Đánh giá chặng đường 10 năm hoạt động của thị trường chứng khoán việt nam
TRANSCRIPT
Đánh giá chặng đường 10 năm hoạt động của Thị trường chứng khoán Việt Nam
TS. Nguyễn Thị Hoài Lê
Ths. Trần Thị Xuân Anh
Bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2000, đến nay thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua
10 năm hình thành và phát triển. Với mô hình hoạt động đầu tiên là Trung tâm giao dịch
chứng khoán (SGDCK) thành phố Hồ Chí Minh khai trương vào 07/2000 và SGDCK Hà Nội
vào tháng 03/2005, đây là hai SGD tập trung và là sàn giao dịch chứng khoán thứ cấp. Đến
tháng 05/2007 SGDCK thành phố Hồ Chí Minh chuyển đổi thành Sở giao dịch chứng khoán
(SGDCK) và đến cuối năm 2007 SGDCK Hà Nội cũng được chuyển đổi thành SGDCK theo
định hướng xây dựng thành thị trường OTC. Từ ngày 24/06/2009 thị trường Upcom được
đưa vào vận hành trên SGDCK Hà Nội cho phép cổ phiếu của các Công ty đại chúng chưa
niêm yết được giao dịch qua hệ thống có quản lý. Nhìn lại chặng đường đã qua, thị trường
chứng khoán Việt Nam được đánh giá là có tốc độ tăng trưởng theo cấp số nhân do những
thành tựu đạt được, song vẫn còn những hạn chế không thể tránh khỏi của một thị trường
mới nổi, đang phát triển.
1. Một số thành tựu đạt được
Quy mô thị trường tăng nhanh, từng bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn
trung và dài hạn quan trọng.
Sau 10 năm đi vào hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc và
đã có lúc được đánh giá là một trong những thị trường có tốc độ phát triển nhanh nhất thế
giới; đặc biệt là mức độ, tỷ lệ và tốc độ tăng vốn hóa (Bảng 1).Trong suốt thời kỳ từ 2000-
2005, vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt
mạnh mẽ lên 22,7% GDP vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% vào năm 2007.
Trước biến động của thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong
nước, chỉ số giá chứng khoán đã sụt giảm liên tục trong năm 2008 và làm mức vốn hóa thị
trường giảm hơn 50%, xuống còn 18%. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi
1
phục nhẹ từ quý II/2009, chỉ số giá chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các
công ty niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh chóng. Giá trị vốn hóa thị trường cổ
phiếu tính đến cuối năm 2009 đã đạt 37,71% GDP. Ước tính đến cuối năm 2010 sẽ đạt
khoảng từ 40-50% GDP.
Bảng 1: Mức độ, tỷ lệ và tốc độ tăng vốn hóa TTCK
Thời gianMức vốn hóa
(tỷ đồng)Tỷ lệ vốn hóa
(% GDP)Tốc độ tăng
(%)2000 986 0,28 -2001 1,570 0,34 59.232002 2,436 0,48 55.162003 2,370 0,39 -2.712004 4,516 0,63 90.552005 9,598 1,21 112.532006 237,276 22,70 2372.142007 492,900 40,00 107.732008 225,935 19,76 -54.162009 620,551 37,71 174.662010* 695,186 42,25 12.03
Nguồn UBCKNN, * Tính đến 30/6/2010 - % GDP của năm liền trước năm tính toán
Do quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc đã từng bước
đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng cho doanh nghiệp nói riêng và nền
kinh tế nói chung. Hoạt động phát hành cổ phiếu bắt đầu sôi động từ năm 2006, đặc biệt là
phát hành để cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Trong năm 2006 có 44 công ty cổ
phần thực hiện chào bán hơn 203 triệu cổ phiếu. Hoạt động này đã thực sự bùng nổ trong
năm 2007 khi có gần 200 đợt phát hành của 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại với tổng
lượng vốn huy động lên đến gần 40.000 tỷ đồng. Do sự suy giảm của TTCK trong năm 2008,
tổng số vốn huy động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng thông qua hơn 100 đợt chào bán chứng
khoán ra công chúng. Tuy nhiên, thị trường hồi phục vào năm 2009 đã tạo điều kiện cho hoạt
động phát hành qua thị trường chứng khoán, đặc biệt là phát hành cổ phiếu. Tổng số vốn huy
động qua phát hành cổ phiếu năm 2009 đã tăng hơn 50% so với 2008, đạt 21.724 tỷ đồng.
2
Bảng 2: Hoạt động phát hành và đấu giá cổ phiếu
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Phát hành cổ phiếu Đấu giá cổ phần hóa Tổng cộng
2005 813 4,573 5,386
2006 1,858 14,255 16,113
2007 55,846 49,953 105,799
2008 14,341 7,809 22,150
2009 21,724 2,124 23,848
Tổng 94,582 78,715 173,297
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của UBCKNN
Hoạt động phát hành trái phiếu qua Sở giao dịch chứng khoán dần trở thành một
kênh huy động vốn quan trọng cho Chính phủ. Dư nợ trái phiếu Chính phủ (TPCP) tính đến
cuối 2009 vào khoảng 16,9% GDP. Các trái phiếu doanh nghiệp được phát hành chủ yếu theo
hình thức phát hành riêng lẻ, do vậy, số trái phiếu doanh nghiệp được niêm yết trên
TTGDCK/SGDCK không nhiều.
Số lượng công ty niêm yết tăng trưởng mạnh góp phần tăng cung hàng
hóa và tính thanh khoản cho thị trường
Năm 2000, với 2 công ty niêm yết khi đưa TTGDCK Tp.HCM vào hoạt động là
REE và SAM, TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan
hiếm, chỉ số VN Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày 25/6/2001. Sau
đó, thị trường đã liên tục sụt giảm trong suốt 3 năm sau đó, trước khi tăng mạnh trở lại vào
cuối năm 2003. Năm 2005, sau khi TTGDCK Hà Nội đi vào hoạt động, tổng số các công ty
niêm yết trên cả hai thị trường là 44 công ty với tổng giá trị niêm yết là 4,94 nghìn tỷ đồng.
Tuy nhiên, nhìn chung, giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn hoạt động khá trầm của TTCK Việt
Nam và số lượng các công ty tham gia niêm yết trên thị trường khá khiêm tốn. Sự chuyển
biến về lượng thể hiện rõ qua số lượng các công ty niêm yết và giao dịch trên sàn kể từ năm
3
2006 đến nay (Hình 1). Tính đến giữa năm 2010, đã có 557 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu
trên cả hai SGDCK và 4 chứng chỉ quỹ đại chúng niêm yết, với tổng giá trị vốn hóa thị
trường 695.186 nghìn tỷ đồng, tăng 71,43 lần so với cuối năm 2005.
Hình 1: Quy mô niêm yết trên TTCK Việt Nam
Nguồn: UBCKNN, * Tính đến 30/6/2010
Đi cùng với sự phát triển của các công ty niêm yết, một khối lượng hàng hóa nhất
định đã được tập trung cho hoạt động chứng khoán trên SGDCK TP Hồ Chí Minh và
SGDCK Hà Nội. Trong giai đoạn 2000-2002, cổ phiếu là hàng hóa niêm yết chủ đạo trên
SGDCK Tp.HCM với số lượng không nhiều (40 mã), giá trị giao dịch bình quân cũng rất
thấp, với khoảng 2% giá trị thị trường cổ phiếu niêm yết. Giai đoạn 2004-2007, giá trị trái
phiếu niêm yết so với GDP tăng đáng kể, lên tới 11,3% GDP. Hiện nay trên cả hai SGDCK
có khoảng trên 500 cổ phiếu niêm yết, tăng gần 14 lần so với thời điểm ban đầu thị trường đi
vào hoạt động. Về trái phiếu, cho đến thời điểm hiện nay các SGDCK đã phối hợp với Bộ tài
chính tổ chức đấu thầu 284 đợt trái phiếu chính phủ do Kho bạc và Quỹ hỗ trợ đầu tư phát
triển phát hành với giá trị trúng thầu hơn 50.000 tỷ đồng. Tổng số trái phiếu chính phủ hiện
đang được niêm yết là trên 500 mã, giá trị vào khoảng 120.000 tỷ đồng, tập trung tại SGDCK
Hà Nội. Ngoài trái phiếu chính phủ, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng không
4
5 10 20 22 26 41
195
253
342
457
5577
ngừng tăng lên, trong năm 2009 đã có 15 đợt các doanh nghiệp phát hành trái phiếu thay vì 2
– 3 doanh nghiệp như năm 2008. Tổng giá trị huy động được lên tới 20,000 tỷ đồng, tăng gấp
3 lần so với năm 2008, chiếm 10% thị trường trái phiếu Việt Nam.
Thị trường chứng khoán đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết mà
cả về tính thanh khoản của thị trường. Nếu như năm 2005, bình quân có 667.600 cổ phiếu
được giao dịch một phiên, thì năm 2006, con số này tăng lên 2,6 triệu đơn vị (tăng 3,93 lần),
tiếp tục tăng lên 9,79 triệu và 18,07 triệu trong hai năm sau đó. Tốc độ luân chuyển thị
trường trong giai đoạn này liên tục tăng từ 0.43 lần (năm 2006) lên 0.64 lần (năm 2007), 0.68
lần (năm 2008) và ước đạt 1.13 lần (năm 2009). Tổng giá trị giao dịch chứng khoán bình
quân mỗi phiên của cả thị trường vào thời điểm 31/05/2010 đã tăng gấp 4.000 lần so với giá
trị giao dịch bình quân từ khi thị trường mới hoạt động năm 2005.
Hình 2: Giá trị giao dịch bình quân phiên
Nguồn: UBCKNN, * Tính đến 30/6/2010
Ngoài ra tính thanh khoản của thị trường cũng tăng dần do những quy định mới
được áp dụng. Trong thời gian đầu, SGDCK TP Hồ Chí Minh chỉ giao dịch 3 phiên một tuần
và đã nâng lên 5 phiên một tuần kể từ ngày 01/08/2002. Quy trình thanh toán đã được cải tiến
dần, giảm thời gian thanh toán từ 4 ngày xuống còn 3 ngày. Biên độ dao động giá được điều 5
chỉnh theo thị trường, thời gian đầu thực hiện +-2%, có lúc đã tăng lên +-3% (1/8/2002), và
đến nay là +-5% tại SGDCK TpHCM và +-7% tại SGDCK Hà Nội, tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư có cơ sở lựa chọn mức giá. Riêng đối với giao dịch trái phiếu: không giới hạn tỷ lệ
nắm giữ đối với trái phiếu của các tổ chức, cá nhân nước ngoài; bỏ biên độ dao động giá; cơ
chế giao dịch thỏa thuận; rút ngắn thời gian thanh toán T+1. Thêm vào đó, hệ thống giao dịch
trải qua nhiều lần nâng cấp, đến nay đã triển khai giao dịch trực tuyến trên cả hai sàn rất tiện
lợi cho nhà đầu tư. Trước năm 2006, TPCP được giao dịch đồng thời tại HOSE và HNX. Tuy
nhiên, từ ngày 24/9/2009, hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt với gần 30 thành viên, trong
đó, có nhiều ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán lớn đã chính thức hoạt động.
Hệ thống này tách biệt khỏi hệ thống giao dịch cổ phiếu và với nhiều đặc điểm mới, được
phát triển phù hợp với các đặc thù của giao dịch trái phiếu đã khắc phục một số hạn chế của
hệ thống giao dịch trái phiếu trước đây. Ngoài ra, trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam
cũng đã hình thành và phát triển từ năm 2006, phục vụ tốt cho phần đăng ký, thanh toán bù
trừ tiền và chứng khoán sau giao dịch, bảo đảm các hoạt động này nhịp nhàng và ổn định,
tiện lợi cho doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Hệ thống các định chế trung gian và dịch vụ chứng khoán ngày càng phát
triển cả về số lượng, chất lượng hoạt động và năng lực tài chính
Mười năm qua, từ chỗ chỉ có 4 CTCK khi thị trường đi vào hoạt động, tính đến
30/06/2010 UBCKNN đã cấp phép hoạt động cho 105 CTCK với tổng vốn điều lệ của các
công ty này đạt gần 30.000 tỷ đồng, với các nghiệp vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành
và tư vấn đầu tư. Hiện các công ty này đang tập trung hoàn thiện bộ máy tổ chức của mình,
mở rộng địa bản hoạt động bằng việc mở thêm các chi nhánh, phòng giao dịch tại các tỉnh
thành phố như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai, Long An, Đà
Nẵng. Bên cạnh đó, UBCKNN đã chỉ định Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt nam làm
ngân hàng chỉ định thanh toán, thực hiện thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán.
Ngoài ra, để tạo điều kiện cho người nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam,
UBCKNN cũng đã cấp phép cho 6 ngân hàng nước ngoài thực hiện lưu ký chứng khoán cho
người nước đầu tư nước ngoài. Đồng thời, 38 tổ chức kiểm toán độc lập được chấp thuận làm
nhiệm vụ kiểm toán báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành và tổ chức kinh doanh chứng
6
khoán. Tổng số thành viên lưu ký của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán hiện là 122 thành
viên, trong đó, có 8 ngân hàng lưu ký và 12 tổ chức mở tài khoản trực tiếp. Số lượng người
hành nghề tăng nhanh, phù hợp với sự tăng trưởng của các Công ty chứng khoán. Từ năm
2007 đến 2009 đã có gần 8400 người hành nghề được cấp chứng chỉ. Trong khi đó, số lượng
công ty quản lý quỹ cũng đã tăng gấp 8 lần từ 6 công ty cuối năm 2005 lên 47 công ty tính
đến 30/06/2010. Các công ty quản lý quỹ đã thành lập và quản lý các quỹ đầu tư chứng
khoán, thực hiện việc quản lý trên 200 danh mục đầu tư cho các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước. Tổng giá trị tài sản do các tổ chức này huy động và quản lý ước đạt 66.000 tỷ
đồng (tương đương 3,8 tỷ USD).
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng số lượng CTCK và Công ty quản lý quỹ
Thời gian Số lượng CTCK Tốc độ tăng Số lượng công ty quản lý quỹ Tốc độ tăng
2000 72001 8 14%2002 9 13%2003 12 33% 12004 13 8% 2 100%2005 14 8% 6 200%2006 55 293% 18 200%2007 78 42% 25 39%2008 102 31% 43 72%2009 105 3% 47 9%2010* 105 0% 47 0%
Nguồn: UBCKNN, * Tính đến 30/6/2010
Hệ thống các định chế trung gian không chỉ tăng về số lượng và cả chất lượng, sự
cạnh tranh lành mạnh là lực đẩy khiến các tổ chức này ngày càng phải nâng cao hiệu quả hoạt
động và chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Các tổ chức này đã chú trọng nâng cao
năng lực quản trị, ứng dụng công nghệ thông tin, đầu tư trang thiết bị máy móc hiện đại phục
vụ cho kinh doanh. Cùng với việc triển khai giao dịch trực tuyến, các loại hình dịch vụ cung
cấp trên thị trường ngày càng đa dạng và có chất lượng, đảm bảo tính công khai, minh bạch
và bình đẳng trên thị trường, ví dụ các mô hình đầu tư mới như quỹ đầu tư chứng khoán, hợp
đồng mua lại trái phiếu,cổ phiếu có kỳ hạn (repo) đã bắt đầu đưa vào thị trường từ năm 2005.
7
Các dịch vụ gia tăng giá trị như liên kết tài khoản với ngân hàng, báo giá chứng khoán qua
điện thoại, theo dõi giao dịch chứng khoán trực tuyến, đặt lệnh giao dịch qua điện thoại,
internet … được các CTCK đưa vào áp dụng ngày càng nhiều.
Trong thời gian đầu mới tham gia vào thị trường các CTCK chủ yếu làm nghiệp
vụ Môi giới là chính thì nay hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán đã triển khai
đầu tư các hoạt động như Tư vấn tài chính, Tự doanh, Bảo lãnh phát hành. Năng lực tài chính
của các CTCK ngày càng được nâng cao và đạt mức bình quân vốn điều lệ trên 150 tỷ đồng
trên công ty. Các CTCK đang hoạt động trên thị trường liên tục có các đợt tăng vốn điều lệ,
mở rộng quy mô hoạt động, gia tăng thị phần khiến tình hình cạnh tranh giữa các CTCK ngày
càng trở nên gay gắt. Theo thống kê năm 2009 có 10 CTCK có mức vốn điều lệ cao nhất trên
500 tỷ đồng, và 80/105 CTCK kinh doanh có lãi.
Hệ thống các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển mạnh cả về số
lượng và chất lượng
Số lượng các nhà đầu tư tham gia TTCK ngày càng đông đảo, tăng hơn 300 lần
trong vòng 10 năm, từ gần 3.000 tài khoản (cuối năm 2000) lên đến gần 926.000 tài khoản
(tháng 06/2010).
Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, hàng trăm các
CTCK, công ty quản lý quỹ, các doanh nghiệp bảo hiểm, quỹ đầu tư tích cực tham gia trên
TTCK, góp phần hình thành một hệ thống các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Tính đến thời điểm
cuối tháng 08/2009, có tất cả 21 quỹ đầu tư chứng khoán, trong đó có 04 quỹ đầu tư đại
chúng và 17 quỹ đầu tư thành viên thành lập và hoạt động. Hoạt động của các quỹ đầu tư
được đánh giá là khá hiệu quả, chuyên nghiệp và tăng trưởng đều đặn, ổn định. Hệ thống các
nhà đầu tư chuyên nghiệp tiếp tục được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển nhằm đảm bảo
có một TTCK tăng trưởng nhanh, bền vững, đủ khả năng hấp thu và làm triệt tiêu những cú
shock thị trường, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và sự an toàn của các nền kinh tế.
Ngoài ra, các chính sách khuyến khích đầu tư, môi trường đầu tư thân thiện, cởi
mở đã thu hút sự tham gia ngày càng đông đảo của các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức nước
8
ngoài. Đến nay đã có trên 10.000 tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có
trên 1.000 tài khoản là của các tổ chức nước ngoài, các quỹ đầu tư nước ngoài.
Hệ thống văn bản pháp lý, khuôn khổ pháp lý được phát triển một cách
đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thực tiễn phát triển TTCK Việt Nam
Luật Chứng khoán được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2007, đã đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn
khổ pháp lý cho TTCK. Hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán và các chính sách quản
lý thị trường tương đối đầy đủ, đồng bộ và thống nhất cho hoạt động của TTCK, từng bước
loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột với các văn bản pháp luật khác có liên quan (về cơ bản
thống nhất với Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư); phù hợp hơn với luật pháp, thông lệ quốc
tế, tạo nền tảng cho TTCKVN khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực;
tăng cường tính công khai minh bạch cho thị trường và nâng cao khả năng quản lý giám sát
thị trường của cơ quan quản lý nhà nước.
Các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay, tuy còn những hạn chế nhất định, song
về cơ bản đã đáp ứng được các yêu cầu và nguyên tắc quản lý, vận hành của hoạt động thị
trường chứng khoán. Mặc khác, hệ thống văn bản pháp lý còn thường xuyên được điều chỉnh
để nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và tạo ra môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng,
thân thiện và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Cấu trúc TTCK từng bước được hoàn thiện theo hướng tách chức năng
quản lý với chức năng tổ chức và vận hành thị trường, góp phần nâng cao
khả năng quản lý, giám sát của nhà nước
Thứ nhất, việc tái cấu trúc thị trường từng bước được thực hiện để khắc phục sự
thiếu đồng bộ và tạo sự phân định của thị trường. Các trung tâm giao dịch chứng khoán
(SGDCK), trung tâm Lưu ký chứng khoán (TTLKCK) được tách ra khỏi UBCKNN trở thành
pháp nhân độc lập nhằm tăng cường quản trị và năng lực hoạt động cho các tổ chức này,
đồng thời chức năng quản lý nhà nước trong hoạt động chứng khoán được tách bạch với chức
9
năng tổ chức vận hành TTCK. Các SGDCK sau đó được chuyển đổi thành Sở Giao Dịch
Chứng Khoán (SGDCK) hoạt động trên nguyên tắc và thông lệ quốc tế, TTLKCK hoạt động
độc lập, cung cấp các dịch vụ đăng ký chứng khoán, lưu ký và thanh toán cho hoạt động giao
dịch chứng khoán tại các SGDCK, thực hiện việc đăng ký lưu ký các loại chứng khoán phát
hành ra công chúng nhưng chưa được niêm yết.
Thứ hai, việc phân chia thị trường tập trung thành hai thị trường bộ phận với cùng
một phương thức giao dịch dựa trên các điều kiện niêm yết về lợi nhuận và vốn điều lệ trong
giai đoạn vừa qua đã góp phần quan trọng mở rộng thị trường có tổ chức, phát huy tính năng
động của các TTGDCK/SGDCK trong việc thu hút các doanh nghiệp vào niêm yết, đăng ký
giao dịch.
Thứ ba, cấu trúc thị trường tiếp tục được hoàn thiện thông qua việc xây dựng hệ
thống giao dịch trái phiếu chính phủ chuyên biệt tách khỏi thị trường cổ phiếu. Đưa vào vận
hành hệ thống giao dịch cổ phiếu của các công ty đại chúng chưa niêm yết UpCom, đưa cổ
phiếu phát hành của các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa và các công ty cổ phần
thuộc khu vực tư nhân được giao dịch trên thị trường tự do và giao dịch trên thị trường có sự
quản lý, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước nhằm mở rộng thị trường có tổ chức, quản lý
và thu hẹp thị trường tự do. Điều này vừa tăng cường tính minh bạch và bảo vệ nhà đầu tư,
mặt khác triệt tiêu những hệ thống rủi ro tiềm ẩn có thể ảnh hưởng đến cả thị trường chính
thức và hệ thống tài chính.
Hoạt động quản lý, giám sát thị trường ngày càng sâu sát và từng bước
hoàn thiện
Sau 10 năm đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động thị trường, UBCKNN đã
đề ra những biện pháp, chính sách thích hợp, kịp thời, nhằm đảm bảo TTCK vận hành an
toàn và phát triển ổn định, không để xảy ra đổ vỡ, xáo trộn lớn ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước, từng bước nâng cao năng lực giám sát và cưỡng chế thực thi
quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Hoạt động quản lý
và giám sát TTCK với trọng tâm lấy việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư là nòng cốt; các
chính sách quản lý TTCK đã thể hiện mục tiêu tăng cường tính công khai, minh bạch, từng
10
bước áp dụng các thông lệ về quản trị công ty tốt, các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán quốc
tế và khuyến cáo của Tổ chức quốc tế các UBCK (IOSCO).
Ngoài ra, cơ chế giám sát TTCK chuyên sâu, chuyên nghiệp theo thông lệ quốc tế
cũng được thiết lập. Công tác thanh tra, giám sát của UBCKNN tập trung vào: giám sát tuân
thủ các tổ chức trung gian thị trường; giám sát tuân thủ các tổ chức phát hành, tổ chức niêm
yết; giám sát tuân thủ của các SGDCK, TTLKCK; bên cạnh đó, giám sát giao dịch trên
TTCK nhằm phát hiện các hành vi lạm dụng thị trường; thanh tra thực hiện chức năng cưỡng
chế thực thi.
Mặc dù đã đạt được những thành công nhất định, trong 10 năm qua TTCK Việt
Nam cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định và gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển.
Các yếu tố cơ bản của một thị trường chứng khoán: hệ thống pháp lý, chủ thể tham gia thị
trường, cơ sở vật chất, hệ thống công nghệ … đã được hình thành ngay từ đầu nhưng tính
đồng bộ và mức gắn kết vẫn còn một số hạn chế, cụ thể như sau:
2. Một số hạn chế trên TTCK Việt Nam
Chỉ số chứng khoán biến động không ổn định
Trong 5 năm đầu phát triển (2000 – 2005) chỉ số VN- index mới đạt 307,5 điểm
và chỉ số HaSTC – index đạt 96,24 điểm. Giai đoạn 2006 – 2009 chỉ số chứng khoán tăng lên
nhanh chóng và đạt mức cao nhất 1.170,76 điểm và HaSTC-index đạt 459,36 điểm vào tháng
03/2007. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đã phần nào ảnh hưởng
đến TTCK Việt Nam, chỉ số VN-index đã giảm mạnh chỉ còn 366,02 điểm (giảm 71% so với
đầu năm); HaSTC – index giảm còn 105,12 điểm (tương đương 81%). Sau giai đoạn khủng
hoảng, thị trường tiếp tục đi xuống và chỉ số VN-index đạt mức thấp nhất 251,44 điểm và
HaSTC-index giảm còn 88,64 điểm vào ngày 13/03/2009. Từ cuối năm 2009 chỉ số chứng
khoán trên 2 SGDCK biến động giảm, từ tháng 02/2010 đến nay thị trường biến động lúc
tăng, lúc giảm, chỉ số VN-index dao động quanh mức 500 điểm.
Một đặc điểm dao động của chỉ số CK ở Việt Nam là rất lớn, chỉ số VN-index
biến động tăng giảm một phiên có thể lên đến 25 điểm, trong khi đó chỉ số CK trên thị trường
11
chứng khoán thế giới chỉ từ 2 đến 3 điểm. Với sự biến động của chỉ số CK như trên thể hiện
sự tăng trưởng không ổn định và bền vững của TTCK Việt Nam.
Hàng hóa còn hạn chế về quy mô và cơ cấu
Hiện nay, trên 2 SGDCK thị trường chỉ có hơn 500 cổ phiếu và một số ít trái phiếu
doanh nghiệp. Số lượng như vậy là tương đối nhỏ so với tiềm năng của nền kinh tế. Ngược
lại, thị trường giao dịch trái phiếu chính phủ chuyên biệt tại SGDCK Hà Nội có trên 500 mã
trái phiếu các loại, theo thông lệ quốc tế, số mã trái phiếu là tương đối nhiều nên độ sâu và
tính thanh khoản của thị trường còn hạn chế.
Giao dịch trên thị trường chủ yếu tập trung vào cổ phiếu, tuy lượng cổ phiếu được
đưa vào lưu ký để giao dịch chỉ chiếm khoảng hơn 60% lượng cổ phiếu được niêm yết. Giao
dịch trái phiếu còn khá hạn chế mặc dù số lượng có khả năng giao dịch rất lớn.
Nhìn chung, chất lượng của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam hiện nay
chưa cao. Điều này thể hiện trên một số khía cạnh như sau:
Chất lượng quản trị doanh nghiệp nói chung, bao gồm quản trị doanh
nghiệp; quản trị tài chính quản trị nhân sự … còn thấp. Nguồn nhân lực
đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo chủ chốt như HĐQT, ban giám đốc … có
trình độ chưa cao. Quản trị tài chính của các doanh nghiệp còn rất nhiều
vấn đề, trong đó tình trạng doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhưng lại đầu
tư tài chính lớn, vấn đề báo cáo tài chính hợp nhất … rất phức tạp và chưa
được quản lý một cách có hiệu quả.
Hầu hết các doanh nghiệp chưa phải là các doanh nghiệp hàng đầu của nền
kinh tế
Nhiều doanh nghiệp niêm yết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô vốn
thấp, chất lượng kinh doanh chỉ đạt mức trung bình, cơ hội mở rộng và phát
triển không cao.
12
Nhiều doanh nghiệp có chất lượng tốt, doanh nghiệp hàng đầu của nền kinh
tế chưa muốn tham gia thị trường niêm yết
Chưa đánh giá một cách trung thực, chính xác chất lượng doanh nghiệp
tham gia niêm yết.
Hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn
chế
Thứ nhất, đội ngũ nhân viên hành nghề còn yếu về trình độ, kinh nghiệm và kỹ
năng nghề nghiệp. Văn hóa kinh doanh tại nhiều công ty vẫn chưa được xây dựng. Số lượng
các tổ chức kinh doanh và cung cấp dịch vụ cho TTCK tăng quá nhanh, với năng lực về vốn
và chuyên môn còn hạn chế, tiềm ẩn rủi ro hệ thống và chưa tương xứng với hiệu quả hoạt
động chung của thị trường.
Thứ hai, chi nhánh của các CTCK và thành viên lưu ký hầu như chỉ tập trung ở hai
thành phố lớn là Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh, chưa xây dựng được mạng lưới rộng các CTCK
và thành viên lưu ký ở các tỉnh, thành phố lớn khác, nên chưa thu hút được rộng rãi các nhà
đầu tư.
Thứ ba, một số loại hình tổ chức như quỹ đầu tư chứng khoán, công ty định mức
tín nhiệm, đại lý đăng ký chuyển nhượng chứng khoán, là các định chế có vai trò quan trọng
trên thị trường chứng khoán, số lượng vẫn còn quá khiêm tốn hoặc vẫn chưa được thành lập.
Hệ thống quản lý chưa hoàn thiện
Thứ nhất, hệ thống pháp luật liên tục thay đổi, bổ sung, song cho đến thời điểm
này vẫn chưa hoàn thiện. Còn thiếu rất nhiều các quy định cũng như cần phải sửa đổi, bổ
sung nhiều quy định cho phù hợp với tình hình phát triển mới. Một số quy định của văn bản
hướng dẫn Luật Chứng khoán còn chồng chéo, chưa thống nhất với các văn bản pháp luật
khác; việc ban hành các quy định pháp lý nhìn chung đều có độ trễ so với mục tiêu đề ra,
đồng thời, nhiều quy định tại Luật Chứng khoán chưa được hướng dẫn thực hiện,…
13
Thứ hai, hệ thống quản lý cũng chưa ổn định, UBCKNN khi mới thành lập là cơ
quan độc lập, mới được sáp nhập vào Bộ tài chính song lại có những ý kiến đề nghị xem xét
tách ra độc lập. Đặc biệt là các SGDCK phát triển nhanh chóng song chưa theo định hướng
và vẫn chưa đảm bảo sự thống nhất, đầy đủ của cấu trúc thị trường, đảm bảo sự hoạt động có
hiệu quả của toàn bộ thị trường cũng như triển vọng phát triển trong tương lai.
Thứ ba, hệ thống giám sát, phòng ngừa rủi ro, phòng ngừa khủng hoảng chưa phát
triển tương ứng với sự phát triển của thị trường.
Cấu trúc thị trường còn nhiều bất cập
Hiện nay, Việt Nam có hai SGDCK là HOSE và HNX, ngoài ra còn có nhiều thị
trường GDCK khác được hình thành một cách tự phát, bao gồm:
Hoạt động giao dịch thứ cấp tại CTCK – một hình thức của thị trường OTC
tự phát do các CTCK đứng ra thực hiện
Hoạt động mua bán qua mạng không chính thức
Hoạt động cầm cố trái phiếu (chủ yếu là trái phiếu chính phủ) và hoạt động
mua bán trên thị trường tự do.
Mô hình này đã và đang làm tăng chi phí xã hội, chưa phù hợp với xu thế quốc tế
là sáp nhập, hợp nhất để tăng sức cạnh tranh và gây khó khăn cho công tác phát triển chiều
sâu để khai thác tối đa hệ thống công nghệ và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, sản phẩm,
đáp ứng nhu cầu khác nhau của thị trường.
Thị trường giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết mới được hình thành dưới hình thức
hệ thống giao dịch Upcom, chưa phát huy được vai trò tạo lập thị trường theo kiểu thị trường
phi tập trung. Ngoài ra, số lượng cổ phiếu đưa vào giao dịch so với số lượng công ty đại
chúng chiếm tỷ trọng quá thấp và thiếu hấp dẫn đối với doanh nghiệp cũng như công chúng
đầu tư. Hiện tại, vẫn còn tồn tại một bộ phận thị trường cổ phiếu được đăng ký với TTLKCK
nhưng chưa có cơ chế giao dịch và chuyển quyền sở hữu.
14
Tài liệu tham khảo
1. “Chứng khoán Việt Nam tăng trưởng theo cấp số nhân”, Tạp chíhttp://vneconomy.vn/20100718042232460p0c7/chung-khoan-viet-nam-tang-truong-theo-cap-so-nhan.htm
2. Hoàng Thị Thanh Thủy, Phan Hoàng Diệu, “Nhìn lại con đường của thị trường chứng
khoán Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 06/2010, khoa Tài chính – Ngân hàng,
ĐH Kinh tế quốc dân.
3. Nguyễn Sơn, “10 năm hoạt động TTCK Việt Nam và định hướng chiến lược giai đoạn
2010 – 2020”, Tạp chí kinh tế và dự báo, số 2 tháng 06/2010.
4. PGS. TS Bùi Anh Tuấn, PGS. TS Ngô Trí Tuệ, NSC.Ths Phạm Long, NCS. Ths Ngô
Đức Anh, “Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam – 10 năm nhìn lại”,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học 06/2010, khoa Tài chính – Ngân hàng, ĐH Kinh tế quốc
dân.
5. PGS.TS Đinh Xuân Hạng, “Thị trường chứng khoán Việt Nam – 10 năm nhìn lại”, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học 06/2010, khoa Tài chính – Ngân hàng, ĐH Kinh tế quốc dân.
6. PGS.TS Hoàng Xuân Quế, “Một số đánh giá về thị trường chứng khoán Việt Nam”,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học 06/2010, khoa Tài chính – Ngân hàng, ĐH Kinh tế quốc
dân.
7. SGDCK Hà Nội, “Thị trường chứng khoán Việt Nam mười năm hình thành và phát
triển”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 06/2010, khoa Tài chính – Ngân hàng, ĐH Kinh tế
quốc dân.
15
16