cuộc đời và hành trạng -...
TRANSCRIPT
Cuộc đời và Hành trạng... Trong cuộc hành trình, tôi có viết một số bài như dưới đây,
xin mời xem qua, bài nào có vẻ được, phù hợp, tùy nghi sử dụng.
Kính chào,
Thích Nhật Tân
(Bút hiệu Mặc Giang)
1. Mừng Đại hội Khoáng đại Kỳ 8
2. Thương Thầy An Thiên
3. Mừng Khánh Thọ một vị Thầy
4. 40 năm – Hai biểu tượng
5. 40 năm, nhớ Ngài Quảng Đức
6. 74 năm - Ngọn lửa hiện về
7. Cảm thương Sư Cô Diệu Pháp
8. Cảm niệm Giác linh Hòa Thượng Huyền Vi
9. Cảm niệm Thượng Tọa Chơn Kiến
10. Cảm niệm Ân đức và Hành trạng HT Mãn Giác
11. Cung tiễn Giác linh HT Đổng Chơn
12. Cảm niệm Cuộc đời và Công đức Sư bà Như Trí
13. Thương tiễn Cô Ba (bài này của riêng một người)
14. Kính mừng Khánh Tuế Bát Thập HT Huyền Tôn
15. Cảm thương Sư Cô Trí Bửu
16. Ngưỡng vọng Cuộc đời và Hành trạng HT Huyền Quang
17. Ngưỡng vọng Cuộc đời và Hành trạng HT Trí Quang
18. Thăm Bảo Tháp Ôn Linh Mụ
19. Đạo vàng tỏa rạng Như An
20. Năm năm trước – Năm năm sau
21. Trái tim đâu rồi
22. Một cái Chết, sau 30 năm vẫn chưa sáng tỏ !
23. Ngưỡng vọng hành trạng Ngài Nhật Liên
24. Tiễn Người thăm lại nhà xưa
25. Tiễn bước Người đi
26. Một cây đại thọ trong rừng già (viết về Ngài Nhật Liên)
27. Cuộc đời và hành trạng của Ngài Trí Tịnh Đại Sư
28. Cuộc đời và hành trạng Đức Đệ Nhất Tăng Thống
29. Cuộc đời và hành trạng Đức Đệ Nhị Tăng Thống
30. Kính ngưỡng cuộc đời và hành trạng HT Hộ Giác
31. Xin viết dâng Ông
32. Năm mươi năm tưởng niệm tri ân
33. Tôn hiệu Chư Thánh Tử Đạo
34. Kính ngưỡng Bồ Tát Thích Quảng Đức
35. Một vinh dự trong đời
36. Cảm nhận về Đại Lễ Tri Ân Tưởng Niệm 50 Năm
37. Cuộc đời và hành trạng Hòa Thượng Thích Minh Tâm
38. Cuộc đời và hành trạng của Ngài Nhất Hạnh
39. Cuộc đời và hành trạng Hòa Thượng Thích Tâm Châu
40. Cuộc đời và hành trạng Hòa Thượng Thích Giác Nhiên
41. Cuộc đời và hành trạng HT Thích Như Huệ
42. Cuộc đời và hành trạng Thiền Sư Thích Thanh Từ
43. Kính tiễn Hòa Thượng Chứng Minh Đạo Sư
44. Cuộc đời và hành trạng HT Thích Thắng Hoan
45. Kính dâng Giác Linh HT Như Huệ
46.
Mừng Đại Hội Hoáng Đại Kỳ 8 Tổ chức vào 14,15,16-5-1999 tại PHV Quốc Tế, Hoa Kỳ
Mừng Đại Hội Khoáng Đại Kỳ 8
Đại Hội lịch sử
Khâm thừa và triển khai Giáo Chỉ của Hội Đồng Lưỡng Viện tại quê nhà
Chư Tôn Thiền Đức khắp năm châu, dù vạn lý vẫn không xa
Nương cánh gió, vút lên cao mọi vòm trời, để cùng nhau phó hội
Đại Hội Khóang Đại Kỳ 8
Đại Hội lịch sử
Thoát thời gian, vượt không gian, nối liền lịch sử
Lịch sử hai ngàn năm truyền thống, bị bóp nghẹt một khoảng đường
Lịch sử hai ngàn năm Phật Giáo huy hoàng
Bị thế lực cuồng si, buông tay, đánh bạt
Nhưng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Vẫn trầm hùng, uy nghiêm, hiên ngang, bền vững
Bỡi Phật Giáo Việt Nam chỉ là một
Tiếng nói Phật Giáo Việt Nam chỉ là một
Một là tất cả
Khởi đi, từ nhất điểm hồng, trung kiên, son sắt
Và lan đi, tràn ngập chan hòa, đến hàng vạn con người, hàng triệu trái tim
Hòa vang từ Quốc nội, đến khắp chân trời Hải ngoại
Hai mươi bốn năm
Ý thức hệ bạo tàn, bỏ mất lương tâm, gây nên nông nỗi
Hai mươi năm
Bị cưỡng bức, chiếm đoạt, chèn ép, nhưng chỉ là những cuồng phong bão thổi
Mười tám năm
Dựng nên một cơ chế, với bao âm mưu, thủ thuật
Nhưng chỉ mang một cụm từ, Nhà Nước, Quốc Doanh
Chỉ một tiếng vọng
Tiếng vọng từ trong tù, nhưng đó là Pháp Âm bất tuyệt
Chỉ có một lời
Một lời thốt lên trong vòng kềm tỏa
Nhưng đó là Triều âm, Hùng lực, Bi tráng, làm chấn động muôn phương
Xa xôi, dù mấy dặm trường
Tiếng lòng Thống Nhất, hằng vương vấn lòng
Trời cao nên mãi thong dong
Đất kia ẩm thấp, dễ hòng được sao
Đại Hội Phật Giáo hôm nay
Hàng vạn Tăng Ni
Hàng triệu tín đồ
Hướng về ngưỡng vọng
Một Huyền Quang, một Quảng Độ, chúng con chân thành bái thỉnh
Một Đức Nhuận, một Tuệ Sĩ, chúng con nhất dạ suy tôn
Tứ trụ hùng tâm, mang vô úy lực, lãnh đạo như những nhà lương đống
Cùng Chư Tôn Giáo Phẩm được suy cử trong Hội Đồng Lưỡng Viện
Lèo lái con thuyền Giáo Hội
Tiếp nối hai ngàn năm truyền thống
Làm rạng ngời trang sử ngày mai
Truyền trao Thông Điệp
Độc thọ lao tù khuynh bách diệp
Nhất hổ oai hùm khiếp vạn linh
Xây dựng tính nhân bản, an lạc, đồng điệu, hòa bình
Cho Dân tộc, cho nhân loại, đi vào thiên niên kỷ tương lai.
THƯƠNG THẦY AN THIÊN
Cảm tác 11 giờ khuya Thứ Bảy 25-5-2002 Dâng lên Giác linh Cố TT Thích An Thiên Xả báo thân lúc 4 giờ 30 chiều Thứ Sáu 24-5-2002
Bốn giờ rưỡi chiều Thứ sáu
Ngày hăm bốn tháng năm
Năm hai nghìn lẻ hai
Tin chấn động nghe tim mình rỉ máu
Không gian khép lại
Thời gian ngừng trôi
Mắt lệ tuôn dài !
Điện thoại liên hồi tới tấp
Bàng hoàng rúng động không thôi
Tiếng nói ngập ngừng lấp vấp
Thầy An Thiên đã mất rồi !
Vành môi run rẩy vành môi
Mắt rưng rưng mắt xa xôi ngóng chờ
Đêm dài vần vũ hoang sơ
Trăng khuya nhạt bóng hoen mờ cùng sao
Quý Thầy hối hả !
Phật tử xôn xao !
Một số tụ nhau về Chùa Minh Giác
Người thì liên lạc các cơ quan công quyền chờ đợi nắm tin
Mười giờ đêm còn hội họp
Rồi kéo nhau đi đến chỗ giữ xác Thầy
Thầy của chúng tôi cho chúng tôi xin !
Chỉ xin một chút được nhìn !
Và được đứng gần, yên lặng cùng nhau cầu nguyện
Nhưng họ bảo không được, phải chờ sau giảo nghiệm
Họ còn bảo : nếu có vào cũng không thể nào nhận diện
Cháy đen ! rách toát ! ló xương ! nức nẻ ! co quắp ! như than !
Phũ phàng chi hỡi phũ phàng
Đắng cay chi hỡi bẽ bàng đắng cay
Đất nước xứ người
Luật lệ xứ người
Thôi đành chấp nhận !
Ôi, thiểu não ê chề !
Rồi lũ lượt ra về, Chùa Minh Giác tiêu sơ
Đêm đông càng khuya giá cắt, ai cũng bơ phờ
Lập tạm bàn thờ bên nhà kho cầu nguyện
Tiếng mõ lời kinh vang vọng
Thì thào sùi sụt liên miên
Âm vang chừng nghe nấc giọng
Âm dương giao cảm nối liền
Thầy An Thiên hỡi Thầy An Thiên !
Giác linh phưởng phất chùa chiền dấu yêu
Tiếng kinh trầm bỗng cao siêu
An Thiên nương bóng tiêu diêu hồng trần
An Thiên về với mây ngàn
Môn đồ ở lại hai hàng lệ rơi
Anh em huynh đệ nào nguôi
Từng cơn thổn thức bồi hồi tiếc thương !
Tròn bốn mươi năm
Xuất gia tu học
Cắt ái từ thân
Bôn ba du học
Xứ Nhật Bản thần kinh
Rồi nhân duyên đưa đẩy
Úc Đại Lợi nương thân
Đã hai mươi năm
Anh em huynh đệ
Lần bước phong trần
Kẻ trước người sau lập nên từng trụ xứ
Lần hồi trôi nổi
Giáo Hội thành hình
Những tưởng năm tháng còn dài
Quê hương, Đạo Pháp trĩu vai
Vui buồn cùng nhau can dự
Nào ngờ một thoáng chia ly
Âm thầm lặng lẽ ra đi
Từ nay đôi ngả còn chi hở Thầy ?
Đông về giá lạnh hây hây
Người đi đi mãi nào phai bóng hình !
Thầy là người ít nói
Khiêm cung rẻ rúng ngôn từ
Đến độ ra đi
Không một lời từ biệt
Không một tiếng nghe qua
Kết thúc cuộc đời của một nhà tu
Chỉ còn lá thư bốn trang để lại
Quý Thầy chưa được xem
Môn đồ đệ tử chưa được xem
Họ chỉ dịch một vài câu đại khái
Tang lễ của Thầy nhờ Giáo Hội
Tro cốt của Thầy rải xuống biển xuống sông
Nghe sao se thắt tâm hồn
Ân tình huynh đệ theo dòng lệ rơi
Không sao nói được nên lời
Mắt rưng rưng mắt đầy vơi đôi bờ
Môn đồ hiếu quyến bơ vơ
Từ nay Minh Giác trông chờ ai đây ?
Còn đâu ước nguyện của Thầy ?
Ra đi một thoáng trời mây ngút ngàn !
Còn đâu ân nghĩa cưu mang ?
Ra đi một thoáng vô vàn mến thương !
Thôi !
Thầy cứ đi đi
Lặng lẽ âm thầm
Giáo Hội còn đây
Để cho người ở lại
Minh Giác còn đây
Vì Thầy lớn nhỏ bảo nhau !
Và tìm người tiếp nối mai sau !
Niềm đau dù có lên màu
Tang thương dù có làm nau mấy lần
Việc chung ai cũng có phần
Chùa chung ai cũng chẳng ngần ngại chi
Nhiệm mầu ánh đạo từ bi
Dang tay một chút cũng vì An Thiên
Tang lễ của Thầy !
Huynh đệ chúng tôi cùng nhau câu hội
Minh Giác vơi đầy
Môn đồ, Phật tử xa gần kéo tới
Thành tâm thiết lễ nguyện cầu
Hợp tan như cuộc biển dâu
Thầy đi về với nhiệm mầu An Thiên
An Thiên từ cõi An Thiên
Chắp tay xin nguyện về miền Lạc Bang
Ta Bà là chốn lầm than
Cho tròn hạnh nguyện Sen Vàng trỗ bông
Pháp hữu TNT
Đêm 14 viết thương Thầy
Ngày mai là Phật Đản 2626
Mừng Khánh Thọ Một Vị Thầy Cảm tác sau 30 phút máy bay cất cánh.
Kết thúc lúc máy bay chưa hạ cánh
Tuyến đường Brisbane - Adelaide .
Tối thứ bảy 14-6-2003
Một kiếp nhân sinh
Nương bước luân hồi
Thất thập cổ lai
Dễ được mấy người
Dù không bảo, đó cũng là niềm vui Khánh Thọ
Nghe nói khẽ “Tình Thầy Trò nho nhỏ”
Nhưng tiếng đã thành lời theo gió lan xa
Nói nhỏ nhau nghe tiếng tốt ấy mà
Chúc tụng vui mừng Ngài Pháp Hoa phương trượng
Cây tốt cành tươi muôn chim về qui hướng
Biển rộng sông sâu bao nhiêu nước cũng vừa
Khiêm từ, dung chứa là đức độ của người xưa
Phụng sự, dấn thân là mẫu mực nay đâu khác !
Nam Úc đông về thêm tươi mát
Pháp Hoa phương trượng bảy mươi năm
Đất Quảng lừng danh miền nước Việt
Như Huệ nguyệt trung tựa trăng rằm
Tùng bách bốn mùa luôn xanh biếc
Lâm Tế muôn đời rạng tông môn
Ngàn xưa lưu dấu vẫn còn
Ngàn sau tô điểm sắt son chẳng nhòa
Đông về mà lá mà hoa
Tây nương ! Thân gởi ! Kính hòa dễ sao ?
Thời gian ngó lại xem nào
Đã rung dấu ngọc trăng sao lu mờ !
Hôm nay ngẫm lại tưởng như mơ
Đã trải một đời như bài thơ tuyệt tác
Tôi không hát
Tôi không ca
Chỉ xin ghi vài dấu nét
Hiệu trưởng bồ đề,
chánh đại diện Quảng Đà, Trung Việt pháp sư
khắp vùng đất nước, không thiếu không dư
Hội chủ Giáo hội,
lãnh đạo một châu, Hội đồng hải ngoại
Bảy mươi năm âm vang dù không nói
Đức cao dày hữu xạ tự nhiên hương
Tôn túc uy nghiêm Như Huệ đường đường
Pháp quyến môn đồ vừa thương vừa kính
Nhạc khúc huy hoàng là vầng thơ không vịnh
Cỡi trời mây, tôi đâu có tính chi !
Ngồi yên không đến mà đi
Bóng đêm nên ngóng Những Vì Trăng Sao !!!
Xem như chẳng nói câu nào
Tâm tư mượn bút kính chào ngày vui
Hân hoan Khánh Thọ bảy mươi
Chia niềm hoan lạc một người mến thương
Như là như thể pháp vương
Huệ là biển tuệ trên đường tôi đi
Rạng ngời ánh đạo từ bi
Một đời như thế cũng vì lắm nghe
Bảy mươi năm vẫn còn e !
Bảy mươi năm nữa, ai dè ! biết đâu ?
Mới hay đạo pháp nhiệm mầu.
40 Năm, Hai Biểu Tượng Nhìn tấm hình Ngài Huyền Quang nâng Quả tim Bồ Tát Quảng Đức năm 1963,
cảm tác để hướng về chuẩn bị Đại Hội Bất Thường của Giáo Hội và
Lễ Suy Tôn Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang
lên ngôi vị Đệ Tứ Tăng Thống
Tại tu viện Quảng Đức vào 10,11,12-10-2003 tại Úc Châu.
* tháng 10-2003 *
Ngược dòng thời gian bốn mươi năm
Một vị Thầy vị pháp thiêu thân
Ngọn lửa thiêng vượt chín tầng
Vũ trụ đất trời rung chuyển
Tâm tư biến thành khói quyện
Hạnh nguyện kết tụ đài sen
Tâm lực chuyển hóa thành đèn
Sáng soi muôn ngàn tăm tối
Bốn biển, Năm châu thức dậy
Hướng nhìn Phật Giáo Việt Nam
Ngợi ca Một Cánh Hoa Đàm
Tựu thành Quả Tim Bồ Tát
Từ đây, Quê hương, Đạo pháp
Từ đây, đất nước, lòng dân
Qui tụ mọi thành phần
Hát bài ca Dân Tộc
Hát bài ca Thống Nhất
Rợp màu cờ ngũ sắc
Phật Giáo Việt Nam
Ngài mang hạnh nguyện, đốt ngọn lửa thiêng
Lửa thiêng bừng cháy, sáng tỏa đài sen
Ngài vẫn chắp tay, nhắm mắt, ngồi yên
Chúng con sụp lạy, cúi đầu !
Hồn đau lặng câm, nín thở !
Vọng vang kinh kệ nhiệm mầu
Việt Nam lặng khóc, chìm sâu
Muôn phương khắp hướng, Năm châu nức lòng
Ngài về Thánh Đức thong dong
Cho Việt Nam thoát khỏi vòng trầm mê
Lửa thiêng sưởi ấm bốn bề
Từ bi thắm đượm tình quê đậm đà
Đạo mầu rũ sạch phong ba
Phật Giáo hòa nhuận ngôi nhà Việt Nam
Một bức hình, ảnh tượng bốn mươi năm !
Một trái tim, ảnh tượng của Pháp thân !
Bóng tối thâm u, lộ chiếu trăng vàng
Màn đêm khép lại, cho hừng đông ló dạng !
Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm tỏa rạng
Đất nước Việt Nam, năm ngàn năm huy hoàng
Nhờ những bậc phi thường rực rỡ sắt son
Phổ chiếu uy linh trên non sông Nước Việt
Đôi tay Ngài nâng Quả Tim Bất Diệt
Cho Quê hương, cho Đạo pháp sống còn
Hai mươi mốt năm, tội tù, cùm gông, oan nghiệt
Quyền uy phải phục, sắc đỏ phải mòn
Đôi tay Ngài nâng quả tim, lửa đốt sáng hơn !
Cuộc đời Ngài mang trái tim, thể chế phải sờn !
1963-2003, phạm vũ xoay vần
Thiết lễ khánh thành, thiết lễ suy tôn
Quảng Đức Úc Châu, Huyền Quang Tăng Thống
Trong nước vọng ra
Ngoài nước vọng về
Khắc ghi, phủ phục, nguyện thề
Nhất tâm câu hội dưới cờ
Việt Nam Phật Giáo tôn thờ vọng vang
Bốn mươi năm, Ánh Đạo Vàng
Một Quảng Đức, Một Huyền Quang tuyệt vời
Ngài về đỉnh núi chơi vơi
Ngài đang tọa thị, kế đời thứ tư
Đệ tứ Tăng Thống, còn dư !!!
Ngưỡng tôn Tăng Thống tám tư, kém, thừa !!!
Cả đời, Đạo Pháp đủ chưa ???
Cả đời, Tố Quốc có vừa hay không ???
Ai vì Lịch sử, Non Sông ?
Ai vì Đạo Pháp, nối dòng Thế Tôn ?
Đôi tay nâng một trái tim
Cuộc đời mang một trái tim phi thường
Trái tim Đạo Pháp, Quê Hương
Trái tim tỏa chiếu muôn phương tôn thờ
Huyền Quang, Quảng Đức, trơ trơ !!!
Đạo nhờ oai lực, đời nhờ từ tâm
Việt Nam - Phật Giáo muôn năm
Quê Hương - Đạo Pháp trăng rằm rạng soi
Rạng soi cho cả giống nòi
Việt Nam - Phật Giáo sáng ngời muôn năm.
40 Năm, Nhớ Ngài Quảng Đức Tháng 10-2003
Ngược dòng thời gian bốn mươi năm
Một vị Thầy vị pháp thiêu thân
Ngọn lửa thiêng vượt chín tầng
Vũ trụ đất trời rung chuyển
Tâm tư biến thành khói quyện
Hạnh nguyện kết tụ đài sen
Tâm lực chuyển hóa thành đèn
Sáng soi muôn ngàn tăm tối
Bốn biển, Năm châu thức dậy
Hướng nhìn Phật Giáo Việt Nam
Ngợi ca Một Cánh Hoa Đàm
Tựu thành Quả Tim Bồ Tát
Từ đây, Quê hương, Đạo pháp
Từ đây, đất nước, lòng dân
Qui tụ mọi thành phần
Hát bài ca Dân Tộc
Hát bài ca Thống Nhất
Rợp màu cờ ngũ sắc
Phật Giáo Việt Nam
Ngài mang hạnh nguyện, đốt ngọn lửa thiêng
Lửa thiêng bừng cháy, sáng tỏa đài sen
Ngài vẫn chắp tay, nhắm mắt, ngồi yên
Chúng con sụp lạy, cúi đầu !
Hồn đau lặng câm, nín thở !
Vọng vang kinh kệ nhiệm mầu
Việt Nam lặng khóc, chìm sâu
Muôn phương khắp hướng, Năm châu nức lòng
Ngài về Thánh Đức thong dong
Cho Việt Nam thoát khỏi vòng trầm mê
Lửa thiêng sưởi ấm bốn bề
Từ bi thắm đượm tình quê đậm đà
Đạo mầu rũ sạch phong ba
Phật Giáo hòa nhuận ngôi nhà Việt Nam
Một bức hình, ảnh tượng bốn mươi năm !
Một trái tim, ảnh tượng của Pháp thân !
Bóng tối thâm u, lộ chiếu trăng vàng
Màn đêm khép lại, cho vừng đông ló dạng !
Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm tỏa rạng
Dân tộc Việt Nam, năm ngàn năm huy hoàng
Đạo mầu tỏa bóng từ quang
Việt Nam - Phật Giáo sắt son muôn đời !!!
74 năm, NGỌN LỬA HIỆN VỀ Cảm niệm Tỳ Kheo Thích Chân Hỷ, 74 tuổi, dùng bản thân mình đốt thành Ngọn lửa,
vào lúc 4am ngày 24-12-2003 (Hoa Kỳ) tức ngày 25-12 (Úc & Việt Nam)
dưới Phật đài Quan Âm, Chùa Liên Hoa, tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ -
một nước biểu tượng cho tự do, cao vút biểu tượng Nữ thần Tự Do,
để cầu nguyện cho Việt Nam : tự do tôn giáo, tự do dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ.
Viết lúc 10pm 25-12-2003
(tựa 74 năm, chủ ý : thọ tuế của Thầy, cũng là 74 năm từ năm …)
Lửa ! Lửa đốt dưới tòa sen
Một Thầy đã tự thiêu thân
Lửa thiêng, vượt sáng chín tầng
Đêm dài, bình minh thức dậy
Bồ Tát Quán Âm có lắng nghe !
Nữ Thần Tự Do có lắng nghe !
Hồn Thiêng Sông Núi có lắng nghe !
Một người Việt Nam
Một Vị Sư già
Đã nguyện thiêu thân
Cho Đạo Pháp, cho Quê Hương sống lại
Việt Nam, đã 74 năm quằn quại
Việt Nam, đã 28 năm âm thầm
Cả một dân tộc thống khổ ngậm câm
Bao nhiêu người đã chết ???
Và bao nhiêu người chưa chết ???
Cải tạo, lao tù, ngục tối,. . . : nói sao cho hết ?
Bức bách, gian ngoa, xảo ngụy, . . . : nói sao cho cùng ?
Lịch sử một dòng, đất nước của chung
Ai cản được những con người trung kiên, cất cao tiếng gọi !
Tự do cho Việt Nam : mịt mờ, tăm tối
Dân chủ cho Việt Nam : tan nát, rã rời
Nhân quyền cho Việt Nam : xa tít mù khơi
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên thế ấy !!!
Năm ngàn năm lịch sử, chưa từng thấy :
Cắt đất, xén biển, vén trời : vì lợi, vì danh
Buôn dân, bán nước, đổi tên : độc thế, độc quyền
Tôn thờ chủ nghĩa, mà ra nông nỗi !!!
Thầy nguyện thiêu thân, tấm gương chói lọi
Soi cho những ai tăm tối, quay về
Cho quê hương Việt Nam, sông núi vẹn thề
Cho dân tộc Việt Nam, cùng nhau xây dựng
Hỡi những quốc gia yêu chuộng tự do !
Hỡi những con người yêu chuộng tự do !
Trên đất nước tự do
Một con người, dùng ngọn lửa thiêu thân
Là nhân chứng sống, vượt tầng
Trả lời : Việt Nam đã 74 năm tròn, 28 năm dư, quá tệ !!!
Xác thân Thầy giã huyễn, nhưng linh tri Thầy là để :
Đánh thức lương tâm của những người quyền lực mù say
Cảnh tỉnh lương tâm của những người theo gió múa may
Cho đất nước, cho dân tộc đổi thay, tươi sáng
Một ngọn lửa thiêng
Bình minh ló dạng
Một nguyện chân thành
Phá vạn u mê
Là người Việt Nam
Biết nẻo quay về
Lịch sử Tổ Tông
Ngàn năm nguồn cội
Ánh sáng bừng lên
Tan màn tăm tối
Tỉnh mộng cuồng si
Rẽ lối, quay đường
Nối tình dài Đạo Pháp - Quê Hương
Xây nghĩa lớn Non Sông Nước Việt
Một ngọn lửa thiêng
Mây trời xanh biếc
Một ngọn lửa hồng
Vần vũ trăng sao
Xin chắp bàn tay
Tay vẫy tay chào
Soi sáng Việt Nam
Tươi sáng ngàn năm !!!
Cảm Thương Sư Cô Diệu Pháp Đêm 16 tháng Chạp Giáp Thân.
Ngày 16 tháng Chạp năm Giáp Thân
Quay ngược về năm Giáp Tuất
Tin đi từ Tịnh Thất
Vắng bóng Sư Cô già
Tin đi khắp gần xa
Như trời mưa buổi sáng
Diệu Pháp tự tâm, khi vừng đông chưa tỏ rạng
Tìm về Chân Diệu, tĩnh tu niệm Phật tọa thiền
Có lẽ, Cô đi về một cõi an nhiên
Nằm rạp xuống, quay mặt về Tây, nhắm mắt
Bảy mươi hai tuổi, đi tìm ngõ tắt
Bán thế xuất gia, phó mặc cuộc đời
Bao năm trụ trì, cũng đủ tàn hơi
Còn có người sau, nên Cô cất bước
Cô thường nói : Già rồi, tĩnh tu, kiếm phước
Sức lực đâu còn gánh vác nổi mạng mạch Như Lai
Đâu dám nói, năm nọ năm kia, mà chỉ ngày một ngày hai
Con bòn mót chút tư lương, và xin hầu quí Thầy, là đủ
Bóng Phật Đà, còn đây lối cũ
Kể từ nay, bóng dáng Cô đâu
Đời người, vó ngựa bóng câu
Vô thường đã đến vọng cầu mà chi
Di Đà bổn nguyện từ bi
Lạc Bang ao báu Liên Trì trổ bông
Thất thập cổ lai, hai nữa còn không
Có thỉ có chung, mà cùng sao được
Con đường triền phược
Dốc nẻo gập ghềnh
Cô đi rồi, ai nhớ ai quên
Đường muôn hướng, mình Cô độc đạo
Sáu nẻo luân hồi
Máy huyền cơ xảo
Một kiếp phù sinh
Tự trả tự vay
Cho đến khi nhắm mắt buông tay
Thân tứ đại rêu mờ cát bụi
Công việc Cô ngày xưa cặm cụi
Xin cùng nhau tặng một cành hoa
Dù chỉ là một đóa hoa khô
Vẫn làm đẹp giữa rừng cây cỏ
Xin tiễn Cô, khói hương trầm lan tỏa
Vọng kinh cầu, theo tiếng mõ cầu kinh
Vọng chuông ngân cùng huyền ảo lung linh
Vô tâm niệm, bặt âm Chân-Diệu-Pháp
Một vòng hai Giáp
Thân-Tuất, là đây
Cô về, một cõi trời Tây
Chúng tôi ở lại đong đầy mến thương
Cô về, một cõi chơn thường
Chúng tôi ở lại, vô thường đi quanh
Trăng tròn mười sáu trăng thanh
Hoa Đàm điểm nụ trên cành Vô Ưu.
Cảm niệm Giác linh
Cố Hòa Thượng Thích Huyền Vi Kính bái, ngày 16-02-2005
Ngày Mồng Bảy tháng Giêng năm Ất Dậu
Tin từ Tòng Lâm Pháp quốc, loan đi
Linh Sơn Tăng Thống, thượng Huyền hạ Vi
Xả báo ta bà, an nhiên thị tịch
80 năm, nhập thế hoằng dương, trùng quang chấn tích
59 năm, đạo lạp uyên thâm, Linh tụ Sơn môn
40 trụ xứ, trên khắp năm châu, phạm vũ huy hoàng
Đệ nhất thuyết pháp một thời, danh truyền vang dội
Hạnh nguyện độ tha, chưa hề biết mỏi
Nương cánh không gian, bay khắp muôn phương
Diện mạo trang nghiêm, tăng tướng đường đường
Tiếng pháp âm uy nghi, như sư tử hống
Đối với Giáo Hội, Ngài là một nhà lương đống
Đối với Đạo Pháp, Ngài thuộc hàng trưởng thượng Như Lai
Đối với tông môn, Ngài xứng danh kế thế hoằng khai
Đối với pháp lữ, Ngài là bậc đạo cao đức trọng
Trời đất rộng, nhưng chim Bằng gãy cánh
Cỡi vô thường, đành thuận thế hợp tan
Ngài an nhiên, nhưng đệ tử hàng hàng
Đều qui hướng cửa Huyền Vi, vi diệu
Linh Sơn Hội, một đóa hoa hàm tiếu
Linh Sơn môn, bảy hàng đệ tử thế thừa
Linh Sơn tông, năm châu nội ngoại, đủ chưa
Linh Sơn phong, vẫn xưa nay, bất diệt
Theo bóng Bổn Sư, dặm dài trên Núi Tuyết
Tùy duyên Như Kế, diệu dụng khắp nơi nơi
Tùy cơ Giải Đạo, chuyển xe pháp độ đời
Đạo lý Huyền Vi, thuyền từ đăng bỉ ngạn
“Ân giáo dưỡng, một đời, nên huệ mạng”
Nghĩa ân sư, nguyện theo dấu, đáp đền
Pháp quyến, môn đồ, huynh đệ, tử tôn
Vì Thầy, Tổ, cùng nương nhau, tế độ
Dù ngàn gian khổ
Một dạ, chẳng sờn
Dù vạn thiệt hơn
Một ly, không chuyển
Luôn ghi nhớ Bóng Huyền Vi, pháp quyến
Bảo răn nhau, hội Linh Thứu, cùng về
Nguyện vì đời, xin cứu khổ quần mê
Nguyện vì đạo, chân thành xây diệu pháp.
Cảm niệm TT Chơn Kiến Kính dâng Giác linh cố Thượng Tọa Thích Chơn Kiến,
Húy thượng Trừng hạ Lộc, hiệu Ấn Minh.
Kính bạch Giác linh cố Thượng Tọa
Trước Phật đài, chân thành xin bộc bạch đôi câu
Nhớ xưa mới năm nào
Một chim hạc hạ cánh lưng trời
Mang tên Đình Thung (Trung) xuống vùng biển, giỡn sóng trùng khơi
Tại Điền Đông, Diên Điền, Diên Khánh, Khánh Hòa, Việt Nam, làm quán trọ
Cõi trần gian giả tạm, nhưng đến có chỗ
Cõi chơn chơn hằng viễn, vốn sẵn là nhà
Ly thế, ly phiền, ly tam, từ ái, xuất gia
Mười tuổi đồng ấu bé thơ, pháp danh Trừng Lộc
Học đạo, tu hành với Bổn sư Minh Quang, Vạn Đức
Chuông mõ, kệ kinh với đệ huynh theo khắc, theo thì
Tại Giới đàn chùa Hòa Quang, xin thọ Sa di
Tại Giới đàn Hải Đức
Do Ngài đệ nhất Tăng Thống đàn đầu, xin thọ lại
Cũng Hải Đức, Nha Trang
Dưới, biển Đông, sóng trùng dương rì rào êm ái
Trên, Trường Sơn, gió núi rừng thanh thoát trời mây
Do Ngài Phúc Hộ làm Đàn Đầu, phước đức cao dày
Xin lãnh thọ tam y Tỳ kheo Bồ Tát giới
Để thấm nhuận nghĩa lý huyền vi, Tứ Thánh là con đường phải tới
Thượng Tọa xin cầu pháp với Ngài Hưng Từ, Pháp Hội, Bình Tuy
Khả đắc, khả đắc, bất khả tư nghì
Hòa thượng Tôn Sư ban cho hiệu Ấn Minh, đắc pháp
Kệ, Kệ minh sư, cúi đầu quy nạp
Bổn, bổn minh tâm, hàm tiếu vô thanh
“Đình Trung Ngô Thế tánh
Trừng Lộc pháp danh cao
Chơn Kiến bình tâm địa
Ấn Minh tức đạo giao”
Thế học, văn võ, nhu cương, mâu thuẫn, sĩ phu, tú tài Võ Tánh
Đạo học, tam thừa, giới đức, trụ trì, giáo dưỡng đệ tử, tông môn
Vạn Đức châu viên, Thiên Phú vẹn toàn
Khói lửa hai chiều, loang lổ lam nham
Huệ Minh trụ trì viên tịch, vốn tiêu sơ, lại thêm vẻ suy tàn
Không đành lòng nên đan tâm hứa khả, chấn tích trùng quang
Từ 1972 đến 1991,
tâm, lực, cưu mang ròng rã suốt 19 năm trường
Chùa Thiên Phú, tại Phú Vinh, Vĩnh Thạnh, Nha Trang
Thật hoành tráng, trang nghiêm, tăng nét huy hoàng cho Phạm Vũ
Tôn tượng Bổn Sư, hai thước rưỡi liên tòa, đẹp thạch trụ
Văn Thù, Phổ Hiền, tả hữu thật trang nhã, nét phù điêu
Trước điện, hai Ngài Hộ Pháp, Tiêu Diện, thêm vẻ nguyên siêu
Hậu điện, lại Đạt Ma Tổ Sư Bồ Đề, ẩn tàng pháp ấn
Nhằm xiển dương và làm sao cho đệ tử hai hàng tinh tấn
Thành lập đạo tràng nghiêm trì Diệu Pháp Liên Hoa
Soạn Nghi Thức Tụng Niệm như đá vàng chắt lọc tinh ba
Thường xuyên, hơn 500 đồ chúng chan hòa trì chuyên tu học
Lại lập Tuệ Tĩnh Đường,
khám, chẩn, phát thuốc thang cho dân nghèo miễn phí
Còn mầm non và tương lai Đạo Pháp
Lập GĐPT Thiên Phú, giữ mối đạo ngay từ căn kỷ
Phát tâm pháp khí, đúc đại hồng chung
Chốn sơn lam, thủy mạc trầm hùng vang pháp cổ
Năm 2000, vì tấm lòng hoằng khai tế độ
Tại Phước Đồng, dựng tu viện Phước Sơn
Phật Giáo tỉnh nhà, cần một bậc nghiêm từ, uy đức, sắt son
Từ 2001 đến 2006, dù bịnh tình,
Vẫn không từ nan, đảm thừa Ủy viên Tăng Sự
Vì thiền môn, pháp lữ. Vì sách tấn hậu lai
Cũng đã bao lần đăng đàn trang nghiêm Tôn Chứng
Không từ tích chấn. Không quản bịnh tình
Năm 2003, Quảng Đức Úc Châu tổ chức Khánh Thành
Đã mượn chim bằng phiêu cánh gió
Vừa nhìn đệ tử hành hoạt, cho thỏa tình giáo hóa
Vừa đi thăm từng tiểu bang, cho thấu
Phật Giáo Việt Nam “đem chuông vang rộng xứ người”
Và để cho thỏa một đời
Lại đằng vân về thăm xứ Phật
Kia, bao dấu xưa của một thời, đã mất
Nọ, bao Thánh Tích của một thuở, còn đây
Nhân loại năm châu còn náo nức, trầm tư, cảm kích tỏ bày
Nói chi đến nỗi niềm của hai hàng đệ tử
Cảm cảnh rồi thôi, trở về trụ xứ
Khách giã hồi qui, là chính của mình
Dù con bịnh hoành hành, nhưng còn một số việc phải xong
Nào Đoàn Quán, nào Cổng Tam Quan, nào con đường thôn làng
Đâu đó vừa mới vẹn toàn
Hơn giữa năm 2006 - Bính Tuất
Trăng vội gát đầu non
Bóng chiều vội phủ hoàng hôn
Ngài di giáo, phó chúc tận tường
Và đã an nhiên, thuận thế vô thường
Bản thể hoàn nguyên tri diện mục
Ô hô ! Biết thế, nhưng đệ tử, môn đồ, hiếu quyến, làm sao không khóc !
A ha ! Biết thế, nhưng pháp lữ, đệ huynh, thân sơ, làm sao không đau !
Ô hô ! Phật Pháp Thân thường trụ nhiệm mầu
A ha ! Giữa Thánh phàm, làm sao không khác
Kính bạch cố Thượng Tọa Giác linh
Giữa tử sinh, tình nghĩa một kiếp luân hồi, nghe sao man mác
Giữa sắc không, nhân duyên một độ thế trần, nghe sao là ngà
Dù sao, 49 năm nhập đạo, hương thơm bay ngào ngạc
Dù sao, 37 năm Tăng Lạp, đức độ tỏa gần xa
Dù sao, 59 năm thọ thế, giã huyễn trả ta bà
Nhưng bản hoài của Chư Phật
Hạnh nguyện độ sanh của Chư Bồ Tát
Tâm nguyện thế thừa của hàng xuất gia
Tam đồ, bát nạn, thập phương pháp giới, vẫn tiếp tục vào ra
Thôi, nay Ngài đã. Quy bổn Thường, Lạc. Hoàn nguyên Ngã, Tịnh
Trước kim quan, xin thắp ba nén hương, chân thành bái thỉnh
Trước chân dung, xin chắp tay khấn nguyện, cảm niệm, nhớ ghi
Pháp thân, bất khả tư nghì.
Ta bà, cỡi hạc, có chi
Nam Mô từ Lâm Tế chánh tông, tứ thập nhị thế, Thiên Phú Tự Trụ Trì,
Húy thượng Trừng hạ Lộc, tự Chơn Kiến,
hiệu Ấn Minh thượng tọa Giác linh, Minh chứng.
Cảm Niệm Ân Đức và Hành Trạng
của Hòa Thượng Thích Mãn Giác
Viên tịch lúc 8 giờ 30 sáng ngày 22-8-Bính Tuất
tại Cali - Hoa Kỳ. 58 Tăng Lạp. 78 thế tuế.
Tháng 8 Bính Tuất, mây trời vần vũ, đã cuốn hút một vì sao
Ngày hai mươi hai, vầng dương biến hiện, che khuất một vì tinh đẩu
Phiêu du ba cõi, rung bản Huyền Không, độc tấu
Phiêu lãng sáu đường, gảy khúc Mãn Giác, độc hành
Bảy mươi tám năm diêm phù, trổi nét ngọc tinh anh
Năm mươi tám năm Pháp Lạp, reo Nguyên Cao bất hoại
Biển đục trần gian, tâm bồ đề bất thối
Sanh tử sự đại, hạnh Bồ Tát, khứ lai
Chung thỉ hữu vô, liễu triệt, tất kỳ tài
Pháp thân như thị, thường chơn, tất kỳ ngộ
Giữa Thánh - Phàm, nói thì dễ nhưng đồng không phải dễ
Giữa Giác - Mê, hiểu thì dễ nhưng chứng khó vô vàn
Nên những bậc trượng phu vào ra đại lộ thênh thang
Thắp Đuốc Tuệ nhiệm mầu rạng soi đêm dài tăm tối
Ngài như đại bàng, vỗ cánh tầm không, qua khỏi
Nhưng để lại khung trời bao dấu nét nhớ thương
Ngài đã thong dong trên muôn hướng ngàn phương
Nhưng để lại đó đây bao chân tình trìu mến
Từ Thiên Minh trụ trì, đến đại diện Cao Nguyên Trung Phần, một bến
Từ Thanh Niên, Văn Hóa, đến Vạn Hạnh Phó Viện Trưởng điều hành, một phương
Bao nhiêu lần tổ chức Đại Lễ Phật Đản
Thành phố Sài Gòn rợp bóng cờ bay ngũ sắc, rạng rỡ phi thường
Phó Chủ Tịch Giáo Hội Tăng Già Thế Giới, uy nghiêm đường đường
Thành viên Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống, tỏa chiếu kim cương
Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo tại Hoa Kỳ, son sắt kiên cường
Hơn hai mươi tác phẩm trước tác, dịch thuật, góp phần văn hóa Đạo, giá gương
Hàng mấy trăm thi phẩm, thi ca Việt trải chiếu mời đạo pháp, quê hương, tình tự
Bao tầng lớp sinh viên học sinh, mến áo sân trường, lưu giữ
Bao tầng lớp thanh niên, Phật tử, nhuận ân giáo dưỡng, khắc ghi
Thời Pháp Nạn dấn thân, vượt thoát, kinh qua cao đẹp tuyệt kỳ
Thời Quốc Nạn Bảy Lăm, cả nước lặng chìm phù tang trôi nổi
Thời thế thế thời, cuồng phong bão thổi
Kiếp lưu vong, không nói tiếng từ ly
Mảnh hồn đau, ai cơ cảm tư nghì
Mang tâm lực, vẽ hồn thiêng Tổ Quốc
“Mái Chùa che chở hồn Dân Tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ Tông”
Quốc hồn, Quốc túy, Quốc phong
Quê hương, Đạo Pháp theo dòng thời gian
Việt Nam văn hiến năm ngàn
Việt Nam - Phật Giáo hai ngàn đan thanh
Hài hòa nước sữa trong lành
Tương dung một mối, tương sanh một dòng
Chống ngoại thuộc, độc quyền, bất nghĩa
Chống ngoại bang, vong bản, phi nhân
Có mà phi, thì có vẫn hoàn không
Không mà hữu, ngàn đời không mất một
Đạo Pháp - Dân Tộc đã muôn đời bất diệt
Phật Giáo - Quê Hương sẽ muôn thuở trường tồn
Cát đá, thau chì, dù lẫn lộn ngà ngọc, vàng son
Trang sử Việt vẫn lọc nung chiếu diệu
Ngài tạm ẩn thân, mỉm nụ hoa hàm tiếu
Pháp lữ còn đây, kết những đóa vô ưu
Cho Việt Nam - Phật Giáo mãi kế thế truyền lưu
Cho Phật Giáo - Việt Nam trải dài non nước Việt
Hôm nay, quốc nội hải ngoại, phương gần phương xa
Tăng Ni tiễn Ngài bên bờ sóng biếc
Tín đồ tiễn Ngài bến nước xanh xanh
Nẻo Tây quy đã đáo lộ an lành
Hạnh độ sanh làm sao không thôi thúc
Hai câu đó, bản hùng ca hành khúc
Hai câu đó, bản tình tự dung thông
“Mái Chùa che chở Hồn Dân Tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ Tông”
Dù cho vạn hữu Huyền Không
Châu viên Mãn Giác sắc không diệu kỳ
Đi, mà không có ra đi
Đến, mà không đến, vô nghì, phải không
Khi đi, núi núi sông sông
Khi về, núi núi sông sông khác gì
Đạo mầu nhiệm thể huyền vi !!!
Cung tiễn Giác Linh
Hòa Thượng Thích Đổng Chơn Viên tịch ngày 29-8-Bính Tuất, tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ
43 Pháp Lạp, 71 thế tuế. Thích Nhật Tân, Úc Châu, kính bái.
Đất Hoa Kỳ, năm mươi mốt tiểu bang, còn trống
Úc Đại Lợi, sáu bang hai lãnh thổ, chẳng hơn
Địa cầu nầy, bặt một niệm, trống trơn
Khắp pháp giới, dứt sát na, huyễn hóa
Khi Thị Hiển, như Hoa Đàm một đóa
Khi Đổng Chơn, như tĩnh mặc Vô Ưu
Từ vô thường, duyên duyên khởi truyền lưu
Cỡi vô thường, đi trên đường sinh diệt
Bảy mươi mốt năm Thế Tuế, giữa vòm trời xanh biếc
Bốn mươi ba năm Pháp Lạp, áng mây trắng thong dong
Xuất thân Phật Học Đường Nam Việt-Ấn Quang
Pháp Sư Giảng Sư Đoàn-Như Lai Sử Giả
“Nơi nào cần, chúng tôi tới
Nơi nào gọi, chúng tôi đi
Không quản gian nguy
Không màng khó nhọc” (1)
Mấy chục năm trường,
Cùng quê hương, đồng bào, cao nguyên, núi rừng, đồi dốc
Mấy chục năm trường,
Cùng pháp lữ, đệ huynh, thành thị, thôn quê, biển rộng, sông dài
Chiếc thông y, mòn năm tháng, vẫn nâu sồng không phai
Chiếc vàng y, trải thời gian, vẫn một màu hoại sắc
Vị thời thế, dùng trí tuệ từ bi, dẫn dắt
Vị nhân sinh, dùng tình thương từ ái, đắp xây
Hạnh lợi tha, hòa-tương-chuyển-hóa, đong đầy
Nguyện phụng sự, nhập-ứng-tùy-cơ, chiêu cảm
Khi thế núi gác lưng đồi, treo ghềnh ráng
Khi thế nước cạn mạch nguồn, chúc non sông
Chữ tang đánh đổ chữ bồng
Chữ Lạc réo rắt, chữ Hồng nghe đau
Qua cầu, dừng bước bên cầu
Nước trôi man mác, rầu rầu tang thương
Ra đi cũng bởi quê hương
Ra đi cũng bởi tình thương quê mình
Dù cho nghiệt ngã mặc tình
Nếu không, ai hiểu nước mình thế đâu
Mang một khối tinh cầu
Mang một khối tinh anh
Reo ngàn năm sỏi đá
Mang một khối tự tình
Mang một khối niềm tây
Trải muôn vạn lòng quê
Cờ Hoa, gieo cội Bồ Đề
Cờ bay ngũ sắc, quyện về hồn thiêng
Biển dâu, mới nói tang điền
Non sông, mới nói Ba Miền Việt Nam
Phật Giáo Việt Nam huy hoàng
Từ ngàn xưa vẫn thế
Phật Giáo Việt Nam muôn đời
Đến ngàn sau, không lay
Sắt son Thị Hiển tỏ bày
Đổng Chơn tánh thể xưa nay
“Có, thì có tự mảy may
Không, thì cả thế gian này cũng không” (2)
Có, thì có cả núi sông
Không, thì vạn hữu càn khôn chẳng còn
Tiễn Ngài Thị Hiển-Đổng Chơn
Đằng vân chi lộ, Linh Sơn trở về
Rong chơi bến khổ sông mê
Rung chuông tỉnh thức bên lề tử sinh
“Cây Đa còn đứng đầu Đình
Cành Mai trước ngõ, nghiêng mình trổ bông” (3)
Úc Châu vào Thu, ngày 22-10-06
Thích Nhật Tân cung tiễn
(1) Trích 4 câu của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
(2) Trích 2 câu của một vị Thiền Sư
(3) Trích 2 câu của Mặc Giang
Cảm niệm Cuộc đời và Công đức
Của Sư Bà Thích Nữ Như Trí Viên tịch tại Chùa Thiên Long,
Sài Gòn, Việt Nam. 66 Pháp Lạp. 88 thế tuế.
Vầng nhật lặn, hoàng hôn về ngõ tối
Ánh nguyệt lên, man mác gọi trăng ngàn
Muôn vì sao, sương bạc gợn mênh mang
Ghi dấu nét một khung trời vời vợi
Cây đại thọ đã đến hồi cằn cõi
Đất không lay cũng nghiêng ngả mà thôi
Bãi phù sa nên nay lở mai bồi
Cõi diêm phù nên vô thường biến hoại
Nếu muốn nói, biết bao nhiêu mà nói
Nếu muốn không, thì vốn đã là không
“Nhìn trông bóng nguyệt dòng sông
Ai hay có có không không là gì”
Nếu không, chẳng có cái chi
Nếu có, diệu hữu, nói chi cũng thừa
Nhưng trời bỗng đổ cơn mưa
Ướt về lối cũ đường xưa thuở nào
Giọt mưa cây cỏ lao chao
Gió bay lất phất cây đào trước sân
Xin mượn ngôn để lần về nẻo ý
Viết đôi lời : Sư Bà Như Trí đã về Tây
Nhắc hôm nay, và để lại ngày mai
Nhớ một bậc Trưởng Lớn trong hàng Ni Trưởng
Tuổi mười ba, mái tóc thề vừa chớm
Ba chị em, cùng thế phát quy y
Chỉ ngang đây cũng đã thấy tuyệt kỳ
Chắc phải có túc duyên chi lạ
Nhìn cuộc đời của Sư Bà
À, thì ra là thế
Nhìn hành trạng của Sư Bà
À, thì ra như ri
Hèn chi, ba chị em xuất thế đồng thì
Ắt sẽ có người làm rạng rỡ Đạo Từ Bi
Và sẽ là một trong những tấm gương trong sáng
Thuở Ni Sinh, vốn đã hơn chúng bạn
Khi lớn lên, cũng tuyệt thế hơn người
Ni Bộ Nam Việt mới thành lập
Vai trò Tổng Thư Ký gọi mời
Trải qua con đường dài hành đạo
Cương vị nào làm sao không thỉnh
Núi cao, cao lên chót đỉnh
Sông sâu, sâu hút mù sa
Giới hương, hương bay ngào ngạt
Huệ hương, hương tỏa gần xa
Nhiếp chúng, tạo Tự, lập chùa, cứu nhân, độ thế
Đạo hạnh, khiêm cung, nghiêm từ, tánh thể, châu viên
Giảng dạy, quản trị, điều hành, phụng sự, dấn thân
Từ lúc xuất gia, cho đến lúc trưởng thành
Đại lão khiêm an, vẫn tự tấn tinh cần
Tám mươi tám năm trường
Một cuộc đời, một tấm gương
Trưởng như thế, thật xứng danh trưởng thượng
Nhắc đến Ni viện Từ Nghiêm
Là một trong những Ni Trường quy hướng
Còn là đầu tàu Ni Bộ Bắc Tông
Thế mới xứng danh, là hàng Ni giới Việt Nam
Cùng Tăng giới kế tục huy hoàng trang Phật sử
Sư Bà, còn là một con thuyền pháp lữ
Chở muôn người lớn nhỏ qua sông
Cô nhi, Ký nhi, tế bần, việc nào cũng xong
Dạy chúng, độ chúng, nhiếp chúng, việc nào cũng mãn
Thiên Long, nơi trụ xứ cuối cùng, xuất thần quy ẩn
Sư Bà ra đi, nhưng hình ảnh của Sư Bà là một dấu ấn
Sắp thành hàng tôn túc dấu ấn Chư Ni
Hiện tại, tương lai, noi gương hạnh phụng vì
Giới, định, huệ, tu, học, tỳ ni, nhật dụng
Đạo Pháp ngàn xưa tỏa rạng
Đạo Pháp ngời sáng ngàn sau
Nương thuyền bát nhã nhiệm mầu
Cứu người nhân thế khổ đau muôn đời
Vào ra sinh tử luân hồi
Chuyển xe chánh pháp độ người trầm luân
Diệu âm, quán thế âm
Phạm âm, hải triều âm
Thắng bỉ thế gian âm
Phật Pháp thân thường trụ
Mắt thương nhìn cuộc đời.
Úc Châu vào thu, ngày 23-10-2006
Tỳ Kheo Thích Nhật Tân cảm niệm.
Thương tiễn Cô Ba Sinh năm Giáp Thân, mãn phần ngày 20/10/Bính Tuất
Tại tư gia, Quận 3, SG. Hưởng thọ 63 tuổi.
Những người thân còn đó, nhưng mà sao trầm lắng
Những người thương còn đây, nhưng mà sao lặng thinh
Còn một người, sao nằm yên, lặng lẽ một mình
Vội nhắm mắt ra đi, một cõi đi về, miên viễn
Mới ngày nào, còn niềm nỡ, vui tươi luyến thuyến
Mới hôm qua, còn điện thoại, cười nói, gần xa
Mà hôm nay, không một chút âm ba
Đi, đi mãi, không bao giờ trở lại
Đường Phan Thiết - Sài Gòn, dâng niềm đau tê tái
Đường Sài Gòn - Phan Thiết, tràn nước mắt rưng rưng
Tiễn người đi, về thế giới vô cùng
Con chim nhỏ bay xa vờn đại thể
Gió lay động, thì thầm khua kẽ lá
Nhụy ươm hương, ủ rũ tiếc hoa tàn
Người nương cánh nhạn mây ngàn
Thế gian, trả lại trần gian cho đời
Người về một chốn xa xôi
Giã từ nhân ảnh lở bồi phù sinh
Từ trong huyễn ảo vô thinh
Lắng nghe tiếng gọi một mình, thế thôi
Vẫn còn đây :
Bóng mẹ già, mái tóc bạc phơ, tựa cửa, đứng ngồi, vò võ
Những người em, em dâu em rể, hết rồi tiếng nói Chị Ba
Những đứa con, con dâu con rể, hết rồi tiếng nói Mẹ à
Đàn cháu nhỏ, chập chững vào đời, còn đâu Cô, Dì, Nội, Ngoại
Dù trần thế mênh mông, nhưng một khi vô thường thăm hỏi
Dù quán trọ cuộc đời, nhưng một lần sinh tử bước qua
Còn đâu là những thiết tha
Còn đâu là những người xa người gần
Bồng bềnh như áng phù vân
Nổi trôi muôn hướng biết lần lựa đâu
Biển xanh, xanh ngát bờ dâu
Núi xanh, xanh ngát ngàn thu mịt mờ
Cuộc đời, như một giấc mơ
Đêm đêm tỉnh mộng vật vờ hồn đau
“Qua cầu, dừng bước bên cầu
Cầu bao nhiêu nhịp, dạ sầu” tháng năm
Nhớ lại những ngày xưa
Mấy chục năm rồi, Cô nhĩ !
Thời con gái, khôn lanh, thùy mị
Thời nữ sinh, học giỏi, thông minh
Lớn lên, đi vào cuộc đời, lịch thiệp, nhạy bén, tài tình
Trưởng thành, sống giữa trường đời, ứng xử, đảm đang, tuyệt thế Phàm ở đời, sống thì dễ, nhưng sống, thành nhân thành danh, đâu có dễ
Cuộc tử sinh, ai không chết, nhưng chết, mà ai cũng thương, khó vô vàn
Cô về, một cõi mênh mang
Còn người ở lại, bên đàng gió bay
Cô về, một cõi trời Tây
Còn người ở lại, heo may lạnh lùng
Cô khép chữ vô chung
Đứng trên bờ vô thỉ
Nhìn trần gian mộng mị
Nhìn bào ảnh mây trôi
Vẳng nghe âm vọng không lời
Nghẹn ngào, cay cay giọt đắng
Đây, những người thương, đội vành khăn tang trắng
Đây, những người thân, tiếc nuối tiễn Cô đi
Di ảnh Cô, hương mờ khói tỏa, chẳng nói năng gì
Tấm thân Cô, yên trong quan tài, về chầu Tiên Tổ
Hỡi ơi ! 63 năm, một cuộc đời, ai quên ai nhớ !
Hỡi ơi ! 63 năm, một kiếp người, ai nhớ ai quên !
Giữa tử sinh sinh tử, đến và đi, cũng chỉ một mình
Tiễn Cô đi, chắp tay nguyền, lâm râm khấn nguyện
Dòng sông xưa, thôi rồi, xin ngừng chuyến
Bến đò ngang, thôi nhé, rẽ đôi bờ
Người đi, sương khói hương mờ
Người về, tỉnh mộng giấc mơ đêm dài
Người đi, biết thuở nào phai
Người về, lối cỏ hoa cài thiên thu !!!
Viết xong 4 giờ, trong lúc đang liệm di thể của Cô.
Một người thân.
Kính Mừng Khánh Tuế Bát Thập
Đại lão Hòa Thượng thượng Huyền hạ Tôn (Tổ chức tại Bảo Vương tự, 10am-02pm Chủ Nhật 10-06-2007)
Tám mươi đại thọ trong trần thế
Thất thập quá thời cổ lai hy
Huyền, liễu tam thừa, chơn tánh thể
Tôn, thâm diệu pháp, lý vô nghì
Đồng ấu xuất gia, ngời xứ Quảng
Một đời phụng sự, nghiệp Như Lai
Đạo Pháp, bao thời lâm pháp nạn
Dân tộc, bao phen vướng ách tai
Tám mươi năm, độc thọ, vẫn miệt mài
Cả một đời, đơn hành, không mệt mỏi
Nhớ ngày nào, xa mái chùa quê, lặn lội
Vào Sài Thành, phố phường đô hội, tiếp tay
Tánh trực cương, tâm trung nghĩa, giải bày
Đạo như thể, quốc như gia, ý chỉ
Tù, đã nếm những bạo tàn, xiềng gông, lao lý
Tội, nói đi, tội yêu đạo, yêu nước, yêu dân
Quốc gia hưng vong, lịch sử 2000 năm, Phật Giáo dự phần
Thành bại nhục vinh, Phật Giáo với Dân Tộc, đan thanh nước Việt
Kiến nghĩa bất vi, vô dũng tiết
Vô tàm vô quý, hổ vô tâm
Trên rừng hoang, một đóa ưu đàm
Cây cỏ dại, thơm hương cát đá
Bảo Vương thị kim cang bảo tọa
Pháp Vương thị pháp thể Huyền Tôn
Đệ tử, môn đồ, pháp quyến, mới gọi tông môn !
Đạt lý vô ngã chơn thường, là gì cho biết ?
Sáng lập Phật Giáo Thống Nhất Úc Châu, chỉ là tiểu tiết
Chứng minh Giáo Hội Thống Nhất Hải Ngoại, chỉ là nhiệm phần
Thấu tam đồ, bát nạn, mới đáng lượng phân
Thâm tam tạng, pháp trần, mới là chơn thể
Chư Phật thị hiện giáng thần, cũng chỉ có thế
Chư Tổ chấn tích trùng quang, cũng chỉ vậy thôi
Đó mới là đạo giải thoát, cứu đời
Đó mới là đạo từ bi, độ thế
Không câu chấp ô dù lễ mễ
Không nại hà bào ảnh hư danh
Kìa trông mây trắng trời xanh
Kìa trông cam lộ reo nhành thanh lương
Kìa trông trăng tỏa đêm trường
Phù vân ngả bóng vô thường ai hay
Khi sinh, cũng chỉ trắng tay
Tám mươi, cũng chỉ mảy may, có gì
Thành quách, lâu đài, trêu ánh nguyệt
Núi cao, biển cả, cợt thâm u
Huyền Tôn, đại khánh, ngôn bất tuyệt
Bảo Vương, tam thế, ấn thiên thu.
Kính mừng Ngày Đại Khánh của Trưởng Lão
Hậu bối Thích Nhật Tân
Viết 8pm và đánh máy xong 9pm Thứ Sáu 08-06-2007
tại tiểu tự Pháp Quang.
Cảm thương Sư Cô Trí Bửu Sau khi dự Lễ nhập quan, siêu độ, thành phục
vào lúc 6pm ngày 13-6-Đinh Hợi tại Linh Sơn,
trở về bổn tự và viết để cảm thương Sư Cô Trí Bửu,
thọ thế 76 tuổi, một vị xuất gia viên tịch thứ 2, sau
Sư Cô Diệu Pháp tại tiểu bang này.
Mười mấy năm xuất gia học Phật
Nương cửa thiền cất bước Tây quy
76 tuổi thọ, rồi chẳng có gì
Hay trăm tuổi hạc, cũng phải buông tay, nhắm mắt
Cách nay hơn tuần, tôi vào thăm Sư Cô trên giường bịnh
Vừa thấy dáng tôi, Cô lổm ngổm ngồi lên, tay chắp hoa sen
Tôi ôn tồn, Cô cứ nằm yên
Cô cảm động, sợ rằng thất lễ
Người bịnh mà Cô, có gì mà thất lễ hay không thất lễ
Học bát kỉnh pháp, kỉnh pháp thâm sâu, kỉnh pháp ở trong tâm
Ứng xử, ngôn từ, đối đãi, chỉ ở ngoài thân
Cô mới an lòng, và Thầy Trò nói chuyện
Cô cho biết,
Thầy Tịnh Đạo từ Melbourne cũng đã thương tình đến viếng
Sư Cô trụ trì Linh Sơn, Chư Ni, thỉnh thoảng ra vô, vừa mới đi về
Cô đọc mấy câu Thầy Tịnh Đạo viết, cho nghe
Tôi han hỏi chuyện gần, chuyện xa, Cô đều nhớ hết
Tôi nhắc Hòa Thượng Bổn Sư, Cô rưng rưng nước mắt
Tôi nhắc Sư Cô Trí Lợi, Cô nói, còn nằm chỗ cũ bạch Thầy
Tôi hỏi các số điện thoại, nếu cần, liên lạc, Cô liền nói ngay
Nào của Hậu, của Phượng, của Tâm, của Vui, của Mỹ
Nhớ niệm Phật nghe Cô,
Căn nhà xưa, nằm trong tâm ý
Nhớ buông xả nghe Cô,
Nơi trở về, nằm chỗ tâm như
Tôi nhắc thêm chuyện hai mươi mấy năm
Khi đó, có một mình Hậu
Rồi lần lượt vượt sóng trùng khơi
Hai bờ đại dương, hai mảnh địa cầu
Chốn quê nhà, đành đoạn chìm sâu
Mẹ con, anh chị em, kẻ trước người sau đoàn tụ
Lìa nơi cắt rốn chôn nhau
Lìa xa quê cha, đất tổ
Tự nguyện lưu đày, khách thổ tha phương
Dấu mờ khép kín quê hương
Bờ rêu thấm lạnh nhớ thương lên màu
Quê người không có mưa ngâu
Mà sao thấm cả thịt thau da gầy
Quê người không có mưa bay
Mà sao thấm cả nỗi này tình kia
Dòng sông mấy khúc phân chia
Núi non mấy nẻo xa lìa sơn khê
Thế rồi hôm nay, Cô đã về Tây
Trước Tam Bảo, khói hương trầm lan tỏa
Tiếng chuông ngân, hòa vang theo tiếng mõ
Sau, di ảnh Cô, báo thân nằm ngủ, yên giấc kim quan
Chung quanh đây, pháp lữ, bạn đạo, người thân
Cung tiễn Cô, thương tiếc, ngậm ngùi, lời kinh tiếng kệ
Này, Sư Cô Trí Bửu ơi,
Thân tứ đại vô thường, rồi ai ai cũng thế
Cuộc đời là trọ quán, Thánh – Phàm cũng vậy thôi
Nhìn kia, băng giá lên ngôi
Phong sương tuế nguyệt, núi đồi xanh xanh
Nhìn kia, bốn biển lênh đênh
Chúng sinh lặn hụp, trầm luân vô bờ
Đấng Từ Nghiêm, huệ mạng thâm ân, đạo lý Phật Đà
Thuyền Bát Nhã, bờ giác bến mê, đáo đầu bỉ ngạn
Nhớ ngày nào, chính nơi đây
Có khi Cô chống gậy, chống nạn
Có khi Cô đứng lên, ngồi xuống
Cố mím lòng, chịu đựng, nghe đau
Còn hôm nay, Cô an nhiên về cõi nhiệm mầu
Bạn đạo bùi ngùi, hiếu quyến vành khăn thấm lệ
Tiếng Mẫu Thân, chìm sâu trong nỗi nhớ
Tiếng Mẫu Từ, thầm khóc trong niềm thương
Mùa Vu Lan đến rồi, lành lạnh thê lương
Xin chắp đôi bàn tay, tròn đầy Hiếu Hạnh
Đây bát cơm đầy, con hiền cháu thảo
Đây tấm chân thành, nặng nghĩa tứ ân
76 năm, một cuộc đời, trả lại phù vân
Nắm tro tàn, lưu dấu tích, sinh thành cốt nhục
Mùa đông lạnh, mưa bay lất phất
Mỗi đêm về, ủ dột mùi sương
Nghe lòng, nát cõi tình thương
Từ nay, hai tiếng Song Đường còn đâu
Biển dâu xanh ngát một màu
Cháu con đứng lại bên cầu từ ly
Nhớ thương gởi bến sầu bi
Hiếu ân gởi bến tư nghì thiên thu
Cô đi đi, cõi nhiệm mầu thanh thoát
Chốn hồng trần, trả huyễn ảo, hoàn chơn
Hôm nay, đang độ trăng tròn
Còn trăng mười sáu, lối mòn dặm băng
Phật ân vi diệu thường hằng
Mười phương tỏa rạng pháp âm nhiệm mầu.
Ngưỡng Vọng Cuộc Đời và Hành Trạng
Của Đức Đệ Tứ Tăng Thống thượng Huyền hạ Quang (Chỉ một câu nói của Ngài : thời thế thế thời, Chú còn nhỏ, cố gắng nghe, Thầy rất thương Chú. Câu
nói đó vẫn canh cánh bên lòng, ngồi ở đây, một chốn xa xôi, xin viết dâng Ngài. Cuộc đời Ngài quá
lớn, viết dù không có chỗ, nhưng một thời đã gần Ngài dù lúc đó còn nhỏ, và giữa vạn lý muôn trùng,
nhiều lần cũng đã thưa chuyện, hầu chuyện, đôi lúc nhắc chuyện ngày xưa với Ngài, thế tại sao không
viết ? TNT) * Ghi chú : ngày hôm nay 26-10-2006, viết trước để sau này sử dụng
Cuộc đời Ngài là ngọn núi cả, ngước nhìn, đã mỏi cổ
Cuộc đời Ngài là khu rừng thiêng, đứng ngó, đã rùng mình
Cuộc đời Ngài là biển đại thệ, như triều dâng sóng vỗ
Cuộc đời Ngài là sông đại nguyền, như nước biếc lung linh
Dùng chữ nghĩa để tôn vinh
Xứng danh, nhưng quá thường tình
Dùng tâm lượng phàm phu ca ngợi
Không đủ ngôn từ diễn tả
Dùng giải này giải kia đánh giá
Như những mòn quà dâng tặng, thế thôi
Dùng cương vị này cương vị kia, tôn ngôi
Tư thế đó, đâu cần ai đặt để
Mà chỉ có nhất nhất, tâm tâm, niệm niệm, chân thành đảnh lễ
Mà chỉ có rưng rưng, cảm cảm, bi bi, sụp lạy, cúi đầu
Trong vũ trụ bao la kia, hằng hà sa số tinh cầu
Đứng lại trong giờ phút này đây, lặng yên bất động
Trong vạn hữu phù sinh kia, hằng hà chúng sinh trầm lắng
Im bặt trong giờ phút này đây, thầm nguyện kinh cầu
Ngài về trong cõi nhiệm mầu
Ngài đi từ cõi nhiệm mầu mà đi
Ngài về trong cõi vô nghì
Ngài đi Ánh Đạo Từ Bi óng vàng
Ngài về thăm cõi Lạc Bang
Ngài quay trở lại trần gian cứu đời
Như Ngài đã nói :
“Cuộc đời tôi
Ở không nhà
Sống không đất
Tù không tội
Chết không mồ” (1)
Do đó :
Ngài sinh ra, bởi vận mệnh, cơ đồ
Ngài sống đó, bởi dân tộc, tổ quốc
Ngài ngồi đó, bởi thế thời thành thất
Ngài ra đi, bởi Đạo Pháp Quê Hương
Dù ai nói, núi là sông
Dù ai nói, đá là vàng
Dù ai nói, trắng là đen
Vẫn không có gì thay đổi được
Không lợi dụng, không giả danh, không quyền chước
Không vọng cầu, không vong bản, không phi nhân
Không cướp công, không tranh đoạt, không thủ phần
Là Long Tượng, lương đống, trượng phu, đâu cần thứ đó
Cuộc đời Ngài, cả một trăm năm, xem như tròm trèm thế kỷ
Thì Đạo Pháp và quê hương, xem như trải qua ba thời
Dị khẩu đồng âm, dõng dạc tuyên bố một lời
Cả ba thời, đều mệnh danh, thủ thuật
Cả ba thời, đều đội dù, che khuất
Cả ba thời, không thực thì cũng ngoại lai
Cả ba thời, thế nước lòng dân, ách tai
Ai không bon chen danh lợi leo đài
Ai không trùm mền, nhắm mắt, buông tay
Ai nói lên tiếng nói : vận nước điêu linh, thế nước bị xéo dày
Thì ngưỡng cửa ngục tù, nhốt khóa hãm kìm, chứ làm sao kết tội
Đã biết rồi, nếu muốn nói, thì phải nói
Đất nước Việt Nam, lịch sử đã năm ngàn năm
“Phật Giáo Việt Nam, lịch sử đã hai ngàn năm
Cơ sở Phật Giáo, là núi rừng, hải đảo, thôn quê, thị thành
Địa vị Phật Giáo, là tám mươi phần trăm dân số Việt Nam
Đạo lý Phật Giáo, là đường dài mở nước, dựng nước, cứu nước” (2)
Như vầng nguyệt thanh trong, không vẩn màu uế trược
Như vầng nhật ánh dương, không vẩn áng mây mù
Dù đời Ngài sống với lao tù, nhưng lao lý để lại thiên thu
Ai dám hỏi lao lý, lao tù, lao tình, lao tội
Cuộc đời Ngài, một trăm năm, nay qua khỏi
Ngài gian truân, vì cả đất nước gian truân
Ngài khổ thân, vì cả dân tộc cực hình
Nay Ngài chết, nhưng oai linh Ngài bất diệt
Ai đã biết và ai chưa hay biết
Mảnh trời Nam nước Việt giống Lạc Hồng
Một ngàn năm trầm thống nhớ không
Một trăm năm tai ách chất chồng
Hăm mốt năm tơi bời khói lửa
Mấy chục năm trường ray rứt hồn thiêng
Khổ đau phủ cả ba Miền
Tang thương phủ cả mọi miền quê hương
Đan tâm cay xé tư lường
Đan tay vá víu nhiểu nhương cơ đồ
Biển Đông trào sóng nhấp nhô
Trường Sơn nhả khói vật vờ hồn đau
Nước kia đã lắm nương dâu
Non kia đã lắm sắc màu nát tan
Tâm tư trăn trở tâm can
Tự tình trăn trở, tương tàn thế ni
Hùng tâm, hùng lực, ai vì
Đại bi, đại nguyện, ai vì cho ai
Hai ngàn năm qua
Bao nhiêu bậc khai tổ, danh sư, quốc sư
Vẫn phương đài, truyền đăng tục diệm
Năm ngàn năm qua
Bao nhiêu bậc minh quân, danh tướng, anh hùng
Vẫn phương đài, kim cổ soi chung
Hàng ngàn năm sau
Muốn thắm tô Dân tộc, Đạo pháp, Quê hương
Vẫn noi gương đời đời liệt Tông, liệt Tổ
Hôm nay :
Ngài đã Tây quy
Lá rụng về cội
Nước quay về nguồn
Pháp cổ trầm hùng ngân ngân mãi
Huyền Quang tâm lực sắt sắt son
Đạo pháp muôn đời bi bi nguyện
Giang sơn muôn thuở châu châu viên
Từ đông tây nam bắc
Từ quốc nội hải ngoại
Khắp bốn biển năm châu
Khác màu da chủng tộc
Của thế kỷ hai mươi
Đầu thế kỷ hăm mốt hôm nay
Tăng tín đồ cúi lạy dâng Ngài
Cả dân tộc kính vọng tên Ngài
Cả nhân loại hướng vọng tên Ngài
Một con người Việt Nam
Của dân tộc Việt Nam
Của Phật Giáo Việt Nam
Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang
Đức Đệ Tứ Tăng Thống Huyền Quang bất tử !!!
Thích Nhật Tân ngưỡng bái
(1) và (2) : Trích những câu nói khẳng khái lịch sử của
chính Đức Tăng Thống
Kính ngưỡng Cuộc đời và Hành trạng
Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (Hèn bút nhớ thuở nào ít nhất cũng đã đôi lần tuyệt thực, ngồi cách Ngài vài
hàng trên đường Sư Vạn Hạnh-Ấn Quang.
Viết để cảm thương, cảm mến, cảm phục. TNT)
Cuộc đời Ngài là một trời huyền bí
Cuộc đời Ngài là một núi uyên thâm
Cuộc đời Ngài là một rừng mộng mị
Nên nhìn trông như mọ mẫm một hầm
Người trong cuộc, thật tình, không hiểu hết
Người ngoài cuộc thì phán, đoán, lượng, suy
Ngài sống đó, không tìm ra đoạn kết
Ngài ra đi, càng bất khả tư nghì
Cũng uống ăn ngủ nghỉ
Cũng đi đứng nằm ngồi
Trông bình thường dung dị
Nhưng một khối xa xôi
Cũng sinh lão bịnh tử
Cũng da thịt cốt bì
Trông buồn vui tư lự
Nhưng một khối ly kỳ
Cũng đói no ấm lạnh
Cũng chỉ một nhà tu
Trông Phàm không phải Thánh
Nhưng một khối thiên thu
Nhìn tấm hình của Ngài, một thuở nào, với bộ xương cách trí
Bỗng nhớ Đức Bổn Sư, một thuở xưa, tu khổ hạnh rừng già
Đó phải chăng là những dấu ấn, ấn lên trên cõi ta bà
Ai không cảm phục, mến thương,
Bát nạn, tam đồ vỡ toang, nhức nhối
Ngài sống ở đâu, cũng là trung tâm điểm đón, săn, thưa, gởi
Ngài ngồi ở đâu, cũng là trung tâm điểm dò la, gọi, mời
Nhớ xưa Bồ Đề Đạt Ma, cửu niên diện bích, một thời
Thì nay chính bản thân Ngài, một phần ba thế kỷ, không nói một lời
Dù trời chuyển, đất lay, vật đổi, sao dời
Dù biển động, sóng gầm, sấm sét, thiên lôi
Dù thời nghiêng, thế ngửa, thay bậc, đổi ngôi
Ngài vẫn tự tại, thong dong
Thập mục ngưu đồ, như như bất động
Tiểu sử đời Ngài tự viết, gọi là tự truyện
Cũng chữ cũng câu, nhưng khác nào công án, thoại đầu
Từ Pháp lữ, cho đến tín đồ, thân sơ, xa gần
Từ Việt Nam, cho đến đại lục bốn biển năm châu
Nhìn vào Ngài, vẫn là một con người bí ẩn
Khi Ngài động, bình thường, thiên hạ phập phồng :
coi chừng những cơn địa chấn
Khi Ngài yên, bình thường, thiên hạ canh phòng :
coi chừng sư tử nằm yên
Những nhà phóng tác, những nhà đạo diễn truyện phim
Xuyên qua nghệ thuật ly kỳ
Sẽ là những tác phẩm trường thiên
Không những chỉ ba hồi, mà sẽ từng hồi kinh dị
Hành trạng và cuộc đời Ngài, vô tình trở thành thần bí
Tư duy và cốt cách Ngài, vô tình trở thành thần kỳ
Dù Ngài chẳng nói năng chi
Mà trong nhân thế thầm thì nhôn nhao
Dù Ngài chẳng nói năng sao
Mà trong nhân thế xôn xao luận bàn
Dù Ngài chẳng có dự can
Mà trong nhân thế quyết cam có Ngài
Tam Giang mấy phá thuở nào
Ngựa phi dưới nước, thuyền chèo trên non
Biển Đông mấy đảo mấy hòn
Trường Sơn mấy núi vẫn còn trơ trơ
Và cứ thế đã tròn thế kỷ
Đi theo Ngài nét sử xanh xanh
Quê hương-Phật Giáo đoạn đành
Lần trang sách cũ, thắp vành trăng soi
Biển reo, vỗ nước sông ngòi
Rừng reo, vỗ sóng núi đồi mênh mông
“Nhạn quá tầm không
Ảnh hàn lưu thủy”
Thử vận dụng tận cùng của Trí
Thử vận hành tận lý của Quang
Ngàn sau trên thiếp son vàng
Vẫn hằn dấu ấn Trí Quang tuyệt vời
Ngàn sau trên nẻo đạo-đời
Vẵn hằn dấu ấn, một thời Trí Quang !!!
Thăm Tháp Ôn Linh Mụ
Sau khi thức dậy, nửa tiếng trầm tư mặc tưởng, bắt dầu viết trên vi tính tại …
vào lúc 4.30am, kết thúc 5.30am, để kính lạy Ôn và thắp đuốc tâm nguyền.
Sáng 07-9-2007
Con đến thăm Tháp của Ngài
Chùa Thiên Mụ chiều nay mưa gió
Những tràng mưa như réo gọi cội nguồn
Những tràng mưa như giục giã tiếng chuông
Thiên Mụ ứng, sấm rền, vang pháp cổ
Hàng hậu tấn thẹn lòng trước Ðại thọ
Kẻ hậu lai hổ mặt trước Ân Sư
Khoác áo Như Lai, không nung nấu lò cừ
Mà lại núp vào những tàn dư thời, thế
Nhìn lại lịch sử 2000 năm
Lịch đại Tổ Sư kế thế
Thầy Tổ, tông môn rạng rỡ thiền môn
Mỗi hành trạng, xuất xử, chấn động càn khôn
Rúng chuyển sáu lần trái đất và ba ngàn thế giới
Quỳ trước Tháp của Ngài
Nước mắt con tuôn chảy
Chảy thật ngon lành như chưa được chảy bao giờ
Dư âm cuộc đời Ngài, của những bậc tiền nhân
Con như một đứa trẻ thơ
Trước khúc quanh ly loạn, ngông cuồng, nghiêng ngửa, nát tan
Ðã vội thoát khỏi vòng tay của mẹ
Chiếc áo nâu, chưa thấm đủ tương chao dưa muối
Mảnh y vàng, chưa thấm đượm giáo dưỡng kệ kinh
Bãi phong trần, gió bụi phủ quanh
Nét tang thương, vướng màu phù thế
Làm con của Bậc Ðại Pháp Vương
Mà chưa đáng là hàng tiểu tử
Làm đệ tử, môn đồ của những bậc Ðại Long Tượng
Mà chỉ là chuột, thỏ núp ổ, chui hang
Tiếng gầm của Sư Tử
Tiếng rống của Hùm Thiêng
Mà chúng con lại nghe tiếng : cáo chồn lang sói
Lòng con thổn thức từng cơn đau nhói
Tâm con vụn vỡ từng nỗi bi ai
Hai hàng nước mắt chảy dài
Ðó là nưóc mắt thệ nguyền một lòng dấn thân gìn giữ ?
Hay là nước mắt của những con người yếu đuối
An phận, trốn chạy, thủ thường,
Và làm loang lở dấu ngọc vàng son ?
Núp vào hai chữ dại khôn
Ðại trượng phu, đại quân tử không học
Mà lại cúi lòn, chui phò thế nhân tục tữ ?
Bên Bảo Tháp Ngài
Con muốn quì thật lâu
Ðể nước mắt con thấm thật sâu
Không phải ngập tràn hai khóe bờ mi
Lăn trên đôi má, nhỏ xuống lồng ngực
Mà xoáy vào lòng đất
Chuyển mạch về nguồn
Tạo thành mưa nguồn thác lũ
Rửa sạch đất trời
Rửa núi rửa non
Chảy xuống thành sông
Chảy dài ra biển
Tiếng pháp âm, phải là thượng tôn : trên đền ơn Chư Phật
Tiếng pháp từ, phải là hạ chiếu : dưới cửu khổ ba đường
Chứ không phải là phường vá áo túi cơm
Và làm nhơ nhớp, ô danh Như Lai thích tử
Nếu chúng con không như thế
Thì thà chúng con không dính dự
Lịch sử xưa nay, ai muốn làm gì thì làm
Ðạo pháp xưa nay, ai muốn đem nhôm chì mà đúc thành vàng
Son sắt hùng tâm, lại trác trấu cám, nhùi vào hoang tàn tro bụi
Con lặn khóc trước thành đồng vách núi
Con lặng lẽ bước đi, tấc dạ tâm đan
Còn nghe tiếng vọng âm vang
Ân Sư, Thầy Tổ, trên đàng con đi
Tâm tư, tâm lực, tâm nghì
Nội trong, ngoại sạch, sá gì phù vân
Phong trần, phất cả phong trần
Thế thời, phất cả, có lần lựa ai
Như Lai, phải nói Như Lai
Tang thương, phải nói ách tai mấy thì
Nhiệm mầu ánh đạo từ bi
Gióng thuyền bát nhã, tư nghì trần ai
Ðạo đời, hai gánh trên vai
Thế thời, hai gánh đường dài dặm soi
Ðan tay thế núi lưng đồi
Ðan tâm vá đắp luyện tôi nức lòng
Bước chân lãng tử thong dong
Bên ngôi Tháp Tự kết vòng đơm hoa.
Đạo Vàng tỏa rạng Như An Viết 7.20am, xong 8am trên chuyến bay ngày 06-7-2008
để cùng họp Giáo Hội tổ chức Lễ Truy Tán Cầu Nguyện
Dâng lên Giác Linh Ngài.
TNT
Vũ trụ lăn quay
Ngân hà xao xuyến
Mây mù vần vũ
Khuất bóng trăng sao
Ba ngàn thế giới rung động
Ba đường sáu nẻo xôn xao
Trái đất rợn hồn nín lặng
Lòng người im bặt, nao nao
Ngưỡng bạch Đệ tứ Tăng Thống
Huyền Quang chín phẩm trên cao
Ngài đi, hằng viễn nhiệm mầu
Chúng con ở lại, rầu rầu ruột đau
Ngài đi, đứt mấy nhịp cầu
Chúng con ở lại, chìm sâu vuông tròn
Ngài đi, lửa đốt sắt son
Chúng con ở lại, lối mòn sương pha
Hỡi ôi, là cõi ta bà
Tâm nguyền nguyền đắng, hạnh ngà ngà cay
Hỡi ôi, cát đá bụi bay
Tình vương vương nặng, nghĩa ngây ngây nồng
Hỡi ôi, núi Thái biển Đông
Dư đồ một mảnh giống dòng Việt Nam
Chung nhau lịch sử năm ngàn
Chung nhau ấm lạnh cơ hàn thịnh suy
Chung nhau khổ nhục vô nghì
Chung nhau nước mắt, bờ mi đã mòn
Trước năm 1954, rách nát !
Sau năm 1954, tương tàn !
Trước năm 1975, bi đát !
Sau năm 1975, lầm than !
Nhục nhằn, từ Nam tới Bắc
Khổ đau, từ Bắc tới Nam
Quốc nội, hải ngoại, tim thắt
Trong ngoài, hai mối, lòng se
Ngài đi, Mùa Hạ đang về
Tiếng chuông tiếng mõ nhịp khua Đàn tràng
Ngài đi, Mùa Hạ băng ngang
Tăng Ni tứ chúng hàng hàng xót xa
Ngài đi, Mùa Hạ chưa qua
Hương bay khói quyện gần xa Nguyên Thiều
Trông về Phương trượng tịch liêu
Ngày đêm sáu khắc, chín chiều ruột đau
Cách ngăn, còn mấy nhịp cầu
Dập vùi, còn mấy sắc màu tang thương
Tâm nguyền Đạo pháp - Quê hương
Hạnh nguyền chan chứa tư lường hồn ai
Rêu mờ, son sắt không phai
Dấu mờ, không nhạt phương đài Huyền Quang
Chắp tay, nâng đóa Ưu Đàm
Giải Hòa tỏa rạng Đạo Vàng Như An.
Năm năm trước - Năm năm sau ! Viết 8.20am, xong 8.55am trên chuyến bay ngày 06-7-2008,
để cùng họp Giáo Hội tổ chức Lễ Truy Tán Cầu Nguyện
Kính dâng Giác linh Đức Tăng Thống
TNT
Năm năm trước
Thiết lễ, suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống
Năm năm sau
Cúi đầu, đảnh lễ Ngài tịch lắng Tây quy
89 năm trần thế, tâm lực vô nghì
69 năm Pháp lạp, Tăng phong, Đạo cốt
Tu viện Nguyên Thiều
Một bậc long tượng ẩn khuất
Phật Giáo Việt Nam
Một bậc lương đống xả thân
Phong trần mấy gánh phong trần
Đắng cay mấy gánh, cơ cần ruột gan
Quê hương - Đạo pháp cưu mang
Một đời lao khổ, lầm than vô ngần
Xích xiềng, không dám đeo gông
Một đời, ba thuở nằm trong lao tù
Sắt son, rực sáng tâm như
Bách niên ư hữ, không dư, thiếu - thừa
Thế thời đưa đẩy, đủ chưa
Chín mươi độc ảnh, chưa vừa hay sao
Thế thời nghiêng ngửa bờ lau
Đạo - Đời, vùi dập nao nao đoạn đành
Một đời, ai nhục, ai vinh
Một đời, bóng núi nghiêng mình tiêu sơ
Năm năm trước, Ngài không ước mơ
Năm năm sau, Ngài chẳng trông chờ
Ngài đã từng nói :
Đạo pháp - Dân tộc ư !
Tấm thân tôi này !
Quê hương - Lịch sử ư !
Đôi tay tôi này !
Cứ tội, cứ tù, cứ lao, cứ lý
Cứ nhục, cứ hình, nếu chết thì thôi
Chứ không hề lay chuyển
Không thể đổi thay
và trước sau như một
Hôm nay, Ngài xả báo thân, quy nhất
Nhưng thật ra, Ngài đã quy nhất từ lâu
Đạo pháp gắn liền với Dân tộc - tuy một mà hai
Lịch sử gắn liền với đất nước - tuy hai mà một
2000 năm Phật Giáo
5000 năm Dân Tộc
Đá dẫu mòn, nhưng ngọc không phai
Lửa càng nung, thì vàng càng sáng
Nguyên Thiều, 1 giờ chiều ngày 5 tháng 7, Hạ nắng
Huyền Quang, xả nhục thân, Mậu Tý lục ngoạt, bảo sở hoàn nguyên
Ngài về một cõi tịch biên
Quê hương - Đạo pháp, con thuyền lao linh
Ngài về, thăm cõi vô sinh
Ta bà nhập thế, đăng trình độ sanh.
Trái Tim Đâu Rồi ?
Bài này đã viết từ 2008, nhưng đến nay mới đánh máy Xin mời xem qua.
45 năm trước
Hai tay nâng trái tim, giữ gìn Đạo Pháp
45 năm sau
Hàng triệu Tăng Tín đồ thổn thức tâm can
Ngài đã nằm yên, thời thế mang mang
Cho trầm tỏa Nguyên Thiều, bi bi khói quyện
Trước Linh Đài, chan nước mắt, hòa câu kinh, vọng tiếng
Tôn dung Ngài, ẩn hiện bậc thạch trụ, quang minh
Ngài về một cõi Vô Sinh
Chúng con ở lại đong tình sắt son
Ngài về núi ngã đầu non
Chúng con ở lại lối mòn bụi bay
Ngài về Thượng phẩm Phương Tây
Chúng con ở lại cỏ cây lên màu
45 năm trước
Một trái tim lửa đốt không cháy
45 năm sau
Một trái tim sắt máu không sờn
Ngọc ngà chưa hẳn đã hơn
Kim cương chưa hẳn vàng son hơn Người
Thế gian, cứ thử lò cừ
Trần gian, cứ thử thật hư chánh tà
Một khi nhìn lại quê nhà
Lâu nay lạc lối Ta Bà thế sao
Lộn tròng trời thấp đất cao
Bùn đen quện cáu, phóng lao tuyệt tình
Sống thời tráo đấu chốt đinh
Chết thời non nỉ chút tình can qua
Thảm thay cái nỗi Ta Bà
Mịt mờ nhân ảnh la đà bèo mây
Thảm thay con tạo lăn quay
Vật vờ nhân ngã mù say giọt nồng
Đâu là núi, đâu là sông
Cơ đồ đem đổ, cạn dòng nát tan
Đâu là đá, đâu là vàng
Cơ ngơi đem đổ giữa ngàn nhiễu nhương
Thương Đạo pháp, thương Quê hương
Thương như thế đó, máu xương rục hình
Thương Dân tộc, thương Tự tình
Thương như thế đó, điêu linh nhũn tàn
45 năm trước
Hai tay nâng một Trái Tim
45 năm sau
Hỡi người Dân Việt, Trái Tim đâu rồi
Tím lòng cát đá nổi trôi
Tan hoang vết sử lở bồi Việt Nam.
Tháng 11 – 2010
TNT
Một cái chết,
Sau 30 năm vẫn chưa sáng tỏ ! - Viết thêm một bài về Ngài Thiện Minh, dù nhiều vị đã viết
- Viết, vì thấy thêm một bài của Tâm Nguyên trên diễn đàn baovechanhphap
- Viết, vào Mùa Hạ 2009, tịnh niệm An Cư, tưởng nhớ tiền nhân, làm gì cho hôm nay,
và nhắc nhở hậu bối mai sau
Tương chao nhà quê Tăng Lữ
Một cái chết,
Sau 30 năm vẫn chưa sáng tỏ
Biết bao văn thư, đòi hỏi chế độ
Biết bao văn kiện, yêu cầu nhà cầm quyền
Cả Đảng, cả nhà nước, miệng ngậm kín như nêm
Không dám trả lời một câu thật cụ thể
Một cái chết
Sau 30 năm vẫn đen ngòm như bóng tối
Bóng tối của vô minh, sắt máu, bạo tàn
Bóng tối của ngục tù, rừng rú, dã man
Của khỉ, vượn, đười ươi đội lốt con người làm đau cả nước
Ngài, chỉ mặc áo nâu sồng, đầu trần, chân đất
Ngài, chỉ chiếc gậy trên tay, chống đỡ tấm thân
Chế độ trước, bị tù ngục phong trần
Chế độ sau, bị đập đầu bức tử
Vì Thầy là bộ óc cầm cân nẩy mực
Vì Thầy là bộ não tuyệt thế vô song
Ai nói tiếng tổ quốc tồn vong
Ai nói tiếng dân tộc anh hùng
Dù cây gậy hay củ cà rốt
Dù tư bản đỏ hay tư bản đen
Trời đất rộng nhưng không có chỗ đứng
Trước 1975, vì thể chế tự do, nên Ngài còn sống
Sau 1975, vì thể chế cộng sản, nên Ngài tiêu ma
Cái chữ lịch sử, văn hiến, quốc gia
Không thể nói với phường phi nhân vong bản
Họ chỉ nói, súng với đạn
Họ chỉ nói, ngục với tù
Cái ô nhục, nghĩa gì với thiên thu
Cái ô danh, sá chi tranh vân cẩu
« Giải phóng Miền Nam », chỉ là danh từ trống rỗng
« Chống Thực, phản Đế », chỉ là mị nước mị dân
Họ đã là Cộng Sản từ thập niên 1930
Mà cứ chính trị sa lông, mê ngủ, lựa lần
Hết Pháp, tới Nhật, rồi 9 năm kháng chiến, chui đầu vô rọ
Hiệp định Genève năm 1954
Một nửa đất nước Miền Bắc, tận cùng khốn khổ
Hai mươi mốt năm, một nửa Miền Nam, Quốc-Cộng mù mờ
Đấu tranh là chân chính, đường đường,
nhưng như đi trong mộng trong mơ
Đến 30 tháng 4 năm 1975
Mắt không mở vẫn phơi bày sáng quắc
Vì Phật Giáo và Dân Tộc, nên Ngài phải chết
Vì Đất Nước và Quê Hương, nên Ngài cam phần
Dù bức tử tại Chí Hòa, rồi ém nhẹm ra Hàm Tân
Hay bất cứ nơi đâu, chỉ là địa điểm
Bởi, Ngài là một trong những bậc cột trụ
Bởi, Ngài là một trong những bậc cương thường
Thượng sách là triệt tiêu
Không có chuyện suy lường
Hơn nữa, đối với Cộng Sản, đâu có hạ hồi phân giải
Một cái chết, sau ba mươi năm
Thịt xương Thầy, đã trả về tứ đại
Một cái chết, sau ba mươi năm
Thân xác Thầy, đã cát bụi mù bay
Nhưng Trường Sơn, đỉnh núi tỏa cay cay
Nhưng Biển Đông, sóng triều loang muối mặn
Đạo Pháp và Dân Tộc, tràn đầy vị đắng
Đất Nước và Quê Hương, chìm ngập niềm đau
Mẹ Âu Cơ, tóc phơi bạc trắng hoa cau
Cha Long Quân, cau mặt đền thờ Tổ Quốc
Ba mươi năm, mà còn viết về Ngài
Bởi non nước nầy vẫn chưa hết khổ
Ba mươi năm, mà còn thương tiếc Ngài
Bởi, phải chi Ngài sống, để thấm nỗi niềm chung
Quê hương mình, chưa ra khỏi đường cùng
Dân tộc mình, bình minh chưa ló dạng.
*****
Ngưỡng Vọng Hành Trạng Ngài Nhật Liên
Xin kính ngưỡng hướng về, một Cây Đại Thọ trong Rừng Già
Đã khuất bóng giữa núi non, đồi dốc, hố sâu, hòn chồng, đá tảng
74 năm trường, xuất gia, học đạo, hoằng dương, trau dồi huệ mạng
87 năm một cuộc lữ, âm thầm gánh vác Đạo – Đời, nặng trĩu hai vai
Thượng hoằng Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh, hạnh nguyện miệt mài
Danh lợi, địa vị, quyền uy, như đôi dép bỏ
Quảng Trị địa linh nhân kiệt, thời nào cũng có
Có linh mới có kiệt, xuất chúng siêu quần
Có lực mới có hồn, bạt thế siêu nhân
Là núi là sông, là khí là phách, của Miền Trung Nước Việt
Hòa cùng Miền Bắc, hiệp cùng Miền Nam tổ quốc
Vững tay chèo, kèo tay lái, giữ gìn Đạo pháp, Quê hương
Dắt díu nhau đi trên khắp nẻo đường
Khi hòa hóa, khi nhu cương, để thắm tô giang sơn gấm vóc
Thế mới gọi là, Đạo Pháp và Dân Tộc
Thế mới gọi là, Phật Giáo và Quê Hương
Từ bi réo gọi tình thương
Đan tâm xây đắp cành dương óng vàng
Vai này, Đạo Pháp cưu mang
Vai kia, non nước thênh thang ba miền
Đạo mầu thấm nhuận hồn thiêng
Non sông ôm ấp nối liền tình quê
Sống sao trọn vẹn ước thề
Núi cao chớ hỏi Tào Khê làm gì
Một đời, tâm lực vô nghì
Bách niên ư hữ, cớ chi thế trần
Nhẹ hơn một áng phù vân
Trong hơn sương trắng tỏa vầng thiều quang
Một Sa di, chim ngàn còn mỏi cánh
Khi Sa môn, phi mã sánh sao bằng
Hạnh vô cùng, nguyện vô tận, đức khiêm cung
Nên đời Ngài khắc ghi nhiều dấu ấn
Một Sa di, mà đã dự hội sao cho nhất thống
Một Sa di, mà làm Giảng sư, Giáo thọ thiền lâm
Tam đàn cụ túc, chấn động sơn môn
Du hóa sang Miên, sang Lào tế độ
Kế thế trụ trì Tây Thiên Thầy Tổ
Trùng kiến Long Thọ, Chứng minh Đạo Sư
Văn Thánh cổ tự, hưng chấn thiên tư
Nhận trao Ấn Tín, Tam - Tứ Tăng Thống
Không sư tử hống, mà còn hơn sư tử hống
Không hổ hùm thiêng, mà còn hơn hổ hùm thiêng
Một tiếng chuông ngân, vang vọng mọi miền
Một cây đại thọ, tàng che bóng phủ
Tăng Thống, Phụ tá hai đời, đủ hay chưa đủ
Lịch sử Phật Giáo, truyền trao, thiếu hay rằng thừa
Trời chẳng dám dùng dằng, đất chẳng dám dây dưa
Nào nghĩa lý nội ngoại ỡm ờ thời thế
Đầu trần góc bể
Chân duỗi thiên nhai
Đời – Đạo hai vai
Càn khôn nể mặt
Một vì sao sừng sững giữa vòm trời, đã tắt
Một đại thọ giữa rừng già, thũng gốc Tây qui
Một cuộc huyễn sinh, tụ thì đến, tán thì đi
Nhưng nghĩa nặng tình sâu, cho rừng khuya khua bóng núi
Vẫn còn kia, Đệ tử, Môn đồ, Pháp lữ
Vẫn còn đây, Đạo pháp, Dân tộc, Quê hương
Sen vàng chín phẩm Tây Phương
Ta Bà hồi nhập mở đường độ sanh
Kìa xem mây trắng trời xanh
Vô Ưu một đóa trên cành thiên thu
Ta Bà còn lắm chỗ dư
Ngài mau quay gót độ người thế nhân.
Úc Châu, ngày 13-01-2010
Thích Nhật Tân kính bái
Tiễn Người thăm lại Nhà Xưa
Tràn nước mắt cho bờ mi ấm lạnh
Ngập thương đau cho cay xé tâm hồn
Nung lò cừ để tôi luyện sắt son
Lửa thử vàng để trui rèn chí khí
Vì Đạo Pháp leo lên đồi thế kỷ
Vì Quê Hương trèo vách núi nhiêu khê
Hạnh dấn thân không sao vẹn ước thề
Tâm nguyện lực chẳng sờn lòng gai góc
Biển trần khổ ta du thuyền độc mộc
Hạnh độ tha xin trang trải cho đời
Cây khô cằn ta gắn nụ xinh tươi
Đất nức nẻ xin ươm mầm nẩy hạt
Sóng triều vỗ lung linh bên bờ cát
Nước cam lồ ăm ắp vẫy cành dương
Ban đức Từ xóa sạch mọi đau thương
Ban đức Bi dưỡng nuôi chân thiện mỹ
Ai cản được bước chân người Tăng Sĩ
Áo Như Lai ta vá nhuộm tam đồ
Chắp tay nguyền với hai chữ Nam Mô
Dung tất cả nhập Huyền môn Hoa Tạng
Đất Nước này, ai có quyền mua bán
Đạo Pháp này, ai có quyền eo kèo
Tích trượng kia, ta nện cho mấy hèo
Đừng trí trá mang tội đồ Tông Tổ
Năm ngàn năm, giống Lạc Hồng rạng rỡ
Hai ngàn năm, tắm gội đạo từ bi
Đạo vì Đời, mang tâm lực vô nghì
Đời vì Đạo, nguyện tiến tu thánh đức
Người nhẹ gót thong dong về Tây Trúc
Thăm Nhà Xưa một thoáng, kẻo hoài trông
Chốn Ta Bà, sen quý mãi trổ bông
Tình Pháp Lữ mong chờ Người quay lại
Thuyền bát nhã, nắm tay chèo tay lái
Chuyển pháp luân, nương tâm lực tâm đan
Khắp muôn phương gieo rắc ánh đạo vàng
Bồ Tát hạnh chu du hành Lục Độ
Đời khổ ải, nguyện lên đường cứu khổ
Đời thương đau, nguyện cứu hết thương đau
Tiếng chuông ngân vang vọng khắp tinh cầu
Áo Như Lai chưa phai màu hoại sắc
Người về thăm cho đệ huynh nhắn gởi
Đấng Cha Lành an trụ có khỏe không
Gia hộ cho trần thế bớt long đong
Thời mạt pháp chúng sanh nhiều nông nỗi.
Cung tiễn Ngài thăm lại Nhà Xưa
Ngày 14-01-2010
Thích Nhật Tân
Tiễn bước về Tây
Tiễn người quay gót về Tây
Phù sinh còn lắm nỗi nầy tình kia
Tiễn người nặng bước chia lìa
Môn đồ Pháp quyến đầm đìa móc mưa
Thương người biết mấy cho vừa
Một đời tận tụy ai chưa thấm lòng
Người đi cánh hạc thong dong
Chúng con ở lại nhớ trông bóng người
Nhìn nhau nước mắt khô cười
Cành mai trước ngõ ít tươi nụ vàng
Tiễn người tay đứt cung đàn
Đờn ngưng khúc nhịp đò ngang bóng chiều
Còn đâu sóng vỗ cầu kiều
Còn đâu gió thoảng cánh diều bay xa
Trần gian vốn chẳng là nhà
Phiêu du quán trọ ta bà thế thôi
Non cao núi ngả lưng đổi
Thùy dương cát trắng sóng mòi nhẹ lay
Người về hoa cỏ đan mây
Chúng con ở lại niềm tây lạnh lùng
Điểm khởi, phải có điểm cùng
Vẽ lên dấu ngọc thỉ chung đăng trình
Có tử, thì phải có sinh
Vẽ lên diện mục hỏi mình là ai
Bản hoài bản nguyện Như Lai
Ô hay, trước ngõ cành mai trổ rồi
Ân tình nặng nghĩa một đời
Gắn lên chót đỉnh chơi vơi tiếng lòng
Bảo rằng mây trắng thong dong
Biết đâu tơi tả tơ mòng ẩn sâu
Bảo rằng bãi biển nương dâu
Biết đâu bèo bọt muộn sầu mênh mang
Hữu tình gắn cõi trần gian
Vô tình lay động trên đàng ta đi
Nếu không, cạn tiếng Từ Bi
Tâm không, nhưng nặng tư nghì độ sanh.
Kính tiễn Người đi,
Ngày 14-01-2010
Mặc Giang
Một cây Đại Thọ trong Rừng Già
Không hiểu tại sao khi hay tin viên tịch, tôi lại bị cuốn hút về Người, để rồi
mường tượng một cây đại thọ đường đường nhưng âm thầm kỳ bí trong rừng già
cổ kính, hay một vì sao sừng sững giữa vòm trời nhưng ẩn kín giữa thâm u. Và
cái hình ảnh ấn tượng của một ngày tháng năm nào hiện rõ trong tôi vô cùng sâu
sắc. Nên xin mao muội viết để dâng lên Người, lặng lẽ như ngũ phần hương
bàng bạc trầm lắng bi hùng.
Người ra đời năm 1923 tại Triệu Phong, Quảng Trị, tỉnh phía Bắc Kinh Đô Huế
một thời, tỉnh biên thùy với Quảng Bình 21 năm khói lửa, một tỉnh khô cằn cát
đá đất hẹp người thưa của Miền Trung nước Việt. Người ra đi năm 2010 tại
Long Thọ, Đồng Nai, một tỉnh của Miền Đông Đất Đỏ, một tỉnh của Lục tỉnh
Miền Nam - tôi không muốn dùng chữ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, cái từ oái
ăm của 100 Tây thuộc đô hộ, và cái chữ Kỳ di họa cho tới hôm nay, có tính phân
chia, nặng tính địa phương mà dân tộc gánh chịu - chứ không phải ra đi tại Bàng
Long Lào quốc, Tây Thiên Huế, hay Văn Thánh Thị Nghè. 87 năm trên trần thế,
74 năm uy đức thiền môn, 59 hạ lạp hoằng dương tế độ, vô tình hay nhân duyên
gắn liền chữ Thọ trong rừng già, và nay mai, Bảo Tháp sẽ được nằm yên nơi
Long Thọ.
Mới 13 tuổi đã thế phát xuất gia, 18 tuổi thọ Sa Di, 30 tuổi mới thọ Đại Giới.
Thời Sơ đẳng, bạn đồng học với Người bấy giờ là quý Ngài Trí Quang, Thiện
Minh, Thiện Siêu,… 22 tuổi được cử vào giảng dạy Lưỡng Xuyên Phật Học, Trà
Vinh. 23 tuổi, Sơn môn Tăng già Bình Thuận thỉnh mời ra giảng dạy tại Phan
Thiết. 24 tuổi, làm Giảng sư Tỉnh Hội và cùng thành lập Phật học đường Quảng
Trị. 28 tuổi giảng dạy các trường Phật học tại Huế. Cuối năm 28 tuổi, Người vào
Sài Gòn, nhận lãnh chức vụ Cố vấn, Giáo thọ Phật Học Đường Nam Việt mà học
tăng bấy giờ là quý Ngài Từ Thông, Huyền Vi, Thiền Định, Thanh Từ,… chủ
biên tạp chí Từ Quang. Chính Người đề nghị đổi chữ Chùa Ứng Quang thành
Chùa Ấn Quang, Trụ sở Trung Ương của Giáo Hội Thống Nhất sau này cho tới
khi bị cưỡng đoạt. 29 tuổi (1951), Người là một trong 51 vị Đại biểu toàn quốc,
và là một trong 7 thành viên Phái đoàn Phật Giáo Nam Việt tổ chức họp Hội
nghị thống nhất Phật Giáo Việt Nam tại Chùa Từ Đàm, thành lập Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam, tiền thân của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Xin
mở một dấu ngoặt và đóng một dấu ấn nơi đây, rằng, một Sa di mà đã phụng
hiến cho Đạo Pháp, xây dựng cho Giáo Hội đến ngần ấy, huống chi từ 30 tuổi
Tam Đàn Cụ Túc, vân du hoằng hóa hết Miên tới Lào, quay về Việt Nam âm
thầm xiểng dương chánh pháp, chống đỡ căn nhà Phật Pháp, gánh vác Giáo Hội,
oan khiên cùng vận mệnh cho đến cuối đời,… Muốn tận tường về cây Đại thọ
trong rừng già Phật Giáo, xin đọc Tiểu sử sẽ rõ phần nào trong muôn một hành
trạng, công đức của Người.
Người chính là: Nam Mô Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tam Thế, Trùng kiến
Long Thọ Tự Chứng Minh Đạo Sư, Tây Thiên Di Đà Tự Trú Trì, Đệ Nhị Cố
Vấn Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, húy
thượng Tâm hạ Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên, Trưởng lão Đại
Sư.
Nên nhớ và nên biết rằng, năm 1992, chính Ngài nhận lãnh Di Huấn, Chúc Thư,
Ấn Tín của Đức Đệ Tam Tăng Thống, Trưởng lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu,
khi Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, vượt
được vòng kềm tỏa Hội Phước Quảng Ngãi ra bái yết dâng hương lên kim quan
di ảnh Đức Đệ Tam tại Chùa Thiên Mụ Huế, thì ngay tại nơi đây, vào ngày 02-5-
1992 trước kim quan Đức Đệ Tam, từ tay Ngài Nhật Liên trao lại và Ngài Huyền
Quang đưa hai tay đón nhận Di Huấn, Chúc Thư, Ấn Tín của Viện Tăng Thống.
Trong khung cảnh trang nghiêm bi thiết hằn lên đậm nét dấu tích lịch sử này, và
nhìn vào những tấm hình kia, ai mà không cảm kích, động não tâm tư, xao xuyến
đáy lòng. Dấu ấn bi hùng bi nguyện sâu xa nhất của Giáo Hội Thống Nhất đã 17
năm kể từ 1975. Và từ đó Văn Phòng Lưu Vong Viện Tăng Thống được thiết lập
theo bước chân lưu đày Ngài Huyền Quang, Xử Lý Thường Vụ Hội Đồng
Lưỡng Viện.
Nên nhớ và nên biết rằng, từ Ấn tín đó mới có Văn Phòng Lưu Vong lưu đày
Quảng Ngãi, tới quản thúc nguyên quán lao tù. Vào năm 2003, qua một Đại hội
Bất Thường tại Nguyên Thiều Bình Định, và qua một Đại Hội Đại Lễ Suy Tôn,
ủy thác Giáo Hội Úc Châu tổ chức tại Quảng Đức, Melbourne, Ngài Huyền
Quang chính thức lên ngôi vị Đệ Tứ Tăng Thống, cho đến ngày viên tịch cũng
tại nguyên quán quản thúc Bình Định Nguyên Thiều vào Mùa Hạ năm 2008.
Giáo Hội Thống Nhất vĩnh biệt Đức Tăng Thống đời Thứ Tư.
Nên nhớ và nên biết rằng, Giáo chỉ số 10 của Đức Đệ Tứ Tăng Thống lập tại
Nguyên Thiều ngày 02 tháng 12 năm 2007, ở Điều 1 Cung thỉnh Chư Tôn Đức
đăng lâm pháp tịch Thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng
Thống, thì Hòa Thượng Nhật Liên đứng vị trí thứ 4 sau các Ngài Huyền Quang,
Quảng Độ, Bảo An. Hòa Thượng Thiện Hạnh, đương vi Chánh Thư Ký Viện
Tăng Thống hiện nay đứng vị trí thứ 5, theo Giáo chỉ này.
Nên nhớ và nên biết rằng, Ngài Nhật Liên, là Phụ tá đắc lực Đức Đệ Tam và Đệ
Tứ, bởi trọng nhiệm nhận lãnh và trao lại Dấu Ấn Viện Tăng Thống đó, mà bị
thời bị thế, bị trong bị ngoài làm đảo điên, não loạn, gây cho Ngài đột quỵ, nhồi
máu cơ tim, thọ bịnh suy thân, ảnh hưởng rất nhiều công cuộc phụng hiến cho
đạo cho đời, làm cho Ngài cạn kiệt và đưa đến sự Tây qui sớm như đã diễn ra.
Nên nhớ và nên biết rằng, Đức Trưởng lão Hòa Thượng Nhật Liên đã an nhiên
thâu thần thị tịch vào lúc 5 giờ chiều (giờ VN) ngày 08-01-2010, nhằm ngày 24
tháng 11 năm Kỷ Sửu tại Chùa Long Thọ, tỉnh Đồng Nai, trụ thế 87 tuổi. Tang lễ
bắt đầu từ đó cho tới 10 giờ sáng ngày 14-01-2010 nhằm ngày 30 tháng 11 Kỷ
Sửu, kim quan của Ngài sẽ nhập Bảo Tháp, tôn ảnh linh vị của Ngài sẽ được an
trí tại Tổ đường Long Thọ nơi đây.
Nên nhớ và nên biết rằng, sự viên tịch của Ngài, do Tăng Chúng Tổ Đình Tây
Thiên Huế, Tăng Chúng Chùa Long Thọ Đồng Nai, Tăng Chúng Chùa Văn
Thánh Sài Gòn và môn đồ đệ tử nghiêm cẩn đồng cáo bạch ngày 09-01-2010.
Nên nhớ và nên biết rằng, Ban Tổ Chức Tang Lễ của Ngài đã được cung thỉnh
chức sự. Chứng Minh: Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, Trưởng lão
Hòa Thượng Thích Diệu Tâm ; Cố Vấn: Hòa Thượng Thích Thiện Bình, Chùa
Long Sơn, Nha Trang ; Trưởng Ban: Hòa Thượng Thích Đức Chơn, Viện chủ Tu
viện Già Lam, Sài Gòn.
Nên nhớ và nên biết rằng, Ban Nghi Lễ Tang Lễ của Ngài đã được bái thỉnh
cung an. Chứng Minh: Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, Trưởng lão
Hòa Thượng Thích Diệu Tâm ; Chấp Lệnh: Hòa Thượng Thích Liêm Chính,
Hòa Thượng Thích Phước Trí ; Đệ nhất Sám Chủ: Hòa Thượng Thích Huệ Ấn,
Đệ nhị Sám Chủ: Hòa Thượng Thích Huệ Tâm.
Chúng tôi tìm thấy và chỉ mới đọc được Cáo Bạch của Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất Hoa Kỳ đề ngày 08-01-2010 ; Điện Thư Phân Ưu của Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada đề ngày 08-01-2010
; Điện Thư Phân Ưu của Hội Thân Hữu Già Lam đề ngày 09-01-2010 ; Điện
Thư ngày 09-01-10 và Tri Tán Công Đức Thư ngày 12-01-10 của Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu ; Tri Tán Công Đức Thư ngày 10-01-10 và
Thông Tư Lễ Tưởng Niệm ngày 15-01-10 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan ; Một số Thư Phân Ưu,
hoặc Điện Thư của các Tự Viện, hoặc cá nhân, chứ chưa nhận và tìm thấy những
Giáo Hội, hay danh xưng khác, sau này nếu có và nếu cần xin bổ túc thêm.
Một cây đại thọ trong rừng già, giữa núi non trùng điệp, giữa thung lũng dốc
đèo, giữa hòn chồng đá tảng, sừng sững nhưng âm thầm, uy đức nhưng khiêm
cung, ghi những dấu ấn và đóng những dấu ấn bi hùng trong lịch sử Phật Giáo
Việt Nam cận đại. Xin viết đôi dòng dâng lên Ngài với tấm lòng chân thành
ngưỡng phục.
Kính dâng Giác linh Hòa Thượng
Ngày 12-01-2010
Thích Nhật Tân
Cuộc đời và Hành trạng
của Ngài Trí Tịnh đại sư
Tăng Tín, nhất nhất ngưỡng phục Ngài Cưu Ma La Thập
Hậu thế, nhất nhất suy tôn Ngài Đường Huyền Trang
Vị thì Phụng Chỉ Chiếu Dịch
Vị thì vượt trùng vạn lý Tây Thiên
Nên Đông Độ sung mãn Ba Rừng Hoa Tạng
Phật Giáo Việt Nam
Một bậc Đại Tăng xuất hiện
Vào thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21
Một bậc thượng thừa, xứng hiệu Đại Sư
Tôn danh Trí Tịnh, Tam Tạng nhất như
Lý - Sự thâm uyên, tinh nghiêm giới đức
Ngài không cần băng qua Tây Vức
Cũng không cần Đông Độ - Trung Hoa
Việt Nam ta đã có Trung tâm Luy Lâu ngự tòa
Ngay từ thời kỳ sơ khai, Phật Giáo truyền lưu chuyển mạch
Danh Tăng Việt Nam, 2000 năm kiệt xuất
Danh Tăng Việt Nam, 2000 năm tuyệt trần
Việt Nam ta đâu có thiếu mà còn thừa
Những bậc Long Tượng thiền môn xuất hiện “hóa thân”
Theo dòng lịch sử lung linh huy hoàng son sắt
Danh Tăng Việt Nam thời thời có mặt
Danh Tăng Việt Nam thế thế rạng danh
Mỗi xuất xử, thong dong mây trắng trời xanh
Mỗi hành trạng, vẽ chi “tầng không nhạn quá”
Nào Khương Tăng Hội, ngàn năm bia đá
Nào Vạn Hạnh, Huyền Quang, bia sử còn mờ
Nào Trúc Lâm Phật Hoàng, thử hỏi hư vô
Trong Càn Khôn, lấy gì để sánh
Nay, tôi chỉ nêu danh một Ngài Trí Tịnh
Đại hạnh khiêm từ, đại nguyện thâm sâu
Việt Tạng - quốc ngữ, bảo ngọc minh châu
Độc thọ khai hoa, một đời phụng hiến
Mọi ngôi chùa Việt Nam, khi kinh kệ trầm hùng lên tiếng
Bao nhiêu bộ kinh lớn nhỏ, khi ngân lên ẩn hiện tên Ngài
Mọi Đạo Tràng từ Châu Thành, Phố Thị, Thôn Quê trân trọng tên ai
“Hân Tịnh Tỳ kheo”, “Pháp thân” của Ngài châu sa phổ hóa
Ngài còn cưu mang, vì Quê hương đang khổ
Ngài còn cưu mang, vì Giáo Hội đang cần
Ngài còn giảng dạy, cho hàng Hậu học đức ân
Chứ đâu phải dành riêng sưu tra trầm tích chuyển dịch
Phàm có hai vai, Ngài có bao nhiêu vai, để gánh
Phàm có hai tay, Ngài có bao nhiêu tay, để làm
Một ngày có 24 giờ, thời khắc còn đâu
Nhưng Ngài không hẹn lần hẹn lữa một hai
Đa sự vẫn vẹn toàn, và chuyên tu nghiêm mật
Cuộc đời Ngài, quả thật phi thường kiệt xuất
Xuất chúng siêu phàm, có một không hai
Một Ngàn năm trước, làm lu mờ sắc ngọc hoa cài
Một Ngàn năm sau, đèn đuốc hậu lai khó soi tới
Cuộc lữ trăm năm, thân nào không mỏi
Bách niên ư hữ, một kiếp Ta Bà
Ngài hơn 90, đại thọ chưa pha
Tâm lực vẫn kiên trinh
Trí lực vẫn nguyên vẹn
Nhìn trụ vũ
Tôi đứng bên khung thềm đưa tay vén
Hỏi hư vô
Còn chỗ nào muốn trùm khắp nữa không
Kìa, xem bóng nguyệt dòng sông
Đẩy xô mặt nước bềnh bồng mà chi
Kìa, xem vần vũ li ti
Ngựa đua dưới nước, thuyền thì chèo non
Việt Nam ta, ửng dấu son
Cần chi vay muợn lối mòn tha nhân
Việt Nam ta, tuyệt thế trần
Cần chi rũ mặt phù vân ngoại hình
Việt Nam ta có của mình
Của mình siêu xuất tuyệt tình nhớ nghe
« Nhạn quá trường không », không cần ai nhớ
Ngàn sau lưu ảnh, nào hỏi nhớ quên
Việt Tạng xưng dương, Pháp Bảo Tôn Kinh
Trí Tịnh an nhiên, trùng trùng sinh diệt
Phật Giáo Việt Nam truy tôn thi thiết
Từng chữ từng câu trì tụng thời thời
Chuông mõ ngân vang trầm bỗng nơi nơi
Tôn danh Ngài tương ưng vô biệt xứ
Xin viết đôi lời, hãy lìa ngôn nắm ý
Xin ghi đôi câu, y nghĩa bất y nhân
Phật Giáo Việt Nam, có Danh Tăng Việt Nam
Không những chỉ Tam Tạng tinh thông, Ưu thời mẫn thế
Mà vũ trụ càn khôn, lọt bũm chân lông, không đầy hạt cải.
Ngày 05 tháng 01 năm 2011
Thích Nhật Tân kính bút.
Cuộc đời và Hành trạng Đức Đệ Nhất Tăng Thống (Đại Trưởng lão HT Thích Tịnh Khiết, 1890 – 1973)
Kính lạy tôn dung Ngài
Con xin tìm lại dấu xưa
39 năm, hai thế kỷ sao vừa
Nín thở, lặng yên, đọc từng con chữ
Ba lần, lần mò ba trang giấy tiểu sử
Mỗi một từ sâu lắng tận tâm can
Mắt lại nhìn vào ảnh tượng tôn nhan
Gương hạnh, đức độ, từ bi, trang nghiêm quá
Nhớ lại xưa, thuở một học tăng bé nhỏ
Bốn năm thiếu thừa từ 68 đến 72
Thỉnh thoảng nhìn thấy Ngài vóc dáng khoan thai
Tự tại, thong dong trong khung viên Ấn Quang Thống Nhất
Sự viên tịch Hòa Thượng Thiện Hoa, con được hầu quan, tiễn đưa chí thiết
Nhập Vô Dư của Ngài, con chỉ hướng vọng về Huế xa xôi
Đến hôm nay, 39 năm theo vận mệnh nổi trôi
Con xin chân thành mượn nét bút viết dâng lên
Tưởng niệm, đảnh lễ, tôn vinh Ngài Đệ nhất
Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Kế thừa lịch sử Phật Giáo 2000 năm, bất tuyệt
Hòa cùng lịch sử Dân tộc 5000 năm, trường tồn
Vô trụ thị trụ, vô thường thị thường
Vàng càng thêm sáng, sắt càng thêm son
Dấu tích xa xưa, bừng bừng tỏ rạng
19 tuổi thọ Cụ Túc về trụ xứ phát nguyện
Mỗi một chữ lạy một lạy, Bộ Vạn Phật ba năm liền
Thì hành trạng và cuộc đời Ngài
Làm sao không vời vợi oai đức thiêng liêng
Như Thanh Thái Hòa Thượng Bổn Sư ấn tâm phú pháp
“Trừng Thông tâm pháp bổn đồng nhiên
Phó nhữ Chân Thường đạo chí kiên
Phi hữu phi vô phi sở kiến
Tịch nhiên khai ngộ chủ nhơn tiền”
Ngài xuất hiện ra đời khi thời thế đảo điên
Đạo Pháp cuối thời kỳ Pháp thuộc ngửa nghiêng
Mà Dân Tộc cũng chông chênh giữa sóng triều XANH - ĐỎ
Tiếng nói của lương tri cơ hồ bỏ ngỏ
Tiếng nói của tự tình tim thắt ruột đau
Đỏ - Xanh, cứ thế lên màu
Xanh - Đỏ tranh đoạt nát tàu quê hương
Nát từ thôn dã phố phường
Nát vào tận chốn nghiêm đường uy linh
Cạn tàu ráo mán tơ tình
Chùa chiền dậy sóng rêm mình trầm kha
Còn chi quốc quốc gia gia
Còn chi non nước cửa nhà Việt Nam
Họ đã ra tay hạ Màu Cờ Ngũ Sắc
Họ đã ra tay giữa Mùa Phật Đản uy nghiêm
Tăng tín đồ Phật Giáo
Hai tay không, dùng tấm thân, làm giậu làm khiên
Máu đổ, xương rơi, ngã gục giữa dùi cui súng đạn
Chư Thánh Tử, chết vì Đạo, để cho Đạo còn sống
Chư Thánh Tử, chết vì Đạo, để đánh thức bạo quyền
Họ bảo rằng : Ba bi kieu (barbecue), thịt nướng, Thầy chùa điên
Bị Cộng giật, Cộng mua, Cộng sai, Cộng khiến
Đêm 20 tháng 8 năm 1963
Họ ập vào Xá Lợi, hốt cho trọn tàu, đoạn tuyến
Ngài cũng mang thương tích dưới đài sen
Cũng tù, cũng tội, chốt khóa như nêm
Phật Giáo đâu có làm gì
Phật Giáo chỉ đòi hỏi nguyện vọng
Tự do và bình đẳng tôn giáo
Trong lúc Phật tử, Tăng Ni, và mọi cấp lãnh đạo
Cửa ngục tù vẫn kín mít lặng câm
Thì ngoài kia, Dân, Quân, Tướng, Tá dị khẩu đồng âm
Cùng dõng dạc đứng lên và xóa tan chệ độ
Phật Giáo vô can, Phật Giáo không chủ trương thế đó
Phật Giáo vô can, Phật Giáo không vấy máu hận thù
Cửa thiền môn, ngàn đời, vẫn tịch tịnh thiên thu
Người con Phật, ngàn đời, vẫn nhu hòa nhẫn nhục
2000 năm Phật Giáo, đạo từ bi thắm thiết
5000 năm Dân Tộc, nền văn hiến đắp xây
Ngài đã tận tâm tận lực cống hiến miệt mài
Hành trạng và cuộc đời niêm hoa vi tiếu
Dẫn thỉnh sư Giới đàn Từ Hiếu
Mở Trung Đẳng Tường Vân
Khai, giáo, dưỡng ân cần
Giám đốc đạo hạnh Cao Đẳng Tường Vân, Báo Quốc
Đào tạo những bậc tăng tài lỗi lạc kiệt xuất:
Thiện Hoa, Thiện Hòa, Hành Trụ, Trí Tịnh, Thiện Siêu,…
Thạc đức thạch trụ rạng danh lịch sử chỉ điều
Ngược thời gian khó tìm, xuôi thời gian khó sánh
Cương vị của Ngài, vũ trụ ngân hà xao xuyến:
Chứng minh đạo sư An Nam Phật Học
Pháp Chủ Trung Việt Phật Giáo Tòng Lâm
Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam
Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Thế kỷ hai mươi, tôn xưng là Tăng Thống Đệ Nhất
Vốn đã có từ mười thế kỷ trước
Đinh Tiên Hoàng Đế sắc phong Khuông Việt Quốc Sư
Mười thế kỷ sau, Tăng Tín đồ suy tôn thánh đức nghiêm từ
Ngài tọa thị như Phật Giáo 2000 năm tọa thị
Công hạnh một đời, băng ngàn thế kỷ
Công đức một kiếp, soi sáng thiên thu
Như vũ trụ lồng lộng với thái hư
Như ngân hà mênh mang cùng vũ trụ
Năm 1972
Ngài rời Sài Gòn, về lại Cố Đô, sông Hương núi Ngự
Một chuyến về, nào ngờ qui ẩn nhà xưa
Chỉ vài tháng sau, nắng Huế đổ mưa
Quý Sửu 73, kinh kỳ vĩnh lạc
Bảo tháp Tường Vân tổ đình trầm mặc
Tùng bách nghiêm đường lịch đại Tổ Sư
Ta Bà nung nấu lò cừ
Thường lạc ngã tịnh Hữu Dư Nát Bàn
Ngàn xưa Cổ Đức âm vang
Ngàn sau Thánh Đức nghiêm trang tôn thờ
Ngàn xưa lối cũ không mờ
Ngàn sau kế thế truyền thừa rạng soi.
Ngày 22 tháng 6 năm 2012
Trước khi Vào Hạ
Thích Nhật Tân
Cuộc đời và Hành trạng Đức Đệ Nhị Tăng Thống (Đại Trưởng lão HT Thích Giác Nhiên, 1878 – 1979)
Kính lạy Giác linh Đức Trưởng lão Tăng Thống Đệ Nhị
Cuộc đời và hành trạng của Ngài dài hơn thế kỷ
Công đức hoằng khai nhiếp hóa của Ngài cao hơn núi cao
Tấm lòng từ bi độ lượng của Ngài sâu hơn biển sâu
Chữ nghĩa của trần gian làm sao phô diễn
102 tuổi, chuông mõ bi hùng, thiền môn bi nguyện
86 tuổi, chấn tích dẫn đầu chống đỡ oan khiên
Hạ Màu Cờ, trong lịch sử chưa vô đạo u minh
Họ ra tay, bởi vì đâu cho cửa chùa dậy sóng
Hơn một thế kỷ, cuộc đời Ngài dài cùng biến động
Nào Thực, nào Xâm, nào Xanh, nào Đỏ úa màu
Thương Dân thương Nước, ai lại không đau
Thương Đạo thương Đời, ai không thống nỗi
96 tuổi, Ngài nhận lãnh vai trò lớn nhất Giáo Hội
Nẩy mực cầm cân lèo lái con thuyền
Thế thời nhân ngã cao điểm đảo điên
Tăng Tín Đồ nức lòng ngưỡng tôn kính phục
Đệ tử của Ngài, những bậc siêu quần kiệt xuất
Một Thiện Minh, làm mờ sử sách đã ghi
Một Thiện Siêu, nghi trượng thiền môn, ai bì
Một Thiện Bình, đạo phong cốt cách, một cõi
Vai trò nào, Ngài không nắm
Cương vị nào, Ngài không làm
Như xưa có đóa Ưu Đàm
Thì nay có đóa A Hàm Thuyền Tôn
Đời Ngài, sắt thẹn e son
Hạnh Ngài, nước chảy đá mòn không pha
Công Ngài, đầy ắp Ta Bà
Đức Ngài, phủ kín ngân hà thái hư
Năm 102 tuổi, Xuân Kỷ Mùi, khi Tăng Ni đến thăm
Ngài nói: “để tôi ngồi dậy, nằm như ri, không phải lễ, chừ”
Ôi đức độ từ bi, núi Diệu Cao không đủ chỗ
Ngài còn dạy: “Quý Thầy đến thăm, tôi xin cảm ơn và cầu Phật gia hộ
Quý Thầy nhiều sức khỏe, kiên nhẫn trước mọi nghịch duyên
Phục vụ Giáo Hội, dìu dắt Tăng Tín Đồ, thật không có gì vui hơn
Tôi quá già rồi, chưa biết nay mai, trông mong quý Thầy gánh vác”
Xuân đang đến nhưng hoa sụt sùi nước mắt
Cành chưa héo mà nhụy khép mùi hương
Mồng Sáu Tháng Giêng 1979, Ngài nhập tịch diệu chơn thường
Nhưng “Vô thường thị thường” như Ngài từng dạy
Tổ đình Thuyền Tôn, tin nhanh hơn máy
Phủ Cố Đô và lan tận Sài Gòn
Lan vào Nam và tận cuối Cà Mau
Lên Cao Nguyên, đồng bằng, thôn trang, phố thị
Xuân Kỷ Mùi một chín bảy chín
Hoa không tươi mà chim cũng vắng tiếng cười
Chuông mõ vang vang, người nối sóng người
Kéo về Cố Đô, tiễn Ngài Tây cảnh
Ngài Đệ Nhất Tăng Thống, cũng Tháng Giêng Quý Sửu
Sáu năm sau, kính thương vĩnh biệt Tăng Thống hai đời
Tăng Tín đồ Phật Giáo Việt Nam thấm giọt châu rơi
Đời Một nửa XANH, Đời Hai toàn ĐỎ
Con muốn viết, nhưng thôi, xin không viết nữa
Thời như ri, học tiếng nói vô ngôn
Thế như ri, bất lập tự, hơn không
Thường nhi vô thường
Trụ nhi vô trụ
Nhưng đời sau, biết đâu mà tầm cú
Ngay đời nay, lộng giả biến thành chơn
Vài nét lưu, nhưng là tiếng vô ngôn
Xin kính bút cho trọn vẹn Bốn Đời Tăng Thống.
Ngày 22 tháng 6 năm 2012
Trước khi Vào Hạ
Thích Nhật Tân
Ghi chú:
Vì có viết ngưỡng tôn Ngài Đệ Tam, Đệ Tứ, mà không viết hai Ngài Đệ Nhất, Đệ Nhị, trong
tôi chừng như có gì còn thiếu, có gì chưa vẹn. Lại biết Phật Giáo Úc Châu mở đầu Thiết Lễ
Tưởng Niệm Tri Ân Bốn Đời Tăng Thống vào mỗi năm nhân Mùa An Cư, từ 2012 Nhâm Thìn
trở đi. Nên tôi xin chân thành lui về dấu xưa, ôn và ghi lại đôi dòng dâng lên Giác Linh hai
Ngài Nhất Nhị.
Tôi đọc hơn 3 lần rất kỹ Tiểu sử của 2 Ngài Đệ Nhất và Đệ Nhị Tăng Thống, xin hoàn toàn
khâm thừa ngưỡng phục. Tuy nhiên, có thấy vài điểm không chuẩn có thể sơ xuất trong lúc
Phụng Soạn. Tôi xin mạn phép, chứ không dám gọi là phạm thượng, để quý Ngài trưởng
thượng hữu nhiệm chỉnh lại hay không thì tùy, và chân thành nêu ra đây như một sự lưu chú
cho hôm nay và mai sau.
Tài liệu Tiểu sử phổ biến rộng rãi, tôi đọc và trích từ nguồn:
http://quangduc.com/Danhnhanvn/htthichtinhkhiet.html
http://quangduc.com/Danhnhanvn/82htgiacnhien.html#TI%E1%BB%82U_S%E1%BB%AC_
1. Trong Tiểu sử Ngài Đệ Nhị, ghi: “Đến năm Canh Tuất (1895), Triều Duy Tân, Ngài
cùng với Hòa Thượng Tịnh Khiết (Cố Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN) thọ Tam Đàn Cụ
Túc tại Giới Đàn Chùa Phước Lâm (Hội An).”. Xin thưa, Tiểu sử Ngài Đệ Nhất, ghi: “Sinh
năm 1890. Năm 1905, 15 tuổi xuất gia”. Vậy thì, 1895 lúc đó Ngài Đệ Nhất mới có 5 tuổi,
chưa xuất gia, làm sao có chuyện 1895 Tam Đàn Cụ Túc như trong Tiểu sử của Ngài Đệ Nhị
?
2. Cũng trong Tiểu sử Ngài Đệ Nhị, ghi: “Sinh năm 1878. Năm 88 tuổi… đích thân dẫn
đầu … mở đầu phong trào vận động đòi hỏi tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo vào chiều
ngày 14 tháng 4 năm 1963 (Quý Mão)”. Mạo nghĩ có thể lộn chăng, vào năm 1963, nếu tính
tuổi Tây thì 85 mà tuổi Ta thì 86. Cho nên bài tôi viết xin ghi là “86 tuổi, chấn tích dẫn đầu
chống đỡ oan khiên”.
Kính ngưỡng Cuộc đời và Hành trạng
của Đại lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác Xin thành kính hướng về Chùa Pháp Luân
Thành phố Houston, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ
Một bậc Tôn Túc lỗi lạc của Phật Giáo
Đã rũ áo ra đi
Để Tăng Ni, Tín đồ trong nước ngoài nước
Thầm rung rung cảm cảm
Cả cuộc đời 85 tuổi của Ngài
Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện
Kiếp tu hành 80 năm của Ngài
Gánh vác hy sinh, đã vẹn chưa bản hoài
Vào nhà Như Lai
Chỉ một con đường phụng mạng Như Lai
Chúng sinh thị khổ
Hàng Trưởng Tử Thích Tôn phải lên đường cứu khổ
Đất nước Việt Nam
Trải qua bao nhiêu gọng kềm nghiệt ngã
Dân tộc Việt Nam
Hứng chịu bao nhiêu tai ách nhiễu nhương
Phật Giáo Việt Nam
Đồng cam cộng khổ thống thiết khôn lường
Bởi, Dân Tộc và Phật Giáo
Phật Giáo và Dân Tộc
Hòa quyện cùng nhau
Tuy một mà hai
Tuy hai mà một
Gọng kềm kia
Xanh đỏ đỏ xanh, đẩy đưa thí chốt
Tai ách kia
Thực xâm xâm thực, trao đổi kết bè
Việt Nam là một trong những vị trí đắp be
Bằng da thịt và máu xương
Bằng khổ đau và nước mắt
Lịch sử Việt Nam 5000 năm
Dòng giống Lạc Hồng bất khuất
Lịch sử Phật Giáo 2000 năm
Truyền thừa kế thế tinh anh
Ba Miền đất nước chưa thong dong mây trắng trời xanh
Thì Phật Giáo Việt Nam chưa tự tại thõng buông bỏ ngỏ
Không vì bất cứ lý do gì
Nhắm mắt, buông tay, chối bỏ
Không vì bất kỳ hoàn cảnh nào
Ngoảnh mặt, quay lưng, chối từ
Vọng ngoại ư !
Vong bản ư !
Buôn dân ư !
Bán nước ư !
Phật Giáo không chấp nhận
Nên phải luôn đương đầu và gánh chịu
Bởi Phật Giáo
Không chạy theo Xanh Đỏ Sữa Bơ dư thừa cặn bã
HỘ: là hộ quốc hộ dân:
Độc lập, tư do, nhân bản, thái hòa
GIÁC: là giác đạo giác đức:
Việt Nam sông núi gấm vóc đơm hoa
Ngài đã tận tụy cả một đời
Rạng danh Thiền gia Thích tử
Cương vị của Ngài, kể cho tột, chắc bằng thừa ngôn ngữ
Công hạnh của Ngài, nói cho liễu, chắc không đủ tư duy
Cuộc đời của Ngài biểu trưng:
Đức độ, khiêm cung, hòa ái, rợp bóng uy nghi
Nghiêm mà không nghị, nhu mà nhiếp cương
Lò cừ thế gian làm sao sánh nổi
Dòng Thích Tử đã luyện tôi thế ấy
Cõi phù sinh vá nhuộm áo nâu sồng
Đỡ Đạo Pháp sừng sững với sắc không
Mang tâm lực uy nghi cùng vũ trụ
Tinh tú kia chỉ có một vì sao Bắc Đẩu
Thiên hà kia chỉ có một ánh Thái Dương
Với Phật Giáo, trong vạn pháp là Pháp Vương
Có thì có tất cả
Mà không thì lông rùa sừng thỏ
Nhập thế vì đời nên cái gì cũng có
Có lịch sử
Có cơ đồ
Có gấm vóc
Có giang sơn
Không ai có quyền sỉ nhục, thúc ép, trùm mền
Không ai có quyền phủ chụp, man khai, dối trá
Hàng Thích Tử, tâm là tâm kim cương
Trí là trí kim cương, nào nghĩa gì gỗ đá
Mộng huyễn bào ảnh ư, ngọn cỏ gác đầu sương
Vọng tưởng vô minh ư, đom đóm thắp đêm trường
HỘ: là hộ tận quần mê
GIÁC: là giác cùng tánh thể
Hôm nay
Ngài quay gót về Tây, thăm lại nhà xưa một thuở
Thăm Đức Như Lai, thăm Chư Bồ Tát, Tổ Sư
Sớm trở lại cõi Ta Bà, đích thị đất nước Việt Nam
Tiếp tay tiếp sức cùng hàng Pháp Lữ đệ huynh
Không những một kiếp hai kiếp
Mà cho đến khi nào
Bản nguyện bản hoài của chúng ta hoàn toàn viên mãn.
Chùa Pháp Quang, Brisbane, Úc Châu, ngày 08-12-2012
Thích Nhật Tân kính bút
Xin viết dâng Ông Hòa Thượng Thích Thiện Nhơn
Phương Trượng Tổ đình Thiên Đức.
Canh Ngọ 1930 - Qúy Tỵ 2013
Kính thưa Ông,
Thế là Ông đã ra đi
Theo dòng chuyển tử sinh
Giữa cung bậc vô thường
Vũ trụ thiên hà lồng lộng
Ba đường sáu nẻo mang mang
Thôn Tân Hòa còn đó
Xứ Phù Cát còn đây
Dòng họ Hồ khai sinh một bậc Cao Tăng kiệt xuất
Đất Bình Định lưu bố một bậc thạch trụ thiền môn
Thanh Tùng tên thế, tôn hiệu Thiện Nhơn
55 Hạ Lạp, đạo nghiệp tinh nghiêm
83 tuế thọ, một đời phụng sự
Bình Định là tỉnh nhà
Băng lên các tỉnh Cao Nguyên
Ra ngoài kia thì Quảng Ngãi
Vào trong Khánh Hòa, Phú Yên
Xa hơn, Sài Gòn, Hà Nội
Vượt trùng, Úc Châu, Mỹ quốc, Ấn, Miến, Thái Lan
Nơi nào Ông đến, cũng lưu lại bóng hình kính mến
Nơi nào Ông đi, cũng ghi dấu ấn tượng tôn nhan
Ông Nội Chú ơi!
Dòng đời chưa hết
Cuộc thế chưa qua
Ông đã đến tuổi già
Thuận thế vô thường
Đó là việc hiển nhiên mang thân tứ đại
Tai biến lần thứ nhất, bịnh tình cơ chừng chưa khỏi
Tai biến lần thứ hai, báo hiệu triệu chứng thất thường
Và lần thứ ba tái diễn, ly trà chưa hết, nhẹ thõng tay buông
Ông an nhiên thị tịch
Dòng sinh diệt
Cửa tùng đôi cánh khép
Nhớ xưa con còn bé
Vừa lên năm lên bảy
Mỗi Tết Ông về thăm
Rồi Bà Năm, Ông Sáu
Lại Bác Chín, Bác Năm
Trong con thật vui mừng
Niềm diễm phúc vô biên
Chiếc Y Vàng, in trong con từ đó
Bộ nâu sồng, trông trang nhã làm sao
Đầu tròn, áo vuông, vóc dáng thanh tao
Và trong con, ước gì được như thế
Đã nhiều lần con thưa Mẹ
Cho con theo nghe Mẹ ơi
Mẹ không nói nhiều lời
Nếu muốn đi, Mẹ sẽ cho đi
Nhưng đợi mai mốt lớn lên
Chứ bây giờ còn nhỏ lắm
Một ngày kia, chưa bước vào niên thiếu
Con được đi và sống với mái chùa
Đến hôm nay, gần 50 năm, thấm thoát thoi đưa
Hèn chi người ta nói: “bóng câu qua cửa sổ”
Bác Năm Đà, là người đã tịch trước
Tiếp theo là Bà Năm, quy ẩn Kon Tum
Bác Chín thì còn, tức Hòa Thượng Nhật Ban
Ông Sáu vẫn đó, nhưng nhân duyên tạm gián
Đời Ông, đời Bác, gồm 5 người xuất thế
Đời cháu, một mình con lặn lội ly gia
50 năm, chưa đâu vào đâu dưới bóng cả Phật Đà
Chắc chẳng ra sao, dù miệt mài tận tụy
Đời sau, thêm một người nữa là Quảng Trí
Rồi Nhuận Đức, Nhuận Thanh bước vào ngưỡng cửa từ bi
Hãy cố gắng nghe, rèn tâm, luyện chí, tu trì
Vì Đạo, vì đời, cứ tập sống biết hy sinh và phụng sự đi
Đời Ông, Ông Ngài Thích Thiện Nhơn
Xứng đáng đứng vào hàng Tăng Lữ kiệt hiệt vô nghì
Đời Bác, Hòa Thượng Thích Nhật Ban
Cũng đáng sánh vào bậc Thiền gia Thích tử
Hôm nay
Kim quan của Ông đang trần thiết tại Tổ đình Thiên Đức
Con xin vọng bái Ông từ trụ xứ Pháp Quang
Gần nửa tinh cầu lệ trũng tâm can
Gặm nhấm niềm đau thấu cùng cơ thể
Hai đường hai ngả
Khúc rẽ oan khiên
Không phải cách ngăn
Bởi địa phận, không gian, biển cả, đất liền
Mà chỉ bởi phạm trù bao dấu chấm
Chấm là hết
Hay chấm là còn
Chấm là ngửa
Hay chấm là nghiêng
Quê Cha ơi, tôi vẫn nhớ mọi miền
Đất Mẹ ơi, tôi vẫn thương khắp nẻo
Nhớ từ đỉnh núi, nhớ đến sơn khê
Nhớ hướng băng ngang, nhớ lối ngõ về
Nhớ mái nhà tranh, nhớ hồng bếp lửa
Con xin viết dâng Ông, tình nhà cũng có
Tình đạo, tình đời, nghĩa non, nghĩa nước, cũng vậy thôi
Bởi trước khi là Tăng sĩ, vốn là người Việt Nam rồi
Nên dù lưng có còng, hai vai cũng phải gánh
Gánh, như Bà Mẹ Già tóc trắng
Gánh, như Ông Cha Già bạc phơ
Ngàn năm xưa, vẹn ước thề
Ngàn năm sau, vẫn ươm mơ trong lành
Quê Hương - Đạo Pháp của mình
Chan hòa như bóng in hình thiên thu.
Ngày 21-4-2013
“Ông Thầy cháu, lời Ông thường nói”
Thích Nhật Tân
50 Năm Tưởng Niệm Tri Ân
Đại Lễ Tưởng Niệm 50 Năm
Bồ Tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân
Ngọn lửa thiêng liêng bừng cháy vượt tầng
Rúng động sáu lần trái đất và rung chuyển ba ngàn thế giới
Ngọn lửa từ bi đại hùng đại lực chiếu rọi
Tại ngã tư Phan Đình Phùng - Lê văn Duyệt, Sài Gòn
Ngọn lửa từ bi đại hạnh đại nguyện của một bậc Thánh Tăng
Rúng động cả nước Việt Nam và lay chuyển khắp lòng nhân loại
Nhục thân tứ đại vô thường của Ngài, trả về cát bụi
Pháp thân kim cương bất hoại của Ngài, biểu tượng trái tim
Trái tim Bồ Tát bất diệt, kết tụ đài sen
Tăng tín đồ Phật Giáo uất nghẹn hòa vang
Nhân loại khắp năm châu dâng tràn ngấn lệ
Đại Lễ Tưởng Niệm 50 Năm
Chư Thánh Tăng Ni vị pháp thiêu thân
Đại Đức Thích Nguyên Hương tại Công trường Chiến sĩ Phan Thiết
Đại Đức Thích Thanh Tuệ tại Chùa Phước Duyên, cố đô
Tỉnh lỵ Ninh Hòa, Thích Nữ Diệu Quang, một Ni Cô
Lửa bừng lên, lửa tiếp nối, để thức tỉnh cường quyền bạo lực
Ngọn lửa Thượng Tọa Thích Tiêu Diêu, tại Chùa Từ Đàm, Huế, sáng rực
Ngọn lửa Đại Đức Thích Quảng Hương, tại Công trường Diên Hồng, Sài Gòn
Ngọn lửa Đại Đức Thích Thiện Mỹ, tại Công trường Hòa Bình, bùng lên
Và kia nữa, ngọn lửa Thương phế binh Hồng Thể, thành phố Vũng Tàu, quyện
khói
7 Vị Thánh Đức Tăng Ni, một Thương phế binh
Đại hoằng thệ nguyện Phật Pháp trường tồn, nên quyết tử
Tử, để chận đứng vô minh
Tử, cho Đạo Pháp được tồn sinh
Tử, cho Dân tộc hết điêu linh
Tử, cho Quê hương bình minh tươi sáng
Đại Lễ Tưởng Niệm 50 Năm
Chư Phật Tử hy sinh vì Đạo
Tăng tín đồ lòng đau nín thở
Mắt rưng rưng và lệ thắm mềm môi
8 em Phật Tử tại Đài phát thanh Huế
Hỡi các em bé thơ ơi
Ngay Ngày Phật Đản
Ngày thiêng liêng cao quý nhất trong đời
Ngày thiêng liêng của tất cả chúng sanh
Ngày thiêng liêng của ba đường sáu nẻo
Các em đã bị chết thảm
Các em chết không toàn thây
Chết bởi đạn xéo, tên bay, lưỡi lê, xích sắt
Và thêm một em nữa, Nữ sinh Quách Thị Trang ngã gục
Tại Chợ Bến Thành, giữa Sài Gòn đô thị phồn hoa
Ai đã giết các em
Ai đã giết tuổi thơ
Tuổi trong trắng ngọc ngà
Tuổi thiên thần vẫy gọi
Họ đã biến các em thành những tấm bia
Tấm bia bằng da bằng thịt
Tấm bia học nói học cười
Tấm bia chưa lớn làm người
Họ bắn họ giết bởi bàn tay nhung chế độ
Đó, là đỉnh điểm Pháp nạn Phật Giáo 1963 thống khổ
Đó, là đỉnh điểm Pháp Nạn Phật Giáo 1963 kinh hoàng
Không phải tự dưng bộc phát
Không phải vô tình diễn ra
Mà đã âm ỉ rên xiết, với kế sách 8 năm trường
8 năm, Phật Giáo đón chịu mọi tai ương
8 năm, Phật Giáo bị bít nẻo bít đường
Cũng chỉ bởi một âm mưu duy nhất
Đó là, Phật Giáo phải bị triệt hạ
Đó là, màu cờ Phật Giáo phải bị kéo xuống
Đó là, đỉnh điểm Pháp Nạn Phật Giáo năm Quý Mão
Đó là, đỉnh điểm Pháp Nạn Phật Giáo năm 1963
Mà lịch sử 2000 Phật Giáo chưa từng xảy ra
Dù bất cứ thời kỳ nào
Dù bất cứ chế độ nào
Hay bất cứ triều đại nào
5000 năm Lịch sử Dân tộc chưa bạo sát bạo tàn
2000 năm Lịch sử Phật Giáo chưa đổ máu nát xương
Mà Phật Giáo đã hòa nhuận cùng Dân tộc
Phật Giáo cùng xây đắp gấm vóc quê hương
Băng qua mọi hưng phế thịnh suy thăng trầm vinh nhục
Là Phật Giáo Việt Nam hôm nay
Là Tăng Ni Phật Tử hôm nay
Ai nhớ, ai quên, ai thương, ai cảm
Ai biết, ai không, ai hiểu, ai cùng
Xin đừng nghe, và xin trân trọng nghe
Nhờ ngọn lửa của Bồ Tát Thích Quảng Đức
Nhờ ngọn lửa của Chư Tôn Đức Tăng Ni
Nhờ sự hy sinh của Chư Phật Tử, vô nghì
Nhờ công đức của bao nhiêu bậc Tiền Nhân xả thân phụng mạng
Để cho Phật Giáo được sống còn
Để cho màu cờ Phật Giáo được tiếp tục tung bay
Để cho bài ca Phật Giáo Thống Nhất Bắc Nam Trung từ đây
Và để cho Dân Tộc hát bài ca thương yêu nòi giống
Năm Mươi Năm Trước
Công đức sâu dày Chư Thánh Tử Đạo cao siêu lồng lộng
Năm Mươi Năm Sau
Hàng hàng lớp lớp Tăng Ni Tín đồ phủ phục tưởng niệm tri ân
Vốn đã, năm từng năm, hương hương khói khói, hòa quyện tương lân
Vốn đã, ngày từng ngày, nhớ nhớ thương thương, thầm đau cảm kích
Năm Mươi Năm, chẳng qua là dấu mốc
Dấu mốc nửa thế kỷ qua đi
Dấu mốc năm mươi năm nhìn lại
Ôi, ân đức thay
Ngọn Lửa Thiêng Bồ Tát Quảng Đức, xóa tan bóng tối
Ôi, cao cả thay
Đèn Trí Tuệ Chư Thánh Tử Đạo, quét sạch vô minh
Ôi, thương mến thay
Sự hy sinh các em Phật Tử, làm mềm sắt thép
Ôi, gương lành thay
Sự cống hiến các bậc tiền nhân, làm nhũn nhục hình
Đại Lễ 50 Năm Tưởng Niệm Tri Ân
Bồ Tát Thích Quảng Đức, vị pháp thiêu thân
Chư Tôn Đức Tăng Ni, vị pháp thiêu thân
Chư tín đồ Phật tử, vị pháp vong thân
Chư tiền bối hữu công, tài bồi son sắt
Đại Lễ 50 Năm Tưởng Niệm Tri Ân
Nguyện cho Phật Pháp hưng chấn trường tồn
Nguyện cho Đất Nước toàn vẹn núi sông
Nguyện cho Dân Tộc no cơm ấm áo
Nguyện cho Thế Giới hòa bình vĩnh cửu
Nguyện cho Nhân Loại thân thiện an lành
Hồi hướng công đức tất cả chúng sanh
Đồng chuyển nghiệp duyên, đồng giai lạc trụ.
Ngày 30-3-2013
Thích Nhật Tân
Tôn Hiệu
CHƯ THÁNH TỬ ĐẠO TĂNG NI & PHẬT TỬ
Pháp Nạn Phật Giáo 1963
57
Nhất tâm tưởng niệm tri ân
Chư Thánh Tử Đạo hiến thân Phật Đà
Năm mươi năm, đã đi qua
Năm mươi năm, nhìn lại nhà Việt Nam
Phật Giáo sơn son thếp vàng
Kết trang sử ngọc huy hoàng ngàn năm
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC thiêu thân
Đốt đèn trí tuệ xóa tan mây mù
Trả thân cát bụi phù du
Pháp Thân bất hoại thiên thu hằng còn
Dù cho nước chảy đá mòn
Trái Tim Bất Diệt sắt son muôn đời
Dù cho trôi nổi luân hồi
Trái Tim Bồ Tát nơi nơi tôn thờ
Chân thành tưởng niệm tri ân
Chư Thánh Tử Đạo xả thân độ đời
NGUYÊN HƯƠNG tiếp lửa Thầy ơi
Công trường Chiến Sĩ châm ngòi nổi lên
THANH TUỆ tại Chùa Phước Duyên
Kinh Đô xứ Huế con thuyền lao chao
Ni Cô DIỆU QUANG nữa nào
Ninh Hòa mờ khói bụi trào cát bay
Thượng Tọa TIÊU DIÊU kính thay
Từ Đàm dậy sóng ngay Ngày Đản Sanh
Thân Ngài đốt lửa tinh anh
Bởi thuyền Đạo Pháp tròng trành phù sinh
Lại thêm một Thương phế binh
Pháp danh HỒNG THỂ hiến mình cúng dâng
Tự thiêu sau Chùa Phước Lâm
Vũng Tàu hòa quyện biển tầm đảo xa
Đại Đức QUẢNG HƯƠNG kiết già
Diên Hồng công thự kết tòa sen thơm
Thêm Thầy THIỆN MỸ anh minh
Nổi lên ngọn lửa Hòa Bình thiết thi
Bảy Thánh Tử Đạo Tăng Ni
Bảy Ngọn Lửa Đạo Từ Bi rạng ngời
Bởi vì vận Đạo nổi trôi
Bởi vì Pháp Nạn đang hồi tử sinh
Tăng Ni vì Đạo quên mình
Xả thân vì Đạo tử sinh sá gì
Hy sinh vì Đạo Từ Bi
Phụng hiến Đạo Pháp vô nghì hàm ân
Thương thương nhớ nhớ bi lân
Chư Thánh Phật Tử Việt Nam một nhà
Ngay Ngày Phật Đản sáu ba
Là ngày Pháp Nạn xảy ra kinh hoàng
Cờ Phật Giáo, bị xé toang
58
Cờ Phật Giáo, hạ xuống, còn chi đâu
Phật Đản, là ngày nhiệm mầu
Nhân loại thế giới năm châu kiền thiền
Phật Đản, là ngày thiêng liêng
Muôn ngàn vạn triệu trái tim tôn thờ
Việt Nam lại bị hạ cờ
Diễn ra Pháp Nạn mịt mờ trầm kha
Phật Đản chưa kịp hoan ca
Tám em chết thảm xót xa vô vàn
Tám em thân thể nát tan
Xe tăng xích sắt bừa càng tiêu ma
Còn đâu tuổi ngọc tuổi ngà
Thiên thần gãy cánh tuổi hoa mất rồi
Bàn thờ quyện khói em ơi
Nhòa trong mắt lệ nghẹn lời cầu kinh
Tám em tuổi trẻ đầu xanh
Biến thành di ảnh Hương Linh khói nhòa
ĐẶNG VĂN CÔNG tuổi Mười Ba
Nhìn em chơn chất hiền hòa biết bao
TRẦN THỊ PHƯỚC TRỊ kia nào
Mười Bảy tuổi ngọc trăng sao đón mời
NGUYỄN THỊ YẾN tròn hai mươi
Thôi rồi hết nói hết cười nghe em
Trông HUYỀN TÔN NỮ TUYẾT HOA
Mười hai bé nhỏ vẽ tòa sen xanh
Còn em LÊ THỊ KIM ANH
Lại cũng Mười Bảy long lanh xa mờ
DƯƠNG VĂN ĐẠT tuổi ươm mơ
Mười Ba em vội trôi bờ tử sinh
NGUYỄN THỊ NGỌC LAN xinh xinh
Mười Hai tuổi đã bỏ mình em ơi
Thêm một em nữa kia rồi
NGUYỄN THỊ PHÚC cũng trả đời tiêu sơ
Mười Lăm soi bóng trăng mơ
Còn trăng Mười Sáu đợi chờ THỊ TRANG
QUÁCH THỊ TRANG, Quách Thị Trang
Lằn tên mũi đạn rẽ ngang cuộc đời
Nhà trường chiếc ghế hết ngồi
Nữ sinh tà áo thôi rồi gió bay
Và bốn người nữa thương thay
HỒ THỊ MÙI, nát mặt mày lưỡi le
NGUYỄN TĂNG CHẮC, chết im re
TRẦN DU, HOÀNG TUYẾT ai dè cũng tiêu
Cố Đô trầm mặc nguyên siêu
Bỗng dưng tan nát chợ chiều lạnh tanh
Chim không ca hót trên cành
Cá không bơi lội tơ tình sóng reo
59
Mở đầu Pháp Nạn eo kèo
Giậu tan nát giậu, bìm leo mặc bìm
Phật Giáo đứt ruột nát tim
Pháp Nạn Phật Giáo nổi chìm trầm kha
Năm mươi năm, đã đi qua
Năm mươi năm, nhìn lại nhà Việt Nam
Chắp tay nâng đóa Ưu Đàm
Xin dâng dâng nguyện, xin hàm hàm linh
Chư Thánh Tử Đạo anh linh
Từ bi tế độ tội tình can qua
Cứu cho nước Việt Nam ta
Cứu cho khắp cõi Ta Bà hết đau
Không còn bãi biển nương dâu
Không còn ngọn cỏ kê đầu gối sương
Không còn ách nạn tai ương
Không còn thống khổ tang thương não sầu
Ân Phật, Ân Tổ nhiệm mầu
Ân Thánh Tử Đạo hiệp đầu tương quy
Nguyện cầu Ánh Đạo Từ Bi
Mười phương phổ chiếu cũng vì chúng sanh.
Xin mạn phép xưng danh tôn hiệu Chư Thánh Tăng Ni & Chư Thánh Phật Tử, vị pháp thiêu thân,
vị đạo hy sinh năm 1963. Nên Chư vị trước và sau Pháp Nạn 1963 không đề cập trong bài này,
kính xin Giác Linh Chư Tôn Đức và Anh Linh quý Phật Tử từ bi mẫn thứ.
Thành tâm chấp bút
Nhân Đại Lễ 50 Năm Tưởng Niệm Tri Ân
1963 – 2013
Thích Nhật Tân
Kính ngưỡng Bồ Tát Thích Quảng Đức
Lửa Từ Bi sáng soi ngàn thế giới
Đèn Trí Tuệ đốt cháy vạn oan khiên
Chỗ Ngài ngồi rúng động cả Tam Thiên
Thế giới con người sờ sửng đứng tim
Nhìn bậc Thánh an nhiên trong Tam Muội.
Kính ngưỡng Bồ Tát Thích Quảng Đức
Tên của Ngài chói sáng trong lịch sử
Hiệu của Ngài rực rỡ hơn vàng son
Trăm năm sau bia đá dẫu có mòn
Ngàn năm nữa danh Ngài không suy suyễn
Vũ trụ kia dù không chuyển
Thiên hà kia dù không xoay
Quả Tim Bồ Tát mãi mãi còn đây
Quả Tim Bất Diệt thiên thu bất hoại
60
Linh ứng với lửa ngàn độ không cháy
Chỗ Ngài ngồi rúng động cả tam thiên
Thế giới con người sờ sửng đứng tim
Nhìn bậc Thánh an nhiên trong Tam muội
Mây ngả đầu non
Trăng nghiêng đỉnh núi
Người người nín thở
Lệ ứa tràn mi
Xin chắp đôi tay
Tâm tư ngưng đọng
Nam Mô Bồ Tát Quảng Đức
Ngưỡng vọng Thánh Tăng Việt Nam
Đốt Thân giải cứu Đạo Vàng
Lửa Thiêng chiếu sáng hơn ngàn minh châu
Nguyện Ngài linh ứng nhiệm mầu
Hạnh Ngài trùm phủ địa cầu thái hư
50 năm trước, nửa thế kỷ ư
50 năm sau, lại tròn thế kỷ
Bóng thời gian băng qua đầu nẻo ý
Dáng thiên thu bất tận chẳng phai nhòa
Đóa Ưu Đàm điểm nụ của không hoa
Dòng sinh diệt kết đài sen tánh thể
Ngài phát nguyện thiêu thân là để:
Đánh thức con người
Cảnh tỉnh vô minh
Kêu gọi lương tâm
Tôn trọng sự thật
Cái gì của Phật Giáo, trả lại cho Phật Giáo
Cái gì của Dân Tộc, trả lại cho Dân Tộc
Ngàn năm xưa không chuyển
Ngàn năm sau không lay
“Có, thì có tự mảy may
Không, thì cả thế gian này cũng không”
Đừng đem nước đổ ra sông
Sông đi ra biển, biển trông về nguồn
Đừng mơ lên núi bắt còng
Xuống biển kéo cát hoài mong ích gì
Đạo Phật là Đạo Từ Bi
Người con Đức Phật vô nghì độ sanh
Lịch sử Phật Giáo đã hai ngàn năm
Lịch sử Dân Tộc đã năm ngàn năm
Băng qua mọi thăng trầm thịnh suy hưng phế
Băng qua mọi thời kỳ thể chế nhục vinh
Có, thì có cả lân tinh
Không, thì không cả phù sinh phiêu bồng
Có, thì có cả sắc không
Không, thì không cả phong trần hư vô
61
50 năm trước, Ngài vị pháp thiêu thân
50 năm sau, Ngài liên tòa ngự tọa
Đài sen báu Ánh Đạo Vàng sáng tỏa
Đức từ bi chiếu rọi khắp muôn phương
Băng không thời dù biến chuyển vô thường
Tim Bất Diệt tịnh chơn như tánh thể
Vô minh nên vô đạo
Vô đạo tức vô tâm
Vô tâm biến phi nhân
Bất cứ ai
Bất cứ thành phần nào
Bất cứ chế độ nào
Làm người còn không xứng
Làm sao đứng trong trời đất
Bởi không được, thì có gì để mất
Bởi không có, thì lấy chi để còn
Không thể bao che, trốn chạy, phết sơn
Gương Lịch Sử soi tận cùng ngằn mé
Hỡi nhân thế
Hỡi con người
Ngàn xưa cho đến hôm nay
Hôm nay cho đến ngàn sau
Một là một
Hai là hai
Đen là đen
Trắng là trắng
Bồ hòn mang vị đắng
Hữu xạ tự nhiên hương
Đạo Phật là đạo lý chơn thường
Phật Giáo Việt Nam tuyệt thế chơn phương
Cùng với Tổ Quốc, Quê Hương, Dân Tộc
Chói sáng huy hoàng đan thanh rạng sử
Ngưỡng tôn Bồ Tát Thích Quảng Đức
Ngưỡng tôn Chư Thánh Tử Đạo Phật Giáo Việt Nam
Ngưỡng tôn Anh linh Liệt Tổ Liệt Tông Hồng Lạc
Gia hộ cho Đất Nước Việt Nam trường tồn
Gia hộ cho Dân Tộc Việt Nam bình an
Gia hộ Phật Giáo và mọi thành phần Dân Tộc thái hòa miên viễn.
1963 – 2013
TNT Mặc Giang
Một Vinh Dự Trong Đời
Đại lễ 50 năm tưởng niệm tri ân
Bồ Tát Thích Quảng Đức
62
Chư Thánh Tử Đạo vị pháp thiêu thân
Chư Phật Tử vị pháp vong thân
Để cho Phật Giáo được sống còn
Để ngọn cờ Phật Giáo được tiếp tục tung bay
Để Phật Giáo tồn tại đến hôm nay
Và truyền lưu đến tận tương lai
Được tham dự
Đó là một vinh dự
Hãy trân trọng phủ phục nghiêng mình
Tâm tâm niệm niệm tôn vinh
Như như nhất nhất nghiêm minh
Hòa cùng đại thể cung cung bái bái
Ngọn lửa thiêng bất tuyệt, như Diệu Cao đỉnh núi
Tim Bồ Tát bất tử, như chót ngọn Tu Di
Ân Chư Thánh Tử Đạo, bất khả tư nghì
Đức Chư Thánh Tử Đạo, trùm vô biên xứ
Ngân hà lặng thinh
Xuyến xao vũ trụ
Trăng sao vần vũ
Trầm lắng thái hư
50 năm trước, nửa thế kỷ ư
50 năm sau, lại tròn thế kỷ
Được tham dự
Đó là một vinh dự
Hãy bặt tâm bặt ý
Hãy bặt niệm bặt ngôn
Hãy khép mình như cá thể quyện càn khôn
Chứ sao hỏi đứng ở đâu và làm gì trong đó
Nhỏ, thử nhìn hạt bụi li ti cho rõ
Lớn, thiên hà đại địa lọt bũm chân lông
Nhìn xem sắc sắc không không
Hỏi xem có có không không là gì
50 năm, là dấu ấn
Dấu ấn, nửa thế kỷ đi qua
Dấu ấn, 50 năm nhìn lại
Thời nào cũng qua
Thế nào cũng qua
Nhưng
Phật Pháp trường tồn
Pháp luân thường chuyển
Tăng Tín đồ tâm tâm nguyện nguyện
Người con Phật nhất nhất như như
Vô thỉ không dư
Vô chung không thiếu
Ngọn lửa thiêng thường hằng phổ chiếu
Thánh Tử Đạo vĩnh trụ ngưỡng tôn
Lửa thử vàng, vàng thật mới son
63
Tâm thử sức, tâm như bất hoại
Tri ân tưởng niệm Thánh Tử Đạo
Nếu có hỏi, phải hỏi
Đã đóng góp được gì và làm gì cho trọn
Đã cống hiến được gì và làm gì cho tròn
Chứ sao mang bọt bèo cặn bã phết son
Những hư vinh giả huyễn đẳng đeo phù thế
Hãy khép mình vào cùng đại thể
Hãy hòa cùng đại chúng ngưỡng tôn
Tay chung tay, lòng chung lòng
Tâm hiệp tâm, ý hiệp ý
Chư Thánh Tử Đạo, Tu Di đỉnh núi
Gương Thánh Tử Đạo, bất tuyệt Diệu Cao
Năm mươi năm trước, rúng động trăng sao
Năm mươi năm sau, ngân hà xao xuyến
Tâm nguyện lực, trùng trùng hóa chuyển
Đại đức ân, thế thế truyền lưu
Hoa Đàm vĩnh trụ Vô Ưu
Ta Bà kham nhẫn, Phật từ độ sanh.
1963 – 2013
T Nhật Tân
Cảm nhận về
Đại Lễ Tri Ân Tưởng Niệm 50 Năm
Hòa vào khung cảnh và không khí trang nghiêm chân thành trong Đại Lễ Tri Ân
Tưởng Niệm 50 Năm Bồ Tát Thích Quảng Đức, Chư Thánh Tăng Ni vị pháp thiêu
thân, Chư Thánh Phật Tử vị pháp vong thân, Chiêu niệm 50 năm Quốc nạn Pháp
nạn Việt Nam. Trong tôi, dấu không gian xưa như hiện ra trước mắt, dấu thời gian
xưa như đang diễn bày, trang giấy không còn giá trị, chữ nghĩa sờ sửng ngôn từ,
đúng như câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác”
và câu viết của ai kia “Chữ nghĩa của văn nhân chỉ còn là bụi bay”
Vâng, ước gì là rơm rác để ươm vào ngọn lửa của từ bi, và ước gì là bụi bay để
phưởng phất theo đuốc tuệ của hùng lực! Từ Bi, khơi dậy tiếng nói của tình thương.
Hùng lực, thúc đẩy con tim biết lắng nghe sự sống.
Vâng, tình thương đã bị đánh mất, sự sống đã bị lụn tàn, bởi bóng dáng hoang tưởng
của vô minh và bởi ảo ảnh phù du của quyền lực.
Phải là người sống trong giai đoạn 9 năm, phải là nạn nhân, phải là thực nhân, phải
là chứng nhân, tự thể sẽ sáng hơn trăng sáng, sáng hơn ánh châu pha, soi rọi đủ mọi
góc cạnh, sự thật hiện nguyên hình. Là người ngoại cuộc, bất khả nhận chân thấu rõ
ngọn ngành dù tài ba lịch lãm và năng khiếu siêu tuyệt tới đâu. Những ai được ân
64
sủng với chế độ, họ lập lờ, đánh trống lãng, lái chuyện khác, chạy loanh quanh, làm
trò chơi cút bắt chính mình, không lẽ tự phơi bày chân tướng mà suốt mấy thập niên
cố tình bao che phủ lấp?
Người chồng dửng dưng tự đắc “ai muốn đốt thêm, cần xăng, tôi cung cấp”! Người
vợ thì ngạo mạn đến lạnh lùng “Nướng thịt ba-bi-kiêu”! Không đáng trách nhưng
đáng tiếc cho một phụ nữ VN, một người đàn bà VN, mệnh danh “Đệ nhất Phu
nhân”, thay mặt một chế độ, lại có ăn học, đã nói lên câu đó! Còn người đàn ông
kia, sống trên quyền lực, thì câu nói của ông ta chính là biểu thị cho độc ác bạo
cuồng! Chợt nhớ câu chuyện dù là hư cấu hay sự thật, rằng, Bà Phu nhân Ông Cố
Vấn không dám tự thân mà nhờ một người con xin hẹn đến gặp một vị Thầy, thưa
“Thầy hoan hỷ bỏ qua chuyện xưa, cho Mẹ con xin sám hối, và cầu nguyện dùm
người đã khuất”. Đó là gì, phải chăng là thú tội, phải chăng là sự thật! Hỏi cũng
bằng thừa, bởi Bà đã mặc nhiên thố lộ. Phàm con người khi đứng tuổi, có những
chuyện không nói, tự động nói, và cho dù không nói, đành để mang theo chôn kín
suối vàng. Vâng, khen mà chi, trách mà chi, chẳng qua “một nắm cỏ khâu xanh rì”!
Hai người này là ai, và còn ba người trực tiếp nữa là ai ? Biết thì đừng hỏi, không
biết thì đã có sử sách kia mà! Tôi không câu chấp đâu, nếu sử sách chân thì dễ nhận
dễ biết, mà sử sách bất chân thì cái giả chẳng khác nào “vải thưa che mắt Thánh”
hay “chạy trời không khỏi nắng”, ngạn ngữ của Cha Ông dạy bảo khi chập chững
cắp sách đến trường, khá chớ dễ duôi!
50 năm, thời gian dài đằng đẵng của nửa thế kỷ, thời gian dài hun hút của nửa đời
người, thế giới biến chuyển đa cực, nhân loại tiệm tiến đa chiều, trục hoành lăn quay
muôn hướng, trục tung chống đỡ muôn phương. 50 năm đi qua, 50 năm nhìn lại,
nhất là Pháp Nạn Phật Giáo 1963, quả thật, dấu ấn bàng hoàng rúng động vẫn còn
cảm kích nguyên vẹn, và dấu ấn thiêng liêng mầu nhiệm vẫn còn hiện hữu nguyên
trinh.
50 năm trước, tôi có nghe Từ Đàm Quê Hương Tôi. 50 năm sau, tôi cũng nghe Từ
Đàm Quê Hương Tôi. Thì ra đó là một ngôi Cổ Tự Miền Trung, cùng nhiều Học
viện Phật Giáo tại đất Thần Kinh, câu hội những bậc thạch trụ thượng thừa, đào tạo
nhiều bậc Cao Tăng kiệt xuất, góp mặt cùng những bậc trụ cột lãnh đạo Phật Giáo
không chỉ Miền Trung mà cả ba miền đất nước, đã hàng vài chục năm, băng qua
hàng thế kỷ. Tại Trụ Xứ tôn nghiêm ngưỡng phục này, Chùa Từ Đàm, Thừa Thiên
Huế, nơi xảy ra biến cố đầu tiên ngay Đại Lễ Phật Đản, ngày Rằm tháng Tư năm
Quý Mão, nhằm ngày 8 tháng 5 năm 1963.
Ngày Phật Đản là ngày thiêng liêng nhất của Đạo Phật, ngày kính mừng của toàn
thể Phật tử mọi quốc gia trên khắp năm châu, ngày mà vào năm 1999 Liên Hiệp
Quốc công nhận, long trọng công bố là Ngày Phật Đản Liên Hiệp Quốc, và từ đó,
mỗi năm, từng quốc gia vận động đăng cai đứng ra tổ chức Đại Lễ Phật Đản Liên
Hiệp Quốc.
Vậy mà ngược dòng 36 năm, tại đất nước Việt Nam, ngày 6 tháng 5 năm 1963, Phủ
Tổng Thống nhà Ngô phát đi Công điện số 5159 cấm treo cờ ngay Mùa Phật Đản.
Ngày 7 tháng 5, chính quyền cho cảnh sát đến từng nhà buộc dân chúng phải hạ cờ
65
Phật Giáo. Buổi tối ngày 8 tháng 5, tức buổi tối Ngày Phật Đản Rằm Tháng Tư, xe
tăng xích sắt càn lên, lựu đạn nổ tung, súng bắn trực diện vào đám đông làm cho 8
em Phật tử chết ngay tại chỗ, nhiều người bị thương, nhiều người bị bắt ngay tại Đài
phát thanh Huế.
Lịch sử 2000 năm Phật Giáo Việt Nam trên quê hương 5000 năm của Dân tộc Việt
Nam chưa từng xảy ra như thế!
Đại Lễ Phật Đản đã 2000 lần tổ chức trên đất nước Việt Nam, dù với bất cứ thời kỳ
nào, băng qua bất cứ triều đại nào, cũng chưa từng xảy ra như thế!
Vậy mà vào hậu bán thế kỷ 20, nhân loại đang tiến triển văn minh, thế giới đang kỳ
vọng tự do bình đẳng chung sống hòa bình, thì Việt Nam phải bị chiến tranh Quốc -
Cộng, và Phật Giáo Việt Nam lại bị Pháp Nạn vô tiền khoáng hậu đó.
Lá cờ Phật Giáo bị triệt hạ. Xác người Phật tử bị ngã gục. Máu của Phật Giáo đã đổ.
Thịt của Phật Giáo đã rơi. Tù ngục diễn ra, bức bách diễn ra, tàn bạo diễn ra, và tất
cả đều đổ lên đầu Phật Giáo từ Huế vào Sài Gòn, và tràn ngập khắp 44 tỉnh thành
Miền Nam, từ Quảng Trị vào đến Cà Mau, từ thành phố đến thôn quê.
Phật Giáo bắt buộc ở trong thế phải đứng lên, đứng lên trong tư thế từ bi hòa ái
khiêm từ và bất bạo động, vốn là bản chất cố hữu của Phật Giáo, ngàn xưa không
đổi, ngàn sau không lay, không bị cưỡng chế áp đặt với bất cứ thế lực nào, không bị
mua chuộc giựt dây bởi bất cứ thành phần nào.
Đây, hãy bình tâm nghe lại 5 Nguyện Vọng của Phật Giáo qua Tuyên Ngôn ngày
10-5-1963:
1. Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn Công Điện Cấm
Treo Cờ Tôn Giáo Nơi Công Cộng.
2. Yêu cầu Phật Giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các Hội truyền
giáo Thiên Chúa Giáo đã được ghi trong Đạo dụ số 10.
3. Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ và khủng bố Tín đồ Phật Giáo.
4. Yêu cầu cho Tăng Ni Phật Tử được tự do truyền đạo và hành đạo.
5. Yêu cầu chính phủ bồi thường thích đáng cho những người chết oan vô tội, và
kẻ chủ mưu giết hại phải bị xét xử.
Để giải thích rõ ràng 5 Nguyện Vọng của Phật Giáo, ngày 23-5-1963, một Bản phụ
đính của Tuyên Ngôn 10-5-1963, đã mạnh mẽ công bố như sau:
1. Phật Giáo Việt Nam không chủ trương lật đổ chính phủ để đưa người của
mình lên thay thế, mà chỉ nhằm đến sự thay đổi chính sách của chính phủ.
2. Phật Giáo Việt Nam không có kẻ thù, không xem ai là kẻ thù. Đối tượng của
cuộc tranh đấu, tuyệt đối không phải là Thiên Chúa Giáo, mà là chính sách bất công
tôn giáo.
3. Cuộc tranh đấu của Phật Giáo đồ cho bình đẳng tôn giáo, được đặt trong
khuôn khổ của lý tưởng công bằng xã hội.
66
4. Cuộc tranh đấu của Phật Giáo đồ, được thực hiện theo đường lối bất bạo
động.
5. Phật Giáo Việt Nam không chấp nhận sự lợi dụng của bất cứ ai vào cuộc
tranh đấu cho bình đẳng tôn giáo và công bình xã hội.
Chính quý vị đã biết và lịch sử đã chứng minh, cuộc vận động đấu tranh của Phật
Giáo chỉ diễn tiến bằng biểu tình bất bạo động, tuyệt thực trong ôn hòa, đạo đạt
thỉnh nguyện, kỳ vọng thức tỉnh và cầu nguyện từ bi hòa bình.
Sau cái chết của 8 em Phật tử tại Huế, Phật Giáo đồ càng ngày càng bị bức bách
khủng bố tù đày. Ngày 11-6-1963, tức 33 ngày sau Pháp Nạn khởi ra, tại ngã tư
Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt Sài Gòn, Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã ung
dung tĩnh tọa phát nguyện tự thiêu, hàng ngàn Tăng Ni Phật Tử bao quanh chắp tay
cầu nguyện. Ngọn lửa từ bi của Bồ Tát Thích Quảng Đức bùng lên, Ngài vẫn chắp
tay tam muội bất động kiết già, 15 phút sau xác thân của Ngài ngã xuống, hai tay
Ngài vẫn tự tại chắp tay. Lò lửa hơn 4000 độ đã thiêu hủy xác thân của Ngài, nhưng
Trái Tim của Ngài vẫn như như bất hoại, chơn chơn bất diệt. Đó là ấn tín ấn tuyên
ấn trụ: Phật Pháp sẽ được trường tồn, Lá cờ Phật Giáo sẽ tiếp tục được tung bay.
Quả thật như vậy, sau ngọn lửa Bồ Tát Thích Quảng Đức, liên tục những ngọn lửa
bừng lên, bừng lên để đánh thức vô minh, bừng lên để đánh động lương tâm, bừng
lên để kêu gọi bạo lực hãy buông tay, độc ác hãy dừng lại, bừng lên để trao nhau
mời gọi trân trọng tình người. Đó là ngọn lửa Thích Nguyên Hương, ngọn lửa Thích
Thanh Tuệ, ngọn lửa Thích Nữ Diệu Quang, ngọn lửa Thích Tiêu Diêu, ngọn lửa
Thích Quảng Hương, ngọn lửa Thích Thiện Mỹ, ngọn lửa Hồng Thể. Xin nhấn
mạnh nơi đây, Hồng Thể là một Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa cũng phát
nguyện tự thiêu để cúng dường cho Phật Pháp.
Và quả thật như vậy, sau Lệnh Thiết Quân Luật và sau Chiến dịch Nước Lũ tổng tấn
công tất cả chùa chiền vào đêm 20-8-1963, tượng Phật bị đập phá, pháp khí Phật cụ
bị đập đổ ngổn ngang, toàn bộ thành phần lãnh đạo Phật Giáo bị bắt tải lên xe, phân
tán nhỏ ra, giam giữ nghiêm ngặt. Trong lúc Phật Giáo bị khủng bố cùm gông nghẹt
thở trong tù, vô phương kêu cứu, vô kế thiết thi. Thì ngoài kia, đèn đỏ đã chuyển
hướng, đèn vàng đã xoay chiều, đèn xanh đã bật lên, toàn dân đã đứng lên, toàn
quân đã đứng lên, thay đổi chế độ. Đó là ngày 1 tháng 11 năm 1963.
Biến cố và Pháp nạn 1963 là đỉnh điểm cuối cùng của chính sách kỳ thị 9 năm. Việc
xóa bỏ chế độ là của toàn quân toàn dân, chứ Phật Giáo không trực tiếp can dự, vốn
là nạn nhân và nếu có chỉ là nguyên nhân. Thời thế lại xoáy theo cơn lốc 3 năm biến
động cho đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa mới tạm tái lập an bình.
Để có một cái nhìn chân thực, Đất nước và Dân tộc Việt Nam chúng ta, sau 100 đô
hộ bởi Thực dân Tây, chính thể quốc gia ra đời còn non trong trứng nước cuối thời
Bảo Đại, biến chuyển qua hai nền Cộng Hòa trong thể chế tự do dân chủ hãy còn
non trẻ, lại bị 21 năm thường trực mịt mù khói lửa chiến tranh, rồi gọng kềm thời
thế nghiệt ngã, Hiệp định Hòa Bình Paris 1973 ký kết chưa ráo mực, chỉ còn là tờ
giấy vô nghĩa vô hiệu. Cộng Sản Miền Bắc với sự ủng hộ toàn lực của Cộng Sản
67
quốc tế, đã ngang nhiên tổng tấn công cưỡng chiếm Miền Nam 30-4-1975, biến toàn
nước Việt Nam lặn hụp ngoắt ngoải dưới bóng cờ đỏ sao vàng, và điêu đứng tột
cùng bởi chế độ Cộng Sản cho tới hôm nay.
50 năm đi qua, biết bao Anh linh Chư bậc Tiền bối hữu công, Anh linh hàng triệu
chiến sĩ đồng bào đã hy sinh để bảo vệ tự do cho Miền Nam, ước vọng dân chủ cho
một nửa đất nước phía Nam vĩ tuyến 17, trong đó có 521 chiến sĩ Quân đội Hoàng
gia Úc đã hy sinh, hàng vài chục ngàn binh sĩ các nước bạn đồng minh đã hy sinh,
vô số các gia đình có người thân đã mất, vô số thương phế binh dằng dặc nỗi khổ
trong cuộc sống phế nhân. Và sau dấu mốc Miền Nam sụp đổ 1975, tiếp tục phải trả
cái giá khốn khổ tột cùng, toàn thể dân tộc Việt Nam chúng tôi, gần 90 triệu người
trong nước chịu đựng sự kềm kẹp tàn khốc trong nhà tù chung cả nước bởi chế độ
Cộng Sản, gần 1 triệu người đã bỏ thân mất tích trên hành trình đi tìm tự do, gần 5
triệu người sống còn mang kiếp lưu vong tha phương khách thổ trên mọi vùng đất
hứa. Nhà tù chật ních và đày ải tệ hại Quân, Cán, Chính Miền Nam, cùng vô số
người tù tôn giáo, người tù lương tâm và bao nhiêu người tù khác, bởi tiếng nói cho
tự do tôn giáo dân chủ nhân quyền, nói lên tiếng nói lịch sử 5000 năm của Dân tộc
không thể bị sĩ nhục ương hèn, gia tài văn hóa đạo đức 5000 năm của tiền nhân
không thể bị biếm nhẽ suy vi, cơ đồ tổ quốc Việt Nam kiến lập bởi xương máu trải
dài 5000 năm của Ông Cha không thể bị cắt xén dâng hiến, ngay cả các quyền tự do
tối thiểu như tự do đi lại, ngôn luận, báo chí, truyền thông, nhân quyền,… vẫn chỉ là
con số không.
50 năm nhìn lại, Việt Nam vẫn chưa có tự do dân chủ nhân quyền. 50 năm nhìn lại,
sự độc lập và chủ quyền Việt Nam bị Bắc Phương trấn áp. Vùng biển, vùng trời,
biên giới bị cắt xén. Hoàng Sa Trường Sa và nhiều vùng biển đảo bị xâm lăng. Hôm
nay nhìn lại, thiết nghĩ chính quý vị đã nghe, đã thấy, đã biết, đã tự chứng minh và
tự trả lời. Đất nước Việt Nam của chúng tôi đã bị Cộng Sản làm cho lụn tàn. Dân
tộc Việt Nam của chúng tôi đã bị Cộng Sản bào mòn truyền thống đạo đức kiên
trinh hào hùng sắt son bất khuất.
Đại Lễ 50 Năm Tri Ân Thánh Tử Đạo, để noi theo gương sáng của tiền nhân, phụng
sự đạo lý từ bi tôn trọng nhân bản bình đẳng, chứ không phải khơi lại đống tro tàn
hay với bất cứ một mưu đồ nào, nhất là mưu đồ hận thù, chính trị, bởi Phật Giáo
không có hận thù, không mưu toan chính trị.
Đại Lễ 50 Năm Tri Ân, Tưởng nhớ Anh linh các bậc Tiền nhân, Anh linh Chiến sĩ
Đồng bào, để tôn vinh ca ngợi sự hy sinh to lớn của người đã nằm xuống, và nơi an
nghỉ của họ phải được gìn giữ tôn nghiêm chứ không bị xúc phạm xóa mờ.
Chiêu niệm 50 Năm Quốc Nạn Pháp Nạn, để khẳng định Tổ quốc Việt Nam và Dân
tộc Việt Nam hôm nay vẫn tiếp tục tê tỉ khổ đau và nghiệt ngã quằn quại tận cuối
đường hầm.
50 năm đi qua, 50 năm nhìn lại. Mọi tôn giáo của người Việt Nam, mọi thành phần
Dân tộc Việt Nam, ai không phải là con Lạc cháu Hồng, ai không mang tóc đen da
68
vàng máu đỏ, ai phản bội xoay lưng Tiền đồ Tổ quốc, ai quên cội mất nguồn đánh
đổ quê hương, hãy và tự đứng qua một bên, còn tất cả tất cả cứ an nhiên như thị.
Đại Lễ Tri Ân Tưởng Niệm 50 Năm đang diễn ra, xin chắp đôi bàn tay tiếp nối triệu
triệu bàn tay, từ Trái Tim Bồ Tát tiếp nối triệu triệu Trái tim Việt Nam, một tấm
lòng thành kính tiếp nối triệu triệu tấm lòng Dân Tộc, Ba nén tâm hương biến hiện
thành rừng hương khói quyện, Hồn Thiêng Sông Núi hiện về, Tổ Tổ Tông Tông
chứng giám, gia hộ cho Đất Nước Việt Nam tự do dân chủ thái hòa, phù trì cho Tổ
Quốc Việt Nam độc lập toàn vẹn núi sông, phổ độ cho Dân Tộc Việt Nam Rồng
Tiên vĩnh lạc miên trường.
1963 - 2013
Mặc Tử
-------------
Cuộc đời và hành trạng
Hòa Thượng Thích Minh Tâm (Sinh năm Kỷ Mão 1940 tại Bình Thuận, Việt Nam.
Viên tịch Quý Tỵ 2013 tại Phần Lan, Âu Châu.
75 thế tuế. 64 Đạo Lạp. 46 Hạ Lạp)
Trời Châu Âu một vì sao đã tắt
Đất Châu Âu một tinh tú đã băng
Mồng 2 tháng 7 biền biệt ánh trăng
Còn đâu nữa rạng soi vầng nhật nguyệt
Tỉnh Bình Thuận sản sinh một bậc kiệt xuất
Nước Phần Lan lặng chìm bóng ngã về tây
Tin lan nhanh vượt trùng ai tín đó đây
Chỉ một thoáng đã bủa vây Châu Lục
Tất cả Tăng Ni bàng hoàng cảm xúc
Toàn thể Phật Tử rúng động tiếc thương
Tháng Bảy Vu Lan quyền quyện khói hương
Mọi chốn Thiền Môn kệ kinh ngân vọng
Hòa Thượng Minh Tâm từ nay vắng bóng
Một bậc Danh Tăng từ nay không còn
Ngài ra đi lưu lại những dấu son
Ấn những nét ngàn sau chưa phai nhạt
NGUYÊN CẢNH bản hoài Linh Sơn cốt nhục
VIÊN DUNG tự tại vô khứ vô lai
MINH TÂM gương sáng độc chiếu phương đài
Bảy mươi lăm năm Niết Bàn an trụ
Cả một cuộc đời, dư, thừa, thiếu, đủ
Một kiếp đến đi, có có, không không
“Nhìn trông bóng nguyệt dòng sông
Hỏi xem có có không không là gì”
Nhìn trông vạn hữu li ti
69
Hỏi xem tánh thể chi chi mất còn
Mất
Cả vũ trụ ngân hà cũng mất
Còn
Một hạt bụi, hạt cát trùm khắp thái hư
Một khi nhập
Năm châu bốn biển không thiếu không dư
Một khi xuất
“Nhạn quá trường không, ảnh trầm hàn thủy”
Chiếc bóng vô thường, vẽ chi vô thỉ
Mượn áo sắc không, vẽ chi vô chung
Thiên hà đại địa lọt bũm chân lông
Vũ trụ càn khôn chưa đầy hạt cải
Trưởng Tử Như Lai nhận chân thế ấy
Người con Đức Phật thấy rõ tinh tường
Phàm thức hữu tình nhớ nhớ thương thương
Sỏi đá kêu đau nào ai há biết
Những tưởng
Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu thứ 25
10 ngày diễn ra như 24 Khóa trước
Từ lúc Khai Mạc cho đến khi kết thúc
Về một phương rồi tỏa khắp muôn phương
Nào ngờ
Cánh chim đầu đàn, rũ cánh vô thường
Ngài đã ra đi, trời Âu vắng bóng
Ngài đã ra đi, tháng bảy mưa ngâu
Tăng Ni ngưng đọng giọt châu
Phật Tử ngấn lệ đượm sầu tiếc thương
Vào Mùa Hiếu Hạnh song đường
Nay thêm giáo dưỡng nghĩa tình ân sư
Chùa Khánh Anh, một đại tự huy hoàng phạm vũ
Lễ Khánh Thành, dự trù tổ chức “hai không mười lăm”
Ngài đi, nguyệt khuyết vầng trăng
Ngài về, trăng lại trăng rằm dõi soi
Ngài đi, bóng ngả lưng đồi
Ngài về, độc chiếu kết đài thiên thư
Ngài về tịch tịnh vô dư
Môn đồ Pháp quyến tâm tư “nát bàn”
Ngài về thượng phẩm Lạc Bang
Tăng Ni Tứ Chúng trần gian thế tình
Ngài về một cõi vô thinh
Tăng Ni ở lại hữu thinh Ta Bà
Ngài về thăm lại quê nhà
Tăng Ni ở lại can qua vô thường
Vô thường muôn vạn phù vương
Thong dong tự tại chơn thường ô hay.
70
Kính bút
Thích Nhật Tân
Chùa Pháp Quang – Úc Châu
Cuộc đời và hành trạng của Ngài Nhất Hạnh
Chữ nghĩa nào để xưng dương Ngài cho vẹn
Ngôn từ nào để tán thán Ngài cho toàn
Bởi cuộc đời Ngài lấp lánh vô số điểm son
Bởi hành trạng Ngài lung linh muôn ngàn ảnh tượng
Tôi bỗng nhớ tác phẩm "Đường Xưa Mây Trắng"
Và "Thử Tìm Dấu Chân Trên Cát" mà đi
Rồi hàng trăm tác phẩm vần vũ tức thì
Nổi trội cùng hành trình hoằng dương chuyển hóa
Mỗi bước chân một bông hoa nở rộ
Mỗi bước đi một vầng sáng hiển bày
Cả cuộc lữ, ca ngợi ư, nghiệt thay
Tôi quẳng hết, tự trầm tư lưu xuất
Viết một cách tự nhiên, nhưng thật chuẩn mực
Viết một cách bình thường, nhưng thật rõ ràng
Không thổi phồng mang tính chất khoe khoang
Không thêu dệt lộng hoang đường hư cấu
Bởi cuộc đời Ngài, vốn đã như rứa
Bởi hành trạng Ngài, vốn đã như ri
Cả thế giới tôn vinh, đâu phải làm vì
Cả nhân loại ngưỡng phục, dễ nào có được
Hơn nửa thế kỷ, Ngài sáng hơn ngôi sao Bắc Đẩu
Hơn năm mươi năm, Ngài tỏa rạng thiều quang
Mọi khung trời phủ rợp Ánh Đạo Vàng
Mọi ngõ ngách tương dung Đường Hóa Độ
Các tôn giáo khác nhau, Ngài là ngọn đèn sáng tỏ
Các chủng tộc khác nhau, Ngài là một bậc Đạo Sư
Từ chính giới, chính khách, khoa bảng, trí thức, cảm phục như như
Đến nam nữ, lão ấu, sang hèn, nghèo giàu, ngưỡng tôn như thị
Tôi không nói quá, rằng:
Năm mươi năm cận đại Phật Giáo Việt Nam
khó có một vị nào, để ví
Hai ngàn năm lịch sử Phật Giáo Việt Nam
duy nhất riêng Ngài, có một không hai
Hàng trăm tác phẩm tôn giáo văn hóa văn học rực sáng Đông - Tây
Khai Tổ khai Tông "Pháp Môn Làng Mai" qui phục mọi màu da chủng tộc
Tôi đồng cảm, nhưng chưa hẳn đồng thuận với nhận định đánh giá, rằng:
Thế giới và nhân loại hôm nay
Nói về Phật Giáo
Nói về con người
Có ảnh hưởng, thuyết phục, lôi cuốn, sức hút:
Đức Đạt Lai Lạt Ma, "ngôi vị thứ nhất"
71
Ngài Thiền Sư Nhất Hạnh, "ngôi vị thứ hai"
Cũng vui, được thế giới ngưỡng phục tôn vinh
Cũng mừng, được nhân loại tán dương ca ngợi
Nhưng theo tôi
Đánh giá và so sánh như thế có vẻ khập khiễng
Cứ để tự nhiên
Đức Đạt Lai Lạt Ma là Đức Đạt Lai Lạt Ma
Ngài Thiền Sư Nhất Hạnh là Ngài Thiền Sư Nhất Hạnh
Đức Đạt Lai Lạt Ma là của Tây Tạng
Ngài Thiền Sư Nhất Hạnh là của Việt Nam
Đức Lạt Ma, mới sinh, được chọn Hóa Thân, sống trong cung ngọc điện vàng
Ngài Nhất Hạnh, ra đời, bình thường dân giả, lớn lên quê nghèo sỏi đá
Đức Lạt Ma, một vị vua Tây Tạng, đứng đầu thiên hạ
Ngài Nhất Hạnh, một Tăng Sĩ Việt Nam, áo vải nâu sồng
Đức Lạt Ma, xuất thân, vốn cái gì cũng có
Ngài Nhất Hạnh, hiện hữu, vốn cái gì cũng không
Biển là biển, sông là sông
Nào ai đem biển sánh sông chi nào
Trăng là trăng, sao là sao
Trăng mà đem ví với sao ngỡ ngàng
Ngọc là ngọc, vàng là vàng
Tự nhiên như thể ngọc vàng chi nghe
Hôm nay tôi viết đôi lời về Ngài Nhất Hạnh
Vốn biết
Mọi giới khác nhau đã có cái nhìn về Ngài
Nhiều thành phần khác nhau đã có cảm kích về Ngài
Hàng hàng lớp lớp "Tăng Thân" phủ phục tôn xưng với Ngài
Thì bài của tôi như đom đóm lập lòe chơi bóng tối
Đầu non vượt khỏi
Chót đỉnh băng qua
Ô hay một cõi Ta Bà
Thái Hư lọt bũm căn nhà Như Lai
Ô hay hải giác thiên nhai
Làng Hồng hiển thị Làng Mai vang lừng
Hoa đào trước ngõ trổ bông.
Viết, không bởi đã quan hệ liên lạc với Ngài trong những năm từ 1970 - 1975 qua một vài công
việc trực tiếp của GH.
Viết, không bởi nhận tịnh tài hàng tháng để giúp đỡ người nghèo trại tỵ nạn Thái Lan đầu thập
niên 80 một thời ở đó.
Viết, không bởi, ngôi chùa đang thuê tại Oxley, Brisbane, là địa điểm đầu tiên tiếp đón và tổ chức
Khóa Tu Chánh Niệm, các thời Thuyết Pháp của Ngài trong chuyến hoằng hóa Úc Châu 1986.
Mà viết, bởi "Thử Tìm Dấu Chân" "Đường Xưa Mây Trắng" của một bậc thạc đức thượng thừa
Phật Giáo Việt Nam.
Brisbane, ngày 20 tháng 11 năm 2014
Thích Nhật Tân
72
Cuộc đời và Hành trạng
Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(95 thế tuế. 74 Hạ Lạp)
Kẻ hèn này lòng chân thành đã viết:
Ngài Trí Quang, bậc đại sĩ thượng thừa
Ngài Thiện Minh, cõi trần thế đủ chưa
Ngài Huyền Quang, kế nghiệp ba đời Tăng Thống
Đức Đệ Nhất, thượng Tịnh hạ Khiết
Đức Đệ Nhị, thượng Giác hạ Nhiên
Đức Đệ Tam, Đôn Hậu tịch biên
Và đã viết:
Bồ Tát Quảng Đức, hiện thân cứu đạo
Thánh Tử Tăng Ni, nung lửa lò cừ
Phật Tử Tín đồ, chấn động thái hư
Hoa sen nở ngát bùn lầy quện cáu
Một kiếp nhân sinh ba vạn sáu
Những tưởng rằng đằng đẵng trăm năm
Thấm vào đâu thượng báo hạ hoằng
Lòng nung nấu bản hoài tâm nguyện
Nếu không viết
Cuộc đời và hành trạng Hòa Thượng Thích Tâm Châu
95 năm đại thọ, tròn thế kỷ cơ cầu
74 năm Hạ Lạp, viên dung vô quái ngại
Thì thà không có đôi tay cầm bút
Không có cái đầu hướng đạo tư duy
Không có tấm lòng chắt lọc nghĩ suy
Sống phơi cát bụi trơ trơ sỏi đá
Xin chắp tay, ngưỡng vọng Giác Linh Ngài Thượng Thủ
Xin chân thành, hướng về Kim Bảo Đài Từ Quang
Nghe kệ kinh chuông mõ trầm bỗng ngân vang
Tiễn Ngài đi trên đường về Phật độ
Cuộc đời Ngài đâu cần ghi để nhớ
Hành trạng Ngài đâu cần khắc để lưu
Một ngôi sao gắn trên cánh Vô Ưu
Vốn miên viễn mọi không thời rạng chiếu
Đất Ninh Bình sản sinh bậc kiệt xuất
Năm 1954, bỏ Bắc vào Nam
Di cư ư, không phải, bởi không chấp nhận sắc đỏ thiết ngàm
Năm 1963, vô minh ập phủ Đạo Vàng
Chịu chết ư, dễ gì, Phật Giáo sống thì Dân Tộc mới sống
Những cái câu đẹp như sơn son thiếp lộng:
"Dân Tộc còn thì Phật Giáo còn"
"Phật Giáo còn thì Dân Tộc còn"
2000 năm lịch sử Phật Giáo, vàng ngọc không hơn
5000 năm lịch sử Dân Tộc, kim ngân không sánh
Dân Tộc và Đạo Pháp, tương lân để sống
Đạo Pháp và Dân Tộc, thấm nhuận thăng hoa
Hễ ngược lại là suy vong biến thái
73
Ngài và những bậc thượng thừa thuở ấy
Ngồi trên lửa nhưng vẫn bình chân như vại
Ngồi trong cùm nhưng xiềng xích vỡ toang
Cả thế giới đều ngưỡng phục kinh hoàng
Cả nhân loại đều giật mình rúng động
Tôi muốn nhắc cộc mốc này
Để Phật Giáo Việt Nam hôm nay và ngày mai phải biết
Nếu 63 mà đã bị chết tiêu ma
Nếu 63 mà bị hủy diệt Ta Bà
Thì quý vị không còn đâu mà đẩy đưa nhân ngã
Và tôi xin nhắc
Lê Long Đĩnh kê lên đầu róc mía
Nào đáng gì so với Pháp Nạn 63
Bởi Long Đĩnh hôn quân mượn thú tiêu pha
Còn 63 là cả âm mưu sách lược tiêu diệt Phật Giáo
Thế thì 75, chuyện gì kia chứ?
Ố ồ cộc mốc, cả nước đỏ au
Vận mệnh Dân Tộc, nói nữa chi đau
Vận mệnh Tổ Quốc, nói sao cho hết
40 năm, nát con tàu thống thiết
40 năm, nát con tàu trầm kha
Niềm đau sỉ nhục đến Tổ Tiên lịch sử Ông Cha
Và di họa đến cả những đàn em thế hệ
Ngài Tâm Châu ơi
Sao trong lúc ngưỡng vọng Giác Linh Ngài kính lễ
Mà lại viết những lời khó xúc động bi thương
Bởi Ngài nói:
"Cả cuộc đời tôi phụng sự cho Quê hương
"Cả cuộc đời tôi dấn thân cho Đạo Pháp
"Tôi đã hơn 90 rồi mà ông còn thôi thúc
"Tôi từng nói hễ mỗi lần qua Úc
"Phải dành thời giờ để ghé thăm
"Để gặp và ngưỡng mộ MG"
Ngài ơi, chết con rồi, muôn ngàn lần không dám
Và chính Ngài đã gởi những tác phẩm biếu tặng
Nào thơ văn, nào những CD diễn ngâm
Của bậc siêu tuyệt thượng túc uyên thâm
Nhạn quá trường không, thái hư lưu tích
Kính tiễn Ngài đi, về thăm Phật quốc
Ta Bà kham nhẫn, hồi nhập độ sinh
Vì Tam đồ Lục đạo, dù khổ quên mình
Vì nhân gian trần thế, dù đau nào thấm
Mượn tấm thân ngũ ấm
Vào sinh tử rong chơi
Mang ánh đạo cứu đời
Bản hoài hoằng thệ nguyện.
Úc Châu sáng ngày 22-8-2015
Tiểu tăng Thích Nhật Tân
74
Cuộc đời và Hành trạng
Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên (93 thế tuế. 60 Hạ Lạp)
Kính bạch Giác linh Đại lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên
Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới
93 thế tuế, thọ mạng một kiếp còn chi nữa
60 Hạ Lạp, hành trạng một đời, thật ngưỡng tôn
Trân trọng nhìn qua lược sử điểm son
Để kính vọng một bậc trong ngôi nhà họ Thích
Sinh ra tại Ô Môn, Cần Thơ, nước Việt
Vùng đất hiền hòa chơn chất của Miền Nam
Là con út gia đình năm anh em
Cha mất sớm và Mẹ cũng qui tiên, khi còn niên thiếu
Có lẽ Ngài đã mang nghiệp duyên từ căn cội
Nên tầm sư học đạo từ thuở thiếu thời
Hết Ngài Minh Trí, rồi Ngài Minh Phụng rạng soi
Đến khi gặp Ngài Minh Đăng Quang thì đèn tâm rực sáng
Đệ Nhất Tổ Sư thế phát xuất gia, truyền thọ Sa Di giới
Đệ Nhị Tổ Sư chứng minh, trao y bát cụ túc Tỳ Kheo
Hành trạng và cuộc đời Ngài, từ đó:
Cùng Hệ Phái Khất Sĩ
Vượt tầm
Mở rộng
Vươn cao
Khắp các tỉnh thành
Miền Trung
Miền Nam
Vùng quê
Phố thị
Hàng chục, hàng chục cơ sở Tịnh Xá
cứ tự tịnh như nhiên kỳ ý
Hàng Đoàn, hàng Đoàn Khất Sĩ Du Tăng
cứ hòa nhập chuyển hóa truyền lưu
Hơn 20 năm trong nước
và 40 năm khắp phương trời hải ngoại
Theo cái nhìn của tôi
Chính Ngài đã làm rạng danh cho Sư Tổ
Chính Ngài đã làm phổ chiếu Minh Đăng Quang
Thật hoan hỷ thay
Thật vui mừng thay
Phật Giáo Việt Nam thêm một Hệ Phái góp mặt Đạo Vàng
Cùng phối nhịp xiển dương hoằng khai chánh pháp
Kính ngưỡng vọng Giác Linh Hòa Thượng Pháp Chủ
93 tuổi, một cuộc đời quá đủ
60 năm, cả hành trạng quá đầy
75
Những nghe:
"Có, thì có tự mảy may
Không, thì cả thế gian này cũng không"
Ngài đi, mây trắng thong dong
Ngài về, rướm lệ ngậm lòng gần xa
Ngài đi, một cõi quê nhà
Ngài về, ngưng đọng giọt sa vương cành
Ngài đi, gõ nhịp tử sanh
Ngài về, không sắc đoạn đành thế thôi
Kìa trông mây ngã lưng đồi
Ô hay huyễn mộng lở bồi phù sinh
Tuy nhiên, vẫn còn đây:
Hàng ngàn cuộn băng thuyết pháp
Hàng trăm Tịnh Xá trường tồn
Hàng chục tác phẩm thi văn
Pháp từ pháp nhũ pháp âm
Pháp đệ Pháp tử Pháp tôn
GIÁC NHIÊN như thể hằng còn sử xanh
Vòng tròn đan kín loanh quanh
Đàn chim nho nhỏ bay quanh lối về
Núi đồi vần vũ sơn khê
Trùng khơi gợn sóng vỗ về biển sông
Sắc kia nào khác gì Không
Không kia cỡi Sắc bềnh bồng thiên thu
Có, thì đã quá là dư
Không, thì vũ trụ thái hư nghĩa gì
Người con THÍCH TỬ cứ đi
Tô son điểm sắt đường đi lối về
Khi nào cạn chữ giác mê
Bổn tâm bản nguyện vẹn thề châu viên.
Viết, kính dâng Giác Linh Hòa Thượng vào Tuần Lễ Chung Thất
tổ chức tại Thiền Viện Minh Quang, Sydney, Úc Châu
ngày Mồng 8 tháng 8 năm Ất Mùi 2015.
Thích Nhật Tân
Cuộc đời và hành trạng
Trưởng lão Hòa Thượng Thích Như Huệ
Ngài sinh ra mang cung mệnh lãnh đạo
Ngài sinh ra với sứ mệnh chỉ huy
Ngài sinh ra là vì sao sáng tỏa
Phụng hiến đạo đời giáo pháp từ bi
Ngài sinh ra để làm người đi đầu
Suốt cuộc đời nắm cương vị dẫn đầu
Bao thăng trầm vững tư thế đứng đầu
76
Vượt bão táp trước thế thời nghiêng ngửa
Thế danh Kim Huệ
Pháp danh Như Huệ
Pháp tự Giải Trí
Pháp hiệu Trí Thông
Đã Kim Huệ vốn tựu thành Như Huệ
Đã Như Huệ, Giải Trí biện vô nghì
Nên Trí Thông tự tại lẽ huyền vi
Mỗi xuất xử hợp thời cơ khế lý
Mới tám tuổi vào chùa để học Phật
Mười hai tuổi nguyện thế phát xuất gia
Xuất tức nhập để gánh vác Phật gia
Kế nghiệp Tổ rạng Tông môn Pháp phái
Hơn hai mươi đã là Như Lai Sứ Giả
Hai mươi lăm, giảng sư các tỉnh Miền Trung
Từ Khánh Hòa, Tuyên Đức đến Kon Tum
Nơi đâu cũng ghi dấu chân hóa độ
Năm 1963, Phật Giáo đang hồi thống khổ
Lá cờ Phật Giáo bị hạ
Xương máu Phật Giáo bị rơi
Tăng Tín đồ Phật Giáo ngục tối rã rời
Ba mươi tuổi, làm Chủ Tịch Ủy Ban Tranh Đấu
Tỉnh Quảng Nam, một trong các tỉnh cái nôi Phật Giáo
Cho người Miền Trung luyện tâm lực sắt son
Làm đẹp đạo sáng tỏa ánh đạo vàng
Xây dựng đời an lành chân thiện mỹ
Bởi sỏi đá khô cày luyện tôi như thế ấy
Bởi đèo heo hút gió lộng sơn khê
Người miền Trung trí dũng lực có thừa
Càng Lò Cừ càng nêu cao chí khí
Ba mươi mốt tuổi, Ngài đã giữ cương vị
Chánh Đại Diện Phật Giáo tỉnh Quảng Nam
Hơn mười năm biết bao việc đã làm
Tam thập nhi lập, cho bình sinh phỉ chí
Dấu mốc 75, dấu mốc sinh tử
Vận Nước, Vận Dân, Vận Đạo, Vận Đời
Bồng bềnh Vận Nước nổi trôi
Bọt tan đáy biển bèo trồi bến mê
Vận Dân, cả nước ê chề
Phủ màu sắc đỏ não nề nhiễu nhương
Vận Đạo, mục thị vô thường
Khỉ reo vượn hú vẽ tuồng múa may
Vận Đời, cát bụi mù bay
Còn chi mà đắng với cay cuộc đời
Sinh với tử, chỉ một đường độc đạo
Tử với sinh, chỉ một lối mà thôi
Khi đã chọn, đâu cần nói nửa lời
77
Không còn thấy thì tự dưng sẽ biết
Dù có chết cũng tìm đường vượt tuyến
Dù có chết cũng phiêu bạt hành trình
Đời tỵ nạn đã tự gắn với mình
Kiếp tha phương bao đoạn đành thống nổi
Người đã chết, hoặc chôn vùi đáy biển
Nếu không thì, phơi xác giữa núi rừng
Bặt âm, vô tín, trả lại thỉ chung
Xin thương tiếc cả triệu người bất hạnh
Người còn sống, đã đến nơi đất sống
Hai bàn tay, làm lại khởi từ đầu
Đêm nằm gác bóng trăng thâu
Tâm can non nỉ cơ cầu ô hay
Nhưng đã xác định
Nếu chết thì thôi
Còn sống phải làm
Tâm còn đây
Lực còn đây
Quê hương còn đó
Đạo Pháp còn đó
Cùng bắt tay nhau
Cùng nương tựa nhau
Cùng thiết lập, xây dựng cho nhau
Và cùng cưu mang, gồng gánh cho nhau
Ngài lại tiếp tục là một trong những vị
Đi đầu, đứng đầu, cầm đầu, chỉ huy và lãnh đạo
34 năm, nói riêng Úc Châu, nói chung Hải Ngoại
Ngài là bậc đạo cao đức trọng
Ngài là bậc trưởng thượng khiêm cung
Uy như thị nhiếp, đức như thị hương
Như Huệ đường đường khả tôn khả kính
Cả cuộc đời phụng hiến làm sao để tính
Cả cuộc đời dấn thân biết sao luận bàn
Với Tông môn Pháp phái
Ngài giữ cương vị Trưởng Môn phái Chúc Thánh
Với cơ đồ Giáo Hội
Ngài giữ cương vị Hội Chủ, rồi Chứng Minh Đạo Sư
Đời Ngài kiệt xuất thế ư
Gắn trên vũ trụ thái hư một tòa
Một tòa sen quý thơm hoa
Đóa hoa bất tuyệt thắm tô Đạo Vàng.
- Viết vào ngày 11-4-2016 để thực hiện in ấn Kỷ Yếu Lễ Tri Ân
- Viết để ghi nhận & tán thán nhân dịp Giáo Hội tổ chức Lễ Tri Ân cho Hòa Thượng vào ngày 01-
5-2016 tại Tổ đình Pháp Hoa tiểu bang Nam Úc.
Cuộc đời và hành trạng
78
Thiền Sư Thích Thanh Từ Ngài sinh ra để kế thế Sơ Tổ Nhân Tông
Ngài hiện thân để khôi phục Thiền Tông Việt Nam
Phật Giáo Việt Nam có Thiền Phái Trúc Lâm
Rạng rỡ huy hoàng gần ngàn năm lịch sử
Ngài sinh ra để chấn tích hưng long nghiệp Tổ
Ngài hiện thân để giương trượng chống đỡ Thiền Môn
Phật Giáo Việt Nam có sắc thái ửng son
Có một chỗ đứng đường đường giữa thiên hà hoàn vũ
Mỗi dân tộc có đặc trưng của dân tộc
Mỗi quốc gia có biểu tượng của quốc gia
Phật Giáo Việt Nam sáng tỏa châu pha
Hà cớ phải chạy theo học đòi vay mượn
Hai ngàn năm lịch sử
Tiếng chuông ngân muôn thuở
Hai ngàn năm huy hoàng
Tiếng trống lộng thiên thu
Nhìn xem vũ trụ thái hư
Việt Nam Phật Giáo đã dư sắc màu
Nhìn xem lịch sử trước sau
Việt Nam Phật Giáo hỏa châu sáng ngời
Kinh qua thế thế thời thời
Bao bậc Thạch Trụ tuyệt vời siêu phương
Kinh qua tuế nguyệt phong sương
Bao bậc Long Tượng phi thường tuyệt luân
Thế kỷ hai mươi, đầu thế kỷ hai mươi mốt
Phật Giáo Việt Nam phan duyên nối kết
Trong nước thì có Thiền Sư Thanh Từ
Ngoài nước thì có Thiền Sư Nhất Hạnh
Tôi bỗng nhớ câu:
"Như hổ thêm sừng"
"Như chim thêm cánh"
Hổ thêm sừng để sơn lâm, ngàn đời rúng động
Chim thêm cánh để không trung, muôn thuở tung bay
Ngài Thanh Từ tích trượng vung tay
Ngài Nhất Hạnh siêu luân khai phóng
Trong nước ngoài nước
"Có", "Không" hiệp chưởng
Ngoài nước trong nước
"Không", "Có" tương dung
Lại bỗng nhớ câu:
"Nếu ngày về thấy khung trời đổ nát
Thì tìm em nơi tận đáy hồn anh"
Mây trời ửng giọt long lanh
Ngân sương ngưng đọng trên cành tầm không
79
Ô hay bóng núi nghiêng sông
Nhìn trông núi núi sông sông là gì
Nhận chân đừng nói năng chi
Khứ lai nào hỏi đến đi bao giờ
Tỉnh rồi đừng hỏi giấc mơ
Còn mơ cứ hỏi vật vờ chiêm bao
Lại bỗng nhớ câu:
"Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"
Hai Ngài tuy một mà hai
Tuy hai mà một kết đài hữu dư
Hai Ngài Nhất Hạnh - Thanh Từ
"Niêm hoa vi tiếu" mỉm cười thế thôi
Hai Ngài sáng đạo đẹp đời
Có Không hiện hữu, trong ngoài tồn sinh
Hiển nhiên như bóng theo hình
Hoa mai vốn sẵn đầu đình trổ bông
Tôi xin viết đôi dòng
Như nước đổ về sông
Muôn sông về biển cả
Tôi quê mùa gốc rạ
Đâu có mấy ngôn từ
Dẫu cho ngàn con chữ
Chỉ muôn một mảy may
Dạ vâng
"Có, thì có tự mảy may
Không, thì cả thế gian này cũng không"
Hai Ngài một thể viên dung
Thanh Từ - Nhất Hạnh sánh cùng chi ai
Đình tiền tạc dạ chi mai
Việt Nam Phật Giáo liên đài ngát hương
Ba ngôi Tam Bảo chơn thường
Việt Nam Phật Giáo tư lường nhập lưu
Ngàn năm hiện hữu Vô Ưu
Muôn năm trụ vũ hoa cười độ sanh.
PL 2560, vào Hạ Bính Thân 2016
Kính tiễn Hòa Thượng Thích Như Huệ Chứng Minh Đạo Sư Giáo Hội Phật Giáo Úc Châu
Hơn 30 năm, tha phương nơi đất khách
Hơn 30 năm, hành Đạo ở xứ người
Nay Ngài đi rồi, bao niềm nỗi khôn nguôi
Phật Giáo Úc Châu mất đi một vị Thầy khả kính
Hơn 30 năm, gần nửa cuộc đời một kiếp
80
Đập giũa phong trần, đẽo gọt ba sinh
Nay Ngài ra đi, đi chỉ một mình
Còn đâu nữa tình Linh Sơn Cốt Nhục
Hơn 30 năm, biết bao nhiêu buồn vui vinh nhục
Ít nhất gặp nhau hai lần: Tu Học, An Cư
Nay Ngài đi rồi, một cõi thái hư
Phía nam bán cầu chừng như thiếu bóng
Hơn 30 năm, biết bao nhiêu nắng mưa ấm lạnh
Lễ lộc, trai nghi, hội họp định kỳ
Thỉnh thoảng thất thường, duyên sự tùy nghi
Bao khắng khít thâm sâu tình Pháp Lữ
Nay Ngài giã từ, nhà xưa quy xứ
Phật Giáo Úc Châu mất mát lớn lao
Một mình Ngài đi, rơi rụng trăng sao
Con thuyền Giáo Hội, từ nay vắng bóng
Hòa Thượng Như Huệ, một bậc Thầy khả kính
Hội Chủ Giáo Hội, Chứng Minh Đạo Sư
Phong thái trang nghiêm, thân thiện, vui cười
Tùy duyên sở, tác Như Lai, hành xử
Phật Giáo Úc Châu, một con thuyền viễn xứ
Chuyên chở Từ bi Đạo Pháp quê người
Tay chống tay chèo tay ngược tay xuôi
Nay Ngài ra đi, bỏ con thuyền ở lại
Cái câu thường nghe: niên cao, lạp trưởng
Cái câu thường nghe: thuận thế vô thường
Cái câu thường nghe: thị tịch an nhiên
Ôi, là Hữu là Vô là Không là Sắc
Hữu với Vô, nhạn quá trường không, vụt biến
Sắc với Không, ảnh trầm hàn thủy, bặt hình
Mây trời Úc Châu vần vũ thinh thinh
Phật Giáo Úc Châu nhớ nhung miên viễn
Hơn 30 năm, từ nay vắng tiếng
Tiếng Quảng Nam Đà Nẵng của Miền Trung
Của một vị Thầy khả kính khiêm cung
Một bậc lãnh đạo sơn môn thạch trụ
Hơn 30 năm, Ngài đi thêm một chuyến
Một chuyến đi, không ước hẹn ngày về
Hồi nhập Ta Bà, sao quá nhiêu khê
81
Trước kim quan, Linh đài, Ngài chỉ nhìn không nói
Vẫn biết sinh tử vô thường, nhưng con tim đau nhói
Vẫn biết tứ đại giai không, nhưng thổn thức tâm can
Lệ mà chi, châu mà chi, ô kìa khóe mắt lưng tròng
Ân nghĩa, thức tình, tự nhiên thôi vậy
Hơn 30 năm, thâm tình, mới như thế ấy
Hơn 30 năm, nghĩa nặng, mới như thế kia
Một cuộc phân ly giã biệt chia lìa
Nào ai hiểu, nào ai không có hiểu
Hơn 30 năm, chung bàn, chung mâm, chung chiếu
Hơn 30 năm, chung mọi đi đứng nằm ngồi
Nay Ngài ra đi một mình lặng lẽ, ôi thôi
Xin cung tiễn và thành tâm bái biệt
Quảy gót về Tây, nhà xưa quy xứ
Xin Ngài mang theo cả tình tự Tăng Ni
Bạch Chư Phật, Chư Bồ Tát chứng tri
Tất cả đều kính lời vấn an thăm hỏi
Trực chỉ Tây Phương, rẽ đường sinh tử
Xin Ngài mang theo tình Pháp Lữ đong đầy
Sớm hồi nhập Ta Bà, Chư Tôn Đức còn đây
Để tiếp tục hành trình hoằng dương chuyển hóa
Ta Bà khổ: khổ, khổ, khổ, cho đến khi dứt khổ
Cõi Diêm Phù: nhẫn, nhẫn, nhẫn, cho đến khi hết đau
Đạo Từ Bi chưa cạn kiệt con tàu
Pháp Thân Phật vẫn hằng nhiên điều ngự
Vì bản nguyện: Phụng sự chúng sinh là cúng dường Chư Phật
Vì bản hoài: Cửu hữu đồng đăng giác hạnh mới viên thành
Thế giới ba ngàn còn vô lượng vô số chúng sanh
Hãy tiếp tục hành trình Như Lai Sứ Giả
Cung tiễn Ngài đi, giọt lăn trên má
Cung tiễn Ngài đi, giọt ngấn lưng tròng
Nếu không tình thức, phàm trược tiêu vong
Nếu vô cơ cảm, còn thua sỏi đá
Cung tiễn Ngài đi, hoa sen một đóa
Cung tiễn Ngài đi, ngự tọa Liên đài
Pháp giới trùng trùng, không một không hai
Liễu triệt tam thừa, dung thông nhị đế
82
Chúng sinh còn, Chư Sơn còn mẫn thế
Ngài Quán Âm, luôn nghe tiếng kêu thương
Ngài Địa Tạng, ở địa ngục đảm đương
Thì Chư Sơn gánh gồng Cõi Diêm Phù, phải đạo
"Hồng chung sơ khấu
Bảo kệ cao âm
Thượng thông thiên đường
Hạ triệt địa phủ"
Ngài đi, Pháp Lữ
Xin hẹn Ngài về
Về đây tình tự đề huề
Linh Sơn cốt nhục Tào Khê vuông tròn
Về đây nhuận sắt tô son
Như Lai Trưởng Tử hằng còn thiên thu
Về đây quay lại lò cừ
Khi nào tiêu triệt đồng cư Niết Bàn
Trước khi về hẳn Lạc Bang
Ta Bà đồng hội đồng thuyền Ngài ơi!
9.25pm 23-6-2016 (19-5-Bính Thân) Ngài thị tịch
Viết liền bài này cung tiễn Ngài đi, xin Ngài trở lại.
Cuộc đời và hành trạng
Trưởng lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan
Bốn Giáo Hội hải ngoại, Ngài là bậc niên cao nhất
Tăng Ni Việt Nam hải ngoại, Ngài là bậc Lạp trưởng nhất
Sinh năm 1928 tại Cần Thơ, Nam Việt
Hiện trụ 2016 tại Ca-li, Hoa Kỳ
18 tuổi thọ Phương trượng Sa Di
25 tuổi thọ Tỳ kheo cụ túc
Đã hoàn tất Cao đẳng Phật học
Lại tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa
Hai chương trình kết lá đơm hoa
Biển trí tuệ sóng triều duy thức
Chỉ ngần ấy, Ngài xứng đáng đi trước
Chỉ ngần ấy, Ngài xứng danh đứng đầu
Kể từ ngày Bốn Giáo Hội kết hợp liên châu
Ngài vẫn luôn ngự tọa cương vị đó
Bao nhiêu bậc Tôn túc đã giã từ quán trọ
Ngài Trí Chơn, Ngài Hành Đạo, Ngài Nguyên Lai
Ngài Minh Tâm, Ngài Như Huệ,... tỏa liên đài
Thì nay, chỉ còn một mình Ngài, duy nhất
Nhất ở điểm niên cao
Nhất ở điểm Lạp trưởng
83
88 tuổi đời, thế trần phong ba bão chướng
63 tuổi Đạo, thế đạo sóng dậy thiền môn
Nào ai đem sắt thử son
Đem son thử sắt có còn gì không
Chữ tang đập giũa chữ bồng
Ta Bà hồ thỉ tréo tròng ô hay
Trượng phu mới rõ mặt mày
Quân tử mới biết thật ngay đâu là
Phật là Phật
Quỷ là quỷ
Ma là ma
Phật đà, Đạt mạ, Tăng già
Kế ma, chước quỷ lòi ra tức thì
Đừng đem bánh vẽ mê si
Ngã nhân huyễn vọng ích gì mai sau
Đừng đeo mặt nạ kính màu
Gương trong chiếu rọi con tàu trần ai
Nên nhớ:
Đạo Pháp mở cửa thiên thai
Khai thông địa ngục kết đài diệu liên
Mở toang biển đục não phiền
Dẹp tan mộng mị đảo điên cuộc đời
Chứ Đạo Pháp không phải:
Người mù dò dẫm chỉ voi
Vô nhân mục thị học đòi thanh cao
Mượn danh giả tướng loạn trào
Ếch nằm đáy giếng kêu gào hư vô
Người con của Đức Phật:
Làm là làm việc Phật
Nói là nói việc Phật
Tri và hành việc Phật
Thượng hoằng Phật đạo
Hạ hóa chúng sanh
Tâm thượng sĩ xuất trần trùm vạn hữu
Chí thượng sĩ xuất xử phủ càn khôn
Đạo Từ Bi làm cho Tam đồ bát nạn kinh hồn
Nhẫn để nhiếp phục quần sanh
Chứ không phải thúc thủ ôm đầu tủi nhục
Đừng cho rằng:
Thời mạt pháp rồi muốn làm gì thì làm
Thời mạt pháp rồi muốn ra sao thì ra
Phật là Phật, ma là ma
Chánh là chánh, tà là tà, khác nhau
Chiêm bao vẫn mãi chiêm bao
Ngàn năm đi nữa cây đào trước sân
Bức tranh mưa Sở mây Tần
Còn đem phe phẩy phù vân ích gì
84
Chính thời mạt pháp
Người con của Đức Phật phải:
Kiên trung hơn
Dũng xuất hơn
Khí khái hơn
Lịch lãm hơn
Bởi Đạo Pháp còn, nhờ những bậc phát túc
Mạng mạch Phật Pháp còn, nhờ những bậc siêu phương
Quỷ dẫu thần sầu, vẫn chỉ là ác quỷ
Ma dẫu ma đầu, vẫn chỉ là ác ma
Thấy dáng Cà sa, đã tan hồn bạt vía
Dưới bóng Phật Đà, đã quỳ mọp khóc than
Huống chi chúng sanh lầm lỡ vô can
Người thượng sĩ lại càng cưu mang tế độ
Hoa Ưu Bát một lần đã nở
Tỏa ngàn năm đến vạn thiên thu
Hạnh phúc thay, người con Đức Phật
Hạnh phúc thay, Trưởng Tử Như Lai
Chúng sanh còn, hạnh nguyền chưa dứt
Chúng sanh tiêu, đồng ngự Liên Đài.
Viết kính tặng HT Thích Thắng Hoan khi Ngài còn hiện tiền.
Úc Châu ngày 21-7-2016
Kính dâng Hòa Thượng Giác Linh
Mới đó mà đã đến ngày Chung Thất
Chùa Pháp Hoa trông vắng vẻ Ngài ơi
Người vẫn đông nhưng trầm lắng khôn nguôi
Như mất mát những gì chưa mất mát
Ngài ra đi dấu mờ loang bụi cát
Một lần đi là vĩnh biệt muôn trùng
Chung quanh chùa bao hình ảnh tôn dung
Nhưng chỉ nhìn và lặng yên không nói
Ngài ra đi Linh Đài quyền quyện khói
Tiếng kệ kinh ngân vọng thoáng xa đưa
Nghĩa Tôn Sư sâu nặng nói sao vừa
Thầm nghĩ nhớ sóng lòng đong ngấn lệ
Kiếp trăm năm trải dài non thế kỷ
Nhịp tử sinh một thoáng biệt tăm ngàn
Hình bóng Ngài còn ẩn hiện mênh mang
Tổ Đình xưa lặng nhìn Ngôi Tháp Tự
Chính nơi đây, Ngài đang nằm trong đó
Chút hình hài di cốt trả thiên thu
Gởi cát bụi bay nắng đổ mưa bồi
85
Linh giác thể tương ưng vô sở trụ
Nhưng còn đây Pháp quyến Môn đồ Đệ tử
Và còn đây hàng Pháp lữ trước sau
Lý thâm sâu liễu triệt ý nhiệm mầu
Sự tường tận chứa nhiều ngăn bảo sở
Nghe chơn ngã gọi về trong nỗi nhớ
Nghe chơn thường miên viễn vọng niềm thương
Nghe chơn tịnh lồng lộng khắp muôn phương
Nghe chơn lạc tịch nhiên vô nhiễm thể
Mới đó mà đã đến ngày Chung Thất
Rồi Tiểu Tường, đánh dấu giáp một năm
Rồi Đại Tường, một năm nữa tròn năm
Và cứ thế cùng con thoi gõ nhịp
Cung thỉnh Ngài giáng lâm hoan hỷ ngự
Xin chứng tri cảm thọ tấm chân thành
Xin xót thương nỗi trầm thống chúng sanh
Mong cơ cảm nhập Ta Bà chuyển hóa.
Thành kính viết dâng Lễ Chung Thất
Cố Trưởng lão Hòa Thượng Pháp Hoa Đường Thượng.
Brisbane ngày 22-7-2016
Thích Nhật Tân