dỰ thẢo chỈ thỊ v t r - quangngai.gov.vn · chỈ thỊ về một số ... thải rắn...
TRANSCRIPT
CHỈ THỊ
Về một số giải pháp cấp bách tăng cường quản lý chất thải rắn
Trong thời gian qua, sự gia tăng dân số mạnh mẽ và sự phát triển vượt bậc
của các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, một mặt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, mặt khác đã làm gia tăng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, nguyên
vật liệu, năng lượng kéo theo sự gia tăng chất thải rắn cả về số lượng và thành
phần, tính chất chất thải, đã và đang gây áp lực rất lớn đến môi trường. Hiện nay,
khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên cả nước khoảng 61.000
tấn/ngày, trong đó khối lượng phát sinh tại khu vực đô thị là 37.000 tấn/ngày,
khu vực nông thôn là 24.000 tấn/ngày; tỷ lệ thu gom, vận chuyển và xử lý chất
thải rắn sinh hoạt ở cả đô thị và nông thôn tăng dần theo từng năm, tuy nhiên chất
thải rắn sinh hoạt đô thị trung bình cả nước mới thu gom đạt khoảng 85,5% và
chất thải rắn sinh hoạt nông thôn trung bình cả nước thu gom mới đạt khoảng 45-
60%; chất thải rắn sinh hoạt được xử lý chủ yếu bằng công nghệ chôn lấp, sản
xuất phân compost, công nghệ đốt không thu hồi năng lượng, công nghệ đốt kết
hợp với thu hồi năng lượng để phát điện và kết hợp xử lý bằng một số công nghệ
khác nhưng xử lý bằng công nghệ chôn lấp vẫn là chủ yếu chiếm tới 71% lượng
chất thải rắn sinh hoạt được thu gom.
Các loại chất thải rắn tại khu vực nông thôn bao gồm: chất thải rắn sinh
hoạt, phụ phẩm nông nghiệp (rơm, rạ, vỏ trấu, vỏ dừa…), chất thải rắn làng nghề,
vỏ bao bì đựng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, phân bón dùng trong
nông nghiệp sau khi đã sử dụng hoặc hết hạn sử dụng chưa được phân loại riêng,
thu gom, vận chuyển và xử lý triệt để đã và đang gây ô nhiễm môi trường khu vực
nông thôn. Đặc biệt, là việc đốt rơm rạ của các địa phương trong thời gian qua đã
và đang gây ô nhiễm môi trường không khí như ô nhiễm môi trường không khí
trong thời gian qua ở Hà Nội và một số địa phương là đáng báo động.
Việc quản lý chất thải nguy hại trong thời gian qua đã có các chuyển biến
tích cực, ngày càng đi vào nề nếp, tuy nhiên thực tế vẫn chưa đáp ứng các yêu cầu
về bảo vệ môi trường. Vẫn còn hiện tượng các chủ nguồn chất thải nguy hại cố
tình phân định là chất thải thông thường để chuyển cho các đơn vị không có chức
năng xử lý, tình trạng đổ trộm chất thải nguy hại vẫn diễn biến phức tạp. Chất thải
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số /CT-TTg Hà Nội, ngày tháng năm 2019
DỰ THẢO
2
rắn thông thường, chất thải rắn đặc thù từ hoạt động khai thác khoáng sản, hoạt
động xây dựng, y tế …trong quản lý vẫn còn bộc lộ một số tồn tại hạn chế.
Mặc dù công tác quản lý, xử lý chất thải rắn luôn là một nội dung trọng tâm
được triển khai ở các cấp, các ngành và địa phương nhằm giảm đến mức thấp nhất
và ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải rắn gây ra. Tuy nhiên,
trong quá trình triển khai, các Bộ, ngành và địa phương đã gặp không ít khó khăn,
vướng mắc như: thể chế, chính sách, đặc biệt là các quy định về phân công, phân
cấp trách nhiệm quản lý giữa các Bộ, ngành ở Trung ương và ở địa phương việc
phân công, phân cấp cho các cơ quan giúp việc của địa phương về quản lý chất thải
rắn sinh hoạt cũng còn nhiều bất cập; chính sách xã hội hóa, thủ tục đầu tư xây
dựng các cơ sở xử lý chất thải; triển khai quy hoạch quản lý chất thải rắn; định
mức, đơn giá thu gom xử lý chất thải rắn; công nghệ xử lý chất thải rắn phù hợp
với điều kiện Việt Nam; nhiều vụ việc nóng gây mất an ninh trật tự đã xảy ra ở một
số địa phương. Các khó khăn, vướng mắc nêu trên đã làm giảm hiệu quả công tác
quản lý chất thải, đồng thời trong quá trình thực hiện chưa thu hút được các doanh
nghiệp tư nhân tham gia vào công tác xử lý chất thải, việc xử lý chất chất thải chưa
đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường, một số cơ sở xử lý chất thải còn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường, thậm trí ở một số địa phương có các cơ
sở xử lý chất thải đã xảy ra tình hình mất an ninh trật tự xã hội.
Hiện nay phần lớn việc xử lý chất thải nguy hại đều do các cơ sở tư nhân xử
lý (chiếm 95%), tuy nhiên các công nghệ xử lý chất thải nguy hại vẫn còn tập trung
nhiều vào xử lý (tiêu hủy, đóng kén chôn lấp...) mà chưa hướng đến việc tái sử
dụng, tái chế chất thải để tận dụng hết các thành phần có ích trong chất thải. Bên
cạnh đó, tại một số địa phương vẫn còn tình trạng “ngăn sông cấm chợ” chất thải
nguy hại của địa phương mình thì có thể chuyển đi địa phương khác xử lý, nhưng
lại không cho mang chất thải ở địa phương khác về địa phương mình xử lý, dẫn đến
tình trạng các doanh nghiệp xử lý chất thải nguy hại chưa mạnh dạn đầu tư các
công nghệ cao, công nghệ tiến tiến vào lĩnh vực xử lý chất thải nguy hại.
Việc tái sử dụng, tái chế chất thải rắn vẫn còn nhiều bất cập, chưa tận dụng
được các thành phần có ích trong chất thải, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
vẫn còn sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu hao năng lượng nhiều dẫn đến phát sinh
nhiều loại chất thải, việc áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn, công nghệ thân
thiện môi trường áp dụng các kỹ thuật công nghệ có sẵn tốt nhất (BAT), công nghệ
môi trường tốt nhất (BET) còn hạn chế chưa hướng tới nền kinh tế tuần hoàn nhằm
phát triển bền vững đất nước.
Để sớm khắc phục các vấn đề còn hạn chế nêu trên liên quan đến công tác
quản lý và xử lý chất thải rắn, từng bước đưa hoạt động quản lý và xử lý chất thải
rắn ngày càng đi vào nề nếp, tạo sự chuyển biến căn bản trong lĩnh vực quản lý, xử
3
lý chất thải góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, gắn với bảo vệ môi trường
hướng tới xây dựng nền kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ yêu
cầu:
1. Thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành để chỉ đạo thực hiện do 01 Phó Thủ
tướng Chính phủ làm Trưởng ban, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường làm
Phó Trưởng ban thường trực; Thứ trưởng các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Nội
vụ, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Khoa học và Công nghệ, Xây dựng, Công
Thương, Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giáo dục và Đào tạo, Thông
tin và Truyền thông là thành viên Ban chỉ đạo. Ban Chỉ đạo liên ngành có bộ phận
thường trực đặt tại Bộ Tài nguyên và Môi trường. Ban Chỉ đạo hoạt động theo Quy
chế do Trưởng Ban ban hành phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp quán triệt và chỉ đạo tổ chức thực hiện các
giải pháp chính sau:
a) Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất thải
rắn; xây dựng các cơ chế, chính sách pháp luật khuyến khích thực hiện xã hội
hoá công tác thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế, xử lý và thu hồi năng
lượng từ chất thải.
b) Quản lý chất thải rắn theo phương thức quản lý tổng hợp, coi chất thải
rắn là tài nguyên; chất thải phải được phân loại tại nguồn; khuyến khích áp dụng
các công nghệ xử lý chất thải thành nguyên liệu, nhiên liệu, các sản phẩm thân
thiện môi trường, xử lý chất thải kết hợp với thu hồi năng lượng, giảm tối đa tỷ lệ
chất thải sau xử lý phải chôn lấp nhằm tiết kiệm đất đai; các công nghệ xử lý
chất thải rắn được lựa chọn phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
của từng địa phương và đất nước.
c) Cải tạo nâng cấp các bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt không hợp vệ
sinh, các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái do chất thải rắn đảm bảo yêu cầu bảo vệ
môi trường; xử lý triệt để các bãi chôn lấp chất thải sinh hoạt tự phát và ngăn
chặn kịp thời việc hình thành các bãi chôn lấp tự phát, không để phát sinh sau
năm 2025;
d) Tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức của cộng
đồng về quản lý chất thải; tập trung vào việc phân loại chất thải tại nguồn; tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về ý thức, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường,
không thải bỏ, vứt rác bừa bãi, chất thải phải được thu gom và thải bỏ đúng quy
định.
đ) Đầu tư hạ tầng kỹ thuật về môi trường, tạo nguồn nhân lực và tài chính
cho quản lý chất thải.
4
e) Tăng cường nghiên cứu, đầu tư, ứng dụng công nghệ mới, hiện đại
trong tái chế, xử lý chất chất thải thu hồi năng lượng, thúc đẩy nhanh nền kinh tế
tuần hoàn ở Việt Nam.
g) Tăng cường hợp tác quốc tế với các quốc gia trên thế giới, các tổ chức
quốc tế để tiếp nhận kinh nghiệm quản lý và chuyển giao công nghệ tái chế, xử
lý chất thải rắn tiên tiến, thân thiện với môi trường; thu hút các nguồn vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA), đầu tư trực tiếp vốn nước ngoài (FDI), hợp tác
công tư (PPP) và khuyến khích các thành phần doanh nghiệp tham gia xử lý chất
thải;
h) Xây dựng, tổng kết đánh giá và nhân rộng các mô hình dịch vụ thu
gom, vận chuyển, xử lý chất thải phù hợp với điều kiện của từng địa phương;
từng bước triển khai thực hiện phân loại chất thải rắn tại nguồn, thu gom, vận
chuyển, tái sử dụng, tái chế, xử lý và thu hồi năng lượng.
3. Trách nhiệm của các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
a) Bộ Tài nguyên và Môi trường:
- Là cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo liên ngành có nhiệm vụ giúp
Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương có liên quan chỉ
đạo, đôn đốc, giám sát tổ chức thực hiện Chỉ thị. Ban Chỉ đạo liên ngành có Văn
phòng giúp việc đặt tại Bộ Tài nguyên và Môi trường (Tổng cục Môi trường) do
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quyết định thành lập và ban hành Quy
chế hoạt động.
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng, Bộ Khoa
học và Công nghệ và các Bộ, ngành, địa phương có liên quan khẩn trương xây
dựng dự thảo Nghị định sửa đổi chức năng, nhiệm vụ về quản lý chất thải rắn,
theo hướng Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối thống nhất quản lý
nhà nước về chất thải rắn ở Trung ương và Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ
quan đầu mối thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn ở địa phương.
- Thực hiện đầu mối thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn; chủ trì,
phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương đề xuất phương thức quản lý nhà
nước mang tính bước ngoặt, đột phá trong quản lý chất thải rắn; coi chất thải là
tài nguyên; ưu tiên các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng
lượng từ xử lý chất thải rắn; đưa nội dung quản lý chất thải rắn hướng tới nền
kinh tế tuần hoàn trong đó chú trọng giảm thiểu, tăng cường tái chế, tái sử dụng,
tận dụng tối đa giá trị của chất thải phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội đưa
vào việc sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tổ chức triển khai có
hiệu quả Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 07 tháng 5 năm 2018 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt điều chỉnh Chiến lược Quốc gia về quản lý tổng hợp
5
chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó phấn đấu đến năm
2025 tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp đạt
tỷ lệ dưới 30% so với lượng chất thải được thu gom; không đầu tư xây dựng mới
cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt đảm bảo tỷ lệ chôn lấp sau xử lý không quá
20%;
- Tập trung rà soát và đề xuất hoàn thiện các quy định, chính sách về quản
lý chất thải rắn sinh hoạt phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển để trình
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành theo thẩm quyền;
tổ chức thẩm định các công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt và ban hành theo
thẩm quyền “Danh mục công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt khuyến khích
triển khai, áp dụng tại Việt Nam” để các địa phương nghiên cứu, áp dụng.
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các địa
phương nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách hỗ trợ cộng đồng dân cư
sinh sống xung quanh khu vực cơ sở xử lý chất thải rắn để tạo sự đồng thuận của
người dân trong triển khai thực hiện dự án.
- Khẩn trương rà soát các quy chuẩn kỹ thuật môi trường liên quan đến xử
lý chất thải rắn theo hướng đối với các dự án đầu tư mới về xử lý chất thải rắn
phải áp dụng các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường theo hướng áp
dụng các tiêu chuẩn của các nước thuộc nhóm các nền kinh tế lớn (G20) và tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD); đối với các cơ sở xử lý chất thải rắn
đang hoạt động đề xuất lộ trình cụ thể để đáp ứng các tiêu chuẩn trên.
- Đánh giá quy hoạch quản lý chất thải rắn đã được cấp có thẩm quyền
phê duyệt để xây dựng nội dung quy hoạch quản lý chất thải rắn trong quy
hoạch bảo vệ môi trường cấp quốc gia và sớm trình Thủ tướng Chính phủ xem
xét, phê duyệt; hướng dẫn các địa phương thực hiện quy hoạch bảo vệ môi
trường cấp tỉnh;
- Thúc đẩy tái sử dụng, tái chế và sản xuất, thu hồi năng lượng từ chất
thải; Hoàn thiện hướng dẫn kỹ thuật phân loại rác tại nguồn để hướng dẫn các
địa phương triển khai động bộ; đề xuất cơ chế, chính sách quản lý, xử lý chất
thải trên nguyên tắc người phát sinh ra chất thải phải trả tiền thu gom, lưu giữ,
vận chuyển và xử lý; huy động các nguồn lực đầu tư, khuyến khích các tổ chức,
cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào hoạt động tái chế, tái sử dụng và thu hồi
năng lượng từ chất thải rắn. Đẩy mạnh hợp tác công - tư (PPP) trong lĩnh vực xử
lý, tái chế chất thải;
- Rà soát, hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ: (1) “Đề án tăng
cường năng lực quản lý chất thải sinh hoạt tại Việt Nam”; (2) “Đề án tăng cường
quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam” để xem xét, ban hành trong quý IV năm
2019;
6
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật đối với hoạt động
thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt; định mức xây dựng, suất vốn
đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy định của pháp luật
về đầu tư; rà soát, sửa đổi bổ sung quy chuẩn về khoảng cách an toàn môi
trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt cho phù hợp với thực tiễn sau
khi Nghị định sửa đổi chức năng, nhiệm vụ của các Bộ ngành về quản lý chất
thải rắn được ban hành;
- Xây dựng cập nhật và tích hợp cơ sở dữ liệu về quản lý chất thải vào hệ
thống cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia. Ứng dụng công nghệ thông tin trong
giám sát, quản lý hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải.
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, các cơ sở xử lý chất thải theo thẩm quyền, xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường.
- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Khoa học và
Công nghệ và các địa phương tăng cường áp dụng và triển khai các tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong việc xử lý các phụ phẩm nông nghiệp thành các thành phần
có ích, đặc biệt là việc xử lý rơm, rạ sau thu hoạch.
- Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về xử lý vỏ bao bì đựng hóa chất, thuốc bảo
vệ thực vật, thuốc thú y, phân bón sau sử dụng, hết hạn sử dụng trong nông nghiệp;
- Xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật, quy trình xử lý ô nhiễm môi trường
do việc lưu giữ, chôn lấp không hợp vệ sinh gây ra tại khu vực nông thôn;
- Phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc ban
hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong việc sử dụng chất thải làm nguyên
liệu, vật liệu trong xây dựng, như việc xử lý chất thải rắn trong lò nung xi măng,
tái sử dụng tro, xỉ từ nhà máy nhiệt điện làm vật liệu san lấp…
- Tăng cường hợp tác quốc tế với các quốc gia trên thế giới, các tổ chức
quốc tế để tiếp nhận kinh nghiệm quản lý và chuyển giao công nghệ tái chế, xử
lý chất thải tiên tiến;
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm quản lý nhà nước về quản lý
chất thải rắn tại các địa phương.
b) Bộ Nội vụ:
- Phối hợp với các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Tư pháp,
Khoa học và Công nghệ rà soát, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung chức
năng, nhiệm vụ của các Bộ và của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh theo hướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối
thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn ở Trung ương và Sở Tài nguyên và
Môi trường là cơ quan đầu mối thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn ở
địa phương, trình Chính phủ trong Quý II năm 2020;
7
- Chủ trì rà soát, đề xuất phương án bố trí, sắp xếp, điều động, luân
chuyển cán bộ, công chức đang thực hiện quản lý chất thải rắn (ở cấp Trung
ương và địa phương) từ ngành xây dựng về ngành tài nguyên và môi trường sau
khi Nghị định sửa đổi chức năng, nhiệm vụ của các Bộ ngành về quản lý chất
thải rắn được ban hành.
c) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát các quy định
về thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại các xã, huyện trong
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
- Chỉ đạo các địa phương thực hiện khẩn trương, nghiêm túc tiêu chí về
môi trường trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; hạn
chế đầu tư cơ sở xử lý chất thải quy mô cấp xã, trong đó đặc biệt lưu ý không
đầu tư các lò đốt cỡ nhỏ không đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường; đảm
bảo thực hiện đúng theo các quy định về bảo vệ môi trường; không đầu tư mới
cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt có tỷ lệ chất thải rắn sau xử lý phải chôn lấp >
20%.
- Tổ chức hướng dẫn việc thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại
nguồn tại các xã đã được công nhận xã nông thôn mới.
- Chủ trì phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi
trường trong việc ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học vào thực tiễn trong
việc xử lý các phụ phẩm nông nghiệp đặc biệt là việc xử lý rơm, rạ sau thu
hoạch thành các sản phẩm có ích, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
- Chủ trì phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và các địa phương
trên cả nước, tuyên truyền vận động nhân dân không được đốt rơm, rạ sau thu
hoạch nhằm giảm thiểu ô nhiễm không khí.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan kiểm soát chặt chẽ hoạt
động sản xuất, nhập khẩu, sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y,
phân bón sử dụng trong nông nghiệp;
- Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về thu gom vỏ bao bì đựng hóa chất,
thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, phân bón sau sử dụng, hết hạn sử dụng trong
nông nghiệp;
d) Bộ Xây dựng:
- Phối hợp với các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Nội vụ, Tư pháp, Khoa
học và Công nghệ rà soát, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung chức năng,
nhiệm vụ của các Bộ và của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh theo hướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối
thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn ở Trung ương và Sở Tài nguyên và
8
Môi trường là cơ quan đầu mối thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn ở
địa phương, trình Chính phủ trong Quý II năm 2020;
- Rà soát, xây dựng bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế đường ống
thu gom phù hợp với việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn tại các
trung tâm thương mại kết hợp với căn hộ, chung cư kết hợp với văn phòng, các
tổ hợp công trình cao tầng có chức năng hỗn hợp.
- Khẩn trương rà soát, nghiên cứu ban hành hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung
các văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, thiết kế kỹ thuật
về xây dựng các cơ sở xử lý chất thải rắn.
- Xây dựng phương án bàn giao, điều chuyển các nhiệm vụ liên quan đến
quản lý chất thải rắn sinh hoạt do Bộ Xây dựng chủ trì trước đây về Bộ Tài
nguyên và Môi trường (bao gồm cả nhân lực).
- Phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường
ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong việc tái sử dụng, xử lý chất
thải thành nguyên liệu trong ngành xi măng, vật liệu trong xây dựng.
đ) Bộ Y tế: chỉ đạo các cơ sở y tế thực hiện tốt việc phân định, phân loại
chất thải y tế; hạn chế tối đa việc phát sinh chất thải nhựa từ các hoạt động y tế.
e) Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
- Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương để xây dựng và tổng hợp kế
hoạch đầu tư cho công tác quản lý chất thải rắn, chất thải rắn sinh hoạt theo quy
hoạch đã được phê duyệt;
- Phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa
phương nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách hỗ trợ cộng đồng dân cư
sinh sống xung quanh khu vực cơ sở xử lý chất thải rắn để tạo sự đồng thuận của
người dân trong triển khai thực hiện dự án.
- Khẩn trương rà soát, xây dựng và ban hành tiêu chí về môi trường trong
việc phân bổ nguồn vốn đầu tư trong đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn,
trong đó có chất thải rắn sinh hoạt;
- Đề xuất các giải pháp thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư các cơ sở
xử lý chất thải rắn, chất thải rắn sinh hoạt với công nghệ hiện đại, phù hợp với
các loại chất thải rắn tại Việt Nam.
g) Bộ Tài chính:
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu hoàn thiện cơ
chế, chính sách về tín dụng đầu tư đối với các hoạt động trong lĩnh vực xử lý
chất thải rắn, chất chất thải rắn sinh hoạt, nhằm khuyến khích các thành phần
kinh tế tư nhân tham gia đầu tư xây dựng, quản lý, vận hành công trình xử lý
chất thải rắn.
9
- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường và
các địa phương nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách hỗ trợ cộng đồng
dân cư sinh sống xung quanh khu vực cơ sở xử lý chất thải rắn để tạo sự đồng
thuận của người dân trong triển khai thực hiện dự án.
- Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và
Môi trường rà soát, xây dựng, ban hành khung đơn giá xử lý cho từng công nghệ
xử lý chất thải rắn sinh hoạt phù hợp với thực tế hiện nay để thống nhất áp dụng
cho các địa phương trên toàn quốc.
- Rà soát, ban hành các cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ thúc đẩy công
nghiệp môi trường.
- Rà soát, ban hành cơ chế, chính sách để Bộ Tài nguyên và Môi trường sử
dụng ngân sách trung ương hỗ trợ giá xử lý chất thải rắn sinh hoạt đối với các địa
phương khó khăn về tài chính.
- Nghiên cứu, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát việc sử dụng ngân sách
chi trả cho việc xử lý chất thải rắn tại các địa phương trên cả nước.
h) Bộ Khoa học và Công nghệ:
- Phối hợp với các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Nội vụ, Tư pháp, Xây
dựng rà soát, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các
Bộ và của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng
giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối thống nhất quản lý nhà
nước về chất thải rắn ở Trung ương và Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan
đầu mối thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn ở địa phương, trình Chính
phủ trong Quý II năm 2020;
- Tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ, chương trình, dự án nghiên
cứu khoa học công nghệ xử lý chất thải, công nghệ xử lý các phụ phẩm nông
nghiệp đặc biệt là rơm, rạ phát sinh sau thu hoạch.
- Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao công nghệ thân thiện với môi
trường trong tái chế, xử lý chất thải; xử lý các phụ phẩm nông nghiệp đặc biệt
là rơm, rạ phát sinh sau thu hoạch.
- Hoàn thiện các hàng rào kỹ thuật quy chuẩn, tiêu chuẩn với lộ trình tiệm
cận với các nước tiến tiến để đảm bảo phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả công nghệ
lạc hậu, lợi dụng việc đưa chất thải xâm nhập vào Việt Nam thông qua việc nhập
khẩu công nghệ đã qua sử dụng.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kiểm soát về môi trường
đối với các hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ xử lý chất thải nhằm
ngăn chặn việc đưa công nghệ lạc hậu, máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật
liệu không đảm bảo yêu cầu về môi trường từ bên ngoài vào nước ta phục vụ
cho việc xử lý chất thải rắn, chất thải rắn sinh hoạt.
10
k) Bộ Công Thương:
- Chủ trì phối hợp với các Bộ ngành chỉ đạo các Nhà máy nhiệt điện,
nhà máy sản xuất phân bón trong việc rà soát công nghệ, nguyên liệu đầu và
có lộ trình cụ thể nhằm đảm bảo việc tro, xỉ phát sinh đáp ứng các tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật cho ngành vật liệu xây dựng; hạn chế tới mức thấp nhất
phải xử lý.
- Khẩn trương tổ chức hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện “Đề án phát triển
ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2025”, trong đó có nội
dung về quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
- Phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa phương trong
việc quản lý các hồ chứa quặng đuôi trong khai thác, chế biến khoáng sản
đảm bảo yêu cầu về bảo vệ môi trường.
l) Bộ Thông tin và Truyền thông:
- Phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành và địa
phương thực hiện tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các quy định pháp luật về
quản lý chất thải rắn sinh hoạt, đặc biệt là về công tác phân loại chất thải rắn tại
nguồn, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế, xử lý và thu hồi năng lượng
thông qua các phương tiện phát thanh, truyền hình và báo chí nhằm nâng cao
nhận thức và ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân.
- Tổ chức triển khai các hoạt động tuyên truyền, vận động người dân sống
gần các dự án, cơ sở xử lý chất thải để ủng hộ, đồng thuận giao đất, xây dựng,
vận hành nhà cơ sở xử lý chất thải.
- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài nguyên
và Môi trường và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
vận động nhân dân ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật; các đề tài nghiên
cứu khoa học đã được triển khai trong thực tế vào việc xử lý rơm rạ, tiến tới
hình thành ý thức không đốt rơm rạ sau thu hoạch.
n) Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan
tăng cường nghiên cứu, rà soát, đánh giá, biên soạn, truyên truyền và đưa các nội
về bảo vệ môi trường vào trong chương trình đào tạo, trong đó có nội dung quản
lý tổng hợp chất thải rắn, phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn.
m) Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh:
- Chịu trách nhiệm toàn diện về vấn đề quản lý chất thải rắn, trong đó có
chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn; đảm bảo cân đối hợp lý nguồn ngân sách cho
công tác quản lý chất thải rắn trên địa bàn;
- Thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành tại địa phương để chỉ đạo thực hiện do
01 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh làm Trưởng ban, Giám đốc Sở Tài nguyên
và Môi trường làm Phó Trưởng ban thường trực; Lãnh đạo các Sở: Tài nguyên và
11
Môi trường, Nội vụ, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Khoa học và Công nghệ, Xây
dựng, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giáo dục và Đào tạo,
Thông tin và Truyền thông là thành viên Ban chỉ đạo. Ban Chỉ đạo liên ngành có
bộ phận thường trực đặt tại Sở Tài nguyên và Môi trường. Ban Chỉ đạo liên ngành
tại địa phương hoạt động theo Quy chế do Trưởng Ban ban hành phù hợp với các
quy định của Ban Chỉ đạo Trung ương và của pháp luật hiện hành.
- Rà soát các quy định về quản lý chất thải rắn trên địa bàn theo thẩm
quyền, xóa bỏ việc không cho phép các cơ sở xử lý chất thải rắn, chất thải nguy
hại tại địa phương không được đưa chất thải rắn, chất thải nguy hại từ địa
phương khác về địa phương mình để xử lý; rà soát quy hoạch quản lý chất thải
rắn để xây dựng và phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường cấp tỉnh đảm bảo
phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
- Phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách trên địa bàn nhằm hỗ trợ
cộng đồng dân cư sống xung quang khu vực xử lý chất thải rắn, tạo sự đồng
thuận của người dân trong triển khai thực hiện dự án.
- Rà soát lại mô hình tổ chức quản lý chất thải rắn tại địa phương, giao Sở
Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối về chuyên môn giúp việc cho Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến quản lý chất thải rắn.
- Rà soát, ban hành mức phí (giá dịch vụ) thu gom, vận chuyển và xử lý
chất thải sinh hoạt cho phù hợp với điều kiện của địa phương; có lộ trình tăng
dần mức thu phí vệ sinh (chuyển từ phí vệ sinh sang giá dịch vụ) của các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân để chi trả phí thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải
rắn sinh hoạt, giảm dần bao cấp của ngân sách nhà nước; có quy định các mức
phí vệ sinh (giá dịch vụ) khác nhau đối với hộ gia đình, cá nhân thực hiện
tốt/không thực hiện phân loại chất thải tại nguồn theo quy định.
- Tổ chức thực hiện cơ chế đấu thầu hoặc đặt hàng đối với công tác thu
gom, vận chuyển và xử lý chất thải sinh hoạt; đẩy mạnh xã hội hóa trong hoạt
động thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải; triển khai cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước cung cấp dịch vụ quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
- Xây dựng các mô hình xã hội hóa trong công tác thu gom, vận chuyển,
lưu giữ và xử lý chất thải rắn sinh hoạt nông thôn; thành lập các tổ chức hoạt
động theo cơ chế tự chủ về tài chính, quản lý con người, tài sản, có sự đầu tư
mua sắm xe chuyên dụng, xe đẩy thu gom rác để mở rộng địa bàn, nâng cao tỷ
lệ thu gom.
- Lập danh sách dự án và công khai các dự án xử lý chất thải với công
nghệ hiện đại, phù hợp để thu hút đầu tư trên địa bàn theo quy định; Rà soát,
đơn giản hóa các thủ tục chuẩn bị đầu tư, xây dựng và vận hành dự án/cơ sở xử
12
lý chất thải. Khẩn trương thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp công ích tham
gia vào việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải.
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác phân loại chất thải rắn tại nguồn, thu
gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế, xử lý và thu hồi năng lượng; đảm bảo hạ
tầng kỹ thuật để tổ chức triển khai công tác phân loại chất thải rắn tại nguồn;
- Cải tạo nâng cấp các bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt không hợp vệ
sinh, các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái do chất thải rắn đảm bảo yêu cầu bảo
vệ môi trường; xử lý triệt để các bãi chôn lấp chất thải sinh hoạt tự phát và ngăn
chặn kịp thời việc hình thành các bãi chôn lấp tự phát. Rà soát các cơ sở xử lý
chất thải rắn, chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn tỉnh, yêu cầu các cơ sở xử lý
chất thải phải phải có lộ trình cụ thể để thay đổi các công nghệ xử lý chất thải
không đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường; đối với dự án đầu tư mới xử lý
chất thải phải áp dụng các tiêu chuẩn của các nước G20 và tổ chức OECD.
- Tổ chức tuyên truyền, vận động, thông tin, quảng bá về quản lý chất
thải, phân loại chất thải rắn tại nguồn trong các chương trình phát thanh, truyền
hình và trong các buổi sinh hoạt của các tổ chức chính trị - xã hội một cách
thường xuyên;
- Tổ chức triển khai các hoạt động tuyên truyền, vận động người dân sống
gần các dự án, cơ sở xử lý chất thải để ủng hộ, đồng thuận giao đất, xây dựng,
vận hành nhà cơ sở xử lý chất thải rắn, chất thải sinh hoạt.
- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Khoa học và
Công nghệ và các Bộ ngành liên quan hướng dẫn các tổ chức/cá nhân ứng dụng
các tiến bộ khoa học, kỹ thuật; các đề tài nghiên cứu khoa học đã được triển khai
trong thực tế trong việc xử lý các phụ phẩm nông nghiệp, đặc biệt là xử lý rơm
rạ; có hình thức động viên kịp thời các hộ dân thực hiện tốt, tiến tới có chế tài cụ
thể đối với các hộ dân đốt rơm rạ sau thu hoạch; từng bước nâng cao ý thức của
cộng đồng nhân dân tiến tới xóa bỏ thói quen đốt rơm rạ sau thu hoạch, hạn chế
tiến tới chấm dứt việc thải bỏ chai, lọ, vỏ bao bì ngoài đồng ruộng; không sử
dụng các loại chai lọ, vỏ bao bì bằng nhựa sử dụng một lần trong các hoạt động
nông nghiệp.
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các đơn vị tham gia quản lý
chất thải trên địa bàn và ý thức chấp hành của người dân, có biện pháp xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường.
- Các thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm Thành phố Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hải phòng và thành
phố Cần Thơ khẩn trương đầu tư các nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo
hướng công nghệ hiện đại có kết hợp thu hồi năng lượng phù hợp với tiêu chuẩn
13
của các nước G20 và tổ chức OECD, đảm bảo đến năm 2022 giảm tỷ lệ chôn lấp
chất thải rắn sinh hoạt xuống dưới 20%.
4. Tổ chức thực hiện:
a) Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức,
triển khai thực hiện nghiêm Chỉ thị này; hàng năm tiến hành tổng kết, đánh giá
các nhiệm vụ được phân công và gửi về Bộ Tài nguyên và Môi trường để tổng
hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
b) Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn
đốc việc thực hiện Chỉ thị này, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ khi có
vướng mắc phát sinh./.
Nơi nhận: - Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; - Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng; - Văn phòng Tổng bí thư; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Toà án nhân dân tối cao; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia; - Kiểm toán Nhà nước; - UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Cơ quan Trung ương của các đoàn thể; - VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTCP, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lưu: Văn thư, KGVX, CN (3b).
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Xuân Phúc