danh mỤc tỪ viẾt tẮt tai giang vien/de tai... · cực đổi mới phương pháp giảng...

47
1 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT - Bản đồ giáo khoa ………………………………BĐGK - Sách giáo khoa………………………………….SGK - Giảng viên………………………………………GV - Sinh viên………………………………………...SV - Học sinh………………………………………….HS - Trung học phổ thông…………………………….THPT

Upload: others

Post on 24-Dec-2019

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

1

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

- Bản đồ giáo khoa ………………………………BĐGK

- Sách giáo khoa………………………………….SGK

- Giảng viên………………………………………GV

- Sinh viên………………………………………...SV

- Học sinh………………………………………….HS

- Trung học phổ thông…………………………….THPT

Page 2: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

- Hiện nay dạy học được coi là quá trình phát triển của bản thân học sinh (sinh

viên), việc học tập không chỉ là quá trình lĩnh hội các kiến thức có sẵn, mà còn là quá

trình người học tự khám phá, tự phát hiện, tự tìm đến với kiến thức mới nhờ sự hướng

dẫn, giúp đỡ, tổ chức các hoạt động học tập của giảng viên (GV). Vì vậy, dạy học

ngày nay không còn đơn thuần chỉ là việc truyền đạt kiến thức của GV cho sinh viên

(SV), mà phải tạo ra những cơ hội để phát triển ở người học khả năng tự tìm kiếm, xử

lí và thu thập thông tin, nói cách khác là phải rèn luyện cho học sinh (HS) khả năng tự

học để họ có thể tự bổ sung kiến thức của mình và khả năng học tập suốt đời.

Trong mối quan hệ giữa ba thành tố của quá trình dạy học: mục tiêu, nội dung

và phương pháp thì phương pháp dạy học phải nhằm thực hiện mục tiêu và phụ thuộc

vào nội dung dạy học.

- Môn Địa lí ở trong các nhà trường không những chỉ trang bị cho HS những

kiến thức về khoa học xã hội nhân văn mà còn cùng với một số môn học khác trang

bị cho HS những kiến thức về tự nhiên và tư duy khoa học. Chính vì vậy nội dung

kiến thức của bộ môn được trình bày trong sách giáo khoa, giáo trình cũng hàm chứa

nhiều loại hình thông tin vừa mang tính xã hội nhân văn vừa mang đặc điểm như các

môn khoa học tự nhiên khác. Các thông tin cũng được truyền đi qua nhiều kênh khác

nhau, trong đó bản đồ là phương tiện đặc trưng và phổ biến nhất trong mọi hoạt động

có liên quan đến địa lí học.

- Thực tế cho thấy hiện nay phần lớn giáo viên dạy học địa lí ở các nhà trường

đều thiết kế bài dạy theo cấu trúc một bài dạy thuần tuý về kiến thức xã hội, đồng

thời phương pháp truyền thụ vẫn chưa thoát khỏi tính truyền thống, ít có sự kết hợp

một cách linh hoạt giữa các phương pháp truyền thống và hiện đại, vì vậy chất lượng

bài dạy đạt kết quả chưa cao.

- Kiến thức địa lí nói chung và ở các nhà trường nói riêng hiện nay đã và đang

được các nhà biên soạn thiết kế dưới nhiều kênh thông tin đan xen vào nhau như:

kênh chữ, kênh hình, các bảng biểu số liệu, biểu đồ, bản đồ…chính từ chỗ thiết kế

Page 3: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

3

như vậy đòi hỏi người dạy, người học còn phải biết cách tổ chức khai thác hết lượng

kiến thức thông qua các kênh thông tin đó.

- Hiện nay, cuộc vận động của ngành giáo dục đối với giáo viên là phải tích

cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và

phương tiện dạy học trực quan vào trong dạy học đã trở thành một tiêu chí đánh giá

chuyên môn trong các nhà trường. Từ thực tiễn nêu trên của hoạt động dạy học địa lí

ở trường đại học cũng như ở trường phổ thông, việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và có

hiệu quả các phương pháp dạy học địa lí đang được xem như là một vấn đề quan trọng

và cấp bách nhất mà các nhà quản lí giáo dục và giáo viên dạy học bộ môn Địa lí phải

được quan tâm giải quyết.

Trên cơ sở đó, chúng tôi tham gia đề xuất một số vấn đề liên quan đến việc: “Rèn

luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho sinh viên khoa Địa lí Trường đại học Đồng Tháp”

nhằm tạo điều kiện cho SV tích lũy được những kĩ năng cơ bản, cần thiết về sử dụng,

khai thác tri thức trong bản đồ để phục vụ cho học tập, nghiên cứu và phục vụ hoạt

động giảng dạy bộ môn địa lí sau này ở các trường phổ thông.

2. Mục tiêu của đề tài:

Trên cơ sở xác lập hệ thống cơ sở lí luận của vấn đề cần nghiên cứu để từ đó vừa

đánh giá thực trạng, xác lập một số giải pháp nhằm rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ

trong học tập, nghiên cứu để phục vụ cho việc giảng dạy địa lí tại các trường phổ

thông sau này của SV ngành sư phạm địa lí tại trường Đại học Đồng Tháp.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của phương pháp hình thành kĩ

năng sử dụng bản đồ cho SV trong quá trình học tập, nghiên cứu

- Tìm hiểu những biện pháp cụ thể để hình thành kĩ năng bản đồ cho SV phù

hợp với chương trình học ở trường đại học và chương trình sách giáo khoa (SGK) địa

lí THPT.

- Ứng dụng vào dạy, soạn bài SGK Địa lí ở để thử nghiệm chứng minh tính

hiệu quả cần thiết trong quá trình hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho SV một cách

hợp lý.

Page 4: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

4

4. Đối tượng nghiên cứu

Thực trạng việc sử dụng bản đồ trong học tập và nghiên cứu của sinh viên khoa

Địa lí trường Đại học Đồng Tháp

5. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu việc sử dụng bản đồ của SV khoa Địa lí trường

Đại học Đồng Tháp để làm cơ sở xác lập các kĩ năng cần rèn luyện cho SV khi sử

dụng bản đồ

6. Lịch sử nghiên cứu đề tài

Trong nhiều năm “Bản đồ với tư cách là ngôn ngữ thứ hai của địa lí” đã

được các nhà địa lí đánh giá cao vai trò của nó đối với công tác nghiên cứu và

giảng dạy địa lí.

Nhiều công trình khoa học cũng đã nghiên cứu việc dùng bản đồ trong giảng

dạy và học tập địa lí ở nhà trường phổ thông.

Giáo sư V.P.Buđanốp tác giả cuốn “Bản đồ trong việc giảng dạy địa lí” –

M.1948 đã nhấn mạnh đến ý nghĩa của bản đồ trong việc giảng dạy địa lí và nhu cầu

phải hướng dẫn học sinh hiểu biết bản đồ để học tập địa lí. [ 3, tr 24 ]

Giáo sư A.A.Booczôp tác giả cuốn “Các hoạt động địa lí” – M.1949, cũng đã đề

cập đến vai trò của bản đồ trong việc giảng dạy địa lí. Ông cho rằng cơ sở của việc học

tập địa lí phải là thiên nhiên và bản đồ, cho nên một trong những mục đích cơ bản của

việc học tập địa lí phải là kĩ năng đọc bản đồ và kĩ năng dựa vào bản đồ để tìm ra

những kiến thức địa lí. [ 2, tr 31 ]

Giáo sư N.N.Baranxki tác giả cuốn “Phương pháp giảng dạy địa lí kinh tế” –

M.1972. Ông đề cao vai trò của bản đồ trong nghiên cứu và giảng dạy địa lí: “Bản đồ

là anfa và ômêga của địa lí”; “Bản đồ là ngôn ngữ thứ hai của địa lí”. [ 1, tr 17 ]

Ngoài ra, một loạt các công trình nghiên cứu của các tác giả khác có liên quan

đến vấn đề này cũng đã được nói đến trong các giáo trình phương pháp giảng dạy địa

lí đã xuất bản ở Liên Xô trước đây. Mỗi tác giả đều có cách nhìn nhận và giải quyết

vấn đề sử dụng bản đồ ở các mức độ khác nhau. Có tác giả đi sâu vào cách dùng bản

đồ trong giảng dạy địa lí, có tác giả lại thiên về việc hướng dẫn học sinh hiểu và đọc

Page 5: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

5

bản đồ để học địa lí; nhưng nhìn chung, các tác giả đều đề cập đến một số vấn đề chủ

yếu sau:

- Vai trò của bản đồ trong giảng dạy và học tập địa lí.

- Mục đích của việc dùng bản đồ trong giảng dạy địa lí là phải giúp học sinh

hiểu, đọc và biết vận dụng bản đồ.

- Các tác giả đã ít nhiều đề cập đến việc dạy học sinh hiểu và đọc bản đồ ở mức

độ khái quát nhất.

Nhìn chung, các tác giả mới đề cập đến một vài khía cạnh của việc dùng bản đồ

trong dạy học địa lí và hướng dẫn học sinh giải quyết một vài bài tập cụ thể có liên

quan đến bản đồ.

Ở nước ta, việc dạy học sinh nắm vững các kiến thức và kĩ năng bản đồ cũng

chưa được một tác giả nào nghiên cứu một cách cụ thể. Phần lớn mới chỉ đề cập đến

một vài khía cạnh có liên quan tới vấn đề này trong các giáo trình phương pháp giảng

dạy địa lí và bản đồ học ở các trường đại học và cao đẳng sư phạm hoặc trong các sách

hướng dẫn giảng dạy địa lí như:

- Giáo trình “Phương pháp giảng dạy Địa lí” - Nguyễn Dược – Mai Xuân San –

NXBGD – 1983.

- Giáo trình “Lý luận dạy học Địa lí” - Nguyễn Dược – Nguyễn Trọng Phúc

- Giáo trình “Lý luận dạy học địa lí theo hướng tích cực” - Đặng Văn Đức -

Nguyễn Thu Hằng – NXBĐHSP – 2004.

- Cuốn “Bản đồ học” – Ngô Đạt Tam – Lê Ngọc Nam - Nguyễn Trần Cầu -

Phạm Ngọc Đĩnh – 1986.

Trong một số luận văn thạc sĩ và luận án phó tiến sĩ, cũng có đề cập đến

“Phương pháp sử dụng bản đồ trong dạy học địa lí” như luận án phó tiến sĩ: “Các biện

pháp hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh các lớp 6, 7, 8 phổ thông cơ sở”

của PGS.TS.Đặng Văn Đức. Gần đây trong quá trình nghiên cứu nhằm đổi mới

phương pháp dạy học địa lí ở trường THPT cũng có một số bài viết về vấn đề sử dụng

bản đồ trong dạy học địa lí, như tài liệu “Chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học Địa

lí bậc trung học” (Hà Nội 1999).

Page 6: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

6

- Lâm Quang Dốc, Giáo trình bản đồ học đại cương, Nxb Đại học sư phạm Hà

Nội. 2003.

Giáo trình đã bổ sung, nâng cao nhiều cơ sở lí luận và kiến thức hiện đại của

Bản đồ học như lí luận về Phương pháp bản đồ - Phương pháp nghiên cứu cơ bản của

Bản đồ học, về ngôn ngữ bản đồ, khái quát hóa những đặc trưng cơ bản của Bản đồ địa

lí. Đặc biệt hai chương Thành lập bản đồ và Sử dụng bản đồ mang tính ứng dụng,

không chỉ nâng cao các kiến thức lí luận mà được trình bày rất sâu sắc, cụ thể các

phương pháp.

- Mai Xuân San, Rèn luyện kĩ năng Địa lí cho học sinh trường phổ thông, Nxb

GD 1997

Nhìn chung, những vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu nhằm rèn luyện kĩ năng

sử dụng bản đồ trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy Địa lí ít được nghiên cứu

chuyên sâu; những công trình nghiên cứu được đề cập ở trên cũng chỉ dừng lại ở việc

hướng dẫn sử dụng bản đồ ở các mức độ khác nhau trong những tình huống khác nhau

Trên cơ sở kế thừa và phát triển các công trình có liên quan, đề tài này sẽ

nghiên cứu cụ thể hơn về “Rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho sinh viên Trường

Đại học Đồng Tháp” nói riêng đồng thời góp phần vào việc nâng cao phương pháp sử

dụng bản đồ trong học tập, nghiên cứu và dạy học Địa lí nói chung.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết

7.1.1. Phương pháp hệ thống cấu trúc: thực chất của phương pháp này là đem

đối tượng được nghiên cứu ra xem xét nó trong một hệ thống hoàn chỉnh, gồm những

yếu tố có liên quan đến nhau thành một cấu trúc chặt chẽ, và các mối quan hệ qua lại

cần được quan tâm.

7.1.2. Phương pháp phân loại: nhằm phân loại những bản đồ hiện đang sử dụng

trong hoạt động dạy - học địa lí nhằm làm cơ sở cho việc xây dựng và sử dụng các loại

bản đồ trong dạy- học Địa lí ở Khoa Địa lí cũng như ở các trường phổ thông đạt hiệu

quả cao.

Page 7: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

7

7.1.3. Các tài liệu về địa lí và bản đồ học

7.2. Phương pháp bản đồ: là phương pháp đặc trưng của khoa học bản đồ. Sử

dụng bản đồ là sử dụng kiến thức bản đồ trong việc hình thành kiến thức địa lí cho SV.

7.3. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Song song với việc nghiên cứu lý thuyết trong quá trình thực hiện đề tài, chúng

tôi rất coi trọng việc tìm hiểu thực tế ở hoạt động dạy – học tại Khoa Địa lí Trường

Đại học Đồng Tháp (ĐHĐT) cũng như ở một số trường phổ thông, phát hiện các vấn

đề có liên quan tới việc giảng dạy và học tập địa lí, đặc biệt là những vấn đề rèn luyện

kĩ năng bản đồ cho SV, HS.

7.3.1. Phương pháp chuyên gia

Tiến hành phỏng vấn lấy ý kiến một số gảng viên trực tiếp giảng dạy địa lí ở

Trường ĐHĐT về tình hình sử dụng bản đồ trong dạy học, trong quá trình đổi mới

phương pháp hiện nay việc sử dụng bản đồ phục vụ học tập, nghiên cứu của SV Khoa

Địa lí

7.3.2. Phương pháp khảo sát: nhằm tìm hiểu thực tế của việc sử dụng bản đồ của SV

khoa Địa lí Trường ĐHĐT. Chúng tôi sử dụng nhiều biện pháp như phỏng vấn, trao đổi,

…để tìm hiểu vấn đề này.

Page 8: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

8

NỘI DUNG

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Bản đồ học và bản đồ địa lí

1.1.1. Định nghĩa bản đồ học

Theo Lâm Quang Dốc – Phạm Ngọc Đĩnh:

Định nghĩa chặt chẽ và hoàn chỉnh về bản đồ học do giáo sư K.A. Salishev đưa

ra, được nhiều người thừa nhận: “Bản đồ học là khoa học về sự nghiên cứu và phản

ánh sự phân bố không gian, sự phối hợp và sự liên kết lẫn nhau của các hiện tượng tự

nhiên và xã hội (cả những biến đổi của chúng theo thời gian) bằng các mô hình kí hiệu

hình tượng đặc biệt – sự biểu hiện bản đồ”. [ 7 tr 16]

Năm 1995, tại Bacxêlôna – Tây Ban Nha, Đại hội lần thứ 10 Hội Bản đồ thế

giới đã đưa ra định nghĩa: “Bản đồ học là ngành khoa học giải quyết những vấn đề lí

luận, sản xuất, phổ biến và nghiên cứu về bản đồ”.

1.1.2. Định nghĩa, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa bản đồ địa lí

Đinh nghĩa

Khái niệm về bản đồ địa lí là kiến thức học sinh tiếp nhận được ngay từ bài học

Địa lí đầu tiên ở nhà trường phổ thông, với định nghĩa: “Bản đồ là hình vẽ thu nhỏ trên

giấy, tương đối chính xác về một khu vực hay toàn bộ bề mặt Trái Đất”.

“Bản đồ địa lí là mô hình ký hiệu hình tượng không gian của các đối tượng và

các hiện tượng tự nhiên, xã hội, được thu nhỏ được tổng hợp hoá theo một cơ sở toán

học nhất định nhằm phản ánh vị trí, sự phân bố và mối tương quan của các đối tượng,

hiện tượng, cả những biến đổi của chúng theo thời gian để thoả mãn mục đích yêu cầu

đã định trước” [ 3, tr6 ]

“Bản đồ là hình ảnh thực tế của địa lí, được kí hiệu hoá, phản ánh các yếu tố

hoặc các đặc điểm địa lí một cách có chọn lọc, kết quả từ sự nỗ lực, sáng tạo trong lựa

Page 9: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

9

chọn của tác giả bản đồ và được thiết kế để sử dụng chủ yếu liên quan đến các mối

quan hệ không gian” (Hội bản đồ thế giới)

Các định nghĩa trên hoàn toàn xác thực với bản đồ địa lí, phản ánh đầy đủ

những thuộc tính của một bản đồ địa lí.

Đặc điểm

Nếu nghiên cứu, phân tích một cách sâu sắc ta thấy sự biểu hiện bản đồ nổi bật

những đặc trưng sau:

- Bản đồ thành lập trên cơ sở toán học

Xuất phát từ việc biểu hiện sự phân bố và quan hệ không gian của các đối

tượng, bản đồ được xem là sự biểu hiện thu nhỏ bề mặt Trái Đất, cùng một lúc có thể

bao quát được tất cả một không gian rộng lớn, thậm chí cả thế giới, không gian vũ trụ.

Như vậy, sự biểu hiện bản đồ gắn liền với tính chất của tỉ lệ xích. Bản đồ được thể

hiện trên mặt phẳng, để chuyển được bề mặt tự nhiên của Trái Đất vốn có địa hình

phức tạp và những đối tượng cần họa đồ rất đa dạng trên bề mặt elipxoit Trái Đất. Thứ

hai, thu nhỏ kích thước elipxoit Trái Đất và biểu hiện bề mặt elipxoit Trái Đất trên mặt

phẳng. Để làm được điều này phải sử dụng phương pháp toán học, gọi là phép “chiếu

hình bản đồ”. Phép chiếu hình bản đồ quy định sự phụ thuộc hàm số nhất định giữa tọa

độ của những điểm trên bề mặt elipxoit Trái Đất và tọa độ của những điểm tương ứng

trên mặt phẳng bản đồ. Nhờ đó bản đồ đảm bảo được tính đồng dạng và sự tương ứng

không gian của các đối tượng được biểu hiện

- Bản đồ sử dụng ngôn ngữ hình ảnh - kí hiệu

Trong quá trình phát triển, xã hội loài người đã xuất hiện hàng loạt các phương

tiện để ghi chép và truyền đạt các biểu tượng như ngôn ngữ cử chỉ, ngôn ngữ âm

thanh, ngôn ngữ hình ảnh, ngôn ngữ văn tự… Sự biểu hiện bản đồ sử dụng ngôn ngữ

hình ảnh – hệ thống kí hiệu. Các kí hiệu bản đồ đã ghi được các đối tượng, hiện tượng

khác nhau biểu hiện trên bản đồ. Sự biểu hiện bằng hệ thống kí hiệu đã làm cho bản đồ

không giống với những sự biểu hiện khác về Trái Đất như những bức ảnh hàng không

và tranh phong cảnh cùng một địa phương.

Bản đồ với các kí hiệu, ấn tượng ban đầu có thể cho cảm giác xa lạ, không trực

quan như những bức ảnh, bức tranh, nhưng thực tế, sự biểu hiện bằng kí hiệu đã tạo

Page 10: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

10

cho bản đồ có những ưu thế mà không một bức ảnh, bức tranh địa phương nào có

được.

- Bản đồ có sự tổng quát hóa

Bản đồ không thể hiện tất cả các đối tượng, hiện tượng Địa lí có ở địa phương, vì

bản đồ là sự biểu hiện thu nhỏ. Tỉ lệ càng nhỏ, mức độ thu nhỏ càng lớn. Mặt khác,

mỗi bản đồ được thành lập đều nhằm phục vụ một mục đích và chủ đề nhất định nào

đó. Vì thế những đối tượng, hiện tượng đưa lên bản đồ phải được chọn lọc có ý thức,

phải loại bỏ những đối tượng và khía cạnh không cần thiết, chỉ giữ lại và nêu bật

những đối tượng, hiện tượng với những nét đặc trưng chủ yếu, điển hình, quan trọng

nhất trên cơ sở mục đích, chủ đề, tỉ lệ bản đồ và đặc điểm địa phương. Quá trình chọn

lọc đó là sự “tổng quát hóa bản đồ”.

Nội dung

Nội dung của bản đồ là yếu tố chủ đạo cấu thành nên bản đồ (gồm: nội dung bản

đồ, cơ sở toán học của bản đồ, yếu tố hỗ trợ và những bản đồ phụ). Nội dung này bao

gồm tổng thể những thông tin về các đối tượng, hiện tượng địa lí (tự nhiên, kinh tế - xã

hội) được biểu hiện trong phạm vi lãnh thổ họa đồ với sự phân bố, tình trạng, những sự

kết hợp, các mối liên hệ và sự phát triển. Những nội dung này tùy thuộc vào mục đích,

chủ đề và tỉ lệ của mỗi bản đồ.

Trên bản đồ địa lí đại cương, sự biểu hiện là các đối tượng, hiện tượng địa lí tự

nhiên, kinh tế - xã hội như: địa hình, nước trên mặt, lớp phủ thực vật, các điểm quần

cư, mạng lưới giao thông, và một số đối tượng nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa, sự

phân chia chính trị - hành chính… Còn trên bản đồ chuyên đề, nội dung biểu hiện

chính chỉ gồm một vài đối tượng, hiện tượng địa lí, nhưng được phản ánh một cách chi

tiết, sâu sắc; ví dụ: bản đồ dân cư biểu hiện sự phân bố quần cư, mật độ dân số, số dân

và các đặc điểm khác của dân cư.

Ý nghĩa bản đồ địa lí

Nói về vai trò, ý nghĩa của bản đồ địa lí, nhà địa lí học của Liên Xô trước đây

đã khái quát: “Nếu như các nhà sinh vật học để nghiên cứu những vật thể nhỏ bé, trước

hết phải quan tâm thu nhận sự biểu hiện phóng đại chúng qua kính hiển vi. Ngược lại,

Page 11: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

11

các nhà địa lí phải nghĩ có được sự biểu hiện thu nhỏ bề mặt Trái Đất - cái đó chính là

bản đồ”.

Bản đồ địa lí có vai trò và ý nghĩa hết sức to lớn trong thực tiễn, trong nghiên

cứu khoa học và giảng dạy, học tập địa lí.

Trong thực tiễn, bản đồ địa lí được sử dụng một cách rộng rãi để giải quyết

nhiều nhiệm vụ khác nhau, những nhiệm vụ gắn liền với sự khai thác và sử dụng hợp lí

lãnh thổ.

Bản đồ địa lí không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học, nó là phương tiện

nghiên cứu của các nhà khoa học về Trái Đất. Bản đồ giúp các nhà khoa học tìm hiểu

những quy luật phân bố các đối tượng, sự lan truyền của các hiện tượng và những mối

tương quan của chúng trong không gian, cho phép phát hiện các quy luật tồn tại và dự

đoán con đường phát triển của chúng trong tương lai. Bất cứ một sự nghiên cứu nào

cũng phải bắt đầu từ bản đồ và kết thúc bằng bản đồ. Bản đồ được xem là một tiêu

chuẩn của sự phát triển địa lí. D. N. Anusin đã viết: “Mức độ nhận thức về mặt địa lí

một nước được xác định bởi độ hoàn hảo của bản đồ hiện có của nước đó”.

Trong giảng dạy và học tập địa lí, bản đồ giữ vai trò rất quan trọng. Bản đồ là

kho tàng trữ các tri thức địa lí tích lũy được, là kênh hình của sách giáo khoa địa lí.

Bản đồ vừa là nội dung vừa là phương tiện đặc thù không thể thiếu trong giảng dạy và

học tập địa lí.

Ngày nay bản đồ còn được coi là một phương tiện có hiệu quả để phổ biến các

tri thức, nâng cao trình độ văn hóa chung cho mọi người, cung cấp những hiểu biết về

quê hương đất nước về các quốc gia trên thế giới, giáo dục lòng yêu nước, yêu quý

thiên nhiên, bảo vệ môi trường…

Không phải cường điệu khi nói rằng, các bản đồ ở mức độ nào đó đã trở thành

một phương tiện cần thiết trong sản xuất và đời sống con người.

1.2. Kĩ năng và kĩ năng địa lí

1.2.1. Kĩ năng

Theo Lưu Xuân Mới: kĩ năng là sự biểu hiện kết quả hành động trên cơ sở kiến

thức đã có. Kĩ năng là tri thức trong hành động

Page 12: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

12

Từ điển tiếng Việt: Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu được

vào thực tế

1.2.2. Kĩ năng địa lí

Hiện nay trong bộ môn địa lí người ta thường nói tới bốn loại kĩ năng sau đây:

- Kĩ năng làm việc với bản đồ trong đó có các kĩ năng, định hướng trên bản đồ,

đo đạc trên bản đồ, đọc bản đồ, sử dụng bản đồ, lược đồ, …

- Kĩ năng làm việc ngoài trời trong đó kĩ năng quan sát, đo đạc với các công cụ

quan trắc về các hiện tượng thời tiết, địa hình, thổ nhưỡng, thực động vật, …

- Kĩ năng làm việc với các tài liệu địa lí trong đó có các kĩ năng lập lát cắt, vẽ

biểu đồ, bản đồ phân tích các số liệu, …

- Kĩ năng học tập địa lí trong đó có kĩ năng làm việc với SGK, tài liệu tham

khảo, kĩ năng mô tả, viết và trình bày các vấn đề địa lí.

Trong bốn loại kĩ năng trên thì kĩ năng làm việc với bản đồ (kĩ năng đầu tiên) là

quan trọng nhất.

Page 13: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

13

Chương 2

VIỆC SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TRONG HỌC TẬP NGHIÊN CỨU

CỦA SINH VIÊN KHOA ĐỊA LÍ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

2.1. Việc sử dụng bản đồ trong học tập và nghiên cứu ở trường đại học

2.1.1. Phương pháp nghiên cứu bản đồ trong địa lí

Sơ đồ: Các thành phần của nội dung học vấn địa lí dạy trong nhà trường

Trong quá trình học tập và nghiên cứu hệ thống tri thức địa lí, một vấn đề được

đặt lên hàng đầu và chiếm giữ phần quan trọng là phải có bản đồ. Vì trong thực tế,

Nội dung học thuật môn Địa lí

Kiến thức Kĩ năng – kĩ xảo

Kiến thức thực tiễn

Kiến thức lý thuyết

Kĩ năng học tập và nghiên cứu địa lí

Kĩ năng làm việc với các tài liệu địa lí

Kĩ năng làm việc với các dụng cụ nghiên cứu địa lí

Kĩ năng bản đồ

- Các số liệu, sự kiện địa lí - Các biểu tượng địa lí - Các mô hình sáng tạo địa lí

- Các khái niệm, quy luật, mối quan hệ nhân quả - Các thuyết trong địa lí - Những tư tưởng, quan điểm trong địa lí học - Những kiến thức về phương pháp học tập và nghiên cứu địa lí

Page 14: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

14

“việc tìm kiếm các tiêu chuẩn và nguyên tắc suy giải các kết quả nghiên cứu luôn buộc

ta quay về với thực tiễn. Nghiên cứu theo bản đồ đòi hỏi kiểm tra bằng thực tế. Tiếp

theo, trong kết quả cải biên bản đồ ban đầu có thể có những bản đồ mới được xây

dựng. Thí dụ, bản đồ đẳng cao được cải biên thành bản đồ độ dốc; bản đồ độ lớn các

điểm quần cư, thành bản đồ trường thế năng cư trú…Các bản đồ này hoàn toàn thích

hợp cho những biến thể mới trong tiến trình nghiên cứu tiếp theo”. [4 tr27]

Theo Ngô Đạt Tam: “Bản đồ địa lí, là mô hình thực tế khách quan được dùng

rộng rãi và ở nhiều mức độ khác nhau:

- Đọc bản đồ để tìm hiểu chung về lãnh thổ, để tìm hiểu một vài hiện tượng, vấn

đề nào đó (đặc điểm, vị trí, qui luật phân bố của hiện tượng, v.v…), hoặc để phân biệt

đối tượng sâu hơn. Đọc bản đồ ở trong phòng, và cũng có thể dùng bản đồ để nhận biết

đối tượng ở thực địa, làm người dẫn đường.

- Dùng bản đồ để đo, tính, lấy số liệu, khảo sát sơ bộ, lập dự án qui hoạch công

trình, thiết kế, vạch kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa hay để nghiên cứu, phân tích

sâu sắc hơn, toàn diện hơn nhằm phát hiện những qui luật mới của tự nhiên hoặc kinh

tế- xã hội.” [ 8, tr31 ]

“Sự áp dụng phương pháp nghiên cứu bằng bản đồ vào khoa học và thực tiễn rất

khác nhau. Nó đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của phần lớn các khảo cứu

lí thuyết và thực tiễn, đã là một trong những phương pháp cơ bản của các khoa học về

Trái Đất và xã hội. Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong địa lí tự nhiên, trong

địa chất và địa vật lí, trong các khoa học kinh tế- xã hội và lịch sử. Sử dụng bản đồ

như một công cụ nhận thức đã tạo điều kiện hình thành nhiều ngành khoa học, địa lí y

học, hành tinh học so sánh…Phương pháp nghiên cứu bằng bản đồ là phương tiện để

đề xuất những quyết định quan trọng trong kinh tế quốc dân liên quan đến qui hoạch,

khai thác lãnh thổ, phát triển các tổng thể sản xuất- lãnh thổ, bảo vệ thiên nhiên…”[ 4,tr 10 ]

Bản đồ giáo khoa địa lí hiện nay, tuy vẫn có chức năng là một phương tiện dạy

học trực quan, nhưng chức năng chủ yếu và vô cùng quan trọng của nó, lại là một

nguồn tri thức địa lí phong phú để học sinh khai thác khi học tập. Mỗi đối tượng được

ghi trên bản đồ đều bắt nguồn từ các cuộc thám hiểm, đôi khi gian lao và đầy hiểm

Page 15: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

15

nguy của các nhà Địa lí trên thực địa. Chính vì thế, bản đồ xứng đáng được coi là

“Cuốn sách giao khoa Địa lí thứ hai” [6 tr 117]

Sử dụng bản đồ trong bất cứ nghiên cứu cụ thể nào cũng cần có sự hiểu biết của

chính đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra, cần có khái niệm rõ về vị trí của phương pháp

bản đồ trong tổ hợp với các phương pháp khác, vì sự phân tích bản đồ không thay thế

mà là bổ sung một cách hữu cơ cho các nghiên cứu chuyên môn khác.

2.1.2. Các giai đoạn nghiên cứu bằng bản đồ

Trong các hoạt động nghiên cứu bao giờ cũng được tiến hành qua các giai đọan

khác nhau. Việc xác định nội dung các giai đọan nghiên cứu nhằm đạt được sự qui

hoạch hoạt động nghiên cứu để có thể đạt được kết quả tối ưu. Đối với các hoạt động

nghiên cứu tiến hành trên bản đồ, có thể chia thành 4 giai đoạn: Đặt vấn đề nghiên cứu,

chuẩn bị cho nghiên cứu, xác định nội dung nghiên cứu, suy giải các kết quả đạt được.

- Đặt vấn đề: Công tác nghiên cứu bằng bản đồ được bắt đầu từ việc hình thành

nội dung của nhiệm vụ, xác định mục đích, phương hướng nghiên cứu. Có thể được

thực hiện xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, chẳng hạn như việc nghiên cứu địa hình để

mở một tuyến đường,..

Cách đặt vấn đề thực chất là xác định công việc nghiên cứu nhằm đạt được một

kết quả mong đợi nào đó. Trong các nghiên cứu dựa trên bản đồ, có thể có cách đặt

vấn đề bao gồm một số mục đích với một cơ cấu theo thứ bậc của các mục đích ấy.

Khi đó cần phân biệt các mục đích trung gian và mục đích cuối cùng, xác định rõ trình

tự giải quyết các vấn đề. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề thế nào thì cũng phải trên quan

điểm cách đặt vấn đề có tính chất bản đồ học là lựa chọn con đường và nguyên tắc sử

dụng thông tin bản đồ. Chẳng hạn khi nghiên cứu không gian để xây dựng một con

đường thì phải kết hợp nghiên cứu bản đồ địa hình, địa chất, địa mạo,…mới có thể cho

ra một kết luận có tính khoa học và triển vọng.

- Chuẩn bị nghiên cứu: Là việc lựa chọn các tài liệu bản đồ và các phương tiện kĩ

thuật. Khi lựa chọn các bản đồ, cần đánh giá mức độ đầy đủ, chính xác, tính cập nhật,

mức độ khái quát hóa,…của nó.

Các nhiệm vụ nghiên cứu, yêu cầu về độ chính xác và các tài liệu bản đồ qui định

việc lựa chọn các phương tiện cũng như các phương pháp kĩ thuật để nghiên cứu.

Page 16: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

16

Không phải bao giờ một phương pháp chọn sẵn cũng hoàn toàn thích hợp cho một

trường hợp cụ thể.

Kết quả của giai đọan này là phải định ra được cách thức, thủ tục nghiên cứu.

Cần xác định sẽ lấy dữ liệu từ bản đồ như thế nào và còn tiên lượng trong quá trình

diễn biến nghiên cứu có thể phải bổ sung thêm các nội dung bản đồ gì cho hoàn chỉnh.

- Giai đoạn nghiên cứu: Là giai đoạn thực hiện nghiên cứu trên bản đồ để cho ra

những kết quả sơ bộ ban đầu của vấn đề nghiên cứu. Các kết quả này tiếp tục được

hiệu chỉnh để hoàn thiện dần đến khi đạt kết quả tối ưu.

- Giai đọan suy giải các kết quả: Là giai đoạn kết thúc và quan trọng nhất của

nghiên cứu. Nó bắt đầu từ việc đánh giá mức độ chính xác các bản đồ đã thành lập, các

đồ thị, các bảng kê, các công trình,…Thực chất của giai đoạn này là xác định sự phù

hợp giữa các số liệu đã được lập hoặc nhận được của phép phân tích bằng bản đồ với

một hệ thống nào đó về các dữ kiện, các qui luật. Việc suy giải phải luôn dựa trên tri

thức và sự hiểu biết trước về đối tượng đang nghiên cứu.

2.2. Tình hình sử dụng bản đồ trong học tập và nghiên cứu của sinh viên

khoa Địa lí- Trường ĐH Đồng Tháp

Nhìn chung, hiện nay việc sử dụng bản đồ trong giảng dạy và học tập địa lí còn

nhiều hạn chế do bản thân người dạy và người học chưa thực sự nhận thức đầy đủ về ý

nghĩa, vai trò của bản đồ địa lí trong dạy học địa lí, coi bản đồ như một đồ dùng minh

hoạ trực quan đơn giản.

Dạy và học địa lí cần phải kết hợp giữa kênh chữ (lời giảng, giáo trình, tài

liệu,..) với tri thức trên bản đồ để làm sáng tỏ nội dung về khoa học địa lí cần tiếp cận

một cách hiện thực và chính xác. Nhưng phần lớn người dạy và người học chỉ dừng lại

ở mức độ trực quan chưa khai thác hết nội dung cần thiết về tri thức có liên quan được

thể hiện trên bản đồ. Một thực tế dễ nhận thấy nữa hiện nay là việc sử dụng công nghệ

thông tin trong dạy học thì hầu như toàn bộ bản đồ (hoặc hệ thống kênh hình) đều đã

được người dạy scan vào các slide trình chiếu, vì vậy việc tiếp xúc trực tiếp với bản đồ

của SV lại có tần suất ít hơn. Việc hướng dẫn SV học bằng bản đồ còn hạn chế SV

chưa biết làm bài tập dựa trên bản đồ do kĩ năng bản đồ của họ còn thấp (do chưa được

Page 17: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

17

trang bị hoặc rèn luyện kĩ năng ngay từ đầu), điều đó dẫn đến việc lĩnh hội tri thức địa

lí rất hạn chế.

Khảo sát nội dung này chúng tôi thu được có đến 35 % SV sử dụng bản đồ

không thường xuyên và 62 % SV sử dụng hệ thống bản đồ có sẵn trong giáo trình,

trong khi trên phiếu khảo sát có đến 100 % SV cho rằng hệ thống bản đồ được trang bị

ở khoa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng của họ, điều này chứng tỏ rằng trong quá

trình tổ chức hoạt động dạy học GV và SV chưa quan tâm đến việc sử dụng bản đồ.

Cũng qua tiến hành khảo sát một số nội dung liên quan đến kĩ năng sử dụng các

loại bản đồ vào quá trình học tập và nghiên cứu chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:

- Về kĩ năng đọc bản đồ: Hầu hết SV mới chỉ dừng lại ở mức độ thứ nhất (kĩ

năng nhận biết bản đồ), đó cũng là mức độ thấp nhất trong các kĩ năng về đọc bản đồ.

Ở mức độ này, khi xây dựng bản đồ, các nhà khoa học chỉ cần đặt tên bản đồ thì đã

định hướng được nội dung và đối tượng địa lí cần biểu hiện trong đó.

Có hai kĩ năng thật sự quan trọng và cần thiết trong quá trình sử dụng bản đồ để

phục vụ học tập, nghiên cứu sau đây thì khả năng vận dụng của SV lại thấp:

- Kĩ năng mô tả tổng hợp một khu vực, tức là mô tả tất cả các mặt về các yếu

tố tự nhiên, các yếu tố của địa lí kinh tế - xã hội có ở một khu vực.

Ví dụ, khi phân mưa tập trung nhiều nhất ở vùng xích đạo, mưa tương đối ít ở

hai vùng chí tuyến Bắc và Nam, thì ngoài việc quan sát bản đồ, cần phải có kiến thức

về mối quan hệ giữa lượng mưa và áp thấp, áp cao, sự bốc hơi nước nhiều từ các đại

dương và rừng xích đạo trong điều kiện nhiệt lượng lớn, sự bốc hơi nước kém hơn ở

vùng lục địa có diện tích lớn ở khu vực chí tuyến, sự phân bố mưa như vậy sẽ tác động

thế nào đến sự hình thành hệ sinh thái, sự phân bố sản xuất ….

Tỉ lệ SV quan tâm đến mức độ quan trọng (điểm số cao) chỉ 13% ở mức 4 và

9% ở mức 5, điều này cho thấy rằng khả năng tư duy tổng hợp về tri thức bản đồ của

SV chưa cao

- Kĩ năng phát hiện và xác lập các mối quan hệ giữa các đối tượng địa lí

được biểu hiện trên bản đồ.

Page 18: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

18

Các đối tượng địa lí phân bố trong một phạm vi không gian lãnh thổ bất kì nào

cũng có mối quan hệ tác động tương hỗ với nhau, lệ thuộc vào nhau trên cơ sở quan hệ

nhân - quả, tạo thành một thể thống nhất. Các mối liên hệ nhân quả là loại kiến thức

phổ biến trong địa lí. Việc giải thích các hiện tượng địa lí phần lớn phải dựa vào các

mối liên hệ này. Các mối liên hệ nhân- quả có nhiều loại khác nhau. Có những mối

liên hệ đơn giản (chỉ có một nguyên nhân và một kết quả), ví dụ: mối liên hệ giữa độ

cao địa hình và nhiệt độ không khí, nhiệt độ và khí áp, độ ẩm và khí áp, cấu tạo của đá

và nước ngầm, chế độ mưa và nhiệt với chế độ nước sông, dòng biển với lượng mưa

ven bờ đại dương, đá mẹ và thổ nhưỡng, khí hậu cà sự phân bố sinh vật, … Có những

mối liên hệ nhân quả phức tạp (một nguyên nhân gây ra nhiều kết quả, hay nhiều

nguyên nhân gây ra một kết quả), ví dụ: vận động tự quay quanh trục của Trái Đất đã

gây ra các hệ quả như sự luân phiên ngày đêm, chuyển động biểu kiến hằng ngày của

các thiên thể, giờ trên Trái Đất sự lệch hướng chuyển động của các vật thể; sự phân bố

nhiệt độ trên Trái Đất, sự lệch hướng chuyển động của các vật thể; sự phân bố nhiệt độ

trên Trái Đất chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, như: hình dạng và vị trí của Trái Đất

so với Mặt Trời, sự phân bố lục địa và biển, các dòng biển nóng và lạnh … Các

nguyên nhân và kết quả liên tục kế tiếp nhau tạo ra mỗt chuỗi mối liên hệ nhân -quả, ví

dụ: ở thảo nguyên với khí hậu lục địa nửa khô hạn có thực vật chủ yếu là cỏ, tạo nên

đất đen có tầng mùn dày; ở sườn núi, khi lên cao, nhiệt độ, lượng mưa và áp suất

không khí thay đổi, do đó sinh vật phân bố theo từng vành đai thẳng đứng cũng khác

nhau; địa hình có tác động đến sự phân bố lại lượng nhiệt và ẩm trong đá mẹ, nhiệt và

ẩm đó có tác động đến chiều hướng và cường độ của quá trình hình thành đất, …

Tỉ lệ SV quan tâm đến mức độ quan trọng (điểm số cao) chỉ 14% mức 4 và 9%

ở mức 5

Như vậy, thực tế kĩ năng sử dụng bản đồ của SV trong quá trình học tập đang

có một lỗ hổng khá lớn, tầm bao quát hoặc hệ thống hóa tri thức địa lí thông qua bản

đồ, hoặc nói cách khác là xem bản đồ như là nguồn tri thức địa lí thứ hai sau giáo trình

thì SV chưa thực hiện được.

Page 19: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

19

Các kĩ năng khác thể hiện qua bảng sau:

SL phiếu qua các mức

độ đánh giá

Các kĩ năng sử dụng bản đồ

1 2 3 4 5

KN nhận biết bản đồ, đọc BĐ 3 1 9 16 18

KN xác định phương hướng trên BĐ 4 3 12 12 16

KN xác định tọa độ địa lí và vị trí địa lí trên BĐ 1 4 18 16 8

KN đo khoảng cách trên BĐ 2 8 19 13 5

KN xác định độ cao và độ sâu trên BĐ 5 7 13 15 7

KN mô tả từng yếu tố thành phần trên BĐ 2 7 18 12 8

KN mô tả tổng hợp địa lí một khu vực trên BĐ 1 3 21 13 9

KN phát hiện và xác định các mối quan hệ địa lí trên BĐ 1 6 17 14 9

KN sử dụng bản đồ trên máy vi tính 5 11 18 6 7

Qua khảo sát tình hình thực tế sử dụng bản đồ trong học tập, nghiên cứu của các

lớp SV tại khoa trong thời gian qua chúng tôi thấy rằng việc sử dụng bản đồ nói chung

của SV thực sự chưa hình thành được kĩ năng chuyên biệt, phần lớn SV chỉ tương đối

thành thạo ở những kĩ năng thấp, các bước thứ nhất về kĩ năng sử dụng bản đồ, đồng

thời qua bảng tổng hợp trên chúng tôi cũng đủ cơ sở để khẳng định rằng phần lớn SV

chưa hình dung được khi sử dụng bản đồ thì loại kĩ năng nào giữ vai trò quan trọng.

Chính vì vậy, việc rèn luyện để không ngừng nâng cao kĩ năng sử dụng bản đồ trong

quá trình học tập, đặc biệt là hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ để dạy học trong

tương lai đối với sinh viên ngành sư phạm địa lí là vấn đề không những có tầm quan

trọng rất lớn mà còn là tính cấp thiết hiện nay.

Page 20: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

20

Chương 3

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG BẢN ĐỒ

CHO SINH VIÊN ĐỊA LÍ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

3.1. Cơ sở thực tiễn của phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ

cho sinh viên ngành Địa lí

Khi SV có được những kĩ năng làm việc với bản đồ, họ có thể tái tạo lại được

hình ảnh các lãnh thổ nghiên cứu, với các đối tượng địa lí và những đặc điểm cơ bản

của chúng, mà không nhất thiết phải nghiên cứu trực tiếp ngoài thực địa.

Khi sử dụng bản đồ, quá trình phân tích nội dung của các bản đồ, SV phải luôn

quan sát, tưởng tượng rồi đối chiếu so sánh chúng với nhau, tổng hợp và khái quát hóa,

xác lập các mối quan hệ địa lí, nhờ thế mà họ sẽ phát triển được tư duy lôgic, các thao

tác tư duy luôn được hoạt động và phát triển.

Qua học tập, nghiên cứu địa lí và làm việc với bản đồ, SV sẽ rèn luyện được kĩ

năng sử dụng bản đồ, không những chỉ giúp ích cho họ trong học tập và nghiên cứu,

giảng dạy địa lí sau này mà còn giúp họ hiểu biết được hệ thống tri thức địa lí được

xây dựng trong các khoa học khác trong cuộc sống, như đối với lĩnh vực quân sự và

hoạt động của một số ngành kinh tế,v.v…

3.2. Sự cần thiết phải hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho sinh viên

ngành Địa lí

Bản đồ địa lí không thể thiếu trong công tác nghiên cứu khoa học ở nhiều lĩnh

vực, nhiều chuyên ngành khác nhau; nó là phương tiện nghiên cứu của các ngành khoa

học về Trái Đất, lịch sử, văn hoá xã hội. Bản đồ giúp các nhà khoa học tìm hiểu những

quy luật phân bố, sự lan truyền của các đối tượng, hiện tượng và những mối tương

quan của chúng trong không gian, cho phép phát hiện những quy luật tồn tại và dự

đoán con đường phát triển của chúng trong tương lai. Bất cứ sự nghiên cứu địa lí nào

cũng bắt đầu bằng bản đồ và kết thúc cũng bằng bản đồ (bản đồ là Alfa và Ômêga của

Địa lí). Trước, trong khi nghiên cứu, các nhà nghiên cứu phải tìm hiểu địa phương,

phân tích các đối tượng nghiên cứu trên bản đồ và sau khi nghiên cứu, những kết quả

Page 21: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

21

mới được thể hiện trên bản đồ. Như vậy, bản đồ địa lí luôn được xem là một tiêu

chuẩn của phát triển Địa lí.

Với đặc điểm ưu việt của hệ thống địa lí trong nhà trường chúng đã trở thành

những phương tiện không thể thiếu được trong việc học tập nghiên cứu địa lí của sinh

viên ngành sư phạm Địa lí nói chung cũng như giáo viên giảng dạy Địa lí và học sinh

học địa lí ở các trường phổ thông. Tuy nhiên, muốn sử dụng bản đồ một cách có hiệu

quả, ngay từ trong nhà trường đại học, SV ngành sư phạm Địa lí phải được rèn luyện

thành thạo các kĩ năng sử dụng bản đồ.

Khi học SV có kĩ năng sử dụng bản đồ, họ có thể tái tạo lại được hình ảnh các

lãnh thổ nghiên cứu với những đặc điểm cơ bản của chúng, mà không cần phải nghiên

cứu trực tiếp ngoài thực địa. Đặc biệt đối với môn địa lí, không phải lúc nào người học

cũng có điều kiện tiếp xúc với các lãnh thổ của đất nước mình hoặc các lãnh thổ khác

trên bề mặt trái đất.

Đây cũng là một tính chất hết sức độc đáo của môn địa lí, bởi vì bất cứ một lãnh

thổ nào cũng có phạm vi không gian cố định và được phân bố chung ở những nơi nhất

định trên bề mặt trái đất. Nếu không có bản đồ, thì người học hoặc nghiên cứu dù có

trí tưởng tượng phát triển đến đâu đi nữa cũng không thể hình dung ra được vị trí

không gian cũng như đặc điểm của các lãnh thổ đó.

Làm việc với bản đồ, người học sẽ rèn luyện được kĩ năng sử dụng bản đồ

không chỉ trong học tập, nghiên cứu mà còn trong cuộc sống, đặc biệt là đối với lĩnh

vực quân sự, trong các ngành sản xuất kinh tế khác nhau.

Khi phân tích nội dung các bản đồ và so sánh chúng với nhau, người học sẽ

phát triển được tư duy lôgic; biết thiết lập các mối liên hệ giữa các đối tượng địa lí;

thực hiện việc so sánh và phát hiện ra các mối liên hệ nhân quả giữa chúng…

Trong chương trình đào tạo, ngoài môn học chuyên ngành là Đại cương về bản

đồ học thì hầu hết các môn chuyên ngành khác đều đòi hỏi SV ngành Địa lí phải sử

dụng hệ thống bản đồ trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Khác với học sinh phổ thông, SV ở các trường đại học quá trình học tập có tính

chất nghiên cứu, trong quá trình học tập SV phải tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức,

kĩ năng, nắm vững cơ sở nghề nghiệp của mình trong tương lai ở trình độ đại học. SV

Page 22: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

22

không chỉ hoạt động nhận thức thông thường mà phải phát huy khả năng độc lập tư

duy sáng tạo phát triển ở mức độ cao.

Do vậy, giảng dạy, học tập, nghiên cứu trên lớp, bản đồ không những sử dụng

làm phương tiện trực quan mà còn làm nguồn tri thức nhằm phát huy tính tích cực

trong lĩnh hội tri thức mới.

Đối với SV đại học, ngoài kĩ năng đọc, hiểu và vận dụng bản đồ thì SV còn

phải có kĩ năng làm việc độc lập với bản đồ dưới sự hướng dẫn của GV. Sau khi ra

trường trở thành một giáo viên địa lí thực thụ thì kiến thức về bản đồ sẽ có ý nghĩa rất

quan trọng trong suốt quá trình dạy học địa lí. SV cần phải biết được cấu trúc chương

trình địa lí ở trường phổ thông và các loại bản đồ được sử dụng trong dạy học.

- Ở trường phổ thông đang sử dụng rất nhiều đồ dùng dạy học Địa lí khác nhau

như tranh ảnh, bảng biểu, băng hình, bản đồ, biểu đồ… nhưng quan trọng nhất trong

số đó là BĐGK (trong đó đặc biệt là BĐGK treo tường).

BĐGK là bộ phận khăng khít không thể tách rời môn học Địa lí trong nhà

trường phổ thông. Bởi vì môn Địa lí trong nhà trường chọn lọc và trình bày những tri

thức Địa lí bằng ngôn ngữ tự nhiên, còn BĐGK phản ánh chúng bằng ngôn ngữ bản

đồ. Sự phối hợp giữa ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ bản đồ làm cho việc phản ánh

thực tế Địa lí sinh động hơn, đầy đủ hơn, giúp cho việc nhận thức thực tế địa lí dễ

dàng hơn. Chính vì vậy, môn địa lí trong nhà trường luôn luôn gắn bó chặt chẽ với

BĐGK.

- BĐGK là công cụ duy nhất giúp thầy và trò có khả năng nhìn bao quát được

các hiện tượng diễn ra trên một khoảng không gian rộng lớn không thể tri giác trực

tiếp được.

BĐGK mở rộng khái niệm không gian cho học sinh, cho phép các em thiết lập

mối quan hệ tương hỗ và nhân quả của các hiện tượng và các quá trình trong tự nhiên

và trong xã hội, phát triển óc tư duy logic và óc quan sát, hình thành cho học sinh thế

giới quan duy vật biện chứng, xây dựng tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc với

Tổ quốc mình. BĐGK có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hình thành trong học

sinh quy luật phân bố các đối tượng Địa lí, quy luật phân bố lực lượng sản xuất của

một đơn vị lãnh thổ (một vùng, một quốc gia…) nghĩa là BĐGK giúp cho học sinh

Page 23: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

23

hiểu được trên lãnh thổ có cái gì, ở đâu và tại sao? BĐGK phản ánh đầy đủ về sự khai

thác tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, việc phát triển tổng hợp và chuyên

môn hóa các ngành sản xuất, việc hoàn thiện sự phân công lao động xã hội giữa các

vùng kinh tế… BĐGK giúp cho giáo viên trình bày các mối liên hệ kinh tế nội, ngoại

vùng phát triển mối liên kết kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên

thế giới.

BĐGK là mô hình – hình ảnh kí hiệu tổng hợp đặc biệt, nó trình bày những đặc

điểm không gian dưới dạng tổng quát, trực quan và dễ hiểu, nó được sử dụng không

chỉ như những thành tựu nghiên cứu phân bố không gian, tuyên truyền những thành

tựu kinh tế trong công cuộc xậy dựng xã hội ở nước ta mà còn là công cụ quan trọng

để dự báo và kế hoạch hóa trong tương lai.

Trong dạy học Địa lí, bản đồ giữ vai trò rất quan trọng. Bản đồ là kho tàng trữ

các tri thức Địa lí đã tích luỹ được, là kênh hình của sách giáo khoa địa lí. Bản đồ vừa

là nội dung vừa là phương tiện đặc thù không thể thiếu trong dạy học địa lí. Nếu như

trong nghiên cứu địa lí một lãnh thổ phải bắt đầu bằng bản đồ thì trong dạy - học địa lí,

khi trình bày về một lãnh thổ, ngay từ những kiến thức đầu tiên như vị trí địa lí, hình

dạng lãnh thổ đến những đặc điểm địa lí khái quát nhất đều phải được chỉ ra trên bản

đồ. Trên cơ sở cái “nền” đó, giáo viên đưa vào và khắc sâu những kiến thức cho học

sinh. Vì thế, việc dạy - học địa lí, thiếu bản đồ là điều không thể chấp nhận.

Ngày nay, bản đồ còn là một phương tiện có hiệu quả để phổ biến các tri thức,

nâng cao dân trí, cung cấp nhưng hiểu biết về khoa học Trái Đất, về các nước trên thế

giới, về quê hương đất nước, từ đó giáo dục lòng yêu nước, yêu quý thiên nhiên, bảo

vệ môi trường.

“Nói một cách ngắn gọn bản đồ và các phần tử đồ hoạ khác tập hợp thành một

trong ba mô hình truyền tin chủ yếu cùng với từ ngữ và những con số. Vì chủ thể khác

biệt của địa lí học, ngôn ngữ bản đồ là ngôn ngữ khác biệt của địa lí. Vì vậy sự tinh tế

khi đọc bản đồ và tổ hợp chúng cùng với khả năng phiên dịch giữa những ngôn ngữ

bản đồ, từ ngữ và những con số là cơ sở để nghiên cứu và thực hành địa lí học” (John

Berchert)

Page 24: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

24

3.3. Các loại kĩ năng sử dụng bản đồ

Trong các loại kĩ năng địa lí thì kĩ năng làm việc với bản đồ là cần thiết và quan

trọng nhất nhờ kĩ năng sử dụng bản đồ mà SV có thể khai thác được các kiến thức địa

lí trên bản đồ làm cho nó trở thành nguồn tri thức địa lí quan trọng, kĩ năng sử dụng

bản đồ là sự sử dụng có hiệu quả hệ thống các hoạt động có liên quan đến bản đồ trong

quá trình học tập địa lí của SV.

Kĩ năng bản đồ có nhiều loại. Rèn luyện kĩ năng bản đồ phải trải qua nhiều

bước từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Trong chương trình chuyên ngành địa

lí sư phạm ở trường đại học cũng như ở trường trung học phổ thông, các kĩ năng bản

đồ cần hình thành và rèn luyện cho người học bao gồm:

- Kĩ năng chỉ và đọc tên các đối tượng địa lí trên bản đồ dựa vào các ước hiệu

ghi trong bản chú giải của bản đồ.

- Kĩ năng xác định phương hướng, đo đạc, tính toán trên bản đồ (đo đạc, tính

toán về khoảng cách, về chiều cao, độ sâu...).

- Kĩ năng xác định vị trí địa lí, mô tả từng yếu tố thành phần về địa lí tự nhiên,

địa lí kinh tế và dân cư được biểu hiện trên bản đồ.

- Kĩ năng mô tả tổng hợp một khu vực, tức là mô tả tất cả các mặt về các yếu tố

tự nhiên, các yếu tố của địa lí kinh tế - xã hội có ở một khu vực.

- Kĩ năng phát hiện và xác lập các mối quan hệ giữa các đối tượng địa lí được

biểu hiện trên bản đồ.

- Kĩ năng nhận diện các phương pháp chiếu đồ

Những kĩ năng trên đây là những bước từ thấp đến cao trong quá trình rèn luyện

kĩ năng bản đồ cho HS-SV. Vì không phải là một môn học riêng trong kế hoạch dạy

học, nên phương thức dạy các kiến thức và kĩ năng bản đồ cho SV cũng có nhiều điểm

khác biệt so với việc dạy kiến thức và kĩ năng của các môn học khác. Chỉ có những

kiến thức tối thiểu ban đầu để hiểu bản đồ và những khái niệm quan trọng nhất liên

quan đến cơ sở toán học của bản đồ và ngôn ngữ bản đồ (như hệ thống kinh- vĩ tuyến,

lưới tọa độ, phép chiếu...) là đuợc bố trí trong môn học bản đồ học đại cương và một

số tiết nguyên vẹn ngay từ đầu chương trình môn Địa lí trung học phổ thông (4 tiết ở

Page 25: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

25

lớp 10). Phần lớn những kiến thức và kĩ năng bản đồ còn lại chủ yếu đều được dạy và

rèn luyện thông qua việc giáo viên sử dụng bản đồ - lược đồ trong sách giáo khoa, sử

dụng atlat hay quả cầu địa lí... như sẽ đề cập ở phần phương thức hình thành kĩ năng.

Như vậy, rèn luyện kĩ năng bản đồ cho HS-SV là một quá trình lâu dài, phức

tạp, liên tục trong chương trình địa lí, đòi hỏi nhiều công sức và sự phối hợp chặt chẽ

giữa các lớp, giữa các cấp học, nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là biết sử dụng bản đồ,

biết khai thác tri thức tàng trữ trong bản đồ, để bản đồ thực sự trở thành nguồn cung

cấp tri thức cho HS-SV.

Bản đồ vừa được coi là phương tiện trực quan, vừa là nguồn tri thức địa lí quan

trọng đối với SV.

Trong quá trình dạy học địa lí, GV phải biết khai thác nguồn tri thức để dạy cho

SV, đồng thời rèn luyện cho SV kĩ năng khai thác nguồn tri thức đó trong học tập địa

lí.

Để khai thác được những tri thức trên bản đồ, cần phải hình thành cho SV

những kĩ năng sử dụng bản đồ. Muốn hình thành được kĩ năng sử dụng bản đồ trước

hết SV phải hiểu bản đồ, nghĩa là phải nắm được những kiến thức lý thuyết về bản đồ,

trên cơ sở đó có được những kĩ năng làm việc với bản đồ; bao gồm các đối tượng nào?

Tính chất của chúng ra sao? Nội dung của nó có những gì? Các cách biểu hiện các đối

tượng và ý nghĩa của nó trên bản đồ. Trong quá trình dạy học, giảng viên bộ môn phải

Bản đồ

Đối tượng học tập Kiến thức bản đồ

Kĩ năng bản đồ

Bản đồ

Nguồn tri thức Tri thức địa lí mới

SINH VIÊN

SINH VIÊN

Hướng dẫn của GV

GV hướng dẫn

SV vận dụng kiến thức điạ lý và kiến thức, kĩ năng bản đồ

Page 26: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

26

giúp SV làm quen với ngôn ngữ bản đồ từ đơn giản đến phức tạp nhằm mục đích trang

bị cho SV có khả năng đọc bản đồ như ta đọc hiểu nội dung khác trong giáo trình và từ

đó nâng lên hiểu nội dung của bản đồ như là một thông tin bắt buộc của chuyên ngành.

Nghĩa là SV không chỉ dừng lại ở mức độ nhận biết các hiện tượng địa lí trên bản đồ

mà phải nắm được nội dung, bản chất của sự vật hiện tượng ấy… Dựa trên bản đồ ta

có thể mô tả một lãnh thổ, một khu vực nào đó trên Trái Đất về các đặc trưng, về điều

kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội. Những tri thức tổng hợp đó rất cần thiết khi

tiến hành học tập, nghiên cứu một khu vực, một bài, một ngành địa lí nào đó bất kì.

Đọc bản đồ là công việc ở mức độ cao hơn, ở đây đòi hỏi SV phải biết kết hợp

những hiểu biết về bản đồ với những kiến thức địa lí để rút ra những nhận xét về đặc

điểm, bản chất của sự vật, hiện tượng địa lí. Nghĩa là khi nhìn vào các ước hiệu khái

quát và cách thể hiện trên bản đồ SV không những phải có biểu tượng khái niệm chính

xác rõ ràng mà còn phải hiểu được cả ý nghĩa của cách biểu hiện chúng trên bản đồ.

Từ đó rút ra đặc điểm, nhận xét các hiện tượng địa lí đó trên bản đồ. Lúc này bản đồ

không như một tư liệu đơn thuần mà nó tồn tại một cách sinh động như Buđanôp, nhà

địa lí học Liên Xô (cũ) đã nói: “đọc bản đồ tức là liên hợp các loại ký hiệu thường

dùng các màu sắc trên bản đồ thành những câu nói, hình như các sự vật địa lí bày ra

trước mắt chúng ta”.

Đọc bản đồ có ba mức độ khác nhau:

- Mức thứ nhất chỉ mới thể hiện ở chỗ đọc được vị trí các đối tượng địa lí, có được

biểu tượng về các đối tượng đó thông qua hệ thống các ước hiệu ghi trên bản chú giải.

Tuy đơn giản nhưng muốn thực hiện được kĩ năng này SV cũng phải nắm được

quy trình sau:

+ Đọc bản chú giải để biết được ký hiệu quy ước chỉ các đối tượng cần tìm trên

bản đồ.

+ Tái hiện các hiện tượng địa lí dựa vào các ký hiệu.

+ Căn cứ vào các ký hiệu, tìm vị trí của chúng trên bản đồ.

- Mức thứ hai cao hơn: Đòi hỏi SV phải biết dựa vào những hiểu biết về bản đồ,

kết hợp với các kiến thức địa lí để tìm ra được những đặc điểm tương đối rõ ràng của

Page 27: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

27

những đối tượng địa lí biểu hiện trên bản đồ. Nói chung ở mức độ này SV đã có thể

mô tả được các đối tượng địa lí trên bản đồ với các đặc điểm của chúng.

- Mức thứ ba: Đòi hỏi khi đọc bản đồ, SV còn phải biết kết hợp những kiến

thức bản đồ với những kiến thức địa lí sâu hơn để so sánh, phân tích, tìm ra các mối

liên hệ giữa các đối tượng trên bản đồ.

Như vậy, SV không những phải kết hợp những kiến thức bản đồ với những kiến

thức địa lí mà còn phải nắm được những mối liên hệ giữa các đối tượng địa lí trên bản

đồ, rồi vận dụng tư duy, so sánh, đối chiếu để rút ra kết luận, từ đó có được kiến thức

địa lí mới.

Khi đọc bản đồ cần lưu ý những nội dung chủ yếu sau:

- Các ký hiệu của bản đồ

Ký hiệu của bản đồ được sử dụng để đưa ra những thông tin chi tiết cho người đọc

bản đồ. Vì không gian bị giới hạn nên không thể viết nhãn cho tất cả mọi thứ trên bản đồ,

do đó các ký hiệu được sử dụng để làm mọi thứ trở nên dễ dàng hơn cho người đọc.

Dưới đây là một số ký hiệu quan trọng tìm thấy trên bản đồ, qua các kí hiệu đó

nó giúp ta hiểu được bản đồ:

+ Điểm cực Bắc (Thường có kí hiệu đặt ở phía trên bản đồ): Hầu hết bản đồ đều

có điểm cực Bắc để cho phép ta định hướng bản đồ theo đúng hướng

+ Các đặc điểm phổ biến: Các đặc điểm như: sông, đường, hồ, đập, tòa nhà và

làng bản, tất cả được thể hiện trên bản đồ thông qua các biểu tượng.

+ Đường đồng mức: Một trong những vấn đề mà ta hay gặp phải đó là giấy

phẳng trong khi ta cố gắng thể hiện một phần của trái đất lên bản đồ, do đó bản đồ

không chỉ ra được các đồi núi hay thung lũng. Để vượt qua trở ngại này người ta sử

dụng các đường đồng mức. Đường đồng mức thể hiện mặt đất ở các mức khác nhau.

Đường đồng mức là đường nối liền tất cả các điểm có cùng độ cao.

Page 28: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

28

B

Bản đồ địa hình Việt Nam

- Tỉ lệ bản đồ: Tỉ lệ bản đồ cho ta biết khoảng cách giữa các điểm được đo đạc

và thể hiện như thế nào trên bản đồ. Nếu ta lấy thước kẻ đo 10cm trên bản đồ, tỉ lệ cho

chúng ta biết khoảng cách trên thực tế là bao nhiêu. Nhiều bản đồ có tỉ lệ 1/50.000

hoặc 1/10.000. Điều này có nghĩa là 1 đơn vị đo được trên bản đồ tương ứng với

50.000 (hoặc 10.000) cùng đơn vị chiều dài trên thực tế.

Ví dụ: 1cm trên bản đồ tỷ lệ 1:50.000 là 50.000 cm trên thực tế hay 0.5 km hoặc

500 m.

Page 29: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

29

- Hiểu biết địa hình: Sau khi đã có kiến thức về các ký hiệu bản đồ, đường

đồng mức và tỉ lệ, SV cần phải hiểu biết về địa hình được thể hiện trên bản đồ như thế

nào. Địa hình có thể được mô tả là những đặc điểm vật lý đất đai hoặc bất cứ cái gì có

đặc điểm giống đất đai.

- Hệ thống lưới bản đồ: Để cho vị trí cần tìm trên bản đồ dễ dàng hơn, bản đồ

được chia thành các ô vuông có các đường ngang và dọc. Các đường này được coi như

là lưới của bản đồ và các ô vuông hình thành lên các đường này gọi là lưới ô vuông.

Lưới bản đồ được cấu tạo từ các đường kinh tuyến và vĩ tuyến, và tương ứng với nó là

các kinh độ và vĩ độ.

Vĩ độ:

Giả sử nếu bạn đứng ở tâm của Trái Đất và bạn nhìn lên trên bề mặt của Trái Đất

xung quanh bạn. Điểm cực Bắc sẽ nằm ở trên đầu bạn nếu bạn nhìn thẳng bất kỳ hướng

nào từ phía đường xích đạo. Tương tự như thế, nếu bạn đứng ở tâm Trái Đất và nhìn

xuống dưới đường xích đạo về phía Nam, ta cũng sẽ gặp điểm cực Nam là 900

Đường vĩ độ gọi là Vĩ tuyến.

Chú ý: 900 Bắc và 900 Nam thực tế chỉ là các điểm chứ không phải là quỹ đạo

hình tròn. Khoảng cách giữa các độ là giống nhau và tất cả các độ đều nằm song song

với nhau. Càng đi về phía điểm cực Bắc hoặc cực Nam, số độ càng tăng dần và tối đa

là 900

Vĩ độ phi (φ) và Kinh độ lambda (λ)

Page 30: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

30

Kinh độ:

Kinh độ là các góc nằm ở phía Đông hoặc Tây của Trái đất, nó giống như vĩ độ

có các góc nằm ở phía Nam hoặc Bắc của quả đất. Đường kinh độ gọi là kinh tuyến

Đối với vĩ độ ta có 2 điểm giới hạn là cực Bắc và cực Nam, nhưng quay xung

quanh Trái Đất, ta không có điểm đầu và điểm cuối. Vì thế người ta phải chọn một

điểm cho kinh độ để làm điểm đầu cũng như điểm kết thúc và điểm này đặt tại Đài

quan sát thiên văn Greenwich ở Anh. Điểm này có giá trị là 00 và đường kinh tuyến

chạy qua điểm này gọi là đường Kinh tuyến gốc.

Chú ý: Các đường kinh tuyến không song song với nhau, càng gần cực khoảng

cách giữa các đường kinh tuyến càng gần nhau và hội tụ tại 2 điểm cực Bắc và Nam.

Định hướng bản đồ

Để làm quen với địa hình, trước tiên cần phải định hướng bản đồ.

Bản đồ được định hướng khi nó được đặt ở vị trí mà các đặc điểm trên bản đồ

tương xứng với các đặc điểm trên thực địa và điều đó có nghĩa là bản đồ được đặt

đúng vào vị trí phía Bắc.

Dưới đây là 3 bước cơ bản để định hướng cho bản đồ:

B1. Đặt bản đồ lên trên bề mặt khá bằng phẳng

Xoay vòng số của địa bàn (nếu là địa bàn dùng cho bản đồ) để điều chỉnh độ

lệch từ sao cho hướng Bắc là điểm chỉ dẫn của địa bàn. Nếu là địa bàn quân sự thì

không phải làm bước phụ này mà sẽ làm ở bước 3.

B2. Đặt địa bàn lên bản đồ sao cho mép của địa bàn song song với đường kinh

tuyến bắc nam trên bản đồ.

B3. Xoay bản đồ và địa bàn cùng nhau cho đến khi kim địa bàn nằm trong hộp

mũi tên định hướng (nếu là địa bàn dùng cho bản đồ) hoặc mũi tên chỉ 00 (đối với địa

bàn quân sự). Tiếp tục xoay cả địa bàn và bản đồ để điều chỉnh độ lệch từ đối với địa

bàn quân sự.

Điểm cực Bắc

Có 3 điểm cực Bắc đó là:

Page 31: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

31

- Bắc thật – là hướng Bắc địa lí

- Bắc từ - hướng chỉ của kim địa bàn

- Bắc bản đồ - hướng chỉ đường kinh tuyến trên bản đồ. Trên đầu bản đồ là cực Bắc

Trên cơ sở hiểu và đọc bản đồ SV còn phải biết vận dụng các kiến thức đó

trong học tập, nghiên cứu và đặc biệt quan trọng là phải vận dụng kiến thức ấy vào

thiết kế bài soạn giảng và dạy học địa lí sau này. Đó là kĩ năng vận dụng, kĩ năng

hoàn thiện, nó có trình độ cao hơn tất cả các loại kĩ năng có liên quan đến bản đồ.

Nghĩa là từ những hiểu biết trên bản đồ SV có thể dễ dàng rút ra được những kiến thức

mới thông qua một loạt các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, so sánh,… tìm ra các

đặc trưng của lãnh thổ tự nhiên, kinh tế, xã hội cũng như các mối liên hệ tổng hợp của

mỗi lãnh thổ đó.

3.4. Qui trình, phương thức hình thành và rèn luyện kĩ năng bản đồ cho

sinh viên

3.4.1. Qui trình rèn luyện các loại kĩ năng bản đồ cho SV:

* Qui trình rèn luyện kĩ năng nhận biết bản đồ, đọc bản đồ:

- GV cần đọc rõ ràng, rành mạch và chính xác, kết hợp chỉ đối tượng trên bản

đồ treo tường (ví dụ: khi nói đến địa danh một thành phố nào đó, GV phải vừa đọc

nhiều lần một cách rõ ràng vừa chỉ trên bản đồ).

- Cho SV tìm và đối chiếu với lược đồ trong giáo trình, hoặc trong tập atlat.

- Viết thật rõ ràng tên địa danh lên bảng và yêu cầu một SV đọc lại cho cả

lớp cùng nghe. Sau đó yêu cầu SV ghi nhớ chính xác địa danh.

- Hướng dẫn SV nhận xét đặc điểm của đối tượng địa lí (kích thước, màu

sắc,...) được thể hiện trên bản đồ, hoặc mối quan hệ về vị trí địa lí với các đối tượng

khác xung quanh, để sau này dễ nhận ra và tìm được đối tượng đó trên bản đồ. Thí dụ:

GV có thể cho SV nhận xét và so sánh bán đảo Scandinavi có hình dạng giống như

một con hỗ, hoặc để SV dễ nhớ vị trí của thành phố Việt Trì - GV có thể nói: Việt Trì

là thành phố ở ngã ba sông...

- Trong một số trường hợp, khi giảng GV kết hợp với bản đồ treo tường đã vẽ

lên bảng hình vẽ biểu tượng riêng về hình dáng và vị trí của đối tượng để SV dễ dàng

Page 32: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

32

nhận ra và nhớ kĩ hơn. Hoặc GV giải thích rõ nguồn gốc của địa danh, của đối tượng

để gây ấn tượng dễ nhớ cho SV (thí dụ: tên của con sông Hồng bắt nguồn từ màu nước

đỏ nặng phù sa, Hồng Hải do phản chiếu từ màu của các rạn san hô...).

- Hướng dẫn SV cách chỉ các đối tượng địa lí trên bản đồ (theo điểm, theo

đường, khu vực lãnh thổ...).

Trước hết, phải đọc bảng chú giải: Đây có thể coi là chìa khoá để hiểu nội

dung được thể hiện trong bản đồ, mặt khác còn rút ra được các kiến thức nhất định có

tính chất tổng quát.

Ví dụ: Khi đọc bản đồ Địa chất – khoáng sản: Đầu tiên phải đọc phần chú

giải, các kí hiệu về các hệ đá cho ta thấy nước ta có lịch sử hình thành lãnh thổ lâu dài,

vì có các tuổi Nguyên sinh cách đây hơn 2600 triệu năm đến các trầm tích Đệ Tứ cách

đây 1,5 – 2,0 triệu năm… Đọc chú giải các loại khoáng sản sẽ cho thấy rõ đặc điểm

của khoáng sản nước ta phong phú về chủng loại, đa dạng về loại hình… có đủ các

loại khoáng sản từ khoáng sản năng lượng, kim loại đen, kim loại màu, đến các loại

khoáng sản làm vật liệu xây dựng và phi kim loại, trong đó lại chia ra nhiều loại

khoáng sản chủ yếu. Quan sát các kí hiệu về khoáng sản trên bản đồ sẽ cho thấy mức

độ tập trung của nguồn tài nguyên này rất khác nhau giữa các vùng lãnh thổ.

Đối với các bản đồ về khí hậu – khí tượng…, cũng tương tự vậy, đầu tiên

phải đọc phần chú giải để phân biệt các kí hiệu thể hiện trên bản đồ về nhiệt độ, lượng

mưa, chế độ gió, hướng gió, tần suất gió. Từ đó sẽ cho ta thấy ngay đặc điểm về sự

phân hoá đa dạng về các vùng, miền khí hậu. Ví dụ, ở nước ta chia làm 4 vùng khí

hậu: (1) vùng khí hậu nhiệt đới có mùa đông lạnh, (2) Vùng khí hậu nhiệt đới có mùa

đông lạnh vừa, (3) Vùng khí hậu nhiệt đới có mùa đông ấm, (4) Vùng khí hậu nhiệt

đới nóng quanh năm…

Đọc chú giải bản đồ Đất, thực vật cũng cho thấy rõ đặc điểm của tài nguyên

đất ở nước ta là phong phú với hai nhóm đất chính là đất phù sa và đất feralit, ngoài ra

còn có các loại đất khác. Trong các nhóm đất lại chia ra thành các loại đất khác nhau

(đất feralít, đất xám bạc màu, đất phù sa, đất phèn, đất mặn…)

Khi đọc bản đồ phân bố dân cư: Trên bản đồ thường dùng kí hiệu nền chất

lượng với mức độ đậm nhạt khác nhau; các kí hiệu thể hiện qui mô dân số giữa các

Page 33: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

33

khu vực trong cả nước. Nếu không đọc phần chú giải trước, ta sẽ không hiểu được

mức độ đậm nhạt trên bản đồ thể hiện cái gì, tại sao lại trình bày các kí hiệu lớn nhỏ

khác nhau. Đọc kĩ phần chú giải và quan sát trên bản đồ ta sẽ thấy mật độ dân cư

thường thưa dần từ đồng bằng ven biển lên trung du và miền núi. Các kí hiệu trên bản

đồ thể hiện qui mô dân số trung bình tại địa phương đó. Từ đó cho ta thấy toàn cảnh

bức tranh phân bố dân cư của cả nước.

Đọc bản đồ phải tuân thủ theo một qui tắc nhất định, đi từ nhận định khái

quát đến chi tiết.

Ví dụ: Đọc bản đồ khí hậu, sau khi đã phát hiện ra các vùng khí hậu, ta sẽ đọc

các đặc trưng về nhiệt, về chế độ mưa tại các trạm khí tượng, từ đó có thể rút ra kết

luận chung về chế độ nhiệt, ẩm và lượng mưa của từng vùng khí hậu, sự phân hoá theo

mùa tại vùng đó. Hay khi đọc bản đồ Công nghiệp chung, cần phát hiện được qui luật

phân bố công nghiệp của nước ta: Các trung tâm công nghiệp lớn và trung bình phân

bố tập trung ở ĐB sông Hồng và vùng phụ cận, Đông Nam Bộ và rải rác ở các tỉnh

thuộc vùng DH miền Trung. Các trung tâm công nghiệp lớn thường có cơ cấu ngành

đa dạng, các trung tâm công nghiệp nhỏ thì cơ cấu ngành đơn giản hơn, thậm chí chỉ

có một, hoặc hai ngành chủ yếu. Các điểm công nghiệp có khi chỉ có một hoặc hai

ngành công nghiệp. Sau đó, đi sâu vào phân tích một số trung tâm công nghiệp, cơ cấu

ngành của các trung tâm công nghiệp này… Lí giải tại sao các trung tâm công nghiệp

có cơ cấu ngành công nghiệp khác nhau.

Đọc một số bản đồ về kinh tế - xã hội. Thông thường, khi phân tích vấn đề về

kinh tế - xã hội của một lãnh thổ (vùng) hay một ngành nào đó trên cơ sở đọc và phân

tích bản đồ hoặc átlát. Trước hết, SV phải căn cứ vào kiến thức đã học về những vấn

đề có liên quan để định hướng phân tích bản đồ hoặc átlát, phải chọn ra được những

bản đồ chính và bản đồ bổ sung.

Trước tiên, là phân tích vị trí địa lí. Vị trí địa lí trên bản đồ được thể hiện ở

toạ độ địa lí, đối với một quốc gia (hay vùng) vị trí này được xác định bằng các điểm

cực Bắc, cực Nam, cực Đông và cực Tây; còn đối với một số đối tượng theo điểm

(như thành phố, trạm khí tượng…), thì ngoài hệ thống kinh vĩ độ, cần xem xét thêm độ

cao (ví dụ: Trạm khí tượng Hà Nội ở vĩ độ 21001’B, kinh độ 105048’Đ và ở độ cao 5

mét so với mực nước biển). Vị trí địa lí tự nhiên thể hiện ở quan hệ không gian giữa

Page 34: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

34

các đối tượng địa lí tự nhiên. Từ vị trí địa lí này, SV phân tích ảnh hưởng của địa hình

đối với sự phân hoá khí hậu. Sau khi đã phân tích vị trí địa lí về tự nhiên, SV sẽ phân

tích vị trí địa lí kinh tế, ở góc độ kinh tế thì vị trí địa lí thường thể hiện ở mức độ thuận

lợi hay hạn chế trong việc trao đổi giao lưu nội vùng, ngoài vùng và với khu vực hay

quốc tế; ảnh hưởng của các điều kiện địa hình, điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.

Sau đó, đi vào phân tích các nguồn lực phát triển. Các nguồn lực phát triển

kinh tế - xã hội bao gồm tài nguyên thiên nhiên, dân cư – lao động, cơ sở vật chất – kĩ

thuật và đường lối chính sách. Cần biết lựa chọn các bản đồ tương ứng (bản đồ địa

hình, địa chất – khoáng sản, bản đồ thổ nhưỡng, thực - động vật, bản đồ dân cư – dân

tộc và bản đồ về các ngành (công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải,…). Dựa

vào các bản đồ tương ứng ta phân tích các nguồn lực để phát triển, khi phân tích cần

chú ý quan hệ không gian giữa các yếu tố đọc được từ các bản đồ riêng lẻ (ta thường

gọi là chồng xếp bản đồ). Các bản đồ kinh tế tương ứng sẽ cho ta thấy hiện trạng phân

bố của các ngành kinh tế (ngành hay vùng). Trong các bản đồ kinh tế thường có các

biểu đồ đi kèm, chính các biểu đồ này cho ta thấy cơ cấu và động thái phát triển của

toàn ngành hay vùng nào đó.

Như vậy, với một dạng bài tập thực hành đọc bản đồ theo một chủ đề cho

trước, thì khi đọc ta nên tuân thủ theo một qui tắc nhất định, như vậy bài viết sẽ thể

hiện một cách cô đọng nhất, ngắn gọn, đầy đủ các ý mà không sợ bị bỏ sót hoặc quá

rườm rà.

* Qui trình rèn luyện kĩ năng xác định phương hướng trên bản đồ:

- Trước hết hướng dẫn SV tìm điểm cực Bắc và điểm cực Nam trên quả cầu

địa lí, rồi sau đó chứng minh tất cả các đường kinh tuyến đều chạy vào và nối hai điểm

cực Bắc và cực Nam.

- Hướng dẫn học SV nhận rõ các đường vĩ tuyến trên quả cầu là những đường

khép kín luôn song song với đường xích đạo và quả cầu không có điểm cực Tây và

cực Đông.

- Sau đó hướng dẫn SV nhận xét các đường kinh - vĩ tuyến trên một loại bản

đồ (bản đồ nửa cầu, bản đồ châu lục, bản đồ các nước và khu vực), rồi đối chiếu, so

Page 35: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

35

sánh với các đường kinh tuyến trên quả địa cầu để thấy rõ những khác biệt và sai lệch

trên bản đồ.

- Cho SV tập xác định phương hướng (bắc, nam, đông, tây) trên bản đồ có đối

chiếu với quả cầu địa lí.

* Qui trình rèn luyện kĩ năng xác định tọa độ địa lí và vị trí địa lí trên bản đồ:

- Hướng dẫn SV hiểu cách phân chia hệ thống kinh - vĩ tuyến trên khung bản đồ.

- Cho SV tập xác định tọa độ của điểm gặp nhau giữa hai đường kinh - vĩ

tuyến được biểu hiện trên bản đồ.

- Sau đó chuyển sang tập xác định tọa độ địa lí của một điểm được thể hiện

trên bản đồ nhưng nằm ngoài các đường kinh - vĩ tuyến (nằm ở bao nhiêu độ kinh và

bao nhiêu độ vĩ).

- Cuối cùng là tập xác định tọa độ địa lí của một lãnh thổ: một tỉnh, một vùng,

một quốc gia, một châu lục...(cực Bắc và cực Nam ở bao nhiêu độ vĩ tuyến, cực Đông

và cực Tây ở bao nhiêu độ kinh tuyến).

- Còn rèn luyện kĩ năng xác định vị trí địa lí trên bản đồ: trước hết SV phải

nắm chắc các khái niệm vị trí địa lí, phân biệt sự khác nhau giữa vị trí địa lí tự nhiên

và vị trí địa lí kinh tế - xã hội, cũng như thấy được mối quan hệ giữa chúng với nhau.

Sau đó cho các họ tập xác định vị trí địa lí tự nhiên, vị trí địa lí kinh tế - xã hội của một

địa phương, một quốc gia hay một khu vực...

* Qui trình rèn luyện kĩ năng đo khoảng cách trên bản đồ:

- Trước tiên phải cho SV nắm vững khái niệm tỷ lệ bản đồ và ý nghĩa của nó,

cách tính tỷ lệ (đổi từ cm thành km).

- Sau đó cho họ tập đo khoảng cách trên bản đồ và dựa vào tỉ lệ bản đồ tính ra

khoảng cách bằng km ngoài thực tế.

- Hướng dẫn họ đo tính khoảng cách dựa vào lưới kinh - vĩ tuyến trên bản đồ

và cách đổi số vĩ độ hoặc kinh độ đo được thành km.

Page 36: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

36

* Qui trình rèn luyện kĩ năng xác định độ cao và độ sâu trên bản đồ:

- Trước tiên cho SV biết các cách biểu hiện độ cao hay độ sâu trên bản đồ

(biểu hiện độ cao bằng thang màu sắc hay đường đồng mức, biểu hiện độ sâu bằng

màu sắc hay đường đẳng sâu).

- Tiếp đó hướng dẫn họ tập xác định độ cao dựa vào thang màu sắc hay đường

đồng mức, tập xác định độ sâu dựa vào thang màu sắc hoặc đường đẳng sâu.

- Tập cho SV tính độ cao hay độ sâu của những điểm nằm bên ngoài đường

đồng mức hoặc bên ngoài đường đẳng sâu.

- Cuối cùng là hướng dẫn SV tập xác định độ dốc và hướng dốc của địa hình

bề mặt.

* Qui trình rèn luyện kĩ năng mô tả từng yếu tố thành phần trên bản đồ

(mô tả địa hình, mô tả thủy văn...):

- Để rèn luyện kĩ năng này, đầu tiên phải giới thiệu cho SV cách biểu hiện các

yếu tố thành phần của đối tượng địa lí trên bản đồ (cách biểu hiện một dãy núi, một hệ

thống sông, một vùng đồng bằng...).

- GV mô tả mẫu một khu vực có đối tượng địa lí và yếu tố thành phần được biểu

hiện trên bản đồ, vừa mô tả, vừa hướng dẫn cách thức, trình tự mô tả (có thể làm ngược

lại là đưa ra trình tự trước rồi sau đó sử dụng trình tự đó để mô tả mẫu theo bản đồ).

- Cho SV ghi lại dàn ý và trình tự mô tả vào vở hoặc sổ tay địa lí (nếu có). Thí

dụ để mô tả một ngọn núi, có thể cho họ ghi vào vở qui trình các bước mô tả như sau:

+ Dựa vào kí hiệu và cách biểu hiện, tìm vị trí núi trên bản đồ.

+ Xác định vị trí của nó trên lãnh thổ (ở phần nào của châu lục, ở khu vực và

quốc gia nào).

+ Xác định hình dạng và hướng của núi dựa vào lưới tọa độ địa lí.

+ Nếu ngọn núi nằm trong một dải núi, thì chiều dài của dải núi trên bản đồ là

bao nhiêu? Dựa vào thước đo tỷ lệ của bản đồ để tính.

Page 37: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

37

+ Dựa vào đường đồng mức (hay còn gọi là đường bình độ) hoặc thang phân

tầng màu về độ cao để xác định độ cao trung bình của núi hoặc của cả dải núi, xác

định hướng núi hoặc độ dốc của núi.

+ Tìm số ghi độ cao lớn nhất của núi (đỉnh núi).

- Hướng dẫn SV tập mô tả yếu tố thành phần được biểu hiện trên bản đồ từ

đơn giản đến phức tạp trong một khu vực theo dàn ý đã ghi.

* Qui trình rèn luyện kĩ năng mô tả tổng hợp địa lí một khu vực trên bản đồ:

- Trước tiên GV hệ thống lại việc rèn luyện tất cả những kĩ năng đã trình bày

ở trên.

- Sau khi SV nắm được những kĩ năng đó, cho họ mô tả về địa lí tự nhiên

hoặc về địa lí kinh tế - xã hội, hoặc là mô tả kết hợp vừa địa lí tự nhiên vừa địa lí kinh

tế - xã hội (trường hợp này ít xảy ra) ở một khu vực, một quốc gia trên bản đồ.

- Mô tả tổng hợp địa lí trên bản đồ là một cách đọc bản đồ khá hấp dẫn đối

với HS-SV, còn gọi là hình thức “du lịch trên bản đồ”. Ở đây họ phải dựa vào những

hiểu biết về bản đồ để làm một cuộc “du lịch tưởng tượng” trên bản đồ, mô tả các

miền đất, các thành phố và làng mạc sẽ đi qua theo từng tuyến vạch sẵn trên bản đồ.

* Qui trình rèn luyện kĩ năng phát hiện và xác định các mối quan hệ địa lí

trên bản đồ:

- Củng cố và có thể phát triển thêm một số vốn kiến thức bản đồ cần thiết cho SV.

- Cung cấp một số mối liên hệ địa lí làm cơ sở cho việc rèn luyện kĩ năng: mối

liên hệ giữa các đối tượng địa lí về vị trí không gian, mối liên hệ giữa các hiện tượng

địa lí tự nhiên, hoặc giữa các hiện tượng địa lí kinh tế- xã hội với nhau, mối liên hệ

giữa các hiện tượng địa lí tự nhiên với các hiện tượng địa lí kinh tế - xã hội...

- Trên cơ sở vốn hiểu biết mà họ đã tích lũy được, giúp họ dựa vào bản đồ có

thể tự phát hiện ra và xác định được các mối liên hệ địa lí thông thường, các mối liên

hệ nhân quả, hoặc các mối liên hệ mang tính qui luật.

Page 38: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

38

* Kĩ năng sử dụng bản đồ trên máy vi tính

Đây là một kĩ năng hoàn toàn phù hợp với đặc thù tự nghiên cứu của SV vì sử

dụng máy vi tính đã trở nên quá quen thuộc trong hoạt động dạy và học hiện nay. Để

phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu kể cả GV và SV đều trang bị trong máy vi tính

của mình nhiều phần mềm liên quan đến kiến thức địa lí như các loại bản đồ về tự

nhiên, kinh tế,... với nội dung và chức năng của nó rất phong phú.

GV cần hướng dẫn cho SV biết sử dụng máy vi tính để sử dụng được các bản

đồ ở các phần liên quan đến chương trình GV giới hạn.

- Hướng dẫn cho SV biết cách tô màu, xác định diện tích, chu vi các đối tượng địa lí.

- Biết sử dụng các phần mềm để vẽ bản đồ.

- Biết điền và bổ sung các đối tượng địa lí trên bản đồ

- Biết cách đo đạc, tính toán trên bản đồ,…

GV có cũng có thể ứng dụng các phần mềm làm bản đồ, đặc biệt là phần mềm

Mapinfo để thành lập một số bản đồ chuyên đề hỗ trợ cho các nội dung dạy học, phù

hợp với yêu cầu của mỗi bài để khai thác kiến thức địa lí trong bài dễ dàng hơn.

3.4.2. Phương thức hình thành và rèn luyện kĩ năng bản đồ

Trong môn học Địa lí ở trường Đại học hay nhà trường phổ thông đều có rất

nhiều loại kĩ năng khác nhau. Mỗi loại kĩ năng có con đường hình thành và phương

pháp rèn luyện riêng. Nhưng đã là kĩ năng, theo tâm lý học thì chúng vẫn có những

điểm chung trong phương pháp hình thành, cụ thể: muốn hình thành cho SV kĩ năng

bản đồ, trước hết phải làm cho họ nắm được những kiến thức lý thuyết về bản đồ để

làm cơ sở, rồi sau đó mới đến những kiến thức thực hành về cách thực hiện nó (đọc

bản đồ, mô tả trên lược đồ, đo tính...).

Nhìn chung, trong học tập và nghiên cứu bản đồ hiện nay có 3 phương thức hình

thành kĩ năng bản đồ cho HS-SV:

- Phương thức cơ bản và thuận lợi nhất là dạy có qui củ trong các bài lý thuyết và

thực hành trên lớp. Ở phương thức này GV có thời gian dạy các kiến thức lý thuyết và

kiến thức thực hành về bản đồ một cách chủ động. Người học được hướng dẫn và nắm

kĩ năng về bản đồ tương đối thuận tiện và có hệ thống. Tuy nhiên trong chương trình

Page 39: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

39

các môn học chuyên ngành sư phạm địa lí bản đồ học chỉ được thiết kế một môn Bản

đồ học đại cương, còn ở trường phổ thông, bản đồ chỉ là một phần rất nhỏ chứ không

được coi là môn học riêng, nên các bài lý thuyết và thực hành về bản đồ còn ít. Vì thế

dẫn đến học sinh ít có điều kiện được hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng bản đồ địa lí

một cách đầy đủ.

- Phương thức thứ hai hình thành kĩ năng bản đồ cho SV bằng con đường thực

tiễn. Nghĩa là những kiến thức bản đồ còn lại chủ yếu đều phải dạy trong quá trình GV

sử dụng bản đồ địa lí giáo khoa treo tường, hoặc hướng dẫn SV sử dụng bản đồ trong

gia1o tri2nh, sách giáo khoa và trong atlat địa lí, và thông qua khai thác bản đồ trong

tất cả các học phần khác có liên quan đến bản đồ.

Với phương thức này SV không nắm được đầy đủ những tri thức cần thiết về kĩ

năng bản đồ, nhất là những kiến thức về lý thuyết. Những kiến thức về hành động thì

chỉ nắm được từng phần, từng công việc cụ thể của một loại kĩ năng bản đồ nào đó.

Nếu GV chú ý quan tâm đầy đủ đến việc hình thành kĩ năng bản đồ cho SV, qua nhiều

lần vận dụng kĩ năng của mình ở trên lớp, có bổ sung và hệ thống hóa, thì cũng có thể

làm cho họ nắm được đầy đủ cách thực hiện chúng. Rõ ràng ở phương thức này đòi

hỏi người dạy phải có kế hoạch cụ thể trong việc bồi dưỡng cho người học từng loại kĩ

năng bản đồ trong suốt cả quá trình học.

- Phương thức thứ ba là hình thành và rèn luyện kĩ năng bản đồ cho HS-SV thông

qua việc thường xuyên ra các câu hỏi - bài tập thực hành gắn với bản đồ để họ em làm

ở trên lớp hoặc tự học. Phương thức này có tác dụng rất nhiều về việc rèn luyện kĩ

năng bản đồ, nhưng về việc hình thành kĩ năng thì không đáng kể, học sinh chỉ rèn

luyện được những kĩ năng bản đồ mà các em đã biết.

3.5. Một số quy tắc và cách thức làm việc có hiệu quả để hoàn thiện kĩ năng

sử dụng bản đồ

3.5.1. Một số quy tắc:

“Để phục vụ cho mục đích giảng dạy địa lí, mỗi bản đồ giáo khoa đều có nội

dung mang tính địa lí rõ rệt. Người ta có thể dễ dàng nhận ra nội dung đó bằng cách

đọc tên và bảng chú giải của nó. Tên bản đồ chứa đựng hai nội dung chính: hiện tượng

địa lí biểu hiện trên bản đồ và không gian bao quát trên bản đồ. Ví dụ: “Bản đồ khí hậu

Page 40: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

40

Việt Nam”, bản đồ “Khí hậu thế giới”. Hiện tượng địa lí ở đây là khí hậu còn phạm vi

không gian là Việt Nam hoặc thế giới” [6 tr 118]

Trong quá trình hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho SV, GV trước tiên phải

trình bày cho SV biết được một số quy tắc làm việc với bản đồ.

- Khi làm với bản đồ trước hết cần:

+ Chú ý đến tên bản đồ

+ Tỉ lệ

+ Đọc bản chú giải để nắm được các ký hiệu quy ước.

- Để thực hiện được điều này, GV có thể tiến hành bằng cách cho SV làm quen

với các bản đồ trong tập atlats HS và các bản đồ treo tường, rồi tả lời các câu hỏi:

+ Trong atlats có những bản đồ nào (gọi tên các bản đồ)?

+ Tỉ lệ bao nhiêu?

+ Trong bản chú giải các bản đồ có những chỉ dẫn gì? Các dấu hiệu quy ước

biểu hiện những đối tượng nào trên bản đồ?

- Để giúp SV hoàn thiện cách đọc các dấu hiệu quy ước trên bản đồ, GV có thể

yêu cầu SV thực hiện các công việc sau:

+ Dựa vào các ký hiệu trong một số bản đồ, tái hiện lại các biểu tượng và nhận

xét cách biểu hiện chúng trên bản đồ.

+ Dựa vào các ký hiệu trên bản đồ, lần lượt kể lại những gì nhận thấy khi đi từ

Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây hoặc đi dọc theo một tuyến đường từ A đến B.

+ Dựa vào các ký hiệu mô tả quang cảnh của một vùng, một lãnh thổ trên bản đồ.

Những công việc này giúp SV củng cố sự hiểu biết về các bản đồ và phương

pháp sử dụng chúng trong thực tiễn.

3.5.2. Một số cách làm việc có hiệu quả với bản đồ

* Phân tích và đánh giá bản đồ :

Page 41: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

41

Đối với bản đồ giáo khoa, ngoài nội dung khoa học địa lý thì nội dung khoa học

bản đồ cũng giữ vai trò quan trọng. Vì vậy, việc chuẩn bị bản đồ cần phải phân tích

đánh giá bản đồ theo 2 hướng

- Về khoa học địa lý: bản đồ giáo khoa được đánh giá tốt là những bản đồ phù

hợp với nội dung bài học. Tránh dùng bản đồ có quá nhiều nội dung không cần thiết sẽ

làm rối rắm, lu mờ nội dung chính

- Về khoa học bản đồ: SV cần thông hiểu những kiến thức về bản đồ, về

phương pháp biểu thị bản đồ. Về cơ sở toán học bản đồ, dù khái quát đến đâu cũng

không thể thiếu hệ thống lưới kinh vĩ và tỉ lệ bản đồ. Thiếu 2 yếu tố này, không thể các

định được kích thước và mối quan hệ không gian của các hiện tượng địa lý trên bản

đồ. Hệ thống lưới kinh vĩ làm cơ sở đề xác định vị trí của các đối tượng hiện tượng địa

lí. Tỉ lệ bản đồ ngoài việc chỉ ra mức độ thu nhỏ của các hiện tượng ngoài thực tế mà còn

nêu được giới hạn của nội dung bản đồ. Trên bản đồ, nội dung và phương pháp biểu hiện

phù hợp với tỉ lệ. Thay đổi tỉ lệ sẽ thay đổi về nội dung và phương pháp biểu hiện

VD: - Sẽ bị sai nếu phóng to bản đồ trong sách giáo khoa, giáo trình thành bản

đồ giáo khoa treo tường mà nội dung không có gì thay đổi, bổ sung thêm, như vậy bản

đồ sẽ rất trống trải, nội dung sơ sài, không cân đối giữa lượng thông tin biểu hiện và

diện tích tờ bản đồ.

- Tính khoảng cách thực tế bằng cách sử dụng bản đồ tỉ lệ nhỏ là bị sai vì còn

phải tính đến độ cong của quả đất và còn ảnh hưởng bởi sai số chiếu hình.

* Chọn lọc nội dung bản đồ

Khi chọn lọc nội dung cần phải tính đến ảnh hưởng của các tính chất:

- Tính hiện đại: Nếu là bản đồ tự nhiên thì nội dung ít thay đổi. Nếu là bản đồ

kinh tế xã hội thì nội dung thay đổi nhiều hơn.

- Tính chi tiết: Mức độ chi tiết của các bản đồ có sự khác nhau. Bản đồ atlas có

mức độ chi tiết cao nhất, dùng làm tài liệu tham khảo, tra cứu rồi đến bản đồ giáo khoa

treo tường và sau cùng là bản đồ trong sách giáo khoa

- Tính thống nhất: nội dung bài giảng, bản đồ trong sách giáo khoa, giáo trình

và bản đồ giáo khoa treo tường phải có sự thống nhất về một số vấn đề sau:

Page 42: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

42

- Các bản đồ dùng phải có sự thống nhất về phạm vi các lãnh thổ biểu hiện.

Ví dụ: Để nghiên cứu về tự nhiên Việt Nam nên dùng bản đồ Việt Nam và bản

đồ Đông Nam Á

* Cách ghi nhớ các đối tượng địa lí trên bản đồ

Trong việc sử dụng bản đồ, một nhiệm vụ hết sức quan trọng là SV phải xác

định nhanh chóng đối tượng địa lí trên bản đồ. Để thực hiện được nhiệm vụ đó trong

quá trình dạy học, GV phải chú ý tạo điều kiện để cho SV ghi nhớ được tên cũng như

vị trí của các đối tượng địa lí trên bản đồ thông qua các hoạt động khác nhau như:

nhìn, nghe, chỉ và nói.

Để giúp SV ghi nhớ được vị trí của các đối tượng địa lí trên bản đồ, GV khi dạy

có thể đánh dấu các đối tượng trên bản đồ, đồng thời so sánh các đối tượng trên bản đồ

với các sự vật cụ thể mà SV thường thấy, để tạo ra biểu tượng không gian hoặc vạch ra

những mối tương quan giữa vị trí của đối tượng này với các đối tượng khác.

Cũng có trường hợp GV kết hợp với bản đồ treo tường vẽ lên bảng sơ đồ phân

tích biểu hiện riêng hình dạng, vị trí của các đối tượng để cho HS dễ nhận và nhớ kĩ hơn.

Ví dụ: Khi phân tích đặc điểm địa hình của lãnh thổ Hoa Kì, sách giáo khoa địa

lí lớp 11 [9 tr 37].

GV vừa kết hợp với bản đồ treo tường (bản đồ tự nhiên Hoa Kì) và bản đồ hình

6.1 trang 37, vừa vẽ lên bảng một sơ đồ hình “lòng máng” – nhấn mạnh đặc trưng của

địa hình lãnh thổ.

Hình 6.1. Địa hình và khoáng sản Hoa Kì

Page 43: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

43

Sơ đồ: Địa hình Hoa Kì

- Đối với một số địa danh, GV có thể giải thích hoặc nói rõ nguồn gốc của

chúng để gây một ấn tượng dễ nhớ cho SV.

Ví dụ: Đỉnh Everest cao 8.848m – cao nhất thế giới còn có tên gọi là

Chomolumma, theo tiếng Phạn có nghĩa là “Xứ sở của bà Chúa Tuyết”

Tuy nhiên, có một điều quan trọng là muốn cho SV nhớ kĩ các đối tượng địa lí

trên bản đồ, GV phải cho SV thực hành nhiều trên bản đồ trong quá trình học tập ở

trên lớp cũng như trong khi tự học.

* Cách mô tả một đối tượng địa lí trên bản đồ

Kinh nghiệm cho thấy khi tách riêng một đối tượng địa lí và vẽ lên bảng hoặc

lên giấy, chẳng hạn một con sông, đảo, hồ, thì SV sẽ khó nhận ra. Sở dĩ như vậy là vì

khi tri giác một đối tượng địa lí trên bản đồ người ta luôn gắn nó với các đối tượng địa

lí xung quanh.

Từ đó đi đến kết luận là để tìm ra đối tượng địa lí trên bản đồ, SV không phải

chỉ dựa vào đặc điểm hình thù, kích thước của nó mà phải dựa vào toàn bộ khung cảnh

xung quanh.

Nhận biết và ghi nhớ các đối tượng địa lí trên bản đồ là rất quan trọng vì SV càng

ghi nhớ nhiều đối tượng càng nhanh chóng tìm ra những khác liên quan. Nói cách khác

càng có nhiều điểm tựa SV càng dễ tìm ra những đối tượng cần tìm, tức là càng đọc

bản đồ nhanh chóng hơn. Việc rèn luyện cách nhận biết, tìm ra và ghi nhớ các đối

Dãy Coocdie

Đồng bằng Trung tâm

Dãy Apalat

Page 44: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

44

tượng địa lý trên bản đồ giúp SV luôn củng cố tri thức cũ, nắm vững tri thức mới và

không ngừng mở rộng vốn hiểu biết bản đồ của mình.

Page 45: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

45

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Hệ thống bản đồ địa lí nói chung và bản đồ giáo khoa nói riêng là một phương

tiện dạy học, nghiên cứu không thể thiếu được của bộ môn Địa lí trong các nhà trường.

Trong xu thế dạy học lấy người học làm trung tâm, việc sử dụng có hiệu quả hệ thống

các phương tiện trực quan nói chung là vấn đề được các nhà giáo dục dành nhiều sự

quan tâm. Hệ thống tri thức địa lí, ngoài việc được thiết kế theo kênh chữ thông

thường thì nó còn được thiết kế mang tính đặc thù qua hệ thống kênh hình khá phong

phú mà trong đó tri thức địa lí được biểu hiện qua bản đồ là phổ biến nhất. “Để có thể

đọc được bản đồ, học sinh phải hiểu được ngôn ngữ bản đồ. Khi đã có những hiểu biết

về kí hiệu bản đồ người học có thể tiếp nhận các thông tin khoa học trên bản đồ, người

đọc phải biết phân biệt, chọn lọc những khía cạnh, những nội dung tiêu biểu để nhận

thức các hiện tượng riêng lẻ, sau đó mới xác lập các mối liên hệ qua lại giữa chúng để

thấy được tổng thể môi trường địa lí trên bản đồ” [ 6 tr 119]

Việc tổ chức dạy - học địa lí trong thời gian qua ở khoa Địa lí mới chỉ chú ý đến

việc trang bị cho SV những tri thức địa lí đơn thuần cùng với việc kết hợp trang bị

những kĩ năng dạy học cần thiết để giúp SV tác nghiệp sau này. Tuy nhiên một trong

những kĩ năng đặc biệt quan trong như đã trình bày đối với học tập, nghiên cứu địa lí

là phải thông thạo về việc sử dụng bản đồ, muốn sử dụng thành thạo bản đồ thì trước

hết người sử dụng phải có kĩ năng bản đồ. Vì vậy, rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ

cho SV ngành sư phạm Địa lí là công việc phải được tiến hành thường xuyên, liên tục.

Qua quá trình khảo sát thực tế tình hình sử dụng bản đồ trong quá trình học tập

và nghiên cứu của SV Khoa Địa lí- ĐH Đồng Tháp chúng tôi có đủ cơ sở để khẳng

định rằng kĩ năng Địa lí nói chung, trong đó có kĩ năng sử dụng bản đồ của SV chưa

thực sự đáp ứng được mục tiêu đào tạo chuyên ngành sư phạm Địa lí mà Khoa đã xây

dựng. Và nếu không được chú ý khắc phục vấn đề này thì sau khi ra trường về tham

gia công tác giảng dạy Địa lí ở các nhà trường phổ thông sẽ lại tạo nên những hệ lụy

không tốt về chất lượng hoạt động dạy học của bộ môn.

Page 46: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

46

Kết quả nghiên cứu của đề tài đã hệ thống một số kĩ năng cần rèn luyện cho SV

khi sử dụng bản đồ để phục vụ cho học tập và nghiên cứu, đó là các kĩ năng: đọc bản

đồ, xác định phương hướng trên bản đồ, xác định tọa độ địa lí, kĩ năng đo khoảng

cách, xác định độ cao, kĩ năng mô tả từng yếu tố, kĩ năng mô tả tổng hợp, kĩ năng phát

hiện và xác định mối quan hệ địa lí trên bản đồ,...

Với những kết quả nghiên cứu đó, tác giả hy vọng sẽ giúp các GV và SV của

khoa đạt hiệu quả cao hơn trong việc sử dụng, khai thác bản đồ cho quá trình giảng

dạy và học tập Địa lí của mình trong thời gian tới.

2. Khuyến nghị

Là một cơ sở đào tạo đội ngũ giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy địa lí cho

các trường phổ thông, việc cần thiết và có thể nói là vô cùng quan trọng là bên cạnh

trang bị cho SV hệ thống tri thức về địa lí, thì giảng viên còn phải luôn hướng dẫn cho

SV hình thành được kĩ năng sử dụng bản đồ một cách thành thạo nhất, và xem đó trách

nhiệm của mình trong việc góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục kể cả tại

cơ sở đào tạo và ở nhà trường phổ thông.

Trong thời gian qua, việc tổ chức rèn luyện kĩ năng địa lí nói chung và kĩ năng

sử dụng bản đồ nói riêng tại Khoa Địa lí chưa thực sự được coi trọng, vì vậy vẫn có

một số SV khi ra trường tham gia giảng dạy địa lí ở các trường phổ thông chưa thực sự

thành công khi sử dụng bản đồ trong dạy học. Vì vậy, nên chăng các bộ môn, và đặc

biệt là Câu lạc bộ Địa lí phải thường xuyên cân nhắc vấn đề này, việc rèn luyện kĩ

năng sử dụng bản đồ có thể còn tích hợp vào nội dung rèn luyện nghiệm vụ sư phạm

trong chương trình chính khóa.

Đối với SV, ngoài việc sử dụng đầy đủ các loại giáo trình phục vụ học tập và

nghiên cứu địa lí còn phải tự trang bị cho mình tập bản đồ địa lí các loại, biết sử dụng các

phần mềm xây dựng bản đồ (Mapinfo), thường xuyên đọc các thông tin địa lí trên bản đồ

địa lí các loại để tự hình thành cho mình kĩ năng sử dụng bản đồ, làm được như vậy mới

có thể nói rằng việc khai thác tri thức địa lí thông qua bản đồ trong quá trình học tập-

Nghiên cứu và ứng dụng nó vào quá trình giảng dạy địa lí sau này sẽ đạt hiệu quả.

Page 47: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT tai Giang vien/De tai... · cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và phương

47

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo sư N.N.Baranxki, Phương pháp giảng dạy địa lí kinh tế – M.1972

2. Giáo sư A.A.Booczôp, Các hoạt động địa lí – M.1949

3. Giáo sư V.P.Buđanốp, Bản đồ trong việc giảng dạy địa lí – M.1948

4. A.M.Berliant, Phương pháp nghiên cứu bằng bản đồ, nxb ĐHQG HN, 2004

5. K. A. Xalishev, Bản đồ học, nxb ĐHQG HN 2006

6. Nguyễn Dược – Nguyễn Trọng Phúc, Giáo trình Lý luận dạy học Địa lí

7. Lâm Quang Dốc, Giáo trình bản đồ học đại cương, Nxb Đại học sư phạm

Hà Nội. 2003.

9. Ngô Đạt Tam – Lê Ngọc Nam - Nguyễn Trần Cầu - Phạm Ngọc Đĩnh, Bản

đồ học – 1986

9. Lê Thông (tổng chủ biên- Nguyễn Thị Minh Phương (chủ biên), Địa lí 11,

nxb GD 2007