cuộc vượt ngục thần tiên

25
- 1 - Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên Nguyễn Ngọc Thạch Sau khi tù ci to đuc 5 năm, khi tôi đang tri Sui Máu Biên Hòa, thì có mt sđược đưa lên tri Tng Lê Chân gn An Lc Bình Long. Tôi mng thm là nếu đưa tôi lên Tng Lê Chân thì tôi có rt nhiu hy vng để trn tri, vì tôi biết rt rõ vùng đất này. Đơn vđầu tiên khi tôi mi ra trường là Đại đội 11 thuc Tiu đoàn 3, Trung đoàn 9, Sư đoàn 5 BBinh đóng gn sân bay An Lc Bình Long. Và trong sut thi gian phc vtcp Trung đội lên đến cp Trung đoàn tôi vn trong vùng rng xanh đất đỏ này. Gia tháng 5 năm 1980, hchuyn tôi ttri Sui Máu Biên Hòa lên tri Tng Lê Chân. Đây là mt tri tù gia rng, gm các dãy nhà tranh vi my lp hàng rào km gai bên ngoài và mt lp hàng rào tre bao bc bên trong che kín, không nhìn thy đuc bên ngoài. bn góc và ngay cng ra vào là các chòi canh đuc trí súng đại liên. Sau khi lên đến tri Tng Lê Chân, chúng tôi lin nghiên cu ngay kế hoch để trn, vì phi trn càng sm càng tt. Khi tri Sui Máu Biên Hòa tôi có lượm được mt cc nam châm hình trto bng đầu ngón tay. Theo nguyên tc ca địa bàn thì khi mt thanh nam châm đuc treo trên si ch, đuc quay tdo thì mt đầu luôn luôn chvhung Bc, còn đầu kia là hướng Nam. Vì hai đầu ging nhau nên tôi phi dùng du hc nha đường để làm du đầu hung Bc. Trong thi gian tù chung nhau qua các tri, tôi có quen thân và hay tâm svi Thu, mt ngui cùng thuc Sư đoàn 5 BBinh truc đây và có cùng chung mt quyết tâm là scùng nhau trn tri khi có dp. Thu cũng cho biết là có thêm mt

Upload: others

Post on 21-Oct-2021

7 views

Category:

Documents


4 download

TRANSCRIPT

Page 1: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 1 -

Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

Nguyễn Ngọc Thạch

Sau khi ở tù cải tạo đuợc 5 năm, khi tôi đang ở trại Suối Máu Biên Hòa, thì có một

số tù được đưa lên trại Tống Lê Chân gần An Lộc Bình Long. Tôi mừng thầm là nếu

đưa tôi lên Tống Lê Chân thì tôi có rất nhiều hy vọng để trốn trại, vì tôi biết rất rõ

vùng đất này. Đơn vị đầu tiên khi tôi mới ra trường là Đại đội 11 thuộc Tiểu đoàn 3,

Trung đoàn 9, Sư đoàn 5 Bộ Binh đóng gần sân bay An Lộc Bình Long. Và trong suốt

thời gian phục vụ từ cấp Trung đội lên đến cấp Trung đoàn tôi vẫn ở trong vùng rừng

xanh đất đỏ này.

Giữa tháng 5 năm 1980, họ chuyển tôi từ trại Suối Máu Biên Hòa lên trại Tống Lê

Chân. Đây là một trại tù ở giữa rừng, gồm các dãy nhà tranh với mấy lớp hàng rào

kẽm gai bên ngoài và một lớp hàng rào tre bao bọc bên trong che kín, không

nhìn thấy đuợc bên ngoài. Ở bốn góc và ngay cổng ra vào là các chòi canh đuợc trí

súng đại liên. Sau khi lên đến trại Tống Lê Chân, chúng tôi liền nghiên cứu ngay kế

hoạch để trốn, vì phải trốn càng sớm càng tốt.

Khi ở trại Suối Máu Biên Hòa tôi có lượm được một cục nam châm hình trụ to

bằng đầu ngón tay. Theo nguyên tắc của địa bàn thì khi một thanh nam châm

đuợc treo trên sợi chỉ, đuợc quay tự do thì một đầu luôn luôn chỉ về huớng Bắc,

còn đầu kia là hướng Nam. Vì hai đầu giống nhau nên tôi phải dùng dầu hắc nhựa

đường để làm dấu đầu huớng Bắc.

Trong thời gian ở tù chung nhau qua các trại, tôi có quen thân và hay tâm sự với

Thu, một nguời cùng thuộc Sư đoàn 5 Bộ Binh truớc đây và có cùng chung một

quyết tâm là sẽ cùng nhau trốn trại khi có dịp. Thu cũng cho biết là có thêm một

Page 2: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 2 -

nguời bạn nữa cũng muốn nhập bọn đó là Bình. Bình là một người rất tháo vát,

lanh lợi và đã từng đỗ đầu khóa học “Rừng Núi Sình Lầy” ở trường Biệt Động Quân

Dục Mỹ, Nha Trang. Bình đã làm đuợc một cái kềm để cắt kẽm gai. Kềm này làm

bằng hai quai xách của cuộn kẽm gai concertina, hai quai xách này bằng thép rất

cứng. Khi một đầu đuợc đập dẹp, mũi mài nhọn và đục lỗ, thì trông giống như lưỡi

dao. Nhưng khi hai cái lưỡi dao ghép chập vào nhau và dùng một cây đinh làm

trục xỏ xuyên qua hai lỗ, thì biến thành một cái kềm để cắt kẽm gai.

Để chuẩn bị cho việc trốn trại, mỗi nguời may một túi vải nhỏ bằng loại vải ngụy

trang để đựng đồ mang theo như lon guigoz, mì gói, gạo, muối, v.v. Mỗi nguời

mang theo một bộ đồ thật tốt, quần tây áo sơ mi bỏ trong bọc nylon thật kín cho

khỏi ướt, để bên trong áo truớc ngực, mặc đồ trận áo lính cũ bên ngoài. Ngoài ra

tôi còn may thêm một cái túi vải nhỏ để cất giữ cái địa bàn, có dây choàng qua cổ

để khỏi rớt mất. Mỗi lần đo là tôi rút một sợi chỉ từ lai áo trận và nhờ tôi có làm

dấu đầu huớng Bắc bằng dầu hắc nhựa đường nên tôi sờ vào là biết để đi cả ban

đêm. Chúng tôi phải kiểm soát lẫn nhau cho thật kỹ, quần áo mặc, túi vải, đồ đạc

mang theo tất cả đều phải đuợc ngụy trang cho tiệp với màu cây lá trong rừng và

không được gây ra tiếng động chạm nào. Ngoài ra chúng tôi còn sắp đặt những gì

sẽ bỏ lại, thật ít đồ bỏ lại, cố ý ngụy tạo như là có ý định sẽ đi xa, tức là sẽ đi về

huớng Bắc để qua biên giới Kampuchia.

Buổi chiều hôm đó tôi và Thu cùng ăn chung nhau, đem tất cả những gì ngon đem

ra ăn, ngốn cho thật đầy bụng để lấy sức tối đi. Tất cả đồ còn lại đem cho hết hoặc

chôn dấu. Thu đem cả túi ba-lô quần áo cho bạn bè. Tôi có cho một nguời bạn

cùng khóa là Lương Văn Thìn mấy gói mì, mà bạn tôi không hiểu tại sao, tuyệt

nhiên tôi không có đá động gì tới chuyện trốn trại.

Suốt trong ba tuần lễ liền, Thu đã phải theo dõi thật kỹ các toán tuần tra canh gác,

giờ nào đi tuần, giờ nào đổi gác, v.v. Sau cùng chúng tôi đã đi đến quyết định giờ

xuất phát là 9 giờ tối, khi máy phát điện vừa tắt thì bắt đầu chui ra. Ở đây mỗi tối

có máy phát điện cho công an coi truyền hình, đến 9 giờ thì tắt. Sau đó họ về sửa

soạn độ 15 phút sau là bắt đầu đi tuần. Và theo như chúng tôi dự tính là phải mất

10 phút để cắt kẽm gai và 5 phút chót phải bò thật nhanh qua con đuờng tuần tra

là khoảng đất trống bên ngoài. Địa điểm thuận lợi nhứt để chui ra là khoảng giữa

hai chòi canh phía sau trại. Ban đêm họ đứng gác trên chòi canh cao nên không

thể thấy rõ ở dưới đất đuợc, theo đúng nguyên tắc canh gác ban đêm là phải ở

dưới thấp. Còn ngày đi thì chúng tôi chọn vào cuối tuần trăng, để khi chui ra thì

trời còn tối, đến nửa đêm trăng lên dễ thấy đường để đi. Chúng tôi chọn đêm 22 ta,

âm lịch, vì tin dị đoan sợ đêm 23 ta là không tốt.

Đúng 8 giờ rưỡi tối đêm 22 tháng 4 âm lịch tức là ngày 3 tháng 6 năm 1980, chúng

tôi bắt đầu theo đúng kế hoạch ra ngồi ngoài cầu tiêu, để chuẩn bị cắt dây lạt của

Page 3: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 3 -

lớp hàng rào tre truớc, để đến đúng 9 giờ khi máy phát điện vừa tắt là chui ngay.

Nhưng không ngờ khi đó chúng tôi thấy ở ngoài suối có ánh đèn của công an

đang đi bắt cá ở duới suối, nên chúng tôi phải ngưng lại ngay và trở vô ngủ như

thuờng lệ.

Qua đêm hôm sau bắt buộc là phải đi chớ không thể nào chần chờ được nữa, vì sợ

nếu để lâu dễ bị bại lộ. Lần này cũng đúng 8 giờ rưỡi là ra cầu tiêu, vì cầu tiêu là

chỗ tốt nhứt để tới sát hàng rào mà không ai để ý. Bình bắt đầu cắt dây lạt của lớp

hàng rào tre và cố vạch ra một lỗ để sẵn sàng chui ra. Lớp hàng rào tre này đuợc

chôn sâu duới đất và sát khít nhau bằng hai lớp tre đan chéo vào nhau dầy đặc. Vì

vậy rất khó gỡ ra, phải đào sâu xuống đất mới vạch ra một lỗ vừa chui và phải làm

thật chậm thật kỹ vì sợ ở chòi canh nó có thể thấy lúc lắc ở đầu ngọn tre. Khi máy

phát điện vừa tắt bầu trời chụp tối đen là lúc chúng tôi bắt đầu chui, thì bất ngờ có

hai người đợi chui trốn theo. Thật hết sức bất ngờ và không thể nào từ chối đuợc

nên chúng tôi đành phải lo bảo bọc nhau cùng trốn. Bình chui ra trước là để cắt

kẽm gai rồi đến tôi chui kế, tiếp theo là hai người trốn chui theo và Thu là người

chui sau cùng.

Sau khi chui ra khỏi lớp hàng rào tre thì gặp lớp hàng rào kẽm gai thứ nhứt.

Nhưng phía dưới lớp hàng rào kẽm gai này là rãnh thoát nước với đất bùn sình

hôi thúi, nên chui lòn qua được mà khỏi phải cắt. Đến lớp hàng rào kẽm gai thứ

hai thì Bình bắt đầu cắt. Hàng rào kẽm gai của VC rào thì họ có quá nhiều kinh

nghiệm cho nên họ cho rào rất kỹ. Họ bắt phải đào một cái rãnh sâu xuống đất rồi

mới trồng cột sắt lên và rào kẽm gai ngay từ phía dưới rào lên, rồi lấp đất lại, nên

không có cách nào vén lên để chui lòn qua được, mà chỉ có cách duy nhứt là phải

cắt thì mới chui ra đuợc. Mà cái kềm cắt kẽm gai của Bình biến chế nên không cắt

dễ dàng nhanh chóng được. Khi đang nằm chờ trong đám cỏ tranh giữa mấy lớp

hàng rào với quần áo đầy bùn sình hôi thúi, tôi nhìn lên bầu trời đầy sao, cảm thấy

như bình tâm chấp nhận những gì đến sẽ đến, vì không còn cách nào hơn để lựa

chọn được nữa.

Bình cắt xong hàng rào này cũng mất 5 phút mới qua được và còn một lớp sau

cùng cũng mất 5 phút nữa. Và cuối cùng chúng tôi chui qua đuợc hết và phải bò

thật nhanh, chỉ dùng cùi chõ và đầu gối bò thật sát mặt đất như bò hỏa lực, vuợt

thật nhanh qua khoảng đất trống, rồi trườn mình xuống suối. Lúc đó tôi có cảm

giác như tim tôi đập quá mạnh như muốn vỡ lồng ngực. Tiếng thở dồn dập hổn

hển mà tôi nghe rất rõ, và gợn lên sóng nước khi ngâm mình trong nước để lội

qua suối.

Qua bên kia bờ suối chúng tôi phải bám theo rễ cây để leo lên vì lòng suối sâu

hẳm. Lên khỏi suối là băng mình qua đám rừng tre, rồi băng qua con đường mòn.

Con đường mòn này đi ra chuồng bò nên chúng tôi phải tránh xa nơi đây gấp vì sợ

Page 4: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 4 -

có nguời lui tới. Bất ngờ Thu bị lọt xuống một hố sâu có lẽ là hố rác, tụi tôi phụ

nhau kéo Thu lên. Vừa lên xong là đâm đầu chạy vô phía rừng rậm.

Không bao lâu sau, bỗng nghe tiếng súng đại liên từ các chòi canh nổ ran trời và

sau đó là những tiếng quát tháo hò hét của đám công an chạy túa ra về phía

chúng tôi, càng lúc nghe càng gần. Tiếng lên đạn súng AK47 nghe rớp rớp, tiếng

hò hét vang động khắp nơi, tiếng chửi rủa hăm dọa “địt mẹ ra đi không tao bắn

chết mẹ hết bây giờ”, nghe rất gần ở ngoài con đường mòn mà chúng tôi vừa mới

chạy qua. Vì vậy chúng tôi hết đường chạy, sợ chạy sẽ gây ra tiếng động dễ bị lộ,

nên 5 đứa tụi tôi đành phải chui vô một bụi rậm, nằm rút trong đó. Sau này được

biết là sau khi chúng tôi chui ra khỏi hàng rào, thì lại có người chui trốn theo, nên

bị phát giác bị bắt và bị đánh chết tại hàng rào và họ liền truy đuổi theo để bắt

chúng tôi.

Chúng tôi cố nằm yên không động đậy. Một lúc sau nghe tiếng máy điện chạy trở

lại và nghe tiếng lào xào ở trong trại, chắc là VC đang ra lệnh tập họp điểm danh.

Một hồi lâu sau thấy yên tịnh, không hiểu là họ vẫn còn lục soát hay ngồi núp rình

đâu đó hay là đã đi chỗ khác. Nhưng trong lúc đó chúng tôi quyết định là phải bò

đi vì không thể chần chờ ở đây lâu đuợc.

Chúng tôi 5 đứa bắt đầu bò đi thật chậm, hai tay rồi lại hai chân, đưa lên đặt xuống

thật nhẹ nhàng, nếu lỡ có một tiếng động nhỏ như tiếng lá cây kêu sột soạt hay

một tiếng cành cây gãy là ngưng lại ngay nghe ngóng rồi mới bò tiếp. Bò đuợc một

lúc lâu chừng một tiếng đồng hồ, tôi nghi là chưa đi được bao nhiêu, chân tôi bị

đứt ngang ở ống quyển máu ra ướt xuống tới vớ, tôi rờ thấy ướt mới biết, nhưng

cũng chẳng thấy đau đớn gì. Sau đó chúng tôi bắt đầu đứng dậy để đi cho nhanh ra

khỏi chỗ này, nhưng vẫn đi hết sức thật cẩn thận, bước đi thật nhẹ nhàng im lặng.

Tôi lấy thẳng hướng Nam mà đi, đi ngược với hướng Bắc là hướng qua biên giới.

Chúng tôi giữ đúng hướng, không đi theo đường mòn hay chỗ trống, bất kể là

băng qua các đám ô-rô dưới suối hay bụi lùm gai góc. Và càng lúc nghe tiếng máy

điện ở phía sau lưng càng nhỏ dần.

Khi đó nghe có tiếng xe molotova, loại xe chở quân của VC, chạy đổ ra tứ phía.

Chúng tôi phải đi chậm lại, sửa soạn đồ đạc cho thật gọn gàng, tuyệt đối không

đuợc gây tiếng động và phải quan sát cho thật kỹ. Mỗi người nhìn một hướng, khi

đến chỗ trống hay gặp đường mòn là dừng lại lủi ngay vô bụi rậm gần nhứt rồi từ

từ quan sát sau. Có nhiều lúc gặp họ đang đi bằng xe đạp, chạy ngang qua rất gần

mà họ không thấy. Mỗi khi muốn băng qua đường mòn hay trảng trống, chúng tôi

dừng lại nghe ngóng quan sát rất kỹ rồi mới chạy nhanh qua từng người một.

Bỗng đâu có một tốp người Thượng, vợ chồng con cái vừa đi vừa nói chuyện lào

xào, nên chúng tôi lủi tránh kịp thời.

Page 5: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 5 -

Lúc trời sáng hẳn chúng tôi đổi hướng đi về phía Đông tức là hướng ra quốc lộ 13.

Đi trong rừng hoang vắng nhưng thỉnh thoảng nghe có tiếng đốn cây chặt củi,

chúng tôi phải tránh xa ra. Đi tới chiều thì gặp con đường lộ đá đỏ, đó là đường vô

Minh Thạnh. Chúng tôi chuẩn bị kỹ rồi băng qua đường cho thật nhanh và lủi vô

sâu trong rừng một khoảng xa rồi dừng lại nghỉ. Chúng tôi lựa chỗ kín đáo để

dừng lại nghỉ, bởi vì từ đêm tới giờ gần một ngày tròn đã đem hết sức lực để cố

vượt thoát xa vùng nguy hiểm, nên bây giờ thấy thấm mệt, nhứt là vấn đề nước

uống rất là khan hiếm. Tôi mang theo lon guigoz đựng nước uống nhưng đã bị đổ

mất hết vì nắp đậy của lon guigoz không kín chắc, giờ thấy khát rát cổ họng. May

sao Bình tìm được một giếng nước bỏ hoang, cỏ mọc um tùm, nhìn xuống giếng

tối om không thấy nước, nhưng khi thòng lon guigoz xuống, múc lên được những

lon nước thật trong veo, uống thật ngon thật đã, nhờ đó chúng tôi ăn mì gói với

nước lạnh. Xong rồi lấy thêm đầy nước rồi đi ngay, tiếp tục lấy hướng Đông để ra

Quốc lộ 13.

Trời bắt đầu tối, nhưng khi tiếp tục đi thì nghe có nhiều tiếng súng trong rừng,

chắc có lẽ là họ đi săn, mà cũng có thể là bọn công an, vì vậy chúng tôi phải dừng

lại để tìm cách lẩn tránh. Chúng tôi ra giữa đám trảng tranh lớn cao quá ngang

đầu, vạch đuờng ra ở giữa đám tranh, trải một tấm nylon để nằm nghỉ lưng và

canh chừng mọi động tĩnh chung quanh. Nếu có người đi tới thì chúng tôi sẽ thấy

dễ dàng để tìm đường lẩn tránh, nhưng nguợc lại họ sẽ không thấy chúng tôi đuợc

vì tranh cao quá khỏi đầu. Khi đó hỏi chuyện nhau mới biết tên hai người đi chui

theo, đó là Tường phi công phản lực A37 và một người nữa tên là Thạch, hình như

là người Việt gốc Hoa, tôi không biết đơn vị, cả hai anh đều mang dép nên rất khó

đi.

Sáng sớm hôm sau chúng tôi tiếp tục lên đường sau khi xóa mọi dấu vết. Khi đi

thỉnh thoảng gặp các bẫy của người Thuợng rất là nguy hiểm, như bẫy cò ke, nếu

vướng chân vào thì cần bật sẽ bung lên rất là mạnh, có thể làm bị thương, hay bẫy

bắn tên khi đụng vào cần bật thì bao nhiêu mũi tên tẩm thuốc độc sẽ bắn xuống.

Vì vậy khi thấy khả nghi là phải dừng lại xem xét cho thật kỹ rồi tránh xa ra. Chúng

tôi rất khát nước vì đi cả ngày mồ hôi ra nhiều mà không có miếng nước uống nên

khát dữ lắm. Gặp một cây nói là trái gấm, Bình leo lên hái xuống ăn thử, vừa ngứa

miệng, vừa khát nước thêm. Có lần gặp được nước đọng trong các lằn bánh xe bò

và trên những lá cây khô còn đọng nước của những trận mưa trước, chúng tôi góp

nhặt lại hớp những giọt nước đó cho đỡ khát.

Đến chiều thì trong lúc đang đi bất chợt gặp một em bé trai độ 11, 12 tuổi đang

lang thang trong rừng. Chúng tôi giả dạng như là cán bộ đi khảo sát địa chất và hỏi

em bé ở đâu có suối, thì em bé đó chỉ về hướng trước mặt, đi thêm vài chục thước

là thấy suối, một con suối rất lớn. Nhìn ở phía xa kia là một khu rừng đã được phát

quang và có các cây to bị đốt cháy nám đen, một đám người đang cuốc đất làm

Page 6: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 6 -

rẫy, chắc là dân vùng kinh tế mới. Chúng tôi lội xuống suối uống một bụng nước

thật no nê. Sau đó chúng tôi tìm chỗ bụi lùm kín đáo để nấu cơm, nấu bằng lon

guigoz, hai đứa thay phiên nhau quạt để khói đừng bốc lên cao. Chúng tôi ăn bữa

cơm này thật là ngon, ăn cơm nóng với bột ngọt trong gói mì.

Sau khi ăn xong, trời đã xế chiều, chúng tôi thấy đoàn người làm rẫy đi về nhà đi

theo hướng Đông, như vậy là ra Quốc lộ 13, nên chúng tôi đợi cho họ đi hết rồi

mới men theo con đường mòn đó để đi cho nhanh. Đi độ chừng một tiếng đồng hồ

thì ra tới ấp, tôi đoán chừng là vùng Tân Khai hay Tàu Ô, nằm cạnh Quốc lộ 13.

Thấp thoáng nhìn từ xa thì thấy có lớp hàng rào tre bao bọc, và hình như có cổng

ra vào, giống như một trại tập trung, nên chúng tôi không dám đến gần và cũng

không muốn vô đó làm gì.

Sau khi trời sụp tối thì chúng tôi tiếp tục đi, chúng tôi dự định đi trong bìa rừng

theo đường rầy xe lửa Sài Gòn – Lộc Ninh nằm song song với Quốc Lộ 13 để đi, dự

định sẽ đi qua khỏi quận Chơn Thành, rồi mới ra đường đón xe. Riêng hai người

trốn theo là Tường và Thạch thì không dám đi nữa, mà họ có cho địa chỉ nếu ai về

được đến SàiGòn thì nhắn dùm gia đinh họ lên đón. Chúng tôi ba đứa đi lần mò

trong đêm và vì trời tối quá nên không đi được bao xa, mà đành phải dừng lại nghỉ

qua đêm.

Sáng sớm hôm sau lên đường đi tiếp, đi cho đến trưa thì dừng lại nghỉ bên cạnh

một cái ao nhỏ xung quanh có cây cối um tùm, dễ ẩn náu để nấu cơm ăn. Xong rồi

lại đi tiếp, đến chiều chạng vạng tối thì đến một cái ấp khác, một xóm nhà lô nhô

ngoài gần quốc lộ, chúng tôi ở bìa rừng trốn trong hầm hố cũ đuợc che phủ bởi

những lùm tre rất kín đáo. Buổi chiều dân trong làng đi lao động về, họ đi ngang

qua khá gần chỗ chúng tôi đang trốn, tiếng chó sủa dữ dội nhưng họ không để ý

mà chỉ lo đi cho mau về nhà.

Chiều hôm đó nằm nghe tiếng chó sủa, tiếng trẻ con đùa giỡn trên đường, nhìn

khói lam chiều từ một mái nhà tranh quyện bay lên không trung mà lòng tôi cảm

thấy buồn vô hạn. Chạnh lòng nhớ đến vợ con, thầm nghĩ đến một mái ấm gia

đình bên vợ hiền con thơ mà tôi uớc mơ được như họ. Được sống đầm ấm trong

một căn nhà tranh vách đất ở một miền thôn quê rừng núi nào đó. Nhưng nghĩ lại

thân phận tôi là một người tù trốn trại, tương lai rất mờ mịt, không biết ngày mai

sẽ ra sao. Một uớc muốn tầm thường, được làm một người dân bình thường để

sống mà lo cho gia đình nuôi vợ nuôi con cũng không được. Tôi buồn cho thân

phận bơ vơ lạc lõng của tôi trong cái xã hội mới này. Hoàn cảnh của tôi thật đúng

với câu “nước mất nhà tan, gia đình ly tán”.

Đêm đó chúng tôi khát nước vô cùng, cồn cào lên cổ họng. Bình với ý định lẻn vô

nhà dân để xin nước uống, nhưng tôi với Thu cản lại, vì bao công trình giờ rủi ro vô

Page 7: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 7 -

gặp phải nhà của công an thì nguy khốn, đành chịu nhịn khát qua đêm. Nhưng

không ngờ đến khoảng nửa đêm thì trời đổ xuống một trận mưa thật lớn. Chúng

tôi mừng quá lấy tấm nylon ra căng để hứng nước uống. Uống no bụng xong rồi,

đổ đầy vô lon guigoz mà trời vẫn tiếp tục mưa càng lúc càng lớn. Chúng tôi bị lạnh

quá phải ôm lấy nhau trên đầu phủ tấm nylon và mỗi đứa phải lo ôm thật chặt bộ

quần áo tốt ở trong bọc nylon, ôm kỹ ở trước ngực để giữ cho khô. Trận mưa này

thật lớn thật lâu sau cùng rồi cũng dứt hẳn. Vì không thể đi tiếp trong rừng cho

đến quận Chơn Thành, vì đường còn xa mà đường rầy xe lửa thì không còn

nguyên như trước nữa, mà chỉ còn là những đám rừng tre che phủ um tùm rất là

khó đi, chỉ có thể chui lòn dưới đám tre gai, cho nên chúng tôi quyết định là sẽ

chia tay nhau ở đây, phân tán ra mỗi người tự tìm cách để đi về Sài Gòn rồi sẽ gặp

lại nhau sau.

Trời hừng sáng chúng tôi thay bộ đồ thật tốt thật tươm tất, đồ đạc còn lại đem

chôn dấu trong bụi, xong chờ cho đến khi nghe có tiếng xe chạy là lần lượt ra

đường, lựa khoảng trống giữa hai nhà mà ra đón xe. Bình lên đường trước tiên,

một lúc sau thì đến Thu, và tôi là người ra đường sau cùng. Khi bước ra quốc lộ 13

tôi lấy bình tĩnh đi men theo bên đường chờ đón xe. Tôi không thấy Bình đâu hết

mà chỉ thấy Thu đang đi phía trước tôi một khoảng xa. Có chiếc xe Lam (xe ba

bánh chở hành khách hiệu Lambretta) chạy trờ tới tôi liền đón để đi, vì xe đã đầy

người nên tôi phải đeo theo xe đứng ở phía sau. Thu cũng lên đuợc chiếc xe đi

trước tôi. Xe chạy qua cầu Tàu Ô và như vậy là đêm qua chúng tôi đã ngủ ở giữa

khoảng Tàu Ô – Tân Khai. Trước kia, đây là đoạn đường nguy hiểm nhứt của Quốc

Lộ máu mang số 13 và cũng chính nơi đây đã xảy ra những trận chiến vô cùng ác

liệt, mà dấu vết các hầm hố còn lại rất nhiều, dọc theo bìa rừng trông ra quốc lộ.

Khi xe vô quận lỵ Chơn Thành tôi xuống xe ở đầu ấp Chơn Thành 2 để đi bộ vô, vì

sợ vô tới bến xe sẽ gặp công an. Đi bộ dọc theo con đường vào quận lỵ, tôi nhớ lại

các nơi mà ngày xưa quen biết như Trại cưa Lê Quang, Trại cưa Mai Chấn Hưng,

Lò than ông Năm Thãnh, sau này ông Năm Thãnh cũng lập thêm trại cưa. Đi gần

đến chợ là đến bến xe và tại ngã tư đường đi Đồng Xoài có một đồn cảnh sát hồi

xưa, bây giờ là đồn công an Việt Cộng. Tôi dự định đi bộ ra khỏi quận lỵ rồi mới đón

xe để đi Bình Dương. Tôi đi ngang qua dãy phố chợ mà ngày xưa có các tiệm ăn

như Nghĩa Thành, Bạch Tuyết, nổi tiếng với món canh chua cá lóc, cá kho tộ. Đi

ngang qua ngôi chùa, qua cây cầu là gần đến đầu quận lỵ. Tôi nhìn thấy Thu đang

đi phía trước bỗng dưng đổi hướng qua trái tấp vô một quán nước. Tôi nhìn kỹ về

phía trước phía bên phải thì thấy có một trạm kiểm soát nên tôi cũng đổi hướng

qua trái tấp vô một quán nước. Tôi nhớ mài mại hình như đây là quán của bà Năm

Chích, có cô con gái ra tiếp. Tôi kêu một ly cà phê, ngồi uống để quan sát coi trạm

kiểm soát đó nó hoạt động như thế nào. Tôi thấy rõ hai thằng công an coi tù ở

trong trại ra đây chận xét xe để nhìn mặt bắt chúng tôi, hai tên này đứng bên cạnh

trạm kiểm soát tài nguyên. Mỗi khi xe đến đó, tài xế vô trình giấy tờ cho trạm kiểm

Page 8: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 8 -

soát tài nguyên ở bên trong, thì hai tên Công an đứng bên ngoài đi ra lục soát xe.

Tôi đoán chắc là nó sẽ bố trí chận xét ở đây để bắt tù trốn trại, vì đây là quận lỵ gần

nhất, mà muốn ra khỏi quận thì phải đi ngang qua trạm kiểm soát này. Nếu đi

bằng xe đạp, xe thồ, mặc đồ như người đi làm cây làm củi trong rừng thì mới lọt

qua được. Còn nếu bây giờ băng vô trong rừng để đi bọc qua thì cũng sợ gặp phải

người lạ mặt họ dễ nghi ngờ, vì mình mặc đồ sạch sẽ tươm tất quá. Tôi còn đang

phân vân không biết phải làm cách nào để qua khỏi trạm kiểm soát này, thì thấy

Thu đi ngược trở lại, ngang qua chỗ tôi. Thu trở lại bến xe để đón xe đi, còn Bình

thì không còn thấy tâm dạng đâu hết, chắc là đã đi thoát rồi.

Tôi ngồi chờ một hồi thì thấy chiếc xe lô chạy trờ tới, tôi nhìn thấy Thu ngồi ở băng

sau cùng. Xe tới trạm kiểm soát thì ngừng lại, trong khi nguời tài xế vô trình giấy

tờ thì một tên công an đi ra nhìn vào xe, một lúc sau thì tài xế trở ra và nó cho xe

chạy đi. Tôi mừng cho Thu đã thoát nạn, giờ đây chỉ còn lại một mình tôi, tôi

không còn biết cách nào khác hơn là trở lại bến xe để đón xe đi. Đây là chỗ nguy

hiểm nhứt mà tôi cố tránh nhưng không được nên đành phải liều mạng.

Khi vô bến xe thì thấy có một chiếc xe lô, loại xe nhỏ để chở khách, tôi thấy xe

trống trơn chưa có ai, tôi lên ngồi băng sau cùng. Ngồi một lúc lâu thấy nóng ruột

nên mới hỏi bác tài là xe chừng nào chạy, ông ta nói chờ khách lên đầy thì đi, mà

thường là khách ở trong Minh Thạnh ra nhiều. Tôi hơi lo vì khách ở trong Minh

Thạnh ra có thể là công an trong trại ra đi phép. Ngồi một hồi lâu thì chợt có một

tốp người đi buôn than họ lên gần đầy. Bỗng tôi thấy có hai đứa nhỏ độ hơn mười

tuổi tay cầm một con gà, tay xách một giỏ đồ, tôi liền nhanh miệng kêu hai em bé

đó vô ngồi gần bên tôi và tôi phụ xách dùm đồ, làm như vậy thấy đỡ trống trải vì

có hai em nhỏ che đỡ phần nào.

Khi xe chạy tới trạm kiểm soát thì dừng lại, bác tài vào trình giấy tờ trong trại kiểm

soát tài nguyên. Tôi thấy một thằng công an, đứng bên cạnh trạm kiểm soát, bước

ra để nhìn mặt người trên xe. Nó nhìn vào băng trước, trên đó có hai người ngồi,

tôi nghe tiếng quát tháo của tên công an là hai người ngồi đằng truớc là “tại sao

đầu tóc để dài bù xù như cao bồi du đãng, đâu đưa giấy tờ coi”. Sau khi coi xong

giấy tờ hai người phía trước là nó liệng vô xe rồi ra lệnh cho đi một cách thật oai

quyền. Cũng vừa lúc bác tài đã trở ra xe, bác tài liền rồ ga cho xe chạy đi, mà lòng

tôi vui mừng khắp khởi vì vừa thoát được một trạm kiểm soát thật là vô cùng nguy

hiểm.

Xe chạy qua khỏi Tham Rớt, Bầu Bàng, Bầu Lòng rồi đến quận Bến Cát, ở đây cũng

có trạm kiểm soát nhưng là trạm kiểm soát tài nguyên nên không có gì trở ngại.

Xe chạy về tới Chánh Hiệp Bình Dương, một trạm kiểm soát rất lớn, nơi cửa ngõ vô

thành phố nên xe đậu nối đuôi nhau rất dài. Chiếc xe tôi đi là xe nhỏ chở than lậu

Page 9: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 9 -

nên tài xế đã biết cách vô trình giấy tờ và nộp tiền mãi lộ là xong ngay. Xe đi tiếp

vô thành phố vào đậu ở bến xe, tôi xuống xe cũng vẫn còn nắm tay hai em bé vô

mua giấy xe để về Sài Gòn, vì hai em bé đó cũng về Sài Gòn. Tôi thấy người ta sắp

thành hàng dài để chờ mua vé xe, tôi cũng sắp vô hàng chờ đợi. Nhưng khi tôi

nhìn kỹ lại thì thấy mỗi nguời khi mua vé xe đều phải trình ra một thứ giấy tờ gì đó,

hình như là giấy phép đi đường hay là giấy căn cước, mà trong mình tôi thì không

có thứ giấy tờ nào nên tôi hơi sợ, nên mới nói với hai em nhỏ là cứ sắp hàng để

mua vé về SàiGòn trước đi còn tôi thì sẽ đi sau. Tôi bỏ ra ngoài tìm đường khác để

đi, chớ khi mua vé họ hỏi đến giấy tờ là mình không biết trả lời ra sao, vì trong

mình tôi không có thứ giấy tờ nào hết. Tôi vào quán nước kêu ly nước đá chanh

vừa uống vừa quan sát để tính kế. Bỗng chợt thấy xe Honda ôm, tôi liền nghĩ ra

phương cách hay nhứt để đi về Sài Gòn là bằng xe ôm. Tôi dự định là sẽ về nhà của

chị Đồ ở Phú Thọ. Trong những lần đi thăm nuôi, vợ tôi thường đi chung với chị Đồ

nên hai gia đinh rất thân nhau và trước khi trốn trại tôi có dọ hỏi anh Đồ địa chỉ

nhà cho thật kỹ, thật đầy đủ chi tiết đường đi nước bước, làm sao vô nhà, đi vô ngõ

hẻm nào, v.v. Tôi chỉ hỏi chơi chơi chứ không cho anh biết ý định trốn trại của tôi.

Anh lái xe ôm ra giá đi SàiGòn là 50 đồng, tôi không có đủ tiền nhưng tôi nói với

anh là đưa tôi về đến nhà tôi lấy tiền rồi trả sau. Sau khi bằng lòng giá cả anh ta

mới đi đổ xăng và trở lại đón tôi. Trên đường đi tôi cũng nói thêm với anh là tôi vừa

ở vùng kinh tế mới về, bị mất hết giấy tờ nên nhờ anh chạy làm sao để tránh các

trạm kiểm soát. Anh ta nói là tụi công an nó chỉ xét coi có buôn đồ lậu, chứ như

ông đi mình không, thì không có gì để xét thì đừng có lo. Tôi nghe mừng trong

bụng và trong lúc đi đường tôi có hỏi chuyện thì anh có cho biết hồi trước anh là

lính của Sư đoàn 5 Bộ Binh. Nghe biết vậy thôi chứ tôi cũng không có hỏi thêm gì

về chuyện ngày trước. Xe chạy qua các trạm kiểm soát Búng, Lái Thiêu rồi Bình

Triệu. Thấy xe kẹt đậu dài dài để chờ xét, còn xe Honda ôm này chạy qua hết mà

không bị hỏi han gì và sau cùng vô Sài Gòn qua ngã cầu cư xá Thanh Đa rồi qua

cầu Phan Thanh Giản và chạy trên đường Phan Thanh Giản để về Phú Thọ.

Nhìn quang cảnh thành phố SàiGòn sau 5 năm trở lại, tôi cảm thấy như bơ vơ lạc

lõng, như lạc vào một thế giới nào xa lạ lắm. Đây không phải là thủ đô Sài Gòn

năm xua, một thời đã từng đuợc mệnh danh là một “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Nay tôi

thấy trên đường toàn là xe đạp, mà người người trông lam lũ tả tơi, không cười

không nói, với dáng vẻ buồn thiu ảm đạm, thật đúng với câu “người buồn mà cảnh

có vui đâu bao giờ”.

Khi đến Phú Thọ, xe Honda chạy vào con hẻm nhỏ, một số con nít chạy theo. Khi

xe vô đúng số nhà mà tôi đã học thuộc lòng, tôi gõ cửa và chị Đồ ra mở cửa. Khi

thấy tôi chị buột miệng la lên: “Ủa anh Thạch mới được thả về, còn ông Đồ của tôi

đâu.” Tôi lật đật nói nhanh là tôi mới được thả về và xin muợn chị 50 đồng để trả

tiền xe. Chị vô lấy tiền cho mượn ngay để trả tiền xe. Khi xe đi rồi và đám con nít

Page 10: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 10 -

đã tản đi hết rồi thì tôi mới nói thiệt với chị là tôi trốn trại và nhờ chị về báo tin cho

vợ tôi hay. Chị hốt hoảng cho biết là mới vừa tuần trước đây thằng em trai của chị

vừa mới vượt biên đã đi thoát được. Nhà chị đang bị công an phường khóm điều

tra theo dõi, cho nên chị không dám chứa tôi trong nhà, mà bảo tôi ra ngoài

đường đón xe autobus để ra bến xe Xa Cảng miền Tây, ở Phú Lâm, rồi sẽ tính sau.

Truớc khi đi tôi còn hỏi muợn chị đôi giày, vì đôi giày tôi đang đi là loại giày đi rừng

nên đi trong thành phố coi không tiện. Chị cho tôi muợn đôi giày sandal và còn

đôi giày đi rừng của tôi thì chị nói là chị sẽ đem lên cho anh Đồ trong lần thăm

nuôi tới.

Tôi ra khỏi hẻm ra ngoài đường thì thấy có một quán hủ tiếu, tôi liền tấp vô ăn một

tô hủ tiếu, uống một ly cà phê sữa, rồi mới ra đón xe autobus để đi ra Xa Cảng

miền Tây. Khi ra đến bến xe Xa Cảng miền Tây, tôi thấy cả một rừng người hỗn độn

la liệt khắp nơi. Họ trải chiếu, trải tấm nylon hay kê tấm ván tùm lum tứ tung

không theo một lề lối nào cả. Hỏi ra mới biết đây là những người bỏ vùng kinh tế

mới trở về, nhà cửa bị tịch thu không nơi nương tựa đành phải sống lang thang

đầu đuờng xó chợ bến xe. Sau khi thấy cảnh hỗn độn này tôi nghĩ thầm là mình có

thể trà trộn để ngủ tạm qua đêm ở đây.

Trong khi đó thì chị Đồ đạp xe đạp từ Phú Thọ vô Gia Định để báo tin cho vợ tôi

biết. Sau này gia đinh kể lại là khi chị Đồ vào nhà, chị rất lo sợ có người theo dõi,

nên chị kéo vợ tôi ra phía sau nhà, không cho mấy đứa con tôi lại gần, rồi chị mới

nói cho vợ tôi hay là tôi đã trốn trại. Tôi đang ngồi uống nước đá chanh ở xe nước

đá và định chỗ ngủ qua đêm, thì bỗng thấy chị Đồ đạp xe đạp ra tới. Chị đưa cho tôi

50 đồng và một giấy cử tri của vợ tôi gởi và căn dặn tôi sáng mai ra mua vé xe đò

để về Mỹ Tho.

Sáng sớm hôm sau trước khi ra bến xe tôi đi tìm nhà của Thạch, là một trong hai

người trốn chui theo. Thạch và Tường thì còn ở lại trong rừng và có dặn là nếu ai

có thoát về được Sài Gòn thì báo tin cho gia đình họ biết tin, để tìm cách lên đón.

Địa chỉ của Thạch thì tôi nhớ lờ mờ là ở gần Phú Lâm nên tôi sẵn dịp ghé qua báo

tin. Lúc đó trời còn lờ mờ chưa sáng hẳn, đường vắng vẻ. Khi đi ngang qua trạm xe

chữa lửa có vài tên công an đang đứng nói chuyện ở phía trước, tôi cố giữ bình

tĩnh khi đi ngang qua. Sau cùng tôi tìm được nhà của Thạch, tôi gõ cửa một hồi thì

có người ra mở cửa nhưng với dáng vẻ bực bội vì tôi đánh thức họ quá sớm. Tôi

hỏi có phải là nhà của Thạch không, thì họ không trả lời mà đóng ập cửa lại làm tôi

ngần ngừ một lúc, vì tiếc là không báo tin cho gia đình Thạch được. Tôi cũng

không biết là có đúng nhà không, hay là họ sợ không dám tiếp tôi. Cho đến sau

này tôi cũng không biết tin tức gì về hai người trốn chui theo, có thoát được không

và bây giờ ra sao.

Tôi trở ra bến xe ngồi xếp hàng chờ để mua vé xe về Mỹ Tho, trong túi có 50 đồng

Page 11: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 11 -

và thẻ cử tri nên thấy hơi yên tâm. Một hàng rất dài ngồi chờ mua vé xe rồi từ từ

nhích lần lên. Tôi ngồi chòm hỏm hai tay bó gối gục đầu rồi thiếp đi lúc nào không

hay. Bỗng đâu có người vỗ vai kêu tên tôi, tôi giật mình nhìn lên thì thấy chị Đồ,

chị bảo tôi vô quán nước ở bên kia đường để gặp bà xã tôi. Vừa mừng vừa lo, chỉ

sợ công an theo dõi vợ tôi để đón bắt tôi nên tôi hơi luỡng lự. Chị Đồ vô đứng thế

chỗ tôi để mua vé xe.

Tôi vô quán để gặp bà xã tôi, vợ tôi đã kêu đủ thứ đồ ăn nào hủ tiếu, bánh bao,

xiếu mại, v.v. Bà xã tôi kêu tôi ăn đi, ăn đi. Tôi hỏi coi có ai biết hay theo dõi gì

không, thì thấy không có dấu hiệu gì. Ba đứa con tôi đang ở nhà chưa hay biết gì

về chuyện này. Sau này kể lại mới biết là chúng nó đói khổ lắm, đâu có được ăn hủ

tiếu bánh bao như thế này. Từ ngày tôi đi tù tới giờ gia đình suy sụp, có bao giờ

dám ăn các món cao lương mỹ vị này đâu và tôi cũng quên hỏi mời vợ tôi cùng ăn,

bà xã tôi cứ kêu tôi ăn đi, ăn đi. Phần thì lo sợ công an nó theo dõi, phần thì không

biết là về Mỹ Tho rồi sẽ làm gì, nên tôi cố nhét cho đầy bụng rồi đi liền. Tôi dặn vợ

tôi là đừng có xuống Mỹ Tho, mà nên ở nhà lo cho mấy đứa con còn nhỏ dại, đừng

để bị nguy hiểm cho cả hai, rồi không ai lo cho các con.

Tôi trở ra chỗ mua vé xe thì chị Đồ đã mua vé xong xuôi và chị còn cẩn thận mua

cho tôi tờ báo Nhân dân, chị bảo lên xe đọc báo này người ta tưởng là cán bộ. Tôi

lên xe ngồi gần băng phía sau. Xe chạy qua hết các trạm kiểm soát một cách dễ

dàng vì ở mỗi trạm bác tài đều biết thủ tục đầu tiên, là tiền đâu. Qua Bình Chánh,

Bến Lức, Tân An, Tân Hương, Tân Hiệp, Trung Lương rồi vô thành phố Mỹ Tho.

Xe vô đến bến, tôi xuống xe và vô tìm đứa em gái tôi. Vợ tôi có cho biết là em gái

tôi bây giờ làm ở tổ hợp may mặc phuờng 4 ở bến xe này. Mới vừa vô gặp mặt em

tôi, nó mừng rỡ rồi la lớn “Ủa anh Tư mới đuợc thả về.” Tôi hơi bối rối vì sát bên

cạnh tiệm may là đồn công an phường 4, có một số công an đang đứng gần đó sợ

nó nghe được. Tôi giả bộ như thiệt nói một hơi là anh mới được thả về bây giờ em

có rảnh ra quán uống nước. Em tôi lật đật xin phép bà hội trưởng hợp tác xã rồi đi

liền. Ra tới quán nước tôi mới nói thiệt với em tôi là tôi trốn trại. Em tôi giật mình

mặt tái xanh vì quá bất ngờ. Tôi dặn dò em tôi về nhà cho má hay và coi chung

quanh có ai không rồi cho anh biết để anh về nhà. Em tôi đạp xe đạp chạy về báo

tin xong trở lại làm việc, còn tôi một mình đi bộ về nhà. Má tôi đã biết trước nên

đã mở cửa sẵn chờ.

Khi vô nhà tôi đi thật nhanh và đi thẳng ra phía sau nhà vì sợ lối xóm nhìn thấy.

Sau đó em tôi đi làm về có mua cho tôi một dĩa cơm sườn và hôm sau là cơm tấm

bì chả và mua hủ tiếu bánh bao, v.v. toàn là các món ăn ngon đắt tiền mà tôi cũng

quên hỏi là em tôi đi may lương tháng bao nhiêu. Má tôi thì già yếu không có làm

gì ra tiền. Hồi trước Má tôi đi may đồ quần áo ở trong nhà thương Mỹ Tho, nhưng

Page 12: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 12 -

đã nghỉ lâu rồi. Sau này mới biết là ở nhà không có đủ tiền để mua gạo, đôi khi còn

phải bán máu để đổi lấy mấy bát cơm, thì nói gì đến thức ăn sang trọng. Thì ra em

tôi chạy qua Chợ Cũ để xin Cô tôi. Cô Ba tôi có mở tiệm ăn, Cô rất thương tôi, vì

vậy khi hay tin tôi về, cô tôi liền gởi cơm và đồ ăn rất ngon qua cho tôi.

Ở đây được mấy ngày thì vợ tôi xuống thăm tôi làm cho tôi càng thêm lo sợ, vì sợ

công an theo dõi. Tôi mới tính tìm đường vượt biên chớ ở đây lâu thế nào cũng bị

bại lộ. Mà tìm đường dây để vượt biên không phải là chuyện dễ dàng. Phần thì

không có tiền, phần thì không dám đi lại nên cũng không biết cách nào để vượt

biên, mà tội vượt biên lúc đó bị coi như là tội phản quốc, chạy theo đế quốc, bọn

công an biên phòng bắt được là chỉ có chết. Hồi đó đã có xảy ra những cảnh vượt

biên bị đổ bể, bị công an tàn sát như ở cầu Chữ Y Sài Gòn, như ở bãi biển Vũng

Tàu, như ở kinh Chợ Gạo hay ở cửa biển Gò Công, v.v. Họ tàn sát không nương

tay, mặc cho tiếng khóc trẻ thơ, hay những lời van xin lạy lục, của những người

khốn khổ cùng đường. Tôi dự định nếu không tìm được đường đi bằng ghe tàu, thì

như đã hẹn với Thu và Bình, là sau một tháng chúng tôi sẽ gặp lại nhau, để bàn

tính để đi bằng đường bộ.

Vợ tôi lại xuống một lần nữa và lần này có cả đứa con gái đầu lòng của tôi. Coi như

vậy là tôi ở đây được một tuần lễ và vợ tôi đem tiền xuống lần này là để mua vé xe

cho tôi đi Cà Mau vào sáng sớm mai, vì hy vọng ở Cà Mau dễ kiếm đường vượt

biên hơn. Bất ngờ ngay buổi chiều hôm đó vào khoảng 7 giờ, thì có một người anh

bà con cô cậu, đi cùng với một người bạn, xuống thăm để từ giã Má tôi, để sáng

sớm mai họ lên đường đi Kampuchia, và từ đó sẽ tìm đường vượt biên, và anh

muốn xin địa chỉ của em tôi, hiện đang sống ở Mỹ, để anh liên lạc khi cần. Thật là

một điều quá may mắn cho tôi vì sau khi anh biết tôi vừa mới trốn về nên anh kéo

tôi đi theo luôn.

Thế là phải trở về Sài Gòn ngay trong đêm nay để sáng sớm mai lên đường đi

Kampuchia. Tôi từ giã Má tôi và để đứa con gái đầu lòng ở lại với Bà Nội. Tôi và vợ

tôi đi theo Long và Nghĩa ra đón xe để về Sài Gòn. Tôi ra đi mà lòng buồn vô hạn,

rồi không biết sẽ đi tới đâu trên bước đường bôn ba vô định này. Ở lại Mỹ Tho thì

không được, mà đi qua Kampuchia thì cũng không biết ra sao, thật là đau lòng

trước cảnh chia tay, rồi đây không biết có còn được gặp lại nhau. Trong đêm đó

hai bà cháu đã tụng niệm suốt đêm để cầu nguyện cho chuyến đi của tôi được

bình an. Trời đã tối lúc đó khoảng 9 giờ đêm nên không còn xe chạy về Sài Gòn.

Chúng tôi đón chiếc xe lôi đạp để đi vô ngã ba Trung Lương, hy vọng ở đó sẽ có

nhiều xe miền Tây lên, dễ đón hơn. Ông xe lôi, đạp không muốn nổi, vì trên xe có

tới 4 người, nên chúng tôi phải thay phiên nhau nhảy xuống để đẩy phụ, nhứt là

khi lên dốc cầu Trung An, thì phải nhảy xuống hết rồi qua cầu mới nhảy lên lại.

Vô tới ngã ba Trung Lương là trời đã tối, nên không còn thấy xe miền Tây nào hết,

Page 13: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 13 -

mà chỉ thấy có một chiếc xe hàng bị hư máy và người tài xế đang sửa chữa. Chúng

tôi mon men lại gần tìm cách làm quen rồi dọ hỏi xin quá giang về Sài Gòn, nhưng

ông tài xế nhìn chúng tôi như nghi kỵ điều gì nên lắc đầu trả lời một cách sẵng

giọng là xe đang hư mà làm sao cho quá giang đuợc, vì vậy chúng tôi lại lủi thủi đi

tiếp. Ở đây có một trạm công an khá lớn để xét xe từ miền Tây lên, nên có nhiều

công an ở đồn bót này, nên trong đêm tối mà đi lang thang ở đây cũng nguy hiểm

lắm. Tình cờ có một chiếc xe lô chạy từ Mỹ Tho lên hướng về Sài Gòn, chúng tôi

mừng quá đón ngoắc lại nhưng xe không ngừng mà chạy luôn một khoảng, rồi

bỗng đâu xe dừng lại và lùi lại cho chúng tôi quá giang. Bác tài chỉ cho đi quá

giang một quãng đường lên đến Tân Hương để đón xe khác mà đi, vì xe này đi về

nhà để nghỉ nên không có đi Sài Gòn.

Trong khi xe đang chạy và qua tài giao thiệp của anh Long, cũng là lơ xe, nên anh

biết nhiều người trong nghề xe đò nên câu chuyện dần dần trở nên thân mật và

bác tài dần dần có cảm tình với chúng tôi. Và sẵn đó anh Long đề nghị bao xe đi

Phú Lâm rồi bận về anh sẽ phụ giúp tìm khách cho chuyến trở về. Vợ tôi móc

trong túi ra đếm còn 200 đồng nên đề nghị bao xe 200 đồng và nhờ anh Long nói

thêm vô, nên sau cùng bác tài chịu đi Phú Lâm với giá 200 đồng. Thật là hết sức

may mắn, chớ nếu tới Tân Hương chưa chắc gì có xe để đi, mà nếu không lên kịp

Sài Gòn trong đêm nay thì ngày mai xe sẽ đi sớm rồi, sẽ mất đi một dịp may hiếm

có ngàn vàng.

Khi xe chạy qua khỏi trạm công an Tân Huơng một quãng, thì gặp một tốp công

an ra chận đường. Tôi thấy nguy vì trên xe không có ai khác, chỉ có gia đình tôi,

nên rất khó xoay sở trà trộn. Tôi có ý dò hỏi bác tài coi tính sao, nhưng bác tài

cho biết là xe không có ngừng đâu vì tụi này là tụi chuyên chận xe dọc đường để

ăn cuớp, bác tài rất rành về bọn này. Tôi nghe thế cũng thấy mừng thêm, vì thà là

chạy luôn nó có bắn theo cũng khó trúng. Bác tài cho xe giảm tốc độ rồi khi đến

gần bọn chúng thì tống hết ga vượt nhanh qua, nên chúng trở tay không kịp, nên

xe chạy vượt qua một cách êm xuôi. Nhưng tôi lại lo cho trạm kiểm soát kế tiếp sợ

tụi nó gọi máy báo lên chận bắt xe lại thì còn nguy hiểm hơn. Tôi hỏi ý bác tài thì

bác tài nói là tụi nó đâu có máy móc gì đâu mà báo đừng có lo, nên tôi càng yên

tâm tin tuởng bác tài muôn phần. Xe qua khỏi Tân An, Bến Lức, Bình Chánh rồi

vào Phú Lâm một cách êm xuôi.

Sau khi trả tiền xe xong xuôi là chúng tôi chạy đi ngay vì trời đã tối rồi mà còn phải

chạy lo kiếm mượn tiền để đi. Chúng tôi về nhà của Nghĩa cũng ở gần đó, vợ chồng

tôi muợn chiếc xe đạp để đạp vô Phú Thọ. Vô tới nhà chị Đồ là đúng nửa đêm, giờ

giới nghiêm. Chị Đồ không có sẵn vàng chị rút chiếc nhẫn đang đeo trên tay 2 chỉ

vàng đưa cho tôi mượn đỡ. Tôi đạp xe đạp chở vợ tôi trở về nhà của Nghĩa trong

lúc đã quá giờ [giới] nghiêm nên cũng sợ bị hỏi giấy tờ hay bị bắt lại thì trễ chuyến

xe sáng sớm mai đi. Tôi đạp xe lên dốc cầu Minh Phụng không nổi, vợ tôi phải

Page 14: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 14 -

xuống xe đẩy phụ qua cầu, người của tôi lúc đó rất là ốm yếu xanh xao.

Về tới nhà Nghĩa, là chúng tôi phải đi ngay đến chỗ đậu xe, để kịp chui vô trong xe

sắp xếp truớc khi trời sáng. Đây là chiếc xe hàng dân sự bị VC trưng dụng để chở

chiếu qua Nam Vang tiếp tế cho bộ đội VC bên Kampuchia. Long là lơ xe của chiếc

xe này nên mới dấu Nghĩa và tôi vô trong đống chiếu mà tài xế không hay biết gì.

Sau khi sắp lại đống chiếu, vạch ra một lỗ vừa đủ để hai đứa tôi chui vô, xong rồi

Long mới gác hai cây gỗ đà ngang trên đầu rồi sắp chiếu phủ kín lên như cũ rất là

kín đáo. Chúng tôi đem theo một bình nước và hai ổ bánh mì với một gói muối.

Ngoài hai chỉ vàng của chị Đồ cho mượn, vợ tôi đưa luôn chiếc nhẫn cưới đang đeo

ở tay đưa cho tôi, như vậy tôi mang luôn hai chiếc nhẫn cuới. Lúc đó cũng khoảng

3, 4 giờ sáng, vợ tôi và má của Nghĩa cũng vẫn còn ngồi đâu đó để chờ sáng ra xe

chạy. Long ngồi ở ngoài nên có cho tụi tôi biết là vợ tôi và má của Nghĩa khóc

nhiều lắm, vì không biết chúng tôi đi làm sao, vì không ai có tiền hay có vàng đem

theo, không biết rồi sẽ đi đến đâu. Riêng tôi thì tôi quyết ra đi mặc dầu không biết

ra sao, nhưng vẫn còn tốt hơn là ở lại Việt Nam.

Sáng sớm hôm sau xe rời bến để đi Nam Vang, nhìn qua khe ván ở sàn xe trời còn

lờ mờ nghe tiếng người nói lao xao mới biết là vừa qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền. Khi

đến trạm kiểm soát biên giới thì họ chỉ xét qua loa vì đây là chuyến xe công tác

chở đồ cho bộ đội VC. Xe chạy càng nhanh đống chiếu trên đầu càng đe nặng, vì

cây gỗ chận trên đầu không còn ở nguyên vị trí cũ, mà vì sự lúc lắc của chiếc xe đã

làm lệch đi và hai đứa tôi phải đưa lưng chống đỡ sức nặng bên trên đè xuống. Tệ

hại hơn nữa là dọc đường VC đón xe đi quá giang nên họ ngồi trên đầu chúng tôi.

Nghe tiếng họ nói chuyện với nhau thì biết là VC đang ngồi ở ngay trên đầu mình.

Chúng tôi phải ráng đưa lưng ra chịu đựng, vì chỉ sợ nó sụp xuống thì bị lộ ngay,

rất là nguy hiểm. Khi tiểu tiện thì phải đợi lúc xe chạy nhanh rồi mới dám tiểu qua

khe hở của ván sàn xe mà phải tiểu từ từ để bên ngoài không thấy không biết.

Đến chiều thì xe tới nơi đậu vào một chỗ nào đó mà tôi nghe có tiếng nhạc của

những bản nhạc ngày xưa. Tôi mừng thầm vì được nghe lại những tiếng hát quen

thuộc đầm ấm nồng nàn tràn đầy kỷ niệm của ngày trước. Tiếng nhạc hòa lẫn tiếng

người nói chuyện lao xao gần bên cạnh xe. Chúng tôi vẫn nằm im trong xe chờ khi

nào có hiệu lệnh của Long thì mới ra được. Một hồi lâu sau khi bên ngoài hoàn

toàn im vắng và khi nghe ba tiếng hiệu lệnh của Long thì chúng tôi chui ra. Khi

nhảy xuống xe, tôi không thể đứng được vì bị ngồi lâu trong thế co ro nên chân bị

tê cứng, mà Long thì thúc hối phải đi khỏi nơi đây ngay vì sợ tài xế và an ninh

đoàn xe họ biết, nên tôi và Nghĩa phải cố lết đi ra khỏi xe thật xa.

Nhìn chung quanh, đây là một đồn binh khá lớn ở cuối đại lộ, bên cạnh một sân

vận động, xe đậu một đoàn dài chừng vài chục chiếc, tài xế và lơ xe khá đông, có

nhiều xe họ mang theo cả gia đinh vợ con với đồ đoàn nồi niêu soong chảo, nên

Page 15: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 15 -

tôi thấy cũng dễ trà trộn ẩn thân. Tối đó tôi và Nghĩa ngủ ở một đám cỏ bên cạnh

đường khoảng giữa đoàn xe và không dám gần xe nào cả vì sợ họ báo với an ninh

đoàn xe.

Ngay tối hôm sau, tôi bán chiếc nhẫn cưới được 75 đồng Riel, tiền Kampuchia, và

nhờ Long môi giới mời một số tài xế lơ xe ra quán nước uống cà phê nghe nhạc,

để tìm cách lân la làm quen gây cảm tình với họ. Tôi và Nghĩa đóng vai lơ xe, bạn

với Long. Vì Nghĩa cũng là lơ xe nên nói chuyện dễ dàng, còn tôi thì cảm thấy hoàn

toàn xa lạ, nên trong các câu giao tiếp tôi thường cười nhiều hơn là nói vì sợ bị bại

lộ tông tích.

Ban ngày thì ra chợ Nam Vang, bữa đầu thì đi bằng xe lôi cho mọi người thấy, và vì

không biết đường, mấy lần sau thì đi bộ. Đi ngang qua mấy con đường rất đẹp với

hai hàng cây phủ mát bên đường, với những ngôi biệt thự sang trọng kiến trúc

theo kiểu villa của Pháp, giống như khu đường Duy Tân, Yên Đỗ ở bên xứ mình.

Mấy ngôi nhà sang trọng đó bây giờ là dinh của VC, treo cờ đỏ sao vàng và có lính

canh trước cổng. Mỗi khi đi ngang qua thấy hơi chùn chân vì sợ nó hỏi giấy tờ bất

tử.

Uống nước phong-tên [fountain] ở gần đó, ăn cơm thì mua của mấy gánh bán

hàng rong, cơm một dĩa 10 đồng Riel. Ra ngoài chợ thì đi lòng vòng coi nhìn cái

này cái nọ cho hết thì giờ, thỉnh thoảng công an chạy ruợt đuổi bắt người ở trong

chợ, làm mình cũng sợ giật mình. Tôi thì có ý định tìm mua một quyển sách địa lý

để coi bản đồ vùng Battambang, Siem Rệp, vùng biên giới Thái Lan. Họ bày bán

sách cũ rất nhiều nhưng đều là tiếng Miên. Tôi lựa xem mấy cuốn sách có hình

bản đồ rồi mua một quyển. Nhưng vì tôi không biết tiếng Miên mà mua sách Miên

trong đó có hình bản đồ địa lý, nên họ có ý nghi ngờ. Mua xong tôi lật đật đi bộ về

chỗ đậu xe vì sợ họ báo với công an chợ. Sau khi nghiên cứu bản đồ để biết địa thế,

đường đi nuớc buớc, cũng như khoảng cách bao xa. Tôi cố học thuộc lòng vùng

Battambang, Siem Rep, vùng gần biên giới Thái Lan, rồi xé bỏ quyển sách đó

ngay.

Lúc bấy giờ bên Miên hoàn toàn do VC kiểm soát, thỉnh thoảng có mấy tên lính

Miên trẻ mặt còn non choẹt, mang khẩu AK dài đụng tới đất. Ở đây họ mắc loa

phóng thanh cứ sáng sớm và chiều tối là nghe tiếng nhạc Miên, một âm điệu đều

đều nghe buồn não ruột, nghe nhớ nhà, nhớ vợ nhớ con, nhớ quê hương mình vô

cùng. Cuộc đời tôi cũng không ngờ lại lưu lạc đến nơi đây, xứ lạ quê người, rồi cũng

không biết ngày mai sẽ ra sao. Nghĩ lại thân phận mình, lêu bêu bồng bềnh, mà

cảm thấy buồn vô hạn.

Tôi lân la mấy quán nước làm quen hỏi chuyện để tìm đường đi, thì được biết là xe

lửa chạy từ Nam Vang lên Battambang đã bị giật mìn không còn chạy nữa, bây giờ

Page 16: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 16 -

chỉ còn đuờng xe, nhưng VC đặt rất nhiều nút chận kiểm soát để chận bắt đào

binh, nên rất khó mà lọt qua đuợc. Tôi ra phía đầu thành phố đường đi về huớng

Battambang để xem trạm kiểm soát họ xét ra sao. Tôi thấy rất ít xe đi về phía đó

và họ kiểm soát rất kỹ. Xe thì không thấy loại xe đò chở khách, mà toàn là xe chở

hàng hay xe quân sự. Vả lại tôi không biết tiếng Miên nên rất ít hy vọng thoát qua

được, giá mà còn xe lửa thì tốt hơn.

Ở đây được ba ngày thì nghe tin đoàn xe được lệnh đi xuống hải cảng Kompong

Som tức là Sihanoukville. Tôi không biết hải cảng này ra sao, nhưng nghe nói ở đó

có tàu ngoại quốc ra vào. Trước đó tôi có dọ hỏi đuờng lên Battambang, thì họ nói

là phải có người dẫn đường và phải trả bằng vàng, ít nhứt là hai lượng. Trong mình

tôi chỉ được hai chỉ vàng thì làm sao mà đi và hơn nữa chúng tôi không biết tiếng

Miên nên rất khó khăn, thành ra tôi đã bỏ ý định đi lên Battambang. Bây giờ nghe

tin đi xuống hải cảng Kampong Som thì tôi thấy cứ đi đại xuống đó rồi sẽ tính sau,

dầu sao ở hải cảng cũng còn có hy vọng hơn.

Buổi trưa hôm đó tôi và Nghĩa ra chợ mua một nải chuối, lên chùa Năm Tháp gần

đó để cúng Phật, để cầu xin Đức Phật Từ Bi độ trì đưa đường dẫn lối cho chúng tôi

thoát ra được khỏi nạn cộng sản. Sau khi quỳ lạy cầu nguyện Đức Phật xong, khi

đứng lên là không còn thấy nải chuối đâu hết, mà trong lúc chúng tôi quỳ lạy thì

có người tới chớp nải chuối đi mất thật là nhanh.

Đêm đó suy tính cách theo xe để đi, vì Long bảo phải tìm xe khác mà đi, chứ

không được đi theo xe cũ vì sợ tài xế biết. Trong thời gian mấy ngày ở đó tôi cũng

đã quen biết nhiều nên họ nhận cho tôi đi theo. Đoàn xe đi đến trạm kiểm soát thì

ngừng lại để xét trước khi ra khỏi thành phố, nhưng vì đoàn xe này có sự vụ lệnh đi

công tác xuống hải cảng để chở hàng cho bộ đội VC nên không bị lục soát hay hỏi

han gì và qua trạm kiểm soát này một cách dễ dàng.

Trên đường đi VC đóng đồn dọc theo đường, thỉnh thoảng đón xe quá giang,

nhưng tôi ngồi phía trước chung với tài xế và lơ xe, nên rất là yên tâm. Trên xe

bác tài có khoe một khẩu súng AK47 được phát cho mỗi xe, nhưng chưa chắc là

bác tài đã biết sử dụng. Tôi nhớ bữa đó trời mưa tầm tã và xe bị hư máy phải dừng

lại để sửa chữa, nhưng bác tài rất rành nghề chỉ sửa một chút là xong ngay, nhưng

phải câu một bình xăng phụ ở bên ngoài. Đến chiều thì xe đến hải cảng Kampong

Som, xe dừng trước cổng trên con đường lộ đá dẫn vào hải cảng. Khi xe vừa đến

nơi thì tài xế và lơ xe đi vô cổng một cách tự nhiên mà không bị hỏi giấy tờ gì hết,

nên tôi, Long và Nghĩa cũng đi theo vô trong hải cảng một cách dễ dàng.

Hải cảng này ở xa khu dân cư, có mấy lớp hàng rào kẽm gai bao bọc chung

quanh, và một trạm kiểm soát tại cổng chính ra vào, với một số công an biên

phòng VC canh gác. Đóng trên một ngọn đồi gần đó là một đồn công an biên

Page 17: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 17 -

phòng. Bên trong hải cảng là một bến đá, xây bằng đá tảng, để tàu cặp bến. Tôi cố

nhìn thật kỹ quanh bến tàu để tìm xem có chiếc tàu nào của nước tự do, nhưng tôi

chỉ thấy toàn cờ đỏ búa lìềm, toàn cờ cộng sản, thật là thất vọng vô cùng. Gần bến

tàu là hai nhà kho rất lớn bằng sắt cất theo kiểu tiền chế của Mỹ. Có một đường rầy

xe lửa, và ở phía trong xó góc có vài toa xe lửa bỏ không, không thấy người lai

vãng, gần đó có một phong-tên nước. Ở phía ngoài cổng bên cạnh con đường lộ đá

là một cái ao khá lớn, mà thỉnh thoảng thấy có công an đến câu cá. Chiều tối đó

tôi trở ra xe để ngủ qua đêm.

Sáng sớm hôm sau xe vô đậu truớc nhà kho lớn để chất hàng lên. Họ chất lên

những bao bắp hột do nhân đạo quốc tế viện trợ để cứu đói cho dân Kampuchia,

nay thực phẩm đó được dùng để nuôi ăn cho bộ đội VC. Tôi chỉ còn bữa nay để đi

lại thong thả trong hải cảng này, đến sáng mai khi đoàn xe đi rồi thì tôi không còn

chường mặt ra đây được nữa, vì bọn công an thấy sẽ biết ngay.

Chúng tôi đang lân la trong hải cảng thì bỗng có một chiếc tàu tuần của công an

biên phòng VC vào cặp bến để lấy nước ngọt ở cái phong-tên nước. Khi đó họ có

hỏi tụi tôi, có muốn mua mấy món đồ lậu như rượu, thuốc lá, đồng hồ, máy radio

cassette, v.v. Chúng tôi làm bộ nhận chịu, nhưng hẹn với họ ngày mai sẽ gom tiền

cho nhiều để mua một lần cho tiện. Họ nghe nói thế tưởng là trúng mối to. Sau khi

lấy nước xong là họ đi, trước khi rời bến họ rủ chúng tôi lên tàu. Long nhanh chân

nhảy lên trước, tôi còn đang lưỡng lự ngần ngừ, vì không biết họ đi đâu và đi làm

cái gì, họ không nói gì cả, chỉ rủ lên tàu để đi thế thôi. Long đã ở trên tàu rồi nên

thúc hối tôi lên tàu. Khi tàu mở dây cột tàu sắp chạy và vì sự thúc hối của Long

nên tôi cũng nhảy lên theo, còn Nghĩa thì không đi.

Tàu chạy ra ngoài, nghe họ kể về những chuyện đi bắt ghe tàu vượt biên. Họ đã

bắt rất nhiều ghe tàu vượt biên và lên giọng rất là sắt máu. Nguyền rủa những

người vuợt biên là bọn phản quốc, chạy ra nước ngoài, bám chân đế quốc để ăn bơ

thừa sữa cặn, v.v. Tôi thầm nghĩ đến những chiếc ghe tàu vượt biên nếu bị chiếc

tàu tuần này bắt, thì coi như là thân tàn ma dại. Có những chuyến ghe tàu vuợt

biên bị công an VC xả súng tàn sát mặc dầu họ biết đa số là đàn bà con trẻ.

Họ dẫn chúng tôi xuống hầm tàu để quảng cáo mấy món hàng mà chúng tôi hứa

sẽ mua. Tàu chạy một lúc rồi cặp bến vô đậu trong căn cứ hải quân của chúng, rồi

bảo chúng tôi lên bờ. Tôi cứ tuởng là tàu trở lại bến cũ cho mình lên, ai dè lại vô

căn cứ VC nên cũng hơi ngại ngại. Hai đứa tôi đi ra cổng và đi theo con đuờng lộ đá

dẫn vô bờ. Căn cứ này nằm xa bờ chừng vài chục thước, có con đường lộ đá làm

bằng những tảng đá núi mà xe loại lớn có thể chạy được.

Vô tới bờ đi bộ ngược trở về hải cảng, dọc theo bờ biển thấy có một xóm chài, có

một số tàu đánh cá, hai đứa tôi vô hỏi thăm. Lên một chiếc tàu thì gặp một người

Page 18: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 18 -

có mang một khẩu súng AK47, lỡ rồi nên tôi làm bộ hỏi để mua cá. Anh này người

Miên gốc Việt nên nói được tiếng Việt. Anh ta ngó tới ngó lui rồi hỏi tụi tôi có muốn

vượt biên không. Chắc có lẽ họ thấy bộ dạng mình vô đây là định tìm đường vuợt

biên nên mới hỏi thẳng như vậy. Thấy anh ta có súng thì hơi sợ, nhưng trong bụng

thì muốn tìm cơ hội để đi, nên tôi cũng trả lời lưng chừng là bây giờ mà tính

chuyện vượt biên đâu phải dễ, tụi tôi ở đoàn xe vận tải đang đi công tác ở hải cảng.

Ông ta tiếp thêm là nếu muốn vượt biên thì ba ngày nữa trở lại đây rồi họ sẽ đưa

ra hải đảo, ở đó họ sẽ chuyển qua tàu đánh cá Thái Lan, mỗi người hai lượng vàng,

ba ngày nữa tàu sẽ ra khơi, nếu muốn đi thì lại đây. Nói xong ông ta cho một con

cá to và hối tụi tôi đi ngay, vì ở đây lâu không tiện dễ bị nghi ngờ.

Tôi và Long trở về hải cảng, trên đường đi thỉnh thoảng gặp các toán tuần tiểu của

công an biên phòng, họ đi tuần tra dọc theo bờ biển. Chúng tôi giả vờ mò cua bắt

cá trong các hóc kẻ đá, khi họ đi qua khỏi rồi thì tiếp tục đi. Đi bộ một đoạn đường

khá xa chừng vài cây số. Khi về đến chỗ đậu xe thì thấy có gánh bán cơm, tôi đổi

cho họ con cá để lấy hai dĩa cơm. Sau khi ăn xong, tôi bàn với Long và Nghĩa là tối

nay phải vô ngủ ở trong hải cảng, vì sáng sớm đoàn xe sẽ chạy trở về Nam Vang,

khi đó thì mình không còn có chỗ ẩn thân ở bên ngoài được. Long và Nghĩa thì có

ý định trở lại Nam Vang, rồi trở về Việt Nam kiếm thêm tiền, vàng rồi trở qua đây,

để đi theo mấy ghe tàu đánh cá. Riêng tôi thì tôi quyết tâm ở lại, kiếm chỗ ẩn náu

quanh đây, may ra có dịp tìm đường đi, chớ quay trở lại Việt Nam thì không thể

được. Tôi quyết tâm là sẽ đi tới mãi chớ không quay lui. Riêng Long và Nghĩa đều

là lơ xe nên chuyện đi hay trở về đều không có gì là nguy hiểm cả. Sau khi bàn

tính một lúc thì Long và Nghĩa đồng ý ở lại vì thấy tôi quá quyết tâm. Chúng tôi

mua ba ổ bánh mì và lấy theo một bình nước rồi vô trong hải cảng ngay, trước khi

trời tối.

Tôi đã để ý từ trước thấy có mấy goong xe lửa bỏ không ở một xó góc không có

người lui tới. Vì vậy chúng tôi đợi đến khi trời tối, kín đáo lẻn vô trong toa xe đó và

trốn luôn trong đó. Ngồi trong goong xe nhìn qua khe ván thấy đồn công an canh

gác ở cổng cũng không xa lắm, vì vậy chúng tôi phải giữ gìn thật hết sức im lặng, đề

phòng thật kỹ luỡng. Trong những lúc nguy hiểm tôi thường cảnh giác thức suốt

đêm, quan sát nghe ngóng mọi động tĩnh bên ngoài. Sợ khi ngủ hết, lỡ mà có

nguời nào ngủ mớ la hoảng hay phát ra tiếng ngáy thì nguy hiểm lắm.

Khi trời sáng hẳn, tiếng đoàn xe rời hải cảng để trở về Nam Vang. Lúc bấy giờ bên

ngoài không còn người lui tới, không còn thấy bóng dáng tài xế hay lơ xe nữa, vì

vậy chúng tôi phải ẩn mình cho thật kỹ. Chúng tôi nằm im trong toa xe lửa đó,

buổi trưa trời nóng như thiêu, chúng tôi cởi trần, nhờ khe ván hở nên cũng không

đến đỗi nào. Tôi chỉ sợ nếu có người muốn sử dụng goong xe này, họ đến kéo đi

thì rất là nguy, chúng tôi sẽ bị phát giác ngay.

Page 19: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 19 -

Cho đến chiều thì may quá có một đoàn xe khác xuống cùng vào đậu ở phía cổng

như truớc. Tôi mừng quá vì lại có dịp ra ngoài trà trộn với đám tài xế lơ xe mà

không ai để ý. Và cũng vào khoảng 4, 5 giờ chiều hôm đó, bỗng đâu xuất hiện một

chấm đen từ ngoài biển khơi đang tiến dần vô bờ, càng lúc càng lớn dần và sau

cùng hiện rõ ra một chiếc tàu đang hướng vô hải cảng, rồi từ từ cặp vào bến đá.

Một chiếc thương thuyền quá lớn mang tên PEP STAR, đặc biệt là lá cờ trên tàu

không phải là cờ đỏ búa liềm, chắc chắn không phải là tàu cộng sản. Hơn nữa chữ

PEP STAR có vẻ là tiếng Anh hơn là tiếng Nga.

Sau khi tàu cặp bến xong xuôi, thấy có nhiều người đi lại gần chiếc tàu, khi đó tài

xế và lơ xe ra vô tấp nập. Trời đã tối chúng tôi chui ra khỏi chỗ trốn và tìm cách lại

gần chiếc tàu. Lúc đó có nhiều công nhân nguời Miên đang lên tàu, tôi liền hỏi

nguời thủy thủ trên tàu họ cho biết là tàu của nuớc Đan Mạch, mà Đan Mạch là

một nước ở Âu Châu, nên tôi yên trí chắc chắn không phải là một nước cộng sản,

tôi mừng quá vì có thể xin tỵ nạn được.

Trong bóng tối chúng tôi ngồi ở xa xa nhìn lên chiếc tàu thấy công nhân người

Miên lên xuống theo chiếc cầu sắt cặp sát bên hông tàu. Ở trên tàu ngay chỗ đầu

cầu lên xuống có hai tên công an đang đứng canh gác kiểm soát mọi người lên

xuống rất là kỹ lưỡng. Tôi tập trung quan sát mọi hoạt động trên tàu để tìm cách

lẻn trốn lên tàu, nhưng rất là khó khăn vì hai tên công an đang canh gác quá kỹ.

Nếu lỡ lên tàu mà chúng bắt tại trận thì hết đuờng chối cãi chỉ có nuớc vô tù, mà

riêng tôi thêm tội trốn trại nữa thì chắc chúng sẽ không tha.

Kể từ khi chui ra khỏi hàng rào ở trại tù Tống Lê Chân cho đến bây giờ là tôi đã

vượt đuợc một quãng đường khá xa, đã ra khỏi nuớc và ra đến biển và con đường

duy nhất là phải lên cho bằng được chiếc tàu này. Nhìn lên trên tàu mà thèm

thuồng ước gì mình được trốn vô nằm trong chiếc thuyền cấp cứu đang treo lủng

lẳng đong đưa trên đó thì quá kín đáo. Tôi cứ nhìn hoài, tàu này chở những chiếc

xe truck, chỉ có phần đầu máy với cái sườn phía sau. Đây là những chiếc xe viện

trợ nhân đạo của Liên Hiệp Quốc. Cần trục trên tàu đang hoạt động liên tục đang

bốc hàng xuống, mỗi lần một chiếc xe, cho nên rất là nhanh. Theo tôi nghĩ thì

trong đêm nay sẽ bốc hàng xong và ngày mai tàu sẽ đi, mà tàu của các nước Âu

Châu thì hiếm khi vào hải cảng của nước cộng sản này.

Trời tối dần mà Long và Nghĩa thì cứ hối thúc hoài, định leo đại theo dây cột tàu

mà ra tàu. Nhưng đèn pha chiếu sáng khắp tứ phía thì làm sao mà leo ra đuợc,

mà làm sao thoát hết được ba đứa. Rồi Long lại tính đường nhảy xuống nước bơi

qua bên kia thành tàu rồi tìm cách leo lên tàu. Tàu thì cao sừng sững đâu có dễ gì

leo lên được, mà chung quanh đèn chiếu sáng choang, vừa nhảy xuống nước là bị

bắn liền chứ đừng nói gì tới bơi ra tàu.

Page 20: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 20 -

Tôi cứ chờ đợi dịp thuận tiện, mắt tôi cứ dán sát vào hai tên công an đang đứng

gác trên tàu, một tên mang súng AK47, còn một tên mang K54 có lẽ là cán bộ.

Quan sát theo dõi họ thật kỹ để mong tìm một chút sơ hở, nhưng mỗi lần có ai lên

tàu là nó chận lại xét hỏi rất kỹ càng. Với lại mình không biết tiếng Miên, không

giống người Miên, nên khó qua mặt được nó.

Bỗng dưng trời xui đất khiến hai tên công an này đồng lúc rời bỏ vị trí bước vô

trong cabin tàu. Tôi vụt chạy lên tàu tức khắc kéo theo Long và Nghĩa. Khi lên

đuợc trên tàu chúng tôi chạy băng qua bên kia thành tàu và tìm chỗ ẩn trốn, thì

khi đó hai tên công an lại trở ra canh gác như cũ, nhưng chúng chỉ nhìn về phía

cầu thang lên xuống, chứ không để ý gì về phía chúng tôi. Tôi nhìn quanh quất

không thấy có chỗ nào để ẩn thân, không thể chui vô đống dây luột hay đống cây

gỗ bên cạnh đó, vì dấu đầu lòi đuôi không thể che dấu hết ba nguời. Nhìn xuống

hầm tàu thì thấy nhân công Miên đang làm ở dưới đó và không thể luẩn quẩn ở

đây lâu được vì thủy thủ hay công nhân Miên bất chợt họ thấy họ sẽ nghi.

Ở trên tàu có hai cần trục một cần trục ở phía bên kia đang hoạt động liên tục, còn

một cần trục phía gần bên tôi thì không hoạt động. Ở phía trên là phòng điều

khiển bằng kiếng, ở bên dưới là phòng máy, có một lỗ tròn vừa người chui vô, tôi

liền thử chui vô rồi kéo Long và Nghia vô theo. Tôi cố ép sát người vô trong để vừa

đủ chỗ cho ba đứa ẩn mình. Lần lần tôi dọn dẹp các lon dầu, đồ đạc dụng cụ để

chui sâu vào trong. Nếu có ai bất chợt đi ngang qua thì sẽ không thấy chúng tôi

được, nhưng nếu ló đầu vô trong thì sẽ thấy ngay. Hơi yên tâm một chút, lúc đó

chắc cũng vào khoảng 11, 12 giờ đêm.

Cần trục bên kia vẫn còn đang tiếp tục hoạt động, độ một giờ sau thì chấm dứt.

Sau đó công nhân lần lượt rời khỏi tàu, duy chỉ còn hai tên công an vẫn đi tới đi lui

canh gác bên kia thành tàu. Sau đó nắp hầm tàu được đóng lại, nắp hầm tàu làm

bằng những lá sách bằng sắt nó chạy từ trong ra ngoài nghe rền vang. Sau khi

nắp hầm tàu đậy xong, bây giờ chúng tôi có thể chui vô sâu thêm nằm trườn mình

trên nóc hầm tàu và mọi sự trở lại vắng lặng hoàn toàn.

Tôi suy nghĩ, trước khi tàu rời bến chắc chắn công an biên phòng và quan thuế sẽ

kiểm soát rất kỹ, cho nên tôi phải tìm chỗ trốn khác kín đáo hơn, chớ không thể

trốn ở đây được. Lúc còn ở dưới nhìn kỹ mọi hoạt động trên tàu, tôi thấy thỉnh

thoảng có thủy thủ lên xuống ở phía truớc mũi tàu, như vậy phải có cầu thang lên

xuống ở mũi tàu.

Đợi đêm thật khuya vắng lặng, tôi dặn dò Long và Nghĩa từng người một lần lượt

chui ra và phải chờ khi nào công an quay lưng lại thì mới cho chui ra. Bò theo

thành tàu, bò ra phía trước mũi tàu để tìm cầu thang đi xuống hầm tàu. Trên tàu

rất trống trải mà đèn thì sáng choang, do đó phải bò thật thấp để không thấy lộ

Page 21: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 21 -

hình lên trên nền trời. Sau cùng tôi đợi khi tên công an vừa xoay lưng lại là tôi

chui ra sau cùng, bò dọc núp dưới thành tàu đến gần mũi tàu thì thấy có một cửa

nhỏ, tôi mở chốt cửa rồi chui vào trong, có một cầu thang bằng sắt hình khu ốc, tôi

lần theo xuống.

Xuống đến hầm tàu thì tôi thấy Long và Nghĩa nằm dài ở đó. Đây là khoang tàu nơi

chứa hàng, sau khi hàng bốc đi rồi thì trống trơn không có chỗ nào để ẩn thân,

mấy cây cột bằng sắt cũng không lớn đủ để che thân. Tôi thấy trốn ở đây không

được vì sẽ bị lộ ngay. Tôi lần theo cầu thang khu ốc để đi xuống nữa, thì khi xuống

dưới đáy hầm tàu, tôi thấy có một đống cây gỗ ở ngay mũi tàu, tôi mừng quá vì tìm

được chỗ trốn tốt. Tôi sắp lại đống cây gỗ để chừa ra một lỗ trống, đủ chỗ để cho ba

đứa chui vào, xong rồi kéo thanh gỗ đậy lại, trông giống như cũ, không có dấu vết

gì khả nghi. Lúc đó chắc khoảng 3, 4 giờ sáng, tôi nằm im trong đó, không dám

ngủ và dặn kỹ Long và Nghĩa phải giữ thật im lặng, không được thở mạnh hay ho

hen.

Độ khoảng 6 giờ sáng, tôi nghe tiếng lộp cộp đi xuống cầu thang, họ quét đèn lên

trên đống cây, nhưng không thấy gì khả nghi, họ bỏ đi trở lên. Một lúc sau nữa tôi

nghe tiếng còi tàu hụ lên ba tiếng, tôi mừng quá vì “tàu souffler ba là tàu ra cửa

biển”. Một hồi sau tôi nghe tiếng sóng nước rào rào ở mũi tàu, tôi chợt biết là tàu

đã chạy. Vì đang ở mũi tàu nên tôi không nghe tiếng máy tàu, mà chỉ nghe tiếng

sóng nước đập vào thân tàu nghe rào rào và càng lúc càng mạnh. Đến một hồi

nữa nghe ầm ầm, tôi biết là tàu đang chạy nhanh, đang rẽ sóng ra khơi. Một hồi

sau chúng tôi chui ra khỏi đống cây gỗ.

Tôi định chờ một ngày một đêm rồi mới lên trình diện vì sợ nếu còn trong hải

phận Kampuchia hay Việt Nam, thì họ có thể kêu tàu tuần đến bắt chúng tôi.

Nhưng đến chiều thì Long bị ói mửa vì say sóng, càng lúc càng nặng, mặc dù trong

bụng không còn thức ăn, chỉ ói ra nuớc, ói ra mật xanh. Sau cùng Long năn nỉ tôi

phải lên trình diện, nếu không sẽ chết. Lúc đó tôi nghĩ là tàu đã chạy đuợc khoảng

8, 9 tiếng đồng hồ, chưa được xa lắm, chắc là còn trong hải phận Việt Nam, nhưng

vì Long năn nỉ quá, nên sau cùng tôi đành phải lên trình diện.

Một mình tôi lên trước, theo cầu thang khu ốc để lên và khi vừa chui ra khỏi cửa ở

mũi tàu nhìn lên phía phòng lái bằng kính, tôi thấy nguời hoa tiêu đang nhìn

xuống phía chỗ tôi, chỗ mũi tàu. Tôi tức tốc tìm cách đi thật nhanh lên đó ngay, vì

sợ họ kêu tàu tuần đến bắt. Tôi đi thật nhanh, leo lên cầu thang lên tầng trên cùng

và đi thẳng vô phòng lái.

Thấy tôi vừa bước vô phòng hoa tiêu, ông ta nổi giận dậm chân đùng đùng, bấm

còi báo động. Ông hỏi tôi là ai, làm gì vô đây. Tôi liền trả lời tôi là sĩ quan Việt Nam

trốn từ trại tù ở Việt Nam sang Kampuchia và trốn xuống tàu hồi đêm qua, tôi xin

Page 22: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 22 -

được tỵ nạn. Nhờ tôi nói bằng tiếng Anh, mặc dù không được trôi chảy, nhưng

cũng hiểu được phần nào. Lúc đó quần áo mặt mày tôi lem luốc dính đầy dầu

nhớt, mạt cưa trông không giống ai. Tôi nói tiếp tên họ số quân của tôi và tôi đã

học khóa Bộ Binh Cao Cấp tại truờng Fort Benning, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ và

xin ông vui lòng liên lạc với tòa đại sứ Mỹ nào gần đây thì sẽ xác định được lý lịch

của tôi. Tôi xin ông một điều là nếu ông không nhận cho tôi tỵ nạn, thì xin ông bỏ

tôi xuống biển, chớ đừng gọi tàu tuần đến bắt tôi, vì họ sẽ giết tôi.

Sau khi nghe tôi trình bày sự việc, tình hình bắt đầu lắng dịu, tôi liền nói thêm là

hiện còn có hai người nữa còn đang trốn dưới hầm tàu. Ông ta lại nổi giận lên, kêu

người đi xuống dẫn Long và Nghĩa lên. Long và Nghĩa được dẫn lên ngồi trong góc,

trông rất thảm não, mặt mày xanh xao, quần áo lem luốc bẩn thỉu. Xong rồi ông

Thuyền trưởng gọi báo về công ty, một lúc sau thì công ty chấp nhận cho chúng

tôi tỵ nạn. Tôi mừng quá đỗi, coi như được sống lại và tôi có hỏi ông là hiện giờ tàu

đang ở đâu, có còn trong hải phận Việt Nam không, thì ông chỉ cho tôi thấy một

hòn đảo trông mờ mờ từ xa đó là đảo Thổ Chu của Việt Nam và ông cũng nói thêm

rằng là kể từ bây giờ không ai có quyền lên tàu này để bắt chúng tôi lại, vì đây là

tàu của Đan Mạch là đất nước Đan Mạch.

Một số thủy thủ đứng chung quanh, nghe thấy, dần dần họ có cảm tình với chúng

tôi, họ đưa cho quần áo giày dép rồi dẫn chúng tôi đi tắm. Cho chúng tôi vô ở

trong một căn phòng, đây là phòng của một ông kỹ sư đã đi phép. Trên giường

nệm có hai tấm nệm tôi lấy một tấm đặt xuống sàn nằm ngã lưng xuống một cách

thoải mái tuyệt trần. Một lúc sau chúng tôi được dẫn đi ăn, một bữa ăn thật tuyệt

diệu trong đời, trong đó có cơm chiên dương châu và mấy khúc cá thu hấp rất

thơm ngon chưa từng có. Đây là một bữa ăn tuyệt diệu nhất, tự do nhất, thoải mái

nhất, mà tôi cảm thấy như được sống lại sau bao nhiêu ngày trốn tránh lang thang

vất vả căng thẳng tột cùng, có đôi khi gần như tuyệt vọng.

Sau khi ăn xong bữa cơm tuyệt diệu đó, chúng tôi được dẫn đi thăm viếng tàu.

Trước hết đến phòng ông thuyền trưởng, ông rót ruợu uống mừng cho chúng tôi

đã thoát nạn cộng sản và chụp hình lưu niệm. Sau đó đi tiếp qua các phòng và

được biết trên chiếc tàu này có nhiều người thuộc quốc tịch khác nhau như Hòa

Lan, Đan Mạch, Ba Tây, Phi Luật Tân, v.v. Các thủy thủ trên tàu cho chúng tôi xem

hình ảnh gia đình của họ và chuyện trò rất là thân mật, thật là hết sức lịch sự và

đầy tình nhân ái. Nghĩa có mang theo một số tiền Việt Nam không còn xài được

nữa, nên mới đưa cho các thủy thủ. Họ rất tốt bụng đã cho lại chúng tôi mỗi nguời

20 US dollars và chọn cho chúng tôi mỗi đứa một bộ đồ vừa vặn đẹp đẽ để mặc khi

lên bờ.

Chúng tôi được cho lên phòng hoa tiêu để ngắm nhìn hoàng hôn trong buổi chiều

tàn, nhìn mặt trời lặn trong cảnh nước trời bao la, thật là tuyệt đẹp, mà tưởng

Page 23: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 23 -

chừng như trên chốn bồng lai tiên cảnh nào vậy, trong khi con tàu đang lướt sóng

thật êm đềm. Đây là một chiếc thương thuyền rất lớn nên chạy thật là êm ái, khác

xa với cảnh tượng của những chiếc ghe vượt biên bé nhỏ, chở đầy người, bập bềnh

trên biển cả mênh mông, sóng gió hãi hùng, và còn phải lo sợ bị hải tặc hãm hiếp,

cướp của giết người thật là ghê rợn.

Buổi tối hôm sau tàu tiến vô một hải cảng với muôn ngàn ánh đèn rực rỡ, trong

một vùng vịnh bao la, với vô số thương thuyền tàu bè đủ loại, trông thật hùng vĩ

huy hoàng tráng lệ. Đó là hải cảng Singapore. Theo thủ tục của luật di trú thì

chúng tôi phải vô trong phòng và thuyền trưởng sẽ khóa cửa lại, để giữ chúng tôi

trong đó. Tuy nhiên nếu có cần gì thì cứ gọi, thỉnh thoảng có người đến thăm

chừng, thật là hết sức lịch sự tử tế và chu đáo vô cùng.

Chừng vài tiếng đồng hồ sau thì có hai nhân viên của sở di trú Singapore đi xuồng

máy ra lên tàu và mở khóa cửa phòng, thẩm vấn chúng tôi và làm thủ tục giấy tờ,

xong rồi họ đi ngay. Sau đó thì có một phái đoàn của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp

Quốc, UNHCR, xuống phỏng vấn và làm thủ tục. Tôi trình bày bằng tiếng Anh,

nhưng bất ngờ nguời đó trả lời bằng tiếng Việt và bảo tôi cứ nói bằng tiếng Việt

Nam đuợc rồi. Tôi mừng quá vì đuợc gặp người đồng hương, sau này tôi được biết

đó là cô Bích làm việc trong văn phòng Cao Ủy Tỵ Nạn ở Singapore. Khi làm thủ

tục giấy tờ, và trong nguyện vọng xin đi định cư nuớc nào, thì tôi xin đuợc đi Mỹ, vì

hiện tôi có một đứa em đang ở Mỹ, và tôi cũng đã từng du học ở Mỹ, nên nghĩ rằng

sẽ đuợc cứu xét dễ dàng hơn. Chúng tôi ngủ thêm một đêm trên tàu và sáng hôm

sau thì có nguời của Cao Ủy Tỵ Nạn ra đón ba đứa tôi lên bờ, tôi còn nhớ đó là cô

Robin, nguời nuớc New Zealand.

Sau một thời gian 22 ngày đêm vuợt thoát từ trại tù Tống Lê Chân, nay tôi được

đặt chân lên một đất nuớc tự do là nuớc Singapore vào ngày 27 tháng 6 năm

1980. Chúng tôi đuợc đưa về tạm trú ở khách sạn YMCA. Ở đây hiện có chừng

mười nguời Việt Nam tỵ nạn cũng mới đến chừng vài ngày trước và họ giao nhiệm

vụ cho tôi làm thông dịch viên. Điều đầu tiên là tôi ra Bưu điện để đánh điện tín về

Việt Nam cho gia đình tôi biết tin. Vì có tiền 20 dollars nên tôi gọi taxi ra Bưu điện

và gởi điện tín về cho vợ tôi với nội dung như sau: “Đã giải phẫu xong bình an”, đó

là câu mật hiệu để cho vợ tôi biết là tôi đã thoát nạn và đã đến nơi an toàn. Điện

tín này đã đến nhà tôi vào ngày 30 tháng 6 năm 1980. Vợ tôi hết sức vui mừng khi

nhận được điện tín này, phân vân không biết Singapore là nước nào ở đâu. Vợ tôi

liền đi xuống Mỹ Tho để báo tin mừng và vô Trung Lương, nơi đất hương quả mồ

mả tổ tiên để cúng tạ.

Chúng tôi ở khách sạn YMCA vài ba ngày để làm thủ tục. Buổi chiều rỗi rảnh chúng

tôi dắt nhau ra chợ Tàu. Đi bộ chừng 15 phút là đến, một dãy kios quán ăn rất là

đông vui và ngon miệng. Long biết nói tiếng Tàu nên rất dễ giao tiếp. Ở Singapore

Page 24: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 24 -

80% là người Hoa, còn lại là nguời Ấn và người Mã Lai.

Sau đó chúng tôi đuợc đưa vào Trại tỵ nạn Sambewang, còn gọi là trại Hawkins.

Khi vừa bước vô văn phòng trại tỵ nạn, tôi chợt thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn

treo trên tường mà lòng hân hoan vui mừng quá độ. Tôi và nhóm người mới tới

đều vui mừng sung sướng đến rơi nước mắt, được hôn lên Lá Cờ Quốc Gia Dân Tộc

và biết chắc rằng mình đã thật sự thoát khỏi ngục tù cộng sản và đã đến được bến

bờ tự do.

Chúng tôi được lãnh tiền trợ cấp mỗi người 2.50 đồng một ngày, một đồng

Singapore lúc đó trị giá vào khoảng 0.8 dollar Mỹ. Ngoài ra còn được phát mỗi

người một chiếc chiếu, và cứ 6 người thì được phát một cái lò nấu ăn. Đây là một

trại lính với nhiều tòa nhà có hai tầng khang trang, trại viên trải chiếu trên sàn

gạch rất mát mẻ sạch sẽ, không có ruồi muỗi. Phía ngoài là sân cỏ, đuợc giữ gìn

chăm sóc cắt xén rất đẹp như một tấm thảm xanh.

Cuộc sống ở trại tỵ nạn này rất là thoải mái, có khu chợ nhỏ ngay trong trại, đa số

là người Ấn độ, bán đủ loại thực phẩm, rau cải, trái cây, đặc biệt là trái sầu riêng ở

đây có rất nhiều. Ở ngoài vòng rào và cách trại chừng vài trăm thước, có một con

rạch rất lớn, có nhiều cá, nhứt là cá rô Phi. Có người chui rào ra, lưới đuợc rất

nhiều cá, đem về bán chui qua các nhà.

Những người được đưa về trại này thường là chỉ được tạm trú ở đây khoảng 3

tháng, để làm thủ tục đi định cư, hoặc là những người từ trại đảo Galang đưa đến

chờ máy bay để đi định cư. Hàng ngày công việc của trại là theo dõi tin tức phát

thanh trên loa, để biết khi nào đuợc gặp phái đoàn để được phỏng vấn và khám

sức khỏe.

Khi mới đến trại khai hồ sơ lý lịch, vì tôi đã từng du học bên Mỹ nên được Ban Chỉ

huy trại giao nhiệm vụ làm Thông dịch viên. Công việc thường ngày của tôi là giúp

thông dịch nếu có phái đoàn vô trại. Còn không thì phải đưa người đi ra các tòa

Đại Sứ Anh, Mỹ, Úc, v.v. Hoặc đưa người đi bệnh viện, để khám sức khỏe để đi định

cư. Ở trong trại cũng có bệnh xá để điều trị các bệnh nhẹ thông thường như ho,

đau bụng, nhức đầu, nóng lạnh, v.v. Lúc đó có Bác sĩ Rạng trách nhiệm bệnh xá,

ông cũng là người tỵ nạn và trước kia ông từng là bác sĩ của Bệnh viện 3 Dã chiến ở

Phú lợi-Bình Dương.

Ở trong trại tôi thấy có nhiều hoàn cảnh rất là thương tâm. Có nhiều người mất vợ

mất con mất cha mất chồng trên đường vượt biển. Như có một ông bác sĩ, tôi nhớ

mang máng tên là Phùng, Bác sĩ Phùng, ông bị khủng hoảng tinh thần gần như

điên loạn, vì cả gia đinh vợ con đều bị chết. Tôi thấy ông cứ đi lang thang nói nhảm

suốt cả ngày. Vì ông mắc bệnh tâm thần như vậy nên không được phái đoàn nào

Page 25: Cuộc Vượt Ngục Thần Tiên

- 25 -

phỏng vấn, rồi không biết sau này ra sao.

Sau khi đến trại được một tuần, tôi liền gởi gói quà nhỏ đầu tiên về cho gia đình,

trong đó có vài thước vải đen, chai dầu xanh và kẹo bánh. Ba tháng sau vào tháng

10 năm 1980 thì tôi được đi sang Mỹ định cư. Long và Nghĩa thì được định cư ở

Đan Mạch.

Với lòng tri ơn sâu xa, tôi xin ghi lòng tạc dạ công ơn cứu tử của thuyền trưởng và

toàn thể thủy thủ đoàn trên chiếc thương thuyền Pep Star, thuộc công ty hàng hải

của nước Đan Mạch, đã cứu vớt tôi và giúp cho tôi thoát khỏi ngục tù cộng sản và

cho tôi đến được bến bờ tự do. Đây quả là một công ơn quá lớn lao mà suốt đời tôi

không bao giờ quên được.

Tôi cũng không bao giờ quên nghĩa cử cao đẹp, đầy lòng nhân đạo của Cơ quan Tỵ

nạn Liên Hiệp Quốc UN/HCR và dân tộc các nước trên thế giới, đã mở rộng vòng

tay cứu vớt, trợ giúp và cưu mang chúng tôi, những người tỵ nạn trốn chạy khỏi

chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân bản.

Sau khi đến Hoa Kỳ được một năm thì tôi được vào quy chế thường trú, năm năm

thì được vào quốc tịch. Ngay khi đến Hoa Kỳ, tôi lo ngay việc nạp đơn xin bảo lãnh

gia đình qua chương trình ODP và 9 năm sau thì vợ tôi và ba đứa con đã đến được

Hoa Kỳ. Sau hơn 14 năm xa cách kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày miền

Nam rơi vào tay cộng sản, nay gia đinh tôi được đoàn tụ lại như xưa, đã thoát khỏi

gông cùm cộng sản và được sống trên quê hương mới đầy lòng nhân ái bao dung.

Đây quả như là một phép lạ do Ơn Trên ban phước cho.

Nguyễn Ngọc Thạch

Khóa 20 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt

Nguồn: https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vn/item/355-cu-c-vu-t-ng-c-th-n-tien-

nguy-n-ng-c-th-ch

www.vietnamvanhien.org