ĐẠi hỌc quỐc gia hÀ nỘi - dl.ueb.edu.vndl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/15493/1/danh gia tac...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ---------------------
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
NĂM HỌC 2015 – 2016
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM
Hà Nội, 2016
i
LỜI CẢM ƠN
Nhóm nghiên cứu xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo hướng dẫn đã giúp
đỡ nhóm nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học. Nếu
không có sự chỉ bảo, góp ý của cô thì nghiên cứu này khó có thể được hoàn thành.
Bên cạnh đó, chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa
cũng như trong nhà trường đã truyền đạt những kiến thức bổ ích nền tảng để chúng
em thực hiện nghiên cứu này.
Nhóm nghiên cứu chúc các thầy cô sức khỏe và công tác tốt.
Hà Nội, ngày 06 tháng 04 năm 2015
Nhóm nghiên cứu
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ i
MỤC LỤC ..................................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. v
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... vi
DANH MỤC CÁC HÌNH .......................................................................................... vii
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................................... 2
3. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 7
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .................................................... 7
5. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................ 7
6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 8
7. Bố cục bài nghiên cứu ............................................................................................ 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ, CHÍNH SÁCH
TÀI KHÓA VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ................................................. 9
1.1. Chính sách tiền tệ ............................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm .......................................................................................................... 9
1.1.2. Mục tiêu ............................................................................................................. 9
1.1.3. Các công cụ Ngân hàng Trung ương sử dụng để điều chỉnh CSTT ............... 11
1.1.4. Các kênh dẫn truyền chính sách tiền tệ .......................................................... 11
1.2. Chính sách tài khóa .......................................................................................... 13
1.2.1. Khái niệm ........................................................................................................ 13
1.2.2. Phân loại chính sách tài khóa ......................................................................... 14
1.2.3. Tác động của chính sách tài khóa đến hoạt động đầu tư ............................... 15
iii
1.3. Thị trường chứng khoán .................................................................................. 16
1.3.1. Khái niệm thị trường chứng khoán ................................................................. 16
1.3.2. Tác động của CSTT và CSTK đến thị trường chứng khoán ........................... 18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ, CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ................................................... 20
2.1. Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay ...................................... 20
2.2. Thực trạng chính sách tài khóa ở Việt Nam hiện nay .................................. 26
2.3. Thị trường chứng khoán Việt Nam ................................................................ 29
2.3.1. Quá trình hình thành và phát triển ................................................................. 29
2.3.2. Thực trạng phát triển chứng khoán ảnh hưởng tới nền kinh tế. ..................... 33
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................... 38
3.1. Các yếu tố trong mô hình và giả thuyết nghiên cứu ..................................... 38
3.2. Mô hình nghiên cứu ......................................................................................... 43
3.3. Số liệu ................................................................................................................. 47
CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ..................................................................... 51
4.1. Xử lý số liệu và lựa chọn mô hình nghiên cứu ............................................... 51
4.1.1. Kiểm định tính dừng ........................................................................................ 51
4.1.2. Độ trễ tối ưu .................................................................................................... 51
4.1.3. Kiểm định nhân quả Granger ......................................................................... 52
4.1.4. Kiểm định tính đồng liên kết theo phương pháp Johansen ............................. 54
4.1.5. Chọn lựa mô hình nghiên cứu ......................................................................... 56
4.2. Kiểm định tính dừng của phần dư .................................................................. 56
4.3. Kiểm định phương sai số thay đổi phần dư ................................................... 57
4.4. Kiểm định tự tương quan phần dư ................................................................. 58
4.5. Kiểm định tính ổn định của mô hình .............................................................. 58
iv
4.6. Các kết quả phản ứng đẩy ............................................................................... 59
4.6.1. Phản ứng của chỉ số giá chứng khoán VNIndex với các biến ngoại sinh ...... 59
Phản ứng của VNIndex với giá dầu thô .................................................................... 59
4.6.2. Phản ứng của chỉ số chứng khoán VNIndex với chính sách tiền tệ ................ 61
Phản ứng của VNIndex với cung tiền M2 ................................................................. 61
4.6.3. Phản ứng của chỉ số chứng khoán VNIndex với chính sách tài khóa ............. 63
Phản ứng của VNIndex với thu ngân sách ................................................................ 63
4.6.4. Phản ứng của chỉ số chứng khoán VNIndex với biến phản ánh sự phối hợp
hai chính sách ........................................................................................................... 65
4.7. Dự báo ................................................................................................................ 67
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN .......................................................................................... 70
5.1. Kết luận và khuyến nghị ..................................................................................... 70
5.2. Đóng góp của đề tài ............................................................................................. 73
5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài ........................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 75
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 83
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
1 ADF Augmented Dickey-Fuller Kiểm định tính dừng theo tiêu
chuẩn Dickey-Fuller
2 AIC Akaike information criterion Kiểm định theo tiêu chuẩn
Akaike
3 CPI Consumer Price Index Chỉ số giá tiêu dùng
4 CSGTK Chỉ số giá chứng khoán
5 CSTK Chính sách tài khóa
6 CSTT Chính sách tiền tệ
7 FED Federal Reserve System Cục dữ trữ liên bang Mỹ
8 GDP Gross domestic product Tổng sản phẩm quốc nội
9 IMF International Money Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
10 NHNN Ngân hàng Nhà nước
11 SC Schwarz information criterion Kiểm định theo tiêu chuẩn
Schwarz
12 TTCK Thị trường chứng khoán
13 TTGDCK Thị trường giao dịch
chứng khoán
14 UBCKNN Ủy ban chứng khoán
Nhà nước
15 VAR Vector autoregression model Mô hình vecto tự hồi quy
16 VECM Vector error correction model Mô hình vecto hiệu chỉnh
sai số
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Diễn biến lạm phát, tăng trưởng, M2, tín dụng năm 2004–2015................. 23
Bảng 3.1: Danh sách số liệu trong bài nghiên cứu ....................................................... 48
Bảng 3.2: Thống kê các nghiên cứu trước ở trong nước .............................................. 49
Bảng 4.1: Thống kê kết quả kiểm định tính dừng ........................................................ 51
Bảng 4.2: Độ trễ tối ưu theo mỗi tiêu chuẩn kiểm định ............................................... 52
Bảng 4.3: Kết quả kiểm định nhân quả ........................................................................ 53
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định đồng liên kết .................................................................. 55
Bảng 4.5: Mức ý nghĩa mô hình theo 2 tiêu chuẩn AIC và SC .................................... 56
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định tính dừng của phần dư ................................................... 56
Bảng 4.7: Kiểm định phương sai số thay đổi phần dư ................................................. 57
Bảng 4.8: Kết quả kiểm định tự tương quan phần dư .................................................. 58
Bảng 4.9: Kết quả dự báo chỉ số VNIndex từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2016 ....... 67
Bảng 4.10: So sánh chỉ số VNIndex dự báo với chỉ số VNIndex thực tế .................... 69
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Tỷ giá VNĐ/USD ......................................................................................... 24
Hình 2.2: Tăng trưởng GDP và lạm phát ..................................................................... 25
Hình 2.3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2005–2015 ........................ 26
Hình 2.4: Thu chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2011–2015 ...................................... 28
Hình 4.1: Mô tả quan hệ nhân quả giữa các biến ......................................................... 54
Hình 4.2: Kết quả kiểm định nghịch đảo nghiệm đơn vị gốc đa thức AR ................... 59
Hình 4.3: Phản ứng của CSGCKVN với giá dầu thô ................................................... 59
Hình 4.4: Phản ứng của CSGCK VN với CSGCK Mỹ S&P500 ................................. 60
Hình 4.5: Phản ứng của CSGCK VN trước sự tăng cung tiền M2 ............................... 61
Hình 4.6: Phản ứng của CSGCK VN trước thay đổi lãi suất ....................................... 62
Hình 4.7: Phản ứng của CSGCK VN với thu ngân sách trong CSTK ......................... 63
Hình 4.8: Phản ứng của CSGCK VN với chi tiêu trong CSTK ................................... 64
Hình 4.9: Phản ứng của CSGCK VN với thay đổi về giá cả ........................................ 65
Hình 4.10: Phản ứng của CSGCK VN trước thâm hụt ngân sách................................ 66
Hình 4.11: Kết quả dự báo chỉ số VNIndex từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2016 ...... 67
Hình 4.12: Biến động chỉ số giá VNIndex theo ngày từ tháng 12/2015 đến 04/2016..68
Hình 4.13: So sánh chỉ số VNIndex dự báo với VNIndex thực tế ............................... 69
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế hiện đại, sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán
(TTCK) có ảnh hưởng tích cực tới phát triển kinh tế của một quốc gia. Ở Việt Nam, để
hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa phát triển bền vững nền kinh tế
cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp thì nguồn vốn lớn cho thúc đẩy đầu tư là vô cùng cần thiết. Vì thế, hình thành
và phát triển TTCK là điều tất yếu trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới. Thị trường
chứng khoán Việt Nam chính thức vận hành vào năm 2000 và chỉ có hai doanh nghiệp
niêm yết với vốn hóa thị trường mới đạt 986 tỷ đồng tương đương 0.28% GDP thì tính
đến 20/11/2015 trên hai sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh
đã có hơn 678 công ty niêm yết, ngoài ra trên UPCoM có hơn 200 công ty đăng ký
giao dịch1. TTCK không ngừng được hoàn thiện về khung pháp lý, thể chế chính sách;
tăng trưởng về quy mô hàng hóa, số lượng công ty niêm yết lẫn giá trị giao dịch,
lượng nhà đầu tư tham gia cũng ngày càng tăng, về tổ chức thị trường cùng với hoạt
động quản lý, giám sát ngày được nâng cao. Trải qua hơn 15 năm hoạt động TTCK
đang khẳng định vai trò và vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Đặc biệt là nơi tập
trung, cung cấp vốn, TTCK đến nay giúp nền kinh tế huy động một lượng vốn rất lớn
đạt gần 2 triệu tỷ đồng, quy mô vốn hóa thị trường đạt 34% GDP tăng 114 lần so với
mốc sơ khai, trong đó vốn hóa thị trường cổ phiếu và giá trị giao dịch cổ phiếu đạt lần
lượt là 1,300,000 tỷ đồng (tăng 1,300 lần) và hơn 2,000 tỷ đồng/phiên (tăng hơn 1,400
lần) cao hơn rất nhiều so với năm 20002. Thực tế cho thấy, thị trường chứng khoán
đang đóng vai trò là một kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế, một trong
những bộ phận quan trọng của thị trường tài chính, nơi giúp các nhà đầu tư đến gần
hơn với doanh nghiệp, nhờ đó các doanh nghiệp có thể tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn
lớn để mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, TTCK lại rất nhạy cảm trước các thông tin vĩ mô, hành vi và tâm
lý của các nhà đầu tư, chỉ một tổn thất nhỏ sẽ gây ảnh đổ vỡ dây truyền trên thị trường
1http://thoibaotaichinhvietnam.vn/ 2http://thoibaotaichinhvietnam.vn/
2
tài chính, ảnh hưởng toàn bộ nền kinh tế. Điều này giải thích vì sao phát triển và ổn
định thị trường chứng khoán là một trong những mối quan tâm hàng đầu trong phát
triển kinh tế và ổn định vĩ mô của mỗi quốc gia. Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế
bền vững, ổn định vĩ mô thì chính phủ ban hành các chính sách vĩ mô mà hai công cụ
quan trọng nhất giữ yếu tố quyết định trong quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế là
chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK). Thông qua chính sách tài
khóa chính phủ sử dụng hai công cụ thuế khóa và chi tiêu công để điều tiết chi tiêu
chung của nền kinh tế. Trong khi, thông qua chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước
điều chỉnh mức cung tiền và lãi suất bằng nhiều công cụ khác nhau nhằm tác động đến
lượng cung tiền và số nhân tiền điều này có tác động trực tiếp vào các lĩnh vực lưu
thông tiền tệ. Với mỗi thay đổi trong chính sách vĩ mô là CSTT hay CSTK sẽ đều tạo
ra những tác động trực tiếp hay gián tiếp lên TTCK. Vì vậy, thiếu sự phối hợp giữa
CSTK và CSTT sẽ đặt ra những thách thức lớn về cân đối thu chi ngân sách và ổn
định tiền tệ cho nền kinh tế.
Xuất phát từ những điểm mạnh yếu khác nhau của mỗi chính sách có thể tác
động tích cực hay tiêu cực tới thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư, nhà nghiên
cứu và cơ quan hoạch định chính sách cần quan tâm tới mối quan hệ giữa hai chính
sách vĩ mô này với TTCK do đó nhóm nghiên cứu đề xuất nghiên cứu để đánh giá tác
động của các cú sốc CSTT và CSTK lên thị trường chứng khoán Việt Nam nhằm dự
báo những phản ứng của TTCK trước tác động của từng chính sách cũng như sự tương
tác của hai chính sách này để đưa ra những khuyến nghị hữu ích cho nhà đầu tư và các
nhà hoạch định chính sách.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng có một vai
trò quan trọng trong bối cảnh phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Đặc biệt, thị trường
chứng khoán rất nhạy cảm trước các thông tin trên thị trường (Liya Wang, 2010).
Theo Galbraith (1955) (trích trong Singh Shivangi & Jotwani Naresh (2012)) thì “Thị
trường chứng khoán giống như một chiếc gương, trong đó hiện lên hình ảnh căn bản
về tình hình của một nền kinh tế”. Trên thực tế, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các
3
chính sách kinh tế vĩ mô và thị trường chứng khoán nhận được nhiều sự quan tâm các
nhà hoạch định chính sách và các học giả trên thế giới.
Theo Bernanke (1995), việc CSTT ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế như
thế nào vẫn là một trong những thách thức lớn nhất đối với các nhà kinh tế. Trong quá
khứ, đã có nhiều nghiên cứu về mối liên hệ giữa CSTT và TTCK, cụ thể là tác động
của CSTT lên TTCK. Cassola và Morana (2002) nghiên cứu các TTCK khu vực Đồng
tiền chung Châu Âu đã chỉ ra việc CSTT tập trung vào mục tiêu bình ổn giá sẽ có
những tác động tích cực đến TTCK, tuy nhiên sự biến động giá của TTCK không thể
bị điều chỉnh bằng các biện pháp chính sách. Aziza (2010) nghiên cứu TTCK tại 10
quốc gia ở các khu vực khác nhau và kết luận các công cụ CSTT tác động đến TTCK
theo các cách khác nhau tùy vào khu vực và thời kỳ. Chính vì vậy, các Ngân hàng
Trung ương tại các quốc gia phải nỗ lực xác định các yếu tố chính ảnh hưởng đến
TTCK của quốc gia họ và ban hành các chính sách phù hợp để phát triển TTCK.
Bordo và cộng sự (2007) còn tìm ra mối liên hệ giữa CSTT với sự bùng nổ và suy
thoái của TTCK của ba quốc gia phát triển là: Mỹ, Anh, Đức. Sự bùng nổ của TTCK ở
cả ba quốc gia bắt đầu từ những năm 1920 khi lạm phát bước đầu được kiểm soát và
kết luận rằng việc các Ngân hàng Trung ương giảm sự biến động của lạm phát sẽ làm
cho TTCK hoạt động ổn định, đồng thời giá chứng khoán từ đó cũng ít biến động hơn.
Trong khi đó, Yoshino và cộng sự (2014) đã kiểm định phản ứng của thị
trường chứng khoán Châu Á với các cú sốc CSTT, đại diện là Iran, đã ghi nhận rằng
trong 16 năm từ năm 1998 đến năm 2013, chỉ số giá chứng khoán của Iran (TEPIX) đã
tăng lên 54 lần khi ngân hàng trung ương Iran liên tục thực thi các chính sách tiền tệ
mở rộng. Bằng các mô hình thực nghiệm, nghiên cứu đã chỉ ra rằng CSTT có ảnh
hưởng rõ ràng tới giá chứng khoán. Gregoriou và cộng sự (2009) cũng tìm hiểu tác
động của các CSTT có báo trước hoặc không thông báo trước đến lợi nhuận thu được
từ cổ phiếu, sử dụng dữ liệu của TTCK Anh. Thông qua các số liệu thời gian và mô
hình hồi quy, nghiên cứu đã chỉ ra rằng những thay đổi dự đoán được và cả không dự
đoán được đều ảnh hưởng một cách đáng kể đến lợi nhuận thu được từ cổ phiếu.
Dương Ngọc Mai Phương và cộng sự (2015) thì đã có cái nhìn cụ thể hơn
trong việc đánh giá tác động của CSTT đến TTCK, thông qua mô hình SVAR, nghiên
4
cứu đã tìm thấy “mối quan hệ mật thiết thắt chặt” giữa TTCK Việt Nam và CSTT.
Đồng thời, nghiên cứu cũng cho thấy TTCK có vai trò quan trọng trong truyền dẫn
CSTT đến mục tiêu tăng trưởng sản lượng, giá cả và đưa ra các khuyến nghị trong
việc ban hành CSTT của Chính phủ. Trong khi đó, Nguyễn Phúc Cảnh (2014) xét đến
trong nghiên cứu về kênh giá tài sản chính để đánh giá tác động của CSTT đến thị
trường chứng khoán. Trong đó tác động của CSTT tới TTCK được thể hiện qua tác
động của CSTT tới chỉ số giá chứng khoán. Tuy nhiên, các nghiên cứu này sử dụng
mô hình SVAR (một dạng của mô hình VAR) trên chuỗi số liệu gốc chưa dừng. Điều
này có thể dẫn đến mô hình sai và không thể ước lượng được các mối liên hệ giữa các
biến trong dài hạn vì không xét đến hiện tượng đồng liên kết giữa các biến. Đồng thời
các nghiên cứu trên cũng bỏ qua kiểm định nhân quả Granger. Khi không sử dụng
kiểm định này, sẽ rất khó để xác định thứ tự các biến trong mô hình, việc thay đổi thứ
tự các biến một cách ngẫu nhiên sẽ làm giảm tính chính xác và tin cậy của mô hình
ước lượng được.
Ghassen El Montasser và các cộng sự (2015) cũng chỉ ra trước cú sốc chính
sách tài khóa (giảm tỷ lệ nợ trên GDP) thì lợi tức cổ phiếu giảm trong năm đầu tiên và
sau đó sẽ tăng bằng nghiên cứu định lượng với mô hình TVP–VAR (time–varying–
parameter vector autoregressive model) trong thời gian từ 1890–2013 tại thị trường
Mỹ. Những nghiên cứu khác về Thổ Nhĩ Kỳ hay Nigeria lần lượt của Mehmet Balcilar
cùng cộng sự (2015) và Onyemachi Maxwell Ogbulu cùng cộng sự (2015) cũng đưa ra
những kết luận rằng chính sách tài khóa có tác động đến thị trường chứng khoán.
António Afonso và Ricardo M. Sousa (2008) đã đánh giá tác động vĩ mô của
chính sách tài khóa lên các yếu tố như: GDP, tiêu dùng và đầu tư cá nhân, thị trường
tài sản, độ tăng trưởng của tổng tiền, tỷ giá hối đoái và sản xuất. Trong đó, nhóm
nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và giá cổ phiểu. Cụ thể,
khi có một cú sốc về chi tiêu Chính phủ thì giá cổ phiếu giảm nhanh chóng. Kết quả
được rút ra từ việc phân tích dữ liệu của các quốc gia: Mỹ, Anh, Đức và Italy dựa trên
mô hình B–SVAR (Bayesian Structural Vector Autoregression). Các nghiên cứu của
Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dương Phương Thảo (2012), Nguyễn Minh Kiều và
Nguyễn Văn Điệp (2012), Huỳnh Thế Nguyễn và Nguyễn Quyết (2013) và Thân Thị
5
Thu Thủy và Võ Thị Thùy Dương (2015) về thị trường chứng khoán Việt Nam tập
trung vào các biến số vĩ mô như: cung tiền, lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất và chỉ ra
có sự phản ứng trong chỉ số chứng khoán khi có sự thay đổi trong các biến số này.
Bên cạnh việc đánh giá tác động của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
một cách độc lập lên thị trường chứng khoán, nhiều nhà khoa học cũng có những
nghiên cứu thực nghiệm khi đánh giá đồng thời những thay đổi trong chính sách tiền
tệ và chính sách tài khóa ảnh hưởng như thế nào đến thị trường chứng khoán. Theo
hướng tiếp cận này, các nhà nghiên cứu không chỉ rút ra được những thay đổi trên thị
trường chứng khoán trước những tác động của hai chính sách vĩ mô mà còn thấy được
sự tương tác giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong việc lý giải hoạt động
của thị trường chứng khoán.
Franco Fiordelisi và Giuseppe Galloppoc (2015) đo lường phản ứng của giá
cổ phiếu trước thay đổi trong chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Bài nghiên cứu
được nghiên cứu dựa trên số liệu chứng khoán của 11 quốc gia như: Hoa Kỳ, Anh,
Thụy Điển, Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Hà Lan, Nhật Bản, Italy, Đức, Trung Quốc và Bỉ
trong giai đoạn 2007–2013. Bài nghiên cứu không chỉ đưa ra những khuyến nghị cho
các nhà hoạch định chính sách mà còn giúp các nhà đầu tư quyết định đầu tư và quản
trị rủi ro khi có những thay đổi trong chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Khi
nghiên cứu về thị trường Pakistan, Waseem Ahmad Khan (2014) cũng nhận thấy được
ảnh hưởng của các biến vĩ mô tới TTCK.
Trong nghiên cứu của mình, Yu Hsing (2013) đã chỉ ra chỉ số chứng khoán
không bị ảnh hưởng trước những thay đổi của CSTK khi xem xét về thị trường Ba Lan
còn các biến đại diện cho CSTT có mối liên hệ với chỉ số của thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, tác giả còn đánh giá ảnh hưởng của chỉ số chứng khoán của hai nền kinh
tế lớn là Mỹ và Đức lên thị trường chứng khoán Ba Lan và chỉ ra hai chỉ số này đều có
tác động lớn đến hoạt động chứng khoán ở Ba Lan.
Những nghiên cứu về các quốc gia Đông Nam Á về vấn đề này còn chỉ ra
được các hướng phân tích mới cho việc đánh giá phản ứng của thị trường chứng khoán
và tập trung nhiều hơn vào tính thực tiễn của việc nghiên cứu. Trong bài nghiên cứu
của mình, Rossanto Dwi Handoyo cùng các cộng sự (2013) không chỉ đánh giá phản
6
ứng thị trường chứng khoán Indonesia nói chung mà nhóm tác giả còn đánh giá phản
ứng của chỉ số chứng khoán các ngành khai khoáng, nông nghiệp, tài chính và công
nghiệp sản xuất nói riêng trước những cú sốc về chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ. Việc đánh giá cụ thể các ngành kinh tế chính theo hướng nghiên cứu này của tác
giả giúp các nhà đầu tư có cái nhìn rõ ràng hơn về thị trường chứng khoán và những
thay đổi cụ thể trong các ngành ra sao. Nhìn chung, thị trường chứng khoán có phản
ứng tích cực trước cú sốc về chính sách tiền tệ và phản ứng tiêu cực trước cú sốc chính
sách tài khóa. Một nghiên cứu khác về thị trường Malaysia, nhóm tác giả đã tìm thấy
mối liên hệ giữa CSTK và CSTT và sự hoạt động của thị trường chứng khoán thông
qua kiểm định bằng mô hình VECM (vector error correction model) và khẳng định
tính ứng dụng của việc nghiên cứu này. Kết quả chỉ ra rằng, cả CSTT và CSTK đều
đóng một vai trò quan trọng đến sự thay đổi trong chỉ số của TTCK ở Malaysia. Tuy
nhiên, các công cụ của CSTT có tác động nhanh hơn đến TTCK so với CSTK. Bài
nghiên cứu khẳng định được tính ứng dụng cao của việc nghiên cứu mối liên hệ giữa
các chính sách vĩ mô và TTCK. Cụ thể, việc nghiên cứu này không chỉ giúp các nhà
hoạch định chính sách và cơ quan quản lý hiểu được hành vi trên TTCK mà còn thấy
được lợi ích các thông tin trong việc đạt mục tiêu tiền tệ. Hơn nữa, nghiên cứu còn
giúp các nhà đầu tư có chiến thuật chủ động trong việc ra quyết định của mình. Mặt
khác, nghiên cứu còn trở nên hữu ích với các nhà nghiên cứu khi tìm ra được nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến TTCK. Tương tự như trường hợp của Singapore, Ghulam Ali và
các cộng sự (2014) cũng chỉ ra ý nghĩa của việc nghiên cứu này đối các nhà hoạch
định chính sách và các nhà đầu tư khi cung cấp thêm thông tin cho họ ở hiện tại mà
còn gợi ý việc dự tính trước các tác động của CSTT và CSTK trong tương lai để tạo
một thị trường tài chính vững mạnh.
Các bài nghiên cứu đều sử dụng các phương pháp định lượng để lượng hóa sự
phản ứng thị trường chính khoán khi có sự thay đổi trong các điều chỉnh chính sách
của Chính phủ. Bên cạnh đó, các nghiên cứu trong quá khứ cũng đã chỉ ra được mối
quan hệ giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và hoạt động của thị trường chứng
khoán. Mặt khác, việc xem xét tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô lên thị
trường chứng khoán còn đem lại giá trị thực tiễn cao cho các nhà hoạch định chính
7
sách trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán và giúp nhà đầu tư
ra quyết định trên thị trường.
Nhìn chung, việc nghiên cứu mối liên hệ giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và hoạt
động của thị trường chứng khoán cũng là một vấn đề được các nhà nghiên cứu trong
nước quan tâm trong các năm gần đây. Tuy nhiên, các nghiên cứu ở Việt Nam mới
dừng lại ở việc đánh giá tác động của CSTT mà chưa có nghiên cứu nào đánh giá tác
động của CSTK cũng như đánh giá đồng thời cả hai chính sách này lên thị trường
chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, các nghiên cứu đang tập trung nhiều vào việc
đánh giá tác động phản ứng mà chưa chú trọng nhiều đến việc dự báo phản ứng trong
tương lai – việc này mang lại nhiều ý nghĩa thực tiễn đặc biệt với các nhà đầu tư. Do
đó, thông qua đề tài này nhóm nghiên cứu muốn kiểm định sự ảnh hưởng của CSTT
và CSTK cũng như sự tương tác giữa hai chính sách này trong việc tác động đến hoạt
động chứng khoán ở Việt Nam và dựa vào các phân tích kinh tế lượng để đưa ra các
dự báo cho thị trường.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đo lường phản ứng của thị trường chứng khoán Việt Nam thông qua chỉ số
VNIndex trước những thay đổi trong chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa và đánh
giá sự tương tác giữa hai chính sách trong việc tác động đến hoạt động của thị trường
chứng khoán. Bên cạnh đó, tiến hành dự báo tác động của các chính sách lên chỉ số
VNIndex trong tương lai.
Từ kết quả rút ra được trong bài nghiên cứu đưa ra các khuyến nghị cho các nhà
hoạch định chính sách trong việc phát triển thị trường chứng khoán và các nhà đầu tư
khi ra quyết định trên thị trường.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thị trường chứng khoán Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2002–2015.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Tác động của cú sốc chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đến thị
trường chứng khoán Việt Nam như thế nào?
8
Câu hỏi 2: Sự tương tác giữa hai chính sách này tác động đến hoạt động của thị
trường chứng khoán như thế nào?
Câu hỏi 3: Thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ phản ứng như thế nào trong
tương lai trước những sự thay đổi trong chính sách?
Câu hỏi 4: Cần áp dụng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa như thế nào để
đạt hỗ trợ phát triển thị trường chứng khoán?
6. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định lượng. Dựa trên cơ sở lý
thuyết và mô hình nghiên cứu, nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp
cho các biến trong mô hình VECM (vector error correction model). Số liệu được xử
lý trên phần mềm Eviews 9.0. Từ kết quả nghiên cứu thu được, đưa ra khuyến nghị
cho việc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam một cách hiệu quả. Mô hình
nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu sẽ được trình bày rõ hơn ở Chương 3.
7. Bố cục bài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và phụ lục, đề tài
được kết cấu thành bốn chương như sau:
Chương 1: Nêu cơ sở lý thuyết về chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và thị
trường chứng khoán và tác động của CSTT, CSTK đến TTCK.
Chương 2: Đưa ra thực tiễn về chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa hiện
nay và quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi hình thành đến
thời điểm nghiên cứu.
Chương 3: Xây dựng mô hình nghiên cứu và trình bày về các biến số áp dụng
nhằm phân tích tác động của CSTT và CSTK đến TTCK.
Chương 4: Tiến hành phân tích dữ liệu.
Chương 5: Rút ra kết luận và tổng kết những đóng góp và hạn chế của đề tài.
Khuyến nghị các giải pháp cho việc phát triển thị trường chứng khoán và hướng phát
triển tiếp theo của đề tài.
9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ,
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Chính sách tiền tệ
1.1.1. Khái niệm
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010: “Chính sách tiền tệ quốc gia là
các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của các cơ quan có thẩm quyền, bao gồm
quyết định mục tiêu bình ổn giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết
định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”.
Theo đó, Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ
được thực hiện bởi Ngân hàng Trung ương thông qua việc sử dụng hệ thống các công
cụ, biện pháp để tác động tới lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế của quốc gia
nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng
kinh tế và các mục tiêu khác (Santy Phonmeuanlao, 2014).
Tùy từng điều kiện, giai đoạn mà Ngân hàng Trung ương thực hiện các chính
sách tiền tệ mở rộng hay chính sách tiền tệ thắt chặt.
Chính sách tiền tệ mở rộng là chính sách mà Ngân hàng Trung ương điều
chỉnh tăng cung tiền, giảm lãi suất nhằm thúc đẩy đầu tư, sản xuất, chống thất
nghiệp và tăng trưởng kinh tế.
Chính sách tiền tệ thắt chặt là chính sách giảm cung tiền, tăng lãi suất của
Ngân hàng Trung ương nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.1.2. Mục tiêu
Ổn định giá trị đồng tiền quốc gia
CSTT là chính sách tác động trực tiếp tới mức cung tiền tệ vì vậy ổn định giá
trị đồng tiền là hết sức quan trọng. Tiền tệ là phương thức trao đổi hàng hóa trong nền
kinh tế, nếu giá trị của nó không ổn định sẽ làm tình hình kinh tế – xã hội cũng bất ổn,
các hoạt động tình chính, tín dụng bị ngưng trệ... Giá trị của tiền bất ổn dẫn đến người
dân sẽ mất dần niềm tin vào đồng nội địa, các nhà đầu tư nước ngoài e ngại rót vốn
10
đầu tư. Chính vì vậy, Ngân hàng Trung ương thông qua CSTT có thể tác động đến sự
tăng giảm của giá trị tiền tệ phù hợp với tình hình kinh tế và các mục tiêu đặt ra.
Ổn định tỷ giá hối đoái
Khi nền kinh tế hội nhập thì giao thương với các nước khác là điều tất yếu,
nhu cầu mua bán hàng hóa và đầu tư giữa các nước ngày càng lớn dẫn đến việc
chuyển đổi tiền tệ giữa các nước với nhau. Nếu như xảy ra biến động mạnh về tỷ giá
hối đoái sẽ làm cho khối lượng giá trị trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất nhập
khẩu bị ảnh hưởng lớn đồng nghĩa với việc đồng nội tệ càng đắt lên hay rẻ đi so với
đồng ngoại tệ theo đó sẽ ảnh hưởng lớn tới chi phí sản xuất, sức cạnh tranh về giá cả
của hàng hóa trong nước với nước ngoài. Do đó, CSTT điều chỉnh tỷ giá hối đoái ở
mức hợp lý phản ánh cung cầu thực tế và bám sát với mục tiêu phát triển kinh tế trong
những giai đoạn nhất định.
Ổn định lãi suất và ổn định thị trường tài chính
Nền kinh tế phát triển thì cần có thị trường tài chính đủ mạnh, lãi suất phản
ánh chi phí sử dụng tiền của người khác, vì thế sự thay đổi lãi suất sẽ ảnh hưởng tới
chi tiêu và các dự tính kinh doanh của xã hội. Biến động lãi suất sẽ ảnh tới mức cung
cầu tín dụng trên thị trường tài chính đặc biệt nó sẽ ảnh hưởng tới sự bất ổn của các tổ
chức tài chính. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương ổn định thị trường tài chính thông qua
việc tác động tới khối lượng tín dụng và lãi suất.
Giảm tỷ lệ thất nghiệp
Lao động là nguồn gốc của của cải vật chất trong xã hội. Tình trạng thất
nghiệp phản ánh năng lực sử dụng nguồn lực của xã hội. Thất nghiệp sẽ dẫn đến sự
tiêu tốn chi tiêu ngân sách cho các khoản trợ cấp thất nghiệp và gia tăng các tệ nạn xã
hội. Chính vì thế, thông qua sử dụng các công cụ hợp lý, CSTT giúp mở rộng kinh
doanh, sản xuất tạo ra nhiều việc làm.
Ổn định và tăng trưởng kinh tế
Do chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng đến của cải và chi tiêu của xã hội nên
CSTT có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, muốn kinh tế tăng trưởng trước
hết phải dựa trên sự ổn định kinh tế. Vì thế, CSTT phải tạo ra những nền tảng cho ổn
11
định kinh tế dựa trên ổn định tiền tệ trong nước từ đó cải thiện tình trạng cán cân thanh
toán quốc tế và khẳng định vị thế của nền kinh tế trên thị trường quốc tế.
1.1.3. Các công cụ Ngân hàng Trung ương sử dụng để điều chỉnh CSTT
Nghiệp vụ thị trường mở
Là việc Ngân hàng Trung ương thông qua hoạt động mua bán chứng khoán
trên thị trường mở sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng lên hay giảm đi từ đó dẫn đến mức
cung tiền cũng tăng hoặc giảm theo.
Dự trữ bắt buộc
Ngân hàng Trung ương quy định số tiền mà các ngân hàng phải giữ lại và gửi
tại Ngân hàng Trung ương. Thông qua việc điều chỉnh tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt
buộc sẽ dẫn đến sự giảm (tăng) khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại làm
cho lãi suất cho vay tăng (giảm).
Quản lý hạn mức tín dụng của các ngân hàng thương mại
Là công cụ giúp Ngân hàng Trung ương điều chỉnh trực tiếp lượng tiền cung
ứng thông bằng việc quy định tổng mức dư nợ của các ngân hàng thương mại trong
một thời gian nhất định.
Quản lý lãi suất của các NHTM
Các NHTM sẽ phải điều chỉnh lãi suất phù hợp với lãi suất trần cho vay đã
được ấn định hay theo khung lãi suất mà Ngân hàng Trung ương đưa ra điều này sẽ
làm thay đổi quy mô huy động và cho vay của các NHTM từ đó điều chỉnh tới mức
cung ứng tiền.
Tỷ giá hối đoái
Ngân hàng Trung ương điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối để
ổn định tỷ giá ở mức hợp lý phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế của đất nước.
1.1.4. Các kênh dẫn truyền chính sách tiền tệ
CSTT có thể tác động đến các biến vĩ mô thì nó cần có những kênh dẫn truyền
chính sách từ đó quyết định tới việc thiết kế và thực hiện CSTT một cách hiệu quả.
Các kênh dẫn truyền chính sách tiền tệ chính bao gồm: kênh lãi suất, kênh giá tài sản
và kênh tín dụng.
Kênh lãi suất
12
Kênh lãi suất được Keynes miêu tả như sau: Khi khối lượng tiền mở rộng, lãi
suất thực giảm xuống làm giảm giá vốn vay, kéo theo nhu cầu đầu tư tăng, dẫn đến
tăng tổng cầu và tăng sản lượng.
Kênh giá tài sản
Tác động tỷ giá tới xuất khẩu ròng: Khi khối lượng tiền mở rộng, lãi suất thực
giảm xuống làm cho giá trị đồng nội tệ giảm so với đồng ngoại tệ khiến tỷ giá hối đoái
tăng, vì vậy mức xuất khẩu ròng tăng và tổng sản lượng tăng.
Tác động tới giá chứng khoán: Theo lý thuyết Q của Tobin, chỉ số Tobin Q
được thiết lập bằng Giá trị thị trường của công ty chia cho Giá trị thay thế tài sản. Khi
chỉ số Q > 1 và cao cho thấy giá trị thị trường của chứng khoán cao hơn giá thay thế
tài sản của công ty, lúc này công ty có thể đầu tư mới nhà xưởng thiết bị chỉ với một
lượng nhỏ chứng khoán phát hành. Điều này sẽ kích thích sự đầu tư của các doanh
nghiệp. Khi khối lượng tiền cung ứng mở rộng, cổ phiếu trở nên hấp dẫn hơn do đó
giá cổ phiếu có xu hướng tăng lên khiến chỉ số Q tăng lên và đầu tư theo đó tăng lên
làm cho sản lượng tăng.
Tác động đến thu nhập thường xuyên của công chúng: Một bộ phận thu nhập
từ nguồn thu dài hạn của các hộ gia đình là thu nhập từ tài sản tài chính. Khi khối
lượng tiền cung ứng tăng sẽ làm cho giá chứng khoán tăng dẫn đến thu nhập dài hạn
tăng và tiêu dùng vì thế tăng lên dẫn đến sản lượng tăng.
Kênh tín dụng
Những người không muốn gặp rủi ro thông tin trên thị trường vốn sẽ tìm đến
vốn vay ngân hàng hình thành nên con đường dẫn truyền cho CSTT là kênh tín dụng
và thể hiện trên hai giác độ:
Kênh tín dụng ngân hàng: Khi lượng cung tiền tăng dẫn đến sự giảm tiền gửi
trong ngân hàng, làm giảm tổng tiền mà ngân hàng có thể cho vay. Điều này làm giảm
đầu tư và kéo theo tổng cầu giảm. Kênh tín dụng cho phép chính sách tiền tệ hoạt
động không thông qua lãi suất.
Kênh bảng cân đối hoạt động thông qua tài sản ròng của doanh nghiệp: Ảnh
hưởng tới nguy cơ rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch. Tài sản ròng giảm khiến cho
khoản vay của doanh nghiệp đi vay sẽ thấp hơn, điều này làm gia tăng các vấn đề về
sự lựa chọn đối nghịch và làm giảm cho vay cho chi đầu tư. Tài sản ròng thấp hơn
13
cũng dẫn đến vấn đề về nguy cơ đạo đức do những chủ sở hữu doanh nghiệp ít phần
vốn hơn trong công ty và do đó có động lực chấp nhận các dự án rủi ro. Cuối cùng là,
cho vay và chi đầu tư giảm (Miskin, 1995).
1.2. Chính sách tài khóa
1.2.1. Khái niệm
Chính sách tài khóa là các biện pháp được Chính phủ thi hành tác động đến
chi tiêu công và hệ thống thuế khóa nhằm đạt được các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế
như: tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm hoặc ổn định giá cả và lạm phát. Chính
sách tài khóa có phạm vi tác động lớn tới quản lý và đóng một vai trò quan trọng trong
việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô thông qua huy động và sử dụng các nguồn lực tài
chính của nhà nước (Bùi Nhật Tân, 2014).
Chính phủ thực thi chính sách tài khóa thông qua hai công cụ chính là: chi tiêu
công và hệ thống thuế. Sự điều tiết giữa hai công cụ này sẽ tác động chính lên nền
kinh tế thông qua việc thay đổi tổng cầu; kiểu phân bổ nguồn lực và phân phối thu
nhập. Công cụ chi tiêu thường được phân thành 2 thành phần chính:
Chi tiêu thường xuyên gồm các khoản chi chính liên quan tới (i) các hoạt
động giáo dục, dạy nghề, y tế, xã hội, văn hóa thông tin văn học nghệ thuật,
thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường; (ii) các hoạt động
kinh tế và (iii) các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Chi đầu tư phát triển gồm các khoản chi chính là: (i) đầu tư xây dựng các
công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và (ii) đầu tư, hỗ trợ vốn cho các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước.
Công cụ về thuế gồm có hai loại chính là: thuế trực thu và thuế gián thu.
Trong đó:
Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp lên tài sản và thu nhập của các tổ chức
kinh tế và cá nhân. Thuế trực thu bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp và
thuế thu nhập cá nhân.
Thuế gián thu là thuế đánh lên giá trị hàng hóa, dịch vụ trong lưu thông
thông qua các hành vi sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế. Thuế gián thu
bao gồm các loại như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bất
động sản,…
14
1.2.2. Phân loại chính sách tài khóa
Dựa vào các tiêu chí đánh giá thì CSTK có thể được phân loại theo các cách
khác nhau.
Căn cứ theo cán cân thu – chi ngân sách, CSTK được chia thành 3 loại chính
đó là: CSTK trung lập, CSTK mở rộng và CSTK thu hẹp.
Chính sách tài khóa trung lập là chính sách cân bằng ngân sách tại đó chi tiêu
Chính phủ bằng với nguồn thu từ thuế (G = T) hay chi tiêu Chính phủ được tài
trợ hoàn toàn từ nguồn thu của Chính phủ. Chính sách này có tác động trung
tính đến mức độ các hoạt động kinh tế.
Chính sách tài khóa mở rộng (G > T) là chính sách tăng cường chi tiêu Chính
phủ thông qua việc mở rộng chi tiêu hoặc giảm bớt nguồn thu thuế hoặc kết
hợp cả hai. Mục đích là tăng tổng cầu, tăng sản lượng, tạo thêm nhiều việc
làm và giảm thất nghiệp, thường được áp dụng trong thời kỳ kinh tế suy thoái.
Chính sách tài khóa thu hẹp (G < T) là chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính
phủ thông qua việc giảm bớt chi tiêu hoặc tăng nguồn thu của Chính phủ hoặc
kết hợp cả hai. Chính sách này thường được áp dụng để xoa dịu tình trạng lạm
phát cao trong nền kinh tế nhằm giảm tổng cầu, giảm sản lượng, lạm phát
giảm xuống và có xu hướng làm giảm việc làm trong xã hội.
Căn cứ vào xu hướng thi hành chính sách tài khóa của Chính phủ theo chu kỳ
kinh tế thì có CSTK thuận chu kỳ và CSTK nghịch chu kỳ.
Chính sách tài khóa thuận chu kỳ là việc Chính phủ áp dụng thu hẹp tài khóa
khi nền kinh tế đang ở trong giai đoạn suy thoái và khi nền kinh tế tăng trưởng
nóng thì thực hiện mở rộng tài khóa.
Ngược lại với CSTK thuận chu kỳ, chính sách tài khóa nghịch chu kỳ là việc
Chính phủ tiến hành mở rộng tài khóa khi nền kinh tế suy thoái và thi hành
chính sách tài khóa thu hẹp khi nền kinh tế tăng trưởng.
Căn cứ vào tính chủ động trong điều hành, chính sách tài khóa được chia làm
hai loại đó là: chính sách bình ổn tự động và chính sách tài khóa tùy nghi.
Chính sách bình ổn tự động là chính sách thuế và chi tiêu Chính phủ phụ
thuộc vào sự biến động của chu kỳ kinh tế. Đối với nền kinh tế suy thoái, nhu
cầu trợ cấp của Chính phủ sẽ tăng lên trong khi đó nguồn thu thuế sẽ giảm đi.
15
Trong trường hợp ngược lại, nguồn thu thuế của Chính phủ sẽ tăng lên trong
khi nhu cầu chi tiêu của Chính phủ cũng giảm đi đất nước bước vào giai đoạn
kinh tế tăng trưởng.
Chính sách tài khóa tùy nghi được áp dụng khi Chính phủ đưa ra quyết định
về chính sách thuế và chi tiêu căn cứ vào tình hình thực tế và yêu cầu quản lý
thay vì dựa vào chu kỳ kinh tế.
Chính sách tài khóa được áp dụng khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế nước đó và mục tiêu của Chính phủ trong từng giai đoạn điều hành
quản lý quốc gia.
1.2.3. Tác động của chính sách tài khóa đến hoạt động đầu tư
Có nhiều cách phân loại chính sách tài khóa khác nhau tuy nhiên trọng tâm
chính của chính sách tài khóa vẫn là việc các cơ quan Nhà nước sử dụng hai công cụ:
chi tiêu công và hệ thống thuế. Khi Chính phủ thực thi chính sách tài khóa mở rộng
hay thắt chặt sẽ dẫn đến sự mất cân bằng trong cán cân thu – chi ngân sách. Sự mất
cân bằng này sẽ làm thay đổi các yếu tố trong nền kinh tế như: tổng cầu, tỷ lệ thất
nghiệp và phân phối thu nhập và qua đó tác động đến hoạt động đầu tư của khu vực tư
nhân, môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tác động của chi tiêu công
Khi các khoản chi tiêu của Chính phủ nhiều hơn là các nguồn thu thuế sẽ dẫn
đến tình trạng bội chi ngân sách hay thâm hụt ngân sách. Khi đó, Chính phủ cần đi vay
để tài trợ cho thâm hụt. Các hình thức được Chính phủ áp dụng là phát hành trái
phiếu/tín phiếu hoặc in tiền. Tuy nhiên, việc này dẫn đến tăng nguy cơ lạm phát trong
nền kinh tế. Bên cạnh đó, các hoạt động đầu tư cũng chịu ảnh hưởng từ việc tăng chi
tiêu công. Thâm hụt ngân sách sẽ làm giảm nguồn cung quỹ cho vay và đẩy lãi suất
lên do nguồn cung quỹ cho vay là giới hạn. Mặt khác, khi lãi suất tăng lên cũng đồng
thời làm gia tăng chi phí đi vay của khu vực tư nhân và gây ra hiện tượng chèn lấn đầu
tư. Do đó, nhu cầu vay vốn đầu tư của doanh nghiệp và nhu cầu tiêu dùng của người
dân sẽ bị ảnh hưởng.
Tác động của thu
Thu ngân sách cũng có ảnh hưởng lên hoạt động của doanh nghiệp và người
dân. Nếu Chính phủ thực thi việc tăng thuế suất thì sẽ làm tăng gánh nặng về chi phí
16
cho các đối tượng chịu thuế. Đối với doanh nghiệp, nếu chi phí thuế phải nộp tăng sẽ
làm ảnh hưởng đến hoạt động tái đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh. Bên cạnh
đó, thuế tăng cũng đồng thời làm ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng của người dân vì
lúc này người dân có xu hướng tiết kiệm cho tương lai nhiều hơn.
Do đó, việc thu – chi ngân sách đòi hỏi một sự nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng
và áp dụng một cách phù hợp của Chính phủ để vừa đảm bảo được ổn định trong tài
khóa, đáp ứng được các mục tiêu quản lý vĩ mô mà còn tạo được các tín hiệu tích cực
để hỗ trợ thị trường và tạo các động lực phát triển kinh tế.
1.3. Thị trường chứng khoán
1.3.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan
niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn.
Theo đó về mặt hình thức, thị trường chứng khoán là nơi trao đổi thông tin để tập hợp
lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng
khoán.
Thị trường chứng khoán đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nó thể
hiện các chức năng:
Thứ nhất, TTCK là công cụ quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư cho
nền kinh tế
Khi người dân có những khoản tiền nhàn rỗi, họ thường có xu hướng làm sao
để sinh lời trên khoản tiền đó hay làm sao đầu tư hiệu quả thì TTCK chính là nơi thu
gom mọi nguồn vốn từ dân chúng và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài qua việc các
nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành. Những khoản tiền của họ được
các doanh nghiệp phát hành sử dụng vào việc kinh doanh, sản xuất bù lại khi kinh
doanh hiệu quả các nhà đầu tư sẽ nhận được lợi tức trên chứng khoán đã mua. Vì vậy,
TTCK là nơi tạo sự tiếp xúc với cung – cầu về vốn, là nơi các doanh nghiệp có được
các nguồn vốn mong muốn với chi phí thấp thay vì chi phí vay cao cũng như sự kiểm
soát chặt chẽ của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó,thông qua TTCK, Chính
phủ huy động vốn bằng việc bán trái phiếu và dùng số tiền đó để đầu tư vào các dự án
cần thiết của mình.
17
Thứ hai, TTCK cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK là thị trường tự do nhất trong các loại thị trường, ở đó không có sự can
thiệp, độc đoán hay cưỡng chế về giá cả. Giá mua bán chứng khoán hoàn toàn do cung
cầu quyết định. Do đó, TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường lành mạnh
với đa dạng với các cơ hội lựa chọn phong phú. Mỗi loại chứng khoán trên thị trường
có tính chất, thời hạn và độ rủi ro rất khác nhau, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa
chọn các chứng khoán phù hợp.
Thứ ba, TTCK tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu
thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn với chi phí và thời gian
để chuyển là thấp. Điều đó khiến các nhà đầu tư có được sự an toàn, linh hoạt đối với
khoản đầu tư của mình. Vì vậy, tính thanh khoản thị trường cũng là một tiêu chí để
đánh giá hay phản ánh hiệu quả hoạt động TTCK.
Thứ tư, TTCK đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Khi các doanh nghiệp kinh doanh lành mạnh, hiệu quả thì triển vọng sẽ có lợi
nhuận cao trong tương lai và các nhà đầu tư có xu hướng lựa chọn mua chứng khoán
của doanh nghiệp và nó làm cho giá trị thị trường của chứng khoán công ty cao. Vì thế
thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách
tổng hợp và các nhà đầu tư có thể dễ dàng so sánh các doanh nghiệp với nhau để đưa
ra quyết định đầu tư. Từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Thứ năm, TTCK tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh
tế vĩ mô
Giá cả chứng khoán của các doanh nghiệp và các nghành kinh tế được phản
ánh trên thị trường chứng khoán. Biến động của giá cả sẽ sát với sự biến động tích cực
hay tiêu cực của hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp hay của nền kinh tế. Giá
các chứng khoán tăng cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế đang tốt lên, ngược
lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì vậy có
thể nói, TTCK cung cấp một dự báo hiệu quả về các chu kỳ kinh doanh trong tương
18
lại. Do đó, Chính phủ có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào
TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối nền kinh tế. Ngoài
ra, lãi suất thị trường có thể tăng lên hoặc giảm xuống do việc Chính phủ mua bán trái
phiếu để bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Tóm lại, TTCK là một sự
phát triển tất yếu của nền kinh tế.
1.3.2. Tác động của CSTT và CSTK đến thị trường chứng khoán
Chính sách tiền tệ là một loại chính sách vĩ mô của Ngân hàng Trung ương
gắn liền với việc điều chỉnh nguồn cung tiền tệ, lượng tiền trong nền kinh tế thông qua
các công cụ chính sách như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất ngân hàng với mục tiêu
cuối cùng là thúc đẩy kinh tế, kiềm chế lạm phát và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Các công
cụ chính sách tiền tệ không tác động lên nền kinh tế một cách trực tiếp mà tác động
qua ảnh hưởng của chúng đến các thị trường tài chính (Mishra và Pradhan, 2008).
Theo Mishkin (2001) thì thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng và
liên kết chặn chẽ trong việc hoạch định CSTT. Một mặt, hoạt động của TTCK bị ảnh
hưởng rất rõ ràng từ CSTT thông qua các kênh truyền dẫn, mặt khác, giá chứng khoán
phản ánh phần lớn sự phát triển của nền kinh tế và vì thế, CSTT có thể lấy TTCK làm
cơ sở để đưa ra các hoạch định chính sách. Bên cạnh đó, TTCK còn cung cấp cho
Ngân hàng Trung ương về kỳ vọng của khu vực tư nhân về những biến số kinh tế vĩ
mô quan trọng. Roberto và Brian (2001) cũng cho rằng những dịch chuyển của TTCK
sẽ có thể gây ra những ảnh hưởng lớn tới kinh tế vĩ mô. Và việc xuất hiện của TTCK
đã gắn các nhà kinh tế học với nhiệm vụ làm thị trường này hoạt động năng động và
hiệu quả (Delong và Olney, 2009). Vì thế, bên cạnh biến số đo lường sự biến động của
nền kinh tế một quốc gia như: GDP, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất và tỷ giá hối
đoái thì TTCK là chìa khóa để đưa ra được đánh giá tổng thể nền kinh tế vĩ mô của
quốc gia đó. Durham (2001) cũng khẳng định rằng rất nhiều các cuộc khủng hoảng
kinh tế trong quá khứ có nguyên nhân từ TTCK và một trong những hệ quả của khủng
hoảng kinh tế là sự suy thoái TTCK. Chính vì vậy, phản ứng của TTCK với những
thay đổi trong CSTT cần được xem xét một cách cẩn thận và kỹ lưỡng.
Tuy nhiên, mức độ phản ứng của thị trường chứng khoán có sự khác nhau
giữa các quốc gia. Nghiên cứu về thị trường chứng khoán của Mỹ của Dennis
19
W.Jansen, Qi Li và Jian Yang (2007) trước ảnh hưởng của chính sách tài khóa. Nghiên
cứu đã đưa ra kết quả rằng sự tăng thâm hụt ngân sách (hoặc giảm thặng dư) sẽ làm
giảm lợi tức của cổ phiếu. Đặc biệt, bài nghiên cứu cũng đưa ra sự phụ thuộc lẫn nhau
một cách mạnh mẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Khi Chính phủ thực
hiện mở rộng hay thu hẹp chính sách tài khóa sẽ có tác động đến chính sách tiền tệ và
từ đó cũng dẫn đến tác động lên thị trường chứng khoán. Thông qua nghiên cứu đánh
giá tác động của chính sách tài khóa lên thị trường vốn ở các nước trong Liên minh
Châu Âu EU thì Vasile Paul Bresfelean cùng cộng sự (2011) cho thấy trong thời gian
cuộc khủng hoảng tài chính 2007–2010 và phân tích tác động của các chính sách tài
khóa trên thị trường vốn trong bối cảnh mức độ khác nhau của đánh thuế thu nhập trên
toàn Liên minh châu Âu. Các kết quả thực nghiệm cho thấy rằng các loại thuế của
công ty ảnh hưởng đến sức mạnh của thị trường vốn trong cách trực tiếp và cũng là
cách gián tiếp, thông qua lạm phát, lãi suất, tỷ giá, là yếu tố ảnh hưởng chính của hành
vi thị trường vốn. Thuế thấp hơn của công ty, lạm phát và lãi suất cũng như tỷ giá hối
đoái mạnh dẫn đến thị trường tài chính mạnh hơn và do đó, thị trường vốn mạnh hơn.
Các chính sách tài khóa của Chính phủ xác định về lượng cho các tỷ lệ này; kết quả là,
chính sách tài khóa có sức mạnh để tăng cường thị trường vốn.
Một nghiên cứu khác về nền kinh tế Trung Quốc của Liya Wang (2010) cũng
chỉ ra được tầm quan trọng của việc áp dụng các công cụ điều hành kinh tế vĩ mô vào
trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Trung Quốc. Cụ thể, vào
năm 2008, lượng luân chuyển vốn trên sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải đứng
thứ hai ở Châu Á và đứng thứ bảy trên thế giới. Bên cạnh đó, các chính sách này còn
có sự tương tác với nhau để phát ra các tín hiệu tích cực cho thị trường. Trong đó, các
khoản thu của Chính phủ có tác động tiêu cực đáng kể đến chỉ số thị trường chứng
khoán, trong khi chi tiêu chính phủ có tác động tích cực mạnh mẽ trên các chỉ số thị
trường chứng khoán. Đối với việc đo lường tác động của chính sách tiền tệ lên chỉ số
chứng khoán, qua việc sử dụng chính sách lãi suất cho thấy chính sách thắt chặt tiền tệ
tác động mạnh mẽ theo hướng tiêu cực lên các chỉ số chứng khoán.
20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ, CHÍNH SÁCH TÀI
KHÓA VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1. Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
Chính sách tiền tệ Việt Nam do NHNN quyết định và ban hành nhằm ổn định
kinh tế vĩ mô, ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, sử dụng các
biện pháp và công cụ chính sách để thực hiện những mục tiêu đề ra.
Trải qua các giai đoạn từ khi bắt đầu mở cửa nền kinh tế (1986) cho đến nay
CSTT đã được điều chỉnh linh hoạt, hoàn thiện, hoạt động hiểu quả. Kể từ khi Quốc
hội thông qua pháp lệnh NHNN và có hiệu lực vào 01/10/1998, CSTT đã xác định
được rõ mục tiêu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn phát triển, đáp ứng những yêu cầu
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, các công cụ của
CSTT cũng ngày càng linh hoạt và phối hợp với nhau hiệu quả hơn.
Kết thúc năm 2015 cũng là đánh dấu kết thúc kế hoạch phát phát triển kinh tế
– xã hội giai đoạn 2011–2015. Trong giai đoạn này, mục tiêu cụ thể của CSTT được
NHNN xác định là: “Điều hành chủ động và linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ
nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức
hợp lý, đảm bảo an toàn thanh khoản của các TCTD. Điều hành lãi suất và tỷ giá phù
hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đặc biệt là diễn biến của lạm phát, bảo đảm
giá trị đồng Việt Nam, tiếp tục khắc phục tình trạng đô la hóa, vàng hóa trong nền
kinh tế. Đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu gắn với cơ cấu lại các TCTD. Tăng cường
phối hợp với các chính sách vĩ mô khác”. Nhờ sự điều chỉnh linh hoạt và hiệu quả của
CSTT, tình hình kinh tế xã hội trong giai đoạn này đã đạt được những kết quả đáng
ghi nhận, đặc biệt trong những giai đoạn gần đây.
Trong năm 2014, mục tiêu cụ thể của CSTT là: “Kiềm chế lạm phát, góp phần
ổn định và phát triển kinh tế”, việc lấy lạm phát làm mục tiêu chủ đạo của CSTT đã
bắt đầu được NHNN thực hiện từ năm 2012. Để thúc đẩy nền kinh tế mau chóng phục
hồi sau giai đoạn khủng hoảng 2011–2012, NHNN đã thi hành CSTT mở rộng bằng
việc giảm mặt bằng lãi suất và tăng cung tiền, đồng thời hướng tới mục tiêu ổn định
giá cả. Tính đến cuối năm 2014, chỉ số giá tiêu dùng chỉ ở mức 4.09% (Tổng cục
thống kê, 2014), thấp nhất trong vòng 10 năm qua, bên cạnh đó tỷ giá hối đoái cũng
21
được giữ ổn định khi chỉ tăng hơn 1% trong cả năm. Trong điều kiện đó, nền kinh tế
đã đạt được tốc độ phát triển cao, tăng trưởng GDP đạt mức 5.98% (Tổng cục thống
kê, 2014), vượt qua các dự đoán kỳ vọng. Điều này cũng tạo tâm lý tốt cho nhà đầu tư,
đặc biệt là khu vực tư nhân khi mức tín dụng được sử dụng của khu vực này đạt tốc độ
tăng trung bình 12% so với năm 2013. Con số này cũng đánh dấu sự thành công của
việc tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng, vốn là một mục tiêu chính trong giai
đoạn 2011–2015. Thành tựu này đạt được không chỉ do yếu tố CSTT, nhưng không
thể phủ nhận sự thành công của NHNN trong việc thi hành CSTT linh hoạt và hiệu
quả, đặc biệt khi coi lạm phát là mục tiêu chủ đạo của CSTT, hướng CSTT Việt Nam
theo hướng chính sách lạm phát mục tiêu mà đa số các nước phát triển sử dụng.
Năm 2015 tiếp tục là một năm thành công đối với NHNN trong việc điều hành
CSTT. Bằng việc tiếp tục kiên trì theo đuổi mục tiêu giảm lạm phát, ổn định giá cả,
năm 2015 đã ghi nhận mức lạm phát thấp dưới 1%. Bên cạnh đó, năm 2015 cũng đánh
dấu việc hoàn thành đề án tái cấu trúc hệ thống tín dụng, một trong những mục tiêu
chính của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn năm 2011–2015. Theo số liệu
thống kê của NHNN, tổng nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng được đưa về mức
2.72%, là tỷ lệ an toàn đạt mục tiêu giữ nợ xấu ở mức nhỏ hơn 3%. Thanh khoản của
hệ thống tín dụng cũng được cải thiện, tạo điều kiện cho NHNN giảm mặt bằng lãi
suất, tăng trưởng tín dụng cao đạt mức 18%. Tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển,
tăng trưởng GDP vượt các dự đoán kỳ vọng ở mức 6.68% (Tổng cục thống kê, 2015).
Các công cụ thi hành chính sách tiền tệ
Nghiệp vụ thị trường mở
Thị trường mở được đưa vào vận hành ngày 12/07/2000 và đến năm 2004 mới
có 14 tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng giao dịch mỗi
phiên tăng từ 82 tỷ đồng (2000) lên 725 tỷ đồng (tháng 6/2005), tỷ trọng doanh số
mua qua nghiệp cụ thị trường mở trong tổng doanh số hỗ trợ của NHNN qua các kênh
ngày càng tăng. Bên cạnh đó, ở giai đoạn này NHNN thực hiện tái cấp vốn cho các
ngân hàng nhằm hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các ngân hàng cùng với mở rộng thị trường,
số phiên giao dịch năm 2005 được tăng lên là 3 phiên/tuần. Tới năm 2008, có 401
phiên giao dịch diễn ra với tổng doanh số là 1,036 nghìn tỷ đồng. Năm 2011, để đạt
22
một trong những mục tiêu của CSTT là tăng thanh khoản của hệ thống tín dụng,
NHNN đã hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng qua việc thực hiện 431 phiên
mua có kỳ hạn giấy tờ với tổng doanh số 2,800 nghìn tỷ nhằm hỗ trợ thanh khoản cho
các tổ chức tín dụng nhằm đáp ứng yêu cầu tăng thanh khoản của hệ thống tín dụng,
một trong những mục tiêu của CSTT giai đoạn này. Khi thanh khoản hệ thống ổn
định, số phiên và tổng doanh số giao dịch được điều chỉnh giảm vào năm 2012. Năm
2014, khi nền kinh tế bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng sau khủng hoảng, thị trường mở
đóng vai trò quan trọng và hiệu quả trong việc giúp NHNN kiểm soát lạm phát bằng
việc mua lượng lớn ngoại tệ, sau đó sử dụng các biện pháp để hút tiền về, nhằm ổn
định tốc độ tăng trưởng cung tiền, một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm tăng
cao. Đến năm 2015, kết thúc giai đoạn tái cấu trúc hệ thống TCTD, thanh khoản trên
toàn hệ thống đã được đảm bảo, nhu cầu vay vốn thấp từ các ngân hàng ở mức thấp,
NHNN đã phát hành một lượng lớn tín phiếu giúp điều tiết lượng vốn khả dụng của hệ
thống ngân hàng cũng như điều tiết lượng tiền cơ sở, bám sát mục tiêu kiềm chế và ổn
định lạm phát. Việc dễ sử dụng và có thể phối hợp hài hòa với các công cụ khác của
CSTT, nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ linh hoạt nhất của CSTT. Gần
đây, Thống đốc NHNN ban hành thông tư số 42/2015/TT–NHNN quy định nghiệp vụ
thị trường mở thay thế cho một số Quyết định trước đó giúp hoàn thiện khung pháp lý
thúc đẩy phát triển thị trường mở trở thành công cụ quan trọng trong điều hành chính
sách tiền tệ để điều tiết cung tiền hợp lý, ổn định tỷ giá…
Quản lý hạn mức tín dụng
Quản lý hạn mức tính dụng và tổng thanh toán ở mức thấp gắn với hiệu quả
kiềm chế lạm phát so với giai đoạn trước: Tổng mức thanh toán M2 giai đoạn 2011–
2015 duy trì ở mức bình quân 17% trong khi bình quân giai đoạn trước đó (2004–
2010) ở mức trên 33%, tín dụng ở mức thấp nhất 6.07% (2012) cao nhất là 19.32%
năm 2013 còn là khá nhỏ so với bình quân ở mức 36% giai đoạn 2004–2010.
Năm 2014, tổng thanh toán giảm 7.35% và tín dụng giảm 3.75% so với năm
2013, GDP đã tăng từ 5.42% lên 5.98% và lạm phát giảm gần 2% còn 4.09%. Điều
này cho thấy vốn tín dụng được sử dụng hiệu quả hơn.
23
Năm 2015, đề án tái cấu trúc hệ thống tín dụng toàn ngành ngân hàng hoàn
thành đạt được mục tiêu đề ra. Theo thống kê của NHNN, có khoảng 99.6% nợ xấu
của TCTD được xử lý, nợ xấu toàn hệ thống đưa về mức 2.72% ở mức thấp và an toàn
so với trước đây, năm 2010, hệ thống ngân hàng gặp khó khăn trong thanh khoản ở
mức nợ xấu lên tới 10%. Những nỗ lực của chính sách tiền tệ giúp tăng trưởng tín
dụng cao ở mức 20% trong khi mặt bằng lãi suất cho vay giảm khoảng 0.3% – 0.5%
so với năm 2014. Tỷ lệ lạm phát năm 2015 ở con số thấp dưới 1%.
Bảng 2.1: Diễn biến lạm phát, tăng trưởng, M2, tín dụng năm 2004–2015
(Đơn vị: %)
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Lạm
phát 9.5 8.4 6.6 12.6 19.89 6.52 11.75 18.58 6.81 6.04 4.09 0.63
GDP 7.79 8.44 8.23 8.48 6.31 5.23 6.78 5.89 5.25 5.42 5.98 6.68
M2 29.45 29.74 33.59 46.12 20.31 28.99 33.3 12.07 12.59 25.04 17.69 16.72
Tín
dụng 37.14 34.74 24.72 50.18 27.71 45.62 31.86 13.87 6.07 19.32 15.57 18
Nguồn: ADB và Tổng cục Thống kê Việt Nam
Chính sách tiền tệ ổn định tỷ giá tập trung kiềm chế lạm phát
Sau khủng hoảng, năm 2009–2011 tỷ giá tăng lên rất nhanh và mạnh mẽ, tuy
nhiên vào giai đoạn tiếp đó 2011–2015 tỷ giá được giữ ở mức ổn định. Việc thay đổi
tỷ giá mỗi năm sẽ được NHNN thông báo khoảng giao động cụ thể để định hướng thị
trường giúp các doanh nghiệp có những kế hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp trách
những rủi ro từ tỷ giá. Chẳng hạn như mức giao động NHNN công bố năm 2012 và
2013 là không quá 2% – 3% hay năm 2014 và 2015 không quá 2%. Tuy nhiên tỷ giá
sẽ được điều chỉnh linh hoạt để phù hợp diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế
giới, vì thế NHNN đã chủ động điều chỉnh bình quân tỷ giá thị trường năm 2015 tăng
3.16% thay vì ở mức dưới 2% như đã công bố đầu năm. Hiện nay, năm 2016 chế độ tỷ
24
giá hối đoái của đồng Việt Nam là chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý theo đó NHNN vẫn
sẽ công bố tỷ giá nhưng thay vào đó dựa trên những cơ sở tham chiếu mà tỷ giá có thể
được điều chỉnh lên xuống hàng ngày nhằm giúp tỷ giá phản ứng linh hoạt, kịp thời
với diễn biến trong nước và quốc tế.
Hình 2.1: Tỷ giá VNĐ/USD
Nguồn: ADB
Giai đoạn năm 2011–2015, trên cơ sở điều hành CSTT chặt chẽ, thận trọng, có
sự phối hợp linh hoạt giữa các công cụ chính sách, lãi suất tiền gửi của đồng nội tệ đã
được điều chỉnh hợp lý theo lạm phát. Bên cạnh đó, việc liên tục giảm trần lãi suất huy
động tiền gửi của đồng USD từ 5.5% vào năm 2011 xuống còn 0% vào cuối năm
2015, đã khiến cho việc nắm giữ đồng nội tệ (VNĐ) mang lại lợi nhuận nhiều hơn
việc nắm giữ đồng USD. Điều này đã hạn chế được việc người dân gửi, tích trữ ngoại
tệ. Việc lạm phát giảm mạnh và bắt đầu được ổn định cũng làm giảm lượng cầu nắm
giữ ngoại tệ, góp phần ổn định cung cầu ngoại tệ, giảm tình trạng đô la hóa trong nền
kinh tế.
Tác động dẫn truyền tỷ giá tới lạm phát là khá mạnh tại Việt Nam nên để có
thể kiểm soát lạm phát thì NHNN phải đặc biệt quan tâm tới bình ổn tỷ giá cũng như
thị trường ngoại hối. Thực tế cho thấy, giai đoạn 2012–2015, tỷ giá ổn định góp phần
giảm và kiềm chế tỷ lệ lạm phát. Cụ thể, lạm phát giảm xuống tới mức thấp từ 6.81%
(2012) xuống 0.63% (2015). Hệ quả tác động này có ảnh hưởng tích cực khi GDP có
xu hướng tăng từ 5.98% lên 6.68%, GDP năm 2014–2015 đã có mức tăng trưởng cao
hơn tỷ lệ lạm phát.
15,000
16,000
17,000
18,000
19,000
20,000
21,000
22,000
23,000
2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Đơ
n v
ị :
VN
Đ/U
SD
25
(Đơn vị: %)
Hình 2.2: Tăng trưởng GDP và lạm phát
Nguồn: Tổng cục thống kê
Chính sách tiền tệ tác động qua lãi suất
NHNN thực hiện cơ chế quy định lãi suất trần tiền gửi và giới hạn lãi suất cho
vay cho một số đối tượng ưu tiên. Giai đoạn 2008–2011, thời kì kinh tế trong nước
chịu tác động của cuộc khủng hoảng làm cho lãi suất cho vay bình quân tăng liên tục
tù mức dưới 10%/năm lên tới 20%/năm. Tuy nhiên những năm trở lại đây (2012–
2015) cơ điều hành chính sách tiền tệ có sự đổi mới mạnh mẽ theo hướng chủ động,
dẫn dắt thị trường, từng bước chuyển từ cơ chế điều tiết khối lượng cung tiền sang
theo điều hành lãi suất. NHNN đã điều chỉnh các mức lãi suất điều hành với tổng mức
giảm 8,5%, theo đó lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15%/năm xuống còn 6.5%/năm, lãi
suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống 4.5%/năm và lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng giảm từ 16%/năm xuống 7.5%/năm (Vũ Xuân
Thanh, 2015). Việc giảm và ổn định dần lãi suất chính là cơ sở để các hệ thống TCTD
vốn đang dần ổn định, giảm lãi suất cho vay đối với cá nhân và doanh nghiệp. Để tăng
sức cầu, hỗ trợ nền kinh tế dần phục hồi và lấy lại đà phát triển trong bối cảnh lạm
phát đã được kiểm soát ở mức thấp và ổn định. Điều này thể hiện NHNN đã sử dụng
CSTT một cách chủ động và linh hoạt để thúc dẫn dắt thị trường, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển sau giai đoạn khủng hoảng nhưng vẫn thận trọng khi lãi suất đã được đưa về
mức phù hợp với nền kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Đầu năm 2016, các ngân hàng chạy đua lãi suất huy động, NHNN đã thực hiện siết lãi
0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
GDP Lạm phát
26
suất để đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD và ổn định thị trường thông qua văn bản
số 297/NHNN–TTGSNH.
2.2. Thực trạng chính sách tài khóa ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh nền kinh tế trong nước đang phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng
kể từ năm 2012 đến nay với tốc độ tăng trưởng ước đạt 6.68% vào năm 2015, mục tiêu
của các chính sách vĩ mô cũng có những sự thay đổi là tập trung vào ổn định kinh tế vĩ
mô và hỗ trợ doanh nghiệp thay cho mục tiêu kiềm chế lạm phát tăng cao trong giai
đoạn 2010–2011. Cụ thể, đối với chính sách tài khóa, Chính phủ đang thực hiện điều
hành theo hướng thực hiện nghiêm túc các khoản mục thu, tiết kiệm chi và giảm bội
chi ngân sách nhà nước.
(Đơn vị: %)
Hình 2.3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2005–2015
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Thực trạng thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách Nhà nước của Việt Nam đến từ bốn nguồn chính là: (i) Thu nội
địa, (ii) Thu từ dầu thô, (iii) Thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu và (iv) Thu viện
trợ. Tổng thu ngân sách Nhà nước trong đều tăng qua các năm. Tuy nhiên, do ảnh
hưởng của suy giảm tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách 4 năm qua cũng có tốc độ tăng
chậm hơn so với giai đoạn 2001–2011, bình quân tăng 6.55% (Trần Thọ Đạt và cộng
sự, 2016). Theo Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội năm 2015 của Tổng cục Thống kê,
tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2015 ước tính đạt 884.8
7.79
8.448.23 8.48
6.31 5.236.78
5.895.25 5.42
5.98
6.68
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
8.00
9.00
2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
27
nghìn tỷ đồng, bằng 97.1% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 657 nghìn tỷ đồng,
bằng 102.9%; thu từ dầu thô 62.4 nghìn tỷ đồng, bằng 67.1%; thu cân đối ngân sách từ
hoạt động xuất, nhập khẩu 160 nghìn tỷ đồng, bằng 91.4%.
Hiện nay, chính sách thu tiếp tục được điều chỉnh theo hướng tăng cường tiềm
lực tài chính cho doanh nghiệp thông qua việc giảm bớt nghĩa vụ thuế cho doanh
nghiệp và người dân, tạo thêm nguồn lực cho doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản
xuất – kinh doanh (Nguyễn Viết Lợi, 2016). Theo đó, Chính phủ đã có những điều
chỉnh về các chính sách thuế áp dụng cho khối doanh nghiệp và khu vực tư nhân. Đối
với thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế suất đã giảm xuống 22% từ ngày 01/01/2014
thay cho mức 25% như trước đó. Theo điều 11 trong Thông tư 78/2014/TT – BTC,
mức thuế suất 20% sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016 và mức thuế suất ưu đãi là
10% đến 17%. Năm 2015, việc nộp thuế đối với cá nhân có thu nhập từ kinh doanh
cũng có có những thay đổi khi mức thuế phải nộp sẽ được khoán trên doanh thu theo
tỷ lệ phù hợp với từng ngành nghề sản xuất kinh doanh (Bộ Tài chính, 2016). Bên
cạnh đó, Chính phủ thực hiện miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm
2020, miễn thu thuỷ lợi phí.
Những hành động này của cơ quan quản lý Nhà nước không những đảm bảo
được nguồn thu ngân sách Nhà nước mà còn tạo ra các tín hiệu tốt cho thị trường.
Việc này giúp giảm bớt “gánh nặng về chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
tạo điều kiện để doanh nghiệp hạ giá thành và tiêu thụ được sản phẩm, thúc đẩy doanh
nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh” (Lê Quang Thuận, 2014) và người dân cũng có
nhiều có thêm cơ hội đầu tư hoặc tiết kiệm vì giảm bớt được các khoản thuế phải nộp.
Trong 6 tháng đầu năm 2014 – thời điểm bắt đầu áp dụng thuế suất mới, ngân
sách chỉ giảm thu do chính sách này khoảng 3,700 tỷ đồng thay vì 14,064 tỷ đồng như
ước tính ban đầu, vì doanh nghiệp gia tăng đầu tư, mở rộng hoạt động. Chính việc các
khu vực kinh tế gia tăng đầu tư, nên mặc dù giảm thuế suất, mở rộng ưu đãi, nhưng
các doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng góp vào ngân sách nhà nước 91,273 tỷ đồng,
doanh nghiệp FDI đóng góp 61,458 tỷ đồng và khu vực doanh nghiệp dân doanh đóng
góp 56,982 tỷ đồng; so với dự toán đạt tương ứng 52.5%, hơn 55% và hơn 53%; còn
so với cùng kỳ thì tăng tương ứng 33.3%, 15.3% và 10.5% (Trọng Triết, 2014).
28
Thực trạng chi ngân sách Nhà nước
Ở Việt Nam, chi ngân sách Nhà nước tập trung vào các mục là: (i) Chi đầu tư
phát triển, (ii) Chỉ trả nợ và viện trợ, (iii) Chi phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội,
quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính và (iv) Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.
Trong giai đoạn 2012–2015, chi ngân sách vẫn tăng qua các năm nhưng tốc độ
tăng chi bình quân năm chỉ tăng 7.83% – đã giảm mạnh so với giai đoạn 2001–2011
với bình quân mức tăng là 20.28% (Trần Thọ Đạt và cộng sự, 2016). Theo thống kê
của Tổng cục thống kê, tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm
15/12/2015 ước tính đạt 1064.5 nghìn tỷ đồng, bằng 92.8% dự toán năm, trong đó chi
đầu tư phát triển 162 nghìn tỷ đồng, bằng 83.1% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản
157.5 nghìn tỷ đồng, bằng 82.7%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội, quốc
phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 745 nghìn tỷ đồng, bằng 97.1%; chi trả nợ và
viện trợ 148.3 nghìn tỷ đồng, bằng 98.9%.
Do tốc độ tăng chi vẫn lớn hơn tốc độ tăng thu nên tình trạng thâm hụt cán cân
thu – chi ngân sách (hay bội chi ngân sách Nhà nước) vẫn diễn ra. Bội chi ngân sách
gây áp lực lên nhiều mặt của nền kinh tế.
(Đơn vị: nghìn tỷ VNĐ)
Hình 2.4: Thu chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2011–2015
Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam
2011 2012 2013 2014 2015
Thu NSNN 674,500 658,600 790,800 814,100 884,800
Chi NSNN 796,000 821,200 986,200 968,500 1,064,500
Bội chi NSNN 121,500 162,600 195,400 154,400 179,700
0
200,000
400,000
600,000
800,000
1,000,000
1,200,000
Thu NSNN
Chi NSNN
Bội chi NSNN
29
Thứ nhất, bội chi làm gia tăng thêm tình trạng nợ công khi Chính phủ phải
phát hành thêm trái phiếu để huy động thêm nguồn vốn. Tỷ trọngnợ công so với GDP
tăng nhanh từ 50% năm 2011 lên 59.6% năm 2014 (World Bank, 2015). Bộ Tài chính
cũng dự báo tổng dư nợ công có thể đạt gần 65% GDP vào cuối năm 2017. Bên cạnh
đó, nghĩa vụ trả nợ cũng tạo ra áp lực cho ngân sách. Theo thống kê của Tổng cục
thống kê, khoản mục chi trả nợ ngày càng gia tăng, lần lượt là: 105 nghìn tỷ đồng
(2013), 120 nghìn tỷ đồng (2014) và 148.3 nghìn tỷ đồng (2015).
Thứ hai, bội chi ngân sách làm giá cả hàng hóa tăng lên. Tuy để bù đắp cho
thâm hụt ngân sách, Chính phủ lựa chọn việc phát hành trái phiếu để huy động vốn
nhưng việc này cũng làm gia tăng cung tiền do “các ngân hàng thương mại hiện nay
mua trái phiếu chính phủ rồi sử dụng nó để xin tái cấp vốn” (Vũ Sỹ Cường, 2014).
Thứ ba, bội chi ngân sách tạo ra các hiệu ứng chèn lấn khu vực đầu tư do chi
phí để vay vốn lúc này trở nên đắt đỏ hơn và Tô Trung Thành (2012) cũng chỉ ra cứ
1% tăng trong đầu tư công sẽ làm giảm đầu tư tư nhân 0.48%.
Trước tình hình này, Chính phủ đang áp dụng chính sách chi ngân sách được
điều hành chặt chẽ, thực hiện phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, tiếp tục kiểm soát
chặt chẽ, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước và đảm bảo kỷ cương
tài khóa.
2.3. Thị trường chứng khoán Việt Nam
2.3.1. Quá trình hình thành và phát triển
Từ năm 2000–2005: TTCK Việt Nam ra đời đánh dấu bằng sự kiện Trung tâm
giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh được đưa vào hoạt động ngày 20/07/2000.
Phiên giao dịch đầu tiên diễn ra sau đó vào ngày 28/07, TTCK chỉ có 2 loại cổ phiếu
niêm yết với số vốn 270 tỷ đồng cùng một số ít trái phiếu Chính phủ. Bước sang năm
2001, danh mục hàng hóa của thị trường là 28 với tổng giá trị niêm yết trên 3,370 tỷ
đồng. Các năm sau đó thì danh mục hàng hóa trên TTCK và tổng giá trị niêm yết đều
tăng thêm nhưng không nhiều, quy mô các doanh nghiệp niêm yết còn nhỏ vì vậy
không thu hút đối với các nhà đầu tư. Để tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng TTCK thì
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cũng ra đời ngày 08/03/2005, tuy vậy sự
kiện này vẫn chưa thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng cũng như các
30
nhà đầu tư, tính đến hết năm 2005, tổng giá trị thị trường chứng khoán đạt gần 40,000
tỷ đồng tương đương 0.69% GDP với 28,300 tài khoản giao dịch. Đánh giá giai đoạn
này là thời kì khởi đầu không mấy thành của TTCK khi lượng công ty niêm yết còn ít,
hàng hóa không nhiều và lượng giao dịch thưa thớt trong khi chỉ số VNIndex thì liên
tục xuống thấp. Thế nhưng đã xuất hiện sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài với tỷ lệ
nắm giữ cổ phiếu cao nhất là 30%.
Giai đoạn 2006–2007 là thời kì bứt phá của thị trường, hoạt động giao dịch
diễn ra sôi nổi trên cả hai sàn chứng khoán Hồ Chí Minh, Hà Nội và thị trường OTC.
Quy mô thị trường cũng tăng lên nhanh đạt 22.7% GDP năm 2006 và 43% năm 2007.
Số lượng các công ty tham gia niêm yết ngày càng tăng với lượng huy động vốn gần
40,000 tỷ đồng năm 2007. Chỉ số VNIndex có xu hướng tăng có thời điểm đạt đỉnh
1170.67 điểm. Ngoài ra, Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 giúp thị
trường tăng trưởng mạnh mẽ tạo cho TTCK có cơ hội tiến gần hội nhập hơn vào thị
trường tài chính quốc tế.
Tuy nhiên, do tác động trực tiếp của hoạt động sử dụng đòn bẩy quá lớn trong
năm 2007 nên đầu năm 2008 thị trường bắt đầu có những biến động. Vào cuối năm,
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu làm cho TTCK tiếp tục đi xuống,
chỉ số VNIndex giảm 315.62 điểm cùng với đồng loạt giá các cổ phiếu giảm mạnh.
Năm 2009, TTCK chuyển biến tích cực trở lại, cả hai chỉ số VNIndex và
HNX–Index có đều mức tăng trên 50% cụ thể, VNIndex đạt cao nhất ở 633.21 điểm
và HNX–Index đạt cao nhất tại 218.38 điểm. Số lượng doanh nghiệp niêm yết trên cả
hai sàn tính đến hết năm là 541 và 4 chứng chỉ quỹ, tổng vốn hóa thị trường có giá trị
rất lớn 620.551 nghìn tỷ đồng tương đương 38% GDP.
Bước vào năm 2010, một năm thăng trầm của thị trường – tăng trưởng đầu
năm nhưng suy thoái vào những tháng giữa và cuối năm. Các tác động của thông tin
bên ngoài với hàng loạt sự kiện rào cản từ chính sách tiền tệ thắt chặt, cuộc khủng
hoảng nợ công Châu Âu và áp lực tăng đủ vốn theo hệ số an toàn theo Thông tư 13
cũng như nghị định 141 khiến các ngân hàng nhỏ phải chạy đua nâng vốn điều này
khiến cho VNIndex điều chỉnh giảm 22.9% xuống còn 423.89 điểm. Đến cuối năm
2010, tuy chứng khoán thế giới đang phục hồi nhưng do tâm lý các nhà đầu tư trong
31
nước thận trọng trước sự kiện Vinashin và chính sách tiền tệ khi lãi suất ở mức cao, tỷ
giá thiếu ổn định… khiến thanh khoản thị trường ở mức thấp dẫn đến phải đến cuối
tháng 11, TTCK mới có dấu hiệu phục hồi.
Năm 2011, thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm mạnh. Ngày
22/12/2011 chỉ số VNIndex rơi xuống mức thấp nhất trong lịch sử với 58.04 điểm.
TTCK đối mặt một năm nhiều biến động, bất ổn vĩ mô như lạm phát cao, thanh khoản
của hệ thống ngân hàng ở mức thấp, các doanh nghiệp không đạt được lợi nhuận hiệu
quả khiến thị trường đi xuống làm cho thanh khoản thấp và nhiều cổ phiếu sụt giá còn
lại 10% – 20% so với giá đầu năm. Năm 2012, TTCK ở trong hai trạng thái đối lập
nửa đầu năm và nửa cuối năm. Nửa đầu năm, hàng loạt các thông tin như sự ra đời của
VN30–Index hay kéo dài thời gian giao dịch buổi chiều mà nổi bật việc cắt giảm lãi
suất từ 14%/năm xuống 9%/năm khiến VNIndex tăng gần 40% và HNX–Index tăng
44% so với cuối năm 2011. Nửa cuối năm 2012, Ngân hàng Nhà nước thông báo tỷ lệ
nợ xấu toàn hệ thống lên tới 10% chứ không phải 4% như trong các báo cáo trước đây
gây tác động tiêu cực đến thị trường. Thêm nữa, ông Nguyễn Đức Kiên bị bắt, một
người có tiếng trong giới doanh nhân khiến cổ phiếu ngân hàng sụt giảm, bán tháo và
thị trường lao dốc. Chỉ số HNX–Index xuống mức thấp nhất trong lịch sử còn 50.7
điểm. Hệ quả của năm 2012 là hàng loạt các công ty chứng khoán bị mất thanh khoản
và bị thua lỗ nặng nề.
Năm 2013, TTCK bắt đầu với nhiều khởi sắc và có đà phục hồi mạnh mẽ.
Nhờ tình hình kinh tế vĩ mô đang ổn định như lạm phát được kiềm chế, lãi suất có
giảm, dự trữ ngoại tệ tăng cùng với các giải pháp giảm thuế chuyển nhượng chứng
khoán, kéo dài thời gian giao dịch…. chỉ số VNIndex tăng gần 23% và HNX–Index
tăng trên 13% so với cuối năm 2012. Năm 2013 có thể coi là bước đệm cho sự tăng
trưởng và xác lập mặt bằng vững chắc của thị trường năm 2014. Tuy nhiều phiên thị
trường sụt giảm do tác động của diễn biến Biển Đông và giá dầu.
Trong tình hình vĩ mô tiến triển khả quan, TTCK năm 2015 lại trải qua những
thăng trầm, khép lại với mức tăng trưởng khiêm tốn của VNIndex là 5% bởi những
ảnh hưởng từ các tác nhân bên ngoài mà mạnh mẽ nhất do biến động tỷ giá và sự sụt
giảm của giá dầu. Vào thời điểm đầu tháng 3 chỉ số VNIndex tăng mạnh từ 526 điểm
32
lên 602 điểm, nhưng thời gian sau đó lại có xu hướng giảm, hai tháng sau đó VNIndex
chạm về mức đáy tại 529 điểm. Tuy nhiên, ngày 29/05 Hiệp định Thương mại tự do
(FTA – Free Trade Agreement) giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á – Âu chính
thức được ký kết làm cho nhóm cổ phiểu dệt nay và thủy sản tăng mạnh. Bên cạnh đó,
thì nhóm cổ phiếu ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm cũng tăng giá làm cho giai
đoạn từ ngày 18/05 đến 15/07, VNIndex đã có xu hướng tăng đạt đỉnh trở lại từ 529
điểm lên 641 điểm. Khi các dòng ngân hàng và bảo hiểm đạt đỉnh thì phản ứng tâm lý
thị trường lại chịu tác động tiêu cực trước thông tin Trung Quốc phá giá đồng nhân
dân tệ. Cụ thể, chỉ trong 3 ngày đồng nhân dân tệ giảm 4.6% so với đồng USD khiến
TTCK quay đầu trở lại với chỉ số VNIndex là 511. Từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 11,
TTCK được có dấu hiệu hồi phục nhờ thông tin Nghị định 60 không giới hạn sở hữu
của nhà đầu tư nước ngoài và cuộc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP – Trans–Pacific Partnership) kết thúc đã tạo những tín hiệu tích cực cho
thị trường. Sau đó, TTCK lại phải đối đầu với việc FED nâng lãi suất từ 0 – 0.25 %
lên 0.25 – 0.5% và sự trượt dốc của giá dầu dưới mức 40$/thùng ảnh hưởng mạnh mẽ
tới tâm lý thị trường mà chú ý nhất là nhóm cổ phiếu dầu khí giảm rất mạnh. Năm
2015, bên cạnh những biến động thì không thể phủ nhận sự tăng trưởng của TTCK
Việt Nam sau hơn 15 năm hoạt động đã có những chuyển biến rõ rệt với mức vốn hóa
đạt hơn 1.3 triệu tỷ đồng, tương đương 34% GDP với giao dịch bình quân mỗi phiên
đạt 4,964 tỷ đồng. Thống kê đến tháng 12, TTCK có 682 cổ phiếu niêm yết trên 2 sàn.
Đến đầu năm 2016, TTCK vẫn trong tình trạng không có nhiều khả quan do
chịu ảnh hưởng từ TTCK thế giới cũng như bất ổn của giá dầu, chỉ số VNIndex giảm
33.78 điểm xuống còn 545.25 điểm, HNX–Index giảm 3.09 điểm còn 76.87 điểm và
có tới 3.6 tỷ USD “bốc hơi” khỏi thị trường. Tại thời điểm tháng 2, nhóm các cổ phiếu
dầu khí, cao su, dược phẩm đồng loạt tăng tạo những triển vọng cho thị trường.
Chứng kiến quá trình phát triển của TTCK có thể khẳng định nhiệm vụ song
hành với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam không thể thiếu đi nhiệm vụ phát triển
TTCK. Vì vậy, trong Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai
đoạn 2011–2020,Thủ tướng chính phủ đã ký Quyết định số 252/QĐ–TTg định hướng
nước ta sẽ hướng tới mục tiêu: tăng quy mô, độ sâu và tính thanh khoản của thị trường
33
chứng khoán; phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hóa thị trườngvào năm 2020 đạt 70%
GDP cho thấy phát triển TTCK trở thành kênh huy động vốn chủ yếu đang thực sự là
một trong những mục tiêu to lớn của Chính phủ trên con đường hoàn thiện mục tiêu
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
2.3.2. Thực trạng phát triển chứng khoán ảnh hưởng tới nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán phát triển thúc đẩy hoàn thiện khung pháp lý về
chứng khoán và thị trường chứng khoán
Để phát triển thị trường chứng khoán bền vững, minh bạch thì song song với
nó phải có những văn vản điều chỉnh chặt chẽ. Nhưng trước hết cần có một cơ quan
chuyên trách đứng ra điều hành bảo đảm tính minh bạch, công bằng cho TTCK, chính
vì thế Uỷ ban chứng khoán đi vào hoạt động theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ,
trực tiếp quản lý giám sát hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán, quản lý
các lĩnh vực thuộc lĩnh vực chứng khoán theo quy định pháp luật. Bên cạnh đó, để đẩy
mạnh hoạt động chứng khoán thì hai trung tâm giao dịch là TTGDCK TP. Hồ Chí
Minh và TTGDCK Hà Nội lần lượt ra đời vào năm 2000 và 2005. Tuy nhiên, theo đó
các quyết định 128/2007/QĐ–TTg và 128/2008/QĐ–TTg được ban hành trong đó phê
duyệt đề án chuyển đổi các TTGDCK thành Sở GDCK.
Các văn bản luật về chứng khoán và TTCK cũng dần được hoàn thiện để điều
chỉnh hành vi gây bất ổn trên TTCK gồm có Nghị định 48/1998/NĐ–CP (ngày
11/7/1998) – được ký và ban hành tạo khuôn khổ pháp lý ban đầu cho TTCK – sau đó
được thay thế bằng Nghị định 144/2003/NĐ–CP. Đến năm 2006 thì Luật Chứng
khoán được ban hành và có hiệu lực từ 01/01/2007 khắc phục những hạn chế của 2
Nghị định trước. Đến năm 2007, Chính phủ tiếp tục ban hành thêm Nghị định
14/2007/NĐ–CP và 36/2007/NĐ–CP để hướng dẫn Luật chứng khoán. Sau đó, sau khi
ban hành thêm các Nghị định, Thông tư hướng dẫn khác thì ngày 24/11/2010 Luật
Chứng khoán được sử đổi bổ sung một số điều và có hiệu lực từ 01/07/2011.
Các văn bản Luật thu hút, thúc đẩy chứng khoán và TTCK: Quyết định
139/1999/QĐ–TTg theo đó quy định tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với cổ phiếu và trái
phiếu. Nghị định 39/2000/QĐ–TTg ban hành với nội dung ưu đãi giảm thuế đối với
cac doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán và năm 2009 miễn thuế
34
thu nhập các nhân với các cá nhân tham gia trên TTCK theo thông tư 160/2009/TT–
BTC. Tiếp đó Nghị định 53/2009/QĐ–TTg về phát hành trái phiếu quốc tế, các nhà
đầu tư nước ngoài được quyền mua 49% vốn cổ phần của công ty đại chúng (Quyết
định 55/2009/QĐ–TTg), đến năm 2015 Nghị đinh 60/2015/NĐ–CP cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư không hạn chế vào TTCK giúp nền kinh tế huy động vốn
nước ngoài nhiều hơn.
Năm 2014–2015, Chính phủ tiếp tục ký ban hành hàng loạt các văn bản luật
khác liên quan về chứng khoán phái sinh, TTCK phái sinh; về cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước hay về đăng ký, thanh toán chứng khoán… Ngoài các văn bản kể
trên còn rất nhiều các văn bản luật khác đều thể hiễn những nỗ lực của Chính phủ
trong việc bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện cơ chế chính sách phù hợp với sự phát triển
TTCK từng giai đoạn tạo cơ sở pháp lý phù hợp để TTCK Việt Nam hội nhập vào thị
trường tài chính quốc tế.
Thị trường chứng khoán tăng khả năng thanh khoản cho chứng khoán
Thị trường chứng khoán trong giai đoạn đầu 2001–2005 được coi là thời kì
trầm lắng, tuy nhiên thị trưởng giai đoạn sau đã có sự tăng trưởng về quy mô lẫn tính
thanh khoản của thị trường. Tính thanh khoản thể hiện sự hấp dẫn với các nhà đầu tư
về đảm bảo linh hoạt, an toàn của tài sản họ nắm giữ. Khi tính thanh khoản chứng
khoán tốt, các nhà đầu tư mong muốn sở hữu nhiều hơn khiến chứng khoán đó được
giao dịch nhiều hơn và thị trường hoạt động hiệu quả, ít rủi ro hơn. Cụ thể, năm 2005
có bình quân 667 nghìn cổ phiếu được giao dịch mỗi phiên thì chỉ sau 3 năm, đến năm
2008 nó đã tăng lên 18.7 triệu cổ phiếu. Hiện tại, tính đến tháng 3 năm 2016 thì bình
quân có 54 triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi phiên. Với tính thanh khoản của thị
trường ngày càng tăng đã tạo ra sức hấp dẫn cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài,
từ đó tăng cường nguồn vốn cho thị trường.
Quy mô thị trường ngày càng lớn, TTCK đang trở thành kênh cung ứng vốn
trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế
Trước khi thị trường chứng khoán ra đời thì vốn hoạt động các doanh nghiệp
chủ yếu vào vay ngân hàng. Tuy nhiên, để tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân
hàng, doanh nghiệp phải tốn nhiều thời gian và đáp ứng đủ, đúng những yêu cầu khắt
35
khe từ phía ngân hàng. Điều này khiến cho không ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó
mà tiếp cận được với nguồn vốn vay này hoặc sẽ phải chịu chi phí vay cao. Một trong
những điểm chung của doanh nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng đều chịu sự kiểm
soát nghiêm ngặt từ phía các ngân hàng và tạo cho doanh nghiệp những áp lực nhất
định. Hơn nữa, trong bối cảnh kinh tế nhiều biến động, nền kinh tế Việt Nam còn yếu,
dễ bị ảnh hưởng từ các tác động bên ngoài, khi lạm phát tăng cao, các ngân hàng sẽ
điều chỉnh lãi suất tăng dẫn đến việc tiếp cận vốn các doanh nghiệp càng khó khăn và
việc chi trả lãi vay cũng là vấn đề lớn, điển hình nhất năm 2008, lãi suất cho vay lên
tới 21%/năm. Năm 2000, TTCK ra đời chỉ có 2 cổ phiếu niêm yết với tổng vốn 270 tỷ
đồng. Đến hết năm 2005, TTCK có 44 công ty niêm yết với tổng giá trị niêm yết 4.94
nghìn tỷ đồng trong đó tổng vốn hóa thị trường đạt gần 40 nghìn tỷ đồng mới chỉ
tương đương 0.69% GDP, có thể giai đoạn 2000–2005, TTCK chưa được các doanh
nghiệp chú ý, nguồn vốn huy động cho nền kinh tế không đáng kể so với nhu cầu. Đến
năm 2010, TTCK có 643 cổ phiếu niêm yết với tổng vốn huy động 110 nghìn tỷ đồng,
vốn hóa thị trường là 726 nghìn tỷ đồng tương đương 39% GDP. Quy mô thị trường
ngày càng lớn, tính đến tháng hết năm 2015, có 682 cổ phiếu niêm yết, vốn hóa thị
trường đạt 1.3 triệu tỷ đồng tương đương 34% GDP. Trải qua hơn 15 năm phát triển,
có thể nói TTCK là nơi huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả không chỉ cho doanh
nghiệp mà cho cả các ngân hàng, từ năm 2005 đến nay TTCK giúp hệ thống ngân
hàng tăng vốn lên gấp 10 lần.
Tuy nhiên từ khía cạnh quan sát Việt Nam với các nước, quy mô vốn thị
trường vẫn nhỏ so với nhu cầu huy động, xu hướng huy động từ TTCK tăng lên và từ
thị trường tiện tệ giảm nhưng giá trị huy động vốn từ thị trường tiền tệ lại lớn hơn 2
lần so với TTCK. Nếu như so sánh với các nước trong khu vực thì tính đến tháng
5/2015 tổng giá trị TTCK Việt Nam khoảng 60 tỷ USD là khá nhỏ khi so với các nước
như Philippines (157 tỷ USD), Thái Lan (278 tỷ USD), Indonexia (360 tỷ USD) hay
Singapore (647 tỷ USD).
36
Thị trường chứng khoán góp phần quan trọng cổ phần hóa doanh nghiệp
Nhà nước
Để tạo lực đẩy cho nền kinh tế, từ thực tế các nước trên thế giới đều hình
thành và phát triển thị trường chứng khoán và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Do vậy, TTCK phát triển thì hàng hóa phải đa dạng, hấp dẫn. Vì thế cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước và cung cấp thêm hàng hóa cho TTCK. Các doanh nghiệp nhà
nước khi đã cổ phần hóa gắn với niêm yết trên TTCK sẽ có những lợi thế nhất định về
cơ sở vật chất, nguồn lực chất lượng cao. Cổ phần hóa sẽ giúp tăng cường sự giám sát
đối với doanh nghiệp hơn, các doanh nghiệp phải tự chủ, hoạt động hiệu quả thay vì ỷ
lại vào sự hỗ trợ hoàn toàn của Nhà nước. Thực tế cho thấy, tính đến tháng 5/2015, có
340 doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa niêm yết trên TTCK giúp cho vốn
đầu tư chủ sở tăng trung bình 18%/năm cùng với đó doanh thu bình quân và lợi nhuận
bình quân tăng lần lượt 3.5%/năm và 8.6%/năm giai đoạn 2011–2014. Riêng năm
2015 có gần 200 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa niêm yết trên thị trường.
Tóm lại, việc cổ phần hóa không chỉ góp phần minh bạch hoạt động các doanh
nghiệp nhà nước mà còn giúp thị trường chứng khoán có nhiều hàng hóa tốt hơn.
Tuy nhiên, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vẫn đang gặp khó
khăn liên quan đến cơ chế, xác định giá trị doanh nghiệp, tránh gây thất thoát vốn nhà
nước… làm cho mục tiêu cổ phần hóa không hoàn thành đúng thời hạn mà còn gây
nhiều tranh luận.
Thị trường chứng khoán giúp tăng vốn đầu tư nước ngoài
Số tài khoản và lượng tiền đầu tư nước ngoài ngày càng tăng nhanh chóng.
Vào ngày 02/04/2001, một người mang quốc tịch Anh là nhà đầu tư nước ngoài đầu
tiên sở hữu cổ phiếu trên TTCK Việt Nam thì sau một năm số nhà đầu tư nước ngoài
là 11 cá nhân, họ nắm giữ 167,000 cổ phiếu thì đến năm 2006 số tài khoản các nhà đầu
tư nước ngoài lên khoảng 1000 tài khoản. Tiếp theo đó hết năm 2007 số tài khoản đã
tăng lên 7000 với số tiền đầu tư vào thị trường là 3 tỷ USD. Tính đến hết năm 2015,
TTCK có gần 1.5 triệu tài khoản trong đó số tài khoản của các nhà đầu tư nước ngoài
có gần 18,000 tài khoản, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam đạt trên 15
tỷ USD và có xu hướng tăng, ổn định.
37
Có thể thấy so với quy mô vốn hóa thị trường Việt Nam khoảng 60 tỷ USD thì
giá trị danh mục đầu tư nước ngoài chiếm hơn 25% có thể nói TTCK Việt Nam đang
thực hiện vai trò thu hút vốn đầu tư nước ngoài hiệu quả.
Tuy nhiên để hoàn thành mục tiêu cổ phần hóa trong 3 năm tới với tổng giá trị
doanh nghiệp ước tính 25 tỷ USD thì thị trường cần tăng cường một lượng tiền lớn để
có thể mua cổ phần của các doanh nghiệp này. Do vậy, vấn đề khó khăn cần giải quyết
là tìm ra giải pháp có thể giúp TTCK Việt Nam phát triển lành mạnh, công khai, minh
bạch thu hút nhanh, mạnh dòng tiền nước ngoài; trong khi khối ngoại đổ tiền đầu tư
năm 2015 lớn nhất mới đạt giá trị gần 180 nghìn tỷ đồng.
38
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Các yếu tố trong mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Để đánh giá tác động của CSTT và CSTK lên TTCK Việt Nam, nhóm nghiên
cứu sử dụng mô hình VECM. Các biến được sử dụng trong mô hình được chia thành 5
nhóm chính: (i) Biến ngoại sinh, (ii) Biến đại diện cho CSTT, (iii) Biến đại diện cho
CSTK, (iv) Biến phản ánh sự phối hợp của CSTT và CSTK và (v) Biến phụ thuộc.
Biến ngoại sinh
Mục tiêu chính của bài nghiên cứu là đánh giá tác động của các chính sách vĩ
mô đối với TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, do tính chất của nền kinh tế hiện nay ngày
càng mở và hội nhập hơn nên việc đưa thêm các biến số bên ngoài sẽ giúp việc đo
lường phản ứng của TTCK Việt Nam trước các nhân tố tác động được đầy đủ và chính
xác hơn. Trong bài nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu sử dụng hai biến ngoại sinh là:
Giá dầu thô và Chỉ số thị trường chứng khoán Mỹ. Đây là hai biến số có phạm vi tác
động lớn đến nhiều mặt của nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới khi có sự thay
đổi xảy ra, trong đó bao gồm cả TTCK.
Giá dầu thô
Việt Nam là một quốc gia chịu những tác động trực tiếp từ sự biến động giá
dầu thô. Việc giá dầu thô thay đổi sẽ tác động đa chiều đến ngân sách Nhà nước, môi
trường kinh doanh của doanh nghiệp và sự tiêu dùng của người dân. Một trong những
nguồn thu của ngân sách Nhà nước đến từ hoạt động khai thác – xuất khẩu dầu thô
và “doanh thu dầu thô luôn chiếm từ 10 – 20% trong tổng thu ngân sách Nhà nước”
(Bùi Xuân Hồi, 2016). Khi giá dầu thô giảm dễ dẫn đến tình trạng thậm hụt ngân sách
và ảnh hưởng đến các hoạt động chi tiêu của Chính phủ. Việc thâm hụt ngân sách sẽ
tạo ra các hiệu ứng chèn lấn đầu tư. Tuy nhiên, việc giá dầu giảm cũng sẽ tạo ra các
hiệu ứng tích cực cho nền kinh tế. Vì Việt Nam cũng là một quốc gia nhập khẩu xăng
dầu thành phần nên khi giá dầu giảm thì chi phí sản xuất của doanh nghiệp sẽ giảm
xuống. Khi giá xăng dầu giảm sẽ tạo ra các tín hiệu tích cực cho các ngành vận tải, sản
xuất phân bón, nhựa, khai thác tài nguyên, đánh bắt thủy sản, luyện kim do đây là các
ngành tiêu thụ nhiều xăng dầu và có chi phí đầu vào từ xăng dầu lớn. Bên cạnh đó, các
39
hộ gia đình cũng sẽ tiết kiệm được các chi phí cho đi lại hàng ngày, làm tăng thu nhập
khả dụng cho người dân và kích thích tiêu dùng từ khoản tiết kiệm được. Bên cạnh đó,
Bùi Xuân Hồi (2016) cũng chỉ ra “sự gia tăng sức mua cho người dân trong nước sẽ
góp phần làm tăng GDP”. Theo Viện trưởng Viện Kinh tế năng lượng, Viện Khoa học
Việt Nam Đoàn Văn Bình (2014) thì khi giá dầu giảm sẽ góp phần kích thích tiêu
dùng và đồng nghĩa là kích thích tăng sản xuất, giúp phát triển kinh tế và tăng thu
ngân sách nhờ tăng thu từ thuế các mặt hàng tiêu dùng. Do đó, khi giá dầu thô giảm sẽ
tạo ra các tác động tích cực đến tâm lý của nhà đầu tư.
S&P500
Chỉ số S&P500 là một chỉ số cổ phiếu được cấu thành từ 500 cổ phiếu giao
dịch lớn chiếm đến hơn 70% tổng giá trị thị trường chứng khoán Mỹ. Chỉ số này bao
gồm các công ty tập đoàn thuộc nhiều lĩnhvực khác nhau như năng lượng, công
nghiệp, công nghệ thông tin, tài chính, hàng tiêu dùng và chăm sóc y tế. Hiện nay,
S&P500 là một trong những chỉ số đại diện tốt nhất cho toàn bộ thị trường Mỹ (Đỗ
Phương Huyền, 2014). S&P500 là một chỉ số thị trường có tác động đến TTCK của
nhiều quốc gia. Thứ nhất, chỉ số S&P500 là một tấm gương phản ánh sức khỏe của
nền kinh tế Mỹ mà kinh tế Mỹ có ảnh hưởng đến nền kinh tế của các quốc gia khác
trên thế giới. Do đó, khi có những bất ổn hay tăng trưởng trong nền kinh tế Mỹ đều tạo
ra những hiệu ứng đến thị trường tài chính của các quốc gia khác. Thứ hai, S&P500
phản ánh kết quả kinh doanh của các tập đoàn lớn đa quốc gia. Thứ ba, S&P500 phản
ánh những quyết định thay đổi lãi suất của cục dự trữ Liên bang Mỹ FED. Những
quyết định của FED ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt của nền kinh tế không chỉ ở Mỹ mà
còn ở các quốc gia khác. Sự điều chỉnh lãi suất do FED ấn định sẽ tác động đến: (i) chi
phí đi vay của các Chính phủ, tổ chức và cá nhân – đặc biệt là các quốc gia nước ngoài
có các khoản vay bằng đô la Mỹ vì giá đô la Mỹ cũng sẽ thay đổi; (ii) hoạt động xuất
nhập khẩu của các quốc gia; (iii) giá của các hàng hóa cơ bản và (iv) tâm lý của các
nhà đầu tư trên thị trường khi đánh giá và lựa chọn TTCK có lợi suất cao hơn. Mặt
khác, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới
do đó, các thông tin trên TTCK Việt Nam cũng sẽ có sự liên thông với thị trường
chứng khoán thế giới, trong đó có chỉ số S&P500.
40
Giả thuyết H1: “Các biến ngoại sinh có tác động đến chỉ số giá chứng
khoán Việt Nam”.
Biến đại diện cho chính sách tiền tệ
Các biến được lựa chọn đại diện cho chính sách tiền tệ là: Cung tiền M2 và
Lãi suất.
Cung tiền M2
Thông qua cung tiền M2, Chính phủ sẽ có những điều chỉnh CSTT cho phù
hợp với điều kiện kinh tế ở từng thời kỳ. Khi Chính phủ thực hiện CSTT mở rộng
bằng việc nới lỏng cung tiền để kích thích tăng trưởng thì TTCK cũng có những phản
ứng tích cực. Ngược lại, trong thời kỳ tăng trưởng nóng, việc thắt chặt CSTT sẽ được
thực hiện và TTCK cũng sụt giảm.
Lãi suất
Lãi suất và giá cổ phiếu có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Do đó, khi lãi
suất tăng sẽ làm cho giảm giá chứng khoán giảm và ngược lại. Bên cạnh đó, lãi suất
tăng tạo ra tác động thay thế vì nhà đầu tư lúc này sẽ chuyển sang hình thức đầu tư gửi
tiền tiết kiệm và làm cho dòng vốn đi vào thị trường chứng khoán sẽ giảm xuống.
Giả thuyết H2: “Chính sách tiền tệ có tác động đến chỉ số giá chứng
khoán Việt Nam”.
Biến đại diện cho chính sách tài khóa
Hai biến số được lựa chọn đại diện chính sách tài khóa là: Thu ngân sách Nhà
nước và Chi ngân sách Nhà nước.
Thu ngân sách Nhà nước
Phần lớn thu ngân sách đến từ nguồn thu thuế. Do đó, khi Chính phủ điều
chỉnh thuế suất sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như
người dân. Nếu thuế suất tăng, doanh nghiệp sẽ phải chịu thêm các gánh nặng về chi
phí, làm ảnh hưởng đến hoạt động tái đầu tư và mở rộng sản xuất. Bên cạnh đó, việc
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp cũng sẽ gặp khó khăn do lúc này thu nhập khả
41
dụng của người tiêu dùng giảm xuống. Qua đó, dẫn đến kết quả kinh doanh bị biến
động và tâm lý của nhà đầu tư vào chứng khoán cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Chi ngân sách Nhà nước
Nếu Chính phủ tăng chi tiêu dễ dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách. Do
cung quỹ có thể cho vay là giới hạn nên khi thâm hụt ngân sách xảy ra sẽ làm giảm
nguồn cung quỹ và đẩy lãi suất lên. Khi đó, chi phí đi vay vốn đầu tư của doanh
nghiệp và người dân bị ảnh hưởng tiêu cực. Mặt khác, Chính phủ cần đi vay để tài trợ
cho thâm hụt bằng việc phát hành trái phiếu, tín phiếu hoặc in tiền. Việc này sẽ làm
cho lạm phát tăng lên và sẽ có tác động tiêu cực đến giá chứng khoán. Vì quyết định in
tiền hay sử dụng trái phiếu đều làm cung tiền tăng lên. Các ngân hàng thương mại hiện
nay mua trái phiếu chính phủ rồi sử dụng nó để xin tái cấp vốn cũng làm tăng cung
tiền cho nền kinh tế (Vũ Sỹ Cường, 2014).
Giả thuyết H3: “Chính sách tài khóa có tác động đến chỉ số giá chứng
khoán Việt Nam”.
Biến phản ánh sự phối hợp của CSTT và CSTK
Ngoài việc đánh giá tác động của từng chính sách lên TTCK thì bài nghiên
cứu cũng tập trung đánh giá vào đo lường phản ứng của chỉ số giá chứng khoán Việt
Nam trước sự phối hợp của hai chính sách vĩ mô quan trọng này. Hai biến số được lựa
chọn đại diện cho sự phối hợp của CSTT và CSTK là: Chỉ số giá tiêu dùng và Thâm
hụt ngân sách. Việc lựa chọn hai biến số này dựa trên mục tiêu điều hành CSTT và
CSTK cũng như sự phối hợp hành động của hai chính sách trong điều hành nền kinh
tế vĩ mô.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô luôn được cân nhắc trong việc phối
hợp CSTT và CSTK đó là kiềm chế lạm phát. Để kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế
đòi hỏi cả Ngân hàng Nhà Nước và Bộ Tài chính cần sử dụng các công cụ chính sách
hài hòa và có những biện pháp thích hợp. Qua đó, nhóm nghiên cứu có sử dụng chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) để phản ánh mức độ lạm phát trong nền kinh tế. Lạm phát là một
biến số vĩ mô có tác động đến TTCK thông qua việc tác động đến quyết định của các
42
nhà đầu tư và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi lạm phát cao dẫn đến đồng
tiền bị mất giá, các nhà đầu tư có xu hướng chuyển sang các hình thức đầu tư khác
như: tích trữ các loại tài sản không bị mất giá (vàng) hoặc chuyển sang gửi tiết kiệm
do lãi suất cũng đã được điều chỉnh – điều này sẽ làm giảm cầu về cổ phiếu hay TTCK
giảm điểm. Đối với các doanh nghiệp, lạm phát cao làm tăng các chi phí đầu vào. Qua
đó, doanh nghiệp muốn cần đảm bảo được kết quả kinh doanh đạt ra thì cần điểu chỉnh
giá bán tăng. Tuy nhiên, việc tăng giá bán lại tiếp tục ảnh hưởng đến doanh số bán
hàng do người tiêu dùng có thể lựa chọn các sản phẩm thay thế khác. Do đó, lạm phát
cao dẫn đến sự biến động kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến tâm
lý của nhà đầu tư đối với việc đầu tư vào cổ phiếu trên TTCK (Bùi Kim Yến và cộng
sự, 2014).
Thâm hụt ngân sách
Thâm hụt ngân sách là tình trạng mất cân bằng trong cán cân thu chi ngân
sách Nhà nước, thu không đủ bù chi. Tình trạng thâm hụt ngân sách diễn ra làm gia
tăng tình trạng nợ công của quốc gia. Nhà nước phải đi vay để tài trợ cho thâm hụt
ngân sách bằng việc phát hành trái phiếu hoặc in tiền. Lúc này, Ngân hàng Nhà nước
sẽ tiến hành những biện pháp hỗ trợ thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ như
tăng cường tính thanh khoản của trái phiếu chính phủ thông qua nghiệp vụ thị trường
mở và các quy định liên quan đến tái chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Bên cạnh đó,
nợ công cũng sẽ tác động đến mặt bằng lãi suất trên thị trường, ảnh hưởng đến sự ổn
định của tỷ giá và tăng nguy cơ lạm phát trong nền kinh tế. Điều này cho thấy, việc
thâm hụt ngân sách nhà nước không chỉ đòi hỏi sự phối hợp của cả hai chính sách để
tham gia giải quyết mà còn ảnh hưởng đến sự điều hành hai chính sách trong tương
lai. Do đó, thâm hụt ngân sách cũng sẽ gây ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán vì
các hệ quả của tình trạng này liên quan đến lãi suất, tỷ giá, lạm phát đều sẽ tác động
đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu tiêu dùng của người
dân. Qua đó, các quyết định của các nhà đầu tư trên TTCK cũng bị ảnh hưởng.
Giả thuyết H4: “Các biến số thể hiện sự phối hợp hai chính sách có tác
động đến chỉ số giá chứng khoán Việt Nam”.
43
Biến phụ thuộc
Biến phụ thuộc trong bài được sử dụng là chỉ số VNIndex để đại diện cho thị
trường chứng khoán Việt Nam.
3.2. Mô hình nghiên cứu
Mô hình kinh tế lượng vecto tự hồi quy (Vector autoregression – VAR) là một
trong những mô hình kinh tế vĩ mô dùng để xem xét sự tác động tuyến tính giữa các
biến chuỗi thời gian. Mô hình VAR được khái quát hóa từ mô hình tự hồi quy đơn
biến, hay có thể nói mô hình VAR là một tập hợp các mô hình tự hồi quy đơn biến
bằng việc cho nhiều hơn một biến phát triển; trong đó mỗi biến sẽ có một phương
trình giải thích sự phát triển dựa trên độ trễ của biến đó và độ trễ của các biến khác
trong cùng mô hình. Mô hình VAR được sử dụng rộng rãi trong việc ước lượng các
mối quan hệ kinh tế khi nó cung cấp một phương pháp lý thuyết tự do; khi chỉ yêu cầu
giả định giả thuyết tác động tạm thời giữa các biến (Sims, 1986). Nhưng mô hình
VAR có hạn chế là chỉ thường phản ánh được mối quan hệ ngắn hạn giữa các biến;
khi đó các biến trong mô hình phải thỏa mãn 2 điều kiện là các biến phải dừng và độc
lập với nhau hay không có quan hệ đồng liên kết giữa các biến. Trong trường hợp các
biến không thỏa mãn các điều kiện trên, việc sử dụng mô hình VAR để ước lượng có
thể dẫn đến hiện tượng hồi quy giả mạo. Granger và Newbold (1973) là những người
đầu tiên đặt nền tảng cho vấn đề này, các tác giả đã chỉ ra rằng: Cho 2 biến chuỗi thời
gian hoàn toàn không liên quan đến nhau và đều không dừng, việc hồi quy biến này
theo biến kia sẽ tạo ra mối quan hệ rõ ràng và có ý nghĩa thống kê, điều này sẽ làm
nhà nghiên cứu tin rằng có mối quan hệ thực sự giữa các biến nhưng thực tế không
phải vậy. Granger và Engle (1987) đã tiếp tục phát triển lý thuyết trên khi đưa ra giả
thuyết rằng 2 hoặc nhiều biến chuỗi thời gian tích hợp và không dừng có thể có mối
quan hệ đồng liên kết, vì vậy ước lượng tuyến tính của chúng có thể là ước lượng
dừng trong khi các chuỗi riêng lẻ không dừng. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng,
khi các chuỗi không dừng, vẫn có thể sử dụng mô hình VAR để ước lượng mối quan
hệ giữa chúng bằng cách lấy sai phân các chuỗi dữ liệu. Tuy nhiên cách tiếp cận này
sẽ chỉ hiệu quả nếu các biến thật sự có mỗi quan hệ đồng liên kết. Trong trường hợp
này, mô hình VAR sẽ chỉ ra được các phản ứng trong ngắn hạn giữa các biến. Nếu các
44
chuỗi có mối quan hệ đồng liên kết, chúng sẽ có xu hướng giống nhau trong dài hạn,
ước lượng VAR với sai phân sẽ không thu được các phản ứng trong dài hạn giữa các
chuỗi (Christopher F Baum, 2013).
Trên thực tế, các biến số trong nền kinh tế chịu ảnh hưởng của lẫn nhau và
đều không có tính dừng trong dài hạn, chính vì vậy việc sự dụng mô hình VAR không
còn đáng tin cậy. Trước vấn đề trên, mô hình vecto hiệu chỉnh sai số (Vector error
correction model – VECM) – một dạng mở rộng của VAR – đã được phát triển để
khắc phục hiện tượng hồi quy giả mạo. Mô hình VECM tương tự mô hình VAR khi
yêu cầu các chuỗi phải phải dừng nhưng bằng việc bổ sung thêm một vecto hiệu chỉnh
sai số và có độ dài bằng số quan hệ đồng liên kết giữa các chuỗi trong mô hình, mô
hình VECM có thể ước lượng được các mối quan hệ trong dài hạn giữa các chuỗi thời
gian.
Chính vì vậy, mô hình VECM được ứng dụng rộng rãi trong việc đánh giá các
tác động giữa các biến kinh tế vĩ mô vốn là các biến chuỗi thời gian và có mối quan hệ
đồng liên kết trong dài hạn, đặc biệt là tác động của các biến chính sách lên nền kinh
tế. Guglielmo Maria Caporal và cộng sự (2010) đã sử dụng mô hình VECM kiểm định
mối quan của chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái trong các cuộc khủng hoảng kinh tế
Châu Á. Muhamad Abduh (2009) đã chỉ ra mối liên hệ ngắn hạn và dài hạn giữa
CSTT Mỹ tới TTCK Indonesia thông qua mô hình VECM từ đó đưa ra khuyến nghị
tăng cường sự hiệu quả của TTCK nhằm tránh tác động từ các yếu tố bên ngoài.
Trong khi đó, Fahad Alturki và Svetlana Vtyurina (2010) lại sử dụng mô hình
VECM để phân tích dự báo các thách thức của CSTT tại Tajikistan trước vấn đề lạm
phát. Nghiên cứu trên nhiều quốc gia khác nhau bằng mô hình VECM chỉ ra rằng việc
CSTT tác động lên TTCK qua từng giai đoạn, ở quốc gia phát triển và đang phát triển
là khác nhau (Francis O.F. Aziza, 2010).
Dựa trên cơ sở lý thuyết và các kết quả thực nghiệm từ các bài nghiên cứu
trước, nhóm nghiên cứu quyết định chọn mô hình VECM để “Đo lường phản ứng của
TTCK trước những thay đổi trong CSTT và CSTK”.
Để thuận tiện cho việc xây dựng phương trình và biểu diễn mối quan hệ giữa
các biến, các biến sẽ được ký hiệu bằng một chữ cái. VNIndex, Giá dầu, S&P500,
45
Cung tiền, Lãi suất, Thu ngân sách, Chi tiêu công, CPI và Thâm hụt ngân sách lần lượt
được ký hiệu trong phương trình là V, O, S, M, I, R, E, C, D.
Trong mô hình này, chỉ số giá chứng khoán VNIndex sẽ được coi là biến phụ
thuộc trong khi các biến còn lại là biến độc lập. Mối quan hệ này có thể được biểu
diễn qua mô hình tổng quát:
Vt = f(Ot, St, Mt, It, Rt, Et, Ct, Dt)
Mô hình VECM được ước lượng qua 3 bước cơ bản với giả định các chuỗi số
liệu thời gian là chuỗi dừng, như sau:
Bước 1: Ước lượng mô hình VAR bằng việc xây dựng các phương trình vecto
hồi quy cho từng biến.
Bước 2: Kiểm định tính đồng liên kết giữa các chuỗi số liệu trong mô hình
bằng phương pháp Jonhansen.
Bước 3: Nếu có ít nhất một mối quan hệ đồng liên kết. Ước lượng mô hình
VECM bằng việc xây dựng vecto hiệu chỉnh sai số trên cơ sở mô hình VAR đã ước
lượng trước đó.
Phương trình của các biến:
VNIndex:
Vt = b0i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 1iSt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 2iCt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 3iRt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 4iEt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 5iDt-i +
∑ 𝑏𝑛𝑖=1 6iOt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 7iMt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 8iIt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 9iVt-i + u1t
Giá dầu:
Ot = b0i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 1iSt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 2iCt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 3iRt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 4iEt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 5iDt-i +
∑ 𝑏𝑛𝑖=1 6iOt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 7iMt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 8iIt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 9iVt-i + u9t
S&P500:
St = b0i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 1iSt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 2iCt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 3iRt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 4iEt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 5iDt-i +
∑ 𝑏𝑛𝑖=1 6iOt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 7iMt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 8iIt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 9iVt-i + u8t
Cung tiền tệ:
Mt = b0i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 1iSt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 2iCt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 3iRt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 4iEt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 5iDt-i +
∑ 𝑏𝑛𝑖=1 6iOt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 7iMt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 8iIt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 9iVt-i + u2t
46
Lãi suất cơ bản:
It = b0i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 1iSt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 2iCt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 3iRt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 4iEt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 5iDt-i +
∑ 𝑏𝑛𝑖=1 6iOt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 7iMt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 8iIt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 9iVt-i + u4t
Chi tiêu công:
Et = b0i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 1iSt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 2iCt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 3iRt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 4iEt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 5iDt-i +
∑ 𝑏𝑛𝑖=1 6iOt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 7iMt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 8iIt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 9iVt-i + u5t
Thu ngân sách:
Rt = b0i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 1iSt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 2iCt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 3iRt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 4iEt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 5iDt-i +
∑ 𝑏𝑛𝑖=1 6iOt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 7iMt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 8iIt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 9iVt-i + u6t
CPI:
Ct = b0i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 1iSt-I + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 2iCt-I + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 3iRt-I + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 4iEt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 5iDt-i +
∑ 𝑏𝑛𝑖=1 6iOt-I + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 7iMt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 8iIt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 9iVt-i + u3t
Thâm hụt ngân sách:
Dt = b0i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 1iSt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 2iCt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 3iRt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 4iEt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 5iDt-i +
∑ 𝑏𝑛𝑖=1 6iOt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 7iMt-i + ∑ 𝑏𝑛𝑖=1 8iIt-i + ∑ 𝑏𝑛
𝑖=1 9iVt-i + u7t
Trong đó:
Vt, Ot, St, Mt, It, Rt, Et, Ct, Dt lần lượt là giá trị của các biến trong ma trận
(Nx1).
b0i, b1i, b2i, b3i, b4i, b5i, b6i, b7i, b8i, b9i là giá trị ma trận (NxN) của hệ số ước
lượng.
Vt-i, Ot-i, St-i, Mt-i, It-i, Rt-i, Et-i, Ct-i, Dt-i là giá trị tại độ trễ dưới dạng ma trận
(Nx1).
u1t, u2t, u3t, u4t, u5t, u6t, u7t, u8t, u9t là các giá trị nhiễu trắng không tương quan ở
dạng ma trận (Nx1).
Phương trình VECM xây dựng trên cơ sở có ít nhất một quan hệ đồng liên kết
giữa các chuỗi số liệu:
47
∆𝑉t = α + 𝛾𝑒t-i + ∑ 𝑏𝑖𝑛𝑖=1 ∆𝑉t-i + ∑ 𝑐𝑖𝑚
𝑖=0 ∆𝑀t-i + ∑ 𝑑𝑖𝑜𝑖=0 ∆𝐶t-i + ∑ 𝑓𝑖
𝑝𝑖=0 ∆𝐼t-i +
∑ 𝑔𝑖𝑘𝑖=0 ∆𝐸t-i + ∑ ℎ𝑖𝑙
𝑖=0 ∆𝑅t-i + ∑ 𝑘𝑖𝑟𝑖=0 ∆𝐷t-i + ∑ 𝑙𝑖
𝑝𝑖=0 ∆𝑆t-i + ∑ 𝑧𝑖𝑧
𝑖=0 ∆𝑂t-i + Ut
Trong đó:
∆𝑉t là vecto của biến phụ thuộc đã dừng ∆𝑂t, ∆𝑆t, ∆𝑀t, ∆𝐼t, ∆𝑅t, ∆𝐸t, ∆𝐶t, ∆𝐷t
lần lượt là vecto của các biến độc lập đã dừng.
α, 𝛾, bi, ci, di, fi, gi, hi, ki, li, zi lần lượt là các ma trận hệ số gắn với các biến
độc lập.
𝑒t-i là hệ số hiệu chỉnh sai số và Ut là sai số ngẫu nhiên.
3.3. Số liệu
Số liệu nghiên cứu trong bài nghiên cứu là các chuỗi số liệu thời gian theo
tháng, từ tháng 1 năm 2002 đến tháng 12 năm 2015.
Biến ngoại sinh
Biến “Giá dầu thế giới” có nguồn từ Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng
(EIA – Energy Information Administration) thuộc Bộ Năng lượng Hoa Kỳ.
Biến “Chỉ số chứng chứng khoán Mỹ” được lấy là S&P 500 có nguồn từ Sàn
giao dịch quyền chọn Chicago (CBOE – Chicago Board Options Exchange).
Biến đại diện cho chính sách tiền tệ
Các biến đại diện cho chính sách tiền tệ gồm: Lãi suất có nguồn từ Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF – International Monetary Fund). Trong đó, lãi suất được lựa
chọn là lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm
cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản
được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp
vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ
chức tín dụng và xu hướng biến động cung – cầu vốn. Biến cung tiền M2 có
nguồn từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF. Tuy
nhiên, do hạn chế về nguồn số liệu nên chuỗi dữ liệu M2 bị thiếu một tháng
cuối năm 2015.
48
Biến đại diện cho chính sách tài khóa
Số liệu dùng để tính toán các biến đại diện cho chính sách tài khóa gồm: Thu
ngân sách Nhà nước, Chi ngân sách Nhà nước và GDP – được lấy từ Báo cáo
tình hình kinh tế xã hội của Tổng cục thống kê Việt Nam.
Biến phản ánh sự phối hợp của CSTT và CSTK
Biến “Chỉ số giá tiêu dùng” (CPI) có nguồn từ từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Biến
“Thâm hụt ngân sách” được tính toán từ thu – chi ngân sách Nhà nước và có
nguồn từ Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của Tổng cục thống kê Việt Nam.
Biến phụ thuộc
Chỉ số VNIndex được lấy từ website của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và
Công ty cổ phần (CTCP) chứng khoán VNDIRECT.
Bảng 3.1: Danh sách số liệu trong bài nghiên cứu
Biến Ký hiệu Nguồn
Biến ngoại sinh Giá dầu thế giới Oil EIA
Chỉ số CK Mỹ SP500 CBOE
Biến đại diện
cho CSTT
Cung tiền M2 M2 IMF, NHNN Việt Nam
Lãi suất cơ bản của VN IR IMF
Biến đại diện
cho CSTK
Chi ngân sách/GDP Expense Tổng cục Thống kê VN
Thu ngân sách/GDP Revenue Tổng cục Thống kê VN
Biến đại diện
cho sự phối hợp
2 chính sách
Chỉ số giá tiêu dùng CPI IMF
Thâm hụt ngân sách Deficit Tổng cục Thống kê VN
Biến phụ thuộc Chỉ số CK Việt Nam VNIndex
UBCKNN
CTCP chứng khoán
VNDIRECT
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
49
Bảng 3.2: Thống kê các nghiên cứu trước ở trong nước
Biến Các nghiên cứu trong nước
Biến ngoại
sinh
Giá dầu thế giới Phan Thị Bích Nguyệt và cộng
sự (2012).
Chỉ số CK Mỹ
Biến đại diện
cho CSTT
Cung tiền M2
Phan Thị Bích Nguyệt và cộng
sự (2012), Nguyễn Minh Kiều
và cộng sự (2012), Thân Thị
Thu Thủy và cộng sự (2015),
Dương Ngọc Mai Phương và
cộng sự (2015).
Lãi suất cơ bản của VN
Biến đại diện
cho CSTK
Chi ngân sách/GDP
Thu ngân sách/GDP
Biến đại diện
cho sự phối
hợp 2 chính
sách
Chỉ số giá tiêu dùng
Phan Thị Bích Nguyệt và cộng
sự (2012), Nguyễn Minh Kiều
và cộng sự (2012), Thân Thị
Thu Thủy và cộng sự (2015),
Dương Ngọc Mai Phương và
cộng sự (2015).
Thâm hụt ngân sách
Biến phụ
thuộc Chỉ số CK Việt Nam
Phan Thị Bích Nguyệt và cộng
sự (2012), Nguyễn Minh Kiều
và cộng sự (2012), Huỳnh Thế
Nguyễn và cộng sự (2013),
Thân Thị Thu Thủy và cộng sự
(2015), Dương Ngọc Mai
Phương và cộng sự (2015).
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
50
Những nghiên cứu trước cũng đã sử dụng biến “Lãi suất” tuy nhiên không phải
là biến “Lãi suất cơ bản”. Cụ thể như nghiên cứu của Dương Ngọc Mai Phương và
cộng sự (2015), các tác giả sử lãi suất tái chiết khấu hay nghiên cứu của Thân Thị Thu
Thủy (2015) là bình quân lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 1 tháng của các ngày trong
tháng. Phan Thị Bích Nguyệt và cộng sự (2012) lại sử dụng lãi suất cho vay ngắn hạn.
Nhìn chung, các tác giả đều thể hiện sự linh hoạt trong việc sử dụng biến để phù hợp
với mục đích nghiên cứu và đưa ra được các đánh giá đa chiều hơn. Còn với biến CPI,
đa số các nghiên cứu trước đều có sử dụng nhưng không mang hàm ý để đại diện cho
sự tương tác giữa hai chính sách vĩ mô tiền tệ và tài khóa với nhau.
Vì các biến được dùng được sử dụng ở dạng chuỗi dữ liệu thời gian theo tháng
nên các biến được đo lường bằng tiền cần quy đổi về gốc trước khi tiến hành các phân
tích để tránh những sai lệch do giá trị thời gian của tiền gây ra. Trong bài nghiên cứu
này, gốc thời gian được chọn là năm 2010 – đây cũng là gốc tính mới được Tổng cục
thống kê Việt Nam và Quỹ tiền tệ quốc tế lựa chọn để làm gốc so sánh cho các chuỗi
dữ liệu của mình. Trong đó:
Biến “Oil”: Giá dầu thế giới hàng tháng được quy đổi về VNĐ theo tỷ giá
VND/USD năm 2010.
Biến “SP500”: Chỉ số chứng khoán của Mỹ được lấy theo tháng, là trung bình
của chỉ số S&P500 mỗi cuối ngày giao dịch.
Biến “M2”: Cung tiền M2 được quy về giá năm 2010.
Biến “IR”: Lãi suất cơ bản của VN. Là biến chính sách, công cụ của CSTT.
Biến “Revenue”: Thu ngân sách dưới dạng % của GDP*.
Biến “Expense”: Chi ngân sách được thể hiện qua % của GDP*.
Biến “CPI”: Chỉ số giá tiêu dùng lấy theo từng tháng.
Biến “Deficit”: Thâm hụt ngân sách theo từng tháng quy về giá năm 2010.
Biến “Vnindex”: Chỉ số chứng khoán của VN được lấy theo tháng, là trung
bình của chỉ số VnIndex mỗi cuối ngày giao dịch.
*Các số liệu của “Revenue” và “Expense” được tính trên thu, chi ngân sách
hàng quý chia cho GDP hàng quý. Sau đó sử dụng phương pháp Cubic match last
được cung cấp trong phần mềm Eviews 9.0 để chuyển sang dữ liệu tháng.
51
CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
4.1. Xử lý số liệu và lựa chọn mô hình nghiên cứu
4.1.1. Kiểm định tính dừng
Việc hồi quy các chuỗi dữ liệu không dừng có thể sẽ dẫn tới hồi quy giả mạo
và kết quả hồi quy sẽ không còn ý nghĩa. Do đó, cần kiểm tra tính dừng của chuỗi dự
liệu. Việc kiểm định được tiến hành theo kiểm định Dickey – Fuller. Nếu chuỗi dữ
liệu là chuỗi không dừng thì thực hiện việc lấy sai phân để ra có được chuỗi dữ liệu
dừng. Kết quả kiểm định Dickey – Fuller cho từng biến được trình bày ở Phụ lục 1.
Bảng 4.1: Thống kê kết quả kiểm định tính dừng
Biến
Dạng
biến
Thống kê t khi
biến dừng (mức ý
nghĩa 5%)
Tính dừng (ADF) Chiều dài độ
trễ theo AIC
Đã
dừng
Sai phân
bậc 1 (Lag length)
Oil log –5.711 x 5
S&P500 log –5.625 x 5
M2 log –6.213 x 3
IR % –10.617 x 0
Revenue log –7.091
x 4
Expense log –7.059 x 6
Vnindex log –3.403 x 11
CPI log –3.170 x 13
Deficit Gốc –6.288 x 12
Nguồn: Tính toán của tác giả
4.1.2. Độ trễ tối ưu
Các biến trong mô hình thường không tác động lên nhau sau một độ trễ nhất
định thay vì ngay lập tức. Độ trễ tối ưu cho biết đến độ trễ nào vẫn còn ít nhất một mối
quan hệ giữa các biến. Chính vì vậy, kiểm định độ trễ tối ưu cho mô hình giúp việc
ước lượng mô hình đáng tin cậy. Tiêu chuẩn kiểm định AIC thường được sử dụng và
đáng tin cậy. Vì vậy, mô hình chọn độ trễ tối ưu bằng 7.
52
Bảng 4.2: Độ trễ tối ưu theo mỗi tiêu chuẩn kiểm định
Độ trễ LogL LR FPE AIC SC HQ
1 374.1502 NA 2.66e–12 –3.950958 –2.705100 –3.444971
2 685.9606 560.0670 1.14e–13 –7.107778 –4.616062* –6.095805
3 836.9412 255.8016 3.81e–14 –8.215811 –4.478237 –6.697851
4 994.5298 250.9372 1.19e–14 –9.408023 –4.424590 –7.384076*
5 1068.570 110.3526 1.09e–14 –9.535921 –3.306630 –7.005987
6 1174.779 147.4755 6.85e–15 –10.07362 –2.598472 –7.037701
7 1296.215 156.2419* 3.64e–15* –10.80528* –2.084276 –7.263377
Các tiêu chuẩn kiểm định:
LR: sequential modified LR test statistic (each test at 5% level)
FPE: Final prediction error
AIC: Akaike information criterion
SC: Schwarz information criterion
HQ: Hannan–Quinn information criterion
*: Độ trễ tối ưu được lựa chọn theo từng tiêu chuẩn
Nguồn: Tính toán của tác giả
4.1.3. Kiểm định nhân quả Granger
Kiểm định nhân quả Granger là một kiểm định cho các biến chuỗi thời gian.
Kết quả kiểm định nhân quả sẽ cho biết các trễ của biến này có tác động tới biến kia
hay không, từ đó xác định xem biến đó có thể dùng để dự báo cho biến mà nó tác động
hay không. Kết quả kiểm định có thể cho thấy mối quan hệ nhân quả 1 chiều hoặc 2
chiều giữa các cặp biến. Kiểm định được tiến hành từ độ trễ 1 đến 7 để xác định các
cặp quan hệ nhân giữa các biến, từ đó làm cơ sở để xác định thứ tự các biến trong mô
hình VECM. Thứ tự các biến sẽ được sắp xếp từ biến ít chịu tác động của biến khác
cho đến biến chịu nhiều tác động nhất. Quan hệ nhân quả giữa các biến được kiểm
định khi các biến đã dừng (sau khi lấy sai phân).
53
Bảng 4.3: Kết quả kiểm định nhân quả
Giả thuyết (Ho) Thống kê F
S&P500 không có quan hệ nhân quả với VNIndex 2.69395
S&P500 không có quan hệ nhân quả với CPI 3.96065
S&P500 không có quan hệ nhân quả với Lãi suất 4.83045
S&P500 không có quan hệ nhân quả với Thâm hụt ngân sách 1.99424
VNIndex không có quan hệ nhân quả với Lãi suất 2.92453
VNIndex không có quan hệ nhân quả với M2 4.88216
CPI không có quan hệ nhân quả với VNIndex 2.61285
CPI không có quan hệ nhân quả với M2 2.15054
CPI không có quan hệ nhân quả với Thâm hụt ngân sách 3.88195
Giá dầu không có quan hệ nhân quả với M2 6.88237
Giá dầu không có quan hệ nhân quả với Chi tiêu công 2.01117
Giá dầu không có quan hệ nhân quả với Lãi suất 5.09436
Giá dầu không có quan hệ nhân quả với Thu ngân sách 1.63821
Giá dầu không có quan hệ nhân quả với CPI 4.25211
Cung tiền không có quan hệ nhân quả với Thâm hụt ngân sách 3.38862
Thu ngân sách không có quan hệ nhân quả với VNIndex 1.70768
Thu ngân sách không có quan hệ nhân quả với Lãi suất 5.75732
Thu ngân sách không có quan hệ nhân quả với M2 3.37222
Chi tiêu công không có quan hệ nhân quả với Lãi suất 8.21489
Thâm hụt ngân sách không có quan hệ nhân quả với Chi tiêu công 4.83171
Thâm hụt ngân sách không có quan hệ nhân quả với CPI 2.43073
Thâm hụt ngân sách không có quan hệ nhân quả với Cung tiền 3.09779
Nguồn: Tính toán của tác giả
Thống kê F bác bỏ giả thuyết Ho tại mức ý nghĩa 5%.
54
Mô tả quan hệ nhân quả giữa các biến:
Nguồn: Mô tả bởi tác giả
Từ bảng kết quả kiểm định nhân quả, cho thấy có 22 cặp quan hệ nhân quả.
Trên cơ sở đó, lập mô hình quan hệ nhân quả một chiều và hai chiều giữa các biến từ
đó quyết định thứ tự các biến sử dụng trong mô hình theo trình tự các biến ít bị tác
động nhất đến biến bị tác động nhiều nhất.
4.1.4. Kiểm định tính đồng liên kết theo phương pháp Johansen
Xác định mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến theo phương pháp Johansen
với độ trễ tối ưu bằng 7, sử dụng 2 tiêu chuẩn kiểm định AIC và SC. Cả 2 tiêu chuẩn
kiểm định đều cho kết quả có quan hệ đồng liên kết giữa các biến, đây là cơ sở để sử
dụng mô hình VECM.
Hình 4.1: Mô tả quan hệ nhân quả giữa các biến
IR
SP500
VnIndex
M2
Revenue CPI
Expense
Deficit
Oil
55
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định đồng liên kết
Số đồng
liên kết Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3 Mô Hình 4 Mô hình 5
Tiêu chuẩn kiểm định AIC
0 –17.43197 –17.43197 –17.56297 –17.56297 –17.58034
1 –17.85790 –17.88048 –18.01979 –18.06421 –18.06796
2 –18.13790 –18.18539 –18.25740 –18.34380 –18.36038
3 –18.25204 –18.31381 –18.38655 –18.50944 –18.52867
4 –18.26165 –18.40981 –18.49427 –18.62049 –18.65139
5 –18.25910 –18.39951 –18.45348 –18.63676 –18.66245*
6 –18.19347 –18.34199 –18.35394 –18.56571 –18.60269
7 –18.07069 –18.22909 –18.23662 –18.45211 –18.49543
8 –17.87737 –18.08068 –18.06972 –18.31760 –18.33266
9 –17.64881 –17.87306 –17.87306 –18.10906 –18.10906
Tiêu chuẩn kiểm định SC
0 –6.346917 –6.346917 –6.301964 –6.301964 –6.143384
1 –6.420940 –6.423973 –6.406877 –6.431742* –6.279098
2 –6.349037 –6.357422 –6.292581 –6.339877 –6.219603
3 –6.111269 –6.114388 –6.069826 –6.134067 –6.035993
4 –5.768974 –5.838927 –5.825634 –5.873655 –5.806800
5 –5.414519 –5.457173 –5.432945 –5.518465 –5.465962
6 –4.996979 –5.028200 –4.981498 –5.075961 –5.054295
7 –4.522289 –4.543841 –4.512265 –4.590906 –4.595121
8 –3.977063 –4.023973 –3.993459 –4.084938 –4.080444
9 –3.396595 –3.444894 –3.444894 –3.504940 –3.504940
Nguồn: Tính toán của tác giả
* Số đồng liên kết và loại mô hình được chọn bởi mỗi tiêu chuẩn kiểm định.
56
4.1.5. Chọn lựa mô hình nghiên cứu
Theo kiểm định đồng liên kết nêu trên, 2 tiêu chuẩn kiểm định AIC và SC đưa
ra 2 dạng mô hình khác nhau. Để quyết định sử dụng mô hình theo tiêu chuẩn nào,
nhóm nghiên cứu ước lượng mô hình VECM theo cả 2 tiêu chuẩn rồi lựa chọn ra mô
hình có mức ý nghĩa cao hơn.
Các biến sử dụng trong mô hình lần lượt: loil, lsp500, lrevenue, lcpi, deficit,
lexp, lvninex, ir, lm2**. Thứ tự các biến được sắp xếp theo nguyên tắc biến ít bị tác
động nhất đến biến bị tác động nhiều nhất trên cơ sở kiểm định nhân quả Granger.
**Chữ “l” đứng trước các biến thể hiện hàm log. VD: loil = ln(oil). Việc lấy
logarit tự nhiên các biến không làm thay đổi tính chất của biến mà chỉ có tác dụng
làm mượt số liệu.
Kết quả ước lượng mô hình VECM theo 2 tiêu chuẩn cho thấy mô hình theo
tiêu chuẩn AIC có mức ý nghĩa cao hơn. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng
mô hình VECM theo tiêu chuẩn kiểm định AIC.
Bảng 4.5: Mức ý nghĩa mô hình theo 2 tiêu chuẩn AIC và SC
Tiêu chuẩn AIC SC
R2 0.706185 0.672895
R̅2 0.470449 0.442843
Nguồn: Tính toán của tác giả
4.2. Kiểm định tính dừng của phần dư
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định tính dừng của phần dư
Phương pháp Giá trị thống kê Xác suất Số quan sát
Giả thuyết: Nghiệm đơn vị (Giả thuyết thực hiện nghiệm đơn vị chung)
Levin, Lin & Chu t* –40.5388 0.0000 1393
Giả thuyết: Nghiệm đơn vị (Giả thuyết thực hiện nghiệm đơn vị riêng)
57
Im, Pesaran and Shin W–stat –35.7928 0.0000 1393
ADF – Fisher Chi–square 732.526 0.0000 1393
PP – Fisher Chi–square 781.095 0.0000 1395
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả cho thấy phần dư của mô hình VECM dừng với mức ý nghĩa 5% và
p–value = 0. Mục đích của kiểm định tính dừng của phần dư để kiểm tra sự phù hợp
của mô hình. Vì phần dư của mô hình dừng nên mô hình nhận được phù hợp với chuỗi
dữ liệu thời gian.
4.3. Kiểm định phương sai số thay đổi phần dư
Kiểm định White được sử dụng để xác định xem phần dư của mô hình có hiện
tượng phương sai số thay đổi quan hay không. Để mô hình có độ tin cậy cao, phần dư
của mô hình phải không có hiện tượng phương sai số thay đổi. Kết quả kiểm định
White cho thấy phần dư của mô hình không có hiện tượng phương sai số thay đổi với
mức ý nghĩa 5%.
Bảng 4.7: Kiểm định phương sai số thay đổi phần dư
VEC Residual Heteroskedasticity
Số biến quan sát: 156
Kết quả kiểm định:
Thống kê X df Xác suất
6274.696 6210 0.2794
Nguồn: Tính toán của tác giả
58
4.4. Kiểm định tự tương quan phần dư
Bảng 4.8: Kết quả kiểm định tự tương quan phần dư
VEC Residual Serial Correlation LM Tests
Giả thuyết H0: Không có tự tương quan tại độ trễ h
Độ trễ LM-Stat Xác suất
1 108.4081 0.0227
2 120.4468 0.0294
3 78.15323 0.5690
4 104.9264 0.0382
5 99.23230 0.0825
6 72.36103 0.7427
7 73.51318 0.7104
8 90.12064 0.2287
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kiểm định tự tương quan phần dư của mô hình cho thấy phần dư của mô hình
tại các độ trễ khác nhau không có hiện tượng tự tương quan tại mức ý nghĩa 1%. Như
vậy, mô hình VEC thỏa mãn kiểm định.
4.5. Kiểm định tính ổn định của mô hình
Một mô hình VAR ổn định khi mà các nghiệm đơn vị của nó đều nhỏ hơn 1
và nằm trong vòn tròn đơn vị. Kết quả kiểm định cho thấy các nghiệm đa thức đều nhỏ
hơn 1 và đều nằm trong vòng tròn đơn vị (4 nghiệm bằng 1 là do mô hình VECM áp
59
đặt, bằng số biến trong mô hình trừ đi số đồng liên kết), vậy mô hình VECM là ổn
định và được chấp nhận.
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
-1.5 -1.0 -0.5 0.0 0.5 1.0 1.5
Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial
Hình 4.2: Kết quả kiểm định nghịch đảo nghiệm đơn vị gốc đa thức AR
Nguồn: Tính toán của tác giả
4.6. Các kết quả phản ứng đẩy
4.6.1. Phản ứng của chỉ số giá chứng khoán VNIndex với các biến ngoại sinh
Phản ứng của VNIndex với giá dầu thô
-0.5
0.0
0.5
1.0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Hình 4.3: Phản ứng của CSGCKVN với giá dầu thô
Nguồn: Tính toán của tác giả
60
Vì Việt Nam vừa xuất khẩu dầu thô vừa nhập khẩu xăng dầu thành phẩm nên
Việt Nam chịu tác động đa chiều của việc biến động giá dầu trên thị trường quốc tế.
Theo kết quả phản ứng đẩy cho thấy khi giá dầu thô tăng sẽ có tác động ngược chiều
đến TTCK trong nước hay các tác động tiêu cực lên nền kinh tế lớn hơn. Khi giá dầu
thô tăng sẽ có gây ra tác động tiêu cực nhiều hơn. Bên cạnh việc làm tăng nguồn thu
ngân sách từ dầu thô thì lúc này, giá xăng dầu trên thị trường tăng sẽ kéo theo việc gia
tăng chi phí sản xuất cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong các lĩnh
vực: vận tải, sản xuất phân bón, nhựa, khai thác tài nguyên, đánh bắt thủy sản, luyện
kim,... Bên cạnh đó, tiêu dùng của các hộ gia đình cũng sẽ bị ảnh hưởng do khoản tiết
kiệm được từ chi phí đi lại bị giảm xuống.
Phản ứng của VNIndex với S&P500
-0.5
0.0
0.5
1.0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Hình 4.4: Phản ứng của CSGCK VN với CSGCK Mỹ S&P500
Nguồn: Tính toán của tác giả
Chỉ số giá chứng khoán của Việt Nam có xu hướng tăng khi có sự tăng lên
trong chỉ số giá chứng khoán của Mỹ (S&P500). Điều này thể hiện chỉ số VNIndex
ngày càng có mối tương quan thuận chiều với chỉ số S&P500 của thị trường chứng
khoán Mỹ. Khi có một sự tăng lên trong chỉ số S&P500 ở thị trường chứng khoán Mỹ
thì thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có phản ứng cùng chiều trước thay đổi này.
Bản thân chỉ số S&P500 cũng chứa đựng những thông tin về nền kinh tế Mỹ, tình hình
hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia hay những thay đổi trong quyết sách của Cục
Dữ trữ Liên bang Mỹ FED. Do đó, kết quả này phù hợp với một nền kinh tế mở như
61
Việt Nam và phản ánh sự quan tâm của các nhà đầu tư trong nước trước những thông
tin tài chính thế giới.
Vậy giả thuyết H1 đưa ra là đúng khi các biến ngoại sinh có tác động đến chỉ
số giá chứng khoán Việt Nam.
4.6.2. Phản ứng của chỉ số chứng khoán VNIndex với chính sách tiền tệ
Phản ứng của VNIndex với cung tiền M2
-.050
-.025
.000
.025
.050
.075
.100
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Hình 4.5: Phản ứng của CSGCK VN trước sự tăng cung tiền M2
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả phản ứng cho thấy sự tăng lên của cung tiền M2 sẽ làm CSGCK tăng
nhẹ trong tháng đầu tiên rồi tăng liên tục 4 tháng sau đó. Cung tiền M2 có tác động
thuận chiều với chỉ số giá chứng khoán Việt Nam trong ngắn hạn, tuy nhiên việc tăng
cung tiền trong dài hạn lại làm cho CSGCK giảm đi. Kết quả này cũng phù hợp với lý
thuyết kinh tế khi Chính phủ nới lỏng cung tiền để kích thích tăng trưởng kinh tế thì
thị trường chứng khoán cũng tăng trưởng. Trong dài hạn, việc tăng cung tiền sẽ không
còn có tác động tăng sản lượng, nhưng lại làm tăng giá cả, tác động tiêu cực đến nền
kinh tế khiến cho CSGCK giảm. Năm 2016, định hướng tổng phương tiện thanh toán
sẽ tăng 16% – 18% cùng với dư nợ tín dụng 18% – 20% tức sẽ tăng cao hơn năm
2015, vì vậy với việccung tiền tăng trong năm 2016thì TTCK có thể sẽ có chuyển biến
tích cực cùng với sự tăng của chỉ số VNIndexvào nửa đầu năm 2016.
62
Phản ứng của VNIndex với lãi suất
-.2
-.1
.0
.1
.2
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Hình 4.6: Phản ứng của CSGCK VN trước thay đổi lãi suất
Nguồn: Tính toán của tác giả
Phản ứng cho thấy việc tăng lãi suất thể hiện việc thắt chặt CSTT, làm
CSGCK VN tăng trong ngắn hạn sau đó bắt đầu có dấu hiệu giảm từ tháng thứ 5 đến
các tháng tiếp theo. Lãi suất có tác động đến chỉ số giá chỉ số giá chứng khoán Việt
Nam là cùng chiều trong ngắn hạn và ngược chiều trong dài hạn. Trong ngắn hạn, lãi
suất tăng sẽ không làm tăng CSGCK ngay lập tức mà phải sang tháng thứ 3 CSGCK
mới tăng lên, nhưng trong dài hạn, việc tăng lãi suất sẽ khiến các khoản vay trở nên
đắt hơn, tạo áp lực cho nền kinh tế, từ đó bắt đầu từ tháng thứ 6 thì CSGCK giảm đi.
Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều tiết mặt bằng lãi suất, phấn đấu giảm nhẹ mặt
bằng lãi suất trung và dài hạn trong năm 2016 với mục tiêu này sẽ có tác động tích cực
tới TTCK qua việc sẽ làm CSGCK tăng vào nửa đầu năm.
Vậy giả thuyết H2 đúng khi kết quả cho thấy chính sách tiền tệ có tác động
đến chỉ số giá chứng khoán Việt Nam.
63
4.6.3. Phản ứng của chỉ số chứng khoán VNIndex với chính sách tài khóa
Phản ứng của VNIndex với thu ngân sách
-0.5
0.0
0.5
1.0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Hình 4.7: Phản ứng của CSGCK VN với thu ngân sách trong CSTK
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả phản ứng đẩy cho thấy thu ngân sách không có tác động ngay đến thị
trường chứng khoán mà sau đó 7 tháng mới bắt đầu có tác động. Sau đó, việc tăng thu
ngân sách gây ra các dấu hiệu tiêu cực cho TTCK. Khi thu ngân sách tăng sẽ dẫn tới
thị trường chứng khoán giảm điểm. Do phần lớn thu ngân sách đến từ thu thuế nên nếu
thuế suất tăng sẽ tác động đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp vì lúc này gánh
nặng về chi phí phải nộp tăng thêm ảnh hưởng đến hoạt động tái đầu tư và mở rộng
sản xuất của doanh nghiệp, qua đó tâm lý của các nhà đầu tư vào chứng khoán cũng sẽ
bị ảnh hưởng theo.
Tuy nhiên, điều hành thu ngân sách ở Việt Nam hiện nay là Chính phủ điều
hành theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp bằng việc giảm thuế suất để doanh nghiệp giảm
bớt gánh nặng về chi phí tăng cơ hội tái đầu tư và mở rộng hoạt động kinh doanh. Bên
cạnh đó, Chính phủ cũng kiểm soát việc thu thuế chặt chẽ hơn.
Qua đó, việc hỗ trợ chính sách đến doanh nghiệp kết hợp với sự quản lý chặt
chẽ của Chính phủ một cách hiệu quả thì sẽ mang lại tác động tốt cho cả Chính phủ và
khối doanh nghiệp. Chính phủ vẫn đảm bảo được nguồn thu mà doanh nghiệp sẽ có
thêm nhiều cơ hội đầu tư hơn.
64
Phản ứng của VNIndex với chi ngân sách
-0.5
0.0
0.5
1.0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Hình 4.8: Phản ứng của CSGCK VN với chi tiêu trong CSTK
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả phản ứng đẩy cho thấy sự tăng lên trong chi tiêu Chính phủ sẽ làm
giảm chỉ số giá chứng khoán trong ngắn hạn và cả dài hạn. Điều này cho thấy công cụ
chi tiêu trong CSTK có tác động đến hoạt động của TTCK và trong dài hạn tác động
của chi ngân sách càng lớn.
Khi Chính phủ tăng chi tiêu là một trong các cách áp dụng CSTK mở rộng.
Việc thực thi CSTK mở rộng giúp phát ra tín hiệu tích cực cho thị trường như tăng
tổng cầu, tăng sản lượng, tạo thêm nhiều việc làm và giảm thất nghiệp, tạo niềm tin
cho các doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, việc tăng chi tiêu sẽ tạo ra nguy cơ
thâm hụt ngân sách. Tình trạng thâm hụt lại phát ra các tín hiệu tiêu cực cho thị trường
như gia tăng nợ công, lạm phát tăng cùng với đó là hiệu ứng chèn lấn.
Thực trạng phân tích trong giai đoạn hiện nay cho thấy chi ngân sách của Việt
Nam tăng liên tục qua các năm và tình trạng thâm hụt ngân sách cũng xảy ra đồng thời
trong giai đoạn này. Do đó, nếu tình trạng diễn ra trong một thời gian dài sẽ gây ra sự
giảm sút sâu trên TTCK. Theo Nghị quyết 01/NQ–CP ngày 07/01/2016, trong giai
đoạn 2016–2020, Chính phủ sẽ áp dụng chính sách chi ngân sách chặt chẽ, thực hiện
phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước. Cùng với đó là
kiểm soát và giảm bội chi ngân sách Nhà nước và đảm bảo kỷ cương, kỷ luật tài chính,
65
ngân sách tài khóa. Do đó, nếu định hướng chính sách này được thực hiện tốt thì sẽ
góp phần vào việc ổn định và thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển.
Vậy giả thuyết H3 đưa ra đúng với kết quả phân tích cho thấy chính sách tài
khóa có tác động đến chỉ số giá chứng khoán Việt Nam.
4.6.4. Phản ứng của chỉ số chứng khoán VNIndex với biến phản ánh sự phối hợp
hai chính sách
Phản ứng của VNIndex với CPI
-0.5
0.0
0.5
1.0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Hình 4.9: Phản ứng của CSGCK VN với thay đổi về giá cả
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả phản ứng cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa chỉ số giá chứng
khoán và lạm phát – được tính thông qua CPI. Trong đó, việc CPI tăng lên, chứng tỏ
giá cả tăng lên, nhà đầu tư sẽ chuyển sang tích trữ các tài sản không bị mất giá như
vàng hoặc chọn các hình thức đầu tư khác như tiền gửi tiết kiệm do lãi suất cũng đã
được điều chỉnh. Điều này làm cho chứng khoán trở nên kém hấp dẫn hơn và giá
chứng khoán giảm xuống. Trong giai đoạn tới, mục tiêu chính của chính sách tiền tệ
vẫn là kiềm chế lạm phát, nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam. Tuy nhiên, lạm phát
năm 2016 với dự báo sẽ tăng quanh 4% – 5% trong khi lạm phát 2015 ở dưới 1%.
Việc này sẽ tạo ra tâm lý cân nhắc đối với các nhà đầu tư chứng khoán, về ngắn hạn,
dự báo này sẽ có tác động làm CSGCK giảm trong thời gian tới do có thể việc lạm
phát tăng sẽ tạo áp lực tăng lãi suất.
66
Phản ứng của VNIndex với thâm hụt ngân sách
-0.5
0.0
0.5
1.0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Hình 4.10: Phản ứng của CSGCK VN trước thâm hụt ngân sách
Nguồn: Tính toán của tác giả
Thậm hụt ngân sách có tác động ngược chiều đến chỉ số giá chứng khoán ở
Việt Nam cả trong ngắn hạn và dài hạn. Nếu tình trạng thâm hụt ngân sách mà gia
tăng sẽ làm cho thị trường chứng khoán suy giảm sâu. Kết quả phù hợp với những
phân tích về tác động tiêu cực mà thâm hụt ngân sách gây ra. Thâm hụt ngân sách sẽ
tạo ra các hiệu ứng tiêu cực cho thị trường. Thứ nhất, thâm hụt ngân sách gây ra sự lo
ngại về lạm phát tăng cao trong tương lai. Bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách cũng gây
ra hiệu ứng chèn lấn (crowding out) khi làm giảm đầu tư khu vực tư nhân do lãi suất
thực tăng. Đặc biệt, điều kiện sản xuất trong nước chưa cao như Việt Nam, việc gia
tăng chi tiêu Chính phủ sẽ làm cho tình trạng nhập siêu thêm nặng nề. Hệ quả lớn nhất
của tình trạng nhập siêu là gia tăng nợ công và làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa
trong nước trước các mặt hàng ngoại nhập. Trong dài hạn, các nhà đầu tư nhận thấy sự
đi xuống của sức tiêu thụ nội địa. Điều này làm tổn hại đến các doanh nghiệp sản xuất
trong nước và dẫn đến suy giảm giá trị cổ phiếu. Các nhà đầu tư sẽ chuyển hướng sang
các thị trường chứng khoán nước ngoài. Hậu quả là cầu về cổ phiếu trong nước giảm
và thị trường sẽ bị đi xuống.
Vậy giả thuyết H4 đưa ra đúng với kết quả phân tích cho thấy chỉ số giá tiêu
dùng và thâm hụt ngân sách có tác động đến chỉ số giá chứng khoán Việt Nam.
67
4.7. Dự báo
Nhóm nghiên cứu lựa chọn thời gian dự báo chỉ số VNIndex là 1 năm. Tuy
nhiên, dữ liệu của cung tiền M2 bị thiếu 1 tháng cuối năm 2015 nên khi tiến hành dự
báo chỉ số VNIndex sẽ có kết quả từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2016.
5.6
5.8
6.0
6.2
6.4
6.6
6.8
7.0
7.2
M10 M11 M12 M1 M2 M3 M4 M5 M6 M7 M8 M9 M10 M11 M12
2015 2016
LVNINDEX_F ± 2 S.E.
Hình 4.11: Kết quả dự báo chỉ số VNIndex từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2016
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 4.9: Kết quả dự báo chỉ số VNIndex từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2016
Thời gian VNIndex dự báo
Khoảng tin cậy 95%
Cận dưới Cận dưới
Tháng 12/2015 566.69 547.33 586.05
Tháng 1/2016 567.02 540.81 593.23
Tháng 2/2016 577.53 545.67 609.38
Tháng 3/2016 586.26 549.67 622.85
68
Tháng 4/2016 588.99 547.96 630.02
Tháng 5/2016 585.33 540.63 630.02
Tháng 6/2016 579.26 531.19 627.33
Tháng 7/2016 578.82 527.61 630.02
Tháng 8/2016 577.83 528.32 632.72
Tháng 9/2016 575.54 519.26 631.82
Tháng 10/2016 574.86 516.99 632.72
Tháng 11/2016 576.42 517.43 635.41
Tháng 12/2016 577.96 524.11 631.82
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả dự báo chỉ số VNIndex trong năm 2016 cho thấy 4 tháng đầu năm
2016, thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động tích cực và có sự tăng điểm liên
tục. Tuy nhiên, thị trường lại có sự giảm điểm liên tục từ tháng 5 đến tháng 10 và bắt
đầu có dấu hiệu tăng điểm trở lại vào 2 tháng cuối năm 2016.
Thực tế tại thời điểm nghiên cứu thì đã có kết quả giao dịch của VNIndex đến
tháng 4/2016. Do đó, nhóm nghiên cứu có tiến hành so sánh kết quả dự báo được từ
mô hình với số liệu thực tế để kiểm tra sự phù hợp của kết quả dự báo.
Hình 4.12: Biến động chỉ số giá VNIndex theo ngày từ tháng 12/2015 đến 04/2016
Nguồn: Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
480
500
520
540
560
580
600
620
01/12/2015 01/01/2016 01/02/2016 01/03/2016 01/04/2016
69
Hình 4.13: So sánh chỉ số VNIndex dự báo với VNIndex thực tế
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 4.10: So sánh chỉ số VNIndex dự báo với chỉ số VNIndex thực tế
Thời gian VNIndex dự báo VNIndex thực tế
Tháng 12/2015 566.68 569.69
Tháng 1/2016 567.02 548.30
Tháng 2/2016 577.53 551.67
Tháng 3/2016 586.26 572.67
Tháng 4/2016 588.99 578.07
Nguồn: Tính toán của tác giả
Khi so sánh kết quả dự báo được với thực tế xảy ra thì chỉ số VNIndex dự báo
cho ra xu hướng giống với thực tế, cụ thể chỉ số VNIndex tăng điểm trong các tháng
đầu năm 2016.
520
540
560
580
600
T12/2015 T01/2016 T02/2016 T03/2016 T04/2016
Thực tế Dự báo
70
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN
5.1. Kết luận và khuyến nghị
Sau khi tiến hành phân tích các biến số kinh tế vĩ mô, bao gồm cả biến ngoại
sinh và biến nội sinh bằng mô hình VECM. Nhóm nghiên cứu đưa ra một số kết luận
và khuyến nghị như sau:
Thứ nhất, CSTT và TTCK có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong ngắn hạn,
việc thi hành CSTT mở rộng bằng việc tăng lượng cung tiền M2 có tác động tích cực
lên TTCK trong khi đó CSTT thắt chặt có tác động ngược lại. Việc tăng 1 đơn vị độ
lệch chuẩn của cung tiền M2 trong ngắn hạn sẽ tăng CSGCK với mức tích lũy1% vào
tháng thứ 2 và đạt cực đại 5% vào tháng thứ 6, sau đó giảm dần về mức tăng 3% vào
tháng thứ 12. Điều này thể hiện việc tăng cung tiền M2 trong lâu dài sẽ dẫn tới tăng
lạm phát, thể hiện qua CPI. Điều này tác động tiêu cực đến nền kinh tế và TTCK,
chính vì vậy, CSTT mở rộng và thắt chặt cần phải được sử dụng linh hoạt và hiệu quả.
Lãi suất có tác động cùng chiều đến CSGCK trong ngắn hạn và tác động ngược chiều
trong dài hạn. Khi lãi suất tăng lên 1 đơn vị độ lệch chuẩn, CSGCK tăng với mức tích
lũy 0.9% vào tháng thứ 3 lên đến mức tăng 3.2% vào tháng thứ 5 và bắt đầu giảm liên
tục đến tháng thứ 12 với mức tích lũy 2.2%. Từ kết quả nghiên cứu,cho thấy cung tiền
M2 và lãi suất có mối quan hệ cùng chiều với CSGCK trong ngắn hạn và ngược chiều
trong dài hạn. Phản ứng của CSGCK với cú sốc về cung tiền sớm hơn phản ứng của
cú sốc lãi suất là 1 tháng. Trong tình hình hiện nay, khi lạm phát đang ở mức thấp
dưới 1%, NHNN nên tăng mức cung tiền M2 và giảm nhẹ mặt bằng lãi suất giúp kiềm
chế lạm phát sẽ giúp tình hình vĩ mô ổn định từ đó tạo chuyển biến tích cực cho TTCK
và sẽ có tác động làm tăng CSGCK. Tuy nhiên đặt ra yêu cầu NHNN phải sử dụng các
công cụ chính sách linh hoạt dựa trên các phản ứng của CSGCK có độ trễ giữa các
thay đổi của các yếu tố là khác nhau, trong đó có công cụ thị trường mở và công cụ lãi
suất một cách thận trọng, dựa vào kiểm định Granger, đã tìm thấy mối quan hệ nhân
quả 2 chiều giữa cung tiền và CSGCK, lãi suất và CSGCK. Năm 2016,trong bối cảnh
nền kinh tế được dự báo tiếp tục tăng trưởngnhưng tình hình vĩ mô trong nước và thế
giới có nhiều biến động, các nhà đầu tư nên tập trung theo dõi các yếu tố vĩ mô trước
tác động của thay đổi CSTT, đặc biệt là diễn biến của lãi suất.
71
Thứ hai, nhóm nghiên cứu cũng thấy được mối liên hệ giữa CSTK và TTCK.
Một sự tăng lên trong chi tiêu ngân sách, thể hiện CSTK mở rộng, có tác động tiêu cực
đến TTCK trong cả ngắn hạn và dài hạn. Sự tăng lên 1 đơn vị độ lệch chuẩn của chi
ngân sách sẽ ngay lập tức sẽlàm CSGCK giảm với mức tích lũy 2% vào tháng đầu tiên
và giảm liên tục đến mức giảm 34% vào tháng 12. Điều này được giải thích qua việc
Chính phủ đi vay tiền để bù thâm hụt ngân sách sẽ gây nên lo ngại về tăng lạm phát,
đồng thời việc tăng cường chi ngân sách ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở chi thường
xuyên cũng có tác động tiêu cực lên nền kinh tế. Cùng với đó, việc tăng thu ngân sách
cũng tác động ngược chiều lên TTCK, thu ngân sách tăng lên thể hiện cho chính sách
tài khóa thắt chặt. Khi có sự tăng lên 1 đơn vị độ lệch chuẩn của thu ngân sách, 6
tháng đầu tiên việc tăng lên của thu ngân sách chưa có tác động đáng kể lên CSGCK
nhưng từ tháng thứ 7, CSGCK bắt đầu giảm với mức tích lũy 3% đến giảm 29% vào
tháng thứ 12. Điều này đồng nghĩa với việc Chính phủ có thể sẽ tăng thuế và điều này
tác động tiêu cực lên nền kinh tế, khi cả người tiêu dùng và doanh nghiệp đều phải mất
thêm chi phí cho tiêu dùng và sản xuất. Những điều trên đặt ra yêu cầu cho Chính phủ
tiết kiệm chi ngân sách, tránh tình trạng thâm hụt ngân sách từ đó dẫn đến tăng thu
ngân sách, kiểm soát chặt chẽ và phân bổ các nguồn vốn vay hợp lý, đặc biệt khi nợ
công của Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng, chiềm gần 61.3% GDP trong năm
2015 theo thống kê từ Bộ tài chính.
Thứ ba, nghiên cứu chỉ ra rằng CSTT và CSTK không chỉ tác động riêng lẻ
lên TTCK mà còn tác động thông qua sự tương tác giữa 2 chính sách này thông qua 2
biến là Chỉ số giá tiêu dùng và Thâm hụt ngân sách. Chỉ số giá tiêu dùng tăng lên thể
hiện mức lạm phát trong nền kinh tế tăng và có tác động tiêu cực tới TTCK. Khi mà
lúc này nhà đầu tư sẽ hạn chế đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu là những tài sản dễ mất
giá, mà ưu tiên những tài sản khác khó mất giá hơn hoặc gửi tiết kiệm. Kết quả mô
hình cho thấy việc chỉ số giá tiêu dùng tăng lên 1 đơn vị độ lệch chuẩn sẽ làm CSGCK
giảm ngay lập tức và tiếp tục giảm trong dài hạn với mức giảm tích lũy từ 1% vào
tháng đầu tiên cho đến giảm 56% vào tháng thứ 12. Cho thấy mức độ ảnh hưởng
nghiêm trọng của lạm phát, được thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng, đến nền kinh tế nói
chung và TTCK nói riêng. Bên cạnh đó, việc thâm hụt ngân sách thể hiện việc thu
không đủ bù chi, Chính phủ sẽ phải đi vay để có tiền chi ngân sách bằng cách phát
72
hành trái phiếu để có tiền trả nợ. Trong dài hạn, việc này sẽ dẫn đến tình trạng lạm
phát cao trong nền kinh tế và tiếp tục tác động tiêu cực tới nền kinh tế cũng như
TTCK. Từ kết quả mô hình đã chỉ ra rằng sự tăng 1 đơn vị độ lệch chuẩn của thâm hụt
ngân sách sẽ ngay lập tức gây ra sự giảm điểm liên tục cho CSGCK với mức tích lũy
từ giảm 1% trong tháng đầu tiên đến giảm 36% vào tháng thứ 12. Việc này cũng thể
hiện sự ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách đến nền kinh tế, cụ thể là TTCK, khi việc
thâm hụt ngân sách tăng mạnh có thể dẫn đến mức giảm đáng kể của CSGCK. Chính
vì vậy, để thực hiện được mục tiêu kiềm chế lạm phát, vốn là mục tiêu chính quan
trọng của cả hai CSTT và CSTK, đòi hỏi việc kết hợp hai chính sách này phải linh
hoạt và hiệu quả. Một mặt, cung tiền và lãi suất phải được điều chỉnh hợp lý. Bên cạnh
đó việc chi tiêu ngân sách phải hiệu quả và tiết kiệm hơn, tránh thâm hụt ngân sách
cao từ đó buộc Chính phủ phải mở rộng cung tiền để trả nợ và chi tiêu. Từ đó, thực
hiện được mục tiêu kiểm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, TTCK không chỉ phản ứng với các biến nội sinh trong nước, mà còn
phản ứng với các biến ngoại sinh, cụ thể là CSGCK Mỹ SP500 và giá dầu thế giới.
Việc CSGCK Mỹ tăng lên thể hiện nền kinh tế thế giới đang phát triển tốt, chính vì thế
có tác động tích cực đến TTCK, tuy nhiên trong dài hạn, lại có tác động tiêu cực
nhưng ở mức nhẹ. Trong khi đó, giá dầu thế giới tác động đến TTCK khác nhau theo
từng giai đoạn, nhưng đa phần là tác động tiêu cực. Chính vì vậy, ngoài phân tích các
chính sách trong nước, nhà đầu tư cũng cần phải quan tâm đến các yếu tố bên ngoài,
vốn có tác động mạnh lên các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Cũng như
phát triển TTCK Việt Nam theo hướng phù hợp với các thông lệ quốc tế, xây dựng,
hoàn thiện hệ thống khung pháp lý cho TTCK nói chung và TTCK phái sinh. Từ đó
giảm các tác động của các yếu tố ngoại sinh đến TTCK, giảm thiểu rủi ro cho các nhà
đầu tư.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng sử dụng mô hình VECM để đưa ra dự
báo cho CSGCK VnIndex từ tháng 12/2015 đến 12/2016. Kết quả dự đoán phù hợp
với xu hướng của thực tế tính đến hết tháng 4/2016. Dựa vào kết quả dự báo, có thể
thấy rằng CSGCK sẽ giảm điểm từ tháng 5 đến tháng 10 và sẽ tăng trở lại vào tháng
11 và 12, với mức tăng tối đa đạt 631.82 điểm. Dự đoán này phù hợp với các dự báo
73
về nền kinh tế Việt Nam trong năm 2016, khi mà kinh tế tiếp tục được kỳ vọng sẽ tiếp
tục tăng trưởng nhanh.
5.2. Đóng góp của đề tài
Thông qua bài nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu có những đóng góp cho
khoa học và thực tiễn là:
Thứ nhất, hệ thống hóa những lý thuyết về chính sách tiền tệ, chính sách tài
khóa và thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng đưa ra thực
trạng thi hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Cùng với đó, nhóm nghiên cứu cũng đã tổng hợp quá trình hình thành – phát
triển và những đóng góp của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế. Qua đó, thấy
được vai trò ngày càng quan trọng của thị trường chứng khoán trong việc phát triển
kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, bằng việc tổng quan các nghiên cứu ở nhiều quốc gia trên thế giới
nhóm nghiên cứu nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng được các nhà nghiên cứu
trên thế giới quan tâm vì vấn đề này không chỉ dừng lại ở tính khoa học mà còn có giá
trị thực tiễn cao khi giúp các cơ quan hoạch định chính sách thấy được các tác động
trong điều hành quản lý đến một thị trường có vai trò trong nền kinh tế mà các nhà đầu
tư cũng có thể tham khảo các kết quả nghiên cứu trong việc gia quyết định của mình.
Mặt khác, các nghiên cứu trong nước vẫn các chưa có nghiên cứu. Qua đó, nhóm đã
đề xuất hướng nghiên cứu đánh giá tác động của chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa đến thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Bằng việc phân tích dữ liệu thông qua
mô hình VECM, nghiên cứu đã chỉ ra được chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
đều có tác động đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, kết quả cũng cho
thấy thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng có sự gắn kết với các thông tin của
thị trường thế giới khi có phản ứng trước những thay đổi trong các biến ngoại sinh như
giá dầu thô hay S&P500. Cùng với đó, nhóm nghiên cứu cũng thực hiện việc dự báo
diễn biến của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2016 và kết quả dự báo có xu
hướng gần với diễn biến của thị trường trong những tháng đầu năm 2016 trên thực tế.
74
5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm nghiên cứu nhận thấy vẫn bài vẫn còn thiếu
sót về số liệu nghiên cứu. Do việc tiếp cận số liệu còn hạn chế nên có chuỗi số liệu
phân tích vẫn chưa thực sự đầy đủ. Qua đây, hướng nghiên cứu tiếp theo của nhóm là
hoàn thiện được bộ số liệu nghiên cứu bên cạnh đó là phát triển bài nghiên cứu hơn.
Cụ thể, nhóm sẽ bổ sung thêm các chỉ số chứng khoán theo ngành vào việc đánh giá
tác động trước những sự thay đổi của các chính sách vĩ mô. Việc đánh giá này sẽ
mang lại nhiều giá trị thực tiễn hơn nữa, đặc biệt là với các nhà đầu tư. Vì chỉ số
VNIndex mang tính đại diện cho thị trường chứng khoán nói chung nhưng đặc điểm
sản xuất – kinh doanh lại có những sự khác biệt nhất định nên những thay đổi trong
các nhân tố vĩ mô sẽ có những tác động khác nhau đến chỉ số chứng khoán ngành đó.
Do đó, việc phân tích cả chỉ số VNIndex và chỉ số ngành sẽ giúp cho các nhà hoạch
định và các nhà đầu tư không chỉ có được cái nhìn toàn cảnh mà còn thấy được hoạt
động cụ thể của ngành đó để các nhà hoạch định đưa ra được những các chính sách
phù hợp và các nhà đầu tư cũng có được quyết định chính xác hơn.
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Bích Diệp, 2015. Quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam tương đương 34% GDP.
Dân trí, truy cập tại địa chỉ: <http://dantri.com.vn/kinh-doanh/quy-mo-thi-
truong-chung-khoan-viet-tuong-duong-34-gdp-p76r20151220162608232.htm>.
Bình An, 2015. Sự kiện nổi bật trên thị trường chứng khoán Việt Nam 2015. Người
đồng hành, truy cập tại địa chỉ: <http://ndh.vn/su-kien-noi-bat-tren-thi-truong-
chung-khoan-viet-nam-2015-20151221082629515p4c146.news>.
Bùi Kim Tuyến và Nguyễn Thái Sơn, 2014. Sự phát triển của thị trường chứng khoán
Việt Nam dưới ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô. Tạp chí Phát triển &
Hội nhập, 16(26), pp.3–10.
Bùi Nhật Tân, 2014. Chính sách tài khóa và những tác động đến nền kinh tế. Tạp chí
nghiên cứu Tài chính kế toán, 8(133).
Bùi Xuân Hồi, 2016. Giá dầu thế giới năm 2016 và những tác động tới kinh tế Việt
Nam, Tạp chí Tài chính, kỳ 1 + 2 tháng 1/2016.
CafeF, 2012. Tổng quan thị trường năm 2012: Hai nửa khác biệt, truy cập tại địa chỉ:
<http://cafef.vn/thi-truong-chung-khoan/thi-truong-chung-khoan-2012-trai-tao-
doc-cua-mu-phu-thuy-20121217034759360.chn>.
CFE, 2010. Sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, truy
cập tại địa chỉ: <http://www.cfe.com.vn/tu-sach-cfe/su-hinh-thanh-va-phat-trien-
cua-thi-truong-chung-khoang-viet-nam>.
Dương Ngọc Mai Phương, Vũ Thị Phương Anh, Đỗ Thị Trúc Đào và Nguyễn Hữu
Tuấn, 2015. Tác động của chính sách tiền tệ đến thị trường chứng khoán: Bằng
chứng tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển & Hội nhập, 3(35), pp.37–45.
Đài truyền hình Việt Nam VTV, 2015. Hạ lãi suất gửi USD xuống 0%, Ngân hàng
Nhà nước hướng tới chống USD hóa, truy cập tại địa chỉ: <http://vtv.vn/thi-
truong/ha-lai-suat-gui-usd-xuong-0-ngan-hang-nha-nuoc-huong-toi-chong-usd-
hoa-20151218145633421.htm>.
76
Đỗ Phương Huyền, 2014. Bài học từ đầu tư và bán khống chỉ số chứng khoán S&P500
của Mỹ, Tạp chí Tài chính.
Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2014. Chính sách tài khóa. Chương trình giảng dạy kinh tế
Fulbright.
FPT Securities, 2015. Thị trường chứng khoán: Kênh huy động vốn hiệu quả, truy
cập tại địa chỉ: <http://www.fpts.com.vn/VN/Tin-tuc/Trong-nuoc/Thi-
truong/2015/05/3BA1733A_thi-truong-chung-khoan-kenh-huy-dong-von-
hieu-qua/>.
Hà Thanh, 2014. Giá dầu giảm tác động như thế nào đến Việt Nam. Năng lượng mới,
Số 382, truy cập tại địa chỉ: <http://petrotimes.vn/gia-dau-giam-tac-dong-nhu-
the-nao-den-viet-nam-237191.html>.
Hoàng Uyên, 2011. Chứng khoán năm 2010: Những mốc thăng trầm. Vietstock, truy
cập tại địa chỉ: <http://vietstock.vn/2011/01/chung-khoan-2010-nhung-moc-
thang-tram-830-177162.htm>.
Hồng Hải, 2015. Quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam đứng ở đâu so với khu
vực. Bizlive, truy cập tại địa chỉ: <http://bizlive.vn/chung-khoan/quy-mo-thi-
truong-chung-khoan-viet-nam-dung-o-dau-so-voi-khu-vuc-1008547.html>.
Hồng Phúc, 2005. Mở rộng thị trường mở, truy cập ngày 03/04/2016 tại địa chỉ:
<http://vietbao.vn/Kinh-te/Mo-rong-thi-truong-mo/20471092/90/>.
Huy Thắng, 2015. Ngân hàng cơ bản hoàn thành mục tiêu tái cơ cấu. Báo điện tử
Chính phủ, truy cập tại địa chỉ: <http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Ngan-hang-co-
ban-hoan-thanh-muc-tieu-tai-co-cau/244414.vgp>.
Huỳnh Thế Nguyễn và Nguyễn Quyết (2013). Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi
suất. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 11(21).
Hữu Hòe, 2014. Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: “Thị trường chứng khoán đạt được
những thành tựu quan trọng”. Đầu tư chứng khoán, truy cập tại địa chỉ:
<http://tinnhanhchungkhoan.vn/chung-khoan/bo-truong-dinh-tien-dung-thi-
truong-chung-khoan-dat-duoc-nhung-thanh-tuu-quan-trong-99514.html>.
77
Lê Quang Thuận, 2014. Mục tiêu kép cho giai đoạn 2011–2015. Tạp chí Tài chính.
Lê Thị Tuấn Nghĩa và Chu Khánh Lân, 2014. Khung chính sách tiền tệ năm 2014 và
gợi ý chính sách năm 2015. Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, Số 152 +
153, tháng 1&2/2015.
Mai An, 2015. Chứng khoán – Dấu ấn nổi bật về nền kinh tế thị trường của Việt Nam.
Thời báo tài chính Việt Nam, truy cập tại địa chỉ:
<http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/chung-khoan/2015-11-19/chung-khoan-
dau-an-noi-bat-ve-nen-kinh-te-thi-truong-cua-viet-nam-26334.aspx>.
Ngọc Anh, 2015. Ngân hàng Nhà nước hút vốn ròng trên thị trường mở. BSC, truy cập
tại địa chỉ: <https://www.bsc.com.vn/News/2015/7/27/466982.aspx>.
Nguyễn Cao Hoàng, 2014. Bàn thêm về lãi suất đối với thị trường tiền tệ. Tạp chí
Tài chính, Số 4 năm 2014.
Nguyễn Minh Điều và Nguyễn Văn Điệp, 2013. Quan hệ giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô
và biến động thị trường chứng khoán: bằng chứng nghiên cứu từ thị trường Việt
Nam, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, Tập 16 – Số Q.3 – 2013.
Nguyễn Phúc Cảnh, 2014. Truyền dẫn của chính sách tiền tệ qua kênh giá tài sản tài
chính: Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển và Hội nhập,
Số 19(29).
Nguyễn Thành Nam, 2013. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, thâm hụt ngân sách
với lạm phát ở Việt Nam. Tạp chí Tài chính, truy cập tại địa chỉ:
<http://tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/thi-truong-gia-ca/moi-quan-he-giua-tang-
truong-kinh-te-tham-hut-ngan-sach-voi-lam-phat-o-viet-nam-25965.html>.
Nguyễn Trung, 2015. Thúc đẩy cổ phần hóa gắn với thị trường chứng khoán. Đài
truyền hình Việt Nam VTV, truy cập tại địa chỉ: <http://vtv.vn/kinh-te/thuc-day-
co-phan-hoa-gan-voi-thi-truong-chung-khoan-2015030117032403.htm>.
Nguyễn Viết Lợi, 2016. Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở Việt Nam
giai đoạn 2011–2015 và giải pháp đến năm 2020. Tạp chí Tài chính, kỳ 1+2
tháng 1/2016.
78
Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dương Thảo, 2012. Phân tích tác động của các nhân
tố vĩ mô đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Tạp chí Phát triển và Hội nhập,
Số 8(18).
Phạm Thị Hoàng Anh, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Chu Khánh Lân, Phạm Mạnh
Hùng, Trần Huy Tùng, Nguyễn Minh Phương và Phạm Mỹ Linh, 2015. Diễn
biến tỷ giá và thị trường ngoại tệ Việt Nam dưới tác động chính sách của
Ngân hàng Nhà nước.
Santy Phonmeuanglao, 2014. Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Dân nhân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Tạp chí Tài chính, 2013. Bốn điểm nổi bật từ hoạt động điều hành thị trường tiền tệ ở
Việt Nam, truy cập tại địa chỉ: <http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-
doi/nghien-cuu-dieu-tra/4-diem-noi-bat-tu-hoat-dong-dieu-hanh-thi-truong-tien-
te-o-viet-nam-25220.html>.
Thân Thị Thu Thủy và Võ Thùy Dương, 2015. Sự tác động của các nhân tố vĩ mô đến
các chỉ số cổ phiếu tại HOSE. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 24(34).
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 2016. Ngân hàng Nhà nước xiết lãi suất huy động, truy cập
tại địa chỉ: <http://www.thesaigontimes.vn/141440/Ngan-hang-Nha-nuoc-siet-
lai-suat-huy-dong.html>.
Thời báo Kinh tế Việt Nam, 2008. Chứng khoán Việt Nam và thế giới có liên thông,
truy cập tại địa chỉ: <http://vneconomy.vn/binh-luan-nhan-dinh/chung-khoan-
viet-nam-va-the-gioi-co-lien-thong-58249.htm>.
Thời báo Kinh tế Việt Nam, 2013. Dự tính tỷ giá cả năm đã được tính, truy cập tại
địa chỉ: <http://vneconomy.vn/tai-chinh/du-tinh-ty-gia-ca-nam-da-duoc-tinh-
20130710050857866.htm>.
Thời báo Kinh tế Việt Nam, 2015. Quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam tăng 114
lần sau 19 năm, truy cập tại địa chỉ: <http://vneconomy.vn/chung-khoan/quy-
mo-von-hoa-chung-khoan-tang-114-lan-sau-19-nam-20151120111625949.htm>.
Tô Kim Ngọc và Lê Thị Tuấn Nghĩa, 2012. Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách
79
tài khóa ở Việt Nam.
Tô Trung Thành, 2012. Đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân – mô hình thực nghiệm
VECM – Báo cáo nghiên cứu 27 – VEPR.
Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2002–2015. Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội.
Trần Thọ Đạt, Hà Quỳnh Hoa, Nguyễn Việt Hùng, 2016. Phối hợp chính sách tài khóa
và tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2001–2015 và phương án năm 2016. Tạp chí Tài
chính, kỳ 1 tháng 2/2016.
Tư Hoàng, 2015. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước khó vì thị trường chứng khoán.
Thời báo kinh tế Sài Gòn, truy cập tại địa chỉ:
<http://www.thesaigontimes.vn/131643/Co-phan-hoa-DNNN-kho-vi-thi-truong-
chung-khoan.html>.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, 2005. Báo cáo về tình hình hoạt động thị trường
chứng khoán Việt Nam từ năm 2000–2005, định hướng, giải pháp giai đoạn
2006–2010.
Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách VEPR, 2015. Tác động của diễn biến giá dầu
tới ngân sách.
VnExpress, 2002–2015. 10 sự kiện nổi bật trên TTCK Việt Nam từng năm.
Vũ Bằng, 2014. Thị trường chứng khoán Việt Nam: Ấn tượng 2013, kỳ vọng 2014.
Vietstock, truy cập tại địa chỉ: <http://vietstock.vn/2014/01/thi-truong-chung-
khoan-viet-nam-an-tuong-2013-ky-vong-2014-830-330555.htm>.
Vũ Minh, 2016. Ban hành quy định mới về nghiệp vụ thị trường. Thời báo Ngân hàng,
truy cập tại địa chỉ: <http://thoibaonganhang.vn/ban-hanh-quy-dinh-moi-ve-
nghiep-vu-thi-truong-mo-44881.html>.
Vũ Sỹ Cường, 2014. Chính sách tài khóa năm 2014 và trong trung hạn: Những thuận
lợi và khó khăn. Tạp chí Tài chính.
Vũ Xuân Thanh, 2015. Chính sách tiền tệ 5 năm nhìn lại. Báo điện tử Chính phủ, truy
cập tại địa chỉ: <http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Chinh-sach-tien-te-5-nam-nhin-
lai/241666.vgp>.
80
World Bank, 2015. Cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam.
Xuân Thân, 2016. Chế độ tỷ giá 2016: Thả nổi có quản lý. Đài tiếng nói Việt
NamVOV, truy cập tại địa chỉ: <http://vov.vn/kinh-te/che-do-ty-gia-2016-tha-noi-
co-quan-ly-475751.vov>.
Tiếng Anh
Abduh, M., 2009. The Linkage of US Monetary Policy and Stock Markets toward
Indonesia Stock Markets.
Afonso, A. & Sousa, R.M., 2008. The Macroeconomic Effects of Fiscal Policy.
Ahmad, W. & Corresponding, K., 2014. Impact of Macroeconomics variable on the
Stock Market index ; A Study from Pakistan. International Journal of
Accounting and Financial Reporting, 4(2), pp.258–272.
Aziza, F.O.F., 2010. The Effects of Monetary Policy on Stock Market Performance: A
Cross-Country Analysis.
Baum, C.F., 2013. VAR , SVAR and VECM models.
Ben S. Bernanke, 1995. Measuring Monetary Policy.
Bordo, M.D., Dueker, M.J. & Wheelock, D.C., 2008. Inflation, Monetary Policy and
Stock Market Conditions.
Cassola, N. & Morana, C., 2002. Monetary policy and the stock market in the
euro area.
Delong & Olney, 2009. Macroeconomics.
Dennis W. Jansen, Qi Li&Zijun Wang, 2007. Fiscal Policy and Asset Markets: A
Semiparametric Analysis.
Durham, J., The effect of Monetary on Monthly and Quarterly Stock Market Returns:
Cross - Country Evidence and Sensitivity Analyses.
El, G. et al., 2015. The time-series linkages between US fiscal policy and asset prices.
Fahad Alturki and Svetlana Vtyurina, 2010.Inflation in Tajikistan:
ForecastingAnalysis and Monetary PolicyChallenges.
81
Fiordelisi, F. & Galloppo, G., 2015. Stock market reaction to policy intervention.
Gregoriou A., Kontonikas A., MacDonald R., A.M., 2009. Monetary policy shocks
and stock returns : evidence from the British market.
Ghulam Ali, Khalid Zaman, Sayed Mahdi Ziaei&Melati Ahmad Anuar, 2014. Stock
Return Response to Monetary and Fiscal Policy Interaction in Singapore.
Mediterranean Journal of Social Sciences, Vol 5 No 27.
Grange C. W. J & Newbold P., 1973. Spurious regressions in Economies. Journal of
Econometrics 2 (1974) 111-120.
Guglielmo Maria Caporale and Alaa M. Soliman, 2010. Stock Prices and Monetary
Policy:AnImpulse Response Analysis.
Handoyo, R.D., Jusoh, M. & Zaidi, M.A.S., 2015. Impact of Monetary Policy and
Fiscal Policy on Indonesian Stock Market. Expert Journal of Economics, 3(2),
pp.113–126. Available at: http://economics.expertjournals.com/23597704-312/.
Hsing, Y., 2013. Effects of Fiscal Policy and Monetary Policy on the Stock Market in
Poland. Econonies, pp.19–25.
IMF, 1998. Coordination of Monetary and Fiscal Policies.
Mehmet, P. & Eastern, B., 2015. Fiscal Policy Shocks and the Dynamics of Asset
Prices in Turkey.
Mishkin, F.S., 2001. The transmission mechanism and the role of asset prices in
monetary policy.
Mishra, P.K. & Pradhan, B.B., 1995. Financial innovation and Effectiveness of
Monetary Policy.
Ogbulu, O.M., Torbira, L.L. & Umezinwa, C.L., 2015. Assessment of the Impact of
Fiscal Policy Operations on Stock Price Performance : Empirical Evidence from
Nigeria. International Journal of Financial Research, 6(2).
Roberto F. Engle & Granger C. W. J., 1987. Co–intergration and error correction:
Representation, Estimation and Testing.
82
Roberto, R. & Brian, S., 2001. Measuring the reaction of Monetary policy to the
stock market.
Shivangi, S. & Naresh, J., 2012. The Effect of Macroeconomic Variables on Stock
Prices : A Conceptual Framework of the Arbitrage Pricing Theory. Journal of
Management and Research, 5, pp.1–16.
Sims, C., 1986. Are forecasting models usable for policy analysis?
Wang, L., 2010. The Effect of Government Policy on China’ s Stock Market.
YoshinoN., Taghizadeh–HesaryF., HassanzadedA., A.P., 2014. Response of Stock
Markets to Monetary Policy: An Asian Stock Market Perspective.
Website
1. www.adb.org/ (Ngân hàng phát triển châu Á)
2. http://www.cboe.com/ (Sàn giao dịch quyền chọn Chicago)
3. https://www.eia.gov/ (Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ)
4. https://www.gso.gov.vn/ (Tổng cục thống kê)
5. http://www.imf.org/ (Quỹ tiền tệ quốc tế)
6. http://www.mof.gov.vn/ (Bộ Tài chính)
7. http://www.sbv.gov.vn/ (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
8. http://www.ssc.gov.vn/ (Ủy ban chứng khoán Nhà nước)
9. https://www.vndirect.com.vn/ (Công ty cổ phần chứng khoán VNDIRECT)
83
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kiểm định tính dừng của các biến
Biến thâm hụt ngân sách
Giả thiết: D(DEFICIT) có nghiệm đơn vị
Độ dài của trễ: 12 (Lựa chọn theo tiêu chuẩn AIC, độ trễ tối đa=13)
Thống kê t Xác xuất
Kết quả kiểm định Dickey–Fuller –6.288091 0.0000
Biến lãi suất
Giả thiết: DIR có nghiệm đơn vị
Độ dài của trễ: 0 (Lựa chọn theo tiêu chuẩn AIC, độ trễ tối đa=13)
Thống kê t Xác xuất
Kết quả kiểm định Dickey–Fuller –10.61710 0.0000
Biến cung tiền
Giả thiết: DLM2 có nghiệm đơn vị
Độ dài của trễ: 3 (Lựa chọn theo tiêu chuẩn AIC, độ trễ tối đa=13)
Thống kê t Xác xuất
Kết quả kiểm định Dickey–Fuller –6.213515 0.0000
84
Biến chi tiêu công
Giả thiết: DLEXP có nghiệm đơn vị
Độ dài của trễ: 6 (Lựa chọn theo tiêu chuẩn AIC, độ trễ tối đa=13)
Thống kê t Xác xuất
Kết quả kiểm định Dickey–Fuller –7.059081 0.0000
Biến giá dầu
Giả thiết: DLOIL có nghiệm đơn vị
Độ dài của trễ: 5 (Lựa chọn theo tiêu chuẩn AIC, độ trễ tối đa=13)
Thống kê t Xác xuất
Kết quả kiểm định Dickey–Fuller –5.711199 0.0000
Biến thu ngân sách
Giả thiết: DLREVENUE có nghiệm đơn vị
Độ dài của trễ: 3 (Lựa chọn theo tiêu chuẩn AIC, độ trễ tối đa=13)
Thống kê t Xác xuất
Kết quả kiểm định Dickey–Fuller –7.091507 0.0000
85
Biến S&P500
Giả thiết: DLSP500 có nghiệm đơn vị
Độ dài của trễ: 5 (Lựa chọn theo tiêu chuẩn AIC, độ trễ tối đa=13)
Thống kê t Xác xuất
Kết quả kiểm định Dickey–Fuller –5.625175 0.0000
Biến VNIndex
Giả thiết: DLVNINDEX có nghiệm đơn vị
Độ dài của trễ: 11 (Lựa chọn theo tiêu chuẩn AIC, độ trễ tối đa=13)
Thống kê t Xác xuất
Kết quả kiểm định Dickey–Fuller –3.403199 0.0123
Biến CPI
Giả thiết: DLCPI có nghiệm đơn vị
Độ dài của trễ: 13 (Lựa chọn theo tiêu chuẩn AIC, độ trễ tối đa=13)
Thống kê t Xác xuất
Kết quả kiểm định Dickey–Fuller –3.170507 0.0237
86
Phụ lục 2: Phản ứng của VNIndex với từng biến
Tháng LOIL LSP500 DEFECIT LCPI LREVENUE LEXP LM2 IR
1 –0.002120 0.013746 –0.006462 –0.009906 –0.000149 –0.021192 0.000000 0.000000
2 –0.014167 0.035905 –0.016629 –0.035299 0.003507 –0.048010 0.012291 –0.000664
3 –0.033958 0.069600 –0.031918 –0.068796 0.004929 –0.080882 0.031428 0.009399
4 –0.052387 0.119288 –0.058309 –0.100850 0.011030 –0.105596 0.044097 0.022995
5 –0.074847 0.186651 –0.092978 –0.124535 0.013369 –0.128592 0.049740 0.031935
6 –0.086278 0.254660 –0.136413 –0.151006 0.002467 –0.156905 0.045280 0.026515
7 –0.108822 0.303724 –0.186880 –0.200980 –0.028304 –0.182166 0.043144 0.025383
8 –0.143151 0.340088 –0.237775 –0.262043 –0.072225 –0.208223 0.039556 0.018240
9 –0.184119 0.369147 –0.279153 –0.326441 –0.125696 –0.232304 0.035341 0.012440
10 –0.235034 0.398967 –0.310191 –0.401524 –0.182303 –0.263337 0.034258 –0.003423
11 –0.287647 0.418053 –0.335251 –0.482860 –0.233346 –0.300412 0.034163 –0.017831
12 –0.350796 0.432396 –0.362612 –0.562715 –0.293868 –0.338474 0.033250 –0.021856
87
Phụ lục 3: Kiểm định tính ổn định của mô hình (Dạng bảng)
Root Modulus Root Modulus
1 1 -0.687304 - 0.566014i 0.89037
1 1 -0.232560 - 0.853775i 0.884882
1 1 -0.232560 + 0.853775i 0.884882
1 1 -0.830702 - 0.303374i 0.884365
0.483164 + 0.848981i 0.97684 -0.830702 + 0.303374i 0.884365
0.483164 - 0.848981i 0.97684 0.864093 0.864093
0.971353 - 0.064528i 0.973494 -0.864074 0.864074
0.971353 + 0.064528i 0.973494 -0.742026 - 0.440105i 0.862725
-0.972657 0.972657 -0.742026 + 0.440105i 0.862725
0.833041 - 0.490867i 0.966906 0.723718 + 0.461153i 0.858155
0.833041 + 0.490867i 0.966906 0.723718 - 0.461153i 0.858155
0.750859 + 0.574186i 0.94524 -0.595997 + 0.597435i 0.843885
0.750859 - 0.574186i 0.94524 -0.595997 - 0.597435i 0.843885
0.918160 - 0.213369i 0.942626 -0.030937 + 0.841380i 0.841949
0.918160 + 0.213369i 0.942626 -0.030937 - 0.841380i 0.841949
0.854840 - 0.382129i 0.936362 -0.830429 0.830429
0.854840 + 0.382129i 0.936362 -0.549112 - 0.622435i 0.830029
0.018909 - 0.927115i 0.927308 -0.549112 + 0.622435i 0.830029
0.018909 + 0.927115i 0.927308 0.416689 - 0.704368i 0.818391
0.802686 - 0.462066i 0.92618 0.416689 + 0.704368i 0.818391
0.802686 + 0.462066i 0.92618 -0.251178 - 0.777947i 0.817491
-0.453954 + 0.801865i 0.921445 -0.251178 + 0.777947i 0.817491
-0.453954 - 0.801865i 0.921445 -0.693044 + 0.406106i 0.803263
0.665644 - 0.635598i 0.920362 -0.693044 - 0.406106i 0.803263
0.665644 + 0.635598i 0.920362 0.003555 + 0.777214i 0.777222
0.871641 - 0.283922i 0.916717 0.003555 - 0.777214i 0.777222
0.871641 + 0.283922i 0.916717 0.754138 0.754138
0.568502 - 0.716967i 0.915007 0.172004 + 0.730546i 0.750522
0.568502 + 0.716967i 0.915007 0.172004 - 0.730546i 0.750522
0.487139 + 0.772920i 0.913625 -0.154977 + 0.654884i 0.672971
0.487139 - 0.772920i 0.913625 -0.154977 - 0.654884i 0.672971
0.208433 + 0.875737i 0.9002 -0.635612 0.635612
0.208433 - 0.875737i 0.9002 0.166471 - 0.436421i 0.467094
0.262833 + 0.858871i 0.898187 0.166471 + 0.436421i 0.467094
0.262833 - 0.858871i 0.898187 0.459658 0.459658
-0.687304 + 0.566014i 0.89037 -0.42715 0.42715
VECM áp đặt 4 nghiệm đơn vị