cuộc đời và hành trạng -...

85
Cuộc đời và Hành trạng... Trong cuc hành trình, tôi có viết mt sbài như dưới đây, xin mi xem qua, bài nào có vđược, phù hp, tùy nghi sdng. Kính chào, Thích Nht Tân (Bút hiu Mc Giang) [email protected] 1. Mừng Đại hội Khoáng đại Kỳ 8 2. Thương Thầy An Thiên 3. Mừng Khánh Thọ một vị Thầy 4. 40 năm – Hai biểu tượng 5. 40 năm, nhớ Ngài Quảng Đức 6. 74 năm - Ngọn lửa hiện về 7. Cảm thương Sư Cô Diệu Pháp 8. Cảm niệm Giác linh Hòa Thượng Huyền Vi 9. Cảm niệm Thượng Tọa Chơn Kiến 10. Cảm niệm Ân đức và Hành trạng HT Mãn Giác 11. Cung tiễn Giác linh HT Đổng Chơn 12. Cảm niệm Cuộc đời và Công đức Sư bà Như Trí 13. Thương tiễn Cô Ba (bài này của riêng một người) 14. Kính mừng Khánh Tuế Bát Thập HT Huyền Tôn 15. Cảm thương Sư Cô Trí Bửu 16. Ngưỡng vọng Cuộc đời và Hành trạng HT Huyền Quang 17. Ngưỡng vọng Cuộc đời và Hành trạng HT Trí Quang 18. Thăm Bảo Tháp Ôn Linh Mụ 19. Đạo vàng tỏa rạng Như An 20. Năm năm trước – Năm năm sau 21. Trái tim đâu rồi 22. Một cái Chết, sau 30 năm vẫn chưa sáng tỏ ! 23. Ngưỡng vọng hành trạng Ngài Nhật Liên 24. Tiễn Người thăm lại nhà xưa 25. Tiễn bước Người đi 26. Một cây đại thọ trong rừng già (viết về Ngài Nhật Liên) 27. Cuộc đời và hành trạng của Ngài Trí Tịnh Đại Sư 28. Cuộc đời và hành trạng Đức Đệ Nhất Tăng Thống 29. Cuộc đời và hành trạng Đức Đệ Nhị Tăng Thống 30. Kính ngưỡng cuộc đời và hành trạng HT Hộ Giác 31. Xin viết dâng Ông 32. Năm mươi năm tưởng niệm tri ân 33. Tôn hiệu Chư Thánh Tử Đạo 34. Kính ngưỡng Bồ Tát Thích Quảng Đức 35. Một vinh dự trong đời 36. Cảm nhận về Đại Lễ Tri Ân Tưởng Niệm 50 Năm 37. Cuộc đời và hành trạng Hòa Thượng Thích Minh Tâm 38. Cuộc đời và hành trng ca Ngài Nht Hnh 39. Cuộc đời và hành trng Hòa Thượng Thích Tâm Châu

Upload: others

Post on 11-Sep-2019

13 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Cuộc đời và Hành trạng... Trong cuộc hành trình, tôi có viết một số bài như dưới đây,

xin mời xem qua, bài nào có vẻ được, phù hợp, tùy nghi sử dụng.

Kính chào,

Thích Nhật Tân

(Bút hiệu Mặc Giang)

[email protected]

1. Mừng Đại hội Khoáng đại Kỳ 8

2. Thương Thầy An Thiên

3. Mừng Khánh Thọ một vị Thầy

4. 40 năm – Hai biểu tượng

5. 40 năm, nhớ Ngài Quảng Đức

6. 74 năm - Ngọn lửa hiện về

7. Cảm thương Sư Cô Diệu Pháp

8. Cảm niệm Giác linh Hòa Thượng Huyền Vi

9. Cảm niệm Thượng Tọa Chơn Kiến

10. Cảm niệm Ân đức và Hành trạng HT Mãn Giác

11. Cung tiễn Giác linh HT Đổng Chơn

12. Cảm niệm Cuộc đời và Công đức Sư bà Như Trí

13. Thương tiễn Cô Ba (bài này của riêng một người)

14. Kính mừng Khánh Tuế Bát Thập HT Huyền Tôn

15. Cảm thương Sư Cô Trí Bửu

16. Ngưỡng vọng Cuộc đời và Hành trạng HT Huyền Quang

17. Ngưỡng vọng Cuộc đời và Hành trạng HT Trí Quang

18. Thăm Bảo Tháp Ôn Linh Mụ

19. Đạo vàng tỏa rạng Như An

20. Năm năm trước – Năm năm sau

21. Trái tim đâu rồi

22. Một cái Chết, sau 30 năm vẫn chưa sáng tỏ !

23. Ngưỡng vọng hành trạng Ngài Nhật Liên

24. Tiễn Người thăm lại nhà xưa

25. Tiễn bước Người đi

26. Một cây đại thọ trong rừng già (viết về Ngài Nhật Liên)

27. Cuộc đời và hành trạng của Ngài Trí Tịnh Đại Sư

28. Cuộc đời và hành trạng Đức Đệ Nhất Tăng Thống

29. Cuộc đời và hành trạng Đức Đệ Nhị Tăng Thống

30. Kính ngưỡng cuộc đời và hành trạng HT Hộ Giác

31. Xin viết dâng Ông

32. Năm mươi năm tưởng niệm tri ân

33. Tôn hiệu Chư Thánh Tử Đạo

34. Kính ngưỡng Bồ Tát Thích Quảng Đức

35. Một vinh dự trong đời

36. Cảm nhận về Đại Lễ Tri Ân Tưởng Niệm 50 Năm

37. Cuộc đời và hành trạng Hòa Thượng Thích Minh Tâm

38. Cuộc đời và hành trạng của Ngài Nhất Hạnh

39. Cuộc đời và hành trạng Hòa Thượng Thích Tâm Châu

40. Cuộc đời và hành trạng Hòa Thượng Thích Giác Nhiên

41. Cuộc đời và hành trạng HT Thích Như Huệ

42. Cuộc đời và hành trạng Thiền Sư Thích Thanh Từ

43. Kính tiễn Hòa Thượng Chứng Minh Đạo Sư

44. Cuộc đời và hành trạng HT Thích Thắng Hoan

45. Kính dâng Giác Linh HT Như Huệ

46.

Mừng Đại Hội Hoáng Đại Kỳ 8 Tổ chức vào 14,15,16-5-1999 tại PHV Quốc Tế, Hoa Kỳ

Mừng Đại Hội Khoáng Đại Kỳ 8

Đại Hội lịch sử

Khâm thừa và triển khai Giáo Chỉ của Hội Đồng Lưỡng Viện tại quê nhà

Chư Tôn Thiền Đức khắp năm châu, dù vạn lý vẫn không xa

Nương cánh gió, vút lên cao mọi vòm trời, để cùng nhau phó hội

Đại Hội Khóang Đại Kỳ 8

Đại Hội lịch sử

Thoát thời gian, vượt không gian, nối liền lịch sử

Lịch sử hai ngàn năm truyền thống, bị bóp nghẹt một khoảng đường

Lịch sử hai ngàn năm Phật Giáo huy hoàng

Bị thế lực cuồng si, buông tay, đánh bạt

Nhưng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

Vẫn trầm hùng, uy nghiêm, hiên ngang, bền vững

Bỡi Phật Giáo Việt Nam chỉ là một

Tiếng nói Phật Giáo Việt Nam chỉ là một

Một là tất cả

Khởi đi, từ nhất điểm hồng, trung kiên, son sắt

Và lan đi, tràn ngập chan hòa, đến hàng vạn con người, hàng triệu trái tim

Hòa vang từ Quốc nội, đến khắp chân trời Hải ngoại

Hai mươi bốn năm

Ý thức hệ bạo tàn, bỏ mất lương tâm, gây nên nông nỗi

Hai mươi năm

Bị cưỡng bức, chiếm đoạt, chèn ép, nhưng chỉ là những cuồng phong bão thổi

Mười tám năm

Dựng nên một cơ chế, với bao âm mưu, thủ thuật

Nhưng chỉ mang một cụm từ, Nhà Nước, Quốc Doanh

Chỉ một tiếng vọng

Tiếng vọng từ trong tù, nhưng đó là Pháp Âm bất tuyệt

Chỉ có một lời

Một lời thốt lên trong vòng kềm tỏa

Nhưng đó là Triều âm, Hùng lực, Bi tráng, làm chấn động muôn phương

Xa xôi, dù mấy dặm trường

Tiếng lòng Thống Nhất, hằng vương vấn lòng

Trời cao nên mãi thong dong

Đất kia ẩm thấp, dễ hòng được sao

Đại Hội Phật Giáo hôm nay

Hàng vạn Tăng Ni

Hàng triệu tín đồ

Hướng về ngưỡng vọng

Một Huyền Quang, một Quảng Độ, chúng con chân thành bái thỉnh

Một Đức Nhuận, một Tuệ Sĩ, chúng con nhất dạ suy tôn

Tứ trụ hùng tâm, mang vô úy lực, lãnh đạo như những nhà lương đống

Cùng Chư Tôn Giáo Phẩm được suy cử trong Hội Đồng Lưỡng Viện

Lèo lái con thuyền Giáo Hội

Tiếp nối hai ngàn năm truyền thống

Làm rạng ngời trang sử ngày mai

Truyền trao Thông Điệp

Độc thọ lao tù khuynh bách diệp

Nhất hổ oai hùm khiếp vạn linh

Xây dựng tính nhân bản, an lạc, đồng điệu, hòa bình

Cho Dân tộc, cho nhân loại, đi vào thiên niên kỷ tương lai.

THƯƠNG THẦY AN THIÊN

Cảm tác 11 giờ khuya Thứ Bảy 25-5-2002 Dâng lên Giác linh Cố TT Thích An Thiên Xả báo thân lúc 4 giờ 30 chiều Thứ Sáu 24-5-2002

Bốn giờ rưỡi chiều Thứ sáu

Ngày hăm bốn tháng năm

Năm hai nghìn lẻ hai

Tin chấn động nghe tim mình rỉ máu

Không gian khép lại

Thời gian ngừng trôi

Mắt lệ tuôn dài !

Điện thoại liên hồi tới tấp

Bàng hoàng rúng động không thôi

Tiếng nói ngập ngừng lấp vấp

Thầy An Thiên đã mất rồi !

Vành môi run rẩy vành môi

Mắt rưng rưng mắt xa xôi ngóng chờ

Đêm dài vần vũ hoang sơ

Trăng khuya nhạt bóng hoen mờ cùng sao

Quý Thầy hối hả !

Phật tử xôn xao !

Một số tụ nhau về Chùa Minh Giác

Người thì liên lạc các cơ quan công quyền chờ đợi nắm tin

Mười giờ đêm còn hội họp

Rồi kéo nhau đi đến chỗ giữ xác Thầy

Thầy của chúng tôi cho chúng tôi xin !

Chỉ xin một chút được nhìn !

Và được đứng gần, yên lặng cùng nhau cầu nguyện

Nhưng họ bảo không được, phải chờ sau giảo nghiệm

Họ còn bảo : nếu có vào cũng không thể nào nhận diện

Cháy đen ! rách toát ! ló xương ! nức nẻ ! co quắp ! như than !

Phũ phàng chi hỡi phũ phàng

Đắng cay chi hỡi bẽ bàng đắng cay

Đất nước xứ người

Luật lệ xứ người

Thôi đành chấp nhận !

Ôi, thiểu não ê chề !

Rồi lũ lượt ra về, Chùa Minh Giác tiêu sơ

Đêm đông càng khuya giá cắt, ai cũng bơ phờ

Lập tạm bàn thờ bên nhà kho cầu nguyện

Tiếng mõ lời kinh vang vọng

Thì thào sùi sụt liên miên

Âm vang chừng nghe nấc giọng

Âm dương giao cảm nối liền

Thầy An Thiên hỡi Thầy An Thiên !

Giác linh phưởng phất chùa chiền dấu yêu

Tiếng kinh trầm bỗng cao siêu

An Thiên nương bóng tiêu diêu hồng trần

An Thiên về với mây ngàn

Môn đồ ở lại hai hàng lệ rơi

Anh em huynh đệ nào nguôi

Từng cơn thổn thức bồi hồi tiếc thương !

Tròn bốn mươi năm

Xuất gia tu học

Cắt ái từ thân

Bôn ba du học

Xứ Nhật Bản thần kinh

Rồi nhân duyên đưa đẩy

Úc Đại Lợi nương thân

Đã hai mươi năm

Anh em huynh đệ

Lần bước phong trần

Kẻ trước người sau lập nên từng trụ xứ

Lần hồi trôi nổi

Giáo Hội thành hình

Những tưởng năm tháng còn dài

Quê hương, Đạo Pháp trĩu vai

Vui buồn cùng nhau can dự

Nào ngờ một thoáng chia ly

Âm thầm lặng lẽ ra đi

Từ nay đôi ngả còn chi hở Thầy ?

Đông về giá lạnh hây hây

Người đi đi mãi nào phai bóng hình !

Thầy là người ít nói

Khiêm cung rẻ rúng ngôn từ

Đến độ ra đi

Không một lời từ biệt

Không một tiếng nghe qua

Kết thúc cuộc đời của một nhà tu

Chỉ còn lá thư bốn trang để lại

Quý Thầy chưa được xem

Môn đồ đệ tử chưa được xem

Họ chỉ dịch một vài câu đại khái

Tang lễ của Thầy nhờ Giáo Hội

Tro cốt của Thầy rải xuống biển xuống sông

Nghe sao se thắt tâm hồn

Ân tình huynh đệ theo dòng lệ rơi

Không sao nói được nên lời

Mắt rưng rưng mắt đầy vơi đôi bờ

Môn đồ hiếu quyến bơ vơ

Từ nay Minh Giác trông chờ ai đây ?

Còn đâu ước nguyện của Thầy ?

Ra đi một thoáng trời mây ngút ngàn !

Còn đâu ân nghĩa cưu mang ?

Ra đi một thoáng vô vàn mến thương !

Thôi !

Thầy cứ đi đi

Lặng lẽ âm thầm

Giáo Hội còn đây

Để cho người ở lại

Minh Giác còn đây

Vì Thầy lớn nhỏ bảo nhau !

Và tìm người tiếp nối mai sau !

Niềm đau dù có lên màu

Tang thương dù có làm nau mấy lần

Việc chung ai cũng có phần

Chùa chung ai cũng chẳng ngần ngại chi

Nhiệm mầu ánh đạo từ bi

Dang tay một chút cũng vì An Thiên

Tang lễ của Thầy !

Huynh đệ chúng tôi cùng nhau câu hội

Minh Giác vơi đầy

Môn đồ, Phật tử xa gần kéo tới

Thành tâm thiết lễ nguyện cầu

Hợp tan như cuộc biển dâu

Thầy đi về với nhiệm mầu An Thiên

An Thiên từ cõi An Thiên

Chắp tay xin nguyện về miền Lạc Bang

Ta Bà là chốn lầm than

Cho tròn hạnh nguyện Sen Vàng trỗ bông

Pháp hữu TNT

Đêm 14 viết thương Thầy

Ngày mai là Phật Đản 2626

Mừng Khánh Thọ Một Vị Thầy Cảm tác sau 30 phút máy bay cất cánh.

Kết thúc lúc máy bay chưa hạ cánh

Tuyến đường Brisbane - Adelaide .

Tối thứ bảy 14-6-2003

Một kiếp nhân sinh

Nương bước luân hồi

Thất thập cổ lai

Dễ được mấy người

Dù không bảo, đó cũng là niềm vui Khánh Thọ

Nghe nói khẽ “Tình Thầy Trò nho nhỏ”

Nhưng tiếng đã thành lời theo gió lan xa

Nói nhỏ nhau nghe tiếng tốt ấy mà

Chúc tụng vui mừng Ngài Pháp Hoa phương trượng

Cây tốt cành tươi muôn chim về qui hướng

Biển rộng sông sâu bao nhiêu nước cũng vừa

Khiêm từ, dung chứa là đức độ của người xưa

Phụng sự, dấn thân là mẫu mực nay đâu khác !

Nam Úc đông về thêm tươi mát

Pháp Hoa phương trượng bảy mươi năm

Đất Quảng lừng danh miền nước Việt

Như Huệ nguyệt trung tựa trăng rằm

Tùng bách bốn mùa luôn xanh biếc

Lâm Tế muôn đời rạng tông môn

Ngàn xưa lưu dấu vẫn còn

Ngàn sau tô điểm sắt son chẳng nhòa

Đông về mà lá mà hoa

Tây nương ! Thân gởi ! Kính hòa dễ sao ?

Thời gian ngó lại xem nào

Đã rung dấu ngọc trăng sao lu mờ !

Hôm nay ngẫm lại tưởng như mơ

Đã trải một đời như bài thơ tuyệt tác

Tôi không hát

Tôi không ca

Chỉ xin ghi vài dấu nét

Hiệu trưởng bồ đề,

chánh đại diện Quảng Đà, Trung Việt pháp sư

khắp vùng đất nước, không thiếu không dư

Hội chủ Giáo hội,

lãnh đạo một châu, Hội đồng hải ngoại

Bảy mươi năm âm vang dù không nói

Đức cao dày hữu xạ tự nhiên hương

Tôn túc uy nghiêm Như Huệ đường đường

Pháp quyến môn đồ vừa thương vừa kính

Nhạc khúc huy hoàng là vầng thơ không vịnh

Cỡi trời mây, tôi đâu có tính chi !

Ngồi yên không đến mà đi

Bóng đêm nên ngóng Những Vì Trăng Sao !!!

Xem như chẳng nói câu nào

Tâm tư mượn bút kính chào ngày vui

Hân hoan Khánh Thọ bảy mươi

Chia niềm hoan lạc một người mến thương

Như là như thể pháp vương

Huệ là biển tuệ trên đường tôi đi

Rạng ngời ánh đạo từ bi

Một đời như thế cũng vì lắm nghe

Bảy mươi năm vẫn còn e !

Bảy mươi năm nữa, ai dè ! biết đâu ?

Mới hay đạo pháp nhiệm mầu.

40 Năm, Hai Biểu Tượng Nhìn tấm hình Ngài Huyền Quang nâng Quả tim Bồ Tát Quảng Đức năm 1963,

cảm tác để hướng về chuẩn bị Đại Hội Bất Thường của Giáo Hội và

Lễ Suy Tôn Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang

lên ngôi vị Đệ Tứ Tăng Thống

Tại tu viện Quảng Đức vào 10,11,12-10-2003 tại Úc Châu.

* tháng 10-2003 *

Ngược dòng thời gian bốn mươi năm

Một vị Thầy vị pháp thiêu thân

Ngọn lửa thiêng vượt chín tầng

Vũ trụ đất trời rung chuyển

Tâm tư biến thành khói quyện

Hạnh nguyện kết tụ đài sen

Tâm lực chuyển hóa thành đèn

Sáng soi muôn ngàn tăm tối

Bốn biển, Năm châu thức dậy

Hướng nhìn Phật Giáo Việt Nam

Ngợi ca Một Cánh Hoa Đàm

Tựu thành Quả Tim Bồ Tát

Từ đây, Quê hương, Đạo pháp

Từ đây, đất nước, lòng dân

Qui tụ mọi thành phần

Hát bài ca Dân Tộc

Hát bài ca Thống Nhất

Rợp màu cờ ngũ sắc

Phật Giáo Việt Nam

Ngài mang hạnh nguyện, đốt ngọn lửa thiêng

Lửa thiêng bừng cháy, sáng tỏa đài sen

Ngài vẫn chắp tay, nhắm mắt, ngồi yên

Chúng con sụp lạy, cúi đầu !

Hồn đau lặng câm, nín thở !

Vọng vang kinh kệ nhiệm mầu

Việt Nam lặng khóc, chìm sâu

Muôn phương khắp hướng, Năm châu nức lòng

Ngài về Thánh Đức thong dong

Cho Việt Nam thoát khỏi vòng trầm mê

Lửa thiêng sưởi ấm bốn bề

Từ bi thắm đượm tình quê đậm đà

Đạo mầu rũ sạch phong ba

Phật Giáo hòa nhuận ngôi nhà Việt Nam

Một bức hình, ảnh tượng bốn mươi năm !

Một trái tim, ảnh tượng của Pháp thân !

Bóng tối thâm u, lộ chiếu trăng vàng

Màn đêm khép lại, cho hừng đông ló dạng !

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm tỏa rạng

Đất nước Việt Nam, năm ngàn năm huy hoàng

Nhờ những bậc phi thường rực rỡ sắt son

Phổ chiếu uy linh trên non sông Nước Việt

Đôi tay Ngài nâng Quả Tim Bất Diệt

Cho Quê hương, cho Đạo pháp sống còn

Hai mươi mốt năm, tội tù, cùm gông, oan nghiệt

Quyền uy phải phục, sắc đỏ phải mòn

Đôi tay Ngài nâng quả tim, lửa đốt sáng hơn !

Cuộc đời Ngài mang trái tim, thể chế phải sờn !

1963-2003, phạm vũ xoay vần

Thiết lễ khánh thành, thiết lễ suy tôn

Quảng Đức Úc Châu, Huyền Quang Tăng Thống

Trong nước vọng ra

Ngoài nước vọng về

Khắc ghi, phủ phục, nguyện thề

Nhất tâm câu hội dưới cờ

Việt Nam Phật Giáo tôn thờ vọng vang

Bốn mươi năm, Ánh Đạo Vàng

Một Quảng Đức, Một Huyền Quang tuyệt vời

Ngài về đỉnh núi chơi vơi

Ngài đang tọa thị, kế đời thứ tư

Đệ tứ Tăng Thống, còn dư !!!

Ngưỡng tôn Tăng Thống tám tư, kém, thừa !!!

Cả đời, Đạo Pháp đủ chưa ???

Cả đời, Tố Quốc có vừa hay không ???

Ai vì Lịch sử, Non Sông ?

Ai vì Đạo Pháp, nối dòng Thế Tôn ?

Đôi tay nâng một trái tim

Cuộc đời mang một trái tim phi thường

Trái tim Đạo Pháp, Quê Hương

Trái tim tỏa chiếu muôn phương tôn thờ

Huyền Quang, Quảng Đức, trơ trơ !!!

Đạo nhờ oai lực, đời nhờ từ tâm

Việt Nam - Phật Giáo muôn năm

Quê Hương - Đạo Pháp trăng rằm rạng soi

Rạng soi cho cả giống nòi

Việt Nam - Phật Giáo sáng ngời muôn năm.

40 Năm, Nhớ Ngài Quảng Đức Tháng 10-2003

Ngược dòng thời gian bốn mươi năm

Một vị Thầy vị pháp thiêu thân

Ngọn lửa thiêng vượt chín tầng

Vũ trụ đất trời rung chuyển

Tâm tư biến thành khói quyện

Hạnh nguyện kết tụ đài sen

Tâm lực chuyển hóa thành đèn

Sáng soi muôn ngàn tăm tối

Bốn biển, Năm châu thức dậy

Hướng nhìn Phật Giáo Việt Nam

Ngợi ca Một Cánh Hoa Đàm

Tựu thành Quả Tim Bồ Tát

Từ đây, Quê hương, Đạo pháp

Từ đây, đất nước, lòng dân

Qui tụ mọi thành phần

Hát bài ca Dân Tộc

Hát bài ca Thống Nhất

Rợp màu cờ ngũ sắc

Phật Giáo Việt Nam

Ngài mang hạnh nguyện, đốt ngọn lửa thiêng

Lửa thiêng bừng cháy, sáng tỏa đài sen

Ngài vẫn chắp tay, nhắm mắt, ngồi yên

Chúng con sụp lạy, cúi đầu !

Hồn đau lặng câm, nín thở !

Vọng vang kinh kệ nhiệm mầu

Việt Nam lặng khóc, chìm sâu

Muôn phương khắp hướng, Năm châu nức lòng

Ngài về Thánh Đức thong dong

Cho Việt Nam thoát khỏi vòng trầm mê

Lửa thiêng sưởi ấm bốn bề

Từ bi thắm đượm tình quê đậm đà

Đạo mầu rũ sạch phong ba

Phật Giáo hòa nhuận ngôi nhà Việt Nam

Một bức hình, ảnh tượng bốn mươi năm !

Một trái tim, ảnh tượng của Pháp thân !

Bóng tối thâm u, lộ chiếu trăng vàng

Màn đêm khép lại, cho vừng đông ló dạng !

Phật Giáo Việt Nam, hai ngàn năm tỏa rạng

Dân tộc Việt Nam, năm ngàn năm huy hoàng

Đạo mầu tỏa bóng từ quang

Việt Nam - Phật Giáo sắt son muôn đời !!!

74 năm, NGỌN LỬA HIỆN VỀ Cảm niệm Tỳ Kheo Thích Chân Hỷ, 74 tuổi, dùng bản thân mình đốt thành Ngọn lửa,

vào lúc 4am ngày 24-12-2003 (Hoa Kỳ) tức ngày 25-12 (Úc & Việt Nam)

dưới Phật đài Quan Âm, Chùa Liên Hoa, tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ -

một nước biểu tượng cho tự do, cao vút biểu tượng Nữ thần Tự Do,

để cầu nguyện cho Việt Nam : tự do tôn giáo, tự do dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ.

Viết lúc 10pm 25-12-2003

(tựa 74 năm, chủ ý : thọ tuế của Thầy, cũng là 74 năm từ năm …)

Lửa ! Lửa đốt dưới tòa sen

Một Thầy đã tự thiêu thân

Lửa thiêng, vượt sáng chín tầng

Đêm dài, bình minh thức dậy

Bồ Tát Quán Âm có lắng nghe !

Nữ Thần Tự Do có lắng nghe !

Hồn Thiêng Sông Núi có lắng nghe !

Một người Việt Nam

Một Vị Sư già

Đã nguyện thiêu thân

Cho Đạo Pháp, cho Quê Hương sống lại

Việt Nam, đã 74 năm quằn quại

Việt Nam, đã 28 năm âm thầm

Cả một dân tộc thống khổ ngậm câm

Bao nhiêu người đã chết ???

Và bao nhiêu người chưa chết ???

Cải tạo, lao tù, ngục tối,. . . : nói sao cho hết ?

Bức bách, gian ngoa, xảo ngụy, . . . : nói sao cho cùng ?

Lịch sử một dòng, đất nước của chung

Ai cản được những con người trung kiên, cất cao tiếng gọi !

Tự do cho Việt Nam : mịt mờ, tăm tối

Dân chủ cho Việt Nam : tan nát, rã rời

Nhân quyền cho Việt Nam : xa tít mù khơi

Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên thế ấy !!!

Năm ngàn năm lịch sử, chưa từng thấy :

Cắt đất, xén biển, vén trời : vì lợi, vì danh

Buôn dân, bán nước, đổi tên : độc thế, độc quyền

Tôn thờ chủ nghĩa, mà ra nông nỗi !!!

Thầy nguyện thiêu thân, tấm gương chói lọi

Soi cho những ai tăm tối, quay về

Cho quê hương Việt Nam, sông núi vẹn thề

Cho dân tộc Việt Nam, cùng nhau xây dựng

Hỡi những quốc gia yêu chuộng tự do !

Hỡi những con người yêu chuộng tự do !

Trên đất nước tự do

Một con người, dùng ngọn lửa thiêu thân

Là nhân chứng sống, vượt tầng

Trả lời : Việt Nam đã 74 năm tròn, 28 năm dư, quá tệ !!!

Xác thân Thầy giã huyễn, nhưng linh tri Thầy là để :

Đánh thức lương tâm của những người quyền lực mù say

Cảnh tỉnh lương tâm của những người theo gió múa may

Cho đất nước, cho dân tộc đổi thay, tươi sáng

Một ngọn lửa thiêng

Bình minh ló dạng

Một nguyện chân thành

Phá vạn u mê

Là người Việt Nam

Biết nẻo quay về

Lịch sử Tổ Tông

Ngàn năm nguồn cội

Ánh sáng bừng lên

Tan màn tăm tối

Tỉnh mộng cuồng si

Rẽ lối, quay đường

Nối tình dài Đạo Pháp - Quê Hương

Xây nghĩa lớn Non Sông Nước Việt

Một ngọn lửa thiêng

Mây trời xanh biếc

Một ngọn lửa hồng

Vần vũ trăng sao

Xin chắp bàn tay

Tay vẫy tay chào

Soi sáng Việt Nam

Tươi sáng ngàn năm !!!

Cảm Thương Sư Cô Diệu Pháp Đêm 16 tháng Chạp Giáp Thân.

Ngày 16 tháng Chạp năm Giáp Thân

Quay ngược về năm Giáp Tuất

Tin đi từ Tịnh Thất

Vắng bóng Sư Cô già

Tin đi khắp gần xa

Như trời mưa buổi sáng

Diệu Pháp tự tâm, khi vừng đông chưa tỏ rạng

Tìm về Chân Diệu, tĩnh tu niệm Phật tọa thiền

Có lẽ, Cô đi về một cõi an nhiên

Nằm rạp xuống, quay mặt về Tây, nhắm mắt

Bảy mươi hai tuổi, đi tìm ngõ tắt

Bán thế xuất gia, phó mặc cuộc đời

Bao năm trụ trì, cũng đủ tàn hơi

Còn có người sau, nên Cô cất bước

Cô thường nói : Già rồi, tĩnh tu, kiếm phước

Sức lực đâu còn gánh vác nổi mạng mạch Như Lai

Đâu dám nói, năm nọ năm kia, mà chỉ ngày một ngày hai

Con bòn mót chút tư lương, và xin hầu quí Thầy, là đủ

Bóng Phật Đà, còn đây lối cũ

Kể từ nay, bóng dáng Cô đâu

Đời người, vó ngựa bóng câu

Vô thường đã đến vọng cầu mà chi

Di Đà bổn nguyện từ bi

Lạc Bang ao báu Liên Trì trổ bông

Thất thập cổ lai, hai nữa còn không

Có thỉ có chung, mà cùng sao được

Con đường triền phược

Dốc nẻo gập ghềnh

Cô đi rồi, ai nhớ ai quên

Đường muôn hướng, mình Cô độc đạo

Sáu nẻo luân hồi

Máy huyền cơ xảo

Một kiếp phù sinh

Tự trả tự vay

Cho đến khi nhắm mắt buông tay

Thân tứ đại rêu mờ cát bụi

Công việc Cô ngày xưa cặm cụi

Xin cùng nhau tặng một cành hoa

Dù chỉ là một đóa hoa khô

Vẫn làm đẹp giữa rừng cây cỏ

Xin tiễn Cô, khói hương trầm lan tỏa

Vọng kinh cầu, theo tiếng mõ cầu kinh

Vọng chuông ngân cùng huyền ảo lung linh

Vô tâm niệm, bặt âm Chân-Diệu-Pháp

Một vòng hai Giáp

Thân-Tuất, là đây

Cô về, một cõi trời Tây

Chúng tôi ở lại đong đầy mến thương

Cô về, một cõi chơn thường

Chúng tôi ở lại, vô thường đi quanh

Trăng tròn mười sáu trăng thanh

Hoa Đàm điểm nụ trên cành Vô Ưu.

Cảm niệm Giác linh

Cố Hòa Thượng Thích Huyền Vi Kính bái, ngày 16-02-2005

Ngày Mồng Bảy tháng Giêng năm Ất Dậu

Tin từ Tòng Lâm Pháp quốc, loan đi

Linh Sơn Tăng Thống, thượng Huyền hạ Vi

Xả báo ta bà, an nhiên thị tịch

80 năm, nhập thế hoằng dương, trùng quang chấn tích

59 năm, đạo lạp uyên thâm, Linh tụ Sơn môn

40 trụ xứ, trên khắp năm châu, phạm vũ huy hoàng

Đệ nhất thuyết pháp một thời, danh truyền vang dội

Hạnh nguyện độ tha, chưa hề biết mỏi

Nương cánh không gian, bay khắp muôn phương

Diện mạo trang nghiêm, tăng tướng đường đường

Tiếng pháp âm uy nghi, như sư tử hống

Đối với Giáo Hội, Ngài là một nhà lương đống

Đối với Đạo Pháp, Ngài thuộc hàng trưởng thượng Như Lai

Đối với tông môn, Ngài xứng danh kế thế hoằng khai

Đối với pháp lữ, Ngài là bậc đạo cao đức trọng

Trời đất rộng, nhưng chim Bằng gãy cánh

Cỡi vô thường, đành thuận thế hợp tan

Ngài an nhiên, nhưng đệ tử hàng hàng

Đều qui hướng cửa Huyền Vi, vi diệu

Linh Sơn Hội, một đóa hoa hàm tiếu

Linh Sơn môn, bảy hàng đệ tử thế thừa

Linh Sơn tông, năm châu nội ngoại, đủ chưa

Linh Sơn phong, vẫn xưa nay, bất diệt

Theo bóng Bổn Sư, dặm dài trên Núi Tuyết

Tùy duyên Như Kế, diệu dụng khắp nơi nơi

Tùy cơ Giải Đạo, chuyển xe pháp độ đời

Đạo lý Huyền Vi, thuyền từ đăng bỉ ngạn

“Ân giáo dưỡng, một đời, nên huệ mạng”

Nghĩa ân sư, nguyện theo dấu, đáp đền

Pháp quyến, môn đồ, huynh đệ, tử tôn

Vì Thầy, Tổ, cùng nương nhau, tế độ

Dù ngàn gian khổ

Một dạ, chẳng sờn

Dù vạn thiệt hơn

Một ly, không chuyển

Luôn ghi nhớ Bóng Huyền Vi, pháp quyến

Bảo răn nhau, hội Linh Thứu, cùng về

Nguyện vì đời, xin cứu khổ quần mê

Nguyện vì đạo, chân thành xây diệu pháp.

Cảm niệm TT Chơn Kiến Kính dâng Giác linh cố Thượng Tọa Thích Chơn Kiến,

Húy thượng Trừng hạ Lộc, hiệu Ấn Minh.

Kính bạch Giác linh cố Thượng Tọa

Trước Phật đài, chân thành xin bộc bạch đôi câu

Nhớ xưa mới năm nào

Một chim hạc hạ cánh lưng trời

Mang tên Đình Thung (Trung) xuống vùng biển, giỡn sóng trùng khơi

Tại Điền Đông, Diên Điền, Diên Khánh, Khánh Hòa, Việt Nam, làm quán trọ

Cõi trần gian giả tạm, nhưng đến có chỗ

Cõi chơn chơn hằng viễn, vốn sẵn là nhà

Ly thế, ly phiền, ly tam, từ ái, xuất gia

Mười tuổi đồng ấu bé thơ, pháp danh Trừng Lộc

Học đạo, tu hành với Bổn sư Minh Quang, Vạn Đức

Chuông mõ, kệ kinh với đệ huynh theo khắc, theo thì

Tại Giới đàn chùa Hòa Quang, xin thọ Sa di

Tại Giới đàn Hải Đức

Do Ngài đệ nhất Tăng Thống đàn đầu, xin thọ lại

Cũng Hải Đức, Nha Trang

Dưới, biển Đông, sóng trùng dương rì rào êm ái

Trên, Trường Sơn, gió núi rừng thanh thoát trời mây

Do Ngài Phúc Hộ làm Đàn Đầu, phước đức cao dày

Xin lãnh thọ tam y Tỳ kheo Bồ Tát giới

Để thấm nhuận nghĩa lý huyền vi, Tứ Thánh là con đường phải tới

Thượng Tọa xin cầu pháp với Ngài Hưng Từ, Pháp Hội, Bình Tuy

Khả đắc, khả đắc, bất khả tư nghì

Hòa thượng Tôn Sư ban cho hiệu Ấn Minh, đắc pháp

Kệ, Kệ minh sư, cúi đầu quy nạp

Bổn, bổn minh tâm, hàm tiếu vô thanh

“Đình Trung Ngô Thế tánh

Trừng Lộc pháp danh cao

Chơn Kiến bình tâm địa

Ấn Minh tức đạo giao”

Thế học, văn võ, nhu cương, mâu thuẫn, sĩ phu, tú tài Võ Tánh

Đạo học, tam thừa, giới đức, trụ trì, giáo dưỡng đệ tử, tông môn

Vạn Đức châu viên, Thiên Phú vẹn toàn

Khói lửa hai chiều, loang lổ lam nham

Huệ Minh trụ trì viên tịch, vốn tiêu sơ, lại thêm vẻ suy tàn

Không đành lòng nên đan tâm hứa khả, chấn tích trùng quang

Từ 1972 đến 1991,

tâm, lực, cưu mang ròng rã suốt 19 năm trường

Chùa Thiên Phú, tại Phú Vinh, Vĩnh Thạnh, Nha Trang

Thật hoành tráng, trang nghiêm, tăng nét huy hoàng cho Phạm Vũ

Tôn tượng Bổn Sư, hai thước rưỡi liên tòa, đẹp thạch trụ

Văn Thù, Phổ Hiền, tả hữu thật trang nhã, nét phù điêu

Trước điện, hai Ngài Hộ Pháp, Tiêu Diện, thêm vẻ nguyên siêu

Hậu điện, lại Đạt Ma Tổ Sư Bồ Đề, ẩn tàng pháp ấn

Nhằm xiển dương và làm sao cho đệ tử hai hàng tinh tấn

Thành lập đạo tràng nghiêm trì Diệu Pháp Liên Hoa

Soạn Nghi Thức Tụng Niệm như đá vàng chắt lọc tinh ba

Thường xuyên, hơn 500 đồ chúng chan hòa trì chuyên tu học

Lại lập Tuệ Tĩnh Đường,

khám, chẩn, phát thuốc thang cho dân nghèo miễn phí

Còn mầm non và tương lai Đạo Pháp

Lập GĐPT Thiên Phú, giữ mối đạo ngay từ căn kỷ

Phát tâm pháp khí, đúc đại hồng chung

Chốn sơn lam, thủy mạc trầm hùng vang pháp cổ

Năm 2000, vì tấm lòng hoằng khai tế độ

Tại Phước Đồng, dựng tu viện Phước Sơn

Phật Giáo tỉnh nhà, cần một bậc nghiêm từ, uy đức, sắt son

Từ 2001 đến 2006, dù bịnh tình,

Vẫn không từ nan, đảm thừa Ủy viên Tăng Sự

Vì thiền môn, pháp lữ. Vì sách tấn hậu lai

Cũng đã bao lần đăng đàn trang nghiêm Tôn Chứng

Không từ tích chấn. Không quản bịnh tình

Năm 2003, Quảng Đức Úc Châu tổ chức Khánh Thành

Đã mượn chim bằng phiêu cánh gió

Vừa nhìn đệ tử hành hoạt, cho thỏa tình giáo hóa

Vừa đi thăm từng tiểu bang, cho thấu

Phật Giáo Việt Nam “đem chuông vang rộng xứ người”

Và để cho thỏa một đời

Lại đằng vân về thăm xứ Phật

Kia, bao dấu xưa của một thời, đã mất

Nọ, bao Thánh Tích của một thuở, còn đây

Nhân loại năm châu còn náo nức, trầm tư, cảm kích tỏ bày

Nói chi đến nỗi niềm của hai hàng đệ tử

Cảm cảnh rồi thôi, trở về trụ xứ

Khách giã hồi qui, là chính của mình

Dù con bịnh hoành hành, nhưng còn một số việc phải xong

Nào Đoàn Quán, nào Cổng Tam Quan, nào con đường thôn làng

Đâu đó vừa mới vẹn toàn

Hơn giữa năm 2006 - Bính Tuất

Trăng vội gát đầu non

Bóng chiều vội phủ hoàng hôn

Ngài di giáo, phó chúc tận tường

Và đã an nhiên, thuận thế vô thường

Bản thể hoàn nguyên tri diện mục

Ô hô ! Biết thế, nhưng đệ tử, môn đồ, hiếu quyến, làm sao không khóc !

A ha ! Biết thế, nhưng pháp lữ, đệ huynh, thân sơ, làm sao không đau !

Ô hô ! Phật Pháp Thân thường trụ nhiệm mầu

A ha ! Giữa Thánh phàm, làm sao không khác

Kính bạch cố Thượng Tọa Giác linh

Giữa tử sinh, tình nghĩa một kiếp luân hồi, nghe sao man mác

Giữa sắc không, nhân duyên một độ thế trần, nghe sao là ngà

Dù sao, 49 năm nhập đạo, hương thơm bay ngào ngạc

Dù sao, 37 năm Tăng Lạp, đức độ tỏa gần xa

Dù sao, 59 năm thọ thế, giã huyễn trả ta bà

Nhưng bản hoài của Chư Phật

Hạnh nguyện độ sanh của Chư Bồ Tát

Tâm nguyện thế thừa của hàng xuất gia

Tam đồ, bát nạn, thập phương pháp giới, vẫn tiếp tục vào ra

Thôi, nay Ngài đã. Quy bổn Thường, Lạc. Hoàn nguyên Ngã, Tịnh

Trước kim quan, xin thắp ba nén hương, chân thành bái thỉnh

Trước chân dung, xin chắp tay khấn nguyện, cảm niệm, nhớ ghi

Pháp thân, bất khả tư nghì.

Ta bà, cỡi hạc, có chi

Nam Mô từ Lâm Tế chánh tông, tứ thập nhị thế, Thiên Phú Tự Trụ Trì,

Húy thượng Trừng hạ Lộc, tự Chơn Kiến,

hiệu Ấn Minh thượng tọa Giác linh, Minh chứng.

Cảm Niệm Ân Đức và Hành Trạng

của Hòa Thượng Thích Mãn Giác

Viên tịch lúc 8 giờ 30 sáng ngày 22-8-Bính Tuất

tại Cali - Hoa Kỳ. 58 Tăng Lạp. 78 thế tuế.

Tháng 8 Bính Tuất, mây trời vần vũ, đã cuốn hút một vì sao

Ngày hai mươi hai, vầng dương biến hiện, che khuất một vì tinh đẩu

Phiêu du ba cõi, rung bản Huyền Không, độc tấu

Phiêu lãng sáu đường, gảy khúc Mãn Giác, độc hành

Bảy mươi tám năm diêm phù, trổi nét ngọc tinh anh

Năm mươi tám năm Pháp Lạp, reo Nguyên Cao bất hoại

Biển đục trần gian, tâm bồ đề bất thối

Sanh tử sự đại, hạnh Bồ Tát, khứ lai

Chung thỉ hữu vô, liễu triệt, tất kỳ tài

Pháp thân như thị, thường chơn, tất kỳ ngộ

Giữa Thánh - Phàm, nói thì dễ nhưng đồng không phải dễ

Giữa Giác - Mê, hiểu thì dễ nhưng chứng khó vô vàn

Nên những bậc trượng phu vào ra đại lộ thênh thang

Thắp Đuốc Tuệ nhiệm mầu rạng soi đêm dài tăm tối

Ngài như đại bàng, vỗ cánh tầm không, qua khỏi

Nhưng để lại khung trời bao dấu nét nhớ thương

Ngài đã thong dong trên muôn hướng ngàn phương

Nhưng để lại đó đây bao chân tình trìu mến

Từ Thiên Minh trụ trì, đến đại diện Cao Nguyên Trung Phần, một bến

Từ Thanh Niên, Văn Hóa, đến Vạn Hạnh Phó Viện Trưởng điều hành, một phương

Bao nhiêu lần tổ chức Đại Lễ Phật Đản

Thành phố Sài Gòn rợp bóng cờ bay ngũ sắc, rạng rỡ phi thường

Phó Chủ Tịch Giáo Hội Tăng Già Thế Giới, uy nghiêm đường đường

Thành viên Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống, tỏa chiếu kim cương

Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo tại Hoa Kỳ, son sắt kiên cường

Hơn hai mươi tác phẩm trước tác, dịch thuật, góp phần văn hóa Đạo, giá gương

Hàng mấy trăm thi phẩm, thi ca Việt trải chiếu mời đạo pháp, quê hương, tình tự

Bao tầng lớp sinh viên học sinh, mến áo sân trường, lưu giữ

Bao tầng lớp thanh niên, Phật tử, nhuận ân giáo dưỡng, khắc ghi

Thời Pháp Nạn dấn thân, vượt thoát, kinh qua cao đẹp tuyệt kỳ

Thời Quốc Nạn Bảy Lăm, cả nước lặng chìm phù tang trôi nổi

Thời thế thế thời, cuồng phong bão thổi

Kiếp lưu vong, không nói tiếng từ ly

Mảnh hồn đau, ai cơ cảm tư nghì

Mang tâm lực, vẽ hồn thiêng Tổ Quốc

“Mái Chùa che chở hồn Dân Tộc

Nếp sống muôn đời của Tổ Tông”

Quốc hồn, Quốc túy, Quốc phong

Quê hương, Đạo Pháp theo dòng thời gian

Việt Nam văn hiến năm ngàn

Việt Nam - Phật Giáo hai ngàn đan thanh

Hài hòa nước sữa trong lành

Tương dung một mối, tương sanh một dòng

Chống ngoại thuộc, độc quyền, bất nghĩa

Chống ngoại bang, vong bản, phi nhân

Có mà phi, thì có vẫn hoàn không

Không mà hữu, ngàn đời không mất một

Đạo Pháp - Dân Tộc đã muôn đời bất diệt

Phật Giáo - Quê Hương sẽ muôn thuở trường tồn

Cát đá, thau chì, dù lẫn lộn ngà ngọc, vàng son

Trang sử Việt vẫn lọc nung chiếu diệu

Ngài tạm ẩn thân, mỉm nụ hoa hàm tiếu

Pháp lữ còn đây, kết những đóa vô ưu

Cho Việt Nam - Phật Giáo mãi kế thế truyền lưu

Cho Phật Giáo - Việt Nam trải dài non nước Việt

Hôm nay, quốc nội hải ngoại, phương gần phương xa

Tăng Ni tiễn Ngài bên bờ sóng biếc

Tín đồ tiễn Ngài bến nước xanh xanh

Nẻo Tây quy đã đáo lộ an lành

Hạnh độ sanh làm sao không thôi thúc

Hai câu đó, bản hùng ca hành khúc

Hai câu đó, bản tình tự dung thông

“Mái Chùa che chở Hồn Dân Tộc

Nếp sống muôn đời của Tổ Tông”

Dù cho vạn hữu Huyền Không

Châu viên Mãn Giác sắc không diệu kỳ

Đi, mà không có ra đi

Đến, mà không đến, vô nghì, phải không

Khi đi, núi núi sông sông

Khi về, núi núi sông sông khác gì

Đạo mầu nhiệm thể huyền vi !!!

Cung tiễn Giác Linh

Hòa Thượng Thích Đổng Chơn Viên tịch ngày 29-8-Bính Tuất, tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ

43 Pháp Lạp, 71 thế tuế. Thích Nhật Tân, Úc Châu, kính bái.

Đất Hoa Kỳ, năm mươi mốt tiểu bang, còn trống

Úc Đại Lợi, sáu bang hai lãnh thổ, chẳng hơn

Địa cầu nầy, bặt một niệm, trống trơn

Khắp pháp giới, dứt sát na, huyễn hóa

Khi Thị Hiển, như Hoa Đàm một đóa

Khi Đổng Chơn, như tĩnh mặc Vô Ưu

Từ vô thường, duyên duyên khởi truyền lưu

Cỡi vô thường, đi trên đường sinh diệt

Bảy mươi mốt năm Thế Tuế, giữa vòm trời xanh biếc

Bốn mươi ba năm Pháp Lạp, áng mây trắng thong dong

Xuất thân Phật Học Đường Nam Việt-Ấn Quang

Pháp Sư Giảng Sư Đoàn-Như Lai Sử Giả

“Nơi nào cần, chúng tôi tới

Nơi nào gọi, chúng tôi đi

Không quản gian nguy

Không màng khó nhọc” (1)

Mấy chục năm trường,

Cùng quê hương, đồng bào, cao nguyên, núi rừng, đồi dốc

Mấy chục năm trường,

Cùng pháp lữ, đệ huynh, thành thị, thôn quê, biển rộng, sông dài

Chiếc thông y, mòn năm tháng, vẫn nâu sồng không phai

Chiếc vàng y, trải thời gian, vẫn một màu hoại sắc

Vị thời thế, dùng trí tuệ từ bi, dẫn dắt

Vị nhân sinh, dùng tình thương từ ái, đắp xây

Hạnh lợi tha, hòa-tương-chuyển-hóa, đong đầy

Nguyện phụng sự, nhập-ứng-tùy-cơ, chiêu cảm

Khi thế núi gác lưng đồi, treo ghềnh ráng

Khi thế nước cạn mạch nguồn, chúc non sông

Chữ tang đánh đổ chữ bồng

Chữ Lạc réo rắt, chữ Hồng nghe đau

Qua cầu, dừng bước bên cầu

Nước trôi man mác, rầu rầu tang thương

Ra đi cũng bởi quê hương

Ra đi cũng bởi tình thương quê mình

Dù cho nghiệt ngã mặc tình

Nếu không, ai hiểu nước mình thế đâu

Mang một khối tinh cầu

Mang một khối tinh anh

Reo ngàn năm sỏi đá

Mang một khối tự tình

Mang một khối niềm tây

Trải muôn vạn lòng quê

Cờ Hoa, gieo cội Bồ Đề

Cờ bay ngũ sắc, quyện về hồn thiêng

Biển dâu, mới nói tang điền

Non sông, mới nói Ba Miền Việt Nam

Phật Giáo Việt Nam huy hoàng

Từ ngàn xưa vẫn thế

Phật Giáo Việt Nam muôn đời

Đến ngàn sau, không lay

Sắt son Thị Hiển tỏ bày

Đổng Chơn tánh thể xưa nay

“Có, thì có tự mảy may

Không, thì cả thế gian này cũng không” (2)

Có, thì có cả núi sông

Không, thì vạn hữu càn khôn chẳng còn

Tiễn Ngài Thị Hiển-Đổng Chơn

Đằng vân chi lộ, Linh Sơn trở về

Rong chơi bến khổ sông mê

Rung chuông tỉnh thức bên lề tử sinh

“Cây Đa còn đứng đầu Đình

Cành Mai trước ngõ, nghiêng mình trổ bông” (3)

Úc Châu vào Thu, ngày 22-10-06

Thích Nhật Tân cung tiễn

(1) Trích 4 câu của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa

(2) Trích 2 câu của một vị Thiền Sư

(3) Trích 2 câu của Mặc Giang

Cảm niệm Cuộc đời và Công đức

Của Sư Bà Thích Nữ Như Trí Viên tịch tại Chùa Thiên Long,

Sài Gòn, Việt Nam. 66 Pháp Lạp. 88 thế tuế.

Vầng nhật lặn, hoàng hôn về ngõ tối

Ánh nguyệt lên, man mác gọi trăng ngàn

Muôn vì sao, sương bạc gợn mênh mang

Ghi dấu nét một khung trời vời vợi

Cây đại thọ đã đến hồi cằn cõi

Đất không lay cũng nghiêng ngả mà thôi

Bãi phù sa nên nay lở mai bồi

Cõi diêm phù nên vô thường biến hoại

Nếu muốn nói, biết bao nhiêu mà nói

Nếu muốn không, thì vốn đã là không

“Nhìn trông bóng nguyệt dòng sông

Ai hay có có không không là gì”

Nếu không, chẳng có cái chi

Nếu có, diệu hữu, nói chi cũng thừa

Nhưng trời bỗng đổ cơn mưa

Ướt về lối cũ đường xưa thuở nào

Giọt mưa cây cỏ lao chao

Gió bay lất phất cây đào trước sân

Xin mượn ngôn để lần về nẻo ý

Viết đôi lời : Sư Bà Như Trí đã về Tây

Nhắc hôm nay, và để lại ngày mai

Nhớ một bậc Trưởng Lớn trong hàng Ni Trưởng

Tuổi mười ba, mái tóc thề vừa chớm

Ba chị em, cùng thế phát quy y

Chỉ ngang đây cũng đã thấy tuyệt kỳ

Chắc phải có túc duyên chi lạ

Nhìn cuộc đời của Sư Bà

À, thì ra là thế

Nhìn hành trạng của Sư Bà

À, thì ra như ri

Hèn chi, ba chị em xuất thế đồng thì

Ắt sẽ có người làm rạng rỡ Đạo Từ Bi

Và sẽ là một trong những tấm gương trong sáng

Thuở Ni Sinh, vốn đã hơn chúng bạn

Khi lớn lên, cũng tuyệt thế hơn người

Ni Bộ Nam Việt mới thành lập

Vai trò Tổng Thư Ký gọi mời

Trải qua con đường dài hành đạo

Cương vị nào làm sao không thỉnh

Núi cao, cao lên chót đỉnh

Sông sâu, sâu hút mù sa

Giới hương, hương bay ngào ngạt

Huệ hương, hương tỏa gần xa

Nhiếp chúng, tạo Tự, lập chùa, cứu nhân, độ thế

Đạo hạnh, khiêm cung, nghiêm từ, tánh thể, châu viên

Giảng dạy, quản trị, điều hành, phụng sự, dấn thân

Từ lúc xuất gia, cho đến lúc trưởng thành

Đại lão khiêm an, vẫn tự tấn tinh cần

Tám mươi tám năm trường

Một cuộc đời, một tấm gương

Trưởng như thế, thật xứng danh trưởng thượng

Nhắc đến Ni viện Từ Nghiêm

Là một trong những Ni Trường quy hướng

Còn là đầu tàu Ni Bộ Bắc Tông

Thế mới xứng danh, là hàng Ni giới Việt Nam

Cùng Tăng giới kế tục huy hoàng trang Phật sử

Sư Bà, còn là một con thuyền pháp lữ

Chở muôn người lớn nhỏ qua sông

Cô nhi, Ký nhi, tế bần, việc nào cũng xong

Dạy chúng, độ chúng, nhiếp chúng, việc nào cũng mãn

Thiên Long, nơi trụ xứ cuối cùng, xuất thần quy ẩn

Sư Bà ra đi, nhưng hình ảnh của Sư Bà là một dấu ấn

Sắp thành hàng tôn túc dấu ấn Chư Ni

Hiện tại, tương lai, noi gương hạnh phụng vì

Giới, định, huệ, tu, học, tỳ ni, nhật dụng

Đạo Pháp ngàn xưa tỏa rạng

Đạo Pháp ngời sáng ngàn sau

Nương thuyền bát nhã nhiệm mầu

Cứu người nhân thế khổ đau muôn đời

Vào ra sinh tử luân hồi

Chuyển xe chánh pháp độ người trầm luân

Diệu âm, quán thế âm

Phạm âm, hải triều âm

Thắng bỉ thế gian âm

Phật Pháp thân thường trụ

Mắt thương nhìn cuộc đời.

Úc Châu vào thu, ngày 23-10-2006

Tỳ Kheo Thích Nhật Tân cảm niệm.

Thương tiễn Cô Ba Sinh năm Giáp Thân, mãn phần ngày 20/10/Bính Tuất

Tại tư gia, Quận 3, SG. Hưởng thọ 63 tuổi.

Những người thân còn đó, nhưng mà sao trầm lắng

Những người thương còn đây, nhưng mà sao lặng thinh

Còn một người, sao nằm yên, lặng lẽ một mình

Vội nhắm mắt ra đi, một cõi đi về, miên viễn

Mới ngày nào, còn niềm nỡ, vui tươi luyến thuyến

Mới hôm qua, còn điện thoại, cười nói, gần xa

Mà hôm nay, không một chút âm ba

Đi, đi mãi, không bao giờ trở lại

Đường Phan Thiết - Sài Gòn, dâng niềm đau tê tái

Đường Sài Gòn - Phan Thiết, tràn nước mắt rưng rưng

Tiễn người đi, về thế giới vô cùng

Con chim nhỏ bay xa vờn đại thể

Gió lay động, thì thầm khua kẽ lá

Nhụy ươm hương, ủ rũ tiếc hoa tàn

Người nương cánh nhạn mây ngàn

Thế gian, trả lại trần gian cho đời

Người về một chốn xa xôi

Giã từ nhân ảnh lở bồi phù sinh

Từ trong huyễn ảo vô thinh

Lắng nghe tiếng gọi một mình, thế thôi

Vẫn còn đây :

Bóng mẹ già, mái tóc bạc phơ, tựa cửa, đứng ngồi, vò võ

Những người em, em dâu em rể, hết rồi tiếng nói Chị Ba

Những đứa con, con dâu con rể, hết rồi tiếng nói Mẹ à

Đàn cháu nhỏ, chập chững vào đời, còn đâu Cô, Dì, Nội, Ngoại

Dù trần thế mênh mông, nhưng một khi vô thường thăm hỏi

Dù quán trọ cuộc đời, nhưng một lần sinh tử bước qua

Còn đâu là những thiết tha

Còn đâu là những người xa người gần

Bồng bềnh như áng phù vân

Nổi trôi muôn hướng biết lần lựa đâu

Biển xanh, xanh ngát bờ dâu

Núi xanh, xanh ngát ngàn thu mịt mờ

Cuộc đời, như một giấc mơ

Đêm đêm tỉnh mộng vật vờ hồn đau

“Qua cầu, dừng bước bên cầu

Cầu bao nhiêu nhịp, dạ sầu” tháng năm

Nhớ lại những ngày xưa

Mấy chục năm rồi, Cô nhĩ !

Thời con gái, khôn lanh, thùy mị

Thời nữ sinh, học giỏi, thông minh

Lớn lên, đi vào cuộc đời, lịch thiệp, nhạy bén, tài tình

Trưởng thành, sống giữa trường đời, ứng xử, đảm đang, tuyệt thế Phàm ở đời, sống thì dễ, nhưng sống, thành nhân thành danh, đâu có dễ

Cuộc tử sinh, ai không chết, nhưng chết, mà ai cũng thương, khó vô vàn

Cô về, một cõi mênh mang

Còn người ở lại, bên đàng gió bay

Cô về, một cõi trời Tây

Còn người ở lại, heo may lạnh lùng

Cô khép chữ vô chung

Đứng trên bờ vô thỉ

Nhìn trần gian mộng mị

Nhìn bào ảnh mây trôi

Vẳng nghe âm vọng không lời

Nghẹn ngào, cay cay giọt đắng

Đây, những người thương, đội vành khăn tang trắng

Đây, những người thân, tiếc nuối tiễn Cô đi

Di ảnh Cô, hương mờ khói tỏa, chẳng nói năng gì

Tấm thân Cô, yên trong quan tài, về chầu Tiên Tổ

Hỡi ơi ! 63 năm, một cuộc đời, ai quên ai nhớ !

Hỡi ơi ! 63 năm, một kiếp người, ai nhớ ai quên !

Giữa tử sinh sinh tử, đến và đi, cũng chỉ một mình

Tiễn Cô đi, chắp tay nguyền, lâm râm khấn nguyện

Dòng sông xưa, thôi rồi, xin ngừng chuyến

Bến đò ngang, thôi nhé, rẽ đôi bờ

Người đi, sương khói hương mờ

Người về, tỉnh mộng giấc mơ đêm dài

Người đi, biết thuở nào phai

Người về, lối cỏ hoa cài thiên thu !!!

Viết xong 4 giờ, trong lúc đang liệm di thể của Cô.

Một người thân.

Kính Mừng Khánh Tuế Bát Thập

Đại lão Hòa Thượng thượng Huyền hạ Tôn (Tổ chức tại Bảo Vương tự, 10am-02pm Chủ Nhật 10-06-2007)

Tám mươi đại thọ trong trần thế

Thất thập quá thời cổ lai hy

Huyền, liễu tam thừa, chơn tánh thể

Tôn, thâm diệu pháp, lý vô nghì

Đồng ấu xuất gia, ngời xứ Quảng

Một đời phụng sự, nghiệp Như Lai

Đạo Pháp, bao thời lâm pháp nạn

Dân tộc, bao phen vướng ách tai

Tám mươi năm, độc thọ, vẫn miệt mài

Cả một đời, đơn hành, không mệt mỏi

Nhớ ngày nào, xa mái chùa quê, lặn lội

Vào Sài Thành, phố phường đô hội, tiếp tay

Tánh trực cương, tâm trung nghĩa, giải bày

Đạo như thể, quốc như gia, ý chỉ

Tù, đã nếm những bạo tàn, xiềng gông, lao lý

Tội, nói đi, tội yêu đạo, yêu nước, yêu dân

Quốc gia hưng vong, lịch sử 2000 năm, Phật Giáo dự phần

Thành bại nhục vinh, Phật Giáo với Dân Tộc, đan thanh nước Việt

Kiến nghĩa bất vi, vô dũng tiết

Vô tàm vô quý, hổ vô tâm

Trên rừng hoang, một đóa ưu đàm

Cây cỏ dại, thơm hương cát đá

Bảo Vương thị kim cang bảo tọa

Pháp Vương thị pháp thể Huyền Tôn

Đệ tử, môn đồ, pháp quyến, mới gọi tông môn !

Đạt lý vô ngã chơn thường, là gì cho biết ?

Sáng lập Phật Giáo Thống Nhất Úc Châu, chỉ là tiểu tiết

Chứng minh Giáo Hội Thống Nhất Hải Ngoại, chỉ là nhiệm phần

Thấu tam đồ, bát nạn, mới đáng lượng phân

Thâm tam tạng, pháp trần, mới là chơn thể

Chư Phật thị hiện giáng thần, cũng chỉ có thế

Chư Tổ chấn tích trùng quang, cũng chỉ vậy thôi

Đó mới là đạo giải thoát, cứu đời

Đó mới là đạo từ bi, độ thế

Không câu chấp ô dù lễ mễ

Không nại hà bào ảnh hư danh

Kìa trông mây trắng trời xanh

Kìa trông cam lộ reo nhành thanh lương

Kìa trông trăng tỏa đêm trường

Phù vân ngả bóng vô thường ai hay

Khi sinh, cũng chỉ trắng tay

Tám mươi, cũng chỉ mảy may, có gì

Thành quách, lâu đài, trêu ánh nguyệt

Núi cao, biển cả, cợt thâm u

Huyền Tôn, đại khánh, ngôn bất tuyệt

Bảo Vương, tam thế, ấn thiên thu.

Kính mừng Ngày Đại Khánh của Trưởng Lão

Hậu bối Thích Nhật Tân

Viết 8pm và đánh máy xong 9pm Thứ Sáu 08-06-2007

tại tiểu tự Pháp Quang.

Cảm thương Sư Cô Trí Bửu Sau khi dự Lễ nhập quan, siêu độ, thành phục

vào lúc 6pm ngày 13-6-Đinh Hợi tại Linh Sơn,

trở về bổn tự và viết để cảm thương Sư Cô Trí Bửu,

thọ thế 76 tuổi, một vị xuất gia viên tịch thứ 2, sau

Sư Cô Diệu Pháp tại tiểu bang này.

Mười mấy năm xuất gia học Phật

Nương cửa thiền cất bước Tây quy

76 tuổi thọ, rồi chẳng có gì

Hay trăm tuổi hạc, cũng phải buông tay, nhắm mắt

Cách nay hơn tuần, tôi vào thăm Sư Cô trên giường bịnh

Vừa thấy dáng tôi, Cô lổm ngổm ngồi lên, tay chắp hoa sen

Tôi ôn tồn, Cô cứ nằm yên

Cô cảm động, sợ rằng thất lễ

Người bịnh mà Cô, có gì mà thất lễ hay không thất lễ

Học bát kỉnh pháp, kỉnh pháp thâm sâu, kỉnh pháp ở trong tâm

Ứng xử, ngôn từ, đối đãi, chỉ ở ngoài thân

Cô mới an lòng, và Thầy Trò nói chuyện

Cô cho biết,

Thầy Tịnh Đạo từ Melbourne cũng đã thương tình đến viếng

Sư Cô trụ trì Linh Sơn, Chư Ni, thỉnh thoảng ra vô, vừa mới đi về

Cô đọc mấy câu Thầy Tịnh Đạo viết, cho nghe

Tôi han hỏi chuyện gần, chuyện xa, Cô đều nhớ hết

Tôi nhắc Hòa Thượng Bổn Sư, Cô rưng rưng nước mắt

Tôi nhắc Sư Cô Trí Lợi, Cô nói, còn nằm chỗ cũ bạch Thầy

Tôi hỏi các số điện thoại, nếu cần, liên lạc, Cô liền nói ngay

Nào của Hậu, của Phượng, của Tâm, của Vui, của Mỹ

Nhớ niệm Phật nghe Cô,

Căn nhà xưa, nằm trong tâm ý

Nhớ buông xả nghe Cô,

Nơi trở về, nằm chỗ tâm như

Tôi nhắc thêm chuyện hai mươi mấy năm

Khi đó, có một mình Hậu

Rồi lần lượt vượt sóng trùng khơi

Hai bờ đại dương, hai mảnh địa cầu

Chốn quê nhà, đành đoạn chìm sâu

Mẹ con, anh chị em, kẻ trước người sau đoàn tụ

Lìa nơi cắt rốn chôn nhau

Lìa xa quê cha, đất tổ

Tự nguyện lưu đày, khách thổ tha phương

Dấu mờ khép kín quê hương

Bờ rêu thấm lạnh nhớ thương lên màu

Quê người không có mưa ngâu

Mà sao thấm cả thịt thau da gầy

Quê người không có mưa bay

Mà sao thấm cả nỗi này tình kia

Dòng sông mấy khúc phân chia

Núi non mấy nẻo xa lìa sơn khê

Thế rồi hôm nay, Cô đã về Tây

Trước Tam Bảo, khói hương trầm lan tỏa

Tiếng chuông ngân, hòa vang theo tiếng mõ

Sau, di ảnh Cô, báo thân nằm ngủ, yên giấc kim quan

Chung quanh đây, pháp lữ, bạn đạo, người thân

Cung tiễn Cô, thương tiếc, ngậm ngùi, lời kinh tiếng kệ

Này, Sư Cô Trí Bửu ơi,

Thân tứ đại vô thường, rồi ai ai cũng thế

Cuộc đời là trọ quán, Thánh – Phàm cũng vậy thôi

Nhìn kia, băng giá lên ngôi

Phong sương tuế nguyệt, núi đồi xanh xanh

Nhìn kia, bốn biển lênh đênh

Chúng sinh lặn hụp, trầm luân vô bờ

Đấng Từ Nghiêm, huệ mạng thâm ân, đạo lý Phật Đà

Thuyền Bát Nhã, bờ giác bến mê, đáo đầu bỉ ngạn

Nhớ ngày nào, chính nơi đây

Có khi Cô chống gậy, chống nạn

Có khi Cô đứng lên, ngồi xuống

Cố mím lòng, chịu đựng, nghe đau

Còn hôm nay, Cô an nhiên về cõi nhiệm mầu

Bạn đạo bùi ngùi, hiếu quyến vành khăn thấm lệ

Tiếng Mẫu Thân, chìm sâu trong nỗi nhớ

Tiếng Mẫu Từ, thầm khóc trong niềm thương

Mùa Vu Lan đến rồi, lành lạnh thê lương

Xin chắp đôi bàn tay, tròn đầy Hiếu Hạnh

Đây bát cơm đầy, con hiền cháu thảo

Đây tấm chân thành, nặng nghĩa tứ ân

76 năm, một cuộc đời, trả lại phù vân

Nắm tro tàn, lưu dấu tích, sinh thành cốt nhục

Mùa đông lạnh, mưa bay lất phất

Mỗi đêm về, ủ dột mùi sương

Nghe lòng, nát cõi tình thương

Từ nay, hai tiếng Song Đường còn đâu

Biển dâu xanh ngát một màu

Cháu con đứng lại bên cầu từ ly

Nhớ thương gởi bến sầu bi

Hiếu ân gởi bến tư nghì thiên thu

Cô đi đi, cõi nhiệm mầu thanh thoát

Chốn hồng trần, trả huyễn ảo, hoàn chơn

Hôm nay, đang độ trăng tròn

Còn trăng mười sáu, lối mòn dặm băng

Phật ân vi diệu thường hằng

Mười phương tỏa rạng pháp âm nhiệm mầu.

Ngưỡng Vọng Cuộc Đời và Hành Trạng

Của Đức Đệ Tứ Tăng Thống thượng Huyền hạ Quang (Chỉ một câu nói của Ngài : thời thế thế thời, Chú còn nhỏ, cố gắng nghe, Thầy rất thương Chú. Câu

nói đó vẫn canh cánh bên lòng, ngồi ở đây, một chốn xa xôi, xin viết dâng Ngài. Cuộc đời Ngài quá

lớn, viết dù không có chỗ, nhưng một thời đã gần Ngài dù lúc đó còn nhỏ, và giữa vạn lý muôn trùng,

nhiều lần cũng đã thưa chuyện, hầu chuyện, đôi lúc nhắc chuyện ngày xưa với Ngài, thế tại sao không

viết ? TNT) * Ghi chú : ngày hôm nay 26-10-2006, viết trước để sau này sử dụng

Cuộc đời Ngài là ngọn núi cả, ngước nhìn, đã mỏi cổ

Cuộc đời Ngài là khu rừng thiêng, đứng ngó, đã rùng mình

Cuộc đời Ngài là biển đại thệ, như triều dâng sóng vỗ

Cuộc đời Ngài là sông đại nguyền, như nước biếc lung linh

Dùng chữ nghĩa để tôn vinh

Xứng danh, nhưng quá thường tình

Dùng tâm lượng phàm phu ca ngợi

Không đủ ngôn từ diễn tả

Dùng giải này giải kia đánh giá

Như những mòn quà dâng tặng, thế thôi

Dùng cương vị này cương vị kia, tôn ngôi

Tư thế đó, đâu cần ai đặt để

Mà chỉ có nhất nhất, tâm tâm, niệm niệm, chân thành đảnh lễ

Mà chỉ có rưng rưng, cảm cảm, bi bi, sụp lạy, cúi đầu

Trong vũ trụ bao la kia, hằng hà sa số tinh cầu

Đứng lại trong giờ phút này đây, lặng yên bất động

Trong vạn hữu phù sinh kia, hằng hà chúng sinh trầm lắng

Im bặt trong giờ phút này đây, thầm nguyện kinh cầu

Ngài về trong cõi nhiệm mầu

Ngài đi từ cõi nhiệm mầu mà đi

Ngài về trong cõi vô nghì

Ngài đi Ánh Đạo Từ Bi óng vàng

Ngài về thăm cõi Lạc Bang

Ngài quay trở lại trần gian cứu đời

Như Ngài đã nói :

“Cuộc đời tôi

Ở không nhà

Sống không đất

Tù không tội

Chết không mồ” (1)

Do đó :

Ngài sinh ra, bởi vận mệnh, cơ đồ

Ngài sống đó, bởi dân tộc, tổ quốc

Ngài ngồi đó, bởi thế thời thành thất

Ngài ra đi, bởi Đạo Pháp Quê Hương

Dù ai nói, núi là sông

Dù ai nói, đá là vàng

Dù ai nói, trắng là đen

Vẫn không có gì thay đổi được

Không lợi dụng, không giả danh, không quyền chước

Không vọng cầu, không vong bản, không phi nhân

Không cướp công, không tranh đoạt, không thủ phần

Là Long Tượng, lương đống, trượng phu, đâu cần thứ đó

Cuộc đời Ngài, cả một trăm năm, xem như tròm trèm thế kỷ

Thì Đạo Pháp và quê hương, xem như trải qua ba thời

Dị khẩu đồng âm, dõng dạc tuyên bố một lời

Cả ba thời, đều mệnh danh, thủ thuật

Cả ba thời, đều đội dù, che khuất

Cả ba thời, không thực thì cũng ngoại lai

Cả ba thời, thế nước lòng dân, ách tai

Ai không bon chen danh lợi leo đài

Ai không trùm mền, nhắm mắt, buông tay

Ai nói lên tiếng nói : vận nước điêu linh, thế nước bị xéo dày

Thì ngưỡng cửa ngục tù, nhốt khóa hãm kìm, chứ làm sao kết tội

Đã biết rồi, nếu muốn nói, thì phải nói

Đất nước Việt Nam, lịch sử đã năm ngàn năm

“Phật Giáo Việt Nam, lịch sử đã hai ngàn năm

Cơ sở Phật Giáo, là núi rừng, hải đảo, thôn quê, thị thành

Địa vị Phật Giáo, là tám mươi phần trăm dân số Việt Nam

Đạo lý Phật Giáo, là đường dài mở nước, dựng nước, cứu nước” (2)

Như vầng nguyệt thanh trong, không vẩn màu uế trược

Như vầng nhật ánh dương, không vẩn áng mây mù

Dù đời Ngài sống với lao tù, nhưng lao lý để lại thiên thu

Ai dám hỏi lao lý, lao tù, lao tình, lao tội

Cuộc đời Ngài, một trăm năm, nay qua khỏi

Ngài gian truân, vì cả đất nước gian truân

Ngài khổ thân, vì cả dân tộc cực hình

Nay Ngài chết, nhưng oai linh Ngài bất diệt

Ai đã biết và ai chưa hay biết

Mảnh trời Nam nước Việt giống Lạc Hồng

Một ngàn năm trầm thống nhớ không

Một trăm năm tai ách chất chồng

Hăm mốt năm tơi bời khói lửa

Mấy chục năm trường ray rứt hồn thiêng

Khổ đau phủ cả ba Miền

Tang thương phủ cả mọi miền quê hương

Đan tâm cay xé tư lường

Đan tay vá víu nhiểu nhương cơ đồ

Biển Đông trào sóng nhấp nhô

Trường Sơn nhả khói vật vờ hồn đau

Nước kia đã lắm nương dâu

Non kia đã lắm sắc màu nát tan

Tâm tư trăn trở tâm can

Tự tình trăn trở, tương tàn thế ni

Hùng tâm, hùng lực, ai vì

Đại bi, đại nguyện, ai vì cho ai

Hai ngàn năm qua

Bao nhiêu bậc khai tổ, danh sư, quốc sư

Vẫn phương đài, truyền đăng tục diệm

Năm ngàn năm qua

Bao nhiêu bậc minh quân, danh tướng, anh hùng

Vẫn phương đài, kim cổ soi chung

Hàng ngàn năm sau

Muốn thắm tô Dân tộc, Đạo pháp, Quê hương

Vẫn noi gương đời đời liệt Tông, liệt Tổ

Hôm nay :

Ngài đã Tây quy

Lá rụng về cội

Nước quay về nguồn

Pháp cổ trầm hùng ngân ngân mãi

Huyền Quang tâm lực sắt sắt son

Đạo pháp muôn đời bi bi nguyện

Giang sơn muôn thuở châu châu viên

Từ đông tây nam bắc

Từ quốc nội hải ngoại

Khắp bốn biển năm châu

Khác màu da chủng tộc

Của thế kỷ hai mươi

Đầu thế kỷ hăm mốt hôm nay

Tăng tín đồ cúi lạy dâng Ngài

Cả dân tộc kính vọng tên Ngài

Cả nhân loại hướng vọng tên Ngài

Một con người Việt Nam

Của dân tộc Việt Nam

Của Phật Giáo Việt Nam

Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang

Đức Đệ Tứ Tăng Thống Huyền Quang bất tử !!!

Thích Nhật Tân ngưỡng bái

(1) và (2) : Trích những câu nói khẳng khái lịch sử của

chính Đức Tăng Thống

Kính ngưỡng Cuộc đời và Hành trạng

Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (Hèn bút nhớ thuở nào ít nhất cũng đã đôi lần tuyệt thực, ngồi cách Ngài vài

hàng trên đường Sư Vạn Hạnh-Ấn Quang.

Viết để cảm thương, cảm mến, cảm phục. TNT)

Cuộc đời Ngài là một trời huyền bí

Cuộc đời Ngài là một núi uyên thâm

Cuộc đời Ngài là một rừng mộng mị

Nên nhìn trông như mọ mẫm một hầm

Người trong cuộc, thật tình, không hiểu hết

Người ngoài cuộc thì phán, đoán, lượng, suy

Ngài sống đó, không tìm ra đoạn kết

Ngài ra đi, càng bất khả tư nghì

Cũng uống ăn ngủ nghỉ

Cũng đi đứng nằm ngồi

Trông bình thường dung dị

Nhưng một khối xa xôi

Cũng sinh lão bịnh tử

Cũng da thịt cốt bì

Trông buồn vui tư lự

Nhưng một khối ly kỳ

Cũng đói no ấm lạnh

Cũng chỉ một nhà tu

Trông Phàm không phải Thánh

Nhưng một khối thiên thu

Nhìn tấm hình của Ngài, một thuở nào, với bộ xương cách trí

Bỗng nhớ Đức Bổn Sư, một thuở xưa, tu khổ hạnh rừng già

Đó phải chăng là những dấu ấn, ấn lên trên cõi ta bà

Ai không cảm phục, mến thương,

Bát nạn, tam đồ vỡ toang, nhức nhối

Ngài sống ở đâu, cũng là trung tâm điểm đón, săn, thưa, gởi

Ngài ngồi ở đâu, cũng là trung tâm điểm dò la, gọi, mời

Nhớ xưa Bồ Đề Đạt Ma, cửu niên diện bích, một thời

Thì nay chính bản thân Ngài, một phần ba thế kỷ, không nói một lời

Dù trời chuyển, đất lay, vật đổi, sao dời

Dù biển động, sóng gầm, sấm sét, thiên lôi

Dù thời nghiêng, thế ngửa, thay bậc, đổi ngôi

Ngài vẫn tự tại, thong dong

Thập mục ngưu đồ, như như bất động

Tiểu sử đời Ngài tự viết, gọi là tự truyện

Cũng chữ cũng câu, nhưng khác nào công án, thoại đầu

Từ Pháp lữ, cho đến tín đồ, thân sơ, xa gần

Từ Việt Nam, cho đến đại lục bốn biển năm châu

Nhìn vào Ngài, vẫn là một con người bí ẩn

Khi Ngài động, bình thường, thiên hạ phập phồng :

coi chừng những cơn địa chấn

Khi Ngài yên, bình thường, thiên hạ canh phòng :

coi chừng sư tử nằm yên

Những nhà phóng tác, những nhà đạo diễn truyện phim

Xuyên qua nghệ thuật ly kỳ

Sẽ là những tác phẩm trường thiên

Không những chỉ ba hồi, mà sẽ từng hồi kinh dị

Hành trạng và cuộc đời Ngài, vô tình trở thành thần bí

Tư duy và cốt cách Ngài, vô tình trở thành thần kỳ

Dù Ngài chẳng nói năng chi

Mà trong nhân thế thầm thì nhôn nhao

Dù Ngài chẳng nói năng sao

Mà trong nhân thế xôn xao luận bàn

Dù Ngài chẳng có dự can

Mà trong nhân thế quyết cam có Ngài

Tam Giang mấy phá thuở nào

Ngựa phi dưới nước, thuyền chèo trên non

Biển Đông mấy đảo mấy hòn

Trường Sơn mấy núi vẫn còn trơ trơ

Và cứ thế đã tròn thế kỷ

Đi theo Ngài nét sử xanh xanh

Quê hương-Phật Giáo đoạn đành

Lần trang sách cũ, thắp vành trăng soi

Biển reo, vỗ nước sông ngòi

Rừng reo, vỗ sóng núi đồi mênh mông

“Nhạn quá tầm không

Ảnh hàn lưu thủy”

Thử vận dụng tận cùng của Trí

Thử vận hành tận lý của Quang

Ngàn sau trên thiếp son vàng

Vẫn hằn dấu ấn Trí Quang tuyệt vời

Ngàn sau trên nẻo đạo-đời

Vẵn hằn dấu ấn, một thời Trí Quang !!!

Thăm Tháp Ôn Linh Mụ

Sau khi thức dậy, nửa tiếng trầm tư mặc tưởng, bắt dầu viết trên vi tính tại …

vào lúc 4.30am, kết thúc 5.30am, để kính lạy Ôn và thắp đuốc tâm nguyền.

Sáng 07-9-2007

Con đến thăm Tháp của Ngài

Chùa Thiên Mụ chiều nay mưa gió

Những tràng mưa như réo gọi cội nguồn

Những tràng mưa như giục giã tiếng chuông

Thiên Mụ ứng, sấm rền, vang pháp cổ

Hàng hậu tấn thẹn lòng trước Ðại thọ

Kẻ hậu lai hổ mặt trước Ân Sư

Khoác áo Như Lai, không nung nấu lò cừ

Mà lại núp vào những tàn dư thời, thế

Nhìn lại lịch sử 2000 năm

Lịch đại Tổ Sư kế thế

Thầy Tổ, tông môn rạng rỡ thiền môn

Mỗi hành trạng, xuất xử, chấn động càn khôn

Rúng chuyển sáu lần trái đất và ba ngàn thế giới

Quỳ trước Tháp của Ngài

Nước mắt con tuôn chảy

Chảy thật ngon lành như chưa được chảy bao giờ

Dư âm cuộc đời Ngài, của những bậc tiền nhân

Con như một đứa trẻ thơ

Trước khúc quanh ly loạn, ngông cuồng, nghiêng ngửa, nát tan

Ðã vội thoát khỏi vòng tay của mẹ

Chiếc áo nâu, chưa thấm đủ tương chao dưa muối

Mảnh y vàng, chưa thấm đượm giáo dưỡng kệ kinh

Bãi phong trần, gió bụi phủ quanh

Nét tang thương, vướng màu phù thế

Làm con của Bậc Ðại Pháp Vương

Mà chưa đáng là hàng tiểu tử

Làm đệ tử, môn đồ của những bậc Ðại Long Tượng

Mà chỉ là chuột, thỏ núp ổ, chui hang

Tiếng gầm của Sư Tử

Tiếng rống của Hùm Thiêng

Mà chúng con lại nghe tiếng : cáo chồn lang sói

Lòng con thổn thức từng cơn đau nhói

Tâm con vụn vỡ từng nỗi bi ai

Hai hàng nước mắt chảy dài

Ðó là nưóc mắt thệ nguyền một lòng dấn thân gìn giữ ?

Hay là nước mắt của những con người yếu đuối

An phận, trốn chạy, thủ thường,

Và làm loang lở dấu ngọc vàng son ?

Núp vào hai chữ dại khôn

Ðại trượng phu, đại quân tử không học

Mà lại cúi lòn, chui phò thế nhân tục tữ ?

Bên Bảo Tháp Ngài

Con muốn quì thật lâu

Ðể nước mắt con thấm thật sâu

Không phải ngập tràn hai khóe bờ mi

Lăn trên đôi má, nhỏ xuống lồng ngực

Mà xoáy vào lòng đất

Chuyển mạch về nguồn

Tạo thành mưa nguồn thác lũ

Rửa sạch đất trời

Rửa núi rửa non

Chảy xuống thành sông

Chảy dài ra biển

Tiếng pháp âm, phải là thượng tôn : trên đền ơn Chư Phật

Tiếng pháp từ, phải là hạ chiếu : dưới cửu khổ ba đường

Chứ không phải là phường vá áo túi cơm

Và làm nhơ nhớp, ô danh Như Lai thích tử

Nếu chúng con không như thế

Thì thà chúng con không dính dự

Lịch sử xưa nay, ai muốn làm gì thì làm

Ðạo pháp xưa nay, ai muốn đem nhôm chì mà đúc thành vàng

Son sắt hùng tâm, lại trác trấu cám, nhùi vào hoang tàn tro bụi

Con lặn khóc trước thành đồng vách núi

Con lặng lẽ bước đi, tấc dạ tâm đan

Còn nghe tiếng vọng âm vang

Ân Sư, Thầy Tổ, trên đàng con đi

Tâm tư, tâm lực, tâm nghì

Nội trong, ngoại sạch, sá gì phù vân

Phong trần, phất cả phong trần

Thế thời, phất cả, có lần lựa ai

Như Lai, phải nói Như Lai

Tang thương, phải nói ách tai mấy thì

Nhiệm mầu ánh đạo từ bi

Gióng thuyền bát nhã, tư nghì trần ai

Ðạo đời, hai gánh trên vai

Thế thời, hai gánh đường dài dặm soi

Ðan tay thế núi lưng đồi

Ðan tâm vá đắp luyện tôi nức lòng

Bước chân lãng tử thong dong

Bên ngôi Tháp Tự kết vòng đơm hoa.

Đạo Vàng tỏa rạng Như An Viết 7.20am, xong 8am trên chuyến bay ngày 06-7-2008

để cùng họp Giáo Hội tổ chức Lễ Truy Tán Cầu Nguyện

Dâng lên Giác Linh Ngài.

TNT

Vũ trụ lăn quay

Ngân hà xao xuyến

Mây mù vần vũ

Khuất bóng trăng sao

Ba ngàn thế giới rung động

Ba đường sáu nẻo xôn xao

Trái đất rợn hồn nín lặng

Lòng người im bặt, nao nao

Ngưỡng bạch Đệ tứ Tăng Thống

Huyền Quang chín phẩm trên cao

Ngài đi, hằng viễn nhiệm mầu

Chúng con ở lại, rầu rầu ruột đau

Ngài đi, đứt mấy nhịp cầu

Chúng con ở lại, chìm sâu vuông tròn

Ngài đi, lửa đốt sắt son

Chúng con ở lại, lối mòn sương pha

Hỡi ôi, là cõi ta bà

Tâm nguyền nguyền đắng, hạnh ngà ngà cay

Hỡi ôi, cát đá bụi bay

Tình vương vương nặng, nghĩa ngây ngây nồng

Hỡi ôi, núi Thái biển Đông

Dư đồ một mảnh giống dòng Việt Nam

Chung nhau lịch sử năm ngàn

Chung nhau ấm lạnh cơ hàn thịnh suy

Chung nhau khổ nhục vô nghì

Chung nhau nước mắt, bờ mi đã mòn

Trước năm 1954, rách nát !

Sau năm 1954, tương tàn !

Trước năm 1975, bi đát !

Sau năm 1975, lầm than !

Nhục nhằn, từ Nam tới Bắc

Khổ đau, từ Bắc tới Nam

Quốc nội, hải ngoại, tim thắt

Trong ngoài, hai mối, lòng se

Ngài đi, Mùa Hạ đang về

Tiếng chuông tiếng mõ nhịp khua Đàn tràng

Ngài đi, Mùa Hạ băng ngang

Tăng Ni tứ chúng hàng hàng xót xa

Ngài đi, Mùa Hạ chưa qua

Hương bay khói quyện gần xa Nguyên Thiều

Trông về Phương trượng tịch liêu

Ngày đêm sáu khắc, chín chiều ruột đau

Cách ngăn, còn mấy nhịp cầu

Dập vùi, còn mấy sắc màu tang thương

Tâm nguyền Đạo pháp - Quê hương

Hạnh nguyền chan chứa tư lường hồn ai

Rêu mờ, son sắt không phai

Dấu mờ, không nhạt phương đài Huyền Quang

Chắp tay, nâng đóa Ưu Đàm

Giải Hòa tỏa rạng Đạo Vàng Như An.

Năm năm trước - Năm năm sau ! Viết 8.20am, xong 8.55am trên chuyến bay ngày 06-7-2008,

để cùng họp Giáo Hội tổ chức Lễ Truy Tán Cầu Nguyện

Kính dâng Giác linh Đức Tăng Thống

TNT

Năm năm trước

Thiết lễ, suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống

Năm năm sau

Cúi đầu, đảnh lễ Ngài tịch lắng Tây quy

89 năm trần thế, tâm lực vô nghì

69 năm Pháp lạp, Tăng phong, Đạo cốt

Tu viện Nguyên Thiều

Một bậc long tượng ẩn khuất

Phật Giáo Việt Nam

Một bậc lương đống xả thân

Phong trần mấy gánh phong trần

Đắng cay mấy gánh, cơ cần ruột gan

Quê hương - Đạo pháp cưu mang

Một đời lao khổ, lầm than vô ngần

Xích xiềng, không dám đeo gông

Một đời, ba thuở nằm trong lao tù

Sắt son, rực sáng tâm như

Bách niên ư hữ, không dư, thiếu - thừa

Thế thời đưa đẩy, đủ chưa

Chín mươi độc ảnh, chưa vừa hay sao

Thế thời nghiêng ngửa bờ lau

Đạo - Đời, vùi dập nao nao đoạn đành

Một đời, ai nhục, ai vinh

Một đời, bóng núi nghiêng mình tiêu sơ

Năm năm trước, Ngài không ước mơ

Năm năm sau, Ngài chẳng trông chờ

Ngài đã từng nói :

Đạo pháp - Dân tộc ư !

Tấm thân tôi này !

Quê hương - Lịch sử ư !

Đôi tay tôi này !

Cứ tội, cứ tù, cứ lao, cứ lý

Cứ nhục, cứ hình, nếu chết thì thôi

Chứ không hề lay chuyển

Không thể đổi thay

và trước sau như một

Hôm nay, Ngài xả báo thân, quy nhất

Nhưng thật ra, Ngài đã quy nhất từ lâu

Đạo pháp gắn liền với Dân tộc - tuy một mà hai

Lịch sử gắn liền với đất nước - tuy hai mà một

2000 năm Phật Giáo

5000 năm Dân Tộc

Đá dẫu mòn, nhưng ngọc không phai

Lửa càng nung, thì vàng càng sáng

Nguyên Thiều, 1 giờ chiều ngày 5 tháng 7, Hạ nắng

Huyền Quang, xả nhục thân, Mậu Tý lục ngoạt, bảo sở hoàn nguyên

Ngài về một cõi tịch biên

Quê hương - Đạo pháp, con thuyền lao linh

Ngài về, thăm cõi vô sinh

Ta bà nhập thế, đăng trình độ sanh.

Trái Tim Đâu Rồi ?

Bài này đã viết từ 2008, nhưng đến nay mới đánh máy Xin mời xem qua.

45 năm trước

Hai tay nâng trái tim, giữ gìn Đạo Pháp

45 năm sau

Hàng triệu Tăng Tín đồ thổn thức tâm can

Ngài đã nằm yên, thời thế mang mang

Cho trầm tỏa Nguyên Thiều, bi bi khói quyện

Trước Linh Đài, chan nước mắt, hòa câu kinh, vọng tiếng

Tôn dung Ngài, ẩn hiện bậc thạch trụ, quang minh

Ngài về một cõi Vô Sinh

Chúng con ở lại đong tình sắt son

Ngài về núi ngã đầu non

Chúng con ở lại lối mòn bụi bay

Ngài về Thượng phẩm Phương Tây

Chúng con ở lại cỏ cây lên màu

45 năm trước

Một trái tim lửa đốt không cháy

45 năm sau

Một trái tim sắt máu không sờn

Ngọc ngà chưa hẳn đã hơn

Kim cương chưa hẳn vàng son hơn Người

Thế gian, cứ thử lò cừ

Trần gian, cứ thử thật hư chánh tà

Một khi nhìn lại quê nhà

Lâu nay lạc lối Ta Bà thế sao

Lộn tròng trời thấp đất cao

Bùn đen quện cáu, phóng lao tuyệt tình

Sống thời tráo đấu chốt đinh

Chết thời non nỉ chút tình can qua

Thảm thay cái nỗi Ta Bà

Mịt mờ nhân ảnh la đà bèo mây

Thảm thay con tạo lăn quay

Vật vờ nhân ngã mù say giọt nồng

Đâu là núi, đâu là sông

Cơ đồ đem đổ, cạn dòng nát tan

Đâu là đá, đâu là vàng

Cơ ngơi đem đổ giữa ngàn nhiễu nhương

Thương Đạo pháp, thương Quê hương

Thương như thế đó, máu xương rục hình

Thương Dân tộc, thương Tự tình

Thương như thế đó, điêu linh nhũn tàn

45 năm trước

Hai tay nâng một Trái Tim

45 năm sau

Hỡi người Dân Việt, Trái Tim đâu rồi

Tím lòng cát đá nổi trôi

Tan hoang vết sử lở bồi Việt Nam.

Tháng 11 – 2010

TNT

Một cái chết,

Sau 30 năm vẫn chưa sáng tỏ ! - Viết thêm một bài về Ngài Thiện Minh, dù nhiều vị đã viết

- Viết, vì thấy thêm một bài của Tâm Nguyên trên diễn đàn baovechanhphap

- Viết, vào Mùa Hạ 2009, tịnh niệm An Cư, tưởng nhớ tiền nhân, làm gì cho hôm nay,

và nhắc nhở hậu bối mai sau

Tương chao nhà quê Tăng Lữ

Một cái chết,

Sau 30 năm vẫn chưa sáng tỏ

Biết bao văn thư, đòi hỏi chế độ

Biết bao văn kiện, yêu cầu nhà cầm quyền

Cả Đảng, cả nhà nước, miệng ngậm kín như nêm

Không dám trả lời một câu thật cụ thể

Một cái chết

Sau 30 năm vẫn đen ngòm như bóng tối

Bóng tối của vô minh, sắt máu, bạo tàn

Bóng tối của ngục tù, rừng rú, dã man

Của khỉ, vượn, đười ươi đội lốt con người làm đau cả nước

Ngài, chỉ mặc áo nâu sồng, đầu trần, chân đất

Ngài, chỉ chiếc gậy trên tay, chống đỡ tấm thân

Chế độ trước, bị tù ngục phong trần

Chế độ sau, bị đập đầu bức tử

Vì Thầy là bộ óc cầm cân nẩy mực

Vì Thầy là bộ não tuyệt thế vô song

Ai nói tiếng tổ quốc tồn vong

Ai nói tiếng dân tộc anh hùng

Dù cây gậy hay củ cà rốt

Dù tư bản đỏ hay tư bản đen

Trời đất rộng nhưng không có chỗ đứng

Trước 1975, vì thể chế tự do, nên Ngài còn sống

Sau 1975, vì thể chế cộng sản, nên Ngài tiêu ma

Cái chữ lịch sử, văn hiến, quốc gia

Không thể nói với phường phi nhân vong bản

Họ chỉ nói, súng với đạn

Họ chỉ nói, ngục với tù

Cái ô nhục, nghĩa gì với thiên thu

Cái ô danh, sá chi tranh vân cẩu

« Giải phóng Miền Nam », chỉ là danh từ trống rỗng

« Chống Thực, phản Đế », chỉ là mị nước mị dân

Họ đã là Cộng Sản từ thập niên 1930

Mà cứ chính trị sa lông, mê ngủ, lựa lần

Hết Pháp, tới Nhật, rồi 9 năm kháng chiến, chui đầu vô rọ

Hiệp định Genève năm 1954

Một nửa đất nước Miền Bắc, tận cùng khốn khổ

Hai mươi mốt năm, một nửa Miền Nam, Quốc-Cộng mù mờ

Đấu tranh là chân chính, đường đường,

nhưng như đi trong mộng trong mơ

Đến 30 tháng 4 năm 1975

Mắt không mở vẫn phơi bày sáng quắc

Vì Phật Giáo và Dân Tộc, nên Ngài phải chết

Vì Đất Nước và Quê Hương, nên Ngài cam phần

Dù bức tử tại Chí Hòa, rồi ém nhẹm ra Hàm Tân

Hay bất cứ nơi đâu, chỉ là địa điểm

Bởi, Ngài là một trong những bậc cột trụ

Bởi, Ngài là một trong những bậc cương thường

Thượng sách là triệt tiêu

Không có chuyện suy lường

Hơn nữa, đối với Cộng Sản, đâu có hạ hồi phân giải

Một cái chết, sau ba mươi năm

Thịt xương Thầy, đã trả về tứ đại

Một cái chết, sau ba mươi năm

Thân xác Thầy, đã cát bụi mù bay

Nhưng Trường Sơn, đỉnh núi tỏa cay cay

Nhưng Biển Đông, sóng triều loang muối mặn

Đạo Pháp và Dân Tộc, tràn đầy vị đắng

Đất Nước và Quê Hương, chìm ngập niềm đau

Mẹ Âu Cơ, tóc phơi bạc trắng hoa cau

Cha Long Quân, cau mặt đền thờ Tổ Quốc

Ba mươi năm, mà còn viết về Ngài

Bởi non nước nầy vẫn chưa hết khổ

Ba mươi năm, mà còn thương tiếc Ngài

Bởi, phải chi Ngài sống, để thấm nỗi niềm chung

Quê hương mình, chưa ra khỏi đường cùng

Dân tộc mình, bình minh chưa ló dạng.

*****

Ngưỡng Vọng Hành Trạng Ngài Nhật Liên

Xin kính ngưỡng hướng về, một Cây Đại Thọ trong Rừng Già

Đã khuất bóng giữa núi non, đồi dốc, hố sâu, hòn chồng, đá tảng

74 năm trường, xuất gia, học đạo, hoằng dương, trau dồi huệ mạng

87 năm một cuộc lữ, âm thầm gánh vác Đạo – Đời, nặng trĩu hai vai

Thượng hoằng Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh, hạnh nguyện miệt mài

Danh lợi, địa vị, quyền uy, như đôi dép bỏ

Quảng Trị địa linh nhân kiệt, thời nào cũng có

Có linh mới có kiệt, xuất chúng siêu quần

Có lực mới có hồn, bạt thế siêu nhân

Là núi là sông, là khí là phách, của Miền Trung Nước Việt

Hòa cùng Miền Bắc, hiệp cùng Miền Nam tổ quốc

Vững tay chèo, kèo tay lái, giữ gìn Đạo pháp, Quê hương

Dắt díu nhau đi trên khắp nẻo đường

Khi hòa hóa, khi nhu cương, để thắm tô giang sơn gấm vóc

Thế mới gọi là, Đạo Pháp và Dân Tộc

Thế mới gọi là, Phật Giáo và Quê Hương

Từ bi réo gọi tình thương

Đan tâm xây đắp cành dương óng vàng

Vai này, Đạo Pháp cưu mang

Vai kia, non nước thênh thang ba miền

Đạo mầu thấm nhuận hồn thiêng

Non sông ôm ấp nối liền tình quê

Sống sao trọn vẹn ước thề

Núi cao chớ hỏi Tào Khê làm gì

Một đời, tâm lực vô nghì

Bách niên ư hữ, cớ chi thế trần

Nhẹ hơn một áng phù vân

Trong hơn sương trắng tỏa vầng thiều quang

Một Sa di, chim ngàn còn mỏi cánh

Khi Sa môn, phi mã sánh sao bằng

Hạnh vô cùng, nguyện vô tận, đức khiêm cung

Nên đời Ngài khắc ghi nhiều dấu ấn

Một Sa di, mà đã dự hội sao cho nhất thống

Một Sa di, mà làm Giảng sư, Giáo thọ thiền lâm

Tam đàn cụ túc, chấn động sơn môn

Du hóa sang Miên, sang Lào tế độ

Kế thế trụ trì Tây Thiên Thầy Tổ

Trùng kiến Long Thọ, Chứng minh Đạo Sư

Văn Thánh cổ tự, hưng chấn thiên tư

Nhận trao Ấn Tín, Tam - Tứ Tăng Thống

Không sư tử hống, mà còn hơn sư tử hống

Không hổ hùm thiêng, mà còn hơn hổ hùm thiêng

Một tiếng chuông ngân, vang vọng mọi miền

Một cây đại thọ, tàng che bóng phủ

Tăng Thống, Phụ tá hai đời, đủ hay chưa đủ

Lịch sử Phật Giáo, truyền trao, thiếu hay rằng thừa

Trời chẳng dám dùng dằng, đất chẳng dám dây dưa

Nào nghĩa lý nội ngoại ỡm ờ thời thế

Đầu trần góc bể

Chân duỗi thiên nhai

Đời – Đạo hai vai

Càn khôn nể mặt

Một vì sao sừng sững giữa vòm trời, đã tắt

Một đại thọ giữa rừng già, thũng gốc Tây qui

Một cuộc huyễn sinh, tụ thì đến, tán thì đi

Nhưng nghĩa nặng tình sâu, cho rừng khuya khua bóng núi

Vẫn còn kia, Đệ tử, Môn đồ, Pháp lữ

Vẫn còn đây, Đạo pháp, Dân tộc, Quê hương

Sen vàng chín phẩm Tây Phương

Ta Bà hồi nhập mở đường độ sanh

Kìa xem mây trắng trời xanh

Vô Ưu một đóa trên cành thiên thu

Ta Bà còn lắm chỗ dư

Ngài mau quay gót độ người thế nhân.

Úc Châu, ngày 13-01-2010

Thích Nhật Tân kính bái

Tiễn Người thăm lại Nhà Xưa

Tràn nước mắt cho bờ mi ấm lạnh

Ngập thương đau cho cay xé tâm hồn

Nung lò cừ để tôi luyện sắt son

Lửa thử vàng để trui rèn chí khí

Vì Đạo Pháp leo lên đồi thế kỷ

Vì Quê Hương trèo vách núi nhiêu khê

Hạnh dấn thân không sao vẹn ước thề

Tâm nguyện lực chẳng sờn lòng gai góc

Biển trần khổ ta du thuyền độc mộc

Hạnh độ tha xin trang trải cho đời

Cây khô cằn ta gắn nụ xinh tươi

Đất nức nẻ xin ươm mầm nẩy hạt

Sóng triều vỗ lung linh bên bờ cát

Nước cam lồ ăm ắp vẫy cành dương

Ban đức Từ xóa sạch mọi đau thương

Ban đức Bi dưỡng nuôi chân thiện mỹ

Ai cản được bước chân người Tăng Sĩ

Áo Như Lai ta vá nhuộm tam đồ

Chắp tay nguyền với hai chữ Nam Mô

Dung tất cả nhập Huyền môn Hoa Tạng

Đất Nước này, ai có quyền mua bán

Đạo Pháp này, ai có quyền eo kèo

Tích trượng kia, ta nện cho mấy hèo

Đừng trí trá mang tội đồ Tông Tổ

Năm ngàn năm, giống Lạc Hồng rạng rỡ

Hai ngàn năm, tắm gội đạo từ bi

Đạo vì Đời, mang tâm lực vô nghì

Đời vì Đạo, nguyện tiến tu thánh đức

Người nhẹ gót thong dong về Tây Trúc

Thăm Nhà Xưa một thoáng, kẻo hoài trông

Chốn Ta Bà, sen quý mãi trổ bông

Tình Pháp Lữ mong chờ Người quay lại

Thuyền bát nhã, nắm tay chèo tay lái

Chuyển pháp luân, nương tâm lực tâm đan

Khắp muôn phương gieo rắc ánh đạo vàng

Bồ Tát hạnh chu du hành Lục Độ

Đời khổ ải, nguyện lên đường cứu khổ

Đời thương đau, nguyện cứu hết thương đau

Tiếng chuông ngân vang vọng khắp tinh cầu

Áo Như Lai chưa phai màu hoại sắc

Người về thăm cho đệ huynh nhắn gởi

Đấng Cha Lành an trụ có khỏe không

Gia hộ cho trần thế bớt long đong

Thời mạt pháp chúng sanh nhiều nông nỗi.

Cung tiễn Ngài thăm lại Nhà Xưa

Ngày 14-01-2010

Thích Nhật Tân

Tiễn bước về Tây

Tiễn người quay gót về Tây

Phù sinh còn lắm nỗi nầy tình kia

Tiễn người nặng bước chia lìa

Môn đồ Pháp quyến đầm đìa móc mưa

Thương người biết mấy cho vừa

Một đời tận tụy ai chưa thấm lòng

Người đi cánh hạc thong dong

Chúng con ở lại nhớ trông bóng người

Nhìn nhau nước mắt khô cười

Cành mai trước ngõ ít tươi nụ vàng

Tiễn người tay đứt cung đàn

Đờn ngưng khúc nhịp đò ngang bóng chiều

Còn đâu sóng vỗ cầu kiều

Còn đâu gió thoảng cánh diều bay xa

Trần gian vốn chẳng là nhà

Phiêu du quán trọ ta bà thế thôi

Non cao núi ngả lưng đổi

Thùy dương cát trắng sóng mòi nhẹ lay

Người về hoa cỏ đan mây

Chúng con ở lại niềm tây lạnh lùng

Điểm khởi, phải có điểm cùng

Vẽ lên dấu ngọc thỉ chung đăng trình

Có tử, thì phải có sinh

Vẽ lên diện mục hỏi mình là ai

Bản hoài bản nguyện Như Lai

Ô hay, trước ngõ cành mai trổ rồi

Ân tình nặng nghĩa một đời

Gắn lên chót đỉnh chơi vơi tiếng lòng

Bảo rằng mây trắng thong dong

Biết đâu tơi tả tơ mòng ẩn sâu

Bảo rằng bãi biển nương dâu

Biết đâu bèo bọt muộn sầu mênh mang

Hữu tình gắn cõi trần gian

Vô tình lay động trên đàng ta đi

Nếu không, cạn tiếng Từ Bi

Tâm không, nhưng nặng tư nghì độ sanh.

Kính tiễn Người đi,

Ngày 14-01-2010

Mặc Giang

Một cây Đại Thọ trong Rừng Già

Không hiểu tại sao khi hay tin viên tịch, tôi lại bị cuốn hút về Người, để rồi

mường tượng một cây đại thọ đường đường nhưng âm thầm kỳ bí trong rừng già

cổ kính, hay một vì sao sừng sững giữa vòm trời nhưng ẩn kín giữa thâm u. Và

cái hình ảnh ấn tượng của một ngày tháng năm nào hiện rõ trong tôi vô cùng sâu

sắc. Nên xin mao muội viết để dâng lên Người, lặng lẽ như ngũ phần hương

bàng bạc trầm lắng bi hùng.

Người ra đời năm 1923 tại Triệu Phong, Quảng Trị, tỉnh phía Bắc Kinh Đô Huế

một thời, tỉnh biên thùy với Quảng Bình 21 năm khói lửa, một tỉnh khô cằn cát

đá đất hẹp người thưa của Miền Trung nước Việt. Người ra đi năm 2010 tại

Long Thọ, Đồng Nai, một tỉnh của Miền Đông Đất Đỏ, một tỉnh của Lục tỉnh

Miền Nam - tôi không muốn dùng chữ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, cái từ oái

ăm của 100 Tây thuộc đô hộ, và cái chữ Kỳ di họa cho tới hôm nay, có tính phân

chia, nặng tính địa phương mà dân tộc gánh chịu - chứ không phải ra đi tại Bàng

Long Lào quốc, Tây Thiên Huế, hay Văn Thánh Thị Nghè. 87 năm trên trần thế,

74 năm uy đức thiền môn, 59 hạ lạp hoằng dương tế độ, vô tình hay nhân duyên

gắn liền chữ Thọ trong rừng già, và nay mai, Bảo Tháp sẽ được nằm yên nơi

Long Thọ.

Mới 13 tuổi đã thế phát xuất gia, 18 tuổi thọ Sa Di, 30 tuổi mới thọ Đại Giới.

Thời Sơ đẳng, bạn đồng học với Người bấy giờ là quý Ngài Trí Quang, Thiện

Minh, Thiện Siêu,… 22 tuổi được cử vào giảng dạy Lưỡng Xuyên Phật Học, Trà

Vinh. 23 tuổi, Sơn môn Tăng già Bình Thuận thỉnh mời ra giảng dạy tại Phan

Thiết. 24 tuổi, làm Giảng sư Tỉnh Hội và cùng thành lập Phật học đường Quảng

Trị. 28 tuổi giảng dạy các trường Phật học tại Huế. Cuối năm 28 tuổi, Người vào

Sài Gòn, nhận lãnh chức vụ Cố vấn, Giáo thọ Phật Học Đường Nam Việt mà học

tăng bấy giờ là quý Ngài Từ Thông, Huyền Vi, Thiền Định, Thanh Từ,… chủ

biên tạp chí Từ Quang. Chính Người đề nghị đổi chữ Chùa Ứng Quang thành

Chùa Ấn Quang, Trụ sở Trung Ương của Giáo Hội Thống Nhất sau này cho tới

khi bị cưỡng đoạt. 29 tuổi (1951), Người là một trong 51 vị Đại biểu toàn quốc,

và là một trong 7 thành viên Phái đoàn Phật Giáo Nam Việt tổ chức họp Hội

nghị thống nhất Phật Giáo Việt Nam tại Chùa Từ Đàm, thành lập Tổng Hội Phật

Giáo Việt Nam, tiền thân của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Xin

mở một dấu ngoặt và đóng một dấu ấn nơi đây, rằng, một Sa di mà đã phụng

hiến cho Đạo Pháp, xây dựng cho Giáo Hội đến ngần ấy, huống chi từ 30 tuổi

Tam Đàn Cụ Túc, vân du hoằng hóa hết Miên tới Lào, quay về Việt Nam âm

thầm xiểng dương chánh pháp, chống đỡ căn nhà Phật Pháp, gánh vác Giáo Hội,

oan khiên cùng vận mệnh cho đến cuối đời,… Muốn tận tường về cây Đại thọ

trong rừng già Phật Giáo, xin đọc Tiểu sử sẽ rõ phần nào trong muôn một hành

trạng, công đức của Người.

Người chính là: Nam Mô Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tam Thế, Trùng kiến

Long Thọ Tự Chứng Minh Đạo Sư, Tây Thiên Di Đà Tự Trú Trì, Đệ Nhị Cố

Vấn Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, húy

thượng Tâm hạ Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên, Trưởng lão Đại

Sư.

Nên nhớ và nên biết rằng, năm 1992, chính Ngài nhận lãnh Di Huấn, Chúc Thư,

Ấn Tín của Đức Đệ Tam Tăng Thống, Trưởng lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu,

khi Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, vượt

được vòng kềm tỏa Hội Phước Quảng Ngãi ra bái yết dâng hương lên kim quan

di ảnh Đức Đệ Tam tại Chùa Thiên Mụ Huế, thì ngay tại nơi đây, vào ngày 02-5-

1992 trước kim quan Đức Đệ Tam, từ tay Ngài Nhật Liên trao lại và Ngài Huyền

Quang đưa hai tay đón nhận Di Huấn, Chúc Thư, Ấn Tín của Viện Tăng Thống.

Trong khung cảnh trang nghiêm bi thiết hằn lên đậm nét dấu tích lịch sử này, và

nhìn vào những tấm hình kia, ai mà không cảm kích, động não tâm tư, xao xuyến

đáy lòng. Dấu ấn bi hùng bi nguyện sâu xa nhất của Giáo Hội Thống Nhất đã 17

năm kể từ 1975. Và từ đó Văn Phòng Lưu Vong Viện Tăng Thống được thiết lập

theo bước chân lưu đày Ngài Huyền Quang, Xử Lý Thường Vụ Hội Đồng

Lưỡng Viện.

Nên nhớ và nên biết rằng, từ Ấn tín đó mới có Văn Phòng Lưu Vong lưu đày

Quảng Ngãi, tới quản thúc nguyên quán lao tù. Vào năm 2003, qua một Đại hội

Bất Thường tại Nguyên Thiều Bình Định, và qua một Đại Hội Đại Lễ Suy Tôn,

ủy thác Giáo Hội Úc Châu tổ chức tại Quảng Đức, Melbourne, Ngài Huyền

Quang chính thức lên ngôi vị Đệ Tứ Tăng Thống, cho đến ngày viên tịch cũng

tại nguyên quán quản thúc Bình Định Nguyên Thiều vào Mùa Hạ năm 2008.

Giáo Hội Thống Nhất vĩnh biệt Đức Tăng Thống đời Thứ Tư.

Nên nhớ và nên biết rằng, Giáo chỉ số 10 của Đức Đệ Tứ Tăng Thống lập tại

Nguyên Thiều ngày 02 tháng 12 năm 2007, ở Điều 1 Cung thỉnh Chư Tôn Đức

đăng lâm pháp tịch Thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng

Thống, thì Hòa Thượng Nhật Liên đứng vị trí thứ 4 sau các Ngài Huyền Quang,

Quảng Độ, Bảo An. Hòa Thượng Thiện Hạnh, đương vi Chánh Thư Ký Viện

Tăng Thống hiện nay đứng vị trí thứ 5, theo Giáo chỉ này.

Nên nhớ và nên biết rằng, Ngài Nhật Liên, là Phụ tá đắc lực Đức Đệ Tam và Đệ

Tứ, bởi trọng nhiệm nhận lãnh và trao lại Dấu Ấn Viện Tăng Thống đó, mà bị

thời bị thế, bị trong bị ngoài làm đảo điên, não loạn, gây cho Ngài đột quỵ, nhồi

máu cơ tim, thọ bịnh suy thân, ảnh hưởng rất nhiều công cuộc phụng hiến cho

đạo cho đời, làm cho Ngài cạn kiệt và đưa đến sự Tây qui sớm như đã diễn ra.

Nên nhớ và nên biết rằng, Đức Trưởng lão Hòa Thượng Nhật Liên đã an nhiên

thâu thần thị tịch vào lúc 5 giờ chiều (giờ VN) ngày 08-01-2010, nhằm ngày 24

tháng 11 năm Kỷ Sửu tại Chùa Long Thọ, tỉnh Đồng Nai, trụ thế 87 tuổi. Tang lễ

bắt đầu từ đó cho tới 10 giờ sáng ngày 14-01-2010 nhằm ngày 30 tháng 11 Kỷ

Sửu, kim quan của Ngài sẽ nhập Bảo Tháp, tôn ảnh linh vị của Ngài sẽ được an

trí tại Tổ đường Long Thọ nơi đây.

Nên nhớ và nên biết rằng, sự viên tịch của Ngài, do Tăng Chúng Tổ Đình Tây

Thiên Huế, Tăng Chúng Chùa Long Thọ Đồng Nai, Tăng Chúng Chùa Văn

Thánh Sài Gòn và môn đồ đệ tử nghiêm cẩn đồng cáo bạch ngày 09-01-2010.

Nên nhớ và nên biết rằng, Ban Tổ Chức Tang Lễ của Ngài đã được cung thỉnh

chức sự. Chứng Minh: Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, Trưởng lão

Hòa Thượng Thích Diệu Tâm ; Cố Vấn: Hòa Thượng Thích Thiện Bình, Chùa

Long Sơn, Nha Trang ; Trưởng Ban: Hòa Thượng Thích Đức Chơn, Viện chủ Tu

viện Già Lam, Sài Gòn.

Nên nhớ và nên biết rằng, Ban Nghi Lễ Tang Lễ của Ngài đã được bái thỉnh

cung an. Chứng Minh: Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, Trưởng lão

Hòa Thượng Thích Diệu Tâm ; Chấp Lệnh: Hòa Thượng Thích Liêm Chính,

Hòa Thượng Thích Phước Trí ; Đệ nhất Sám Chủ: Hòa Thượng Thích Huệ Ấn,

Đệ nhị Sám Chủ: Hòa Thượng Thích Huệ Tâm.

Chúng tôi tìm thấy và chỉ mới đọc được Cáo Bạch của Giáo Hội Phật Giáo Việt

Nam Thống Nhất Hoa Kỳ đề ngày 08-01-2010 ; Điện Thư Phân Ưu của Giáo

Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada đề ngày 08-01-2010

; Điện Thư Phân Ưu của Hội Thân Hữu Già Lam đề ngày 09-01-2010 ; Điện

Thư ngày 09-01-10 và Tri Tán Công Đức Thư ngày 12-01-10 của Giáo Hội Phật

Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu ; Tri Tán Công Đức Thư ngày 10-01-10 và

Thông Tư Lễ Tưởng Niệm ngày 15-01-10 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan ; Một số Thư Phân Ưu,

hoặc Điện Thư của các Tự Viện, hoặc cá nhân, chứ chưa nhận và tìm thấy những

Giáo Hội, hay danh xưng khác, sau này nếu có và nếu cần xin bổ túc thêm.

Một cây đại thọ trong rừng già, giữa núi non trùng điệp, giữa thung lũng dốc

đèo, giữa hòn chồng đá tảng, sừng sững nhưng âm thầm, uy đức nhưng khiêm

cung, ghi những dấu ấn và đóng những dấu ấn bi hùng trong lịch sử Phật Giáo

Việt Nam cận đại. Xin viết đôi dòng dâng lên Ngài với tấm lòng chân thành

ngưỡng phục.

Kính dâng Giác linh Hòa Thượng

Ngày 12-01-2010

Thích Nhật Tân

Cuộc đời và Hành trạng

của Ngài Trí Tịnh đại sư

Tăng Tín, nhất nhất ngưỡng phục Ngài Cưu Ma La Thập

Hậu thế, nhất nhất suy tôn Ngài Đường Huyền Trang

Vị thì Phụng Chỉ Chiếu Dịch

Vị thì vượt trùng vạn lý Tây Thiên

Nên Đông Độ sung mãn Ba Rừng Hoa Tạng

Phật Giáo Việt Nam

Một bậc Đại Tăng xuất hiện

Vào thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21

Một bậc thượng thừa, xứng hiệu Đại Sư

Tôn danh Trí Tịnh, Tam Tạng nhất như

Lý - Sự thâm uyên, tinh nghiêm giới đức

Ngài không cần băng qua Tây Vức

Cũng không cần Đông Độ - Trung Hoa

Việt Nam ta đã có Trung tâm Luy Lâu ngự tòa

Ngay từ thời kỳ sơ khai, Phật Giáo truyền lưu chuyển mạch

Danh Tăng Việt Nam, 2000 năm kiệt xuất

Danh Tăng Việt Nam, 2000 năm tuyệt trần

Việt Nam ta đâu có thiếu mà còn thừa

Những bậc Long Tượng thiền môn xuất hiện “hóa thân”

Theo dòng lịch sử lung linh huy hoàng son sắt

Danh Tăng Việt Nam thời thời có mặt

Danh Tăng Việt Nam thế thế rạng danh

Mỗi xuất xử, thong dong mây trắng trời xanh

Mỗi hành trạng, vẽ chi “tầng không nhạn quá”

Nào Khương Tăng Hội, ngàn năm bia đá

Nào Vạn Hạnh, Huyền Quang, bia sử còn mờ

Nào Trúc Lâm Phật Hoàng, thử hỏi hư vô

Trong Càn Khôn, lấy gì để sánh

Nay, tôi chỉ nêu danh một Ngài Trí Tịnh

Đại hạnh khiêm từ, đại nguyện thâm sâu

Việt Tạng - quốc ngữ, bảo ngọc minh châu

Độc thọ khai hoa, một đời phụng hiến

Mọi ngôi chùa Việt Nam, khi kinh kệ trầm hùng lên tiếng

Bao nhiêu bộ kinh lớn nhỏ, khi ngân lên ẩn hiện tên Ngài

Mọi Đạo Tràng từ Châu Thành, Phố Thị, Thôn Quê trân trọng tên ai

“Hân Tịnh Tỳ kheo”, “Pháp thân” của Ngài châu sa phổ hóa

Ngài còn cưu mang, vì Quê hương đang khổ

Ngài còn cưu mang, vì Giáo Hội đang cần

Ngài còn giảng dạy, cho hàng Hậu học đức ân

Chứ đâu phải dành riêng sưu tra trầm tích chuyển dịch

Phàm có hai vai, Ngài có bao nhiêu vai, để gánh

Phàm có hai tay, Ngài có bao nhiêu tay, để làm

Một ngày có 24 giờ, thời khắc còn đâu

Nhưng Ngài không hẹn lần hẹn lữa một hai

Đa sự vẫn vẹn toàn, và chuyên tu nghiêm mật

Cuộc đời Ngài, quả thật phi thường kiệt xuất

Xuất chúng siêu phàm, có một không hai

Một Ngàn năm trước, làm lu mờ sắc ngọc hoa cài

Một Ngàn năm sau, đèn đuốc hậu lai khó soi tới

Cuộc lữ trăm năm, thân nào không mỏi

Bách niên ư hữ, một kiếp Ta Bà

Ngài hơn 90, đại thọ chưa pha

Tâm lực vẫn kiên trinh

Trí lực vẫn nguyên vẹn

Nhìn trụ vũ

Tôi đứng bên khung thềm đưa tay vén

Hỏi hư vô

Còn chỗ nào muốn trùm khắp nữa không

Kìa, xem bóng nguyệt dòng sông

Đẩy xô mặt nước bềnh bồng mà chi

Kìa, xem vần vũ li ti

Ngựa đua dưới nước, thuyền thì chèo non

Việt Nam ta, ửng dấu son

Cần chi vay muợn lối mòn tha nhân

Việt Nam ta, tuyệt thế trần

Cần chi rũ mặt phù vân ngoại hình

Việt Nam ta có của mình

Của mình siêu xuất tuyệt tình nhớ nghe

« Nhạn quá trường không », không cần ai nhớ

Ngàn sau lưu ảnh, nào hỏi nhớ quên

Việt Tạng xưng dương, Pháp Bảo Tôn Kinh

Trí Tịnh an nhiên, trùng trùng sinh diệt

Phật Giáo Việt Nam truy tôn thi thiết

Từng chữ từng câu trì tụng thời thời

Chuông mõ ngân vang trầm bỗng nơi nơi

Tôn danh Ngài tương ưng vô biệt xứ

Xin viết đôi lời, hãy lìa ngôn nắm ý

Xin ghi đôi câu, y nghĩa bất y nhân

Phật Giáo Việt Nam, có Danh Tăng Việt Nam

Không những chỉ Tam Tạng tinh thông, Ưu thời mẫn thế

Mà vũ trụ càn khôn, lọt bũm chân lông, không đầy hạt cải.

Ngày 05 tháng 01 năm 2011

Thích Nhật Tân kính bút.

Cuộc đời và Hành trạng Đức Đệ Nhất Tăng Thống (Đại Trưởng lão HT Thích Tịnh Khiết, 1890 – 1973)

Kính lạy tôn dung Ngài

Con xin tìm lại dấu xưa

39 năm, hai thế kỷ sao vừa

Nín thở, lặng yên, đọc từng con chữ

Ba lần, lần mò ba trang giấy tiểu sử

Mỗi một từ sâu lắng tận tâm can

Mắt lại nhìn vào ảnh tượng tôn nhan

Gương hạnh, đức độ, từ bi, trang nghiêm quá

Nhớ lại xưa, thuở một học tăng bé nhỏ

Bốn năm thiếu thừa từ 68 đến 72

Thỉnh thoảng nhìn thấy Ngài vóc dáng khoan thai

Tự tại, thong dong trong khung viên Ấn Quang Thống Nhất

Sự viên tịch Hòa Thượng Thiện Hoa, con được hầu quan, tiễn đưa chí thiết

Nhập Vô Dư của Ngài, con chỉ hướng vọng về Huế xa xôi

Đến hôm nay, 39 năm theo vận mệnh nổi trôi

Con xin chân thành mượn nét bút viết dâng lên

Tưởng niệm, đảnh lễ, tôn vinh Ngài Đệ nhất

Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

Kế thừa lịch sử Phật Giáo 2000 năm, bất tuyệt

Hòa cùng lịch sử Dân tộc 5000 năm, trường tồn

Vô trụ thị trụ, vô thường thị thường

Vàng càng thêm sáng, sắt càng thêm son

Dấu tích xa xưa, bừng bừng tỏ rạng

19 tuổi thọ Cụ Túc về trụ xứ phát nguyện

Mỗi một chữ lạy một lạy, Bộ Vạn Phật ba năm liền

Thì hành trạng và cuộc đời Ngài

Làm sao không vời vợi oai đức thiêng liêng

Như Thanh Thái Hòa Thượng Bổn Sư ấn tâm phú pháp

“Trừng Thông tâm pháp bổn đồng nhiên

Phó nhữ Chân Thường đạo chí kiên

Phi hữu phi vô phi sở kiến

Tịch nhiên khai ngộ chủ nhơn tiền”

Ngài xuất hiện ra đời khi thời thế đảo điên

Đạo Pháp cuối thời kỳ Pháp thuộc ngửa nghiêng

Mà Dân Tộc cũng chông chênh giữa sóng triều XANH - ĐỎ

Tiếng nói của lương tri cơ hồ bỏ ngỏ

Tiếng nói của tự tình tim thắt ruột đau

Đỏ - Xanh, cứ thế lên màu

Xanh - Đỏ tranh đoạt nát tàu quê hương

Nát từ thôn dã phố phường

Nát vào tận chốn nghiêm đường uy linh

Cạn tàu ráo mán tơ tình

Chùa chiền dậy sóng rêm mình trầm kha

Còn chi quốc quốc gia gia

Còn chi non nước cửa nhà Việt Nam

Họ đã ra tay hạ Màu Cờ Ngũ Sắc

Họ đã ra tay giữa Mùa Phật Đản uy nghiêm

Tăng tín đồ Phật Giáo

Hai tay không, dùng tấm thân, làm giậu làm khiên

Máu đổ, xương rơi, ngã gục giữa dùi cui súng đạn

Chư Thánh Tử, chết vì Đạo, để cho Đạo còn sống

Chư Thánh Tử, chết vì Đạo, để đánh thức bạo quyền

Họ bảo rằng : Ba bi kieu (barbecue), thịt nướng, Thầy chùa điên

Bị Cộng giật, Cộng mua, Cộng sai, Cộng khiến

Đêm 20 tháng 8 năm 1963

Họ ập vào Xá Lợi, hốt cho trọn tàu, đoạn tuyến

Ngài cũng mang thương tích dưới đài sen

Cũng tù, cũng tội, chốt khóa như nêm

Phật Giáo đâu có làm gì

Phật Giáo chỉ đòi hỏi nguyện vọng

Tự do và bình đẳng tôn giáo

Trong lúc Phật tử, Tăng Ni, và mọi cấp lãnh đạo

Cửa ngục tù vẫn kín mít lặng câm

Thì ngoài kia, Dân, Quân, Tướng, Tá dị khẩu đồng âm

Cùng dõng dạc đứng lên và xóa tan chệ độ

Phật Giáo vô can, Phật Giáo không chủ trương thế đó

Phật Giáo vô can, Phật Giáo không vấy máu hận thù

Cửa thiền môn, ngàn đời, vẫn tịch tịnh thiên thu

Người con Phật, ngàn đời, vẫn nhu hòa nhẫn nhục

2000 năm Phật Giáo, đạo từ bi thắm thiết

5000 năm Dân Tộc, nền văn hiến đắp xây

Ngài đã tận tâm tận lực cống hiến miệt mài

Hành trạng và cuộc đời niêm hoa vi tiếu

Dẫn thỉnh sư Giới đàn Từ Hiếu

Mở Trung Đẳng Tường Vân

Khai, giáo, dưỡng ân cần

Giám đốc đạo hạnh Cao Đẳng Tường Vân, Báo Quốc

Đào tạo những bậc tăng tài lỗi lạc kiệt xuất:

Thiện Hoa, Thiện Hòa, Hành Trụ, Trí Tịnh, Thiện Siêu,…

Thạc đức thạch trụ rạng danh lịch sử chỉ điều

Ngược thời gian khó tìm, xuôi thời gian khó sánh

Cương vị của Ngài, vũ trụ ngân hà xao xuyến:

Chứng minh đạo sư An Nam Phật Học

Pháp Chủ Trung Việt Phật Giáo Tòng Lâm

Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam

Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

Thế kỷ hai mươi, tôn xưng là Tăng Thống Đệ Nhất

Vốn đã có từ mười thế kỷ trước

Đinh Tiên Hoàng Đế sắc phong Khuông Việt Quốc Sư

Mười thế kỷ sau, Tăng Tín đồ suy tôn thánh đức nghiêm từ

Ngài tọa thị như Phật Giáo 2000 năm tọa thị

Công hạnh một đời, băng ngàn thế kỷ

Công đức một kiếp, soi sáng thiên thu

Như vũ trụ lồng lộng với thái hư

Như ngân hà mênh mang cùng vũ trụ

Năm 1972

Ngài rời Sài Gòn, về lại Cố Đô, sông Hương núi Ngự

Một chuyến về, nào ngờ qui ẩn nhà xưa

Chỉ vài tháng sau, nắng Huế đổ mưa

Quý Sửu 73, kinh kỳ vĩnh lạc

Bảo tháp Tường Vân tổ đình trầm mặc

Tùng bách nghiêm đường lịch đại Tổ Sư

Ta Bà nung nấu lò cừ

Thường lạc ngã tịnh Hữu Dư Nát Bàn

Ngàn xưa Cổ Đức âm vang

Ngàn sau Thánh Đức nghiêm trang tôn thờ

Ngàn xưa lối cũ không mờ

Ngàn sau kế thế truyền thừa rạng soi.

Ngày 22 tháng 6 năm 2012

Trước khi Vào Hạ

Thích Nhật Tân

Cuộc đời và Hành trạng Đức Đệ Nhị Tăng Thống (Đại Trưởng lão HT Thích Giác Nhiên, 1878 – 1979)

Kính lạy Giác linh Đức Trưởng lão Tăng Thống Đệ Nhị

Cuộc đời và hành trạng của Ngài dài hơn thế kỷ

Công đức hoằng khai nhiếp hóa của Ngài cao hơn núi cao

Tấm lòng từ bi độ lượng của Ngài sâu hơn biển sâu

Chữ nghĩa của trần gian làm sao phô diễn

102 tuổi, chuông mõ bi hùng, thiền môn bi nguyện

86 tuổi, chấn tích dẫn đầu chống đỡ oan khiên

Hạ Màu Cờ, trong lịch sử chưa vô đạo u minh

Họ ra tay, bởi vì đâu cho cửa chùa dậy sóng

Hơn một thế kỷ, cuộc đời Ngài dài cùng biến động

Nào Thực, nào Xâm, nào Xanh, nào Đỏ úa màu

Thương Dân thương Nước, ai lại không đau

Thương Đạo thương Đời, ai không thống nỗi

96 tuổi, Ngài nhận lãnh vai trò lớn nhất Giáo Hội

Nẩy mực cầm cân lèo lái con thuyền

Thế thời nhân ngã cao điểm đảo điên

Tăng Tín Đồ nức lòng ngưỡng tôn kính phục

Đệ tử của Ngài, những bậc siêu quần kiệt xuất

Một Thiện Minh, làm mờ sử sách đã ghi

Một Thiện Siêu, nghi trượng thiền môn, ai bì

Một Thiện Bình, đạo phong cốt cách, một cõi

Vai trò nào, Ngài không nắm

Cương vị nào, Ngài không làm

Như xưa có đóa Ưu Đàm

Thì nay có đóa A Hàm Thuyền Tôn

Đời Ngài, sắt thẹn e son

Hạnh Ngài, nước chảy đá mòn không pha

Công Ngài, đầy ắp Ta Bà

Đức Ngài, phủ kín ngân hà thái hư

Năm 102 tuổi, Xuân Kỷ Mùi, khi Tăng Ni đến thăm

Ngài nói: “để tôi ngồi dậy, nằm như ri, không phải lễ, chừ”

Ôi đức độ từ bi, núi Diệu Cao không đủ chỗ

Ngài còn dạy: “Quý Thầy đến thăm, tôi xin cảm ơn và cầu Phật gia hộ

Quý Thầy nhiều sức khỏe, kiên nhẫn trước mọi nghịch duyên

Phục vụ Giáo Hội, dìu dắt Tăng Tín Đồ, thật không có gì vui hơn

Tôi quá già rồi, chưa biết nay mai, trông mong quý Thầy gánh vác”

Xuân đang đến nhưng hoa sụt sùi nước mắt

Cành chưa héo mà nhụy khép mùi hương

Mồng Sáu Tháng Giêng 1979, Ngài nhập tịch diệu chơn thường

Nhưng “Vô thường thị thường” như Ngài từng dạy

Tổ đình Thuyền Tôn, tin nhanh hơn máy

Phủ Cố Đô và lan tận Sài Gòn

Lan vào Nam và tận cuối Cà Mau

Lên Cao Nguyên, đồng bằng, thôn trang, phố thị

Xuân Kỷ Mùi một chín bảy chín

Hoa không tươi mà chim cũng vắng tiếng cười

Chuông mõ vang vang, người nối sóng người

Kéo về Cố Đô, tiễn Ngài Tây cảnh

Ngài Đệ Nhất Tăng Thống, cũng Tháng Giêng Quý Sửu

Sáu năm sau, kính thương vĩnh biệt Tăng Thống hai đời

Tăng Tín đồ Phật Giáo Việt Nam thấm giọt châu rơi

Đời Một nửa XANH, Đời Hai toàn ĐỎ

Con muốn viết, nhưng thôi, xin không viết nữa

Thời như ri, học tiếng nói vô ngôn

Thế như ri, bất lập tự, hơn không

Thường nhi vô thường

Trụ nhi vô trụ

Nhưng đời sau, biết đâu mà tầm cú

Ngay đời nay, lộng giả biến thành chơn

Vài nét lưu, nhưng là tiếng vô ngôn

Xin kính bút cho trọn vẹn Bốn Đời Tăng Thống.

Ngày 22 tháng 6 năm 2012

Trước khi Vào Hạ

Thích Nhật Tân

Ghi chú:

Vì có viết ngưỡng tôn Ngài Đệ Tam, Đệ Tứ, mà không viết hai Ngài Đệ Nhất, Đệ Nhị, trong

tôi chừng như có gì còn thiếu, có gì chưa vẹn. Lại biết Phật Giáo Úc Châu mở đầu Thiết Lễ

Tưởng Niệm Tri Ân Bốn Đời Tăng Thống vào mỗi năm nhân Mùa An Cư, từ 2012 Nhâm Thìn

trở đi. Nên tôi xin chân thành lui về dấu xưa, ôn và ghi lại đôi dòng dâng lên Giác Linh hai

Ngài Nhất Nhị.

Tôi đọc hơn 3 lần rất kỹ Tiểu sử của 2 Ngài Đệ Nhất và Đệ Nhị Tăng Thống, xin hoàn toàn

khâm thừa ngưỡng phục. Tuy nhiên, có thấy vài điểm không chuẩn có thể sơ xuất trong lúc

Phụng Soạn. Tôi xin mạn phép, chứ không dám gọi là phạm thượng, để quý Ngài trưởng

thượng hữu nhiệm chỉnh lại hay không thì tùy, và chân thành nêu ra đây như một sự lưu chú

cho hôm nay và mai sau.

Tài liệu Tiểu sử phổ biến rộng rãi, tôi đọc và trích từ nguồn:

http://quangduc.com/Danhnhanvn/htthichtinhkhiet.html

http://quangduc.com/Danhnhanvn/82htgiacnhien.html#TI%E1%BB%82U_S%E1%BB%AC_

1. Trong Tiểu sử Ngài Đệ Nhị, ghi: “Đến năm Canh Tuất (1895), Triều Duy Tân, Ngài

cùng với Hòa Thượng Tịnh Khiết (Cố Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN) thọ Tam Đàn Cụ

Túc tại Giới Đàn Chùa Phước Lâm (Hội An).”. Xin thưa, Tiểu sử Ngài Đệ Nhất, ghi: “Sinh

năm 1890. Năm 1905, 15 tuổi xuất gia”. Vậy thì, 1895 lúc đó Ngài Đệ Nhất mới có 5 tuổi,

chưa xuất gia, làm sao có chuyện 1895 Tam Đàn Cụ Túc như trong Tiểu sử của Ngài Đệ Nhị

?

2. Cũng trong Tiểu sử Ngài Đệ Nhị, ghi: “Sinh năm 1878. Năm 88 tuổi… đích thân dẫn

đầu … mở đầu phong trào vận động đòi hỏi tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo vào chiều

ngày 14 tháng 4 năm 1963 (Quý Mão)”. Mạo nghĩ có thể lộn chăng, vào năm 1963, nếu tính

tuổi Tây thì 85 mà tuổi Ta thì 86. Cho nên bài tôi viết xin ghi là “86 tuổi, chấn tích dẫn đầu

chống đỡ oan khiên”.

Kính ngưỡng Cuộc đời và Hành trạng

của Đại lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác Xin thành kính hướng về Chùa Pháp Luân

Thành phố Houston, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ

Một bậc Tôn Túc lỗi lạc của Phật Giáo

Đã rũ áo ra đi

Để Tăng Ni, Tín đồ trong nước ngoài nước

Thầm rung rung cảm cảm

Cả cuộc đời 85 tuổi của Ngài

Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện

Kiếp tu hành 80 năm của Ngài

Gánh vác hy sinh, đã vẹn chưa bản hoài

Vào nhà Như Lai

Chỉ một con đường phụng mạng Như Lai

Chúng sinh thị khổ

Hàng Trưởng Tử Thích Tôn phải lên đường cứu khổ

Đất nước Việt Nam

Trải qua bao nhiêu gọng kềm nghiệt ngã

Dân tộc Việt Nam

Hứng chịu bao nhiêu tai ách nhiễu nhương

Phật Giáo Việt Nam

Đồng cam cộng khổ thống thiết khôn lường

Bởi, Dân Tộc và Phật Giáo

Phật Giáo và Dân Tộc

Hòa quyện cùng nhau

Tuy một mà hai

Tuy hai mà một

Gọng kềm kia

Xanh đỏ đỏ xanh, đẩy đưa thí chốt

Tai ách kia

Thực xâm xâm thực, trao đổi kết bè

Việt Nam là một trong những vị trí đắp be

Bằng da thịt và máu xương

Bằng khổ đau và nước mắt

Lịch sử Việt Nam 5000 năm

Dòng giống Lạc Hồng bất khuất

Lịch sử Phật Giáo 2000 năm

Truyền thừa kế thế tinh anh

Ba Miền đất nước chưa thong dong mây trắng trời xanh

Thì Phật Giáo Việt Nam chưa tự tại thõng buông bỏ ngỏ

Không vì bất cứ lý do gì

Nhắm mắt, buông tay, chối bỏ

Không vì bất kỳ hoàn cảnh nào

Ngoảnh mặt, quay lưng, chối từ

Vọng ngoại ư !

Vong bản ư !

Buôn dân ư !

Bán nước ư !

Phật Giáo không chấp nhận

Nên phải luôn đương đầu và gánh chịu

Bởi Phật Giáo

Không chạy theo Xanh Đỏ Sữa Bơ dư thừa cặn bã

HỘ: là hộ quốc hộ dân:

Độc lập, tư do, nhân bản, thái hòa

GIÁC: là giác đạo giác đức:

Việt Nam sông núi gấm vóc đơm hoa

Ngài đã tận tụy cả một đời

Rạng danh Thiền gia Thích tử

Cương vị của Ngài, kể cho tột, chắc bằng thừa ngôn ngữ

Công hạnh của Ngài, nói cho liễu, chắc không đủ tư duy

Cuộc đời của Ngài biểu trưng:

Đức độ, khiêm cung, hòa ái, rợp bóng uy nghi

Nghiêm mà không nghị, nhu mà nhiếp cương

Lò cừ thế gian làm sao sánh nổi

Dòng Thích Tử đã luyện tôi thế ấy

Cõi phù sinh vá nhuộm áo nâu sồng

Đỡ Đạo Pháp sừng sững với sắc không

Mang tâm lực uy nghi cùng vũ trụ

Tinh tú kia chỉ có một vì sao Bắc Đẩu

Thiên hà kia chỉ có một ánh Thái Dương

Với Phật Giáo, trong vạn pháp là Pháp Vương

Có thì có tất cả

Mà không thì lông rùa sừng thỏ

Nhập thế vì đời nên cái gì cũng có

Có lịch sử

Có cơ đồ

Có gấm vóc

Có giang sơn

Không ai có quyền sỉ nhục, thúc ép, trùm mền

Không ai có quyền phủ chụp, man khai, dối trá

Hàng Thích Tử, tâm là tâm kim cương

Trí là trí kim cương, nào nghĩa gì gỗ đá

Mộng huyễn bào ảnh ư, ngọn cỏ gác đầu sương

Vọng tưởng vô minh ư, đom đóm thắp đêm trường

HỘ: là hộ tận quần mê

GIÁC: là giác cùng tánh thể

Hôm nay

Ngài quay gót về Tây, thăm lại nhà xưa một thuở

Thăm Đức Như Lai, thăm Chư Bồ Tát, Tổ Sư

Sớm trở lại cõi Ta Bà, đích thị đất nước Việt Nam

Tiếp tay tiếp sức cùng hàng Pháp Lữ đệ huynh

Không những một kiếp hai kiếp

Mà cho đến khi nào

Bản nguyện bản hoài của chúng ta hoàn toàn viên mãn.

Chùa Pháp Quang, Brisbane, Úc Châu, ngày 08-12-2012

Thích Nhật Tân kính bút

Xin viết dâng Ông Hòa Thượng Thích Thiện Nhơn

Phương Trượng Tổ đình Thiên Đức.

Canh Ngọ 1930 - Qúy Tỵ 2013

Kính thưa Ông,

Thế là Ông đã ra đi

Theo dòng chuyển tử sinh

Giữa cung bậc vô thường

Vũ trụ thiên hà lồng lộng

Ba đường sáu nẻo mang mang

Thôn Tân Hòa còn đó

Xứ Phù Cát còn đây

Dòng họ Hồ khai sinh một bậc Cao Tăng kiệt xuất

Đất Bình Định lưu bố một bậc thạch trụ thiền môn

Thanh Tùng tên thế, tôn hiệu Thiện Nhơn

55 Hạ Lạp, đạo nghiệp tinh nghiêm

83 tuế thọ, một đời phụng sự

Bình Định là tỉnh nhà

Băng lên các tỉnh Cao Nguyên

Ra ngoài kia thì Quảng Ngãi

Vào trong Khánh Hòa, Phú Yên

Xa hơn, Sài Gòn, Hà Nội

Vượt trùng, Úc Châu, Mỹ quốc, Ấn, Miến, Thái Lan

Nơi nào Ông đến, cũng lưu lại bóng hình kính mến

Nơi nào Ông đi, cũng ghi dấu ấn tượng tôn nhan

Ông Nội Chú ơi!

Dòng đời chưa hết

Cuộc thế chưa qua

Ông đã đến tuổi già

Thuận thế vô thường

Đó là việc hiển nhiên mang thân tứ đại

Tai biến lần thứ nhất, bịnh tình cơ chừng chưa khỏi

Tai biến lần thứ hai, báo hiệu triệu chứng thất thường

Và lần thứ ba tái diễn, ly trà chưa hết, nhẹ thõng tay buông

Ông an nhiên thị tịch

Dòng sinh diệt

Cửa tùng đôi cánh khép

Nhớ xưa con còn bé

Vừa lên năm lên bảy

Mỗi Tết Ông về thăm

Rồi Bà Năm, Ông Sáu

Lại Bác Chín, Bác Năm

Trong con thật vui mừng

Niềm diễm phúc vô biên

Chiếc Y Vàng, in trong con từ đó

Bộ nâu sồng, trông trang nhã làm sao

Đầu tròn, áo vuông, vóc dáng thanh tao

Và trong con, ước gì được như thế

Đã nhiều lần con thưa Mẹ

Cho con theo nghe Mẹ ơi

Mẹ không nói nhiều lời

Nếu muốn đi, Mẹ sẽ cho đi

Nhưng đợi mai mốt lớn lên

Chứ bây giờ còn nhỏ lắm

Một ngày kia, chưa bước vào niên thiếu

Con được đi và sống với mái chùa

Đến hôm nay, gần 50 năm, thấm thoát thoi đưa

Hèn chi người ta nói: “bóng câu qua cửa sổ”

Bác Năm Đà, là người đã tịch trước

Tiếp theo là Bà Năm, quy ẩn Kon Tum

Bác Chín thì còn, tức Hòa Thượng Nhật Ban

Ông Sáu vẫn đó, nhưng nhân duyên tạm gián

Đời Ông, đời Bác, gồm 5 người xuất thế

Đời cháu, một mình con lặn lội ly gia

50 năm, chưa đâu vào đâu dưới bóng cả Phật Đà

Chắc chẳng ra sao, dù miệt mài tận tụy

Đời sau, thêm một người nữa là Quảng Trí

Rồi Nhuận Đức, Nhuận Thanh bước vào ngưỡng cửa từ bi

Hãy cố gắng nghe, rèn tâm, luyện chí, tu trì

Vì Đạo, vì đời, cứ tập sống biết hy sinh và phụng sự đi

Đời Ông, Ông Ngài Thích Thiện Nhơn

Xứng đáng đứng vào hàng Tăng Lữ kiệt hiệt vô nghì

Đời Bác, Hòa Thượng Thích Nhật Ban

Cũng đáng sánh vào bậc Thiền gia Thích tử

Hôm nay

Kim quan của Ông đang trần thiết tại Tổ đình Thiên Đức

Con xin vọng bái Ông từ trụ xứ Pháp Quang

Gần nửa tinh cầu lệ trũng tâm can

Gặm nhấm niềm đau thấu cùng cơ thể

Hai đường hai ngả

Khúc rẽ oan khiên

Không phải cách ngăn

Bởi địa phận, không gian, biển cả, đất liền

Mà chỉ bởi phạm trù bao dấu chấm

Chấm là hết

Hay chấm là còn

Chấm là ngửa

Hay chấm là nghiêng

Quê Cha ơi, tôi vẫn nhớ mọi miền

Đất Mẹ ơi, tôi vẫn thương khắp nẻo

Nhớ từ đỉnh núi, nhớ đến sơn khê

Nhớ hướng băng ngang, nhớ lối ngõ về

Nhớ mái nhà tranh, nhớ hồng bếp lửa

Con xin viết dâng Ông, tình nhà cũng có

Tình đạo, tình đời, nghĩa non, nghĩa nước, cũng vậy thôi

Bởi trước khi là Tăng sĩ, vốn là người Việt Nam rồi

Nên dù lưng có còng, hai vai cũng phải gánh

Gánh, như Bà Mẹ Già tóc trắng

Gánh, như Ông Cha Già bạc phơ

Ngàn năm xưa, vẹn ước thề

Ngàn năm sau, vẫn ươm mơ trong lành

Quê Hương - Đạo Pháp của mình

Chan hòa như bóng in hình thiên thu.

Ngày 21-4-2013

“Ông Thầy cháu, lời Ông thường nói”

Thích Nhật Tân

50 Năm Tưởng Niệm Tri Ân

Đại Lễ Tưởng Niệm 50 Năm

Bồ Tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân

Ngọn lửa thiêng liêng bừng cháy vượt tầng

Rúng động sáu lần trái đất và rung chuyển ba ngàn thế giới

Ngọn lửa từ bi đại hùng đại lực chiếu rọi

Tại ngã tư Phan Đình Phùng - Lê văn Duyệt, Sài Gòn

Ngọn lửa từ bi đại hạnh đại nguyện của một bậc Thánh Tăng

Rúng động cả nước Việt Nam và lay chuyển khắp lòng nhân loại

Nhục thân tứ đại vô thường của Ngài, trả về cát bụi

Pháp thân kim cương bất hoại của Ngài, biểu tượng trái tim

Trái tim Bồ Tát bất diệt, kết tụ đài sen

Tăng tín đồ Phật Giáo uất nghẹn hòa vang

Nhân loại khắp năm châu dâng tràn ngấn lệ

Đại Lễ Tưởng Niệm 50 Năm

Chư Thánh Tăng Ni vị pháp thiêu thân

Đại Đức Thích Nguyên Hương tại Công trường Chiến sĩ Phan Thiết

Đại Đức Thích Thanh Tuệ tại Chùa Phước Duyên, cố đô

Tỉnh lỵ Ninh Hòa, Thích Nữ Diệu Quang, một Ni Cô

Lửa bừng lên, lửa tiếp nối, để thức tỉnh cường quyền bạo lực

Ngọn lửa Thượng Tọa Thích Tiêu Diêu, tại Chùa Từ Đàm, Huế, sáng rực

Ngọn lửa Đại Đức Thích Quảng Hương, tại Công trường Diên Hồng, Sài Gòn

Ngọn lửa Đại Đức Thích Thiện Mỹ, tại Công trường Hòa Bình, bùng lên

Và kia nữa, ngọn lửa Thương phế binh Hồng Thể, thành phố Vũng Tàu, quyện

khói

7 Vị Thánh Đức Tăng Ni, một Thương phế binh

Đại hoằng thệ nguyện Phật Pháp trường tồn, nên quyết tử

Tử, để chận đứng vô minh

Tử, cho Đạo Pháp được tồn sinh

Tử, cho Dân tộc hết điêu linh

Tử, cho Quê hương bình minh tươi sáng

Đại Lễ Tưởng Niệm 50 Năm

Chư Phật Tử hy sinh vì Đạo

Tăng tín đồ lòng đau nín thở

Mắt rưng rưng và lệ thắm mềm môi

8 em Phật Tử tại Đài phát thanh Huế

Hỡi các em bé thơ ơi

Ngay Ngày Phật Đản

Ngày thiêng liêng cao quý nhất trong đời

Ngày thiêng liêng của tất cả chúng sanh

Ngày thiêng liêng của ba đường sáu nẻo

Các em đã bị chết thảm

Các em chết không toàn thây

Chết bởi đạn xéo, tên bay, lưỡi lê, xích sắt

Và thêm một em nữa, Nữ sinh Quách Thị Trang ngã gục

Tại Chợ Bến Thành, giữa Sài Gòn đô thị phồn hoa

Ai đã giết các em

Ai đã giết tuổi thơ

Tuổi trong trắng ngọc ngà

Tuổi thiên thần vẫy gọi

Họ đã biến các em thành những tấm bia

Tấm bia bằng da bằng thịt

Tấm bia học nói học cười

Tấm bia chưa lớn làm người

Họ bắn họ giết bởi bàn tay nhung chế độ

Đó, là đỉnh điểm Pháp nạn Phật Giáo 1963 thống khổ

Đó, là đỉnh điểm Pháp Nạn Phật Giáo 1963 kinh hoàng

Không phải tự dưng bộc phát

Không phải vô tình diễn ra

Mà đã âm ỉ rên xiết, với kế sách 8 năm trường

8 năm, Phật Giáo đón chịu mọi tai ương

8 năm, Phật Giáo bị bít nẻo bít đường

Cũng chỉ bởi một âm mưu duy nhất

Đó là, Phật Giáo phải bị triệt hạ

Đó là, màu cờ Phật Giáo phải bị kéo xuống

Đó là, đỉnh điểm Pháp Nạn Phật Giáo năm Quý Mão

Đó là, đỉnh điểm Pháp Nạn Phật Giáo năm 1963

Mà lịch sử 2000 Phật Giáo chưa từng xảy ra

Dù bất cứ thời kỳ nào

Dù bất cứ chế độ nào

Hay bất cứ triều đại nào

5000 năm Lịch sử Dân tộc chưa bạo sát bạo tàn

2000 năm Lịch sử Phật Giáo chưa đổ máu nát xương

Mà Phật Giáo đã hòa nhuận cùng Dân tộc

Phật Giáo cùng xây đắp gấm vóc quê hương

Băng qua mọi hưng phế thịnh suy thăng trầm vinh nhục

Là Phật Giáo Việt Nam hôm nay

Là Tăng Ni Phật Tử hôm nay

Ai nhớ, ai quên, ai thương, ai cảm

Ai biết, ai không, ai hiểu, ai cùng

Xin đừng nghe, và xin trân trọng nghe

Nhờ ngọn lửa của Bồ Tát Thích Quảng Đức

Nhờ ngọn lửa của Chư Tôn Đức Tăng Ni

Nhờ sự hy sinh của Chư Phật Tử, vô nghì

Nhờ công đức của bao nhiêu bậc Tiền Nhân xả thân phụng mạng

Để cho Phật Giáo được sống còn

Để cho màu cờ Phật Giáo được tiếp tục tung bay

Để cho bài ca Phật Giáo Thống Nhất Bắc Nam Trung từ đây

Và để cho Dân Tộc hát bài ca thương yêu nòi giống

Năm Mươi Năm Trước

Công đức sâu dày Chư Thánh Tử Đạo cao siêu lồng lộng

Năm Mươi Năm Sau

Hàng hàng lớp lớp Tăng Ni Tín đồ phủ phục tưởng niệm tri ân

Vốn đã, năm từng năm, hương hương khói khói, hòa quyện tương lân

Vốn đã, ngày từng ngày, nhớ nhớ thương thương, thầm đau cảm kích

Năm Mươi Năm, chẳng qua là dấu mốc

Dấu mốc nửa thế kỷ qua đi

Dấu mốc năm mươi năm nhìn lại

Ôi, ân đức thay

Ngọn Lửa Thiêng Bồ Tát Quảng Đức, xóa tan bóng tối

Ôi, cao cả thay

Đèn Trí Tuệ Chư Thánh Tử Đạo, quét sạch vô minh

Ôi, thương mến thay

Sự hy sinh các em Phật Tử, làm mềm sắt thép

Ôi, gương lành thay

Sự cống hiến các bậc tiền nhân, làm nhũn nhục hình

Đại Lễ 50 Năm Tưởng Niệm Tri Ân

Bồ Tát Thích Quảng Đức, vị pháp thiêu thân

Chư Tôn Đức Tăng Ni, vị pháp thiêu thân

Chư tín đồ Phật tử, vị pháp vong thân

Chư tiền bối hữu công, tài bồi son sắt

Đại Lễ 50 Năm Tưởng Niệm Tri Ân

Nguyện cho Phật Pháp hưng chấn trường tồn

Nguyện cho Đất Nước toàn vẹn núi sông

Nguyện cho Dân Tộc no cơm ấm áo

Nguyện cho Thế Giới hòa bình vĩnh cửu

Nguyện cho Nhân Loại thân thiện an lành

Hồi hướng công đức tất cả chúng sanh

Đồng chuyển nghiệp duyên, đồng giai lạc trụ.

Ngày 30-3-2013

Thích Nhật Tân

Tôn Hiệu

CHƯ THÁNH TỬ ĐẠO TĂNG NI & PHẬT TỬ

Pháp Nạn Phật Giáo 1963

57

Nhất tâm tưởng niệm tri ân

Chư Thánh Tử Đạo hiến thân Phật Đà

Năm mươi năm, đã đi qua

Năm mươi năm, nhìn lại nhà Việt Nam

Phật Giáo sơn son thếp vàng

Kết trang sử ngọc huy hoàng ngàn năm

BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC thiêu thân

Đốt đèn trí tuệ xóa tan mây mù

Trả thân cát bụi phù du

Pháp Thân bất hoại thiên thu hằng còn

Dù cho nước chảy đá mòn

Trái Tim Bất Diệt sắt son muôn đời

Dù cho trôi nổi luân hồi

Trái Tim Bồ Tát nơi nơi tôn thờ

Chân thành tưởng niệm tri ân

Chư Thánh Tử Đạo xả thân độ đời

NGUYÊN HƯƠNG tiếp lửa Thầy ơi

Công trường Chiến Sĩ châm ngòi nổi lên

THANH TUỆ tại Chùa Phước Duyên

Kinh Đô xứ Huế con thuyền lao chao

Ni Cô DIỆU QUANG nữa nào

Ninh Hòa mờ khói bụi trào cát bay

Thượng Tọa TIÊU DIÊU kính thay

Từ Đàm dậy sóng ngay Ngày Đản Sanh

Thân Ngài đốt lửa tinh anh

Bởi thuyền Đạo Pháp tròng trành phù sinh

Lại thêm một Thương phế binh

Pháp danh HỒNG THỂ hiến mình cúng dâng

Tự thiêu sau Chùa Phước Lâm

Vũng Tàu hòa quyện biển tầm đảo xa

Đại Đức QUẢNG HƯƠNG kiết già

Diên Hồng công thự kết tòa sen thơm

Thêm Thầy THIỆN MỸ anh minh

Nổi lên ngọn lửa Hòa Bình thiết thi

Bảy Thánh Tử Đạo Tăng Ni

Bảy Ngọn Lửa Đạo Từ Bi rạng ngời

Bởi vì vận Đạo nổi trôi

Bởi vì Pháp Nạn đang hồi tử sinh

Tăng Ni vì Đạo quên mình

Xả thân vì Đạo tử sinh sá gì

Hy sinh vì Đạo Từ Bi

Phụng hiến Đạo Pháp vô nghì hàm ân

Thương thương nhớ nhớ bi lân

Chư Thánh Phật Tử Việt Nam một nhà

Ngay Ngày Phật Đản sáu ba

Là ngày Pháp Nạn xảy ra kinh hoàng

Cờ Phật Giáo, bị xé toang

58

Cờ Phật Giáo, hạ xuống, còn chi đâu

Phật Đản, là ngày nhiệm mầu

Nhân loại thế giới năm châu kiền thiền

Phật Đản, là ngày thiêng liêng

Muôn ngàn vạn triệu trái tim tôn thờ

Việt Nam lại bị hạ cờ

Diễn ra Pháp Nạn mịt mờ trầm kha

Phật Đản chưa kịp hoan ca

Tám em chết thảm xót xa vô vàn

Tám em thân thể nát tan

Xe tăng xích sắt bừa càng tiêu ma

Còn đâu tuổi ngọc tuổi ngà

Thiên thần gãy cánh tuổi hoa mất rồi

Bàn thờ quyện khói em ơi

Nhòa trong mắt lệ nghẹn lời cầu kinh

Tám em tuổi trẻ đầu xanh

Biến thành di ảnh Hương Linh khói nhòa

ĐẶNG VĂN CÔNG tuổi Mười Ba

Nhìn em chơn chất hiền hòa biết bao

TRẦN THỊ PHƯỚC TRỊ kia nào

Mười Bảy tuổi ngọc trăng sao đón mời

NGUYỄN THỊ YẾN tròn hai mươi

Thôi rồi hết nói hết cười nghe em

Trông HUYỀN TÔN NỮ TUYẾT HOA

Mười hai bé nhỏ vẽ tòa sen xanh

Còn em LÊ THỊ KIM ANH

Lại cũng Mười Bảy long lanh xa mờ

DƯƠNG VĂN ĐẠT tuổi ươm mơ

Mười Ba em vội trôi bờ tử sinh

NGUYỄN THỊ NGỌC LAN xinh xinh

Mười Hai tuổi đã bỏ mình em ơi

Thêm một em nữa kia rồi

NGUYỄN THỊ PHÚC cũng trả đời tiêu sơ

Mười Lăm soi bóng trăng mơ

Còn trăng Mười Sáu đợi chờ THỊ TRANG

QUÁCH THỊ TRANG, Quách Thị Trang

Lằn tên mũi đạn rẽ ngang cuộc đời

Nhà trường chiếc ghế hết ngồi

Nữ sinh tà áo thôi rồi gió bay

Và bốn người nữa thương thay

HỒ THỊ MÙI, nát mặt mày lưỡi le

NGUYỄN TĂNG CHẮC, chết im re

TRẦN DU, HOÀNG TUYẾT ai dè cũng tiêu

Cố Đô trầm mặc nguyên siêu

Bỗng dưng tan nát chợ chiều lạnh tanh

Chim không ca hót trên cành

Cá không bơi lội tơ tình sóng reo

59

Mở đầu Pháp Nạn eo kèo

Giậu tan nát giậu, bìm leo mặc bìm

Phật Giáo đứt ruột nát tim

Pháp Nạn Phật Giáo nổi chìm trầm kha

Năm mươi năm, đã đi qua

Năm mươi năm, nhìn lại nhà Việt Nam

Chắp tay nâng đóa Ưu Đàm

Xin dâng dâng nguyện, xin hàm hàm linh

Chư Thánh Tử Đạo anh linh

Từ bi tế độ tội tình can qua

Cứu cho nước Việt Nam ta

Cứu cho khắp cõi Ta Bà hết đau

Không còn bãi biển nương dâu

Không còn ngọn cỏ kê đầu gối sương

Không còn ách nạn tai ương

Không còn thống khổ tang thương não sầu

Ân Phật, Ân Tổ nhiệm mầu

Ân Thánh Tử Đạo hiệp đầu tương quy

Nguyện cầu Ánh Đạo Từ Bi

Mười phương phổ chiếu cũng vì chúng sanh.

Xin mạn phép xưng danh tôn hiệu Chư Thánh Tăng Ni & Chư Thánh Phật Tử, vị pháp thiêu thân,

vị đạo hy sinh năm 1963. Nên Chư vị trước và sau Pháp Nạn 1963 không đề cập trong bài này,

kính xin Giác Linh Chư Tôn Đức và Anh Linh quý Phật Tử từ bi mẫn thứ.

Thành tâm chấp bút

Nhân Đại Lễ 50 Năm Tưởng Niệm Tri Ân

1963 – 2013

Thích Nhật Tân

Kính ngưỡng Bồ Tát Thích Quảng Đức

Lửa Từ Bi sáng soi ngàn thế giới

Đèn Trí Tuệ đốt cháy vạn oan khiên

Chỗ Ngài ngồi rúng động cả Tam Thiên

Thế giới con người sờ sửng đứng tim

Nhìn bậc Thánh an nhiên trong Tam Muội.

Kính ngưỡng Bồ Tát Thích Quảng Đức

Tên của Ngài chói sáng trong lịch sử

Hiệu của Ngài rực rỡ hơn vàng son

Trăm năm sau bia đá dẫu có mòn

Ngàn năm nữa danh Ngài không suy suyễn

Vũ trụ kia dù không chuyển

Thiên hà kia dù không xoay

Quả Tim Bồ Tát mãi mãi còn đây

Quả Tim Bất Diệt thiên thu bất hoại

60

Linh ứng với lửa ngàn độ không cháy

Chỗ Ngài ngồi rúng động cả tam thiên

Thế giới con người sờ sửng đứng tim

Nhìn bậc Thánh an nhiên trong Tam muội

Mây ngả đầu non

Trăng nghiêng đỉnh núi

Người người nín thở

Lệ ứa tràn mi

Xin chắp đôi tay

Tâm tư ngưng đọng

Nam Mô Bồ Tát Quảng Đức

Ngưỡng vọng Thánh Tăng Việt Nam

Đốt Thân giải cứu Đạo Vàng

Lửa Thiêng chiếu sáng hơn ngàn minh châu

Nguyện Ngài linh ứng nhiệm mầu

Hạnh Ngài trùm phủ địa cầu thái hư

50 năm trước, nửa thế kỷ ư

50 năm sau, lại tròn thế kỷ

Bóng thời gian băng qua đầu nẻo ý

Dáng thiên thu bất tận chẳng phai nhòa

Đóa Ưu Đàm điểm nụ của không hoa

Dòng sinh diệt kết đài sen tánh thể

Ngài phát nguyện thiêu thân là để:

Đánh thức con người

Cảnh tỉnh vô minh

Kêu gọi lương tâm

Tôn trọng sự thật

Cái gì của Phật Giáo, trả lại cho Phật Giáo

Cái gì của Dân Tộc, trả lại cho Dân Tộc

Ngàn năm xưa không chuyển

Ngàn năm sau không lay

“Có, thì có tự mảy may

Không, thì cả thế gian này cũng không”

Đừng đem nước đổ ra sông

Sông đi ra biển, biển trông về nguồn

Đừng mơ lên núi bắt còng

Xuống biển kéo cát hoài mong ích gì

Đạo Phật là Đạo Từ Bi

Người con Đức Phật vô nghì độ sanh

Lịch sử Phật Giáo đã hai ngàn năm

Lịch sử Dân Tộc đã năm ngàn năm

Băng qua mọi thăng trầm thịnh suy hưng phế

Băng qua mọi thời kỳ thể chế nhục vinh

Có, thì có cả lân tinh

Không, thì không cả phù sinh phiêu bồng

Có, thì có cả sắc không

Không, thì không cả phong trần hư vô

61

50 năm trước, Ngài vị pháp thiêu thân

50 năm sau, Ngài liên tòa ngự tọa

Đài sen báu Ánh Đạo Vàng sáng tỏa

Đức từ bi chiếu rọi khắp muôn phương

Băng không thời dù biến chuyển vô thường

Tim Bất Diệt tịnh chơn như tánh thể

Vô minh nên vô đạo

Vô đạo tức vô tâm

Vô tâm biến phi nhân

Bất cứ ai

Bất cứ thành phần nào

Bất cứ chế độ nào

Làm người còn không xứng

Làm sao đứng trong trời đất

Bởi không được, thì có gì để mất

Bởi không có, thì lấy chi để còn

Không thể bao che, trốn chạy, phết sơn

Gương Lịch Sử soi tận cùng ngằn mé

Hỡi nhân thế

Hỡi con người

Ngàn xưa cho đến hôm nay

Hôm nay cho đến ngàn sau

Một là một

Hai là hai

Đen là đen

Trắng là trắng

Bồ hòn mang vị đắng

Hữu xạ tự nhiên hương

Đạo Phật là đạo lý chơn thường

Phật Giáo Việt Nam tuyệt thế chơn phương

Cùng với Tổ Quốc, Quê Hương, Dân Tộc

Chói sáng huy hoàng đan thanh rạng sử

Ngưỡng tôn Bồ Tát Thích Quảng Đức

Ngưỡng tôn Chư Thánh Tử Đạo Phật Giáo Việt Nam

Ngưỡng tôn Anh linh Liệt Tổ Liệt Tông Hồng Lạc

Gia hộ cho Đất Nước Việt Nam trường tồn

Gia hộ cho Dân Tộc Việt Nam bình an

Gia hộ Phật Giáo và mọi thành phần Dân Tộc thái hòa miên viễn.

1963 – 2013

TNT Mặc Giang

Một Vinh Dự Trong Đời

Đại lễ 50 năm tưởng niệm tri ân

Bồ Tát Thích Quảng Đức

62

Chư Thánh Tử Đạo vị pháp thiêu thân

Chư Phật Tử vị pháp vong thân

Để cho Phật Giáo được sống còn

Để ngọn cờ Phật Giáo được tiếp tục tung bay

Để Phật Giáo tồn tại đến hôm nay

Và truyền lưu đến tận tương lai

Được tham dự

Đó là một vinh dự

Hãy trân trọng phủ phục nghiêng mình

Tâm tâm niệm niệm tôn vinh

Như như nhất nhất nghiêm minh

Hòa cùng đại thể cung cung bái bái

Ngọn lửa thiêng bất tuyệt, như Diệu Cao đỉnh núi

Tim Bồ Tát bất tử, như chót ngọn Tu Di

Ân Chư Thánh Tử Đạo, bất khả tư nghì

Đức Chư Thánh Tử Đạo, trùm vô biên xứ

Ngân hà lặng thinh

Xuyến xao vũ trụ

Trăng sao vần vũ

Trầm lắng thái hư

50 năm trước, nửa thế kỷ ư

50 năm sau, lại tròn thế kỷ

Được tham dự

Đó là một vinh dự

Hãy bặt tâm bặt ý

Hãy bặt niệm bặt ngôn

Hãy khép mình như cá thể quyện càn khôn

Chứ sao hỏi đứng ở đâu và làm gì trong đó

Nhỏ, thử nhìn hạt bụi li ti cho rõ

Lớn, thiên hà đại địa lọt bũm chân lông

Nhìn xem sắc sắc không không

Hỏi xem có có không không là gì

50 năm, là dấu ấn

Dấu ấn, nửa thế kỷ đi qua

Dấu ấn, 50 năm nhìn lại

Thời nào cũng qua

Thế nào cũng qua

Nhưng

Phật Pháp trường tồn

Pháp luân thường chuyển

Tăng Tín đồ tâm tâm nguyện nguyện

Người con Phật nhất nhất như như

Vô thỉ không dư

Vô chung không thiếu

Ngọn lửa thiêng thường hằng phổ chiếu

Thánh Tử Đạo vĩnh trụ ngưỡng tôn

Lửa thử vàng, vàng thật mới son

63

Tâm thử sức, tâm như bất hoại

Tri ân tưởng niệm Thánh Tử Đạo

Nếu có hỏi, phải hỏi

Đã đóng góp được gì và làm gì cho trọn

Đã cống hiến được gì và làm gì cho tròn

Chứ sao mang bọt bèo cặn bã phết son

Những hư vinh giả huyễn đẳng đeo phù thế

Hãy khép mình vào cùng đại thể

Hãy hòa cùng đại chúng ngưỡng tôn

Tay chung tay, lòng chung lòng

Tâm hiệp tâm, ý hiệp ý

Chư Thánh Tử Đạo, Tu Di đỉnh núi

Gương Thánh Tử Đạo, bất tuyệt Diệu Cao

Năm mươi năm trước, rúng động trăng sao

Năm mươi năm sau, ngân hà xao xuyến

Tâm nguyện lực, trùng trùng hóa chuyển

Đại đức ân, thế thế truyền lưu

Hoa Đàm vĩnh trụ Vô Ưu

Ta Bà kham nhẫn, Phật từ độ sanh.

1963 – 2013

T Nhật Tân

Cảm nhận về

Đại Lễ Tri Ân Tưởng Niệm 50 Năm

Hòa vào khung cảnh và không khí trang nghiêm chân thành trong Đại Lễ Tri Ân

Tưởng Niệm 50 Năm Bồ Tát Thích Quảng Đức, Chư Thánh Tăng Ni vị pháp thiêu

thân, Chư Thánh Phật Tử vị pháp vong thân, Chiêu niệm 50 năm Quốc nạn Pháp

nạn Việt Nam. Trong tôi, dấu không gian xưa như hiện ra trước mắt, dấu thời gian

xưa như đang diễn bày, trang giấy không còn giá trị, chữ nghĩa sờ sửng ngôn từ,

đúng như câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác”

và câu viết của ai kia “Chữ nghĩa của văn nhân chỉ còn là bụi bay”

Vâng, ước gì là rơm rác để ươm vào ngọn lửa của từ bi, và ước gì là bụi bay để

phưởng phất theo đuốc tuệ của hùng lực! Từ Bi, khơi dậy tiếng nói của tình thương.

Hùng lực, thúc đẩy con tim biết lắng nghe sự sống.

Vâng, tình thương đã bị đánh mất, sự sống đã bị lụn tàn, bởi bóng dáng hoang tưởng

của vô minh và bởi ảo ảnh phù du của quyền lực.

Phải là người sống trong giai đoạn 9 năm, phải là nạn nhân, phải là thực nhân, phải

là chứng nhân, tự thể sẽ sáng hơn trăng sáng, sáng hơn ánh châu pha, soi rọi đủ mọi

góc cạnh, sự thật hiện nguyên hình. Là người ngoại cuộc, bất khả nhận chân thấu rõ

ngọn ngành dù tài ba lịch lãm và năng khiếu siêu tuyệt tới đâu. Những ai được ân

64

sủng với chế độ, họ lập lờ, đánh trống lãng, lái chuyện khác, chạy loanh quanh, làm

trò chơi cút bắt chính mình, không lẽ tự phơi bày chân tướng mà suốt mấy thập niên

cố tình bao che phủ lấp?

Người chồng dửng dưng tự đắc “ai muốn đốt thêm, cần xăng, tôi cung cấp”! Người

vợ thì ngạo mạn đến lạnh lùng “Nướng thịt ba-bi-kiêu”! Không đáng trách nhưng

đáng tiếc cho một phụ nữ VN, một người đàn bà VN, mệnh danh “Đệ nhất Phu

nhân”, thay mặt một chế độ, lại có ăn học, đã nói lên câu đó! Còn người đàn ông

kia, sống trên quyền lực, thì câu nói của ông ta chính là biểu thị cho độc ác bạo

cuồng! Chợt nhớ câu chuyện dù là hư cấu hay sự thật, rằng, Bà Phu nhân Ông Cố

Vấn không dám tự thân mà nhờ một người con xin hẹn đến gặp một vị Thầy, thưa

“Thầy hoan hỷ bỏ qua chuyện xưa, cho Mẹ con xin sám hối, và cầu nguyện dùm

người đã khuất”. Đó là gì, phải chăng là thú tội, phải chăng là sự thật! Hỏi cũng

bằng thừa, bởi Bà đã mặc nhiên thố lộ. Phàm con người khi đứng tuổi, có những

chuyện không nói, tự động nói, và cho dù không nói, đành để mang theo chôn kín

suối vàng. Vâng, khen mà chi, trách mà chi, chẳng qua “một nắm cỏ khâu xanh rì”!

Hai người này là ai, và còn ba người trực tiếp nữa là ai ? Biết thì đừng hỏi, không

biết thì đã có sử sách kia mà! Tôi không câu chấp đâu, nếu sử sách chân thì dễ nhận

dễ biết, mà sử sách bất chân thì cái giả chẳng khác nào “vải thưa che mắt Thánh”

hay “chạy trời không khỏi nắng”, ngạn ngữ của Cha Ông dạy bảo khi chập chững

cắp sách đến trường, khá chớ dễ duôi!

50 năm, thời gian dài đằng đẵng của nửa thế kỷ, thời gian dài hun hút của nửa đời

người, thế giới biến chuyển đa cực, nhân loại tiệm tiến đa chiều, trục hoành lăn quay

muôn hướng, trục tung chống đỡ muôn phương. 50 năm đi qua, 50 năm nhìn lại,

nhất là Pháp Nạn Phật Giáo 1963, quả thật, dấu ấn bàng hoàng rúng động vẫn còn

cảm kích nguyên vẹn, và dấu ấn thiêng liêng mầu nhiệm vẫn còn hiện hữu nguyên

trinh.

50 năm trước, tôi có nghe Từ Đàm Quê Hương Tôi. 50 năm sau, tôi cũng nghe Từ

Đàm Quê Hương Tôi. Thì ra đó là một ngôi Cổ Tự Miền Trung, cùng nhiều Học

viện Phật Giáo tại đất Thần Kinh, câu hội những bậc thạch trụ thượng thừa, đào tạo

nhiều bậc Cao Tăng kiệt xuất, góp mặt cùng những bậc trụ cột lãnh đạo Phật Giáo

không chỉ Miền Trung mà cả ba miền đất nước, đã hàng vài chục năm, băng qua

hàng thế kỷ. Tại Trụ Xứ tôn nghiêm ngưỡng phục này, Chùa Từ Đàm, Thừa Thiên

Huế, nơi xảy ra biến cố đầu tiên ngay Đại Lễ Phật Đản, ngày Rằm tháng Tư năm

Quý Mão, nhằm ngày 8 tháng 5 năm 1963.

Ngày Phật Đản là ngày thiêng liêng nhất của Đạo Phật, ngày kính mừng của toàn

thể Phật tử mọi quốc gia trên khắp năm châu, ngày mà vào năm 1999 Liên Hiệp

Quốc công nhận, long trọng công bố là Ngày Phật Đản Liên Hiệp Quốc, và từ đó,

mỗi năm, từng quốc gia vận động đăng cai đứng ra tổ chức Đại Lễ Phật Đản Liên

Hiệp Quốc.

Vậy mà ngược dòng 36 năm, tại đất nước Việt Nam, ngày 6 tháng 5 năm 1963, Phủ

Tổng Thống nhà Ngô phát đi Công điện số 5159 cấm treo cờ ngay Mùa Phật Đản.

Ngày 7 tháng 5, chính quyền cho cảnh sát đến từng nhà buộc dân chúng phải hạ cờ

65

Phật Giáo. Buổi tối ngày 8 tháng 5, tức buổi tối Ngày Phật Đản Rằm Tháng Tư, xe

tăng xích sắt càn lên, lựu đạn nổ tung, súng bắn trực diện vào đám đông làm cho 8

em Phật tử chết ngay tại chỗ, nhiều người bị thương, nhiều người bị bắt ngay tại Đài

phát thanh Huế.

Lịch sử 2000 năm Phật Giáo Việt Nam trên quê hương 5000 năm của Dân tộc Việt

Nam chưa từng xảy ra như thế!

Đại Lễ Phật Đản đã 2000 lần tổ chức trên đất nước Việt Nam, dù với bất cứ thời kỳ

nào, băng qua bất cứ triều đại nào, cũng chưa từng xảy ra như thế!

Vậy mà vào hậu bán thế kỷ 20, nhân loại đang tiến triển văn minh, thế giới đang kỳ

vọng tự do bình đẳng chung sống hòa bình, thì Việt Nam phải bị chiến tranh Quốc -

Cộng, và Phật Giáo Việt Nam lại bị Pháp Nạn vô tiền khoáng hậu đó.

Lá cờ Phật Giáo bị triệt hạ. Xác người Phật tử bị ngã gục. Máu của Phật Giáo đã đổ.

Thịt của Phật Giáo đã rơi. Tù ngục diễn ra, bức bách diễn ra, tàn bạo diễn ra, và tất

cả đều đổ lên đầu Phật Giáo từ Huế vào Sài Gòn, và tràn ngập khắp 44 tỉnh thành

Miền Nam, từ Quảng Trị vào đến Cà Mau, từ thành phố đến thôn quê.

Phật Giáo bắt buộc ở trong thế phải đứng lên, đứng lên trong tư thế từ bi hòa ái

khiêm từ và bất bạo động, vốn là bản chất cố hữu của Phật Giáo, ngàn xưa không

đổi, ngàn sau không lay, không bị cưỡng chế áp đặt với bất cứ thế lực nào, không bị

mua chuộc giựt dây bởi bất cứ thành phần nào.

Đây, hãy bình tâm nghe lại 5 Nguyện Vọng của Phật Giáo qua Tuyên Ngôn ngày

10-5-1963:

1. Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn Công Điện Cấm

Treo Cờ Tôn Giáo Nơi Công Cộng.

2. Yêu cầu Phật Giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các Hội truyền

giáo Thiên Chúa Giáo đã được ghi trong Đạo dụ số 10.

3. Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ và khủng bố Tín đồ Phật Giáo.

4. Yêu cầu cho Tăng Ni Phật Tử được tự do truyền đạo và hành đạo.

5. Yêu cầu chính phủ bồi thường thích đáng cho những người chết oan vô tội, và

kẻ chủ mưu giết hại phải bị xét xử.

Để giải thích rõ ràng 5 Nguyện Vọng của Phật Giáo, ngày 23-5-1963, một Bản phụ

đính của Tuyên Ngôn 10-5-1963, đã mạnh mẽ công bố như sau:

1. Phật Giáo Việt Nam không chủ trương lật đổ chính phủ để đưa người của

mình lên thay thế, mà chỉ nhằm đến sự thay đổi chính sách của chính phủ.

2. Phật Giáo Việt Nam không có kẻ thù, không xem ai là kẻ thù. Đối tượng của

cuộc tranh đấu, tuyệt đối không phải là Thiên Chúa Giáo, mà là chính sách bất công

tôn giáo.

3. Cuộc tranh đấu của Phật Giáo đồ cho bình đẳng tôn giáo, được đặt trong

khuôn khổ của lý tưởng công bằng xã hội.

66

4. Cuộc tranh đấu của Phật Giáo đồ, được thực hiện theo đường lối bất bạo

động.

5. Phật Giáo Việt Nam không chấp nhận sự lợi dụng của bất cứ ai vào cuộc

tranh đấu cho bình đẳng tôn giáo và công bình xã hội.

Chính quý vị đã biết và lịch sử đã chứng minh, cuộc vận động đấu tranh của Phật

Giáo chỉ diễn tiến bằng biểu tình bất bạo động, tuyệt thực trong ôn hòa, đạo đạt

thỉnh nguyện, kỳ vọng thức tỉnh và cầu nguyện từ bi hòa bình.

Sau cái chết của 8 em Phật tử tại Huế, Phật Giáo đồ càng ngày càng bị bức bách

khủng bố tù đày. Ngày 11-6-1963, tức 33 ngày sau Pháp Nạn khởi ra, tại ngã tư

Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt Sài Gòn, Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã ung

dung tĩnh tọa phát nguyện tự thiêu, hàng ngàn Tăng Ni Phật Tử bao quanh chắp tay

cầu nguyện. Ngọn lửa từ bi của Bồ Tát Thích Quảng Đức bùng lên, Ngài vẫn chắp

tay tam muội bất động kiết già, 15 phút sau xác thân của Ngài ngã xuống, hai tay

Ngài vẫn tự tại chắp tay. Lò lửa hơn 4000 độ đã thiêu hủy xác thân của Ngài, nhưng

Trái Tim của Ngài vẫn như như bất hoại, chơn chơn bất diệt. Đó là ấn tín ấn tuyên

ấn trụ: Phật Pháp sẽ được trường tồn, Lá cờ Phật Giáo sẽ tiếp tục được tung bay.

Quả thật như vậy, sau ngọn lửa Bồ Tát Thích Quảng Đức, liên tục những ngọn lửa

bừng lên, bừng lên để đánh thức vô minh, bừng lên để đánh động lương tâm, bừng

lên để kêu gọi bạo lực hãy buông tay, độc ác hãy dừng lại, bừng lên để trao nhau

mời gọi trân trọng tình người. Đó là ngọn lửa Thích Nguyên Hương, ngọn lửa Thích

Thanh Tuệ, ngọn lửa Thích Nữ Diệu Quang, ngọn lửa Thích Tiêu Diêu, ngọn lửa

Thích Quảng Hương, ngọn lửa Thích Thiện Mỹ, ngọn lửa Hồng Thể. Xin nhấn

mạnh nơi đây, Hồng Thể là một Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa cũng phát

nguyện tự thiêu để cúng dường cho Phật Pháp.

Và quả thật như vậy, sau Lệnh Thiết Quân Luật và sau Chiến dịch Nước Lũ tổng tấn

công tất cả chùa chiền vào đêm 20-8-1963, tượng Phật bị đập phá, pháp khí Phật cụ

bị đập đổ ngổn ngang, toàn bộ thành phần lãnh đạo Phật Giáo bị bắt tải lên xe, phân

tán nhỏ ra, giam giữ nghiêm ngặt. Trong lúc Phật Giáo bị khủng bố cùm gông nghẹt

thở trong tù, vô phương kêu cứu, vô kế thiết thi. Thì ngoài kia, đèn đỏ đã chuyển

hướng, đèn vàng đã xoay chiều, đèn xanh đã bật lên, toàn dân đã đứng lên, toàn

quân đã đứng lên, thay đổi chế độ. Đó là ngày 1 tháng 11 năm 1963.

Biến cố và Pháp nạn 1963 là đỉnh điểm cuối cùng của chính sách kỳ thị 9 năm. Việc

xóa bỏ chế độ là của toàn quân toàn dân, chứ Phật Giáo không trực tiếp can dự, vốn

là nạn nhân và nếu có chỉ là nguyên nhân. Thời thế lại xoáy theo cơn lốc 3 năm biến

động cho đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa mới tạm tái lập an bình.

Để có một cái nhìn chân thực, Đất nước và Dân tộc Việt Nam chúng ta, sau 100 đô

hộ bởi Thực dân Tây, chính thể quốc gia ra đời còn non trong trứng nước cuối thời

Bảo Đại, biến chuyển qua hai nền Cộng Hòa trong thể chế tự do dân chủ hãy còn

non trẻ, lại bị 21 năm thường trực mịt mù khói lửa chiến tranh, rồi gọng kềm thời

thế nghiệt ngã, Hiệp định Hòa Bình Paris 1973 ký kết chưa ráo mực, chỉ còn là tờ

giấy vô nghĩa vô hiệu. Cộng Sản Miền Bắc với sự ủng hộ toàn lực của Cộng Sản

67

quốc tế, đã ngang nhiên tổng tấn công cưỡng chiếm Miền Nam 30-4-1975, biến toàn

nước Việt Nam lặn hụp ngoắt ngoải dưới bóng cờ đỏ sao vàng, và điêu đứng tột

cùng bởi chế độ Cộng Sản cho tới hôm nay.

50 năm đi qua, biết bao Anh linh Chư bậc Tiền bối hữu công, Anh linh hàng triệu

chiến sĩ đồng bào đã hy sinh để bảo vệ tự do cho Miền Nam, ước vọng dân chủ cho

một nửa đất nước phía Nam vĩ tuyến 17, trong đó có 521 chiến sĩ Quân đội Hoàng

gia Úc đã hy sinh, hàng vài chục ngàn binh sĩ các nước bạn đồng minh đã hy sinh,

vô số các gia đình có người thân đã mất, vô số thương phế binh dằng dặc nỗi khổ

trong cuộc sống phế nhân. Và sau dấu mốc Miền Nam sụp đổ 1975, tiếp tục phải trả

cái giá khốn khổ tột cùng, toàn thể dân tộc Việt Nam chúng tôi, gần 90 triệu người

trong nước chịu đựng sự kềm kẹp tàn khốc trong nhà tù chung cả nước bởi chế độ

Cộng Sản, gần 1 triệu người đã bỏ thân mất tích trên hành trình đi tìm tự do, gần 5

triệu người sống còn mang kiếp lưu vong tha phương khách thổ trên mọi vùng đất

hứa. Nhà tù chật ních và đày ải tệ hại Quân, Cán, Chính Miền Nam, cùng vô số

người tù tôn giáo, người tù lương tâm và bao nhiêu người tù khác, bởi tiếng nói cho

tự do tôn giáo dân chủ nhân quyền, nói lên tiếng nói lịch sử 5000 năm của Dân tộc

không thể bị sĩ nhục ương hèn, gia tài văn hóa đạo đức 5000 năm của tiền nhân

không thể bị biếm nhẽ suy vi, cơ đồ tổ quốc Việt Nam kiến lập bởi xương máu trải

dài 5000 năm của Ông Cha không thể bị cắt xén dâng hiến, ngay cả các quyền tự do

tối thiểu như tự do đi lại, ngôn luận, báo chí, truyền thông, nhân quyền,… vẫn chỉ là

con số không.

50 năm nhìn lại, Việt Nam vẫn chưa có tự do dân chủ nhân quyền. 50 năm nhìn lại,

sự độc lập và chủ quyền Việt Nam bị Bắc Phương trấn áp. Vùng biển, vùng trời,

biên giới bị cắt xén. Hoàng Sa Trường Sa và nhiều vùng biển đảo bị xâm lăng. Hôm

nay nhìn lại, thiết nghĩ chính quý vị đã nghe, đã thấy, đã biết, đã tự chứng minh và

tự trả lời. Đất nước Việt Nam của chúng tôi đã bị Cộng Sản làm cho lụn tàn. Dân

tộc Việt Nam của chúng tôi đã bị Cộng Sản bào mòn truyền thống đạo đức kiên

trinh hào hùng sắt son bất khuất.

Đại Lễ 50 Năm Tri Ân Thánh Tử Đạo, để noi theo gương sáng của tiền nhân, phụng

sự đạo lý từ bi tôn trọng nhân bản bình đẳng, chứ không phải khơi lại đống tro tàn

hay với bất cứ một mưu đồ nào, nhất là mưu đồ hận thù, chính trị, bởi Phật Giáo

không có hận thù, không mưu toan chính trị.

Đại Lễ 50 Năm Tri Ân, Tưởng nhớ Anh linh các bậc Tiền nhân, Anh linh Chiến sĩ

Đồng bào, để tôn vinh ca ngợi sự hy sinh to lớn của người đã nằm xuống, và nơi an

nghỉ của họ phải được gìn giữ tôn nghiêm chứ không bị xúc phạm xóa mờ.

Chiêu niệm 50 Năm Quốc Nạn Pháp Nạn, để khẳng định Tổ quốc Việt Nam và Dân

tộc Việt Nam hôm nay vẫn tiếp tục tê tỉ khổ đau và nghiệt ngã quằn quại tận cuối

đường hầm.

50 năm đi qua, 50 năm nhìn lại. Mọi tôn giáo của người Việt Nam, mọi thành phần

Dân tộc Việt Nam, ai không phải là con Lạc cháu Hồng, ai không mang tóc đen da

68

vàng máu đỏ, ai phản bội xoay lưng Tiền đồ Tổ quốc, ai quên cội mất nguồn đánh

đổ quê hương, hãy và tự đứng qua một bên, còn tất cả tất cả cứ an nhiên như thị.

Đại Lễ Tri Ân Tưởng Niệm 50 Năm đang diễn ra, xin chắp đôi bàn tay tiếp nối triệu

triệu bàn tay, từ Trái Tim Bồ Tát tiếp nối triệu triệu Trái tim Việt Nam, một tấm

lòng thành kính tiếp nối triệu triệu tấm lòng Dân Tộc, Ba nén tâm hương biến hiện

thành rừng hương khói quyện, Hồn Thiêng Sông Núi hiện về, Tổ Tổ Tông Tông

chứng giám, gia hộ cho Đất Nước Việt Nam tự do dân chủ thái hòa, phù trì cho Tổ

Quốc Việt Nam độc lập toàn vẹn núi sông, phổ độ cho Dân Tộc Việt Nam Rồng

Tiên vĩnh lạc miên trường.

1963 - 2013

Mặc Tử

-------------

Cuộc đời và hành trạng

Hòa Thượng Thích Minh Tâm (Sinh năm Kỷ Mão 1940 tại Bình Thuận, Việt Nam.

Viên tịch Quý Tỵ 2013 tại Phần Lan, Âu Châu.

75 thế tuế. 64 Đạo Lạp. 46 Hạ Lạp)

Trời Châu Âu một vì sao đã tắt

Đất Châu Âu một tinh tú đã băng

Mồng 2 tháng 7 biền biệt ánh trăng

Còn đâu nữa rạng soi vầng nhật nguyệt

Tỉnh Bình Thuận sản sinh một bậc kiệt xuất

Nước Phần Lan lặng chìm bóng ngã về tây

Tin lan nhanh vượt trùng ai tín đó đây

Chỉ một thoáng đã bủa vây Châu Lục

Tất cả Tăng Ni bàng hoàng cảm xúc

Toàn thể Phật Tử rúng động tiếc thương

Tháng Bảy Vu Lan quyền quyện khói hương

Mọi chốn Thiền Môn kệ kinh ngân vọng

Hòa Thượng Minh Tâm từ nay vắng bóng

Một bậc Danh Tăng từ nay không còn

Ngài ra đi lưu lại những dấu son

Ấn những nét ngàn sau chưa phai nhạt

NGUYÊN CẢNH bản hoài Linh Sơn cốt nhục

VIÊN DUNG tự tại vô khứ vô lai

MINH TÂM gương sáng độc chiếu phương đài

Bảy mươi lăm năm Niết Bàn an trụ

Cả một cuộc đời, dư, thừa, thiếu, đủ

Một kiếp đến đi, có có, không không

“Nhìn trông bóng nguyệt dòng sông

Hỏi xem có có không không là gì”

Nhìn trông vạn hữu li ti

69

Hỏi xem tánh thể chi chi mất còn

Mất

Cả vũ trụ ngân hà cũng mất

Còn

Một hạt bụi, hạt cát trùm khắp thái hư

Một khi nhập

Năm châu bốn biển không thiếu không dư

Một khi xuất

“Nhạn quá trường không, ảnh trầm hàn thủy”

Chiếc bóng vô thường, vẽ chi vô thỉ

Mượn áo sắc không, vẽ chi vô chung

Thiên hà đại địa lọt bũm chân lông

Vũ trụ càn khôn chưa đầy hạt cải

Trưởng Tử Như Lai nhận chân thế ấy

Người con Đức Phật thấy rõ tinh tường

Phàm thức hữu tình nhớ nhớ thương thương

Sỏi đá kêu đau nào ai há biết

Những tưởng

Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu thứ 25

10 ngày diễn ra như 24 Khóa trước

Từ lúc Khai Mạc cho đến khi kết thúc

Về một phương rồi tỏa khắp muôn phương

Nào ngờ

Cánh chim đầu đàn, rũ cánh vô thường

Ngài đã ra đi, trời Âu vắng bóng

Ngài đã ra đi, tháng bảy mưa ngâu

Tăng Ni ngưng đọng giọt châu

Phật Tử ngấn lệ đượm sầu tiếc thương

Vào Mùa Hiếu Hạnh song đường

Nay thêm giáo dưỡng nghĩa tình ân sư

Chùa Khánh Anh, một đại tự huy hoàng phạm vũ

Lễ Khánh Thành, dự trù tổ chức “hai không mười lăm”

Ngài đi, nguyệt khuyết vầng trăng

Ngài về, trăng lại trăng rằm dõi soi

Ngài đi, bóng ngả lưng đồi

Ngài về, độc chiếu kết đài thiên thư

Ngài về tịch tịnh vô dư

Môn đồ Pháp quyến tâm tư “nát bàn”

Ngài về thượng phẩm Lạc Bang

Tăng Ni Tứ Chúng trần gian thế tình

Ngài về một cõi vô thinh

Tăng Ni ở lại hữu thinh Ta Bà

Ngài về thăm lại quê nhà

Tăng Ni ở lại can qua vô thường

Vô thường muôn vạn phù vương

Thong dong tự tại chơn thường ô hay.

70

Kính bút

Thích Nhật Tân

Chùa Pháp Quang – Úc Châu

Cuộc đời và hành trạng của Ngài Nhất Hạnh

Chữ nghĩa nào để xưng dương Ngài cho vẹn

Ngôn từ nào để tán thán Ngài cho toàn

Bởi cuộc đời Ngài lấp lánh vô số điểm son

Bởi hành trạng Ngài lung linh muôn ngàn ảnh tượng

Tôi bỗng nhớ tác phẩm "Đường Xưa Mây Trắng"

Và "Thử Tìm Dấu Chân Trên Cát" mà đi

Rồi hàng trăm tác phẩm vần vũ tức thì

Nổi trội cùng hành trình hoằng dương chuyển hóa

Mỗi bước chân một bông hoa nở rộ

Mỗi bước đi một vầng sáng hiển bày

Cả cuộc lữ, ca ngợi ư, nghiệt thay

Tôi quẳng hết, tự trầm tư lưu xuất

Viết một cách tự nhiên, nhưng thật chuẩn mực

Viết một cách bình thường, nhưng thật rõ ràng

Không thổi phồng mang tính chất khoe khoang

Không thêu dệt lộng hoang đường hư cấu

Bởi cuộc đời Ngài, vốn đã như rứa

Bởi hành trạng Ngài, vốn đã như ri

Cả thế giới tôn vinh, đâu phải làm vì

Cả nhân loại ngưỡng phục, dễ nào có được

Hơn nửa thế kỷ, Ngài sáng hơn ngôi sao Bắc Đẩu

Hơn năm mươi năm, Ngài tỏa rạng thiều quang

Mọi khung trời phủ rợp Ánh Đạo Vàng

Mọi ngõ ngách tương dung Đường Hóa Độ

Các tôn giáo khác nhau, Ngài là ngọn đèn sáng tỏ

Các chủng tộc khác nhau, Ngài là một bậc Đạo Sư

Từ chính giới, chính khách, khoa bảng, trí thức, cảm phục như như

Đến nam nữ, lão ấu, sang hèn, nghèo giàu, ngưỡng tôn như thị

Tôi không nói quá, rằng:

Năm mươi năm cận đại Phật Giáo Việt Nam

khó có một vị nào, để ví

Hai ngàn năm lịch sử Phật Giáo Việt Nam

duy nhất riêng Ngài, có một không hai

Hàng trăm tác phẩm tôn giáo văn hóa văn học rực sáng Đông - Tây

Khai Tổ khai Tông "Pháp Môn Làng Mai" qui phục mọi màu da chủng tộc

Tôi đồng cảm, nhưng chưa hẳn đồng thuận với nhận định đánh giá, rằng:

Thế giới và nhân loại hôm nay

Nói về Phật Giáo

Nói về con người

Có ảnh hưởng, thuyết phục, lôi cuốn, sức hút:

Đức Đạt Lai Lạt Ma, "ngôi vị thứ nhất"

71

Ngài Thiền Sư Nhất Hạnh, "ngôi vị thứ hai"

Cũng vui, được thế giới ngưỡng phục tôn vinh

Cũng mừng, được nhân loại tán dương ca ngợi

Nhưng theo tôi

Đánh giá và so sánh như thế có vẻ khập khiễng

Cứ để tự nhiên

Đức Đạt Lai Lạt Ma là Đức Đạt Lai Lạt Ma

Ngài Thiền Sư Nhất Hạnh là Ngài Thiền Sư Nhất Hạnh

Đức Đạt Lai Lạt Ma là của Tây Tạng

Ngài Thiền Sư Nhất Hạnh là của Việt Nam

Đức Lạt Ma, mới sinh, được chọn Hóa Thân, sống trong cung ngọc điện vàng

Ngài Nhất Hạnh, ra đời, bình thường dân giả, lớn lên quê nghèo sỏi đá

Đức Lạt Ma, một vị vua Tây Tạng, đứng đầu thiên hạ

Ngài Nhất Hạnh, một Tăng Sĩ Việt Nam, áo vải nâu sồng

Đức Lạt Ma, xuất thân, vốn cái gì cũng có

Ngài Nhất Hạnh, hiện hữu, vốn cái gì cũng không

Biển là biển, sông là sông

Nào ai đem biển sánh sông chi nào

Trăng là trăng, sao là sao

Trăng mà đem ví với sao ngỡ ngàng

Ngọc là ngọc, vàng là vàng

Tự nhiên như thể ngọc vàng chi nghe

Hôm nay tôi viết đôi lời về Ngài Nhất Hạnh

Vốn biết

Mọi giới khác nhau đã có cái nhìn về Ngài

Nhiều thành phần khác nhau đã có cảm kích về Ngài

Hàng hàng lớp lớp "Tăng Thân" phủ phục tôn xưng với Ngài

Thì bài của tôi như đom đóm lập lòe chơi bóng tối

Đầu non vượt khỏi

Chót đỉnh băng qua

Ô hay một cõi Ta Bà

Thái Hư lọt bũm căn nhà Như Lai

Ô hay hải giác thiên nhai

Làng Hồng hiển thị Làng Mai vang lừng

Hoa đào trước ngõ trổ bông.

Viết, không bởi đã quan hệ liên lạc với Ngài trong những năm từ 1970 - 1975 qua một vài công

việc trực tiếp của GH.

Viết, không bởi nhận tịnh tài hàng tháng để giúp đỡ người nghèo trại tỵ nạn Thái Lan đầu thập

niên 80 một thời ở đó.

Viết, không bởi, ngôi chùa đang thuê tại Oxley, Brisbane, là địa điểm đầu tiên tiếp đón và tổ chức

Khóa Tu Chánh Niệm, các thời Thuyết Pháp của Ngài trong chuyến hoằng hóa Úc Châu 1986.

Mà viết, bởi "Thử Tìm Dấu Chân" "Đường Xưa Mây Trắng" của một bậc thạc đức thượng thừa

Phật Giáo Việt Nam.

Brisbane, ngày 20 tháng 11 năm 2014

Thích Nhật Tân

72

Cuộc đời và Hành trạng

Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu

(95 thế tuế. 74 Hạ Lạp)

Kẻ hèn này lòng chân thành đã viết:

Ngài Trí Quang, bậc đại sĩ thượng thừa

Ngài Thiện Minh, cõi trần thế đủ chưa

Ngài Huyền Quang, kế nghiệp ba đời Tăng Thống

Đức Đệ Nhất, thượng Tịnh hạ Khiết

Đức Đệ Nhị, thượng Giác hạ Nhiên

Đức Đệ Tam, Đôn Hậu tịch biên

Và đã viết:

Bồ Tát Quảng Đức, hiện thân cứu đạo

Thánh Tử Tăng Ni, nung lửa lò cừ

Phật Tử Tín đồ, chấn động thái hư

Hoa sen nở ngát bùn lầy quện cáu

Một kiếp nhân sinh ba vạn sáu

Những tưởng rằng đằng đẵng trăm năm

Thấm vào đâu thượng báo hạ hoằng

Lòng nung nấu bản hoài tâm nguyện

Nếu không viết

Cuộc đời và hành trạng Hòa Thượng Thích Tâm Châu

95 năm đại thọ, tròn thế kỷ cơ cầu

74 năm Hạ Lạp, viên dung vô quái ngại

Thì thà không có đôi tay cầm bút

Không có cái đầu hướng đạo tư duy

Không có tấm lòng chắt lọc nghĩ suy

Sống phơi cát bụi trơ trơ sỏi đá

Xin chắp tay, ngưỡng vọng Giác Linh Ngài Thượng Thủ

Xin chân thành, hướng về Kim Bảo Đài Từ Quang

Nghe kệ kinh chuông mõ trầm bỗng ngân vang

Tiễn Ngài đi trên đường về Phật độ

Cuộc đời Ngài đâu cần ghi để nhớ

Hành trạng Ngài đâu cần khắc để lưu

Một ngôi sao gắn trên cánh Vô Ưu

Vốn miên viễn mọi không thời rạng chiếu

Đất Ninh Bình sản sinh bậc kiệt xuất

Năm 1954, bỏ Bắc vào Nam

Di cư ư, không phải, bởi không chấp nhận sắc đỏ thiết ngàm

Năm 1963, vô minh ập phủ Đạo Vàng

Chịu chết ư, dễ gì, Phật Giáo sống thì Dân Tộc mới sống

Những cái câu đẹp như sơn son thiếp lộng:

"Dân Tộc còn thì Phật Giáo còn"

"Phật Giáo còn thì Dân Tộc còn"

2000 năm lịch sử Phật Giáo, vàng ngọc không hơn

5000 năm lịch sử Dân Tộc, kim ngân không sánh

Dân Tộc và Đạo Pháp, tương lân để sống

Đạo Pháp và Dân Tộc, thấm nhuận thăng hoa

Hễ ngược lại là suy vong biến thái

73

Ngài và những bậc thượng thừa thuở ấy

Ngồi trên lửa nhưng vẫn bình chân như vại

Ngồi trong cùm nhưng xiềng xích vỡ toang

Cả thế giới đều ngưỡng phục kinh hoàng

Cả nhân loại đều giật mình rúng động

Tôi muốn nhắc cộc mốc này

Để Phật Giáo Việt Nam hôm nay và ngày mai phải biết

Nếu 63 mà đã bị chết tiêu ma

Nếu 63 mà bị hủy diệt Ta Bà

Thì quý vị không còn đâu mà đẩy đưa nhân ngã

Và tôi xin nhắc

Lê Long Đĩnh kê lên đầu róc mía

Nào đáng gì so với Pháp Nạn 63

Bởi Long Đĩnh hôn quân mượn thú tiêu pha

Còn 63 là cả âm mưu sách lược tiêu diệt Phật Giáo

Thế thì 75, chuyện gì kia chứ?

Ố ồ cộc mốc, cả nước đỏ au

Vận mệnh Dân Tộc, nói nữa chi đau

Vận mệnh Tổ Quốc, nói sao cho hết

40 năm, nát con tàu thống thiết

40 năm, nát con tàu trầm kha

Niềm đau sỉ nhục đến Tổ Tiên lịch sử Ông Cha

Và di họa đến cả những đàn em thế hệ

Ngài Tâm Châu ơi

Sao trong lúc ngưỡng vọng Giác Linh Ngài kính lễ

Mà lại viết những lời khó xúc động bi thương

Bởi Ngài nói:

"Cả cuộc đời tôi phụng sự cho Quê hương

"Cả cuộc đời tôi dấn thân cho Đạo Pháp

"Tôi đã hơn 90 rồi mà ông còn thôi thúc

"Tôi từng nói hễ mỗi lần qua Úc

"Phải dành thời giờ để ghé thăm

"Để gặp và ngưỡng mộ MG"

Ngài ơi, chết con rồi, muôn ngàn lần không dám

Và chính Ngài đã gởi những tác phẩm biếu tặng

Nào thơ văn, nào những CD diễn ngâm

Của bậc siêu tuyệt thượng túc uyên thâm

Nhạn quá trường không, thái hư lưu tích

Kính tiễn Ngài đi, về thăm Phật quốc

Ta Bà kham nhẫn, hồi nhập độ sinh

Vì Tam đồ Lục đạo, dù khổ quên mình

Vì nhân gian trần thế, dù đau nào thấm

Mượn tấm thân ngũ ấm

Vào sinh tử rong chơi

Mang ánh đạo cứu đời

Bản hoài hoằng thệ nguyện.

Úc Châu sáng ngày 22-8-2015

Tiểu tăng Thích Nhật Tân

74

Cuộc đời và Hành trạng

Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên (93 thế tuế. 60 Hạ Lạp)

Kính bạch Giác linh Đại lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên

Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới

93 thế tuế, thọ mạng một kiếp còn chi nữa

60 Hạ Lạp, hành trạng một đời, thật ngưỡng tôn

Trân trọng nhìn qua lược sử điểm son

Để kính vọng một bậc trong ngôi nhà họ Thích

Sinh ra tại Ô Môn, Cần Thơ, nước Việt

Vùng đất hiền hòa chơn chất của Miền Nam

Là con út gia đình năm anh em

Cha mất sớm và Mẹ cũng qui tiên, khi còn niên thiếu

Có lẽ Ngài đã mang nghiệp duyên từ căn cội

Nên tầm sư học đạo từ thuở thiếu thời

Hết Ngài Minh Trí, rồi Ngài Minh Phụng rạng soi

Đến khi gặp Ngài Minh Đăng Quang thì đèn tâm rực sáng

Đệ Nhất Tổ Sư thế phát xuất gia, truyền thọ Sa Di giới

Đệ Nhị Tổ Sư chứng minh, trao y bát cụ túc Tỳ Kheo

Hành trạng và cuộc đời Ngài, từ đó:

Cùng Hệ Phái Khất Sĩ

Vượt tầm

Mở rộng

Vươn cao

Khắp các tỉnh thành

Miền Trung

Miền Nam

Vùng quê

Phố thị

Hàng chục, hàng chục cơ sở Tịnh Xá

cứ tự tịnh như nhiên kỳ ý

Hàng Đoàn, hàng Đoàn Khất Sĩ Du Tăng

cứ hòa nhập chuyển hóa truyền lưu

Hơn 20 năm trong nước

và 40 năm khắp phương trời hải ngoại

Theo cái nhìn của tôi

Chính Ngài đã làm rạng danh cho Sư Tổ

Chính Ngài đã làm phổ chiếu Minh Đăng Quang

Thật hoan hỷ thay

Thật vui mừng thay

Phật Giáo Việt Nam thêm một Hệ Phái góp mặt Đạo Vàng

Cùng phối nhịp xiển dương hoằng khai chánh pháp

Kính ngưỡng vọng Giác Linh Hòa Thượng Pháp Chủ

93 tuổi, một cuộc đời quá đủ

60 năm, cả hành trạng quá đầy

75

Những nghe:

"Có, thì có tự mảy may

Không, thì cả thế gian này cũng không"

Ngài đi, mây trắng thong dong

Ngài về, rướm lệ ngậm lòng gần xa

Ngài đi, một cõi quê nhà

Ngài về, ngưng đọng giọt sa vương cành

Ngài đi, gõ nhịp tử sanh

Ngài về, không sắc đoạn đành thế thôi

Kìa trông mây ngã lưng đồi

Ô hay huyễn mộng lở bồi phù sinh

Tuy nhiên, vẫn còn đây:

Hàng ngàn cuộn băng thuyết pháp

Hàng trăm Tịnh Xá trường tồn

Hàng chục tác phẩm thi văn

Pháp từ pháp nhũ pháp âm

Pháp đệ Pháp tử Pháp tôn

GIÁC NHIÊN như thể hằng còn sử xanh

Vòng tròn đan kín loanh quanh

Đàn chim nho nhỏ bay quanh lối về

Núi đồi vần vũ sơn khê

Trùng khơi gợn sóng vỗ về biển sông

Sắc kia nào khác gì Không

Không kia cỡi Sắc bềnh bồng thiên thu

Có, thì đã quá là dư

Không, thì vũ trụ thái hư nghĩa gì

Người con THÍCH TỬ cứ đi

Tô son điểm sắt đường đi lối về

Khi nào cạn chữ giác mê

Bổn tâm bản nguyện vẹn thề châu viên.

Viết, kính dâng Giác Linh Hòa Thượng vào Tuần Lễ Chung Thất

tổ chức tại Thiền Viện Minh Quang, Sydney, Úc Châu

ngày Mồng 8 tháng 8 năm Ất Mùi 2015.

Thích Nhật Tân

Cuộc đời và hành trạng

Trưởng lão Hòa Thượng Thích Như Huệ

Ngài sinh ra mang cung mệnh lãnh đạo

Ngài sinh ra với sứ mệnh chỉ huy

Ngài sinh ra là vì sao sáng tỏa

Phụng hiến đạo đời giáo pháp từ bi

Ngài sinh ra để làm người đi đầu

Suốt cuộc đời nắm cương vị dẫn đầu

Bao thăng trầm vững tư thế đứng đầu

76

Vượt bão táp trước thế thời nghiêng ngửa

Thế danh Kim Huệ

Pháp danh Như Huệ

Pháp tự Giải Trí

Pháp hiệu Trí Thông

Đã Kim Huệ vốn tựu thành Như Huệ

Đã Như Huệ, Giải Trí biện vô nghì

Nên Trí Thông tự tại lẽ huyền vi

Mỗi xuất xử hợp thời cơ khế lý

Mới tám tuổi vào chùa để học Phật

Mười hai tuổi nguyện thế phát xuất gia

Xuất tức nhập để gánh vác Phật gia

Kế nghiệp Tổ rạng Tông môn Pháp phái

Hơn hai mươi đã là Như Lai Sứ Giả

Hai mươi lăm, giảng sư các tỉnh Miền Trung

Từ Khánh Hòa, Tuyên Đức đến Kon Tum

Nơi đâu cũng ghi dấu chân hóa độ

Năm 1963, Phật Giáo đang hồi thống khổ

Lá cờ Phật Giáo bị hạ

Xương máu Phật Giáo bị rơi

Tăng Tín đồ Phật Giáo ngục tối rã rời

Ba mươi tuổi, làm Chủ Tịch Ủy Ban Tranh Đấu

Tỉnh Quảng Nam, một trong các tỉnh cái nôi Phật Giáo

Cho người Miền Trung luyện tâm lực sắt son

Làm đẹp đạo sáng tỏa ánh đạo vàng

Xây dựng đời an lành chân thiện mỹ

Bởi sỏi đá khô cày luyện tôi như thế ấy

Bởi đèo heo hút gió lộng sơn khê

Người miền Trung trí dũng lực có thừa

Càng Lò Cừ càng nêu cao chí khí

Ba mươi mốt tuổi, Ngài đã giữ cương vị

Chánh Đại Diện Phật Giáo tỉnh Quảng Nam

Hơn mười năm biết bao việc đã làm

Tam thập nhi lập, cho bình sinh phỉ chí

Dấu mốc 75, dấu mốc sinh tử

Vận Nước, Vận Dân, Vận Đạo, Vận Đời

Bồng bềnh Vận Nước nổi trôi

Bọt tan đáy biển bèo trồi bến mê

Vận Dân, cả nước ê chề

Phủ màu sắc đỏ não nề nhiễu nhương

Vận Đạo, mục thị vô thường

Khỉ reo vượn hú vẽ tuồng múa may

Vận Đời, cát bụi mù bay

Còn chi mà đắng với cay cuộc đời

Sinh với tử, chỉ một đường độc đạo

Tử với sinh, chỉ một lối mà thôi

Khi đã chọn, đâu cần nói nửa lời

77

Không còn thấy thì tự dưng sẽ biết

Dù có chết cũng tìm đường vượt tuyến

Dù có chết cũng phiêu bạt hành trình

Đời tỵ nạn đã tự gắn với mình

Kiếp tha phương bao đoạn đành thống nổi

Người đã chết, hoặc chôn vùi đáy biển

Nếu không thì, phơi xác giữa núi rừng

Bặt âm, vô tín, trả lại thỉ chung

Xin thương tiếc cả triệu người bất hạnh

Người còn sống, đã đến nơi đất sống

Hai bàn tay, làm lại khởi từ đầu

Đêm nằm gác bóng trăng thâu

Tâm can non nỉ cơ cầu ô hay

Nhưng đã xác định

Nếu chết thì thôi

Còn sống phải làm

Tâm còn đây

Lực còn đây

Quê hương còn đó

Đạo Pháp còn đó

Cùng bắt tay nhau

Cùng nương tựa nhau

Cùng thiết lập, xây dựng cho nhau

Và cùng cưu mang, gồng gánh cho nhau

Ngài lại tiếp tục là một trong những vị

Đi đầu, đứng đầu, cầm đầu, chỉ huy và lãnh đạo

34 năm, nói riêng Úc Châu, nói chung Hải Ngoại

Ngài là bậc đạo cao đức trọng

Ngài là bậc trưởng thượng khiêm cung

Uy như thị nhiếp, đức như thị hương

Như Huệ đường đường khả tôn khả kính

Cả cuộc đời phụng hiến làm sao để tính

Cả cuộc đời dấn thân biết sao luận bàn

Với Tông môn Pháp phái

Ngài giữ cương vị Trưởng Môn phái Chúc Thánh

Với cơ đồ Giáo Hội

Ngài giữ cương vị Hội Chủ, rồi Chứng Minh Đạo Sư

Đời Ngài kiệt xuất thế ư

Gắn trên vũ trụ thái hư một tòa

Một tòa sen quý thơm hoa

Đóa hoa bất tuyệt thắm tô Đạo Vàng.

- Viết vào ngày 11-4-2016 để thực hiện in ấn Kỷ Yếu Lễ Tri Ân

- Viết để ghi nhận & tán thán nhân dịp Giáo Hội tổ chức Lễ Tri Ân cho Hòa Thượng vào ngày 01-

5-2016 tại Tổ đình Pháp Hoa tiểu bang Nam Úc.

Cuộc đời và hành trạng

78

Thiền Sư Thích Thanh Từ Ngài sinh ra để kế thế Sơ Tổ Nhân Tông

Ngài hiện thân để khôi phục Thiền Tông Việt Nam

Phật Giáo Việt Nam có Thiền Phái Trúc Lâm

Rạng rỡ huy hoàng gần ngàn năm lịch sử

Ngài sinh ra để chấn tích hưng long nghiệp Tổ

Ngài hiện thân để giương trượng chống đỡ Thiền Môn

Phật Giáo Việt Nam có sắc thái ửng son

Có một chỗ đứng đường đường giữa thiên hà hoàn vũ

Mỗi dân tộc có đặc trưng của dân tộc

Mỗi quốc gia có biểu tượng của quốc gia

Phật Giáo Việt Nam sáng tỏa châu pha

Hà cớ phải chạy theo học đòi vay mượn

Hai ngàn năm lịch sử

Tiếng chuông ngân muôn thuở

Hai ngàn năm huy hoàng

Tiếng trống lộng thiên thu

Nhìn xem vũ trụ thái hư

Việt Nam Phật Giáo đã dư sắc màu

Nhìn xem lịch sử trước sau

Việt Nam Phật Giáo hỏa châu sáng ngời

Kinh qua thế thế thời thời

Bao bậc Thạch Trụ tuyệt vời siêu phương

Kinh qua tuế nguyệt phong sương

Bao bậc Long Tượng phi thường tuyệt luân

Thế kỷ hai mươi, đầu thế kỷ hai mươi mốt

Phật Giáo Việt Nam phan duyên nối kết

Trong nước thì có Thiền Sư Thanh Từ

Ngoài nước thì có Thiền Sư Nhất Hạnh

Tôi bỗng nhớ câu:

"Như hổ thêm sừng"

"Như chim thêm cánh"

Hổ thêm sừng để sơn lâm, ngàn đời rúng động

Chim thêm cánh để không trung, muôn thuở tung bay

Ngài Thanh Từ tích trượng vung tay

Ngài Nhất Hạnh siêu luân khai phóng

Trong nước ngoài nước

"Có", "Không" hiệp chưởng

Ngoài nước trong nước

"Không", "Có" tương dung

Lại bỗng nhớ câu:

"Nếu ngày về thấy khung trời đổ nát

Thì tìm em nơi tận đáy hồn anh"

Mây trời ửng giọt long lanh

Ngân sương ngưng đọng trên cành tầm không

79

Ô hay bóng núi nghiêng sông

Nhìn trông núi núi sông sông là gì

Nhận chân đừng nói năng chi

Khứ lai nào hỏi đến đi bao giờ

Tỉnh rồi đừng hỏi giấc mơ

Còn mơ cứ hỏi vật vờ chiêm bao

Lại bỗng nhớ câu:

"Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"

Hai Ngài tuy một mà hai

Tuy hai mà một kết đài hữu dư

Hai Ngài Nhất Hạnh - Thanh Từ

"Niêm hoa vi tiếu" mỉm cười thế thôi

Hai Ngài sáng đạo đẹp đời

Có Không hiện hữu, trong ngoài tồn sinh

Hiển nhiên như bóng theo hình

Hoa mai vốn sẵn đầu đình trổ bông

Tôi xin viết đôi dòng

Như nước đổ về sông

Muôn sông về biển cả

Tôi quê mùa gốc rạ

Đâu có mấy ngôn từ

Dẫu cho ngàn con chữ

Chỉ muôn một mảy may

Dạ vâng

"Có, thì có tự mảy may

Không, thì cả thế gian này cũng không"

Hai Ngài một thể viên dung

Thanh Từ - Nhất Hạnh sánh cùng chi ai

Đình tiền tạc dạ chi mai

Việt Nam Phật Giáo liên đài ngát hương

Ba ngôi Tam Bảo chơn thường

Việt Nam Phật Giáo tư lường nhập lưu

Ngàn năm hiện hữu Vô Ưu

Muôn năm trụ vũ hoa cười độ sanh.

PL 2560, vào Hạ Bính Thân 2016

Kính tiễn Hòa Thượng Thích Như Huệ Chứng Minh Đạo Sư Giáo Hội Phật Giáo Úc Châu

Hơn 30 năm, tha phương nơi đất khách

Hơn 30 năm, hành Đạo ở xứ người

Nay Ngài đi rồi, bao niềm nỗi khôn nguôi

Phật Giáo Úc Châu mất đi một vị Thầy khả kính

Hơn 30 năm, gần nửa cuộc đời một kiếp

80

Đập giũa phong trần, đẽo gọt ba sinh

Nay Ngài ra đi, đi chỉ một mình

Còn đâu nữa tình Linh Sơn Cốt Nhục

Hơn 30 năm, biết bao nhiêu buồn vui vinh nhục

Ít nhất gặp nhau hai lần: Tu Học, An Cư

Nay Ngài đi rồi, một cõi thái hư

Phía nam bán cầu chừng như thiếu bóng

Hơn 30 năm, biết bao nhiêu nắng mưa ấm lạnh

Lễ lộc, trai nghi, hội họp định kỳ

Thỉnh thoảng thất thường, duyên sự tùy nghi

Bao khắng khít thâm sâu tình Pháp Lữ

Nay Ngài giã từ, nhà xưa quy xứ

Phật Giáo Úc Châu mất mát lớn lao

Một mình Ngài đi, rơi rụng trăng sao

Con thuyền Giáo Hội, từ nay vắng bóng

Hòa Thượng Như Huệ, một bậc Thầy khả kính

Hội Chủ Giáo Hội, Chứng Minh Đạo Sư

Phong thái trang nghiêm, thân thiện, vui cười

Tùy duyên sở, tác Như Lai, hành xử

Phật Giáo Úc Châu, một con thuyền viễn xứ

Chuyên chở Từ bi Đạo Pháp quê người

Tay chống tay chèo tay ngược tay xuôi

Nay Ngài ra đi, bỏ con thuyền ở lại

Cái câu thường nghe: niên cao, lạp trưởng

Cái câu thường nghe: thuận thế vô thường

Cái câu thường nghe: thị tịch an nhiên

Ôi, là Hữu là Vô là Không là Sắc

Hữu với Vô, nhạn quá trường không, vụt biến

Sắc với Không, ảnh trầm hàn thủy, bặt hình

Mây trời Úc Châu vần vũ thinh thinh

Phật Giáo Úc Châu nhớ nhung miên viễn

Hơn 30 năm, từ nay vắng tiếng

Tiếng Quảng Nam Đà Nẵng của Miền Trung

Của một vị Thầy khả kính khiêm cung

Một bậc lãnh đạo sơn môn thạch trụ

Hơn 30 năm, Ngài đi thêm một chuyến

Một chuyến đi, không ước hẹn ngày về

Hồi nhập Ta Bà, sao quá nhiêu khê

81

Trước kim quan, Linh đài, Ngài chỉ nhìn không nói

Vẫn biết sinh tử vô thường, nhưng con tim đau nhói

Vẫn biết tứ đại giai không, nhưng thổn thức tâm can

Lệ mà chi, châu mà chi, ô kìa khóe mắt lưng tròng

Ân nghĩa, thức tình, tự nhiên thôi vậy

Hơn 30 năm, thâm tình, mới như thế ấy

Hơn 30 năm, nghĩa nặng, mới như thế kia

Một cuộc phân ly giã biệt chia lìa

Nào ai hiểu, nào ai không có hiểu

Hơn 30 năm, chung bàn, chung mâm, chung chiếu

Hơn 30 năm, chung mọi đi đứng nằm ngồi

Nay Ngài ra đi một mình lặng lẽ, ôi thôi

Xin cung tiễn và thành tâm bái biệt

Quảy gót về Tây, nhà xưa quy xứ

Xin Ngài mang theo cả tình tự Tăng Ni

Bạch Chư Phật, Chư Bồ Tát chứng tri

Tất cả đều kính lời vấn an thăm hỏi

Trực chỉ Tây Phương, rẽ đường sinh tử

Xin Ngài mang theo tình Pháp Lữ đong đầy

Sớm hồi nhập Ta Bà, Chư Tôn Đức còn đây

Để tiếp tục hành trình hoằng dương chuyển hóa

Ta Bà khổ: khổ, khổ, khổ, cho đến khi dứt khổ

Cõi Diêm Phù: nhẫn, nhẫn, nhẫn, cho đến khi hết đau

Đạo Từ Bi chưa cạn kiệt con tàu

Pháp Thân Phật vẫn hằng nhiên điều ngự

Vì bản nguyện: Phụng sự chúng sinh là cúng dường Chư Phật

Vì bản hoài: Cửu hữu đồng đăng giác hạnh mới viên thành

Thế giới ba ngàn còn vô lượng vô số chúng sanh

Hãy tiếp tục hành trình Như Lai Sứ Giả

Cung tiễn Ngài đi, giọt lăn trên má

Cung tiễn Ngài đi, giọt ngấn lưng tròng

Nếu không tình thức, phàm trược tiêu vong

Nếu vô cơ cảm, còn thua sỏi đá

Cung tiễn Ngài đi, hoa sen một đóa

Cung tiễn Ngài đi, ngự tọa Liên đài

Pháp giới trùng trùng, không một không hai

Liễu triệt tam thừa, dung thông nhị đế

82

Chúng sinh còn, Chư Sơn còn mẫn thế

Ngài Quán Âm, luôn nghe tiếng kêu thương

Ngài Địa Tạng, ở địa ngục đảm đương

Thì Chư Sơn gánh gồng Cõi Diêm Phù, phải đạo

"Hồng chung sơ khấu

Bảo kệ cao âm

Thượng thông thiên đường

Hạ triệt địa phủ"

Ngài đi, Pháp Lữ

Xin hẹn Ngài về

Về đây tình tự đề huề

Linh Sơn cốt nhục Tào Khê vuông tròn

Về đây nhuận sắt tô son

Như Lai Trưởng Tử hằng còn thiên thu

Về đây quay lại lò cừ

Khi nào tiêu triệt đồng cư Niết Bàn

Trước khi về hẳn Lạc Bang

Ta Bà đồng hội đồng thuyền Ngài ơi!

9.25pm 23-6-2016 (19-5-Bính Thân) Ngài thị tịch

Viết liền bài này cung tiễn Ngài đi, xin Ngài trở lại.

Cuộc đời và hành trạng

Trưởng lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan

Bốn Giáo Hội hải ngoại, Ngài là bậc niên cao nhất

Tăng Ni Việt Nam hải ngoại, Ngài là bậc Lạp trưởng nhất

Sinh năm 1928 tại Cần Thơ, Nam Việt

Hiện trụ 2016 tại Ca-li, Hoa Kỳ

18 tuổi thọ Phương trượng Sa Di

25 tuổi thọ Tỳ kheo cụ túc

Đã hoàn tất Cao đẳng Phật học

Lại tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa

Hai chương trình kết lá đơm hoa

Biển trí tuệ sóng triều duy thức

Chỉ ngần ấy, Ngài xứng đáng đi trước

Chỉ ngần ấy, Ngài xứng danh đứng đầu

Kể từ ngày Bốn Giáo Hội kết hợp liên châu

Ngài vẫn luôn ngự tọa cương vị đó

Bao nhiêu bậc Tôn túc đã giã từ quán trọ

Ngài Trí Chơn, Ngài Hành Đạo, Ngài Nguyên Lai

Ngài Minh Tâm, Ngài Như Huệ,... tỏa liên đài

Thì nay, chỉ còn một mình Ngài, duy nhất

Nhất ở điểm niên cao

Nhất ở điểm Lạp trưởng

83

88 tuổi đời, thế trần phong ba bão chướng

63 tuổi Đạo, thế đạo sóng dậy thiền môn

Nào ai đem sắt thử son

Đem son thử sắt có còn gì không

Chữ tang đập giũa chữ bồng

Ta Bà hồ thỉ tréo tròng ô hay

Trượng phu mới rõ mặt mày

Quân tử mới biết thật ngay đâu là

Phật là Phật

Quỷ là quỷ

Ma là ma

Phật đà, Đạt mạ, Tăng già

Kế ma, chước quỷ lòi ra tức thì

Đừng đem bánh vẽ mê si

Ngã nhân huyễn vọng ích gì mai sau

Đừng đeo mặt nạ kính màu

Gương trong chiếu rọi con tàu trần ai

Nên nhớ:

Đạo Pháp mở cửa thiên thai

Khai thông địa ngục kết đài diệu liên

Mở toang biển đục não phiền

Dẹp tan mộng mị đảo điên cuộc đời

Chứ Đạo Pháp không phải:

Người mù dò dẫm chỉ voi

Vô nhân mục thị học đòi thanh cao

Mượn danh giả tướng loạn trào

Ếch nằm đáy giếng kêu gào hư vô

Người con của Đức Phật:

Làm là làm việc Phật

Nói là nói việc Phật

Tri và hành việc Phật

Thượng hoằng Phật đạo

Hạ hóa chúng sanh

Tâm thượng sĩ xuất trần trùm vạn hữu

Chí thượng sĩ xuất xử phủ càn khôn

Đạo Từ Bi làm cho Tam đồ bát nạn kinh hồn

Nhẫn để nhiếp phục quần sanh

Chứ không phải thúc thủ ôm đầu tủi nhục

Đừng cho rằng:

Thời mạt pháp rồi muốn làm gì thì làm

Thời mạt pháp rồi muốn ra sao thì ra

Phật là Phật, ma là ma

Chánh là chánh, tà là tà, khác nhau

Chiêm bao vẫn mãi chiêm bao

Ngàn năm đi nữa cây đào trước sân

Bức tranh mưa Sở mây Tần

Còn đem phe phẩy phù vân ích gì

84

Chính thời mạt pháp

Người con của Đức Phật phải:

Kiên trung hơn

Dũng xuất hơn

Khí khái hơn

Lịch lãm hơn

Bởi Đạo Pháp còn, nhờ những bậc phát túc

Mạng mạch Phật Pháp còn, nhờ những bậc siêu phương

Quỷ dẫu thần sầu, vẫn chỉ là ác quỷ

Ma dẫu ma đầu, vẫn chỉ là ác ma

Thấy dáng Cà sa, đã tan hồn bạt vía

Dưới bóng Phật Đà, đã quỳ mọp khóc than

Huống chi chúng sanh lầm lỡ vô can

Người thượng sĩ lại càng cưu mang tế độ

Hoa Ưu Bát một lần đã nở

Tỏa ngàn năm đến vạn thiên thu

Hạnh phúc thay, người con Đức Phật

Hạnh phúc thay, Trưởng Tử Như Lai

Chúng sanh còn, hạnh nguyền chưa dứt

Chúng sanh tiêu, đồng ngự Liên Đài.

Viết kính tặng HT Thích Thắng Hoan khi Ngài còn hiện tiền.

Úc Châu ngày 21-7-2016

Kính dâng Hòa Thượng Giác Linh

Mới đó mà đã đến ngày Chung Thất

Chùa Pháp Hoa trông vắng vẻ Ngài ơi

Người vẫn đông nhưng trầm lắng khôn nguôi

Như mất mát những gì chưa mất mát

Ngài ra đi dấu mờ loang bụi cát

Một lần đi là vĩnh biệt muôn trùng

Chung quanh chùa bao hình ảnh tôn dung

Nhưng chỉ nhìn và lặng yên không nói

Ngài ra đi Linh Đài quyền quyện khói

Tiếng kệ kinh ngân vọng thoáng xa đưa

Nghĩa Tôn Sư sâu nặng nói sao vừa

Thầm nghĩ nhớ sóng lòng đong ngấn lệ

Kiếp trăm năm trải dài non thế kỷ

Nhịp tử sinh một thoáng biệt tăm ngàn

Hình bóng Ngài còn ẩn hiện mênh mang

Tổ Đình xưa lặng nhìn Ngôi Tháp Tự

Chính nơi đây, Ngài đang nằm trong đó

Chút hình hài di cốt trả thiên thu

Gởi cát bụi bay nắng đổ mưa bồi

85

Linh giác thể tương ưng vô sở trụ

Nhưng còn đây Pháp quyến Môn đồ Đệ tử

Và còn đây hàng Pháp lữ trước sau

Lý thâm sâu liễu triệt ý nhiệm mầu

Sự tường tận chứa nhiều ngăn bảo sở

Nghe chơn ngã gọi về trong nỗi nhớ

Nghe chơn thường miên viễn vọng niềm thương

Nghe chơn tịnh lồng lộng khắp muôn phương

Nghe chơn lạc tịch nhiên vô nhiễm thể

Mới đó mà đã đến ngày Chung Thất

Rồi Tiểu Tường, đánh dấu giáp một năm

Rồi Đại Tường, một năm nữa tròn năm

Và cứ thế cùng con thoi gõ nhịp

Cung thỉnh Ngài giáng lâm hoan hỷ ngự

Xin chứng tri cảm thọ tấm chân thành

Xin xót thương nỗi trầm thống chúng sanh

Mong cơ cảm nhập Ta Bà chuyển hóa.

Thành kính viết dâng Lễ Chung Thất

Cố Trưởng lão Hòa Thượng Pháp Hoa Đường Thượng.

Brisbane ngày 22-7-2016

Thích Nhật Tân