng cho mình chữ tín

trong kinh doanh. Xây dưng những thương hiệu mạnh không những chỉ có

tiếng ở Việt nam mà cón có uy tiến trên thị trường. Vì hiện nay hàng dệt

may chúng ta xuất khẩu vẫn chủ yếu qua các thương hiệu nổi tiếng trên thế

giới như các thương hiệu của Đức…

40

Page 41: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Trong thời gian tới các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam sẽ

tiếp tục phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt tại các thị trường lớn,

nhất là thị trường EU và thị trường Mỹ vì vậy vấn đề sống còn đối với các

doanh nghiệp hiện nay là phải tự vạch ra cho mình chiến lược sản xuất và

xuất khẩu phù hợp với từng thị trường cụ thể. Bên cạnh những giải pháp đã

và đang thực hiện nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm như tăng

năng suất lao động, kiểm soát chi phí, giảm giá thành, tăng cường hợp tác

các chuỗi liên kết, đổi mới công tác tiếp thị sản phẩm, các doanh nghiệp

phải tự tìm ra được những "thị trường ngách", "thị trường khe", tận dụng

lợi thế từ những đơn hàng nhỏ mà các đối thủ cạnh tranh không quan tâm

đến. "Giành được nhiều đơn hàng nhỏ, nhưng có giá trị gia tăng lớn, ngành

dệt may Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu".

Các doanh nghiệp dệt may đã có đề nghị các bộ, ngành cần tiếp tục

đơn giản hóa các thủ tục hành chính, thực hiện nhanh gọn các thủ tục liên

quan tới quản lý hạn ngạch, quản lý xuất nhập khẩu và thuế quan.

Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay, trong thời gian

tới Hiệp hội Dệt may sẽ tiếp tục cập nhật tình hình thị trường, tăng cường

xúc tiến thương mại thông qua việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp

tham gia các hội chợ thương mại quốc tế, tổ chức thành lập trung tâm giao

dịch nguyên phụ liệu dệt may tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, liên

kết đào tạo nguồn nhân lực, nhằm nâng cao chất lượng lao đong trong

ngành.

Theo Bộ trưởng Trương Đình Tuyển: Cách khả quan nhất là doanh

nghiệp phải cùng nhau thoả thuận, biến định hướng của Chính phủ

thành ý chí của doanh nghiệp. Ý chí của doanh nghiệp là không xuất

khẩu những mặt hàng có giá thấp, quyết tâm không chuyển tải, nếu

41

Page 42: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

chuyển tải thì phải bị phạt nặng và có thể tiếp tục cấp giấy phép lưu động

kết hợp với cấp C/O (Chính sách về xuất xứ hàng hoá) để quản lý.

KẾT LUẬN

Gia nhập WTO có nghĩa là được quyền tiếp cận tới thị trường của

tất cả các thành viên khác trên cơ sở đối xử MFN.Thương mại hàng dệt

may sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc xuất nhập khẩu, có cơ hội nhận

được các đơn hàng lớn, không bị hạn ngạch trong xuất khẩu… tuy nhiên

khó khăn thì cũng không phải là nhỏ. Và trong những tháng đầu năm

2007, năm đầu tiên chúng ta gia nhập WTO những cơ hội và thách thức

này đã được thể hiện rất rõ.Vì vậy các doanh nghiệp nói riêng và chính

phủ nói chung cần và đã đưa ra rất nhiều giải pháp, tạo lập các điều kiện

cần thiết để tận dụng các cơ hội, khắc phục những thách thức. Để công

cuộc hội nhập thế giới của chúng ta thực sự có hiệu quả, đem lại nhiều lợi

ích cho các doanh nghiệp và cho nền kinh tế đất nước nói chung, đưa đất

nước ngày càng phát triển phồn thịnh .

42

Page 43: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

Tài Liệu Tham Khảo.

1. Giáo trình Kinh Tế Thương Maị : GS.TS Đặng Đình Đào- GS.TS

Hoàng Đức Thân.-Nhà xuất bản thống kê-2003.

2. Dệt may VN cơ hội và thách thức (Viet Nam Garment and Textile

Industry Opportunities and Challenges) – nhà xuất bản chính trị quốc

gia.

3. Báo Thương mại (các số)

4. Thời báo kinh tế Việt Nam (các số)

5. Tạp chí thương mại (các số)

6. Báo thị trường VN (các số)

7. Báo người lao động (các số)

8.Cácweb:[email protected],[email protected] Google.com.vn ,

Yahoo.com.vn…

9.Cổng thông tin điện tử của Bộ Nông NGhiệp và Phát Triển Nông Thôn

10.Báo điện tử của báo khuyến học và dân trí –diễn đàn dân trí VN

11.Trung tâm thông tin thương mại _Bộ Thương Mại

(VTIC).website:vinanet.com.vn .asemconnectvietnam.gov.vn……

43

Page 44: Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập wto

12.Việt Nam 20 năm đổi mới .

13.WTO với doanh nghiệp VN : những cơ hội và thách thức hậu gia nhập

WTO

CCCC cC

44